Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

BTC - phần 1

Bên Thắng Cuộc

I. Giải Phóng

Huy Đức

Smashwords Edition

*****

Published by

OsinBook∘2012

Copyright 2012 by Huy Đức & OsinBook∘2012

ISBN: 978-1-4675-5790-0

Huy Đức & OsinBook∘2012 giữ bản quyền

Thiết kế bìa và trình bày:

Phùng Văn Vinh & Trần Minh Triết

Bản giấy in tại California, USA

ISBN: 978-1-4675-5791-7

Phát hành toàn cầu

All rights reserved. Without limiting the rights under copyright reserved above,

no part of this publication may be reproduced, stored in or introduced into a

retrieval system, or transmitted, in any form, or by any means (electronic,

mechanical, photocopying, recording, or otherwise) without the prior written

permission of both the copyright owner and the above publisher of this book.

Bảo lưu toàn bản quyền. Không in lại, sao chép, tái bản, phân phát, một phần

hay toàn bộ cuốn sách, dưới dạng điện tử hay giấy, khi chưa có sự đồng ý bằng văn

bản của tác giả và nhà xuất bản.

Smashwords Edition License Notes

This ebook is licensed for your personal use only. This ebook may not be re-sold

or given away to other people. If you would like to share this book with another

person, please purchase an additional copy for each person you share it with. If you

are reading this book and did not purchase it, or it was not purchased for your use

only, then you should return to Smashwords.com and purchase your own copy.

Thank you for respecting the author’s work.

Chỉ được phép sử dụng sách điện tử này cho mục đích cá nhân. Không được bán

lại hay chuyển cho người khác. Nếu bạn đọc muốn chia sẻ cuốn sách này cho người

khác, xin mua thêm một ấn bản cho từng người bạn muốn chia sẻ với. Nếu bạn đọc

cuốn sách này và không mua nó, hoặc không mua cho riêng bạn, thì bạn nên trở lại

Smashwords để mua ấn bản của mình. Chân thành cám ơn bạn đọc đã tôn trọng

quyền sở hữu bản quyền của tác giả.

“Bên Thắng Cuộc của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau

1975 mà tôi được biết.” – Trần Hữu Dũng, Đại học Wright, Ohio, USA

“Cuốn sách này nói về những sự thật khốc liệt, nhưng vì rất trung thực nên nó

khiến ta bình tĩnh hơn trong thế giới và giữa đất nước khốc liệt ngày nay.” - Nguyên

Ngọc, Đại học Phan Châu Trinh, Hội An, Việt Nam

“Bên Thắng Cuộc là tác phẩm ‘thực’ nhất, cho đến thời điểm này, ghi lại một giai

đoạn lịch sử khốc liệt, thông qua tư liệu, của dân tộc từ biến cố 1975 đến nay.” –

Đinh Quang Anh Thái, Nhật báo Người Việt, California, USA

“Cuốn sách phân tích tình hình Việt Nam từ năm 1975 - của một nhà báo sinh ra

và lớn lên trong chế độ cộng sản - một cách chuyên nghiệp và công bằng hiếm có.

Nó là một kho tàng dữ liệu quý báu, có thể làm ngạc nhiên cả những chuyên viên

theo dõi chính trị Việt Nam trong nhiều thập niên qua.” – Nguyễn Mạnh Hùng, Đại

học George Mason, Virginia, USA

"Huy Đức viết công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng

và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận

mệnh của đất nước. Có công minh lịch sử mới có hòa giải dân tộc thưc sự" – Chu

Hảo, Nhà Xuất bản Tri Thức, Hà Nội, Việt Nam

Thương yêu tặng Mỹ Đức

và hai con Thạch Thảo, Đức Trung

“Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh

Bên nào thắng thì nhân dân đều bại”

Nguyễn Duy

Mục lục

Mấy lời của tác giả

Lời cám ơn

Phần I: Miền Nam

Chương I: Ba Mươi Tháng Tư

Đi từ bưng biền

Xuân Lộc

Tướng Big Minh

Trại Davis

Nguyễn Hữu Hạnh

Sài Gòn trong vòng vây

Xe tăng 390

Đầu hàng

Tuẫn tiết

Chương II: Cải tạo

Những ngày đầu

“Ngụy Quyền”

“Ngụy Quân”

“Đoàn tụ”

“Phản động”

Tù và cải tạo

“Thăm Nuôi”

“Học Tập”

Chương III: Đánh tư sản

“Chiến dịch X-2”

Đổi tiền

“Gian thương”

“Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”

Hai gia đình tư sản

Kinh tế mới

Chương IV: Nạn Kiều

Đội quân thứ năm

Hiệp định Geneva

“Chổi ngắn không quét xa”

Hoàng Sa

Sợ “con ngựa thành Troy”

“Nạn Kiều”

“Phương án II”

“Ban 69”

Vụ Cát Lái

Chương V: Chiến tranh

Biên giới Tây Nam

Pol Pot

Đi dây

Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ

“Kẻ Thù Lịch Sử”

Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)

“Nhất Biên Đảo”

“Áo lính lại khoác vào ngay”

Chương VI: Vượt biên

“Vượt biên”

Từ “trí thức yêu nước”

Đến “thường dân”

Trước khi tới biển

Đường tới các trại tị nạn

Chương VII: “Giải Phóng”

Sài Gòn thay đổi

Kinh tế mới

Đốt sách

Cạo râu

“Cách mạng là đảo lộn”

Lòng người

Những người được sinh ra không đúng cửa

“Cánh cửa” Thanh niên Xung phong

“Nổi loạn”

“Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”

Phần II: Thời Lê Duẩn

Chương VIII: Thống nhất

Nước Việt Nam là một

“Bắc hóa”

Chủ nghĩa xã hội

“Con đường của Bác”

“Mỗi người làm việc bằng hai”

Lê Duẩn và mối tình miền Nam

Chấp chính và chuyên chính

Chương IX: Xé Rào

Bế tắc

Mậu dịch quốc doanh

Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng

Tháo gỡ

Nghị quyết Trung ương 6

Bù giá vào lương

Cắm cờ xé rào

Khoán chui

Ông Kiệt xé rào, ông Linh lãnh đạn

“Ai thắng ai”

Chương X: Đổi mới

Hội nghị Đà Lạt

Nhóm giúp việc mới

Người của những khúc quanh lịch sử

Từ chính sách Kinh Tế Mới

Đến chọc thủng thành trì bao cấp

Giá-Lương-Tiền

Nã pháo vào bộ tổng

Khép lại trang sử Lê Duẩn

Vai trò của Mikhail Gorbachev

Tuyên ngôn đổi mới

Bàn tay Lê Đức Thọ

Phút 89

Chương XI: Campuchia

“Pot ở đầu phum ta cuối phum”

“Xuất khẩu cách mạng”

Tư tưởng nước lớn

Bị cô lập

Phương Bắc

Hội nghị Thành Đô

Campuchia thời hậu Việt Nam

Phụ lục 1. Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384

Phụ lục 2. Tướng Big Minh sau 1975

Tác giả

Danh mục sách tham khảo

Mấy lời của tác giả

Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực

về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách

nhiệm.

Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975.

Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì

nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua,

chúng tôi buông nhau ra.

Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “hai mươi năm

rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của

nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: phải nhanh chóng vào Nam để

giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.

Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê

nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu

Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang

vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một

giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy

suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy, thứ tiếng Việt khổ lớn

mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu

hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.

Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn:

mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một

người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi

nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may

mắn.

Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy

ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng

Thẳm Tuyết Dày1, Thép Đã Tôi Thế Đấy2. Những chiếc máy Akai, radio cassettes,

được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính

xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ

Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của

chúng tôi.

Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong

những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”,

chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất, sắp đặt lại giang san” của những người

vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam, rồi chứng kiến cũng những con kênh

đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa

mưa tới.

Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới

Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần

Ngọc Phong3, một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho

tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân

khấu ca nhạc. Cho dù đã kiệt quệ sau tám năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là

một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô vừa mỏi

mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt

đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy.

Mùa hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi

Trẻ, gồm Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Tuấn

Khanh, Huỳnh Thanh Diệu, Huy Đức. Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và

trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Phan Xuân

Loan... Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức tổng biên tập báo Phụ Nữ

Thành Phố, và cũng như Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không

được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích.

Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước

mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối

sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với

tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Không ai để

ý đến câu nói này của Tuấn Khanh, nhưng tôi lại bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công

việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi

kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.

Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ

Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975 đã trở thành sản phẩm của nền giáo dục

xã hội chủ nghĩa. Nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự

xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.

Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay

đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”4, như “Z30”5 cũng chỉ được

quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ Chính trị cũng không

được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì

chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và

bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có

lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm.

Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 - ngày nhiều người tin là miền Bắc

đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm,

giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các

nhà kinh tế, chính trị học, và xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này.

Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ kể lại những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau

ngày 30-4: cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc

chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc.

Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, và về sự “đồng

khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo

lấy cơm ăn áo mặc.

Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm. Trong vòng ba

năm, từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012, tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để

viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học,

trong đó có năm nhà sử học uy tín của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi

sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số

nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản

tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và

giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách

này đến tay bạn đọc.

Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có

những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan

trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, và sẽ còn được bổ

sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn

thiện nó trong những lần xuất bản sau. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy

ra, và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.

Sài Gòn – Boston, 2009-2012

Lời cám ơn

Trong quá trình thu thập tư liệu để viết cuốn sách này, tác giả đã nhận được sự

giúp đỡ chí tình của nhiều nhân vật lịch sử, sự hợp tác của các nhân chứng, sự đóng

góp của các đồng nghiệp, và sự ủng hộ của rất nhiều bè bạn.

Tác giả đặc biệt cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời phỏng vấn trực tiếp cho cuốn

sách này: Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Tổng Bí thư Đỗ Mười,

Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn

Văn An, Ủy viên Thường trực Thường vụ Bộ chính trị Phạm Thế Duyệt, Phó Thủ

tướng Nguyễn Mạnh Cầm, Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh,

Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Trung ương Đảng Hoàng Tùng, các Phó

chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nguyễn Đình Liệu, Trần Phương, Đoàn Duy Thành, Ủy

viên Bộ chính trị Nguyễn Hà Phan, Bí thư Trung ương Đảng Phan Minh Tánh, Bí thư

Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, Thiếu

tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung tướng Võ Viết Thanh…

Xin cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời các cuộc phỏng vấn của tác giả với tư

cách là một nhà báo mà một phần nội dung được sử dụng trong cuốn sách này: Đại

tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh,

Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội

Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh

Hương, Đại tướng Đoàn Khuê, Đại tướng Phạm Văn Trà, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn

Thị Bình, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Phan Diễn…

Cuốn sách không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ, hợp tác và tư vấn

của những người giúp việc, những người có nhiều năm gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng như ông Trần Việt Phương, ông Vũ Kỳ…; của

nhóm giúp việc Tổng Bí thư Lê Duẩn: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần

Phương, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Đậu Ngọc Xuân, thư ký tổng bí thư, ông

Đống Ngạc; của nhóm giúp việc và chuyên gia tư vấn của Tổng Bí thư Trường

Chinh: Tiến sỹ Hà Nghiệp, Giáo sư Trần Nhâm, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, Giáo sư

Dương Phú Hiệp, Giáo sư Đào Xuân Sâm, ông Trần Đức Nguyên…; của những người

giúp việc Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh: ông Trần Văn Giao, ông Hồng Đăng, ông

Dương Đình Thảo, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh; của những người giúp việc Tổng Bí thư

Đỗ Mười: Thống đốc Lê Đức Thúy, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam; của những người giúp

việc Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Trợ lý Vũ Quốc Tuấn, Trợ lý Nguyễn Trung, Trợ lý Vũ

Đức Đam, ông Phạm Văn Hùng, ông Nguyễn Văn Huấn, Bác sỹ Đinh Trần Nhưng,

Thư ký Nguyễn Văn Trịnh…; của những người giúp việc Thủ tướng Phan Văn Khải:

Trợ lý Nguyễn Thái Nguyên, Trợ lý Nguyễn Đức Hòa, Thư ký Nguyễn Văn Kích; của

người viết tự truyện cho Đại tướng Lê Đức Anh, Đại tá Khuất Biên Hòa.

Xin chân thành cảm ơn bà Nguyễn Thụy Nga, phu nhân Tổng Bí thư Lê Duẩn, bà

Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Phan Lương Cầm, phu

nhân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trả lời phỏng vấn và cung cấp thông tin, tư liệu. Xin

cám ơn sự giúp đỡ của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể, và Tiến sỹ Lê Kiên Thành, con

trai Tổng Bí thư Lê Duẩn; bà Võ Hiếu Dân, con gái, và ông Phan Thanh Nam, con

trai Thủ tướng Võ Văn Kiệt; Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, con trai Tổng Bí thư Trường

Chinh.

Cuốn sách cũng nhận được sự cộng tác rất tận tình của các vị từng đóng vai trò

quan trọng trong tiến trình hình thành chính sách ở các giai đoạn khác nhau của

Việt Nam như Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe (1946-1960), Bộ trưởng Tư pháp

Nguyễn Đình Lộc (1992-2002), Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Trần Xuân Giá, Tổng

Cục trưởng Địa Chính Tôn Gia Huyên, các đời chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Đoàn

Trọng Truyến, Lê Xuân Trinh, Lại Văn Cử, Đoàn Mạnh Giao, Bộ trưởng Thương mại

Lê Văn Triết, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển, Chủ nhiệm Văn phòng

Quốc hội Vũ Mão, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân, Trưởng ban

Tư tưởng Văn hóa Trung ương Hữu Thọ…

Đặc biệt cám ơn các tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam từng đóng vai trò

quan trọng trong chiến tranh như Cục trưởng Tác chiến, Trung tướng Lê Hữu Đức,

Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Lê Phi Long, Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Phan

Hàm, những người trong gia đình Đại tướng Lê Trọng Tấn, Cục trưởng Tình báo

Quân đội Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương Đại tá

Nguyễn Văn Hiếu, Chánh Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tá Nguyễn Văn

Huyên…

Xin chân thành cám ơn các nhà cách mạng lão thành đã cung cấp cho tác giả

hơn năm mươi cuốn hồi ký, phần lớn chưa từng xuất bản. Có những cuốn có giá trị

tham khảo đặc biệt quan trọng, như các tập hồi ký của Bí thư Trung ương Đảng

Trần Quốc Hương, một người từng gần gũi với Tổng Bí thư Trường Chinh, từng chỉ

huy mạng lưới tình báo miền Bắc ở miền Nam và từng là trưởng Ban Bảo vệ Trung

ương Đảng. Có những cuốn rất thẳng thắn của Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV

Nguyễn Thành Thơ, người từng chỉ đạo kinh tế mới và hợp tác hóa ở miền Nam. Có

những cuốn tiết lộ xung đột đảng phái thời kỳ ngay sau 1945 của Đại tá Công an

Trần Tấn Nghĩa, người nhận lệnh trực tiếp ám sát và bắt giữ các thành viên đảng

phái không cộng sản trong các năm 1945, 1946. Có những cuốn nói về thời kỳ

“giúp bạn” Campuchia của Đại sứ Ngô Điền, Đại sứ Trần Huy Chương. Cũng có

những cuốn rất thú vị, giúp tiếp cận với những góc độ khác của các nhà lãnh đạo tối

cao như tự truyện của bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hồi

ký của bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Tác giả xin chân thành cám ơn các sỹ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa: Chuẩn

tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, người chỉ huy trận hải

chiến Hoàng Sa tháng 1-1974; cám ơn Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn

Văn Hảo, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Dân biểu Ngô Công Đức; cám ơn nhà văn Phan

Nhật Nam, các nhà thơ Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, nhà văn Uyên Thao; cám ơn Giáo

sư Lê Xuân Khoa, bà Khúc Minh Thơ, những người đã giúp tác giả hiểu thêm về

những nỗ lực của cộng đồng để giúp những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ.

Tác giả cũng chân thành cám ơn Giáo sư Thomas Bass (Đại học Albany-SUNY),

người đã thu xếp cuộc phỏng vấn cựu ngoại trưởng Henry Kissinger tại Boston vào

tháng 2-2006; chân thành cám ơn các nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải, Yên Ba,

Nguyễn Khoa Diệu An, Trần Chí Hùng, Nguyễn Giang, Đinh Quang Anh Thái,

Nguyễn Khanh, Lê Thiệp, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà ngoại giao Đinh

Hoàng Thắng, nhà nghiên cứu Lưu Thu Hương, Tiến sỹ Trần Tố Loan đã giúp tác giả

tiếp cận với nhiều nhân vật và nhiều tài liệu lịch sử quan trọng. Tác giả cũng xin

chân thành cám ơn hàng trăm chính khách, sỹ quan, nhà tư sản, nhà báo, thường

dân, các thuyền nhân và nạn nhân của những biến động sau năm 1975, những

người đã giúp tác giả có được những câu chuyện sinh động. Những trích dẫn không

có chú thích trong cuốn sách này được lấy từ những cuộc trò chuyện do tác giả thực

hiện trực tiếp với các nhân chứng.

Xin cảm ơn nhà thơ Bùi Khương Hà, người đã đọc những chương đầu tiên trong

bản thảo đầu tiên và có những ý kiến xác đáng giúp tác giả điều chỉnh nội dung và

cấu trúc cuốn sách.

Tác giả cũng xin chân thành cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc, nhà sử học Dương

Trung Quốc, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hậu, Giáo sư Trần Hữu Dũng (Đại học Wright,

Ohio), Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason, Virginia), nhà sử học

Sophie Quinn Judge (Đại học Temple), Giáo sư Shawn McHale (Đại học George

Washington), Giáo sư Hồ Huệ Tâm (Đại học Harvard), Giáo sư Peter Zinoman (Đại

học UC Berkeley), Giáo sư Ngô Thanh Nhàn (Đại học New York) đã đọc và tận tình

góp ý để tác giả hoàn chỉnh bản thảo cuốn sách này.

Cuốn sách cũng không thể hoàn thành nếu không có nhóm giúp việc gồm một

số trí thức trẻ, một số sinh viên mà trong lần xuất bản này tác giả chưa thể nêu tên

họ. Trong quá trình thực hiện cuốn sách tác giả đã luôn nhận được sự động viên,

giúp đỡ của những người bạn như Nguyễn Thanh Toại, Đặng Cao Thắng, Lê Hải, Đỗ

Trung Quân, Hà Tân Cương, Nguyễn Quang Lập, Đặng Tâm Chánh, Bùi Nguyên

Cẩm Ly, Trần Minh Khôi, Võ Văn Điểm, Huỳnh Kim Phụng, Đào Ngọc Lâm, Bùi Đức

Thịnh, Nguyễn Văn Diễn, B.V.D, N.T.H, Nguyễn Đức Quang, Trần Ngọc Phong, Mai

Kỳ, Xuân Bình, Nguyễn Hải Phong, Lê Thị Hoàng Anh, Phùng Văn Vinh, Trần Minh

Triết …

Tác giả hy vọng tiếp tục nhận được sự góp ý chân thành để hoàn chỉnh cuốn

sách này trong những lần xuất bản tới.

Phần I: Miền Nam

Chương I: Ba Mươi Tháng Tư

Ba mươi tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà

những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt

hơn hai mươi năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ

súng ống vứt đi là sẽ có hòa bình.

Đi từ bưng biền

Sáng sớm ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá

tối trời” thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào

Trung ương Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ

Chí Minh6, đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc

biệt Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm

chủ tịch Ủy ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng

nổi dậy phối hợp với quân chủ lực.

Từ R, căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục

vụ gọn, khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa

biên giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời chiếc radio

ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục phát Bão Nổi Lên

Rồi, một bài hát mà nhịp điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi thúc: “Từ Trị Thiên băng qua

Tây Nguyên đi tới bưng biền lòng người bừng bừng, cùng tiến lên thời cơ đã đến

rồi”.

Thời cơ đã đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy lần

này chắc ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm

Cỏ Đông, tới xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đã về trước

ém quân ở đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định vào

thời điểm đó, là người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt

đầu nhập lại làm một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép

râu, mặt mũi khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền

lãnh đạo Sài Gòn - Hòn Ngọc Viễn Đông.

Sáng hôm sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua phía

bên kia cánh đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng

là xe tăng “địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng mình!”.

Ông Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba

Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó tư

lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương

đương quân đoàn, tiến vô Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn

pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng lớp

lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông Kiệt), rồi

cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới biết đó là

thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày 29-4-1975, là giờ quy

định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng loạt nổ súng tấn công

vào Sài Gòn.

Trưa 29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ trại nấu

cơm. Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó

không xa lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đã không còn dám

ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe

tiếng pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở không

làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với ông Mai Chí

Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép anh em nấu

ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.

Tới khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh

viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh chiếc

radio theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ trương

của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin

tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu

người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà hãy bình

tĩnh, ngưng nổ súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ Chánh

phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở

đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo

luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng

bào”.

Lời Tướng Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn

người lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng

Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài Gòn bắt đầu trút bỏ

quân phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách,

sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn. Quân

Giải phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của chế độ Sài

Gòn diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và Chín Anh,

hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí tìm cách kiếm

xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.

Chín Anh cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ

phía Sài Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi

tôi vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô

Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC

mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn một lá

cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói liền: “Tôi

là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai “chiến sỹ” vừa được

“trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái chiếc xe quay lại.

"Đại quân" lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên.

Chín Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm

anh em khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC

cắm cờ Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào

cũng có lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ

cho chiếc xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên

tiến vào Sài Gòn.

Ông Võ Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có

người đã suốt ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt

bên cửa xe, mắt họ cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn

đạt lại được cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một

niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.

Xuân Lộc

Trong khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội thành,

chính những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt những dòng cuối

cùng của một trang sử.

Kế hoạch “bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng

Trần Văn Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp

không ít khó khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV

gồm hai sư đoàn tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đã chọc

thủng tuyến phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung

tâm. Tuy nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn

cứ khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận

đưa tới thị xã để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.

Cho đến ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng

tương đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài Gòn

đã được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến

dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương

hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có

thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.

Hãng UPI (Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm

khả năng chiến đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn,

thương vong rất lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả năng chiến đấu của

Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ mạnh để giữ vững chế độ.

Theo Tướng Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn

Tiến Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt,

e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy các

anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm

rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các anh đều

đồng ý”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng trên bờ

sông La Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà kết luận:

“Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng ngự, nên địch

đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế so

với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân

Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba Dầu Giây và giữ vững luôn… thì Xuân Lộc tự

dưng mất hết tác dụng vì bị đặt ra ngoài tuyến phòng thủ. Biên Hòa thì sẽ lập tức bị

uy hiếp”9. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến này.

Để chuẩn bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I được điều

từ miền Bắc vào; Quân đoàn II thì vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển.

Tướng Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, có xe tăng đến nơi

nhưng xăng dầu hết, đạn pháo chỉ còn một hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.

Cán bộ tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần

ngày thường. Nhưng tinh thần phơi phới”10.

Ngày 18-4, ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đã cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch

duyệt lại kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông Lê Duẩn viết: “Tôi đã

bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa,

đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn III và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh

khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”11. Rạng

sáng ngày 21-4, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn tại Xuân

Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng

hòa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng

máy bay lên thẳng.

Đầu tháng 4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng viên

đặt vấn đề loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có thể nói

chuyện với Hà Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói: “Tôi không tin

là tôi có quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được dân bầu rời nhiệm sở”12.

Tuy nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày 20-4-1975, cả Tổng thống Gerald Ford và

Ngoại trưởng Henry Kissinger đều đồng ý để đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin

nói bóng gió với ông Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.

Nhà Trắng hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp nói với

miền Bắc đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt Nam có liên hệ

với Mỹ”. “Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời rằng ông sẽ làm tất cả những

gì tốt đẹp cho đất nước của ông”13. Tuy nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày 21-4-

1975, khi không còn Xuân Lộc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng Trần

Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đến văn phòng, thông báo là ông

từ chức. Chiều tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công khai

quyết định của mình và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.

Lúc 3 giờ 30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện ký tên Bí thư

Thứ nhất Lê Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ thị ngay cho các

hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của quần

chúng, sự hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực

hiện trong quá trình hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành

toàn thắng”14.

Ngày 26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần Văn Trà

di chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng

tới. Đến lúc ấy thì tình hình đã ngã ngũ. Sài Gòn hoàn toàn bị vây hãm. Phía Tây,

Sư đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư đoàn 22, từ Tân An lên đến Cầu

Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu Bình Điền và cầu An Lạc; hai Trung đoàn đặc

công 115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai Lậy.

Cũng từ ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đã cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn từ ngã

ba Trung Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống chế được đoạn

Cái Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng Cửu Long

bị băm nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng nổ súng tấn công căn cứ

huấn luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành; ngày 27-4 chiếm thị

xã Bà Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn đặc công

116 bắt đầu đánh cầu xa lộ Đồng Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ Phước

Khánh đến ngã ba Đồng Tranh, khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Hòa bị bắn

phá bằng pháo 130 ly. Ngày 23-4, sân bay Biên Hòa bị đóng cửa cùng lúc với tòa

lãnh sự Mỹ ở thị xã Biên Hòa. Sài Gòn chỉ còn kiểm soát hai sân bay cuối cùng: Lộ

Tẻ (Cần Thơ) và Tân Sơn Nhất”15.

Tướng Big Minh

Đầu tháng 4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới “phương

án Big Minh”. Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA tại Sài Gòn Thomas

Polgar gửi một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật Thiệu để đưa Dương Văn

Minh lên thay, hy vọng thành lập được một chính phủ liên hiệp “có khả năng làm

chậm lại cuộc xâm lược của Bắc Việt”16. Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong Ủy

ban Kiểm soát Bốn bên nói Hà Nội cho biết nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị

loại thì Bắc Việt sẵn sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự của

Đức Từ Cung ở số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, được Tổng thống Ngô Đình

Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả năng

chấp chính.

Đại tướng Dương Văn Minh17 sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ sứ

Dương Văn Huề, có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt, “tập kết”

ra Bắc năm 1954. Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội Pháp, sau Cách

mạng tháng Tám đã từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ, khi

ấy được lãnh đạo bởi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đã yêu cầu Cục trưởng Cục

Địch vận Võ Văn Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh Nhựt về Nam để tiếp cận với

Dương Văn Minh. Tháng 3-1961, Dương Thanh Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười

Ty, về đến miền Nam, và tới tháng 8-1962 thì móc nối được với cậu ruột và vợ là

Sử Thị Hương.

Ngày 1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đình Diệm, đã nhân

danh chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng thống.

Năm 1967, khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đã cử Mười Ty qua

Paris; trước đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông tìm Dương Văn Minh, nhưng

cả hai lần đều không gặp18.

Giữa tháng 4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm

trong rừng cao su trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương Văn

Minh tổ chức họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên bố “sẵn sàng

thay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa

bình cho miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4, Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon

đã đến Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ

được báo chí Sài Gòn bình luận là cố tình vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công

khai lập trường của Pháp đối với tình hình chính trị miền Nam.

Sau khi từ chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia đình vẫn

sống trong Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài Gòn là “Chính phủ

Thiệu mà không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương và Tướng Big

Minh đều đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa ông Thiệu đi. Về mặt công khai,

chuyến đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Trần Thiện Khiêm là “công cán”.

Buổi chiều ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng của

một sỹ quan tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một vòng “hậu dinh”, nơi ở

của gia đình ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân để đưa về tư gia. Sau

đó, ông đến văn phòng tổng thống. Sỹ quan tùy viên của ông Hương nói “Tổng

thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan một phong thư, dặn khi nào

Tổng thống họp xong thì trình.

Theo ông Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức thư viết:

“Thưa cụ, theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện Khiêm đi giải độc tại các

quốc gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá Diên,

Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà Tướng

Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây, một tiệc nhẹ đã dọn sẵn. Ăn xong, Tướng

Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên Bộ

Tổng. Khi họ quay lại thì bàn ăn nhà Tướng Khiêm đã được dùng làm bàn thủ tục

cho chuyến bay.

Khoảng 9 giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi trường

bằng ba chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham mưu,

thay vì rẽ phải vào phi trường, đã rẽ trái đi ngược ra Sài Gòn, vào Chợ Lớn, qua

trường đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân,

theo đường ngược chiều chạy vào sân bay. Tại “cổng nhà kính” của Không quân,

đèn tắt, không có nhân viên Việt Nam nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và

quân cảnh Mỹ. Sau khi nhận tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng tới

cầu thang một chiếc máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đã đứng chờ đưa tiễn.

Đêm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan19.

Những ngày ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát cánh

với ông Dương Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những ngày dài như

vô tận”. Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước đó được Tướng

Nguyễn Văn Thiệu phong hàm “hạ sỹ danh dự” đã “quyết tử thủ dù Sài Gòn có phải

tắm máu”. Tướng Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: “Toa (anh) làm thế

nào đó thì làm, nếu ông Hương cứ kéo dài hoài thì moa (tôi) không nhận đâu!”.

Ông Hồ Ngọc Nhuận hiểu đại từ tiếng Pháp “toi” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ

ông Nhuận và nhóm dân biểu đối lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ

chức. Nghe ông Tướng nói “moa không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái

ghế tổng thống mà tới giờ đó “ai cũng thấy là không còn cái chân nào”, ông Nhuận

xót xa nghĩ: “Ông Tướng đã từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận

uống chén đắng cho tới cặn sao”20.

Sau đó, trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận khuyên

Tướng Big Minh “thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà toa còn nói

đâm bang!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận bỏ phòng họp lên sân thượng. Dân biểu Dương

Văn Ba sau đó theo lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc Nhuận nói: “Nếu ông

Tướng nhận, người ta sẽ làm nhục, giờ này thì chỉ có đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay

hoạt động của chúng ta có gián tiếp tiếp tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi

không muốn đứng trong hàng ngũ những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể

từ đó, ông Nhuận không tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho dù

nhiều người muốn ông Nhuận, người đã từng là quận trưởng Quận 8 và đang là một

dân biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lãnh vai trò “đô

trưởng”.

Ngày 27-4-1975, Quốc hội Sài Gòn nhóm họp. Chỉ còn 136 nghị sỹ trên tổng số

219 của lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đã di tản ra nước ngoài. Bộ

trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã đến

để thuyết trình tình hình chiến sự. Mãi tới 8 giờ 54 phút tối hôm ấy, các nghị sỹ mới

biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu cầu ông Trần Văn Hương trao quyền cho

Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu hòa bình cho dân tộc”.

Ngày 28-4, Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính phủ:

Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó tổng thống;

luật sư Vũ Văn Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các còn có thêm một thành viên chính

thức nữa là Tổng trưởng Thông tin Lý Quý Chung.

Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số 33/TT/VT

“mật - hỏa tốc” với nội dung: "Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Kính gửi ông Đại sứ

Hoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra

chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong

vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam

sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày 28-4-1975. Ký

tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.

Trại Davis

Sáng 29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng thống

Nguyễn Văn Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chủ động gặp ông Huyền

hỏi: “Chính quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để hòa giải dân tộc,

vậy các anh đã tiếp xúc gì với phía bên kia chưa?”. Phó Tổng thống Nguyễn Văn

Huyền nói chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu vào trại Davis gặp đại diện Cách

mạng có mặt ở đó với tư cách là thành viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo

Hiệp định Paris.

Từ năm 1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao

Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn

Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan

Kế Toại, người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách

Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn

viên chức chính trị của Bộ21.

Phái đoàn vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông

Nguyễn Đình Đầu, Kỹ sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi họ

gặp rất nhiều trở ngại do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán bộ Cách mạng

tiếp họ nhưng nói là Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có nhiệm vụ tiếp xúc.

Nhưng khi trao đổi không chính thức, vị cán bộ này gợi ý: chỉ cần các ông chấp

nhận “Tuyên bố ngày 26-4-1975 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa

Miền Nam Việt Nam”22.

Trở về từ trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền.

Sau khi có tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp và ông Nguyễn

Đình Đầu về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận Điều kiện

Ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16

giờ và ngay sau đó được “Phó Tổng thống đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền

trình lên Tổng thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền

đã công bố bản này trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975.

Cũng trong ngày 29-4, sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người

hoạt động trong lực lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn

Minh. Ông Liễng, một người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn

giàn pháo của quân Giải phóng đặt quanh Sài Gòn” và nói: “Nếu anh chấp nhận

không chống cự thì tôi lên ngay trại Davis báo ý này với phái đoàn Chính phủ Cách

mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không pháo kích vào

Sài Gòn, tránh cho nhân dân khỏi bị chết chóc, Sài Gòn không đổ nát”. Ông Minh

suy nghĩ rồi nói: “Liễng đi đi”.

Khoảng 15 giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục Chân

Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính phủ Cách

mạng Võ Đông Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài Gòn không chống cự” từ ông

Liễng. Do tình hình chiến sự, ông Võ Đông Giang đã giữ “sứ bộ” ở lại trại Davis cho

tới khi quân Giải phóng vào đến Sài Gòn.

Trước đó, một người trong nhóm của Luật sư Trần Ngọc Liễng đã được tiến cử để

Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm vào chức giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành:

ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lý Gia Định, một “đảng viên cộng sản nằm vùng”.

Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đã kịp thi hành triệt để lệnh của tổng thống: thả

hết tù chính trị.

Nguyễn Hữu Hạnh

Trong khi ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ theo

dõi tình hình, nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm thầm với Cách

mạng gần chục năm qua mang về kết quả.

Ông Hạnh với ông Minh đã có hơn ba mươi năm biết nhau trên nghĩa thầy trò.

Ngày đăng lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được người Pháp đưa vào một đơn vị nơi

ông Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó. Sau ba tháng huấn luyện với sự dìu

dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được phong trung sỹ. Trong chiến dịch Thoại

Ngọc Hầu, truy quét quân Bình Xuyên năm 1956, ông Minh bổ nhiệm ông Hạnh giữ

chức tham mưu trưởng chiến dịch.

Ông Hạnh có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành -

thường gọi là Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam, trong khi

con trai của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư

bị chính quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực

và các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh

muốn đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải

phóng, ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng

Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác mình, ông

Tám Vô Tư, đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê

Quốc Lương24, phụ trách.

Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối lời đề

nghị “ra căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải phóng”, từ chối tham

gia lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh em Cách mạng”. Tướng Nguyễn

Hữu Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt, tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu

được”. Giữa năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về

hưu; ông về Cần Thơ, gặp gỡ binh vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn

theo Cách mạng”. Tuy nhiên, khi thế cờ đã gần như ngã ngũ, đặc biệt, khi thấy ông

thầy Dương Văn Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết

định nắm lấy cơ hội cuối cùng.

Ông kể: "Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn phòng khi ấy

vẫn còn ở nhà ông, số 3 Trần Quý Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách sự vụ

nói với tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một chút. Ông Dương Văn Minh là

một con người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc này trên gương mặt ông cũng lộ rõ vẻ

suy nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy viên vào trình có Đại sứ pháp đến. Tôi sang phòng

bên để ông Minh và ông Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của Đại sứ

Mérillon thông báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đã liên lạc với Hà Nội về vấn đề

thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đã quá trễ’.

Hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon ra về.

Họ quyết định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương Văn Minh: ‘Thưa Đại

tướng, còn về tình hình quân sự ra sao?’. Ông Minh nói: ‘Toa là quân nhân không đi

xem còn hỏi gì?’ Là tổng tư lệnh quân đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng không

nắm nổi tình hình mà còn phó thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ trách

mọi việc ở Bộ Tổng tham mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ huy quân

đội và tôi đoán thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói: ‘Tôi về hưu rồi

đi coi sao được. Đại tướng có cho quyền thì tôi mới đi’. Ngay lúc đó ông Minh phái

tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét tình hình quân sự”.

Ông Nguyễn Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở thì Tổng Tham mưu trưởng Cao

Văn Viên và Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã bỏ ra nước ngoài.

Trung tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lâm

Văn Phát giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh Lộc trao cho ông Nguyễn

Hữu Hạnh bộ đồ quân phục của một đại úy và cho ông cặp quân hàm chuẩn tướng.

Chân ông Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu thì không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nhìn, lắc

đầu, chửi thề rồi nói: “Bây giờ chúng nó chạy như chuột”.

Tình hình ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, khi

ông Minh gọi Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu trưởng, thì Tướng

Vĩnh Lộc từ chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng đi, sớm nay tôi còn thấy

nó ở Tổng Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế

và Đà Nẵng, Tướng Trưởng vừa mới chạy tới Sài Gòn. Dương Văn Minh không đồng

ý.

Nhân khi ông Minh rời phòng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục

Vĩnh Lộc chấp nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho gia

đình chuẩn bị “di tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua nhiều kẻ đã

phải giành giật nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận nữa”.

Sài Gòn trong vòng vây

Theo Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đã hoàn thành phần lớn

việc di tản, kể cả hơn một trăm nghìn người Việt Nam có thể bị nguy hiểm do đã

cộng tác với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã “chấp thuận yêu

cầu” của Tổng thống Gerald Ford, đồng ý gỡ bỏ những điều kiện hạn chế (extend

parole) cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông dương, trong đó có 50,000

người thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận

một trường hợp ngoại lệ” (lần đầu, năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).

Từ ngày 21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm, liên

tục cất cánh từ Sài Gòn, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi. Hơn 80.000

người Việt Nam khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng các phương tiện

khác”.

Tuy nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân Giải phóng tấn công bằng tên lửa

vào sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam và 400 người Mỹ vẫn còn đang

tập trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đã phải tạm ngưng vì đám đông

hoảng loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài Gòn chứng kiến những đợt rút chạy cuối cùng

của phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ trên vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới

đất bắn lên, tức giận.

Ba giờ chiều ngày 29-04-1975, tình hình quân sự được báo cáo về Bộ tổng tham

mưu Sài Gòn: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá thất thủ vào

chiều 28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Hòa, Trung tướng Toàn

cho biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút, Việt Cộng dùng xe tăng đánh

chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút Biên

Hoà bị bao vây ba mặt.

Tối 29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh ông

đang bị bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo ông Hạnh thì

giọng Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần, Tướng Đảo tuyên bố

“Cố thủ Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đã phải rút chạy. Trong khi đó, ở Sư 22

đóng tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đình Niệm đã bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do

Sư 5 trấn giữ đã bị chọc thủng đêm 29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.

Khi quân Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp lập

tuyến phòng thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn xe của

quân Giải phóng từ phía Hóc Môn đã tiến về Sài Gòn. Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cho

biết đã lập xong kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, muốn

kéo dài sự phòng thủ thì cần chỉ thị sắp xếp quân lại. Tuy nhiên, ông đã không bàn

với Tướng Vĩnh Lộc việc này. Theo chỉ thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không

được di chuyển quân để chờ ông thương thuyết”.

Trước khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh trình bày tình hình quân sự

với Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân Sơn Nhất quân

của Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể họ sẽ giữ nổi nhưng

phải chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy nhiên phía Biên Hòa và Thủ Dầu

Một, Quân đoàn III không còn; chỉ huy các đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đã bỏ

chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ

Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài Gòn. Mặt

trận phía này chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng phòng thủ. Tôi

e trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn Hữu

Hạnh: “Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện thoại báo cáo

với ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là cái bắt tay cuối cùng”.

Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng dòng dõi hoàng tộc này đã cùng gia đình “di

tản” bằng đường thủy.

Ông Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi tìm xe, tài

xế đã bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe riêng đón chúng

tôi đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông Minh, Tướng Có trình bày

lại toàn bộ tình hình quân sự như tôi đã nói. Ông Minh trầm ngâm. Tôi nói thêm:

‘Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp’. Ông Minh quay lại hỏi:

‘Bây giờ toa muốn gì?’ Tôi nói: ‘Thưa Đại tướng quyền chính trị là ở Đại tướng, riêng

về quân sự thì Đại tướng phải giải quyết, tình hình quá nguy ngập không cho phép

chúng ta chần chừ nữa’. Ông Minh suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói: ‘Thôi để tôi

đi bàn với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi đề nghị được đi theo,

ông Minh đồng ý”.

Ông Minh và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là đường

Lê Duẩn). Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng, tại tòa đại sứ

Mỹ có nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58

phút sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ

Mỹ, theo Ngoại trưởng Kissinger, là vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán 129

lính thủy đánh bộ bảo vệ cuộc di tản ở tòa Đại sứ.

Ông Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng của

tổng thống đã đón ông Nguyễn Đình Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn Văn Huyền.

Ông Đầu thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông Huyền có nói với ông

Đầu một câu bằng tiếng Pháp “Il faut se rendre”(phải đầu hàng).

Tình hình chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông

Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào hơn là

đơn phương tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một

tiếng đồng hồ; 9 giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9 giờ 30 phút lời tuyên

bố này được phát đi trên sóng. Những người như ông Võ Văn Kiệt như trút được

gánh nặng khi nghe được tuyên bố này phát trên đài Sài Gòn.

Vào khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy ghi

âm, trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng gặp ông

Nguyễn Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang ngồi trong

phòng khách với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu. Vannuxem là thiếu

tướng người Pháp đã hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và

Tướng Cao Văn Viên. Vannuxem đi ngay vào câu chuyện: “Tôi ở Paris mới đến,

trước khi đi có gặp nhiều nhân vật, kể cả đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu

cầu ông Minh kéo dài cuộc chiến ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ

Mỹ đi với Bắc Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp lực với

Hà Nội để ngưng chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ý. Khi Vannuxem về

rồi, ông Dương Văn Minh nói: “Mình đã lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung

Cộng sao”.

Theo kế hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào lúc 10

giờ sáng 30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới đến số 7

Thống Nhất thì họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người trong số

họ đã di chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi.

Trong thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính

quyền của Tống thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá Tổng

Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Khi

Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh

chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được biết ông Minh và

gia đình đã vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im

phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính

gác.

Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang.

Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng

Tiểu đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc

Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại.

Vừa lúc, điện thoại tại phòng làm việc của Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một

thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng

Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu.

Viên thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không

đầu hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và

khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu cầu

nói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu chuyện chưa

xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng đã vào tới Dinh

rồi, thôi cúp”.

Xe tăng 390

Lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng

Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung

tá Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập. Hành động này của

Trung tá Nguyễn Văn Binh đã điều chỉnh một chi tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843

đi theo đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng phụ trong khi

xe tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, cánh cửa

cuối cùng của cuộc chiến.

Vào lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt ra

lệnh “giản chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn

tăng 203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc radio mà

ông luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Nguyễn Hữu

An, luôn theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm được

chiến thắng, càng nóng lòng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước mục tiêu cuối

cùng.

Đêm 29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được Trung

tá Bùi Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh Tài và Tùng. Bảy

chiếc tăng và một bộ phận bộ binh đã đến cầu xa lộ Biên Hòa gặp bộ phận đặc công

của 116 giữ đã hai ngày nay. Tình hình như vậy là thuận lợi do đó phải mạnh dạn

tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố gắng đưa toàn bộ đội hình của

các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4 giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới Sài

Gòn chiếm xong cầu Rạch Chiếc và Tân Cảng đến cầu Sài Gòn. Tôi đã nói anh Ân

cho 2d (tiểu đoàn) của E9 tràn về phía cầu xa lộ Biên Hòa. Các anh thi hành khẩn

trương và giữ liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài Gòn là Dinh Tổng

thống - Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy trung

ương tình báo./An”.

Trước đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương Văn

Minh ra lệnh cho quân đội Sài Gòn ngừng di quân, Bộ Chính trị điện: “Gửi anh Sáu,

anh Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp thì được

tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị:

Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến

quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước

vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để

mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định dưới quyền

của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện tiếp, nhận

được điện trả lời ngay. Ba”25.

Rạng sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 chạy

đến căn cứ Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn Phượng, trưởng

xe 390, vẫn chưa biết chiếc tăng T59 của mình sẽ đi vào lịch sử. Sống chết vẫn còn

gang tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm bên một bìa rừng cao su, pháo thủ số

hai của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn

cao su bắn bị thương. Thiếu úy Phượng ra lệnh quay nòng pháo vào vườn cao su,

bắn cho tới khi toán thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du

kích rồi bốn anh em lên xe tiến về Sài Gòn. Tới ngã tư Hàng Xanh, những chiếc

tăng phải chạy lòng vòng để tìm đường.

Trước đó không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng Tấn giao

nhiệm vụ cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất”. Tướng

Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II vào trước có được

đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu. Ngày

24-4, cũng tại một vườn cao su ở Long Thành, Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề

với Lữ đoàn 203: “Cậu Tài (Trung tá Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở

Liên Xô, cậu Tùng tốt nghiệp Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rõ Liên

Xô khi kết thúc Thế chiến thứ II đã dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào

huyệt cuối cùng. Tại sao mình có một lữ tăng, mình không vào Dinh Độc Lập?”.

Ngay sau đó, trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh thì Tướng

Nguyễn Hữu An đã đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy thẳng

theo đường Hồng Thập Tự, thay vì đi hướng từ Sở Thú lên như 843, nên khi vào đến

Dinh Độc lập lúc 10 giờ 45 phút, đã thấy xe 843 của trung úy Bùi Quang Thận tấp

qua bên trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe của

Lê Văn Phượng tiến lên.

Thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho xe ủi

vào cổng chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh xích nghiền nát

cánh cổng sắt. Biết cổng không có mìn, Lê Văn Phượng mở nắp tháp pháo, đứng

nhô lên nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên “Tây” ngồi trên thảm cỏ.

Nhưng khi xe anh cán lên bãi cỏ thì không thấy chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi

năm sau, Lê Quang Phượng sẽ gặp lại người phụ nữ ấy, còn lúc bấy giờ thì anh

không có thời gian để tìm xem chị ở đâu.

Đến thềm Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy Bùi

Quang Thận thì đã nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá cờ khổ nhỏ,

loại cờ được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được mục tiêu quan trọng

nào lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm cờ định nhảy xuống, nhưng Lê

Văn Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi, hãy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn

Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không còn phải bắn một

phát đạn nào26.

Khi chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy

xuống, chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm

Dinh trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ lại là anh

đã hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể vì quá căng thẳng và

có thể vì là một người lính nông dân lần đầu đứng trước một tấm kính khổng lồ, Bùi

Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến nỗi anh ngã bật ra phía sau trong khi tay

vẫn không rời lá cờ. Từ trong Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời vào.

Bùi Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém. Không

biết phải làm gì hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng”, chờ

cấp chỉ huy đến còn mình thì làm nốt “vai trò lịch sử”, cắm cờ trên nóc Dinh Độc

Lập. Chỉ huy lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống, Đại tá Chiêm, được lệnh hướng

dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh viên

Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và Tiến sỹ Huỳnh Văn

Tòng27.

Khi ấy, thang bộ của Dinh chưa sử dụng được vì ngày 8-4-1975 đã bị phi công

Nguyễn Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài Gòn, ném

bom làm hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy, loại phương tiện

mà đối với Bùi Quang Thận còn lạ hơn những tấm kính khổ rộng rất nhiều. Bùi

Quang Thận nhất quyết không vào; về sau anh kể lại: “Lúc đó tôi thấy thang máy

giống như... cái hòm, vào đó nhỡ nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”.

Sau khi nghe Đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy.

Phải mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc

vàng xuống bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ

của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi

viết và ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận”28.

Đầu hàng

Khi Bùi Quang Thận được Đại tá Chiêm dẫn lên nóc Dinh, Trung úy Vũ Đăng

Toàn ở lại tầng hai. Trung úy Toàn viết: "Tôi dồn toàn bộ nội các Dương Văn Minh

vào một chỗ. Dồn xong thì ông Nguyễn Hữu Hạnh mời ông Dương Văn Minh ra

chào. Khi ông Minh vừa ra thì anh Phạm Xuân Thệ cùng hai trợ lý đến. Anh Thệ nói:

'Tôi là đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung đoàn 66'”.

Borries Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm Gương của Cộng hòa Liên bang Đức,

người châu Âu duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào thời điểm đó, tường thuật:

“Tay Thệ cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la

lớn yêu cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng tướng Minh không muốn đi. Ông ta

đề nghị rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh

luận việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính Giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu

tìm máy thu nhưng không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh

cả. Sự hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân Giải phóng, Chính ủy Bùi

Văn Tùng, xuất hiện”29.

Ở cửa Dinh, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 đã nghe báo

cáo: “Có Tổng thống Ngụy”. Ông Tùng quá mừng: “Vớ được cả tổng thống cơ à!”.

Tổng thống Dương Văn Minh thấy ông Tùng, một người cao lớn, bước vào, thì lịch

sự chào: “Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào đã lâu rồi để bàn giao chính quyền”.

Ông Bùi Văn Tùng nói: “Các ông là người bại trận. Các ông không có gì để bàn giao

cả mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Ông Tùng hỏi Chuẩn tướng Nguyễn Hữu

Hạnh: “Đường giây liên lạc từ đây qua đài thế nào?”. Ông Hạnh nói: “Hư hết rồi”.

Ông Tùng quyết định cho đưa vị tổng thống bị bắt giữ đến đài phát thanh.

Khi xe tăng 390 dừng lại, mọi người xuống hết, Trung sỹ Nguyễn Văn Tập, lái xe

390, cũng định đi vào trong Dinh, nhưng khi nhảy lên bậc thềm ngoảnh lại thấy

vắng quá. Anh nghĩ, “nhỡ địch quay lại chiếm mất xe mình thì sao?”, bèn quay lại

nhảy vào ghế lái ngồi thò đầu ra ngoài. Chỉ một lúc sau, Trung sỹ Tập thấy “Nội các

Ngụy” ra, đi rất hiên ngang. Cùng đi có cả Phạm Xuân Thệ nhưng khi ấy anh Tập

chỉ nhận ra thủ trưởng của mình là Chính ủy Bùi Văn Tùng. Trung sỹ Tập có lẽ liên

hệ đến bức ảnh của Phan Thoan và lời đề nổi tiếng của Tố Hữu: “O du kích nhỏ

dương cao súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”, nên kêu lên: “Thủ trưởng ơi,

thủ trưởng bắt nó phải cúi đầu xuống chứ!” Trung tá Bùi Văn Tùng nói: “Việc ấy là

của tớ”.

Chiếc xe Jeep mang biển số 15770 mà Trung đoàn 66 thu được từ chiến trường

Đại Lộc, Quảng Nam, do chiến sỹ Đào Ngọc Vận lái, được trưng dụng để chở Tổng

thống Dương Văn Minh đi từ Dinh Độc Lập qua đài. Đào Ngọc Vận30 kể: “Tôi thấy

Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn ông tiến lại chiếc xe Jeep

15770 mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó cùng một người ngồi hàng ghế phía trên,

người kia ngồi phía dưới, cùng Trung úy Phùng Bá Đam, Trung úy Nguyễn Khắc

Nhu. Hai chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng và Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe.

Mãi sau này tôi mới biết người to béo, đeo kính trắng, đi giày đen ngồi ngay bên

cạnh mình là Tổng thống Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ complet, sơ mi

trắng ngồi phía sau là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”.

Nhà báo Borries Gallasch viết tiếp: “Chỉ có hai chiếc xe của chúng tôi chạy giữa

thành phố lúc ấy - một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên

được làm dịu đi - qua Tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến Đài Phát thanh nằm trên

đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ

thuật viên đã lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra

sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển

sách. Tổng thống Dương Văn Minh và Chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai

chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu

hàng trên một mảnh giấy màu xanh”31.

Trung tá Bùi Văn Tùng nhớ lại: "Tôi với ông Dương Văn Minh ngồi cùng một

băng ghế dài. Khi ấy, sau 8-9 đêm mất ngủ, tôi có cảm giác mệt rã người. Nhưng

một ý nghĩ chợt thoáng qua, “ổng mà nói linh tinh thì chết”. Mồ hôi tự nhiên toát ra

như tắm, người tỉnh hẳn, tôi nói: “Ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”. Tổng

thống Dương Văn Minh nói: “Ông muốn gì hãy ghi ra”.

Trung tá Bùi Văn Tùng viết ngắn gọn: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính

quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không

điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố Chính quyền Sài Gòn

từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa

phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”.

Tướng Dương Văn Minh đọc xong, Trung tá Bùi Văn Tùng nói tiếp vào máy ghi

âm: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng

tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng

không điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”32.

Thủ tướng Vũ Văn Mẫu cũng được dành cho ít phút để phát biểu và đây, có lẽ,

mới là “chính kiến” của nhóm ông: “Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi

- giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng - kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào

mừng ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên

của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính

quyền cách mạng”33.

Ông Võ Văn Kiệt đến Dinh khi nơi này đã được tiếp quản bởi một lực lượng của

Quân đoàn IV. Ông là vị trung ương uỷ viên Đảng Lao động Việt Nam đầu tiên đến

Dinh Độc Lập. Ông Kiệt nắm thêm tình hình quân sự và nhắc nhở chỉ huy các đơn vị

chiếm đóng đối xử tốt với những người trong chính phủ ông Dương Văn Minh, chờ

lệnh.

Ông Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản, là vị trí thực sự “đứng

đầu” ở Thành phố lúc bấy giờ. Tuy nhiên, người công khai xuất hiện trong vai trò

đứng đầu tại thời điểm ấy lại là Trần Văn Trà. Ngày 1-5-1975, khi đang ở Sở chỉ

huy tiền phương, Thượng tướng Trần Văn Trà được ông Lê Đức Thọ và ông Phạm

Hùng thông báo: “Điện anh Ba Lê Duẩn nói Bộ Chính trị quyết định cậu làm chủ tịch

Uỷ Ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định. Đi ngay cho kịp”.

Ông Võ Văn Kiệt cho rằng đây là một thay đổi hợp lý. Sài Gòn mới tiếp quản cần

một quân nhân đồng thời phải là một quân nhân không quá xa lạ với dân chúng.

Tướng Trà từng là trưởng Phái đoàn Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng

hoà Miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp Quân sự Bốn bên thực thi Hiệp định

Paris. Năm 1973, ông đã có một thời gian khá lâu ở Sài Gòn, và đã từng được báo

chí Sài Gòn nhắc đến.

Ngày 2-5, Tướng Trần Văn Trà mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể34: “Theo chỉ thị

của Bộ Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu của ngụy quyền mà

từ hôm giải phóng Sài Gòn, bộ đội ta đã giam giữ họ tại một phòng ở đây. Tôi chỉ

gặp những người đứng đầu: Dương Văn Minh, tổng thống, Nguyễn Văn Huyền, phó

tổng thống và Vũ Văn Mẫu, thủ tướng ngụy quyền, giải thích cho họ chính sách của

cách mạng là quang minh, chính đại, độ lượng, khoan hồng. Tôi đã nhấn mạnh: Tất

cả những việc làm đã qua chúng tôi xếp nó vào quá khứ, chúng tôi căn cứ vào thái

độ và hành động từ ngày nay trở đi. Tôi mong họ quan niệm được sự thắng lợi vĩ

đại của dân tộc vừa rồi mà tự hào rằng mình cũng là người Việt Nam. Có vẻ họ tỏ

ra xúc động. Dương Văn Minh đã phát biểu: Tôi vui mừng được là công dân của một

nước Việt Nam độc lập”35.

Tuẫn tiết

Với năm cánh quân Giải phóng áp sát Sài Gòn trong sáng 30-4, không ai có thể

đủ sức cưỡng lại chiến thắng của quân đội miền Bắc. Tuy nhiên, ‘Việt cộng” chỉ thực

sự nắm được miền Tây vào chiều tối 30-4-1975.

Vào thời điểm ấy, không chỉ có sỹ quan chỉ huy hai tiểu đoàn Lôi Hổ xộc vào

Dinh Độc Lập chất vấn tổng thống về quyết định buông súng. Từ mấy ngày trước,

các sư đoàn không quân còn lại của Việt Nam Cộng hòa đã di chuyển xuống Trà Nóc

và các sân bay lân cận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng bay xuống, nhóm họp với các

tướng lãnh, các tỉnh trưởng của Vùng IV với sự tham gia của Phó đề đốc Hải quân

Hoàng Cơ Minh, người khi ấy đang làm tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211.

Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh bố trí Đoàn 232 của Tướng Lê Đức Anh ở

hướng Long An nhằm phòng ngừa khả năng lực lượng của Tướng Nguyễn Khoa Nam

từ Cần Thơ lên ứng cứu là có cơ sở. Tuy nhiên, ngay trong đêm 29-4-1975, gần như

tất cả lực lượng hải quân đều bỏ trốn.

Theo Thiếu úy Dương Đức Dũng, phóng viên mặt trận của Sư 21 không quân:

“Tướng Nguyễn Khoa Nam ra lệnh oanh tạc những kẻ đào ngũ nhưng anh em không

quân không chấp hành”. Sáng 30-4-1975 vẫn còn lệnh bay. Máy bay bắt đầu trút

hết bom vào đồng trống. Một số phi công nói với Thiếu úy Dũng: “Tụi tao được lệnh

di tản sang U-Tapao (Thái Lan), mày có đi thì lên”. Dũng đã ở lại. Bầu trời Cần Thơ

từ lúc ấy không một phút yên tĩnh. Đầu tiên là các khu trục A1E, A1H, sau đó là

A37 rồi C123. Trực thăng túa lên trời như châu chấu.

Bảy giờ sáng ngày 30-4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân

đoàn IV báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu bằng điện thoại: “Tôi bị tấn công mạnh ở

ba nơi: Vĩnh Bình, Bạc Liêu và một nơi cách sân bay Trà Nóc ba cây số. Nhưng tôi

đã đẩy lùi được cuộc tấn công của Việt Cộng. Tôi sẽ giữ các vị trí còn lại. Các lực

lượng Quân đoàn và Quân khu IV, mặc dầu có bị tấn công vài nơi, nhưng vẫn còn

nguyên vẹn”36. Phó tướng của Nguyễn Khoa Nam khi đó là Chuẩn tướng Lê Văn

Hưng, người mà năm 1972 đã từng tử thủ ở An Lộc. Từ Bộ Tổng Tham mưu, Chuẩn

tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhắc Tướng Nam: “Anh cố gắng thi hành lệnh của Tổng

thống”.

Năm giờ 30 phút chiều 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng rời Bộ Tư lệnh Quân

đoàn IV, về Bộ Chỉ huy phụ. Khi đại diện bộ đội miền Bắc vào Bộ Tư lệnh Quân

đoàn IV gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam yêu cầu “đầu hàng”, Tướng Nam và Tướng

Hưng chỉ chấp nhận “bàn giao”. Khi vị đại diện miền Bắc này qua khỏi cầu Cái

Răng, Tướng Hưng liên hệ với Tướng Mạch Văn Trường và ra lệnh điều động hai chi

đội thiết giáp ra án ngữ cầu Cái Răng và chiếm lại đài phát thanh rồi cho mời Mạch

Văn Trường và chỉ huy các đơn vị đóng xung quanh vành đai thị xã Cần Thơ về họp.

Sáu giờ 30 phút chiều, khi các vị sĩ quan về tới cổng Bộ Chỉ huy của Tướng Hưng,

một nhóm nhân sĩ Cần Thơ đến gặp Tướng Hưng, xin ông đừng phản công để tránh

bị “Việt Cộng pháo kích vào thị xã”.

Tại Vĩnh Long, các lực lượng của miền Nam vẫn không thôi kháng cự. Theo ông

Phạm Văn Trà37: “Chiều ngày 30-4, sau khi bộ phận trinh sát kỹ thuật của Bộ Tư

lệnh tiền phương quân khu bắt được sóng đài của địch, anh Ba Trung đã sử dụng

điện đài tuyên bố với viên tỉnh trưởng Vĩnh Long rằng tính mạng của y đã nằm

trong tay quân Giải phóng. Nếu đầu hàng, cách mạng sẽ khoan hồng, tha thứ lỗi

lầm trước đây, tính mạng, tài sản của bản thân và gia đình, vợ con được bảo toàn;

bằng không, y sẽ phải đền tội và vợ con, gia đình cũng khó bề bảo toàn tính mạng,

mặc dù Cách mạng không muốn điều đó. Sau 30 phút suy tính, vào lúc 17 giờ ngày

30-4, tỉnh trưởng Vĩnh Long chấp nhận đầu hàng và xin anh Ba Trung giữ lời hứa

bảo toàn tính mạng”38.

Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư

đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc39.

Sáu giờ 45 phút chiều, hai vị tướng chỉ huy lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng

hòa ở miền Tây vẫn trao đổi điện thoại với nhau. Tướng Nam cho đến lúc ấy vẫn

định phát lời kêu gọi dân chúng Cần Thơ, nhưng cả hai đều biết là quá trễ. Theo Đại

tướng Văn Tiến Dũng: “Do sức ép của ta ngày càng mạnh, các Trung đoàn 31, 32,

33 ngụy cùng phần lớn các cơ quan chỉ huy sư đoàn ngụy đã tự động vứt bỏ vũ khí,

cởi bỏ áo lính trở về nhà. Chỉ còn một số sĩ quan ngụy cao cấp ở lại để xin đầu hàng

ta vào lúc 20 giờ cùng ngày”40.

Bảy giờ 30 phút tối 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với

thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim

Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng

thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm

hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng

hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn

cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.

Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-4-

1975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc

triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia

đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh

tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.

Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn

5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ

Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh.

Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.

Chương II: Cải tạo

Sau hai mươi năm chia cắt, lịch sử đã đặt nhiều gia đình miền Nam vào những

tình huống vô cùng nghiệt ngã. Có những gia đình trong khi vui mừng đón đứa con

“nhảy núi” trở về thì đứa con “nguỵ” đang phấp phỏng nằm chờ trên gác; có những

cán bộ cao cấp từ Hà Nội vô mới biết đứa con mà khi tập kết mình để lại đã trở

thành “lính nguỵ”. Dù 175 nghìn khẩu súng các loại đã được giao nộp ngay trong

mấy ngày đầu tiên sau 30-4, nhưng hơn nửa triệu sỹ quan, binh lính Việt Nam Cộng

Hòa tan rã thì vẫn đang nhà ai nấy ở. Tất cả đều căng ra chờ đợi.

Những ngày đầu

Lữ đoàn 203 được lệnh rút về Long Bình lúc 5 giờ chiều ngày 30-4, nhường công

việc chiếm đóng Dinh và bảo vệ Sài Gòn cho Quân đoàn IV. Nhưng, theo ông Bùi

Văn Tùng, gần một trăm chiếc tăng của ông đã không thể di chuyển, vì giờ đó

người dân Sài Gòn bắt đầu đổ ra đường. Sau những giờ phút căng thẳng nhất, như

sợi dây căng hết cỡ đã đứt tung ra, mọi người Việt Nam, kể cả những người lính,

cho dù ở phía nào, đều cảm thấy chiến tranh kết thúc!

Chiến tranh kết thúc. Cái cảm giác ấy, thoạt tiên cũng im ắng như thành phố lúc

vừa thôi tiếng súng, đột nhiên vỡ tung. Dòng người òa ra, tràn ngập đường phố.

Một vài thanh niên, học sinh mạnh dạn tiến vào vườn hoa trước Dinh Độc Lập, sờ

vào những chiếc tăng T54, những chiến xa bấy giờ đã không còn phải bắn, đang

nằm lặng lẽ.

“Việt Cộng” trên những chiếc xe tăng vừa húc đổ cánh cổng cuối cùng, giờ đây,

vừa có cái cảm giác viên mãn của những người chiến thắng, vừa có cái nhẹ nhõm

của những người lính đã bước qua ngưỡng của sự khốc liệt, trở nên độ lượng, hiền

lành. Thái độ này của các “chú bộ đội” đã kéo đoàn người đến với những chiếc T54

đông dần lên. Họ bắt đầu tìm hiểu những khái niệm về “Việt Cộng”, nhiều người

“tiến lên”, hỏi thêm về “miền Bắc”. Chưa ai thực sự biết điều gì sẽ xảy ra cho thành

phố, cho mình, nhưng vẫn thấy nhẹ nhõm và có không ít người còn cảm thấy

mừng.

Đêm 30-4, ở khu vực trường Petrus Ký mất điện một lúc. Một vài chiếc tăng của

Quân Giải phóng được lệnh chạy ra đường để “thị uy”. Sáng 1-5, mới khoảng 7 giờ,

công chức, giáo viên Petrus Ký thấy “Cách mạng” đóng trong trường, lục tục ra

“trình diện”. “Quân quản” lúc bấy giờ ai nấy vẫn còn bận đồ bà ba đen, tỏ ra rất

lúng túng. Ông Kiệt giao cho ông Dương Minh Hồ, cán bộ Văn phòng Thành ủy, đi

kiếm bộ đồ “coi được” ra tiếp các thầy cô giáo.

Ngay trong đêm 30-4, những cán bộ của Đài Phát thanh Giải Phóng từ trên R về

đã tiếp quản Đài Phát thanh Sài Gòn và phát sóng những mệnh lệnh đầu tiên của

Ủy ban Quân quản về trật tự, an ninh, về thu nạp vũ khí chất nổ. Đa số các “lệnh”

đã được ông Hà Phú Thuận, chánh Văn phòng Trung ương Cục, “soạn thảo” theo chỉ

đạo của Đảng Uỷ Đặc biệt từ khi còn ở trên R.

Không chỉ có niềm vui của những người đi từ trong rừng ra. Trong những ngày

đầu, một số quan chức của Chính quyền Sài Gòn cũng nuôi hy vọng. Tiến sỹ

Nguyễn Văn Hảo là một trong số đó. Trưa ngày 30-4-1975, ông Hảo có mặt ở Dinh

Độc Lập vì cho đến khi chiếc tăng 390 cán lên thềm Dinh, Chính phủ của Tổng

thống Dương Văn Minh vẫn chưa kịp nhận bàn giao. Khi ấy, Thủ tướng Nguyễn Bá

Cẩn đã di tản. Ông Hảo, Phó thủ tướng, trở thành người còn lại có cương vị cao

nhất trong Chính quyền Trần Văn Hương.

Trước đó ít hôm, ông Hảo có kêu ông Hồ Ngọc Nhuận. Khi ông Nhuận tới nhà,

ông Hảo bỏ bữa cơm tối, đưa ông Nhuận lên lầu và nói: “Tôi có việc muốn nhờ ông

truyền đạt đến Cách mạng. Một là về mười sáu tấn vàng, người ta nói ông Nguyễn

Văn Thiệu mang đi, nhưng thật sự là tôi đã giữ lại được41. Hai là về nạn thất thoát

chất xám. Tôi đã thuyết phục được một số anh em chuyên viên, trí thức ở lại,

nhưng không xuể. Cách mạng phải làm gì đó, phải nói cái gì đó càng sớm càng tốt”.

Sáng 3-5-1975, Ủy ban Quân quản ra thông báo: “Cuộc tổng tiến công nổi dậy

của quân dân miền Nam ta nhằm đập tan ngụy quyền tay sai Mỹ đã giành được

thắng lợi hoàn toàn. Thành phố Sài Gòn, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch

Hồ Chí Minh vĩ đại, đã hoàn toàn giải phóng. Để nhanh chóng ổn định trật tự an

ninh trong thành phố, xây dựng trật tự cách mạng mới, củng cố và phát huy quyền

làm chủ của nhân dân. Để nhanh chóng khôi phục và ổn định đời sống bình thường

của các giới đồng bào trong thành phố Sài Gòn - Gia Định. Căn cứ quyết định của

Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, chúng tôi xin thông

báo danh sách Uỷ ban Quân Quản thành phố Sài Gòn - Gia Định”.

Ủy ban Quân quản lúc ấy gồm chủ tịch - Thượng tướng Trần Văn Trà, và các

phó chủ tịch - Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Thiếu tướng Hoàng Cầm, Thiếu tướng Trần

Văn Danh và ông Cao Đăng Chiếm.

Khi chiến dịch bắt đầu, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam đã tuyên truyền

về việc sẽ lập ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần”. Tuy nhiên, khi cờ đã

được cắm trên Dinh Độc Lập, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn quyết định dẹp bỏ ý tưởng

này. Ngày 1-5-1975, Tố Hữu đã chuyển “lệnh” tới Trung ương Cục:

“Gửi anh Tám, anh Bảy [Nhờ Trung ương Cục chuyển anh Tám]. Xin báo để các

anh biết: Theo ý kiến anh Ba42, về Chính phủ, không còn vấn đề ba thành phần.

Cấu tạo Chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa và

phải làm cho quần chúng thấy rõ sức mạnh, thế mạnh của cách mạng; ta vừa phát

động quần chúng lại vừa buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược. Chính phủ thể hiện tinh

thần đó phải gồm ta và những người yêu nước, thật sự tán thành lập trường hoà

bình độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc, thống nhất Tổ quốc của ta. Bộ Chính trị chủ

trương đối với những người đã đầu hàng ta như Dương Văn Minh chẳng hạn thì

không bắt, nhưng cần có cách quản lý, giám sát, ta chỉ trừng trị bọn phá hoại hiện

hành… trong khi phát động phong trào quần chúng hành động cách mạng, chú ý

chọn lọc, bồi dưỡng cốt cán trong quần chúng. Để có đủ cán bộ kịp tung ra phát

động quần chúng, nên chọn một số cán bộ của Đảng, đoàn thể và cán bộ quân đội,

huấn luyện ngắn ngày về chính sách, về phương pháp công tác, về kỷ luật. Khi tổ

chức lễ mừng trong cả nước, theo ý kiến Bộ Chính trị, nên có đoàn đại biểu miền

Nam ra dự mít tin ở Hà Nội và có đoàn Miền Bắc vào dự ở Sài Gòn. LÀNH43”.

Ngày 6-5-1975, ông Võ Văn Kiệt đi cắt tóc chuẩn bị lễ ra mắt Ủy Ban Quân

quản. Người thợ cắt tóc thấy một ông đứng tuổi đi xe U-oát tới, trong khi cắt tóc có

bộ đội đứng chờ, tuy không biết rõ ông là ai, nhưng cắt tóc cho ông xong, đã lễ

phép cúi chào, ông trả tiền thế nào cũng không chịu lấy. Xe U-oát của ông Kiệt đi

tới đâu, người dân tránh ra nhường chỗ rộng rãi cho đi. Những xe khác của “Quân

Giải Phóng” cũng được cư xử như vậy.

Nhiều tuần sau đó, “các chú bộ đội” đi xe buýt không phải trả tiền và người dân

bắt đầu làm quen với những chiếc xe quân sự chạy vô đường cấm. Ông Võ Văn Kiệt

nhớ lại: “Lúc đó, uy thế của cách mạng trùm lên tất cả”. Ngay cả những “tên ác

ôn”, kẻ cướp giật, các băng nhóm cũng chỉ lo giữ thân hoặc xem xét, theo dõi.

Nhưng cũng có những người quá hăng hái. Hầu hết đàn ông trong cư xá Ngân

hàng tại An Phú, Thủ Đức nơi ông Huỳnh Bửu Sơn cư ngụ giờ đó đã di tản hoặc bị

đưa đi cải tạo. Một người gác-dan, lâu nay vẫn được gọi là “thằng Vàng”, bỗng dưng

xưng một cái danh rất kêu, nhảy ra nắm lấy chức Trưởng ban Quản trị Cư xá.

Những phụ nữ còn lại trong Cư xá, vốn lâu nay được coi như là các mệnh phụ phu

nhân, không chịu. Họ họp lại và bầu ông Huỳnh Bửu Sơn lên thay. Ông Sơn nhanh

nhảu gửi lên xã báo cáo kết quả ông được bầu chọn là Trưởng Ban. Báo cáo được

đóng dấu từ con dấu mà Cư xá vẫn dùng từ trước.

Lập tức, ông Huỳnh Bửu Sơn bị triệu tập. Ông vừa ngồi xuống ghế, đã có hai bộ

đội xách AK ra hỏi: “Anh biết tội gì không?”. “Dạ không”. “Cách mạng đã giải phóng

rồi mà anh vẫn còn sử dụng con dấu của Ngụy. Tội anh đáng bắn. Nhưng thôi, từ

nay, ông này là Trưởng Ban”. Người bộ đội nói rồi chỉ tay qua ông Vàng, hình như

đã có mặt ở đấy từ trước.

Câu chuyện của ông Huỳnh Bửu Sơn không phải là hy hữu. Ngày 29-6-1975,

một cuộc “đấu tố” với hơn “2000 dân” đã được nhóm họp trước chợ Thanh Đa:

“Đồng bào đã sôi nổi tố cáo những tên Lô trưởng Cư xá, điển hình là Lê Văn Minh,

Trưởng Lô 9, nguyên là một viên chức Ngụy quyền, nay tự xưng là người của Cách

mạng… Phát huy tinh thần làm chủ Cư xá, đồng bào đã yêu cầu chánh quyền loại

bỏ 24 tên lô trưởng phản động do Ngụy quyền để lại”44.

Cuộc cướp chính quyền sớm nhất ở Sài Gòn được nói là đã diễn ra vào lúc 7 giờ

sáng ngày 30-4-1975 tại phường Trần Quang Khải, quận Một. Chi bộ Đảng bí mật ở

đây đã cho vây bót Tân Định, tước vũ khí của những cảnh sát vào giờ ấy chỉ mong

sớm được về với gia đình. Ngay sau khi Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố Bàn

giao chính quyền, ở Quận 11, cờ cũng được cắm trong Dinh Quận trưởng.

Tiến trình “cướp chính quyền” và xây dựng chính quyền thường được bắt đầu

như trường hợp ở phường Cây Bàng: “Khi tiếng súng của quân Giải phóng bắn tới

tấp vào các căn cứ quân sự của địch, nhân dân Phường Cây Bàng đồng lòng nổi dậy

phá kềm, truy quét kẻ địch, giành quyền làm chủ về tay mình và tràn ra đường đón

chờ quân giải phóng. Khi các chiến sĩ ta tiến vào, đồng bào mừng reo, hoan hô

nhiệt liệt. Ngay sau khi dẹp xong giặc, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tự

quản được thành lập. Các tổ chức nhân dân cách mạng cũng được khẩn trương xây

dựng. Đến nay, 2-5, Phường Cây bàng đã thành lập xong Tổ An ninh, Hội Mẹ giải

phóng, Tổ Thông tin Tuyên truyền, Tổ Y tế và Uỷ ban tự quản. Đang xúc tiến thành

lập Tổ Cứu đói và Phòng chống Hoả hoạn”45.

Trước 30-4-1975, tại Sài Gòn có 735 đảng viên tại chỗ. Trung ương Cục bổ sung

thêm 2.820 cán bộ đảng viên từ trong các cơ quan của R về. Nhưng đến cuối tháng

5-1975, số đảng viên đã nhanh chóng tăng lên đến 6.553 người. Những chiến sỹ

cách mạng nằm vùng, những người từ trong các căn cứ kháng chiến ra và các “cán

bộ 30-4”, nhanh chóng nắm giữ các vị trí then chốt của thành phố, kiểm soát Đài

Phát thanh, thành lập báo Sài Gòn Giải Phóng và điều hành một hệ thống đoàn thể

xuyên suốt từ Thành phố cho đến các thôn ấp.

Không chỉ có “Cách mạng 30-4”, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, không ai trong số

những người tiếp quản Sài Gòn năm 1975 có kiến thức về quản lý nhà nước. Mục

tiêu lớn nhất đặt ra trong những ngày đầu là nhanh chóng ổn định trật tự xã hội, ổn

định chủ yếu bằng các giải pháp chính trị. Riêng các cơ sở kinh tế, giáo dục, y tế…

thì dự định từ trong R là sẽ để cho các ngành, chủ yếu từ miền Bắc vào, tiếp quản

những cơ sở có liên quan đến ngành mình.

“Ngụy Quyền”

Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục: “Khi tiếp quản

miền Bắc, cụ Hồ cho lưu dụng hầu hết các viên chức trong bộ máy hành chánh cũ

và bảo lưu mức lương cũ còn cao hơn cả lương chúng tôi. Cụ Hồ còn đảm bảo tính

kế thừa nhà nước bằng cách công nhận hiệu lực tiếp tục của một số sắc luật có từ

thời Pháp. Công việc xây dựng chính quyền mới, vì thế không nặng như khi chúng

tôi làm ở Sài Gòn”.

Hệ thống hành chánh của Sài Gòn bắt đầu được thiết lập quy củ từ thời Tổng

thống Ngô Đình Diệm. Ông Diệm vốn là một quan Thượng thư Triều Nguyễn, nhưng

khi nắm quyền đã thay đổi phương thức tuyển chọn quan lại thông qua các kỳ thi

Hương, thi Hội, thi Đình, bằng việc thành lập trường Quốc Gia Hành Chánh. Trường

Quốc Gia Hành Chánh đào tạo: tham sự, hệ hai năm cho các chức vụ như trưởng

ban, trưởng phòng của các ty; đốc sự, hệ bốn năm cho các chức vụ phó quận,

trưởng ty; và bậc cao học cho các viên chức hành chánh cấp bộ. Cho đến năm

1960, chức tỉnh trưởng thời ông Diệm vẫn là một viên chức chính trị.

Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời, đường lối Cách mạng miền

Nam được xác định là phải bằng “con đường bạo lực”, ông Diệm đáp lại bằng cách

“quân sự hoá bộ máy”, bổ nhiệm các quân nhân đứng đầu cơ quan hành pháp cấp

tỉnh, cấp huyện. Một viên chức từ trường Quốc Gia Hành Chánh ra, đương là quận

trưởng, nếu muốn tiếp tục, phải ra Nha Trang học một khóa quân sự sáu tháng.

Ngược lại, một thiếu tá tiểu đoàn trưởng có năng lực có thể được bổ nhiệm quận

trưởng sau khi trải qua một lớp về bộ binh cao cấp và một lớp sáu tháng về khoa

học hành chánh, và sau đó về thực tập sáu tháng dưới quyền một viên phó quận

trước khi được bổ nhiệm làm quận trưởng.

Tuy nhiên, hành chánh vẫn được coi là một vấn đề cực kỳ chuyên môn, nên dưới

thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã có những trì trệ trong việc xử lý nhu cầu

hành chánh cho dân, bởi các vị quận trưởng quan tâm đến quân sự hơn. Thủ tướng

đã cùng với Bộ Nội vụ ký một hướng dẫn, theo đó, các tỉnh trưởng, quận trưởng

phải ủy quyền bắt buộc cho cấp phó. Dưới chế độ Sài Gòn, cấp tỉnh, cấp quận chỉ

có một cấp phó và người này phải là đốc sự tốt nghiệp từ Quốc Gia Hành Chánh ra.

Ở cấp phường xã, tuy không đòi hỏi phải tốt nghiệp từ trường này, nhưng một

xã trưởng, ấp trưởng sau khi được bầu hay một trưởng phường sau khi được bổ

nhiệm đều phải đi học sáu tháng ở Trường Đào tạo Cán bộ Xã Ấp. Tổng Thống

Nguyễn Văn Thiệu đánh giá cao vai trò của cán bộ phường xã tới mức ông thường

xuyên có mặt trong lễ khai giảng và bế giảng các lớp học này và nói với các học

viên: “Tôi là tổng thống trung ương, các anh là tổng thống địa phương”.

Tuy nhiên, “Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà từ Trung ương tới địa phương”

trước khi có tuyên bố của Đại tướng Dương Văn Minh đã bắt đầu “tan rã”. Khoảng

gần 200 nghìn người có quan hệ với người Mỹ hoặc đang làm việc trong bộ máy

chính quyền cũ đã kịp thời “di tản” trong vài tuần lễ trước “30-4”. Số còn lại gần

như cũng đã ý thức được tình thế của mình, tự động “bỏ trống nhiệm sở”. Nhưng

cho dù họ có ở lại, thì với mục tiêu của cuộc chiến tranh kể từ sau Hiệp định Paris là

“đập tan bộ máy của chính quyền tay sai”, việc những người chiến thắng sử dụng

chuyên môn của những viên chức có trình độ cao trong bộ máy Sài Gòn là điều khó

xảy ra.

Công Điện ngày 18-4-1975 của Ban Bí thư xác định đối tượng làm việc trong

chính quyền cũ được lưu dụng: “Ta cần có chính sách mạnh dạn sử dụng những

người thật thà phục vụ cách mạng, nhất là công nhân, lao động, cán bộ kỹ thuật,

trừ những phần tử thù địch, bọn mật vụ, bọn phá hoại hiện hành…”. Theo Chỉ thị

ngày 19-4-1975, cũng của Ban Bí thư, với cấp nhân viên, sau khi “được giáo dục”

tại phường, xã: “a, Đối với những tên thật thà hối cải thì tạo điều kiện cho họ tiến

bộ, lập công chuộc tội; b, Đối với số cảnh sát, cứu hoả thì có thể sử dụng, trừ bọn

ác ôn phản động và ta phải đưa cán bộ cốt cán vào để quản lý giáo dục…”. Từ cấp

quận phó trở lên, và hầu hết các chỉ huy cảnh sát từ cấp đội trở lên… đều thuộc

diện đưa đi tập trung cải tạo dài hạn.

Một “đồng chí” được giới thiệu là “trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền” đã từng

công khai tuyên bố: “Việc học tập cải tạo đối với công chức, nhân viên nguỵ quyền

sẽ phải công phu và gian khổ về tinh thần hơn so với nguỵ quân vì công chức cao

cấp nguỵ quyền là những người trực tiếp hoặc tham gia tích cực vào bộ máy kềm

kẹp nhân dân. Họ được huấn luyện kỹ càng do đó, ảnh hưởng chế độ cũ về mặt

nhận thức và tư tưởng khá sâu”46.

Sau ngày “giải phóng”, các chủ trương của nhà nước cũng chủ yếu được vận

hành thông qua các phong trào chính trị, cho dù có sử dụng “ngụy quyền” lưu dụng

thì kiến thức chuyên môn của họ cũng không biết để làm gì. Chưa kể, trong con

mắt của chính quyền, theo “đồng chí Trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền”: “Họ

được huấn luyện kỹ càng để tham gia tích cực vào bộ máy kìm kẹp nhân dân”47.

“Ngụy Quân”

Một tuần sau, ngày 5-5-1975, Ủy Ban Quân quản Sài Gòn ban bố: “Mệnh lệnh

số 1 về việc ra trình diện, đăng ký và nộp vũ khí của sĩ quan, binh lính, cảnh sát, và

nhân viên ngụy quyền: Điều I: Tất cả các sĩ quan, binh lính, cảnh sát, tình báo mật

vụ, nhân viên ngụy quyền trong thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định đều phải ra

trình diện và đăng ký. Thời hạn bắt đầu từ ngày 8-5-1975 cho đến ngày 31-5-1975

là ngày cuối cùng. Điều II: Cấp tướng và tá trình diện và đăng ký tại số nhà 213

Đại lộ Hồng Bàng, cấp uý trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách mạng

quận, cấp hạ sĩ và binh lính trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách mạng

phường. Cảnh sát, công an tình báo mật vụ trình diện và đăng ký tại trụ sở Ban an

ninh nội chính thuộc Ủy ban Quân Qủan thành phố Sài Gòn. Nhân viên công chức

làm việc tại nhiệm sở nào trình diện và đăng ký tại nhiệm sở nấy. Điều III: Khi ra

trình diện và đăng ký nhất thiết phải mang nộp chứng minh thư, các loại giấy tờ cá

nhân, tất cả vũ khí, trang bị, hồ sơ tài liệu, phương tiện, ngân quỹ… Điều IV: Người

nào, nhà nào, tập thể nào, cơ sở nào có giữ vũ ,khí chất nổ và các phương tiện, khí

tài thông tin đều phải tới khai và nộp tất cả. Điều V: Mệnh lệnh này phải được triệt

để chấp hành đến 24 giờ ngày 31 (ba mươi mốt) tháng 5 (năm) năm 1975, những

người không ra trình diện cố tình lẩn trốn sẽ bị nghiêm trị, những người đã ra trình

diện, đăng ký nhưng còn khai gian, giấu diếm võ khí tài liệu, phương tiện nghĩa là

chưa thành thật, sau này phát hiện ra thì xem như chưa tuân lệnh, người nào đăng

nạp vũ khí, tài liệu, khí tài vật tư quý giá và phát hiện nhiều vấn đề có giá trị khác

sẽ được xem xét khen thưởng xứng đáng. Tất cả những người đã ra trình diện đăng

ký tạm thời trước khi có lịch này đều phải làm đăng ký chánh thức lại theo mệnh

lệnh này. Sài Gòn, ngày 5-5-1975/Thay mặt Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn-

Gia Định/Chủ tịch/Thượng tướng TRẦN VĂN TRÀ.”

Việc ra trình diện không kéo quá dài như dự kiến. Chỉ trong vòng năm ngày, đã

có 23 viên tướng có mặt tại Sài Gòn tự động đến Trung tâm Dự bị Viện Đại học Sài

Gòn: Tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3; Tướng trẻ Trần Quốc Lịch, 40 tuổi, tư

lệnh Sư 5; Tướng Phan Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động Quân khu II; Tướng Hồ

Trung Hậu, nguyên phó tư lệnh Sư Đoàn Dù… Nhưng chủ yếu là những viên tướng

đã nghỉ hưu từ trước: Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu tướng Nguyễn Thanh

Sằng, Trung tướng Lê Văn Nghiêm… Cũng có những người đã thôi chức từ rất lâu

như Trung tướng Lê Văn Kim, về hưu từ năm 1964; Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ,

nguyên Tổng trưởng Quốc phòng, về hưu từ năm 1972; Thiếu tướng Lâm Văn Phát,

người từng bị Sài Gòn kết án tử hình vắng mặt từ năm 1965…

Trong thời điểm khắc nghiệt nhất của chế độ Sài Gòn, những người “ngoan cố”

đã ra đi hoặc đã tuẫn tiết như Tướng Lê Văn Hưng, phó tư lệnh; Tướng Nguyễn

Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV và một số tỉnh trưởng Miền Tây khác. Những

người còn lại ở lại và chấp nhận những gì sẽ đến với mình48.

Ở Sài Gòn, 443.360 người ra trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng,

362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sỹ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát,

1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền,

9.306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4.162

người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sỹ quan cấp tá.

Gần một tháng sau sau Lệnh Trình diện, ngày 10-6-1975, Uỷ Ban Quân quản ra

thông cáo “Về việc Học tập Cải tạo Sỹ quan, Hạ sỹ quan, Binh lính và Nhân viên

Quân đội Ngụy, Tình báo, Cảnh sát và Ngụy quyền đã trình diện đăng ký”. Theo đó:

Tất cả hạ sỹ quan binh lính và nhân viên quân đội Nguỵ thuộc các quân binh chủng

tại Sài Gòn-Gia Định, tình báo cảnh sát và nhân viên Nguỵ quyền quận, phường,

khóm, xã, ấp đã trình diện đăng ký phải đi học tập cải tạo trong ba ngày kể từ ngày

11-6-1975 đến ngày 13-6-1975. Nhân viên Nguỵ quyền từ trưởng phó phòng trở

xuống thuộc các phủ, bộ, vụ, viện, nha, sở, ty… đã đăng ký đi học tập từ ngày 18

đến ngày 20-6-1975. Thời gian học tập liên tục từ 7 giờ đến 16 giờ [giờ Đông

Dương] trưa nghỉ một giờ. Người đi học tự mang thức ăn trưa và chiều, sau khi học,

về nhà nghỉ. Lệnh học tập này phải được tuyệt đối chấp hành ai không đi học tập

cải tạo đúng thời hạn coi như phạm pháp.

Cũng trong ngày hôm ấy, lệnh học tập cải tạo được thông báo đến các sỹ quan

theo đó, “sỹ quan quân đội Nguỵ, cảnh sát, tình báo biệt phái từ thiếu uý đến đại

uý” được hướng dẫn: “Phải mang giấy bút, quần áo, mùng màn, các vật dụng cá

nhân, lương thực, thực phẩm [bằng tiền hoặc hiện vật] đủ dùng trong mười ngày kể

từ ngày đến tập trung”. “Sỹ quan cấp tướng, tá”, được hướng dẫn mang theo “thực

phẩm, lương thực đủ dùng trong một tháng”.

Từ ngày 11-6, tất cả hạ sỹ quan binh lính đã đến các địa điểm trong Thành phố

học tập và họ cảm thấy yên tâm khi thời gian học tập chỉ có ba ngày, đúng như

thông báo và cách tiến hành thì mang tính “học tập” nhiều hơn là “cải tạo”. Báo chí

bắt đầu được sử dụng để trấn an những sỹ quan còn có chút băn khoăn lo lắng

trong lòng.

Bài xã luận “Tiếp tục cải tạo để trở thành người công dân chân chính” đăng trên

báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 17-6-1975 viết: “Đợt học tập cải tạo của binh lính, hạ

sỹ quan nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền mở ra đã được mấy ngày. Trong các

thu hoạch của các học viên, có một điểm chung làm mọi người chú ý: hầu hết đều

phát biểu thừa nhận mình trước kia dù làm bất cứ việc gì trong bộ máy nguỵ quân,

nguỵ quyền, đều là những người có tội với nhân dân, với cách mạng. Họ đều hứa sẽ

tự cải tạo mình thành những con người tốt. Cuộc học tập này đã làm cho phần lớn

binh sỹ nguỵ biết phân biệt ai là địch, ai là ta. Sự phân biệt này rất quan trọng. So

với trước khi học đây là một bước tiến bộ đầu tiên của binh lính nguỵ quân và nhân

viên nguỵ quyền. Nhưng cũng chỉ là một bước tiến đầu tiên mà thôi. Phân biệt được

địch, ta, hứa phấn đấu để trở thành người tốt, mới chỉ là tiến bộ về mặt nhận thức,

mới chỉ là sự bày tỏ thái độ. Họ có thật sự tiến bộ hay không? Thái độ của họ có

thành thật hay không? Hay giả vờ tiến bộ, giả vờ hứa hẹn cốt cho qua cửa ải này,

rồi trà trộn vào cộng đồng dân tộc với những tư tưởng thù địch với dân tộc? Đối với

những con người đã từng bị giặc Mỹ nhồi nhét những tư tưởng xấu xa, ý thức chống

nhân dân, chống cách mạng trong suốt hai mươi năm qua thì làm sao họ có thể gột

rửa hết trong ba ngày học tập? Vì vậy, cách mạng tạo cho họ điều kiện để chứng

minh sự tiến bộ của mình bằng hành động. Nhân dân ta đã có kinh nghiệm: đánh

giá một con người phải căn cứ trên hành động của họ. Ta giáo dục họ những tư

tưởng đúng, là cốt để họ làm đúng chứ không chỉ để nói đúng mà thôi”.

Một bài báo khác dẫn lời anh Trần Văn Lành, một trung sỹ quân nhu, nói: “Trước

khi đi học tập, tôi đã tưởng là sẽ bị ngược đãi, bị hạ nhục và có thể bị đánh đập

nữa”49. Nhưng, “điều đó đã không xảy ra” và sau học tập, anh Lành đã được cấp

“Giấy công nhận hoàn thành học tập cải tạo” - tờ giấy có giá trị công nhận những

người “lính Ngụy” bắt đầu được “trở lại làm người” trong chế độ mới. Một người

khác, được giới thiệu là “Binh nhất Lê Công Đắc”, thì cho rằng: “Qua cuộc học tập

này, chính quyền cách mạng đã dắt chúng tôi ra khỏi nơi tối tăm, đưa chúng tôi về

với nẻo chính nghĩa”50. Những phát biểu này được các sỹ quan theo dõi sát và khi

thấy sau “ba ngày học tập” binh lính được trở về nhà, thấy “cách mạng đã làm

những gì cách mạng nói”, các sỹ quan đã yên tâm hơn.

Không ai biết rằng, từ ngày 18-4-1975, Chỉ thị 218/CT-TW của Ban Bí thư đã

quy định: “Đối với sỹ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục và

lao động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải

quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sỹ quan] mà ta

cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh

giác và phải quản lý chặt chẽ, sau này tuỳ theo yêu cầu của ta và tuỳ theo sự tiến

bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội. Đối

với những phần tử ác ôn, tình báo an ninh quân đội, sỹ quan tâm lý, bình định

chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sỹ quan

hay sỹ quan đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và

quản lý chặt chẽ”51.

Ở nhiều địa phương, một số “tên ác ôn đầu sỏ” đã được “xử lý” ngay và chỉ vài

ngày sau 30-4, các sỹ quan gần như đã được đưa đi cải tạo. Tuy nhiên, Sài Gòn, nơi

tập trung gần nửa triệu sỹ quan và binh lính chế độ cũ, nơi tập trung sự chú ý của

dư luận trong và ngoài nước, nên mọi quyết định đều được Trung ương Cục và

Đảng ủy Đặc biệt bàn bạc lên kế hoạch.

Ngay trong phòng làm việc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung ương Cục

đã bàn cách đưa các sỹ quan của ông đi “cải tạo lâu dài”. Kế hoạch được gọi là

Chiến dịch X-1. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: Việc công bố ba mức thời gian học tập

- hạ sỹ quan binh lính, ba ngày; cấp úy, mười ngày; tướng, tá, một tháng - là có ý

để cho các đội tượng ngầm hiểu rằng, thời gian học tập tối đa của các sỹ quan chỉ

là một tháng.

Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, năm ấy là một sỹ quan biệt phái với quân hàm

đại úy, thuộc diện “học tập mười ngày” viết: “Hầu hết đều bình thản đến cổng, xin

vào. Có người cưng con gái đi theo đỡ đần con rể. Có người thuộc diện “ba ngày”

tiễn đưa bạn, ngồi quán nhậu ngà ngà cũng theo bạn vào cổng cho vui. Có người

giải ngũ nằn nì xin ‘đi học để có cái giấy về dễ làm ăn’. Nhưng, qua con ngựa sắt là

dòng sông không trở lại”52.

Nơi tập trung của ông Tạ Chí Đại Trường là một trường học, ông viết: “Sáng 23-

6-1975, tôi đi vòng giã từ phố phường rồi cầm khúc bánh mì đến công trường

Taberd. Mười giờ 30 sáng. Hai viên sỹ quan cầm súng lặng lẽ chỉ lối vào. Ngoài

đường vắng, cổng trường kín chỉ chừa chỗ lách, không thể biết bên trong có gì”53.

Những “sỹ quan cấp úy” ấy đã bình thản đến guichet (quầy) nộp “tiền ăn mười

ngày”, lấy biên lai… cho đến khi vào hành lang, cán bộ tới ra lệnh bỏ đồ kim khí ra,

mới thấy có “cái gì nặng nề lảng vảng”, rồi khi “trời càng về khuya, mưa tầm tã” thì

“bắt đầu mới rùng mình”.

Đại úy Tạ Chí Đại Trường viết: “Tôi mang mùng giăng trên tầng gác hội trường

nhưng không ngủ được. Từ trên gác nhìn ra bóng tối nhiều hơn ánh sáng… Ánh đèn

pha trải dài trên sân nước. Một vài người lính đi lại mang B40 lắp đầu đạn khiến cái

bóng càng dài ra”54. Tối 25-6, Đại úy Trường cùng các chiến hữu nhận được lệnh di

chuyển, “Có người dẫn ra đường. Vắng ngắt. Xe đậu dài ngút”. Rồi, thay vì “học tập

mười ngày”, ông thầy dạy sử Tạ Chí Đại Trường đã phải trải qua các trại từ hôm ấy

cho đến tháng 6-1981.

Mười ngày, một tháng qua nhanh. Không ai nhận được bất cứ tin tức gì liên quan

đến những người thân bị đưa đi học tập. Rồi đột nhiên, một sỹ quan được tha về,

người đó là Cựu Tổng trưởng Quốc phòng, tướng Nguyễn Văn Vỹ.

Vừa ra khỏi trại, Tướng Vỹ phát biểu: “Chúng tôi ăn còn ngon hơn bộ đội. Tôi

mong những người có thân nhân đi học tập cải tạo hãy yên lòng và tin tưởng Cách

mạng, đừng tin ở những lời đồn vô căn cứ”55. Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người mà

ngay hôm đầu ra trình diện đã phát biểu: “Tôi hiểu rõ quân đội trong này lắm, tệ

lắm, xấu lắm; và mấy ngày hôm nay thấy rõ bộ đội Cách mạng rất kỷ luật, chững

chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị mất mát gì hết.

Cách mạng vào yên ổn, thanh bình ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng”56.

Ở thời điểm Tướng Vỹ phát ngôn trên báo, dân chúng không cần phải nghe tin

đồn, chồng con họ bặt vô âm tín đã hơn ba tháng cho dù “Cách mạng nói” sĩ quan

cấp úy chỉ đi học tập “mười ngày”, cấp tá chỉ đi “một tháng”. Tuy nhiên, đấy cũng

chưa phải là thời điểm mà những người ở nhà hay ở bên trong hàng rào dây kẽm

gai tuyệt vọng. Chính quyền biết điều đó và Tướng Vỹ được tha để nói những lời có

giá trị trấn an. Đồng thời, “các sỹ quan và nhân viên ngụy quyền” bắt đầu được

phép và được động viên viết thư về nhà.

Đầu tháng Bảy, báo Giải Phóng, tờ báo trong R của Mặt trận Dân tộc Giải phóng

Miền Nam, cho đăng lá thư của ông Trần Văn Tức “nguyên là đại úy cảnh sát ở Côn

Sơn”, gửi vợ là bà “Nguyễn Bích Thủy, ở số 52-54 Nguyễn Khắc, Sài Gòn 2”. Khi

cho đăng lá thư, tờ Giải Phóng nói rõ là “để bạn đọc hiểu thêm cuộc sống hiện nay

của các sĩ quan (trong quân đội ngụy trước đây) đang học tập cải tạo”57. Thông điệp

mà Chính quyền muốn gửi qua bức thư này được lồng vào một cách vụng về: “À, ở

thư trước anh quên dặn em là đừng tin lời đồn nhảm của bọn phản động của bọn

ngụy tuyên truyền làm cho em và ba má ở nhà hoang mang lo sợ. Nếu người nào

nói xuyên tạc đó là bọn lưu manh thừa dịp để làm tiền hoặc bọn ngụy phản cách

mạng, em nên đến chánh quyền cách mạng tố cáo họ. Anh cố gắng học tập cải tạo

tốt để chánh phủ cách mạng khoan hồng cho những đứa con lạc lối được thành

người công dân chân chính và sớm về đoàn tụ với gia đình tăng gia sản xuất”58.

Hơn một tháng sau, tờ Tin Sáng có bài phỏng vấn bà “LQL”, người vừa trở lại Sài

Gòn sau chuyến thăm chồng là “Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân

Lục Chiến Ngụy”. Tờ Tin Sáng không nói rõ chị L thăm chồng ở trại nào và chồng

chị là ai, chỉ giới thiệu: “Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của ông đã bị tên tướng ngụy

Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7

đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27-3 vừa qua”. Câu chuyện ở trại cải tạo được

tờ Tin Sáng dẫn dắt cho thấy không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại

hè59. Bài phỏng vấn kết thúc bằng lời dặn dò của người chồng: “Em yên trí về lo

làm ăn, ở đây em khỏi lo hai thứ rượu và gái, đã làm hai đứa thường mất hạnh

phúc như trước kia. Cuộc sống ở đây rất điều hòa và lành mạnh như em đã thấy,

chắc chắn bọn anh sẽ khá hơn trước”.

Người phỏng vấn, phóng viên Phan Bảo An, sử dụng những ngôn từ như “tên

tướng ngụy…”, khiến người đọc có cảm giác nó được viết bởi một cán bộ tuyên huấn

từ “R” về hoặc từ Bắc vào. Nhưng Phan Bảo An là bút danh của ông Phan Xuân Huy,

một cựu dân biểu Sài Gòn. Ông Phan Xuân Huy nói rằng cuộc phỏng vấn ông thực

hiện được là tình cờ chứ không phải do Chính quyền sắp xếp60; tuy nhiên, về sau

ông mới phát hiện ra “người vợ” là con của một gia đình Cách mạng.

Cho đến tháng 9-1975, chỉ những người có nhân thân rất đặc biệt mới có thể

vào trại thăm thân nhân. Lá thư của “ông Trần Văn Tức gửi vợ là bà Nguyễn Bích

Thủy” trùng hợp với thời gian mà ở các trại cải tạo, “ngụy quân, ngụy quyền” được

yêu cầu viết thư về nhà. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thời gian này đang cải tạo ở

Trảng Lớn, Tây Ninh, kể: “Thư hàng tháng được coi như là một ân huệ của Nhà

nước ban cho người có tội phải cải tạo,‘dựa trên ý thức truyền thống thông cảm với

tình gia đình đậm đà của người dân Việt Nam’… Thư gửi được quản giáo kiểm duyệt.

Nội dung thư cứ phải nói ‘học tập tốt, lao động tốt’ và phải động viên gia đình”61.

“Đoàn tụ”

Có lẽ không mấy gia đình ở miền Nam không đồng thời có người thân vừa ở phía

bên này vừa ở phía bên kia. Và có lẽ không có ở đâu, ý thức hệ lại chia cách tình

thân đến thế. Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam Tổng Phát hành, có cậu ruột là một

cán bộ cộng sản nổi tiếng, ông Mai Văn Bộ, nhưng vẫn không thoát vòng lao lý. Ở

đề lao Gia Định, ông Bộ có vào thăm nhưng người cháu đang bị liệt vẫn tiếp tục bị

giam cầm.

Nhà văn Doãn Quốc Sĩ là con rể của nhà thơ Tú Mỡ - người có tác phẩm được

miền Bắc đưa vào sách giáo khoa phổ thông - nhưng vẫn phải đi tù. Doãn Quốc Sĩ

bị tù tổng cộng mười bốn năm, trong thời gian đó ông không được gặp mặt bố mẹ

đang sống ở Hà Nội, thậm chí không được gặp cả người anh ruột Doãn Nho là một

nhạc sĩ con cưng chế độ.

Trung tá Phan Lạc Phúc62 cũng có cùng hoàn cảnh như nhà văn Doãn Quốc Sĩ.

Ông Phúc có một người em ruột là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, năm 1962 tham gia

đảo chính bất thành, đi theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Nhưng sau

năm 1975, ông Phan Lạc Phúc vẫn phải chịu hơn mười năm cải tạo.

Đại úy Dù Phan Nhật Nam63 có cha là ông Phan Văn Trình, vốn là một sỹ quan

tình báo được Việt Minh đánh vào Sở Mật thám Liên bang Đông Pháp. Ngày 2-9-

1950, ông Trình đã lập công bằng cách lấy hồ sơ của Sở Mật thám mang ra Việt

Bắc. Nhưng, như số phận của nhiều nhà tình báo khác, ông Phan Văn Trình đã

không được tin dùng. Ông chỉ là một cán bộ nhỏ công tác ở Hải Phòng và sau năm

1975 về Nam chỉ nhận được chức phó chủ tịch một phường ở Sài Gòn. Đại úy Phan

Nhật Nam biết trước là không thể nhờ vả được gì vào bố mình. Bởi chính ông, năm

1973, đã từng gây khó khăn cho bố64.

Theo ông Phan Nhật Nam: “Năm 1981, ở Mỹ, khi Mặt trận Hoàng Cơ Minh trao

giải cho cuốn sách của tôi, Tù binh và Hòa bình, ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa, từ

ngày 7-9-1981, tôi bắt đầu bị cùm trong phòng biệt giam. Trong hoàn cảnh đó,

ngày 8-5-1985, khi ba tôi lên thăm, ông vất vả ra Hà Nội chờ xin giấy thăm nuôi tôi

ở Cục Quản lý trại giam, thay vì có thể xin ở trại như các tù nhân khác. Cuộc thăm

nuôi lại chỉ được diễn ra trong vòng mười lăm phút. Cho dù đó là lần đầu tiên gặp

nhau sau hơn ba mươi năm, tôi vẫn nói với ông: Ba vất vả quá, thôi đừng thăm

nuôi nữa, đợi khi ra tù, con về”65.

Cũng có không ít quan chức Cách mạng thay vì bảo lãnh, đã vận động ngay

chính những người trong gia đình mình đi “học tập”. Có người muốn chứng minh với

Đảng sự “chí công vô tư”. Có người tin là cần thiết đối với người thân của họ.

Thiếu úy Việt Nam Cộng Hòa Lưu Đình Triều có ba mẹ là cán bộ cao cấp của

Cách mạng. Năm 1954, lúc Lưu Đình Triều một tuổi, chị gái Triều ba tuổi, anh đã

được ba mẹ để lại cho bà ngoại để đi tập kết. Trong suốt hơn hai mươi năm, hai chị

em Lưu Đình Triều đã lớn lên như những đứa trẻ mồ côi trong khi ba mẹ mình sống

ở Hà Nội trong một phần căn biệt thự trên đường Điện Biên Phủ với sổ mua hàng

“Tôn Đản”. Ba anh là ông Lưu Quý Kỳ, vụ trưởng Báo chí Ban Tuyên huấn Trung

ương kiêm tổng thư ký Hội Nhà báo. Còn anh, năm 1972, khi Chính quyền Sài Gòn

tạm đóng cửa các trường đại học và hạ bớt tuổi hoãn quân dịch của sinh viên, như

nhiều sinh viên khác, Lưu Đình Triều bị động viên vào lính.

Năm 1975, ông Lưu Quý Kỳ trở về, Lưu Đình Triều nhớ lại: “Bao lần tôi đã nằm

tưởng tượng ra cảnh hội ngộ này và nghĩ rằng lúc ấy tôi sẽ hét vang cái tiếng gọi

mà tôi đã thèm khát hàng chục năm trời: Ba ơi! Má ơi!”. Nhưng, ngay trong ngày

gặp lại, Lưu Đình Triều đã cảm nhận được một “hố sâu thực sự”.

Lúc đó, do tình hình đi lại khó khăn, ông Lưu Quý Kỳ về Nam trước, vợ và con

ông, những người sinh ra ở Hà Nội, đã gửi gắm tình cảm vào chiếc máy ghi âm mà

ông Kỳ mang theo. Cô em gái Triều sau khi thăm hỏi anh chị, hồn nhiên hỏi: “Từ

hôm giải phóng tới giờ anh chị biết bài hát nào mới chưa. Em và con Thảo, con chú

Tân, hay hát lắm. Để bọn em hát cho anh chị nghe nhé”. Rồi hai cô gái Hà Nội cất

giọng lanh lảnh hát trong máy ghi âm: Sài Gòn đó, quê ta ơi / Trong biển lửa vẫn

ngời ngời / Ta đi như sóng căm hờn dâng trào / Xô lên trên xác quân thù hung

bạo / Giành một mùa xuân tươi sáng khắp miền Nam…

Lưu Đình Triều viết: “Khi nghe tới đó, tim tôi như thắt lại. Một ‘quân thù’ đang

đứng cạnh ba đây. Ba có biết không? Có căm hờn nó không? Từ giờ phút đó, niềm

vui hội ngộ trong tôi giảm hẳn. Chỉ có nỗi lo âu, thắc thỏm là mới dâng trào”.

Vài tháng sau, Lưu Đình Triều vẫn phải đi cải tạo. Trong thời gian ở trại, Lưu

Đình Triều kể: “Ban ngày chúng tôi phải học lý luận, ban đêm học hát những bài

như Bão Nổi Lên Rồi, Rầm Rập bước Chân Ta Đi Trên Đường Phố Sài Gòn… Sau khi

được “lên lớp” về Truyền thống Chống Ngoại xâm, Đường lối Sáng suốt của Đảng

Ta, Cuộc Chiến tranh Chính nghĩa, Chính sách Khoan hồng của Chính phủ Cách

mạng…, các trại viên phải tập trung thảo luận, theo hướng: phải phân tích được âm

mưu của Mỹ - Ngụy; phải nhận ra Ngụy quyền không chính nghĩa, chỉ có Cách

mạng mới chính nghĩa. Học xong lại phải “soi rọi bản thân”, kể ra những tội lỗi của

mình, mỗi người phải nghĩ cho ra một điều phi nghĩa của Quân đội Việt Nam Cộng

hòa”.

Lưu Đình Triều nói: “Tôi dẫn chuyện lính Sư 7 hành quân bắt gà, bắt heo của

dân. Có người là lính tài vụ, cả đời chỉ đi phát lương, với mong muốn được Chính

phủ khoan hồng, đã nhận phát lương cũng coi như tạo điều kiện cho lính đi càn

quấy. Có người than, tao nghĩ không ra tội, chúng mày ạ”.

Từ tháng thứ ba, Triều kể: “Mỗi tháng, trại viên được thăm nuôi một lần. Trong

số những người thăm nuôi có người quê Biên Hòa, tôi nhắn chị tôi đi thăm. Hóa ra,

khi ấy chị tôi đang đi Hà Nội. Khi chị tôi về, lên trại đúng lúc trại cấm thăm nuôi vì

một sự cố do trại viên gây ra. Tôi nhìn thấy chị tôi, khoát tay bảo về nhưng chị tôi

cứ đứng bên kia đường không chịu. Một người quản giáo tốt bụng tới vỗ vai, nói: ‘Đi

theo tôi’. Đi ra, vệ binh chặn lại; nhưng người quản giáo can thiệp. Hai chị em nhìn

nhau khóc, khiến người quản giáo cũng khóc”.

Chỉ huy trại khi ấy cũng biết Lưu Đình Triều là con cán bộ cao cấp nên chủ động

gửi thư cho ông Lưu Quý Kỳ, nói: “Chúng tôi biết anh, nếu được, anh lên trại chúng

ta nói chuyện về cháu”. Ông Lưu Quý Kỳ có lên nhưng thay vì gặp con và bảo lãnh,

ông chỉ viết thư khuyên “con cố gắng học tập tốt”. Lưu Đình Triều nhớ lại: “Tôi vừa

đọc thư ba tôi vừa xé và vừa cay đắng khóc”.

Có những quan chức Cách mạng không bảo lãnh cho con cháu của mình bởi họ

tin rằng những đứa con, đứa cháu lầm đường của họ cần có thời gian cải tạo. Có

những quan chức cẩn trọng biết rằng tờ bảo lãnh đôi khi sẽ là một trong những cái

cớ để khi cần, các đồng chí của mình đem ra “xử lý”. Ông Trần Quốc Hương nguyên

là một nhà chỉ huy tình báo, từng là cấp trên của “ông cố vấn” Vũ Ngọc Nhạ và

“trưởng văn phòng báo Time” Phạm Xuân Ẩn. Năm 1950, ông Hương “đánh” từ Hà

Nội vào Nam một cán bộ tình báo có tên là Từ Câu. Vì hoạt động trong lòng chế độ

Sài Gòn nên con cái của ông Từ Câu cũng phải đi lính như những gia đình khác. Sau

1975, họ cũng phải đi “học tập”. Khi ông Từ Câu mất, các con ông - thiếu úy Từ

Dũng và thiếu úy Từ Tuấn - đang bị cải tạo ở Minh Hải, gia đình có đơn xin cho con

về để tang cha. Ông Mười Hương phê đơn, chuyển Giám đốc Công an, xin cho họ

“được về để tang rồi vào trại lại”. Trước Đại hội V, ông Trần Quốc Hương66 bị tố cáo

“bốn vấn đề”, trong đó, “một đồng chí trong tiểu ban bảo vệ Đảng” tố ông đã can

thiệp cho “hai thiếu úy Ngụy ra khỏi trại giam”.

“Phản động”

Một diễn biến khác, xuất hiện ngay từ những ngày Trung ương Cục nhóm họp để

triển khai “Chiến dịch X-1, X-2”, được quan tâm đặc biệt vì liên quan đến an ninh

chính trị. Ngày 3-9-1975, Trung ương Cục được báo cáo:

“Bọn chánh quyền cơ sở đi tập trung rất ít. Bọn Tuyên úy cũng đi rất ít. Cảnh sát

đặc biệt, dự kiến đi 1.500, nhưng chúng tập trung đến 2.460 tên. Nhưng, dự kiến

trên 1.000 tuyên úy chỉ đi 2 tên; dự kiến trên 150 tên chiến tranh tâm lý, đi 46 tên;

dự kiến 500 cảnh sát đã chiến chỉ đi 190 tên; Quân cảnh đi 140 tên; Tình báo dự

kiến 1000 chỉ đi 142 tên; Biệt kích 1000 chỉ đi 64 tên; Chiêu hồi dự kiến 300 chỉ đi

130 tên; Bình Định dự kiến 1500 chỉ đi 55 tên; Dự kiến đợt I, (đối tượng này) là

10.200 nhưng chỉ đi 4.800 tên; còn lại tên 5000; ta tổ chức bắt trên 400 tên; bọn

cơ sở, tình báo, quân báo tại chỗ dự kiến 3 vạn mới làm được 8.290 tên. Theo báo

cáo thì việc tổ chức học tập là tốt. Hội nghị chủ trương: Đối với bọn tuyên úy công

giáo, phật giáo và tin lành giáo, Ban Mặt trận Thành mới tới nói chuyện động viên

khuyến khích đi học; các tôn giáo trở về phải có ý kiến với từng người để họ đi học.

Sau cuộc nói chuyện sẽ tổ chức bắt nếu họ không chịu đi trình diện. Đối với biệt

kích, gia hạn đăng ký một thời gian; đề cao bọn ra trình diện; kêu gọi gia đình động

viên con em họ đi học sau đó tổ chức truy bắt”67.

Chính sách cải tạo cũng đã đi vào lịch sử Tòa thánh Vatican từ ngày 15-8-1975,

khi Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận được mời tới Dinh Độc Lập, tại đây ông bị bắt

giữ và trong ngày hôm ấy được di lý ra trại giam Cây Vông, Phú Khánh.

Việc Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận, người gọi ông Ngô Đình

Diệm là cậu ruột, làm giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn vào ngày 25-4-1975

(chỉ chưa đầy một tuần trước khi “giải phóng”) đã làm cho Cách mạng lo lắng. Bản

thân nội bộ công giáo cũng có những hoạt động được cho là “mờ ám”; một số linh

mục được coi là “cấp tiến” đã ám chỉ các tín hữu của Đức Cha Thuận là “phản

động”. Ngày 13-5-1975, một nhóm sinh viên công giáo đã đột nhập vào Tòa Tổng

Giám mục đòi Đức Cha Thuận phải từ chức. Ngày hôm sau, 14-5, chính họ lại cũng

đột nhập vào Tòa Khâm xua đuổi Đức Khâm sứ Henri Lemaitre.

Chính quyền không đứng ngoài những hoạt động “cấp tiến” này, nhưng Chính

quyền cũng đã hoang mang khi những hành động quá khích như vậy tác động trở

lại. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là trong buổi chiều bắt Đức Cha Thuận, Chính quyền

đã triệu tập tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ tới tòa nhà Quốc hội Sài Gòn để nghe

“nói chuyện”, nhằm tránh những phản ứng khiến cho tình hình phức tạp thêm.

Người dân Sài Gòn quan sát những diễn biến ấy trong nỗi lo sợ rất rõ ràng,

nhưng thái độ của mỗi người thì một khác. Nhà báo Đoàn Kế Tường kể: “Sáng 29-

4-1975, tôi và một người bạn gặp nhau trên cầu Sài Gòn, anh hỏi: ‘Đi không?’. Tôi

nói không lưỡng lự: ‘Không. Tôi còn mẹ già ở Quảng Trị’. Anh chia tay tôi xuống Tân

Cảng, một chiếc tàu hải quân đang đợi chúng tôi ở đó. Nhưng tôi không thể ngờ

được là mọi thứ sau 30-4 nó lại đảo lộn lên như thế”.

Đoàn Kế Tường sinh năm 1947 tại làng Đông Dương, xã Hải Dương, huyện Hải

Lăng, Quảng Trị. Vì cha từng đi lính Tây nên năm 1960 khi mới mười ba tuổi, ông

được đưa vào học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, được huấn luyện trở thành

lính Biệt kích. Từ năm 1965 được đưa lên tác chiến ở vùng Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước

Long. Là lính trận thật sự, hai lần bị thương, nhưng chàng trai trẻ mười tám tuổi

vẫn có chút máu Quảng Trị, làm thơ từ trong rừng sâu gửi về các tờ báo ở Sài Gòn

rồi được kết nạp vào Hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội.

Năm 1969, nhân Đại hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường

nhờ Chu Tử68 xin cho về lại Sài Gòn làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều

nhân vật có thế lực, đã nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường

cuối năm ấy về Sài Gòn làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu

Tử ra thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm

cho Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm

cho báo Điện Tín. Tường kể: “Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám”.

Nhưng, sau cái ranh giới 30-4-1975, Ớt và Tường không bao giờ có thể “binh

xập xám” với nhau. Huỳnh Bá Thành là một cán bộ An ninh T4, biết những người

như Đoàn Kế Tường ở lại và “tư tưởng đang có những diễn biến phức tạp”. Trong

Hội nghị ngày 3-9-1975, Trung ương Cục lưu ý “các đối tượng làm việc cho các cơ

quan Mỹ, văn nghệ sĩ, báo chí, ký giả” và phân công: “An ninh phối hợp với Hoa

vận, tình báo nghiên cứu đề xuất phương án đối với Quốc Dân Đảng, Tàu đặc vụ và

nhân viên làm việc với nhân viên Mỹ. Tuyên Huấn Thành và Thông tin Văn Hóa

nghiên cứu kỹ đối với văn nghệ sỹ, ký giả”69.

Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Tôi trốn trình diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích

rồi cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục

quốc70... Chúng tôi in truyền đơn, in lời kêu gọi và phát tán chúng. Ngày 29-4-1975,

Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã lấy trực thăng bay ra hàng không mẫu hạm Midway mà

chúng tôi vẫn nghĩ là ông lên rừng lập chiến khu. Chúng tôi cùng nhau hát: Tôi đi

theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng của dân / Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh

hùng rừng xanh71. Khi đó, tôi còn quá trẻ lại đầy máu nghệ sỹ, cứ nghĩ những việc

làm của mình cũng như một cuộc chơi mà sinh viên Sài Gòn vẫn làm hồi trước

1975”.

Nhưng Sài Gòn đã không còn như “hồi trước 1975”. Đoàn Kế Tường kể tiếp:

“Trong những ngày ấy, Huỳnh Bá Thành có gặp tôi hỏi, nếu muốn làm báo Tin Sáng

thì Thành sẽ giúp, nhưng tôi chỉ đáp cụt lủn: Không! Tôi sẽ vào rừng!”. Đêm 22-10-

1975, Huỳnh Bá Thành đến nhà Đoàn Kế Tường còng tay người bạn từng binh xập

xám hôm nào. Trong đêm ấy, Dương Đức Dũng, Thái Sơn và giáo sư Lê Việt Cương

cùng bị bắt.

Gần bốn tháng sau, ngày 10-2-1976, Nguyễn Việt Hưng, Trần Kim Định bị bắt.

Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh Thành phố bắt đầu tấn công nhà

thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ

trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn

Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được

nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng 3 người khác

bị bắt.

Vụ nhà thờ Vinh Sơn chưa kịp lắng xuống thì ngày 1-4-1976, xảy ra một vụ nổ ở

Hồ Con Rùa72 làm cho một người chết, bốn người bị thương và phá hủy hoàn toàn

con rùa làm bằng đồng đặt giữa hồ.

Hai ngày sau, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bản tin có tựa đề, “Tóm gọn tại chỗ

bọn phản động và phá hoại”, với mấy dòng ngắn gọn: “Ngày 1-4, bọn phản động và

phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân

ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Một

tên trong bọn chúng bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về

điều tra”73. Cùng ngày, tờ Giải Phóng, cũng đăng bản tin với độ dài và nội dung:

“Trừng trị tại chỗ bọn phản động và phá hoại: Tối 1-4-1976, bọn phản động và phá

hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta,

đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Công

trường này ở ngã tư đường Duy Tân, Võ Văn Tần và Trần Cao Vân; ở giữa có một

vườn hoa nhỏ, đồng bào ta thường ra ngoài hóng mát. Một tên trong bọn phản

động bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tra”74.

Vụ nổ xảy ra lúc 8 giờ tối, được Huỳnh Bá Thành kể lại là “vang dội từ phía sau

lưng đuổi tới, nhà cửa hai bên đường rung chuyển và đó đây tiếng kính vỡ rơi lổn

cổn, khô khốc”75. Khi “trinh sát” đến hiện trường, theo Huỳnh Bá Thành: “Mùi thuốc

nổ vẫn còn khét lẹt. Một cảnh tượng hãi hùng trước mắt Trường Sơn: một thây

người đầy máu, bay mất cái đầu và đôi bàn tay, đang được anh em cảnh sát khiêng

lại để gần chỗ đặt chất nổ. Bốn thanh niên bị thương máu me đầy mình được xe

cảnh sát tức tốc đưa đi cấp cứu. Bên cạnh cảnh tượng chết chóc và thương tích

rùng rợn ấy, con rùa bằng đồng to tướng bị chất nổ làm banh ra từng mảnh nhỏ,

văng ra vung vãi. Theo giám định hiện trường của các đồng chí cán bộ cảnh sát

thuộc bộ phận khoa học hình sự đã xác định sơ bộ: chất nố được đặt ngay ở thân

con rùa đồng, loại TNT có sức công phá ước chừng mười đến mười lăm kilogam”76.

Việc Chính quyền vội vàng kết luận trên báo chí người chết là “một tên trong

bọn phản động” là chưa có căn cứ. Huỳnh Bá Thành, người mà báo Tuổi Trẻ nói

rằng đã “tham gia điều tra từ đầu cho tới khi kết thúc vụ án”77, cũng thừa nhận

rằng: “Không tìm thấy giấy tờ tùy thân nào trong người hắn… khó mà kết luận tuổi

tác chính xác khi người chết không còn mặt mũi và hai bàn tay. Nạn nhân mặc

chiếc quân jean Mỹ bạc màu, chiếc áo kaki đã sờn, chân đi dép nhựa mòn sát gót.

Cũng thật khó mà kết luận thành phần xã hội của kẻ đặt chất nổ”78.

Theo Huỳnh Bá Thành thì có ít nhất ba trường hợp đã đến công an đầu thú, một

số kẻ khác đã bị bắt khi đang ba hoa ở quán café rằng mình là chủ mưu, nhưng

“hóa ra bọn họ đều là những kẻ háo danh hoặc có vấn đề về tâm thần”. Nhiều vụ

“bắt bí mật” đã được ngành an ninh thực hiện, một trong số đó là Lỗ Hung79. Lỗ

Hung khai nhận và theo Huỳnh Bá Thành, trong người anh ta có một mảnh giấy

ghi: “Làm thêm ba thẻ tổ viên tổ hợp ván sàn”. Theo Thành thì vợ chồng nhà văn

Trần Dạ Từ và Nhã Ca80 cũng có một tổ hợp ván sàn và Lầu Phá Xấu, theo đặc tình

của Thành là Đặng Hoàng Hà81, người mà nữ đặc tình này biết là thường xuyên qua

lại với vợ chồng nhà văn Nhã Ca.

Trên thực tế, cho dù mãi tới ngày 6-4-1976 vụ án mới “được làm sáng tỏ”,

nhưng ngày 2-4-1976, tức là chỉ mười hai giờ sau vụ nổ, những người như Nhã Ca,

Trần Dạ Từ đã bị bắt. Nhà văn Duyên Anh kể: “Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định

xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào

không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa

kịp vô bìa, thì Sài Gòn mất. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con ngõ nhà anh

chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ

chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà82, Đặng Hải Sơn. Nếu tôi

có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Cũng đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn

Mạnh Côn lên đường trực chỉ Sở Công an”83.

Một chiến dịch bắt bớ văn nghệ sỹ được kéo dài cho đến ngày 28-4-1976. Duyên

Anh kể tiếp: “Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ

sĩ. Hôm sau, cả Sài Gòn xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3-

4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi

ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh

ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu

gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra

hai khách lạ nón cối, dép râu, nhìn Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn

ngoái lại, hai khách công an đã phóng ra vỉa hè. ‘Nó đến bắt Mai Thảo’, Côn nói. Tôi

đi tìm dấu vết Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo. Công an không bắt

được Mai Thảo, đã giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo”84.

Đến chiều ngày 8-4-1976 thì chính Duyên Anh cũng chịu chung số phận. Ông

kể: “Trước đó nửa tiếng đồng hồ, tôi đang băm thịt, nấu cháo nuôi vợ ốm, ông tổ

trưởng dân phố của tôi dẫn ông phường trưởng và công an phường đến thăm gia

đình tôi, hỏi chuyện sinh hoạt phường khóm và nếp sống mới. Tôi bỏ nồi cháo dưới

bếp để tiếp chính quyền. Chừng mười phút, một ông công an cáo lỗi ra về. Mười

phút sau, mật vụ ập vào nhà tôi, súng ngắn súng dài đầy đủ. Cộng sản luôn luôn

chơi chắc ăn. Họ giả vờ thăm viếng tôi. Khi biết đích xác tôi có mặt ỏ nhà, họ mới

đến bắt… Cảnh tượng gia đình tôi, bấy giờ, thật bi thảm. Vợ tôi đang đau nặng, vụt

tỉnh, tung mền chạy ra phòng khách. Tôi nhìn cái còng nhãn hiệu Mỹ do cộng sản

siết dính trên tay mình, nhìn vợ tôi mặt mày tái mét, nhìn ba đứa con tôi ngơ ngác,

nước mắt chảy ròng ròng. Tôi đợi công an đến bắt tôi sau khi tôi hay tin họ đã bắt

Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành, Doãn Quốc Sĩ…”85.

Lý do “bọn phản động cho nổ Hồ Con Rùa” được Huỳnh Bá Thành thuật lại trong

cuốn sách mà báo Tuổi Trẻ khẳng định là “một câu chuyện hoàn toàn có thật” là

nhằm phá con rùa “ếm đuôi rồng” để cho đuôi rồng quậy phá chế độ mới86.

Duyên Anh, một nhân vật của cuốn sách Vụ Án Hồ Con Rùa, nhận xét: “Bỏ qua

thứ văn chương hạng bét và thứ kiến thức tình báo giày dép của Huỳnh Bá Thành,

cộng sản khẳng định chúng tôi là tay sai của CIA gài lại. Căn nhà số 104 đường

Công Lý (sau này đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của vợ chồng Đằng Giao là trụ sở

lui tới họp bàn của chúng tôi. Bút hiệu của chúng tôi được nhai nhái hơi hơi giống.

Đằng Giao là Đỗ Gia. Chu Thị Thủy là Chu Nữ. Vợ chồng Nhã Ca, Trần Dạ Từ là Lê

Dạ, Tú Dung. Nguyễn Mạnh Côn là Nguyễn Côn. Tôi là Vũ Long… Cộng sản đề cao

Hoàng Hà Đặng (tên thật Đặng Hoàng Hà) như một ‘lãnh tụ’ ghê gớm, ngang cơ với

Hồ Chí Minh thuở hoạt động bí mật. Thật ra, Đặng Hoàng Hà chỉ là anh phóng viên

tài tử, con người hiền lành, chưa từng biết tình báo là cái gì. Đưa chúng tôi lên mây,

trao mìn về cho chúng tôi, cho chúng tôi thảo luận chiến lược(!) với các đại cố vấn

Mỹ trước 1975 rồi khi ‘tóm’ được chúng tôi thì mô tả chúng tôi là những thằng ‘ăn

mày’, những thằng ‘đói thuốc phiện thất thểu’ vào tù đền tội, và ‘xưng em’ với nữ

công an ngọt xớt”87.

Trên thực tế, trong những ngày ấy cũng có rất nhiều những người chống đối

chính quyền bằng hành động, có những người - nhất là giới văn nghệ sỹ - chống đối

bằng những lời nói cho sướng mồm, có những kẻ lợi dụng lòng tin, bày đặt chống

đối để lừa đảo tiền tình của những người dân không ưa chế độ. Nhưng cũng có

những cái bẫy được đặt ở đâu đó.

Ngày 6-04-1976, Chính quyền quyết định tấn công vào nơi được coi là “sào

huyệt của bọn phản cách mạng”, đặt trong một khu rừng ở Tùng Nghĩa, Lâm Đồng,

bắn chết sáu người, bắt sống “Chủ tịch Trần Duy Ninh và tám tên khác”. Ngày 8-

04-1976, bốn mươi ba mục tiêu ở Sài Gòn bị đồng loạt tấn công: “bắt thêm năm

mươi tên, thu giữ một điện đài, hai máy in bạc giả, một máy phát điện, toàn bộ

máy móc để xây dựng đài phát thanh, tám mươi súng các loại, 100kg thuốc nổ TNT

và một số tài liệu phản động”88.

Hành động này còn mang ý nghĩa trấn áp, vì ngày 29-4-1976, trên cả nước sẽ

diễn ra một sự kiện hết sức quan trọng của Chính quyền Cách mạng: Tổng tuyển cử

bầu Quốc hội Thống nhất đầu tiên của Việt Nam. Chính quyền muốn đảm bảo rằng

sẽ không xảy ra sự cố. Nhiều người đã bị bắt mà cho đến tận khi nhắm mắt lìa đời

vẫn không biết lý do là gì89.

Ngày 7-4-1976, họa sỹ Chóe bị bắt.

Họa sỹ Chóe tên thật là Nguyễn Hải Chí, trong thời gian “đi trung sỹ” tại Phòng

III, Bộ Tổng Tham mưu, Chóe nổi tiếng với những tác phẩm biếm họa phản chiến

đăng trên báo chí Sài Gòn chế diễu từ Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger, Tổng

thống Nixon cho tới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; tranh của Chóe cũng châm

biếm cả bà Nguyễn Thị Bình và ông Lê Đức Thọ… Ở cơ quan Tổng Tham mưu: “Hạ

sĩ Nguyễn Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại

gấp nghìn lần Cao Văn Viên”90. Trong chiến tranh, biếm họa của Chóe được các tờ

báo nổi tiếng ở Mỹ đăng.

Chính quyền Sài Gòn cũng không ưa gì Chóe. Cuối năm 1974, ông bị bắt do vi

phạm lệnh “cấm những người đang phục vụ trong quân đội làm báo”. “Khi đại tướng

Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc

Huấn thị, Nhật lệnh, nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở

phòng giam của Cục An Ninh quân đội”91. Ngày 30-4, chính Cách mạng đã mở cửa

nhà tù cho Chóe.

Họa sỹ Chóe nhớ lại: “Một hôm đi ngang qua quán cà phê 104 Công Lý của Chu

Thị Thủy - Đằng Giao, tôi nghe Nhã Ca kêu, nên có vào ngồi một lúc. Đó là lần duy

nhất tôi ngồi với họ kể từ sau ngày 30-4”92. Nhưng sự liên đới của Chóe không chỉ bị

Huỳnh Bá Thành lưu ý trong lần cà phê ấy.

Trong Vụ Án Hồ Con Rùa, Thành đã viết về mối quan hệ của Tú Dung - Nhã Ca

với Barry Hilton: “Viên sĩ quan CIA người Mỹ tên là Barry Hilton cầm tay chỉ việc

cho Tú Dung, thì nữ văn sĩ này biến thành một ‘nữ biệt kích’ chống cách mạng một

cách hoàn toàn không còn lương tri của một người trí thức”. Cách nói đó không chỉ

cáo buộc Nhã Ca. Huỳnh Bá Thành, cũng từng là một họa sỹ biếm, biết Barry Hilton

đánh giá cao tài năng của Chóe. Barry Hilton đã tuyển tranh của Chóe in thành tập

The World of Choe. Sách đã in nhưng vì Barry Hilton là công chức thuộc Bộ Ngoại

giao Mỹ nên phải chấp nhận không phát hành tập sách đả kích Bộ trưởng Ngoại

giao lúc đó.

Chóe bị bắt khi đang làm việc ở tòa soạn báo Lao Động Mới. Ông bị dẫn về nhà ở

số 52/8 Quang Trung, Gò Vấp, lúc đã 6 giờ chiều; công an khám xét tới 9 giờ đêm

thì giải ông về trại “tạm giam”. Huỳnh Bá Thành là người bắt Chóe.

Ba ngày trước tổng tuyển cử, 26-4-1976, An ninh ra lệnh bắt tiếp Luật sư

Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích không bao giờ biết vì sao mình bị bắt93. Ông từng làm

cho cơ quan trợ giúp Mỹ USAID trong chương trình “cấp căn cước cho người từ mười

sáu tuổi trở lên” và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông nhận được học bổng đi học

thêm một năm tại Đại học Harvard, Mỹ. Tháng 4-1975, ông là “chuyên viên đặc

nhiệm” cho Tổng cục Dầu hỏa và Khoáng sản.

Những cuộc bắt bớ tương tự kéo dài tới năm 1978. Một trong số đó là nhà trí

thức cách mạng Hồ Hữu Tường. Từ giữa thập niên 1920 khi du học ở Paris, ông Hồ

Hữu Tường từng tham gia phong trào Đệ tứ Quốc tế cùng với các ông Phan Văn

Trường, Tạ Thu Thâu. Mặc dù năm 1939, ông Tường từ bỏ chủ nghĩa Marx và phong

trào Đệ tứ nhưng năm 1940 ông vẫn bị người Pháp bắt và đày ra Côn Đảo cho tới

năm 1944. Ra tù, với tư cách là một nhà trí thức, ông Tường có nhiều bài viết nổi

tiếng về cả chính trị, kinh tế và văn hóa phổ biến ở Hà Nội. Năm 1946, ông làm cố

vấn cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hội nghị Đà Lạt. Ông là một

trong những người biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho bậc trung học của nước

Việt Nam, lúc ấy, vừa tuyên ngôn độc lập.

Ông Hồ Hữu Tường bị người Pháp bắt lại năm 1948 và năm 1957, sau khi về

sống ở Sài Gòn, bị chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên án tử hình vì làm cố vấn cho

Mặt trận Thống nhất của Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên. Nhờ có sự can thiệp của

những nhân vật nổi tiếng trên thế giới như Albert Camus, Nehru, ông được giảm

xuống khổ sai. Ông được trả tự do sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Ra

tù, ông được mời làm phó viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và năm 1967, ông

tham gia chính trường với tư cách là một dân biểu đối lập. Ông Hồ Hữu Tường

không phải đi cải tạo cho đến khi ông có một vài “sáng kiến chính trị” vào năm

1978, năm ông Tường sáu mươi tám tuổi94. Ba lần ông thoát khỏi nhà tù, của người

Pháp và của chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng tới lần thứ tư thì không. Ngày 26-6-

1980, ông Hồ Hữu Tường được đưa từ trại Z30D ở Hàm Tân về Sài Gòn, nhưng trên

đường đi thì ông mất.

Năm 1981, trong khuôn khổ một hoạt động của US-VN Reconciliation Project, bà

Luật sư Ngô Bá Thành được mời tới Đại học Harvard. Tại đây, bà cho rằng, những

người được đi cải tạo là may mắn vì nếu họ bị đưa ra một phiên tòa như Nuremberg

thì có thể họ đã bị xử bắn. Luật sư Ngô Bá Thành không biết rằng con gái của ông

Hồ Hữu Tường, người tù cải tạo vừa mới chết một năm trước đó, Giáo sư Hồ Tài

Huệ Tâm lúc ấy đang dạy lịch sử ở Harvard cũng được người tổ chức chương trình,

ông John McAuliffe, mời dự95. Lập luận của bà Ngô Bá Thành không mới đối với Hà

Nội nhưng rất ngạc nhiên khi nó được nói ra bởi một luật sư.

Việc đưa vào tù hàng trăm nghìn con người đã buông súng hoặc không hề cầm

súng, không bằng một bản án của tòa, sau ngày 30-4-1975, và đặc biệt, câu

chuyện đưa 1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được kể lại sau

đây, thật khó để nói là may mắn.

Trưa 29-4-1975, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có được một “sự vụ lệnh” do Tổng

thống Dương Văn Minh ký cho phép tàu Việt Nam Thương Tín thực hiện chuyến di

tản cuối cùng. Sáng 30-4-1975, khi con tàu này ra tới cửa sông, đã bị B40 bắn

theo, giết chết nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm Nhật báo Sống. Con tàu Việt Nam

Thương Tín và hàng nghìn người nằm đợi ở đảo Guam gần năm tháng. Sự chờ đợi

trước một tương lai vô định trong khi vợ con, cha mẹ vẫn đang kẹt lại quê nhà đã

khiến cho nhiều người muốn quay lại Việt Nam, nơi mà họ tin là đã bắt đầu thống

nhất và chắc chắn có hòa bình.

Một trong số ấy là Đại úy tình báo Võ Tính96. Ông Võ Tính được người Mỹ tạo

điều kiện đưa toàn bộ gia đình di tản. Tuy nhiên, cha ông nói: “Tao chờ đến ngày

đất nước thống nhất, tại sao tao phải đi khi ngày đó gần kề”. Còn cha vợ ông thì khi

đó đang mong hai người con trai tập kết từ năm 1954 trở lại.

Ông Võ Tính đã định ở lại Việt Nam, nhưng vào những ngày cuối tháng 4-1975,

người Mỹ khuyến cáo là sẽ vô cùng nguy hiểm. Ông Tính được đưa ra Phú Quốc và

khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông được đưa ra Hạm đội 7 để rồi

sau đó tới Guam. Cũng như nhiều người lính khác, Đại úy Võ Tính không chắc có bị

“Việt Cộng” trả thù trong khi, từ trong thẳm sâu, ông nhận thấy chỉ có Việt Nam

mới là tổ quốc. Không tìm được lý do hợp lý để bỏ nước, bỏ cha mẹ già, người vợ

trẻ và 3 đứa con thơ, Đại úy Võ Tính đã tham gia vận động để người Mỹ cho phép

những người Việt quay lại Việt Nam bằng con tàu Việt Nam Thương Tín.

Ngày 29-9-1975, sau khi Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc nhận được sự đồng ý của

Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tàu Việt Nam Thương Tín rời

Guam trong một buổi lễ tiễn đưa trang trọng: có những phụ nữ mặc áo dài, chào cờ

và được truyền hình Mỹ tường thuật. Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ được ủy

nhiệm chỉ huy chuyến trở về của con tàu này.

Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín về đến hải phận Vũng Tàu. Mãi

tới hôm sau, hai tàu Hải Quân treo cờ đỏ sao vàng mới chạy ra và dừng lại cách tàu

Việt Nam Thương Tín gần 200m. Những người lính Hải quân dùng ống nhòm quan

sát rất kỹ và sau mấy giờ, họ hướng dẫn tàu Việt Nam Thương Tín chạy ngược ra

phía miền Trung. Những người trở về bắt đầu linh cảm điều gì đó bất thường nhưng

họ vẫn còn hy vọng và vẫn còn chờ đợi.

Tới Nha Trang, tàu bị dẫn vào Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Tất cả mọi

người đều bị dồn lên những chiếc xe bít bùng và khi được chở tới Trung Tâm Thẩm

Vấn của Quân đoàn II thì mọi người được lệnh “phải trút bỏ hết quần áo, bị khám

xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình,

một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào phòng giam”. Trừ một đứa bé khi ấy

7 tuổi, tất cả đều phải đi tù, người ít nhất 9 tháng, người lâu nhất - Trung tá Trần

Đình Trụ - phải ở tù tới 13 năm.

Tù và cải tạo

Cho dù ở tù hay cải tạo thì đều là thân phận của những người mất tự do. Nhưng

được chuyển từ Đề lao Gia Định hay Chí Hòa ra trại “cải tạo” vẫn là những gì mà

những “người tù” thèm khát.

Duyên Anh viết: “Nếu tôi đã phục vụ (trong quân đội) như Thanh Tâm Tuyền,

Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên…97, tôi sẽ đóng một khoản tiền ăn mười ngày cho đơn

vị tôi trình diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan Taberd hay ở cô nhi viện

Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe Molotova, xe GMC, xe đò nữa, chở tôi đến

trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành. Tôi đi tù với hàng ngàn, hàng

vạn bạn bè, tôi không việc gì mà sợ hãi. Ít ra, hai ba năm đầu, bộ đội họ quản lý tôi

cũng dễ dãi hơn công an. Tôi đi lại thong thả khắp trại và đêm đêm cửa phòng tôi

không bị khóa chặt. Nhưng tôi đã thiếu vinh hạnh làm sĩ quan quân lực Việt Nam

Cộng Hòa, tôi là nhà văn phản động và công an đã đến còng tay tôi, đưa tôi đi một

mình”98.

Khi đã vào những nhà tù như số 4 Phan Đăng Lưu, số 3c Tôn Đức Thắng hay Chí

Hòa thì mới thấy được đi cải tạo cũng là một ân huệ. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích kể:

“Sau một năm ở xà lim, tôi được đưa ra phòng giam tập thể, giam chung với sáu

mươi chín người khác trong một phòng. Mỗi người được một phần sàn xi măng rộng

60cm dài hai mét và được phát một chiếc chiếu. Trong phòng, có các tướng lĩnh,

các bộ trưởng và các viên chức cao cấp của Sài Gòn. Tôi nhận ra trong đó có những

người cùng bị bắt đợt tháng 4-1976 với tôi”.

Bên cạnh những người tù không có án như Đoàn Kế Tường, Linh mục Thiện, Luật

sư Vũ Đăng Dung, Dân biểu Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân, Như Phong, Lâm Văn

Thế, Nguyễn Ngọc Tân, Lê Xuyên… ở các đề lao cũ của Sài Gòn còn có các nhà “tư

sản mại bản” mà trong đó có một số người có được “vinh dự” ra tòa như Phạm

Quang Khai, Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài, Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng,

Nguyễn Văn Trương (Khai Trí), Trương Văn Khôi… và cả những “tên phản động” bị

bắt trong vụ Nhà thờ Vinh Sơn như Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn

Văn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp…

Cuối thập niên 1970, ngay cả người Sài Gòn cũng không mấy khi có gạo trắng,

cá tươi, cơm tù không thể nào tránh được cá thịu, gạo hẩm. Nước cũng là nỗi khát

khao của các tù nhân. Ở Chí Hòa, tù nhân Đoàn Kế Tường đã từng tổ chức biểu tình

“đòi đi tắm”. “Họ bị cai ngục dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay

họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên

mép. Rồi họ bị tống vào biệt giam khu FG. Không chịu nổi biệt giam Chí Hòa, họ

đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì. Tất cả lắc đầu, thở dài”99.

Nhiều thứ bệnh đi theo người tù như tiêu chảy, kiết lị… nhưng thuốc men gần

như không có; những năm đó, ngay cả công an, bộ đội và dân chúng cũng đều phải

dùng “xuyên tâm liên chữa bá bệnh”100. Nhưng, không có gì làm khổ người tù như

ghẻ, lở. Theo Duyên Anh: “Ghẻ đề lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè ‘của quý’ mà lập

chiến khu. Tù nhân này cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Bôi xong,

vội vàng lấy quạt lia. Vì thuốc xót vô cùng”101. Trong hoàn cảnh ấy, những người tù

ở Đề lao Gia Định, Chí Hòa coi việc được đưa tới các trại cải tạo là giảm nhẹ.

Trước Tết 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả, trong đó có Nhã Ca, được

tập trung tại khu A, Chí Hòa, học tập một tháng rồi được thả về. Những người như

Doãn Quốc Sĩ, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Trần Dạ Từ, Chóe, Duyên

Anh… phần lớn vẫn “ở tù”; cá biệt, những người cứng đầu như Đoàn Kế Tường thì bị

giữ lại suốt 10 năm ở Chí Hòa. Trong khi đó, một số khác được chuyển từ chế độ tù

sang “cải tạo”.

Nhưng đấy là câu chuyện xảy ra trước năm 1978. Khi Chiến tranh Biên giới Tây

Nam xảy ra và ở phía Bắc, Trung Quốc bắt đầu đe dọa, các trại cải tạo được chuyển

giao từ quân đội sang cho công an. Theo Đại úy Phan Nhật Nam: “Chúng tôi bắt

đầu chịu cảnh tội tù khắc nghiệt”.

Ngày 8-5-1975, sau khi trình diện, ngoại trừ Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị bệnh

nặng, các sỹ quan cấp tướng102 và cấp tá bị giữ lại để học tập đợt một tại Ðại học xá

Minh Mạng, Chợ Lớn trước khi đưa về Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Sau đó,

các tướng được đưa ra Bắc bằng máy bay trong khi các sỹ quan cấp thấp hơn được

đưa ra Bắc bằng tàu thủy và xe lửa. Nơi đến của những người bị coi là “nguy hiểm”

này là các trại giam Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hà Tây, Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ

An.

Như những người tù thâm niên khác, Trung tá Phan Lạc Phúc đã trải qua những

nhà tù gian khổ nhất: Trại Long Khánh - Suối Máu, Liên trại 2 Sơn La, Trại Yên Hạ

(Sơn La), Trại Tân Lập (Vĩnh Phú), Trại Thanh Phong (Thanh Hóa), Trại Tân Kỳ

(Nghệ Tĩnh), Trại Ba Sao (Hà Nam Ninh), Trại Xuân Lộc (Đồng Nai). Yếu tố chính để

Phan Lạc Phúc chịu cải tạo lâu là vì ông đã từng học thông tin báo chí tại Hoa Kỳ,

từng làm chủ bút Nhật báo Tiền Tuyến, báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Sau một năm bị giam ở trại Long Giao và Suối Máu, ngày 10-6-1976, ông Phúc

được đưa ra Bắc trong đợt đầu tiên. Ông viết: “Chúng tôi đang ngồi ở sân tập kết

trại Suối Máu thì người bạn thân cùng ngành của chúng tôi là Tạ Ty chạy hốt

hoảng: 'Đi chuyến này hở. Ra Bắc đấy. Thế là năm niên đấy. Có nhắn gì về nhà

không?' Tôi và Hùng nhìn nhau cười nói với bạn: 'Nói hộ với gia đình là tụi tôi đi ra

Bắc ngày hôm nay. Ở lại khỏe nha'. Người bạn họa sĩ tài danh của miền Nam ngậm

ngùi tạm biệt 'Hẹn gặp lại nhau sớm ở Sài Gòn…'”103.

Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận nhớ lại buổi tối ông bị đưa ra khỏi Sài Gòn:

“Ngày 1-12-1976, lúc 9 giờ tối, bất thình lình tôi bị gọi cùng với vài tù nhân khác.

Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên một

xe cam nhông. Cuộc hành trình ngắn đưa chúng tôi tới Tân Cảng. Chúng tôi thấy

một con tàu trước mặt, hoàn toàn chìm trong bóng tối để dân chúng khỏi để ý.

Chúng tôi bị đưa lên tàu đi ra miền Bắc… Tôi bị đem xuống hầm tàu, nơi chứa than.

Chỉ có một ngọn đèn dầu nhỏ leo lét cháy. Chúng tôi tất cả là 1.500 người, trong

một tình cảnh không thể tả được… Ngày hôm sau, khi một chút ánh sáng mặt trời

lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn sầu và tuyệt

vọng của các tù nhân khác. Bầu không khí sầu thảm như đám tang. Một tù nhân đã

tìm cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người khác gọi tôi. Tôi đến nói

chuyện với anh”104. Trung tá Phan Lạc Phúc cũng được đưa ra Bắc bằng tàu và

chuyến đi của ông cũng gian khổ không kém gì chuyến tàu của Đức cha Nguyễn

Văn Thuận, nhưng những gì mà họ gặp trong quãng đường chuyển tù chỉ mới là

những thử thách ban đầu105.

“Thăm Nuôi”

Thời gian cải tạo càng tăng thêm thì tiền bạc của người nhà tù nhân cũng như

ngân sách của “Cách mạng” càng dần cạn kiệt. Từ Tết năm 1976, các suất ăn bắt

đầu bị cắt bớt; đến cuối năm 1977, lương thực của tù nhân được thay bằng lúa

mạch, thường gọi là bo bo. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường, tới mùa Thu năm 1978,

mỗi người chỉ còn 300g gạo một ngày. “Rau muống, rau lang không kịp ra đọt non,

rau dại cũng bị vặt khi vừa mới nhú. Củ chuối bị đào hết lên”.

Không phải học viên cải tạo nào cũng biết rằng lúc ấy ở “ngoài xã hội”, cái bao

tử của thường dân cũng không no đủ hơn. Chính quản giáo, ban ngày “hắc” thế

nhưng đêm xuống cũng tìm gặp những người tù vừa được thăm nuôi để “xin tý

mỡ”. Những ngày có đồ thăm nuôi là những ngày trong trại tưng bừng. Những lá

thư viết từ trại những năm tháng về sau chủ yếu là liệt kê các “nhu yếu” thăm nuôi.

Ông Tạ Chí Đại Trường kể: “Cũng có người vẫn giữ được tiền, mỗi lần thăm nuôi

lại có khuân có vác, nhưng cũng có người chỉ có thể mang theo mấy ổ bánh mì, lủi

thủi với chồng: Không biết lần sau có còn vay được tiền đi thăm anh”. Dần dà,

những người tù bắt đầu biết thăm nuôi đang trở thành một gánh nặng cho những

người mẹ, người vợ ở quê cũng đang đói khổ. Để đi đến các trại cải tạo thăm chồng,

thăm cha, những người con lính, vợ lính đã phải nếm biết bao tủi nhục.

Từ năm 1978, họa sỹ Chóe bị đưa lên trại Gia Trung, Gia Lai. Hai năm ở trại

“tạm giam” của cơ quan An ninh Điều tra, số 4 Phan Đăng Lưu, Chóe chỉ được nhận

đồ chứ không được gặp người nhà. Hai năm ấy, do phải nằm trên sàn xi măng,

chân ông, vốn phong thấp, đã gần như bị liệt. Đến Gia Trung, được thăm nuôi thì

đường sá lại quá xa xôi, cách trở.

Vợ Chóe, bà Nguyễn Thị Kim Loan, năm ấy phải một mình nuôi bốn đứa con, đồ

đạc trong nhà gần như đã bán hết. Cũng như hàng triệu gia đình Sài Gòn, nhà bà

cũng được Chính quyền cấp cho “sổ gạo”, nói là gạo nhưng những năm ấy thường

chỉ có bo bo hoặc khoai; tiêu chuẩn một ký gạo được Nhà nước bán thay thế bằng 2

ký khoai. Không chỉ những người vợ có chồng bị đưa đi cải tạo, trong “chế độ mới”

đàn ông trở thành vai trò thứ yếu vì không có việc làm, cuộc sống chỉ còn có thể

trông cậy vào tài xoay xở, mua bán lặt vặt của những người phụ nữ.

Bà Loan lả một phụ nữ công giáo di cư từ Phát Diệm, đã từng làm thư ký trong

Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng hòa, từng sống hết sức phong lưu nhờ nhuận

bút những bức tranh biếm của chồng đăng trên các báo Sài Gòn, báo Mỹ. Từ khi

chồng “đi Gia Trung”, bà Loan phải mua từng bộ đồ cũ, từng bịch xà bông, chen

chúc trên xe đò, giấu giếm đem về An Giang quê chồng, bán, kiếm từng đồng

chênh lệch giá.

Kiếm tiền để đi thăm nuôi đã khó, mỗi một chuyến đi từ Sài Gòn lên Gia Lai là

cả một “đoạn trường”. Trước hết, phải “chạy” xin cái giấy của Phường, rồi từ 3 giờ

chiều đã phải ra bến xe xếp hàng. Chính sách “cải tạo nhân đạo” đã biến những

hãng xe đò tư nhân như Phi Long, Phi Hổ một thời khoanh tay mời khách mua vé,

mời khách lên xe, trở thành những “chuyến xe bão táp”. Có mặt từ chiều ở bến xe,

đợi đến 3 giờ sáng “xe khách quốc doanh” bắt đầu bán vé, chen chúc, la ó, nhưng

có khi đến lượt mình thì vé hết vì xe ít, nhà nước ưu tiên bán trước cho cán bộ có

“giấy công tác”.

Không đi được là bi kịch vì tiền bạc giành dụm mua cá, mua thịt kho để lâu

không được. Nhà nước sợ tù tích trữ thực phẩm trốn trại nên không cho thăm nuôi

đồ khô, ngay cả mắm ruốc, muối mè. Lên xe được rồi cũng vô cùng thắc thỏm,

những năm ấy nền kinh tế không còn “lệ thuộc nước ngoài”, phụ tùng không có, xe

cộ hỏng hóc giữa đường là chuyện thường. May mắn, chạy suốt ngày ra tới Phước

Tài thì đêm, không được lên đèo An Khê, ngồi ngủ trên xe cho tới 6 giờ sáng.

Theo bà Nguyễn Thị Kim Loan: Từ chỗ xe dừng vào tới trại hơn ba cây số. Quản

giáo không cho thuê người gánh. Họ nói, “Giờ này mà các chị vẫn không bỏ được

cái thói tiểu tư sản à”. Dân Sài Gòn gánh không quen, đau vai, đành cứ phải xách.

Xách giỏ thứ nhất lặc lè đi lên chừng trăm thước, quay lại xách giỏ thứ hai. Đi ba

cây số mà mất tới hơn hai giờ. Những hôm xe chết máy, lên tới trại đã là nửa đêm

thứ hai, trời tối như bưng, lũ đàn bà, con nít cứ nhắm mắt mà đi không nhận ra lối

rẽ, bước thẳng vô mấy nấm mồ mới, hét lên. Quản giáo chạy ra mới biết đã lạc vào

trại khác, phải ngủ lại đấy, chờ sáng hôm sau tìm đến chỗ giam chồng. Lặn lội xa

xôi như vậy nhưng rồi cũng chỉ được nhìn thấy mặt chồng mười lăm phút. Trên một

cái bàn cây dài, quản giáo ngồi hai đầu, một bên là “phạm”, một bên là thân nhân,

họ chỉ kịp trao đổi với nhau những lời vội vã.

Năm 1978, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cũng đang học tập ở trại Gia Trung,

kể: “Có người xách bịch đồ thăm nuôi về phòng mà băn khoăn không biết ở ngoài

làm sao vợ nuôi nổi mấy đứa con lại còn chạy được tiền đi thăm mình. Nhưng cũng

có người thản nhiên, phần vì đã quen đòi hỏi, phần vì không hình dung hết những

gì đang xảy ra, liên tục gửi thư về giục gửi cho thứ này, thứ nọ. Thảm cảnh gia đình

xảy ra từ đó”.

Đại úy Đỗ Duy Luật, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 248, Sư 18. Ngày 19-4-1975,

đơn vị ông được điều từ Bình Tuy về Long Khánh, tham gia trận Long Khánh gây

tổn thất nhiều cho quân Giải phóng. Hai ngày sau khi ra trình diện, ông Luật bị đưa

lên Long Giao. Từ tháng thứ hai, ông được viết thư về nhà nhưng chỉ cho khai số

hiệu trại là “L2T2” chứ không cho nói rõ địa danh. Vợ ông, cũng như vợ của nhiều

người lính khác, phải đi hết trại này sang trại khác, nấp sau những bụi cây cạnh bờ

rào dò hỏi với hy vọng mong manh tìm chồng. Những chuyến đi như vậy làm khánh

kiệt dần chút gia tài mọn của những người vợ lính.

Từ năm 1978, ông Luật được di lý từ Sơn La về trại Ba Sao, Phủ Lý. Mãi tới cuối

năm 1979, vợ ông mới tìm được ra thăm. Đó là lần gặp nhau cuối cùng của hai vợ

chồng. Khi trở về bà phát bệnh ung thư rồi chết vào đầu năm 1980. Cũng trong

năm ấy, ông được chuyển từ Ba Sao về Hàm Tân, vào trại Z30D. Tháng 6-1981,

ông được tha với lý do là vợ chết. Khi ông Luật trở về, căn nhà nhỏ của ông ở số 2

Duy Tân không còn nữa, vợ ông đã phải bán, trang trải chi phí cho những chuyến đi

thăm chồng và nuôi ba con nhỏ.

Bán nhà chưa phải là bi kịch lớn nhất. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường: “Có

những người vợ đã phải đi bán thân. Có những người vợ đã phải sử dụng thế mạnh

của đàn bà để kinh doanh, buôn bán. Khi người trụ cột kinh tế là đàn bà, con gái và

trẻ em, lại phải tìm cách qua mặt công an, luồn lọt công quyền, ứng biến khi sơ

thất ngay cả trên đường xa… thì không thể nào trách những người phụ nữ ấy.

Chuyện một bà tứ tuần có mang với anh tài xế xe hàng, một bà vợ sỹ quan bán chợ

trời cặp với anh lính cũ của chồng mình… cũng không có gì bất ngờ khi nó được đưa

vào trại”106.

Cũng có những người tù cải tạo thương vợ thật lòng viết thư về nói: “Thôi, đời

anh như vậy là hết rồi, em nên đi tìm hạnh phúc mới, coi có người bộ đội nào…”.

Điều đó lại chạm vào tự ái của một số người quản giáo duyệt thư, nhiều anh đã kiêu

hùng, mắng: “Nhà nước giam giữ các anh không phải nhằm mục đích chia rẽ gia

đình, và chúng tôi chiến đấu không phải là để cướp đoạt vợ con của các anh!”107. Có

lẽ, nếu có ai mất vợ thì cũng chỉ vì thời thế. Vợ của nhà thơ Tạ Ký đã đi lấy chồng

“Việt Cộng” khi ông còn bị giam ở trại T6, Long Khánh, cùng với nhà sử học Tạ Chí

Đại Trường và họa sỹ Trịnh Cung.

Trại T6 có một nhà xí hai ngăn nằm ngay rìa đường vào rẫy của dân, sát bờ rào

dây kẽm gai. Thời gian đầu, thân nhân chưa được chính thức thăm nuôi, các trại

viên T6 có sáng kiến dùng nhà xí để nhận tin gia đình và trò chuyện với người thân

mà không bị quản giáo phát hiện. Các trại viên thường thay phiên nhau ra ngồi

“trực” ở đó để chờ nhận tin nhắn, nhiều tù nhân đã gặp được người thân, những

người cất công đi tìm chồng, tìm con, tìm cha, dù chỉ để nhìn thoáng thấy mặt nhau

trong giây lát hay nói thật nhanh một câu báo tin nhà. Họ thường phải lên đấy

trước, mượn quần áo làm đồng, cuốc xẻng của những nông dân sống gần trại để

ngụy trang và nhờ chính những nông dân này che giấu, men theo hàng rào kẽm gai

như những người dân đi làm ruộng tình cờ ngang qua hố xí. Cũng chính nơi đó,

những người tù nôn nao ngồi chờ…

Một ngày cận Tết năm 1976, đúng vào phiên “trực hố xí” của họa sỹ Trịnh Cung,

ông nhận được tin nhắn: Tạ Ký gặp mẹ lúc 2 giờ trưa nay!”. Trịnh Cung vội báo tin

cho Tạ Ký. Khi đó, theo ông Trịnh Cung: “Đó là một tin vui bất ngờ của Tạ Ký vì đã

nửa năm chưa được thăm nuôi. Nhưng thông tin mà anh nhận được từ mẹ chỉ là: Vợ

con nó lấy thằng Việt cộng rồi. Ở nhà có mẹ lo sắp nhỏ, con yên tâm. Khi được

phép, mẹ sẽ đi thăm”108. Không riêng Tạ Ký, không ít sỹ quan “Ngụy” từ trại cải tạo,

khi đột ngột trở về đã phải đột ngột bước ra khỏi nhà mình, vì “đứa con ngày chia

tay còn thơ không còn nhận ra mình, trong khi trong nhà lại treo cái nón cối”109.

“Học Tập”

Đầu tháng 4-1865, khi viết thư đầu hàng gửi Đại tướng Tư lệnh Quân miền Bắc

Ulysses S. Grant, Đại tướng Robert E. Lee đã xin cho những người lính của ông

được mang lừa ngựa, mà họ đã đem từ nhà tham chiến, trở về quê cũ làm ăn. Còn

Đại tướng Dương Văn Minh, cuối tháng 4-1975, đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

Trong những động thái chính trị trước đó, không có dấu hiệu nào cho thấy Tướng

Minh và “bộ tham mưu” của ông đã lo lắng cho số phận của hàng triệu binh sỹ miền

Nam.

Cũng thật khó để trách tướng Minh. Trước khi tuyên bố đầu hàng, ông đã không

có cơ hội nào để thương lượng với những người chiến thắng. Nhưng sự khác nhau

căn bản giữa hai cuộc chiến tranh nằm ở chỗ: ở Mỹ, năm 1865, những chiến binh

miền Nam được các tướng thắng trận mô tả như “một đoàn quân tả tơi, nhưng hiên

ngang”, còn ở Việt Nam, năm 1975, những người lính miền Nam Việt Nam bị những

người Chiến thắng gọi là “tay sai”, là “dã thú”.

Chưa bao giờ Chính quyền cho công bố chính xác số lượng người bị đưa đi cải tạo110.

Theo số liệu dẫn trong Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, tính tới tháng 9-1982 chỉ

riêng ở Sài Gòn, Chính quyền đã tha về hơn ba vạn sỹ quan đã từng là tù cải tạo.

Tháng 1-1988, hàng ngàn tù cải tạo đã được tha. Từ đó, gần như toàn bộ số tù cải

tạo ở tất cả các trại giam, kể cả từ trại Nam Hà, khoảng 210 người, đều được đưa

về trại Z30D. Họ gồm các sỹ quan cấp tướng, cấp tá, hoặc những người từng phục

vụ trong các lực lượng như an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, tình báo. Nhiều

người trong số họ đã phải ở tù tới đầu năm 1992111.

Tướng Trần Văn Trà và ông Cao Đăng Chiếm, hai đại diện của quân đội và công

an trong Ủy Ban Quân quản, đảm trách việc chuẩn bị “Chiến dịch X-1”. Tuy nhiên,

theo ông Võ Văn Kiệt, Đảng ủy Quân quản và Trung ương Cục cũng đã bàn luận rất

nhiều, không chỉ là tính những thủ thuật để hàng trăm nghìn sỹ quan quân đội miền

Nam tự mang khăn gói vào tù, mà còn đề ra mục tiêu chính trị cho việc tập trung

cải tạo. Chủ trương đưa những sỹ quan cao cấp, những người có “nợ máu” đi cải tạo

lâu dài cũng không hẳn là để “trả thù” mà, theo ông Kiệt, còn “để họ thấy sai, thấy

sự lầm lạc và hiểu cuộc chiến tranh của Cách mạng là chính nghĩa”112.

Có thể đọc được suy nghĩ ấy của những người như ông Kiệt trong các bài xã luận

đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngay trong những ngày “Chiến dịch X-1” đang

diễn ra113.

Ngày 11-6-1975, hạ sỹ quan, binh lính bắt đầu ngày “học tập” đầu tiên. Ngày

12-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng có bài “Thấm nhuần tinh thần nhân đạo Việt

nam”, xã luận: “Cách mạng thắng lợi, giải phóng đồng bào ta, đồng thời cũng giải

phóng luôn cả người lính nguỵ. Cuộc đời làm lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ đã

chấm dứt. Họ khỏi phải chết. Họ thoát khỏi kiếp sống cực nhục trong đội quân

chống lại tổ quốc. Đó là hành vi nhân đạo đầu tiên rất căn bản của cách mạng đối

với họ. Giờ đây, dù họ có bị bắt giam hay không, họ vẫn là những tù, hàng binh

trong tay các lực lượng vũ trang giải phóng… Tuy nhiên, nếu chúng không chống cự

thì ta cũng không giết chúng. Chúng cũng là con người Việt Nam. Đế quốc Mỹ và

tay sai đã biến chúng từ con người thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng

từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân

được nữa. Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính”114.

Ngày 15-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng xã luận tiếp: “Hòa hợp là một chính

sách lớn của cách mạng. Muốn hoà hợp dân tộc thì điều cơ bản và đầu tiên là phải

làm sao cho mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc có một lập trường thống nhất

làm cơ sở. Giặc Mỹ và bọn tay sai bán nước dã dùng một chính sách chia rẽ tệ hại

nhất. Chúng gây thù hằn giữa các thành viên của dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa

các địa phương. Chúng cố tình chia cắt nước ta… Nguy hiểm hơn cả là chúng đã

dùng mọi thủ đoạn để nhồi nhét vào đầu óc của một số người chủ nghĩa chống cộng

điên cuồng để làm bình phong che dấu mục đích xâm lược. Bởi vì chúng biết rằng

những người cộng sản là những người yêu nước nhứt, là những người chống đế

quốc quyết liệt nhứt… Làm sao có thể hoà hợp giữa những người yêu nước với

những người chống lại tổ quốc, dù dưới bất cứ hình thức nào và nhãn hiệu nào?

Súng đã nộp mà tư tưởng chống cách mạng vẫn còn thì hoà hợp làm sao được?... Vì

vậy, hoà hợp dân tộc là trước hết, họ phải gột sạch những nọc độc tư tưởng giặc Mỹ

đã gieo rắc, từng bước tiếp thu ánh sáng chính nghĩa của dân tộc. Đợt học tập tổ

chức cho binh sỹ nguỵ quân, nguỵ quyền hiện nay đã mở ra cho họ một cơ hội tốt

để làm việc đó. Qua học tập, họ phải thấy cho rõ âm mưu và tội ác của giặc Mỹ và

tay sai, phải nhận ra chính sách khoan hồng đầy nhân nghĩa của cách mạng, phải

thấy hết lỗi lầm của mình đối với dân tộc và con đường tất yếu họ phải đi từ đây để

làm lại cuộc đời, trở thành người công dân Việt Nam chân chính. Đó là con đường

duy nhất đưa họ đi đến hoà hợp với đông đảo các tầng lớp nhân dân”115.

Cho tới đầu thập niên 1990, quan điểm của Đảng về việc tập trung cải tạo vẫn

còn khắc nghiệt. Thông báo ngày 20-2-1991 của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương

“Về những luận điệu xuyên tạc của Bùi Tín trên đài BBC” viết: “Việc cải tạo những

phần tử đã gây nhiều tội ác hoặc còn mang nặng tư tưởng chống cộng, thù địch

quyết liệt với cách mạng thì hoàn toàn không phải là vi phạm nhân quyền, càng

không phải là việc làm trái với chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc mà chính là việc

làm cần thiết để bảo vệ cuộc sống hòa bình, yên vui của nhân dân, bảo vệ nhân

quyền cho mọi người và để tăng cường hòa hợp dân tộc”.

Đúng như ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, đòi hỏi những sỹ quan thua trận “tiếp thu

ánh sáng chính nghĩa” từ những người đưa mình vào tù là một yêu cầu quá cao.

Cán bộ quản giáo miền Bắc, những người trực tiếp giáo dục lại các “ngụy quân và

ngụy quyền” là những người lớn lên trong một xã hội hoàn toàn khép kín. Những

giai thoại nói mấy chú bộ đội ngày mới vô, thấy Sài Gòn giàu có, đã giữ tư thế cho

miền Bắc xã hội chủ nghĩa bằng cách khoe: “Ngoài đó, ti vi tủ lạnh chạy đầy

đường”, không chỉ là những chuyện kể khôi hài. Chuyện bộ đội tiếp quản biệt thự,

cao ốc, nhìn thấy cái bồn cầu sứ trắng tinh tưởng là bồn rửa rau, cho rau vào, giật

nước, thấy rau trôi mất bèn kêu: “Bọn tư bản nó gài bẫy” cũng không hẳn là tiếu

lâm chính trị.

Hầu hết bộ đội miền Bắc đều ra đi từ những làng quê nghèo đói. Đến khi vào tới

Sài Gòn thì đến Đài Tiếng nói Việt Nam cũng ít có dịp được nghe, sách báo thì ngay

cả Thép Đã Tôi Thế Đấy, Rừng Thẳm Tuyết Dày… cũng không đủ đọc. Họ được dạy

rằng người dân miền Nam đang phải rên xiết, lầm than; nhiều thanh niên miền Bắc

trong ngày 30-4-1975 còn ước ao được nhanh chóng vào Nam để giáo dục những

thanh niên lầm đường lạc lối.

Không ít quản giáo khi tiếp xúc với những sỹ quan được đào tạo chính quy của

miền Nam đã nhận ra sức hiểu biết của mình đang ở đâu. Cũng có những người vì

mặc cảm đã dùng quyền uy lấn át. Nhưng cũng có những người tiếp tục trung

thành với những gì được dạy. Sự say sưa làm “thầy” của họ đã tạo ra không ít tình

huống trớ trêu.

Theo ông Nguyễn Văn Trân116, người được bổ sung vào Trung ương Cục đầu

tháng 4-1975, chủ trương từ trước của Bộ Chính trị là: Số nguy hiểm thì đưa ra

miền Bắc cải tạo, số không nguy hiểm thì để lại trong Nam. Bản thân những người

trong cuộc cũng nhận thấy những người được cải tạo ở miền Nam thì cuộc sống có

phần nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Những người “tù nặng, tù lâu” thì ra Bắc.

Những năm đầu việc cải tạo do bộ đội quản lý, kể từ sau cuộc chiến tranh biên giới

17-2-1979, tù cải tạo được chuyển dần sang các trại ở Nam Hà, Thanh Hóa.

Không chỉ bị hành hạ về tinh thần, thật khó lý giải vì sao những người chiến

thắng lại giam giữ những đối thủ đã đầu hàng mình lâu như vậy. Cho tới đầu thập

niên 1990, những người lính biệt kích bị bắt hồi đầu thập niên 1960, những tù binh

“Ngụy” bị bắt hồi Mậu Thân (1968), hồi Chiến dịch Hạ Lào 1971 vẫn còn phải đang

“cải tạo”.

Nhà thơ Tô Thùy Yên, sau mười năm ở tù về đã viết:

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cám ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin ruới xuống

Giải oan cho cuộc bể dâu này…

Cải tạo không chỉ là câu chuyện của từng số phận mà còn là một phần trong

“cuộc bể dâu” cuối thế kỷ 20 của Việt Nam.

Chương III: Đánh tư sản

Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của

mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi

chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh

đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền

Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị

“đánh”.

“Chiến dịch X-2”

Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài

Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà

Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ

tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi

Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm

gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê…”117. Hơn bảy giờ

trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu

đã bị bắt.

Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, danh sách “tư

sản mại bản” bị đánh trong đợt này chủ yếu tham khảo từ một tài liệu về “Chính

sách hậu chiến” được viết năm 1974 của Chính quyền Sài Gòn, trong đó có phần

đánh giá vai trò lũng đoạn thị trường của các “vua” người Hoa ở Chợ Lớn. Giờ G của

Chiến dịch X-2 lúc đầu được định là 5 giờ sáng ngày 10-9-1975, sau do trục trặc

trong “hợp đồng tác chiến”, tin tức bị lọt ra, nên phải triển khai từ lúc 12 giờ khuya

ngày 9-9-1975. Hơn 10.000 công nhân, học sinh, sinh viên đã được điều động áp

sát các mục tiêu. Hàng vạn “quần chúng” khác được đưa xuống đường để gây áp

lực về dư luận118.

Về lý luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch” nên

phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rõ là “đánh”. Tài liệu đã

dẫn viết tiếp: “Phản ứng của địch nói chung là yếu. Tư sản mại bản đối phó chủ yếu

bằng cách phân tán tài sản cho bà con thân thuộc. Số đã bị bắt thì tuy hoang

mang, sợ sệt nhưng lại tiếc của nên ngoan cố, không chịu khai ra của chìm, tiền

bạc, hột xoàn”119.

Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung

ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các

đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả

“kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà,

thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị

yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để

buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã

kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.

Trong buổi giao ban của Thường vụ Trung ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày 10-9-

1975, tại Dinh Độc Lập, với sự có mặt của ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục,

ông Nguyễn Văn Trân, ủy viên thường vụ, cùng các lãnh đạo Quân quản như

Nguyễn Võ Danh, Phan Văn Đáng…, ông Mai Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ

mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm.

Ông Mai Chí Thọ tuyên bố: “Một tên tư sản Hoa có thể có từ 500 đến 1 ngàn

lượng vàng. Qua chiếm lĩnh và khai thác ta mới hỏi sơ chứ chưa lục xét, chưa truy

sâu nên có thu được vàng và ngoại tệ, nhưng so với số chúng đã có thì chưa bao

nhiêu. Vì vậy, các đoàn cần đi sâu lục soát hơn nữa trong nhà chúng để truy vàng

bạc và ngoại tệ. Phải dựa vào quần chúng, người làm công ở mướn phát động họ để

phát hiện nơi giấu cất”. Một tuần trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăng

quá cao, chính quyền đã “đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường,

nhất là thị trường bột ngọt121.

Đổi tiền

Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất

cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của

chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp

những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ

Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.

Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung

ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn

chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt

bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123. Với

nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chính

phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn

chế.

Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ”-

500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng

Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi

người 15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi

100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng;

khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên

lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền

hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết

kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.

Chập tối ngày 21-9-1975, ngành ngân hàng huy động 10.000 cán bộ. Bộ Tư

lệnh thành huy động 17.921 bộ đội; các quận huy động 35.000 người. Tất cả được

đưa đến các quận, các khu vực, mà không biết trước sẽ được giao nhiệm vụ gì. Họ

phải kê khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo người và từ đó, “nội bất xuất,

ngoại bất nhập”. Trong đêm 21-9, họ được tập huấn công tác thu đổi tiền. Đúng 2

giờ sáng ngày 22-9-1975, họ được triển khai xuống các “bàn đổi tiền”.

Theo kế hoạch, đúng 5 giờ sáng, mọi công tác chuẩn bị phải hoàn tất. Tuy

nhiên, “do điều động một số lượng người khổng lồ và phải chuyển tài liệu xuống tận

các ‘bàn’, nhân sự lại chỉ được tập huấn vội, trong khi lại phải kê khai và xét duyệt

mất nhiều thời gian, nên công tác kê khai, đăng ký cho đến 11 giờ ngày 22-9-1975

vẫn chưa xong. Trước tình đó, Ban thu đổi Thành phố quyết định kéo dài thời gian

đăng ký kê khai tới 21 giờ ngày 22-9-1975 và chỉ thị cho các quận coi đây là khâu

quan trọng nhất, là khâu quyết định của chiến dịch đổi tiền. Đến ngày 23-9-1975,

các nơi bắt đầu thu tiền cũ, đổi tiền mới cho đồng bào nhưng do tình hình phức tạp,

đồng bào vẫn kéo tới đăng ký kê khai với nhiều lý do: hai ba hộ, trong một nhà [hộ

ghép] chỉ mới hưởng được tiêu chuẩn của một hộ; đến trễ hoặc đến mà nhân viên

đổi tiền làm không kịp… Trong tình hình đó, Ban thu đổi tiền phát hiện được âm

mưu phân tán tiền của tư sản nên quyết định chấm dứt việc đăng ký kê khai tại

bàn”124.

Có những sỹ quan đang ngồi trong trại tập trung cải tạo khi nghe thông báo đổi

tiền mới giật mình vì không ai ở nhà biết nơi giấu tiền. Năm ngày sau, Chính phủ đã

phải lập “hội đồng cứu xét từng trường hợp” và có sỹ quan từ trại cải tạo đã được

đưa về tận nhà để chỉ cho gia đình nơi giấu tiền.

Quyết định đổi tiền được báo Sài Gòn Giải Phóng coi là để kết thúc “30 năm

sống dơ và chết nhục của đồng bạc Sài Gòn”125. Đồng tiền Sài Gòn bắt đầu được

phát hành ngày 1-1-1955, được Chính quyền mới gắn cho nhiều tội lỗi126. Ba ngày

sau đổi tiền, báo Đảng ở Sài Gòn viết: “Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai

sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu

từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau

bao nhiêu thế kỷ mất nước, phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang”127.

Không biết “tủi nhục” đã mất đi bao nhiêu sau Chiến dịch X-3, nhưng rất nhiều tiền

bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.

Kể từ sáng 23-9-1975, những ai còn đồng bạc của chính quyền Sài Gòn cũ mà

chưa đăng ký thì coi như hết giá trị. Sáng sớm ngày 23-9-1975, ông Phạm Văn Tư

chở vợ, bà Võ Thị Mai, từ thị trấn Sông Mao, Hải Ninh, Bình Thuận vô Phan Thiết

sinh. Vừa rạng sáng thì xe ông bị chặn lại. Du kích cho biết là có lệnh không cho bất

cứ ai ra ngoại tỉnh nhưng khi thấy một bà bầu đang ôm bụng, họ hội ý rồi cho đi.

Đưa vợ vào nhà bảo sanh xong, để cô con gái Phạm Thị Mai Hoa128, năm ấy lên tám

tuổi ở lại, ông Tư nhanh chóng quay về nhà.

Do thường xuyên cần tiền cho trại cưa hoạt động nên khi ấy nhà ông có tới ba

bao tải tiền mặt trị giá gần 7.000 lượng vàng. Đến nhà, ông Tư phân tán tiền định

nhờ bà con mỗi người đổi giùm một ít nhưng kế hoạch bị bại lộ. Du kích bao vây

nhà ông, bắc loa tuyên bố: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Hôm sau, những bao

tiền đó bị ném tung ra, bay trắng cả vườn.

Ông Phạm Văn Tư chỉ là một chủ trại cưa, nhưng khá “có tiếng” ở thị trấn Sông

Mao, nên khi ở Sài Gòn, “tư sản mại bản” bị đánh, địa phương bắt đầu quản lý trại

cưa của ông. Ông Tư cùng một người Hoa, ông Kim Ký, mua lại trại cưa này năm

1964, khi “Việt Cộng” bắt đầu nắm giữ các khu rừng, dân kinh doanh liên quan đến

gỗ phải đi dây để không làm mất lòng hai phía. Chiến tranh càng lan rộng, thị trấn

Sông Mao trở nên nhộn nhịp khi trở thành căn cứ của Sư đoàn 23 Quân lực Việt

Nam Cộng hòa, công việc làm ăn của ông Tư càng thêm phát đạt.

Vào những ngày cuối tháng 3-1975, ông Kim Ký ,người đã chạy khỏi Trung Quốc

năm 1949, khuyên ông Tư nên di tản. Nhưng ông Tư không dễ gì từ bỏ một sản

nghiệp đã gây dựng cả cuộc đời, không dễ gì ra đi không biết nơi đến thế nào với

bảy người con đang tuổi ăn học. Trong khi đó, những Việt Cộng mà ông Tư gặp

trong rừng cũng khá dễ thương. Khi ông cung cấp đèn pin, đá lửa, thuốc ký ninh,

họ đã trấn an ông rằng ông vẫn được tiếp tục làm ăn như cũ. Khi những người có

máu mặt trong vùng lặng lẽ tới Phan Rí xuống tàu, vợ chồng ông Tư vẫn ở lại.

Ngày 10-9-1975, Chính quyền ập vào nhà kiểm kê từng lưỡi cưa, vòng bi trong

nhà ông và tuyên bố quản lý xưởng cưa. Ông Tư hôm ấy vẫn chưa ý thức được là

tài sản của ông đang bị tước đoạt. Sáng hôm sau, như thường lệ, ông vẫn mang

xuống xưởng một ấm nước chè cho anh em thợ. Vừa tới xưởng, ông bị một người

thợ chặn lại: “Trại cưa này không còn là của ông, từ giờ nó là của công nhân, ông

không được đến đây nữa”129. Ông Tư sững lại nụ cười trên gương mặt ông từ từ méo

đi. Hơn mười ngày sau thì xảy ra vụ đổi tiền. Ông Tư gần như phát điên. Cô em vợ

nghe, chạy qua bị du kích chặn lại. Đứng ngoài bìa ruộng, nhìn thấy anh rể mình cứ

cười sằng sặc. Thương anh, cô chỉ biết một mình lặng lẽ khóc.

Ở Huế, chiều ngày 21-9-1975, Hiệu phó kiêm Bí thư Đoàn trường Nguyễn Tri

Phương Trần Kiêm Đoàn130 được Thành đoàn Huế giao phối hợp với Đoàn trường

Đồng Khánh, dẫn 200 đoàn viên theo cửa Thượng Tứ vào Đại Nội. Trước khi đi,

Thành đoàn ra lệnh: “Chuẩn bị khăn gói, thức ăn ba ngày, sẵn sàng chiến đấu”.

Ông Đoàn kể: “Tụi tôi hồi hộp: Mỹ quay lại hay binh lính Sài Gòn nổi dậy? Tới 3 giờ

sáng thì mới hay tin sáng mai đổi tiền. Khi ấy tôi còn trẻ, hào hứng với những cái

mới nên nghe nói một đồng tiền mới giá trị bằng 500 đồng tiền cũ cũng có cái gì đó

tự hào. Sáng ra vẫn tả xung hữu đột đôn đốc đoàn viên hoàn thành nhiệm vụ”.

Nhưng, tới trưa, theo ông Trần Kiêm Đoàn: “Đi đâu cũng thấy dân kêu gào thất

vọng. Ba giờ chiều, tôi tranh thủ về nhà, thấy vợ ngồi thẫn thờ, nước mắt lưng

tròng: Anh! Mình trắng tay rồi!”. Mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa 100 nghìn tiền Sài

Gòn trong khi tiền mặt trong nhà vẫn còn tới gần mười triệu. Không chỉ nhà ông

Đoàn, nhiều gia đình buôn bán ở cửa Đông Ba, hàng xóm của ông, cũng đang kêu

khóc.

Những người càng tin tưởng vào chế độ mới càng mất mát lớn hơn, vì khi chiến

tranh kết thúc, họ đã đào vàng lên bán, lấy vốn kinh doanh. Ông Đoàn kể: “Tôi trở

về Đại Nội. Một vị chỉ huy lực lượng đổi tiền biết chuyện kêu lại nói: ‘Muốn đổi bao

nhiêu cũng được nhưng phải chia 5:5. Về xóm coi có ai thì kêu họ đổi luôn’. Tôi về

lấy tiền và móc nối với mấy người trong xóm. Đúng là đổi bao nhiêu cũng được

thật”.

Gần một tháng trước đó, ngày 28-8-1975, Chủ tịch Hội Đồng Chính phủ Lâm

thời Cộng hòa Miền Nam Huỳnh Tấn Phát đã ký Nghị định “Đình chỉ vĩnh viễn 16

ngân hàng tư nhân”. Ngày 3-9-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng thông báo việc “rút

tiền tiết kiệm”, theo đó, “những người có trương mục dưới một triệu có thể rút dần

tiền về, số trung bình mỗi nhân khẩu có thể rút là 10 nghìn đồng/tháng”, còn

những trương mục trên hai triệu “sẽ được ngân hàng quốc gia cứu xét riêng rẽ”.

Trên thực tế, không mấy ai rút được đồng tiết kiệm nào trước ngày đổi tiền, 22-9-

1975.

Cũng trong ngày 3-9-1975, Ngân hàng Quốc gia tuyên bố “Công khố phiếu

không còn giá trị”, Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các

ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm

ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đã mang

tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lý tài sản của toàn

dân, không lý gì và không có quyền lấy tiền nhân dân trả nợ thế cho Nguyễn Văn

Thiệu”131.

Người dân miền Nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về thì sẽ lấy

kìm rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ai

lường được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như... đổi tiền. Nếu như “đánh tư sản

mại bản” chỉ liên quan đến mấy trăm gia đình, thì đổi tiền và chính sách mới về số

tiền gửi cũ trong các ngân hàng liên quan đến mọi người. Tiền bạc cũng giúp những

người như ông Đoàn hiểu thêm về con người trong chế độ mới.

“Gian thương”

Tháng 8, tháng 9-1975, giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là bột ngọt, tăng

vọt. Chính quyền Cách mạng, lúc này vừa kiểm soát tuyệt đối các phương tiện

truyền thông, đã cho rằng đó là “tội ác của các trùm tư bản”. Báo Sài Gòn Giải

Phóng ngày 27-7-1975 chạy tít: “Cơn sốt bột ngọt đã làm cho đồng bào nhận rõ

bọn trùm gian thương đầu cơ tích trữ”.

Không chỉ có bột ngọt tăng giá. Trước tháng 6-1975, một ký muối bột giá bảy

mươi đồng, đến tháng 8-1975, giá đã lên tới 300 đồng một ký; một viên đá lửa đỏ,

giá tháng 6-1975 là mười đồng, hai tháng sau đã lên đến sáu mươi đồng; giá một

chiếc bu-gi xe lam tăng từ 500 đồng lên 1.100 đồng; một bộ vỏ, ruột xe Honda

tăng 7.000 lên 17.500 đồng. Ngày 30-4-1975, một ký bột ngọt giá chỉ 3.000- 3.500

đồng, đến tháng 8-1975 đã tăng lên 17.000-18.000 đồng.

Ngay trong số báo ra ngày 10-9-1975, Tuổi Trẻ đã có bài “điều tra”, khẳng định:

Nói bột ngọt khan hiếm là vì “đã đưa hết ra Bắc” là một “luận điệu tuyên truyền ác

ôn”. Dẫn lời một “bác Hai” làm nghề khuân vác ở chợ Cầu Muối, bài báo kết luận:

“Bọn gian thương chứ không ai hết. Tụi nó bóc lột xương máu của nhân dân lao

động như thế quen rồi”. Cũng theo một “công nhân khuân vác” được trích dẫn trong

bài báo này thì, “tội ác của bọn chúng, phải tử hình mới thoả mãn ý chí của nhân

dân”. Ở các tỉnh Miền Tây, trong tuần lễ thứ hai của tháng 9-1975 cũng có tới “hơn

năm mươi tay gộc tư sản mại bản đã bị bắt giữ”.

Tài liệu do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt nam, đăng

trên các báo ra ngày 10-9-1975, nêu “mười tội ác” của tư sản mại bản132. Để phân

biệt tư sản mại bản với tư sản dân tộc, ông Nguyễn Nam Lộc, ủy viên Tuyên-Văn-

Giáo của Liên hiệp Công đoàn Thành phố nói: “Ở đây ta không đi sâu vào giải thích

danh từ. Ta chỉ hiểu tư sản dân tộc đại để là những người bỏ vốn ra kinh doanh vừa

có lợi cho họ vừa có lợi cho dân tộc. Họ không dựa vào thế lực kinh tế chính trị của

ngoại bang hay tay sai của ngoại bang”133.

Khi bị Tòa án Nhân dân Đặc biệt đưa công khai xét xử, “một số tên tư sản mại

bản”, trong đó có “tên” Hoàng Kim Quy, đã bị xử “hai mươi năm tù, tịch thu toàn bộ

tài sản”. “Tội trạng” của ông Hoàng Kim Quy được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn

kết luận đanh thép: “Bức thư y [Hoàng Kim Quy] gửi cho Tổng trưởng Ngoại giao

Ngụy thúc giục Chính quyền vay của Ả-Rập Xê-út 500 triệu đô la để mớm hơi cho

chiến tranh Việt Nam Hóa của Mỹ đang phá sản và trả dài hạn bằng cách cho đầu

tư khai thác mỏ dầu ở thêm lục địa Việt Nam. Quy đã suy nghĩ và hành động như

một tên xâm lược Mỹ với ý thức chống cộng sâu sắc, cam tâm bán đứng cả miền

Nam để duy trì chế độ thối nát của Ngụy quyền… Hoàng Kim Quy đã không mơ hồ

về mưu đồ của đế quốc Mỹ. Điều y thật sự mơ hồ là không hiểu hết sức mạnh của

nhân dân ta. Không hiểu hết được thắng lợi thần kỳ của Cách mạng Việt Nam đã

nhanh chóng làm đế quốc Mỹ thất bại và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bóc lột của y

phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới”134.

Cũng với cách luận tội như trên, máy móc nông cụ nhập khẩu của “tên tư sản

mại bản” Lưu Trung được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn gắn với một “âm mưu xảo

quyệt” của “đế quốc Mỹ” dùng viện trợ kinh tế để “biến nông thôn thành chỗ dựa

của ngụy quyền”135. Tiến trình cơ giới hóa của nền nông nghiệp miền Nam được

Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn phân tích: “Thông qua viện trợ Mỹ về nông nghiệp,

chúng tìm cách tạo ra cảnh phồn vinh giả tạo, nhằm lừa mị nông dân, lôi kéo họ ra

khỏi ảnh hưởng của Cách mạng”136. Phiên tòa diễn ra theo thủ tục đặc biệt. Cho dù,

“với bản chất ngoan cố, tên tư sản mại bản Lưu Trung tìm cách nói quanh co để che

lấp phần nào tội trạng của y”137, nhưng mọi lập luận kể cả của bào chữa viên nhân

dân đều bị “tòa bác bỏ”.

Những “tên tư sản mại bản” khác như Lý Sen, kinh doanh sắt thép, Trương Dĩ

Nhiên, “nhập cảng và sản xuất phim ảnh đồi trụy phản động”… cũng đều lần lượt

lãnh án tù. Người dân Sài Gòn khi ấy mới chỉ nghe qua Marx-Lenin, chưa được trang

bị “trình độ lý luận” để hiểu về “tích lũy giá trị thặng dư thông qua bóc lột sức lao

động”, để hiểu vì sao một người mua bán máy nông cơ như Lưu Trung lại liên quan

đến một âm mưu sâu xa “làm dư ra lực lượng lao động nông thôn để cho Chính

quyền Sài Gòn bắt lính”.

Chính quyền Cách mạng đánh giá: “Nhìn chung, các tầng lớp quần chúng cơ

bản, tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ đều phấn khởi và tán thành việc đánh tư

sản mại bản vì ai cũng căm thù tầng lớp tư sản mại bản hại dân, hại nước”138.

Những đánh giá ấy không dựa trên bất cứ một kết quả thăm dò dư luận nào mà chủ

yếu căn cứ vào những phát biểu của lãnh đạo Thành. Theo ông Mai Chí Thọ: “Trong

giới nghèo lao động có dư luận bàn tán cộng sản lấy tiền nhà giàu cho nhà

nghèo”139.

Trước Chiến dịch X-2, chính quyền đã “bắt chín mươi hai tên tư sản mại bản đầu

sỏ, đã mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đã có ba bỏ trốn và một tự sát”140.

Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê:

“Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong

đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng

phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột;

cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho

tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn

nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2

cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn

bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một

trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng;

19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo

rộng 170 hecta ở Đà Lạt”141.

Năm 1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến

hành, lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa. Ngày 10-9-1976, vợ chồng

nhà tư sản người Hoa, ông Đào Tắc Kinh, bị bắt “trong lúc đang dồn tiền và của quý

vào tám va li để chạy trốn”. Sáng sớm hôm ông Đào Tắc Kinh bị bắt, “các lực lượng

quân đội, an ninh võ trang đã bắt giữ nhiều tên tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ

tích trữ, phá rối thị trường” như Lý Hơn, Lâm Huê Hồ, Dương Hải, Trang Trịnh

Nguyên, Mã Tuyên, Trần Thanh Hà, Trần Liệt Hồng, Lý Hấn. Ngay sau khi bắt giữ

các nhà tư sản, chính quyền lập tức trấn áp trên diện rộng về mặt dư luận.

Sáng 11-9-1976, hàng ngàn người Hoa tại Chợ Lớn đã được chính quyền huy

động cho một cuộc biểu tình được báo chí mô tả là “sôi sục căm phẫn tố cáo tội ác

của bọn tư sản mại bản bóc lột và yêu cầu Chính phủ bài trừ chúng tận gốc”. Tối

cùng ngày, gần ba mươi cuộc mít tin đã được tổ chức ở nhiều nơi trong thành phố.

Sài Gòn lại được báo chí mô tả là “sôi sục khí thế cách mạng”.

Chính một số người Hoa được báo chí dẫn lời cho rằng: “Bọn tư sản mại bản Hoa

kiều càng giàu bao nhiêu thì chúng tôi càng cơ cực bấy nhiêu. Phải trừ hết bọn này,

người Hoa mới có thể sống yên ổn và hạnh phúc”. Họ đòi “chánh quyền cách mạng

nghiêm khắc trừng trị bọn tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, phá rối thị

trường, làm giàu trên xương máu nhân dân”142. Những hoạt động quần chúng này,

không chỉ lý giải cho các hành vi bắt bớ mà còn chuẩn bị dư luận cho một chính

sách mới sắp sửa ban hành.

“Thể hiện ý chí, tình cảm và nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta”, trong kỳ

họp thứ nhất khóa VI, “trên cơ sở hoàn toàn tán thành bản báo cáo chính trị của

đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”,

Quốc hội chung cả nước đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt

Nam trong giai đoạn mới là: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến

nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy

mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội

chủ nghĩa; miền Nam đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ

nghĩa xã hội”143.

Ngày 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã ký “Tuyên bố của Chính

phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp

tư bản tư doanh ở miền Nam”. Theo tuyên bố này: “Chính phủ chủ trương xây dựng

nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong cả nước ta và tổ chức cho nền kinh tế ấy thống

nhất trong cả nước; xóa bỏ dần dần những sự khác biệt của mỗi miền: tạo ra

những cơ sở kinh tế cơ bản cho nền kinh tế độc lập, không bị phụ thuộc vào nước

ngoài; tổ chức lại lao động và tạo ra một sự phân phối mới công bằng, bảo đảm đời

sống nhân dân, nhất là nhân dân lao động; xóa bỏ mọi bất công trong xã hội và lối

làm ăn gian dối, phi pháp”.

Cho dù đòi “xóa bỏ tư sản mại bản và những tàn dư bóc lột phong kiến” ở miền

Nam, trong giai đoạn này, chính quyền vẫn chủ trương “sử dụng những nhà tư sản

có vốn liếng, có kỹ thuật, những người làm ăn riêng lẻ, cả những người buôn bán

nhỏ”. Thời gian đầu, các nhà tư sản nhỏ vẫn có thể tự mình kinh doanh trong một

số ngành nghề nhất định nhưng phải chuyển xác xí nghiệp của mình thành công tư

hợp doanh144. Chính phủ cũng đưa ra danh mục “các ngành nghề những nhà tư sản

và tư nhân được kinh doanh”145 rất hạn chế.

Theo bản tuyên bố này, những ngành buôn bán và kinh doanh dịch vụ đều phải

“do nhà nước và các tổ chức quần chúng chịu trách nhiệm”. Nhà nước bắt đầu độc

quyền “nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong

nước và hầu hết hàng hóa thiết yếu”. Nhà nước sẽ “nắm hầu hết xuất nhập khẩu và

cả bán buôn trong nước”. Những tư nhân làm thương nghiệp “sẽ được chọn lọc và

sử dụng một phần làm đại lý cho mậu dịch quốc doanh; còn những người khác, nhà

nước sẽ giúp đỡ chuyển sang sản xuất”. Bản tuyên bố viết: “Dưới chế độ ta, thành

phần kinh tế quốc doanh giữ địa vị lãnh đạo. Đối với công thương nghiệp tư bản tư

doanh, kinh tế quốc doanh có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ… đi dần từng bước

lên chủ nghĩa xã hội thông qua con đường cải tạo”.

Bản tuyên bố ngày 25-9-1976 cũng nhấn mạnh: “Trước giờ phút vinh quang của

Tổ quốc, các nhà tư bản tư doanh hãy nhận rõ nhiệm vụ lịch sử lúc này, nhận rõ

con đường phát triển tất yếu của dân tộc ta, nhận rõ tiền đề xán lạn của Tổ quốc

Việt Nam, mà tiếp thu tốt sự cải tạo xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời tuyên bố khuyến

cáo: “Cùng với nhân dân lao động đi lên theo con đường ấy, các nhà tư bản sẽ có cơ

hội tự cải tạo mình trở thành người đứng trong hàng ngũ đại gia đình dân tộc Việt

Nam. Đó là con đường mở ra một tương lai tốt đẹp cho bản thân mình và cho con

cháu”.

Mãi tới sáng 1-11-1976, tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã mang tên Hội trường

Thống Nhất, Chính quyền mới tổ chức Hội nghị Liên tịch Ủy ban Mặt trận và các

đoàn thể cấp trung ương và thành phố để phổ biến bản tuyên bố ngày 25-9-1976.

Không phải là những người cộng sản từ Hà Nội vào, đoàn chủ tịch hội nghị gồm:

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, khi ấy là phó chủ tịch nước kiêm chủ tịch Ủy ban Trung

ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam; Hoàng Quốc Việt, chủ tịch

Tổng Công đoàn Việt Nam; Luật sư Trịnh Đình Thảo, chủ tịch Ủy ban Trung ương

Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam; Hòa thượng Thích

Minh Nguyệt… Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh Trung ương, ông

Nguyễn Văn Trân, bí thư Trung ương Đảng, người được bổ sung vào Trung ương Cục

trước khi Sài Gòn sụp đổ, cũng có mặt trong hội nghị.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ phát biểu: “Chính phủ đã đề ra chính sách hợp tình hợp

lý đối với các nhà công thương nghiệp tư bản tư doanh, giúp cho họ thấy rõ hơn con

đường tiến lên của Cách mạng và tạo cho họ điều kiện đóng góp công sức cùng với

toàn dân xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc, trong đó

có quyền lợi chính đáng của họ và của con cháu họ”. Còn Trưởng ban Cải tạo

Nguyễn Văn Trân thì ngắn gọn: “Bản tuyên bố của Chính phủ đã mở ra một tương

lai tốt đẹp, một tiền đề xán lạn cho các nhà tư sản công thương nghiệp” 146.

Từ ngày 21-11-1976, giới công thương chỉ phải “đăng ký kinh doanh công

thương nghiệp và dịch vụ tư nhân”. Đến ngày 13-12-1976, 98% “các đơn vị và hộ

sản xuất kinh doanh, dịch vụ” đã khai trình và 93% số hộ này đã được chính quyền

cấp quận “xét” cấp giấy chứng nhận “đã đăng ký kinh doanh”. “Nhiều người khai

trình đúng đắn (nhưng) cũng còn khá nhiều người, nhứt là các hộ kinh doanh lớn

đều khai trình thiếu, sai biệt xa với tài sản họ có thật. Một số người tìm mọi cách

phân tán tài sản nhiều nơi, thậm chí có người dùng xe chở hàng tẩu tán sang quận

khác đã bị bắt quả tang cả người lẫn hàng. Có người gây cản trở, vu khống cán bộ

đi thẩm tra hay dùng thủ đoạn mua chuộc cán bộ, tráo hàng xấu vào hàng tốt”147.

Chính quyền đã gia hạn việc “đăng ký” đến ngày 2-1-1977 và cảnh báo rằng:

“Những hộ nào đã được chánh quyền kêu gọi, giáo dục nhiều lần nhưng không thấy

lợi ích chung xây dựng đất nước mà ... vẫn còn tiếp tục có thái độ chống đối, giấu

diếm, phân tán, không chịu khai trình bổ sung là tự mình tách khỏi hàng ngũ những

nhà công thương chấp hành đúng chánh sách của Nhà nước và bị coi là bất hợp

pháp”148.

Sau khi kê khai, các hộ kinh doanh vẫn được cấp giấy chứng nhận đã đăng ký

kinh doanh và vẫn hoạt động gần như bình thường. Nhưng kể từ đây, ranh giới của

một nhà tư sản dân tộc với “gian thương phá rối thị trường, phá hoại chủ trương”

bắt đầu trở nên mong manh, nhất là đối với một số ngành kinh doanh “phục vụ nhu

cầu thiết yếu của nhân dân”. Một trong những ngành chịu sự cải tạo sớm hơn và

quyết liệt hơn là ngành giao thông vận tải.

Trước 30-4-1975, tại các tỉnh phía Nam, số chủ xe là tư sản chuyên doanh vận

tải ô tô chiếm 3,5%, chủ là tư sản khác kiêm kinh doanh vận tải ô tô là 1%, tiểu

chủ hơn 95%. Ban Cải tạo Giao thông vận tải các tỉnh phía Nam từng đánh giá:

“Trong lực lượng tiểu chủ, đại bộ phận có lòng yêu nước, có cảm tình với Cách

mạng, nhiều người đã là cơ sở tốt nuôi giấu cán bộ, chở người, chở vũ khí ra vào

thành phố, ủng hộ vật chất cho Mặt trận Giải phóng. Chính lực lượng này theo lời

kêu gọi của Mặt trận, sự huy động của Ủy ban Quân quản đã tự nguyện mang hàng

trăm xe chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, hậu cần cấp tốc hành quân truy kích địch ở

phía Nam”149. Những công lao được ghi nhận này đã không giúp họ giữ được nghề

nghiệp và xe cộ.

Ngay từ đầu, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra chỉ thị: “Công tác

cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với lực lượng vận tải tư doanh ở miền Nam

đang được triển khai và yêu cầu phải làm gấp”150. Một thứ trưởng của Bộ Giao thông

được cử vào Nam và ngay sau đó, xe cộ, kể cả xe của các “quần chúng yêu nước”,

đều bị sung công. Đây không chỉ là một chính sách riêng lẻ của chính quyền Việt

Nam. Vận tải là ngành, theo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, phải do nhà nước thống

nhất quản lý.

Từ tháng 2-1977 đến tháng 9-1978, Ban Cải tạo đã “trưng mua và mua, trưng

thu và tịch thu” hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân151. Nói là mua và trưng

mua, nhưng thực chất, “giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ tương đương với

1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi

không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết thì

khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô”152.

Trước ngày 30-4-1975, ông Trần Văn Thành153 là chủ xe ca chạy tuyến miền

Trung. Cuộc sống gia đình ông được mô tả là “thường ăn cơm tiệm và cuối tuần

thường đi mua sắm”. Sau “giải phóng”, gia đình ông phải vạ vật trong những chuổi

ngày khó khăn: “Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm

độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người

thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải

trên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng

lậu để bù vào tiền xăng dầu, bơm vá”154.

Nhưng sự thiếu thốn chưa phải là tất cả những gì mà những người kinh doanh

trong ngành phải chịu đựng. Từ lái xe, năm 1973 ông Thành mua được một chiếc

xe ca trị giá 3,5 triệu đồng155. Nếu thời cuộc không thay đổi, công việc kinh doanh

thuận lợi có thể giúp ông Thành lập được một hãng xe. Nhưng cũng như các chủ xe

khác, ông Thành đã phải “bán” xe cho Nhà nước. “Bán xe xong, ai biết lái xe thì

được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn luơng theo quy định. Ai

không biết lái xe thì coi như mất xe… Có những ông chủ hãng xe 30-40 chiếc, cai

quản hàng trăm lái, phụ xe, sau cải tạo muốn quá giang 30-40km nếu không mua

được vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin

mãi mới được làm phụ xe, rồi còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi

khi trái ý”156.

“Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”

Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất

miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai

năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là

“Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển

khai với “bàn tay sắt”.

Lý do của đợt cải tạo này được nói trong Thông báo ngày 23-3-1978 của Ủy ban

Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Các nhà tư sản thương nghiệp, bằng hoạt động

đầu cơ, buôn bán chợ đen, tích trữ hàng hóa và tiền mặt đã lũng đoạn kinh tế và thị

trường, nâng giá hàng hóa bán ra, phá rối việc thu mua của nhà nước, gây cảnh

hỗn loạn thị trường để làm giàu bất chính, thậm chí tung hàng giả ra thị trường để

gạt gẫm và bóc lột người tiêu dùng. Họ dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt móc hàng của

xí nghiệp, kho tàng nhà nước, ăn cắp những bí mật kinh tế quốc gia, nhằm đục

khoét kinh tế xã hội chủ nghĩa đang bước đầu xây dựng và làm hư hỏng một số cán

bộ nhân viên nhà nước, rồi qua đó mà nói xấu chế độ”157. Cơ sở pháp lý của đợt “cải

tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”, được nói là theo Quyết định số 100 CP ngày

12-4-1977, nhằm “xây dựng nền thương nghiệp xã hội chủ nghĩa” theo hướng

“chấm dứt kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư sản, chuyển các nhà tư sản

thương nghiệp sang sản xuất”.

Trước đây, khi Trưởng Ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa Trung ương Nguyễn Văn

Linh gặp giới công thương, “nhiều anh chị em công thương” khi phát biểu ý kiến, đã

“hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Thậm chí có

những ý kiến đã “nói lên những tồn tại của giới công thương”, chỉ trích “một số nhà

công thương còn theo lối kinh doanh cũ, vi phạm các chính sách luật lệ của chính

quyền cách mạng”. Lần ấy, sau khi “nêu lên chính sách đúng đắn, có tình, có lý của

đảng và nhà nước”, ông Nguyễn Văn Linh đã “kêu gọi các nhà công thương… ra sức

cải tạo bản thân, đem hết khả năng và những hiểu biết của mình để tham gia xây

dựng tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã

hội”158. Sau hai ngày làm việc ấy, ông Linh “hẹn sẽ có dịp nói chuyện” một cách đầy

đủ hơn về chính sách cải tạo.

Nhưng bản thân ông Nguyễn Văn Linh cũng chưa hình dung được ý đồ cải tạo

của ông Lê Duẩn. Đầu năm 1978, chức trưởng Ban Cải tạo mà ông Linh đang nắm

giữ được Tổng Bí thư Lê Duẩn trao lại cho ông Đỗ Mười. Ngày 16-2-1978, sau khi

Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký “Chỉ thị 115”, ông Đỗ Mười đưa quân tập kết vào Sài

Gòn để bắt đầu kế hoạch.

Sáng 23-3-1978, khi người dân Sài Gòn chưa kịp thức dậy thì trước những cửa

tiệm, lớn có, nhỏ có, đã lố nhố từng tốp thanh niên, mặt mày nghiêm trọng. Họ chỉ

chờ chủ nhà thức dậy là ập vào, kiểm kê, niêm phong hàng hóa và bắt đầu chốt

giữ. Đêm hôm trước, toàn bộ lực lượng thanh niên đã được Thành đoàn huy động:

sinh viên các trường đại học thì nghỉ học, công nhân trong các nhà máy thì nghỉ

làm, những người chưa có công ăn việc làm thì được phường trưng dụng.

Cũng trong buổi sáng hôm đó, các báo cho đăng Quyết định 341/QĐ-UB của Ủy

Ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, công bố năm điều quan trọng của chính sách

cải tạo: Đình chỉ mọi hoạt động kinh doanh thương nghiệp của tư nhân; ra lệnh

kiểm kê hàng hóa tồn kho; cấm các nhà tư sản làm nghề buôn bán và “khuyến

khích” họ chuyển sang sản xuất159.

Người ký Quyết định 341, ông Vũ Đình Liệu160, thừa nhận: “Quyết định được ký

nhân danh Ủy ban, lực lượng nói là của Thành phố, nhưng nòng cốt là Trung ương

đưa vô, kế hoạch Trung ương đưa vô. Ở cấp Thành phố cũng có Ban Cải tạo nhưng

từ thành phố cho tới quận huyện đều có người được ông Đỗ Mười đưa từ Hà Nội

vào. Họ mới là người đưa ra quyết định. Đau xót nhất là họ cứ theo tiêu chí tư sản

Hà Nội để áp dụng cho Sài Gòn. Quy sai thành phần đã khiến cho cải tạo trở thành

cuộc chiến trên diện rộng”161.

Theo ông Nguyễn Văn Trân, viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương: “Khi bắt đầu

chiến dịch, Bộ Chính trị chuyển anh Nguyễn Văn Linh sang làm Dân vận rồi đưa anh

Đỗ Mười vào vì anh Đỗ Mười đã làm cải tạo công thương nghiệp ở Hà Nội. Anh Mười

vào Sài Gòn áp dụng y chang những gì đã làm ở miền Bắc trong năm 1960”. Theo

ông Hoàng Tùng: “Năm 1955, khi đánh tư sản ở Hải Phòng, Đỗ Mười cũng cho xóa

sạch”. Ông Hoàng Tùng thừa nhận là thoạt đầu ông đã cùng ông Đỗ Mười vào Nhà

khách Trung ương tại Sài Gòn (T78), viết bài ủng hộ chiến dịch này, nhưng sau

thấy Đỗ Mười đánh cả tiểu thương ông bỏ về. Ông Mười hỏi: “Sao về?”. Hoàng Tùng

nói: “Tôi theo anh, tôi sa lầy”.

Trong suốt thời gian đặt “Tổng hành dinh” tại Thủ Đức, ông Đỗ Mười ít khi xuất

hiện công khai. Nhưng quyền lực của ông là bao trùm và cách mà ông tiến hành thì

cứng nhắc đúng như những giai thoại về ông lúc đó162. Theo ông Đỗ Hoàng Hải, đại

biểu Quốc hội Khóa IX, người được phân công “phát động giai cấp công nhân tham

gia” lực lượng cải tạo: Cứ “đánh” xong ngành nào thì các ngành tương ứng từ Trung

ương - phần đã vào từ trước, phần mới vào theo ông Đỗ Mười - lập tức nhảy vào

tiếp quản. Ví dụ Bộ Công nghiệp nhẹ tiếp quản ngành Dệt; Bộ Giao thông tiếp quản

các cơ sở liên quan đến xe cộ, bến cảng; Liên hiệp Công đoàn Giải phóng thì tiếp

quản số 14 Cách Mạng Tháng Tám, nơi vốn là trụ sở Liên đoàn Lao động của Trần

Quốc Bửu.

Ông Đỗ Hoàng Hải nói: “Lực lượng công nhân do tôi chỉ huy lúc đó hết sức phấn

khởi vì Thành ủy dành 35% quỹ nhà cải tạo chia cho giai cấp công nhân, coi như đó

là một chính sách lớn của Đảng đối với thành phần nòng cốt. Ngày cao điểm, chúng

tôi huy động tới 3000 công nhân, sáng ra phát cho mỗi người một ổ bánh mì rồi khi

có lệnh là lên xe đến ‘chốt’ nhà của ‘tư sản’. Trước đó, những lực lượng khác đã xộc

vào các cửa hàng, phát hiện, kê biên hàng hóa, đồng thời ‘đấu tranh chống các

hành vi xấu”.

Cán bộ làm công tác cải tạo được mô tả: “Đã nhã nhặn, đúng mực, nhưng rất

cương quyết, dứt khoát, trong sạch; đã làm thất bại một số vụ mua chuộc xấu xa

của giai cấp tư sản. Nhiều công nhân lao động chẳng những phát hiện các hộ tư sản

thương nghiệp lọt sổ, tố giác các kho hàng cất giấu, mà còn cương quyết từ chối và

đấu tranh chống lại hành động hối lộ của một số hộ tư sản”163.

Một nhân viên cải tạo từ chối nhận hối lộ đã được Ban Chỉ đạo “thông báo cho

toàn quận và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản vào tối ngày 26-3-1978

ngay tại nơi cô tham gia công tác cải tạo”. Người dân cũng được phát động để “kịp

thời phát hiện, phê phán, đấu tranh, tố giác, chống những hành vi xấu như hối lộ,

tẩu tán hàng hóa, tuyên truyền xuyên tạc, chia rẽ của một số hộ tư sản không thức

thời”164.

Hầu như không có chống đối, chỉ một số tư sản người Hoa phản ứng ở mức thăm

dò. Vào lúc 7 giờ sáng ngày 23-3-1978, khi xuống một phường ở Quận 5, ông Mai

Chí Thọ được báo cáo: “Nhiều nhà tư sản biết trước lệnh cải tạo đã khóa cửa bỏ đi,

cán bộ tới không có chủ nhà để đưa lệnh kiểm kê tài sản”. Ông Mai Chí Thọ suy

nghĩ rồi ra lệnh: “Cho niêm phong tất cả cửa ra vào, cho một tổ chốt trước nhà

những người đi vắng. Thông báo cho họ một thời hạn, nếu không tự giác thì các

đồng chí cứ cho phá cửa vào lập biên bản”165. Trừ một số trốn đi luôn, phần lớn đã

trở về chịu để chính quyền kê biên tài sản.

Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn

ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những

tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600

“tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn,

người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng

thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có

những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng

chất đầy trên chiếu.

Những năm sau 1975, cứ mỗi khi có một thành phần nào đó trong xã hội trở

thành đối tượng của Chính quyền, lại có một thành phần khác, gọi là quần chúng,

được đưa đứng ra lên án. Chín mươi hai nhà tư sản mại bản vừa bị đánh vào rạng

sáng ngày 10-9-1975 thì sáng hôm sau, 11-9-1975, đã có “1.200 nhà tư sản dân

tộc, tiểu thương, tiểu chủ mở đại hội bất thường” tại rạp Rex để “bày tỏ quyết tâm

bài trừ bọn tư sản mại bản, đầu cơ tích trữ, lũng đoạn, phá rối thị trường”166.

Thậm chí, “giới người Hoa tỏ ý muốn Chánh quyền công bố đầy đủ danh sách và

tội trạng của tất cả các tên gian thương đã bị sa lưới. Giám đốc một xí nghiệp tại

Chợ Lớn (xin giấu tên) là người Hẹ, cho biết, theo ông nên tịch thu toàn bộ tài sản

của bọn gian thương, đem xử công khai trước nhân dân và cho bọn này đi cải tạo

lao động lâu dài để chúng biết giá trị của lao động”. Ông giám đốc người Hẹ này khi

ấy chắc không ngờ có ngày mình cũng trở thành đối tượng của “nhân dân lao

động”.

Hai gia đình tư sản

Tuy không sơ khai như thời kỳ Cải cách ruộng đất, nhưng phương thức “đấu

tranh giai cấp” của thế hệ cộng sản sau năm 1975 cũng có những điểm tương đồng.

Ngay từ tháng 9-1975, Đoàn Thanh niên Cộng sản đã “đánh tư sản mại bản” bằng

chính tiếng nói của con cái các nhà tư sản.

Trên báo Tuổi Trẻ, Anh Thanh Tùng, một học sinh người Hoa học lớp 12, trường

Lý Phong, nói: “Bản thân tôi thấy rõ chính sách của chính phủ là đánh bọn gian

thương bóc lột nhân dân chứ không đánh vào người Hoa. Tư sản mại bản đầu cơ

tích trữ thì dù là Việt hay Hoa đều có tội với nhân dân, là kẻ thù của nhân dân”. Ôn

Đường, học sinh lớp 9 trường Việt Tú, thì cho rằng: “Chúng ta phải phát động quần

chúng đứng lên tiêu diệt bọn gian thương”. Còn Lý Mỹ, học sinh lớp 10, trường Lý

Phong, thì nói: “Tôi nghĩ rằng những nhà tư sản nào muốn hợp tác với chính quyền

cách mạng để xây dựng kinh tế thì đó là điều tốt. Nhưng phải tiêu diệt bọn tư sản

mại bản, có như thế mới ổn định đời sống nhân dân”167.

Năm 1978, thay vì chỉ tuyên bố, Lý Mỹ, con gái một nhà tư sản người Hoa, vừa

trở thành đoàn viên, đã dẫn các “đồng chí” của mình vào nhà, chỉ cho họ những tài

sản mà cha mẹ mình đang cố giấu. Cô được ca ngợi trên báo chí: “Hai năm qua đất

nước ta chuyển mình đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng như nhiều bạn trẻ khác, Lý Mỹ

đã hòa mình trong ngọn lửa triều thời đại ấy”168. Chính Lý Mỹ cũng viết trên trang

đầu tiên của nhật ký: “Hãy đấu tranh để giành hạnh phúc”. Nhưng qua những dòng

ghi chép của cô, cuộc đấu tranh ấy không chỉ mang về hạnh phúc169.

Lý Mỹ thuộc thế hệ trưởng thành trong khuôn viên Thành đoàn170, đọc Pavel

Korchagin và được nghe các nhà lý luận từ miền Bắc vào giảng giải luận điểm của

Marx về kinh tế. Một bên là những niềm tin mới của cô về một xã hội tốt đẹp, một

bên là kế sinh nhai của gia đình. Từ tháng 6-1977, khi cải tạo chưa bắt đầu, Lý Mỹ

đã phải “nuốt nước mắt” để thuyết phục cha mẹ mình nghe theo những gì cô được

Đoàn dạy bảo. Lý Mỹ nói với má: “Sống như vậy con thấy phi pháp quá”. Gia đình

Lý Mỹ khi ấy có một cửa hàng kinh doanh vải trên đường Cách Mạng Tháng Tám.

Khi Nhà nước “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Lý Mỹ đang là học sinh lớp

12C, trường Trần Khai Nguyên. Ngày 23-3-1978, khi “nhiều toán thanh niên đóng

chốt ở những cửa hàng lớn” trên con đường mà cô đi qua, Lý Mỹ viết: “Rồi đây cuộc

sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn khi

những ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày hôm nay - ngày mở đầu

một cuộc đấu tranh lớn”.

Trong những ngày sau đó, Lý Mỹ đã “bám từng giây, từng phút để vận động gia

đình kê khai tài sản". Báo Tuổi Trẻ theo sát, tường thuật từng lời nói, hành động

của cô. Cái ngày mà toàn bộ gia sản của gia đình bị kê biên, Lý Mỹ đã không giấu

được niềm vui hoàn thành nhiệm vụ: “Mỹ kêu mẹ đi ngủ để mình làm công việc kê

khai cùng với toán công tác đang chốt tại đấy. Đêm 24-3-78, Mỹ thức đến ba giờ

khuya - không phải để thao thức, trăn trở trong sự khổ sở - mà để sao bốn bản kê

khai trong một sự vui sướng tràn trề. Lòng Mỹ rộn ràng như lần đầu tiên biết mình

được đứng vào hàng ngũ của Đoàn” 171.

Cuốn Nhật ký của Mỹ khép lại vào lúc 3 giờ sáng ngày 25-3-1978: “Má đã yên

tâm rồi. Còn mình lại càng yên tâm hơn khi gia đình mình đã chấm dứt quá khứ từ

ngày hôm qua để chuẩn bị bước vào tương lai. Mình không còn mặc cảm với bạn

bè, nhân dân lao động vì gia đình mình không còn sống bằng nghề bất chính. Mình

đã đấu tranh, đã thực hiện được lý tưởng, ước mơ của mình. Hãy cất cao tiếng hát,

hãy tiến lên. Không có gì có thể ngăn cản được bước tiến của mình. Mình trở lại

phấn khởi rồi, vui quá!”. Nhưng điều mà lúc ấy Lý Mỹ tưởng là niềm vui, rồi sẽ

khoét vào lòng cô một như vết thương - một vết thương không bao giờ có khả năng

khép lại.

Cho dù được báo Nhân Dân172 ca ngợi, được đoàn viên từ khắp nơi trong cả nước

viết thư thăm hỏi, động viên và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, Lý Mỹ cũng chỉ là một sản

phẩm hy hữu của Thành đoàn. Con cái của các nhà tư sản khác, trong những ngày

ấy, đã bị buộc phải trưởng thành để cùng cha mẹ bảo vệ tài sản gia đình trước nguy

cơ cải tạo. Gia đình ông Võ Quang Trữ, một trong những người giàu có ở Sài Gòn

lúc bấy giờ, là một ví dụ.

Năm 1960, ông Trữ đưa gia đình di cư từ Quảng Nam vô Sài Gòn. Thời gian đầu,

chồng làm thư ký cho một công ty, vợ làm thợ dệt. Khi đó, xứ Bảy Hiền còn rất

hoang sơ. Chỉ một thời gian ngắn sau, ông Võ Quang Trữ cùng một số người di cư

bàn bạc khôi phục nghề dệt của Quảng Nam. Bắt đầu là dệt, kế tiếp là hồ, rồi tiến

tới buôn bán hàng tơ sợi. Từ tay trắng, họ nhanh chóng trở thành những người giàu

nhất.

Sáng 30-4-1975, giữa khi súng đạn vẫn còn đùng đoàng, ông Trữ đã chở con

bằng xe Vespa từ nhà riêng ở 177C Lý Thường Kiệt lên Bảy Hiền lấy gần một trăm

lá cờ Giải phóng về phân phát cho hàng xóm. Nhưng sự hào hứng này của ông

không kéo dài được bao lâu. Một hôm đi làm về, ông thấy, tấm biển “trụ sở công an

phường” tự nhiên được treo lên trước một ngôi nhà của mình ở Bảy Hiền. Khi ông đi

vắng, mấy người “Cách mạng 30-4” mang bảng tới, nói: Chúng tôi muốn dùng tầng

trệt làm trụ sở công an, rồi treo lên mà không chờ chủ nhà đồng ý.

Sau Chiến dịch X-2, quan sát bạn bè bị “đánh tư sản mại bản”, ông Trữ đi trước

một bước bằng cách đưa nhà máy với hơn 5.000 công nhân của mình “hiến” cho

Nhà nước dưới danh nghĩa lập xí nghiệp “công tư hợp doanh”173, rồi nhận chức phó

giám đốc trong nhà máy của mình theo sự phân công. Một số lớn máy móc và tiền

bạc khác được ông Trữ đưa về quê, xây thêm hai nhà máy công tư hợp doanh, rồi

hiến cho Đà Nẵng.

Ngay trong ngày 23-3-1978, một tổ cải tạo năm người đã đến chốt trước tiền

sảnh ngôi nhà số 57 Hồ Tấn Đức nơi gia đình ông Trữ đang cư ngụ. Họ ở đó hai đợt,

tổng cộng sáu tháng. Võ Quang Dũng, con trai ông Trữ, sinh năm 1964, kể: “Hàng

ngày bắt đầu từ sáng sớm, họ thẩm vấn từng thành viên trong nhà, lặp đi lặp lại

gần như chỉ một câu: tiền vàng giấu ở đâu?”. Không ai, kể cả vợ con, biết vàng ông

Trữ giấu ở đâu. Gần như không có một viên gạch nào ở trong nhà là không bị cạy

lên. Nhưng những mưu sâu kế dày mà trước đây các gia đình Cách mạng đã dùng

để qua mặt cảnh sát Sài Gòn, nuôi giấu cán bộ, giờ đây được chính nhân dân áp

dụng một cách triệt để thoát khỏi Chính quyền Cách mạng.

Ngay từ rất sớm, ông Trữ đã có các phương án đề phòng. Ngày 26-11-1975,

một toán năm tên cướp có vũ khí đột nhập vào ngôi nhà 177C Lý Thường Kiệt của

ông, bắn chết bà mẹ già tám mươi tuổi. Vợ ông khi đó đang bị tai nạn, nằm trên

giường, chứng kiến cuộc đấu súng kéo dài giữa công an và tên cướp cố thủ trong

nhà cho đến khi hắn ta bị công an bắn hạ. Sau đó, ông Trữ quyết định chuyển nhà

lên Bảy Hiền. Chính trong thời gian xây nhà 57 Hồ Tấn Đức ở vùng Bảy Hiền, ông

Trữ đã cho làm hai căn hầm bí mật có nhiều tầng: một dưới gầm cầu thang, một

ngay dưới bàn ăn gia đình. Hơn mười nghìn lượng vàng đã được ông xếp trong

những lon guygoz, bọc giấy dầu rồi xếp xuống hầm.

Quan sát thấy lực lượng cải tạo chỉ khám người, túi xách của hai vợ chồng ông

Trữ và của người giúp việc chứ không khám người mấy đứa con - đặc biệt là hai

đứa trẻ: Võ Quang Dũng, mười bốn tuổi; Võ Thị Anh Đào, mười hai tuổi - ông Trữ

bắt đầu cho thực hiện kế hoạch. Mỗi đêm, ông mang lên khoảng năm mươi lượng

vàng. Tới giờ đi học, ông cho vàng vào ruột tượng, buộc ngang bụng Dũng và Đào,

rồi để các con tự đi ra ngoài.

Võ Quang Dũng kể: “Chúng tôi bị tước mất tuổi thơ từ đó. Vốn là những đứa trẻ

vô tư, nhưng hàng ngày hai anh em đều phải đóng kịch, giả vờ vui vẻ ra khỏi nhà,

khi thì với quả bóng, khi thì với một món đồ chơi, để qua mặt tổ cải tạo đang đứng

canh trước cửa. Từ cổng, khi thì xích lô, khi thì taxi, khi thì một bác xe ôm đứng

đón. Họ chở tôi đi một đường, em gái tôi đi một đường. Mỗi ngày, chúng tôi đi đến

một địa điểm mà ba tôi cho biết chỉ vài phút trước khi ra khỏi nhà. Ở đó, một người

được ba tôi đặc biệt tin cẩn và huấn luyện trước đã chờ sẵn, đón chúng tôi, nhận

hàng rồi đi ngay lập tức”.

Công việc vận chuyển vàng ra khỏi nhà trước mắt lực lượng cải tạo trong suốt

sáu tháng trời đã khiến cho cha con ông Võ Quang Trữ trở thành những người có vẻ

ngoài lạnh lùng. Năm 1979, anh em Dũng vượt biên không thành trở về, gặp nhau

ngoài ngõ nhưng cha con chỉ khẽ gật đầu như vừa đi đâu đó ngoài đường về. Mãi tới

khi vào bên trong nhà, ông Trữ mới ôm lấy các con và cả mấy cha con cùng bật

khóc.

Kinh tế mới

Không chỉ bị “tước đoạt tài sản”, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố,

cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa

các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh

bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới

dạng “hỏi-đáp”, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo

chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.

Các nhà tư sản thương nghiệp bị phê phán là chỉ biết “làm giàu, ăn chơi phè

phỡn, bóc lột người lao động và ăn cắp của nhà nước, coi khinh lao động và nói xấu

chế độ” trong khi “ba năm qua trên 700.000 nhân dân lao động hồi hương lập

nghiệp”174. “Về những hành vi tội lỗi đó, nhân dân lao động và chính quyền cách

mạng đã không bắn giết, không bắt giam, không đày ải, không đấu tố, không tịch

thu mặc dù có đầy đủ sức mạnh và lý lẽ để làm như vậy. Nhân dân lao động và

chính quyền chỉ buộc họ chấm dứt những hành vi đó, chấm dứt triệt để và vĩnh

viễn... Không những các nhà tư sản thương nghiệp phải chuyển sang sản xuất nông

nghiệp, nghề cá, nghề rừng là chuyển về các tỉnh, mà cả sản xuất công nghiệp và

tiểu thủ công nghiệp cũng chuyển về các tỉnh, theo sự bố trí màng lưới công nghiệp

và tiểu thủ công nghiệp ở địa phương”175.

Hai ngày sau khi báo Đảng đăng bài “hỏi-đáp” này, một cuộc “hội thảo” kéo dài

hai ngày, 12 và 13-4-1978, với sự tham gia của “hơn 200 trí thức” đã được chính

quyền tổ chức. Phát biểu trong “hội thảo” 176, Bác sỹ Lê Cửu Trường nói rằng: “Lề lối

kinh doanh tư bản chủ nghĩa không thể tiếp tục kéo dài trong một xã hội đang tiến

lên con đường xóa bỏ chế độ người bóc lột người”. Ông Phương Kiến Khánh, người

được giới thiệu là đang công tác ở Phân Viện Nghệ thuật, cho rằng: “Chuyển các

nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất là trả họ về với thiên chức con người, là

giải phóng họ khỏi kiếp ăn bám, bóc lột”.

Tối 17-4-1978, tại sân vận động Thống Nhất, “40.000 công nhân viên chức đại

biểu cho gần nửa triệu công nhân lao động” đã “hưởng ứng chủ trương xóa bỏ kinh

doanh của các tư sản thương nghiệp”. Phát biểu trên sân vận động Thống Nhất,

Chủ tịch Vũ Đình Liệu nói: “Chúng ta đang ở trong giai đoạn đấu tranh giai cấp có

phần gay gắt và cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp tục”177.

Ngày 10-6-1978 là “hạn chót để các nhà tư sản thương nghiệp rời thành phố đi

sản xuất”. Chính quyền ca ngợi những người tích cực đăng ký các chương trình kinh

tế mới nhưng đồng thời cũng nói với họ rằng: “Đây là một chính sách lớn... nhằm

giúp các nhà tư sản tự giải thoát khỏi con đường bóc lột, biến họ từ một lực lượng

phi sản xuất gây tác hại cho xã hội thành một lực lượng sản xuất có ích cho xã

hội”178. Không ít nhà tư sản được trích lời trên báo nói, họ chuyển sang sản xuất là

để “tẩy rửa cái mặc cảm bóc lột tội lỗi” của mình. Nhưng, như phát biểu của ông Vũ

Đình liệu, “cuộc đấu tranh giai cấp” diễn ra ở bên trong từng gia đình đúng là đang

“có phần gay gắt”.

Nhật ký ngày 8-6-1978 của Lý Mỹ cho thấy không khí trong gia đình cô “thật lạ

và căng thẳng”. Ba cô tuyên bố “sẽ đi kinh tế mới” nhưng giọng nói của ông làm

cho cô “nghi ngờ”. Cũng như nhiều gia đình tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa

khác, gia đình Lý Mỹ biết rõ, “kinh tế mới là nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ

không thể nào sống được”. Phần lớn các nhà tư sản sau đó đã vượt biên. Nhật ký

của Lý Mỹ viết: “Cùng gia đình bỏ trốn hay ở lại. Tôi nghĩ, tôi phải can đảm lên,

chấp nhận đấu tranh và mất mát, tôi sẽ không trốn đi nơi nào cả. Nếu gia đình

không lay chuyển, tôi bằng lòng ở lại sống cô đơn, không tài sản của cải gì của cha

mẹ để lại, tôi sẽ gặp vất vả, khó khăn và sóng gió. Đồng chí Paven ơi, nỗi khổ và sự

phấn đấu của tôi có nghĩa gì so với đồng chí”179.

Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác

với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc

nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp

mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn.

Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà

Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn”.

Ngay trong thời gian đang cải tạo, những cuộc tranh cãi nổ ra gần như thường

xuyên giữa ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh với ông Đỗ Mười. Nhưng khi ấy

Đỗ Mười đang nắm trong tay “thượng phương bảo kiếm”. Ông Vũ Đình Liệu thừa

nhận: “Họp Thường vụ chúng tôi cũng có ý kiến, đi cơ sở về chúng tôi cũng có ý

kiến, nhưng bị bên anh Đỗ Mười cự”180. Tuy tranh cãi phương thức, nhưng cả ông Võ

Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh vẫn thống nhất với ông Đỗ Mười về chủ trương. Ông

Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu tôi nhận thức, cải tạo là chuyện tất yếu và coi như

đó là con đường để đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho tới lúc ấy, tôi chỉ đi các nước Đông

Âu, thấy cuộc sống của họ so với mình đã là những gì mà mình ước mơ. Tôi nghĩ,

phải kinh qua những bước như mình đang làm bây giờ mới có ngày đạt được như

những gì họ có”. Nhưng rồi khi nhìn cả thành phố vốn là một trung tâm thương mại

trở nên tiêu điều, tan hoang, nhất là khi nhìn thấy chính những ân nhân của cách

mạng cũng trở thành nạn nhân, những người đã từng bám trụ ở miền Nam, ở Sài

Gòn bắt đầu nhìn lại những gì mà mình đang thực hiện.

Khi ông Đỗ Hoàng Hải mới về 14 Cách Mạng Tháng Tám chuẩn bị “cải tạo tư

sản”, ông Trần Văn Đước - một cơ sở đã từng nuôi giấu và cứu mạng ông Hải trong

Mậu Thân 1968 - ngày nào cũng nấu cơm rồi cho người mang sang. Cũng như trong

chiến tranh, ông Đước không biết rõ ông Hải đang làm gì, chỉ giúp đỡ vì biết ông

Hải là người “bên Cách mạng”. Khi ông Trần Văn Đước chạy đến báo: “Bác bị người

ta mang xe tới chở hết kiếng đi rồi”, ông Hải vẫn tưởng rằng: “Chắc là có sự nhầm

lẫn”.

Con trai ông Trần Văn Đước là liệt sỹ. Tiệm kiếng của ông mở tại nhà riêng ở số

12 Ngô Tùng Châu chỉ là một ngôi nhà cấp 4, chiều ngang bốn mét, dài mười bốn

mét, tường gạch, lợp ngói. Nhưng ông Đước vẫn bị quy vào diện tư sản thương

nghiệp, kiếng hàng hóa và cả nhà riêng của ông đều bị “sung công”. Không chỉ có

trường hợp ông Trần Văn Đước. Năm 1957, ông Lai Ninh đã bất chấp nguy hiểm tới

tính mạng, lái xe đưa ông Lê Duẩn đào thoát sang Phnom Penh trong sự truy lùng

gắt gao của Chính quyền Sài Gòn. Năm 1978, khi ông Lê Duẩn đưa ông Đỗ Mười

vào Nam, nhà máy xay lúa của gia đình ông Lai Ninh đã bị sung công. Con gái ông,

bà Lai Kim Dung, một tư sản người Hoa, cũng bị xếp vào thành phần cải tạo.

“Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Nam, tiến hành

từ sau 1975, đã cải tạo 3.560 cơ sở tư bản tư doanh công nghiệp, trong đó có

1.354 cơ sở của tư sản mại bản bị công hữu hóa, tịch thu, 498 cơ sở bị chuyển

thành công tư hợp doanh; chuyển 5.000 tư sản thương nghiệp sang sản xuất;

chuyển chín vạn tiểu thương sang sản xuất; sử dụng 15.000 người vào mạng lưới

thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Sau Cải tạo, dưới dạng kinh tế quốc doanh và công

tư hợp doanh, Nhà nước nắm: 100% ngành năng lượng; 45% ngành cơ khí; 45%

ngành xay xát lương thực; 100% ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá; 45%

trong các ngành chế biến đường, dầu thực vật; 60% ngành dệt; 100% ngành sản

xuất giấy; 80% ngành sản xuất bột giặt, xà phòng. Thương nghiệp quốc doanh nắm

80% nguồn hàng công nghiệp; 92% số xã trên toàn miền Nam có hợp tác xã mua

bán181.

Trước khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, nhà nước đã tìm mọi cách để tập

trung mọi nguồn hàng vào tay mình. Không chỉ có sản phẩm của các xí nghiệp quốc

doanh phải tiêu thụ qua thương nghiệp của nhà nước, “các xí nghiệp tư bản, các

hợp tác xã, các tập đoàn và cơ sở sản xuất thủ công, cá thể, được nhà nước cung

cấp lương thực, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, điện; cho vay vốn…

(cũng) phải bán sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh”182. Chính quyền tin rằng:

“Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của toàn dân, là người

nội trợ của toàn xã hội”183. Chẳng bao lâu sau, niềm tin này sẽ nhanh chóng tan

thành mây khói.

Chương IV: Nạn Kiều

Năm 1978, Hà Nội phát hiện Bắc Kinh hậu thuẫn cho Pol Pot quấy phá biên giới

Tây Nam. Hơn một triệu người Hoa ở Việt Nam đã trở thành mối lo “con ngựa thành

Troy” cho một cuộc chiến tranh khi ấy được tin là không tránh khỏi. Ba “phương án”

đưa người Hoa ra khỏi Việt Nam đã được triển khai. Bắc Kinh tố cáo Việt Nam gây

ra vụ “nạn Kiều”. Việt Nam tố cáo Bắc Kinh “kích động”. Ở giữa “hai làn đạn”, cộng

đồng người Hoa ở Việt Nam đã phải trải qua cơn biến động không kể hết đau

thương.

Đội quân thứ năm

Đầu năm 1978, ông Lê Duẩn đưa Đỗ Mười vào miền Nam thay thế Nguyễn Văn

Linh chỉ huy công cuộc “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”. Sau năm 1986, sự

kiện này đã được nêu lên như là một bằng chứng để nói ông Nguyễn Văn Linh là

người chống lại cải tạo tư sản. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương, người có sáu

tháng làm phó cho ông Nguyễn Văn Linh ở Ban Cải tạo công thương nghiệp Trung

ương: “Trong vấn đề cải tạo, Mười Cúc chỉ khác Đỗ Mười ở cách làm chứ không khác

ở quan điểm cải tạo hay không cải tạo. Ở thời điểm ấy, Lê Duẩn chọn Đỗ Mười và

đứng sau lưng Đỗ Mười vì ông muốn giải quyết vấn đề người Hoa gấp. Điều mà Lê

Duẩn không tin là Mười Cúc làm được”.

Ông Trần Quốc Hương, khi ấy là phó bí thư Thành ủy, kể lại: Vào Thành phố Hồ

Chí Minh, Tổng Bí thư Lê Duẩn mời ông đến T78, hỏi về tình hình người Hoa. Cả

nước khi ấy có khoảng một triệu hai trăm ngàn người Hoa. Ở miền Nam chiếm một

triệu và riêng Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng hơn nửa triệu. Ông Mười Hương

báo cáo: “Người Hoa ở Thành phố hoạt động trên nhiều mặt, nhưng mạnh nhất là

về kinh tế. Từ sau khi ta chủ trương đánh tư sản mại bản, hoạt động kinh tế của

người Hoa có bị giảm sút, nhưng họ vẫn có vai trò. Giá cả vàng và ngoại tệ cứ mỗi

sáng sớm lại được quyết định bởi người Hoa ở một số nơi trong Chợ Lớn”. Ông Lê

Duẩn nói: “Không thể thế được. Ngô Đình Diệm cấm người Hoa không được kinh

doanh mười một ngành nghề, theo tôi chỉ cần một thôi là cấm người Hoa không

được kinh doanh buôn bán. Nhân có nhiều người đang di tản, thành phố nên có

cách đưa người Hoa ra đi”.

“Người Hoa không được kinh doanh buôn bán” được ngầm hiểu như một tư

tưởng chỉ đạo của chiến dịch “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”. Giữa tháng 3-

1978, ông Đỗ Mười nhanh chóng tập kết lực lượng tại các biệt thự trong khu Thảo

Điền, Thủ Đức. Trưởng Ban Hoa vận Thành ủy, ông Nghị Đoàn, kể: “Ông Đỗ Mười

vào là kêu tôi lên báo cáo ngay, ông nói cho tôi biết, Chợ Lớn là trọng điểm của đợt

cải tạo”.

Chợ Lớn là trung tâm buôn bán lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam. Theo ông

Phạm Văn Hùng, thường gọi là Ba Hùng, Thư ký riêng của ông Võ Văn Kiệt: “Trung

ương cho rằng thật bất lợi khi giữ 500.000 người Hoa trong thành phố. Họ sẽ nắm

kinh tế và rồi họ sẽ trở thành đội quân thứ năm. Trung ương chủ trương đưa bớt

người Hoa ra khỏi thành phố”. Ông Hùng nói: “Cả anh Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ và

Trần Quốc Hương đều không đồng ý, nhưng Trung ương giữ ý kiến, Trung ương

muốn ‘xé’ người Hoa ra, đưa về các tỉnh”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Cải tạo

công thương nghiệp tư doanh, về mặt chính sách, chủ yếu nhắm vào giới buôn bán,

nhưng trên thực tế buôn bán lại là sở trường của người Hoa, do đó, mặc nhiên họ

trở thành số đông trong đối tượng dính vào cải tạo. Cũng có lúc có chủ trương đưa

bớt người Hoa ra khỏi Thành phố, bố trí người Hoa sống xen với người Việt theo

kiểu ‘xôi đậu’, không để họ tập trung. Việc này được làm mạnh tay hơn do căng

thẳng của mình và Trung Quốc”.

Theo thống kê đến tháng 3-1979 của Thành phố Hồ Chí Minh: Trước ngày 30-4-

1975 có 200 nhà tư sản lớn người Hoa bỏ chạy khỏi Sài Gòn - Chợ Lớn; chín mươi

tám tư sản người Hoa trong số 161 tư sản mại bản còn lại ở Sài Gòn đã bị “đánh”

trong khoảng từ tháng 9-1975 đến năm 1977. Hơn 4.000 hộ tư sản người Hoa khác

đã bị cải tạo trong khoảng hai tuần đầu sau khi ông Đỗ Mười bắt đầu chiến dịch.

Trong số 28.787 hộ bị quy là tư sản thương nghiệp và bị cải tạo, ngoài 2.500 hộ “có

công với Cách mạng” hoặc là “cơ sở Cách mạng” được “ở lại thành phố theo diện

chính sách”, một số chuyển sang sản xuất tại chỗ, một số “được bố trí vào mạng

lưới phân phối xã hội chủ nghĩa”, 3.494 hộ bị đưa đi các tỉnh dưới danh nghĩa “đăng

ký đi kinh tế mới”.

Cũng có một số thương nhân dự tính “chuyển sang sản xuất” thật. Nhưng khi

đến Lâm Đồng hay xuống Đồng Tháp Mười, nhìn những căn lán vách lá tuềnh

toàng, bên trong nền nhà, cỏ cây mô đất không kịp cắt dọn, các nhà tư sản hiểu ra

mục tiêu của chính quyền. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy đang là một thanh

niên xung phong, kể: “Chúng tôi được giao nhiệm vụ xây dựng các làng kinh tế mới

để đón đồng bào. Cũng là những thanh niên mới từ thành phố xuống, chúng tôi

chặt cây, cắt tranh dựng cấp tốc hàng loạt... Nhưng, làm xong nhìn lại, thấy đến

thanh niên xung phong cũng khó lòng mà ở trong những túp lều như thế”. Nhiều

người trở lại thành phố ngay, nhiều người tạm dừng lại ít bữa để nghe ngóng. Ít lâu

sau, các nhà tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa, được móc nối, kêu nộp vàng để

được ra đi “bán hợp pháp”.

Ông Trần Quốc Hương nói tiếp: “Lần thứ hai, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho gọi tôi

đến T78. Lần này ông không nói gì nhiều, chỉ nhắc, tình hình giữa ta và Trung Quốc

thêm xấu đi, Thành phố cần khẩn trương đưa người Hoa ra đi”. Sau buổi làm việc

đó với Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quốc Hương nói ông đã có “nhiều đêm không

ngủ”. Trong những năm 1938-1940, các nhà lãnh đạo Đảng như Lê Hồng Phong,

Nguyễn Thị Minh Khai, khi từ Trung Quốc về Sài Gòn, nhiều lúc đã phải dựa vào

người Hoa Chợ Lớn. Trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn có rất ít những liên hệ cá nhân

với các nhà lãnh đạo Trung Hoa Cộng sản. Nhưng người cận vệ vào sinh ra tử nhất

mực trung thành của ông là một người Việt gốc Hoa, ông Năm Hoành. Người lái

chiếc xe Ford bốn chỗ chở ông Lê Duẩn từ Sài Gòn theo đường công khai sang

Phnom Penh cũng là một nhà tư sản người Hoa, ông Lai Thanh. Người được phái từ

Hà Nội vào Phnom Penh chuyển lá thư của ông Phạm Hùng gửi cho ông Lê Duẩn

cũng là người Việt gốc Hoa, nữ tình báo Hồ Anh. Người nhận lá thư này từ Hồ Anh,

ông Q.M., lại là một cán bộ thuộc Hoa Kiều vụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt

động tại miền Nam Việt Nam.

Năm 1949, Q.M. đã gặp ông Lê Duẩn ở Đồng Tháp Mười. Từ Phnom Penh, Q.M.

trong vai một người cháu dẫn “ông cậu” Lê Duẩn “chui” xuống một hầm tàu chật

chội và nóng bức, trong suốt năm ngày, xuôi dòng Mekong ra biển rồi đi tới

Hongkong. Từ Hongkong, cán bộ lễ tân của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chờ sẵn,

dẫn “hai cậu cháu” ông Lê Duẩn đi làm giấy tờ nhập cảnh theo diện “kiều dân Trung

Hoa về nước”. Ngày 23-5-1957, phái viên Trung Quốc đã cùng với Hồ Anh đưa ông

Lê Duẩn về Tỉnh ủy Quảng Châu. Theo bà Hồ Anh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã

đón tiếp ông Lê Duẩn rất trọng thị. Trên đường bay trở lại Việt Nam, những đồng

chí Trung Hoa tinh tế đã lấy lý do “thời tiết xấu”, cho dừng máy bay chở ông Lê

Duẩn ở Nam Ninh. Tại đó, các “đồng chí Trung Quốc” sắp xếp để ông Lê Duẩn có

cuộc đoàn tụ cảm động với Lê Tuyết Hồng, người con gái được sinh ra khi ông Lê

Duẩn đang ở trong tù. Tuyết Hồng khi đó đang được Trung Quốc nuôi ăn học ở ký

túc xá Quế Lâm.

Hiệp định Geneva

Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngồi vào bàn đàm phán Hội nghị Geneva một ngày

sau khi Tướng Giáp bắt sống Tướng De Castries cùng với 16.000 quân Pháp ở Điện

Biên Phủ. Những người Việt Nam Cộng sản lúc ấy tin rằng họ sẽ giành được cả nước

nếu tiếp tục chiến đấu.

Ở Nam bộ, Hiệp định Geneva được coi là “xên non”. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại:

“Tướng Đồng Văn Cống đánh một đêm giải phóng hàng chục đồn; Tây, Ngụy hoang

mang tột độ, cứ hù là chạy. Chỉ cần giữ thêm một tháng nữa là mình sẽ làm chủ

hết vùng nông thôn Nam bộ”. Ông Kiệt nói: “Tụi tôi tiếc không thể tưởng tượng

được”. Khi thay mặt Trung ương triển khai Nghị quyết thi hành Hiệp định Geneve ở

miền Nam, ông Lê Duẩn nói: “Ta không tán thành, đây là do Trung Quốc và Liên Xô

ép”.

Hành động của Chu Ân Lai tối 22-7-1954 cũng khiến cho nhiều nhà ngoại giao

miền Bắc Việt Nam “để bụng”. Hôm ấy, sau khi ký Hiệp định Geneva, Chu tổ chức

một dạ tiệc chia tay, mời cả Ngô Đình Luyện, người của phía Việt Nam Quốc gia.

Trong bữa tiệc, Chu còn đề nghị chính quyền Sài Gòn mở cơ quan đại diện ngoại

giao ở Bắc Kinh: “Tất nhiên, về mặt ý thức hệ thì Phạm Văn Đồng gần gũi chúng tôi

hơn, nhưng điều đó không loại bỏ việc có đại diện từ miền Nam. Suy cho cùng,

chẳng phải tất cả các đồng chí đều là người Việt Nam, và chẳng phải tất cả chúng

ta đều là người châu Á hay sao?”.

Trong hồi ký được công bố chính thức trên báo Nhân Dân184, thư ký kiêm phụ

trách báo chí của đoàn Việt Nam trong Hội nghị Geneva, ông Nguyễn Thành Lê, gọi

sự kiện Chu Ân Lai mời Ngô Đình Luyện mở tòa lãnh sự tại Bắc Kinh là “câu kết với

Pháp và tay sai”. Ông Lê cho rằng “Bắc Kinh đã ép buộc Hồ Chí Minh phải chia đôi

Việt Nam theo Vĩ tuyến 17”. Theo ông Hoàng Tùng, ngày 3-7-1954, sau khi đạt

được thỏa thuận với Mỹ và Pháp, Chu rời Geneva về gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên

Giáp tại Liễu Châu, thông báo với Hồ Chí Minh ý kiến của Molotov và của ông ta, dự

định chia cắt Việt Nam thành hai miền ở Vĩ tuyến 17.

Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh nhất quyết đòi, dẫu có lùi cũng chỉ Vĩ tuyến 15

hoặc tối thiểu là 16. Một mặt, Chu Ân Lai “dọa”, Hoa Kỳ có thể nhảy vào vòng chiến

và khi đó, Liên Xô và Trung Quốc sẽ không thể hỗ trợ cho Hồ Chí Minh. Một mặt,

ông ta mềm dẻo: “Ghi nhớ lời dặn của Hồ Chủ tịch, nhưng xin phép, tướng ngoài

biên ải được căn cứ vào tình hình thực tế mà quyết định”. Theo ông Việt Phương,

một thư ký trong Đoàn đàm phán Hiệp định Geneva của Việt Nam: “Về sau Phạm

Văn Đồng thừa nhận, khi Chu Ân Lai nói sông Bến Hải sẽ được lấy làm giới tuyến,

ông Phạm Văn Đồng không biết là Việt Nam có con sông ấy. Họ đã nghiên cứu kỹ

đến như vậy để ép chúng ta”.

Trung Quốc, Liên Xô rõ ràng đã không làm hết sức mình cho Việt Nam trên “tinh

thần quốc tế vô sản”, nhưng Việt Nam không thể nào độc lập khi không chỉ lệ thuộc

“hai ông anh lớn” về vũ khí để đánh nhau với người Pháp ở Điện Biên Phủ mà còn lệ

thuộc cả phương tiện đàm phán trong Hội nghị Geneva. Theo ông Việt Phương, lúc

đó đoàn đàm phán không có điều kiện để trao đổi với Đảng và Chính phủ. Tất cả

mọi thông tin liên lạc đều phải nhờ qua Trung Quốc. Từng cuộc họp một, Phạm Văn

Đồng báo cáo về cho Hồ Chí Minh đều phải sử dụng điện đài và mật mã của Đoàn

Trung Quốc. Trong thời gian nghỉ, Chu Ân Lai lại bay về gặp Võ Nguyên Giáp và Hồ

Chí Minh. Mọi tính toán của Đoàn và chỉ đạo ở nhà đều ở trong tay Trung Quốc.

Ý thức hệ đã từng tạo ra sự gần gũi giữa Hà Nội với Bắc Kinh. Nhưng mối quan

hệ quá tin cậy lẫn nhau đôi khi lại rất dễ gây nghi kỵ. Trung Quốc, Liên Xô khi xử lý

vấn đề Việt Nam, và ngay cả Việt Nam trong mối quan hệ với người Khmer cũng

phải ưu tiên lợi ích quốc gia. Trong khi đó, những nhà lãnh đạo các đảng “đàn em”

lại chờ đợi các “ông anh” bảo bọc trong tinh thần vô sản. Chính ý thức hệ đã làm

cho những người cộng sản ở nước nhỏ tự huyễn hoặc về sứ mệnh “tiền đồn”185 đi

đến chỗ bị hụt hẫng khi bị đem ra mặc cả cho quyền lợi của các siêu cường khác.

“Chổi ngắn không quét xa”

Nếu như khi ở miền Nam, ông Lê Duẩn chỉ nghĩ đến người Mỹ và kẻ thù trực tiếp

của ông, “chính quyền tay sai” Ngô Đình Diệm, thì khi ra tới Hà Nội, theo ông Đậu

Ngọc Xuân: “Anh Ba đánh giá, muốn đánh Mỹ thì trước tiên phải có ba cái không

sợ: không sợ Mỹ, không sợ Liên Xô, không sợ Trung Quốc. Ông Hoàng Văn Hoan

nghe, tròn mắt: sao nói không sợ Trung Quốc?”. Ông Hoàng Tùng xác nhận: “Cụ Hồ

lúc ấy cũng ở trong tình trạng ‘ngoảnh mặt sang Tề e Sở giận, quay đầu sang Sở,

sợ Tề ghen’”. Ông Đậu Ngọc Xuân kể tiếp: “Trước khi họp Bộ Chính trị bàn về cách

mạng miền Nam, anh Ba mất ba đêm không ngủ để suy nghĩ về thái độ của Liên

Xô, Trung Quốc; họ giúp mình nhưng có chi phối đường lối chiến tranh của mình

không? Đó là cái gay gắt nhất”.

Theo bà Nguyễn Thụy Nga - vợ thứ hai của ông Lê Duẩn, người mà từ năm

1957-1962, khi đang học ở Bắc Kinh, thường tháp tùng Lê Duẩn vào Trung Nam

Hải và được Mao Trạch Đông gọi là “Lý Phu nhân” - năm 1973, từ Khu IX ra Hà Nội,

bà được ông Lê Duẩn tâm sự: “Khi ta chủ trương giải phóng miền Nam, hai ông bạn

lớn đã làm anh rất đau đầu. Liên Xô sợ mình đánh sẽ nổ ra chiến tranh thế giới thứ

III; Trung Quốc muốn mình trường kỳ mai phục ‘chờ Trung Quốc mạnh sẽ đẩy Mỹ

xuống Biển Đông’. Anh không để mất lòng ai nhưng lúc nào cũng phải giữ cho đúng

tính chất độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam”186. Trên thực tế, lập trường của

Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã thay đổi vào giữa

thập niên 1960.

Cuối thập niên 1950, khi ông Lê Đức Anh cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến

Dũng đến Trung Quốc, xin súng trung liên, đại liên và ĐKZ để đưa vào Nam, Trung

Quốc chỉ cho “toàn súng trường K44 bắn phát một, họ bảo để trang bị cho dân quân

du kích miền Nam phòng chống càn”187. Nhưng, cuối năm 1966, khi tháp tùng Thủ

tướng Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc, ông Lê Đức Anh thấy Đoàn đã được đón

tiếp bởi Mao Trạch Đông cùng đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại thương.

Theo ông Lê Đức Anh: “Khi Mao hỏi: ‘Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam đông, tư

tưởng của người dân và chiến sĩ thế nào? Hiện nay cách mạng ở Miền Nam của các

đồng chí có khó khăn gì?’, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đề nghị để ông Lê Đức

Anh trả lời. Tướng Lê Đức Anh nói: ‘Mỹ vào đông vậy chứ đông hơn nữa thì bộ đội

và nhân dân miền Nam cũng quyết đánh. Hiện nay, xe tăng và máy bay của Mỹ rất

nhiều nhưng Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, bắn máy bay và bắn tàu thủy, thiếu

đô la để mua gạo, vì từ trước đến nay cách mạng Miền Nam Việt Nam vẫn mua gạo

ở Campuchia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đô la’. Nghe

báo cáo vậy, ông Mao liền chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông

đang có mặt tại đó: Hãy giải quyết cho các đồng chí Việt Nam”188.

Trên thực tế, mỗi khi miền Bắc điều chỉnh đường lối “cách mạng miền Nam” đều

phải sang bàn với Trung Quốc. Theo ông Hoàng Tùng: “Không bàn thì họ không

viện trợ”. Ông Nguyễn Nhật Hồng xác nhận: “Trung Quốc giao ngoại tệ viện trợ

theo phương thức rải đều từng tháng, từng quý. Nhu cầu viện trợ được B29 lên kế

hoạch trình ông Phạm Hùng và Lê Thanh Nghị duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch thường bị

Trung Quốc thay đổi theo ý định của họ”. Trong những năm chiến tranh, ngoài vũ

khí, trang bị kỹ thuật189, Trung Quốc còn viện trợ rất lớn về tiền mặt. Theo Báo cáo

ngày 25-11-1979 của B29, cơ quan đặc trách chi viện cho miền Nam, phần tiền mặt

do Trung Quốc trực tiếp viện trợ từ năm 1964-1975 chiếm tới 626.042.653 USD.

Năm 1973, khi ông Võ Văn Kiệt ra Bắc gặp ông Lê Duẩn, Lê Duẩn hỏi: “Có tiền

mua súng đánh được không?”. Ông Kiệt mừng rỡ: “Mua được súng Mỹ mà đánh Mỹ

thì quá đã”. Ông Lê Duẩn hỏi Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị: “Có tiền đưa Sáu Dân

không?”. Theo yêu cầu của Lê Thanh Nghị, ông Nguyễn Nhật Hồng kiểm tra quỹ

thấy còn trên hai triệu USD tiền mặt. Ông Hồng nói với ông Nghị: “Muốn nhiều hơn

thì cần thời gian để xin”. Lê Thanh Nghị nói: “Hai triệu là anh Sáu mừng lắm rồi”. Số

tiền trên được giao cho thư ký mới của ông Võ Văn Kiệt là ông Phạm Văn Hùng. Lần

đầu tiên cầm hai triệu USD tiền mặt, ông Ba Hùng nói: “Thôi khỏi đếm”. Trong sổ

của B29 chỉ lưu lại chữ của ông Phạm Văn Hùng ghi: “Nhận đủ 2 tấn A”.

Quỹ tiền mặt đặc biệt này được Trung Quốc chi khá hào phóng. Nhiều khi, ông

Nguyễn Nhật Hồng chỉ cần đến một ngân hàng do Trung Quốc chỉ định, vào phòng

giám đốc là được giao luôn cả một va-li tiền. Một lần khi ông Hồng cầm chiếc va-li

có một triệu USD đi tàu từ Quảng Châu về Hà Nội, khi tới Thẩm Dương cả con tàu bị

Hồng Vệ Binh bắt giữ. Ông Hồng bị giữ lại đấy một tuần mới liên lạc được với Hà Nội

để can thiệp Bắc Kinh giải thoát. Mặc dù đã chi khá hào phóng cho các nhu cầu

chiến tranh, năm 1975, quỹ tiền mặt nằm tại két của B29 vẫn còn năm mươi triệu

triệu USD; của Chiến trường B2 và Khu V vẫn còn năm mươi ba triệu190.

Sự hào phóng đó của Trung Quốc không làm cho ông Lê Duẩn lơ là cảnh giác, có

lẽ đó là phản xạ của một người đã sống nhiều năm bị truy lùng gắt gao. Ông Hoàng

Tùng cũng xác nhận, mỗi lần Quân ủy bàn chủ trương đều họp trong Bộ Tổng Tham

mưu, những ủy viên Bộ Chính trị có mối liên hệ mà ông Lê Duẩn cho rằng là “quá

thân với Trung Quốc”, hoặc có giai đoạn là “quá thân với Liên Xô”, đều được biết rất

ít đến các kế hoạch chiến tranh.

Theo một trợ lý của Bí thư Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân, gần như các cuộc họp

quan trọng, anh Ba đều triệu tập khi ông Hoàng Văn Hoan đang công tác hoặc nghỉ

mát ở nước ngoài. Thỉnh thoảng, ông Hoan lại thắc mắc với ông Vũ Tuân, chánh

Văn phòng Trung ương: “Răng Bộ Chính trị không bàn chuyện quân sự hè?”. Ông

Vũ Tuân nói: “Anh sang Bác mà hỏi”. Theo ông Trần Phương: “Biết Hoan như vậy

mà phải sau khi giải phóng miền Nam, ở Đại hội IV, Lê Duẩn mới dám đưa Hoan ra

khỏi Bộ Chính trị”.

Trong chỗ riêng tư, vợ Lê Duẩn, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh (Lê Duẩn) nói:

‘Lần Việt Nam xin đạn pháo để chuẩn bị giải phóng miền Nam, Trung Quốc nói

không có, nhưng Việt Nam đã dự trữ từ lâu đủ đạn để đánh. Khi xin 2.000 chiếc xe

vận tải Giải phóng thì Trung Quốc ra điều kiện ‘phải cho 500 lái xe Trung Quốc

theo’. Anh nói: ‘Một thằng tôi cũng không cho, nếu không có xe thì chúng tôi vác

bộ, thồ bằng xe đạp’. Các anh khác bảo: ‘Anh làm gì mà căng thế?’. Anh nói: ‘Trung

Quốc nói làm đường cho Lào sau đó họ lập làng Trung Quốc trên đất Lào. Bây giờ

họ muốn thăm dò ta về đường Trường Sơn thì nay mai họ sẽ chiếm Trường Sơn. Về

chiến lược, ai đứng chân trên đỉnh Trường Sơn người đó sẽ khống chế cả Đông

Dương, cho nên mình phải tính”191.

Những người thân của Tổng Bí thư Lê Duẩn thường có khuynh hướng mô tả ông

như là một người cảnh giác với các âm mưu của Trung Quốc ngay cả khi đang xin

viện trợ. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng, phải sau năm 1972 thái độ của Lê Duẩn

đối với Trung Quốc mới bắt đầu thay đổi192. Theo ông Trần Phương: “Năm 1972, khi

Trung Quốc tiếp Nixon, Lê Duẩn nói, chúng ta đã bị bán rẻ cho Mỹ để người Trung

Quốc thay Đài Loan ngồi vào chiếc ghế ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Năm

1954, Liên Xô có lợi ích khi hòa hoãn với Mỹ còn Trung Quốc thì muốn Việt Nam bị

chia cắt để vĩnh viễn ở thế chư hầu”.

Cũng năm 1973, ông Lê Duẩn kể với bà vợ Nguyễn Thụy Nga: “Khi Nixon thương

lượng với Trung Quốc, nó ra điều kiện nếu Trung Quốc để cho Mỹ ném bom B52 ra

miền Bắc thì Mỹ sẽ nhường hòn đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc. Trước kia Trung

Quốc có hứa nếu Mỹ đánh miền Bắc thì Trung Quốc sẽ can thiệp, nhưng sau chuyến

đi của Nixon, Trung Quốc tuyên bố ‘mi không đụng đến ta, ta không đụng đến mi’.

Do đó, Mỹ cho máy bay bắn phá liên tục mười hai ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng,

đánh các đê điều ở miền Bắc, với ý đồ đưa miền Bắc vào thời kỳ đồ đá. Mỹ dùng

B52, dùng F111A, hai loại máy bay hiện đại nhất. Sau đó, Chu Ân Lai sang gặp anh

ở Hồ Tây. Ông đi dưới bậc thang lên đưa tay, anh không bắt. Anh nói: ‘Các đồng chí

đã bán đứng chúng tôi. Các đồng chí lấy xương máu của dân tộc Việt Nam để trả

giá với Mỹ. Chúng tôi biết nhưng chúng tôi không sợ, chúng tôi sẽ đánh đến cùng

và nhất định chúng tôi sẽ thắng'”193.

Sau cuộc gặp này với Lê Duẩn, Chu Ân Lai tới nhà khách Lê Thạch để gặp Hoàng

thân Sihanouk, khi ấy cũng đang ở Hà Nội. Theo Sihanouk: “Chu trông mệt mỏi và

có vẻ bị kích động bởi cuộc thảo luận mà ông vừa tiến hành với các đồng chí Bắc

Việt Nam của ông. Hình như ông đang cáu”194. Theo Sihanouk thì đây là chuyến đi

mà Chu Ân Lai muốn giải thích chính sách mới của Trung Quốc với người Mỹ. Chu

đã nói với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam “gay gắt và cứng rắn” rằng mối quan hệ

mới đó sẽ dẫn tới hòa bình ở Đông Dương.

Không chỉ phản ứng trong hội đàm, khi đưa tiễn Chu Ân Lai, thay vì đi cùng thầy

trò Chu ra tận chân cầu thang máy bay, Lê Duẩn đã dừng lại ngay cửa nhà ga sân

bay Gia Lâm. Các quan chức Việt Nam tất nhiên cũng phải đứng lại. Chu Ân Lai và

người phiên dịch, Lương Phong, gần như phải lủi thủi bước lên máy bay đi về.

Lương Phong cho rằng hành động đó của ông Lê Duẩn là rất phản cảm195. Sau

chuyến đi này của Chu, Trung Quốc bắt đầu “kiếm chuyện” trên vùng biên giới.

Ngày 05-06-1973, Chu Ân Lai lại đến Hà Nội khuyên ông Lê Duẩn nên thư giãn

và xây dựng lực lượng, trong khoảng năm đến mười năm tới nên để miền Nam Việt

Nam, Lào, và Campuchia hòa bình, độc lập, và trung lập. Trong số các nhà lãnh đạo

Bắc Kinh thời bấy giờ, Chu Ân Lai được đánh giá là khá chân thành. Nhưng theo ông

Trần Phương, về sau, khi kết nối các sự kiện, “anh Ba cay lắm vì Trung Quốc

khuyên Việt Nam làm theo những gì mà họ đã thỏa thuận với Mỹ”196.

Phó Thủ tướng Trần Phương nói tiếp: “Năm 1972, khi Mao Trạch Đông nói với

Phạm Văn Đồng: Chổi ngắn không quét được xa, Lê Duẩn đã bắt đầu hiểu lòng dạ

của người Trung Quốc. Họ chỉ muốn cung cấp vũ khí để Việt Nam chiến đấu giữ

chân người Mỹ ở miền Nam thay vì có thể tiến gần họ. Năm 1973, khi Chu Ân Lai

khuyên giữ trung lập miền Nam, Lê Duẩn biết, nếu cứ giải phóng miền Nam thì

không thể nào tránh làm cho Bắc Kinh tức giận”.

Hoàng Sa

Câu chuyện mặc cả giữa Mỹ và Trung Quốc về “phạm vi mười hai hải lý” được

ông Lê Duẩn nói với vợ từ năm 1973, chứng tỏ tin tức tình báo mà Hà Nội nắm

được là khá tốt.

Ngày 4-4-1972, khi quân đội miền Bắc đang tấn công dữ dội vào Quảng Trị,

người Mỹ cần một áp lực từ phía Bắc Kinh với Hà Nội, Kissinger đã phái Winston

Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để trao

một “bức điện miệng” nhắn Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng

cách mười hai dặm kể từ quần đảo Hoàng Sa”197.

Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo mà các Chúa Nguyễn đã đưa người ra

khai thác từ thế kỷ XVII. Năm 1816, vua Gia Long chính thức thiết lập chủ quyền

của Việt Nam trên quần đảo này. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, bản vẽ năm 1838

của Nhà Nguyễn đã thể hiện hai quần đảo với tên gọi là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường

Sa.

Năm 1920, Chính quyền Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ ở Đông Dương, đã

tuyên bố chủ quyền và hiện diện liên tục trên cả Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 4-

1946, quân Pháp đưa quân đội ra kiểm soát cụm phía Tây Hoàng Sa. Tháng 11-

1946, quân Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, và tháng 12-

1946 đổ bộ lên Itu Aba thuộc Trường Sa. Năm 1950, quân Tưởng rút khỏi hai quần

đảo này. Một năm sau Chính quyền Mao Trạch Đông mới tuyên bố “bảo lưu chủ

quyền của Trung Quốc”.

Năm 1954, theo Hiệp định Geneva, Hoàng Sa ở phía Nam Vĩ tuyến 17 sẽ thuộc

về chính quyền miền Nam Việt Nam. Nhưng đến tháng 4-1956, khi lực lượng Hải

quân Việt Nam Cộng Hòa ra tiếp quản, hai đảo lớn nhất đã bị “quân giải phóng

Trung Quốc” thừa cơ chiếm mất. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trên thực tế cai

quản liên tục bốn đảo chính: Pattle (Hoàng Sa), Robert (Cam Tuyền), Duncan

(Quang Hòa Đông) và Drummond (Duy Mộng). Riêng trên đảo Pattle, Việt Nam còn

có một đài khí tượng thuộc hệ thống quốc tế. Từ năm 1956, việc tranh chấp phần bị

Trung Quốc chiếm đóng vẫn tiếp tục diễn ra giữa Việt Nam Cộng Hòa và Trung

Quốc.

Sáng 16-1-1974, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phát hiện tàu cá Trung Quốc

xuất hiện trong vùng đảo chủ quyền Việt Nam. Khi người nhái của hải quân Việt

Nam đổ bộ lên đảo Duncan và Drummond thì ở đó đã có một toán quân nhân Trung

Quốc. Hôm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang “kinh lý miền Trung”. Trong bữa

cơm tối tại một căn cứ của quân đội ở Mỹ Khê, Tổng thống được Đề đốc Hồ Văn Kỳ

Thoại trình bày sơ bộ “biến cố Hoàng Sa”. Theo Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại: “Nghe

xong, Tổng thống quyết định sáng hôm sau sẽ đến Vùng Một Duyên hải để xem xét

tình hình”.

Sáng 17-1-1974, Hạm đội HQ16 báo cáo tiếp: “Hai tàu đánh cá Trung Quốc

không tuân lịnh ra khỏi lãnh hải. Ngoài ra, hai tàu khác chở quân Trung Cộng đang

đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ Trung Cộng”. Hạm trưởng HQ16, Trung tá

Lê Văn Thự, cho một toán đổ bộ lên đảo, nhổ cờ Trung Quốc thay bằng cờ Việt Nam

Cộng Hòa. Toán đổ bộ gặp nhiều người Trung Quốc nhưng đôi bên đều kềm chế.

Bộ Tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn sau khi nghe Tướng Thoại cập nhật tình hình đã

phái Khu trục hạm Trần Khánh Dư của Trung tá Vũ Hữu San ra tăng cường. Toàn bộ

tình hình được trình Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc 8 giờ sáng cùng ngày khi ông

trực tiếp tới Bộ Tư lệnh Vùng Một. Nghe xong, Tổng thống ngồi xuống lấy giấy bút

trực tiếp viết “Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng Một: Tìm cách ôn hòa mời các

chiến hạm Trung Quốc ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Nếu họ không thi hành thì được

nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử

dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”.

Ngày 18-1-1974, theo ủy nhiệm của Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Đại tá Hà Văn

Ngạc lên tuần dương hạm Trần Bình Trọng của Trung tá Phạm Trọng Quỳnh, trực

chỉ Hoàng Sa. Vì là sỹ quan có cấp bậc cao nhất trong vùng chiến sự lúc đó, Đại tá

Ngạc trở thành người chỉ huy cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa. Cùng đi có Hộ tống hạm

Nhật Tảo của Thiếu tá Ngụy Văn Thà. Khi hải đội của Đại tá Ngạc đến Hoàng Sa, có

ít nhất bốn chiến hạm của Trung Quốc có mặt. Trước thái độ khiêu khích của các

tàu Trung Quốc, Đại tá Ngạc báo với Tướng Thoại qua bộ đàm, “việc chạm súng

chắc là không sao tránh khỏi”. Sáng 19-1-1974, các chiến hạm của đôi bên đều gây

áp lực nặng nề lên nhau. Đại tá Ngạc đồng ý với Tướng Thoại “khi tình hình căng

thẳng quá thì sẽ khai hỏa trước để giảm thiểu thiệt hại”.

Khoảng 10 giờ 30 phút sáng 19-1-1974, Đại tá Ngạc báo cáo: “Bắt đầu khai

hỏa”. Máy vô tuyến vẫn để “on”, Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại nghe rõ những tiếng nổ

chát chúa của cuộc chiến đấu. Khi chứng kiến tàu Trung Quốc bốc cháy, “toán đổ

bộ thuộc tàu HQ16 đang ngồi trên xuồng cao su đã cùng cất vang bài hát “Việt

Nam, Việt Nam”.

Trận đánh bất cân sức ấy diễn ra chỉ trong vòng ba mươi phút. Phía Trung Quốc:

hai hộ tống hạm bị bắn chìm, hai trục lôi hạm bị bắn hỏng, một đô đốc, sáu đại tá

và hàng chục sỹ quan cấp tá, cấp úy khác tử trận. Phía Hải Quân Việt Nam: hộ tống

hạm Nhật Tảo bị chìm, Thiếu tá Ngụy Văn Thà cùng với hai mươi bốn chiến sỹ khác

hy sinh, hai mươi sáu chiến sỹ mất tích; khu trục hạm Trần Khánh Dư bị hư hại, hai

chiến sỹ hy sinh; tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị hư hại, hai chiến sỹ hy sinh

cùng với hai nhân viên người nhái; tuần dương hạm Lý Thường Kiệt bị trúng đạn,

nghiêng một bên; mất liên lạc với toán đổ bộ gồm mười lăm thủy thủ (về sau, chiếc

xuồng chở mười lăm thủy thủ này trôi dạt nhiều ngày về Quy Nhơn, được thuyền

đánh cá cứu vớt, một người chết vì kiệt sức); hai mươi ba thủy thủ khác cũng trôi

dạt trên biển, may mắn được tàu Skopionella của hãng Shell (Mỹ) cứu vớt.

Ngày hôm sau, 20-1-1974, mười chiến hạm Trung Quốc bắt đầu đổ quân lên hai

hòn đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa, bắt đi bốn mươi ba người, gồm hai mươi tám

quân nhân và các nhân viên khí tượng. Một người Mỹ, Gerald Kosh, tình cờ theo tàu

Lý Thường Kiệt ra Hoàng Sa chơi hôm 15-1-1974, cũng bị bắt. Trong thời điểm ấy,

theo Tướng Thoại: “Các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở rất gần

các vị trí chiến hạm Việt Nam”. Trước khi trận chiến xảy ra, Bộ Tư lệnh Hải quân nói

với Đề đốc Thoại là “yên tâm”; nhưng trong suốt cả quá trình sau đó, Hạm đội Bảy

của Mỹ đã không làm gì kể cứu vớt các đồng minh lâm nạn. Hoàng Sa của Việt Nam

bị Bắc Kinh chiếm đóng kể từ ngày 19-1-1974. Còn miền Bắc Việt Nam, khi ấy đang

dựa vào Trung Quốc như một đồng minh để tiến hành cuộc chiến tranh ở miền

Nam, cũng gần như im lặng.

Tướng Giáp nói rằng ông nhận được tin mất Hoàng Sa khi đang điều trị bệnh sỏi

mật ở Liên Xô. Ngày 25-3-1975, sau “chiến thắng Buôn Ma Thuột”, Tướng Giáp với

tư cách là bí thư Quân ủy Trung ương kiến nghị Bộ Chính trị “tiến hành giải phóng

các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”198. Ngày 2-4-1975, Tướng Giáp

trực tiếp chỉ thị cho Tướng Lê Trọng Tấn lúc bấy giờ đang ở Đà Nẵng: tổ chức tiến

công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Trước đó, ngày 30-3,

Quân ủy cũng điện cho Võ Chí Công và Chu Huy Mân yêu cầu chỉ đạo thực hiện.

Chiều 4-4-1975, Quân ủy điện tiếp cho Quân khu V: “Kịp thời đánh chiếm các hòn

đảo vùng Nam Hải, đặc biệt là các đảo Nam Sa. Việc này phải chuẩn bị gấp và bí

mật, chỉ để cán bộ có trách nhiệm biết”199.

Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo có tin quân đội Sài Gòn rút khỏi các đảo, Quân ủy

gửi điện “tối khẩn” cho Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng

Hữu Thái: “Các anh cho kiểm tra và hành động kịp thời… Nếu để chậm, có thể quân

nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm”200.

Ngày 13-4-1975, Tướng Giáp nhắc thêm: “Chỉ đánh các đảo quân ngụy miền Nam

chiếm đóng”201. Từ ngày 14-4-1975 đến ngày 28-4-1975, Quân đội Nhân dân Việt

Nam lấy xong những hòn đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ, nhưng tránh đụng tới

các đảo ở Hoàng Sa đang ở tay Trung Quốc.

Tháng 9-1975, trong chuyến đi đầu tiên đến Bắc Kinh, sau khi giành thắng lợi ở

miền Nam, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn tới Trung Nam Hải. Ông Duẩn đã đến tận

giường bệnh của Mao Trạch Đông để nói lời cám ơn với Mao Trạch Đông: “Nước

chúng tôi chưa có bao giờ vui như hôm nay. Nếu chúng tôi không có Trung Quốc là

hậu phương lớn bao la, không có đường lối của Mao Chủ tịch, không có sự viện trợ

của các đồng chí cung cấp, chúng tôi không thể thành công được”202. “Với nụ cười

khó nhọc trên gương mặt người mang bệnh, Mao Trạch Đông hơi vẫy tay, tỏ ra hiền

hòa thân thiết… Người đã dùng những câu nói không được mạch lạc lắm để nói với

Lê Duẩn: Nhân dân Việt Nam thắng lợi rồi, Nam Bắc đã thống nhất rồi, tôi rất phấn

khởi, rất phấn khởi”.

Chắc hẳn là Lê Duẩn đã không chỉ xử sự theo phép tắc ngoại giao khi đến tận

giường bệnh của Mao Trạch Đông để xác nhận: “Không có viện trợ của Trung Quốc,

chúng tôi không thể thành công”. Không mấy người dân Việt Nam là không biết đến

súng AK, nón cối, lương khô, gạo sấy, thịt hộp… được cung cấp từ Trung Quốc. Bộ

đội miền Bắc thời chiến tranh có thể nói là đã được Trung Quốc trang bị đến từng

“cái kim, sợi chỉ”. Nhưng ngoài chuyện ân nghĩa với đồng minh, ông Lê Duẩn còn

phải chịu trách nhiệm trước quốc gia mà ông lãnh đạo. Trong chuyến đi Trung Quốc

ấy, ngày 24-9-1975, khi gặp Đặng Tiểu Bình, ông Lê Duẩn đã yêu cầu Phó Thủ

tướng Đặng Tiểu Bình đàm phán vấn đề Hoàng Sa nhưng đã bị Đặng Tiểu Bình từ

chối. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã làm cho người dân Trung Quốc nghĩ

rằng Hoàng Sa đã thuộc về Trung Quốc.

Ngày 5-5-1975, khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam công bố, “Ngày 11-4-1975, Hải

quân Việt Nam đã giải phóng quần đảo Trường Sa”, một phóng viên Tân Hoa Xã tên

là Lăng Đức Quyền (Ling Dequan) - khi ấy đang chuẩn bị rời Hà Nội vào miền Nam -

đã cảm thấy “như một cú sốc”. Quyền giải thích với nhà báo Mỹ Nayan Chanda: “Vì

trước đó họ đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên những hòn đảo ấy”.

Người Trung Quốc cho rằng: “Từ năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn

Đồng đã thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai rõ ràng xác nhận hai quần đảo Tây

Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng hiện nay họ tiền hậu bất nhất

ngang nhiên tuyên truyền đây là lãnh thổ của họ, sửa đổi bản đồ vẽ hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ Việt Nam”203. Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam

Phạm Văn Đồng, trong vai trò đồng minh, có công hàm ủng hộ Tuyên bố của Chu

Ân Lai về “hải phận mười hai hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục”204. Tuyên bố này

được đưa ra trong tình trạng chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của

Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan có dấu hiệu vi phạm vùng biển chủ quyền

Trung Quốc.

Đây là một giai đoạn mà mối quan hệ quốc tế vô sản với Bắc Kinh được tin cậy

hơn mối quan hệ giữa những người Việt Nam với nhau mà không có cùng ý thức hệ.

Theo ông Dương Danh Di205: “Hai năm trước đó, Trung Quốc đã chủ động trả lại cho

Việt Nam đảo Bạch Long Vĩ mà họ giữ giúp từ năm 1954 khi được trao trả từ tay

người Pháp. Lúc đầu, Việt Nam chưa nhận vì than phiền là không có phương tiện ra

đảo. Thế là Trung Quốc tặng luôn hai chiếc ca-nô. Niềm tin vào sự vô tư của Trung

Quốc tăng lên, tâm lý để bạn giữ (đảo) cho còn hơn để trong tay ‘Ngụy’ không phải

là không xuất hiện”.

Ông Trần Việt Phương, người có hai mươi lăm năm làm thư ký riêng cho Phạm

Văn Đồng, thừa nhận: “Lúc bấy giờ quan hệ Việt-Trung đang rất tốt. Việt Nam đang

có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan niệm ngây thơ từ người

cao nhất của ta chứ không phải ở cấp độ vừa206. Trung Quốc hiểu ra sự ngây thơ đó

và đã có ý đồ không tốt. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam có trong máu hàng nghìn

năm kinh nghiệm với Trung Quốc, cho dù có sự ‘ngây thơ quốc tế vô sản’ cũng

không đến mức có thể dẫn tới sự nhầm lẫn hoàn toàn. Việt Nam đã có kinh nghiệm

về sự lợi dụng của Trung Quốc trong Hiệp định Geneva. Nhưng ở thời điểm ấy, Việt

Nam đang cần họ”. Cũng theo Việt Phương, trước khi ký công hàm này, Phạm Văn

Đồng có bàn bạc với Hồ Chí Minh và vấn đề còn được đưa ra bàn ở “cấp cao nhất”.

Về thực chất, không thể coi những tài liệu ấy có đủ giá trị pháp lý để công nhận

chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trước ngày

30-4-1975, miền Bắc không có thẩm quyền để nói về Hoàng Sa và Trường Sa, bấy

giờ đang là phần lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia đang

hiện diện ở Liên Hiệp Quốc.

Sợ “con ngựa thành Troy”

Trước ngày 30-4-1975, tại khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn có một số đảng viên Đảng

Cộng sản Trung Quốc hoạt động. Theo nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản, đảng viên

cộng sản bất cứ là người nước nào, đang sống ở đâu thì phải tham gia hoạt động

với đảng nơi nước mình đang ở. Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã có

một số đảng viên cộng sản Trung Quốc ở Nam Kỳ hoạt động dưới quyền của Xứ ủy

Nam Bộ.

Từ năm 1959, theo đề nghị của Bắc Kinh, những đảng viên thuộc Đảng Cộng

sản Trung Quốc ở Sài Gòn như Lâm Lập, Trịnh Nam, sẽ chịu trách nhiệm xây dựng

cơ sở trong giới “người Hoa lớp trên”, còn đảng viên người Hoa thuộc quyền lãnh

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì xây dựng cơ sở trong giới “người Hoa là công

nhân, lao động”. Theo ông Nghị Đoàn, trưởng Ban Công Tác Người Hoa: “Nhóm

Lâm Lập, Trịnh Nam, Trầm Nhan… từ Trung Quốc chạy sang Việt Nam hồi cuối thập

niên 1940 sau khi bị Quốc Dân Đảng khủng bố”. Ngay trong ngày 30-4-1975, Lâm

Lập đã cho một lực lượng có vũ trang tới chiếm tòa Đại sứ Đài Loan nằm trên đường

Hai Bà Trưng207. Thành ủy phải thuyết phục rất khó khăn, Lâm Lập mới chấp nhận

giải giới. Ông Phạm Văn Hùng kể: “Họ có lực lượng, có những đảng viên của Lâm

Lập có chân trong các quận ủy”.

Khi ấy, những cơ sở đảng người Hoa thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam như Ngô

Liên, Nghị Đoàn, cũng phải đấu tranh với Lâm Lập. Lâm Lập không muốn bàn giao

các cơ sở của mình cho Đảng Cộng sản Việt Nam mà muốn duy trì các hoạt động tại

Sài Gòn-Chợ Lớn với tư cách là những cơ sở đảng nhận lệnh từ Trung Quốc. Đòi hỏi

đó không được Việt Nam chấp nhận. Khi Lâm Lập đến 41 Tú Xương để gặp ông Võ

Văn Kiệt, ông Kiệt giao thư ký Phạm Văn Hùng tiếp, với nhiệm vụ là làm sao phải

truyền được thông điệp cho Lâm Lập: “Hết nhiệm vụ, mời các đồng chí về”. Đến

cuối năm 1976, nhóm Lâm Lập mới chấp nhận trở về Trung Quốc.

Những tổ chức cộng sản vẫn còn chân rết tại Sài Gòn là một trong những

nguyên nhân khiến cho Hà Nội luôn trì hoãn việc cho phép Bắc Kinh mở lãnh sự

quán tại Thành phố Hồ Chí Minh cho dù Trung Quốc đã cho Việt Nam lập ở nước họ

tới ba tòa lãnh sự.

Mãi tới ngày 15-6-1978, khi sự kiện người Việt-gốc-Hoa nổ ra, Bộ ngoại giao

Việt Nam mới gửi công hàm thông báo cho phía Trung Quốc biết: Chính phủ Việt

Nam đồng ý để Trung Quốc đặt tổng lãnh sự quán tại Sài Gòn vào đầu quý 4-1978.

Thông báo này chỉ còn giá trị lưu trữ. Ngay ngày hôm sau, 16-6-1978, Bộ Ngoại

giao Trung Quốc gởi công hàm cho biết quyết định của Chính phủ Trung Quốc:

“Đóng cửa ba tổng lãnh sự quán Việt Nam ở Quảng Châu, Côn Minh, Nam Ninh và

yêu cầu toàn bộ cán bộ nhân viên Việt Nam ở ba tổng lãnh sự quán này rút về nước

trong thời gian ngắn nhất”.

Theo ông Trần Phương, với mức độ cảnh giác quá cao đối với cán bộ gốc Hoa,

năm 1978, Ban Bí thư có Chỉ thị 53, theo đó: “Những vị trí quan trọng không giao

cho người gốc Hoa”208. Việc thi hành Chỉ thị 53 đã tạo ra một không khí chính trị vô

cùng ngột ngạt, tổ chức đã rất mạnh tay với những cán bộ có cha ông đến từ Trung

Quốc.

Ông Trần Phương, năm ấy là bộ trưởng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch, kể:

“Phó Văn phòng Ủy ban là con ông Hoàng Mậu, bí thư Thành ủy Hải Phòng, nhưng

bố Hoàng Mậu lại là người Hoa, dù ông cũng có tham gia cách mạng. Cậu ấy cùng

ông Chánh Văn phòng đến gặp tôi nói: ‘Em xin anh, cho em chuyển về một vụ

không quan trọng'. Tôi lấy chỉ thị ra nói: 'Cậu cứ ngồi đấy, cậu là ai, bố cậu là ai tôi

biết’. Nhưng, cậu ấy vẫn khăng khăng: ‘Thôi, anh cứ cho em đi, em ngồi đây nhỡ có

người nghi ngờ gì thì chết em’. Về sau tôi chuyển cậu ấy sang Vụ Văn xã. Nhiều địa

phương, nhiều cơ quan làm rất rốt ráo. Ở trường con tôi học có một ông giáo gốc

Hoa, mình khuyên ông ở lại nhưng ông vẫn đi Canada, ông nói: 'Em thấy, em đi thì

nhẹ nhàng hơn là ở lại'”.

Thành phố Hồ Chí Minh đã làm nhẹ Chỉ thị 53 bằng cách giữ hầu hết cán bộ

người Hoa ở cương vị cũ, trừ người đứng đầu các cơ quan nội chính. Tuy nhiên, lý

lịch của hầu hết cán bộ đã bị lục tung, trong đó có cả lý lịch của ông Tư Kết, cựu

thư ký của ông Mai Chí Thọ. Tư Kết ngay lập tức bị buộc thôi chức trưởng Phòng An

ninh Bảo vệ Nội bộ PA 25 về công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Thành phố. Nghe tin

thư ký cũ của mình là người Hoa, chính ông Mai Chí Thọ cũng phải kêu lên: “Tao có

thấy thằng Tư Kết Hoa chút nào đâu!”. Bản thân ông Tư Kết cũng chỉ biết rõ gốc

gác của mình khi Chỉ thị 53 được thi hành. Ngày xưa, do nhà nghèo, bà ngoại đã

phải gả mẹ ông, một cô gái hai mươi tuổi, cho ông La Đức, một tiểu chủ người Hoa

chuyên luyện thuốc phiện, năm ấy đã sáu mươi tuổi, để giúp những người con trai

khác của bà ngoại có việc làm. Ông La Đức mất khi Tư Kết hãy còn trong bụng mẹ.

Không có một chỉ thị thành văn nào nói rõ phải trục xuất người Hoa. Nhưng theo

nhà nghiên cứu Dương Danh Di, các cấp ủy được triển khai: “Để người Hoa ở lại,

đảng bộ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả an ninh chính trị”. Sự sợ hãi của

những cán bộ gốc Hoa trong thời gian ấy lớn tới mức một trí thức cách mạng từng

làm bộ trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ như ông Kha Vạng Cân mà năm 1979, khi con

trai ông sinh cháu, ông Cân đã khuyên con nên cho cháu mang họ Việt của mẹ để

về sau nó không còn bị kỳ thị209.

Chỉ thị 53 không chỉ ảnh hưởng tới người Hoa. Ông Hoàng Chính, người vào

Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1937, đã bị bắt năm 1978 khi đang công tác ở

Văn phòng Chính phủ. Lý do theo ông Vũ Cẩm, phó chủ tịch Quảng Ninh: “Khi làm

bí thư tỉnh Hải Ninh, ông Hoàng Chính đã chủ trương để Hải Ninh kết nghĩa với một

tỉnh của Trung Quốc và có quan hệ với Triệu Tử Dương, thời ấy đang là bí thư tỉnh

Tứ Xuyên”.

“Nạn Kiều”

Tháng 8-1978 tại Ga Hàng Cỏ, và sau đó ở Lạng Sơn, đã nổ ra hai cuộc biểu tình

của người Hoa. Chính quyền nhanh chóng dập tắt, tuy nhiên, chuyện “gián điệp

Trung Quốc” được nói đến gần như vào mỗi tối thứ Bảy hàng tuần trong tiết mục

“Kể chuyện cảnh giác” của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thừa nhận: “Ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ

dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam, bắt tay với

Mỹ... Nhưng nói cho khách quan, phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ

người Hoa sẽ là đội quân thứ năm của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa

đi cho rảnh”. Ở một số địa phương, vấn đề người Hoa đã ngấm ngầm xảy ra từ

trước đó.

Năm 1955, sau khi tiếp quản Quảng Ninh và Hải Phòng, Ban Hoa vận đã vận

động người Hoa bỏ chữ “kiều” trong tên gọi các cộng đồng ngoại kiều khác để trở

thành một dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Họ đã phải “bình đẳng” chịu “cải tạo”

trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp tiến hành ở miền Bắc cuối thập niên

1950 và bắt đầu chịu áp lực nhiều hơn kể từ sau ngày Bắc-Nam thống nhất.

Từ cuối năm 1976, người Hoa ở Hải Phòng, Quảng Ninh, đã không được làm

những nghề “có thể làm gián điệp” như thợ cắt tóc, thợ điện gia dụng, không được

quan hệ với người nước ngoài… Ông Trịnh Văn Trọng có vợ, nhà thơ Dư Thị Hoàn, là

người Hoa ở Hải Phòng. Ông Trọng kể khi chiến dịch “nạn Kiều” bắt đầu, người Hoa

ở Quảng Ninh, Hải Phòng, ra đường thì bị kêu là “thằng Hán gian”, về nhà thì gặp

cán bộ phường tới phân tích: “Tình hình Việt Nam-Trung Quốc rất căng, nếu ở lại

không biết điều gì sẽ xảy ra. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho người Hoa trở về

Tổ quốc”.

Các chính sách áp dụng ở Quảng Ninh còn cứng rắn hơn bởi bàn tay của Bí thư

Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm. Giữa thập niên 1970, Quảng Ninh có hơn mười sáu vạn

người Hoa nói các thứ tiếng khác nhau, mỗi dân tộc có một trường riêng để dạy con

em họ. Người Hoa sống thành từng cộng đồng riêng biệt. Ông Vũ Cẩm, khi ấy là

trưởng Ty Giáo dục Quảng Ninh, nói: “Tôi xuống các trường cũng phải cần phiên

dịch”. Năm 1976, theo ông Vũ Cẩm, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm gọi ông lên

yêu cầu: “Anh phải xóa hết trường Hán, tiếng Hán”. Ông Cẩm đề nghị ông Tâm xem

lại vì các trường sở này hình thành ở đây đã từ lâu đời, nhưng ông Tâm không chịu.

Ông Vũ Cẩm nói: “Tôi không rõ ông Tâm nhận chủ trương này từ ai nhưng ông

nói như ra lệnh bằng một chỉ thị mồm chứ bản thân ông cũng không dám ra nghị

quyết. Tôi nghĩ mãi và cuối cùng do ông Tâm thúc ép đành phải thảo một văn bản,

không nói là giải tán các trường của người Hoa mà nói là thống nhất hệ thống giáo

dục, một xã chỉ có duy nhất một trường phổ thông dạy bằng tiếng Việt. Soạn rồi,

tôi không dám ký, giao cho các phó Ty, các phó của tôi cũng không anh nào chịu

ký. Tôi lên báo cáo Bộ Giáo dục, Bộ bảo tùy địa phương nhưng cũng không dám ra

văn bản. Cuối cùng, tôi phải ký. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ giáo

viên người Hoa, tôi quy định: các giáo viên người Hoa được hưởng nguyên lương để

đi học tiếng Việt”.

Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng như mười sáu vạn người Hoa khác, điều đe dọa đối

với những giáo viên này không còn là vấn đề việc làm. Năm 1978, theo ông Vũ

Cẩm: “Ông Nguyễn Đức Tâm gặp các tỉnh ủy viên người Việt nói, thái độ Trung

Quốc đối với Việt Nam không tốt, chúng ta không nên bầu người gốc Hoa vào cấp

ủy. Khi đó, trong tỉnh ủy Quảng Ninh vẫn còn hơn mười người gốc Hoa, có những

người rất có công như anh Lý Bạch Luân đã từng là phó bí thư tỉnh Hải Ninh, sau khi

nhập tỉnh, anh Luân làm phó chủ tịch tỉnh mới - tỉnh Quảng Ninh”. Khi Trung Quốc

rút các kỹ thuật viên giúp Việt Nam khai thác mỏ, họ vận động anh hùng lao động

Voòng Nải Hoài, một kỹ thuật viên giỏi, bỏ Việt Nam về Trung Quốc. Theo ông Vũ

Cẩm: “Nhân đấy, ông Nguyễn Đức Tâm có sáng kiến, anh rút về thì tôi cho người

Hoa về hết luôn”210.

Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức của người Hoa năm

1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong những chương bi thương nhất. Nhiều người

Hoa đã đến đây từ nhiều đời, đã chọn Việt Nam làm quê hương; nhiều người không

nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác mình từ đâu. Tất cả đều bị khép vào thành

phần phải trở về Trung Quốc.

Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông Voong Hổi, đã tự sát

bằng cách tự mổ bụng. Theo ông Vũ Cẩm, ông Hổi sau đó được cứu sống, tuy

không còn bị đuổi đi nữa nhưng phải chịu kỷ luật khai trừ Đảng. Ông Vũ Cẩm kể:

“Một cán bộ của tôi, anh Lâm Anh Văn, đang là trưởng Phòng Giáo dục huyện

Quảng Hà, cũng bị công an bắt phải trở về Trung Quốc. Anh ta gặp tôi nói, buộc đi

thì đi chứ anh sẽ không sang Trung Quốc đâu”.

Ở xã Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đình, chồng là Trần Vĩnh Ngọc, hiệu

trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái Bình, là người

Việt Nam. Anh Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt, cha là người Hoa, nhưng

ông chết từ khi anh còn nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được xếp vào diện người Hoa. Theo

ông Vũ Cẩm: “Bị công an yêu cầu phải trở về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại

vì nó có biết quê quán ở đâu đâu, tiếng Hoa cũng không biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy

Nguyễn Đức Tâm báo cáo. Ông Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho

công an người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn đỏ đội viên thiếu

niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm lên giường rồi lấy chăn bông đè lên cho tới

chết. Xong, anh ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự đâm vào tim mình. Nghe

tin, tôi chạy xuống thì cả gia đình đều đã chết. Tôi bảo cậu Trưởng Phòng Giáo dục

phải làm tang lễ tử tế rồi đi báo Nguyễn Đức Tâm. Tưởng Tâm sẽ phải suy nghĩ ai

dè ông ta sắt đá nói ‘kệ’, gương mặt gần như vô cảm”.

Ông Võ Văn Kiệt kể: “Năm 1978, tôi ra Quảng Ninh khi anh Nguyễn Đức Tâm

đang ở Móng Cái trực tiếp chỉ đạo vấn đề người Hoa. Tôi có cảm giác như ở đây

cũng có không khí ‘cải tạo’, rất nhiều người Hoa đã sống lâu đời ở Việt Nam bị đưa

về Trung Quốc. Quảng Ninh, Móng Cái vắng ngắt”. Theo cuốn Địa chí Quảng Ninh

Tập 1, người Hoa vốn sống tập trung ở chín huyện trong tỉnh, nhưng sau năm 1978

chỉ còn lại 5.000 người; 160.000 người Hoa ở Quảng Ninh đã phải ra đi trong vụ

“nạn kiều”. Những anh hùng lao động một thời được báo chí ca ngợi tưng bừng như

Voòng Nải Hoài, Mừu Nhịp Mùi cũng phải về Trung Quốc.

Người dân Quảng Ninh vẫn nhớ, ngay cả khi Trung Quốc đã đóng cửa khẩu, xe

công an vẫn chở người Hoa đi về biên giới. Theo ông Vũ Cẩm, mỗi làng mỗi xã như

vậy may ra chỉ còn sót lại một hai gia đình người Hoa. Khi vụ người Hoa xảy ra, ông

Nguyễn Việt Lân, nguyên bí thư Tỉnh đoàn Hải Ninh211, nguyên phó bí thư Móng Cái,

tuy không bị đuổi nhưng bị buộc phải vào sâu bên trong. Ông Vũ Cẩm kể: “Cậu ấy

vào Hạ Long làm nghề cán mì sợi. Tôi muốn giúp nên thỉnh thoảng lại mang bột mì

đến cho cậu ấy gia công. Cậu ấy hỏi: ‘Ông không sợ tôi bỏ thuốc độc à?’. Tôi biết

cậu ấy bị o ép lắm. Công an rình rập kín, hở suốt ngày. Một đêm cậu ấy mở ti-vi

oang oang trong nhà, bật đèn sáng để đánh lừa công an rồi đưa cả nhà xuống tàu

vượt biên sang Úc”.

Hải Phòng là địa phương tiếp theo áp dụng chính sách khá thẳng tay với người

Hoa. Ông Đoàn Duy Thành, năm 1978 là phó chủ tịch Thành phố Hải Phòng, thừa

nhận: Hơn ba mươi nghìn trong số ba mươi bảy nghìn người Hoa ở thành phố này

đã phải ra đi. Đặc biệt, ở Cát Bà, trước có gần mười nghìn người Hoa, năm 1978 chỉ

còn vài chục người ở lại. Nhà thơ Dư Thị Hoàn viết về cảnh ra đi ở Hải Phòng: “Tết

thanh minh năm ấy, không ngờ lại là bữa tiệc cuối của sum họp đại gia đình, hình

ảnh má và các em các cháu tôi chen lấn trong dòng người lũ lượt ra ga, leo lên tàu

hỏa. Thê thảm nhất là đàn bà con trẻ, họ lếch thếch, hỗn loạn, và yếu ớt, họ giao

phó nỗi hốt hoảng cho bất kỳ ai có mặt hôm đó, giao phó cho đoàn tàu chở họ tới

một đất nước được gọi là tổ quốc trong muôn vàn bất trắc và mong manh? Họ trở

về quê hương và không hiểu tại sao, vì lẽ gì? Chị chồng tôi ra tận nhà ga ôm lấy ba

mẹ con tôi đang gào khóc nhìn đoàn tàu mất hút trong đêm tối”.

Ở Sài Gòn, theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Trần Quốc Hương: “Chúng tôi

không đuổi mà thông báo ai muốn rời Việt Nam thì đăng ký, hơn 90% người Hoa ở

Thành phố đã đăng ký ra đi”. Luật sư Nguyễn Đăng Trừng, năm ấy là phó Phòng

chống phản động bành trướng bá quyền Công an Thành phố Hồ Chí Minh, thừa

nhận: “Công an cũng đã mạnh tay cô lập những đối tượng tình nghi là còn quan hệ

với Trung Quốc”. Một trong những “đối tượng” mà ông Nguyễn Đăng Trừng trực tiếp

thụ lý lúc ấy là ông Lý Ban.

Ông Lý Ban thuộc một trong số các đảng viên Việt Nam chạy sang Diên An sau

cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931. Sau Cách mạng tháng Tám, từ căn cứ

của những người cộng sản Trung Quốc, Lý Ban cùng các đồng chí Việt Nam khác

của ông ở Diên An trở về trong đợt đầu như Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn,

Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Ông đã từng là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng,

thứ trưởng Bộ Ngoại thương.

Năm 1978, nhiều thông tin nói rằng ông Lý Ban có những mối liên hệ chặt chẽ

với Trung Quốc. “Tinh thần chỉ đạo” là phải có “biện pháp đặc biệt, không để các đối

tượng ở trong điểm nóng, khi tình hình xấu diễn ra thì phát huy tác dụng”. Ông Lý

Ban bị bắt. Sau một thời gian cách ly để điều tra, ông Trừng thừa nhận: “Té ra ông

Lý Ban là một người rất trung thành với Đảng”. Nhạc sỹ Lâm Âm đang là biên chế ở

Sở Văn hóa Thông tin cũng bị bắt dù sau đó không tìm thấy bất cứ bằng chứng

“phản động” nào. Một thời gian sau, Phòng chống phản động bành trướng bá quyền

yêu cầu Sở Văn Hóa Thông tin “bảo lãnh”, ông Lâm Âm được tha. Nhưng, theo ông

Tư Kết: “Vừa có lệnh thả ra thì nhạc sỹ Lâm Âm bị tai biến và chết”.

“Những tháng đầu năm 1978, thành phố phá năm mươi hai vụ nhen nhóm chính

trị, phản động, bắt 1.106 tên (gấp ba lần năm 1977); số trốn đi nước ngoài cũng

tăng gấp ba lần (2.130 vụ với 8.139 người)”212. Trong số 8.139 người bị bắt đầu

năm 1978 có ông Lý Tích Chương, cha của Lý Mỹ - “tấm gương điển hình” trong

chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”.

Khi ông Lý Tích Chương bị bắt, Lý Mỹ đang được “Đảng và Nhà nước đưa đi

Cuba” tham gia Liên hoan Thanh niên Thế giới. Theo Lý Mỹ: “Khi tôi ở Cuba, ba tôi

ốm phải vào bệnh viện Saint Paul. Một chiều cô em út của tôi lúc ấy mới chín tuổi

mang cơm cho ba, vào tới nơi, gọi tên không thấy, nhân viên bệnh viện nói, trong

phòng của ổng giờ toàn công an, hôm ấy họ vào và bắt đi nhiều bệnh nhân người

Hoa đang điều trị trong bệnh viện”. Sau một tháng ở Cuba, khi Lý Mỹ về, ông Mai

Chí Thọ đưa xe đến Thành đoàn đón, nói là cho đi thăm ba nhưng vào trại giam thì

ông Lý Tích Chương được thả. Ở tù ra, sức khỏe ông Chương suy sụp, gia đình

quyết định “đi”.

Trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh gọi người Việt-gốc-Hoa là “nạn

kiều”; Hà Nội nói Bắc Kinh “bịa đặt”. Báo Tuổi Trẻ ngày 30-6-1978 viết: “Bị tác

động bởi chiến dịch cưỡng ép di cư của phía Trung Quốc [người Hoa] đã kéo nhau

hàng loạt đi Trung Quốc một cách bất hợp pháp”. Cũng theo bài báo này: “Ta đã

bắt quả tang một số tên thực hiện chiến dịch này dưới sự chỉ đạo của Đại sứ quán

Trung Quốc tại Hà Nội như Lý Nghiệp Phu, Trần Hoạt, Tô Minh Nguyên, Ôn Thịnh

Nàm, Lã Giang Đông, Quan Gia Nghĩa, Lý Đào Lê”. Cũng theo Báo Tuổi Trẻ: “Ngày

30-4, chủ nhiệm Văn phòng công việc Hoa kiều thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc,

ông Liêu Thừa Chí, công khai lên tiếng, gián tiếp đổ trách nhiệm cho Việt Nam”.

Ngày 4-5-1978, Bộ Trưởng Ngoại giao Xuân Thủy tuyên bố: “Đảng và Chính phủ

Việt Nam trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có

một số bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn xấu tác động”. Ngày 24-

5-1978, người phát ngôn Văn phòng công việc Hoa kiều Quốc vụ viện Trung Quốc

ra tuyên bố chính thức phản đối Việt Nam “bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa kiều”.

Ngày 28-5-1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Trung

Quốc yêu cầu chấm dứt tuyên truyền kích động; đại diện hai nước gặp nhau càng

sớm càng tốt, có thể vào đầu tháng 6-1978, để cùng nhau bàn bạc, giải quyết

những bất đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam, và bàn cả đề nghị của Trung

Quốc đưa tàu sang Việt Nam đón người Hoa về Trung Quốc. Ngày 2-6, Bộ ngoại

Trung Quốc gởi công hàm cho Bộ ngoại giao Việt Nam khước từ các đề nghị nói trên

của Việt Nam, đồng thời tuyên bố Trung Quốc “đã quyết định” đưa tàu sang thành

phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978 để đón người Hoa về

nước. Bộ ngoại giao Việt Nam “phê phán thái độ ngang ngược nói trên của nhà

đương cục Trung Quốc”. Ngày 5-6, Bộ Ngoại giao Việt Nam một mặt “kêu gọi bà

con người Hoa hãy yên tâm ở lại Việt Nam làm ăn bình thường”, mặt khác đưa ra

cam kết: “Bà con nào muốn rời khỏi Việt Nam đi Trung Quốc thì sẽ được chính

quyền Việt Nam giúp làm các thủ tục xuất cảnh để ra đi thuận tiện”.

Trước tháng Giêng năm 1979, có khoảng 30.000 người Hoa chạy sang Việt Nam,

chủ yếu là từ Campuchia. Ngoài ra còn có hơn 4.000 người Khmer khác. Số người

Hoa về nước trên hai con tàu của Trung Quốc chỉ mang tính tượng trưng, theo ông

Mai Chí Thọ, trong chuyến đầu họ chỉ chở được 2.400 người. Một dòng người khác

đã phải gồng gánh về phía bên kia theo đường bộ213.

Tại cuộc họp báo ngày 15-6-1978, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ

nói: “Chúng ta tự hỏi, nếu họ thực tâm muốn chăm lo cho Hoa kiều, tại sao họ lại

không lên tiếng đối với việc Hoa kiều bị bọn cầm quyền phản động Campuchia xua

đuổi tàn ác, ngược đãi… Đáng lý những Hoa kiều họ cần phải rước trước hết là

người Hoa đang sống đau khổ, tủi nhục dưới chế độ tàn bạo của bọn cầm quyền

phản động Campuchia. Thái độ trái ngược của phía Trung Quốc không khỏi làm cho

mọi người nghi ngờ việc họ tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực

hiện một ý đồ khác. Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn cho Việt Nam mà thôi”214.

Câu chuyện của Tằng Dục Hính, đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 23-6-1978,

cho thấy tương lai trở về “tổ quốc” của người Hoa cũng khá tối tăm: “Chúng tôi đáp

xe lửa Hà Nội đi Lào Cai, từ ga Lào Cai đến Cầu Kiều chúng tôi phải qua một trạm

công an Việt Nam. Tại đây họ thu lại tất cả những giấy tờ mà chính phủ Việt Nam

cấp cho người Hoa chúng tôi từ trước đến nay… Nhìn về phía Trung Quốc tôi nghe

được rất rõ tiếng loa, tiếng nhạc quen thuộc của Đài Phát thanh Bắc Kinh và nhìn

thấy rất đông người đang chờ đón tiếp… Ngày thứ ba ở trên đất Trung Quốc, 3-6-

1978. Buổi chiều, sau khi nộp xong bản khai lý lịch, chúng tôi được một ông cán bộ

người Trung Quốc nói giọng Bắc tiếng Việt Nam rất rành cho biết chúng tôi phải

đăng ký đi nông trường trồng cao su Mông Xi, nếu ai chậm trễ thì phải đi Tây

Tạng!”.

Theo Tằng Dục Hính, vì sợ đi Tây Tạng, anh và người bạn Chí Tiền Thành cùng

hai thanh niên Hải Phòng nữa đã lội qua sông Hồng ngay trước khi nước chảy rất

xiết để trốn về Việt Nam vào ngày 7-6-1978, và được “các đồng chí công an Việt

Nam giúp đỡ” cho về thành phố. Tằng Dục Hính nói tiếp: “Ở Hà Khẩu, tôi biết là có

80 đến 90% bà con muốn trở về lại Việt Nam nhưng không dám”215.

“Phương án II”

Cũng trong những ngày ấy, ở miền Nam, công an bắt đầu triển khai “Phương án

II”. Theo ông Nguyễn Đăng Trừng, phó Phòng chống phản động bành trướng bá

quyền, Phương án II cũng là một trong những biện pháp “nghiệp vụ” nhằm đưa “đối

tượng ra khỏi điểm nóng” - vấn đề là đối tượng của phương án này là cả triệu người

Hoa đang sống ở Việt Nam.

Chỉ rất ít người được biết đến Phương án II. Tuy là phó bí thư thường trực Thành

ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Quốc Hương cũng chỉ được nghe giám đốc Sở

Công an thành phố cho biết, Phương án II là một kế hoạch được “phổ biến miệng

để giữ bí mật”, theo đó: Người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc

đóng thuyền cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương

án II chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công

an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản.

Ngày 19-11-1978, ông Lý Tích Chương đưa gia đình rời Việt Nam theo Phương

án II. Cuộc đấu tranh đi - ở bắt đầu diễn ra trong nhà Lý Mỹ khi cô đang học năm

thứ nhất, khoa Lý, tại Đại học Sư phạm. Theo Lý Mỹ thì một trong những lý do cô

không vượt biên cùng gia đình là vì khi sang Cuba và Liên Xô cô cảm thấy “nước

ngoài” rất xa lạ với những gì mà cô đang sống. Nhưng Lý Mỹ cũng không phủ nhận

một lý do quan trọng khác là khi ấy “Thành đoàn cũng tập trung giành giật cô”.

Bí thư Thành đoàn Phạm Chánh Trực và các “đồng chí” khác trong Thường vụ đã

trực tiếp động viên; bạn trai khi ấy của cô cũng là một mẫu người cộng sản lý

tưởng. Đích thân Chủ tịch Thành phố Mai Chí Thọ nhiều hôm cũng đưa Lý Mỹ về

nhà ăn cơm. Bên cạnh Lý Mỹ lúc ấy còn có những bạn bè người Hoa không vượt

biên cùng gia đình như Lai Kim, Đỗ Long. Họ cũng được ông Mai Chí Thọ quan tâm,

ông nói: “Mấy chú cũng rất đau lòng khi tụi bây phải lựa chọn như vầy, nhưng, vì tổ

quốc, vì tình thế”. Khi ấy, nếu những người như Lý Mỹ mà vượt biên thì cái thần

tượng mà Thành đoàn dựng lên sẽ sụp đổ. Thành đoàn đã thắng, Lý Mỹ ở lại.

Đó là những ngày tháng mà Lý Mỹ nói là “nên quên đi trong cuộc đời”, nhưng

những gì đã xảy ra cũng chưa phải là cay đắng nhất. Gia đình vừa đi được mấy hôm

thì một tối, khi Lý Mỹ đi học về đến nhà, thấy khóa cửa bị đập, trong nhà có khá

đông người. Lý Mỹ hỏi thì được nói họ có quyết định vào “chốt” căn nhà của Mỹ.

Nếu việc ông Lý Tích Chương bị bắt có thể vì lọt vào trong một chiến dịch “đại

trà” thì “tịch thu nhà” lại là điều ít ai nghĩ Cách mạng sẽ làm với một “điển hình”

như Lý Mỹ. Nó xảy ra trắng trợn và quá mau lẹ. Lý Mỹ cắn răng đi tìm đồ đạc thì

thấy hầu như trong nhà không còn gì quý giá. Căn nhà 531A Cách Mạng Tháng Tám

của gia đình Mỹ vốn là một cửa hàng bách hóa lớn và sang trọng, giờ ấy tan hoang.

Cô báo Thành đoàn, báo ông Mai Chí Thọ. Những người đã từng ở bên Lý Mỹ khi cô

nhiệt tâm “cải tạo” gia đình đến giờ đấy bỗng dưng im lặng.

Lý Mỹ đã mất nhiều năm để xin lại căn nhà của cha mẹ mình mà không kết quả.

Năm 1985, Thành phố cấp một căn nhà khác cho cô ở Quận 5. Trường hợp của Lý

Mỹ là rất đặc biệt, trong khi hàng ngàn người vượt biên theo Phương án II đã không

đi được mà còn mất cả vàng lẫn nhà. Ông Nguyễn Thành Đệ, ngụ tại 21-23 Tô Hiến

Thành, Quận 10 là một ví dụ.

Ngày 29-4-1975, khi người em rể - sỹ quan Việt Nam Cộng Hòa - kêu di tản,

ông Đệ đã không đi. Ông nói: “Thôi, Cộng sản dù gì cũng là người Việt, qua bển

toàn Mỹ”. Cũng như nhiều người khác, ông Đệ đã trả giá đắt cho quyết định xuất

phát từ quan niệm đồng bào. Cho dù không phải là người Hoa, nhưng năm 1979,

ông Đệ vẫn được móc nối đăng ký “xuất cảnh bán chính thức”. Gia đình ông chín

người, phải đóng cho chủ “tàu 224” tổng cộng 200 lượng vàng thay vì chỉ đóng tám

lượng một người theo quy định.

Ngày 17-6-1979, gia đình ông Đệ xuống Minh Hải để chuẩn bị lên tàu, nhưng

không may cho ông, vừa xuống tới nơi thì có lệnh tạm ngưng thực hiện Phương án

II. Nghĩ mình ra đi theo hướng dẫn của nhà nước hẳn hoi, gia đình ông cùng nhiều

người khác ráng nán lại để đòi lại số vàng đã nộp. Nhưng, “bắc thang lên hỏi ông

giời”.

Sau gần hai tháng chờ vàng, gia đình ông quay lại Sài Gòn, mới biết ngày 23-6-

1979, tức là chỉ sau sáu ngày ông Đệ về Minh Hải, căn nhà 21-23 Tô Hiến Thành đã

bị Quận 10 “quản lý”. Gia đình ông được “xét sử dụng tầng trệt nhà 23” và được

“chiếu cố” không phải trả tiền thuê nhà… mình. Chính quyền Quận 10 “quản lý” căn

nhà 21-23 là chiểu theo Chỉ thị 14 ngày 2-4-1977của Thành phố, theo đó: “Xử lý

tạm thời tài sản của những người trốn đi nước ngoài bị bắt”.

Tuy nhiên, gia đình ông Đệ không phải “trốn đi nước ngoài” cũng như chưa hề

“bị bắt”. Nhà ông cũng chưa thuộc diện “nhà vắng chủ” theo Thông tri số 201-BXD/

NĐ, ngày 23-6-1978 của Bộ Xây dựng. Ngày 4-8-1980, ông Đệ quay lại Minh Hải

làm đơn xin xác nhận là ông “xuất cảnh đàng hoàng”. Tính tổ chức của Phương án

II được địa phương xác nhận rõ ràng bằng mực đen, giấy trắng216.

Theo Báo cáo kiểm tra việc thực hiện Phương án II của Ban 69 thì ở thời điểm

ấy, số người có hoàn cảnh như ông Nguyễn Thành Đệ ở các tỉnh miền Nam, tức là

đã “làm nghĩa vụ” nộp tiền và vàng mà không đi được vì lệnh ngừng, lên tới 18.435

người. Từ cuối năm 1979, ông Nguyễn Thành Đệ bắt đầu hành trình đòi lại nhà và

cũng kể từ năm đó, gia đình ông gồm mười hai người phải sống ở tầng trệt nhà 23

Tô Hiến Thành với diện tích tổng cộng 35m2.

“Ban 69”

Theo ông Trần Quốc Hương, khi Bộ Chính trị quyết định thành lập Ban 69, ông

Trần Văn Sớm (Hai Sớm), ủy viên Trung ương Đảng, thành viên Ban 69 cho biết

Ban đã có buổi làm việc với Chủ tịch Nước Trường Chinh để báo cáo tình hình cụ thể

những địa phương “thu vàng nhiều và nộp lên trên ít”. Chủ tịch Trường Chinh cho

Ban biết: “Chủ trương này chưa bao giờ được đưa ra Bộ Chính trị để bàn và quyết

định, cho nên khi vào Thành phố Hồ Chí Minh nghe được thông tin về Phương án II,

Chủ tịch đã đề nghị họp Bộ Chính trị cho ngưng ngay và thành lập Ban Kiểm tra

xem xét việc thi hành”.

Ban 69 được Ban Bí thư quyết định thành lập ngày 20-3-1981 nhằm “kiểm tra

các tỉnh Miền Nam” với ba nội dung: “Việc cho người Hoa đi nước ngoài (gọi tắt là

Phương án II - PA2); việc buôn bán lậu với tàu nước ngoài của một số tỉnh; việc bắt

giữ vượt biên trái phép”. Tuy nhiên, Ban 69 chủ yếu xem xét việc thực hiện Phương

án II.

Báo cáo ngày 20-10-1981 của Ban 69 phân tích: “Cay cú trước thắng lợi vĩ đại

của sự nghiệp cách mạng giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc của nhân dân

ta, bọn bành trướng Bắc Kinh sử dụng bọn Pôn-pốt đánh phá ta từ phía Tây nam,

đồng thời âm mưu dùng đội quân thứ năm để gây bạo loạn lật đổ từ bên trong phối

hợp với hành động chiến tranh từ bên ngoài, gây ra vụ ‘nạn kiều’ tạo nguyên cớ cho

cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc. Phối hợp với các thế lực đế quốc,

phản động quốc tế, chúng mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta; vừa kích động

người Hoa chạy về Trung Quốc với cái chúng gọi là ‘nạn kiều’. Để phá tan một nguy

cơ có thể gây ra tình hình phức tạp về chính trị, Trung ương chủ trương giải quyết

đối với người Hoa với ba phương án: cho họ ra nước ngoài theo con đường Liên Hợp

Quốc HCR (gọi tắt là PA1); cho họ ra nước ngoài làm ăn (gọi tắt là PA2); cho họ đi

các địa phương sản xuất theo khả năng của họ (gọi tắt là PA3). Nhưng họ chọn con

đường đi làm ăn ở nước ngoài, Trung ương giao cho Bộ Nội vụ trực tiếp tổ chức thực

hiện PA2 này”.

Theo Ban 69: “Có địa phương lúc đầu thấy thực hiện có nhiều khó khăn, dẫn đến

do dự, lừng chừng, nhưng sau đều quyết tâm thực hiện. Theo chỉ đạo của Bộ Nội vụ

thì các tỉnh được phép tổ chức thực hiện PA2 ngay từ đầu gồm có: Quảng Nam-Đà

Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Kiên Giang, TP. Hồ

Chí Minh, Tiền Giang, Minh Hải; các tỉnh không được phép làm nhưng sau đó xin

làm: Sông Bé, An Giang, Hậu Giang, Cửu Long, Long An”. Cũng theo Báo cáo của

Ban 69: “Sau 1 đợt ta tổ chức cho người Hoa đi có xảy ra tai nạn, bọn đế quốc và

phản động quốc tế mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta. Để tạo thuận lợi cho

công tác chính trị ngoại giao đối với thế giới, Thủ tướng Chính Phủ đã có mệnh lệnh

vào tháng 12-1978 ngưng việc cho người Hoa đi nước ngoài. Vì còn một số người và

tàu đã đăng ký đóng nghĩa vụ bị kẹt lại chưa đi được gây ra những khó khăn phức

tạp cho địa phương. Tháng 4-79 Thủ tướng cho phép tiếp tục đi đến hết tháng 5-79

phải chấm dứt. Một số nơi có xin phép cấp trên cho đi 13.000 người nhưng thực đi

7-8 vạn người mà vẫn còn đọng lại hàng vạn người và hàng trăm tàu thuyền”.

Báo cáo của Ban 69 thừa nhận: “Là một công việc hệ trọng có quan hệ đến

chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhưng Ban Bí thư trung ương

Đảng không có một văn bản nào về lãnh đạo và chỉ đạo các cấp ủy Đảng lãnh đạo

và thực hiện PA2 này, các cấp ủy Đảng ở địa phương rất lúng túng. Bộ Nội vụ có kế

hoạch 244 nhắc các giám đốc sở, trưởng ty công an các tỉnh, thành báo cáo ban

thường vụ tỉnh ủy, thành ủy để xin ý kiến lãnh đạo, nhưng khi phổ biến trực tiếp

thêm câu nói do yêu cầu bí mật nên công tác này chỉ có bí thư, chủ tịch và trưởng

ty công an biết. Vì vậy, việc thực hiện PA2 này, hầu hết ban thường vụ tỉnh ủy,

thành ủy đều không biết. Tỉnh ủy, thành ủy lại càng không biết, chỉ có ba đồng chí

bí thư, chủ tịch, trưởng ty công an biết thôi”.

Thư ký riêng của ông Võ Văn Kiệt thời điểm đó, ông Phạm Văn Hùng, nói: “Cũng

như ông Mười Hương, ông Kiệt không đồng ý với nhận định của Trung ương, coi

người Hoa ở Chợ Lớn là ‘đạo quân thứ năm’, nhưng khi chính sách cải tạo đẩy đến

chỗ người Hoa phải vượt biên thì ông Kiệt thấy rằng để họ ra đi có tổ chức vẫn tốt

hơn là ra đi hoàn toàn bất hợp pháp, nên ông tán thành Phương án II”.

Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành phố cũng chỉ tổ chức rất hạn chế. Ông nói: “Tôi

báo cáo là Thành phố không có khả năng đóng tàu, để các tỉnh thực hiện Phương án

II thì tốt hơn”. Báo cáo của Ban 69 cho biết: “Đồng chí Võ Văn Kiệt, ủy viên dự

khuyết Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, có lần mời các bí thư

tỉnh ủy lên chỉ thị về việc tổ chức cho người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh đi nước

ngoài”. Chính vì cách làm này mà tuy con số người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh ra

đi chỉ “phối kiểm” được trên 10.000 người, nhưng theo Ban 69, thực tế đi được

“khoảng 70.000 người”.

Kết quả kiểm tra của Ban 69 cho thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa báo cáo

của Bộ Nội vụ và thực tế thực hiện Phương án II. Báo cáo của Bộ nội vụ nói rằng:

“Từ tháng 8-78 đến 6-79, mười lăm tỉnh, thành đã cho người Hoa đi nước ngoài

bằng tàu, thuyền gồm 156 chuyến với số người là 59.329 người, đã thu 5.612 kg

vàng, năm triệu đồng Việt Nam, năm mươi bảy ngàn đô la Mỹ, 235 ô tô, 1.749 nhà

và gian nhà”. Nhưng, số liệu sau khi Ban 69 kiểm tra cho thấy: “Số tàu đã cho đi:

533; Số người đã đi: 134.322; Thu vàng: 16.181kg; Ngoại tệ: 164.505 đô la; Tiền

ngân hàng VN: 34.548.138 đồng; Một số tài sản khác: 538 ô tô, xe du lịch; 4.145

nhà và gian nhà”217.

Báo cáo của Ban 69 nhận xét: “Tuy đối tượng cần đưa đi ở các tỉnh trước hết là

Thành phố Hồ Chí Minh chưa giải quyết hết yêu cầu, việc phối hợp đưa 70 ngàn

người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh trong tổng số gần 140 ngàn người Hoa đã đi là

một thành tích lớn. Việc thu vàng và tài sản của PA2 cũng là một thành tích rất

lớn”. Tuy nhiên, qua kiểm tra, Ban 69 “đã rút ra được một số kinh nghiệp về

nguyên tắc lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội bộ Đảng

cũng như trong tổ chức thực hiện và công tác quản lý của chính quyền”. Theo đó,

“khuyết điểm bao trùm” gồm: “Về chính trị nhiều nơi xét duyệt danh sách không

thẩm tra xác định để lọt người Việt, người không đối tượng cho đi mà kẻ địch đang

tìm mọi cách tổ chức, sử dụng để thực hiện âm mưu lâu dài là đánh phá trở lại

chúng ta. Các địa phương phối kiểm chưa chặt số người Hoa ở tỉnh khác đến đăng

ký đi ở tỉnh mình”.

Đặc biệt, theo Báo cáo của Ban 69: “Nhiều tỉnh vận động cho người đi nước

ngoài, khi họ xuống tàu rồi tổ chức bắt thu tài sản (Bến Tre, Quảng Nam-Đà Nẵng).

Nhiều tỉnh cho đi sau khi có lệnh cấm tháng 5-79 (Minh Hải, Đồng Nai, Bến Tre,

Cửu Long, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Long An, Sông Bé) do nặng vì lợi ích chính trị và

kinh tế của địa phương... Về khách quan do địch tích cực phá hoại mua chuộc.

Nhưng về chủ quan do ta quản lý không chặt chẽ về tư tưởng và do cán bộ hư

hỏng. Một số cán bộ công an, cán bộ các ngành có liên quan đến PA2 có sai phạm.

Trong lực lượng vũ trang ở mười bốn tỉnh đã có 105 sĩ quan từ thượng tá đến chuẩn

úy vi phạm (kể cả chống bắt vượt biên)”.

Theo Ban 69 thì Bộ Nội vụ “quy định chế độ, nguyên tắc, quyền hạn không chặt

chẽ, làm cho một số cán bộ tham ô, hối lộ, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, làm

quỹ riêng địa phương, buôn bán với nước ngoài, gây thất thoát lớn”. Báo cáo của

Ban 69 cho biết: “Sau khi Bộ Nội vụ tổ chức rút kinh nghiệm và hướng dẫn mức

đóng nghĩa vụ thống nhất vào ngày 20-11-1978, nhiều địa phương không chấp

hành đúng. Người ra đi có khả năng đóng góp mà ta chưa tích cực thu cùng một

quy định của Bộ Nội vụ, có địa phương thu đủ, có địa phương thu không đủ. Bọn

trung gian, đầu mối, thu của người đi nhiều nhưng nộp cho ta ít. Tính hết các khoản

trên đây thì chỉ số thất thoát cũng gần bằng số thu được. Con số thất thoát lớn

chưa từng thấy… Là công cụ sắc bén của Đảng, của lực lượng chuyên chính vô sản,

nhưng tính tổ chức kỷ luật của cán bộ công an làm Phương án II rất yếu: quá trình

thực hiện PA2 cấp dưới không báo cáo đầy đủ lên cấp trên; không sơ tổng kết; báo

cáo gian dối… Một số cán bộ chủ chốt ở các ty công an sai phạm, cán bộ và lực

lượng ngành một số hư hỏng, thoái hóa, tham ô tập thể khá rõ, có nhiều dư luận

xấu, nội bộ nghi ngờ nhau. Kẻ địch, phần tử xấu đả kích lực lượng chính quyền vô

sản”.

Một số “vấn đề nổi lên” khi thực hiện Phương án II, được Ban 69 chỉ ra trong

Báo cáo: “Đối tượng cần đưa đi chưa đưa đi hết. Để lọt người Việt trốn đi, một số

nơi đã kiểm tra cho thấy: Bến Tre có 81 người Việt; Phú Khánh có 466 người Việt;

Thuận Hải, 29 người Việt; Nghĩa Bình có 32 người (mới kiểm tra ở hai phường);

Quảng Nam-Đà Nẵng, 2; An Giang, 8; Cửu Long, 43; Sông Bé, 30. Thả can phạm

đang bị giam để cho đi, không trao đổi để có sự nhất trí với các cơ quan tòa án và

viện kiểm soát nhân dân cùng cấp: Hậu Giang, 17; Phú Khánh, 22; Đồng Nai, 63;

Minh Hải, 80; Bến Tre, 11; Quảng Nam-Đà Nẵng, 40. Danh sách không được thẩm

tra kỹ, chủ yếu dựa vào tự khai của chủ tàu. Số ở TP Hồ Chí Minh đăng ký đi ở các

tỉnh, các tỉnh không phối hợp thẩm tra: 70.000 người Hoa ở TP Hồ Chí Minh đã đi

mới phát hiện được 10.000 người”.

Đặc biệt, theo Ban 69, “nguy hiểm ở chỗ không xét duyệt kỹ để lọt đối tượng ra

đi rồi trở lại hoạt động (ở Minh Hải, tháng 6-79 có 60 người xuất cảnh sang Mã Lai,

sau 20 ngày lại trở về) cho đại diện móc tàu nước ngoài không quản lý hết để nó

móc nối tổ chức đường dây đưa người vào, người ra (TPHCM), để lọt hộ của Hồ Thị

Út có quan hệ đến chỉ đạo của bọn ở Hong Kong (Bến Tre). Việc miễn giảm không

được tập thể Ban chỉ đạo PA2 thông qua, hầu hết các nơi đều miễn giảm cho trẻ em

từ 4 tuổi đến 12 tuổi có nơi còn giảm cho người 15 tuổi. Sửa tuổi để miễn giảm

đóng nghĩa vụ: Hậu Giang, 179 trường hợp; Bến Tre 102; Cửu Long 20… Công an

đốt xé, sửa đổi sách vì gian dối số tàu, người, vàng, tiền: Hậu Giang, Kiên Giang,

Ninh Hải, Bến Tre, Nghĩa Bình, Đồng Nai, Phú Khánh, Thuận Hải, Quảng Nam-Đà

Nẵng. Dùng nghiệp vụ để đối phó với kiểm tra: bắt một số người để bịt đầu mối

như Kiên Giang, Minh Hải”.

Có nhiều trường hợp “giữ tiền Phương án II làm của riêng. Nghiêm trọng hơn,

phòng bảo vệ chính trị Ty Công an tỉnh An Giang đã cấp biển xe, chứng nhận họ là

nhân viên nhà nước, làm giấy ký hợp đồng với họ về việc tổ chức để cho người Hoa

đi lại hoạt động. Cấp bao nhiêu giấy chưa rõ, hậu quả của nó chưa lường hết được”.

Theo Ban 69, “một số nơi có nhận văn bản 244, có được phổ biến nhưng không thu

đúng quy định của Bộ Nội vụ gây thất thu như: Hậu Giang, 4.866 lượng; Minh Hải,

48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa Bình, 27.000

lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang, 1.445 lượng”.

Theo Báo cáo của Ban 69, Ban đã phát hiện ra một số cơ quan cấp tỉnh lập quỹ đen

trái phép218.

Vụ Cát Lái

Đặc biệt, báo cáo của Ban 69 cho biết: “Do kiểm tra không chặt chẽ về công tác

bảo đảm an toàn, đã có chín tàu bị tai nạn chết 902 người: Đồng Nai, một tàu; Bến

Tre, một tàu, chết năm mươi bốn người; Sông Bé, một tàu hư, tàu Liên Xô kéo vào;

Tiền Giang, ba tàu, chết 504 người; Long An, một tàu, chết ba mươi tám người;

Thành phố Hồ Chí Minh, một tàu, chết 227 người; Nghĩa Bình, một tàu, chết bảy

mươi tám người”.

Vụ chìm tàu Phương án II chết hàng trăm người ở Thành phố xảy ra vào giữa

năm 1979, gần bến phà Cát Lái, Thủ Đức, nhưng gần như rất ít người sống ở Sài

Gòn vào thời bấy giờ nghe nói tới câu chuyện đau lòng này. Đại tá Phạm Ngọc Thế,

khi ấy là phó Phòng Hậu cần Công an Thành phố, người đảm trách việc tìm xác và

chôn cất các nạn nhân, kể: Hôm ấy là ngày thứ 7, đúng giờ G, chủ tàu bắc loa kêu

những người đã có danh sách ra đi xuống tàu. Đêm hôm trước họ đã bí mật tập kết

ở xung quanh đó, công an canh phòng cẩn mật cho họ ở vòng ngoài. Vì ai cũng sốt

ruột chờ đón giây phút ấy nên hàng trăm người tranh nhau xuống tàu rất nhanh.

Tàu có ba tầng, những người mua chỗ ở tầng dưới, rẻ hơn, khi tàu chưa chạy thấy

ngột ngạt quá leo lên, ngồi cả trên mui, khiến cho con tàu chòng chành. Càng

chòng chành, họ lại càng chạy qua, chạy lại, khiến cho tàu nghiêng hẳn và nhanh

chóng bị chìm. Ông Thế nói, nếu con tàu ấy không chìm tại bến thì khi ra khơi nó

cũng sẽ không chịu nổi vì nó vốn chỉ là một chiếc tàu kéo.

Trên thực tế, nói Phương án II là do công an tổ chức, nhưng gần như mọi việc từ

thu tiền, mua tàu đều khoán hết cho “Ban liên lạc những người ra đi bán hợp pháp”.

Theo Đại tá Thế, họ nghĩ một con tàu có thể kéo được hàng chục chiếc ghe thì cũng

có thể chở được hàng trăm người, nên họ mua và thiết kế lại trong ba tháng. Con

tàu dài khoảng 30m, rộng 10m, khoang chứa đá giữ cân bằng được sửa lại để trữ

nước, thay máy, thay cấu trúc các khoang. Đóng xong, nhìn con tàu có vẻ rất ngon,

nhưng nó cứ như là một cái hột vịt. Khi chìm, tàu chúi xuống, cắm mũi xuống bùn,

những người đã chui vô khoang không có cách nào để ra. Phần lớn những người đi

trên chuyến tàu này, kể cả trưởng tàu, đều là người Hoa làm nghề buôn bán, không

hề có chút kinh nghiệm sông nước gì.

Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế thì khi ấy Thành ủy phải điều hai cần cẩu sáu mươi

tấn từ Vũng Tàu vô để “kéo rị rị từng chút”. Cũng phải tới ngày thứ ba thì mới đưa

tàu lên được. Con số người chết theo báo cáo của Ban 69 là 227 người. Theo Đại tá

Phạm Ngọc Thế: “Có khoảng hơn bốn mươi người sống sót. Cứ mỗi cái xác được

đưa ra, chúng tôi chỉ dám để hai mươi phút để bộ phận nghiệp vụ lấy dấu tay rồi

chuyển qua ngay cho bộ phận mai táng, vì đã bắt đầu nặng mùi. Cứ hàng chục xác

một được xếp lên xe, phủ bạt, rồi chạy từ Cát Lái về mai táng ở khu đất cách đấy

chừng ba cây số”.

Đại tá Phạm Ngọc Thế kể: “Chúng tôi vét sạch hòm ở các quận. Khâm liệm xong

vẫn còn dư mấy cái vì có bốn trường hợp phải chôn đôi bởi các bà mẹ trước khi chết

ôm chặt lấy con mà chúng tôi thì không nỡ tháo khớp tay họ ra để chia lìa tình mẫu

tử”. Ông Thế nói: “Thành ủy ra lệnh cho chúng tôi chôn cất họ rất chu đáo ở một

khu vực cách cầu Giồng Ông Tố, Thạnh Mỹ Lợi, khoảng 500m”. Theo ông Thế thì

những người sống sót cũng cứ như mất hồn vì chứng kiến xác người thân của mình

đang trương lên, phải khó khăn lắm mới đưa ra được khỏi con tàu đã chìm ba, bốn

ngày dưới nước.

Tuy gây ra những hậu quả như vậy nhưng Phương án II vẫn “là một chủ trương

lớn của bộ chính trị, nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, có quan hệ đối nội, đối ngoại, tiến

hành trong thời điểm có chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Thù

trong giặc ngoài, bọn phản động quốc tế tìm mọi cách đánh phá ta trên mọi lĩnh

vực, do tính chất bí mật, không phổ biến rộng, chỉ giao phó Bộ Nội vụ tổ chức thực

hiện”. Vì thế, Ban 69 đề nghị “thành công và thiếu sót đều phải được đánh giá trong

điều kiện lịch sử đó”. Ban 69 cũng lưu ý: “Việc thực hiện PA2 hầu hết đều thuộc các

Đảng bộ Miền Nam. Nếu cứ có sai phạm là kỷ luật thì các đồng chí lãnh đạo chủ

chốt, các cấp ủy ở Miền Nam phải chịu. Nếu việc xử lí kỷ luật nhiều cấp ủy, nhiều

đồng chí chủ chốt ở các Đảng bộ Miền Nam thì trong lịch sử Đảng ta sẽ để lại một

ấn tượng cho thế hệ mai sau. Vì vậy việc xử lý kỷ luật trong thực hiện PA2 cần được

cân nhắc theo tính chất đặc biệt của nó”.

Chương V: Chiến tranh

Mặc dù từ giữa năm 1977, Pol Pot bắt đầu được nói tới như những bóng ma áo

đen, đêm đêm cầm dao quắm lẻn sang giết chóc dọc biên giới Tây Nam, nhưng

người dân Việt Nam vẫn sững sờ khi ngày 25-1-1978, tình trạng chiến tranh được

Chính phủ công khai thừa nhận. Kể từ khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, đất

nước trải qua ba mươi năm chiến tranh liên tiếp chiến tranh. Chưa kịp hưởng một

ngày thực sự yên vui, trai tráng lại phải khoác lên vai cây súng, lần này là đánh

nhau với những “người anh em” Cộng sản.

Biên giới Tây Nam

Ngày 25-1-1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Điền, vụ trưởng Vụ Thông

tin Báo chí Bộ Ngoại Giao, chủ trì họp báo, cho biết nhà cầm quyền Campuchia đã

huy động phần lớn lực lượng quân đội của họ đến đóng dọc biên giới, mở những

cuộc tiến công quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, rồi sư đoàn vào sâu trong lãnh thổ

Việt Nam. Cuộc họp báo của ông Ngô Điền diễn ra bốn ngày sau khi Khmer Đỏ kết

thúc một cuộc tấn công kéo dài trên vùng biên giới Tây Nam.

Từ ngày 11 đến 19-1-1978, ba trung đoàn Khmer Đỏ đã đánh vào vùng Tịnh

Biên, Phú Cường ở bờ đông kênh Vĩnh Tế, sâu hơn 3km trong lãnh thổ Việt Nam.

Ngày 18-1-1978, hai trung đoàn khác đã tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành,

thuộc huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ

chiếm Rộc Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km. Ông Ngô Điền

nói: “Nghiêm trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa

cỡ lớn đặt trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xã Châu Đốc và vùng

chung quanh thị xã Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa

và tài sản của nhân dân Việt Nam”219.

Ông Điền đặc biệt lưu ý: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người

Việt Nam mà còn tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan

rồi quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do

ông Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đã “thừa nhận những hành động của Pol Pot”

và tiết lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược

Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một”220. Khmer Đỏ đã khai chiến một ngày sau

khi họ chiếm được Phnom Penh.

Ngày 18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun,

chỉ huy trung đoàn 120, đã cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con

rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt

Nam vì mười tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”. Ngày

19-4-1975, một người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đã cho hải quân đổ bộ

lên đảo nhỏ thuộc vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc.

Quân đội Sài Gòn đã phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30-

4-1975. Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây

Ninh đến Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng đã

bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài Gòn, đánh đuổi. Ngày

10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn

giết và bắt đi 515 người.

Ông Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực

tiếp đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư

dân của ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ

lại nghĩ là quân Giải phóng, không đề phòng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt

ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả

thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển”221.

Ngày 2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới

Phnom Penh gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đã từng biết nhau và

tại cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lý nên

đã để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót”222. Pol Pot nói vậy, nhưng mãi cho tới

ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù binh, Khmer

Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một hòn đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Trọc,

phía Campuchia gọi là Poulo Vai.

Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt

Nam ký một “hiệp ước hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol

Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được

ký.

Từ trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía

Việt Nam gọi là Hòn Ông, Hòn Bà, phía Campuchia gọi là Poulo Wai, được thành

lập. Poulo Wai nằm cách thị xã Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km

về phía tây. Hòn Ông cao năm mươi mốt mét, Hòn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm

song song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một bãi

cát vàng; còn lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài Gòn từng

xây trên đảo Hòn Bà một cây đèn biển và một sân bay dã chiến, chủ yếu cho trực

thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm

Poulo Wai trong vòng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự

hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay

trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên

chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh

mới làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đỏ223.

Ngày 2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, ký với Pol

Pot một bản thông cáo chung. Phía Việt Nam đồng ý trả lại Poulo Wai cho

Campuchia. Ngày 4-8-1975, khi Nuon Chea, phó bí thư Trung ương Đảng

Campuchia, tới Hà Nội, ông ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ

trang Việt Nam không còn ở đảo Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay

mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận

của 515 người dân Thổ Chu bị Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ

hứa: “Sẽ giải quyết”224. Từ đây, sẽ không ai còn được nghe nói tới số phận của 515

người dân Việt Nam này.

Tháng 4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào

tháng 6 năm đó giữa lãnh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo

tiền đề cho việc ký kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giới225. Cuộc đám

phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ

Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết:

“Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đã đạt được thắng lợi lớn,

củng cố và phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đã hiểu

biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu là

anh em cách mạng”226.

Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi là đồng chí, và Hà Nội đã không

phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên phòng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô

Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước ngoài đến vùng biên giới An Giang và

Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm trước hành động dã man của bọn diệt

chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung

ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ với bọn Pol Pot - Ieng Sary. Tôi

thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot. Cho đến lúc

đó, anh Hai Xô vẫn còn cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ trương của lãnh

đạo địa phương”227.

Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau ngày Pol Pot cầm quyền, đã có hơn 150 nghìn

người từ Campuchia chạy sang tị nạn tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những

người gốc Việt, hàng chục nghìn người Hoa và người Khmer đã bị buộc quay trở lại.

Số phận của họ, cũng như của hàng triệu người Campuchia khác, được tin là đã bị

các Angkars đặt dưới dao, dưới búa228. Hàng trăm người thân của những người

Khmer Issarak tập kết ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm

1970, cũng đã bị giết khi đến Campuchia tìm chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh

giải phóng”.

Pol Pot

Cuối tháng 7-1976, lần đầu tiên một đoàn nhà báo nước ngoài được phép đến

Campuchia. Đoàn do ông Trần Thanh Xuân, phó tổng giám đốc Thông tấn xã Việt

Nam, dẫn đầu.

Tuy vẫn rất lịch lãm, thân thiện và tỏ rõ “tình hữu nghị giữa hai dân tộc”, nhưng

trong suốt quá trình làm việc, Pol Pot vẫn giữ tư thế nguyên thủ quốc gia với ông

Xuân. Không ai biết, trong thời gian học đại học ở Paris, cũng như nhiều người

Khmer cộng sản khác, Pol Pot thường xuyên đến nhà ông Xuân, có khi chỉ là để lục

cơm nguội. Ở Paris, nhà ông Xuân được những người Khmer coi như một cơ sở của

Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước

khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không

anh?”.

Thời thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay vì tham

gia các trò chơi với bạn bè cùng lứa. Cha mẹ Pol Pot, một phú nông ở vùng

Kongpong Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot - đứa con út của

họ, sinh ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar - thay vì làm ruộng ở quê nhà, đã

được đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm

việc trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong.

Sau một năm sống trong môi trường khép kín của Hoàng gia, cậu bé Saloth Sar

bắt đầu sáu năm trong một trường dòng quý tộc. Năm mười sáu tuổi, Saloth Sar

quay lại Kongpong Thom học trung học. Lúc ấy, Phnom Penh đang náo động bởi các

phong trào đòi độc lập của giới thanh niên học sinh. Thành phố lớn nhất mà Saloth

Sar đặt chân tới là Sài Gòn, chặng nghỉ trước khi xuống tàu sang Pháp sau khi nhận

được học bổng học ngành vô tuyến điện. Năm 1949, tới Paris, Saloth Sar bắt đầu

hoạt động cho dù được người anh trai làm việc ở Hoàng cung khuyên là không nên

dính dáng tới chính trị. Tại đây, Saloth Sar gặp Yeng Sary, một sinh viên người

Khmer sinh ra ở Việt Nam.

Trong đám cưới của Yeng Sary với Khieu Thirith - một sinh viên đang học về văn

chương Anh tại Sorbonne - Saloth Sar đã gặp và sau đó cưới Khieu Ponnary, chị gái

Thirith. Họ cùng tham gia phái bộ Campuchia trong Đảng Cộng sản Pháp. Trong

thời gian đó, chàng sinh viên Saloth Sar vẫn được coi là một con người lịch lãm,

khiêm tốn. Bạn bè có cảm giác cậu ta không giết nổi ngay cả một con gà.

Tháng 1-1953, Saloth Sar trở về Campuchia vì bị cắt học bổng sau ba năm liên

tiếp thi rớt. Những ngày đó, Sihanouk vừa ra lệnh thiết quân luật, trấn áp phong

trào đòi độc lập đã trở nên cực đoan ở Phnom Penh. Sar theo anh trai, Saloth

Chhay, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản tại Campuchia. Sau khi xác minh đúng

Saloth Sar đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Phạm Văn Ba - một đảng viên

người Việt Nam - đồng ý cho anh ta sinh hoạt trong Đảng Nhân dân Cách mạng

Khmer.

Sau Đại hội lần thứ II - tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên

thành Đảng Lao động Việt Nam - những người cộng sản Lào, Khmer trong năm ấy

đã được giúp đỡ để lập ra đảng riêng. Ngày 21-9-1951, Lê Đức Thọ và Nguyễn

Thành Sơn triệu tập các đảng viên người Khmer có mặt ở Việt Bắc tổ chức Đại hội

thành lập Đảng Nhân Dân Cách mạng Khmer; Anchar Mean, người được biết nhiều

với cái tên Việt Nam là Sơn Ngọc Minh, được cử làm chủ tịch.

Sơn Ngọc Minh là người sáng lập Phong trào Isarak năm 1948, một phong trào

có ảnh hưởng trên địa bàn bốn tỉnh gần Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản

trên đất Khmer lúc ấy vẫn được lãnh đạo bởi những đảng viên người Việt. Saloth

Sar và một số đảng viên đã từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt trong

một chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm bí thư. Những

người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao những công việc tạp

vụ; điều này đã để lại cho họ nhiều ấn tượng không tốt.

Người Pháp trao trả độc lập cho ông hoàng Sihanouk từ năm 1953. Chính phủ

Hoàng gia đã ngăn cản việc Hiệp định Geneva dành cho những người Khmer Cộng

sản có được một vùng “tập kết” như những người kháng chiến Issara của Lào. Hơn

1.000 đảng viên người Khmer được đưa ra miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, trong

đó có Sơn Ngọc Minh. Những đảng viên ở lại hoạt động bí mật dưới quyền của Sieu

Heng và Tou Samouth, chịu sự truy lùng gắt gao của chính quyền Sihanouk. Năm

1959, Sieu Heng đầu hàng, nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp.

Tháng 9-1960, Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer tổ chức đại hội bầu Tou

Samouth, một người có quan hệ tốt với miền Bắc Việt Nam, làm bí thư. Nhưng,

năm 1962, Tou Samouth đã “mất tích” khi vừa từ Hà Nội về; Pol Pot, khi ấy đang là

phó bí thư, đương nhiên trở thành bí thư. Thế hệ những người Khmer Cộng sản gốc

nông dân và các Phật tử ủng hộ những người cộng sản Việt Nam bắt đầu được thay

thế bởi những người đã từng du học ở Paris, nuôi tinh thần chống Việt Nam, cho dù

khi ấy Khmer Đỏ phải dạt về vùng rừng núi giáp Việt Nam và phải dựa vào những

người Việt Nam Cộng sản.

Đi dây

Norodom Sihanouk được coi là một “ông hoàng đi dây”. Tuy nhiên, trong nửa

cuối thế kỷ 20, không chỉ có ông - vị vua của một một quốc gia thờ thần bốn mặt -

các bên dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều có những mối quan hệ phức tạp

với nhau. Trong khi trục lợi vai trò trung lập của Phnom Penh, tất cả đều để mặc

cho Pol Pot phát triển nhanh phong trào Khmer Đỏ.

Kể từ khi người Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam, nhà Nguyễn bắt đầu nhìn

thấy vị trí chiến lược của Lào và Campuchia đối với an ninh quốc gia. Hoàng đế

Minh Mạng đã từng coi Campuchia là “phên dậu” trong thế chống lại quân Xiêm.

Người Pháp cũng đã không dừng tham vọng thuộc địa của họ ở Việt Nam mà đưa

quân ngược dòng Mekong, đến Lào, Campuchia, rồi gộp chung ba quốc gia khác

biệt về văn hóa thành một xứ gọi là Đông Dương. Trong chiến tranh chống Pháp,

Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi “Đông Dương là một đơn vị chiến lược, là một chiến

trường”. Khi miền Bắc xác định, “bạo lực” là “đường lối của cách mạng miền Nam”,

một con đường men theo lãnh thổ Lào, Campuchia - thường được gọi là đường mòn

Hồ Chí Minh - bắt đầu được thiết lập.

Người Mỹ biết rất rõ miền Bắc Việt Nam sử dụng các căn cứ ở Hạ Lào và ở

Campuchia như một bàn đạp cho các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Khi

chưa chính thức vào Nhà Trắng, Nixon đã yêu cầu “báo cáo chính xác về những gì

kẻ địch có ở Campuchia”, đồng thời đặt ra mục tiêu “phá hủy các căn cứ được xây

dựng ở đó”. Người Mỹ cũng biết khá chính xác việc miền Bắc sử dụng cảng

Sihanoukville để nhận vũ khí từ Liên Xô.

Trong thập niên 1960, Sihanouk đã khá thẳng tay với Cộng sản, Chính phủ

Hoàng gia tuyên án tử hình vắng mặt Saloth Sar; năm 1967, ba bộ trưởng cánh tả -

Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim - đã phải bỏ vào rừng với Khmer Đỏ. Nhưng

Sihanouk lại là “bạn thân” với Bắc Kinh và Hà Nội. Ông làm ngơ cho miền Bắc Việt

Nam lập căn cứ trên lãnh thổ của mình. Mối quan hệ khăng khít của Sihanouk với

Hà Nội, Bắc Kinh và các quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gây lo ngại cho

Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Ngô Đình Diệm được nói là đã ủng hộ lãnh tụ đối

lập Sam Sary và giúp đỡ cuộc nổi loạn của Tướng Dap Chuon. Đại sứ Việt Nam

Cộng hòa Ngô Trọng Hiếu từng bị cáo buộc đứng sau lưng một vụ mưu sát

Sihanouk bằng bom.

Tháng 8-1963, Sihanouk cắt quan hệ ngoại giao với miền Nam Việt Nam và sau

đó từ chối viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ. Tháng 5-1965, Sihanouk cắt quan hệ

với Mỹ và sang tháng 6-1965, ông công khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng

Miền Nam Việt Nam.

Miền Bắc Việt Nam đánh giá cao vai trò của Hoàng thân Sihanouk tới mức, cuối

năm 1964, khi Pol Pot theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông ta đã được đề

nghị ủng hộ chính sách “chống ngoại bang” của ông Hoàng. Pol Pot đã ghi điều này

vào “sổ đen” như một bằng chứng các đồng chí Việt Nam đã không hết lòng với ông

ta. Mục tiêu của Pol Pot không phải là chống Mỹ mà là cầm quyền, nhưng làm sao

có thể cầm quyền khi Chính phủ Hoàng gia vững mạnh.

Từ Hà Nội, Pol Pot đến Bắc Kinh và ở lại đây năm tháng. Thời gian đó, Cách

mạng Văn hóa đang ngự trị đất nước Trung Hoa. Pol Pot chia sẻ nhiều mục tiêu của

cuộc cách mạng này và nhận ra sự khác biệt trong con đường cách mạng của Pol

Pot và Hà Nội. Từ đầu năm 1968, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những hoạt động du

kích lẻ tẻ, bắt cóc, phục kích nhắm vào các quan chức trong Chính quyền Sihanouk.

Một số cuộc nổi dậy do Pol Pot tổ chức ở nông thôn bị Sihanouk khủng bố tàn khốc.

Du kích Khmer Đỏ xin Việt Nam vũ khí để tự vệ, nhưng phía Việt Nam không thể

đáp ứng vì khi ấy miền Bắc đang cần Sihanouk.

Sihanouk, tất nhiên, phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà các bên đánh

giá. Một mặt, ông làm ngơ cho miền Bắc lập các căn cứ trên đất Campuchia; mặt

khác, ngày 10-1-1968, khi gặp Chester Bowles, phái viên của Tổng thống Mỹ

Johnson, Sihanouk nói: “Chúng tôi không muốn có người Việt Nam nào ở

Campuchia. Chúng tôi sẽ rất vui mừng nếu các ngài có thể giải quyết được vấn đề

này. Chúng tôi không phản đối việc truy tìm ráo riết ở những vùng bỏ hoang. Các

ngài sẽ giải phóng chúng tôi khỏi Việt Cộng”229.

Nhà Trắng đã “dịch” câu nói này theo nghĩa “Sihanouk mời Mỹ tấn công” vào

những căn cứ ấy. Hai tháng sau đợt oanh kích bí mật của Mỹ, ngày 13-5-1969,

trong một cuộc họp báo, Sihanouk nói: “Không có ai bị mất nhà cửa hay thiệt mạng

trong đợt ném bom này, không có người Campuchia nào cả”230. Năm 1969,

Sihanouk tìm cách nối lại quan hệ ngoại giao với Washington, nhưng trước khi việc

thành, năm 1970, ông bị Lonnol đảo chính.

Ngày 7-1-1970, Sihanouk cùng bà hoàng Monique và tùy tùng gồm mười một

người rời thủ đô Phnom Penh. Trong khi ông đang nằm “chữa bệnh béo phì, bệnh

máu, và chứng tiểu tiện ra Anbumin” ở châu Âu, tại Phnom Penh, các tướng tá và

chính trị gia - những người năm 1963 đã phản đối việc ông từ chối viện trợ kinh tế

của Mỹ và sau đó, năm 1965, cắt đứt quan hệ ngoại giao - bắt đầu buộc tội ông bất

lực khi để quân đội Bắc Việt Nam “tràn ngập ở vùng biên giới”. Ngày 8-3-1970, tại

Svay Rieng, một cuộc biểu tình chống Việt Nam nổ ra. Ngày 11-3-1970, khoảng

20.000 thanh niên Campuchia đã cướp phá tòa đại sứ của Bắc Việt Nam tại Phnom

Penh.

Lẽ ra, ngày 13-3-1970, Sihanouk phải về Phnom Penh để kiểm soát tình hình,

nhưng ông vẫn đến thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) theo kế hoạch. Chủ tịch Xô-Viết Tối

cao Nikolai Podgorny đã khuyên ông về nước ngay, nhưng Sihanouk đã ở lại đó năm

ngày. Ngày 18-3-1970, Quốc hội Campuchia phế truất chức quốc trưởng của ông.

Sihanouk choáng váng khi Thủ tướng Liên Xô Kosygin cho hay tin trên đường tiễn

ông ra sân bay. Không ai trong đoàn tùy tùng dám cả gan báo tin này cho ông cả.

Tất nhiên, miền Bắc Việt Nam có bị tổn thất sau cuộc đảo chính. Ông Nguyễn

Nhật Hồng, người thanh toán các chi phí bí mật để vận chuyển vũ khí qua ngả

Campuchia, xác nhận điều Kissinger viết trong cuốn Ending the Vietnam War: kể từ

sau năm 1970, cảng Sihanoukville không còn được miền Bắc dùng để cung cấp vũ

khí cho miền Nam nữa. Ông Hồng kể: “Khi Trung Quốc và Liên Xô xung đột với

nhau, đóng cửa biên giới, hàng hóa từ Liên Xô không thể chuyển bằng tàu liên vận

qua biên giới Trung Quốc, miền Bắc phải thuê tàu viễn dương chở vũ khí viện trợ

của Liên Xô về cảng Sihanoukville. Việc này được cả Sihanouk và Lonnol đồng ý”.

Đổi lại, một khoản “lót tay” bằng 20% trị giá hàng nhập cảng sẽ được chi cho hai

người. Phòng Thanh toán Đặc biệt B29 mở cho Sihanouk và Lonnol mỗi người một

tài khoản bí mật ở Thụy Sỹ231. Trong những năm 1966-1969, lượng hàng hóa mà

miền Bắc Việt Nam chuyển qua cảng Sihanoukville gồm: 20.478 tấn vũ khí, 1.284

tấn quân trang, 731 tấn thuốc men, 65.810 tấn gạo, 5.000 tấn muối, và 4.115 tấn

thực phẩm hộp và khô.

Theo ông Nguyễn Nhật Hồng: “Từ năm 1969, Lonnol yêu cầu khoản 10% của

ông phải được trả bằng vũ khí. Tôi nghĩ, các nhà phân tích tình báo của ta có thể

đoán biết được ý đồ đảo chính của Lonnol khi ông ta lấy súng thay vì lấy tiền”. Theo

ông Hồng, “khoản thanh toán đặc biệt chi lót đường” này được bản “Báo cáo Tổng

kết công tác ngoại hối đặc biệt” do ông Mai Hữu Ích ký ngày 25-11-1979, ghi là “chi

phí vận tải tuyệt mật”, với tổng số tiền lên tới 36.642.653 USD.

Lịch sử dường như đã xếp đặt để ông Hoàng Sihanouk kết thúc một chặng

đường chính trị của mình tại Bắc Kinh, nơi vẫn tổ chức đón tiếp ông theo nghi thức

của một ông hoàng đang trị vì. Thủ tướng Chu Ân Lai đã ra tận cầu thang máy bay

ôm hôn, và phía sau ông, “gần như toàn bộ ngoại giao đoàn” ở Bắc Kinh có mặt.

Sau khi lên chiếc xe cắm cờ cả của Campuchia và Trung Hoa, Chu Ân Lai nói với

Sihanouk: “Đêm qua, tôi đã cho tất cả các trưởng đoàn ngoại giao biết rằng Chính

phủ Trung Quốc vẫn coi ngài là quốc trưởng hợp pháp duy nhất của Campuchia. Tôi

cũng cho họ biết là tôi rất mong muốn tất cả các đại sứ có mặt để đón ngài tại sân

bay”232.

Sự tinh tế của người Trung Hoa không dừng ở đấy. Chu Ân Lai đã tặng Sihanouk

một dinh thự vào loại đẹp nhất Bắc Kinh. Đồng minh thân cận nhất của Bắc Kinh là

Bắc Triều Tiên, cũng chỉ trong vài tháng, xây cho ông Hoàng lưu vong một dinh thự

kiểu cung điện nhìn ra mặt hồ. Tại đây, Sihanouk vẫn là một ông vua. Đích thân

Kim Nhật Thành thường xuyên mời Sihanouk và thân quyến thịt nướng, trứng cá và

rượu vang Pháp. Những phim phương Tây mới nhất mà cha con ông Kim nhập về

sau khi xem xong đều chuyển cho Sihanouk mượn. Năm 1991, Sihanouk đã đưa đội

sỹ quan cận vệ người Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành “tặng” về Phnom Penh sử

dụng.

Trong cuộc “hội đàm” ngày 19-3-1970, Chu chuyển lời của Mao Trạch Đông

nhắn với Sihanouk: “Nếu Hoàng thân không chấp nhận việc đã rồi và quyết định

lãnh đạo một phong trào kháng chiến chống Mỹ giải phóng Campuchia thì Trung

Quốc sẽ ủng hộ và sẵn sàng trợ giúp những gì có thể”233. Tuy nhiên, cả Chu Ân Lai

và Mao Trạch Đông khi ấy chưa ai nghĩ đến khả năng bắt tay giữa Pol Pot và

Sihanouk. Ngày 21-3-1970, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bí thư Trung ương Cục

Phạm Hùng bí mật tới Bắc Kinh, cả hai thuyết phục Chu Ân Lai và Pol Pot cùng hợp

tác.

Hai hôm sau, ngày 23-3-1970, Sihanouk đưa ra “tuyên bố năm điểm”, bắt tay

với Khmer Đỏ, những người đã từng bị chính ông ta “xử tử hình vắng mặt”.

Sihanouk cũng tuyên bố sẽ thành lập “quân đội giải phóng” và “mặt trận thống nhất

dân tộc”, ông đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của những người Cộng

sản Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại Bắc Kinh, “Chính phủ Sihanouk” được cung

cấp vật chất và cá nhân ông được chăm sóc như một nguyên thủ quốc gia234.

Ngày 24-4-1970, Sihanouk được đưa trở về vùng “ba biên giới” để tham gia Hội

thảo Thượng đỉnh về các Dân tộc Đông Dương cùng với Thái tử Souvanouvon của

Pathet Lào, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, và Phạm

Văn Đồng. Khi trở lại Bắc Kinh vào ngày 27-4-1970, Sihanouk ra một tuyên bố

chung cam kết “hỗ trợ có đi có lại” trong “cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung: Đế

quốc Mỹ”. Trước đó, lực lượng miền Bắc Việt Nam tại Campuchia đã tổ chức rải

truyền đơn và phát lời kêu gọi của Sihanouk, tổ chức tuyển dụng và huấn luyện

giúp Sihanouk một lực lượng gọi là Khmer Rumdo.

Kissinger cáo buộc miền Bắc Việt Nam nuôi dưỡng Khmer Đỏ và giúp đỡ để Pol

Pot chiếm được chính quyền. Kissinger cho rằng: “Nếu có người nào đó gây ra cuộc

chiến tranh ở Campuchia và biến sự diệt chủng của Khmer Đỏ thành hiện thực thì

đó chính là Hà Nội”235. Tuy nhiên, bom đạn Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng236.

Bằng những chiến dịch tuyên truyền, vừa hù dọa, vừa kích động lòng căm thù Mỹ

và chính quyền Lonnol, Khmer Đỏ đã tuyển được hàng trăm nghìn thanh niên tham

gia lực lượng của họ237. Năm 1974, mọi thanh niên từ mười sáu tuổi trở lên bị buộc

gia nhập lực lượng Khmer Đỏ, những người từ chối có thể bị Khmer Đỏ bắn chết.

Những đứa trẻ bị buộc phải cầm súng trong giai đoạn này đã trở nên vô cùng hung

hãn.

Khi đàm phán Hiệp định Paris, Lê Đức Thọ đã đòi loại bỏ các cơ cấu phi cộng sản

ở Campuchia. Khi ấy, ông Thọ và các đồng chí của ông ở Hà Nội không thể nào ngờ,

chính “ông anh” Trung Cộng không hề mong muốn một chiến thắng về ý thức hệ ở

Campuchia. Tháng 6-1972, Chu Ân Lai nói với Kissinger: “Trung Quốc muốn ở Lào

và Campuchia có một kết cục trong đó ‘các nhân tố tư bản’ có thể tham gia trong

chính phủ và giới cầm quyền truyền thống có thể là người đứng đầu quốc gia”238.

Chu nói thẳng với Kissinger: “Chúng tôi có thể tin rằng Thái tử Sihanouk là người

đứng đầu nhà nước ở Campuchia và người đứng đầu nhà nước ở Lào sẽ là nhà

vua”239. Tháng 2-1973, khi Kissinger thăm Bắc Kinh sau chuyến đi tới Hà Nội, ông

nhận ra: “Các lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu hiểu rằng việc Hà Nội chi phối Đông

Dương có thể là một thắng lợi về ý thức hệ nhưng là một thất bại về địa chính trị

đối với Trung Quốc”240.

Campuchia càng ngày càng trở thành một ván bài phức tạp, có quá nhiều người

chơi mà không ai tin tưởng ai. Trung Quốc biết Khmer Đỏ là lực lượng chính nhưng

cũng sợ Khmer Đỏ mạnh tới mức làm hỏng con bài Sihanouk.

Thật khó để định lượng trong chính sách thù địch với Việt Nam của Pol Pot có

bao nhiêu lý do từ việc Hà Nội sốt sắng ủng hộ Hoàng thân Sihanouk. Tháng 4-

1970, khi Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đề nghị thiết lập một lực lượng quân sự phối hợp

giữa Khmer Đỏ và lực lượng ủng hộ Hoàng gia, Pol Pot lúc ấy đang ghé qua Hà Nội,

đã thẳng thừng từ chối. “Con bài” Sihanouk không chỉ làm mất lòng Pol Pot mà còn

khiến cho những người Khmer tập kết chạnh lòng. Kể từ khi lưu vong, năm nào

Sihanouk cũng sang Việt Nam ăn Tết. Để làm đẹp lòng ông Hoàng, những khi

Sihanouk đến Hà Nội, những người Khmer Issarak, cựu thù của ông, sống ở Thủ đô

đều được “mời” đi các tỉnh khác. Theo ông Ngô Điền: “Cố Thủ tướng Chăn Si, một

cán bộ tập kết gắn bó với Việt Nam, khi tâm sự về điều này đã rơm rớm nước mắt,

trách ta coi nhẹ những người cộng sản Campuchia mà đề cao quá mức vua chúa”241.

Năm 1973, Việt Nam đã đưa Sihanouk trở về “vùng giải phóng”, nơi về danh

nghĩa ông là người đứng đầu nhưng trên thực tế đang do Khmer Đỏ nắm. Sihanouk

đã nhiều lần đề nghị Chu Ân Lai thu xếp chuyến đi này nhưng Chu Ân Lai từ chối.

Sau Hiệp định Paris, Sihanouk gặp trực tiếp Yeng Sary, đại diện của Khmer Đỏ tại

Bắc Kinh, nhưng cũng bị Yeng Sary lảng tránh. Sau đó, Sihanouk đã cầu cứu Hà Nội

và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng sốt sắng nhận lời, ông đã nhờ Bắc Kinh tác

động thêm để Pol Pot chấp nhận chuyến đi của Sihanouk242. Khmer Đỏ đã khai thác

được triệt để uy tín của Sihanouk trong chuyến đi này để gây thanh thế đối ngoại,

nhưng về đối nội, Pol Pot không cho phát bản tuyên bố của ông. Đặc biệt, Khmer

Đỏ đã tranh thủ chuyến đi để nói xấu Việt Nam với Sihanouk243.

Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ

Người Mỹ tin rằng miền Bắc Việt Nam đã trang bị pháo binh hạng nặng và trợ

giúp công binh cho Khmer Đỏ trong chiến dịch cuối cùng tiến vào Phnom Penh.

Tướng Giáp xác nhận: “Lúc này, quân và dân Campuchia đã từng bước phá vỡ sức

đề kháng của quân đội Lonnol ở ngoại vi thủ đô Phnom Penh. Được ta trợ giúp đạn

súng lớn, bạn đã nã pháo vào trung tâm thành phố. Ngày 12-4, Mỹ tổ chức cuộc

hành quân mang tên Diều Hâu, di tản cố vấn và binh lính Mỹ ra khỏi thủ đô bằng

đường không. Ngày 17-4, Phnom Penh được giải phóng”244.

Đêm trước khi được Khmer Đỏ “giải phóng”, Phnom Penh gần như không ngủ,

phần vì cả thành phố chìm trong tiếng súng, phần vì người dân chờ đợi một biến cố

mới cho dù không ai lúc ấy có thể tưởng tượng được những điều mà Pol Pot sẽ làm.

Vào lúc 7 giờ 30 sáng 17-4-1975, Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu

hàng. Cờ trắng được nhìn thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu

là thanh niên, học sinh, đã xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đã tới

ngày hòa bình. Thoạt đầu, người dân tỏ ra yên tâm khi thấy những người lính

Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và vãn hồi trật tự. Khoảng

1 giờ trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh

Quốc gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của

Chính quyền Lonnol ra trình diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc”

bắt đầu bị ném ra đường và đốt.

Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của

Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn trong tòa Đại sứ Pháp còn Long

Boret thì gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết.

Sáng sớm hôm sau, 18-4-1975, số phận của những người ra trình diện được định

đoạt: các tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động Olympic, các

quan chức dân sự bị giết ở Hội quán Thể thao. Hai anh em nhà Lonnol, Chủ tịch

Quốc hội Ung Bun Hor, nhà sư Saundech Saugh, các tướng lĩnh và nhiều bộ trưởng

cũng bị giết. Chính quyền ở các địa phương cũng bị đối xử tương tự. Ngày 23-4-

1975, ở Battambang, các sỹ quan được Khmer Đỏ đưa lên sáu chiếc xe nói là đi đón

Sihanouk nhưng kết quả là họ đã bị hành quyết ở một nơi hoang vắng.

Nhưng phải đến khi Pol Pot trục xuất toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các đô thị

trên cả nước thì người dân mới biết rõ trong số các nạn nhân của chế độ gồm có cả

mình. Nếu như trong ngày 18-4-1975, dân chúng ở Phnom Penh còn có thể hỏi han

khi nghe lệnh sơ tán thì ngày hôm sau, họ phải đối diện với những tên lính mười

bốn, mười lăm tuổi lăm lăm súng trong tay: hoặc ra khỏi nhà, hoặc ăn lựu đạn.

Không chỉ có cảnh cáo, những người phản đối đã bị bắn chết trước mắt người thân.

Người dân chỉ kịp nhặt nhạnh vài thứ đồ đạc, nhà cửa bị buộc phải bỏ lại đằng sau.

Chỉ vài ngày sau, họ sẽ nhận ra tài sản không đáng giá so với những gì sẽ mất.

Nhiều gia đình phải li tán, vợ chồng, con cái bị xé, mỗi người bị đưa tới một nơi.

Họ đã phải đi bộ nhiều ngày, có người phải đi bộ năm, sáu tuần liên tục, về các

vùng mà Pol Pot dự định xây dựng các hợp tác xã bậc cao. Những người ốm yếu bị

vất lại. Người dân bắt đầu nhìn thấy tương lai của mình qua những xác chết nằm la

liệt trên đường. Khoảng 0,53% số dân Phnom Penh đã bị chết trên đường đi245. Tính

cả số các quan chức bị hành quyết và người dân bị bắn do không chịu chấp hành,

hơn hai mươi nghìn người đã bị giết trong những ngày đầu “Phnom Penh giải

phóng”.

Pol Pot nhận được “tin chiến thắng” khi đang ở Oudong với Khieu Samphan.

Khieu Samphan nhớ lại: “Khi ấy, chúng tôi tránh thể hiện cảm xúc. Không có tiếng

súng chào mừng hay điều gì tương tự. Tôi không chúc mừng ông ta (Pol Pot). Ông

ta nói đơn giản đây là một chiến thắng vĩ đại mà nhân dân Campuchia tự giành

được”246. Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24-4-1975, sau khi ra lệnh đưa

toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn.

Ngày 17-4-1975, Yeng Sary đang ở Quảng Trị. Thay vì theo đường Hồ Chí Minh

đi Rattanakiri, Yeng Sary bay ngược trở lại Bắc Kinh để ngày 24-4-1975, được đưa

trở về Phnom Penh bằng một chiếc Boeing 707. Sau ba ngày đại hội đặc biệt toàn

quốc, khi được giao phát ngôn cho Chính quyền, Khieu Samphan cho rằng chính

“máu xương của nhân dân” đã viết nên “trang sử chói lòa của dân tộc”247.

Pol Pot, với một gương mặt được mô tả là tử tế, nụ cười luôn thường trực trên

môi và rất kiệm lời, bắt đầu ban hành chính sách tám điểm: di tản toàn bộ dân

chúng ra khỏi tất cả các thành phố; thủ tiêu tất cả chợ búa; ngưng lưu hành tiền

tệ; buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; hành hình các nhà lãnh đạo

Lonnol; thành lập các hợp tác xã cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn

tập thể; trục xuất toàn bộ người Việt Nam; triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là

biên giới Việt Nam248.

Trong số ra tháng 8-1975, Tung Padevat, tờ báo nội bộ của Khmer Đỏ, giải thích

việc đưa hết dân chúng ra khỏi Phnom Penh là nhằm xóa sở hữu tư, bắt tư sản phải

lao động chân tay như những người nông dân. Bài báo viết: “Sự thật là, chúng ta

mạnh hơn và có ảnh hưởng hơn khu vực tư nhân khi chúng ta ở vùng nông thôn”.

Việc bãi bỏ sử dụng đồng tiền, theo bài báo này, không chỉ để đánh giai cấp tư sản,

mà: “Tiền bạc sẽ dẫn đến sở hữu tư… Nếu chúng ta sử dụng tiền, nó sẽ rời vào tay

tư nhân… Nếu đồng tiền rơi vào tay kẻ xấu hoặc kẻ thù, chúng sẽ dùng tiền để hối

lộ, làm tha hóa cán bộ… Rồi, trong một năm, mười năm, hai mươi năm nữa, cái xã

hội trong sáng của Campuchia sẽ trở thành Việt Nam”249.

Khát vọng vượt các “đảng anh em” trong xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tái lập

đế chế Angkor, đã biến Pol Pot từ một kẻ trói gà không chặt trở thành một tên giết

người điên rồ. Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975,

nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ khẳng

định: “So sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang

đi trước họ ba mươi năm”250. Hàng triệu người bị buộc phải lao động nặng nhọc 12-

15 giờ mỗi ngày, trong khi ăn không đủ no vì gạo phải để dành cho chỉ tiêu xuất

khẩu hai triệu tấn trong năm 1977.

Trong tuyên bố của Khieu Samphan đưa ra vào ngày 27-4-1975, ngay sau Đại

hội Toàn quốc Đặc biệt, Sihanouk vẫn được coi là “một nhà yêu nước vĩ đại” và vẫn

được giữ vị trí đứng đầu nhà nước. Trong thời gian ấy, Sihanouk đang ở Bình

Nhưỡng, nơi Kim Il Sung xây cho ông một tòa lâu đài nhìn ra mặt hồ Chhang Sou

On. Tháng 9-1975, Pol Pot gửi Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông

tin Yeng Thirith, vợ Yeng Sary, tới Bình Nhưỡng mời Sihanouk trở lại Phnom Penh.

Khieu Samphan nói với ông: “Chúng ta đã có điều kiện để trở thành 100% cộng

sản. Chúng ta có thể vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy

vọt, chúng ta có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ

nghĩa xã hội”251. Họ cùng đi tàu trở lại Bắc Kinh, ở đó, Khieu Samphan tháp tùng

Sihanouk và bà hoàng Monique đến thăm Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Mao lúc

ấy tám mươi hai tuổi “gần như trần truồng trên giường bệnh”252 nhưng có vẻ như

ông vẫn hình dung được những gì học trò ông đang làm ở Campuchia. Mao chỉ thị

cho đại diện Khmer Đỏ: “Đừng đưa Hoàng thân Sihanouk và bà Hoàng tới công xã”.

Những lời của Mao đã có giá trị cứu mạng Sihanouk. Chu Ân Lai, khi ấy cũng

đang ở trên giường bệnh ung thư giai đoạn cuối, nói với Khieu Samphan và Yeng

Thirith với giọng mà Sihanouk mô tả là khẩn nài: “Xin hãy đi từng bước lên chủ

nghĩa cộng sản. Đừng đi theo mô hình đại nhảy vọt sai lầm của chúng tôi”.

Sihanouk nhớ lại là cả Khieu Samphan và Thirith đều “cười ranh mãnh”. Khmer Đỏ

không cho rằng họ có học tập ai đó, thậm chí cả Mao Trạch Đông; họ muốn xây

dựng một xã hội chưa từng có trong lịch sử.

Ngày 9-9-1975, Sihanouk rời Bắc Kinh trong cờ hoa, Đặng Tiểu Bình gọi đây là

“sự trở về trong vinh quang”. Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy

lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề

nghị Pol Pot cho gặp một người chú già và một người dì của ông bị đưa đi công xã

từ hồi tháng 4-1975, ông đã bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ

được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.

Trong suốt chuyến đi New York, Yeng Sary luôn cập kè bên ông. Khi họ chuyển

tiếp tại Paris, không ai trong số những người bạn cũ của Sihanouk có thể lọt vào nơi

ở của ông để được gặp ông trực tiếp. Sihanouk thừa nhận là khi ấy ông đã nhận ra

không khí chết chóc ở Campuchia, nhưng vì “trách nhiệm và niềm kiêu hãnh” cá

nhân, tháng 12-1975, Sihanouk cùng bà hoàng Monique, mẹ vợ và hai mươi hai

người con, cháu của ông đã trở lại Phnom Penh. Kết cục là trong hơn ba năm sống

với Khmer Đỏ, Sihanouk đã trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba

người cháu của ông đã bị Angkar đưa đến các công xã để rồi không bao giờ nghe

nhắc đến tên họ nữa.

Sihanouk khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra

ở Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ

có hư danh. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu với thành phần chủ

yếu là các bí thư quân khu và chi khu của Khmer Đỏ. Theo hiến pháp mới,

Campuchia sẽ có một hội đồng chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk

phải đệ đơn từ chức để cho Khieu Samphan làm chủ tịch. Hai phó chủ tịch thứ nhất

và thứ hai là hai vị tư lệnh quân khu: So Phim, Quân khu Đông và Nhim Ros, Quân

khu Tây Bắc. Ngày 12-4-1976, Pol Pot bắt đầu xuất hiện công khai với vai trò thủ

tướng, Yeng Sary làm bộ trưởng Ngoại giao, Son Sen làm bộ trưởng Quốc phòng.

Ngày 22-7-1975, trước 3000 đại biểu của các đơn vị quân đội, Pol Pot nói: “Trên

toàn thế giới, trong lịch sử đấu tranh cách mạng và kể từ khi nước Mỹ ra đời, không

ai, không có quốc gia nào, lại có thể đánh đuổi đế quốc đến tên cuối cùng và giành

thắng lợi hoàn toàn”253 như Khmer Đỏ; còn Pol Pot cho rằng: “Đây là một thắng lợi

mẫu mực cho nhân dân thế giới”.

“Kẻ Thù Lịch Sử”

Từ ảo tưởng này, tại lớp chính trị tổ chức cho 700 cán bộ chủ chốt của Đảng

trong hai tháng cuối năm 1975, Nuon Chea cho rằng Campuchia bấy giờ vừa là

công trường lao động, vừa là chiến trường chống Việt Nam. Chính sách thù địch với

Việt Nam mà Khmer Đỏ tiến hành không chỉ bằng định kiến lịch sử được dồn nén

qua nhiều thế kỷ, mà còn bằng cả mối quan hệ ngắn ngủi giữa những người cộng

sản khi cùng sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được Trần Phú, theo lệnh Quốc tế Cộng

sản, thay bằng một đảng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy là Đảng Cộng

sản Đông Dương, nhưng ngay cả những phái bộ ở Lào hay Campuchia đều có lượng

đảng viên người Việt Nam chiếm số đông. Từ năm 1935, “Liên bang Đông Dương”

bắt đầu được những người theo đường lối Quốc tế Cộng sản cực đoan tính tới.

Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong

Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt

Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol

Pot, nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo,

chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ

chối” 254.

Từ năm 1970, nhiều đơn vị Việt Nam đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo

biên giới Campuchia đã bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định là lực lượng

của Khmer Đỏ. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer

Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn hòa, ủng hộ Sihanouk và từng

được Việt Nam huấn luyện.

Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ

thuộc Khu 25 ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng, yêu cầu

Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam.

Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh cãi đã dẫn đến một cuộc đọ súng

và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đã tiêu diệt bốn mươi

hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần còn lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng

gần như thường xuyên xảy ra.

Mấy tháng trước đó, khi di chuyển từ Khu IX lên Trung ương Cục, ông Võ Hồng

Thắm, thư ký riêng của ông Kiệt, đã bị Khmer Đỏ giết khi vừa chạy xuồng qua biên

giới Campuchia đoạn tiếp giáp với Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cái chết của ông Thắm

không phải là cá biệt. Đầu thập niên 1970, các đơn vị nhỏ lẻ của quân Giải phóng

miền Nam Việt Nam vẫn thường bị tập kích. Chỉ sau khi các đơn vị miền Bắc Việt

Nam tấn công trừng phạt, Khmer Đỏ mới tạm hạn chế quấy rối.

Năm 1970, hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa

trở lại Campuchia đã bị Khmer Đỏ dần dần thủ tiêu vì coi họ là những “người

Khmer, đầu Việt”. Một số chạy thoát sang Việt Nam, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt:

“Thoạt đầu, Trung ương Cục chủ trương trả lại cho Khmer Đỏ, kết quả là tất cả họ

khi về tới cứ của Pol Pot đều bị giết. Về sau, Trung ương Cục thống nhất với Pol Pot,

phía Việt Nam chỉ trao trả những cán bộ nào chấp nhận trở lại hàng ngũ Khmer

Đỏ”. Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam cũng đang say sưa với chiến thắng, những

chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đã không được đánh giá đúng mức và các

nhà lãnh đạo, trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đã không đủ nhạy cảm để

nhận ra Khmer Đỏ là ai, và đã không có ấn tượng đầy đủ trước không khí chết chóc

đang bao trùm quốc gia chùa tháp.

Ngày 2-6-1975, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh theo đường bộ từ

Thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh gặp Pol Pot để giải quyết các vụ đụng độ ở

các đảo Phú Quốc và Poulo Wai. Đường dài gần 200km qua ba tỉnh trước khi tiến

đến thủ đô, nhưng ông đã không nhận thấy dấu hiệu khác thường gì. Đúng hai

tháng sau, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lại dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt

Nam đến Campuchia trong một chuyến thăm đáp trả chuyến đi ngày 12-6-1975 của

Pol Pot, Nuon Chea và Yeng Sary. Một thành phố Phnom Penh vắng tanh đã không

trở thành mối băn khoăn của ông và tùy tùng.

Đúng một năm sau đó, Pol Pot cho phép một đoàn nhà báo Việt Nam đi đến

nhiều nơi ở Campuchia, các nhà báo có nhận ra sự “vắng vẻ lạ thường” ở Phnom

Penh nhưng rồi đã choáng ngợp khi Pol Pot trình diễn “tình anh em giữa hai đảng và

hai dân tộc”255. Theo một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên, Chính phủ Pol

Pot- Yeng Sary đã tái hiện “tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị tươi đẹp ấy” bằng

một đêm trình diễn văn nghệ tại nhà hát lớn thủ đô Phnom Penh. Còn Thủ tướng

Pol Pot thì tiếp đãi đoàn vô cùng nồng thắm256.

Chỉ mấy tuần sau khi đoàn nhà báo Việt Nam rời Phnom Penh, cuộc thanh trừng

những nhân vật Khmer Đỏ có dính líu tới Việt Nam bắt đầu được Pol Pot tiến hành.

Năm ấy, một số nhà lãnh đạo Khmer Đỏ vốn là đảng viên từ thời Đảng Cộng sản

Đông Dương như Keo Meas đề nghị tổ chức kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập

Đảng Campuchia, tính theo ngày 30-9-1951, ngày mà tại Việt Bắc, lãnh tụ Sơn

Ngọc Minh tuyên bố thành lập Đảng Campuchia. Tuy nhiên, đó là một quá khứ mà

Pol Pot không muốn dính líu.

Mười ngày trước sinh nhật Đảng, Pol Pot ra lệnh đình chỉ việc chuẩn bị lễ kỷ

niệm, đồng thời ra lệnh bắt Keo Meas và Nay Sarang, một nhà lãnh đạo cao cấp

khác. Họ bị đưa đến nhà ngục nổi tiếng, Tuol Sleng, bị tra tấn cho đến khi “nhận

tội” rồi bị giết chết. Pol Pot đã viết lại lịch sử bằng cách ra một văn bản, xác định

thời điểm thành lập Đảng không phải là năm 1951 mà là 1960, năm Đảng

Campuchia tổ chức đại hội và, sau đó, bầu ông ta làm phó bí thư. Pol Pot giải thích:

“Chúng ta cần đặt lịch sử Đảng vào trong những gì trong sạch và hoàn hảo, vạch ra

đường lối độc lập và tự chủ cho chúng ta”257.

Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về

Phnom Penh. Theo Nayan Chanda: Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ

tướng Phạm Văn Đồng đã mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách

của Việt Nam, dự “tiệc gia đình”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm

thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo Lào, và Khmer Đỏ. Khieu

Samphan đã làm Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và

nói rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải

thích với Sihanouk: “Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam,

kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang

Đông Dương của họ”258.

Tháng 12-1976, khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội như một

đại lễ mừng chiến thắng, Khmer Đỏ chỉ gửi điện mừng thay vì cử đại biểu đến Hà

Nội như hai mươi chín “đảng anh em” khác259. Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn

coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến biên

giới dài hơn 1.000km ấy, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên phòng; trong

khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo dài

từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé.

Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)

Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở

khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân tình lo

lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn. Chiến tranh bắt đầu leo

thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới

thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII;

tháng 10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V.

Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường

trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh còn lại chuyển sang làm kinh tế - Sư 4 ở tứ giác

Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kinh260. Tinh thần của bộ đội, vì

thế, cũng có những “diễn biến khá phức tạp”. Theo Tướng Trà: “Sau bao nhiêu năm

chiến đấu liên tục, gian khổ, ác liệt, chính sách hậu phương quân đội chưa được giải

quyết thỏa đáng; yêu cầu được nghỉ phép, phục viên của anh em chưa được giải

quyết, nhất là số anh em quê miền Bắc, hàng năm, bảy năm, thậm chí cả chục năm

biền biệt xa nhà; rồi tư tưởng ‘xả hơi’, nghỉ ngơi, bộ đội đang từ thành phố, thị xã…

nay lên vùng biên khai hoang, làm kinh tế, trần mình suốt ngày với cỏ dại, cây

hoang, sình lầy, chua phèn; thiếu thốn cơ cực đủ bề”261.

Toàn biên giới Tây Nam cũng hầu như không có bộ binh thường trực, nên khi Pol

Pot tấn công thì ở vào thế bị động, đối phó lúng túng và chịu tổn thất lớn. Tướng Lê

Đức Anh thừa nhận: “Các tỉnh, các quân khu phía Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu,

biên giới bỏ ngỏ; chỉ huy tác chiến nặng về đánh theo lối chính quy hiệp đồng binh

chủng nên tiêu hao đạn dược thì lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp. Tháng 9-

1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải

quyết tình hình biên giới Tây Nam”.

Đêm 30-4-1977, Khmer Đỏ đưa quân đánh lấn suốt một dải biên giới từ Tây

Ninh đến Hà Tiên, Kiên Giang. Tang tóc lại bao trùm không chỉ ở nơi xảy ra chiến

sự. Trên tuyến biên giới do Quân khu IX đảm trách, từ huyện Mộc Hóa, Long An đến

Hà Tiên, Kiên Giang, Pol Pot dùng bảy tiểu đoàn quân chính quy cùng với lực lượng

địa phương thuộc quân khu Tây Nam đánh thẳng vào khu vực Bảy Núi, Tịnh Biên-

An Giang. Hàng trăm dân thường dân bị tàn sát, hàng trăm ngôi nhà bị đốt.

Các đơn vị đứng chân gần biên giới của Quân khu IX tuy đã nỗ lực tác chiến,

nhưng theo ông Phạm Văn Trà: “Hầu hết đang làm nhiệm vụ sản xuất xây dựng

kinh tế, chưa chuẩn bị đối phó với địch, nên có phần bất ngờ, bị động, lúng túng,

thậm chí bị tổn thất”. Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn

330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng

thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ý cho thành lập thêm Sư đoàn

339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không còn xảy ra

trên đường biên.

Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực

lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết

giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn

từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, vòng về tiêu diệt phần lớn lực

lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xã Vĩnh Điện. Nhưng, theo Tướng

Phạm Văn Trà, khi Sư đoàn 4 đang khôi phục tuyến biên giới Hà Tiên thì Khmer Đỏ

tràn qua cửa khẩu Vịnh Bà, đánh sâu vào lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp, chiếm một số

khu vực, trong đó có khu vực tăng gia sản xuất tập trung của Sư đoàn 8. Tướng Lê

Đức Anh lại phải lệnh: “Đưa ngay một trung đoàn lên Đồng Tháp”262.

Sau khi Trung đoàn 1, Sư 330, bị điều lên lên Đồng Tháp theo lệnh của Tướng

Anh, một hướng quan trọng là Tịnh Biên và Thất Sơn bị bỏ trống. Vừa lấy lại phần

địa bàn của Sư 8 bị Khmer Đỏ chiếm giữ thì Ba Chúc, Tịnh Biên của An Giang lại bị

Khmer Đỏ tập trung một lực lượng lớn đánh vào. Sư đoàn 4 buộc phải lùi về phía

sau, Khmer Đỏ mặc sức tàn sát người dân vùng Ba Chúc. Tướng Lê Đức Anh lại phải

điều Trung đoàn 1, sư 330, trở về giải vây rồi đẩy quân Pol Pot lùi qua bên kia kênh

Vĩnh Tế. Không lâu sau, khi Trung đoàn 1 vừa rút đi, quân Pol Pot lại quay lại đánh

Ba Chúc với quy mô cấp sư đoàn, lực lượng của Tỉnh đội An Giang không giữ được.

Trung tuần tháng 12-1977, Quân khu IX đã thi hành phương thức phòng thủ mà

Tướng Trà gọi là học theo kế “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt thời chống

Tống. Sư đoàn 330, gồm ba trung đoàn bộ binh chính quy, cùng hai tiểu đoàn địa

phương quân An Giang, được trang bị một số xe M-113, đánh thẳng vào khu vực cố

thủ của Khmer Đỏ ở núi Tham Đưng và núi Som sâu trong đất Campuchia từ hai

mươi đến ba mươi cây số. Toàn tuyến phòng thủ của Pol Pot từ Ki Ri Vông đến quận

lỵ Rề Minh thuộc tỉnh Tà Keo bị chọc thủng không mấy khó khăn. Thật trớ trêu khi

người dân Campuchia đã vui mừng khi thấy quân đội nước ngoài đánh tới263. Các lực

lượng của Quân khu IX đã ở lại trên đất Campuchia tổng cộng hai mươi ngày.

Chưa đầy hai tuần sau khi quân Việt Nam rút về, giữa tháng 1-1978, quân Pol

Pot tiến đánh ồ ạt vào các xã Nhơn Hội, Khánh Bình, thuộc huyện Châu Đốc, An

Giang. Đặc biệt, ngày 15-1-1978, bảy tiểu đoàn của Trung đoàn 14 cùng với Trung

đoàn 15 thuộc Sư đoàn 2 của Pol Pot đánh chiếm Ba Chúc và núi Phú Cường thuộc

huyện Tịnh Biên.

Sư đoàn 4 và lực lượng địa phương của An Giang lại một lần nữa không giữ được

địa bàn, để quân Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên năm cây số, phá

sập hai cây cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng. Đi tới

đâu, lính Khmer Đỏ xả súng bắn giết tới đó, chúng bắt cả trẻ em, người già và

ngang nhiên đập phá chùa chiền, tượng Phật. Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn

330 đóng trên núi Trà Sư bị bao vây ba bề. Lính Khmer Đỏ lại mặc sức sát hại người

dân Ba Chúc.

Lính Khmer Đỏ không chỉ ném lựu đạn, xả súng bắn chết hàng nghìn thường dân

ở hai ngôi chùa, nhiều thường dân khác còn bị giải ra đồng, xả súng bắn chết264.

Theo ông Trà: “Xác chết chất thành đống trong xóm ấp và ngoài đồng. Không khí

chết chóc bao trùm; quạ đen bay đầy trời”. Theo Tướng Phạm Văn Trà, sau khi

đánh tan lực lượng Khmer Đỏ ở Phú Cường và Ba Chúc, bãi chiến trường được giữ

lại gần một tuần lễ để các nhà báo trong nước và quốc tế đến quay phim. Chiến

tranh biên giới với Campuchia bắt đầu được công bố265.

“Nhất Biên Đảo”

Hơn hai năm trước đó, trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày 15-5-1975

tại Hà Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã làm cho hàng triệu con tim “sởn gai ốc” khi,

với giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố: “Chào mừng tổ quốc vinh quang của

chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát

khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn

đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do”266.

Bí thư Lê Duẩn nói tiếp: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì hơn 100

năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt

nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”. Tại buổi lễ long trọng này, ông Lê Duẩn

bày tỏ niềm tin: “Một dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng được

hưởng hòa bình, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy cũng nhất định có đủ tinh thần và

nghị lực, sức mạnh và tài năng để vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất

nước nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó, đế quốc Mỹ đã

gieo biết bao tội ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm

phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông

Nam Á”267.

Ngay sau đó, Bộ Quốc phòng cho giải thể hàng loạt các đơn vị chiến đấu. Tháng

10-1976, Bộ Chính trị ra nghị quyết “về vấn đề quân đội làm kinh tế”, xác định:

“Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn làm cách mạng xã hội

chủ nghĩa”. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” từ lúc ấy cũng bắt đầu được thay

bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Hà Nội

gần như không có phản ứng chính thức ngay cả khi Pol Pot đã cho đánh tới quy mô

cấp sư đoàn268.

Áp lực từ các đơn vị quân đội và các địa phương tăng dần lên. Ông Nguyễn

Thành Thơ kể: Cuối năm 1977, trong một lần đưa Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm Cần

Giờ bằng tàu quân sự, đến Văn phòng Huyện ủy đã khoảng 12 giờ, anh Ba nói, “Mệt

quá cho tôi nghỉ một lát”. Anh nghỉ một lúc rồi nói: “Các anh có gì hỏi, tôi giải đáp”.

Anh em chúng tôi có khoảng ba mươi người, phấn khởi rộ lên: “Xin hỏi K nó quấy

rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi

khó hiểu”. Anh Lê Duẩn trả lời: “Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước

đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề

Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot.

Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung

Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”.

Cuối năm 1977, khi đánh sâu vào đất Campuchia, theo ông Trần Phương, quân

đội Việt Nam phát hiện nhiều tài liệu cho thấy Trung Quốc đứng sau lưng Pol Pot.

Tháng 1-1979, khi tiến vào Phnom Penh, Quân đội Việt Nam còn thu được văn bản

hiệp định viện trợ quân sự không hoàn lại mà Tướng Wang Shangrong, phó Tổng

Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ký với Son Sen tại

Phnom Penh ngày 10-2-1976. Trong các năm 1977, 1978, Trung Quốc cung cấp

cho Khmer Đỏ pháo binh, pháo phòng không, thuyền tuần tiễu… Đặc biệt, 500

chuyên gia quân sự Trung Quốc đã được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng

những vũ khí, khí tài quân sự ấy. Cố vấn Trung Quốc thậm chí còn gặp cả người của

lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyên269.

Làn sóng người Khmer tị nạn, nhất là những người tị nạn qua ngả Thái Lan, đã

giúp thế giới biết được phần nào nội tình Campuchia. Trung Quốc sẽ không dám bất

chấp dư luận quốc tế để ủng hộ một chế độ diệt chủng, nhất là ủng hộ những hành

vi chiến tranh, nếu Việt Nam không để cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ rơi

vào tay Trung Quốc.

Sau ngày “chiến thắng đế quốc Mỹ”, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Cuba nhiều lần

thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục mãi, nhiều đồng chí nhắc,

anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng

là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống

Mỹ thì Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó

chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi

được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: ‘Nên nói với đồng chí Fidel, tôi rất

muốn sang, nhưng sức khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi máy bay xa, đồng chí

Fidel thông cảm”.

Theo ông Đậu Ngọc Xuân, lúc ấy, nhiều người đã bất ngờ trước tư duy mềm dẻo

này của ông Lê Duẩn. Cũng thời điểm ấy, theo ông Xuân: “Khi Bộ Chính trị bàn về

vấn đề ‘ta có thừa kế cổ phần IMF mà chính quyền Sài Gòn cũ có tham gia không?’,

có người nói: ‘Ta mà kế thừa Nguỵ à?’, có người lưu ý: ‘IMF là tư bản đấy!’, anh Ba

quát: tại sao không!”. Đặng Tiểu Bình đã đánh trúng mối lo của Lê Duẩn khi về sau

sẽ ví Việt Nam là Cuba ở phương Đông trong bối cảnh Việt Nam đang có những nỗ

lực bất thành nối lại bang giao với Mỹ.

Ông Trần Quang Cơ, năm ấy là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, kể, chỉ hơn một tháng sau

khi làm chủ Sài Gòn, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp

miệng270. Tiếp đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: “Việt Nam mời gọi

Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa”.

Các đại diện của hai ngân hàng Mỹ, Bank of America và First National City Bank,

được mời họp về khả năng có thể giao thương, và các công ty Mỹ được thông báo

rằng họ có thể ký kết tìm dầu ở thềm lục địa Việt Nam.

Đáp lại những tín hiệu này, ngày 7-5-1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị

Quốc hội Mỹ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho

việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm

cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề “bình

thường hóa”. Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra lộ trình ba bước bình thường

hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt có thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ.

Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral R. Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra

điều kiện để nối lại bang giao: Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích

(MIA), trong đó có việc trao trả hài cốt Mỹ. Phía Việt Nam cũng đòi bằng được Mỹ

phải bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định

Paris nên không thể bàn đến khoản tiền thỏa thuận trước khi ký Hiệp định Paris

được. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những diễn tiến này, ông Lê Duẩn nói: “Bình

thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ không chịu đâu”.

Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã giảm điều kiện “làm

đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống còn “làm đầy đủ trong khả năng có thể”.

Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn về việc nối lại bang

giao. Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Đặc

phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock. Cùng ngày, Woodcock đến chào

Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Những nỗ lực bình thường hoá dưới thời Carter là có thật. Chỉ ba mươi phút sau

khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Jimmy Carter rời lễ đài đi vào bên trong tòa

nhà Quốc hội, và trước khi sang Nhà Trắng, ông ký lệnh ân xá cho những người Mỹ

đã từng chạy sang Canada trốn lính nhằm tránh cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông

Carter thừa nhận đó là “một quyết định khó khăn” và ông đã phải nhận những lời

chỉ trích. Nhưng Tổng thống Carter nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi

đầu việc hàn gắn và đưa chúng ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ

nguyên mới tốt đẹp hơn”271. Ngày 4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ý để

Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.

Sau chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ trương bình thường hóa vô

điều kiện. Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đã

diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris. Ông Trần Quang Cơ272, người tham gia

cuộc đoàn đàm phán này, nhớ lại: “Một trong những điều ngáng trở tiến trình đàm

phán là do chúng ta cứ khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến

tranh”.

Số tiền viện trợ 3,2 tỷ đô-la được coi như là một “thành công kép” mà Cố vấn Lê

Đức Thọ mang về từ những cuộc hội đàm ở Paris273. Khoản tiền này đã từng được

những nhà hoạch định kế hoạch kinh tế hậu chiến của Việt Nam tính toán như một

nguồn quan trọng để thực thi kế hoạch. Trước khi đoàn lên đường sang Paris đàm

phán bình thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông Trần Quang Cơ, ông Lê Đức Thọ, theo

cung cách xin viện trợ của Liên Xô, đã cung cấp cho đoàn cả một danh sách dài bao

nhiêu máy cày, bao nhiêu máy kéo để đòi Washington phải trả. Ông Trần Quang Cơ

nhớ lại: “Holbrook nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi thì cứ đặt ‘phòng quyền lợi’ đi,

cứ bình thường hóa cái đã rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi sẽ tìm cách viện trợ sau.

Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà Nội báo với ông Nguyễn Cơ

Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được”.

Khi Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong tình huống chiến tranh và Trung

Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”, Việt Nam bắt đầu nhận

thấy vai trò của việc quan hệ bình thường với một siêu cường như Mỹ. Đầu năm

1978, ở Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt

Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Mỹ”. Lúc này, Jimmy Carter gần

như đã nghiêng về chủ trương “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo

đề nghị của Cố vấn An ninh Quốc gia Z. Brzezinski. Tổng thống Jimy Carter thừa

nhận: “Yêu cầu lúc đầu của phía Việt Nam là chúng ta phải bồi thường chiến tranh

theo một số cách thức. Nhưng cuối cùng, tôi nhớ là năm 1978, họ rút lại đòi hỏi

này. Điều phức tạp là cũng năm đó, tôi phải dồn tâm trí và đích thân đàm phán

bình thường hoá với Trung Quốc. Những cuộc hội đàm giữa Israel và Ai Cập lúc ấy

cũng đang diễn ra tại trại David. Tôi phải nói rằng, năm 1978, vấn đề Việt Nam

không còn là ưu tiên hàng đầu của tôi nữa”274.

Cùng thời gian này, FBI tung ra vụ “gián điệp” liên quan đến đại sứ Việt Nam tại

Liên Hiệp Quốc, ông Đinh Bá Thi. Ronald Humphrey, nhân viên của Cơ quan thông

tin Hoa Kỳ, cùng David Truong, người của Hội Việt-Mỹ, bị bắt vì lấy cắp mấy bức

điện tín được coi là không quan trọng lắm của Mỹ. Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất.

19-5-1978, một ngày trước khi Brzezinski tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình tuyên

bố: Trung Quốc là NATO phương Đông; đồng thời Đặng ví Việt Nam với Cuba, một

“tiền đồn của Liên Xô” ở bên cạnh Mỹ. Ngày 23-8-78, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ,

Cyrus Vance đi thăm Bắc Kinh.

Ngày 21-8-78, bảy hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa do Hạ

nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW/MIA, dẫn đầu vẫn đến Hà

Nội. Việt Nam đã cố bày tỏ thiện chí bằng cách trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt và

cử ông Trần Quang Cơ đích thân dẫn đoàn vào miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài

và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đoàn của Hạ

nghị sỹ Montgomery là đoàn người Mỹ đầu tiên được phép thăm Sài Gòn kể từ sau

30-4-1975. Nhưng, theo ông Trần Quang Cơ, quyết định chấp nhận công thức do

phía Mỹ đưa ra “bình thường hóa vô điều kiện” vào lúc ấy đã là quá muộn.

Cuối tháng 9-1978, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới Mỹ sau một thời

gian ông nằm ở Đà Nẵng dự thảo Hiệp định Hợp tác Toàn diện với Liên Xô. Cuộc

đàm phán giữa ông Thạch và Holbrooke diễn ra lạnh nhạt. Theo ông Trần Quang

Cơ, người có mặt trong cuộc đàm phán này, Holbrooke nói: “Mỹ coi trọng châu Á,

Mỹ cần bình thường hóa quan hệ giữa hai nước nhưng lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở

Cam Ranh”. Lúc đó, theo dự đoán của người Mỹ, có khoảng từ 3.500-4000 cố vấn

Liên Xô đang có mặt ở Việt Nam275.

Những ngày sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Duẩn đã khá thận trọng trong mối

quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng độc lập luôn bị thách thức trong mối

quan hệ với những người “anh em cộng sản”. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt

Việt Nam vào thế phải đứng hẳn về một bên.

Ngày 31-8-1975, trên đường đi dự Quốc khánh Việt Nam, Tướng Trần Tích Liên,

ủy viên Bộ Chính trị, tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, đã không đi thẳng tới Hà Nội mà

dừng chân tại Khu Gang Thép Thái Nguyên. Tại Nhà máy đang được xây dựng bởi

Trung Quốc này, Tướng Liên đọc một diễn văn kêu gọi “chống bá quyền” mà ai

cũng biết là chống Liên Xô. Hà Nội đã khá mềm dẻo khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng

vẫn “ôm hôn thắm thiết” Trần Tích Liên, nhưng các báo xuất bản tại Việt Nam

không nói gì tới bài diễn văn “chống bá quyền” của Trung Quốc.

Cuối tháng 9-1975, khi Lê Duẩn tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, người mới được

phục chức phó thủ tướng sau khi bị “bè lũ bốn tên” đưa ra khỏi Trung Nam Hải, nêu

vấn đề “chống bá quyền” và ngầm khuyên nhủ Việt Nam liên kết với Bắc Kinh

chống lại Moscow. Khi đáp từ, Lê Duẩn đã tránh đề cập tới “bá quyền” đồng thời

“cám ơn sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em” tất nhiên là bao gồm

Liên Xô. Sự né tránh đứng hẳn về phía Trung Hoa và vấn đề Hoàng Sa đã khiến cho

chuyến đi của Lê Duẩn hoàn toàn thất bại: Trung Quốc từ chối viện trợ; Lê Duẩn từ

chối thảo luận thông cáo chung; tiệc liên hoan bị hủy bỏ.

Trung Quốc càng ngờ vực Việt Nam hơn khi một tháng sau đó, trong chuyến đi

tới Moscow, Lê Duẩn có một “Thông cáo chung”, theo đó, Việt Nam nhất trí với Liên

Xô trong đường lối đối ngoại. Đây là một thay đổi lớn. Tháng 3-1976, khi tham dự

Đại hội XXV của Đảng Cộng sản Liên Xô, Lê Duẩn nhấn mạnh: Mỗi đảng cộng sản

có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nước276.

Liên Xô đã từng bất ngờ khi Việt Nam từ chối gia nhập khối Comecon277 trong khi

xin gia nhập IMF. Tháng 12-1976, khi đến Hà Nội dự Đại hội Đảng lần thứ IV,

Suslov được mô tả là đã giận dữ khi lần thứ hai thất bại trong việc thuyết phục Việt

Nam vào Comecon278. Nhưng để “tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam lại rất

cần tiền bạc. Trong khi đó, Trung Quốc cắt viện trợ, Liên Xô từ chối giúp đỡ, hy

vọng vào 3,2 tỷ đô la “bồi thường chiến tranh” của Washington tiêu tan. Phạm Văn

Đồng bị các nước lớn như Anh, Đức cự tuyệt và người Pháp thì lạnh nhạt. Ở trong

nước, từ năm 1977, chính sách “sản xuất lớn” áp dụng vội vàng lại gây ra đói kém,

mất mùa.

Ngày 2-6-1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé

qua Bắc Kinh, nhưng người đối đẳng với ông là Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm

Anh đã không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đã bị làm nhục trong suốt

chuyến đi này279. Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc

Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng

đối với Công hàm 1958”.

Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với Bắc Kinh. Ngày

2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một đồng tiền dùng chung

cho hai miền. Theo đó, một đồng ngân hàng miền Bắc được đổi bằng một đồng tiền

mới; 0,80 đồng tiền miền Nam “ăn” được một đồng. Không có biến động đáng kể vì

lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư

sản”. Lý do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả nước”. Nhưng, theo ông

Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam

phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung

Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin lại mấy

lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm mà họ đang

giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng một loại tiền

mới được in từ Tiệp Khắc.

Sự căng thẳng giữa Trung Quốc-Việt Nam càng thêm kịch tính sau cái chết của

nữ nghệ sỹ Thanh Nga. Đêm 26-11-1978, vào lúc 23 giờ 30, xe của nghệ sỹ Thanh

Nga rời rạp hát về đến trước nhà riêng ở số 114 Ngô Tùng Châu, Quận 1, thì bị một

kẻ lạ mặt dùng súng khống chế người bảo vệ và chồng của nghệ sỹ Thanh Nga, luật

sư Phạm Duy Lân. Cùng lúc, kẻ lạ mặt thứ hai dựng xe honda, nhảy vào bắt con

của Nghệ sỹ Thanh Nga là bé Cúc Cu đang ngồi ghế sau với mẹ. Nghệ sỹ Thanh

Nga chống trả quyết liệt, Luật sư Lân từ ghế lái xe quay lại hỗ trợ vợ, lập tức bị kẻ

lạ mặt nổ súng bắn chết. Thanh Nga hét lên và đến lượt chị cũng bị bắn. Hai kẻ lạ

mặt tẩu thoát.

Cái chết của vợ chồng nghệ sỹ Thanh Nga làm rúng động cả nước vì khi bị bắn,

chị chưa kịp thay bộ đồ “Thái hậu Dương Vân Nga”, một vai diễn hừng hực lửa

chống “kẻ thù phương Bắc”. Trước đó, Thanh Nga cũng đã nhận được một số thư từ

đe dọa khi chị diễn vai Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê Linh và đã từng bị ném lựu

đạn khi đang diễn trên sân khấu Lux. Vụ án Thanh Nga vì thế lúc đầu được coi như

là một chuyên án chính trị. Quan tài hai vợ chồng quàn tại 81 Trần Quốc Thảo thu

hút hàng vạn người Sài Gòn280.

Sự cự tuyệt của Trung Quốc và Mỹ cuối cùng đã đặt Việt Nam vào thế “nhất biên

đảo”. Từ tháng 7-1977, các phái đoàn quân sự của Liên Xô bắt đầu đến các căn cứ

quân sự cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng 10-1977, chuyến thăm Việt Nam của phái

đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc,

Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot.

Giữa tháng 10-1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán

Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực

cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối vì ba "trở ngại" mới: sự thù địch của Việt Nam

với Campuchia, mối quan hệ với Liên Xô, và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt

Nam. Sau một tháng trời chờ đợi, Nguyễn Cơ Thạch phải rời New York tay không,

ông chuyển tiếp ở Paris, rồi từ đó qua thẳng Moscow. Trước đó, sáng 30-10-1978,

Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đã rời Hà Nội trên một chiếc Ilyyushin-62 bay tới Liên Xô.

Ngày 3-11-1978, Hiệp ước Hợp tác Toàn diện với Liên Xô trong vòng hai mươi lăm

năm, bao gồm điều khoản cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh như một căn cứ

quân sự, đã được ký kết.

Hiệp ước đã như một “món quà” đối với Đặng Tiểu Bình. Hai ngày sau, ông ta

đến Thái Lan, bắt đầu chuyến công du ASEAN, thuyết phục các quốc gia ở đây coi

Việt Nam và Liên Xô, thay vì Trung Quốc, là mối đe dọa chính. Trong khi đó, vững

tin vào mối quan hệ với “siêu cường”, Việt Nam bắt đầu xử lý mối bận tâm ở phía

Tây Nam đất nước.

“Áo lính lại khoác vào ngay”281

Từ tháng 6 đến tháng 12-1978, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức bốn hội nghị

Bộ Chính trị, Quân ủy và Ban Chấp hành Trung ương để bàn về vấn đề Campuchia.

Tính từ tháng 12-1977 đến ngày 14-6-1978, có 6.902 bộ đội Việt Nam bị hy sinh,

23.742 bị thương; ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết. Trung ương

xác định phải giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt.

Ngày 13-12-1978, 10/19 sư đoàn của Pol Pot tấn công Việt Nam trên toàn tuyến

biên giới. Ba sư đoàn đã đánh vào Bến Sỏi hòng chiếm Tây Ninh. Hai sư đoàn đánh

vào Hồng Ngự, Đồng Tháp. Hai sư đoàn đánh vào Bảy Núi, An Giang. Hai sư đoàn

đánh vào Hà Tiên. Một sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang.

Ngày 23-12-1978, Lực lượng quân Việt Nam với nòng cốt là ba quân đoàn chủ

lực cùng với lực lượng của các Quân khu V, VII, IX, dưới sự chỉ huy của Tướng Lê

Trọng Tấn, bắt đầu tấn công trên toàn mặt trận, đẩy Khmer Đỏ lùi dần về phía Tây.

Khmer Đỏ không bất ngờ trước những phản ứng này. Nhưng thay vì tập hợp lực

lượng để đối phó với Việt Nam, Pol Pot đã tranh thủ thanh lọc quân đội, đảng và cả

nhân dân, để có những “người Khmer thuần khiết” nhằm “bảo vệ đất đai và nòi

giống”282.

Những cuộc thanh trừng của Pol Pot đã đẩy hàng loạt sỹ quan của Khu Đông

phải chạy vào rừng như Ouk Bun Xươn, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen. Những

người này về sau đã tới Việt Nam. Trong thời gian đó, ông Lê Đức Thọ bay vào Nam

để chuẩn bị cho một giải pháp chính trị. Một nhóm lãnh đạo gồm bảy người do Lê

Đức Thọ lựa chọn từ số những người Khmer tập kết còn sót lại và số vừa chạy sang

từ Khu 203. Lê Đức Thọ cũng dựng lên một “Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết

Cứu nước” gồm mười bốn người rồi đưa về Campuchia tổ chức lễ ra mắt tại Mimot

vào ngày 2-12-1978.

Một lực lượng đặc công cũng được giao nhiệm vụ đột nhập Hoàng cung để tìm

Hoàng thân Sihanouk nhưng thất bại. Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung

Quốc khai thác hữu hiệu hơn Việt Nam. Ngày 5-1-1979, Pol Pot đã nghe lời khuyên

của Bắc Kinh, đề nghị Sihanouk đến Liên Hiệp Quốc lên án “hành động xâm lược

của Việt Nam”. Ngày 6-1-1979, ông Hoàng đã lên chiếc Boeing 707 của Bắc Kinh

bay sang BangKok.

Ngày 7-1-1979, Quân đội Việt Nam vượt phà Neak Lương tới Phnom Penh nhanh

tới mức lực lượng Khmer Đỏ chỉ kịp rời thành phố trước khi đại quân tới khoảng một

giờ. Ngày 11-1-1979, Yeng Sary mới chạy đến biên giới Thái Lan và được quân đội

Thái đưa về BangKok để đi tiếp tới Bắc Kinh. Ngày 13-1-1979, Yeng Sary bị Đặng

Tiểu Bình trách mắng. Trong khi đó, ở Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên

án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol

Pot.

Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra thảo luận nghị quyết buộc

Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đã bị Liên Xô dùng

quyền lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp

Quốc, Sihanouk bí mật tìm gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đã đẩy

Sihanouk trở lại tay của Đặng Tiểu Bình khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.

Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9-1-1979, Ngoại

trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ-

Việt về bình thường hóa đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”283.

Ngày 15-12-78, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau

và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1-1-79. Ngày 29-1-1979, Jimmy

Carter đón Đặng Tiểu Bình tại Washington bằng hai mươi phát đại bác. Đặng Tiểu

Bình biết ảnh hưởng quốc tế của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam nên đã thông

báo với Tổng thống Carter mức độ “giới hạn” của cuộc tấn công. Tuy khuyên Đặng

“không nên có hành động xâm lược”, nhưng trong cuộc họp riêng giữa hai người,

Carter không cho Đặng thấy là cuộc tấn công sẽ ảnh hưởng đến bang giao của hai

nước.

Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến

biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông

Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc

Chóp Chài, Lạng Sơn đã dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung

Quốc tập trung sát biên giới khoảng 450 nghìn quân284 và sử dụng 200 nghìn quân

trong ngày đầu xâm lược285.

Việt Nam bị bất ngờ hoàn toàn286. Các lực lượng tự vệ ở khu vực Hữu Nghị Quan

hầu hết bị quân Trung Quốc giết chết ngay từ những phút đầu tiên. Phụ nữ, trẻ em

chỉ kịp chạy về phía sau hốt hoảng. Ở hướng Trà Lĩnh, Cao Bằng, hàng trăm người

dân đã phải chạy vào hang núi tránh pháo và sáng ra, họ nhìn thấy quân Trung

Quốc í ới gọi nhau ngay sát dưới chân.

Tháng 2-1979, ở biên giới, Trung Quốc có tới sáu mươi sư đoàn tinh nhuệ, trong

khi ở phía Bắc, theo Tướng Lê Phi Long, cục phó Cục Tác chiến, lực lượng vũ trang

Việt Nam tổng cộng chỉ còn khoảng mười một sư đoàn. Đội quân chủ yếu làm kinh

tế ấy đã phải phản công trong điều kiện hết sức bất ngờ. Chỉ huy các đơn vị đóng

tại Lạng Sơn, ngày 15-2-1979, còn được triệu tập để nghe nhận định: “Địch sẽ

đánh ở cấp sư đoàn vào ngày 22-2”287. Ở Cao Bằng, sáng 16-2, tất cả các đồn

trưởng biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau,

khi họ cố tìm về đơn vị thì Trung Quốc đã tràn sang. Sáng 17-2, Đại đội 22 của thị

xã Cao Bằng mới được trang bị thêm mười bảy khẩu súng chống tăng B41. Nhiều

nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất” trên xe tăng Trung Quốc, người dân mới hay

đất nước lại chiến tranh.

Chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc đã sử dụng tới sáu sư đoàn,

ở Lạng Sơn ba sư đoàn và Lào Cai ba sư đoàn. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng

cường cho hướng Cao Bằng một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lạng Sơn, một sư đoàn

và bốn mươi tăng; Lào Cai, hai trung đoàn và bốn mươi tăng. Lực lượng Trung Quốc

áp sát biên giới vào ngày 17-2 lên tới chín quân đoàn chủ lực288. Ngày 17-2, Trung

quốc tiến vào Bát Xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2,

Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào

thị xã.

Tại Lào Cai, khu mỏ Apatit bị đập nát từ các nhà máy cho đến các thiết bị, máy

móc; hai nhà ga gần nhất là Gốc Đa và Làng Pèng bị phá tan hoang; chiếc cầu nối

đường sắt qua con suối chảy ra từ làng Cóc cũng bị lính Trung Quốc đánh sập. Sapa

chỉ còn là một đống gạch vụn. Đồng Đăng, Lạng Sơn cũng bị tàn phá. Tại Cao Bằng,

quân Trung Quốc lần lượt đập nát từng ngôi nhà, từng công trình và trước khi rút lui

đã ốp mìn cho nổ tung từng cột điện.

Ở Bát Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã

man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Tại thôn Tổng Chúp, xã

Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút quân, lính Trung

Quốc đã giết bốn mươi ba người, gồm hai mươi mốt phụ nữ, hai mươi trẻ em, trong

đó có bảy phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pot. Mười

người bị ném xuống giếng, hơn ba mươi người khác, bị chặt ra nhiều khúc, thây vứt

hai bên bờ suối.

Bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đã nhanh chóng tổ

chức chiến đấu. Con đường tiến vào thị xã Cao Bằng đã được quân Trung Quốc gọi

là những “khe núi đẫm máu”289. Đặc biệt, Tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau

ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua

đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Mãi tới ba tuần sau

quân Trung Quốc mới chiếm được thị xã Lạng Sơn, trong khi đây là nơi mà Đặng

muốn chiếm được ngay trong tuần đầu tiên hòng gửi một thông điệp đe dọa tới Hà

Nội.

Khoảng 25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí

chiến tranh hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979

của Trung Quốc là 22,3 tỷ. Cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình nói là để “dạy cho Việt

Nam một bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam

mới là người đã dạy cho Trung Quốc bài học” 290. Những người dân Biên giới cho đến

hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân

Việt Nam cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư

đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi, quân đội

Trung Quốc đã bộc lộ là một đội quân đã quá lâu không ở trong tình trạng sẵn sàng

tác chiến.

Ngày 2-3-1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của

mình bị tấn công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ

việc Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt

Nam”. Cùng ngày 2-3-1979, hãng thông tấn xã Tass của Liên Xô phát đi một tuyên

bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lãnh thổ Việt Nam... Những tên xâm

lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, thì sẽ càng bị

trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu” 291.

Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu

gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên”. Lời

kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức

mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại”. Ngày

5-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ

trang toàn dân” nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo

chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động

viên”. Trên báo Nhân Dân, Hoàng Tùng xã luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là

lính”.

Cùng thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol

Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: Quân đoàn II

lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì, Bắc Kạn.

Ngày 6-3-1979, Trung Quốc tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân.

Chương VI: Vượt biên

Ngày 7-8-1987, khi Trần Minh Triết292 lên thuyền, anh kể: “Tôi thấy chuyến

vượt biên còn có hai thầy giáo và hai người bạn học cùng lớp của mình”. Những

năm ấy, người dân miền Nam nói: “Nếu cây cột đèn mà biết đi chắc nó cũng đã

bứng đất mà đi mất”. Nếu như những gì xảy ra trong các trại cải tạo có thể được

giữ kín, thì vượt biên lại là vấn đề gây chú ý ngay sau khi có các thuyền nhân tới

được vùng biển quốc tế. Những chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhoi chở hàng trăm người

đối chọi với sóng dữ, với cướp biển, với sự thờ ơ của các quốc gia lân bang đã gây

rúng động dư luận.

“Vượt biên”

Vụ vượt biên đầu tiên bị bắt và bị đưa ra công khai do “đám chủ công ty vàng lá

Kim Thành” tổ chức. Nhưng, do tính đơn lẻ của nó, chính quyền và dư luận chưa

đánh giá vượt biên thực sự là một vấn đề. Báo chí Sài Gòn, kể cả tờ báo của của

nhóm các dân biểu đối lập trước 30-4-1975 như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận,

Dương Văn Ba, cũng coi những người vượt biên này như tội phạm.

Vụ việc được nhật báo Tin Sáng viết: “Lực lượng võ trang giải phóng quận Nhà

Bè vừa tóm được trọn ổ bọn người định vượt biên trốn ra nước ngoài đem theo một

số lượng lớn vàng và kim cương vào ngày 22-8 vừa qua. Được biết kẻ chủ mưu là

đám chủ công ty vàng lá Kim Thành. Đám này đã đứng ra tổ chức cho một số tài

phiệt Hoa kiều và một số sĩ quan chế độ cũ trốn ra nước ngoài. Hiện nay cả bọn

đang bị câu lưu và chờ ngày ra tòa xét xử”293. Báo Sài Gòn Giải Phóng còn cho biết

thêm: “Phần lớn số này là những sĩ quan ngụy ác ôn, trốn tránh học tập cải tạo”294.

Tờ Tin Sáng viết tiếp: “Sau khi cả bọn bị bắt, Ủy ban Quân quản đã đến tiếp thu

căn nhà lầu hai tầng tại số 39 Phan Châu Trinh vào lúc 4 giờ 15 phút ngày 26-8.

Đây là tiệm vàng Kim Đô, bán các loại nữ trang bằng vàng ở phía ngoài, nhưng phía

trong là cả một cơ sở đúc vàng”.

Biên bản họp Trung ương Cục do ông Hà Phú Thuận lập vào ngày 3-9-1975 cho

biết chi tiết vụ vượt biên đầu tiên này: “Ta còn bắt giữ chín tên: La Quang, Sầm

Hào Tài, Đặng Ngôn, Đào Hưng, Huỳnh Diệu Quang, Lê Văn Y và Nguyễn Văn Thôi.

Hai tên sau cùng là nhân viên hàng không, nhiều lần tổ chức mua bán vàng lậu từ

Hong Kong - Sài Gòn và Sài Gòn – Hong Kong thời Ngụy. Khi bắt Lê Văn Y ta lấy

được 200 lượng vàng. Sơ kết, ta đã lấy được 8.437 lượng vàng 24 cara; 70 hột

xoàn từ một đến năm ly; 182 triệu tiền miền Nam; 10.550 đôla, 1.700 tiền Thái

Lan. Toàn bộ tiền vàng đã kiểm kê và giao cho ngân hàng”. Chính quyền quân quản

đã tịch thu nhà của chủ tiệm vàng Kim Thành. Quyết định này về sau sẽ có giá trị

như một án lệ.

Biên bản ngày 3-9-1975 còn nhắc đến một vụ vượt biên nữa do “chủ hãng Việt

Hoa, công ty Kiến Trúc tổ chức” mà chính quyền biết được qua lời khai của “cơ sở”.

Những người vượt biên trong vụ này khi bị phát hiện đã “đổ vàng xuống sông và xé

đô la”. Đặc biệt, theo biên bản: “Cơ sở ta cho biết, nó nói đã hối lộ cán bộ hai triệu

nên nó được thả. Được về, nó tỏ ra hối tiếc với số vàng và đôla. Nó nhận xét có thể

mua chuộc được cán bộ, cán bộ ta cũng ăn hối lộ nhưng ăn ít mà hở hang - thua

Ngụy, ăn nhiều mà kín, những vụ hối lộ lớn hai ba năm sau mới bị lộ. Hiện nay

chúng chuyển tiền ra miền Bắc về Hong Kong qua trung gian cán bộ. Chúng chủ

trương có hai hy sinh: hy sinh tài sản còn sinh mạng thì tìm mọi cách để trốn ra đi

bằng mọi đường chủ yếu là hối lộ… Có mấy vụ liên quan đến cán bộ như sáu cán bộ

Ban Thống nhất ở không đăng ký và sau đó trốn đi. Một cán bộ Thông tấn xã Trung

ương tên Lương Mạnh ở đường Nguyễn An Ninh đã làm biên nhận lấy hai triệu bạc

cho cơ quan Thông tấn xã”.

Đến tháng 11-1977, cuộc họp Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh bắt

đầu ghi nhận hiện tượng vượt biên. Nghị quyết 44/NQ-77 của cuộc họp này viết:

“Trên lĩnh vực an ninh chính trị nổi lên các hiện tượng đáng chú ý như số vụ, số

người bỏ Tổ quốc chạy trốn ra nước ngoài vẫn tiếp tục tăng trong đó có cả cán bộ,

nhân viên đang công tác trong các cơ quan nhà nước... Đối với một bộ phận nhân

dân, thậm chí cả một số ít cán bộ, đảng viên, trước khó khăn về đời sống kinh tế…

đã xuất hiện tâm lý dao động, băn khoăn, hoài nghi, đặc biệt là giới trí thức và tầng

lớp trung gian, thiếu tin tưởng ở tiền đồ của Cách mạng”.

Ngày 7-5-1979, tại Hội nghị Cải tạo Công thương nghiệp Tư doanh diễn ra tại

Thành phố Hồ Chí Minh với thành phần gồm lãnh đạo các tỉnh thành từ Bình Trị

Thiên tới Minh Hải, ông Võ Văn Kiệt nói: “Tôi xin nêu vài con số về số người trốn ra

nước ngoài: Từ tháng 10-1978 đến tháng 3-1979, có trên 20.000 người, không kể

số người Hoa ta cho họ đi sau khi cải tạo. Trong số này có trên 1.500 cán bộ, nhân

viên, cán bộ khoa học, kỹ sư, bác sỹ… Đáng chú ý, có trên ba mươi vụ cướp tàu

đánh cá trốn, mười lăm vụ cướp chúng ta ngăn chặn được”295. Nhưng ngay sau đó,

ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những con số trên đây còn thấp so với sự thật”.

Chỉ tính riêng những người may mắn được cứu vớt đưa tới các trại tị nạn, con số

đã cao hơn nhiều số được báo cáo. Năm 1975 mới chỉ có 377 người; năm 1976 đã

tăng đến 5.619 người; năm 1977 tăng lên 21.276 người; năm 1978, con số cao gấp

tám lần so với mức thống kê của chính quyền, 106.489 người; năm 1979, chỉ tính

đến tháng 7, đã là 292.315 người296.

Không chỉ có vượt biên bằng thuyền, một số không nhỏ khác thậm chí còn đến

Thái Lan qua ngả Campuchia trong những năm tháng Quân đội Nhân dân Việt Nam

đang đánh nhau với Khmer Đỏ. Năm 1981, khi nhà văn Phan Nhật Nam đang ở

trong tù, vợ và hai con ông, một chín tuổi, một mười bốn tuổi đã theo đường bộ qua

ngả Campuchia. Ông Nam nói: “Không hiểu nhờ phép màu nào mà vợ con tôi trốn

thoát. Ở biên giới Campuchia - Thái Lan có đêm giày lính Pol Pot gần như đạp ngay

trước mặt”.

Tháng 11-1985, sau chín lần vượt biên bằng thuyền bất thành, và sau khi gia

đình được chính phủ Thụy Điển bảo lãnh nhưng không được Việt Nam cho phép,

chàng trai hai mươi mốt tuổi Lê Phương Đông đã đi bộ suốt bốn tháng theo ngả

Campuchia. Anh bị quân đội của Son Sann297 bắt cùng bốn người Việt Nam khác. Cả

bốn người bị giam giữ tại trại lính của Son Sann và bị buộc phải lao động khổ sai.

Sau mấy tháng, Đông và ba người cùng đi được một người lính Thái Lan giúp trốn

thoát. Tháng 4-1987, Đông được đưa sang Thụy Điển.

Lê Phương Đông là con trai của nữ nhà văn Nhã Ca và nhà thơ Trần Dạ Từ. Cả

hai đều bị bắt, và cho tới khi Đông tới Stockholm, ông Trần Dạ Từ vẫn đang ở trong

tù. Từ trường hợp của vợ chồng nhà văn Nhã Ca, năm 1981, chính phủ Thụy Điển

và Hội Văn bút Quốc tế bắt đầu gây áp lực lên chính quyền Hà Nội yêu cầu thả

những nhà văn bị giam giữ. Năm 1984, Thụy Điển cũng đã bảo lãnh cho hơn 700

người Việt Nam ra đi.

Trước đó, ca sỹ Mỹ Joan Baez, người đã từng phản đối cuộc chiến tranh Việt

Nam, năm 1979 đã dẫn đầu một cuộc biểu tình lên tới 12.000 người, đốt nến và đi

bộ đến Nhà Trắng, cho công bố một thư ngỏ “phản đối chính sách tàn bạo của

Chính phủ Việt Nam”. Ngày 20-7-1979, Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc triệu tập một

hội nghị về thuyền nhân Việt Nam tại Geneva với sáu mươi quốc gia tham dự. Tại

hội nghị, Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Nguyễn Cơ Thạch, nói

“thuyền nhân” chỉ là “những phần tử bất mãn của chế độ cũ, những kẻ có nợ máu

với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động”.

Khi về nước, ông Nguyễn Cơ Thạch lại có thái độ khác. Ông Trần Quốc Hương

(Mười Hương), bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, kể: “Tôi ra Hà

Nội, Nguyễn Cơ Thạch chửi: các anh làm ăn thế nào để người ta vượt biên. Trong

khi đó, anh Lê Đức Thọ lại nói, các anh phục kích bắt vượt biên là không nên. Tội gì

làm cho mang tiếng. Không thể giữ được họ đâu, ngày xưa vợ con lính sống bằng

lương Mỹ, giờ họ sống bằng cái gì. Tôi biết quốc tế có Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc

(UNHCR), tôi chỉ thị cho công an, phối hợp với họ làm chương trình cho họ ‘đoàn tụ’

đi. Cho đi hết. Ta không giữ cái đó làm gì. Đây là tội chúng nó, phải để chúng nó

gánh”298. Ở thành phố, những nhà lãnh đạo như ông Mười Hương biết, “thuyền

nhân” không phải là “những kẻ nợ máu hay đĩ điếm”.

Từ “trí thức yêu nước”

Nhiều trí thức Sài Gòn cũ, không phải vô cớ, đã trở thành thuyền nhân. Con

đường để họ phấn đấu trở thành “con cưng” của chế độ mới không hề bằng phẳng.

Họ vừa có thể bị khinh rẻ bởi các đồng nghiệp cũ, vừa bị kỳ thị bởi các “trí thức xã

hội chủ nghĩa” vừa từ miền Bắc vô, vừa bị bế tắc bởi môi trường làm việc thiếu thốn

và không được chế độ mới hoàn toàn tin cậy.

Khi tình hình kinh tế trở nên khó khăn, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh quan

tâm tới các trí thức Sài Gòn cũ bằng cách trợ cấp thêm mỗi tháng mấy lít xăng,

mấy chục ký gạo, một ít than củi, nhưng lại không thể giúp họ phá vỡ những bức

bách để có thể làm những điều mà người trí thức mong muốn. Vậy mà theo ông Võ

Văn Kiệt: “Một số trí thức từ miền Bắc vào hoặc đi tập kết về than phiền, ‘Thành ủy

nuôi mấy ông cũ, tụi này heo nuôi’. Anh em ở ngoài vô cũng đòi tái đánh giá để cấp

bằng lại đối với những trí thức trong Nam, kể cả những người đã làm tiến sỹ ở

Pháp, Mỹ”.

Những ngày ấy, tiến sỹ học ở Liên Xô về được tính hệ số 1, tiến sỹ ở Pháp được

tính hệ số 0,9, còn tiến sỹ ở Mỹ thì chỉ được tính hệ số 0,8. Trong đợt đầu, một

người từng lấy bằng tiến sỹ ở Mỹ, từng được phong giáo sư trước năm 1975 như

ông Chu Phạm Ngọc Sơn cũng chỉ được nơi ông giảng dạy đề nghị phong phó giáo

sư299. Ông Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhà tôi, năm 1954 di cư từ Bắc vô, rất sợ, vì

đang là trưởng Phòng Xét nghiệm của Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Giải phóng vô

nói bả là giai cấp áp bức phải giao lại chức cho người khác không có chuyên môn

lên thay. Cái bàn cũng không có ngồi mà bả không dám kêu ca gì cả”.

Sau ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn hợp tác toàn

diện với chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác thường không câu nệ khi nhận

các đơn đặt hàng thực hiện những công trình “khoa học” phục vụ nhu cầu chính trị.

Theo Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu:

“Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành

ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo

sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào

gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra

chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt

bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ

lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”.

Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhìn vào lý lịch, thấy trước đây năm nào tôi

cũng đi Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi Mỹ quá trời. Tôi

nộp đơn xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ chối”. Năm 1980, trong thời

gian Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của ông vượt biên

không thành. Người con gái của ông cũng cảm thấy bế tắc khi thi không đậu vào dự

bị y khoa. Biết chuyện, ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện, khi hiểu

thêm nội tình, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu đi,

đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này nếu các cháu trở

về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn bổn phận”.

Ông Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào Sài Gòn,

sau khi nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo tình hình, ông nói: “Nãy giờ có

một chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề cập, đó là lực lượng trí thức

được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói, không có trí thức là không có xã hội chủ

nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Báu, cách mà chính quyền sử dụng trí thức

chủ yếu là “làm kiểng”.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn còn là hiệu phó Đại học Khoa

học, nhưng theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nhìn, không có vai trò gì

trong giáo dục”. Giáo sư Hộ là hiệu phó nhưng không phải đảng viên, nên khi có

vấn đề gì thì những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có việc nói với

ông, có việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã

phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông

cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đã được trải nghiệm

trong những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài mười tám tháng về

“Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức miền Nam đã được tổ chức

tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Ba, người tham gia tổ chức lớp học này, kể:

“Chính quyền tưởng rằng sau lớp học sẽ có được một tầng lớp trí thức của chế độ cũ

yêu mến và phụng sự chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu như Marxism đã từng được

các trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học thì giờ đây họ lại nghe

những giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa kể, những người

đứng lớp còn rao giảng với tư thế của người chiến thắng, tự tôn, tự đắc”. Những

đảng viên tham gia lớp học như ông Võ Ba cũng thừa nhận: “Trước giới trí thức Sài

Gòn, chính quyền đã thất bại ngay trong lần trình diễn đầu tiên”.

Chưa kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư triết học nổi

tiếng của Sài Gòn, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”, đã coi cộng sản

cũng là “một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho rằng hình thức “kiểm điểm”

mà cộng sản áp dụng trong sinh hoạt chính là một thứ “xưng tội man rợ”. Về đường

lối, ông cho rằng: “Có thể có những điều Lenin nói đã đúng vào năm 1916, nhưng

sau bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lý trí”. Còn Giáo sư Châu Tâm Luân thì

khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con đường “tiến lên chủ nghĩa xã hội

bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản” đã mỉa mai: “Sao không tìm hiểu xem

sau chủ nghĩa cộng sản là gì để nhân tiện bỏ qua, mình bỏ qua luôn hai, ba bước”.

Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về kinh tế nông nghiệp ở Đại học

Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy cùng lúc ở hai trường đại học Minh

Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí thức phản chiến hàng đầu, bị chế độ

Sài Gòn bắt giam đầu năm 1975 cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 mới được

Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu Tâm Luân là một thành viên của

nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào trại Davis300 và được giữ lại ở đây

cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải phóng, chính quyền xếp ông vào diện

“người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,

đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Về phía mình, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những trí thức kỳ vọng

nhiều vào chế độ mới. Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên,

trong khi dân tình lo âu thì ông lại cho là giá tăng vì “tâm lý”, giống như cách giải

thích thời ấy của chính quyền301. Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại

tệ để nhập hàng như trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không còn

bọn tay sai đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa thì cần phải tiết kiệm

tối đa số ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho quốc gia…

Vì vậy ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương, chúng ta cũng cần

kềm hãm bớt kẻ địch ở ngay trong lòng mình…”302.

Khi trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính quyền nghĩ đơn

giản ông là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức Sài Gòn, ông đã

không hành xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư Châu Tâm Luân không

được đứng lớp vì kiến thức kinh tế của ông là “kinh tế tư bản”, tuy nhiên, ông vẫn

còn được để ngồi trong Hội đồng Khoa học của trường. Chỉ ít lâu sau, Đảng ủy

trường nhận xét ông muốn “tranh giành lãnh đạo với Đảng”.

Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần giao chức cho tôi

mà tôi có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là “ghế”, mà là những ý

kiến của ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác với ý kiến của chi bộ. Trong một

cuộc họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao thao nói về “hợp tác hóa”, về chủ trương phải

đưa những người bần cố nông lên làm lãnh đạo hợp tác và “phải đào tạo họ", Giáo

sư Luân hỏi: “Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”. Ông Đỗ Mười nói: “Tình hình

gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ lại: “Tôi bắt đầu ngao ngán

vì muốn thay đổi thì phải bắt đầu từ cái đầu mà… những ‘cái đầu’ thì như thế”. Sau

lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp Châu Tâm Luân được đưa về Viện

Khoa học Xã hội.

Không chỉ có những đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân, Giáo sư Châu

Tâm Luân là trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể thảo luận về

các chương trình khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân tranh luận, một

đại biểu trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc cãi vã, và lớn

tiếng: “Các chuyên viên đã để ra rất nhiều thời giờ soạn thảo, đại biểu đó tư cách gì

mà đòi sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn lòng: “Tôi xin ngưng cuộc thảo luận, bởi

như vị đại biểu vừa nói, đã có các chuyên viên nghiên cứu cho chúng ta rồi thì

chúng ta chỉ còn là chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ trì phiên họp, ông Mai Chí Thọ

không nói gì, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nhìn thấy ông Luân không giơ tay, ông Mai

Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”. Ông Luân cũng không giơ tay, ông nói: “Toàn

thể chấp thuận, một phiếu trắng”.

Một số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo sư trẻ tuổi này,

một trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn xem tôi như con nít,

phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới hơn ba mươi tuổi”. Giáo sư Châu

Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi đề nghị

phải áp dụng ‘kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước’. Ông Xuân Thủy nghe,

nói với tôi: ‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về nói với Sáu Dân đi’. Tôi trả lời ông

Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng thì các anh phải nghe chứ sao lại cần người đỡ đầu?’.

Sau đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu đúng, nhưng áp dụng như vậy thì phức tạp

quá, làm sao chúng tôi quản lý được. Muốn làm phải có những người như cậu. Mà

nói thật chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn những người như cậu'”.

Theo ông Luân: “Những năm ấy, tôi chê ông Võ Văn Kiệt nhát, ‘xé rào’ là vá víu;

phải ‘phá vỡ’ để áp dụng kinh tế thị trường chứ không thể phá những đoạn rào. Ông

Mai Chí Thọ nghe, nhắc: ‘Phải giữ chính quyền trước hết, chính sách sai thì còn sửa

được chứ mất chính quyền là mất hết’. Về sau tôi mới thấy ông Mai Chí Thọ đã nói

rất thật lòng, họ đã ngủ rừng hàng chục năm để có chính quyền, làm sao họ để mất

cái mà họ vừa giành được đó”.

Hai vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm 1975, gia đình

ông đã định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường về nước. Sau

năm năm cố gắng chòi đạp trong chế độ mới, ông không tìm thấy một cơ may thay

đổi nào. Đầu năm 1979, ông vẫn còn được trả lời phỏng vấn các phóng viên nước

ngoài, nhưng càng về sau thì không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo sư Châu

Tâm Luân nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi tình cờ gặp một vài phóng viên,

nghe họ nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi đều được chính quyền trả lời là Giáo

sư Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần bị cô lập”.

Dù từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ Sài Gòn, ông

Huỳnh Kim Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền bị coi là bù

nhìn, nhưng trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền thực sự trong chuyên môn.

Sau giải phóng, chính quyền được nói là của mình nhưng trí thức gần như chỉ được

dùng như bù nhìn, trong khi đa phần họ là những người khảng khái”.

Năm 1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt

mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Biểu Tâm

ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm nguyên là chủ tịch

Hội Sinh viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đình Nhu là Ngô Đình Lệ

Thủy thi y khoa đã bị ông đánh rớt dù bị nhà Ngô gây áp lực. Ông là một nhà giáo

được sinh viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ do quá

bị dồn nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khỏe, vì cái gì

cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.

Một thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức hiệu phó. Trường sợ

mang tiếng không nhận, ông khóa phòng, giao chìa khóa, tự chấm dứt vai trò “chim

kiểng” của mình. Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ

hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết

thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có

phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.

Còn Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Võ Ba tới nhà chơi, đã

đưa cho Võ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “tình hình kinh tế nông

nghiệp miền Nam”, rồi nói: “Võ Ba ơi, mình rất mừng vì bản báo cáo này của mình

đã được Mặt trận Tổ quốc đánh máy gởi đi. Hai lần trước thì họ không chịu đánh

máy. Nhưng, Võ Ba ạ, họ đánh sai hết, những thuật ngữ như ma trận họ đánh

thành mặt trận ông ạ”. Mấy hôm sau, Võ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân thì thấy

cửa đóng, bên trong thấp thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù, sang

tới Thái Lan ông bị các thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả lời câu

hỏi của ông Huỳnh Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định sai lầm”,

Giáo sư Châu Tâm Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả giá đắt, mình vẫn

thấy đi là đúng”.

Trong số các trí thức miền Nam, ông Võ Văn Kiệt “xếp” Giáo sư Châu Tâm Luân

vào hàng “khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân mình rất thích vì

ảnh thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ. Ảnh hy vọng khi đất nước hòa

bình, với sự phì nhiêu của đất đai miền Nam, sẽ có dịp thi thố giúp phát triển nền

nông nghiệp. Nhưng một thời gian sau, thấy cơ chế như thế thì không thể nào đóng

góp được”.

Một người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt nhưng cũng phải

vượt biên là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong Phú. Ông Phạm Văn

Hai là người đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người con, một người

được đặt tên là Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau ngày 30-4, ông

Phạm Văn Hai vẫn nhiệt tình tư vấn để phục hồi ngành dệt và nghiên cứu chất kích

thích cây cỏ. Nhưng năm 1977 ông quyết định “đi”. Vượt biên hai lần, cả hai lần

đều bị bắt. Lần đầu bị bắt ở Kiên Giang, Thành ủy lãnh. Lần hai, bị bắt ở thành phố,

ông Võ Văn Kiệt vào thăm, ông Hai nói: “Cho dù anh quan tâm nhưng như thế này

thì không làm được”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những người như Kỹ sư Phạm

Văn Hai, như Giáo sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó khăn về cuộc sống họ sẽ vượt

qua, nhưng nếu bị đặt vào hoàn cảnh không thể đóng góp thì họ không chịu được.

Tôi cũng không biết làm gì hơn, chỉ đề nghị mấy ảnh đừng vượt biên nguy hiểm”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh em trí thức ấy ra

đi, nhưng biết là nếu họ ở lại thì cơ chế hiện thời cũng chưa cho phép mình sử dụng

họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích Nhưỡng, một công trình sư cầu cống,

thủy điện, nói với ông Võ Văn Kiệt: “Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh

làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái gì

cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay vì theo pháp luật. Trị

nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không được”.

Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông Kiệt biết là các

trí thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn "Nghe ngóng, nếu có anh em trí

thức bị bắt ở đâu, anh phải lãnh về". Khi nhận được tin công an Bình Thuận bắt

giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp giấy cho ông Báu ra Bình Thuận xin “di

án về Thành phố”. Ông Báu kể: “Công an Bình Thuận thấy giấy của Thành ủy thì

cho nhận ‘can phạm’. Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá định kêu lên, tôi đã

phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm

thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình Thuận, tôi mới mở

còng và giải thích: Công an Bình Thuận mà biết, người ta chụp đầu cả tôi”.

Đích thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức.

Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thời đó của

ông, hình thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi

tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần lớn các trí thức đã ra

đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở

Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai mình là ai. Như bốn lần trước, ở nhà

cứ lo một cây vàng thì được thả”.

Có những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng. Theo ông

Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát.

Đến “thường dân”

Sau ngày “giải phóng”, dồn dập các sự kiện xảy ra trên khắp miền Nam: hết sỹ

quan, công chức bị đưa đi “học tập”, đến cải tạo tư sản, đến đổi tiền rồi đưa dân đi

kinh tế mới. Người dân miền Nam vừa chịu cảnh gia đình ly tán, vừa bắt đầu phải

đứng xếp hàng mua những thực phẩm vốn chưa bao giờ thiếu ở vùng đất màu mỡ

này.

Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ303 kể: “Ba tháng sau ngày 30-4, cha tôi mất sau khi nhìn

cảnh đời thay đổi khác hẳn với những gì mà ông chờ đợi. Cảnh nhà đơn chiếc sau

khi ông anh thứ hai của tôi di tản, hai ông anh còn lại bị đưa đi cải tạo. Mẹ tôi rơi

vào khủng hoảng. Những người bà con từ Nghệ An vào đều hỏi tôi đúng một câu:

chúng mày có ăn học tại sao lại không đi Mỹ. Những người giữ chức vụ lớn trong

chính quyền dạy chủ nghĩa cộng sản, trước đám đông nói khác, nhưng ngồi trong

gia đình thì không giấu được khi nói về một miền Bắc xã hội chủ nghĩa điêu tàn. Họ

cảnh cáo tôi về những chuyện đấu tố sắp xảy ra. Trong tổ dân phố của tôi cũng bắt

đầu ám chỉ việc gia đình có người đi Mỹ, nhà cho Mỹ mướn, con có liên hệ đến

Nguyễn Văn Thiệu… Mẹ tôi nghe rồi trở bệnh”.

Nhưng điều mà một bác sỹ như ông Nguyễn Đức Tuệ cảm thấy đụng chạm trực

tiếp tới mình là khi chứng kiến chính trị chen vào mọi mặt. Những buổi học tập

chính trị, những buổi họp tổ là dịp để các bác sĩ thiếu tay nghề bù đắp bằng cách cố

tranh đấu được đứng vào “hàng ngũ Đảng”. Phương châm “hồng thắm hơn chuyên”

đã khiến cho trình độ y khoa của các bác sĩ ngày càng đi xuống. Bác sỹ Tuệ kể:

“Trong những buổi sáng giao ban ở bệnh viện Bình Dân, chúng tôi đã phải ngồi chịu

trận nghe các đồng chí y sĩ từ rừng ra răn dạy các thầy tôi như đại Giáo sư Phạm

Biểu Tâm, Giáo sư Trần Ngọc Ninh! Bệnh viện Bình Dân, nơi tôi làm việc, vốn là một

bệnh viện nổi tiếng về giải phẫu, càng ngày càng thiếu thuốc men phương tiện, các

cuộc mổ xẻ thiếu thuốc mê và thiếu dụng cụ”.

Sau vụ “nạn kiều”, chiến tranh lại xảy ra ở hai đầu đất nước. Giặc giã, đói kém,

sự sợ hãi đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài, khiến cho lượng người vượt biên tăng

vọt trong khoảng cuối năm 1979, đầu năm 1980. Một trong những người bắt đầu

vượt biên sau chiến tranh là Lục Phương Mai.

Cha Mai, ông Lục Văn Sáu, là một kỹ sư Tây học nổi tiếng trong ngành xây

dựng, gia đình có nhiều người nắm những chức vụ có nhiều quyền lực trong chế độ

Sài Gòn, nhưng vợ ông Sáu lại là Việt Cộng. Anh em Lục Phương Mai không thể nào

di tản theo các thành viên khác của đại gia đình vì vào đúng chiều 28-4-1975 thì

ông Lục Văn Sáu mất. Khi đó, mẹ Mai vẫn còn đang bị chính quyền Sài Gòn giam

trong một nhà tù ở Thủ Đức. Sáng 30-4-1975, khi anh chị em Mai đang cúng “mở

cửa mả” cho cha thì “Việt Cộng vô”, mẹ Mai một mình lê lết đi bộ ra khỏi nhà tù.

Mãi tới khoảng 3 giờ chiều mấy anh em mới tìm thấy mẹ.

Ba mươi tháng Tư, với gia đình Mai, không phải là một ngày đoàn tụ, và những

ngày tiếp theo thì còn khốn khổ hơn nhiều. Trước đây, ngoài thu nhập của ông Lục

Văn Sáu, gia đình còn có thể sống phong lưu nhờ vào khoản tiền mà cuối thập niên

1960 chính quyền ông Nguyễn Văn Thiệu trả cho ông nội Mai, địa chủ Lục Phương

Giản, sau khi trưng mua ruộng đất của ông để thực thi chính sách “người cày có

ruộng”. Sau 30-4-1975, khoản tiền nằm trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín ấy

không còn giá trị.

Mẹ Lục Phương Mai dù có công nuôi giấu nhiều cán bộ cao cấp của Cách mạng,

nhưng khi ra tù thì cũng không còn sức để nhận được bổng lộc, chức tước gì. Mấy

cô tiểu thư họ Lục bắt đầu nhìn những “con phe” tới nhà khênh ra từng chiếc tủ

lạnh, cây đàn. Năm 1979, anh rể Lục Phương Mai là Thượng sỹ Hải quân Việt Nam

Cộng Hòa Trần Văn Ngọt, một “chuyên gia tổ chức vượt biên”, thu xếp để mấy chị

em ra đi.

Vượt biên khi ấy là lối thoát của những gia đình đã từng dính dấp tới “ngụy” như

Thượng sỹ Trần Văn Ngọt. Trong khi những người vợ sỹ quan đi học tập phải son

sắt đợi chờ thì con cái họ được gửi lên những chiếc “thuyền” của bạn bè. Theo ông

Phan Lạc Phúc: “Khi tôi đi cải tạo, con gái út tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đã

mười lăm tuổi, bắt đầu thiếu nữ. Các chị nó vượt biên hết cả chỉ còn nó ở lại với mẹ

cháu đợi tôi”.

“Ra đi” cũng là một quyết tâm mãnh liệt của những người trở về từ các trại cải

tạo. Mặc dù ai ra trại cũng được nhận xét trong tờ lệnh là “đã nghiêm chỉnh chấp

hành chính sách cải tạo khoan hồng độ lượng của Đảng và Nhà nước”, nhưng họ bắt

đầu cảm thấy mình lại đang bước vào một nhà tù lớn hơn, bởi trên thực tế, họ vẫn

không thực sự có tự do. Cả con cái và gia đình đều không nhìn thấy tương lai.

Không có một chỗ đứng nào cho họ ở trong chế độ.

Năm 1977, ông Vượng304 được ra khỏi trại cải tạo. Sau khi trình diện ở phường,

ông được một sỹ quan an ninh “rất dễ thương” tới gặp và yêu cầu hợp tác. Công

việc tưởng như đơn giản: Mỗi tuần một lần báo cáo gặp ai, đi đâu, có ai từng là tình

báo của chế độ cũ mà trốn học tập không. Ông Vượng nói: “Tôi hợp tác một tháng

để không gây nghi ngờ rồi trốn khỏi Sài Gòn và từ lúc đó bắt đầu tìm đường vượt

biên”. Không tính một lần có ý định vượt biên qua ngả Campuchia, bốn lần khác bị

lộ trước khi lên thuyền nên chỉ kịp chạy thoát thân, đến lần thứ sáu ông Vượng mới

tới được Malaysia.

Tháng 2-1985, họa sỹ Chóe trở về sau gần chín năm nằm sàn xi măng ở số 4

Phan Đăng Lưu và lao động giữa rừng Gia Lai, bệnh phong thấp và bệnh tiểu đường

bắt đầu nặng thêm. Nhưng sức khỏe không phải là thứ có thể dễ dàng quật ngã con

người khát khao làm việc của Chóe. Từ một cây cọ phản chiến, ông giờ đây phải

“đeo” tờ giấy xác nhận thành phần là “văn nghệ sỹ phản động”. Bà Kim Loan, vợ

ông, nhớ lại: “Không có công ăn việc làm, ông ấy càng ngày càng phẫn uất rồi trở

thành u uất”. Một trong rất ít người tới thăm họa sỹ Chóe lúc bấy giờ là Huỳnh Bá

Thành, nhưng Chóe từ chối tất cả những đề nghị giúp đỡ của Thành, kể cả việc

nhập lại hộ khẩu305.

Ngày 7-4-1976, khi an ninh tới tòa soạn tờ Lao Động Mới306 bắt Chóe, ông Tổng

Biên tập Tống Văn Công nói với người chỉ huy tên là Đô: “Tôi thấy Chóe làm bất kể

giờ giấc, anh ấy muốn đóng góp, muốn hòa nhập. Tôi xin lấy sinh mạng chính trị

của mình ra đảm bảo”. Ông Đô liền nói: “Anh biết gì mà đảm bảo”.

Năm 1985, Chóe đến nhà Tống Văn Công: “Bạn bè cũ tránh tôi như hủi, anh có

dám tiếp tôi không?”. Họ ngồi với nhau rất lâu, cho dù Chóe không nói ra nhưng

ông Công biết người họa sỹ tài ba này đang bế tắc, ông nói: “Mình tự thấy không

đủ tư cách khuyên Chóe điều gì, vì chín năm trước mình đã không bảo vệ được bạn.

Mình chỉ góp ý, nếu đi thì đi chính thức, vượt biên nguy hiểm lắm”. Sau lần gặp ấy,

Chóe biến mất. Gần hai năm sau, một ngày đầu tháng 8-1987, Chóe đột ngột xuất

hiện trước mặt Tống Văn Công, áo quần nhếch nhác. Tống Văn Công chưa kịp hỏi,

Chóe đã nói: “Mới ra tù. Hồi đó, tôi vượt biên, bị bắt”.

Sau gần mười năm ở Khám Chí Hòa, năm 1985, nhà báo Đoàn Kế Tường cũng

được ra tù. Mặc dù biết vợ ông đã bán nhà, vượt biên, quyết định tha của Trại vẫn

trả ông về căn nhà ở đường số 2, làng Báo Chí Thủ Đức. Ông Tường về, bấm

chuông, một người phụ nữ trung niên ra mở cửa nhìn ông ái ngại, nói: “Căn nhà

này xui lắm, em tù tội, lại bị vợ bán nhà bỏ đi. Chồng chị đi kháng chiến về, chị

mua nhà này ở chưa được bao lâu thì ổng bỏ chị đi lấy vợ khác. Thôi, nếu không có

chỗ nào để về thì cứ ở đây với chị”. Đọc được sự chia sẻ khá chân thành của người

chủ mới, nhưng ông Đoàn Kế Tường chỉ cám ơn rồi về nhà chị gái mình.

Bà chị gái thương em, nhưng trong cái không gian chính trị ngột ngạt lúc đó,

chứa trong nhà “một thằng tù phản động” như Tường là điều không phải dễ dàng,

nhất là mấy đứa con của bà chị đã có mấy năm “hòa nhập vào chế độ mới”. Bà chị

dặn: “Cậu nên ra khỏi nhà lúc 5 giờ sáng và về sau 11 giờ, đừng để công an khu

vực nó thấy thằng cậu đi tù về, khó cho mấy đứa”.

Vào đúng rằm tháng Tám năm 1985, Đoàn Kế Tường nhảy xe Kamaz lên Đaklak.

Trời tối, mưa như trút, Tường lang thang từng rẫy cà phê xin việc. Ông kể: “Tờ giấy

tùy thân duy nhất mà tôi có là giấy ra tù, không ai dám nhận. Đến nửa đêm thì gặp

rẫy của một thiếu tá cảnh sát đi học tập về, ông nhận. Ông cựu thiếu tá dựng cho

tôi một cái chòi trên hai mẫu cà phê đang phục hóa. Cực nhọc nhưng dù sao cũng

có việc làm. Được ít lâu thì anh Trần Hữu Thọ con trai Đại tá Việt Nam Cộng hòa

Trần Hữu Dũng đi qua thấy tôi khổ quá, kêu về nhà ông ở cùng, ngày làm rẫy, tối

dạy học cho mấy đứa con của anh”. Làm được gần một năm thì, một buổi sáng, ông

Thọ ra phố ăn sáng về kể, đội Cảng Sài Gòn lên đá ở Buôn Mê Thuột, ông gặp huấn

luyện viên Tam Lang ở đó. Tường buột miệng: “Tam Lang là bạn tôi”. Sáng hôm

sau, ông Thọ lại ra phố thuật lại với Tam Lang, Tam Lang xác nhận: “Mai nếu anh

lại ra thì đưa nó đi cùng cho tôi gặp”. Gặp nhau, Tam Lang khuyên Tường: “Sài Gòn

thiếu gì việc. Về đi, ở đây làm gì”.

Sài Gòn đúng là có rất nhiều việc, nhưng tù phản động như Đoàn Kế Tường thì

cho dù trình độ cỡ nào, lúc đó cũng chỉ có thể đạp xích lô. Một người bạn giới thiệu

với Hội thánh Tin Lành để nơi này cho mượn một chiếc xích lô, Tường và một người

bạn chia nhau đạp. Đoàn Kế Tường kể: “Sau đổi tiền, kinh tế càng xuống tận đáy,

ăn còn không đủ lấy đâu tiền đi xích lô”. Đấy là những năm Sài Gòn đầy những ông

đạp xích lô trong khi ngóng khách ở các ngả ba, ngả tư, tranh thủ đọc các cuốn

sách tiếng Anh, tiếng Pháp. Nhiều người trong số họ cũng vừa mới đi tù về.

Ông Tường kể: “Một bữa dong xe cả buổi mà không có người khách nào, tình cờ

gặp thằng bạn thân chạy chiếc Honda tới. Tôi muối mặt hỏi: Tao đói quá, mày cho

tao xin mười đồng. Thằng bạn nói đợi chút tao quay lại. Tôi đợi tới trưa không thấy.

Về nhà, bà chị cho một lượng vàng, bảo vượt biên đi”.

Đoàn Kế Tường xuống Cà Mau, tham gia vào chuyến vượt biên do một cựu tù cải

tạo, ông Nguyễn Thụy Quế, tổ chức. Ông Tường kể: “Chúng tôi lên một chiếc ghe

chở heo chạy từ Năm Căn ra Ngọc Hiển. Gặp con nước ròng, ghe phải tấp lại chờ.

Trên bờ, từ một quán cà phê, bài hát Quê Hương307 cứ được phát lặp đi lặp lại. Năm

ấy, Quê Hương nổi như cồn, tôi ở Sài Gòn nghe, nghĩ: tào lao. Nhưng lúc chuẩn bị

rời quê hương, tự nhiên xúc động quá. Tôi trốn ghe quay về, chị tôi chửi quá trời.

Tôi chủ động tìm gặp Đỗ Trung Quân tính khen. Không ngờ Quân bảo: em mắc nợ

anh, anh đi thì tốt hơn. Khi đó tôi chưa hiểu hết lời Quân nói”.

Những ngày sau đó của Đoàn Kế Tường là ra ga Hòa Hưng xếp hàng để sau đó

bán chỗ cho người đi tàu mua vé; đêm thì cho khách đợi tàu thuê chiếu và bán cho

họ vài xô nước rửa mặt. Theo ông Tường, điều đó vẫn chưa phải là bi kịch. Một dịp

trước ngày 30-4 năm 1987, như thường lệ, công an “truy quét tệ nạn xã hội”, bắt

tất cả về công an Quận 3. Sáng hôm sau, công an sàng lọc, ai có chứng minh thư,

có hộ khẩu thành phố thì cho về, ông Tường chỉ có giấy ra trại thì bị giữ lại để

chuẩn bị đưa đi tập trung cải tạo.

Ông Tường kể: “Đang đứng xớ rớ trong sân công an Quận 3 thì thấy Huỳnh Bá

Thành308 chạy xe Vespa vô. Anh ta dừng lại trước trước đám can phạm. Tôi cúi mặt

xuống tránh. Lúc sau, ngẩng lên thấy ông vẫn nhìn trừng trừng, rồi hỏi: Đoàn Kế

Tường à? Có lẽ thấy tôi tàn tạ quá, Huỳnh Bá Thành khóc, bảo công an tha tôi rồi

cho tôi năm mươi đồng, dặn: mai mốt qua báo Công An gặp tao, có cả thằng Từ Kế

Tường nữa. Tôi về, vào chùa Liên Trì gặp nhà sư Thích Không Tánh, hỏi nên không,

nhà sư gật đầu rồi nói: Tao đã phản động, thêm mày phản động nữa, cái chùa này

sẽ không phật tử nào dám đến. Thầy Thích Không Tánh lúc ấy cũng chỉ mới ra tù”.

Ông Tường kể tiếp: “Tôi lên, Huỳnh Bá Thành mua cho hai bộ quần áo rồi hỏi:

‘Ông muốn đi thì tôi lo cho đi’. Tôi nói không, lúc này không vì bài Quê Hương nữa

mà vì không muốn lại bị tù đày. Thành nói: ‘Ông có một tuần để suy nghĩ’. Một

tuần sau tôi cũng nói không đi. Thành hỏi: ‘Muốn làm báo lại không, tôi đang cần

những người có nghề’. Tôi nhận lời. Rồi Thành thu xếp dẫn tôi tới gặp ông Mai Chí

Thọ309, nhân một lần ông Thọ vào Sài Gòn. Sau khi ông Thành giải thích, ông Thọ

hỏi: ‘Chú mày dám bảo lãnh không?’, ông Thành nói: ‘Dám’. Ông Thọ kêu người

đem giấy bút ra cho Thành cam kết. Thế là tôi trở thành người của Công an Thành

phố Hồ Chí Minh, một tờ báo đang ăn khách lúc đó”.

Bài báo đầu tiên đăng lên, tôi ký Đoàn Thạch Hãn nhưng bạn bè cũ vẫn biết đấy

là tôi. Chị tôi mừng vì ngoài chuyện tôi có công ăn việc làm, từ một thằng tù phản

động, tôi trở nên có thế ăn thế nói trong chế độ. Nhưng ngay sáng hôm báo ra,

Đinh Viết Mâu, cựu thiếu úy biệt kích, là bạn thân trong Chí Hòa, đạp xe tới nhà chị

tôi. Mâu lặng lẽ bước vào tát vào mặt tôi hai tát rồi nói: ‘Thằng phản bội'. Rồi, giữa

trời mưa như trút, Mâu đạp xe đi luôn. Tôi đưa bài báo cho ông Khai Trí310, một bạn

tù khác, ông nói: “Cậu viết không có gì xấu nhưng tôi đọc có cái cảm giác như cậu

đang cầm quạt lông ngâm Kiều của Nguyễn Du trong động đĩ”.

Ông Tường kể tiếp: “Có lẽ những người ca ngợi sự kiên cường của tôi khi còn ở

trong Chí Hòa muốn tôi mãi mãi là người hùng trong mắt họ. Còn những người ở

phía khác thì cũng nhìn tôi khinh miệt như nhìn một kẻ chiêu hồi. Khi nghe Đỗ

Trung Quân nói ‘em mắc nợ anh, anh nên đi’, tôi chưa hình dung hết. Càng về sau,

tôi càng hiểu vì sao phần lớn những người tù như tôi phải tìm lối thoát bằng cách

vượt biên”.

Năm 1982, ngay sau khi ra khỏi trại cải tạo, Trung úy Trần Quang Phước lo cho

cả gia đình gồm mười bốn người vượt biên. Khi vừa ra cửa biển thì một lốc máy tàu

bị hỏng. Chủ tàu đề nghị mọi người gom tiền để họ vào bờ mua phụ tùng sửa máy.

Ai dè họ đi luôn. Mấy giờ sau thì tàu công an ra. Người tài công cố cho thuyền chạy

bằng lốc máy còn lại. Trần Minh Triết, con trai ông Phước, năm ấy mười sáu tuổi,

nhớ lại: “Một loạt đạn bắn thẳng vào buồng lái, xác người tài công văng xuống

biển”. Sau một thời gian chờ thanh lọc, vợ con ông Phước cũng như những đứa trẻ

khác, chỉ bị giam hai ngày rồi được tha về. Ông Phước bị giam tại trại giam Trần

Phú.

Trần Minh Triết kể: “Một hôm, tôi đang thụt bida thì bà già sang, ngoắt ra, dắt

đi ngay lên chùa Tĩnh Hội, Nha Trang. Đi không kịp mang quần áo. Mấy thầy chùa

đưa về xóm Bóng gửi chờ bắt tàu vô Sài Gòn. Lúc đó mới hay, ông già trong khi

được ra khỏi buồng giam đã tìm cách trốn trại. Từ đó, hai anh em tôi mỗi đứa được

gửi một nơi, hai ông bà già cũng trốn chui, trốn nhủi. Cả nhà hiếm khi mới được

gặp nhau. Dượng tôi đi tập kết về, là bác sỹ một bệnh viện lớn quen biết rất nhiều

những người trong chế độ mới, nhưng cũng không thể giúp gì hơn. Một hôm ông

bảo với ba má tôi: Anh nghĩ các em nên đi, ở đây sống không nổi đâu”.

Nữ nhà văn Nhã Ca chỉ bị tù hơn một năm. Nhưng trong thời gian hai vợ chồng

bà ngồi tù, chính quyền địa phương đã trục xuất ba người con của bà ra khỏi nhà.

Căn biệt thự của ông bà trên đường Ngô Tùng Châu, Bình Thạnh, bị chính quyền lấy

giao cho hợp tác xã mây tre lá. Ra tù, Nhã Ca đưa các con về nhà bà ngoại ở số

142 Tự Do. Bà chỉ định buôn bán làm ăn, nuôi con và chờ chồng - nhà thơ Trần Dạ

Từ - đang bị đưa đi “cải tạo” trên trại Gia Trung. Nhưng áp lực đến với gia đình bà

càng ngày càng thêm dồn dập.

Năm 1977, hai đứa con của bà, một mười bốn tuổi, một mười một tuổi, bị đuổi

khỏi Nhạc viện Thành phố. Năm 1978, ngôi nhà dùng làm cửa hàng ở số 142, bấy

giờ gọi là đường Đồng Khởi, bị niêm phong. Bị ép và lo sợ bị “xe cây” tới nhà “hốt đi

kinh tế mới” như số phận của nhiều nhà tư sản khác, nửa đêm, Nhã Ca phải đưa

các con về Cần Thơ ở nhờ nhà người thân. Bức bối và bế tắc, Nhã Ca đã phải để cho

ba đứa con lên tàu vượt biên. Chuyến đi bất thành. Cả ba con của bà bị bắt.

Trước khi tới biển

Thời ấy, thường có hai dạng tổ chức vượt biển - tự túc, nghĩa là không dính líu gì

đến công an, và mua bãi. Dạng thứ nhất thường gặp nguy hiểm hơn lúc xuống tàu

rời đất liền. Mọi thứ đều lén lén, lút lút trong màn đêm. Những người này thường

chọn những đêm không trăng, và chấp nhận bị bắt bất kỳ lúc nào. Dạng thứ hai,

thường được mấy người tổ chức móc nối, sắp xếp ngày giờ trùng với ca trực của

“tay trong” để đưa người xuống tàu. Không có dạng nào là chắc chắn, nhưng những

người đã “móc nối” thì khả năng bị công an xông ra từ trong các lùm cây là ít hơn.

Không phải ai cũng có tiền có vàng để đóng cho các chủ tàu: “đĩ điếm” thì coi

như đã hết thời sau ngày 30-4-75; những “gia đình ác ôn” không phải đi học tập thì

trước đó không phải ai cũng có chức tước tiền bạc; những người mà chồng con đang

ở trong trại thì còn phải mang gánh nặng thăm nuôi - đối với nhiều người vợ tù,

nước có thể bỏ nhưng chồng trong trại giam thì không thể.

Trở lại câu chuyện của Thượng sỹ Trần Văn Ngọt và cô em vợ của ông, Lục

Phương Mai. Ngày 7-6-1979, từ nhà, mấy chị em, dì cháu Mai đi xích lô máy ra bến

xe miền Tây rồi đi xe đò xuống Tiền Giang. Họ “ém” trong nhà một nông dân, chờ

đêm ập xuống thì nhảy lên một chiếc xuồng con chạy ra ghe lớn đang đậu chờ

ngoài cửa sông. Theo dự kiến, 12 giờ đêm chiếc ghe lớn ấy sẽ bắt đầu hành trình.

Nhưng khi vừa thấp thoáng thấy cửa sông thì bỗng từ trong bờ dừa nước, một chiếc

bo bo xé nước phóng ra, ép sát con xuồng. Thượng sỹ Trần Văn Ngọt chưa kịp phản

ứng đã ăn một báng súng khuỵu xuống. Tất cả trai tráng lẫn đàn bà con gái bị đưa

về trại giam Tiền Giang. Ngay trong đêm, đoàn bị chia hai: nam một bên, nữ một

bên. Và lập tức, quản giáo quát: “Cởi áo ra”; rồi, “Cởi quần ra”; rồi, “Cởi luôn quần

lót”. Quần áo, giày dép đều bị sờ nắn tới từng đường chỉ.

Trước khi ra đi, những người vượt biên đều đã dự liệu tình huống này nên khi

chiếc bo bo vừa phóng ra, hạt xoàn, vàng, đô la đều đã bị ném không thương tiếc

xuống nước. Với nhiều người, “thà để cá ăn, dứt khoát không để vàng bạc rơi vào

tay Việt cộng”. Nhưng Lục Phương Mai vẫn cố giữ lại hai lượng vàng. Trước khi cởi

đồ, chị lén lút chuyển hai lượng vàng ấy cho cô cháu gái tên là Thùy, Thùy chuyền

cho em gái là bé Tí Hương, năm ấy mới lên sáu tuổi không bị quản giáo để ý. Tí

Hương nhét vàng vào bụng để rồi khi mấy dì cháu về buồng giam liền đưa lại cho dì

giấu trong một tuýp thuốc đánh răng.

Chín anh em, dì cháu nhà Lục Phương Mai nằm khoảng hơn một tháng thì được

mẹ viết thư lên Quận ủy “nhận lỗi là đã không giáo dục tốt con em để chúng nó làm

điều sai quấy”. Xét gia đình “có công với Cách mạng”, mấy chị em Mai được tha,

riêng Thượng sỹ Trần Văn Ngọt thì bị kêu án ba năm tù311.

Nếu như chiếc thuyền vượt biên của Lục Phương Mai bị chặn ngay từ cửa sông

thì thuyền của chị em nhà Ngô Hồng Ngọc312 lại đã đi được nhiều giờ trên biển.

Ngày 26-12-1983, Ngọc, lúc đó hai mươi ba tuổi, vượt biên cùng với một đứa em,

hai người dì và bốn chị em họ khác. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi được đón bằng

xe buýt lớn, giống như một đoàn người hành hương, được đưa tới lăng Ngọc Hà - Bà

Rịa, vào một nhà dân đợi tới đêm thì lên một thuyền nhỏ. Chiếc thuyền taxi này

chạy khoảng một giờ thì tới địa điểm đón, từ đó chúng tôi được đưa vào một thuyền

đánh cá.

Chiếc thuyền nhỏ này - ngang khoảng 2,5m, dài 15m - do sáu gia đình hùn tiền:

Gia đình bác sĩ Vận cùng vợ và hai con trai nhỏ (bác sĩ Vận và vợ là y sĩ, họ có trách

nhiệm lo sức khỏe cho mọi người cùng đi); một người hoa tiêu cùng gia đình; ông

tài công cùng ba gia đình chúng tôi. Thế nhưng, khi được đưa vào thuyền lớn, một

nhóm người đông hơn cả số đóng tiền, ém sẵn trước ở đấy, nhân lúc lộn xộn, cùng

lên tàu. Thế là con tàu phải chở tới 126 người, lớn, bé, già, trẻ. Từ các tai mắt ở

khu vực cho đến lực lượng thường xuất hiện ngoài “bến bãi” đều được “lo bao”, lại

đi vào dịp cận Tết, nên việc khởi hành diễn ra suôn sẻ”.

Ngô Hồng Ngọc kể tiếp: “Hai chị em tôi được mẹ đưa cho một túi sâm cắt lát với

lời dặn, lúc khát và mệt thì lấy ra ngậm. Mẹ cũng may lẫn trong gấu áo, gấu quần

tôi 1 số tiền đô la Mỹ, trên tay đeo bốn nhẫn nhỏ loại một chỉ, với hi vọng khi tới

đảo có thể dùng liên lạc về cho bố mẹ. Xuống thuyền, đàn bà và trẻ em được đưa

vào dưới boong, chúng tôi nằm chen chúc lên những thanh gỗ đan vào nhau quét

đầy nhựa đường. Mỗi đợt sóng đánh, ruột gan ai nấy quặn lên và ói. Em gái nhỏ của

tôi đói và khát, những miếng sâm nhỏ mẹ cho chúng tôi đã nhấm hết mà vẫn

không hết mệt. Anh Lê, một người bạn của gia đình tôi, phải đi ‘ngoại giao’ để

mang về từng bát nước cháo cho chúng tôi chia nhau. Ngày thứ ba trên biển, lâu

lâu anh Lê dìu hai chị em tôi lên boong để hít thở chút ít rồi phải quay lại hầm tàu”.

Ngày thứ tư, thuyền bị cháy máy do tài công ngủ quên, cậu con trai châm nhớt

không kịp. Một người em họ của Ngô Hồng Ngọc, Ngô Quang Hưng313, năm ấy mới

hơn mười tuổi, nhớ lại: “Trong mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, mọi người cố lấy

chăn mền căng ra làm buồm, cố ra được ngoài hải phận quốc tế. Có những đêm,

nhìn thấy đèn tàu lớn ở phía xa, mọi người kêu gào, dùng đèn pin đánh tín hiệu

SOS kêu cứu nhưng tàu lớn vẫn không vào. Có hôm, thấy máy bay bay ngang đầu,

lại hò hét, lại hy vọng. Một chị đi tiểu trong cái ‘toilet’ được khoanh bằng một tấm

bạt sát bên mạn thuyền, bị sóng đập rơi xuống biển… Cứ đêm đến là lại nghe tiếng

sóng dập hòa lẫn với những lời cầu nguyện”. Theo Hồng Ngọc: “Thuyền càng lắc

mạnh tôi càng nắm chặt tay em gái, chúng tôi chỉ muốn sống chết có nhau. Xung

quanh, con gọi cha mẹ, vợ kêu chồng… Không ai còn hy vọng tới bến bờ tự do mà

chỉ còn hy vọng sống”.

Cuối cùng, mọi người thở phào khi nhìn thấy đảo. Nhưng khi con thuyền dạt vào

cách đảo chừng 300m thì bị đâm vào đá ngầm, thủng đáy. Mọi người bò hết lên

boong. Dân đánh cá và một số người bơi giỏi thì nhảy xuống để bơi vào bờ thoát

thân. Ngô Quang Hưng kể: “Khi nhảy xuống, bác sỹ Vận bị bánh lái tàu đập vào

đầu, chết. Cái chị đi toilet rơi xuống biển đêm trước, khi ở ngoài khơi thì cứu được,

lần này lại bị chết khi cố bơi vào bờ”. Theo Ngô Hồng Ngọc: “Hai mươi lăm người,

cả nam lẫn nữ bị đập mạnh vào đá và bị sóng dập, chết ngay trước mắt chúng tôi:

đàn ông nằm sấp, đàn bà nằm ngửa, xác họ nổi lên chỉ sau hai ba phút”.

Con thuyền từ từ chìm. Một số người nhanh trí, lấy dây buộc vào các mỏm đá để

phụ nữ, trẻ em bám vào, từng bước leo qua từng phiến đá lớn, quanh những xác

chết. Thêm một số người chết do sóng đánh mắc kẹt vào kẽ đá. Ngô Hồng Ngọc kể:

“Chừng một giờ sau, một đợt sóng lớn ập tới, từ đảo nhìn ra, thuyền của chúng tôi

vỡ vụn thành những tấm gỗ mỏng trôi lênh đênh, cùng với xác người và một vùng

loang của máu”. Theo Ngô Quang Hưng: “Một ấn tượng cực kỳ khó quên là trên bờ

có cơ man nào là dép Lào. Và nhiều mảnh gỗ không biết từ đâu dạt đến”. Ngọc nói:

“Có lẽ, không chỉ thuyền của chúng tôi lâm vào cảnh ngộ này”.

Điều ám ảnh những người sống sót nhất, theo Ngô Quang Hưng: ““Khi các

thuyền nhân đang đấu tranh với sóng, đá ngầm, bánh lái, để tìm cách lên bờ thì

cũng là lúc thủy triều đang dâng. Cái mỏm đá mà chiếc ghe kẹt lại càng lúc càng xa

bờ, chìm dần xuống. Không hiểu thế nào mà còn một cậu bé đứng trên mỏm đá đó

khi những người còn sống sót đã lên hết trên bờ. Sóng thì quá mạnh. Vách đá dựng

đứng. Ba bốn ngày đói khát. Khát khủng khiếp! Không ai có khả năng bơi ngược lại

mỏm đá càng lúc càng xa bờ. Tất cả thẫn thờ đứng nhìn. Những cái xác bồng bềnh.

Đàn ông sấp. Đàn bà ngửa. Biển ngập dần lên mỏm đá mà cậu bé đứng, lúc này chỉ

còn là một cái chấm ngọ nguậy. Mọi thứ biến mất như chưa từng tồn tại trên đời:

cái ghe, mỏm đá, cậu bé. Đoàn thuyền nhân quay lưng trèo lên đỉnh núi trước khi

mặt trời lặn”.

Gia đình Ngô Hồng Ngọc và gia đình người tài công may mắn còn nguyên vẹn.

Vách núi, về sau mọi người mới biết là hòn Bảy Cạnh, dốc đứng, nhưng mọi người

vẫn cố gắng trèo lên vì nước thủy triều. Ngô Hồng Ngọc nói: “Chúng tôi nắm tay

nhau cho qua cơn đói khát… Đau buồn nhất là gia đình bác sĩ Vận, ông chết trước

mắt vợ con. Người vợ của ông giờ đó đã trở thành góa phụ lại bị gãy chân. Chị

Thảo, em gái bác sĩ Vận, vừa dìu chị dâu vừa lo kéo hai thằng cháu nhỏ. Chúng vừa

nhớ bố vừa đói khát, chốc chốc lại kêu: ‘Bố ơi! Con đói quá. Bố ơi! Con lạnh quá’.

Tối như đêm ba mươi. Không mấy ai để ý đến thời khắc giao thừa. Chúng tôi chỉ đợi

trời sáng để leo qua đỉnh núi, hy vọng ở phía bên kia có người”.

Nhưng ở phía bên kia vẫn chỉ là đảo hoang. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi bẻ

củi, chất thành đống lớn, đợi trời tối để sưởi cho bớt lạnh và hi vọng tàu đi ngoài xa

có thể nhìn thấy và tới cứu. Thêm một đêm ngóng trông. Khi đống lửa đã sắp tàn

thì nghe có tiếng ca nô chạy vào bờ, tiếng súng bắn và sau đó tiếng loa phóng

thanh: ‘Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam… Công an nhân dân Côn Đảo… Yêu

cầu bỏ vũ khí…đầu hàng!’. Vẫn là ‘Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam’. Không gì

có thể làm chúng tôi đau đớn hơn. Sáng mùng Ba Tết, chúng tôi được một xà lan

lớn đưa ra biển và đưa vào núi lớn Côn Đảo”.

Theo Hồng Ngọc: “Từ hôm đó chúng tôi được phát mỗi người hai bộ quần áo tù

màu ghi đậm, vải thô xù xì rồi được đưa vào trong một phòng giam lớn, hai bên có

hai bệ bê tông dài, ở giữa là lối đi. Chúng tôi nằm xếp lớp trên đó, không chăn,

không gối. Hàng ngày, được phát hai lần cơm, lâu lâu mới có muối mè hay rau luộc.

Sau giờ điểm danh sáng, cửa phòng mở, chúng tôi được đi lại, tắm rửa, hay lòng

vòng quanh mấy hàng hiên. Một số người sẽ được gọi đi ‘làm việc’. Đối diện với trại

nữ là khu trại nam. Các tù nhân nam bị nhốt trong nhà, trừ những giờ ra ngoài đi

lao động, trồng rau hay dọn vệ sinh. Khi chúng tôi tới, Côn Đảo không còn tù chính

trị. Những người đang ở đây, phần lớn là dân vượt biên, những người bị giữ lâu nhất

thường là dân ‘có tóc’ như chủ ghe, tài công”.

Các thuyền nhân bị giữ ở Côn Đảo bốn tuần thì được đưa lên một xà lan lớn, chở

vào trại giam Cỏ May, Vũng Tàu. Khác với Côn Đảo, trại giam Cỏ May giam đủ loại

tù, tù chính trị hạng nặng bị nhốt riêng. Hồng Ngọc bị nhốt chung với các nữ tù

chính trị và hình sự. Ngọc kể: “Trong phòng, có người tên là Dì Ba, nghe đâu từng

làm sĩ quan tâm lý chiến thời Việt Nam Cộng Hòa, đã vượt biên sáu lần, cả sáu lần

đều vô khám”. Ngọc bị giam bảy tháng ở trại Cỏ May. Một người lính hải quân Việt

Nam Cộng Hòa vì tội tổ chức vượt biên đã bị nhốt năm năm trong trại.

Năm 1985, Bộ Luật Hình sự của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lần

đầu tiên ra đời, coi vượt biên là một tội hình sự, xếp chung vào nhóm tội “xâm

phạm an ninh quốc gia”. Trước đó, những người vượt biên bị bắt có thể bị giam mà

không cần xét xử hoặc bị xử theo Pháp lệnh Trừng trị các tội Phản Cách mạng do

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1967. Theo Luật sư Trương Thị Hòa,

người đã từng bào chữa cho một số bị cáo “vượt biên”, tòa áp dụng khá linh hoạt

các quy định trong Pháp lệnh 1967, tuy nhiên, phần lớn bị xử tù theo Điều 9: “Tội

trốn theo địch hoặc vì mục đích phản cách mạng mà trốn ra nước ngoài”.

Trại Gia Trung đã dạy cho Chóe những bài học dài ngày trong buồng biệt giam,

để khi vượt biên bị bắt, anh thôi không “cãi” là mình vô tội nữa. Tại trại giam Công

an Long An, anh đã rất “ngoan” nên “án” ba năm chỉ ở hai năm là được tha. Nhưng

bị bắt ngày ấy vẫn được gọi là may.

Anh Phùng Văn Vinh314 nhớ lại: “Mùa hè năm 1981, ở bãi biển Thanh Bình Đà

Nẵng, có bốn người vượt biên bị bắn chết, xác trôi vào được xếp ngay hàng trên bờ

chờ người tới nhận… Trên xác họ, đầy kín những lỗ đạn đen xỉn, ruồi vo ve bay…

Một xác là của một người thanh niên lai Mỹ với mái tóc vàng óng, nằm dài ngoằng

so với những người còn lại. Nghe đâu sau đó có ba người được thân nhân tới nhận

xác đưa về chôn, còn anh thanh niên lai Mỹ vì không có ai đến nhận, nên đã bị đưa

đi mất vì dân chúng quanh đó không chịu nổi mùi thối… Tôi nghe những người lớn

lúc đó thầm thì bàn tán, chính quyền cố tình để vậy để răn đe dân chúng trong

vùng. Chẳng là dân Đà Nẵng có tiếng về chuyện liều mạng vượt biển”. Nhưng đó

chỉ là những cái chết được nhìn thấy.

Đường tới các trại tị nạn

Trong suốt một thập niên rưỡi sau 1975, vượt biên với nhiều người miền Nam là

lối thoát duy nhất, nhưng cũng là lối thoát đắt giá nhất. Hàng nghìn người đã phải

trả bằng chính sinh mạng của mình. Hàng ngàn người khác tuy “tới được bến bờ tự

do” nhưng sự bình yên không bao giờ trở lại sau những nỗi kinh hoàng trên biển.

Ngày 24-10-1977, toán vượt biên của Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ315 bước sang ngày

thứ năm của hải trình thì xà lan bị hỏng máy. Họ phải gom hết “pông-sô” làm buồm

lái về phía Thái Lan. Hai ngày sau, thực phẩm dự trữ mang theo bắt đầu cạn. Bác

sỹ Tuệ kể: “Ban tổ chức cuộc vượt biên họp ‘mở rộng’ đưa ra ‘chính sách công xã’,

gom thực phẩm của tất cả các nhóm trên xà lan, tập trung và chia đều khẩu phần

hàng ngày. Thùng nước trên xà lan được khử trùng bằng chlorine, đun nấu ăn và

nước uống. Mỗi gói cơm sấy được nấu thành cháo chia cho gia đình mười người...

Ngày thứ mười, có bốn chiếc thuyền buôn lớn đi qua, chúng tôi đốt lửa báo hiệu,

chúng tôi vẫy tay, chúng tôi đánh cờ semaphore bằng quần áo… Nhưng những chiếc

thuyền ấy đã bỏ đi mặc dù thấy nhóm người chúng tôi bơ vơ giữa biển trên chiếc xà

lan nhỏ bé”.

Chiều ngày thứ mười một của chuyến hành trình, theo Bác sỹ Tuệ: “Biển êm

sóng lặng, chúng tôi chợt thấy một chiếc thuyền đánh cá neo lại từ phía xa chân

trời. Hy vọng lại vươn lên trong buổi chiều trên biển. Chúng tôi vẫy tay, chúng tôi la

hét, chúng tôi phất quần áo làm cờ ra hiệu nhưng không thấy những người trên

thuyền đáp ứng. Cuối cùng, sự may mắn đã đến khi lưới đánh cá của chiếc thuyền

đó trôi ngay gần chiếc xà lan! Hai người bạn trẻ tuổi, Đức và Thành, can đảm nhảy

xuống biển, bơi đến, bám chặt lưới cho đến khi các ngư phủ Thái Lan kéo cả hai lên

thuyền. Mọi người trên xà lan nhìn theo hồi hộp chờ đợi... Chiếc xà lan được những

ngư dân Thái kéo vào thành phố Pattani ở bờ Đông Thái Lan vào ban đêm. Những

ánh đèn thành phố nhìn từ ngoài biển là những ánh sáng hy vọng. Xà lan bị cô lập ở

bến Pattani. Cảnh sát lên kiểm tra, chúng tôi không chánh thức được lên đất liền,

nhưng được phép tiếp xúc với dân địa phương, được mua hàng và lần đầu tiên được

uống Coca Cola sau hai năm kể từ ngày được giải phóng”.

Toán vượt biên của bác sỹ Tuệ chỉ được ở lại Pattani hai ngày để mua thêm thực

phẩm. Sửa chữa máy xong, xà lan của họ bị tàu Thái hộ tống đưa ra biển hướng về

phía Songkhla nơi có trại tị nạn cho người Việt. Xà lan đi hai ngày, đến Songkhla,

thấy bến nhưng bị tàu tuần Thái chĩa súng đuổi ra. Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ kể tiếp:

“Một ngày sau, xà lan lại chết máy. ‘Pông sô’, áo mưa lại kết lại làm buồm, xà lan

trôi nổi bảy ngày, cuối cùng nhờ có luồng nước kéo trở lại Songkhla. Xà lan tấp bến.

Chúng tôi bồng bế nhau, già trẻ lớn bé lội xuống biển. Cùng lúc, dân Thái Lan tràn

lên quăng hành lý xuống và cướp đi luôn, máy tàu bị họ phá và giật xuống biển. Cả

đoàn phải ở ngoài bờ biển, màn trời chiếu đất, ban đêm chúng tôi đào những hố cát

để làm giường tránh gió và canh chừng cho các bà các cô, sợ dân Thái Lan hãm

hiếp. Ban ngày dân địa phương bu quanh nhìn chúng tôi bị rào bởi vòng rào dây

thừng như đi xem sở thú. Họ quăng đồ ăn, quăng trái cây vào như cho khỉ ăn. Tự

do chưa thấy chỉ thấy cướp”.

Ba ngày sau, ông tỉnh trưởng Songkhla xuất hiện với lính cận vệ. Họ dẫn theo

sáu mươi bảy thuyền nhân khác đi bằng thuyền từ Phú Quốc đến Songkhla. Chính

sách Thái lúc bấy giờ không nhận người tị nạn. Những người này bị đuổi ra bãi để

nhập chung với nhóm của Bác sỹ Tuệ. Ông Tuệ kể: “Tôi biết chút tiếng Mỹ, đứng

nói chuyện với tỉnh trưởng Songkhla xin ở lại. Tỉnh trưởng Songkhla cầm gậy chỉ

huy đánh vợ tôi đang bồng con trên tay, miệng thì la 'let’s go'. Các con của những

phụ nữ khác cũng bị giằng ra khỏi tay mẹ, ném từng đứa một lên xà lan, các bà mẹ

đành phải theo con. Lính Thái đánh anh Hải chảy máu mũi. Tôi đứng bên cạnh ông

tỉnh trưởng, nổi nóng tiến gần ngay cạnh ông ta, cận vệ sợ tôi đánh ông tỉnh

trưởng, một người vội vàng rút khẩu súng Colt lên đạn chĩa vào đầu tôi. Một trung

sĩ cận vệ tử tế, nói nhỏ: bác sĩ đừng chống cự, họ sẽ bắn ông thật đấy”.

Bác sỹ Tuệ kể tiếp: “Ở trên xà lan hơn mấy tuần, khói dầu diesel đóng lên mặt

mũi, thân thể chúng tôi đen như mọi, đầu tóc ngứa ngáy, chải thì thấy chí rận rơi

xuống. Nhiều trẻ em da bị lở loét vì nắng và dầu. Con bé Ngọc của chúng tôi, ngày

xuống xà lan ăn mặc tươm tất, quần áo đẹp đẽ tự tay bà ngoại may, khi bước ra

khỏi khoang xà lan đã thành ‘cô bé lọ lem’, quần áo dính nước sét hầm xà lan đổi

thành màu cháo lòng… Một tuần ở Narathiwat, vợ chồng tôi thân với vợ chồng một

y tá trẻ ngành quân y Thái. Biết chúng tôi sẽ phải ra đi chứ không được đưa về trại

tị nạn ở Thái Lan như chúng tôi tưởng, họ nói với tôi là họ không nghĩ chúng tôi sẽ

có thể sống sót trong cuộc hành trình sắp đến nên xin cho bé Ngọc ở lại làm con

nuôi, nếu chúng tôi may mắn đến được đất liền, qua Mỹ lúc ấy chúng tôi có thể làm

giấy tờ hội ngộ. Đề nghị tử tế và thành thật này làm chúng tôi bâng khuâng và suy

nghĩ. Em tôi, Hồng và Hiến họp lại đêm hôm ấy nói rằng: Sống chết có nhau, nay

đã đi đến đây chỉ còn một quãng đường ngắn, anh em có xui xẻo thì xui xẻo cùng.

Vợ chồng tôi đã quyết định để bàn tay Trời định đoạt”.

Ngày 19-10-1977, nhóm vượt biên của Bác sỹ Tuệ đến Trengganu, Thái Lan, sau

bốn mươi ngày lênh đênh. Cho dù có lúc sống chết chỉ còn trong gang tấc, chuyến

đi của họ được coi là may mắn. Đoàn có 168 người, gồm sáu mươi phụ nữ và sáu

mươi trẻ em, không bị nạn hải tặc, không có người bị bệnh nặng, không có người

phải bỏ xác trên biển.

Chuyến vượt biên thứ sáu cũng đã đưa Thiếu úy Phan Ngọc Vượng tới được một

trại tị nạn ở Malaysia. Nhưng trước đó, chuyến vượt biên thứ năm của ông vào cuối

năm 1978 đã bất thành dù có nhiều tình cờ may mắn. Chiếc ghe đưa họ ra khơi là

loại ghe bầu chạy trên sông Tiền, thường được gọi là ghe cà dom. Đi được ba ngày,

ba đêm thì chết máy, chiếc ghe trôi vô định ngoài hải phận quốc tế, gặp gần năm

chục chiếc tàu chạy qua mà không có một chiếc nào cứu giúp. Ngày thứ tư, vào

khoảng 5 giờ chiều, xuất hiện một chiếc tàu tên là Hegenburger, chạy gần. Ông

Vượng quyết định nhảy xuống biển bơi ra chặn đầu.

Con tàu đồ sộ kéo còi giận giữ trong mấy phút rồi thả một chiếc ca-nô cùng một

sỹ quan và ba người lính xuống. Ca-nô vừa chạm nước, viên sỹ quan rút súng, đạn

găm ngay sau lưng ông Vượng. Rồi chiếc ca-nô chạy nhanh tới, trong tích tắc, ông

Vượng được kéo lên. Viên sỹ quan hỏi: “Ông là ai?”. Ông Vượng: “Tôi là người tị nạn

Việt Nam! Còn các ông?”. Viên sỹ quan: “Chúng tôi từ Đông Đức”. Ông Vượng: “Sao

ông bắn tôi?”. Viên sỹ quan: “Ông không thấy hai con cá mập nó đang dí sau lưng

à?”.

Trước khi gặp thuyền trưởng, ông Vượng được đưa vô nhà hàng trên tàu, ông

được đặt ngồi trước một đĩa thịt bò và một lon Coca. Đó là bữa ăn ngon nhất trong

cuộc đời của ông Vượng. Những người trên tàu đã rất lịch sự nhưng không chịu đưa

những thuyền nhân đến Hong Kong. Thoạt đầu, họ đã bỏ đi, nhưng sau khi biết cơn

bão tới gần có thể nhận chìm con tàu hỏng máy chở các thuyền nhân Việt Nam, tàu

Hegenburger đã quay trở lại và sau khi thương lượng, những người vượt biên chấp

nhận quay trở vào bờ tránh bão.

Gần sáng thì họ nhìn thấy bờ biển Vũng Tàu. Thủy thủ tàu Hegenburger báo cho

chính quyền rồi quay đầu. Khoảng 5 giờ sáng, tàu công an xuất hiện. Thuyền

trưởng chiếc ghe vượt biên, nguyên là một trung úy hải quân vừa đi học tập về,

nhảy xuống biển. Ông Vượng biết, nếu bị bắt lại, những người như ông và viên

trung úy sẽ phải mục xương trong tù. Ông Vượng cũng nhảy xuống biển. Mới bơi

được mấy sải thì một thằng nhỏ trên ghe ném cho ông miếng xốp khá lớn. Chính

miếng xốp đó đã cứu mạng ông. Viên trung úy hải quân lần ấy đã không thể bơi

vào bờ.

Vài giờ sau, ông Vượng được mấy người Nga kéo lên một chiếc cano nhưng thái

độ của họ khiến ông Vượng e rằng sẽ bị giao cho công an nên khi thấy một chiếc

ghe câu nhỏ đi qua, ông Vượng gọi: “Ơi! Cứu anh!”. Hai thiếu niên trên ghe câu hỏi:

“Vượt biên à? Nhảy đi!”. Ông Vượng nhảy xuống. Ông Vượng được hai cậu bé đưa

về nhà trong một làng chài. Nghỉ ngơi, ăn uống xong, hai cậu bé đưa ông về Sài

Gòn với giá một lượng vàng. Lúc đó, đi honda không hẳn là an toàn, nhưng đi xe đò

thì chắc chắn không thoát vì công an sẽ xét, nếu không có giấy đi đường là bắt liền.

Chập tối, họ lên đường, và tới 11 giờ đêm thì về tới nhà mẹ ông Vượng ở Gò Vấp.

Bà mẹ già bật khóc: “Sao lần nào đi cũng không tới nơi vậy con?”.

Toàn bộ số người còn lại trên chiếc ghe cà dom bị đưa về Vũng Tàu, mọi người

khai hết “tội” cho Phan Ngọc Vượng. Họ bị giam giữ tại trại Cỏ May hai tháng rồi

được phóng thích. Câu chuyện Phan Ngọc Vượng một mình tổ chức vượt biên, tuy

không trót lọt, nhưng với trình độ ngoại ngữ và khả năng ứng phó trong những tình

huống hiểm nghèo khá tốt đã được dân vượt biên đồn thổi. Ông Vượng sau đó đã

được những người giàu có chi tiền đề nghị ông chủ trì một cuộc vượt biên cho gia

đình họ. Chuyến đi ấy tổng cộng bốn mươi chín người trong đó có năm người em

của ông Vượng. Khác với năm lần trước, chuyến vượt biên thứ sáu của ông may

mắn bất ngờ.

Chập tối ngày thứ tư, một tàu đánh cá Thái Lan cặp vào mạn của chiếc ghe vượt

biên. Ông Vượng kể: “Tôi kêu tất cả phụ nữ chui xuống hầm, đề phòng. Phía tàu

đánh cá cho một đại diện lên gặp thuyền trưởng nói chuyện. Vào, thấy trong phòng

ông thuyền trưởng trang trí đầy tượng Phật, tôi đã thấy mình may mắn. Ông thuyền

trưởng hỏi: ‘Các anh cần gì?’. Tôi nói: ‘Cần một ít nước uống và xin chỉ đường

giùm’. Ông cho nước uống và chè đỗ xanh, rồi hỏi: ‘Còn dầu không?’. Tôi nói: ‘Thưa

còn’. Ông chỉ tay và nói: ‘Cứ đi theo hướng này thì chiều mai mày sẽ tới Malaysia’.

Khoảng bốn giờ chiều hôm sau, chúng tôi nhìn thấy một rặng dừa”.

Thay vì được chào đón, khi chiếc ghe vượt biên tới gần bờ, điều mà họ nhìn thấy

là những họng súng đen ngòm trên tay mười hai cảnh sát mặc đồ rằn ri đang chĩa

thẳng vào những người tị nạn. Ông Vượng, khi ấy chỉ mặc một chiếc quần jeans,

quyết định nhảy xuống biển, vừa giơ hai tay, vừa đi vào. Cảnh sát quát: “Stop!”.

Ông Vượng nói: “Refugees”. Cảnh sát: “Bao nhiêu người?”. “49”. “Có vàng, đô-la

không?”. “Có”. “Ok, ra mang vàng vào đây tao cho vô”. Ông Vượng đi ra, chủ tàu

lấy năm lượng cùng một ít nữ trang đưa ông Vượng mang vào bờ. Sau khi nhận

vàng, cảnh sát nói: “Đục tàu đi rồi cho vô”.

Vào bãi, bốn mươi chín người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất. Các viên cảnh

sát thỉnh thoảng qua gặp nói đưa tiền, muốn mua gì họ mua cho. Bốn ngày sau, có

thêm một tàu của người Hoa “vượt biên bán chính thức” đến. Họ có 140 người đa số

là người Việt. Thêm một tuần lễ sau đó, 189 người phải tự xoay xở trên bãi, đào

giếng kiếm nước, lượm củi nấu ăn. Ngày thứ mười một, một người bận quân phục

sỹ quan, đầu đội nón bê rê xanh đến, gặp ông Vượng, người duy nhất biết tiếng

Anh, nói: “Tôi là người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc”. Không phải ai vượt biên

cũng có cơ hội gặp được người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc.

Ngày 27-5-1989, chỉ cần biên phòng khám xét lâu thêm vào tiếng nữa là Phạm

Thanh Tùng316 cùng chín mươi sáu người khác có thể bị đông cứng trong khoang

chứa cá. Sau một hành trình dài từ Sài Gòn về Châu Đốc giống như những người đi

vía Bà, nhóm vượt biên của Tùng lần lượt được xếp nằm trên những chiếc xuồng

chở dừa. Chủ thuyền lấy lá dừa tươi tấp lên những người vượt biên rồi chở về hướng

Bắc Mỹ Thuận. Bốn giờ sáng thì tàu cặp ghe lớn lúc đó đang neo đậu giữa dòng.

Tổng cộng chín mươi bảy người, gồm cả vợ con người chủ tàu, được xếp vô khoang

cá. Hàng chục cây đá được xếp chồng lên nhiều lớp để che. Ra tới cửa biển thì đụng

tàu biên phòng, cuộc khám xét kéo dài cho đến khi da một đứa trẻ trên tàu đã bắt

đầu tím tái. Chủ tàu cho chạy thêm khoảng một giờ, cầm chắc đã ra khỏi tầm truy

đuổi, mới huy động những thanh niên còn khỏe liệng hết đá cây xuống biển. Khi đó

nhiều người đã lịm đi vì rét cóng. Đó là chuyến vượt biên lần thứ mười một của

Phạm Thanh Tùng. Ngày 1-6-1989, con tàu của Tùng vào tới đảo Talampuru

(Philippines).

Chỉ đi sau chuyến tàu của Tùng một ngày, ngày 2-6-1989, có một chiếc tàu vượt

biên khác cũng vào gần tới đảo Talampuru. Thay vì đậu ngoài xa chờ dẫn đường,

khi thấy một cơn bão đến gần, con tàu tiến nhanh vào đảo. Tàu của họ bị kẹt vào

bãi san hô và ngay sau đó, con tàu bị sóng lớn đánh vỡ ra từng mảnh. Khi bão tan,

chỉ có năm người sống sót bơi được vào bờ. Họ nói, con tàu khởi hành với 117

người.

Ngày 7-8-1987, để tránh bị biên phòng phát hiện, ông Trần Quang Phước, một

cựu trung úy hải quân Việt Nam Cộng hòa, quyết định ra đi khi Nha Khí tượng dự

báo có bão cấp 7. Con tàu chở hai mươi bảy người trong đó có bốn người trong gia

đình ông Phước. Con trai ông, anh Trần Minh Triết kể: “Con tàu đi tới khuya thì bắt

đầu bão. Cả tàu say sóng nằm la liệt chỉ còn lại hai cha con. Ba tôi cầm lái. Đi tới

trưa hôm sau thì ra tới ngoài khơi xa. Ba tôi giao tay lái cho tôi. Lần đầu tiên tôi

nhìn thấy những con sóng tiếp nối những con sóng, cứ ập tới con thuyền nhỏ bé

như những ngọn núi. Tôi chỉ còn biết nghe lời cha tôi mà tiếp tục đi, chỉ biết trao

thân cho đại dương, lúc nào cũng có cảm giác mình sắp bị những con sóng nhấn

sâu xuống lòng biển”. Như có phép màu, chỉ bốn ngày sau, con tàu nhỏ đi tới

Malaysia. Trần Minh Triết nói: “Sau mười lăm lần vượt biên không thành kể từ năm

1982, cha con chúng tôi được đưa vào trại Sungeipesi”.

Tại trại tị nạn Sungeipesi, cuối năm 1987, Trần Minh Triết ở chung nhà với một

phụ nữ trẻ. Triết kể: “Chiều chiều, xuống cầu thang, tôi thấy chị ấy cứ nép người

vào một góc tối, khóc lên rưng rức. Chúng tôi phải để cho chị ấy khóc bởi chỉ cần

đụng vào là chị ấy hoảng lên, co rúm lại. Không ai dám hỏi han. Trên biển, chị ấy

đã bị hải tặc hiếp dâm nhiều lần”.

Khi chuyển vào trại Paulo Bidong, Triết gặp một cô gái khác trạc tuổi mình. Cô

cùng một người khác được vớt lên và được coi là hai người sống sót trên một con

tàu vượt biên bị hải tặc trên vùng biển Thái Lan. Cô gái bị hãm hiếp nhiều lần trong

khi chứng kiến anh trai mình bị chặt làm ba khúc. Trần Minh Triết kể: “Chiều nào cô

cũng rủ tôi ra biển. Nhưng chỉ khi ánh mắt chúng tôi chạm tới biển là cô lại lăn

đùng ra đất, mắt trợn ngược lên, miệng cứng lại”. Dung, tên cô gái, chỉ ở Paulo

Bidong bốn mươi lăm ngày, thay vì ở gần hàng năm như những thuyền nhân khác.

Cô được một tổ chức thiện nguyện bảo lãnh đưa đi chữa bệnh.

Ông Nguyễn Văn Mai317 kể: “Trong thập niên 1980, tôi bay đến các trại tị nạn

nhiều lần và chứng kiến hàng ngàn câu chuyện đau lòng. Ở một trại tị nạn ở Thái

Lan, tôi gặp một phụ nữ bị hải tặc cưỡng hiếp nhiều lần, khi được Hội Chữ thập đỏ

giúp chữa trị, những vết thương của chị đã mưng mủ. Mùi hôi thối lựng một góc lán.

Các bác sỹ còn phát hiện ra là chị bị dính thai. Thai đôi và không bình thường. Theo

các bác sỹ thì giữa các ngón tay của hai đứa trẻ có các màng dính, họ khuyên nên

bỏ. Người chồng là một nông dân chất phác, đã có bốn đứa con, nói: đứa nhỏ này

không có tội, ông trời định cho nó cái nghiệp ở trong vợ tôi thì không có lí do gì để

tôi phá”. Ông Mai kể tiếp: “Không ai có thể ngờ người chồng đã quyết định như thế.

Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc đã cầm mã tấu bắt anh và các con đứng xem”.

Không ai biết chắc có bao nhiêu nạn nhân của hải tặc Thái Lan trong những ngày

tháng đó. Cho đến ngày 16-4-1989, tại vùng biển Malaysia, một thuyền chở 130

người tị nạn vẫn bị hải tặc tấn công. Theo Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, sau khi

hãm hiếp phụ nữ, hải tặc đã phóng lửa đốt tàu, chỉ có một người sống sót trên

chuyến vượt biên xấu số đó318.

Tại Hội nghị Quốc tế lần II về người Tị nạn Đông Dương, tổ chức trong hai ngày

13 và 14-6-1989, UNHCR cho biết: Chỉ trong vòng từ cuối năm 1988 cho đến tháng

6-1989 đã có hai mươi tám tàu cùng 590 thuyền nhân được ghi nhận là mất tích319.

Theo số liệu của UNHCR, con số thuyền nhân Việt Nam đã từng cập bến các quốc

gia lên đến gần một triệu người: Australia 1.750 người; Macau 7.128

người; Singapore 32.000 người; Philipines 51.722 người; Thái Lan 117.321 người;

Indonesia 121.708 người; Hong Kong 195.833 người; Malaysia 254.495 người; một

số không nhiều lắm cũng dừng chân ở Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn320… Nhưng, biển

mênh mông, những gì thống kê được chưa phải là toàn bộ sự thật.

Nhiều thuyền nhân còn nhớ, tại trại Palawan, Philippines, có chiếc thuyền gỗ

được đặt trước cửa văn phòng Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc. Khi chiếc ghe này bị

tấp vào bờ, bên cạnh những xác chết trương phình, người ta thấy chỉ còn một phụ

nữ mang thai sắp đến ngày sinh. Không ai hiểu bởi phép mầu nào, bà mẹ này cho

đến lúc ấy vẫn còn thoi thóp. Bà đã sống sót cho đến khi sanh hạ đứa bé và kịp cho

biết, con thuyền khi khởi hành có tất cả năm mươi người. Không phải chuyến vượt

biên nào cũng có người sống sót để nói đến số phận của những nạn nhân còn lại.

Vĩnh viễn không ai biết có bao nhiêu người Việt Nam vượt biên trong giai đoạn từ

1975 đến đầu thập niên 1990 đã bỏ mình trên biển, bao nhiêu con tàu đã bị biển

nhận chìm, bao nhiêu con tàu đã bị hải tặc cướp và giết hết, bao nhiêu phụ nữ và

trẻ em đã bị chúng hãm hiếp.

Lịch sử thuyền nhân Việt Nam bắt đầu khép lại từ năm 1996, khi Liên Hiệp Quốc

quyết định đóng cửa các trại tị nạn trong khu vực và khi cuộc sống trong nước bắt

đầu dễ thở hơn, chấm dứt một bi kịch kéo dài suốt hai thập niên trên biển.

Chương VII: “Giải Phóng”

Nhiều người Việt đã cầm súng với niềm tin họ chiến đấu là để giải phóng miền

Nam. Trong suốt nhiều thập niên, truyền thông nhà nước đã lặp đi lặp lại điều này

như là chân lý. “Giải phóng” là cách nói để mô tả sự kiện kết thúc vào ngày 30-4-

1975. “Giải phóng” là từ không chỉ được dùng bởi những người đi từ trong các chiến

khu mà còn được nói như một phản xạ tự nhiên của không ít người dân. Có hàng

triệu người đã bỏ nước ra đi, nhưng hàng chục triệu người miền Nam vẫn chọn con

đường ở lại, rồi chính họ sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ về “giải phóng”.

Sài Gòn thay đổi

Chiều 2-5, từ trường Petrus Ký, Ban Kinh tài Thành ủy đưa nhóm ông Võ Văn

Kiệt sang “tiếp quản” nhà 222 và 224 đường Phan Thanh Giản321. Ngôi nhà này vốn

là nơi ở của tùy viên quân sự Anh. Người giúp việc cho ông tùy viên lại cũng là một

cơ sở bí mật của Cách mạng. Ông Võ Văn Kiệt tới, gia đình rất mừng, và từ hôm đó

họ trở thành “cán bộ Thành ủy”.

Lại nói về người lái chiếc xe GMC chở “đại quân” vô Sài Gòn chiều 30-4. Khi đưa

ông Kiệt tới trường Petrus Ký, Tư Thạch kêu anh lái xe quay lại đón những anh em

đi sau. Xong việc, Tư Thạch cho anh về. Tới chiều ông Kiệt hỏi: “Hai chú tài xế

chiều nay đâu?”. Anh em nói: “Ảnh về rồi”. Ông Kiệt kêu: “Có hỏi tên tuổi, nhà cửa

người ta không?”. Không ai hỏi cả.

Trong ngày hôm đó, biết bao người đã “xuống đường”, rất nhiều người trong số

họ đã làm một việc gì đó rồi trở thành “cán bộ”, lớp cán bộ về sau được gọi là “Cách

mạng 30-4”; rất nhiều người khác, sau khi “phục vụ cách mạng”, đã trở về nhà và

đã vô danh như thế.

Chiều 2-5-1975, khi tình hình đã tạm ổn định, ông Kiệt kêu Chín Anh về Bình

Thạnh kiếm gia đình ông Sáu Hoa. Gia đình ông Sáu Hoa là một cơ sở nuôi giấu

“Việt Cộng” trong nội thành từ đầu thập niên 1950. Giữa năm 1956, ông Lê Duẩn

được ông Nguyễn Văn Linh đón lên Sài Gòn và đưa về giấu trong nhà ông Sáu Hoa

gần ba tháng. Năm 1963, từ Củ Chi, ông Võ Văn Kiệt cũng vào Sài Gòn trên một

chuyến xe do Sáu Hoa lái ra đón. Cùng với nữ giao liên Sáu Trung, từ đó, theo yêu

cầu của ông Kiệt, Sáu Hoa sẽ còn đưa ông Kiệt đi lại công khai nhiều lần. Khi từ

Trung ương Cục xuống Khu IX nhận chức bí thư khu ủy, ông Kiệt đã dùng xe của

Sáu Hoa đi công khai từ Châu Đốc xuống Rạch Giá. Ông Kiệt cũng đã từng ở lại căn

nhà 99/9 Nơ Trang Lơng, Bình Thạnh của Sáu Hoa. Từ đây, một người cháu của

ông, Chín Anh, sẽ theo ông Kiệt ra “Khu”.

Chiều 1-5-1975, Chín Anh về Bình Thạnh. Chiếc U-oat322 đi tới đâu, người dân

nghiêng ngó, xầm xì tới đó, và khi nó quẹo vô hẻm 99/9, bà con ngỡ ngàng. Mấy

đứa con nhà Sáu Hoa kêu to: “Việt cộng! Việt cộng!”. Có lẽ bọn trẻ cũng không biết

đó là tiếng kêu mừng hay sợ. Cho đến lúc này, vợ chồng ông Sáu Hoa vẫn hết sức

dè dặt, cái dè dặt của người hoạt động trong lòng đối phương quá nhiều năm và đã

gặp quá nhiều bất trắc. Lúc đó, vẫn chưa có ai trong xóm biết rõ Sáu Hoa là

“Cộng”, kể cả mấy người con của ông. Nhưng lũ trẻ nhanh chóng nhận ra một trong

mấy ông đi xe là Chín Anh. Bấy giờ thì chúng mừng rỡ thật.

Chưa kịp ngồi xuống, Chín Anh nói: “Chú Sáu Dân cho gọi bác lên gặp ổng gấp”.

“Ảnh ở đâu?”, Sáu Hoa lập cập hỏi. “Thì bác thay đồ lẹ lên, sáng giờ ổng nhắc bác

hoài”, Chín Anh giục. Sáu Hoa khoác vội áo, ra xe. Tới nơi, ông Kiệt chạy ra tận

cửa, hai người ôm lấy nhau: “Mạnh hả? Hết chết rồi hả?”. Hai ngày sau, ông Kiệt về

nhà Sáu Hoa ăn bữa cơm đoàn tụ. Ông ôm từng đứa con của vợ chồng Sáu Hoa,

lòng lặng đi. Tính mạng của những thiếu niên này đã từng bị đe doạ ngay chính

trong ngôi nhà đó, trong suốt những năm ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn Linh và

ông Kiệt sống bí mật ở đây. Ông Kiệt bước tới, bước lui, lên gác, nhìn căn phòng, sờ

những đồ vật quen thuộc, những thứ đã từng che cho ông sống.

Năm 1957, trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy sang Phnom Penh và

quyết định điều ông Võ Văn Kiệt về Sài Gòn thay ông Linh làm bí thư Khu ủy. Sài

Gòn cuối năm 1958, khi ông Kiệt đặt chân trở lại, không còn bình yên. Chính quyền

Ngô Đình Diệm đánh tróc từng cơ sở của những người cộng sản. Những cấp ủy viên

mà ông Kiệt nhận bàn giao từ Phnom Penh lần lượt bị giết hoặc vô tù. Ông Kiệt

đành phải tiếp cận Sài Gòn qua ngả Gia Định. Ông nhận thấy nếu có Gia Định thì

Sài Gòn sẽ “tiến thoái” dễ hơn. Ông đề nghị sáp nhập Gia Định vào Khu ủy Sài Gòn

và được Trung ương chấp thuận.

Sau ngày 30-4-1975, trước nhu cầu sắp xếp cho hàng loạt bí thư khu ủy, tỉnh ủy

từ trong rừng ra, việc định lại địa giới hành chánh đã có nhiều bàn cãi. Theo ông

Nguyễn Thành Thơ323: “Ngày 3-5-1975, anh Mai Chí Thọ mời tôi tới truyền đạt chủ

trương tách T4324: tôi làm bí thư Sài Gòn; anh Mai Chí Thọ làm bí thư tỉnh Gia Định.

Rồi anh Mai Chí Thọ kêu tôi bàn giao hết”. Sau khi “bàn giao gần hết cho ông Mai

Chí Thọ”, ngày 5-6-1975, ông Thơ lại nhận được thư mời tới số 7 Thống Nhất325,

nghe ông Võ Văn Kiệt phổ biến chính thức: “Trung ương Cục không tán thành tách

Sài Gòn-Gia Định, vậy anh là phó bí thư Thành ủy, công việc cũ không thay đổi, nay

mai sẽ giao việc mới cho anh”.

Trong thời kỳ quân quản, ông Võ Văn Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt, đồng thời

được giới thiệu là bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Ngày 20-1-1976, Chủ tịch Hội

đồng Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát ký Quyết

định 03, thay thế Ủy ban Quân quản bằng Ủy ban Nhân dân Cách mạng, chức chủ

tịch được giao cho ông Võ Văn Kiệt; chức bí thư Thành ủy được giao cho ông

Nguyễn Văn Linh; ông Mai Chí Thọ lãnh chức phó chủ tịch Ủy ban kiêm giám đốc

Công an Thành phố.

Trong buổi lễ bàn giao tổ chức vào sáng 21-1-1976 tại Dinh Độc Lập, Thượng

tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Chúng ta đã nắm chắc tình hình trong tay, chế độ

cách mạng đã được bảo đảm vững chắc, trật tự trị an ngày càng ổn định. Thành

quả ấy đạt được nhờ… nhân dân đã thực sự tham gia xây dựng chính quyền của

mình”326.

Tháng 12-1976, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt trở thành ủy viên

dự khuyết Bộ Chính trị; ông Nguyễn Văn Linh là ủy viên chính thức, được điều về

Trung ương, chức bí thư Thành ủy giao lại cho ông Kiệt. Từ trước đó, ông Võ Văn

Kiệt thừa nhận là chính ông đã thúc đẩy việc lấy tên Chủ tịch Hồ Chí Minh chính

thức đặt cho Sài Gòn-Gia Định.

Mấy câu thơ: “Ai đi Nam Bộ / Tiền Giang, Hậu Giang / Ai về Thành phố Hồ Chí

Minh / Rực rỡ tên Vàng…”327, mà Tố Hữu viết tháng 8-1954, khi Hồ Chí Minh còn

nắm quyền, được coi là “sáng kiến thành văn” đầu tiên về việc đặt tên mới cho Sài

Gòn. Có lẽ vì Tố Hữu khi ấy không chỉ là một nhà thơ “anh cả” mà còn là trưởng

Ban Tuyên huấn Trung ương, nên ý kiến của ông gần như được mặc nhiên thừa

nhận. Lịch sử cũng không ghi nhận bất cứ một phản ứng nào từ Hồ Chí Minh. Các

văn nghệ sỹ cách mạng cũng coi đó là “vinh dự” của Sài Gòn.

Trong tuần lễ trước ngày 30-4-1975, nhạc sỹ Cao Việt Bách đã đặt tên cho một

bài hát của mình là Tiếng Hát Từ Thành Phố Mang Tên Bác. Bản Thông cáo ngày 3-

5-1975 về việc thành lập Ủy ban Quân quản cũng nói: “Thành phố Sài Gòn, thành

phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Ngày 6-5-1975, tờ Sài

Gòn Giải Phóng ra đời. Sau đó, tờ Tin Sáng, tờ báo của những người thuộc “lực

lượng thứ ba” của Sài Gòn trước 30-4-1975, trên nhiều chuyên mục cũng cho chạy

những hàng tít lớn: Thành phố Hồ Chí Minh…

Tuy nhiên, tại kỳ họp đầu tiên của quốc hội thống nhất, khai mạc tại thủ đô Hà

Nội ngày 25-6-1976, ông Trường Chinh đã không hoàn toàn đồng ý với cách đặt

vấn đề của ông Võ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt đề nghị Bộ Chính trị để Quốc hội “công

nhận Sài Gòn mang tên Thành phố Hồ Chí Minh”, ông Trường Chinh nói: “Quốc hội

không phải công nhận mà là xem xét việc đặt tên cho thành phố, vì chỉ Quốc hội

mới có thẩm quyền này”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: Đến giờ giải lao, ông vào phòng dành riêng cho chủ

tịch đoàn ở phía sau Hội trường Ba Đình, nơi có mặt Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và

Trường Chinh, phản đối: “Tại sao Quốc hội lại còn phải đặt tên cho Thành phố trong

khi chỉ là thừa nhận một sự thật lịch sử?”. Ông Trường Chinh dứt khoát: “Lịch sử

phải có văn bản, chưa có văn bản nào nói Sài Gòn đã được đổi tên”. Ông Kiệt nói:

“Lịch sử có nhiều điều không có văn bản”. Ông Trường Chinh ôn tồn: “Thường người

ta lấy tên lãnh tụ đặt cho thủ đô”. Ông Võ Văn Kiệt cãi: “Thưa anh, tên của Lênin có

phải đặt cho thủ đô đâu!”. Ông Trường Chinh vẫn kiên định: “Quốc hội vẫn phải là

cơ quan quyết định việc này”. Ông Kiệt không thể thuyết phục ông Trường Chinh,

đành đề nghị: “Nếu như các anh đưa ra Quốc hội quyết định thì các anh phải giải

trình đầy đủ quá trình Thành phố mang tên Bác”. Trước Quốc hội, ông Trường Chinh

chỉ nói rất ngắn gọn về việc đổi tên Sài Gòn.

Nhiều năm sau, ông Võ Văn Kiệt mới hiểu ông Trường Chinh lưỡng lự không chỉ

vì vấn đề thủ tục. Ông Kiệt nói: “Anh Trường Chinh muốn giữ tên Sài Gòn, một cái

tên đã được biết đến suốt gần 300 năm”. Tuy nhiên, trong suốt hàng chục năm, Hồ

Chí Minh đã được cả hệ thống chính trị suy tôn làm “Cha Già Dân Tộc”, nên khi có

người muốn lấy tên ông đặt cho Sài Gòn thì không ai dám đứng ra ngăn cản. Quốc

hội đã dễ dàng biểu quyết việc đổi tên Sài Gòn; cũng như, vào lúc 8:20 sáng ngày

2-7-1976, đã dễ dàng đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng

hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Trước đó, tháng 8-1975, một loạt đường phố ở Sài Gòn cũng đã được Tuyên

huấn Thành ủy cho đổi tên. Tên của các liệt sỹ cách mạng đã được dùng để thay

cho tên của những vua chúa, danh nhân thời “đế quốc phong kiến”: Lý Tự Trọng

thay thế Gia Long, Võ Thị Sáu thay thế Hiền Vương, Lý Chính Thắng thay cho cụ

Tam Nguyên Yên Đỗ,… Các sự kiện mà những người cộng sản đã ghi vào lịch sử

cũng được sử dụng để đổi mới các tên đường như Cách Mạng Tháng Tám, Nam Kỳ

Khởi Nghĩa, Đồng Khởi… Người dân Sài Gòn tức cảnh: “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu

Công Lý / Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do”. Những thay đổi của miền Nam, của Sài

Gòn, không chỉ ở trên những tên đường, tên phố.

Kinh tế mới

Đầu năm 1977, cậu bé Thái Cẩm Hoàng328 thấy nhà mình thường xuyên có

khách. Ông tổ trưởng tổ dân phố cùng vài cán bộ ngày nào cũng tới vận động gia

đình đi kinh tế mới. Ông nói với mẹ Hoàng: “Chị phải đi thì chồng chị mới được về

sớm”. Cha Hoàng, Đại úy Thái Tú Bình, đại đội trưởng đại đội chiến tranh chính trị

thuộc tiểu khu Quảng Nam, giờ ấy đang là tù cải tạo. Ông Bình bị bắt ngay sau

ngày 29-3-1975, ngày Đà Nẵng được “giải phóng”.

Cuối tháng 3-1975, Hoàng - năm ấy lên bảy - theo mẹ di tản vào Sài Gòn. Ở bãi

biển Đà Nẵng, Hoàng đã phải bước trên những xác chết để lên tàu. Kết thúc chiến

tranh, Chính quyền Sài Gòn yêu cầu người dân trở về quê cũ, Thái Cẩm Hoàng và

các em được mẹ đưa trở lại Hội An, mở một tiệm chạp-pô. Buôn bán khó khăn

nhưng trong thời gian đó, mẹ Hoàng còn phải bỏ tiệm đi đắp đập Phú Ninh hơn ba

tháng. Hoàng kể: “Một hôm, vừa đói, vừa nhớ mẹ quá, tôi đi bộ từ Hội An lên Đà

Nẵng tìm đến nhà dì. Cả nhà hoảng hốt đi tìm. Khi trở về, ông chú đánh cho một

trận. Đánh xong, ông ôm tôi vào lòng, khóc”.

Mẹ Hoàng hình dung được điều gì chờ đợi gia đình ở khu kinh tế mới. Nhưng đấy

không phải là lựa chọn của những người vợ lính. Hàng xóm chạy qua chạy lại,

những người có cùng hoàn cảnh chỉ biết nhìn nhau gạt nước mắt. Biết không thể

“chống chính quyền cách mạng”, trước thời điểm rời Hội An, mẹ Hoàng nhờ bà nội

qua sống cùng, hy vọng giữ lại được căn nhà. Bà nội tuổi cao, chính quyền không

thể buộc bà đi kinh tế mới.

Ngày đi, từ sáng sớm, xe ca mấy chục chiếc đậu trên đường Phan Chu Trinh, nối

đuôi nhau từ trường Bồ Đề đến sân Ty Thông tin Chiêu hồi. Thoạt đầu bọn trẻ con

rất vui vì sắp được đi chơi xa, nhưng khi thấy người lớn khóc, bọn trẻ bắt đầu hiểu

vấn đề nghiêm trọng hơn chúng tưởng. Xe chạy ba ngày hai đêm thì hết đường.

Đoàn xe ca dừng lại, chờ xe ủi, ủi đường tới đâu thì tiến vào tới đó. Chập tối, đoàn

xe dừng lại cho mọi người lấy đồ đạc rồi quay về, để lại hơn nghìn con người giữa

rừng.

Hoàng nhớ lại: “Hôm sau, các gia đình được chia đất. Từ người lớn cho tới trẻ

con đều phải đi chặt cây làm nhà”. Mấy ngày tiếp đó, một đoàn xe tải khác đến,

Chính quyền cấp cho dân kinh tế mới khẩu phần lương thực đủ ăn trong ba tháng.

Hoàng kể: “Khi biết đoàn người mới đến dựng nhà là dân miền Nam, đồng bào ở

buôn Chư Cà Ti, huyện Krongpak, Daklak, đã chủ động sang giúp. Đó là một khu

vực đêm đêm Fulro vẫn quấy phá chính quyền nhưng Fulro để yên cho người

Thượng và dân kinh tế mới. Chiều chiều, bọn trẻ vẫn cắt rừng đi lấy nước ở sông

Ana, cách đấy hàng cây số”.

Chính sách được thi hành ở mỗi địa phương thường có những điểm khác nhau.

Không phải ở đâu vợ con những người đang ở trong các trại cải tạo cũng phải đi

kinh tế mới. Nhiều địa phương coi đưa dân ra khỏi thành phố là để phân bố lại lao

động và giải tỏa những áp lực xã hội nảy sinh sau ngày 30-4-1975.

Ông Nguyễn Văn Ly, tên thường gọi là Tư Kết, năm 1975 là thư ký riêng của ông

Mai Chí Thọ329, kể: “Mỗi đêm, vào khoảng mười một giờ, tôi lại cập nhật các báo cáo

nhanh của công an và Bộ Tư lệnh Thành. Không có báo cáo nào là không nói về tình

hình người tự tử. Thỉnh thoảng, anh trai của ông Mai Chí Thọ là Tướng Đinh Đức

Thiện qua thành phố, ghé chơi. Thấy tôi loay hoay với mấy bản báo cáo, ông hỏi,

‘Tình hình sao?’. Tôi kể cho ông tình trạng nhiều người cảm thấy bế tắc dẫn đến

nạn tự tử ở Sài Gòn. Ông Đinh Đức Thiện nói: vậy là bỏ mẹ rồi, phải đưa đi kinh tế

mới mới có công ăn việc làm cho người ta, chứ không còn chết nữa”.

Không chỉ Tướng Đinh Đức Thiện nghĩ “kinh tế mới” có thể giải tỏa những bế tắc

cho người dân miền Nam. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 24, họp

từ ngày 13-8-1975, xác định: “Cấp bách nhất hiện nay là sắp xếp công ăn việc làm

cho ba triệu người. Đây là một công việc khó khăn, nhưng ta có thuận lợi lớn là có

thể mở thêm ngay vài triệu hecta canh tác đất tốt, dễ làm, nhiều vùng lại không xa

Sài Gòn lắm. Hướng sắp xếp là giảm bớt dân các thành thị, đưa 1,5 triệu đến hai

triệu người về nông thôn, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất tiểu công nghiệp

và thủ công nghiệp”.

Chỉ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 24 không lâu, ngày 14-9-1975, trong một

cuộc làm việc với khoảng bảy mươi kiến trúc sư tại hội trường Đại học Kiến Trúc Sài

Gòn, Giám đốc Sở Kiến trúc và Quản lý Nhà đất Huỳnh Kim Trương nói rằng Thành

phố sẽ đưa khoảng 1,5 triệu dân “về quê lập nghiệp”. Báo Tin Sáng ngày 16-9-

1975 dẫn lời ông Trương: “Từ đây cho tới cuối năm 1975 chúng ta còn phải giảm

bớt ba trăm ngàn dân ra khỏi Thành phố Hồ Chí Minh để đưa họ về các vùng lân

cận tham gia vào công tác sản xuất. Và đến hết năm 1976 sẽ có thêm một triệu hai

trăm ngàn dân về quê làm ăn theo đúng chương trình đã được ấn định”.

Ông Trương cho biết: “Khoảng 600 kiến trúc sư và sinh viên sắp tốt nghiệp kiến

trúc sẽ nắm giữ vai trò thiết kế các khu chỉnh trang, cũng như các loại nhà ở cho

dân chúng. Ưu tiên này nhằm phục vụ cho các giới đồng bào lao động, những gia

đình cách mạng, từ lâu đã hy sinh nhiều nhưng cho đến nay vẫn còn ăn nhờ ở

đậu”330. Ông nhấn mạnh: “Công việc của chúng ta hiện này chỉ là một cách trả ơn,

trả nghĩa cho những người đó”.

Từ những ngày cuối tháng 8-1975, chính quyền cho xe chở hàng chục nghìn dân

về quê. Tính đến đầu tháng 10-1975, có hơn 15.000 dân được đưa đi xây dựng các

vùng kinh tế mới. Người thì lên Bình Phước, Tân Phú, Tây Ninh; người thì xuống Sóc

Trăng, Kiến Tường, Vĩnh Long. Chỉ riêng tháng 10-1975, đã có “hơn 100.000 đồng

bào Thành phố lên đường xây dựng vùng kinh tế mới. Tính cả gần năm tháng sau

giải phóng, đã có gần 240.000 người phấn khởi trở về quê cũ làm ăn”331. Ngày 28-

10-1975, hội nghị mở rộng của Thường vụ Thành ủy chính thức thông qua chủ

trương “đẩy mạnh cuộc vận động chính trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân

nhằm đưa 1,5 triệu người không có công ăn việc làm đi xây dựng các vùng kinh tế

mới”.

Trước đó, theo “Bản Báo cáo về Thực trạng và Khả năng Kinh tế miền Nam”

được ông Nguyễn Văn Nam, một quan chức của Ủy ban liên lạc công thương đọc tại

“Nhà hát Tây”332 ngày 4-8-1975: “Phân bố lại lực lượng lao động trong cả nước là

yêu cầu khách quan cần thiết của đất nước”. Bản Báo cáo cho rằng: “Nền kinh tế do

Mỹ để lại chỉ là một sự phồn vinh giả tạo. Kẻ thụ hưởng chỉ là các tầng lớp tư sản

quan liêu còn đại đa số quần chúng vẫn sống một cuộc đời cơ cực, không có ngày

mai”333.

Không phải mọi người dân đi kinh tế mới đều bị ép buộc. Theo ông Nguyễn

Thành Thơ: “Anh Phạm Văn Xô phụ trách vấn đề kinh tế mới, anh Kiệt giao cho tôi

phục vụ anh Hai Xô. Nhiệm vụ của tôi là làm việc với từng địa phương để nắm các

đối tượng phải đi kinh tế mới. Tôi thấy nhiều người dân ở trong những căn nhà chật

chội, cạnh ao tù, nghèo đói. Chúng tôi vận động thì họ vui vẻ đi”. Ngay cả ông Tư

Kết, đang là thư ký riêng của một nhân vật quyền bính như ông Mai Chí Thọ, cũng

tin tưởng vào chính sách này nên đã cùng với anh trai khuyên mẹ, một “bà má

phong trào”, bán căn nhà của bà ở Bùi Viện, Quận 1 để đi kinh tế mới. Các quận

đoàn lúc ấy đã cử đoàn viên thanh niên, tiên phong phát hoang, mở đường, làm

nhà, lập các làng mới trước khi đưa bà con lên.

Theo ông Nguyễn Thành Thơ, nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để

sống ba tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người

dân trước đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy hay

buôn bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn. Ông Nguyễn

Thành Thơ thừa nhận, ăn hết tiền, hết gạo do Nhà nước cấp, nhiều người dân lục

tục bỏ về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ

những người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không còn, do đã bán đi trước đó

hoặc do bị coi là nhà “vắng chủ” đã bị “Cách mạng 30-4” nhảy vào “chốt” mất.

Không phải khu kinh tế mới nào cũng cho dân quay trở về thành phố một cách

dễ dàng. Mỗi khi người dân trong vùng kinh tế mới Krongpak, Daklak, muốn về

thăm quê đều phải cắt rừng đi từ nửa đêm. Mỗi gia đình chỉ đi mỗi lần một hai

người để tránh bị chính quyền để ý. Có rất ít người nghĩ tới việc bám trụ lại, nhưng

những người vợ lính vẫn lo sợ, nếu trốn, chồng mình sẽ không sớm được về. Gần

một năm sau, khi tình hình có vẻ yên yên, mẹ của Thái Cẩm Hoàng mới lén gửi

Hoàng về Hội An đi học. Nhưng ngay trong năm kế tiếp, khi về thăm lại Hội An lần

đầu tiên, mẹ Hoàng đưa hai đứa em về và mang Hoàng lên để chính quyền trên khu

kinh tế mới khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, bà mới dám gửi Hoàng về lại.

Tháng 4-1979, ông Thái Tú Bình được tha. Ông viết thư nhắn vợ bỏ khu kinh tế

mới về, dự định sẽ đưa cả nhà vượt biên theo Phương án II. Bức thư ông Bình gửi

vợ ở khu kinh tế mới mà cứ như đang ở trong chiến khu: “Con ở trên đó ráng xây

dựng kinh tế mới, để chồng con sớm được về. Trong xóm có ông Giới đã được về rồi

con ạ”. Mẹ Hoàng nhận thơ, rơi nước mắt vì nhận ra nét chữ chồng mình. Giới cũng

là tên ông Thái Tú Bình mà chỉ người trong nhà mới biết. Bốn tháng sau mẹ Hoàng

mới bế được cậu em út về gặp cha sau khi tìm cách gửi một đứa con, một đứa cháu

về trước. Khi ấy, Phương án II đã bị cắt.

Một lượng lớn người dân thuộc diện “hồi hương” hoặc đi kinh tế mới sau đó đã

quay trở về Thành phố. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1975-1980, vẫn còn hơn

700.000 người dân đã từng sống ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975 không có cơ hội

quay lại Sài Gòn sau khi bị buộc “hồi hương” hoặc bị đưa đi kinh tế mới334. Từ 1976-

1995, có gần 4,5 triệu người từ các địa phương trên cả nước được đưa đi xây dựng

vùng kinh tế mới335.

Đốt sách

Năm 1953, khi từ Việt Bắc trở về, ông Võ Văn Kiệt được phân công trở lại Bạc

Liêu làm phó bí thư Tỉnh ủy, bí thư là ông Ung Văn Khiêm. Cũng trong những ngày

đó, ông Kiệt đã cùng với các đồng chí của mình xây dựng một “xã hội lý tưởng”

trong “vùng giải phóng”: Cách mạng cấp hàng trăm nghìn héc-ta đất cho nông dân,

xoá bỏ chế độ tô tức của địa chủ, phát triển các mặt chính trị, văn hóa, y tế, giáo

dục. Ông Kiệt nhớ lại: “An ninh tuyệt vời, nhà không phải khóa, vườn không phải

rào; vệ sinh từ nhà ở đến xóm ấp đều sạch sẽ; dân chúng hát những bài ca cách

mạng, xem văn công cách mạng”.

Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, vào năm 1975, ông cũng mong muốn xây dựng ở

Sài Gòn “một xã hội lành mạnh” như ông đã từng làm ở Bạc Liêu. Như nhiều địa

phương lúc bấy giờ, một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền quân quản

Sài Gòn ra tay là “chiến dịch quét sạch những tàn dư văn hoá phản động và đồi

truỵ”. Thành đoàn Thanh niên Cộng sản đã đứng ra thực hiện chiến dịch này.

Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến

dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to

nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe

phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung

kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng

bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4

Duy Tân. Đoàn diễu hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều

có một tấm biểu ngữ trên tay…”336.

Người dân đã đổ xô ra hai bên đường xem rất đông. “Bản hiệu triệu” mà “đoàn

diễu hành” đã dùng loa phóng thanh phát oang oang, có đoạn: “Mỹ đã cút, ngụy đã

nhào, Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng… Tuy vậy, còn rất nhiều khó khăn phải

khắc phục. Dù đế quốc Mỹ đã nhục nhã rút lui, bọn Ngụy quyền và tay sai đã tan

rã, nhưng sau hơn hai mươi năm cai trị, chúng đã để lại một xã hội băng hoại, sa

đoạ, đầy rẫy người ăn xin, cao bồi, gái điếm, nghiện ngập; một nền kinh tế ăn bám,

thiếu sản xuất; một nền văn hoá nô dịch, mất gốc, đồi truỵ, phản động. Cùng với

sự xâm lăng bằng súng đạn, xâm lăng kinh tế, chúng nó đã cho xâm nhập hàng

loạt sách báo, phim ảnh dâm ô, cổ động chủ nghĩa khoái lạc vật chất, xô đẩy thanh

niên vào hố sâu tội lỗi. Bọn tay sai bán nước, trí thức vong bản đã đầu độc quần

chúng, thanh niên, học sinh sinh viên bằng những tư tưởng phản động, ru ngủ,

bưng bít lịch sử, chống lại Cách mạng. Đứng trước những tàn dư do Mỹ Thiệu để lại,

đứng trước yêu cầu của Cách mạng nhằm tạo dựng một nền sống mới, một con

người mới từ suy nghĩ tới hành động, nhiệm vụ của đồng bào và thanh niên ta hiện

nay là tẩy xoá tận gốc rễ nền văn hoá nô dịch mất gốc, đồi trụy, phản động để thay

thế vào đó một nền văn hoá dân tộc, cách mạng và lành mạnh...”337.

Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ

binh, “đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách

báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày

bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên

đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc

biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài

Gòn 3 đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn

cuốn sách các loại”338.

Ông Võ Văn Kiệt nhìn nhận, ngay từ ngày 28-5-1975, Quân quản đã cảnh báo

thanh niên, sinh viên học sinh: “Chúng ta không bao giờ chủ trương đốt sách”, và

nói rõ “Chiến dịch chỉ thu hồi các sách báo mang nội dung đồi trụy, đầu độc tinh

thần thanh thiếu niên, bóp méo xuyên tạc cuộc chiến dành độc lập tự do của dân

tộc”. Tuy nhiên, trong một không khí hết sức cách mạng được lãnh đạo bởi người

mới từ trong rừng ra, sự “nhầm lẫn”, sự “quá tay” là không tránh khỏi. Các đội

“thanh niên xung kích” nhiều khi đã không cần phân biệt những sách y học có vẽ cơ

thể người với những tranh ảnh khỏa thân khiêu dâm, không phân biệt sách triết học

với sách chống cộng. Nhiều trí thức đã tìm gặp ông Kiệt để phản ánh tình hình,

nhưng, như ông Kiệt nhìn nhận: “Cả tôi và chính quyền đã phải mất khá lâu mới

nhận ra những sai lầm đó”339.

Điều khó khăn theo ông Dương Đình Thảo, giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, là

làm sao để xác định như thế nào là một văn hoá phẩm xấu. Một cơ quan tuyển

chọn đánh giá văn hóa phẩm sau đó đã được ông Võ Văn Kiệt cho thành lập. Tuy

nhiên, trước khi có những đánh giá cẩn trọng, các nhà báo cách mạng đã thỏa sức

đưa ra các tiêu chí của mình.

Tư Cua, một cây viết “cà rỡn” trên mục Sài Gòn Đó Đây của báo Sài Gòn Giải

Phóng đã mượn chuyên mục của mình để “tuyên ngôn” nhiều giá trị văn hóa đậm

màu quân quản: “Một đồng bào và cũng là độc giả của báo Sài Gòn Giải Phóng đến

toà soạn than thở: Trên một chuyến xe buýt Sài Gòn - Lăng Cha Cả, ngày 29-5,

chiếc xe mang số EG 6198, đồng bào rất bực mình vì phải nghe chủ xe mở băng

nhạc gồm những bản nhạc rã rời, rên rỉ, dã dượi như người mất hồn: “Khi biết em

mang kiếp cầm ca / Đêm đêm phòng trà / Mang tiếng hát cho mọi người”. Độc giả

này than phiền rằng giữa lúc mọi người đang phấn khởi xây dựng một xã hội mới

mà ông chủ xe buýt lại cho đồng bào nghe những thứ mà hồi Mỹ-Ngụy chúng nó

dùng để ru ngủ tuổi trẻ, như thế có phải là trật đường rầy không?... Thời buổi này

làm chi còn có cái “kiếp cầm ca”, còn đâu có “đêm đêm phòng trà”, làm chi có

chuyện “chỉ còn anh thôi, chỉ còn em thôi”… Bây giờ là lúc ta có tất cả, còn tất cả,

chớ đâu có cái lạc lõng bơ vơ, sờ soạng “chỉ còn anh, chỉ còn em" như thế”340.

Tư Cua còn định nghĩa về “sách xấu”: “Nghe nói, trong đám sách ngổn ngang

đó, có những tác giả nay đã phủ nhận quê hương, xa lìa dân tộc, chuồn ra ngoại

quốc, làm nô lệ đi xin cơm, xin áo ở xứ người! Họ biết không nhỉ! Nghe nói, trong

số đám sách ngổn ngang đó, có những cuốn sách đã ru ngủ họ trong suốt hai mươi

mốt năm dài chiến tranh và mất nước, ngược lại đã đánh thức những “con heo”

trong lòng họ dậy và đã biến cả Sài Gòn thành một “ổ điếm khổng lồ”341.

Ngày 30-10-1975, trên báo Sài Gòn Giải Phóng, chính quyền công bố một danh

sách năm mươi sáu tác giả có tác phẩm bị liệt vào hàng “phản động, dâm ô, đầu

độc”, bị cấm lưu hành, trong đó có Hoàng Ngọc Liên, Hà Huyền Chi, Phan Nghị, Võ

Hữu Hạnh, Nguyên Vũ, Lê Xuyên, Nhã Ca, Văn Quang, Chu Tử, Doãn Quốc Sĩ,

Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu.… Nhưng, ngay khi những cuốn

sách đầu tiên bắt đầu được đốt ngoài đường bởi Thành đoàn, cũng như nhiều chủ

nhà sách khác, chủ nhà xuất bản Cảo Thơm, ông bà Hồ Hải Trần Thế Nam342, đã

họp với cộng sự của ông là gia đình ông bà Nguyễn Đức Phong, bàn việc xử lý kho

sách lưu trữ của Cảo Thơm.

Trước năm 1954, ông Hồ Hải đã từng có một tiệm sách ở Bờ Hồ. Khi rời Hà Nội

di cư vào Sài Gòn, ông cho xuất bản Vang Bóng Một Thời, tập sách được coi là đẹp

nhất thời bấy giờ. Chính quyền Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm lúc đầu cấm vì tác giả

của nó, nhà văn Nguyễn Tuân, đang sống ở Hà Nội, nhưng bộ máy kiểm duyệt sau

đó đã chấp nhận. Cuối thập niên 1960, ông Trần Thế Nam cùng với ông Nguyễn

Đức Phong thành lập nhà xuất bản Cảo Thơm. Do ông Phong đang là công chức nên

ông Trần Thế Nam đứng tên.

Ngay sau khi quân Giải phóng vào Sài Gòn, cũng như các cơ sở in ấn khác, nhà

in số 326/20 Võ Di Nguy343 của Cảo Thơm bị chính quyền Quân quản quản lý. Số

sách vở để bên nhà 326/18 bắt đầu được phân ra: Những tập sách khảo cứu của

Nguyễn Hiến Lê, sách Lịch sử Triết học Đông phương của Giản Chi, thơ Nguyễn

Nhược Pháp, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân… thì được chia nhỏ, giao cho

người già, trẻ em mang đi giấu hoặc gửi ở nhà người quen344. Những sách “thị

trường” khác thì Cảo Thơm huy động toàn bộ nhân lực trong hai gia đình, xé ra rồi

âm thầm bán cho các bà đồng nát345.

Cạo râu

Từ “văn hóa phẩm”, Cách mạng muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của

người dân. Tháng 10-1975, đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai

căng” bắt đầu được triển khai. Ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở

nhiều cuộc thảo luận về “tư cách tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đã

đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo

hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đã liên hệ với một số tiệm hớt

tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và

mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”346.

Khi tường thuật một “phiên tòa quân sự”, trước khi nói rõ tội trạng của các bị

cáo, báo chí đã dành nhiều dòng để bày tỏ thái độ của Chính quyền Cách mạng về

lối sống: “Lúc ấy là 13 giờ15 ngày 23-12-1975. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía

vành móng ngựa khi Thượng tá Chánh thẩm truyền đưa hai can phạm vào. Cả hai

đều để tóc dài phủ gáy, đều rất trẻ nhưng vẻ mặt hiện rõ nét ăn chơi, trác táng.

Tên mặc áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần, không cài nút cổ, là Đặng Vũ Trường, sinh

viên năm thứ nhất. Tên mặc áo đen nâu phủ ngoài một chiếc áo sơ mi vàng sậm là

Nguyễn Đắc Hy, quê quán ở An Cựu Đông, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Cả

hai đều bị bắt quả tang vào lúc 17 giờ 30 ngày 21-12-1975, ngay sau khi chúng nổ

sáu phát súng vào người anh Nghiêm Mạnh Chu để đoạt chiếc Honda-50 kiểu

nữ”347.

Chuyện “hớt tóc ngắn, sửa quần ống loe” không chỉ do những phong trào tự

phát của “Cách mạng 30-4”. Ngay từ ngày 3-5-1975, Ban Bí thư đã có Điện số 610:

“Gửi: Trung ương Cục, anh Sáu, anh Bảy - Bộ Chính trị trao đổi ý kiến thấy rằng

trong điều kiện ta thắng to và nhanh, gọn, thế ta mạnh, cho nên càng sớm ổn định

mọi mặt càng tốt. Đối với quần chúng cơ bản phải giải thích chính sách, ổn định tư

tưởng, làm cho họ tích cực hồ hởi tham gia bảo đảm trận tự an ninh… Đối với báo

chí, nên có chủ trương rộng rãi, có cách lãnh đạo thích hợp, như vậy có lợi cho ta

trên mặt trận dư luận rộng rãi. Đối với cách ăn mặc của dân, không nên dùng mệnh

lệnh cấm đoán, làm phiền phức cho dân mà nên dùng giải thích thuyết phục,

khuyên bảo để tránh những kiểu ăn mặc càn quấy, không để dân lầm lẫn rằng ta

chống việc ăn mặc đẹp. (Lê Văn) Lương”.

Có những người dân Sài Gòn, khi thấy “quân Giải phóng” tràn về đã nhuộn đen

quần áo của các thành viên trong gia đình. Trong những show diễn hiếm hoi sau

ngày 30-4-1975, nhiều nghệ sỹ Sài Gòn lên sân khấu mà không dám trang điểm.

Nhiều người nghĩ một cách chân thành, Cách mạng về là không còn son phấn và

giày cao gót. Nhưng những thứ quần áo mà công điện của Ban Bí thư gọi là “lai

căng” đó chỉ một thời gian ngắn sau lại trở thành sự thèm khát của những thanh

niên “lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”.

Khi chiến tranh chưa kết thúc, ít có thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo

quần, chủ yếu bằng vải sợi xanh; ít có cô gái nào có được cái quần lụa và chiếc áo

“Hong Kong” bằng vải “phin”. Sau ngày 30-4-1975, khi những cán bộ miền Nam

tập kết được lần lượt về thăm quê, một số bộ đội cũng bắt đầu được xuất ngũ hoặc

về phép thăm nhà. Trong cuộc họp ngày 16-6-1975, Ban Bí thư đã cho “một số ý

kiến” bổ sung Chỉ thị 181 của thủ tướng, theo đó: “Việc kiểm soát sự ra vào vùng

mới giải phóng cần được tăng cường chặt chẽ nhằm thỏa mãn yêu cầu của cán bộ

và nhân dân đi lại thăm viếng gia đình ở miền Nam, nhưng đồng thời để phòng bọn

xấu lợi dụng cơ hội để buôn lậu và phá rối trị an. Việc mang theo hàng hóa từ miền

Nam ra miền Bắc phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn cấm bọn buôn lậu đầu cơ;

nhưng mặt khác, đối với cán bộ và nhân dân cần có những quy định rõ ràng cho

phép họ được mua sắm và mang theo một số đồ dùng riêng cho bản thân họ, tránh

tình trạng bắt giữ lung tung, gây căng thẳng không cần thiết”. Tuy nhiên, miền Bắc

lúc đó đã phải rất vất vả để chống lại những biểu hiện “văn hóa lai căng” không chỉ

lây lan từ miền Nam348.

Ngay tại Sài Gòn, những người vừa được “giải phóng” đã biết dùng những biểu

tượng của chế độ làm thơ ta thán về sự bất bình thường của Chế độ: “Các-mác

(Karl Marx) mà đến Việt Nam / Râu dài róc rậm công an bắt liền / Các-mác cầu cứu

Ăng-ghen (Angel) / Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu / Truyền cho bốn biển

năm châu / (Đến Việt Nam thì nhớ) Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin (Lenin)349”.

Lúc đầu ông Võ Văn Kiệt cũng không hiểu tại sao người dân Sài Gòn lại không

ủng hộ Cách mạng bảo vệ “thuần phong mỹ tục”. Tuy nhiên, vốn là một nhà lãnh

đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng

biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Võ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe được

thanh niên nói thật.

Báo Tuổi Trẻ liền cho mời thanh niên thuộc các thành phần khác nhau, những

người đã bị cưỡng bức cắt tóc, cắt quần, đến phòng họp của báo. Trước đó, ông Võ

Văn Kiệt và Thư ký Nguyễn Văn Huấn đã đến sớm, ngồi “buông rèm” phía sau lắng

nghe.

Những bức xúc, dồn nén đã được các thanh niên Sài Gòn nói ra. Họ không biết

một ông “Việt Cộng gộc” cũng đang “tâm trạng” lắm khi nghe họ nói. Theo ông Võ

Như Lanh, khi những thanh niên này về hết, kéo rèm ra, thấy ông Võ Văn Kiệt ngồi

lặng, mặt rất đăm chiêu. Khi ấy, chưa phải là ông Kiệt đã đồng ý hoàn toàn với

những “đòi hỏi” của thanh niên, nhưng ông nhận ra ngay là các giá trị văn hóa

không thể được ứng xử bằng những đám đông nồng nhiệt.

Không chỉ có trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, trên nhiều mặt của đời sống,

người dân miền Nam chỉ mong có được những điều kiện sống mà họ đã có trước khi

được những người anh em “giải phóng”. Ngay từ cuối thập niên 1960, trong khi ở

miền Bắc xe đạp cũng rất hiếm người có mà đi, ở miền Nam người dân đã có thể sở

hữu ô tô, còn xe máy hai bánh thì tới đầu thập niên 1970 đã trở thành phương tiện

giao thông cá nhân phổ biến350.

Trước khi “được giải phóng”, xăng dầu phục vụ cho các loại xe có động cơ lúc

nào cũng sẵn sàng. Nhưng, để thi hành Nghị định 18 của Chính phủ, ngày 12-9-

1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định đã ra thông cáo về việc “cấm tồn trữ và

bán xăng dầu trên thị trường tự do”. Cùng ngày, Tổng cục Vật tư ra thông báo yêu

cầu đến hết ngày 18-9-1975, những ai đang tồn trữ xăng dầu đều phải khai báo và

tự bảo quản cho đến ngày 19-9-1975, ngày nhà nước trưng mua toàn bộ xăng dầu.

Sau ngày đó, “tư nhân mua bán, đổi chác hoặc tồn trữ xăng dầu bị coi là phạm

pháp”351.

Bắt đầu ngày 29-12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem

phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đình, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước,

giấy giới thiệu của cơ quan hiện đang công tác, mang theo tiền lệ phí mỗi phiếu

0,04 đồng” để đăng ký lấy phiếu cung cấp xăng”.

Chính sách tập trung quản lý các nguồn nhiên liệu và độc quyền xuất nhập khẩu

vào tay nhà nước đã làm cho tình trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng.

Từ năm 1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó vì không có nhiên liệu hoặc không

có phụ tùng thay thế. Ban liên lạc công thương đã phải “hướng dẫn một số nhà tư

sản công nghiệp áp dụng nhiều sáng kiến có giá trị trong sản xuất, phục vụ đời

sống nhân dân”. Sáng kiến đáng chú ý nhất là việc “chế tạo thành công” một loại

chất lợp với giá thành hạ được đặt tên là ca-rô-đa (viết tắt tên những nguyên liệu,

vật liệu cấu tạo ra nó là cao su, rơm, đất) của một số nhà tư sản thuộc ngành chế

biến cao su và nhựa dẻo. Hợp chất này có đặc tính mềm, không bắt lửa, không hút

nóng, rất tiện dụng trong việc lợp nhà, làm mặt bàn, mặt giường352.

Đích thân Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt cũng phải lăn lộn ở những cơ sở chế biến

than quả bàng353. Các xưởng đúc gang thì tìm tòi chế tạo những lò nấu than quả

bàng bằng đất có vỏ bằng gang. Còn các nhà tư sản thuộc ngành nông lâm cơ thì

đã “cải tiến thành công” xe ô tô chạy bằng than và củi: “Bộ phận lò hơi của xe ô tô

chạy than củi có thể sử dụng cho các loại máy bơm nước, máy tàu, máy điện: Lâm

trường La Ngà, hãng kem Péc-lông đang sử dụng loại xe cải tiến này”354.

Cùng với chính sách cải tạo trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, sự khan hiếm

nhiên liệu cũng làm thay đổi địa vị con người. Hình ảnh hành khách được các lơ xe

đón tận nơi, nâng từng túi hành lý, đỡ lên những chiếc xe máy lạnh của các hãng

xe đò tư nhân Liên Hiệp, Hiệp Thành, Đông Á, Đại Nam, Phi Long, Tiến Lực từng

“chạy suốt” ra Bắc, chỉ mấy tháng sau ngày 30-4-1975 đã nhanh chóng biến mất.

Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng

ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi còn phải chịu sự hành hạ của

những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp

không có kinh phí bảo trì. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ

chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, thì ngoại trừ hai con mắt, từ đầu

đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.

Thêm nữa, không phải cứ có tiền là có thể đi lại. Từ ngày 4-1-1977, việc “đi lại

của nhân dân và cán bộ” đều phải có giấy tờ. Đi lại trong phạm vi thành phố và các

tỉnh thành phố đều phải xin phép, phải đưa giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú

và giấy căn cước hoặc giấy chứng nhận cải tạo nếu có, đến công an phường, xã

trình bày lý do xin đi sẽ được xét cấp. Người đi đến các vùng bờ biển thì phải mất

nhiều ngày và không chắc được cấp giấy đi đường vì chính quyền chống dân vượt

biên355. Trong khi đó, trên các diễn đàn, chính quyền tiếp tục ngợi ca “những giá trị

mới” mà người dân đang “được hưởng”.

“Cách mạng là đảo lộn”

Tại Sài Gòn, kể từ sau 30-4, ông Trần Bạch Đằng, với danh nghĩa là Chủ tịch Hội

Liên hiệp Thanh niên Giải phóng, thường xuyên nói chuyện tại Câu lạc bộ Thanh

niên Thành phố. Quan điểm của Trần Bạch Đằng lúc ấy đóng một vai trò quan trọng

trong việc “định hướng thẩm mỹ Cách mạng” cho người dân miền Nam.

Trong một bài phỏng vấn đăng trên Tuổi Trẻ, Trần Bạch Đằng cho rằng “không

nên có chủ trương cho thiếu nhi ca vọng cổ”. Ông nói: “Tuy vọng cổ phổ biến ở

nước ta, đặc biệt ở Nam Bộ, nhưng đối với lứa tuổi nào đó, tỷ như các em nhi đồng

và thiếu niên, thì vọng cổ chưa hẳn có lợi hoàn toàn trong mục đích giáo dục… Âm

điệu vọng cổ thường khó gây phấn chấn và nhứt là hạn chế tập thể trong khi biểu

diễn tập thể lại là hình thức biểu diễn cần khuyến khích hiên nay”356.

Theo ông Trần Bạch Đằng: “Một trong những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và

bọn tay sai” là “phủ nhận cái đẹp chân chính, cái đẹp về nội dung, cái đẹp tinh

thần” và “cổ vũ cho cái đẹp hình thức, cái đẹp giả tạo, cái đẹp vật chất đơn thuần”.

Sau khi chỉ trích các mỹ viện đua nhau ra đời theo sau sự “triển khai ồ ạt của chủ

nghĩa thực dân mới” tại miền Nam, ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Nói cho cùng,

chủ nghĩa thực dân mới mang đến cho một bộ phận thanh niên ta cái đẹp của người

nô lệ, một cái đẹp vay mượn. Muốn giữ cái đẹp kiểu đó thì phải suốt đời mất nước,

suốt đời ăn xin”. Rồi ông kêu gọi thanh niên “đi vào lao động, phát giương cái đẹp

của lao động đối với thanh niên, định lại chân lý, định lại giá trị của con người”357.

Ông Trần Bạch Đằng nhấn mạnh: “Đó là một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng

rộng lớn, sâu sắc, một sự đảo lộn và là một sự đảo lộn cần thiết”358.

Cùng thời gian đó, chính quyền cho phát hành tại Miền Nam một loạt sách báo

cách mạng như: Học Tập Và Làm Theo Gương bác Hồ Vĩ Đại; Sống Như Anh (viết về

liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi); Chuyện kể về Lý Tự Trọng, một người cộng sản chết trẻ

với câu nói được cho là của anh và được Đoàn sử dụng như là một tuyên ngôn:

“Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không còn con

đường nào khác”. Đặc biệt, cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cộng sản -

Thép Đã Tôi Thế Đấy - bắt đầu được đưa đến miền Nam. Đây là cuốn tiểu thuyết

từng được dịch ra bảy mươi thứ tiếng do nhà văn Nga Nikolai Alexeevich Ostrovsky

viết trong thời kỳ Stalin. Nhân vật chính của cuốn sách là Pavel Korchagin, được coi

là “hóa thân” của Ostrovsky.

Phương châm sống của Pavel đã được chép lại trong hàng triệu cuốn sổ tay: “Đời

người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm

tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của

mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã

hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài

người”. Thời gian đó, không ít thanh niên ngoài đời và thanh niên là nhân vật của

những tác phẩm văn học mới, mỗi khi thấy “dao động”, lại ghi vào Nhật Ký: “Đồng

chí Pavel ơi!”359.

Các đoàn nghệ thuật Cách mạng, số từ trong rừng ra, số từ ngoài Bắc vào bắt

đầu chiếm lĩnh các sân khấu Sài Gòn. Nhân dịp 2-9-1975, ngày Quốc khánh nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 1.300 diễn viên từ các đoàn nghệ thuật đã tập trung ở

Sài Gòn chuẩn bị cho những chương trình biểu diễn mới. Đặc biệt, Đoàn Văn công

Tổng cục Chính trị, Đoàn Ca Múa Quân Giải phóng, Đoàn Ca Múa Phòng Không

Không quân, Đoàn Văn Công Hải quân, Đoàn Cải lương Giải phóng, Đoàn Kịch nói

Nam Bộ, Đoàn Kịch nói Hà Nội… cũng bắt đầu đến Sài Gòn với các vở diễn như:

Tiền Tuyến Gọi, Lam Sơn Tụ Nghĩa…

Sài Gòn cũng không còn “Nỗi Buồn Hoa Phượng” với tiếng hát Thanh Tuyền;

không còn “Chuyện Một Chiếc Cầu Gãy” với Hoàng Oanh; không còn “Đêm Đông”

với Bạch Yến; không còn “Tà Áo Xanh” với Lệ Thanh; không còn được “Ngậm Ngùi”

với Lệ Thu và, cho dù đang bị kẹt lại, Thái Thanh cũng không còn được hát Phạm

Duy, Phạm Đình Chương… Chỉ những “nghệ sỹ Ngụy” được xếp vào hàng “không

chống đối cách mạng” và được Hội Văn Nghệ cho làm tự kiểm điểm mới bắt đầu

được bước lên sân khấu.

“Vua vọng cổ” Út Trà Ôn tự kiểm điểm với Cách mạng: “Tôi chỉ có một khuyết

điểm không sửa được là có 5 bà vợ; còn đối với Cách mạng thì tôi trong sạch”360.

Chỉ một thời gian ngắn sau, Út Trà Ôn liên tục “lên sóng” với bài vọng cổ có tên

“Đài Hoa Dâng Bác”. Nhờ những mối quan hệ đặc biệt, nữ nghệ sỹ Bạch Tuyết,

người từng tham gia ký tên lên trái bom mà các phi công Sài Gòn mang ném ra

miền Bắc, cũng bắt đầu được diễn trở lại. Những người không thực sự được nâng đỡ

thì chỉ có thể bước lên các sân khấu nhỏ. “Nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân lập đoàn gồm

Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Lan… bữa đói, bữa no, ngủ đình, ngủ chợ, mong

được hát nhiều hơn là kiếm miếng ăn dẫu rằng ai cũng đói”361.

Ở các rạp chiếu bóng, những phim cũ cũng biến mất, nhường chỗ cho những

phim của Liên Xô, Trung Quốc như: Bạch Mao Nữ, Cát Đỏ, Những Người Báo Thù

Không Bao Giờ Bị Bắt… Lúc đầu, người dân Sài Gòn chưa quen những loại phim này,

các rạp kêu rất dữ vì có những suất chiếu chỉ có 14-15 người xem. Người dân cũng

đã phản ứng trước một số chương trình biểu diễn của các đoàn văn công miền Bắc.

Theo Điện đề ngày 17-6-1975 của Ban Bí Thư, do “ông Lành” (Tố Hữu) ký gửi “anh

Tư Ánh” (Trần Bạch Đằng): “Về việc các đoàn văn công biểu diễn gần đây bị quấy

rối nhiều như điện anh đã báo, đề nghị các anh kiểm tra kỹ tình hình cùng cấp ủy

địa phương có biện pháp tích cực ngăn chặn những hoạt động mất trật tự, phải giáo

dục quần chúng”.

Chính quyền cũng nhận thấy không thể buộc người dân miền Nam phải “cai”

những nhu cầu tinh thần đã gắn bó với họ hàng thập kỷ. Tuy nhiên, theo giám đốc

Sở Văn hóa Thông tin Sài Gòn sau 1975, ông Dương Đình Thảo: Khi cho các nghệ

sỹ diễn lại các vở cải lương ăn khách ở miền Nam như Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu,

lập tức có phản ứng: “Thành phố đang vui vẻ đi lên thế này sao cho diễn những

tuồng rên rỉ ấy”. Nhưng khi các nghệ sỹ Sài Gòn cố gắng diễn những vở “tráng ca”,

không chỉ “dư luận” mà ở bên hành lang Quốc Hội nhiều vị khá quan trọng đã than

phiền, “Thành ủy TP HCM để cho ‘nghệ sỹ Ngụy’ đóng cả Hai Bà Trưng”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại, đấy không chỉ là sự ganh tị trong giới mà còn là nhận

thức ấu trĩ về chính trị của khá nhiều lãnh đạo. Ông đặt câu hỏi: “Ở Sài Gòn nếu đòi

hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà

Định; đóng Lenin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có

ai đi coi không?”362.

Dưới góc độ con người, những văn nghệ sỹ đến từ miền Bắc cũng có nhiều tâm

trạng. Năm 1976, nhà thơ ba mươi sáu tuổi Vũ Quần Phương363 khi từ miền Bắc vào

thấy “Cô ca sĩ Sài gòn hát bài hát Trường Sơn”, đã viết:

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn

Bài hát viết từ rừng le, rừng khộp

Năm ấy Sài Gòn lô nhô cao ốc

Em chưa biết gì về rừng khộp, rừng le

Anh lên xe trời đổ cơn mưa

Mưa chưa ướt vai em khi ấy

Rau hết rồi, măng rừng anh hái

Hái măng rừng chưa có em đi

Trường Sơn đông gánh gạo rừng khuya

Cô gái ấy gánh đi, chứ em chưa biết gánh

Thuở cô ấy ở rừng em ngồi phòng máy lạnh

Cô gái ấy không về và em hát hôm nay.

Đêm Sài Gòn đỏ rực cờ bay

Trước sân khấu, tôi ngồi nghe em hát

Em tô đỏ môi son, em kẻ xanh mi mắt

Cô gái ấy ở rừng không có gương soi

Bài hát như bàn tay còn ấm mồ hôi

Em đang vịn và đi từng hồi, từng nhịp

Những vui buồn đã xa, hôm nay em mới biết

Cô gái ấy rất hiền sẽ dắt tiếp em đi.

Ông Vũ Quần Phương thừa nhận, bài thơ này đã được hình thành ngay từ những

ngày đầu ông tới Sài Gòn, tháng 5-1975. Hôm ấy, tại Sài Gòn, có một cuộc gặp mặt

giới văn nghệ của cả hai miền. Ông Phương, phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam,

được cử đi đón nghệ sỹ Kim Cương. Nữ sỹ Kim Cương khi ấy cũng tỏ ra giản dị,

thay vì đi xe hơi riêng đã chấp nhận ngồi sau xe Honda do ông Phương chạy. Ông

Phương nói với nữ sỹ: “Chị ngồi cẩn thận bởi tôi lái xe máy chưa quen”. Nghệ sỹ

Kim Cương đùa: “Anh yên tâm, nếu tôi có bị gì mai anh xách chiếc xe ‘làm Kim

Cương té’ này ra chợ trời bán là được giá lắm”. Ông Phương hiểu sức mạnh công

chúng trong thông điệp như đùa đó của Kim Cương.

Đêm ấy, cho dù các nghệ sỹ Sài Gòn đã cố gắng ăn mặc giản dị, họ vẫn “sáng

rực” hơn so với những người từ miền Bắc vào hoặc từ trong rừng ra. Nhà thơ Vũ

Quần Phương nói: “Khi nghe cô ca sỹ hát bài ‘Mắc võng trên rừng Trường Sơn’, tôi

nhớ tới Phạm Tiến Duật, tác giả lời thơ của bài hát đó. Khi ấy Duật đang bị kiểm

điểm không biết số phận thế nào vì bài thơ Vòng Trắng. Nhưng bài thơ chỉ bật ra

khi năm 1976, trong chuyến đầu tiên sau giải phóng, các văn nghệ sỹ Việt Nam

được đi Liên Xô, người ta đã để ca sỹ Trường Sơn Tô Lan Phương ở lại lấy chỗ cho

một ca sỹ miền Nam. Tôi hiểu cử chỉ chính trị của các nhà lãnh đạo nhưng vẫn

không khỏi chạnh lòng cho những người đã hy sinh tuổi trẻ của mình. Tuy nhiên,

khi viết cái kết của bài thơ, tôi vẫn theo chuẩn mực giáo dục lúc bấy giờ, ai sớm

muộn gì rồi cũng phải đi theo con đường cách mạng”. Khi ấy, không chỉ có ông Vũ

Quần Phương nghĩ con đường “trở thành người tốt” cho các cô gái Sài Gòn là phải

được dẫn dắt bởi các “cô gái Trường Sơn”.

Lòng người

Nhanh chóng “xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động” ở miền Nam là một nỗ

lực mà những người Cách mạng tin là nhân đạo. Nhưng “đôi khi, con đường đi tới

địa ngục lại được đắp bởi những ý định tốt”364. Đã mất hàng chục năm sống trong

rừng hoặc sống trong một xã hội khép kín, bưng bít nhưng "Cách mạng" lại quá

nồng nhiệt, nôn nóng giáo dục cho những người được học hành từ những xã hội cởi

mở hơn, tiếp cận với thế giới đa dạng hơn. Niềm tin và sự nhiệt tình ấy lại được hỗ

trợ một cách đắc lực bởi quyền lực tuyệt đối của cả một bộ máy. Cách mạng càng

hăng say, càng để lại nhiều tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần cho những

người dân “trong vùng giải phóng”.

Cái khí thế quần chúng nhìn thấy trên đường phố và được tường thuật trên báo

chí nhà nước trong những ngày ấy không phải là những gì đang diễn ra trong lòng

người dân Sài Gòn, người dân miền Nam. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc, khi ấy, đang

dạy học ở trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Năm học 1976-1977, trong lớp bà có

một học sinh, khi ấy đang học lớp 10, đã khắc mấy câu thơ lên bàn học:

Không muốn ngồi yên để đợi trông

Thích làm Từ Hải giữa muôn lòng.

Cộng lại những gì trong quá khứ,

Sản khoái trong lòng thoả ước mong

Theo bà thì không phải là học sinh này đã viết sai lỗi chính tả chữ “sảng” thành

chữ “sản” mà học sinh ấy có ý định ghép bốn từ đầu ở các câu lại thành cụm từ:

không thích cộng sản. Thái độ ấy có lẽ đã qua mấy năm tích tụ, nhưng hành động

viết ra thì chỉ là một phút bốc đồng. Có người đã báo cáo và học sinh đó đã bị bắt,

bị điều tra và bị đuổi học. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể: “Tôi và một cô giáo đồng

nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đã cố hết sức giúp em. Hai chúng tôi đứng

trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo khác lấy dao cố cạo cho hết những

nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người đã nhanh tay sao chép, gửi đi cho

công an. Nét khắc còn lờ mờ nhưng vẫn là bằng cớ”365.

Tôn Thất Thiện Nhân366 năm 1975 đang là một học sinh cấp III. Anh nhớ lại:

“Thay vì xách cặp tới trường, tôi đi lang thang. Tôi như một đứa trẻ không nhìn thấy

một lối thoát nào trước mặt. Những khoảng sân trường thơ mộng trở thành chỗ cho

những cô cậu con cái các gia đình tập kết hoặc được điều từ ngoài Bắc vào ‘lên mặt’

với con cái của những kẻ ‘lầm đường’. Cũng những thầy cô giáo mà học trò ngưỡng

mộ ngày nào giờ trở thành những con người khác, hoảng hốt, sợ sệt. Mặc dù mấy

năm trước 1975, cuộc sống của Sài Gòn đã trở nên khó khăn, nhưng không phải

như những gì mà người Sài Gòn đang đối diện. Hàng tuần từ trường trở về, tôi lại

thấy một đồ đạc gì đó ở trong nhà biến mất. Tôi ngạc nhiên là tại sao trong suốt

nhiều ngày mẹ tôi, một cô giáo, lại chỉ thay đổi một hai bộ đồ trong khi tủ quần áo

của bà có hàng chục bộ đồ dài rất đẹp. Tôi chạy vào mở tủ ra thì thấy nó trống

hoác. Tôi có cảm giác sẽ không bao giờ có thể khép lại trong lòng cái cánh tủ trống

hoác đó”.

Cha của Nhân trước 1975 cũng là giáo viên. Do đã từng đi lính, tuy chưa phải sỹ

quan nên không phải đi cải tạo, nhưng sau 1975 ông không còn được đi dạy. Ông

đã phải bươn chải vô số nghề trong đó có nghề nhảy tàu lên Long Khánh mua than

củi mang về Sài Gòn bán. Mấy anh em Nhân thỉnh thoảng lại ra ga đợi ông như chờ

đợi một điều gì đó khác hơn ngày thường. Một hôm, hai anh em nhìn thấy cha

mình, năm ấy chỉ mới gần bốn mươi tuổi, đu cạnh thành con tàu đang tiến dần vào

ga, vứt bao than trước rồi nhảy xuống; không may, ông bị trượt chân. Nhìn gương

mặt khắc khổ, tay chân đen đúa, bị những nhát cắt của những viên đá lót đường

rày làm cho túa máu, Thiện Nhân nói: “Một cảm giác mất mát kinh khủng xâm

chiếm con người tôi, hình như đó vừa là tình thương vừa là sự thất vọng về ông, về

một thế hệ không còn có khả năng gượng lên được nữa”.

Không chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu thơ, tình cảm

học trò, sự trải nghiệm “Sài Gòn giải phóng” đã giúp Đỗ Trung Quân thai nghén

những vần thơ cũng đau như những nhát cắt của dao, nhưng nó không được dại dột

khắc xuống mặt bàn để bàn tay học trò phải nhận cây còng số 8. Năm 1982, Đỗ

Trung Quân viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn367. Bài thơ cho thấy một góc nhìn của người

dân Sài Gòn với những người đã “giải phóng mình”:

Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm

Các anh từ Bắc vào Nam

Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc

Các anh đến

Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác

Của xì ke, gái điếm, cao bồi

Của tình dục, ăn chơi

“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”

Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy

Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ

Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”

Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc

Ngòi bút các anh thay súng

Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi

Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ

Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản

Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang”

Nổi loạn / Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn

Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương

Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!

Những người được sinh ra không đúng cửa

Năm 1975, Đỗ Trung Quân hai mươi mốt tuổi, anh đang học năm thứ hai khoa

Sử-Địa, Đại học Văn Khoa. Khi Sài Gòn “giải phóng” anh phải nghỉ học vì Bộ Đại học

và Trung học chuyên nghiệp cần thời gian để “sửa đổi chương trình, nội dung và

phương pháp đào tạo, đặc biệt chú trọng các môn khoa học xã hội, sao cho phù hợp

với phương hướng tiến lên thống nhất dần với hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa ở

miền Bắc”368.

Vì “công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng” được Ban Bí thư coi là

“nhiệm vụ cấp thiết số một”, nên ngay trong ngày 17-6-1975, Tố Hữu đã ký hai chỉ

thị, 221 và 222; một đưa ra các quy định cho bậc học phổ thông, một cho bậc đại

học và trung học chuyên nghiệp. Chỉ thị do Tố Hữu ký cho thấy Ban Bí thư coi giáo

dục là “cấp thiết số một” và muốn “nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu do chính

sách ngu dân và nô dịch của chế độ phản động Mỹ-Ngụy để lại”.

Chỉ thị 221 về ý nghĩa chính trị đã thúc đẩy việc xóa nạn mù chữ cho không ít

người dân, nhất là ở giai đoạn “hồ hởi phấn khởi” ban đầu của Cách mạng. Ngay khi

vừa “giải phóng”, Chính quyền Sài Gòn-Gia Định “hạ quyết tâm” trong năm 1975 sẽ

xóa mù chữ cho 250.000/500.000 người mà Cách mạng ước tính là mù chữ. Công

việc này “giữ được khí thế” cho tới tháng 9-1975 với 1.596 lớp bình dân và 53.498

học viên. Tuy nhiên, không chỉ là một chính sách với dân, chương trình “bổ túc văn

hóa” này đã góp phần tạo ra một đội ngũ cán bộ sẽ đi rất xa trong Đảng.

Cũng kể từ ngày 17-6-1975, Ban Bí thư có chủ trương “đối với trường tư ở vùng

giải phóng”, theo đó: “Hạn chế và cải biến từng bước, tiến tới xóa bỏ hẳn các

trường tư cùng với đà cải tạo xã hội. Từ đầu năm học 1975-1976 không cho phép

các tôn giáo, các đoàn thể chính trị phản động, các ngoại kiều mở trường tư, không

cho phép các trường tư đào tạo giáo viên phổ thông. Các tư nhân muốn mở trường

tư phải xin phép chính quyền cách mạng”. Ngay trong năm học 1975-1976, 1.087

trường tư ở Sài Gòn-Gia Định đã bị “công lập hóa”. Chỉ thị 221 cũng quy định: “Đối

với đội ngũ giáo chức của Mỹ, ngụy đã đăng ký và xin làm việc với chính quyền

cách mạng, nói chung đều được thu nhận, giáo dục và sử dụng, trừ những phần tử

phản động mà cơ quan an ninh xác nhận không nên cho tiếp tục dạy, những phần

từ có sinh hoạt đồi trụy bị học sinh và nhân dân phản đối”369.

Những học trò miền Nam có lẽ đã khá phấn khởi khi Ban Bí thư chỉ thị: “Nay bỏ

học phí trong tất cả các trường đại học và chuyên nghiệp của Nhà nước”. Thế

nhưng, học phí rồi chỉ là một phần vô cùng bé nhỏ. Hàng trăm nghìn sinh viên miền

Nam đã phải “dở dang đèn sách” vì Ban Bí thư “sửa đổi cơ cấu ngành học”. Theo

đó: “Cần cải tạo về cơ bản các ngành khoa học xã hội (luật, văn, triết…) trước khi

mở lại các khoa này. Đối với số học sinh đang học luật, văn, triết cần có kế hoạch

chuyển sang học các ngành có yêu cầu lớn như sư phạm và kỹ thuật, kinh tế. Đối

với các ngành khoa học xã hội, năm học 1975-1976 chưa tuyển sinh” (Chỉ thị 222).

Ngay cả điều này cũng chỉ là những trắc trở tạm thời - nếu như sinh viên của các

ngành khoa học xã hội có “lý lịch rõ ràng” thì họ cũng có thể xoay xở học xong nếu

muốn.

Chỉ thị 222 của Ban Bí thư đặt ra yêu cầu: “Qua con đường bổ túc văn hóa và

tuyển sinh mà cải biến nhanh chóng thành phần giai cấp trong học sinh đại học và

chuyên nghiệp, tích cực tạo điều kiện cho các chiến sĩ quân giải phóng, cán bộ cách

mạng, con em nhân dân lao động được vào học ngày một đông và chiếm đại đa số

trong các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam. Cho các học sinh miền

Nam đã tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc và có gia đình ở trong Nam về học tại các

trường đại học ở miền Nam. Giáo dục, bồi dưỡng và sử dụng các thầy giáo do chế

độ cũ để lại, đồng thời đưa một số thầy giáo, nhất là các thầy giáo quê ở miền Nam

đang công tác ở miền Bắc, có trình độ chuyên môn khá, có phẩm chất chính trị tốt,

bổ sung vào đội ngũ các thầy giáo của các trường ở miền Nam để làm nòng cốt”.

Trên tinh thần chỉ đạo đó, thanh niên được chia làm “13 đối tượng” để xét tuyển

sinh vào đại học. Các đối tượng được ưu tiên nhận vào đại học và trung học chuyên

nghiệp gồm “anh hùng dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân, bộ đội, thương

binh, thanh niên xung phong, cán bộ cách mạng, con của các liệt sĩ, con em các gia

đình có công với cách mạng, con em các dân tộc ít người, con em miền Nam đã tốt

nghiệp lớp 10 ở miền Bắc về Nam học, công nhân và những người lao động chân

tay khác…”. Ngoài ra: “Trừ những phần tử phản động, tất cả nam nữ công dân, có

lý lịch rõ ràng, có các điều kiện quy định về tuổi, bằng cấp và sức khỏe đều được

quyền nộp đơn xin thi tuyển vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”.

Một số “đối tượng” được quyền nộp đơn, nhưng có được đi học ngay cả khi đã thi

đỗ đại học hay không lại còn tùy thuộc vào quan điểm của các ban tuyển sinh về

mức độ rõ ràng của lý lịch. Tính “giai cấp” thể hiện qua lý lịch đã làm tan vỡ biết

bao giấc mơ của những thanh niên lớn lên sau năm 1975.

Nhiều gia đình miền Nam, trên thực tế, bị đặt ở thứ hạng 14, 15370. Nếu như các

gia đình “Ngụy” coi sự phân biệt ấy là những gì phải chịu trong “cuộc bể dâu”, thì

đối với nhiều thanh niên, việc Cách mạng không cho vào đại học như là “một cái tát

tai nghiệt ngã… Như một thân cây đang vươn lên khao khát đón ánh nắng cuộc đời

thì bị bẻ cụt ngọn”371.

Chỉ thị của Ban Bí thư từng được nhiều cơ sở Đảng thi hành theo hướng tùy tiện

siết chặt hơn. Phan Vĩnh Hiệp, quê ở xã Nhơn Thọ, huyện An Nhơn, Nghĩa Bình, là

học sinh giỏi vật lý cấp quốc gia nhưng vẫn bị chính quyền xã giữ lại không cho đi

thi ở Tiệp Khắc. Năm sau, Hiệp thi đậu vào Đại học Bách Khoa với số điểm đủ đi học

nước ngoài, địa phương vẫn không cho học chỉ vì cha Hiệp, ông Phan Vĩnh Long, đã

bỏ Đảng trong đợt “tố cộng” năm 1954 của Chính quyền Ngô Đình Diệm.

Nguyễn Mạnh Huy, phường Lê Hồng Phong, Thành phố Quy Nhơn, tốt nghiệp

cấp III năm 1981. Cũng năm ấy, Huy thi đỗ vào Bách khoa Đà Nẵng với số điểm

26,5 (Á khoa) trong khi điểm chuẩn chỉ cần 17 điểm. Thay vì có thể thực hiện ước

mơ, Huy nhận được lời thông báo lạnh lùng ở Ban Tuyển sinh Tỉnh: “Không được đi

học vì cha chết trận”. Như hàng triệu thanh niên miền Nam khác, cha của Huy cũng

đã bị “động viên” ngay sau khi “rớt tú tài”. Năm 1965, khi Huy lên hai, cha anh,

một trung úy bộ binh, đã dẫm phải mìn và chết. Mẹ Huy là thư ký đánh máy cho Sở

Thông tin. Tuy là con “sỹ quan ngụy”, nhưng kể từ năm hai tuổi, Huy chủ yếu lớn

lên trong nhà ông nội, vốn là một đảng viên thời kháng Pháp, ngoài ra Huy còn có

một người cậu và một người dì đi tập kết. “Cuộc đời tôi, việc học của tôi bị chặn ở

đây sao?”, nhật ký ngày 25-11-1981 của Huy viết.

Năm 1982, Nguyễn Mạnh Huy chọn một trường ít đòi hỏi về lý lịch hơn: Đại học

Nông Nghiệp IV; kết quả: 22,5 điểm, vượt xa điểm chuẩn. Nhưng bức điện đánh từ

Ban Tuyển sinh vẫn cứ lạnh lùng: “Không được đi học vì cha chết trận”. Nhật ký

ngày 6-1-1983 của Huy ghi: “Một người có quyền dự báo một tương lai đen tối,

nhưng bất hạnh nhất khi tự khẳng định nó là một sự thật bất biến”.

Chàng thanh niên nặng bốn mươi ký Nguyễn Mạnh Huy từ đó đi làm thợ mộc

kiếm sống nhưng vẫn nhắc mình: “Đừng buông súng khi còn sức chiến đấu”. Thế

rồi cho đến sát ngày thi của năm 1983, vì quá “nôn nao, bứt rứt”, Nguyễn Mạnh

Huy lại nộp đơn thi vào Sư Phạm Quy Nhơn, được 18,5 điểm trong khi điểm chuẩn

chỉ là 12. Lần này thì Huy không buồn đi xem kết quả nữa.

Ông Võ Văn Kiệt nhìn nhận: “Khắc phục những hậu quả do chế độ cũ để lại đã

khó, nhưng khắc phục những cái do chế độ mới sinh ra lại còn khó hơn”. Chuẩn bị

Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Ông Kiệt nói với nhà báo Thép Mới, lúc ấy

đang cộng tác như một người viết diễn văn cho ông: “Tại sao hồi Đảng còn hoạt

động bí mật mình không phân biệt, tại sao hồi đó mình vận động cả con em địa

chủ, con em tư sản, con em các quan chức trong chế độ Sài Gòn… để giờ đây khi có

chính quyền trong tay mình lại phân biệt! Nếu cứ kéo dài tình trạng này thì tới bao

giờ thanh thiếu niên mới có thể hòa hợp được với nhau?”. Theo ông Phạm Văn

Hùng, thư ký của Võ Văn Kiệt: “Trong khi trao đổi, ông Võ Văn Kiệt gần như buột

miệng nói, ‘Không ai chọn cửa sinh ra’, làm cho cả ông Thép Mới và chúng tôi đều

rất thích thú”.

Tuy nhiên, trong vấn đề “lý lịch”, tư duy theo kiểu ông Kiệt là rất “thiểu số”. Ông

Kiệt nói: “Tôi suy nghĩ rất nhiều, nhưng biết thay đổi không phải là việc giản đơn vì

đó là nhận thức và tính nguyên tắc của cả hệ thống”. Ngày 3-7-1977, tại Đại hội

Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt phát biểu: “Thế hệ trẻ

đang lớn lên ở Thành phố ta, ra đời từ những hoàn cảnh xã hội khác nhau, chịu ảnh

hưởng tinh thần và tín ngưỡng khác nhau. Không ai chọn cửa mà sinh ra. Đối với

mỗi người trẻ tuổi đang bước vào đời, chúng ta nhìn họ như nhau, cùng là những

người chủ tương lai của Thành phố. Xã hội muốn tuổi thanh xuân không mặc cảm

và rất thanh thản trong tâm hồn…”. Ông kêu gọi: “Xã hội phải đối xử công bằng với

tất cả lớp người trẻ đi lên với xã hội này, ai ai cũng có nghĩa vụ và quyền lợi như

nhau… Chúng ta lấy thực tâm, thực học, thực tài làm tiêu chuẩn, không để quá khứ

ràng buộc tương lai mà hạn chế chí tiến thủ và hoài bão cống hiến của mỗi người

trẻ tuổi”.

Phát biểu này của ông Võ Văn Kiệt đã không được ngay cả báo chí dưới quyền

của ông đăng tải. Mãi tới hai tháng sau, báo Tuổi Trẻ mới cho đăng lá thư của “bạn

đọc” Nguyễn Kỳ Tâm, nói về những bế tắc của anh vì lý lịch372 để sau đó, ngày 30-

9-1977, báo Tuổi Trẻ cho đăng tuyên bố “không ai chọn cửa sinh ra” mà ông Võ

Văn Kiệt đã nói tại Đại hội Đoàn vào ngày 3-7-1977. Tổng Biên tập Tuổi Trẻ từ năm

1977, ông Võ Như Lanh, thừa nhận: “Tòa soạn phải dành thời gian cân nhắc để

chuẩn bị vì khi ấy không khí phân biệt lý lịch rất căng thẳng, mặc dù ông Kiệt nói

vậy, nhưng Thành đoàn vẫn rất gay gắt. Thành ủy thì ngoài ông Kiệt, không có ai

công khai nói gì”. Ông Võ Văn Kiệt, với vai trò hạn chế của một nhà lãnh đạo địa

phương, cũng chỉ có thể xử lý vấn đề lý lịch ở tầm vụ việc373. Biết bao trường hợp vì

lý lịch mà không được tới trường khi cái đúng chỉ mới tùy thuộc vào ứng xử cá nhân

chứ chưa trở thành chính sách.

“Cánh cửa” Thanh niên Xung phong

Từ tháng 8-1975, ông Võ Văn Kiệt đã giao cho Thành đoàn tổ chức một lực

lượng thanh niên xung phong đi “thí điểm” khai khẩn đất hoang. Cuối năm ấy, ông

Võ Văn Kiệt triệu tập Ban Thường vụ Thành đoàn đến nhà riêng ông Phan Minh

Tánh, bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam. Vào họp, ông Kiệt

giao nhiệm vụ: “Thành phố cần một lực lượng, lực lượng đó là thanh niên xung

phong. Giao Thành đoàn đứng ra tổ chức, cần Thành ủy hỗ trợ gì, Thành ủy sẽ đáp

ứng”. Ông giải thích: “Phải tạo ra một môi trường để mọi thanh niên đều có thể

tham gia lao động để có suy nghĩ tích cực và để hãnh diện về bản thân mình”.

Ông Võ Ngọc An năm ấy ba mươi mốt tuổi, đang là ủy viên Thường vụ Thành

đoàn phụ trách báo Tuổi Trẻ, nhớ lại: “Lúc đó, nghe ông Kiệt nói cảm thấy như

đang nghe một điều gì đó thật thiêng liêng”. Sau cuộc họp ấy, ông Võ Ngọc An lãnh

trách nhiệm huy động tiền bạc để may hàng ngàn bộ đồng phục xanh.

Hàng chục năm sau, nhiều người dân Thành phố nhớ tới ngày 28-3-1976, không

chỉ vì tính hoành tráng của cuộc biểu dương lực lượng ở sân vận động Thống Nhất

với một “rừng người” áo xanh, tay cầm cuốc xẻng, mà ở cách mở đầu bài nói

chuyện của một bí thư cộng sản. Thay vì, “các đồng chí” như cách xưng hô thống trị

thời bấy giờ ở trên mọi diễn đàn, ông Võ Văn Kiệt đã làm nhiều thanh niên ứa nước

mắt khi nói: “Các em đoàn viên, thanh niên yêu quý!”.

Trong số hàng vạn thanh niên có mặt hôm ấy không chỉ có con em Cách mạng.

Theo yêu cầu của ông Võ Văn Kiệt, Thành đoàn đã vận động được cả những thanh

niên nghiện xì ke, ma túy, có người đã từng là “đĩ, điếm”, có người là “lính ngụy”.

Theo ông Võ Ngọc An, trong số ấy có một đại úy Sài Gòn, cha anh đã từng bị giết

nhầm bởi “Việt Cộng”. Những thanh niên ấy, từ sau ngày 30-4, thông qua cách cư

xử của các cán bộ phường, thông qua những ngôn từ cao ngạo trên báo đài, biết

được thân phận của mình, dám mong chi có ngày một ông bí thư gọi mình là “các

em yêu dấu”.

Với tư cách là một nhà lãnh đạo Đảng, ông Võ Văn Kiệt cũng nói về truyền thống

theo cách của mình: “Tôi cũng xin phép được bày tỏ với lứa tuổi hai mươi của đất

nước đã hết đau thương và từ đây thẳng đường đi tới chủ nghĩa xã hội với tất cả

tấm lòng trìu mến và kỳ vọng thiết tha của những lớp thanh niên nối tiếp nhau đã

từng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, cách mạng Tháng Tám…”. Ông nói tiếp: “Lý

tưởng của họ, ước mơ của họ chính là hiện tại mà hôm nay các em đang sống. Nếu

các em sau này có điều kiện ôn lại kỹ càng một giai đoạn cách mạng hùng vĩ đã

qua của dân tộc, các em sẽ biết thương yêu vô hạn Tổ quốc Việt Nam nghìn lần yêu

dấu. Các em sẽ mạnh lên gấp bội vì một niềm tin ở nhân dân và đất nước”.

Bài diễn văn được chấp bút bởi nhà báo Thép Mới, một người viết tùy bút nổi

tiếng, tác giả của bài “Tre Việt Nam” in trong sách giáo khoa được thuộc lòng bởi

nhiều thế hệ. Tinh thần của ông Võ Văn Kiệt, có lúc, được ông Thép Mới thể hiện với

giọng văn nồng nàn. Ông Võ Văn Kiệt, lúc này, vẫn để cho Thép Mới sử dụng hình

tượng Pavel, hình tượng về một thế hệ quên mình để “tạo lập nên nước xã hội chủ

nghĩa đầu tiên”. Tuy không hùng hồn như ông Trần Bạch Đằng, nhưng cái đẹp của

thanh niên theo ông Kiệt vẫn là lao động374. Kết thúc bài diễn văn, ông Kiệt nói:

“Chúng tôi xin nhiệt liệt chào mừng những lớp công dân xã hội chủ nghĩa của thành

phố chúng ta từ đây nối tiếp nhau nẩy nở và trưởng thành trên những công trường

lao động tình nguyện. Chúc các em thành công thắng lợi, trên trận tuyến mới, trận

tuyến lao động vinh quang”.

Không có mặt ở sân vận động Thống Nhất sáng 28-3-1976, nhưng giáo sư trung

học Trần Ngọc Châu vẫn chịu ảnh hưởng bởi bài diễn văn. Năm ấy, ông Châu nằm

trong toán vận động thanh niên đi thanh niên xung phong của Quận đoàn I. Ông

Trần Ngọc Châu kể: “Bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt được quay ronéo, chúng tôi

cho họp dân ở phường, đọc những đoạn cảm động nhất”.

Theo ông Trần Ngọc Châu thì khi ấy, phường đoàn cũng có chuyện, họ lập danh

sách và thường xuyên bắt tập trung những thanh niên chưa có công ăn việc làm,

khiến nhiều người bất mãn. “Cộng sản” và “đồng chí” là những khái niệm rất xa

cách và có khi là ác cảm với thanh niên, cho nên theo ông Châu: “Nhiều người chỉ

vì thấy ông bí thư cộng sản gọi họ là em mà đi. Có người học thuộc nhiều đoạn

trong bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt”. Ông Châu trước đó là giáo viên Anh văn,

đã có bằng cao học triết, thế nhưng sau một thời gian đi vận động người khác,

chính ông Châu cũng nhận ra con đường để trụ lại trong chế độ tốt nhất là phải

“chọn cánh cửa” này375.

Nguyễn Nhật Ánh376 cũng đã chọn thanh niên xung phong như là một con đường

để giải tỏa áp lực nặng nề của lý lịch. Sau ngày 30-4-1975, ông hàng xóm làm thợ

mộc ở phường Nhật Tảo, Quận 10, bố của ba cô con gái khá xinh mà sinh viên

Nguyễn Nhật Ánh dạy kèm, bỗng nhiên trở thành chủ tịch khóm, về sau là chủ tịch

phường. Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy vừa học xong chương trình đệ nhất cấp ở Đại học

Sư phạm, được ông thợ mộc đưa lên phường lo việc giấy tờ. Theo “tinh thần Chỉ thị

222”, năm 1976, anh được phép tốt nghiệp sau khi học thêm tám tháng “chính trị”.

Tuy nhiên, Ánh không được phân công công tác chỉ vì cha anh lúc đó đang phải đi

“học tập” do từng là trưởng Ty Thông tin Chiêu hồi Tỉnh Quảng Tín377.

Nguyễn Nhật Ánh trở về phường Nhật Tảo khi cô con gái ông chủ tịch đã trở

thành bí thư Phường Đoàn. Cô bí thư chiếu cố thầy giáo cũ của mình, mỗi khi có

“phong trào” lại gọi Nguyễn Nhật Ánh vác loa đi đọc bản tin hoặc kẻ lên tường

những câu khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đổi lại, anh có thù lao mười ký

gạo mỗi tháng. Nguyễn Nhật Ánh cũng tiếp cận bài diễn văn của ông Võ Văn kiệt

thông qua những lần đi vận động thanh niên xung phong. Anh kể: “Khi mọi người đi

hết, tôi chợt nhận ra, không lẽ mình cứ ăn bám bà dì hoài, năm 1977, tôi cũng lên

đường”.

Chỉ huy Lực lượng Thanh niên xung phong khi ấy là ông Võ Viết Thanh. Năm

1975, khi ông Võ Văn Kiệt cần một sỹ quan trẻ biệt phái sang thanh niên xung

phong, Đại úy, Tiểu đoàn trưởng Võ Viết Thanh đã được chọn. Ông Thanh nhớ lại:

“Khi xuống U Minh, tôi cũng hơi suy nghĩ, đang là một sỹ quan được quân đội trọng

dụng, giờ ra nằm giữa rừng, gian khổ không kém chi thời chiến”.

Thanh niên xung phong thuộc nhiều thành phần, có người là tướng cướp, có

người xuất thân là trí thức, sỹ quan, nhưng chủ yếu là thanh niên học sinh. Theo

ông Võ Viết Thanh, họ chịu đựng gian khổ không thua gì những chiến binh. Giữa

rừng U Minh, giữa Chiến khu Dương Minh Châu… mùa mưa thì nước ngập mênh

mang, mùa khô thì phải chia từng giọt nước ngọt, ăn không đủ no, rồi thì đỉa, vắt

và đủ thứ bệnh tật, nhưng chỉ có một thứ thuốc lá duy nhất để chữa là “xuyên tâm

liên”. Thế mà họ đã sống với nhau không câu nệ quá khứ. Đa phần đều trưởng

thành. Ông Võ Viết Thanh thừa nhận, chính ông cũng phải dần dần mới “bắt được

nhịp sống với họ”. Ông Thanh nói: “Hơn sáu vạn con người không biết Cách mạng

là gì, chỉ nghe lời ông Sáu Dân mà kiên gan, bền bỉ”.

Một năm sau ngày phát động “phong trào thanh niên xung phong”, tại cuộc gặp

mặt những “đại biểu thanh niên xung phong tiên tiến”, ngày 3-3-1977, ông Võ Văn

Kiệt đã gọi thanh niên xung phong là một “trường đại học”. Ông Kiệt cho rằng sở dĩ

các chàng trai cô gái đã “trưởng thành trên nhiều mặt” là vì họ đã “thấy được tiền

đồ tương lai của mình nằm trong tiền đồ, tương lai của đất nước, dân tộc… Nhiều

đồng chí đã xác định với tình cảm và lý trí sâu sắc lao động là vinh quang”378.

Môi trường thanh niên xung phong ở thời điểm ấy đúng là đã tạo ra không ít câu

chuyện kỳ diệu379. Trước “giải phóng”, Vũ Hoàng Vi là một tướng cướp. Lúc đầu, Vi

chỉ định “trà trộn” vào lực lượng thanh niên xung phong như là một nơi để trốn.

Nhưng tung tích của Vũ Hoàng Vi bị tổ chức phát hiện. Anh không những không bị

bắt mà còn được vận động thuyết phục. Lần đầu tiên, Vi nhận ra có một nơi tôn

trọng mình, anh lao động tốt, được tuyên dương, được cho đi học, được đưa lên làm

đại đội trưởng và về sau còn được kết nạp Đảng.

Trong những bài phát biểu với thanh niên xung phong về sau, ông Võ Văn Kiệt

vẫn tiếp tục gọi họ là “các em”. Nhưng khi phát biểu với những “thanh niên tiên

tiến”, ông đã gọi họ là “đồng chí”. Trong một đại hội thanh niên tiên tiến khác, ông

Võ Văn Kiệt đã đưa một đội viên vốn là một tay anh chị nổi tiếng, “Bảy Đầu Bò”,

ngồi chung trên ghế chủ tịch đoàn với mình.

Nếu như trong những ngày đầu, nhiều thanh niên miền Nam hết sức dị ứng với

cách Cách mạng xưng hô với nhau, thì ở thời điểm ấy “đồng chí” lại là một sự thừa

nhận mà nhiều thanh niên tìm kiếm.

Năm 1977, Nguyễn Nhật Ánh đang tham gia đào kênh Ba Gia ở Hố Bò, Phú Hòa.

Lúc này anh đã có nhiều tác phẩm đăng trên tờ Tuổi Trẻ, nhưng với lý lịch cha là

trưởng ty “chiêu hồi”, anh vẫn không được kết nạp Đoàn. Khi ấy, thanh niên xung

phong ở trong những lán tranh, vách nứa, một bên là nơi ngủ của nam, một bên là

nữ; phần giữa lán kê những bộ bàn ghế tạm do chính họ làm. Một buổi tối, chi đoàn

nhóm họp nơi khoảng giữa lán có kê bàn ghế đó. Đang họp, một người trong Ban

Chính trị Liên đội phát hiện ra Nguyễn Nhật Ánh đang nằm chèo queo trên giường,

lập tức “phần tử chậm tiến” Nguyễn Nhật Ánh bị đuổi ra ngoài. Hôm ấy mưa, trời tối

như bưng, Nguyễn Nhật Ánh phải đi ra, lang thang giữa rẫy khoai mì, mặt ướt đẫm

vì nước mưa và nước mắt. Anh nhớ lại: “Tôi có cảm giác như bị đẩy ra khỏi đồng

loại”. Nhưng cho dù cảm giác về thời đại mới ra sao thì Nguyễn Nhật Ánh cũng

không có lựa chọn nào khác là phải “quay vào”, phải chứng tỏ mình là một thanh

niên tiên tiến.

Ngày 26-3-1978, mười hai giờ đêm, ông Võ Văn Kiệt lên, Nguyễn Nhật Ánh,

Trần Ngọc Châu và nhiều thanh niên khác được gọi dậy: bên ngoài, đuốc được đốt

lên và nhiều thanh niên của chế độ cũ, trong đó có Trần Ngọc Châu, từ đêm ấy,

“vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đoàn”. Theo ông Trần Ngọc Châu: “Ông Võ

Văn Kiệt đến, mặc bộ đồ thanh niên xung phong, đầu đội nón tai bèo, đứng lên

đánh trống. Hình ảnh một ông Kiệt sừng sững đã đọng lại trong ký ức của lực lượng

thanh niên xung phong”. Ông Châu nói: “Khi ấy, vào Đoàn là thiêng liêng lắm”.

Đoàn thiêng liêng lắm, nhưng “ánh đuốc” trong đêm ấy không thể rọi sáng đến

tất cả mọi người. Cũng như Trần Ngọc Châu, Nguyễn Nhật Ánh đã dùng cuốc chim,

cuốc đá ong đào kênh cho đến khi hai tay tóe máu mà vẫn không được vào Đoàn

chỉ vì cha là “Ngụy”. “Cánh cửa thanh niên xung phong” mà ông Kiệt thiết lập vẫn

không đủ rộng cho các thanh niên miền Nam bước vào chế độ mới.

“Nổi loạn”

Nhiều thanh niên xung phong về sau vẫn nhớ về những ngày chặt cây rừng và

hát tráng ca. Trong những ngày có quá nhiều người mất phương hướng ấy, phải

công nhận là ông Võ Văn Kiệt đã tìm được một phương thức hiệu quả để thu hút

thanh niên.

Họ đã bước vào những chuẩn mực chính trị mới do Cách mạng thiết lập, ít nhiều

bằng cảm hứng. Không phải tự nhiên mà những gót son Sài Gòn bị đưa đến chốn

rừng thiêng, đạp gai rừng ấy đã không trách gì ông. Họ cũng đã đi bởi niềm tin.

Nhưng bộ đồng phục thanh niên xung phong không thể che hết lòng mặc cảm, bởi

mặc cảm không xuất phát từ nơi mà những người thanh niên đó được sinh ra. Sự

mặc cảm xuất hiện do chế độ thiết lập quá nhiều hàng rào lý lịch. Khi mà những

hàng rào ấy chưa được gỡ bỏ thì đồng phục cũng không tạo ra được cảm giác đồng

đội, cho dù họ ngủ cùng lán, đứng cùng hàng, chưa kể những người khi ấy vẫn ở

“ngoài xã hội”380.

Sau “giải phóng”, Cư xá Bắc Hải, Quận 10 trở thành nơi ở của những gia đình sỹ

quan cao cấp của Cách mạng. Gia đình một số tướng, tá của “chế độ cũ” vẫn sống

“xôi đỗ” ở đây. Con em các gia đình cách mạng đương nhiên là “nòng cốt”. Nguyễn

Thế Dũng là một thanh niên như vậy.

Dũng là con trai của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, người được coi là “con hùm

xám” khi còn là tư lệnh Sư 9. Đại tá Truyện hy sinh trong chiến dịch Mậu Thân khi

tấn công đợt II vào Sài Gòn. Khi ấy ông Truyện là tư lệnh Phân khu I. Sau ngày 30-

4-1975, vợ con của Đại tá Truyện được đưa về Sài Gòn sống trong căn nhà T10, Cư

xá Bắc Hải. Trong những năm cuối thập niên 1970, Nguyễn Thế Dũng là phó bí thư

phường đoàn, được giao đi vận động, cảm hóa con em sỹ quan “chế độ cũ”.

Cô “tiểu thư” Lê Bích Thúy ở nhà T4, con gái Trung tá Lê Văn Dương, trưởng

Phòng Quân sử, Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một trong những “đối tượng” của

Dũng. Nhưng cuối cùng người bị “cảm hóa” lại là Dũng. Hai người, một là con trai vị

tư lệnh khét tiếng của cộng sản, một là con của một “ngụy quân” đang bị cải tạo

trong tù, yêu nhau và kiên quyết lấy nhau. Mẹ Dũng khóc lên, khóc xuống. Phu

nhân các đồng đội cũ của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, lúc bấy giờ đa số đã là tướng,

khuyên bà quả phụ phải phá bằng được cuộc hôn nhân. Nhưng Nguyễn Thế Dũng

dứt khoát không chịu, anh sang nhà người yêu nói với bà mẹ: “Má chịu gả thì con

cưới chứ nhà con không ai chịu sang đâu”. Bà phu nhân Trung tá Lê Văn Dương chỉ

biết gật đầu lặng lẽ.

Chị ruột của Nguyễn Thế Dũng là nhà báo Nguyễn Thế Thanh, sau là tổng biên

tập báo Phụ Nữ Thành phố, chạy lên cầu cứu ông Võ Văn Kiệt. Nghe xong, ông Kiệt

nói: “Mình dạy người khác không phân biệt, mình cố gắng để vợ con người ta đừng

thù hận mà mình làm như thế sao người ta quên”. Rồi ông bảo: “Kêu hai đứa lên

đây tao gặp”. Thế Thanh về kêu Dũng chở người yêu lên. Ông Võ Văn Kiệt tiếp hai

người hết sức thân tình rồi, khi Dũng đi ra vườn, ông Kiệt hỏi Lê Bích Thúy: “Cháu

có lường hết những khó khăn khi lấy Dũng không?”. Bích Thúy: “Dạ thưa, cháu yêu

Dũng, cháu biết nhưng cháu chọn anh ấy”. Ông Kiệt: “Nhỡ khi đi học tập về, ba

cháu không chịu thì sao?”. Bích Thúy: “Dạ không, ba cháu rất thương cháu, cháu

tin là không có chuyện đó, nhưng nếu ba cháu không chịu thì cháu sẽ đấu tranh”.

Ông Kiệt cho gọi Dũng vào hỏi: “Cháu có băn khoăn gì không?”. “Không!”, Dũng

dứt khoát. Ông Kiệt nói: “Cháu lấy con một sỹ quan chế độ cũ thì không tránh khỏi

bị nghi kỵ, bác không phải lúc nào cũng ở bên các con”. Rồi ông nói với hai đứa trẻ:

“Giờ bác Sáu thay mặt ba, bác ủng hộ tụi bây”. Sau đó, ông Võ Văn Kiệt gặp bà quả

phụ Đại tá Nguyễn Thế Truyện và ông chỉ dặn: “Thôi chuyện mấy đứa nhỏ chị cứ để

cho tụi nó tính”.

Năm 1982, khi Trung tá Lê Văn Dương được tha về, con gái ông đã có con với

con trai một người cộng sản. Ông chủ động qua nhà T10 gặp bà đại tá nói: “Tôi đi

học không biết là hai nhà chúng ta đã thành thông gia, âu cũng là số phận lịch sử.

Tôi đi, cũng học được nhiều điều, bác trai đã hy sinh, hai gia đình gặp nhau trong

tình thông gia thế này cũng là điều tốt”. Rồi khi thắp hương cho Đại tá Nguyễn Thế

Truyện, Trung tá Lê Văn Dương khấn: “Thưa bác, tôi là Lê Văn Dương cha của con

dâu bác, xin thắp nén nhang này báo với bác, chúng ta giờ là thông gia của nhau”.

Tình yêu tự thân nó không phân chia lý lịch. Nhiều cuộc tình thanh niên xung

phong cũng chịu ngang trái, có người cũng may mắn như Nguyễn Thế Dũng và Lê

Bích Thúy nhưng cũng có những cuộc tình trắc trở. Cuối năm 1978, Đại úy Quân y

Sài Gòn, Bác sỹ Thiều Huỳnh Chí đi học tập trở về, ông lên trình diện Sở Y tế và

được đưa về Duyên Hải làm trạm trưởng y tế cho một đơn vị thanh niên xung

phong, Nông trường Đỗ Hòa.

Vốn là một bác sỹ ngoại khoa nhưng ở đấy ông Thiều Huỳnh Chí đã tự thiết kế

từ chiếc ghế nhổ răng, cái hố xí hai ngăn và nổi tiếng khắp vùng với tài đỡ đẻ. Bác

sỹ Chí đã quyết định ở lại trong khi vợ ông đưa các con đi vượt biên. Giám đốc Nông

trường lúc ấy là chị Võ Thị Bạch Tuyết, nguyên là một chỉ huy của phong trào đốt

xe Mỹ, bị tra tấn và bị đày ra Côn Đảo nhiều năm. Những ngày làm việc bên nhau

đã xích bác sỹ Thiều Huỳnh Chí và Giám đốc Võ Thị Bạch Tuyết lại gần nhau. Nhưng

tình yêu của họ đã không được Thanh niên Xung phong ủng hộ.

Đảng ủy Thanh niên Xung phong kiên quyết không cho hai người lấy nhau vì Bác

sỹ Chí không những là “ngụy” mà còn là một “người Việt gốc Hoa”. Ông Phan Minh

Tánh nói: “Tôi hay xuống làm việc với cô Tuyết, tôi hiểu hoàn cảnh của cô ấy.

Thành ủy chúng tôi ủng hộ nhưng Thanh niên Xung phong không chịu”. Sau đó, ông

Mai Chí Thọ cho mời Thường vụ Đảng ủy Thanh niên Xung phong lên, hỏi họ theo

cách rất Năm Xuân: “Nó (chị Bạch Tuyết) lớn tuổi lại bị tra tấn không sinh nở được,

giờ không cho nó lấy chồng vậy trong tụi bây có ai lấy nó không?”.

Nhà văn Nguyễn Đông Thức, thuộc lớp thanh niên xung phong đầu tiên của

Nông trường Đỗ Hòa, kể: “Trước hôm đám cưới, ông Võ Văn Kiệt, khi ấy đã ra Hà

Nội làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đã về, xuống nông trường ngủ lại một

đêm và chung vui với họ”381.

Nhưng đám cưới của một nữ giám đốc nông trường và một “đại úy ngụy” đã

không tạo ra tiền lệ. Năm 1982, Đảng ủy Thanh niên Xung phong lại ngăn cản cuộc

hôn nhân của Nguyễn Nhật Ánh với Trần Thị Tiếng Thu. Tiếng Thu lúc ấy đang là

phó Phòng Chính trị Lực lượng Thanh niên xung phong. Bốn ngày sau khi hội nghị

chi bộ Cơ quan Lực lượng “biểu quyết khai trừ ra khỏi Đảng”, “cô dâu” Trần Thị

Tiếng Thu đã viết đơn gửi Ban Tổ chức Thành ủy. Đơn của Tiếng Thu khai: “Vào

khoảng giữa năm 1981, tôi và đồng chí Nguyễn Nhật Ánh đặt vấn đề tìm hiểu nhau

để đi đến hôn nhân. Sau đó đã chính thức báo cáo với Đảng ủy và chi bộ cơ quan

(đồng chí Nhật Ánh là thanh niên xung phong hiện công tác tại Phòng Chính trị)”.

Đơn của Tiếng Thu cho biết: “Trong nửa năm qua, Đảng ủy và chi bộ đã nhiều lần

thuyết phục tôi cắt đứt mối quan hệ này. Đồng chí bí thư Đảng ủy, hầu hết các

đồng chí trong Đảng ủy đã lần lượt gặp tôi. Sau đó, trong phiên họp chi bộ thường

kỳ vào tháng 2-1982, chi ủy đã mang vấn đề của tôi ra kiểm điểm, nội dung: đồng

chí Nguyễn Nhật Ánh tuy là một đồng chí tốt, nhưng đồng chí có người cha trước

đây làm việc cho chế độ cũ với mức độ như thế thì đứng về mặt lập trường giai cấp,

một đảng viên không thể chung sống với một gia đình như vậy… Đồng thời, chi bộ

cũng kiểm điểm tôi về việc trước khi tìm hiểu đồng chí Nguyễn Nhật Ánh, tôi đã

không xin ý kiến trước, để bây giờ đặt tổ chức vào một việc đã rồi”.

Lá đơn của Trần thị Tiếng Thu viết tiếp: “Trong phiên họp tháng 2 và phiên họp

tháng 6 vừa qua, chi bộ đã đặt tôi vào hoàn cảnh phải chọn lựa: một là Đảng, hai là

tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đình với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh. Tôi đã khẳng định

là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đình với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh, nhưng điều đó

không có nghĩa là tôi đã chọn lựa, tôi không bao giờ có ý định rời bỏ Đảng”.

Quyết tâm của đôi lứa yêu nhau đã không dễ dàng để thành hiện thực. Cho dù

là công dân, hai người có quyền đăng ký kết hôn, nhưng vì Trần Thị Tiếng Thu đang

là người của lực lượng Thanh niên Xung phong, chính quyền địa phương chỉ cho

phép đăng ký khi có xác nhận của lực lượng nơi chị đang đăng ký hộ khẩu tập thể.

Trong khi đó, Phòng Tổ chức Lực lượng không chịu xác nhận thường trú một khi

không có chấp thuận của Đảng ủy.

Tháng 10-1983, Trần Thị Tiếng Thu đành phải thực hiện quyền công dân của

mình bằng cách: chị viết một lá đơn xin “xác nhận hộ khẩu” để “bổ túc hồ sơ xin

đăng ký xe”. Phòng Tổ Chức đã xác nhận cho chị. Nhưng, chữ “xe” đã được hai

người yêu nhau âm mưu viết sao để sau khi ký về sửa thành chữ “kết” và “bổ túc”

thêm chữ “hôn”, đăng ký xe thành “đăng ký kết hôn”. Sau đám cưới, ngày 30-5-

1984, Trần Thị Tiếng Thu đã nhận được quyết định kỷ luật “cảnh cáo”. Căn cứ để

Phó Bí thư Thành ủy Phan Minh Tánh ký quyết định này là: “Xét thấy đồng chí Thu

còn non kém về quan điểm lập trường và thiếu ý thức tổ chức kỷ luật trong việc xây

dựng gia đình”.

Không chỉ vượt qua những định kiến của chế độ mới dũng cảm bảo vệ tình yêu

lứa đôi, rất nhiều người trong số họ đã chiến đấu để bảo vệ giang sơn vì tình yêu tổ

quốc. Hàng ngàn thanh niên xung phong đã ra chiến trường khi Pol Pot giết thường

dân ngoài biên giới. Theo nhà báo Trần Ngọc Châu, năm 1977-1978, khi chiến

tranh Biên giới Tây Nam nổ ra, rất nhiều người xung phong ra tiền tuyến nhưng

không phải ai cũng được chọn. Ngày 14-6-1978, 500 nam nữ thanh niên xung

phong thuộc Liên đội 5 được điều ra biên giới, “phối thuộc” Sư đoàn 7, Quân đoàn

IV, với nhiệm vụ cáng thương, tải đạn, làm đường, chống lầy, bốc xếp đạn dược,

khâm liệm và chôn cất liệt sĩ. Đoạn đường mà Liên đội 5 đảm trách chỉ dài hơn

10km, nhưng lún, lầy rất nặng; thanh niên xung phong phải thường xuyên san lấp,

chèn cây nhiều lớp, công việc vô cùng gian khổ.

Chiều 21-7-1978, Trung đội 3 được giao bám sát bộ đội đang vận động tấn công

Khmer Đỏ. Trung đội có một tiểu đội nữ do Đại đội Trưởng Ngô Đức Minh trực tiếp

chỉ huy, di chuyển lên chốt chặn gần ngã ba Koky Som. Rạng hôm sau, ngày 22-7-

1978, một tiểu đoàn Khmer Đỏ, trên đường luồn sâu vào phía sau mặt trận, đã

chạm trán Trung đội 3. Trận đánh - giữa một bên là những tên lính Khmer Đỏ hung

hãn với một bên là những thanh niên chưa có một ngày được huấn luyện chiến đấu

và vũ khí thì chỉ có vài người được trang bị - đã biến thành một cuộc thảm sát. Khi

lực lượng Sư đoàn 7 kịp đến bao vây và tấn công, tiêu diệt toàn bộ chín mươi sáu

tên Pol Pot, thì bọn chúng đã kịp giết chết hai mươi bốn người: Xác Đại đội trưởng

Ngô Đức Minh bị đốt; bảy cô gái thanh niên xung phong bị hãm hiếp trước khi bị

giết giã man. Chỉ có hai người - Nguyễn Thị Lý và Nguyễn Văn Tuấn - là sống sót,

nhờ được xác của đồng đội đè che, sau khi cả hai đều bị thương rất nặng.

Tin hai mươi bốn đồng đội bị thảm sát được truyền đi trong toàn lực lượng. Cái

chết của họ không làm các nam nữ thanh niên xung phong run sợ cho dù thanh

niên xung phong phục vụ chiến trường khi ấy chưa được trang bị súng đạn hay bất

cứ vũ khí gì để tự vệ. Họ ở phía sau. Nếu bộ đội phía trước bị bật chốt hay bị tiêu

diệt thì số phận tiếp theo là chính họ. Khi nghe tin Trung đội 3 của Liên đội 3 bị

thảm sát, nhà thơ Đỗ Trung Quân - khi ấy đã rời Tòa soạn báo Tuyến Đầu, nhận

nhiệm vụ ở một đơn vị Thanh niên xung phong phối thuộc Trung đoàn Gia Định - đã

viết “Những bông hoa trên tuyến lửa”. Nhận được bài thơ, từ tòa soạn báo Tuyến

Đầu, Cao Vũ Huy Miên viết thư tay gửi theo xe quân sự gửi Quân: “Lực lượng triệu

tập, có hội diễn văn nghệ thanh niên xung phong. Ông xin phép rồi tìm xe bộ đội về

thẳng Sài Gòn. Mong gặp ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên”.

Từ Campuchia, lúc này được gọi là “Chiến trường K”, Đỗ Trung Quân theo xe bộ

đội, về tới Thành phố sau ba ngày đường dò dẫm qua những Phum Sóc không còn

bóng người và thỉnh thoảng lại gặp mìn gài lại của tàn quân Pol Pot. Sau gần hai

năm nhìn lại những ánh đèn Thành phố, mắt cay cay, Quân chen qua đám đông,

bước vào Nhà Văn Hóa Thanh Niên. Anh nhìn thấy ở đó những “chiến sỹ văn công

Tổng đội”: Ánh Hồng, Ánh Thu, Trương Tam Sa, Hoàng Tuấn, Kiều Nga, Kiều

Giang... Cao Vũ Huy Miên đón Quân sau cánh gà: “Tôi tưởng ông không về kịp…”.

Quân bước ra sân khấu, đặt chiếc ba lô xuống chân. Bộ đồng phục đã bị bụi

đường nhuộn màu nâu đỏ. Đỗ Trung Quân năm ấy, một gã trẻ tuổi đeo kính cận,

tóc tai bờm xờm, chỉ kịp giới thiệu mình bằng bài thơ vừa viết:

Ở giữa rừng đâu có gương soi

Làm sao em thấy được vết bầm trên má

Chuyến tải thương về mấy lần trượt ngã

Vì mùa mưa nào đã chịu dứt ở đây

Anh bộ đội thương binh vừa tỉnh lại sáng nay

Đã hỏi thăm em, người cáng thương đêm trước

Cô ấy ngã mấy lần tôi đếm được

Mà sao không khóc mới lạ lùng

Chắc anh hiểu rồi em ở tấm lòng

Nước mắt chỉ dành cho người ngã xuống

Nên dù té đau gai rừng tê chân buốt

Đâu để vết thương anh rỉ máu hai lần

Em là người thanh niên xung phong không-có-súng-chỉ-có-đôi-vai-cángthương-

tải-đạn…

Theo ông Võ Viết Thanh, nếu ông Võ Văn Kiệt không kiên quyết thì lực lượng

thanh niên xung phong đã không được trang bị súng. Sau những cái chết đau đớn

của các đội viên, nhiều vị lãnh đạo vẫn sợ: “Giao vũ khí cho chúng à?”. Ông Võ Viết

Thanh kể, khi đưa Lực lượng lên rừng, nhiều người vẫn lo “cái đội quân xô bồ, ô hợp

ấy mà tan ra thì hậu quả không biết thế nào”. Tổng cộng đã có 5.000 lượt thanh

niên xung phong tham gia phục vụ Chiến trường đánh Khmer Đỏ.

Ngoài ông Bảy Thanh, không phải nhà “lãnh đạo lực lượng” có “cầm cờ, đứng

tên” nào cũng “có một ngày đi với anh em” để biết sự tàn bạo của quân Pol Pot. Khi

được trang bị vũ khí, những thanh niên phục vụ chiến trường này đã chiến đấu như

những đơn vị quân sự thật sự. Chính những đội viên thanh niên xung phong xuất

thân từ những người lính chế độ cũ, từng được coi là “Ngụy”, giờ ấy đã tổ chức

huấn luyện cấp tốc cho đồng đội về chiến thuật, về cách sử dụng vũ khí để đánh lại

kẻ thù. Nhiều người trong số họ đã hy sinh anh dũng. Ông Trần Ngọc Châu cho

biết: “Công việc làm đường, tải thương và tiếp đạn đôi khi còn nguy hiểm hơn

những người chiến đấu. Trung đội tôi quân số 50 thanh niên xung phong, có 30

người chết”.

Năm 1982, khi tờ Tuyến Đầu của Thanh niên Xung phong bị lực lượng giải tán,

Nguyễn Nhật Ánh, Đỗ Trung Quân, Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đông Thức… trở về. Bộ

đồng phục xanh lá cây đã làm họ thay đổi rất nhiều sau khi thấm bằng mồ hôi và

cả máu. Thanh niên xung phong là tấm giấy thông hành đem lại ít nhiều kiêu hãnh

cho những người có nó. Chế độ mới đã coi những tấm giấy ấy như một chứng chỉ

hoàn thành cuộc sát hạch vinh quang. Hơn sáu vạn giáo sư, bác sỹ, sinh viên,

thanh niên lẽ ra có thể dành những năm đẹp nhất của cuộc đời mình để cống hiến

cho xã hội những gì mà họ thành thạo nhất. Vậy mà, để được chế độ thừa nhận, họ

đã phải xuống biển, lên rừng, bàn tay chai sần đi và kiến thức chuyên môn thì mai

một.

“Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”

Nhiều thanh niên “ngụy” đã bước qua cánh cửa Cách mạng thanh niên xung

phong rồi được trọng dụng hơn trong chế độ. “Nước sông công lính” đã giúp khai

hoang phục hóa hàng vạn hecta đất trong các vùng chiến tranh; đào được hàng

trăm kilomet kênh mương. Nhưng, không phải con kênh nào cũng thực sự có ý

nghĩa về thủy lợi; không phải cánh rừng nào bị tàn phá cũng để phục vụ quốc kế

dân sinh.

Ngày 3-3-1977, khi nói chuyện tại Đại hội Thanh niên Xung phong Tiên tiến, ông

Võ Văn Kiệt biểu dương: “Trong năm qua các đồng chí đã cất được hàng chục vạn

nhà, đào hàng ngàn giếng, đốn và chặt hàng triệu cây, phát hoang hàng trăm mẫu,

đã góp công góp sức vào việc hoàn thành trên ba mươi xã trong số tám mươi xã

kinh tế mới”. Thế nhưng, đến cuối năm, ngày 12-12-1977, trong lễ ra quân trên

“Đại Công trường Thủ công” xây dựng khu kinh tế mới Dương Minh Châu, ông đã

cảnh báo họ: “Đất nước còn nghèo, sống hôm nay phải nghĩ tới ngày mai, các em

cần bảo nhau hết sức quý trọng… từng tấc đất và mọi tài nguyên của tổ quốc! Phải

rèn giữ cho nhau từ bỏ thói quen xả láng, phung phí rất xa lạ với con người mới...

Tôi dặn các em chớ thấy cây rừng mà chặt bừa bãi. Cành cây chặt xuống đừng để

vương vãi, các em chịu khó thu nhặt lại, dành dụm được ít củi cho thành phố”.

Sau hai năm lên rừng để dọn sạch những “rác rưởi” của chiến tranh, mỗi lần trở

về thành phố vẫn thấy “nhan nhản những đám thanh niên tiếp tục sống bám vỉa hè,

nhởn nhơ bên lề xã hội, giết thời gian bằng cách lê la tiệm quán, hết đi lượn phố lại

tụ năm tụ ba ở những nơi công cộng”, nhiều thanh niên xung phong đã không khỏi

nhìn lại những năm tháng đi xa xây dựng chế độ mới của mình. Tại “Lễ mừng 46

năm thành lập Đoàn”, 26-3-1978, ông Võ Văn Kiệt nói: “Nhiều em cũng viết thư

cho tôi tỏ ý bất bình… Nhiều bạn trí thức sống lâu năm ở thành phố này cũng nói

với chúng tôi: Cảnh đó trước đây nhìn mãi quen mắt, không ai để ý đến nữa, tưởng

đời sống thanh niên thành phố vốn nó là như thế. Đến bây giờ không sao coi được.

Tôi rất muốn gặp các anh em đó, hỏi các em nghĩ gì về cuộc đời này, nghĩ gì về

cuộc đời bản thân của các em”.

Ông Kiệt muốn những người “lê la tiệm quán” ấy phải tự đặt câu hỏi về tương lai

của mình. Nhưng các “em thanh niên xung phong” viết thư cho ông Kiệt không chỉ

để chất vấn những người “chậm tiến” ấy. Điều khiến họ hy sinh những năm tháng

xa người thân, xa đèn điện là để kiến tạo một thành phố mới chứ không phải để

thấy rồi những “tàn dư Mỹ Ngụy” lại vẫn cứ quay về. Sáu vạn thanh niên rời Thành

phố đi xa, và sửa mình theo hướng mà Cách mạng cho là tích cực. Trong khi đó,

bốn triệu thường dân khác vẫn có nhu cầu để sống một đời sống bình thường.

Nếu như năm 1975, 1976, những văn nghệ sỹ miền Bắc khi đến Sài Gòn vẫn

thích đeo bên hông khẩu K54, thì những năm về sau, họ đã biết uống bia, biết áo

phông, quần bò. Theo Đỗ Trung Quân, bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự dồn

nén sau bảy năm “giải phóng”, còn lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà văn

miền Bắc, đến trước mặt anh chỉ đôi dép sa-bô, cái quần bò đang mặc và hỏi: “Ê

Quân, thấy bọn này Sài Gòn chưa?”.

Khi ấy, năm 1982, Đỗ Trung Quân viết:

Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót

Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi

Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để

sống đời lương thiện

Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng

xuống biển

Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình

Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…

Và khi ấy

Thì chính “các anh”

Những người nhân danh Hà Nội

Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới

Chửi đã đời

Chửi hả hê

Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình

Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh

Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!

Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc

Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt

Những bà mẹ làm ra hạt lúa

Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin

Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm

để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch

Bây giờ

Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”

Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân

Các anh

đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân

đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu

Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô

Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…

Rượu bia và gái

Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”

Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”

Các anh cũng chạy đứt hơi

Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ

Sài Gòn 1982 lẽ nào…

Lại bắt đầu ghẻ lở?

Tội nghiệp em

Tội nghiệp anh

Tội nghiệp chúng ta những người thành phố

Những ai ngổn ngang quá khứ của mình

Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”

Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật

Xin ngả nón chào các ngài

“Quan toà trong sạch”

Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi

Bình thản đổi thay lốt cũ

Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn

Hồn nhiên xanh muôn thuở

để yên cho xương rồng, gai góc

Chân thật nở hoa

Này đây!

Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa

Nơi một góc (chỉ một góc thôi)

Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở

Bây giờ…

Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”

Khi sống hả hê giữa một thiên đường

Ai bây giờ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro