
Falguière ngày lộng gió - Phần 2
Tối đó, khi mưa đã ngớt, vị thám tử lái chiếc Peugeot 306 màu bạc rời khỏi thành phố, thẳng hướng đến một toà lâu đài vùng ngoại ô Paris. Anh muốn lặn sâu hơn vào thế giới nghệ thuật mơ hồ và lắm thứ thông tin không sạch sẽ. Trong những lúc như này, việc dành hàng giờ ở thư viện hay nghe ngóng tin tức ngoài phố sẽ là một ván cược nhiều rủi ro hơn là may mắn. Thật tình cờ là anh có biết một người - một kẻ am hiểu sâu sắc "vùng biển" hắn sống và gần như là đang nắm giữ câu trả lời mà anh mong muốn - anh chàng hoạ sĩ Andrew De Maurier.
Căn phòng họ hẹn nhau là phòng đọc sách trên lầu ba, mặt ngoài hướng về Tây. Khi anh đến, nơi này đã thoang thoảng hương thơm của trà Earl Grey. Andrew đang đợi anh, bên chiếc ghế bành bọc da đã bạc màu.
- Tôi tới đây vì một cái tên. Bernard Maurel, nếu cậu đã đọc báo mấy hôm nay!
- Quý ngài hoạ sĩ bị hạ sát trong nhà phải không? Khoảng 8 năm trước ông ta khá nổi tiếng, tôi có biết chút chuyện.
- Cậu có biết gì về khoảng thời gian ông ta làm nhà môi giới các tác phẩm nghệ thuật không?
- Nhà môi giới các tác phẩm nghệ thuật?_ Andrew nhắc lại lời của vị thám tử với vẻ mặt hoài nghi._ Thú thật với anh, đây là lần đầu tiên tôi được nghe đến cái danh xưng "nhà môi giới" của ông ta.
- Vậy trước đó thì sao?
- Tôi không nhớ rõ lắm. Kể từ sau tác phẩm đem lại cho ông ta tiếng vang thì...
Andrew nhấp một ngụm trà nhỏ, nhưng không buông tách xuống ngay. Trông anh ta như thể đang tìm kiếm một thứ gì đó quen thuộc trong vùng biển kí ức.
- Đợi tôi một lát nhé.
Anh chàng hoạ sĩ đặt lại chiếc tách lên đĩa, rồi bước đến phía giá sách. Anh ta có một lượng lớn thông tin lưu trữ được từ những trang báo, chủ yếu liên quan về giới nghệ thuật hoặc các tin tức kì lạ, mơ hồ và đặc biệt nghiêm trọng.
Francis ngả lưng ra sau, nhìn lâu về phía tủ sách đồ sộ cao đến trần nhà của vị hoạ sĩ trẻ tuổi. Anh cũng có thói quen tương tự, chỉ khác ở chỗ, anh ghi chép những thông tin quan trong vào những cuốn sổ. Để mà nói thì, so với căn hộ chật chội của anh, lâu đài rộng lớn và sáng sủa này phù hợp làm nơi lưu trữ hơn nhiều.
- 1985, 1986, 1987... Thấy rồi, từ tháng Ba năm 1987!_ Andrew mang tập album bọc bằng da bê, đặt xuống chiếc bàn giữa hai người. Anh lật đến đoạn lưu trữ từ Tháng Ba, và chỉ vào một trang báo viết về các tác phẩm được đưa ra triển lãm trong Lễ hội Mùa Xuân.
Một bức tranh sơn dầu lập tức chiếm được sự chú ý của vị thám tử. Trong tranh phác hoạ một thiếu nữ trẻ đang ngồi bên hồ, đưa tay đón lấy làn nước trong vắt, xung quanh tràn ngập ánh sáng dịu dàng của mùa xuân. Các gam màu tươi tắn được tận dụng triệt để, ngay cả những vệt nắng cũng ánh lên nhiều phần màu sắc khác nhau. Bên dưới ghi chú thích: "Nàng Emilia bên hồ - B.Maurel."
- Ông ta bắt đầu được biết đến thông qua bức hoạ này. Giữa lúc dân Paris đang chán ngấy các bức tranh Nghệ thuật Biểu hiện mới(1), thì nét vẽ hoài cổ của chủ nghĩa Hậu Ấn tượng(2) này đã khiến ông ta nổi như cồn. Nhưng mà vị hoạ sĩ này có vẻ tự đề cao bản thân mình hơi quá. Tôi thấy ông ta nhiều lần kiến nghị bảo tàng Louvre(3) trưng bày tác phẩm của mình, nhưng không lần nào được chấp nhận cả.
Francis nhìn lâu vào bức hoạ trong tấm ảnh chụp. Phải rồi, anh chưa từng thấy nó, kể cả lúc anh điều tra căn phòng của nạn nhân.
- Tôi không thấy ông ta treo nó tại nhà. Có khi nào nó đã được đem đi đấu giá rồi không?
- Tôi không chắc đâu, bởi càng về sau thì tranh của ông ta không đọ lại nổi sức hút của các tác phẩm do hoạ sĩ trẻ thực hiện._ Andrew nhún vai._ Chuyện thường ngày như ở huyện ấy mà! Có thể là vì người ta ưa chuộng cá tính và sự mạnh mẽ nhiều hơn là tập trung thưởng thức các bức vẽ vốn thịnh hành vào năm 90 của thế kỉ trước.
Francis nghe mà nể phục vài phần. Anh đã từng nghe một tay sinh viên y khoa mồm mép liến thoắng về những tổn thương xuất hiện trên cơ thể người sau khi bị ngạt thở, nhưng bảo gã phân biệt giữa siết cổ và treo cổ thì gã lại im thin thít. Chàng hoạ sĩ trẻ tuổi trước mặt anh thì cao tay hơn rất nhiều. Cậu ta vừa kể lại gọn ghẽ những câu chuyện có từ gần một thập kỉ trước, chỉ vừa đủ chứ không quá nhiều, mà chúng còn không hề có điểm gì liên quan đến cậu ta để mà ghi nhớ. Có vẻ như Andrew biết cách điều khiển "dòng hải lưu" thông tin xung quanh mình trở thành một công cụ hữu ích. Nếu chỉ dùng cụm từ "sinh viên xuất sắc của Beaux - Art de Paris(4)" thì không đủ để miêu tả chàng trai này. Francis chợt nghĩ, nếu Andrew mà là dân Académie Julian(5), thì đến cả những câu chuyện khuất tất của ngài hoạ sĩ kia thời còn làm giảng viên cũng được cậu ta phơi bày bằng sạch.
Vị thám tử tiếp tục tìm thông tin về quý ngài hoạ sĩ. Quả đúng như những gì Andrew bình phẩm, khoảng nửa sau năm 1991, cái tên B.Maurel hoàn toàn biến mất khỏi mặt báo. Năm bức họa mới của ông ta sau "Nàng Emilia bên hồ" đã không còn được công chúng đón nhận, thậm chí còn bị coi là "lệch pha" giữa hàng loạt các tác phẩm hiện đại khác. Những năm sau đó, cánh báo chí không nhắc gì đến phi vụ buôn bán tranh giả, hay một chút manh mối hữu ích nào liên quan. Anh chỉ tìm được một bài báo nhỏ viết về một vụ hoả hoạn tại một nhà kho cũ tại khu Courneuve. Cảnh sát đã tìm được một số đồ vật như khung tranh, vải vẽ,... bị thiêu rụi, song không điều tra ra nguyên nhân.
- Vụ án trước đó trên phố Falguière thế nào rồi, Francis. Anh đã có bước đột phá nào chưa?
- Cảnh sát chưa khoanh vùng được nghi phạm thì vụ khác đã ập đến, lại còn mang nhiều điểm chung đến mức không bình thường nữa chứ._ Francis nhẹ nhàng đóng quyển album lại._ Hung khí và cách thức gây án từa tựa nhau, trong danh sách nghi phạm thì nổi lên một cái tên có đầy đủ nghi vấn khiến người qua đường cũng phải lưu tâm: Đàn ông, có sức vóc, có quan hệ với cả hai nạn nhân, nghiện cờ bạc và đang trong tình trạng không một xu dính túi. Thành thật mà nói, tôi đang phải kìm hãm luồng suy nghĩ của mình để không bị cuốn theo dòng chảy phân tích của số đông.
Andrew bật cười, cậu ta thích nghe những câu chuyện li kì mà chàng thám tử mang đến. Vụ nào chưa phá xong thì lại càng hấp dẫn. Lúc đó, cậu ta sẽ là người "mở" ra vô vàn khả năng khả dĩ, nhiệm vụ của Francis là đi "đóng" từng "cánh cửa" giả thuyết lại. Cho đến khi chỉ còn một cánh cửa duy nhất, dẫn lối đến sự thật.
- Anh đã xem xét trường hợp của ông Devaux chưa?
- Ông ta hoàn toàn có động cơ, nhưng trong báo cáo tôi nhận được sáng nay lại đưa ra bằng chứng có thể coi là có lợi cho ông ấy. Hung khí ở vụ thứ hai, chiếc gạt tàn thuốc ấy, được một người đàn ông đội mũ và đeo khẩu trang mua về vài ngày trước, chỉ ngay sau khi vụ án của bà Deneuve được lên trang nhất. Người bán chắc chắn người đó không phải ông Maurel, tuy nhiên thì họ cũng không nhận ra người mua là ai trong số các nghi phạm. Rõ ràng vụ giết người này có chủ ý, chứ không mang tính bộc phát. Trừ khi...
- ... trừ khi ông ta là người trong đường dây buôn bán tranh giả. Tôi nói có đúng không?
- Phải, nhưng đáng tiếc là, tôi hiện chưa tìm thấy manh mối nào hữu ích để chứng minh giả thuyết này. Giá mà tôi biết được nguồn tin nào đó về công việc môi giới tranh vẽ của ông ta...
- Hmm... Tôi sẽ thử liên lạc với một số nhân vật có tiếng trong ngành hội họa, nếu có thông tin thì thì tôi sẽ gửi thư cho anh ngay, vậy được chứ!
- Quá tuyệt vời!_ Vị thám búng ngón tay một cái "tách"._ Nếu chuyện này sớm được làm sáng tỏ thì khả năng cao tới mai là tôi phá được vụ này rồi!
Francis không ở lại lâu, ngày mai đối với anh sẽ là một ngày bận rộn.
***
Sớm hôm trước, Lockhart đến gõ cửa căn hộ của vị thám tử, với mớ thông tin lộn xộn vụ án thứ hai làm quà. Ngài Đại uý có hỏi thăm tình hình về vụ án thứ nhất, nhưng anh chẳng nhận được gì ngoài một cú lắc đầu.
- Francis này, tôi thừa nhận rằng giả thuyết về một kẻ trộm liều lĩnh là điều bất hợp lý trong vụ thứ hai. Nhưng giả sử, chỉ giả sử thôi nhé, nạn nhân của vụ án thứ nhất lại nằm trong mục tiêu của một kẻ khát máu nào đó mà chúng ta không biết chẳng hạn. Cậu biết đấy, vụ án tên đồ tể Rostov(6) làm tôi suy nghĩ khá nhiều.
- Lập luận hay đấy, nhưng để tìm cách chứng minh được thì không dễ ăn tí nào đâu!
Lockhart nhăn mặt, không biết đáp lại thế nào. Anh ta đặt túi hồ sơ lại bàn rồi đứng dậy. Francis không phủ nhận câu đó, anh với Lockhart đã trải qua đủ thứ chuyện trên đời rồi. Nào là điều tra một cậu bé bị tình nghi sát hại cha ruột, một bác sĩ phản bội lời thề của Hippocrates mà ra tay với chính bệnh nhân của mình. Trước khi anh ta rời đi, vị thám tử để lại một lời ngắn ngủi.
- Nếu anh đã quyết định tiến xa như vậy, sao anh không thử bắt đầu loại trừ những giả thuyết gần nhất?
Lockhart biết Francis đang muốn nói điều gì. Anh trở về văn phòng ở Sở, mang tất cả những thông tin liên quan đến gã Remus Durand - kẻ đang có dính dáng đến cả hai vụ án nhiều hơn mức bình thường - đặt lên bàn để nghiên cứu.
- Remus Durand, Remus Durand,..._ Anh nhắc đi nhắc lại cái tên đó trong miệng, cố gắng phân tích và ghi nhớ những đặc điểm nhận diện của hắn. Tóc xoăn dài màu nâu, cao trên 1m90, dáng đi lom khom như người vừa làm chuyện khuất tất. Còn các đường nét trên mặt hắn, có lẽ anh phải xách bút sang phòng Kỹ thuật học hỏi tay nghề của anh hoạ sĩ hình sự, bởi chỉ riêng việc ghi nhớ gương mặt của một người với anh đã là một thách thức vô cùng lớn rồi. Chứng "mù nhận diện mặt" làm Lockhart rơi vào khốn đốn và bất lực không biết bao nhiêu lần. Lúc mới vào ngành, anh từng bị cấp trên quở trách vì những phi vụ "bắt nhầm thường dân" của mình. Dần dà, những sai lầm đó đã dựng lên cho anh cái thói quen "phải chắc cốp mới làm". Francis nhanh nhẹn và quyết đoán hơn anh nhiều. Nhưng phụ thuộc quá nhiều vào cậu ta như thế thật chẳng khác nào anh tự bôi nhọ cái danh "Cảnh sát hình sự".
Lockhart buông một tiếng "chậc", tay gõ bút thành nhịp trên bàn, bắt đầu vạch ra những bước đi tiếp theo.
- Cá 100 franc là cái tên Remus này không đời nào dám làm chuyện tày trời ấy!
Tên đàn ông cao lớn với nước da ngăm đen không lộ ra bất cứ vẻ hoài nghi nào khi được cảnh sát hỏi thăm về cái tên Durand. Nghe vị Đại uý trước mặt kia nói ra những lời phỏng đoán mà tai hắn cho là vô căn cứ, hắn chẳng ngại nhăn mặt, giơ ngón tay lắc qua lắc lại, tỏ ý không đồng tình chút nào.
- Gã này không chỉ thiếu tiền, mà còn thiếu cả máu "liều" của mấy con bạc cơ. Gã có dám chơi tất tay lần nào đâu! Cứ thắng được tí rồi lại thua mấy chục lần không đếm xuể. Tôi ngồi với gã lâu rồi tôi hiểu chứ!!
- Cá thêm 200 franc nữa luôn!_ Một vị khách khác xen vào, hắn ta trông có vẻ là người gốc Mỹ Latinh, cũng ăn mặc phóng túng không khác gì người Lockhart vừa hỏi._ Mấy tên nghệ sĩ như Durand tuy không giỏi đánh bài, nhưng niềm tin đặt vào ba cái trò may rủi lại vững vàng ra phết! Tôi thấy tối nào cũng như tối nào, cứ đúng 8 giờ là gã ta hăm hở lên sới. Rồi mải mê đến mãi nửa đêm mới cun cút quay về. Làm gì có chuyện gã rời khỏi chỗ này để đi mót chút tiền lẻ bên ngoài cơ chứ!
- Sau cái ngày xảy ra án mạng các anh có thấy anh ta có biểu hiện gì khác lạ không?
- Không hề! Cách cầm bài của hôm sau vẫn giống y như hôm trước. Thấy bảo gã đang quen một con khọm già goá bụa nào đấy sắp xuống lỗ, mà tiền thảy ra chả thấy thấm vào đâu. Xem chừng phải cho gã vui vẻ một tí với mấy cô em xinh tươi thì đầu óc gã mới minh mẫn lại được.
- Hai anh có cần tôi nhắc lại không?_ Lockhart gằn giọng, tay gõ gõ cây bút lên gáy quyển sổ._ Người các anh đang nói chuyện là cảnh sát đấy! Tôi cần sự khai báo nghiêm túc.
- Anh cảnh sát thân mến à!_ Gã đàn ông gốc Mỹ Latinh cầm chai bia tiến lại gần Lockhart, nghé vào tai anh thầm thì._ Để tôi nhắc lại cho anh nhớ nhé, chỗ này ấy... là sòng bạc. Hay là anh đợi tôi thử tìm xem trong nhà vệ sinh kia có dư tí "nghiêm túc" nào không? Nhé!?
Dứt lời, hai người đàn ông đó sổ ra tràng cười ha hả mất kiểm soát. Lockhart không buồn hỏi thêm câu nào nữa, mắm môi mắm lợi rời đi. Đúng là kẻ nào không mang tội thì việc chứng minh người đó có tội không khác gì việc chứng minh con đường vừa đi là ngõ cụt. Anh rẽ vào một quán cà phê, bắt đầu lật lại hồ sơ vụ án một lần nữa. Vừa đọc anh vừa lẩm bẩm câu nói quen thuộc của người thầy năm xưa: "Xem lần đầu là nhận biết, xem lần hai là tiếp thu, xem lần ba là tìm hiểu." Có thật là hai vụ án này có liên quan đến nhau không? Tại sao chúng lại có nhiều điểm chung đến vậy? Nếu thật sự tên Durand kia không phải hung thủ, vậy lý do gì khiến cho hung thủ phải chọn cùng một cách thức gây án, cùng một hung khí, dựng cùng một hiện trường với vụ án trước đó?
Trong đầu ngài Đại uý nảy lên một cụm từ mà chính anh cũng phải ngờ vực.
Vụ án thứ hai đang bắt chước vụ án thứ nhất.
Dòng suy nghĩ của anh bị cắt đứt bởi tiếng chuông điện thoại trong túi áo. Người của bên Pháp Y vừa có một phát hiện vô cùng đáng chú ý.
- Anh không tin được những gì tôi vừa tìm thấy đâu, anh Đại uý ạ. Trong mẫu tóc mà chúng tôi thu thập được tại hiện trường thứ nhất, thật ra có đến hai mẫu tóc vàng khác nhau. Một mẫu của nạn nhân, mẫu còn lại là của một người phụ nữ nào đó. Xem ra vụ án của các anh vẫn còn một nghi phạm nữa chưa được liệt vào danh sách.
***
Chín giờ sáng tại trường Académie Julian, nơi đây đang rộn ràng không khí hân hoan chào mừng ngày kỉ niệm 129 năm thành lập. Các bức tường được phủ kín bởi những tác phẩm của cả sinh viên hiện tại lẫn các cựu học viên nổi tiếng, từ thời các lão niên của thế kỷ 19 cho đến những nghệ sĩ đương đại. Ánh đèn vàng lấp lánh trên những chiếc giá vẽ gỗ, mùi sơn dầu và mùi nhựa thông phảng phất trên dãy hàng lang. Francis bước vào đây, dưới lốt một nhà báo tên Étienne Jurieux, trên tay anh là cuốn sổ tay bọc da màu đen và cây bút máy đã có vài chỗ tróc sơn. Nơi anh đang đứng là đại sảnh của toà nhà. Phần tường dễ thấy nhất được treo đầy những bức ảnh, cũ có mới có. Mỗi bức ảnh là một dấu ấn kỉ niệm khó quên của những người từng trải qua quãng đời sinh viên tại đây.
Cách đó không xa, có một cô gái trẻ tuổi, với mái tóc xoăn màu nâu hạt dẻ, buộc vội sau gáy, đang rà soát những phần trang trí tại sảnh. Tay cô tay lăm lăm cây bút và sổ tay, mắt thì đảo ngang đảo dọc qua những chiếc băng rôn và hoa. Cô nàng này chính là Dolores Surville - người từng đến thăm nạn nhân trong vụ án thứ hai.
- Chào cô, tôi là cây viết Jurieux từ tờ La Croix(7), liệu cô có thể dành ra một vài phút phỏng vấn được không?_ Étienne hỏi, giọng mềm mỏng và điềm tĩnh.
- Vâng!_ Cô Surville hơi bất ngờ, sau đó liền niềm nở đáp lại._ Tất nhiên rồi thưa ông. Ông là nhà báo đến viết về lễ kỉ niệm ạ?
- Đúng là vậy. Tôi muốn tìm hiểu các hoạt động chào mừng đang diễn ra, cùng với cảm xúc của các sinh viên tại đây._ Étienne lật sổ, cây bút trên tay bắt đầu thoăn thoắt._ Phiền cô cho biết tên để chúng ta có thể bắt đầu.
- Tôi là Dolores Surville, sinh viên năm 4, hiện là phó chủ tịch CLB Sơn dầu của trường. Tôi phụ trách phần hậu cần của các sự kiện kỉ niệm, bao gồm cuộc thi hội hoạ sẽ diễn ra vào cuối tuần này.
- Tiếc quá, đáng lẽ ra tôi nên đến vào ngày diễn ra cuộc thi mới phải! Hẳn lúc đó không khí phải náo nhiệt lắm!
Cô Surville lẽn bẽn cười, như thể cô vừa nhận được lời khen chứa đầy sự ngưỡng mộ.
- Chúng tôi đã mời được ba vị từng là những nhân vật xuất sắc của trường về đây làm giám khảo cho cuộc thi. Chỉ tiếc là, một vị không may gặp chuyện nên phía nhà trường quyết định chỉ giới thiệu hai vị còn lại.
- Chà! Xin đừng nói với tôi ngài ấy là nạn nhân của vụ giết người mới gần đây! Ông ấy nghe đâu là giảng viên của một trường mỹ thuật có tiếng...
- Ông.. ông đoán đúng rồi._ Trong giọng nói của cô gái kia có phần gượng gạo._ Vậy nên, cuộc thi năm nay chỉ có 2 giám khảo là bà Dupuis và ông Bourdon...
- Quý ngài Bourdon sao?!_ Ngòi bút tay viết báo lướt vội trên mặt giấy._ Thêm một lý do để tôi nên đến vào ngày tổ chức cuộc thi! Liệu quý cô đây có thể giúp tôi giới thiệu sơ qua về các giai thoại tiêu biểu gần đây của ngôi trường này không?
- Vâng, mời ông đi theo tôi!
Nghe thấy yêu cầu "giới thiệu", nét mặt cô nữ sinh đã hào hứng lên trông thấy. Cô bắt đầu trỏ vào từng tấm ảnh trên bức tường trang trọng giữa sảnh, những câu chuyện tuôn ra không ngừng nghỉ. Francis chăm chú lắng nghe, tập trung dõi theo từng cử chỉ tay của cô gái, thi thoảng lại gật gù. Đôi mắt xanh lơ của anh dừng lại trước một bức ảnh cũ kỹ, in hình một nhóm sinh viên đang đứng cạnh tác phẩm của họ. Trong đây có một người tóc vàng, gương mặt sáng sủa, trông rất giống với một người mà anh đã từng nhìn thấy.
- Xin hỏi, chàng trai đứng bên trái trong bức hình này là ai vậy?
- Ồ, đây là anh Daniel Fourneaux, khoá 119. Bức ảnh này được chụp vào khoảng thời gian trường tổ chức cuộc thi hội hoạ. Thật tình cờ là ngài Maurel cũng thuộc Ban giám khảo của cuộc thi năm ấy.
- Có chuyện đó ư?_ Vị phóng viên nhướm mày._ Người này có phải người đạt giải không?
- Rất tiếc là không, thưa ông. Anh ta không góp mặt trong tấm hình vinh danh tác phẩm xuất sắc. Chúng tôi rất lấy làm tiếc, bởi ngày ấy chị gái tôi và những vị tiền bối khác đều đánh giá cao tài năng của anh ta.
Một tiếng "Hừmmmm" dài cất lên từ cổ họng Étienne. Anh ta vung vẩy cây bút, tiếp lời.
- Tôi nghĩ do anh chàng này chưa gặp thời thôi. Vậy sau đó anh ta có tiếp tục tham gia các cuộc thi khác không?
Giọng cô gái trẻ bất ngờ chùng xuống, ánh mắt chan chứa nỗi lòng khó tả.
- Ngài nói tôi mới nhớ. Anh Fourneaux đã không có mặt ở trường sau đêm công bố kết quả. Hình như anh ta gặp chuyện gì đó nên đã xin nghỉ học và biến mất._ Đến đây giọng cô Surville bất ngờ nhỏ lại._ Anh.. anh ấy còn không liên lạc với ai, nên là... đến giờ tôi cũng không biết được rốt cuộc... anh ta đã gặp chuyện gì...
- Thứ lỗi cho tôi vì tò mò quá đáng, liệu cô còn nhớ chút gì về bức tranh tham dự của anh chàng này vào cuộc thi năm đó không?
- Phiền ông kiểm tra các bức hình xung quanh, bởi chuyện xảy ra cũng lâu quá rồi. Lúc ấy tôi còn chưa bước chân vào trường nữa!
- Rất cảm ơn tấm lòng nhiệt thành của cô. Cho phép tôi được ở lại đây một lát để xem qua.
Cô sinh viên trẻ "vâng" một tiếng, vẫy vẫy tay tạm biệt, rồi nhanh chóng nhường lại không gian cho vị phóng viên. Étienne chỉ chờ cô đi khỏi là vội vã căng mắt lên, lướt ngang lướt dọc tìm kiếm. Tìm được "cái đó" là mọi thứ sẽ hạ màn. Đây rồi, bức ảnh chụp Daniel Fourneaux 9 năm trước. Đứng cạnh anh ta là một cô gái trẻ đang tươi cười, gương mặt hao hao giống cô nàng Surville ban nãy. Trong tay họ là bức tranh khiến anh phải tới đây thăm dò.
Một bức hoạ thiếu nữ ngồi bên hồ, đưa tay đón lấy làn nước trong vắt.
_____________
Chú giải:
(1) Nghệ thuật Biểu hiện mới (Neo-Expressionism): Xuất hiện vào thập niên 80-90, khởi nguồn từ Đức. Phong cách này nổi bật với việc sử dụng màu sắc mãnh liệt, đường nét thô bạo và cảm xúc mạnh mẽ, thường tập trung vào những chủ đề mang tính xã hội hoặc cá nhân.
(2) Chủ nghĩa Hậu Ấn tượng (post-impressionism): phong trào nghệ thuật tồn tại trong khoảng giai đoạn 1886 -1905 tại Paris, Pháp. Những cái tên tiêu biểu của thời kì này gồm: Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh
(3) Bảo tàng Lourve: một viện bảo tàng nghệ thuật và di tích lịch sử nằm tại trung tâm thủ đô Paris.
(4) Beaux - Arts de Paris: trường mỹ thuật lâu đời và danh tiếng nhất ở Pháp, có lịch sử hơn 350 năm. Trường được coi là hậu duệ của Học viện Hoàng gia Hội họa và Điêu khắc (Académie Royale de Peinture et de Sculpture), được thành lập vào năm 1648.
(5) Académie Julian: trường nghệ thuật tư nhân nổi tiếng, được thành lập tại Paris, Pháp vào năm 1868 bởi họa sĩ Rodolphe Julian
(6) Tên đồ tể Rostov: Andrei Romanovich Chikatilo, kẻ sát nhân khét tiếng tại Nga giai đoạn 1883 - 1990 với cáo buộc đã sát hại ít nhất 52 nạn nhân.
(7) La Croix: tờ nhật báo quốc gia, được phát hành lần đầu vào năm 1883.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro