Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

〖BEAST〗6

"..."

"Tới giờ hẹn rồi."

"Bọn Mafia Cảng còn chẳng thể đến đúng giờ. Thực thiếu chuyên nghiệp làm sao."

"Có lẽ bọn chúng muốn tế nhị báo đi thông điệp trao đổi tiền thưởng thất bại, nếu người Nhật không tư duy theo cung cách vòng vèo như đám người châu Âu." Gã đàn ông người Mỹ nói, giọng điệu đậm chất dân xứ Nassau của miền Đông Hoa Kỳ, đầy mùi trịch thượng của những khóm dừa ngả mình bên các biệt thự nối đuôi nhau kéo dài hướng ra bờ biển East End, và của cả những bữa tiệc với thảm đỏ trải dài đến cả ngàn ki-lô-mét. Chúng nối sang tận các vùng Châu Âu nội trong vịnh Long Island của những ánh đèn màu, nơi đêm thì dài nhưng ngày lại ngắn, nơi thời gian và không gian hữu hạn, còn niềm vui của con người mới chạm ngưỡng vô hạn. (1) "Tay Nakahara mới lên chức Boss đó chẳng có vẻ ra dáng mafia gì cả. Cứ thế này hẳn có lẽ chẳng chóng thì chầy, thủ cấp của bạch hổ cũng sẽ về tay người nên sở hữu nó."

"Ngài Fitzgerald, nhận xét về người Châu Âu của ngài làm tôi cảm thấy bị xúc phạm đó." Quý cô của giờ trà chiều Luân Đôn đáp lời, và theo như thông lệ trong sương mù và mưa rào của Anh quốc, thanh sắc đều đều vẫn nguyên vẹn như cách cô đã luôn khiến Tháp Đồng Hồ sừng sững tọa lạc tại trung tâm của thế giới, nơi ánh mắt bản thân đã tham chiếu tất cả những siêu năng lực gia trên đời với sự hời hợt cực đoan nhất. "Khác với đôi mắt của Chúa trời (2), phải để ý từng hành vi riêng lẻ thuộc về mỗi cá thể, rồi tự mình hun đúc ra kết quả sau cuối, tôi thuộc loại người ưu tiên chất lượng hơn. Ý tôi là... hầu hết mọi sự tồn tại trên thế giới này đều có thể tách lớp ra thành vài loại hình duy nhất ở mức độ tương đối nguyên thủy và đơn giản. Nhưng Tháp Đồng Hồ vốn không tuân theo nguyên tắc này, nên cá nhân tôi cho rằng ngài có thể hành động phó mặc tuỳ theo mong muốn cá nhân, ngài Fitzgerald ạ."

Thanh âm cuộc trao đổi không hẹn mà cùng rơi xuống cạnh bên những tích tắc đồng hồ nằm phía bên thứ ba của cuộc gặp mặt, từ phía kẻ vẫn chưa từng lên tiếng trong suốt quãng thời gian luận bàn khi nãy.

Mượn vấn đề xoay quanh trục của siêu năng lực vĩ đại nhất thế giới, The Guild đã gửi đi hoa và thiệp mời về một cuộc họp mặt khẩn cấp. Là cá thể đứng đầu của những kẻ vốn đã sở hữu danh tiếng bùng nổ trong việc luôn luôn sử dụng vật chất để giải quyết mọi vấn đề trong cuộc đời – dù hữu hình hay siêu hình, Francis cho rằng thứ duy nhất bản thân còn thiếu sót, vừa vặn làm sao, lại chỉ gói gọn trong hai cái danh xưng "chính thức" và "hợp pháp", tựa như Tháp Đồng Hồ nơi Dame Agatha Christie  thuộc về. Gã đàn ông người Mỹ biết, rằng đằng sau những cơn mưa rào và những chiếc dù đen của tháp Big Ben lúc vào năm giờ chiều, nơi này chẳng là gì ngoài tấm lá chắn bất hoại trước sự nảy sinh dồi dào của tầng lớp siêu năng lực gia đầy rẫy nguy cơ cần phải hết mức cảnh giác. Trở thành đồng minh với Agatha sẽ giúp hắn không cần quá bận tâm tới Sở Mật Vụ của Nhật Bản, cũng sẽ có thể nhờ thế mà toàn quyền lợi dụng vị thế của Tháp Đồng Hồ để lắp ráp lại những mảnh ghép còn khuyết thiếu trên bức tranh tuổi đời non trẻ và ngắn ngủi của The Guild. Và nếu xét theo một hệ số trực quan nhất, hắn có thể tự tin mà khẳng định rằng cả hai tổ chức đang có mặt tại đây đều đại diện cho sự quyền uy và tối ưu nhất của một thế giới vừa hỗn loạn cũng vừa có trật tự. Tháp Đồng Hồ xuất hiện như một nỗi sợ nguyên thủy về quyền uy tuyệt đối, còn con cá nhà táng của ngài Fitzgerald lại tựa cái hòm đầy ắp tham vọng để đời mà hữu hình, song song cùng những bản tính của con người lập lập lờ lờ rất dễ để khống chế khi được cung cấp cho đủ cả vật chất lẫn tinh thần.

Tấm thiệp mời thứ hai chuyển hướng Francis tới góc quay của camera, làm lộ ra hình ảnh của nhân vật còn lại, đối tượng mà Louisa đã vài lần đề nghị hợp tác khi cả hai từng bước hiện thực hóa kế hoạch còn chưa ráo hẳn mực; kẻ mệnh danh hiện thân của nỗi sợ vô hình và vô thực.

Nếu Agatha Christie đã chia thế giới ra làm hai kiểu người là vô dụng và hữu dụng, thì người Mỹ sẽ đặt dấu chấm hỏi của sự nguy hiểm cho ba phạm vi khác nhau: tiền bạc của đám người ngu ngốc ở Manhattan, quyền lực của mấy kẻ rửng mỡ ở Capitol Hill, và cuối cùng, những hồn ma vẫn sống nhưng chẳng thể sở hữu bất kì điều chi cứ mãi lang thang vạ vật ở dưới chân cầu Brooklyn từ suốt những năm 1883; nơi mà chỉ trong hơn một nghìn feet cũng có thể biểu lộ rõ ràng ranh giới rất mỏng giữa phải sống và được chết. (3)

Kẻ còn lại, đại diện của những cá thể không đặt ham muốn lên tiền bạc, càng chẳng màng tới việc truy cầu quyền lực; người đó tái hiện hình ảnh của những mầm mống có tuổi đời hữu hạn nhưng lại có thể giăng lên những cái chết vô hạn, bước ra từ rãnh cống của bóng đêm và cái chết đen khiến cả châu Âu thế kỷ mười bốn phải câm lặng, im ỉm mang trong lòng những lí tưởng tuyệt đối mà không kẻ nào được phép đặt dấu hỏi hoài nghi. Đối diện với sự tồn tại đó, Agatha không thể dùng quyền lực của mình để hình thể hóa suy tưởng của hắn, mà Francis chẳng đời nào đủ khả năng sử dụng tiền bạc vật chất hóa nổi những âm mưu thẳm sâu dưới đáy cặp mắt ngả tím, nơi mà mặt trời dù đã ngót bốn tỷ năm tuổi cũng chẳng thể soi sáng tới kia.

Tựa chất kịch độc sẽ khiến người ta chết mà không nhắm mắt; giống như cách Louisa đã nhỏ nhẹ bày tỏ trong sự hoài nghi vẫn còn tồn tại của Francis; hắn hướng mắt về phía những bông thược dược đen lênh láng đổ trên lớp tường thạch cao màu xám tro, cùng với một Fyodor Dostoevsky hiện lên với nụ cười quen thuộc như thể cả ba người bọn họ đã gặp gỡ nhau đến cả trăm lần.

Gã nói, "Tôi thiết nghĩ..."; chất giọng sệt âm hưởng nước Nga đặc quánh, vang lên thông qua micro rồi dội lại như thể hắn đang bị cầm tù trong một căn phòng rất chật hẹp, không tồn tại ánh sáng cũng không có bóng tối, không tiền bạc và cũng chẳng hiển hiện quyền lực. Nhưng ánh mắt gã vẫn cong cong, có vẻ chẳng quá bận tâm tới hai tông vàng kim và một tông xám xịt (4), giọng điệu như bản cello hạ màn của một khán phòng giao hưởng có đến vài nghìn thính giả nhưng tất cả đều hoàn toàn câm điếc. "Cựu thủ lĩnh của Mafia Cảng đã chết, nên đương nhiên tôi phải dành lấy vài phút để cầu mong cho linh hồn hắn sẽ được yên nghỉ nơi Hỏa Ngục."

"Hơn nữa, có vẻ một số thông tin mà tôi nắm giữ về Dazai Osamu lại chưa thực sự chuẩn xác. Vốn tôi luôn nghĩ rằng sẽ là rắn ăn thịt rắn (5), nhưng phần ác thú đội lốt dáng hình con người hóa ra vẫn có thể nhân từ đến thế – chỉ tiếc rằng cậu Nakahara lại mang bộ dạng hoàn toàn không khác biệt mấy với đám sinh thể chỉ biết sử dụng vũ lực để hiện thực hóa lý tưởng. Tuy vậy, tôi khá chắc vẫn còn những yếu tố khác buộc phải cân nhắc kĩ càng trước khi thực sự đổ bộ Yokohama."

"Dazai Osamu không còn sống nữa, nhưng điều đó sẽ làm mọi thứ trở nên khó khăn hơn rất nhiều, quý ngài Fitzgerald ạ, vì người ta sẽ chỉ để ý đến một con sư tử hung hăng chứ hiếm khi nhác thấy cái xác nhiễm độc của con linh cẩu đã chết đằng sau nó. Việc hắn không còn tồn tại bằng xương bằng thịt trên thế giới này thực tế đại biểu cho một sự vô hình không thể nắm bắt, một trong những điều mà; tôi cho rằng; có thể làm tiền đề sinh ra loại vũ khí vi diệu nhất mà một cá nhân đủ khả năng kiến tạo chỉ bằng cách hiến dâng máu thịt chính mình."

"Tuy nhiên, xác thịt thì vẫn có giá trị về vật chất hơn là linh hồn. Bởi lẽ đó... ngài đã tự do rồi, Fitzgerald. Xin hãy tùy ý làm những gì trái tim ngài mách bảo."

"Nguyện cho,"

—Tiếng chuông của nhà thờ vang lên, lóe lên giữa đất trời rặng chớp bạc lẫn những máu và nước mắt của Đức Mẹ đồng trinh.

"... bàn tay của Chúa và Ác Quỷ dẫn lối ngài."

***

Tân Thế Giới có tin vào Chúa trời không?

Ngay vào khoảnh khắc Christopher Columbus dẫn đầu ba đoàn thuyền tiến vào eo biển Caribbean, hẳn có lẽ ông ta sẽ là người có câu trả lời chính xác nhất cho câu hỏi ấy.

Đáng tiếc, mọi thứ sẽ chỉ vĩnh viễn dừng ở mức "có lẽ" thay vì "chắc chắn", bởi người thiên cổ thì vĩnh cửu ngủ yên ở thì quá khứ.

Francis kéo cổ áo, thay mặt Tân Thế Giới "mới" sau cơn Đại khủng hoảng năm 2008 trả lời tiếng vọng của Moskva, thản nhiên chê trà nguội, lại nói. "Thật ra lúc đầu,"

Trong Sáng Thế Ký, vào bảy ngày Đức Chúa Trời kiến thiết ra vạn vật, không có tiền bạc.

Mà gã lại chỉ tin vào tiền bạc.

"Bọn ta đã định bắt cóc Tiger-man." Francis nói, nở nụ cười tiêu chuẩn đậm chất thương gia.

Chuuya khoanh tay, mặt không đổi sắc. Chỉ có nụ cười khinh khỉnh của anh tiếp tục quen thuộc xuất hiện trên đuôi mắt nhàn nhạt phía sau những lọn tóc mái đã hơi dài.

"Và đã thất bại rồi. Phá sản hoàn toàn." Anh nói, gần như bật cười thành tiếng. "Xem nào, truyền thuyết đô thị này, thực hiện âm mưu bằng tiền bạc này, chưa bao giờ thất bại này, kẻ thao túng cổ phiếu và chứng khoán này? Thà thay cái mớ đó bằng mấy bài đồng dao của hoàng đế lưu vong thì giờ còn đỡ xấu hổ hơn đấy, phải không? Nhưng ta sẽ không nói rằng trông các ngươi rất thảm hại đâu— vì dù sao thì chỗ rượu đó... ta sẽ miễn cưỡng coi như tạm được. Và giờ, để ta thú thật nhé, ta bắt đầu thấy thưởng thức lũ người Mỹ các ngươi xoay như chong chóng cũng đôi chút giải trí."

"Ôi chao." Francis đáp, gần như đang phàn nàn trong lúc ngón trỏ đang hơi miết trên tách trà trắng sứ hãy còn hấp hơi từ khí nóng ở vành cốc. Gã ngả người vào lưng ghế đằng sau và nhấc hẳn mắt lên nơi trần nhà, liếc qua ngọn đèn treo lấp lánh, tự lẩm bẩm khen ngợi rằng thứ này nhìn qua nhìn lại ngạc nhiên thay lại cũng rất có không khí của thời Phục Hưng. "Nếu có phải trách cứ ai, thì đáng nhẽ nên trách Cơ quan thám tử của thành phố này quá... nhiệt tình với việc theo đuổi chủ nghĩa lãng mạn chứ. Ai đời lại từ chối một vali tiền tỷ, trong khi chẳng thèm thử suy nghĩ tới vận may phía sau đó dù chỉ một lần? Kể cả là ta đi chăng nữa, thì ta cũng sẽ cân nhắc trong vòng năm phút để suy xét giữa việc lùi chuyến nghỉ dưỡng với vợ và bảy tỷ Yên treo thưởng cho cái đầu Tiger-man. Hay đồng Yên lại trượt giá rồi?"

"Thôi khoe khoang đi, người Mỹ. Nhưng chỉ để thử vận may thì xem chừng các người cũng khá hào phóng về mặt thời gian đấy."

"Thì bọn ta đã nói rõ rằng không nhất thiết phải thành công trong một lần mà. Chỉ cần thử sức thôi, thì biết đâu đấy. Dẫu sao tiền bạc cũng chẳng phải vấn đề, thứ duy nhất bọn ta cần bận tâm trước mắt chỉ là phải có một cái nhìn, ờm, Louisa dùng từ gì ấy nhỉ Steinbeck, 'tóm tắt?" Gã đàn ông người Mỹ quay qua hỏi cậu thanh niên bên cạnh, ậm ừ thêm vài giây rồi mới kết luận. "À, phải, 'tổng quan'. Đúng, bọn ta chỉ cần một cái nhìn 'tổng quan' để tính toán xem trong quá trình bắt được Tiger-man thì sẽ cần đầu tư bao nhiêu của cải lẫn thời gian thôi. Dù sao ở cái thành phố Cảng này chẳng hiểu sao lại cứ mãi hỗn loạn, theo một cách vô nghĩa đầy phí phạm. Ta từng nhìn thấy và quen thân với xã hội được phân hóa bằng tiền bạc và quyền lực thôi, chứ chưa bao giờ thấy bình minh, chạng vạng và lúc nửa đêm ngoan ngoãn chia nhau khung giờ để cai trị như thế này đâu. Cái Sở Năng lực thì không cho người nước ngoài vào trừ khi hẹn trước – mà ôi chao, tiếng Nhật... ta chịu chết. Đã thế còn phải đưa ra lý do, mà người duy nhất giỏi việc giấy tờ trong The Guild thì chỉ có Louisa, nhưng Louisa thì chẳng bao giờ chịu ra ngoài đâu! Cô nàng hình như thấy ta quá dễ tính nên mới làm vậy hay sao ấy... Dù cho ngay từ đầu Louisa đã kết luận sau hằng mấy con số tỉ tỉ trăm trăm của cô nàng rằng 'thể nào chuyến thương lượng với mấy vị người Anh và gã cuồng tín người Nga cũng không có xác suất thành công cao', và lần này cũng vậy. Louisa đúng là ít nói, nhưng một khi đã nói thì chẳng sai đi đâu được. Cơ mà vấn đề nằm ở chỗ, dù cho có là Louisa thì cũng chỉ giỏi vẽ đường cho hươu đi thôi, chứ nhắc tới thử chạy thì cô nàng nào dám. Hay thác Niagara bây giờ cũng bắt đầu thôi chảy xiết nhỉ?"

Giọng nói của Francis lên xuống liên tục giữa cả tá nốt thăng cùng rê rung rất dài, dai dẳng tới mức khiến người ta còn nhức đầu hơn cả tiếng địa phương của những vùng phía Nam hay Osaka và Kansai-ben. Nhưng Chuuya có thể thấy được đằng sau những câu than thở dài dằng dặc ấy của Francis cũng chỉ là một câu chuyện rỗng tuếch, cảm tưởng như ngồi ở phía đó chỉ rặt tiền chồng lên tiền, và mọi suy nghĩ đều chỉ dừng lại dạng vật chất thông thường chứ chẳng hề ẩn ý sâu xa. Có lẽ hắn đang thật sự than phiền; anh nghĩ; giống như những bữa tiệc dông dài của giới thượng lưu Mỹ cũng chỉ đơn thuần được tổ chức để mua vui cho đám tài phiệt chứ hoàn toàn chẳng chứa đựng dù một nhúm triết lý hay chính trị. Tất thảy đều chỉ mang tính tạm thời lửng lơ, không hơn cũng không kém.

Chuuya híp mắt, không cho phép bản thân tốn quá nhiều công sức vào câu chuyện lan man về xứ sở nghìn lẻ một đêm của tay trọc phú người Mỹ kia. Dù chỉ mới ngồi lên cái ghế Thủ lĩnh Mafia Cảng không lâu, nhưng từ khi chỉ mới là một trong bốn quản lý của tổ chức, Chuuya cũng đã từng thay mặt Boss tiếp đón vô số kẻ như gã đàn ông đang đủng đỉnh trước mặt anh đây, với muôn hình vạn trạng, không nhất thiết phải tóc vàng, cũng không nhất thiết phải mắt xanh, nhưng hầu hết đều đặt chân tới Yokohama chỉ với những mục đích có tính chất tương đương nhau, sử dụng phương pháp cũng tương đương nhau, và cũng hay nói chuyện theo một phong cách rất tương đương nhau – đều thường hay có thói quen thuận miệng để lộ ra một vài thông tin rất đáng để lưu tâm, như là về phiên họp sắp tới ai sẽ thắng cử, hay cụ thể hơn, trong cuộc trò chuyện vẫn còn đang tiếp diễn, "người Nga" trong ý tứ hắn là ai?

Đây có lẽ cũng là một trong những lý do tại sao Ace mãi mãi chỉ là một tay quản lý quèn giàu có về vật chất nhưng nghèo túng về mặt địa vị; vì chính Cựu thủ lĩnh đời hai đã từng tỉ mỉ phân tích cho Chuuya; rằng những kẻ nào có thói quen tung hô tiền bạc lên vị trí đầu não thường sẽ thất bại trong cốt cách và ứng xử cơ bản nhất của một người trị vì. Ace cũng thế, mà Francis lại càng như vậy. Con chuột ở vế trước thì thường nhăm nhe cơ hội phản bội, còn tay nhà giàu đằng sau lại vì quyền lực ngắn hạn mà quên mất kẻ phản bội lớn nhất có thể lại chính là bản thân hắn...

Nên đương Thủ lĩnh của Mafia Cảng mím môi, đơn thuần đặt ra một câu hỏi ở lưng chừng của sự hiếu kỳ thuần túy và cái dửng dưng vô tình: "Người Anh? Người Nga?" Anh nói, trưng ra một thái độ mang phân nửa hời hợt, không rõ ràng tới mức khiến kẻ như Francis hiếm khi lại tinh tế đến độ để ý tới mối quan tâm này từ phía anh. "Tổ chức của các người có vẻ đa chủng tộc quá nhỉ, quả xứng với cái tên 'Hợp chúng quốc' ấy đấy."

"Ôi chao, đi mà nói câu đó với tổ tiên của ngươi ấy." Francis đáp, bỏ ngỏ nửa cốc trà đen vẫn còn hơi đắng trong không khí. Gã lẩm nhẩm gì đó về Macallan 1926, Adami, hơn một trăm triệu yên, và những con số dư thừa quái đản mà gã có thể nghĩ ra. Xem chừng Francis chẳng còn đặt quá nửa sự chú ý vào cuộc trò chuyện phía trước, sau khi đã lảm nhảm đủ điều về cuộc đời mình.

Gã nói, đầy vẻ hời hợt, chẳng tồn tại chút xíu cái gọi là khách sáo của đám người Anh. Dù sao Chuuya cũng đã sớm nghĩ đến Tháp Đồng Hồ rồi. "Ta đã nghĩ người Nhật thì không biết nói tiếng Anh. Chẳng hiểu sao cửa hàng tiện lợi mà nhân viên đến một câu giao tiếp thông dụng nước ngoài còn ngắc ngứ nữa."

Chuuya chỉ ồ một tiếng, nhún vai, không buồn phản ứng. Sự bất động trong biểu cảm của anh có lẽ đã khiến Francis sốt ruột hơn nữa - khi phải nói rằng trong suốt cuộc đời gã, kể từ lần đầu Francis thu mua giấy chứng nhận sở hữu chuỗi khách sạn ở St. Lucia và trực tiếp cùng Zelda xem xét ngày qua ngày liệu cá ngựa rốt cuộc đến khi nào mới tiến hóa - Francis chưa bao giờ bị từ chối nhiều như thế này.

Tân thủ lĩnh Mafia Cảng dửng dưng đáp, "Ta từ chối giao ra Atsushi."; thậm chí còn bồi thêm một lời nữa, giọng như trà lạnh; vừa đắng vừa không tươi. "Kèm một lời khuyên chân thành từ ta này: tốt nhất là nên từ bỏ cái ý định đó đi." Anh ngẩng mắt nhìn gã – từ đồng tử màu bão tố đã sớm phản chiếu lại một loại ý định nào đó mà đám người ngoại quốc chỉ mơ hồ nhìn thấy chứ không thể hoàn toàn đọc ra. "Hoặc ngươi có thể cứ thử, ta chẳng ngăn cản đâu. Mơ ước là quyền tự do của mỗi người."

"Nhưng, ngươi nên khắc sâu điều này vào bộ não chỉ có tiền những tiền, bé tin hin đó," Chuuya nói, giọng điệu rất thong dong, "rằng khi một câu chuyện đã có tiền đề, cái kết của nó gần như không thể lay chuyển. Không một ai đánh thuế giấc mơ. Nhưng mơ mộng hão huyền thì thường phải chịu đòn đau đấy."

Francis vì những lời này mà ngẩn người vài giây.

Chuuya đã đột ngột kéo lại trong gã một quá khứ xa xôi, một quá khứ mà gã phải làm việc ròng rã hai mươi tư tiếng trong vòng ba mươi tám ngày mới có thể mua được một khẩu súng, một quá khứ mà fine-dining chỉ là một truyền thuyết đô thị, còn bu-gơ nhớt mỡ như bị nhúng trong thùng dầu cùng những miếng khoai tây èo uột mới là thực tại. Một quá khứ không dễ chịu lắm cho cam - Francis luôn nghĩ như vậy - nhưng nó là sự thật, một trăm phần trăm sự thật, không thể xóa nhòa hay che giấu. Mà hắn lại không có thói quen chối bỏ những thứ đã từng tồn tại, dù bây giờ chúng còn thuộc về hắn hay không.

Tuy nhiên, hắn vẫn luôn có nhiều hơn sự thiển cận của những tay trọc phú mới nổi. Francis khi đối diện với một quá khứ không thể thay đổi, giống như sơn động được tạc lên bởi thời gian, hắn đã đánh đổ những giá trị văn hóa ấy bằng sức mạnh của đồng tiền. Francis mai táng quá khứ bằng cách nắm quyền cả ngành sản xuất vũ khí của nước Mỹ bằng những đồng đô xanh vàng và những tờ chi phiếu vô hạn; và cũng như để tưởng niệm những năm tháng đã qua, những năm tháng khi mà gã còn làm ở trong nhà máy cơ khí ở thung lũng Ashes, ở những khu đồi hoang trơ trọi nằm ngẩn ngơ giữa East Egg và Manhattan – nơi Francis từng trông theo đèn led và sâm panh như một giấc mơ xa xỉ – còn cuộc đời gã những tưởng như sẽ vĩnh viễn nặng mùi da thuộc trải dài, hằn lên những vết chai từ việc phải cầm bu-lông, đinh vít, cùng mũi kềm mỗi ngày, mỗi-ngày; thì Francis cuối cùng đã thành thạo biến ngành sản xuất xe đua thể thao thành sân sau những công ty thiên về hạng mục kinh tế của bản thân, cũng xuất sắc để thời gian bỏ ra cũng chỉ cần đếm trên đầu ngón tay, chẳng tốn quá một thập kỷ đằng đẵng của một nền kinh tế thất thường đầy biến động.

Nhưng với đám người Nhật của thời đại bây giờ - một đám những kẻ đã quen với việc chưa từng trải qua cái đáy của nghèo khó - cũng lại chưa từng đứng ở trên đỉnh cao vinh quang như Francis; chúng đương nhiên sẽ vĩnh viễn không biết thân phận của mình nằm ở đâu, rốt cuộc lay lắt chốn nào, và phải giữ thái độ như thế nào mới đúng với danh tiếng và địa vị của đồng tiền.

"Tôi cho rằng giao dịch đã thất bại." Francis đặt tách trà xuống, hoàn toàn không còn cảm thấy hứng thú với ngành chế tác đồ thủ công Nhật Bản nữa. "Cũng chẳng bất ngờ. Đó cũng có thể diễn giải như lý do tương đương để giải thích tại sao giá trị kim ngạch của Nhật Bản trong G7 chẳng bao giờ cao hơn được các thành viên còn lại."

Bảng Anh, Rúp Nga, hay là Yên Nhật – chỉ cần gã có đủ tiền, tất thảy bọn chúng đều sẽ phải phủ phục trước Francis. Không gì có thể thoát khỏi sự chi phối của tiền bạc, cũng không gì có thể phỉnh phờ mãi trước tiền bạc. Mọi thứ đều thật phù phiếm, kể cả là những giá trị tinh thần khiêm tốn nhất; và nếu tự tôn của lũ người Nhật cứ vĩnh viễn không biết chừng mực như vậy, Francis sẽ tận dụng năng lực giỏi nhất của gã để chúng sâu sắc hiểu được rốt cuộc bản thân đang đối mặt với điều khủng khiếp gì.

Những thảm cỏ mượt, những ngọn đèn xanh, và ngọn đèn treo gió trước cửa dinh thự đã lưu lại tất cả dấu vết của một giấc mơ thuần phác nhất trong Francis. Gã tự biết là vậy. (6)

"Nếu anh cảm thấy hối hận, thì anh biết phải tìm tôi ở đâu rồi đấy, Nakahara Chuuya."

Francis quay bước rời đi, không quá quan tâm tới việc vali đựng tiền còn chưa hề được mở ra.
"Nhưng như quy tắc bất thành trong mọi loại giao dịch, bất kể thương mại hay phi thương mại – tôi không chắc đến lần đàm phán thứ hai, lợi ích sẽ còn được duy trì như lần đầu tiên đâu. Cơ mà nể mặt tách trà nguội khi nãy, tôi sẽ cân nhắc ưu tiên một chút nếu anh thay đổi suy nghĩ của mình sớm nhé."

Chuuya đáp, khuôn mặt không vui cũng chẳng buồn. "Tôi không tiễn khách." Song, như nghĩ ngợi thêm gì, anh lại bổ sung, "Lần sau nếu các người đến mà không báo trước, cơ chế tự bắn hạ vật thể lạ sẽ được kích hoạt đấy."

Francis chỉ ồ một tiếng trước khi cảnh cửa gỗ nặng trịch đóng lại, giống như ranh giới tách biệt Nhật Bản với thế giới, cũng giống như lằn ranh mà những kẻ khác phải vĩnh viễn phủ phục trước Mafia Cảng nếu chúng muốn khuấy động màn đêm Yokohama.

Khóe môi Chuuya nhếch lên trong thoáng chốc.

***

"Uầy Boss~ Ngầu quá rồi đấy~"

Điều hành viên thứ nhất xuất hiện sau tấm bình phong ở căn phòng thông lối bên cạnh, Pianoman - vẫn đang khoác trên môi nụ cười không rõ ý tứ như mọi ngày - đột ngột ôm lấy cánh tay Chuuya, dường như hoàn toàn mặc kệ hai tiếng "thủ lĩnh" mà chính bản thân cũng vừa thốt lên.

Chuuya tặc lưỡi, "Phắn đi.", song vẫn không có ý giằng cánh tay ra khỏi cái ôm của người kia.

"Xem chừng có lẽ phải báo với chị đại rồi?"

"Biết đến thế rồi mà còn không tự giác nhấc mông lên?"

"Ôi chao~ Tôi chỉ muốn xác nhận lại thôi mà, boss. Sao mà dã man quá." Pianoman bật cười, "Xem chừng Chuuya nhạy bén hơn hẳn rồi đó nha. Chẳng bù với cái hồi xưa lúc mới gặp tụi này, khó ở kinh niên luôn."

Tân thủ lĩnh của Mafia Cảng hạ tầm mắt xuống, không hiểu sao lại tự mình giải trình – vì tôi không tin rằng vở kịch này của Fitzgerald lại khuyết mất, ít nhất một người, cùng song diễn. Giống như kịch Noh, dù cho tôi còn sống, Dazai lại đã chết, nhưng chắc chắn vở kịch này vẫn sẽ được tiếp tục tiến hành với vô số diễn viên nữa mà tất cả chúng ta đều không thể biết được ý đồ thực sự của tay biên kịch.

Ngoại trừ  gã khốn kiếp Dazai Osamu.

Nhưng tất cả cũng chỉ dừng lại ở khóe miệng Chuuya chứ chẳng biến được thành hình.

"Nhờ Lippman đi. Cậu ta giỏi nhất mấy cái này mà."

"Tuân lệnh thủ lĩnh~" Pianoman gật gù, mái tóc bob trắng hơi bay bay theo gió, "Thế còn đám ngoại quốc kia thì sao?"

Chuuya im lặng, một lúc sau mới từ tốn lên tiếng.

"Dân kinh tế thì thường có khái niệm trả trước mà, đúng không?"

Thay mặt  "ban đêm" của Yokohama, gửi tới chúng một phần lễ nghĩa.



--------------------------------


Chú thích:

(1) Nhà ở của nhân vật Gatsby trong :"The Great Gatsby".

(2) "Đôi mắt của Chúa trời" của tiến sĩ T.J. Eckleburg trong "The Great Gatsby", là đôi mắt nhìn xuống thung lũng tro - nơi mà mọi bất hạnh của tất cả các nhân vật đều diễn ra ở đây, mà hầu hết những bất hạnh đó đều xuất phát từ lòng tham và sự thiếu khôn ngoan. Việc này hàm ý rằng Agatha không muốn để bản thân nhúng bùn chung vì những điều như vậy.

(3) Theo góc nhìn của mình thì Fyodor, rằng để đạt được lí tưởng của mình, dù có phải bò lên từ địa ngục, Fyodor chắc chắn sẽ bất chấp tất cả để hoàn thành niềm tin tối cao nhất của bản thân. So với đám người ở dưới chân cầu Brooklyn, việc "phải sống và được chết" của Fyodor đương nhiên là sẽ ở một tầm lí tưởng cao hơn, cũng vì thế mà Fyodor có thể vừa mang trên mình hình hài của người thấu hiểu nỗi đau của sự vô định (không tiền bạc, không quyền lực), cũng có thể lợi dụng sự thấu hiểu đó để điều khiển người khác. Nhưng Francis ở đây đã không hiểu sâu kỹ đến thế vì Fyodor, chính vì thế mới có nhận định như vậy (và cũng là nguyên nhân cơ bản của việc bị lợi dụng trong tương lai về sau).

(4) Ám chỉ quyền lực và tiền bạc tuyệt đối của Francis và Agatha, và màu xám còn lại là tông màu đục nhất trong bảng màu, không thể nhìn rõ được điều gì đang giấu sau sắc độ ấy.

(5) Liên hệ tới việc Fyodor nhìn nhận Dazai và Chuuya như Ivan và Dmitri trong "Anh em nhà Kamazarov", khi Ivan là kẻ đại diện cho phần người đậm chất "con", còn Dmitri lại là cá nhân đại diện cho phần con đậm chất "người".

(6) Lấy cảm hứng từ trích dẫn trong "The Great Gatsby", "I thought of Gatsby's wonder when he first picked out the green light at the end of Daisy's dock. He had come a long way to this blue lawn and his dream must have seemed so close that he could hardly fail to grasp it." - câu văn diễn tả sự thịnh vượng của Gatsby là đại diện của một phần giấc mơ Mỹ, khát khao sử dụng đồng tiền để đạt được hạnh phúc triệt-để nhất, nhưng cuối cùng lại là hình thái của sự tham lam (việc Gatsby tìm kiếm tình cảm ở Daisy bất chấp việc cô đã có chồng) và hư ảo (nên cuối cùng phải nhận lấy cái chết, vì mơ ước này là vô lý). Nhưng cuối cùng Gatsby vẫn không nhận ra mình đã đi sai ở đâu - giống như Francis ở trong đoạn truyện này. Gã đang tham vọng về một điều vượt ngoài tầm với nhưng lại cho rằng có thể sử dụng tiền bạc để đạt được chúng. Cái kết đương nhiên của Francis chính là thất bại, cũng như giấc mơ của người Mỹ, và cái chết của Gatsby

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro