chap 3
Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Tuyệt, tuyệt, ‘nhất thụ lê hoa áp hải đường’, lối so sánh này thật tuyệt, dùng chữ ‘áp’ lại càng hay, chỉ có điều vị tiên sinh họ Tra này tuổi cao quá, sợ rằng có muốn ‘áp’ cũng không nổi nữa rồi, hahaha…”
Tiêu Hải Đào và Dạ Vũ nghe nói không nhịn nổi cười, mắt Dương Hạo cũng lấp lánh sáng, nhân cơ hội đó liền nói: “Đúng vậy, lão phu tử trong thôn có diễm phúc như thế thật khiến người ta ngưỡng mộ. Đúng rồi, Hoàng Phủ tướng quân nói rằng Quốc vương mấy năm gần đây không nạp phi tần phải không? Thật kỳ lạ, khi bản quan đến dự yến tiệc cũng đã gặp không ít cung tần mỹ nữ, nhưng họ không để tóc giống như phụ nữ đã có chồng, còn về cách trang điểm cũng không giống thị nữ trong cung, điều này quả có chút kỳ lạ”.
Dạ vũ bị lấy ra so sánh với lão Tra 80 đã có phần xấu hổ, nghe nói vậy liền tiếp lời: “Tả sứ đại nhân, điều đó cũng không có gì là kỳ lạ, các thiên kim đều phải vào cung yết kiến nương nương một lần, như tả sứ đã thấy, đều là người nhà của các vị đại thần cả”.
Hắn khom lưng chắp tay khen: “Quốc vương và nương nương nước tôi thường ngày gần gũi với mọi người, cùng vui cái vui của bách tính, còn thường xuyên xuất cung du ngoạn, lên chùa dâng hương lễ Phật, các chư vị mệnh phụ, thiên kim của triều thần càng thường xuyên được tiếp kiến để tặng lễ vật. Đúng rồi, cháu gái của Lâm Nhân Triệu đại tướng quân Mạc Thu Nương cũng chính là được nương nương để mắt đến trong lần đi tháp tùng Lâm phu nhân vào cung, hiện là tâm phúc của nương nương, tình cảm như chị em vậy”.
“Cháu gái của Lâm Hổ Tử?”
Dương Hạo không khỏi giật mình, Lâm Hổ Tử? Oa Oa đã từng nói rằng Tử Du đã từng đàm luận với Lâm Hổ Tử, muốn mượn quân Đường để thừa cơ nội bộ quân Tống trống rỗng chưa kịp xuất binh để đánh úp, nhưng kế hoạch đó đã bị Lý Dục cản được. Cô nương mình đã gặp ở trong cung trông hao hao giống Tử Du, không lẽ…
Một ý nghĩ táo bạo đột nhiên xuất hiện trong đầu Dương Hạo : Nếu như Tử Du không từ bỏ ý định, sau khi nguy cơ Khai Phong cạn lương thực bị phá sản nàng không chịu quay về Tây Bắc mà lại đến Giang Nam, thì…, cô nương ta từng gặp trong cung có dáng dấp 9 phần giống với Tử Du, e rằng đó đúng là Tử Du, nếu như quả thật là nàng, thì nàng đến nước Đường, trà trộn trong cung nhà Đường với mục đích gì?
Nghĩ như vậy, Dương Hạo thấy như ngồi trên đống lửa, mưu đồ của Tử Du thật to lớn, nàng muốn bằng mọi giá phải thay đổi số mệnh. Ở Khai Phong, nàng bất động thanh sắc mà mang tới cho triều Tống một trận đại họa cơ hồ rung chuyển cả xã tắc, có trời mới biết nàng đến Giang Nam với mục đích gì, ngộ nhỡ gặp phải tai họa gì thì liệu nàng có bị nguy hiểm đến tính mạng? Những chuyện đại sự liên quan đến quân quốc, một khi sự tình đổ bể thì cũng không thương tiếc đến phận nữ nhi.
Trong ấn tượng của hắn, thì Tống quốc diệt Đường đại khái là chuyện của hai năm về trước, khi có chiến tranh, kể cả một con cá vô tội cũng không tránh khỏi bị tai ương, huống hồ Tử Du trà trộn làm việc trong cung đình, cũng tuyệt đối không phải là một con cá vô tội, mà là một con yêu tinh làm mưa làm gió.
Dương Hạo chỉ hận một nỗi là không thể bay ngay về thành Kim Lăng, xem Mạc cô nương rốt cuộc có phải là Chiết Tử Du hay không, nhưng ngoài mặt vẫn phải giả vờ không có gì, chỉ trầm ngâm nói: “Mạc cô nương? À…, ta đã gặp cô nương xinh đẹp ấy rồi, khi đó cô ấy chỉ mới vào cung, không làm bạn với các mệnh phụ khác, nghĩ ra chính là Mạc cô nương mà Dạ đại nhân nhắc đến”.
“Vậy đích là cô nương ấy rồi”. Hoàng Phủ Kế Huân có chút thèm thuồng nói: “Mạc cô nương đích thị là xinh đẹp phi phàm, chẳng trách Dương sứ mới gặp đã khó quên, hihi, không giấu tả sứ đại nhân, cô cháu gái của Lâm Nhân Triệu cũng mới đến Kim Lăng trước đó không lâu, khi tại hạ lần đầu gặp gỡ cũng bị vẻ đẹp của nàng khiến cho động lòng
Hắn tiếc hận mà lắc lắc chiếc dĩa, than thở: “Với thân hình diện mạo đẹp như nàng, vốn cũng xứng đôi với bổn tướng quân, chỉ có điều… tại hạ với cậu của nàng không hợp nhau, nếu không thì…quả thật muốn đem người tới cầu thân”.
Dương Hạo nghe nói Mạc cô nương chỉ mới xuất hiện ở Kim Lăng không lâu, trong lòng nghi ngờ rất nhiều, rất muốn ngay lập tức đi kiểm tra thân phận của nàng, nhưng đi du ngoạn Thải Thạch Phàn là chủ kiến của hắn, hắn không thể ngay lập tức đòi về, liền nói: “Dương Mỗ tửu lượng có hạn, không thể uống tiếp được, đêm nay chỉ e không thể ở lại Trích Tiên Lâu này được, hà hà, hai vị đại nhân, chi bằng chúng ta nhân hứng này lại du ngoạn Phàn Thượng một phen, sau khi trở về uống một ấm trà rồi quay lại Kim Lăng thành đi thôi”.
Hoàng Phủ Kế Huân cười ha hả nói: “Tả sứ đại nhân quả thật là nhanh quá, mới nghe nói đến mỹ nhân Giang Nam đã không thể ngồi yên được rồi”.
Dương Hạo cảm thấy buồn cười, thuận miệng nói: “Cái này, vẻ đẹp của sơn thủy đương nhiên khiến người lưu luyến, vẻ đẹp của con người càng khiến hồn xiêu phách lạc, ông và ta chẳng lẽ không phải là người cùng một đạo sao?”
Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Đúng, đúng, hơn nữa… trên người mỹ nhân cũng có sơn thủy, còn đẹp hơn gấp 10 lần sơn thủy của Thải Thạch Phàn này, khiến người ta say mê quên trời đất, haha…”
Hắn cười to đứng dậy, một tay kéo Dạ Vũ, cười nói: “Đi thôi, còn ngồi giả vờ làm gì nữa, chúng ta cùng Dương tả sứ đi thăm sơn thủy, rồi về Kim Lăng thưởng thức sơn thủy mỹ nhân”
“ Ôi, cái này…, Hoàng Phủ tướng quân… lão phu…”
Dạ Vũ làm mặt khó, bị Hoàng Phủ Kế Huân lôi kéo đứng dậy: “Cố mà làm”, rồi đi cùng bọn họ đi thăm phong cảnh Trích Tiên lâu.
Đi dọc theo mép sông, nước sông cuồn cuộn sóng, Dương Hạo cùng đoàn người đi qua “Hành Ngâm kiều”, tới “Nghiễm tế tự” được xây dựng vào thời Đông Ngô du ngoạn một phen, dâng hương, rồi bốn người tới “Nga Mi đình” uống trà.
“Nga Mi đình” nằm ở vị trí hiểm mà sâu, cao và nhìn ra xa được, cảnh tượng hết sức tú lệ. Phía trước bên tay trái đình gần sông, vốn là một khối đá bằng phẳng được gọi là Liên Bích Bàn, khối đá nằm cheo leo trên vách, hướng ra ngoài sông, địa hình hiểm trở khó thấy. Theo truyền thuyết, Lý Bạch đã từng ở đây bắt nguyệt mà qua đời.
Dương Hạo đợi đám người ngồi nghỉ ngơi trong đình rồi một mình đi men theo mép đình, chuẩn bị rời Thải Thạch Phàn, đi được một lúc chợt thấy có một tăng nhân đi đến, vị tăng nhân đó thở hổn hển và dừng chân nghỉ tạm, trông thấy Dương Hạo một mình đi tới, phía trước có vài tên binh sĩ đang đuổi người dẹp đường, người bên đường đều dạt sang đi men trên vệ đường sườn núi trơn tuột. Vị tăng nhân mang theo nước, đi một đôi giày rách đứng trên cỏ nơi có những hòn đá vỡ, đi lại có phần khó khăn, Dương Hạo nhìn thấy liền nói: “ Đường này mọi người đều có thể đi, đừng để mọi người bị quấy nhiễu vì bọn ta”.
Đám binh sĩ đang diễu võ dương oai hò hét, không nghe thấy lời của Dương Hạo, Hoàng Phủ Kế Huân lập tức kêu lên: “Không nghe thấy lời của tả sứ dặn dò hay sao, không được đuổi bọn họ đi, đường nhỏ thì tránh, chúng ta hoàn toàn có thể đi lại được”.
Vị tăng nhân áo rách đang định tránh đường, nghe thấy vậy liền dừng bước, mắt nhìn bọn họ, khi Dương Hạo đi đến bên ông ta, vị tăng nhân này đột nhiên chắp tay mỉm cười nói: “ Bần tăng nghe mọi người gọi đại tướng quân là tả sứ, nhưng không biết vị tả sứ này là chức ti trong nha môn nào?”
Dương Hạo nhìn dò xét ông ta, vị tăng nhân này chỉ khoảng 35, 36 tuổi, mặt gầy mà đen, nhưng hai mắt lại có thần, liền nghỉ chân cười nói: “Hòa thượng xuất gia mà vẫn quan tâm đến chức quan của ta sao?”
Vị tăng nhân đó cười nói: “Bần tăng có biết 1, 2 quan chế của chế độ triều đình, nhưng chức quan tả sứ này thì bần tăng lần đầu nghe qua, cảm thấy có chút hiếu kỳ”.
Dạ Vũ đứng bên nói: “Vị này chính là Tống quốc Hồng lư tự tả khanh Dương Hạo đại nhân, khâm thừa lệnh vua mang chức tả sứ, vị hòa thượng này là tăng nhân của Nghiễm Tế Tự sao? Trong chùa không phải có giếng sao, tại sao lại phải mang theo nước?”
“À, hóa ra là quan nhân nước Tống, thảo nào!”
Vị tăng nhân đó nhìn Dương Hạo, vừa mỉm cười và vừa chắp tay nói với Dạ Vũ: “Bần tăng vốn là một gã tú tài, thi nhiều lần không đỗ, buồn chán nên mới cạo đầu đi tu, nhưng không phải là ở Nghiễm Tế Tự, trung tăng lữ, không thể ngồi lại chùa, chỉ có thể ở trên núi, nước cũng phải tự mình xuống núi mà lấy”.
Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Hóa ra là một hòa thượng tự do, miếu chưa có, vậy ngươi cũng không có pháp hiệu rồi, ngươi vừa không ngồi sư, lại không có cao tăng cho ngươi quy y, vậy cũng chỉ xem như bỏ đi khỏi nhà?”
Vị tăng nhân đó lại liếc nhìn Dương Hạo, mỉm cười nói: “Người xuất gia tu hành chính là có Phật trong tâm, có hay không cao tăng cho quy y thì có hề gì? Khoác áo cà sa chưa chắc đã là người xuất gia, không có giấy tờ cũng không nhất định không xuất gia, còn về pháp hiệu, bần tăng thật ra đã tự lấy cho mình một pháp hiệu rồi, đó là… “Nhược Băng”.
Hoàng Phủ Kế Huân ngửa mặt lên trời cười to: “Haha, Nhược Băng hòa thượng, ngươi muốn cùng bổn tướng quân nói chuyện thiên cơ sao? Bản tướng quân cũng chỉ là nhàn tình nỗi nhã hứng, tránh ra tránh ra, bản tướng quân phải đi về Kim Lăng, đi thưởng thức cái sơn thủy mà hòa thượng các ngươi không bao giờ được thưởng thức, haha…”
Nhược Băng hòa thượng mỉm cười, khóe miệng ánh lên loe lóe, Hoàng Phủ Kế Huân nghênh ngang đi xuống núi, Dương Hạo đi đến bên Nhược Băng hòa thượng, đột nhiên cảm giác được ánh mắt của ông ta vẫn dõi theo mình, đi được vài bước, Dương Hạo không nén được liền quay đầu lại nhìn, chỉ thấy vị tăng nhân đó vẫn đứng trên đất, mắt vẫn dõi theo hắn, nhìn thấy hắn quay đầu lại, vị hòa thượng cũng không dời mắt nhìn, một cái nhìn thật sâu và chăm chú, hai tay hợp thành chữ thập, mỉm cười tạm biệt hắn…
Dương Hạo hơi chút chần chừ, Dạ Vũ đã nhanh chân chạy tới bên cạnh, ân cần nói: “Tả sứ xin chậm bước, đường núi nguy hiểm, cần hết sức cẩn thận…”
Dương Hạo không rảnh suy nghĩ nhiều, đành xoay người bước đi, đến khi tới được dưới chân núi thì bất giác quay đầu lại, chỉ thấy bóng vị hòa thượng nọ vẫn đứng giữa lưng chừng núi, xa xa dõi theo, giống như…
Một suy nghĩ xuất hiện trong đầu Dương Hạo: “Vị hòa thượng Nhược Băng này, nhất định là có chút cổ quái!”
***
Từng túm tóc rơi xuống đất, cuối cùng hiện ra trước mặt mọi người là một cái đầu nhẵn bóng lưỡng, một bàn tay đặt trên chiếc đầu đó, người xoa chiếc đầu đó là một lão hòa thượng gi mặc áo cà sa đại hồng, từ bi thiện mục.
“A di đà Phật, từ hôm nay trở đi, con đã là đệ tử của Kê Minh ta rồi. Bất kể làm người hay tham thiền, đều phải làm điều có đức. Đức, có thể rửa sạch những tạp niệm của con, làm trong sạch trái tim con, không để con bước đi trong mịt mờ khổ ải. Mà hành, thì lại nắm giữ đức, đi làm việc thiện, tích lũy công đức, tu thành chính quả, sẽ được tự tại. Lão nạp xuống tóc cho con, con đã là đệ tử của lão nạp. Đức Hạnh, những điều lão nạp đã dạy con nhất định phải ghi nhớ, biết chưa?”
“Đức Hạnh ghi nhớ lời chỉ dạy của sư phụ!”
Chiếc đầu bóng lưỡng đó dập thật sâu xuống khấu tạ, lòng bàn tay hướng lên đệm, thái độ hết sức thành kính, có điều vẫn phải nói ra điều khúc mắc trong lòng: “Có điều…, sư phụ, pháp hiệu chỉ có thể lấy hai chữ, không thể lấy ba chữ được sao?”
“Haha, điều đó cũng không hẳn, pháp hiệu lấy như thế nào cũng tùy vào các vị tọa sư. Chỉ có điều từ trước đến nay, pháp hiệu hai chữ đã được sử dụng phổ biến trong các tự viện, lâu ngày, các tự viện cũng thành tục lệ dùng hai chữ. Nếu như một tự viện có quá nhiều tăng lữ thì việc dùng hai chữ đặt pháp hiệu cũng không thích hợp nữa, cũng có thể dùng ba chữ, đương nhiên, còn có những sư phụ để khuyên thích kinh nghĩa thêm rõ ràng cũng đặt cho đồ đệ của mình pháp hiệu có ba chữ. Thật ra, pháp dụ của sư phụ cùng với con vốn đã ba chữ rồi, chúng ta là người xuất gia, pháp hiệu chính thức có một chữ thích nữa”.
“ Ách…, sư phụ, chữ thích bình thường đâu có gọi, ý của đồ đệ là, có thể đặt một pháp hiệu có 3 chữ bên cạnh chữ Thích kia ra không?”
Lão hòa thượng hơi nhíu mày, có chút không bằng lòng mà nói: “Đức Hạnh, tại sao con cứ phải chọn pháp hiệu ba chữ mới yên?”
“Đồ đệ cảm thấy… ba chữ thì có uy phong”
“ Vậy để ta đặt cho ngươi một pháp hiệu có bốn chữ, chẳng phải là càng thêm uy phong hay sao?”
“ Thế thì càng tốt, thế càng tốt, đa tạ sư phụ”
Lão hòa thượng giơ tay lên, tay chỉ như Phật đà niêm hoa, dứt khoát vứt trên đầu bóng loáng một chiếc bát nhỏ, nhẹ nhàng nói: “ Đồ nhi này sai trái cũng nhiều, lẽ nào ngươi muốn được gọi là Thích Ca Mâu Ni sao?”
“ Vậy…,…” Hòa thượng quỳ trên mặt đất cười khan hai tiếng nói: “Đồ đệ biết sai rồi”.
“ Thiện tai, thiện tai”.
Lão hòa thượng lại khôi phục lại dáng vẻ cao tăng từ bi của mình: “Đức Hạnh à, con mới quy y, vẫn còn là một tiểu sa di, sau này ở lại bên cạnh lão nạp, theo lão nạp tu hành phật pháp, thế nào?”
Đức Hạnh quỳ gối xuống mà rằng: “Sư phụ, đệ tử vốn là đệ tử nhà giàu, gia cảnh cũng ưu nhai, nay đã hướng Phật, muốn làm lại từ đầu, tu luyện thể xác và tinh thần, khi nhập tự, đệ tử đã từng nhìn thấy tự trái có vườn rau, vài vị sư huynh đang làm việc, dù vất vả nhưng lại lấy đó là việc tích công đức, do đó… đệ tử muốn đến vườn rau, bắt đầu từ chữ ‘Hành’”.
Bảo Kính đại sư ngẩn người, ông là trụ trì phương trượng trong tự Kê Minh, rất được tôn sùng, đã rất lâu rồi không tự mình thu nhận đệ tử, do đệ tử này dung mạo thanh tú, lại được trời phú cho đôi mắt quyến rũ, so với con gái thì còn đẹp hơn vài phần, khiến cho người ta nhìn thấy rất ưng mắt, mà Bảo Kính đại sư lại là đệ nhất thiên tự phương trượng đại sư ở Kim Lăng, thường xuyên tiếp đãi các khách quý từ trong cung đến, nên tự tay cạo đầu xuất gia cho người đệ tử này. Bảo Kính đại sư không nghĩ đến chuyện hắn sẽ chủ động yêu cầu đi trồng rau, yêu cầu này thật sự là…
Nghĩ lại, đệ tử Đức Hạnh này ăn nói đường hoàng, hôm nay thủ tọa cùng hai vị sư đệ trụ trì Giới luật viện, bản thân nắm giữ quyền phương trượng thực sự không tiện làm trái ý. Tên đệ tử đó là đệ tử nhà giàu, vị tất phải chịu khổ như vậy, những ngày tới cứ cho hắn ở bên cạnh là được, vì vậy ông mỉm cười nói: “Thiện tai, thiện tai, con đã có lòng như vậy tức trong tâm đã có phật, thôi được, vậy ta cho con vào vườn rau tu hành một thời gian. Còn về mấy vị tăng lữ trong vườn rau, hà hà… về mặt phật pháp và giới luật, con không được thỉnh giáo họ, bất quá cũng không thể coi như sư huynh, con là thân truyền đệ tử của lão nạp, thân phận cao hơn bọn họ, những người đó đều là hòa thượng của con. Đức Huệ, đưa sư đệ của con đến vườn rau, gặp vài hòa thượng của sư đệ.”
“Vâng!” một tăng nhân tâm trung niên xuất hiện,chắp tay thi lễ và mỉm cười nói với Đức Hạnh: “Sư đệ hãy đi theo sư huynh”.
Đức Hạnh mặt nghiêm túc, theo hòa thượng Đức Huệ đi ra bảo điện Đại Hùng, tiến vào vườn rau phía Đông, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi của phân ủ, mặt hơi chau, khóe miệng nở ra một nụ cười gượng: “Hì hì, lão tử xuất gia rồi, lần này xem lão ni cô có còn tránh được ta hay không”
Xốc mạnh lại bả vai, đột nhiên thấy hành động của mình là hơi bất nhã, liền vội vàng đứng lại thẳng người, mắt nhòm mũi, mũi dòm tim, bước đi dưới cái nhìn nghiêm khắc của hòa thượng Đức Huệ trên đồng ruộng thổ canh.
Hôm đó, Bích Túc theo đuổi người nữ ni trẻ tuổi xinh đẹp nhất thời bị kích động không nói được gì. Người nữ ni đó đặt quang gánh xuống, chăm chú nhìn hắn, mặt nở một nụ cười kinh ngạc mà lễ phép. Sau một hồi kích động, hắn ta mới nói: “Cô nương, ta… ta rất thích nàng, ta có thể biết tên nàng được không?”
Vị nữ ni đó nghe thấy liền hoảng sợ mở to mắt lên nhìn hắn, khi đó, Bích Túc mới sực nhớ ra là mình đang mặc trang phục của con gái, bèn vội vàng nói: “Ta không phải là phụ nữ, ta là nam giới, nàng xem, nàng xem…”
Hắn ta ngửa cổ cho cô xem yết hầu, rồi lại vỗ vỗ vào ngực, tiếng nói cố tình phóng to đôi chút: “Từ khi nhìn thấy cô nương, tại hạ đã nhớ mãi không quên. Nàng không nhớ ta có đúng không? Hôm đó tại quán trọ Chuẩn An, nàng đi ra, ta tiến vào, chúng ta đã đi qua nhau, nàng còn cười với ta, nàng nghĩ xem, nghĩ thử xem có nhớ ra hay không? Nụ cười của nàng ngọt ngào quá, khiến ta hồn xiêu phách lạc, vì vậy nên mới không thể quên được…”
Con ngươi của tiểu ni cô chớp lia lịa, tựa hồ như nhớ ra cái gì, mặt có đôi chút thẹn thùng như một đám mây hồng bay qua, Bích Túc cuối cùng cũng đã nói ra những điều trong lòng, liền đứng dậy nói: “Cô nương, nàng đẹp như vậy, hà cớ sao lại xuất gia làm ni cô, phí uổng cả một đời nơi cửa phật? Quả là lãng phí báu vật trời cho. Tại hạ từ sau lần nhìn thấy cô nương đã tương tư trằn trọc, còn theo cô nương đến tận Giang Nam, đáng tiếc là sau khi qua sông lại để lạc mất bóng nàng, nhưng trời run rủi cho ta hôm nay lại được gặp lại nàng, nàng nói xem, đó không phải là duyên phận thì là gì?”
Vị ni cô nọ mặt đỏ bừng, lắc đầu lia lịa, tay chỉ vào mình, nhìn thấy hắn ta không hiểu mới nắm lấy tràng hạt đeo ở cổ đưa cho hắn xem.
Bích Túc ngạc nhiên nói: “Nàng không nói được ư? Nàng bị câm sao?”
Ánh mắt vị ni cô hiện lên vẻ buồn bã, Bích Túc không kiềm chế được liền nắm chặt lấy đôi tay nhỏ bé của ni cô, xúc động nói: “Không sao, dẫu cho nàng có câm cũng không có vấn đề gì, ta thích nàng, chính là nàng. Khi ta thích nàng, nàng cũng đâu có nói gì với ta, ta nói nhiều như thế, sau này chỉ cần mình ta nói, ta nói nàng nghe, nhà sẽ càng yên tĩnh, nàng hoàn tục đi theo ta được không? Đi theo ta, làm vợ ta nhé, ta rất thật lòng, ta cũng không phải là kẻ xấu xa, ta… Trên thực tế ta là quan đại thần trong triều đình, thân thế trong sạch, tiền đồ sáng lạn…”
Vị ni cô nọ bị hắn ta nắm chặt tay, mặt đỏ lựng, giãy giụa hai cái không được đành đứng yên, không phản kháng nữa mà chỉ lắc đầu lia lịa. Bích Túc vội vàng nói: “Nói cho ta biết, nàng có chịu làm vợ ta không? Nếu như nàng đồng ý, ta sẽ đi tìm trụ trì đại sư đến chuộc nàng… À, không phải, hoàn tục, có phật tổ làm chứng, gật đầu không tính chỉ tính lắc đầu, nàng đồng ý làm vợ ta không?”
Tiểu ni cô quẫn quá đành co người, lắc đầu lia lịa, Bích Túc mới nói: “Nàng lắc đầu? Tức là nàng đồng ý rồi, chúng ta đi thôi.”
Tiểu ni cô lại càng dùng lực để lắc đầu, rồi thoáng cái lại gật đầu, gật đầu lia lịa.
“Nàng gật đầu? Vậy là đồng ý hay không đồng ý?”
Vị tiểu ni cô đơn thuần đáng yêu, vừa nghe hắn hỏi liền kiên quyết và tự nhiên lắc đầu. Bích Túc cười mà nói: “Vậy là đồng ý rồi hả? Vậy chúng ta đi thôi, nếu trụ trì không đồng ý thì chúng ta bỏ trốn! Nàng… nàng là người con gái đầu tiên khiến ta biết rung động.”
Bích Túc quả là mặt dày vô sỉ khi nói như vậy. Trước kia hắn đã từng quyến rũ thiếu phụ nhà đại hộ nhân gia, rồi các thiên kim cũng không ít, những lời ngon tiếng ngọt để lừa gạt phụ nữ hắn cũng không thiếu, nhưng không hiểu sao, đối với vị ni cô không nói được kia hắn lại không giống như trước kia, để lộ ý đồ của mình ngay từ đầu.
Nghe hắn nói vậy, vị vi cô kia không gật cũng không lắc nữa, con ngươi nàng sáng lên một chút, mặt đỏ lên rồi trắng nhợt đi. Bích Túc không để ý, kéo tay cô chạy, khi quay đầu lại nhìn thì Bích Túc mới hoảng sợ giật mình, trước mặt hắn là bốn vị ni cô, trung niên có, nhỏ có, già có, cao có, gầy có, trắng có, đen có, tất cả đều đang trừng mắt nhìn hắn.
Bích Túc kêu lên: “Có thật là các người đi không dẫm phải một con kiến hay không? Tại sao không phát ra âm thanh gì, nửa đêm đồng loạt xuất hiện hù dọa ta.”
Một vị ni cô cao to với làn da đen quát lớn: “Tên điên khùng to gan, dám cải trang thành nữ… Muốn trà trộn vào trong đám ni cô để làm gì đây?”
“Ta…ta… Gia gia đây muốn tìm vợ để cưới, sao hả?” Bích Túc lại giở trò trêu đùa vô lại.
Vị ni cô to béo kia không nói hai lời, trợn mắt, giơ cao tay, rồi chỉ nghe thấy một tiếng “Bốp” vang lên, vòng tràng hạt trên tay bà đã giội mạnh xuống đầu Bích Túc, Bích Túc bị đánh cho lảo đảo, trên đầu sưng lên vài cục, hắn tức giận kêu lên: “Tay khỏe ghê nhỉ, ngươi là một người xuất gia, lẽ nào có thể ra tay đánh…”
“Bốp!” Vòng tràng hạt đó không biết bện bằng loại dây gì mà không đứt, vị ni cô to béo kia vẫn tiếp tục dùng tràng hạt đánh tới tấp, vừa đánh vừa lớn tiếng quát: “Tên lưu manh này, đã cải trang thành nữ vào đây lại còn dám rủ rê đồ đệ của ta, người đâu, bắt tên to gan lớn mật này lại cho ta, đem lên quan xử lý”.
Một đám ni cô ùa lên, Bích Túc thấy vậy liền lập tức ôm đầu trốn như chuột, cố gỡ gạc cục diện: “Gia gia không đánh con gái, bằng không thì ta cho các ngươi biết tay. Tiểu ni cô xinh đẹp, nàng không cần sợ, ta sẽ đưa nàng về, sáng sớm mai ta và nàng sẽ thành thân, ai da, ai dùng gạch đánh ta…”
Đám ni cô đó vẫn quyết không tha, đuổi theo hắn ra tận sân tự, nghe tiếng các ni cô hò hét, dân chúng cũng ùa ra trợ giúp. Ngay lúc đó, Dương Hạo đang đứng ở đầu đường nhìn thấy, Bích Túc đến bước đường cùng bèn giở trò leo tường hòng thoát thân, lần này đích thực là bị mang tiếng kẻ cướp rồi, nhưng cũng chỉ lần này thôi mà.
Từ nay về sau Bích Túc muốn trốn vào gặp vị ni cô xinh đẹp kia cũng không còn dễ nữa rồi, hắn cũng gây chú ý trong đám khách hành hương, hắn muốn giả làm nữ cũng không thành, thế là Bích Túc đành quay về, mỗi tối đều len lén lẻn vào ni am, ẩn nấp ở một nơi bí mật nhìn ngắm tiểu ni cô.
Sau vài ngày quan sát, qua lời nói chuyện của đám ni cô, Bích Túc được biết pháp hiệu của tiểu ni cô đó là Tĩnh Thủy Nguyệt, một pháp hiệu có ba chữ, hắn mới quyết định cũng cạo đầu đi tu, muốn Bảo Kính đại sư đặt cho hắn một pháp hiệu có ba chữ, giống như của tiểu ni cô kia để xứng đôi.
Tĩnh Thủy Nguyệt không cha không mẹ, vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, năm 9 tuổi bị mắc bệnh nặng nên cổ họng có vấn đề, cô thành ra câm nhưng không điếc. Do không thể nói chuyện nên cô cũng không gây ra bất kì chuyện gì tồi tệ trong tự, khi làm bài tập cũng không phải xướng kinh, do vậy cô chỉ ở trong am quét dọn, nấu cơm, làm vài việc lặt vặt.
Còn vị ni cô to béo kia là trụ trì trong am Bảo Nguyệt, chính bà năm đó đã hóa duyên và thu nhận Thủy Nguyệt về, bà là sư phụ của Thủy Nguyệt, tình cảm giống như mẹ con, do vậy hôm đó khi nhìn thấy Bích Túc lén lút giả gái trà trộn vào am để bắt cóc Thủy Nguyệt, bà mới nổi trận lôi đình, đánh cho hắn một trận nên thân.
Bích Túc hằng ngày ngồi lặng lẽ trong góc tường, ngồi xổm trên xà nhà để nhìn lén tiểu ni cô tát nước, dọn dẹp, vá áo, nấu gơm, sao kinh, mỉm cười…
Dần dà, mỗi nét cười của Tĩnh Thủy Nguyệt in hằn trong đầu của hắn, nếu như hồi đầu hắn để ý cô chỉ vì nét cười mê hồn đó, thì lúc này đây, tình cảm trong hắn đã ngày một trở nên sâu đậm, thứ tình cảm kỳ diệu không thể giải thích mà người ta vẫn hay gọi là “Ái tình”, giờ đây Bích Túc chỉ có thể kín miệng không để lộ ra kế hoạch của mình, chỉ có thể nhốt nó thật sâu mà thôi…
Sau vài ngày quan sát, hắn phát hiện ra rằng những chiếc áo cà sa phải vá không phải chỉ là áo của những ni cô, trong đó còn có những áo khác do các hòa thượng đem tới. Mà theo thường lệ sẽ có hòa thượng đưa rau củ cùng quần áo tới, đồng thời đem quần áo đã được giặt sạch và vá xong xuôi đi. Những ni cô trong am đều đối xử rất hòa nhã với các hòa thượng. Bích Túc lặng lẽ nghe ngóng, rồi sau đó mới hiểu ra những hòa thượng đó đều là người của Kê Minh tự, Tịnh Tâm am cũng là thuộc Kim Minh tự, thuộc quyền quản hạt của Kê Minh tự.
Do thế, Bích Túc liền đến Kê Minh tự xuất gia.
Đi trên điền canh, nhìn những cây cải bắp lên huề huề, Bích Túc cảm thấy giống như được nhìn thấy tiểu ni cô xinh đẹp đang nhìn hắn thản nhiên cười, trong lòng vì thế cũng cảm thấy một cảm giác ngọt ngào…
***
“Hồng Tụ Chiêu” vốn là một lầu xanh có tiếng trong thành Kim Lăng.
Dương Hạo đến Hồng Tụ Chiêu không phải vì danh tiếng của nơi này, mà là vì một câu nói của Hồng Lư Dạ Vũ: “Dương tả sứ nhìn xem, ở bên ngõ chếch đối diện kia chính là phủ của Lâm Nhân Triệu tướng quân.”
Vì câu nói này mà Dương Hạo thấy cũng một công đôi việc, còn Hoàng Phủ Kế Huân thì không ngừng lải nhải khuyên Dương Hạo: “Thế thì đi đến Hồng Tụ Chiêu đi, gọi chút rượu thịt ăn rồi tính tiếp”.
Những cô nương ở Hồng Tụ Chiêu quả thật không tồi, những nha hoàn phục vụ bàn tiệc cũng đều xinh đẹp động lòng người. Bốn người Dương Hạo cùng lên lầu tìm chỗ ngồi, gọi rượu và món nhậu, gọi thêm vài vũ nữ ra nhảy múa, bốn người vừa ăn vằ nói chuyện, Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào còn thi nhau chúc rượu, khiến ý thơ lại lên lai láng, Hoàng Phủ Kế Huân dù là võ tướng cũng nổi hứng đối ứng một phen, chỉ có Dương Hạo là không mấy hào hứng, tuy thế do là chủ tướng nên cũng không ai làm khó cho chàng.
Rượu quá ba tuần, thức ăn cũng nếm đủ năm món, con mắt của bậc chính nhân quân tử Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào bắt đầu xoay vòng theo những vòng eo của vũ nữ, hứng thơ đã hết nhưng hứng tình lại lên. Hoàng Phủ Kế Huân thấy thế liền cười và gọi má mì đến, bảo mụ ta đem vài cô nương xinh đẹp đến cho các đại gia chọn.
Mụ tú bà dù không biết Hoàng Phủ Kế Huân là ai, nhưng xem cách ăn mặc, lại còn có quân binh theo hầu thì cũng đoán ra hắn không phải người thường, liền gọi ngay những cô nương xinh đẹp nhất lầu ra, đứng thành một hàng cho bọn họ lựa chọn.
Dương Hạo là người mà Hoàng Phủ Kế Huân nịnh nọt, đương nhiên phải ưu tiên cho chàng chọn trước. Dương Hạo từ chối, Hoàng Phủ Kế Huân thấy vậy cũng không nài, bèn nhường cho Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào chọn. Hai người liền lẳng lơ mà nhìn mỹ nữ như mèo thấy mỡ, giả đò khước từ hai câu rồi cũng chọn lấy cho mình một cô nương xinh đẹp. Hai người không hẹn mà gặp, cùng chọn trúng một cô nương trẻ tuổi xinh đẹp, mơn mởn như một đóa hoa mới nở.
Hoàng Phủ Kế Huân lại mời Dương Hạo chọn, Dương Hạo biết thời đại này sĩ tử chơi gái cũng vẫn được coi là phong lưu, cũng không phải là chuyện gì ghê gớm lắm. Những cô nương trước mặt dù là gái phong trần nhưng dung mạo cũng diễm lệ, khí chất nho nhã mà không dung tục, không lộ chút gì là gái phong trần, xem ra rất ưng mắt, không khiến cho người khác phản cảm. Thế nhưng cái ngõ chếch đối diện kia vẫn như có sợi dây vônào đó níu giữ Dương Hạo, khiến sự tập trung của chàng đều hướng ra phía ngoài, làm gì có tâm trạng nào mà thưởng ngoạn cái “sơn thủy” này.
Chương 352: Song sát
Thấy Dương Hạo vẫn dùng dằng không quyết, Hoàng Phủ Kế Huân thầm nghĩ: “Những vị cô nương này đều không phải là dạng tầm thường, chẳng lẽ vị tướng quân này lại không thể chọn ư? Là do không ưng mắt hay là sợ ta ghi nhớ lại chuyện này mà về bẩm báo? Chuyện này thật chẳng ra sao cả, tự hắn muốn chơi đùa một chuyến cơ mà, quả thực muốn lấy lòng tên sứ thần người Tống này cũng không đơn giản chút nào.”
Hoàng Phủ Kế Huân làm mặt rầu mà rằng: “Hiệp kỹ phong lưu, có điều cũng chỉ là sự thường thôi mà. Tả sứ đại nhân nếu như chẳng nể mặt tại hạ thì tại hạ sẽ cảm thấy mình không xứng để giao lưu với đại nhân mất.”
Dương Hạo thấy Hoàng Phủ Kế Huân có chút giận, liền tiến đến gần cười nhỏ nói: “Hoàng Phủ tướng quân chớ trách, bản quan… bản quan thực ra có chút thích sự trong sạch, không muốn dính dáng tới những cô gái phong trần này, chứ không phải chê hảo ý của tướng quân đâu, xin thứ tội, thứ tội”.
Hoàng Phủ Kế Huân chợt hiểu ra, liền chuyển giọng vui vẻ mà rằng: “À, hóa ra là vậy, haha, thế thì không sao”.
Hoàng Phủ Kế Huân phẩy tay, những cô gái đó liền lui vào trong. Trông thấy Hoàng Phủ Kế Huân đứng dậy, mụ tú bà liền thấp thỏm mà hỏi nhỏ: “Vị đại nhân đó… không ưng cô nương nào ư?”
Hoàng Phủ Kế Huân nói: “Ở đây có ai là vẫn còn trong trắng không?”
“À… hóa ra là muốn tìm người mới, vẫn còn trong trắng,thế thì có đấy, tuy nhan sắc không phải là hết sức xinh đẹp, thế nhưng lại là người thông minh lanh lợi, chỉ sợ không hợp để hầu hạ quan khách…”
“Không sao, cứ gọi ra đây, để cho bạn ta lựa chọn. Bạn của ta thích những cô nương vẫn còn trong sáng, hihi…, chậm đã!”
Hoàng Phủ Kế Huân lại gọi bà ta lại, giọng trầm xuống mà nói một cách lạnh lung: “Chỉ cần là hàng chưa bóc tem, bản quan có thể để yên cho ngươi làm ăn, còn nếu dám cả gan dùng máu gà giấu trong người để giả làm gái tân thì, hứ, nếu bị ta phát hiện ta sẽ cho Hồng Tụ Chiêu của các người phải đóng cửa”.
“Lão thân nào dám ạ, nhất định sẽ chọn hàng thật giá trị để mang đến”. Mụ tú bà vừa cười hihi vừa xuống nhà, Hoàng Phủ Kế Huân quay người cười nói: “Dương tả sứ vừa nãy nói, ủa.. Dương tả sứ đang nhìn gì vậy?”
Thấy Dương Hạo quay hẳn nửa người ra ngoài cửa sổ, dường như không nghe thấy những điều hắn vừa nói, hắn liền chạy đến bên cửa sổ, dõi theo ánh mắt của Dương Hạo, nhưng chỉ nhìn thấy một cô gái đang thong thả treo đèn ở đầu thành Kim Lăng, bước chân thanh nhã, dáng vẻ là một cô nương quý tộc. Hai mắt của Hoàng Phủ Kế Huân chợt sáng lên: “Mạc cô nương?”
Dương Hạo nhìn thấy Chiết Tử Du, trong lòng vừa mừng vừa sợ, lại có chút lo lắng cho nàng. Mới nghe Hoàng Phủ Kế Huân kêu tên nàng, Dương Hạo trầm xuống: “Cô nương này chính là cháu gái của Lâm Nhân Triệu đại nhân?”
“ Đúng là vị cô nương này, tả sứ đại nhân…”
Dương Hạo vừa định thần lại, quay người nhìn Hoàng Phủ mỉm cười: “Hôm đó người mà ta đã gặp trong cung điện chính là vị cô nương này, tư thái quyến rũ, quả là không tầm thường. Hôm nay lại nhìn thấy cô ấy ở đây, đúng là không hẹn mà gặp, đi thôi, chúng ta đi gặp cô ấy”.
“Ôi, tả sứ đại nhân…”
Hoàng Phủ Kế Huân còn chưa nói xong, Dương Hạo đã nhanh chóng xuống lầu, Hoàng Phủ Kế Huân chỉ biết há mồm ngạc nhiên mà nghĩ: “Cũng biết là vị tả sứ này thích con gái nhà lành, nhưng mà…. Cũng đừng tìm con gái nhà quan phủ chứ, nàng ta thân phận cao quý, há mà dễ đối phó? Ôi…”
Con ngươi trong mắt Hoàng Phủ Kế Huân vừa liếc vừa nghĩ: “Mạc cô nương là cháu gái của Lâm Nhân Triệu, hắn mà đi, ngộ nhỡ ăn nói không đúng thì Mạc cô nương nhất định sẽ giận hắn, hai người kết thù chuốc oán, Lâm Nhân Triệu ngộ nhỡ đắc tội với đại thần triều Tống thì sẽ hay ho lắm đây, hihi…”
Nghĩ đến đây, Hoàng Phủ Kế Huân lòng mừng vui khấp khởi, nhanh chóng chạy xuống nhà đuổi theo Dương Hạo, mụ tú bà đang dẫn vị cô nương nọ lên lầu, nhìn thấy hai người hớt hải chạy xuống vội nói với theo: “Tướng quân đại nhân, các ngài đi đâu vậy?”
Hoàng Phủ Kế Huân quát: “Tránh ra, tránh ra, đừng làm nhỡ việc bản tướng quân đi đùa giỡn với con gái nhà lành”.
************************************************** ****
Dương Hạo sau khi rời Hồng Tụ Chiêu liền rảo bước nhanh về phía Chiết Tử Du, vẫn nghe văng vẳng tiếng của tú bà đằng sau lưng: “Quan khách đi thong thả, hoan nghênh quan khách lần sau lại ghé chơi…”
Chiết Tử Du nghe được liền quay lại nhìn, vừa đúng lúc Dương Hạo đến bên, lòng nàng đột nhiên lo lắng khiếp hãi, lúc này đây muốn tránh cũng không còn kịp nữa rồi. Dương Hạo chạy đến trước mặt nàng, nhìn sâu vào mắt nàng, thấy nàng lộ vẻ bối rối, thật khó mà nhìn thấy được vẻ mặt này của Tử Du, Dương Hạo không kìm được bèn mỉm cười nói: “Vị cô nương này có phải là Mạc cô nương ở Lâm phủ hay không?”
Trong mắt Tử Du như có gợn sóng vừa chạy qua, bình thản đáp: “Không sai, chính là bản cô nương, không rõ công tử là ai, tại sao lại chặn đường ta?”
“Nàng không rõ ta là ai ư?” Dương Hạo có chút bực tức hỏi: “Ta không phải đã bảo nàng ngoan ngoãn quay về Tây Bắc rồi sao? Tại sao nàng còn chạy đến Kim Lăng làm gì? Nàng e sợ cho thiên hạ bất loạn phải không?”
Tử Du chớp chớp mắt, nhưng vẫn tỏ vẻ kinh ngạc nói: “Xin hỏi vị công tử, ta có quen biết với công tử sao? Những lời công tử nói ta nghe không hiểu gì hết, hay là công tử nhận nhầm ta với ai chăng?”
Dương Hạo ngẩn người, nhìn cô ta không có vẻ gì là nói dối cả, chẳng lẽ đúng là ta đã nhận nhầm người, xem diện mạo thì không thể nhầm được, đến cả giọng nói cũng là độc nhất vô nhị, làm sao có thể nhầm được? Dương Hạo vô thức quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Hoàng Phủ Kế Huân vừa chạy từ Hồng Tụ Chiêu xuống, dáng chứng như đang tọa sơn quan hổ đấu, liền quay đầu lại mà nói: “Ở đây không có người ngoài, nàng còn không thừa nhận?”
Tử Du từ từ ngẩng khuôn mặt xinh đẹp của mình lên nói: “Người nói chuyện thật không có chút đạo lý, bản cô đương đang đi trên đường bị ngươi chặn lại nói những điều hồ đồ, lại còn trách cứ ta? Mau mau tránh ra, bằng không, ta mà cao giọng hô hoán thì những người đi đường sẽ nghĩ ngươi là kẻ lưu manh mà đánh cho ngươi một trận đấy”.
Dương Hạo cười nói: “Võ công của nàng không giỏi sao? Cần gì cứ phải giả bộ yếu mềm để cho người khác đánh ta, nếu nàng có thể giương mắt nhìn người khác đánh ta thì đã không cứu ta lúc ở Châu Quan rồi”. Dương Hạo nhỏ nhẹ nói: “ Tử Du, lúc ở trong phòng ta đã thấy một mũi tên, ta biết, nàng cuối cùng vẫn không nỡ rời xa ta, cho nên mới đi cứu ta, đúng không?”
Vừa nói, hắn vừa đút tay vào trong áo, lấy ra một chiếc khăn tay và mở ra, bên trong là một mũi tên, đầu mũi tên xám xịt, chứng tỏ bị tẩm độc.
Chiết Tử Du nhìn hắn bằng ánh mắt đáng thương, nhẹ nhàng lắc đầu nói: “Ôi, trông người cũng không đến nỗi, không ngờ lại là một kẻ điên”. Vừa nói nàng vừa đi vòng quanh người hắn một vòng, Dương Hạo quay lại chặn trước mặt nàng, cắn răng mà kêu lên: “CHIẾT! TỬ ! DU!”
“Ngươi lớn tiếng như vậy làm gì, dọa ta sợ chết khiếp”. Chiết Tử Du vỗ vỗ ngực, không biết làm sao, nhìn thấy Dương Hạo dáng vẻ bực tức, đột nhiên trong lòng thấy vui vui, khóe miệng mặc dù vẫn không cười những vẫn không nén được mà có hơi chút nhếch lên.
Dương Hạo vui vẻ nói: “Nàng thừa nhận mình là Tử Du rồi sao?”
Tử Du bĩu môi, nửa cười nửa không nói: “Miệng ở trên mặt người, ngươi muốn gọi ta là cái gì chẳng được, trời đã tối rồi, bản cô nương phải về phủ nghỉ ngơi, còn không tránh đường cho ta đi”.
Dương Hạo lại chặn đường nói: “Tử Du, lúc đầu ta hẹn thề son sắt, nói sẽ không phụ nàng, kết quả lại…” là ta hổ thẹn với nàng, cũng không dám níu kéo nàng, nhưng… bất kể như thế nào, tình cảm của ta với nàng vẫn không hề thay đổi, nàng thân gái một mình đến nước Đường này làm gì? Chuyện quân sự không phải là chuyện của nữ nhi có thể giải quyết được, hãy ngoan ngoãn quay về Tây Bắc đi, được không?”
Nghe hắn nói những chuyện như vậy, Chiết Tử Du hết sức tức giận, không nén được mà trợn mắt nhìn hắn, giọng lạnh lùng nói: “Ngươi nhớ kĩ lại được không, ta đã sớm nói với ngươi rồi, Tử Du không phải là tên ta, không cho phép ngươi gọi ta như vậy nữa”.
Dương Hạo nghe xong vừa bực vừa buồn cười, có điều trông thấy Tử Du có dáng vẻ đanh đá như thế, trong lòng cảm thấy nàng rất đáng yêu. Đây mới đích thực là tính cách của nàng, trước kia nàng hơi lý tính, ôm đồm quá nhiều việc, dù rất khả kính, nhưng lại khiến người khác không dám lại gần.
Hắnkiềm được mà nói: “Nàng vẫn còn không chịu thừa nhận ư? Tử Du, xin nàng nói cho ta biết, nàng chạy đến Kim Lăng này rốt cuộc muốn làm cái gì?”
“Đó là chuyện của ngươi hả? Ngươi nói ta là Chiết Tử Du thì ta chính là Chiết Tử Du đây, thôi được, ngươi cứ việc đứng đó diễu võ dương oai đi, ta là thượng khách của nước Đường, quân thần của nước Đường rất tin tưởng ta, nói không chừng ngươi có thể nói rõ mưu đồ của ta cho nước Tống, còn có thể chặt đầu ta đem dâng nước Tống, như vậy Dương đại nhân có thể lập công lớn rồi”.
Dương Hạo cả giận: “Nàng nói hồ đồ cái gì vậy, nàng biết rõ ta sẽ không để nàng tổn hại đến một cọng tóc, kể cả có phải mất cái mạng này. Ta rất lo lắng cho nàng, Tử Du, nàng không nên tự cho mình là thông minh nữa, nói cho cùng, nàng chỉ là một tiểu cô nương, chuyện thiên hạ nàng sao có đủ sức cứu vãn đại thế được?”
Tử Du cảm thấy lòng rộn ràng, nhưng lại tức giận mà rằng: “Ngươi không hại ta? Ngươi hại ta còn không ít sao? Ta cũng không muốn nói ngươi nữa, chúng ta hiện nay đã không còn quan hệ gì nữa, chuyện của ta ngươi chớ quản”.
Vừa nói nàng vừa liếc nhìn nơi có treo đèn lồng đỏ bên kia đường, không nén được cơn giận mà nói: “Đúng là giỏi quá đi, có được người đẹp cùng búp bê mua vui còn không đủ sao, thản nhiên đi dạo thanh lâu mua vui”.
“Nàng ghen rồi sao? Dương Hạo cảm thấy trong giọng nói Tử Du có vẻ chua chát, đột nhiên thấy vui vẻ hẳn lên.
“Ta ghen ư? Ghen cái đầu ngươi!” Chiết Tử Du đỏ mặt nói: “Ngươi đừng có cho rằng mình đa tình nữa được không? Ta… ta chỉ là cảm thấy ngươi không xứng với hai người phu nhân của ngươi thôi”.
Dương Hạo trong lòng khấp khởi, đổi giọng nghiêm trang nói: “À, về vấn đề này nàng không cần bận tâm. Bọn họ vừa hiền hậu lại vừa hào phóng, thường xuyên dặn dò ta ra ngoài chơi cũng không vấn đề gì, chỉ cần nhớ đường về nhà là được”.
Mũi Chiết Tử Du cảm thấy mũi mình như có ai vặn lấy: “Ngươi… giờ giọng lưỡi của ngươi khá lắm, đã trở thành một kẻ tùy tiện rồi”.
Dương Hạo nhún vai nói: “Cũng chẳng còn cách nào khác, đàn ông không hư hỏng thì đàn bà không yêu mà. Con người ai cũng có thể thay đổi, chung quy cũng là trời sinh thành mà ra, nàng chẳng phảiđã thay đổi rất nhiều rồi hay sao?”
Lửa giận bốc lên ngùn ngụt, Tử Du không thèm quay đầu lại nhìn tên vô sỉ này nữa, Dương Hạo thấy dáng vẻ Tử Du như vậy, nụ cười trên môi dần tắt. Rốt cuộc nàng đến thành Kim Lăng làm gì kia chứ? Không được, ta nhất định phải cản nàng, tránh cho nàng đem bản thân và cả họ Chiết không còn đất quay đầu. Thế nhưng… nàng đến nước Đường, ra vào cung như thế là nhằm mục đích gì?”
Hoàng Phủ Kế Huân chạy đến, cười hì hì nói: “Dương tả sứ, vị cô nương này tính tình cứng nhắc, khó đối phó lắm phải không?”
“Ừm, đích xác là rất mạnh mẽ”. Dương Hạo vuốt cằm, mắt mơ mộng liếc nhìn bóng của Tử Du, “có điều, bản quan thích kiểu phụ nữ như thế này,… rất hợp với ta”.
Hoàng Phủ Kế Huân dò xét nhìn Dương Hạo, cười mà nói: “Dương sứ là quan của triều Tống, đến quốc vương nước Đường còn phải nể nang ngài hai ba phần, tất nhiên là không sợ cái ô của cô ta rồi, không…, con ngựa hoang dã này tính tình chưa được thuần dưỡng, nhưng cũng khó mà chạm lắm phải không?”
Dương Hạo bốc đồng nói: “Vậy chúng ta đánh cược nhé?”
“Hay, ta với tả sứ sẽ đánh cuộc với nhau, nếu như tả sứ thắng, bản tướng quân sẽ dâng hai tay tặng tả sứ căn nhà mới tậu của tại hạ, còn nếu như tả sứ thua…”
“Tùy ngươi xử”.
“Haha, nghe nói tả sứ xuất thân người Nam Nha, bản tướng quân vốn rất hâm mộ vương triều Tấn, nếu có cơ hội, xin tả sứ thay mặt dẫn kiến”.
“Nhất định thế, haha, chúng ta đi uống rượu thôi, chờ hai vị đại nhân kia đi ra, chúng ta cùng nhau về phủ nghỉ ngơi, bản quan còn phải suy nghĩ xem dùng cách gì để thắng được căn nhà của ngươi.”
Hai người vừa cuời nói vừa quay trở lại lầu xanh, chỉ trông thấy Tiêu Hải Đào đang sửa sang lại y phục ngồi uống trà, Dương Hạo nhìn hắn kinh ngạc mà rằng: “Tiêu đại nhân nhanh như thế ư?”
Dương Hạo vừa nói ra mới biết mình lỡ lời, nhưng may thay Tiêu Hải Đào cũng không để ý mà nói: “Cái việc này thì chỉ cần sung sướng là ra, chúng ta mất tiền, lẽ nào còntốn công sức cho cái kẻ thu tiền hay sao?”
Dương Hạo cười khan nói: “À… Tiêu đại nhân nói có lý”
Ba người ngồi xuống, lại một lần nữa gọi rượu thịt ra nhắm và tiếp tục nói chuyện phiếm. Mụ tú bà dắt cô gái kia đến rồi thận trọng hỏi dò ý của Hoàng Phủ Kế Huân, lúc này đây hắn mới nhìn được dung mạo của tiểu nha đầu kia. Hoàng Phủ Kế Huân thích vóc dáng thon thả, dáng vẻ phong tình thành thục của cô nương ấy, nhưng không tiện nói. Dương Hạo thì như đang thiếu thiếu cái gì đó, Hoàng Phủ Kế Huân biết rõ bị Tống sứ này chỉ thích thú với việc dụ dỗ con gái nhà lành, nên cũng không nài, xua tay bảo tú bà dẫn cô gái kia đi.
Ba người lại ngồi uống rượu, cho đến khi khách trên lầu đã bắt đầu tản về gần hết, cũng không thấy bóng dáng Dạ Vũ đâu. Dương Hạo không khỏi thầm nghĩ: “Cái tên Dạ Vũ này người gầy như que củi, thế mà lại khỏe như vậy, hắn mà cố được thêm một lúc nữa thì ngay đến cả ta cũng đành bái hắn”.
Hoàng Phủ Kế Huân sớm đã không nhẫn nại được nữa, thấy Dương Hạo lộ vẻ mất kiên nhẫn liền chửi đổng một câu: “Lão già này, da bọc xương, không ngờ lại khỏe thế, vui thú đến hơn nửa ngày rồi mà vẫn còn…”
“A…” Dương Hạo hướng mắt nhìn hắn rồi ho khẽ một tiếng: “Đến rồi”.
Hoàng Phủ Kế Huân quay đầu nhìn, chỉ thấy Dạ Vũ đang từ từ đi đến, cứ như hồn ma đang lượn lờ. Hoàng Phủ Kế Huân không khách khí nói: “Dạ đại nhân già mà kiên cường, thật đúng là sinh ra để được sướng”.
Dạ Vũ cười thỏa mãn: “Cũng được, cũng được. Ba vị đại nhân cũng vui vẻ chứ hả?”
“ Vui, vui chết đi được ấy. Có điều đều không vui như Dạ đại nhân, đã mấy giờ rồi, chúng ta mau về thôi”. Ba người đợi lâu đã sốt ruột, vừa nhìn thấy hắn đi ra bèn đứng dậy hết lượt, Dạ Vũ đi theo đằng sau nói: “Cứ thế đi à? Chúng ta không uống bát canh gà, chậm rãi nhâm nhi chút sao…”
Hoàng Phủ Kế Huân nói: “Lão đại nhân của ta ơi, ông đừng đứng đó mà nhìn nữa, đã mấy giờ rồi? Sắp nửa đêm rồi, sáng sớm mai ông còn phải lên triều, ta không…”
Dạ Vũ cười hì hì nói: “Hổ thẹn, hổ thẹn quá, ai da, cuối cùng cũng đến tuổi rồi, không được như năm đó, không bằng năm đó…”
Dạ Vũ tự biên tự diễn, đoàn người lần lượt xuống lầu, chỉ nghe thấy những tiếng cười nói vọng ra từ phía các gian phòng. Do đêm khuya tĩnh mịch, khách uống rượu đã về hết, những tiếng nói chuyện trong lầu trở nên rõ mồn một, vọng ra tiếng một thiếu nữ nói: “Ai da, đêm nay thật là khiến người ta mệt chết”
Tiếng một người khác nói: “Tỷ tiếp vị khách kia thì nhàn, chỉ bằng thời gian uống một chén trà nhỏ hắn đã ra hết rồi, xem ra muội tiếp tên khách già họ Dạ kia còn gầy hơn khách của ta, thế mà lại mạnh dữ vậy sao?”
Nghe thấy thế, Hoàng Phủ Kế Huân liền lập tức dừng bước, tò mò dỏng tay lên nghe ngóng, phàm là đàn ông thì đều có hứng với những chủ đề này.
Nhưng lại chỉ nghe thấy tiếng của thiếu nữ kia đáp: “ Dũng mãnh cái con khỉ nhà hắn chứ. Mới nằm lên người người ta đã ra rồi, muội còn tưởng lão bất tỉnh, ai ngờ hắn không cam tâm, nhưng trên bảo dưới không nghe, hại muội phải dốc toàn lực giúp lão, qua bốn tuần hương mới thấy có chút biến chuyển, nửa cứng nửa mềm vừa đưa vào đã lại ỉu xìu, đúng là mệt xác với lão già…”
“Phì”, từ miệng Hoàng Phủ Kế Huân phun ra một tiếng xé rách không gian yên tĩnh, vai run lên, Dương Hạo mặt co rúm lại, nhìn vẻ mặt đang cố nhịn cười của Tiêu Hải Đào, lại nhìn gương mặt nửa trắng nửa đen của Dạ đại nhân, chàng khẽ ho khan vài tiếng rồi nói: “Vốn tưởng Dạ huynh là một cái họ hiếm gặp, không ngờ ở Hồng Tụ Chiêu cũng có một vị sư huynh khác họ Dạ”.
Dạ đại nhân như người trút được gánh nặng nói: “Đúng vậy đúng vậy, không ngờ còn có người họ Dạ giống ta, đúng là khéo thật, haha, khéo thật”.
Hoàng Phủ Kế Huân không nhịn được mà bật cười lớn: “Dạ đại nhân, sao ông không đi kết giao với vị huynh đệ họ Dạ kia nhỉ? Biết đâu lại chẳng là người một nhà”.
“Nào có khéo thế…” Dạ đại nhân cười khô nói: “Đêm đã khuya rồi, chúng ta mau đi thôi”. Vừa nói ông ta vừa băng băng đi trước dẫn đường. Khi ánh trăng trên trời soi rọi khắp người, Dạ đại nhân mới cúi mặt chửi thề: “Lần tới nhất định tìm một đứa trẻ hơn chút, những đứa con gái phong tình thế này quả thật không chơi được”.
************************************************** ***
Cũng dưới ánh trăng đó, một con thuyền lớn bỏ neo ngoài khơi Hạo Hàn. Thả neo chắc chắn để con thuyền đứng yên trên mặt biển, theo những con sóng mạnh vỗ, chiếc thuyền giống như một con thú lớn đang thở phì phò.
Trên thuyền, nơi gian phòng xa hoa và lộng lẫy nhất thuyền, bóng hai người mờ ảo giống như những con sóng dập dềnh, những tiếng rên rỉ và hổn hển từ giường vọng ra, cùng với tiếng sóng hòa vào làm một.
“A…” tình cảm mãnh liệt được phóng thích cùng với tiếng gầm nhẹ, có tiết tấu và nhịp nhàng dần lắng vào màn đêm yên tĩnh.
Quá nửa đêm, màn trướng mở ra, một nam tử hán ngực đầy lông thô ráp, người mặc một chiếc quần ngắn màu da báo, tóc tai bù xù trèo xuống đất, đi đến bên bàn trà, rót một ấm trà. Bên trong tấm mành mỏng, bóng một người đang ngồi dậy, từ từ mặc quần áo.
Người đàn ông để ngực trần uống no nước, đi tới phía trước cửa sổ, mở toang rèm cửa, nhìn ánh trăng soi rọi vào trong thuyền, làm mờ cả ánh sáng của hai ngọn nến đang cháy trên bàn. Người đàn ông đó rẽ tóc lại đàng hoàng, nhìn dung mạo thì đúng là hoàng tộc Khiết Đan ở Bắc quốc Da Luật Văn, hắn ngửi theo mùi hương của biển trong gió, hắn chỉ tay lên bờ và hỏi: “Chỗ kia là nơi nào? Chúng ta còn cách thành Kim Lăng bao xa?”
Chiếc màn trên giường được mở ra, một người thanh niên trẻ tuổi mặc quần áo màu trắng như màu của ánh trăng xuất hiện, mặt mũi khôi ngô, răng trắng môi hồng, trên má còn có vài tia đỏ, đó là Đinh Thừa Nghiệp.
Hắn đi tới chỗ Da Luật Văn, nhìn về phía bờ rồi nói: “Nghe lão Đại nói, bên bờ kia là nơi ở của Hoa Đình Huyền. Còn bên cạnh, nơi có nhiều đảo nhỏ là Đại Kim Sơn, Tiểu Kim Sơn và Đảo rùa. Như vậy, cũng không lâu nữa chúng ta có thể đến cửa sông Trường Giang, đi thẳng vào thành Kim Lăng được rồi”.
Hoa Đình Huyền vừa được nhắc tới được xây dựng ở nước Đường như thiên bảo, cũng là Thượng Hải ngày nay. Đinh Thừa Nghiệp tuy không nói ra, nhưng nhà hắn làm nghề buôn, đối với mỗi địa danh đều có biết chút ít, hắn cũng biết chỉ cần đi thêm chút nữa là có thể đến Trường Giang, từ đó thẳng tiến vào thành Kim Lăng.
Da Luật Văn gật đầu, mắt sáng lên, lưỡi đao trên tay hắn sáng lên dưới trăng: “Tốt lắm, sáng sớmai chúng ta sẽ thả chim ưng Ha Lực Cái, đợi nó bay về đến kinh thành thì chúng ta cũng đến Kim Lăng rồi.”
Đinh Thừa Nghiệp nghĩ tới chuyện sắp xảy ra mà mặt trắng bệch, có chút lo lắng. Da Luật Văn mỉm cười liếc nhìn hắn một cái, nói: “Thành công có được trong những cái nhỏ bé, phú quý có được trong nguy hiểm, muốn có thành công lớn, cũng phải trả một cái giá nào đó chứ, muốn xưng đế xưng bá thì có đôi khi phải tan xương nát thịt, có gì mà phải lo? Nếu như lần này ta có thể trở thành hoàng đế thì ngươi cũng sẽ theo ta mà lên như diều gặp gió, nhưng nếu ta thất bại…”
Da Luật Văn nói lạnh lùng: “có điều sớm thì cũng phải mười mấy năm nữa mới phải vào quan tài, có gì mà phải sợ”.
Đinh Thừa Nghiệp vội nói: “Thần không sợ. Chỉ có điều, đại nhân ở tận Giang Nam xa xôi, lại đòi chiếm phương Bắc khó khăn, cuối cùng có thể thành công được hay không thì cũng khó đoán được. Thần chỉ e rằng…”
Da Luật Văn cười ha hả nói: “Sợ rồi hả? Chuyện này chúng ta đã chuẩn bị rất lâu rồi, chờ đến hôm nay mới phát động, nước chảy thành sông, chúng ta có ở Thượng Kinh hay không thì cũng đã không quan trọng nữa rồi”.
Hắn trở về bên bàn, ngồi nói: “Từ khi Tiêu Tư Ôn giết Mục Tông rồi lập Gia Luật Hiền, chúng ta đã chuẩn bị rồi. Tiêu Tư Ôn chết đột ngột, đó là bước đầu tiên. Chỉ là chúng là sai ở chỗ cứ ngỡ Gia Luật Hiền yếu ớt, không khống chế nổi đại cục, Tiêu Tư Ôn mà chết là xong, ai ngờ hắn không chịu thua, còn lôi ở đâu ra được một mụ hoàng hậu đáng gờm”.
Hắn thở dài, không nén được than thở mà nói: “Cái này, thực ra vốn là nữ trung cân độn, nhìn thấy triều cương không yên, liền đến biên giới Tống ngăn chặn thế hùng, kích động quân Tống Bắc phạt, khiến quân địch bên ngoài tiến đến Thượng Kinh, nhân cơ đó mà phong thưởng lớn, có ân thì kết lão thần, có công được thưởng tân Tấn, Hàn Đức đem toàn bộ gia đình họ Tiêu dồn vào ở khu thân quân, 12 cung một phủ, tổng binh lực cũng có khoảng 10 vạn người, đều là những người tinh nhuệ. Có thể thấy, chúng ta mới chỉ được tạm thời ổn định, chúng ta vẫn tiếp tục chuẩn bị, cho đến hôm nay mới phát động”.
Hắn lại cười nói: “Mượn địch trợ giúp, quả đúng là diệu kế. Tiêu Xước mượn quân Tống để tự bảo vệ mình, phạt Tống lấy lập uy, cái này chỉ có cô ta mới có thể làm được. Ta Da Luật Văn đương nhiên cũng có thể sử dụng. Cô ta mà muốn phản ta bằng cách nhân cơ hội dùng lực lượng của ta ở Thượng Kinh trừ khử ta. Tốt lắm! Ta cho cô ta cơ hội này, tương kế tựu kế, giành được quyền phát động trước, bí mật kết liễu hoàng thượng, Hàn Đức, Gia Luật Cách, Tiêu Thác…
Lý Dục muốn mượn thế của Khiết Đan khiến cho quân Tống bẽ mặt. Ta có thể nể mặt hắn, rồi dìm hắn xuống nước, chuyến đi này đến Giang Nam, tìm cơ hội giết Tống sứ, triều đình nhà Tống đã làm chủ trung nguyên, thế lực không dễ dàng khiêu khích, nhất định nước ta phát động thì nước Đường không còn chỗ tháo lui, chỉ có cách liên minh với chúng ta, chặn đường lui của quân Tống. Quân Tống bắc phạt, khí thế ngùn ngụt, khi đó Thượng Kinh cũng không tránh khỏi loạn lạc.
Ngươi chớ coi ta hôm nay ủng hộ Gia Luật Hiền, nếu như có một ngày thiên hạ thái bình thì thôi, đến khi đó, gia tộc Gia Luật nếu như chỉ có ta Da Luật Văn mới đủ sức nắm càn khôn trong tay, thì bọn họ chỉ có nước mời ta đứng lên thôi”.
Đinh Thừa Nghiệp lo lắng nói: “Vậy còn Tiêu hậu?”
Da Luật Văn nói: “Tiêu Xước, hừ, mụ ta và hoàng đế thì có tình cảm gì đâu chứ? Tiêu Tư Ôn cho bà ta cuộc hôn nhân này, vào cung làm hoàng hậu, chẳng qua là để Vũ gia và hoàng tộc Gia Luật của ta mãi mãi bảo vệ sự hưng thịnh của họ Tiêu mà thôi. Hoàng đế chỉ cần gia tộc Gia Luật của ta thành công, lấy Gia Luật Hiền hay là Da Luật Văn cũng đều có gì khác nhau đâu?
Tiêu Xước vốn là một người thông minh, hiểu được tiến thoái, hiểu rõ được mất, đến lúc đó, để bảo tồn sự an toàn của họ Tiêu, cũng tránh cho Thượng Kinh bị một phen náo động, bà ta chỉ cần thuận tình lập ta lên làm vua, làm hậu của ta, hahaha, giang sơn mỹ nữ, dễ như trở bàn tay, cái nguy hiểm này lẽ nào không đáng để mạo hiểm?”
“Thần rõ rồi”. Trong mắt Đinh Thừa Nghiệp như có một tia sáng lóe lên: “Kế hoạch này mới nghe thì có vẻ khó khăn, chỉ cần ở Thượng Kinh thành công giết hại hoàng thượng, giết được bè lũ Gia Luật Cách, Hán Đức, Hán Thác Trí… rồi dẫn quân Tống bắc phạt, hoàng hậu nương nương bất kể là vì xã tắc hay là vì gia tộc họ Tiêu, hay là vì chính bà ta, thì cũng chỉ có thể vứt bỏ ân oán cá nhân, nghênh đón đại nhân là điều đương nhiên.”
“Không sai!” Da Luật Văn đắc ý cười nói: “Khi rời khỏi Thượng Kinh, ta còn là chi huy sứ của đoàn quân binh mã của gia tộc, khi về Kinh, ta dã là hoàng đế của Khiết Đan, haha.., cái gì mà báo oán, đợi ta lên làm hoàng đế rồi thì ta sẽ sủng ái nàng vài đêm, cái tên ốm yếu vô dụng Gia Luật Hiền đó sẽ bị nàng quên lãng ngay thôi, cô ả sẽ chẳng thể nào quên được cái ngọt ngào mà ta mang lại đâu, hahaha…”
Đinh Thừa Nghiệp lộ vẻ cười hưng phấn: “Không biết vị sứ giả mà nước Tống cử đến nước Đường là người như thế nào, đại nhân chuyến này đi…”
Da Luật Văn cười nói: “Mặc kệ hắn là người thế nào, đợi tin thắng lợi từ Thượng Kinh truyền đến, ta sẽ cho hắn một nhát đi đời nhà ma”.
Chiết Tử Du chậm rãi bước đi trên đường, từ phía xa Trương Thập Tam cũng đang định đi tới, thấy Chiết Tử Du thủ thế, liền cảnh giác, nhìn bốn phía một lượt rồi mới quay lại hòa mình trong dòng người.
Chiết Tử Du tức giận nghiến răng, Dương Hạo, tên khốn nạn, đi theo ta đến nửa ngày rồi, chẳng lẽ sau này ngươi cứ định ngày ngày theo ta, vậy thì muốn làm việc gì cũng khó rồi.
Nàng đi tới một quầy hàng phía trước, tiện tay cầm lên một món đồ trang sức, khóe mắt lấp lánh thì nhìn thấy Dương Hạo đi tới, liền lập tức đứng thẳng người, giả vờ đang ngó quần áo của mấy vị tiểu thư qua đường.
Dương Hạo dày mặt đi đến: “ Hà hà, Mạc cô nương quả thực có con mắt nhìn đời, quần áo của vị tiểu thư kia quả thật là rất đẹp phải không”.
Chiết Tử Du ngẩng mặt nói: “Vậy thì làm sao?”
Dương Hạo cười nói: “Nếu như nàng thích thì ta sẽ cho người lột quần áo của cô ta đem về cho nàng, còn quần áo của nàng thì sẽ thuộc về ta, có được không?”
Chiết Tử Du trừng mắt, nói: “Vô lại!” rồi quay người đi, Dương Hạo khẽ nhíu mày đuổi theo.
Một con đường, hai con đường, ba con đường, Chiết Tử Du chỉ có thể coi hắn là không khí, Dương Hạo lơ đễnh tự hỏi tự đáp, quyết làm một cái đuôi bám theo. Chiết Tử Du không kiềm chế được bèn dậm chân sẵng giọng: “Ngươi theo ta làm gì?”.
“Không có gì, ta chỉ muốn biết nàng muốn làm gì… À, ta biết rồi nhé”
Chiết Tử Du giật mình: ”Ngươi biết cái gì rồi?”
Dương Hạo lộ ra nét cười bí mật: ”Nàng không muốn rời xa ta, biết ta phải đến nước Đường nên nàng mới đến trước để đón ta, cố tình tạo cơ hội cho đôi ta gặp gỡ, có đúng không?”
Chiết Tử Du vừa bực vừa buồn cười, đột nhiên thấy trong lòng rối bời, với dáng điệu không thay đổi, Dương Hạo cảm thấy như có cảm giác được yêu một lần nữa, cái cảm giác lẫn lộn lại ngọt ngào khiến nàng cảm thấy có chút sợ hãi, nàng hỏi: ”Dương công tử, Dương tiên sinh, Dương đại gia, rõ ràng là công tử theo dõi ta có đúng không?”
Dương Hạo làm vẻ mặt vô tội nói: ”Đâu có đâu, chỉ là ta đã có mưu đồ trước là sẽ gặp nàng thôi mà”
” Ngươi... ngươi thật là vô lại!” Chiết Tử Du tức đến dậm chân, đúng lúc hắn ta không biết làm gì thì đột nhiên nghe vọng đến một tiếng la chiêng, phía trước xuất hiện một đoàn binh sĩ, vai khiêng kiệu, vừa đi vừa quát lớn: ”Sứ giả Khiết Đan đến, mau tránh đường!”
Chiết Tử Du tròn mắt, cười nói: ”Khiết Đan xuất sứ đến nước Đường, hihi, từ bây giờ ngươi có việc để làm rồi nhé, không cần phải đi theo quấy rầy ta nữa”.
Dương Hạo quay mặt lại nhìn đám người, vừa nghe được mấy câu, hắn quay đầu lại cười nói nhỏ với Tử Du hai chữ: ”Mơ hão!”
**************************
Vua nước Đường nghênh tiếp sứ tiết Khiết Đan hết sức long trọng. Từ trước đến nay, Khiết Đan và vua nước Đường vẫn giao lưu buôn bán trên biển với nhau, lần này Lý Dục nhiệt tình mời Khiết Đan đến chơi, có thể nói là đã cố nén nỗi khổ tâm trong lòng, một mặt xưng thần với Tống sứ, cốt để quân Tống không tìm ra lý do để đánh Đường, mặt khác vẫn giao du với quân Khiết Đan thế lực hùng mạnh, chiêu này gọi là kim giấu trong bọc, nay tiết sứ Khiết Đan đã đến, hắn tự nhiên lại muốn khoa trương thanh thế.
Dương Hạo không mấy để ý đến sứ giả Khiết Đan. Nhưng Tiêu Hải Đào thì có vẻ hơi căng thẳng, liên tục phái người đến dò la tình hình Khiết Đan. Trước mặt Dương Hạo thì tức giận mà rằng: “Đại nhân, nước Đường đã xưng là thần của nước Tống, là chư thần của nước Tống, nay chưa được sự đồng ý của nước Tống ta lại tự do giao du với Khiết Đan, như vậy há còn đạo lý gì nữa? Thật không hợp lý!”
“Thì sao? Ừm, chờ Mạc cô nương rời khỏi hoàng cung thì ngươi lập tức nói cho ta biết, đi mau, tiếp tục theo dõi cô ta”. Dương Hạo phẩy tay đuổi một gã thị vệ ra ngoài, quay người lại nói một cách lười nhác: “Khiết Đan đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Tống ta, không phải là quân địch của nước Tống. Nước Đường có quan hệ với họ cũng là có gì đáng chỉ trích? Nước Đường chỉ là một nước chư hầu của nước Tống, nhưng cái quyền tự chủ này cũng phải có chứ hả?”
Tiêu Hải Đào tức giận không nói, một lát sau có được chút tin tức lại chạy đến tìm Dương Hạo: “Đại nhân, sứ giả Khiết Đan đến chơi, nhà Đường bày ra yến tiệc thịnh soạn cùng 360 người nghênh đón, Đại nhân, khi chúng ta tới, họ chỉ cử ra có 120 nghênh đón thôi. Bên trọng bên khinh như vậy làm sao hợp lý? Nước Đường là nước chư hầu của chúng ta, đối xử với chúng ta như vậy chẳng phải không hợp đạo sao?”
“Kể cả bọn họ cử ba ngàn sáu trăm người ra thì đã sao? Bản quan không để ý đến những cái đó.”
Tiêu Hải Đào sốt ruột nói: “Đại nhân, đây không phải là chuyện không có lễ với chúng ta, Đại nhân cầm lễ tiền đến là đại diện cho thiên tử của nước Tống, nhưng lễ nghi lại bị thua kém người Khiết Đan, như vậy quả là mất thể diện nước Tống ta quá ạ.”
“Vậy ngươi bảo làm sao bây giờ? Để Lý Dục xin lỗi, sau đó chúng ta ra khỏi thành, phái 360 người hành lễ, rước đón chúng ta lại từ đầu sao? Đó chẳng phải là trò hề hay sao? Tiêu tự thừa, bình tĩnh một chút, ta nghĩ đang có người hy vọng chúng ta giận quá mất khôn đấy!”
“Vâng!”
Chớp mắt đã đến trưa, Dương Hạo vừa dùng bữa xong, vừa mới uống một ấm trà, Tiêu Hải Đào lửa giận bừng bừng đến: “Đại nhân, muốn nhẫn nại cũng không thể nhẫn nại nổi nữa. Sứ giả Khiết Đan đã cống nạp dê cừu mỹ tửu, áo long cừu cho vua Đường, vua Đường lấy vàng bạc châu báu đáp lễ là được rồi, còn trao kim ấn cho họ, làm sao họ có quyền lấy kim ấn ra trao thưởng?”
Dương Hạo trừng mắt nói: “Ai bảo bản quan không biết? Ta nào biết hắn có quyền lực gì ? Ngươi nói xem hắn có quyền đó hay không?”
“Cái này… hạ quan không nhớ rõ có tiền lệ này hay không, đại nhân chờ hạ quan đi kiểm tra luật cổ lễ xem sao. Nếu như không hợp lý, chúng ta có thể căn cứ vào đó để công khai lên án Lý Dục”.
Dương Hạo nghe câu được câu chăng, cũng không để tâm lắm, Tiêu Hải Đào thì đi đi lại lại với Quy thừa tướng, lúc này đây đang hết sức chú ý động tĩnh của triều đình.
“Đại nhân đại nhân” Tiêu Hải Đào lật đật chạy lại “Đại nhân, quốc tiệc thiết đãi sứ giả Khiết Đan sắp kết thúc, đoàn sứ giả sắp về nhà khách. Vua Giang Nam còn phải đích thân đến tiễn ra cửa ngọ môn, đến đại nhân đại diện cho thiên tử nước Tống mà còn không được hành lễ như thế, vua Giang Nam thật đúng là không ra thể thống gì cả.”
Dương Hạo than thở nói: “ Tiêu tự thừa, xem ông vã mồ hôi kìa, đến đây, ngồi uống cốc trà đi”.
“ Tạ đại nhân, hạ quan không uống, người nước Đường quá đề cao dân Khiết Đan, không sợ quân Tống ta sao? Hứ, hạ quan lại đi xem tình hình thế nào”. Tiêu Hải Đào chớp mắt đã không thấy đâu nữa, Dương Hạo nhìn theo bóng ông ta mà dở khóc dở cười: “Cái tên Tiêu tự thừa này, khi tức lên thật đáng yêu, nhưng thật ra như vậy cũng có chút khí tiết”.
Một thị vệ lanh lẹ tay chân đi tới, đứng bên Dương Hạo nhỏ giọng nói: “Đại nhân, thuộc hạ thừa lệnh theo dõi Mạc cô nương, cô ấy vào cung đã lâu mà vẫn chưa thấy ra, sau đó thay quần áo thường phục, nói nhỏ với tên phu xe vài câu, sau đó Mạc cô nương ở trong đó đến đêm mới ra”.
“Hả?” Dương Hạo trợn tròn mắt: “Lâu như vậy sao?” Cô ta đang tính trốn ta hay sao? Hừ, dễ mà qua mặt được ta sao? Ta đi ngủ trước, để mai tập trung tinh thần tiếp tục đấu với cô”.
Dương Hạo vừa đứng dậy, Tiêu Hải Đào mặt mũi đỏ gay chạy lại nói : ”Đại nhân, người chắc chắn là không biết ai là người đích thân ra tiễn đoàn sứ giả Khiết Đan về nhà khách đâu”
Dương Hạo liếc mắt nói: ”Chắc là Dạ Vũ đại nhân chứ gì, ông ta không phải là đại hồng bột hay sao, tiếp đãi sứ giả cũng là nhiệm vụ của ông ta mà”
”Hì!”
Tiêu Hải Đào dậm mạnh chân, tức giận nói: ”Dạ Vũ tất nhiên phải có mặt rồi, nhưng còn có một người trong cung đích thân đến, đó chính là đại thần thủ phủ của Đường Quốc, Khu Mật sứ Trần Kiều, hắn ta vốn là tể tướng của nước Đường mà. Khi đại nhân mới vào cung, hắn còn không đích thân đón tiếp. Đây là điều sỉ nhục và khinh miệt đối với nước Tống ta, đại nhân phải lập tức vào cung, kháng nghị đến cùng với vua Giang Nam!”
Dương Hạo ngáp một cái, nhổ ra một lá chè, rồi làm như không có việc gì mà nói: ”Không có việc gì khác sao? Nếu không có việc gì khác thì bản quan đi ngủ đây, nghe nói ở đây xuân vây thu thiếu, quả thật là không giả. Đất Giang Nam này đã vào đông, đúng là có cảm giác như đang vào thu, thật dễ buồn ngủ, Tiêu đại nhân nếu không có việc gì làm thì cũng đi ngủ đi, cho lại tinh thần, chạy đi thêm vài nơi nữa, cố gắng thu thập hết thông tin về đường đi, sông ngòi, ao hồ, đóng quân... rồi ghi lại, như vậy mới là việc đúng đắn.”
Dương Hạo thắt lại thắt lưng, thản nhiên đi mất. Tiêu Hải Đào đứng nhìn theo bóng chàng đi mất mà phát run.
Dương Hạo nằm khoảng hai tuần hương thì chìm sâu vào giấc ngủ, khi đang say say ngủ thì Tiêu Hải Đào lại tức giận chạy vào: ”Đại nhân, đại nhân.”
Dương Hạo quay lưng ngồi dậy, cười khổ sở nói: ”Tiêu tự thừa, lại nghe ngóng được chuyện gì mà không nhịn nổi như vậy?”
Tiêu Hải Đào phẫn nộ nói: ”Hạ quan không phải là nghe ngóng được tin gì cả, mà là tận mắt nhìn thấy. Sứ giả Khiết Đan vừa mới vào dịch quán đã chê ỏng eo là ở nơi đó xa xôi quá, sân cũng không bằng nơi chúng ta đang ở. Bọn họ còn muốn chúng ta dọn đi nơi khác, nhường nơi này cho bọn họ, Chương chỉ huy lý luận với bọn họ còn bị bọn họ động hủ, đã làm bị thương mười mấy binh sĩ quân ta rồi!”
Dương Hạo ngẩn người, mắt trở nên mơ hồi... Rồi bỗng nhiên quát lớn: ”Thị vệ của chúng ta đều là cấm quân, nói về võ công thì cũng không thua kém bọn Khiết Đan, sao lại để chúng động thủ uy hiếp như thế?”
Tiêu Hải Đào nói: ”Đại nhân không biết đấy thôi, bọn họ chỉ nhằm mục đích gây sự. Chương chỉ huy nghe nói binh sĩ xảy ra tranh chấp đã mang quân đến hòa giải, vốn không muốn động thủ với bọn chúng, đến gươm giáo cũng không mang theo, nhưng đối phương lại dùng binh đao, lẽ nào chúng ta chịu thiệt? Hồng Lư tự Dạ Vũ cũng có mặt nhưng hắn không khống chế được bọn Khiết Đan kia, đại nhân, chúng là theo lý mà nói phải là thượng khách của nước Đường, vua Đường đối đãi, nghênh tiếp chúng ta là trách nhiệm của ông ấy, nhưng đến nay lại để xảy ra chuyện như thế này, ông ta còn như người ngoài cuộc không can dự. Đại nhân nên đến làm rõ lý lẽ với lão ta”.
”Kháng nghị cái đầu ông, Tiêu đại nhân, ông không thể nói chuyện khác được à?”
Dương Hạo tức đến nỗi nói thô lỗ với Tiêu Hải Đào, chàng vừa mặc quần áo vừa nói: ”Phàm mà kháng nghị, thì đa phần đều là những kẻ ở vị thế thấp mà nói cao, chứ nếu không cần chi phải kháng nghị? Kháng nghị có cái tác dụng gì, bọn họ làm như thế nào chúng ta sẽ làm như thế, đánh cho bọn hắn đi về gặp tổ tiên không phải là xong ư?”
”Hả, phải... phải động thủ sao?”
Tiêu Hải Đào lắp bắp nói. Ông ta không ngờ rằng một người tính tình tốt như thế, tốt đến mức tưởng chừng như mềm yếu lại có thể dữ đến như vậy, ông ta kinh ngạc nói: ”Cái này, cái này sợ rằng không ổn, chúng ta là ngoại sứ, đến nước Đường làm khách. Có xảy ra chuyện gì thì cũng cần chủ nhà lộ mặt, nếu như chúng ta ở trong nhà khách đánh nhau với hội Khiết Đan thì chẳng phải cũng là loại vô lễ nghĩa giống chúng hay sao? Nước Đường sẽ được thể mà lên mặt. Vua nước Đường truy ra ngọn ngành thì chúng ta sẽ không bị thiệt đâu”.
”Theo lý cái con khỉ mốc!”
Chương 353: Xung đột
Dương Hạo xỏ giày, đứng thẳng lưng, lấy thanh gươm mà Chiết Tử Du tặng chàng treo trên tường xuống, vừa giơ kiếm, vừa hét lên một tiếng “cha”, chàng nhìn kiếm, đút kiếm lại vào vỏ rồi đeo lên lưng. Vừa buộc lại đai lưng vừa nói: “ Thời Hán vũ đế, đại tướng Lý Nghiễm Lợi đã đổ máu trong cuộc chiến Đại uyển, thây phơi ngàn dặm, đó không phải là vì Tổ quốc của ông ta đó sao? Theo cách nói của ngươi là không hợp đạo lý, không hợp đạo lý thì làm sao? Sau trận chiến đó thắng lợi rực rỡ, các chư quốc Tây vực nhìn ông ta như thế nào? Từng hoàng thổ thế đạo, tịnh thủy bát phố, tất cung tất kính. Nếu như tặng cả thần tiên nữa thì e rằng trên thiên giới các thiên sứ bất mãn. Khi Lý Nghiễm Lợi đem quân đi, các nước chư hầu đều đích thân nghênh tiếp từ 10 dặm, khi về nước thì các quân vương mang theo vàng bạc châu báu ra đích thân đón tiếp thiên tử Trung nguyên.
Cuối cùng Hán vũ đế không còn được cường thịnh như xưa nữa thì thế nào? Quốc vương nước Khang khi tiếp kiến sứ giả chư hầu đã sắp xếp để sứ giả Ô Tôn của Đại Hán sau cùng, rồi quốc vương càng thêm ngạo mạn không nói một lời mà giết chết sứ giả, kết quả nước Hán nổi giận, phái thêm vài sứ giả đến rồi đều bị giết chết, tại sao phải tiền cung hậu cứ? Do thực lực mà thôi. Ngươi có lễ nghĩa và ngươi hy vọng người khác tôn trọng ngươi? Vậy ngươi đi đoạt lấy chức quân vương đi, có một vài người nói nhẹ không ưa chỉ ưa nặng, không cần biết có lễ nghĩa gì hết đâu, đi thôi!”
Dương Hạo vừa nói xong liền bỏ ra ngoài, Tiêu Hải Đào ngẩn ra hồi lâu mới vội vàng giật mình nói: “Nếu biết sớm đại nhân vốn nóng tính thế hạ quan đã không bẩm báo cho ngài, việc này làm to ra cũng đành vậy nhưng chớ có làm đến mức không gì cứu vãn nổi”.
“Bây giờ thần ưng của ta hẳn đã bay về đến Thượng Kinh rồi chứ nhỉ?”
Gia Luật Văn nhìn về phía bầu trời xanh xa xôi, suy nghĩ một lát, rượu Giang Nam mềm mại thơm ngon, dù trên bàn tiệc rất sung sướng thoải mái, nhưng đó chỉ có tác dụng làm cho mặt thêm chút hồng, không thể biến đổi được gì.
Đinh Thừa Nghiệp đi đến trước mặt hắn, nói: “Đúng vậy, với tốc độ bay của Ha Lực Cái thì giờ đã đến Thượng Kinh rồi. Đại nhân không ở Thượng Kinh để tự mình chủ trì đại cục , không biết ở đó tình hình ra sao”
Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Ta ở Thượng Kinh, bọn họ lúc nào cũng sẽ đề cao cảnh giác, không chỉ ta, kể cả quân bộ tộc của ta cũng sẽ đều bị quan sát chặt chẽ. Bất kể là ai cũng đều không ngờ tới rằng, khi ta đang ở Giang Nam xa xôi lại có thể xảy ra cuộc phản động công kích, xuất kích bất ngờ mới có công hiệu”.
Hắn vuốt vuốt râu, dương dương tự đắc: “ Người Hán các ngươi binh thư hữu vân, có năng lực mà không thể dương oai, có thể dụng mà không thể dùng, đó chính là đạo lý. Ta rời Thượng Kinh, Tiêu Xước tự cho là được kế, bọn họ mới lơi là cảnh giác và cho ta cơ hội. Lúc này đây ta mà ở thượng Kinh tự tay nắm giữ quân bộ tộc càng dễ dàng đắc thủ. Bọn họ tuyệt đối không nghĩ rằng ra- một kẻ ‘ốm yếu bệnh tật’, phụ thân đại nhân cũng rời đất bộ tộc, bí mật đến Thượng Kinh khống chế quân bộ tộc của ta, haha.. chứ không hề biết phụ thân đại nhân của ta lúc nào sẽ phát động”.
Đinh Thừa Nghiệp an ủi: “Đại nhân không cần phải quá lo lắng, lão Vương gia cưỡi ngựa cả đời, kinh nghiệm chinh chiến cũng phong phú hơn người, chắc chắn sẽ chọn được người thích hợp nhất để tiến hành chiến lược này”.
Lúc này, một thị vệ vội vã chạy vào bẩm báo: “Đại nhân, người Tống không chịu dọn đi, chúng thần đã cãi nhau một phen, hai bên bắt đầu động thủ rồi ạ”.
Gia Luật Văn trừng mắt nói: “Người của chúng ta không bị thiệt chứ?”
Tên thị vệ đó liền cười hi hi mà rằng: “Đại nhân yên tâm, nhờ phúc lớn của đại nhân, chúng ta đã chuẩn bị kĩ trước khi đến, ai cũng có giắt vũ khí theo người, đánh bị thương vài người của bọn chúng, người của chúng ta thì không ai bị thương cả. Có điều, chúng ngậm bồ hòn, đợi binh lính đến đều đã mang theo vũ khí, sợ rằng muốn đánh một trận lớn”.
Gia Luật Văn cười ha hả nói: “Chúng dám? Ta cũng đang muốn bọn chúng mang binh đến đây, đi, ta ra xem”.
Đinh Thừa Nghiệp vội vàng khuyên: “Đại nhân, hiện nay ở Thượng Kinh vẫn chưa có tin tức gì đích xác, chi bằng đừng sinh sự vẫn hơn”.
Gia Luật Văn hiểu ý mà cười: “Đương nhiên bây giờ ta vẫn chưa thể giết Dương Hạo, có điều cũng phải cho hắn mất hết uy phong”.
Đinh Thừa Nghiệp ngẩn người, mặt đột nhiên trắng bệch: “Dương Hạo? Dương Hạo là ai?”
Gia Luật Văn nói: “Sứ giả của nước Tống là Dương Hạo, nghe nói hắn khi ở Tây Bắc đã giao lưu với Gia Luật Cách, ắt hẳn là một con người văn võ song toàn, chúng ta đi gặp hắn”. Gia Luật Văn nắm chặt con dao giắt lưng rồi đi, Đinh Thừa Nghiệp ngây người đứng tại chỗ.
“Dương Hạo, có phải là Dương Hạo không?” Đinh Thừa Nghiệp nghĩ lại cái người đã khiến cho mình sợ đến mức lâm vào cảnh như thế này. Bất giác ngọn lửa căm giận từ từ bốc lên, hắn kéo vành mũ trên đầu xuống che mặt, theo Gia Luật Văn ra ngoài.
Dạ Vũ đứng ở giữa hai bên, khom người thở dài nói: “Chư vị, chư vị, chư vị từ xa đến đây làm khách, đều là thượng khách của nước Đường, có gì thì từ từ thương lượng với nhau, hà cớ gì phải vì chuyện nhỏ này mà mất hòa khí?”
Chương Đồng Châu quát lớn: “Chương Gia chúng ta vốn đường đường là nam tử hán, hôm nay các ngươi làm bị thương vài anh em, ngươi bảo ta là phải nhân nhượng ư, họ Chương chúng ta không sợ, Dạ đại nhân, mời ngài tránh ra một bên, hôm nay Chương Đồng Châu ta nhất định phải đòi công bằng từ bọn Khiết Đan.”
Chương Đồng Châu đứng bên cấm quân thị vệ,quần áo chưa kịp chỉnh tể, rõ ràng là nghe tin xong liền chạy đến ngay, sau lưng có một vài binh sĩ cầm dao, mâu, do đến muộn nên một vài binh sĩ đã bị thiệt, chỉ huy đang cùng giao thiệp với đối phương, do đó chưa có ai lên chiếm thế. Hai bên mặt đối mặt, Gia Luật Văn mặc chiếc quần da báo, chân đi giầy, rõ ràng là một đại hán của Khiết Đan, thế mà trong tay lại cầm theo không ít vũ khí, khiến ai cũng chăm chú nhìn theo, rõ ràng là đã có sự chuẩn bị kĩ trước khi đến đây.
Bọn họ nghe thấy Chương Đồng Châu nói như vậy thì cười ha hả mà rằng: “ Người nhà Tống các ngươi chỉ là giỏi khoa môi múa mép, có bản lĩnh gì thực sự thì mau thể hiện ra đây, người Khiết Đan chúng ta mới thực sự là những bậc anh hùng hảo hán, các ngươi có bản lĩnh thì thử giết ta xem, ta sẽ cho các ngươi nếm mùi lợi hại, chứng thực tiếng tăm hảo hán! Nếu như các ngươi không có tài cán gì thì hãy cuốn gói đi vẫn còn kịp, còn chỗ này bọn ta ở là chắc rồi.”
Hai bên lửa giận bừng bừng, đều đang muốn nhảy vào nhau đánh lộn. Dạ Vũ khổ sở khom mình khuyên giải: “Các ngài bình tĩnh đã, có gì nói chuyện với nhau, ai đó đi mời sứ giả Gia Luật và Dương trái sứ đến, bản quan thật sự không can nổi rồi”,
Ngẩng đầu lên thấy Dương Hạo và Tiêu Hải Đào đang đi đến, Dạ Vũ không nén nổi mừng rỡ: “Tiêu tự thừa ngài đến đúng lúc lắm, mời ngài can ngăn dùm, tử viết, lễ chi dùng, cùng vi quý. Tiên vương chi đạo, tư vi đắc ý. Ồn ào như thế này Đường quốc chúng tôi thật mất mặt quá, thật chẳng giống ai rồi.”
Tiêu Hải Đào vốn định ra mặt khuyên can, để tránh cho Dương Hạo phải ra tay. Nhưng nghe thấy những lời nói này lại thấy rất bực mình, không nén nổi mà lớn tiếng phản bác: “ Dạ hồng lư há lại muốn đoạn chương thủ nghĩa? Đã có câu: ‘Lễ chi dùng, cung vi quý. Tiên vương chi đạo, kỳ vi mỹ’. Vừa muốn cái này lại muốn cái kia, như vậy không được. Biết lễ nghĩa thì hòa hảo, bằng không thì khó lắm. Hôm nay là do người Khiết Đan thất lễ trước, Dạ đại nhân đến không làm gì được lại chỉ trích người Tống chúng tôi thất lễ hay sao?”
Hai bên võ sĩ giương cung giương kiếm, hai người cầm đầu ở hai bên lại không hề qua lại một lời, bên này dường như chuẩn bị biện luận thì bên kia cũng sẵn sàng giở lý, không chỉ những võ sĩ hai bên nghe không hiểu, đến Dương Hạo cũng không hiểu.
Hóa ra Dạ Vũ trích dẫn lời của Khổng Tử, nói về dĩ hòa vi quý. Ở nơi này từ xưa đến nay đều rất chuộng nói đạo lý, khiến người ta mâu thuẫn thì lại không thủ lễ, mà Tiêu Hải Đào lại phản bác ông ta, như vậy theo cách nói của Khổng Tử thì là vạn sự dĩ hòa vi quý. Nhưng Khổng Tử cũng nói rằng nếu như bất kể làm việc lớn nhỏ gì cũng đều dĩ hòa vi quý thì không thể khống chế quy củ pháp luật, như vậy là làm mất nguyên tắc.
Hai tên mọt sách đáng thương bị hai võ sĩ dẹp ra không thương tiếc, dường như trong mắt họ, hai tên ưa lý luận kia chỉ là một cọng cỏ mà thôi. Dương Hạo nghe bọn họ cứ lẩm bẩm những lý lẽ phản biện mà phát bực, tiến lên vài bước mà nói: “Việc này Khổng Tử cũng không thể giải quyết nổi đâu, hãy để lão tử ta giải quyết”.
Quân Tống nghe thấy vậy liền quắc mắt, dạt sang hai bên cho Dương Hạo và Tiêu Hải Đào đi lên, tay nắm chặt gươm, hai người từng bước từng bước đi lên phía trước.
“ Đại nhân, chúng thần có lý trước. Chỉ tại bọn chúng động thủ đả thương người của chúng ta trước. Đại nhân, chúng thần không ngại đi vào cung…”
“Người đâu, Tiêu tự thừa mệt rồi, mau đỡ ông ấy vào trong nghỉ ngơi”
“Tuân lệnh!” Hai tên cấm vệ quân người Hán lưng hùm vai gấu, thân cao thước tám xuất hiện, đỡ hai bên Tiêu tự thừa rồi kéo ông ta vào trong.
Dạ Vũ mặt trắng bệch hỏi: “Dương trái sứ định giải quyết thế nào?”
Dương Hạo sắc mặt trầm xuống, điềm nhiên nói: “Dùng thanh kiếm trong tay ta”.
Dạ đại nhân vừa nghe thấy liền hốt hoảng: “Dương trái sứ tuyệt đối không được, nếu như các ngài ra tay thì sự tình sẽ càng thêm phức tạp, hạ quan…”
“Người đâu, Dạ đại nhân cũng mệt rồi, mau kéo ông ấy đi nghỉ ngơi”
Những lời nói này không phải xuất phát từ miệng Dương Hạo mà là từ thủ lĩnh Khiết Đan. Hắn cười hì hì nhại theo câu nói của Dương Hạo, ngay lập tức cũng có hai tên lính Khiết Đan chạy tới kéo Dạ Vũ sang một bên.
“Không được động thủ, không được giết người” Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào bị kéo vào trong cùng thi nhau hét lớn.
Dương Hạo nhìn con người cao to đang đứng vững như bàn thạch trước mặt, đó chính là thủ lĩnh Khiết Đan. Khí thế như núi, tay nắm chặt chuôi đao to đùng, chuôi đao bằng đồng sáng chói ngời, không biết đã bị ngón tay cái của hắn chạm vào biết bao lần. Hắn híp hai mắt trầm giọng nói: “Bản quan là Chỉ huy sứ của bộ tộc Khiết Đan, các hạ là ai?”
Dương Hạo cũng hơi nheo mắt nói: “Bản quan là Hồng Lư Tự Thiếu Khanh Dương Hạo của Tống quốc, chính là các người đã đến đây làm hại người của ta?”
“Roẹt” một cái, hai bên binh sĩ của Khiết Đan và nước Tống đều nhất tề rút gươm, làm thành một vòng vây hình tròn bao quanh hai người, một quan văn, một quan võ. Một người cầm gươm, một người cầm đao, hai bên nhìn nhau tóe lửa như sắp sửa lao vào nhau đến nơi.
Chương 354:Miệng nói một đằng, lòng nghĩ một nẻo
“ Là lão tử đây, a!”
Lý Giai vừa nói xong, đột nhiên một lưỡi kiếm sáng như tia chớp vụt tới, nhanh tới mức hắn không kịp phản ứng, hắn cảm thấy mặt mày xây xẩm, chỉ có thể hét lên một tiếng thảm thiết, Dương Hạo đã thu lại lưỡi kiếm sắc bén.
Lý Giai hồn xiêu phách tán, tay chân lạnh ngắt, toàn thân run rẩy, đao thị uy này đã khiến hắn tưởng chừng như mình bị bổ ra làm hai, cả người đứng hồi lâu không nhúc nhích được, mãi lâu sau mới bắt đầu nhúc nhích, hai tay hơi động đậy, cúi đầu nhìn lại mình.
Hắn vẫn khỏe mạnh nguyên vẹn, chỉ có điều khi vừa cử động, quần áo trên người bị xẻ đôi làm hai, đai lưng bay lả tả rơi xuống đất, cả thân hình trần như nhộng đứng đó, một dòng máu chảy từ rên mặt xuống sống mũi, xuống ngực, Lý Giai không nén nổi một tiếng kêu rên rỉ.
Dương Hạo thở dài nói: “Bị thương đến da thịt sao? Tại hạ học nghệ không giỏi, quả thực lấy làm xấu hổ”.
“ Ngươi, ngươi…ngươi” Lý Giai như trông thấy quỷ, tay run rẩy chỉ vào Dương Hạo, không nói được lời nào.
“ Xem ra các người cùng nhau xông lên đi, hắn ta một mình sợ không trụ được đâu”.
Dương Hạo cười khinh miệt, lấy ngón trỏ chỉ vào bọn võ sĩ Khiết Đan đang đứng sợ hãi, lúc này đây bọn chúng mới dường như sực tỉnh, lửa giận ngùn ngụt bốc lên, ai nấy đều rút đao ra khỏi bao, nhưng đã bị Chương Đồng Châu kịp thời ngăn lại.
Trong mắt những chuyên gia thì đường kiếm đó của Dương Hạo có tốc độ rất cao, hơn nữa đường kiếm lại chuẩn và ổn định. Kiếm pháp này căn bản là không cần thêm ai tiến lên trợ giúp. Mặc dù như vậy, Dương Hạo chỉ là trái sứ khâm sai của nhà Tống, một khi để xảy ra chuyện gì thì cái chức vụ thị vệ của hắn cũng không gánh nổi trách nhiệm, nên Chương Đồng Châu tự mình dành lấy hai thanh đao, tiến lên trước hai bước, chăm chú dõi theo nhất cử nhất động của Dương Hạo, lúc nào cũng sẵn sàng nhảy lên ứng cứu.
Dương Hạo cầm chặt Thanh Sương kiếm, lưỡi kiếm như cầu vồng, nhân nhược du long, tay áo tung bay phấp phới, mặc dù bốn phương tám hướng đều là những tay võ sĩ Khiết Đan với tay dao sắc bén, ánh mắt lạnh lung giống như cuồng phong ngày tuyết, nhưng hắn vẫn như tuyết trung độc vũ, phóng khoáng tự tại.
“Quan Thiên Hành, bị thương chỗ nào không?”
Bọn thị vệ cấm quân thấy vậy hoa cả mắt, chỉ thấy Dương Hạo hét lớn một tiếng, người thị vệ có tên Quan Thiên Hành kia ngẩn người, bước lên trước một bước hành lễ, cao giọng bẩm báo: “Khởi bẩm trái sứ, thuộc hạ bị đạp ở bên trái”.
“Hừ!”
Lời của Quan Thiên Hành vừa dứt, Dương Hạo liền phi một cước, kiếm thế thượng liêu, hai thanh đao cũng đồng thời trợ giúp, một chân đá vào sườn dưới của tên đại hán Khiết Đan, chỉ nghe thấy tên kia hét lên một tiếng, lăn lộn xuống dưới đất như một con lật đật. “Hự”, máu từ trong mồm hắn tuôn ra ồng ộc, hắn dùng đao chống người dậy, thế nhưng đòn này của Dương Hạo đã khiến hắn trọng thương, không thể nào động đậy được, chỉ hơi động một chút máu lại phun ra, cả người hắn đổ gục trên mặt đất, mặt trắng bệch.
“Lý Trư Bà, ngươi bị thương ở đâu?”
“Thuộc hạ, vai phải của thuộc hạ bị trúng đao”- tên đại hán dâu dài vừa giữ bả vai vẫn đang rỉ máu vừa nói.
Ánh dao như một dải lụa phất qua trước mặt, Dương Hạo đưa lưỡi dao tiến vào nhanh như gió. Lưỡi đao vừa ào ào đưa ra, một võ sĩ Khiết Đan nắm chặt đao trong tay cũng nhanh tay đỡ đòn, đòn của Dương Hạo như gió lốc bay tới. “Leng keng leng keng”, tiếng binh đao chạm nhau tóe lửa, tay cầm đao buông thõng, bị một đao khác bay đến, chỉ nghe thấy “hự” một tiếng, tên đó đi lùi lại phía sau vài bước, đao trong tay rơi xuống đất. Cánh tay phải buông thõng, máu tươi từng giọt từng giọt theo dọc bàn tay nhỏ xuống.
“Ai bị thương ở đâu mau lên báo cáo”.
Dương Hạo gào to một tiếng, bọn cấm vệ quân như lên tinh thần, lần lượt nêu tên như học sinh đi học điểm danh.
“Đại nhân, ty chức Đạm Mãn Đình, đầu gối bị thương”
“Đại nhân, thuộc hạ Quách Tư Thân, bị thương ở ngón tay”
“Đại nhân, thuộc hạ Thu Tội…”
“Thuộc hạ Lưu Lưu…”
Dương Hạo quay lại, nhìn binh sĩ. Hắn không mảy may chú ý đến những việc khác mà chữa trị cho từng người, đợi đến khi không còn một binh sĩ nào đến báo cáo tình hình bị thương nữa, hắn mới lo đến thân mình. Lúc này, đã có bảy, tám võ sĩ Khiết Đan mất sức chiến đấu, đang phải rời chiến tuyến. Dương Hạo cười một tràng dài, lưỡi kiếm trong tay bắt đầu hóa thủ vi công, trên chiến trận không ngừng phát ra những tiếng kêu kinh ngạc cùng những mảnh vụn của quần áo sau trận chiến. Đợi đến khi Dương Hạo hiên ngang thu kiếm trở về, ngang nhiên đứng cách chỗ đối phương ba tấc, trước mặt hắn giờ là một tên thân thể cường tráng, tóc tai bù xù, đứng lẫn trong đám người.
Tên võ sĩ đó tay cầm đao, không tiến cũng chẳng lùi, đứng trước đám quân Tống đang cười nhạo chỉ thấy mặt tím bầm, nhưng lại không biết làm gì cho phải.
Gia Luật Văn vừa mới đến nửa đường, chỉ thấy một viên quan nhà Tống đang đánh cho thuộc hạ của hắn hồn xiêu phách tán, trong lòng cũng không khỏi lo sợ. Hắn không ngờ rằng vị quan văn nhà Tống này lại có thể có kiếm thuật hay như vậy, so với khả năng của hắn thì Gia Luật Văn quả thật không phải là đối thủ. Nếu như người này chính là Dương Hạo, thì chỉ e là có mười nhát, trăm nhát, chứ cả nghìn nhát cũng không thể chặt đứt cơ thể của hắn ta.
Hắn thấy thị vệ của mình bị đánh cho tơi tả, trong lòng hết sức căm hận. Đợi cho Dương Hạo quay người bước đi, trên chiến trường chỉ còn bảy tám tên thị vệ bị Dương Hạo dùng đòn chẻ quần áo vẫn đang nằm đấy. Mỗi người một vẻ xấu xí, nhận cái nhìn chế nhạo của người Tống. Mặt xanh mét, Luật Văn bước tới, trầm giọng mắng tên thị vệ đang trần truồng nằm đó: “Còn không mau cút đi? Còn chưa đủ mất mặt hay sao?”
Dương Hạo ngay lập tức quay người lại, thấy hắn cười trầm nói: “Các hạ thật uy phong, thật là thủ đoạn, tại hạ sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn vẫn còn chưa được thỉnh giáo, chẳng hay các hạ tôn tính đại danh chi?”
Dương Hạo cười ha hả nói: “Nói hay lắm, bản quan là sứ giả nhà Tống, tên Dương Hạo”
Gia Luật Văn bình tĩnh cười nói với “Tống sứ” : “Các hạ thân là sứ giả nhà Tống, đại diện cho quốc phong của một nước. Tuy ngài có kiếm thuật tuyệt diệu, nhưng dùng thủ đoạn đê hèn để lăng nhục võ sĩ nước khác, thật không đáng mặt chính nhân quân tử. Đây là hành vi của riêng mình Tống sứ, hay người Tống các người đều cũng một giuộc như vậy?”
Dương Hạo quay đầu nhìn Tiêu Hải Đào cười nói: “Ngươi xem, khi ngươi hơn hắn, hắn phải chịu cúi đầu hành lễ thỉnh giáo ngươi rồi. Giả dụ hôm nay người bị bại trận thê thảm là ta, thì ắt hẳn hắn sẽ lấy dao mà mổ lợn ăn mừng mất.”
Gia Luật Văn mặt đỏ lên, hắn đích thực đã thấy võ công của Dương Hạo quả rất lợi hại, ắt hẳn nếu hắn mà có ra tay thì cũng không phải là đối thủ của Dương Hạo, cho nên mới giở giọng văn ra. Không ngờ Dương Hạo kiếm đã sắc bén, miệng hắn còn sắc sảo hơn, khiến Gia Luật Văn đột nhiên giận dữ, tay nắm chặt chuôi đao, nghiến răng nói: “Các hạ còn tiếp tục lăng nhục sứ giả Khiết Đan chúng ta? Các hạ tưởng rằng quân Khiết Đan chúng ta không có người tài giỏi hay sao? Người đâu, mau bắt tên sứ giả họ Tống này cho ta, ai có gan dám phản kháng, lập tức giết không tha.”
Đám đông binh sĩ Khiết Đan hô hào ầm ĩ, lần lượt lôi đao ra, xông lên phía trước. Trông thấy bọn người Khiết Đan cố tình khiêu khích trước mặt đông đảo mọi người, ai cũng hằm hằm vác theo binh khí, quân Tống lại không nhiều người, ngay lập tức, họ quây thành vòng, những vệ binh cấm quân bị thương và không có tấc sắt trong tay thì đứng ở giữa, những người có vũ khí đứng ngoài, tạo thành hàng rào bảo vệ.
Đột nhiên, Chương Đồng Châu tiến đến bên Dương Hạo, giọng khẩn cấp: “Mời đại nhân lùi xuống”
“Vội cái gì?” Dương Hạo đủng đỉnh lấy ra một chiếc khăn tay trắng như tuyết để trong áo, để thanh kiếm cao ngang ngực, cẩn thận lau lưỡi kiếm. Cho đến khi trên thanh kiếm hết sạch mùi tanh của máu tươi, Dương Hạo mới dừng tay, ném chiếc khăn thấm máu đi. Chiếc khăn bay theo cơn gió lớn đang nổi lên, lượn vài vòng trong không trung, bay qua mái nhà, bay quá sân sau, qua khóm hoa, qua đầu rất nhiều chiến sĩ quân Tống.
Đa phần vũ khí của quân Tống là cung tên, quân lính ai cũng đều được trang bị cung tên, trên trận địa dày đặc những mũi tên đang được giương lên sẵn, hình thành một phòng tuyến dày đặc không có khe hở, tất cả mũi tên đều đã được giương lên sẵn sàng. Quân Khiết Đan ở đây, có ai là có tốc độ nhanh hơn đường đi của mũi tên đây?
Mặt Gia Luật Văn liền biến sắc, Dương Hạo cười gằn: “Bản quan đem theo Tống quốc lễ tiền mà đến, lễ tiền ở đây, tức là vua nước Tống ở đây. Nơi này là nơi đoàn sứ giả Tống quốc ở, tượng trưng cho lãnh thổ nước Tống, ai dám tiến lên một bước, coi như đó là hành vi xâm phạm lãnh thổ. Các tướng sĩ của ta phải canh giữ nơi này, nếu như có ai dám xâm phạm, giết không tha!”
Quân Tống ầm ầm vâng lệnh, Dương Hạo cũng chẳng thèm nhìn Gia Luật Văn lấy một cái, quay người bước đi, Dạ Vũ cũng đã thoát được khỏi vòng vây của bọn Khiết Đan, vội vàng nói: “Dương trái sứ xin dừng bước, mọi người không nên làm mất hòa khí, có gì thì có thể từ từ thương lượng”.
Dương Hạo mạn tiếng nói: “Nếu như sứ giả Khiết Đan có thành ý và xin lỗi chúng tôi về chuyện xâm phạm Tống quốc, bồi thường cho những binh sĩ bị thương của ta, bản quan sẽ bày tiệc rượu coi họ như thượng khách. Bằng không, chẳng có gì cần phải thương lượng hết. Đây là địa phận nước Đường, nếu như có xảy ra vấn đề gì, quý quốc sẽ khó lòng mà không bị liên lụy. Dạ đại nhân, đại nhân và quốc vương nợ chúng tôi một lời giải thích đó, chúng tôi vẫn đang đợi các ngài.”
Trong cung Đường, Chương Bác đang chơi cờ với Lý Dục tại thư phòng, Chương Bác tuy rằng chỉ là nịnh bợ Lý Dục, nhưng hắn cũng đích thị là một kẻ tài tình. Hắn không tín Phật, nhưng để lấy lòng Lý Dục, hắn lại nghiên cứu tinh thông Phật học, nói những đạo lý nhà Phật làu làu. Hắn đánh cờ cũng rất giỏi, nước cờ của hắn có thể gọi là cao minh, đến Lý Dục cũng còn kém hắn một bậc.
Hắn biết Lý Dục không muốn bị nhường cờ, nếu như giả vờ ngẫu nhiên để cho Lý Dục thắng một ván, hai ván thì còn được, chứ thực ra hai bên đều đã biết rõ thực lực của nhau, muốn nhường cờ mà không để lại dấu thì cũng khó mà làm nổi, do đó khi đánh cờ hai bên tuyệt đối không có chuyện nhường nhịn gì.
Chương Bác giở hết thực lực ra, Lý Dục liền hết cờ ngay lập tức. Lúc này, khi hắn sắp mất nước đến nơi và đang phải đau đầu suy nghĩ, tìm cách gỡ giải thế cờ, thì một người trong cung đi vào, đến gần hắn thủ thỉ: “Quốc vương, đại lý tự khanh Tiêu Nghiễm cầu kiến”.
Lý Dục đang chăm chú với bàn cờ, không buồn ngẩng đầu lên mà phất tay nói: “Bảo hắn đợi ta một lát”
Người cung nhân nọ khẽ “vâng” một tiếng rồi lặng lẽ ra ngoài.
Tiêu Nghiễm chờ ở bên ngoài đi tới đi lui, sốt ruột như đang bị kiến cắn, đợi mãi mà vẫn chưa thấy Lý Dục triệu kiến, bèn nhờ viên cung nhân nọ lại vào lại bẩm báo. Nhưng khi viên thị vệ ra ngoài vẫn chỉ nói hắn đợi thêm một chút. Vì đã vào giục vài lần mà chưa thấy có kết quả, viên thị vệ kia cũng sợ kinh động mà không dám vào gọi nữa.
Tiêu Nghiễm giận dữ, đẩy viên thị vệ sang một bên rồi xông thẳng vào thư phòng, thấy quốc vương vẫn đang ngồi đánh cờ, mặt còn đang hỉ hả vui sướng. Tiêu Nghiễm không suy nghĩ gì, tiến đến gần bàn cờ, Lý Dục lúc này vẫn còn chưa phát giác, cơn giận trong người Tiêu Nghiễm bùng lên, hắn không nghĩ được gì nữa, hất tung bàn cờ đang chơi xuống nền nhà văng tung tóe.
Lý Dục giận dữ, đứng bật dậy, trông thấy Tiêu Nghiễm hắn mới sực nhớ ra lúc nãy thị vệ có vào bẩm báo vài lần là có Tiêu Nghiễm xin yết kiến. Lý Dục tức giận nói: “Hành vi này của ngươi có phải là muốn học Ngụy chinh làm phản phải không?”
Tiêu Nghiễm không sợ mà nổi giận nói: “Ngụy chinh thiên cổ danh thần, Tiêu Nghiễm sao dám so bì! Thần không bằng Ngụy chinh, Quốc vương đương nhiên cũng không bằng Đường Thái Tông”
Thấy Tiêu Nghiễm có vẻ còn tức giận hơn cả mình, Lý Dục quay ra cười ngược: “Thôi đi, ta tham tiếc ván cờ, làm chậm việc bẩm báo của khanh, là ta có lỗi. Vậy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mà khiến cho Tiêu Nghiễm đây nóng lòng như lửa đốt vậy?”
Tiêu Nghiễm vẫn chưa hết bực dọc: “Sứ giả Khiết Đan và nhà Tống xung đột, hai bên dánh nhau một trận lớn rồi. Hôm nay hai bên đã đem nước Đường ta ra làm chiến trường, đao ra khỏi võ, tiễn thượng huyền, hết sức căng thẳng, hoàn toàn không coi nước Đường ta ra gì. Thần thấy sắp lớn chuyện rồi, quốc vương còn ngồi đây ung dung đánh cờ?”
Lý Dục trước còn ngơ ngác, sau lại đổi thái độ, vui vẻ cười nói: “Hai bên đã mâu thuẫn nhanh như vậy sao? Nhưng là do bên Tống khiêu khích chăng? Có ai bị chết không?”
Tiêu Nghiễm nói: “Cũng không phải là do bên Tống khiêu khích, mà là sứ giả Khiết Đan đòi chiếm nơi ở của bên Tống. Hai bên sau trận khẩu chiến, sứ giả Khiết Đan đã đánh bị thương bảy, tám người nhà Tống, khiến Dương tống sứ tức giận đả võ sĩ Khiết Đan, hai bên coi như hòa. Nhưng chả ai chịu nhường ai , hôm nay vẫn còn giương cung bạt kiếm, Dạ đại nhân vẫn sợ hãi không dám rời đi, phái người đi bẩm báo với thần, bảo thần cấp báo lên Hoàng thượng để Người cấp tốc nghĩ cách giải quyết!”
“Đúng là do người Khiết Đan khiêu khích sao? Không ai bị thương thật chứ?” Lý Dục tỏ vẻ thất vọng, hắn đã mở yến tiệc thịnh soạn thiết đãi người Khiết Đan là cố ý đón tiếp thịnh soạn hơn nhà Tống một bậc, muốn chọc tức Dương Hạo, nếu như Dương Hạo sách nhiễu lại hắn thì hắn sẽ mượn cơ quân Khiết Đan ở đ ây mà đổ trách nhiệm lên bọn Tống sứ.
Nước Tống vốn là chủ quốc của nước Đường, mâu thuẫn này cũng nhân tiện mà chuyển ra ngoài. Nếu như Dương Hạo căm hận khiêu khích đoàn sứ giả Khiết Đan thì thật đúng ý, hắn khong những có thể mượn đao Khiết Đan để trừ khử cái gai trong mắt, hơn nữa như vậy cũng có cái cớ mà đuổi hắn về nước, nhân tiện trừ bỏ được cái gai trong mắt, sau đó giả vờ là để tránh mâu thuẫn thêm gay gắt giữa hai bên, giữ gìn thượng quốc sứ tiết, làm cho Dương Hạo có cảm giác đã được mang ân đức mà rời đi.
Thật không ngờ, người khiêu khích trước lại chính là đoàn Khiết Đan, nếu như Dương Hạo phẫn nộ phản kích lại, đánh chết người Khiết Đan thì lúc đó tình thế hỗn loạn đến mức không gì cứu vãn nổi nữa rồi. Đó sẽ là chuyện của hai bên nhà Tống và Khiết Đan, Lý Dục không có cách nào giải quyết, thậm chí, hắn có thể ung dung ngồi thế tọa sơn quan hổ đấu.
Thế nhưng cả hai bên đều không đi đến nước không cách gì cứu vãn, hai bên đều chưa dốc hết thế lực, bản thân hắn là vua muốn giả câm giả điếc cũng không xong, chuyện này quả thật giả lơ không được mà ra tay cũng không xong.
Lý Dục chắp hai tay đi đi lại lại trong phòng, cuối cùng thở dài mà rằng: “Triệu ngay Hoàng phủ Kế Huân, phái binh mã đến khống chế cục diện, chớ để sứ giả hai bên lại tiếp tục xung đột”.
“Thật không ngờ tên Dương Hạo này lại có kiếm thuật siêu như vậy, ta thật đã đánh giá thấp bọn sứ giả nhà Tống.” Gia Luật Văn bực mình đi đi lại lại trong phòng, hai mắt đỏ rực đầy sát khí.
Đinh Thừa Nghiệp đứng bên cạnh, khuôn mặt khôi ngô đang méo mó vặn vẹo, hắn cũng không ngờ, tên Dương Hạo này quả thật đúng là người đó, nếu như đây không phải Dương Hạo thì bây giờ hắn sao được tiêu diêu tự tại? Nếu như người đó không phải là Dương Hạo, hắn đã không phải là Đinh Thừa Nghiệp. Hắn đã dời đến Khai Phong, bao vinh hoa phú quý của hắn, hà tất phải bỏ hết để nằm ngửa mua vui cho tên Khiết Đan lỗ mãng này? Là nam mà phải ẻo lả như nữ, leo lẻo nghênh đón, thử hỏi còn có chi nhục hơn?
Nghĩ tới Dương Hạo, Đinh Thừa Nghiệp hận một nỗi không phanh thây hắn ra được thành trăm mảnh, tự mình giày xéo hắn dưới ruộng. Thật không ngờ hắn còn trở thành sứ giả của nhà Tống, đến Giang Nam làm thượng khách. Ngày xưa nhà Đinh là một nhà gia nô, bây giờ lại bị dồn đến tình cảnh này, thử hỏi ông trời có công bằng không?”
Khi nhìn thấy Dương Hạo từ xa, hắn đã phải sợ hãi núp sau lưng những võ sĩ Khiết Đan, xấu hổ khi gặp lại hắn. Nhưng ánh mắt căm hận lại cứ nhìn chòng chọc vào Dương Hạo, hận nỗi không thể giết chết hắn, xé xác hắn ra, như vậy mới thỏa cơn tức. Vừa nghe thấy lời của Gia Luật Văn, Đinh Thừa Nghiệp nói: “Đại nhân, tên đó nếu như võ công cao cường như vậy, nếu chúng ta muốn ra tay e rằng cũng khó. Hơn nữa hắn có vòng trong vòng ngoài bảo vệ, phòng thủ vững chắc, võ công lại cao siêu, muốn hạ hắn, chỉ có thể án binh bất động chờ cơ hội, kiếm vài võ sĩ đắc lực đi khử hắn.”
“Không vội!” Gia Luật Văn cắn răng cười thầm nói: “Đợi Thượng Kinh bên kia có tin tức đã rồi hẵng tính”. Hắn thở dài một hơi, quắc mắt nói: “So với đại sự của chúng ta thì một tên Dương Hạo có là cái gì. Có điều, nỗi nhục này ta quyết không bỏ qua”.
“Đại nhân, tên Dương Hạo này dám làm nhục các võ sĩ Khiết Đan, tước quần áo khiến các võ sĩ trần như nhộng trước mặt các quan thần nhà Đường, điều này thật là một điều phỉ báng lớn, không thể bỏ qua”.
“Ta đương nhiên sẽ không cho qua vụ này, hắn là người ta nhất định phải giết, có điều phải đợi chờ thời cơ”. Gia Luật Văn nhướn lông mày, trên mặt lộ ra một nụ cười đầy hàm ý: “Ngươi khá lắm, coi nỗi nhục của ta là nỗi nhục của ngươi, một lòng một dạ suy nghĩ cho bản quan, haha, đúng là ta đã không nhìn lầm ngươi.”
Vừa nói, Gia Luật Văn vừa nắm lấy bả vai Đinh Thừa Nghiệp, hôn lên trán hắn một cái, Đinh Thừa Nghiệp dù đã quen với kiểu “sủng ái” này của hắn, nhưng giữa ban ngày ban mặt thế này mặt y cũng đỏ lựng lên. Không dám quá mạnh tay đẩy Gia Luật Văn ra, hắn chỉ dám khẽ giãy ra. Thấy biểu hiện đó của Đinh Thừa Nghiệp, Gia Luật Văn càng làm tới, bàn tay to bản của hắn theo đà giật phăng dây lưng của Đinh Thừa Nghiệp, ngón tay thô sần nhéo mông y một cái.
Đinh Thừa Nghiệp lùi lại một bước, nâng chén trà lên đưa cho Gia Luật Văn, nói tránh đi: “Đại nhân, Lý chỉ huy cùng những binh sĩ đang còn quỳ trong điện, nếu như đại nhân đã nguôi cơn giận thì nên thả cho họ đứng dậy thôi”.
“Lý Giai?” Gia Luật Văn quắc mắt, cười lạnh nhạt: “Mười mấy tên võ sĩ mà không làm tổn hại được một sợi tóc của Dương Hạo, đúng là lũ bỏ đi, còn cần làm gì? Bọn chúng bị Dương Hạo làm mất mặt như vậy cũng là nỗi nhục của ta đây, chủ nhục thần tử, bọn chúng lẽ nào không đáng chết?”
Gia Luật Văn nổi cơn giận làm Đinh Thừa Nghiệp như chợt hiểu ra lời nói của y như thêm dầu vào lửa, liền đưa trà tới bên Luật Văn, nghĩ tới Lý Dục cùng những binh sĩ bị lột quần áo trước mặt quân nhà Tống, y cũng không nén nổi tức giận, ném chén trà xuống đất vỡ tan tành.
Đôi lông mày của y khẽ nhíu lại, đằng đằng sát khí: “Đi. Mấy tên ngu xuẩn còn dập đầu tạ tội, gia quyến của bọn chúng có thể vì cái chết của bọn chúng mà nhận được trợ cấp, miễn làm nô lệ, nếu không, hừ!”
Những bộ quần áo giáp của đội quân Đường đang tiến vào sân, chỉ có thể trông thấy cờ của đoàn sứ giả Khiết Đan và nhà Tống bay phấp phới, hai bên lấy cờ làm điểm mốc, mỗi bên tự lấy bao bố, xe cộ làm thành phòng tuyến, từng đoàn quân đi phòng tuyến, giơ gươm rút cung, dường như nơi đây đã thực sự trở thành chiến trường.
Hoàng Phủ Kế Huân vừa nhìn đã kinh sợ thất sắc, luôn miệng nói : “Quân ta mau vào giữa, tránh để hai bên xảy ra xô xát”.
Đoàn quân hòa bình của nhà Đường rầm rập tiến vào sân với những mũi giáo nhọn hoắt dựng đứng, hình thành một phòng tuyến kiên cố dày đặc.
Một vị chỉ huy sứ chắp tay xin chỉ thị: “Tướng quân, nếu như bọn hắn không nghe lời khuyên, kiên quyết tấn công đối phương, làm hại đến cả quân ta thì chúng ta có dùng vũ lực ngăn lại không?”
Hoàng Phủ Kế Huân trừng mắt quát mắng: “ Người Bắc rất mạnh, há cùng một trận chiến? Nhớ rõ, chúng ta cần phải bảo toàn”
Vị chỉ huy kia nghe thấy vậy cố nén giận mà rằng: “Tướng quân, Khiết Đan và nhà Tống đều là người Bắc, không rõ ý của đại nhân là chỉ bên nào?”
“Người Tống và Khiết Đan đều không được phép đắc tội, có điều quân Khiết Đan là hàng xóm của nước ta, là hàng rào che chở cho nước Đường chúng ta. Không được đắc tội, nhớ lấy, nhớ lấy”.
Hoàng Phủ Kế Huân dặn dò kỹ lưỡng, những tấm phòng ngự cũng đã được bố trí thỏa đáng, hắn mới thu mắt nhìn khắp nơi một lượt, quan sát cẩn thận rồi tiến vào sân của đoàn sứ giả Khiết Đan.
Trong sân đoàn Tống sứ, Tiêu Hải Đào vừa đi thăm quan chiến hào một vòng trở về, thấy Dương Hạo đang ung dung ngồi uống trà, không nén được mà nói: “Người Khiết Đan đang theo dõi chúng ta từng tí một, e rằng bọn chúng vẫn chưa từ bỏ được ý đồ đâu, triều đình đang chủ trương trước tiến phía Nam sau mới đến Bắc, một khi đã thống nhất thiên hạ lúc đó mới vui vẻ kết giao cùng Bắc quốc. Hôm nay triều đình đã chuẩn bị lệ binh, chuẩn bị tiến công Giang Nam, nếu ngộ nhỡ kích động Bắc quốc thì ngọn lửa chiến tranh ắt bị dấy lên, làm hỏng việc quốc gia đại sự của chúng ta. Dương trái sứ, ngài và tôi không cáng đáng nổi đâu”.
Dương Hạo mỉm cười nói: “Không sao, người này có thể thay mặt Khiết Đan đi sứ Nam Đường. Nhất định là bên cạnh Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu có thân tín bên cạnh. Như hôm nay ta thấy, trong nội bộ Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu ắt đã có nhiều bộ tộc nổi loạn không nghe lời, nếu như bọn sứ giả ở nước Đường bị chúng ta xỉ nhục, điều này truyền ra ngoài sẽ khiến dân không phục, nhân cơ hội các bộ tộc nổi loạn sẽ mượn cớ lật đổ Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu đó sao? Nước Khiết Đan dựng nước đã lâu, nhưng suy nghĩ vẫn ấu trĩ man di, đừng thấy chúng dã man, tướng mạo thô kệch, chốn quan trường thì thiên hạ như một, báo xỉ không báo thù, báo công không báo quá, việc này bọn chúng đã chịu nhịn một bước, làm sao giấu nổi thiên hạ? Chuyến này trở về sẽ bị thất sủng là cái chắc”.
“Chỉ hy vọng như thế”. Tiêu Hải Đào bán tín bán nghi, lo lắng không yên.
Đúng lúc đó, Dạ Vũ hấp tấp chạy đến, mặt trắng bệch nói: “Xảy ra chuyện lớn rồi, xảy ra chuyện lớn rồi. Sứ giả Khiết Đan đang rất tức giận khi bị Dương trái sứ lột quần áo, đã ra lệnh cho họ tự sát. Bảy tám di thể trần như nhộng vẫn đang nằm trong sân, nhìn sợ phát khiếp. Dương trái sứ à, mối thù này cho qua thôi, có được không, có được không?”
Tiêu Hải Đào vừa nghe thấy đã nhảy dựng lên, kinh hoàng nói: “Có việc này sao? Chết rồi, vậy là đi toi rồi. Chúng ta quân số có hạn, nếu như chúng lợi dụng đêm tối đánh lén thì e rằng nơi đây khó an toàn. Đại nhân, hay là chúng ta vào cung để triều đình cho binh mã bảo vệ an toàn đi thôi”.
Dương Hạo nghe thấy vậy cũng hơi lo lắng, nhưng rồi lại trấn tĩnh lại rất nhanh. Hai vị đại nhân gọi mãi, nhưng hắn vẫn bình chân như vại, đợi hai người nói xong, hắn mới hớp một ngụm trà rồi thản nhiên nói: “Dạ đại nhân, người đã chết chẳng phải tâm tính là ổn định sao?”
Dạ Vũ ngạc nhiên : “Hả?”
Dương Hạo cười như chẳng có chuyện gì xảy ra: “Nếu người chết tâm tính ổn định rồi thì ngay cả cách làm việc cũng tỉnh rồi”.
Nói rồi hắn đứng dậy nói: “Ông xem, bị nhục thì lại giận cá chém thớt, bức thuộc hạ tự sát để tránh làm mất thể diện bản thân, không cho tiếng thất bại lan ra ngoài. Như vậy là triết học lang hả? Mà người Tống chúng ta thì không như thế, chúng ta hành nghĩa nhân đạo, là vương đạo, như vậy mới có thể tin tưởng và thân thiết. Dạ đại nhân, ông nói có phải vậy không?”
Nói rồi hắn vẫy Tiêu Hải Đào lại gần nói nhỏ: “Nay hiểu”
Sau khi nói nhỏ câu đó, Tiêu Hải Đào liên tục gật đầu, vội vã cất bước đi, Dương Hạo đến bên Dạ Vũ, vỗ vai hắn vài cái rồi cười cười nói: “Kết bạn cũng vậy, có khi hai mắt phải lau đi lau lại cho rõ thì mới không nhận lầm người. Vua nước Đường là người thông minh, Dạ đại nhân cũng là người thông minh, tôi nghĩ chắc các ngài cũng không làm chuyện gì ngu xuẩn phải không?”
Trán Dạ Vũ lấm tấm mồ hôi, nghe những lời đó của Dương Hạo hắn nhất thời không dám ho he gì, chỉ nghĩ thầm trong đầu: “Hắn đã nhìn ra dụng ý của ta rồi sao?”
Ánh đèn rực rỡ về đêm, sóng xô mạn thuyền, dập dà dập dềnh.
Lúc này đây ánh trăng đang chiếu rọi sông Tần Hoài, gần hai bên bờ, những cửa hàng rực rõ đèn đuốc. Chiết Tử Du đang thơ thẩn dạo chơi ven sông, nhưng bất giác lại quay đầu lại xem để xác định rõ là không bị ai bám theo, sau đó chợt quay người đi vào một quán trà nhỏ ven thư viện Giang Nam.
Thư viện này được xây dựng từ đời Đông Tấn, tể tướng Vương Đạo nhà Đông Tấn cho rằng “Trị quốc lấy việc bồi dưỡng nhân tài thương nhân làm trọng”. Do đó ven bờ sông Tần Hoài người ta xây dựng nên một thái học, đến nay trở thành thư viện Giang Nam. Do thư viện được xây tựa vào ngói xanh gạch trắng nên quanh đó có rất nhiều cửa hàng bán tứ bảo, cũng có nhiều quán trà và tửu lầu.
Chiết Tử Du tiến vào quán trà, ước chừng thời gian khoảng một nén hương, cô liền tha quần áo giả dạng làm một người dân thường, sau đó chuồn ra ngoài qua lối cửa sau, ngó xung quanh không có ai cô mới nhanh chóng chạy ra khỏi ngõ nhỏ, lẩn vào đám người xung quanh.
Chiết Tử Du tiếp tục ở lại trong trà quán, chậm rãi nhâm nhi cốc trà rồi bỏ lại vài đồng tiền lẻ, chậm rãi lên lầu ngắm cảnh xung quanh. Đứng trên lầu cô vẫn không thấy có người bám theo, lúc này cô mới thở phào nhẹ nhõm, tuy nhiên trong lòng vẫn có chút hậm hực: “Tên xấu xa, chỉ có lời ngon tiếng ngọt là nhanh, chẳng có chút nhẫn nại nào cả, chẳng có chút thành ý nào cả!”
“Haha cô nương đúng là khó chiều. Tiến đến gần thì không thích, mà chạy ra xa thì lại hận. Quay người lại, Chiết Tử Du giống như một con thỏ bị dồn đến bước đường cùng, quay đầu nhìn lại chỉ thấy ngọn đèn lập lòe đằng xa. Nguời đứng kia mặc y phục trắng như tuyết, phong độ nhẹ nhàng. Không lẽ đó là người mà Tử Du gọi là ‘tên xấu xa’?
Chiết Tử Du nhất thời đỏ mặt, đôi mắt không giấu nổi vẻ xấu hổ nhìn vào người kia nói: “Đúng là đáng ghét, tại sao ta đi đâu ngươi cũng theo đó?”
Dương Hạo nói: “Miệng thì nói thế nhưng trong lòng lại không nghĩ thế, âu đó cũng là cái đặc quyền của nữ giới”.
Chiết Tử Du hờn dỗi: “Ngươi nói gì?”
Dương Hạo nhìn sang bên phía “Đào hoa lâu” ở đối diện, mỉm cười nói với Chiết Tử Du: “Mời trước không bằng ngẫu nhiên mà gặp. Mạc cô nương, có thể vui lòng cùng tại hạ đến “Đào hoa lâu” uống vài chung không?”
**************
Trong gian nhã thất, hai chén rượu trắng được rót ra, hai người ngồi bên nhau, bên ngoài cửa sổ là dòng nước sông chảy xuôi về hướng Tần.
Có lẽ đã lâu không bình tâm ngồi với nhau như vậy, quan hệ bây giờ và quá khứ đã không còn như nhau nữa, là bạn? Hay là thù? Có tình? Hay vô tình? Tất cả những suy nghĩ cứ không ngừng xuất hiện trong đầu hai người.
Chiết Tử Du yên lặng ngắm nhìn Dương Hạo, hắn ta không có nhiều thay đổi mấy, do mới chưa đầy hai mươi tám tuổi nên vẫn chưa để râu, dưới cằm rất nhẵn nhụi. Hôm nay người ngồi đây là một vị đại quan ngũ phẩm trong triều đình, một người thanh niên trẻ tuổi có cặp mắt sáng và có hồn, mang theo cái vẻ ôn hòa và hơi có nét cười.
Chỉ có sau khi trải nghiệm được những thăng trầm của cuộc đời, phong thái và ánh mắt của hắn mới có thay đổi, càng thêm tự tin hơn, càng thêm già dặn hơn, và cũng càng thêm sắc sảo. Nhìn lúc này, cái vẻ tự tin, cảm giác trầm trầm khiến cTử Du vừa thấy thân thiết vừa thấy thích thú.
Đàn ông là phải như thế, ngoan cường, cơ trí, có một cảm giác tự tin nắm giữ hết thảy mọi điều, nhưng tuyệt đối không mù quáng tự đại, những người trẻ tuổi nông nổi sẽ không có cái vị thành thục già dặn. Nếu như nói mới đầu điểm hấp dẫn nhất của Dương Hạo là cách ăn nói uyển chuyển thú vị, là nét dịu dàng và lương thiện, nếu như mới đầu Dương Hạo “hớp hồn” Tử Du bằng trái tim si tình hắn dành cho Đông Nhi, thì giờ đây điều khiến Tử Du động lòng chính là bởi vẻ trưởng thành của hắn.
Nhìn Dương Hạo lúc này, Tử Du có cảm giác hắn như một cái cây, cành lá rậm rạp tươi tốt, dần dần mọc lên thành một cây đại thụ, cành cây thô to, có thể che nắng che mưa, có thể tựa vào để nghỉ ngơi, đúng là cảm giác này, thứ cảm giác khiến Tử Du vừa mệt mỏi, lại vừa muốn tránh…
Nàng vốn là người con gái tinh tế, xưa nay vốn ghét loại đàn ông tục tằn, chính vì thế Dương Hạo mới hút hồn nàng bằng nét dịu dàng và tinh tế. Thế nhưng trái tim thiếu nữ cũng rất dễ thay đổi, khi nàng coi Dương Hạo như người đàn ông của đời mình thì nhìn ở góc độ khác, nàng cần một người có năng lực điều khiển được nàng, là một người đàn ông kiên cường, tự tin.
Nàng như ngọn cỏ mọc tự nhiên trên thảo nguyên, mềm mại mà cao ngạo, không phải nam tử hán nào cũng có thể dễ dàng đưa tay ra hái. Nàng sẽ trốn tránh và cự tuyệt, bởi nàng chỉ thuộc về một người, cam tâm tình nguyện trở thành người con gái của người đó, nàng chỉ hy vọng có được một đôi tay vững chắc, một con người mạnh mẽ kiên cường.
Tâm tư tình cảm này thật khó lý giải, giống như khi một cô gái khi kết giao với ngươi, ngươi chỉ tiếc một điều là không thể ngày ngày đem tặng cô ta hoa hồng, nhưng khi cô ta trở thành vợ của ngươi rồi, ngươi lại ham mê theo đuổi những người phụ nữ ở ngoài, đa số phụ nữ đều hay thay đổi, chỉ hận một nỗi ngươi cũng có thể lập tức thay đổi được như thế.
Dương Hạo dần dần đã nhìn ra sự thay đổi nơi suy nghĩ của Tử Du, hắn phát hiện ra rằng mình là người hay thích giở trò trêu chọc và cố ý đả kích, tuy khiến Tử Du tức giận và muốn “xù lông”, nhưng cũng khiến nàng có cảm giác vui vẻ… Hai người dùng một thân phận mới để tiếp cận lẫn nhau, dần dần bị thu hút, dần làm mới mối quan hệ. Dù biết rằng hai người sẽ không thể có kết quả, nhưng nghĩ tới nghĩ lui, hắn vốn chỉ định phá hỏng những việc Tử Du làm ở Nam Đường, nhưng không hiểu thế nào mà lại rơi vào lưới tình, càng thông minh, con người ta lại càng dễ rơi vào sự mê hoặc của tình ái.
Chương 355: Tự thiên cơ
“Mạc cô nương, uống một ly nữa nhé?” Dương Hạo nâng cốc, ranh mãnh gọi tên hiện giờ của nàng.
Chiết Tử Du nhìn thấy nụ cười đó liền hậm hực, nhưng đúng là… nàng không hề ghét Dương Hạo một chút nào. Nàng nâng cốc, nhẹ nhàng chạm cốc cùng Dương Hạo, rượu trôi xuống bụng, hai má càng thêm đỏ hồng: “Dương đại nhân, không phải ngày nào ngài cũng rảnh đấy chứ… thế nên mới có nhiều thời gian nhàn nhã như vậy?”
“Ai nói là ta không có việc gì làm?” Dương Hạo nâng chén rượu, cười đáp: “Hôm nay ta vừa làm chuyện đại sự, đánh nhau một trận lớn, xem ra Mạc cô nương ở Kim Lăng cũng không có nhiều tai mắt lắm, nên mới không biết gì cả”.
“Mới đánh nhau một trận lớn ư?” Chiết Tử Du tròn mắt, vội hỏi: “Với ai thế? Tại sao?”
Dương Hạo kể chuyện xung đột với sứ giả Khiết Đan cho Tử Du nghe, Tử Du nghe xong mỉm cười nói: “Người Khiết Đan vốn ngang ngược dã man… Nếu ngài càng nhân nhượng thì chúng sẽ được voi đòi tiên. Chúng chỉ tôn kính người mạnh, ngài đánh lại chúng quả không sai, nếu như ngài nhân nhượng dàn xếp ổn thỏa thì sợ rằng sẽ có người tạo phản, huống hồ đây là nỗi nhục quốc gia, các quan lại trong triều Tống sẽ không để yên đâu. Thế nhưng ngài chớ cho rằng người Khiết Đan là quang minh chính đại, đường đường nam tử hán. Bọn họ chỉ như những con sói đói ăn, giảo hoạt như hồ ly, chỉ nhân cơ hội lợi dụng ta rồi đâm lén. Trong tình hình như thế này sao ngài còn dám một mình ra ngoài?”
“Ta đã cẩn thận hết sức rồi, bọn chúng mà muốn trả thù ta thì cũng chẳng ra tay nhanh như vậy đâu”.
Tử Du trừng mắt, sẵng giọng: “Ngông cuồng, học được chút bản lĩnh đã v٩ ra oai trong thiên hạ không có địch thủ? Ngươi phải biết rằng đao thương nhìn thấy thì dễ tránh, nhưng ám tiễn thì khó phòng. Nếu như trên đường bất ngờ có tên phóng ra, ngươi tránh không kịp thì biết làm sao? Hoặc giả lúc ngươi trốn ra đây bọn chúng nhân cơ hội lẻn vào dịch quán ra tay lén sao?”
Dương Hạo thở dài nói: “Ta là hồng tư lự thiếu khanh, là một quan văn. Là thủ lĩnh của đoàn sứ giả, ta là người chịu trách nhiệm chiến hay hòa, coi bọn chúng như địch hay bạn, mà không phải do ta đi quảng cáo ta có nhiều võ nghệ, thì có sao? Nếu như đoàn sứ giả nhà Tống có chuyện gì thì hồng lư thiếu khanh ta thiếu mất một lưỡi gươm bảo hộ rồi, điều đó thật đáng buồn.
Người mà ta đem ra ngoài đều là những thượng đẳng cấm quân, bọn họ võ công cao cường, họ đều biết nên làm gì, cảnh giới, phòng ngự, hoặc tác chiến, không cần ta phải vẽ đường, họ cũng đã tự chuẩn bị tốt, không có chuyện gì đâu.
Hôm nay ta đã kết mối thù với Khiết Đan, nếu còn để tiếp tục bị bọn chúng bắt nạt thì ta quả thật nên bắt chước Gia Luật Văn xin bọn chúng tự sát đi cho rồi”’
Nói đến đây, hắn hiếu kỳ quay mặt nhìn Tử Du, mỉm cười nói: “Đúng là kỳ lạ. Bộ tộc Khiết Đan là bộ tộc bắt nguồn từ dân tộc Tiên Bi, nhưng phủ Chiết cũng bắt nguồn từ bộ tộc Tiên Bi Chiết Lan, nói ra thì nàng có họ hàng tổ tông với bọn chúng đấy, sao lại coi quân Khiết Đan là kẻ thù nhỉ?”
Chiết Tử Du trừng mắt nói với hắn: “Ngươi mới là kẻ không hiểu gì hết. Triệu Khuông rốt cuộc có ân đức gì với nhà ngươi mà đáng cho ngươi phải trung thành và tận tâm đi theo bảo vệ hắn? Cùng chung tổ tiên, đúng là chuyện nực cười, nếu như trong thiên hạ này có cột mốc đánh dấu ai là bạn ai là thù thì nội bộ Khiết Đan cũng sẽ làm loạn không ngừng, Trung Nguyên cũng sẽ chỉ có Đại Vũ vua nước Hạ thôi, vạn thế nhất thống rồi.
Mười sáu châu Yến Vân đa phần là người Hán, nhưng nếu các ngươi xuất binh đi cho bọn họ nhận tổ quy tông… Ngươi thử xem mà xem, bọn chúng nghênh tiếp ngươi mỹ tửu hay là mũi tên nhọn? Bọn họ tuyệt đối không mềm tay hơn Khiết Đan đâu. Nếu như nói là cùng tổ tiên thì hai triều vua Tùy Đường còn được gọi là có huyết thống hơn, ngày xưa Hung nô là dân tộc nô lệ, nhiều người phương Bắc mang họ Dương đều có chung huyết thống với họ.
Ngươi cũng họ Dương, biết đâu ba trăm năm trước hai chúng ta lại chẳng có cùng tổ tiên? Nói không chừng ta còn phải gọi ngươi là biểu ca, tại sao ngươi không giúp ta nhỉ?”
Nói đến đây, nàng ta không nén nổi một tiếng phì cười.
Dương Hạo nghe xong cười khổ não: “Đi thôi, ta đã quen nhìn nhận vấn đề bằng con mắt của người hậu thế rồi, nay nàng nói với ta những điều như thế khác nào đàn gảy tai trâu?”
Chiết Tử Du khẽ thở dài nói: “Họ Chiết chúng ta gia thế cư vận, từ đời Đường đã từng cai quản phủ châu, luôn đi theo người mạnh. Lịch Đường, Tấn, Chu, Tống, tất cả đều là những kẻ mạnh cần chống lại. Mà nguyên nhân giống như ngươi vừa nói, họ Thị của ta có cùng tổ tiên với người Khiết Đan, cư dân vùng Tây Bắc gần gũi với Mạc Bắc, một khi bọn họ được thiên hạ, họ sẽ thâu tóm Tây Bắc còn nhanh và khôn ngoan hơn người Trung Nguyên, chúng ta theo nước Tống, xưng thần cống nạp… xuất quân ra trợ giúp nhà Tống thảo phạt Bắc Hán, kiềm chế Khiết Đan, chỉ là để giúp cho bản thân có đất sinh tồn mà thôi”.
Nói đến đây, mặt nàng bỗng lộ ra một nụ cười chua xót: “Chúng ta vốn tưởng rằng nhà Tống sẽ thu nạp nhà Đường, rồi sau đó phiên chắn người Tây Bắc họ Thị như ta, nhưng ai có ngờ đâu nhà Tống thôn tính các nước chư hầu nhanh quá, Triệu Khuông có dã tâm bành trướng quá kinh tởm, hắn đã thốt ra lời thề rằng chỉ cần họ Chiết ta chịu làm thần phục vụ Trung Nguyên, thì chúng sẽ để cho họ Thị ta tiếp tục cai quản phủ châu, nhưng hài cốt của gia phụ còn chưa tàn hắn đã nuốt lời hứa”.
Dương Hạo nghe xong khẽ lắc đầu nói: “Bất kể Triệu quan gia có giữ lời hay không, Tây Bắc vẫn không thể có sức để chống lại Trung Nguyên, đó là sự thực… biết rõ là không thể nào vậy thì còn ngoan cố làm gì? Ngoài những người đã chết thì bách tính biết làm sao đây?”
Chiết Tử Du buồn rầu nói: “Huynh trưởng nhà ta không cam tâm giao tổ tông cơ nghiệp ra, ta đây cũng chỉ có bổn phận trợ giúp huynh ấy. Bất kể nhà Chiết của ta tốt hay Triệu gia nhà các ngươi tốt, đều là vì một nhà một họ mà thôi. Thiên hạ cũng đều dùng chiêu đó, dùng để xem lòng dân trong thiên hạ thế nào. Ngươi đi khuyên nhủ Triệu Khuông xem hắn có vì thiên hạ thái bình mà vứt bỏ đi mục đích thôn tính Tây Bắc hay không? Chẳng những thế, hắn còn muốn con cháu nhà họ Triệu phải có được một cơ nghiệp vững như thái sơn.”
Dương Hạo nói: “Người thức thời mới là kẻ hào kiệt, thiên hạ đại thế, phân lâu ắt hợp, từ khi triều Đường bị tiêu vong đến nay, ngọn lửa chiến tranh Trung Nguyên nổi lên không lúc nào dừng, rung chuyển ầm ầm, lòng người ai cũng mong đến ngày thái bình, Tống quốc nhân thế đó ra đời, Triệu gia thế lực hùng hậu, Tây Bắc vốn căn bản không có đất mà đối đầu. Cũng như thế, tại sao lại không sớm dự định? Đúng là phải dệt gấm thêu hoa cũng không bằng có than sưởi ngày đông, chước xuất binh quyền, chủ động quy phục hoặc là bị đánh dập, kết cục không giống nhau chút nào”.
Hai má Chiết Tử Du đỏ ửng: “Ngươi dựa vào cái gì mà nói chắc chắn như thế? Chiết gia ta không có lực lượng để chống lại nhà Tống, cũng chưa từng nghĩ đến việc làm cho nhà Tống diệtvong, nhưng muốn tự bảo vệ mình thì cũng không phải là không thể thử”.
“Chính là do không thể nên ta mới khuyên nàng.”
Dương Hạo trầm giọng: “Tử Du, ta không muốn làm hại nàng, càng không thể hứa bừa với nàng, nói thực lòng, người giành được Trung Nguyên ắt sẽ là Đại Tống, Phủ châu sớm muộn cũng sẽ phải hạ cờ đầu hàng Tống mà thôi, đây sẽ là kết cục của trận chiến thế giới kéo dài, sau ba trăm năm nữa, thiên hạ sẽ được hưởng những tháng ngày thái bình, sau đó một trang sử mới sẽ được bắt đầu, Tây Bắc sẽ đi đâu về đâu đây? Nàng tuy là nữ nhi nhưng phải mang theo rất nhiều trọng trách của Chiết gia, cũng là người có ảnh hưởng rất lớn đến Lệnh Huynh, tại sao nàng không khuyên hắn ta thuận theo ý trời?”
“Ngươi nói gì?”
Chiết Tử Du tức giận đứng lên, sau đó ngay lập tức nhận ra mình đang thất thế nên lại từ từ ngồi xuống ghế, mặt trắng bệch nhìn Dương Hạo, hồi lâu sau mới nói: “Ngươi.. ngươi dựa vào gì mà dám khẳng định? Nếu như ngươi nhìn vào thực lực của nước Tống mà đoán Đại Tống sẽ thống nhất được Trung Nguyên thì cũng không có gì lạ, nhưng ngươi nói… ngươi nói được vận mệnh của nước Tống trong ba trăm năm nữa, lời này là từ đâu ra, sao ngươi biết đích xác như thế?”
Dương Hạo trầm ngâm hồi lâu mới nói: “Nguyên nhân từ bên trong, ta không thể nào giải thích rõ ràng cho nàng hiểu, nhưng ta sẽ không nói nọ nói kia để làm nàng mơ hồ, càng không thể nói dối nàng, Tử Du, những lời ta nói đều là sự thực, nàng ở nước Đường sẽ không ổn đâu, hãy quay về Phủ Châu đi, đi khuyên Lệnh Huynh đi, đứng lấy trứng chọi với đá nữa”.
Chiết Tử Du kinh ngạc không hiểu, trong lòng chợt nghĩ, Dương Hạo là tông đồ của Lữ Tổ, Lữ Tổ được nhân gian cho là người nửa người nửa tiên, dù đã hơn trăm tuổi nhưng dung mạo chỉ mới như một người ngoài ba mươi, có lẽ ông ta có phép thần thông thật? Ông ta là người tinh thông bói toán, hơn nữa lại có những dự đoán chuẩn xác hơn cả Trần Đoàn, Trần Đoàn chỉ có thể phán được con cháu đời sau của Triệu Khuông sẽ có cơ làm đế vương, còn Lữ Tổ thì lại có thể đoán ra những chuyện ba trăm năm sau ư?
Chiết Tử Du mặt biến sắc, nàng vốn là người cơ trí nhưng lúc này đây cũng thiếu kiên nhẫn, trong lòng nghĩ ngợi một hồi, đột nhiên nghĩ tới Trần Đoàn vẫn ôm mối tâm bệnh trong lòng, không nén nổi mà nói: “Vậy thì… ngươi có biết vận mệnh của ta như thế nào không?”
Dương Hạo trầm mặc không nói, mãi sau mới lắc đầu nói: “Ta không biết…”
Chiết Tử Du cúi đầu, hồi lâu mới ngẩng đầu lên, ánh mắt hướng về phía Dương Hạo: “Nếu như những lời ngươi nói không… nước Đường… nhất định sẽ bị tiêu diệt dưới tay Đại Tống?”
Dương Hạo nghiêm nghị nói: “Đúng vậy, hơn nữa đó sẽ là chuyện xảy ra trong vòng ba trăm năm nữa”.
Chiết Tử Du nheo đôi mắt xinh đẹp của mình lại, chậm rãi hỏi: “Vậy thì, ai là người tiêu diệt nước Đường?”
Dương Hạo cố lục soát lại trí nhớ của mình, chăm chú suy nghĩ hồi lâu mới nói: “Phan Mỹ, Tào Bân!”
Chiết Tử Du nghe nói những lời khẳng định như vậy, mặt biến sắc… Nếu như những sự thực đó sớm đã được khẳng định thì còn đi tranh đấu làm gì? Nghĩ đến đó trong lòng đột nhiên rối bời.
Dương Hạo thấy thế liền khuyên: “Ta khuyên nàng một lần nữa, không phải là do ta là trung thần của Triệu Khuông, mà là ta lo lắng cho nàng, không muốn nàng đi bước đi sai lầm”.
Tần Hán Tùy Đường, mỗi nước đều có vận mệnh riêng, bất kể là nó huy hoàng hay là sẽ đi đến chỗ diệt vong, thì nhà Chiết đã thống trị Phủ Châu hơn hai trăm năm, dù chưa xưng vương xưng tướng hay chứng tỏ được thế lực với các nước khác, nhưng hơn hai trăm năm nay đã không thua kém gì với Đại Đường rực rỡ, nay lại bắt ra hàng, không chỉ không phải với Lệnh Huynh, mà cũng sẽ khiến cho liệt tổ liệt tông phải thất vọng.
Chiết Tử Du hít một hơi thật sâu, ngẩng đầu nói: “Được. Vậy ta sẽ ngồi đây xem, nếu như nước Tống chinh phạt nước Đường, đích xác như lời ngươi nói, Triệu Khuông ra chiếu đã thống binh đại tướng là Phan Mỹ, Tào Bân, ta sẽ không nói hai lời, ngay lập tức quay về Tây Bắc, khuyên gia huynh bỏ cuộc, bảo toàn phú quý. Còn nếu như những lời của ngươi không phải là sự thực…”
Dương Hạo mừng rỡ, nhướng mày nói: “Vậy từ nay về sau ta sẽ không khuyên nàng nữa, càng không phá rối nàng nữa”.
************************************************** ******
“Được rồi, tiễn ta đến đây thôi”. Chiết Tử Du dừng bước, nhìn lên chỗ lồng đèn đỏ treo cửa nhà họ Lâm, quay người nhìn Dương Hạo, lòng nặng nề nói: “Ta… phải về đây, ta hứa với chàng, sẽ ghi nhớ chuyện này. Chàng đi về nhớ cẩn thận nhé, lần sau… tuyệt đối không được ra ngoài một mình đâu đấy!”
Dương Hạo nghe thấy những lời nói của Tử Du cuối cùng cũng có phần nhẹ nhõm, liền không để ý đến mấy chuyện vụn vặt nữa, chỉ nghe thấy trong lời nói có phần quan tâm, không nén được niềm vui sướng mà nói: “Cứ như vậy mà về sao?”
“Hả?” Chiết Tử Du khẽ nhíu mày, kinh ngạc nói: “Còn có chuyện gì sao?”
Dương Hạo làm mặt nghiêm trang nói: “Cái này… không có hôn chúc ngủ ngon sao?”
Chiết Tử Du khẽ đỏ mặt, xấu hổ cúi mặt xuống đất nói: “Đừng có mà mặt dày nữa được không? Ta van ngươi đấy Dương trái sứ, hai chúng ta hiện nay không có chút quan hệ nào đâu.”
Dương Hạo bị lời nói đó thức tỉnh, nghĩ tới những dự định của mình, hắn không khỏi buồn bã. Chiết Tử Du thấy vậy không đành lòng, bèn hạ giọng nói: “Trời đã khuya rồi, chàng về phủ phải cẩn thận, nhớ kỹ, lần sau không được một mình ra ngoài nữa. Ta… ta phải về đây…”
“Tử Du!” Dương Hạo đột nhiên ôm chặt lấy Tử Du, ngắm nhìn thật lâu vào gương mặt xinh đẹp của nàng, nhẹ nhàng nói: “Chỉ một cái thôi, một lần này thôi, một đời này thôi, lần cuối cùng…”
Hắn muốn nói thật lòng mình với Tử Du, có lẽ không cần đợi đến lúc triều Tống đánh Đường, hắn cũng sẽ biến mất khỏi tầm nhìn của nàng, vĩnh viễn. Và cơ hội này có lẽ là cơ hội duy nhất sẽ không bao giờ có được nữa, thế nhưng những lời định nói cứ như vướng lại trong cổ họng, không thể nào cất lên lời.
Chiết Tử Du mơ hồ nhận thấy vẻ khác thường nơi Dương Hạo, không khỏi ngạc nhiên mà ngẩng đầu lên, muốn nhìn xem hắn có gì khác thường không, chợt đụng luôn phải gương mặt đang cúi xuống của Dương Hạo, đôi môi đầy quyến rũ đang ở ngay trước mặt, chỉ cần cúi đầu là có thể cảm nhận được vị ngọt ngào và dịu dàng.
“Đêm nay không phạm tội, ta cũng có lỗi với tửu”, Dương Hạo thì thào nói, nhẹ nhàng nâng cằm Tử Du lên, từ từ áp lại gần.
Khi chỉ còn cách đôi môi Tử Du một khoảng cách ngắn, Dương Hạo cảm thấy trong hơi thở mình như nóng rực lên, gấp gáp, một cái gì đó lạnh lẽo đột nhiên chạy từ trán tới cổ, ngăn động tác của hắn lại. Dương Hạo hơi khựng lại, chậm rãi đứng thẳng người, nhìn thấy Tử Du vẫn đứng đó, tay rút ra một con dao ngắn, mũi dao chĩa thẳng vào cổ họng hắn.
“Cho ngươi ba phút, mau rời khỏi đây, đừng giở trò điên dồ nữa, mau cút về phủ đi… Nhớ bảo vệ kĩ cái mạng chó của nhà ngươi, đừng có mà sập bẫy của quân Khiết Đan, nếu không đây sẽ là lần cuối chúng ngươi còn được mở mồm nói chuyện”.
Tử Du vừa dứt lời, giơ cao tay cầm dao, sẵng giọng: “Còn không mau cút đi!” nói xong nàng quay người chạy vào phủ.
Dương Hạo sờ sờ mũi, nhìn bóng nàng chạy khuất trước mắt, lẩm bẩm: “ Coi như là nàng đang liếc mắt đưa tình…”
“Đại nhân, cuối cùng ngài cũng đã về rồi, làm thần lo muốn chết”. Dương Hạo vừa trở về, Tiêu Hải Đào đã vui mừng nói, vội vã đón hắn về.
Dương Hạo cười cười nói: “Ta sẽ cẩn thận, bên Khiết Đan thế nào rồi, có động tĩnh gì không?”
Tiêu Hải Đào cùng hắn trở về phủ, nói: “Bọn binh sĩ canh phòng rất nghiêm ngặt, quân Đường như một bức tường kiên cố, bên kia vẫn không có chút động tĩnh gì, vua Giang Nam vừa cho người qua, mời đại nhân vào cung dự yến tiệc, xem ra muốn điều hòa vụ việc. Người Khiết Đan chỉ phái vài tay cao thủ qua thăm dò, lặng lẽ vào trong dịch quán của chúng ta, muốn thăm dò động tĩnh, bị sa lưới của chúng ta, nhưng hỏi gì chúng cũng không nói, cũng không dám nhận là người Khiết Đan, đến nay vẫn đang chờ đại nhân về giải quyết.”
Đang nói, Chương Đồng Nhân người mặ áo giáp bước vào, chào “Đại nhân”, đằng sau hắn là hai đoàn binh sĩ, trong đó có hai võ sĩ mặc y phục đen, miệng bị bịt kín, hai mắt dữ dằn như hai con rắn độc, nhìn chằm chặp như muốn ăn tươi nuốt sống Dương Hạo, trên mặt hiện lên nét u ám hiểm độc.
Dương Hạo cười nói: “Chương chỉ huy, ngươi làm tốt lắm, hai con tép này chẳng có gì cần phải hỏi cả, cũng chẳng cần đến chúng”. Hắn liếc một cái rồi cười nói: “Ai có thể chứng minh hắn là quân địch lẻn vào dịch quán của ta? Đây có thể là một tai họa, đem giết hắn đi rồi vứt vào sân Khiết Đan, nếu không, ngày mai sẽ có người bị cắn ngược lại đấy, lại nói chúng ta đi bắt người của kẻ khác…”
Hai tên võ sĩ Khiết Đan nghe thấy vậy thất kinh, chúng không ngờ tên sứ giả người Tống này lại tàn nhẫn như vậy, liền giãy giụa đứng lên, nhưng không làm gì được dưới sức khống chế của lính nhà Tống.
Dương Hạo vội vã hướng về phía sảnh, dặn dò: “Hôm nay tâm trạng của bản quan rất tốt, không muốn nhìn thấy máu, các ngươi lập tức đi xử lý cái bọn ghê tởm này đi, nhớ là trên mặt phải không có máu, trên người nhìn không ra vết thương”.
“Hả?” Chương Đồng Nhân kinh ngạc mở to mắt: “Vậy thì làm sao giết được?”
“Chỉ huy sứ đại nhân, thuộc hạ có cách” một tên thân binh đứng cạnh nói nhỏ, cười trộm.
********************
Dương Hạo và Gia Luật Văn cùng bước lên kim điện, mới hôm qua hai người còn là đối thủ của nhau, hôm nay đã cùng nhau đứng trên triều đình nhà Đường. Mặc dù y phục rất trang trọng, dáng vẻ trang nghiêm, nhưng không khí đối địch giữa hai người hiện lên rất rõ rệt. Hai người vừa bước lên cung điện, Gia Luật Văn đứng trước mặt Lý Dục khiển trách thuộc hạ của Tống sứ do tranh cãi với quân của hắn nên dẫn đến việc người của hắn phải động thủ trả thù, sáng sớm hôm nay bên nhà Tống còn giết chết một thuộc hạ của hắn để hả giận, yêu cầu vua Đường phải nghiêm khắc trừng trị hung thủ, đòi lại công bằng cho Khiết Đan.
Dương Hạo thầm nghĩ: “Bọn người này nhìn trông lỗ mãng hiểm độc, ta đã nói mà, hai bên khi đã dụng binh thì nói cho cùng, đánh nhau bất quá thì mỗi bên chiếm một khoảng sân, tại sao còn phái người đến thăm dò bên ta, hắn rất có thể đã thăm dò ra được tình hình của bên ta. M là ta đã có dự liệu từ trước, quả là không sai”.
Dương Hạo không chút hoang mang, không cần chờ Lý Dục hỏi đã ung dung mà rằng: “Quốc vương, sứ giả Khiết Đan chủ động khiêu khích, mới hôm qua người Khiết Đan còn chủ động khiêu chiến, có ý đồ muốn chiếm dịch quán của chúng tôi, hơn nữa còn đánh bị thương vài người. Dương Hạo ta đây chẳng qua chỉ là ngăn chặn hành vi bạo lực dã man của người Khiết Đan mà thôi, đó chỉ được gọi là chống đỡ. Bên chúng tôi quản giáo binh lính rất nghiêm khắc, không thể có chuyện ám sát sứ giả người Khiết Đan được đâu. Về chuyện này, Hoàng Phủ Kế Huân đại nhân đêm qua đã phái binh lính canh gác tại hai dịch quán, đại nhân có thể là người làm chứng”.
Hoàng Phủ Kế Huân nghĩ thầm “Người Bắc ngoan cường, không thể là kẻ địch của người Nam chúng ta được.. chủ trương này không thể thay đổi, nếu như hôm nay người Tống là người Bắc, người Khiết Đan cũng là người Bắc, đều không thể làm hại đến bên nào. Nhưng so sánh ra thì nhà Tống là hàng xóm láng giềng, thế lực uy hiếp cũng to hơn, có lẽ nên nghiêng về nhà Tống một chút, hơn nữa lời của Dương Hạo cũng không phải hoàn toàn là sai, người Khiết Đan ắt sẽ không thể giận ta được”.
Nghĩ vậy, Hoàng Phủ Kế Huân liền vội vã đứng lên bẩm báo: “Quốc vương, thần phụng mệnh sai lính đi canh gác phủ của hai bên, đêm qua bình yên, hai bên quả thực không xảy ra bất cứ xích mích nào”.
Gia Luật Văn giận dữ nói: “Quốc vương, đúng là bọn họ muốn giết người cho hả giận, tất nhiên sẽ không đường hoàng mà đến. Ở nước Đường này, ngoài vị sứ giả nhà Tống kia thì ta chẳng còn có thù oán với ai nữa. Mới sáng hôm qua hai bên còn nảy sinh mâu thuẫn, đến đêm người của ta đã bị giết rồi, không phải là bọn họ làm thì còn ai vào đây? Người Khiết Đan chúng tôi nhận lời mời của vua Đường đến đây vì mối hòa hảo hai nước, nay người của ta bị đối đãi như thế, Quốc vương nên tính xem xử lý thế nào.”
Hắn cao giọng nói, tiếng như xé gió rít gào khiến Lý Dục mặt trắng bệch, vội vã đứng lên trấn an: “Gia Luật Văn đại nhân chớ phẫn nộ, về việc này ta nhất định sẽ đi…”
Dương Hạo đột nhiên mở miệng nói: “Gia Luật Văn đại nhân, xin hỏi vị thuộc hạ kia của ngài bị thương ở đâu?”
Gia Luật Văn lạnh người, quay sang nhìn hắn nói: “ Sáng sớm hôm nay ta đã phát hiện ra di thể bị vứt sau vườn hoa của chúng ta. Trên người không có vết thương nào, nhưng tên thị vệ đó không thể tự dưng mà chết. Nhất định là đã có người ám sát, chuyện này… xin Quốc vương minh xét kỹ càng, nhất định phải điều tra ra chân tướng, nếu không bản quan sẽ không bỏ qua chuyện này”.
Chương 356: Lễ Phật
Dương Hạo “hừ” một tiếng rồi nói: “ Sứ giả của quý quốc có người chết… điều này thì có liên quan gì đến người Tống chúng tôi? Tự dưng quay ra cắn càn, bản quan đây cũng đang định nhờ vua Đường điều tra cho rõ ràng chuyện đó. Thi thể của tên thị vệ đó ở đâu? Mau cho mang lên đây, bản quan sẽ kiểm chứng, ta tuyệt đối không làm chuyện gì xấu xa, không sợ ai kiểm tra”.
Gia Luật Văn khẽ nhíu mày, hô to: “Tốt! Thi thể vẫn đang được chờ ở ngoài điện, mời Quốc vương sai người đem vào trong”.
Hai tên lính buông vũ khí, chạy xuống điện khiêng di thể đó lên, Gia Luật Văn chỉ vào thi thể đó mà nói lớn: “Quốc vương, đây chính là thị vệ cường tráng của tôi, người này bị chết ắt hẳn là do bị ám sát, mà hung thủ thì nhất định là bọn người Tống”.
Dương Hạo vòng quanh di thể vài vòng, thi thể đó đã được thay một bộ quần áo bình thường chứ không phải là bộ quần áo tối hôm qua, quần áo xộc xệch, tóc tai rối bời. Gia Luật Văn ắt sẽ không thay quần áo cho tên thị vệ, điều đó chỉ gây cho hắn thêm phiền phức. Dù sao hắn cũng muốn sinh sự, huống hồ thực sự đã có một người chết.
Dương Hạo ngồi xổm xuống bên cạnh xác chết, nói: “Quốc vương, trên người nạn nhân bốc lên toàn mùi rượu, có lẽ là chết do uống quá nhiều rượu”.
Gia Luật Văn thoáng giật mình, hắn chỉ nghe nói người mà hắn phái đi đã bị biến thành một xác chết vứt sau vườn, liền ra lệnh đi kiểm tra, toàn thân nạn nhân không có vết thương, hắn thiết nghĩ dù không dò la ra được chút thông tin có ích nào từ dịch quán của nhà Tống nhưng ít nhiều cũng có cái xác chết này làm công cụ để chiếm ưu thế, do vậy hắn mới đem theo cái xác đến đây. Người Khiết Đan rất có tôn ti trật tự, thân là hoàn tộc, hắn không thể tự mình đi kiểm tra một cái xác chết được.
Vừa nghe thấy Dương Hạo nói trên thi thể có mùi rượu, Gia Luật Văn không khỏi tức giận trong lòng: “Cái tên hỗn tướng này, hôm qua ta phái hắn đi làm việc cho ta, thế mà hắn còn dám đi uống rượu. Tiêu rồi, ta bảo hắn cố ý để bị giam trong ngục của nhà Tống để làm bằng chứng quân Tống bắt giam người vô cớ, khiến bọn chúng hết đường chối tội. Thế mà tự dưng lại không cẩn thận thế này”.
Gia Luật Văn ngoan cố: “Người Khiết Đan chúng tôi rất giỏi uống rượu, một ngày ba bữa, không bữa nào là không uống rượu, có mùi rượu thì có gì là kỳ lạ?”
Dương Hạo cười cười, hắn ngẩng đầu quay sang Hoàng Phủ Kế Huân vẫy tay, Hoàng Phủ Kế Huân thấy Lý Dục không tỏ ý từ chối bèn vội vã chạy lại hỏi: “Dương trái sứ, có chuyện gì thế ạ?”
Dương Hạo thò tay lấy tấm vải che người nạn nhân ra một bên, trên mặt nạn nhân dính đầy bùn, cỏ dại đã bị dẫm nát và vài cánh hoa, nói với Hoàng Phủ Kế Huân: “Đại nhân thử ngửi kỹ xem, xem có mùi gì?”
Hoàng Phủ Kế Huân ngửi ngửi rồi nói: “A… là mùi rượu”
Dương Hạo nói: “Thi thể đã cứng ngắc, chết từ lúc nửa đêm mà bây giờ vẫn còn mùi rượu thì ắt là đã uống không ít phải không”
Kỳ thực mùi rượu cũng không nồng, nếu không ngửi kĩ thì cũng khó phát hiện, nhưng Hoàng Phủ Kế Huân cũng không biết người chết đã chết từ bao giờ, nếu như trước khi chết mà uống nhiều thì trên người đương nhiên là sẽ có mùi rượu, cho nên hắn gật đầu lia lịa mà nói : “Dương trái sứ nói có lý, người này ắt hẳn là đã uống không ít”.
Gia Luật Văn cả giận: “Rút cuộc các ngươi muốn làm gì?”
Dương Hạo không thèm để ý đến hắn, nói với Hoàng Phủ Kế Huân: “Ngài thử ngửi kĩ xem, còn có mùi gì khác không?”
Hoàng Phủ Kế Huân lại ngửi ngửi, không có mùi gì khác cả. Hắn lại tiến lại gần sát để ngửi, mũi gần như đã dí sát vào mặt người chết, ngửi kĩ, mặt của Hoàng Phủ Kế Huân lộ ra một nét mặt kỳ quái.
“Thế nào? Hoàng Phủ đại nhân có cảm nhận được là mùi gì không?”
“Cái này… không tiện nói. Dường như là… rất giống… mùi nước tiểu”
“Bộp bộp” Dương Hạo vỗ mạnh vào vai hắn khen: “Oa, đúng là anh hùng như nhau, ta cũng ngửi thấy mùi nước tiểu”.
“Hức hức”, Hoàng Phủ Kế Huân nghĩ lại lúc nãy mặt mình vừa dí sát vào mặt người chết mà ngửi liên tục, không khỏi cảm thấy kinh.
Dương Hạo quay người sang nói với Lý Dục: “Quốc vương, võ sĩ Khiết Đan vóc người cao to lực lưỡng, nếu như có người thử tấn công thì trên người ắt hẳn phải có vết thương, do vậy, không có khả năng hắn bị ám sát”
Gia Luật Văn nghiến răng cười nói: “Không phải là ngươi giết thì lẽ nào hắn tự sát?”
Dương Hạo giống như một thầy sư đi đến trước mặt thi thể, chậm rãi mà nói: “Người này uống rượu… lại chết trong vườn hoa lúc nửa đêm, trên mặt còn có bùn và cánh hoa, Hoàng Phủ Kế Huân đại nhân cũng đã cẩn thận kiểm tra, trên cổ hắn ta còn có mùi nước tiểu, như vậy, bản quan có thể đưa ra kết luận, người này không phải là bị giết, cũng không phải do ngộ sát, mà là một chuyện xảy ra ngoài ý muốn”.
Lý Dục nghe thấy vậy liền vội hỏi: “Ngoài ý muốn? Mời Dương trái sứ nói rõ ràng hơn xem, rốt cuộc là chuyện ngoài ý muốn như thế nào?”
Dương Hạo nghiêm trang chắp tay nói: “Qua việc khám nghiệm của bản quan và Hoàng Phủ đại nhân, mùi rượu trên người nạn nhân không nồng, hơn nữa trên mặt còn có mùi nước tiểu. Căn cứ vào dấu vết, bản quan thiết đoán… người này ắt hẳn uống nhiều nên say, nửa đêm tỉnh giấc, muốn ra ngoài tiểu tiện, do uống quá nhiều mà bị ngã và hôn mê bất tỉnh. Do mũi và miệng bị ngập trong đống nước tiểu của mình mà bị tắc thở. Đây là giải thích hợp lý, cũng là gần với sự thực nhất”.
Lời Dương Hạo vừa dứt, cả triều đình liền xôn xao. Gia Luật Văn tức giận như nhất Phật xuất thế, nhị Phật thăng thiên, lớn tiếng gào lên: “Người không thể vô sỉ đến mức này, quá mức vô sỉ… Vô sỉ quá! Đổi trắng thay đen, chỉ hươu nói ngựa, ngôn từ bừa bãi, quá ư là vô liêm sỉ… tất cả những lời này lại có thể xuất phát từ miệng của sứ giả nhà Tống”.
Lối dùng từ của Gia Luật Văn thật cũng không đơn giản, một câu chửi mà đến Lão Tử và Tôn Tử đều có mặt, Dương Hạo ung dung cười: “Đừng có nghe theo cái nhân nghĩa đạo đức của Lão Tử, đạo đức kinh đều là do Lão Tử viết ra thôi”.
Gia Luật Văn nổi trận lôi đình, đoạt lấy binh khí từ tay một tên lính, đứng ở tư thế như đang dùng hoành thương nhảy ngựa. Dương Hạo trông thấy liền vội vàng rút thanh bảo kiếm ra, tay trái nắm chặt kiếm quyết, hét lớn: “Nghèo lý lẽ nên phải động thủ sao?”
Lý Dục thấy hai bên đang chuẩn bị đánh nhau, không khỏi mừng thầm trong lòng, trên mặt thì giả bộ cuống quýt, đứng lên hô lớn: “Mau mau kéo hai vị sứ giả ra, có gì từ từ nói, đừng có để mất hòa khí đôi bên”.
Khi hai bên chuẩn bị lao vào nhau, Lý Dục cho người kéo họ ra, dùng lời nói để điều đình, sau đó bày tiệc rượu mời hai vị sứ giả mỗi người ngồi một bên cùng uống rượu, vừa lấy thân phận Quốc vương ra trợ cấp cho nạn nhân kia, đồng thời ẻm chuyện này đi.
Đợi tiệc rượu tàn, Lý Dục mới nói: “Hai vị sứ giả từ xa tới Đường Quốc, đều là khách quý của ta, ta không hy vọng chúng ta vì những hiểu lầm nhỏ nhặt mà làm hỏng quan hệ hòa hảo của Khiết Đan và nước Tống. Hai vị sứ giả đều là những bậc thâm minh đại nghĩa, hy vọng có thể lấy việc nước làm trọng, hóa giải mọi hiểu lầm. Sáng mai ta sẽ đi Kê Minh Tự, lễ phật dâng hương, mời hai vị cùng đi, hy vọng dưới đất Phật từ bi thanh tịnh, với trái tim từ bi của Đức Phật chúng ta sẽ hóa giải được mọi tức giận trong lòng hai vị.”
Dương Hạo và Gia Luật Văn liếc nhau, đồng thanh “hừ” một tiếng, sau đó nhất tề chắp tay nói: “Quốc vương đã mời, ngoại thần cáo từ”. Nói rồi hai người cùng nhau quay lưng bỏ đi.
Lý Dục nhìn bóng hai người đi khuất, mép nở ra một nụ cười hoan hỉ, ngoắc tay gọi một tên thị vệ dặn dò: “Đi, mời Gia Luật Văn đến Thanh Lương điện cùng ta”
Lúc này, Trần Kiều đang lẳng lặng đợi tại Thanh Lương điện…
*************************************************
Gia Luật Văn vừa quay trở lại dịch quán, Đinh Thừa Nghiệp đã lập tức chạy lại nghênh đón: “Đại nhân, ở Thượng Kinh có tin rồi”.
“Hả?” Gia Luật Văn vội vàng hỏi: “Là thư của phụ vương? Nói gì?”
“Tiểu nhân không dám bóc thư của Lão Vương gia, thư vẫn còn đây, mời đại nhân xem”.
Gia Luật Văn vội vã nhận lấy lá thư, trở lại phòng, bóc phong bì lấy ra một lá thư mỏng, xem cẩn thận. Sau một hồi mới đứng dậy, đi lại trong phòng.
Đinh Thừa Nghiệp không đợi được nữa, tiến đến hỏi: “Đại nhân, Lão vương gia nói thế nào?”
Gia Luật Văn cười lạnh nói: “Không như ta dự liệu. Trước khi ta rời kinh Tiêu Xước hoàng hậu đã bắt đầu khai trừ tay chân vệ quân trong cung của ta rồi.”
Đinh Thừa Nghiệp thất kinh: “Bà ta đã ra tay trước rồi? Vậy ta nên làm thế nào đây?”
Gia Luật Văn nói: “Không sao, Tiêu Xước chỉ dám trực tiếp khống chế tay chân của ta trong cung, còn quân bộ tộc… bà ta vẫn không dám ra tay. Trong thư Phụ vương ta cũng đã nói, bà ta đã dẹp hết những thân tín trong cung của ta, sợ rằng chúng sẽ tạo phản, do đó lúc này không thích hợp để thực hiện kế hoạch xóa sổ bọn thủ lĩnh, hãy chiếm lấy Thượng Kinh trước đã”.
“Ý của Phụ vương là tạm thời cứ để bà ta tung hoành, loại bỏ hết thân tín trong cung của ta, để cho bà ta lơ là… Sau đó, đợi thời cơ thích hợp các đại thần của bộ tộc sẽ tiến đến Thượng Kinh, đợi đến Phóng Thâu nhật, khi Hoàng đế xuất cung vi hành sẽ tiến hành tập kích, tiêu diệt hết đám Gia Luật Hiền, Hàn Đức Nhượng, Gia Luật Thể, Tiêu Thác Trí… rồi điều quân binh vây Thượng Kinh. Sau đó đích thân ta sẽ ở nơi này phát động, kích động quân Tống Bắc phạt, nội ngoại bức bách, buộc Tiêu hoàng hậu phải bỏ ngai vàng, tôn ta làm vua, sau đó ta sẽ lấy bà ta làm hậu”.
Đinh Thừa Nghiệp thất vọng hỏi: “Phóng thâu nhật? Tức là vào ba ngày 13, 14, 15? Vậy là chỉ còn nửa tháng nữa…”
Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Không sai, chỉ còn nửa tháng nữa thôi. Ngươi còn vội hơn cả ta cơ à, được làm Hoàng đế là điều không đơn giản, nửa tháng nữa mà còn chê dài sao?”
Đinh Thừa Nghiệp nói: “À… thần không có ý như thế, chỉ là những tên sứ thần nhà Tống kia dám làm nhục đại nhân, tiểu nhân thật bất bình, chỉ muốn ngay lập tức chém cho hắn trăm nhát… để trút giận cho đại nhân”.
Gia Luật Văn nhận được tin của Thượng Kinh, trong lòng đang vui sướng, nghe thấy vậy liền cười hi hi mà nói: “Ngươi thật tận tâm với ta. Hừ, cái bọn đó dám làm nhục ta, ta sẽ không để cho bọn chúng sống. Đợi thời cơ đến, ngày đó, ta sẽ nhẫn nại đợi, nửa tháng nữa… rất nhanh thôi, sẽ đến rất nhanh thôi…”
Hôm sau, sứ giả nước Tống cùng sứ giả Khiết Đan cùng đi với Lý Dục đến Kê Minh Tự lễ phật.
Trong vườn trồng rau, từng bó rau tươi non được đặt trên xe, Đức Hạnh đại sư phẩy tay nói: “Được rồi, các ngươi đem quần áo đã được giặt sạch lại đây, một lát nữa phải đưa đến Tĩnh Tâm Am…”
“Rõ ạ, tiểu sư thúc”, vài tên tiểu hòa thượng chắp tay rời đi, Bích Túc quay đầu lại đã thấy bọn chúng đi xa, liền vội vàng lôi kéo Tĩnh Thủy Nguyệt đến dưới một gốc cây to, lôi từ trong áo ra một quả lê vàng mọng, đưa cho nàng ta mà rằng: “Này, rất tươi ngon đấy nhé, ta đã rửa rồi, nàng ăn đi.”
Tĩnh Thủy Nguyệt mỉm cười, nhẹ nhàng lắc đầu, nhưng Bích Túc đã cố dúi vào tay nàng, kéo nàng ngồi xuống phiến đá gần đó mà nói: “Đây là chút lòng tốt của ta, nàng thử xem đi mà, ngọt lắm ấy, ăn đi, thử một miếng thôi cũng được.”
Tĩnh Thủy Nguyệt chần chừ đôi chút rồi cũng đón lấy quả lê, cắn một miếng nho nhỏ.
“Có ngon không?”
Tĩnh Thủy Nguyệt nhai khẽ, gật gật đầu. Bích Túc như cởi tấm lòng, nắm chặt tay nàng nói: “Nếu như nàng thấy ngon thì lần sau ta sẽ mang cho nàng ăn, để cho nàng mỗi ngày đều được ăn”.
Tĩnh Thủy Nguyệt bị kéo tay, mặt đỏ lên vì xấu hổ, nàng vội vã rút tay lại, chỉ chỉ vào chuỗi tràng hạt đeo trước ngực, rồi lại chỉ ra phía vườn sau, trừng mắt nhìn hắn.
Bích Túc cười hì hì nói: “Ta xuất gia cũng là vì nàng, Phật tổ cũng biết là ta thích nàng, Phật sẽ không trách tội chúng ta đâu”.
Tĩnh Thủy Nguyệt luống cuống, vội vã thả quả lê ra, chắp tay, miệng lắp bắp dường như đang ăn năn hối cải trước Phật tổ.
“Thủy Nguyệt, trước kia ta là một kẻ vô sỉ, cũng là kẻ lãng tử thâu hương thiết ngọc, cho dù nhà ta là đại gia cũng không hề có ý hướng thiện. Cho đến khi ta gặp nàng, Thủy Nguyệt, nàng là Bồ Tát sống của ta, ta càng ở gần nàng thì Phật càng ở gần ta. Phật không phải là người phổ độ chúng sinh hay sao, nàng từ bi như vậy, hãy chiếu độ cho ta đi, chỉ cần nàng lấy ta nàng đã biến một người xấu thành người tốt, tích được biết bao công đức, còn nhiều hơn nàng ngồi niệm kinh cả đời”.
Lời nói ngọt ngào của Bích Túc khiến Tĩnh Thủy Nguyệt động lòng, từ bé đến lớn chẳng có ai nói với nàng như thế, nàng muốn nghe, nhưng lại sợ, muốn chạy trốn, nhưng lại không nỡ để hắn bị tổn thương, thế là chỉ còn biết lấy tay bịt kín hai tai, nhắm chặt mắt, dáng điệu đáng yêu vô cùng.
“Ta đã nói rồi, ta nói rất nhiều mà, dẫu cho nàng không nói được, chúng ta thành thân trong nhà cũng không sợ bị tĩnh mịch”. Bích Túc kéo tay nàng: “Thủy Nguyệt tốt, tiểu sư thái, nghe niệm kinh cũng là niệm kinh, chỉ cần nàng thích, sau này nhà chúng ta sẽ bố trí giống phật đường, mỗi ngày nàng đều có thể niệm kinh, Kim Cương Kinh, Pháp Hoa Kinh, Lăng Nghiêm kinh… nàng muốn nghe bao lâu ta cũng đều có thể niệm cho nàng nghe, nhà chúng ta sẽ treo một cái chuông thật to, mỗi ngày ta sẽ là quan nhân của nàng, giúp nàng đánh chuông, đợi chúng ta có con ta cũng sẽ cạo đầu cho chúng thành tiểu sa di, ta sẽ là phương trượng, nàng là chủ trì…”
Tĩnh Thủy Nguyệt nghe đến mức hai mắt mở to ra, lắc đầu quầy quậy, Bích Túc liền cười nói: “Sao hả? Nàng không muốn con cái chúng ta mới ra đời đã làm tiểu hòa thượng sao? À… nói cũng đúng thôi, chúng là cục cưng của chúng ta, nhất định sẽ khôi ngô tuấn tú, làm sao nỡ mà gọt đầu chúng”.
Tĩnh Thủy Nguyệt xấu hổ, mặt đỏ rần, Bích Túc nhẹ nhàng nói: “Thủy Nguyệt, nàng có biết không, nàng là người phụ nữ đẹp nhất hạ giới, đợi tóc nàng mọc dài ra, nhất định sẽ càng đẹp hơn…”
Tĩnh Thủy Nguyệt không thể ngồi được nữa, nhét trả Bích Túc quả lê, nhảy dựng lên chạy mất.
“Này!” Bích Túc gọi với theo, nhìn theo bóng nàng khuất dần, mỉm cười nói: “Tiểu sư thái của ta khi cười giống như Bồ Tát vậy, thật mê hồn”. Hắn nắm chặt quả lê, cắn một miếng thật to ở chỗ Thủy Nguyệt vừa ăn, chạy theo hướng Thủy Nguyệt vừa đi”.
************************************************** ****
Kê Minh Tự, trong Phật đường, đại sư Bảo Kính mặc áo cà sa đỏ cùng với một vài đại sư khác đang ngồi bên Lý Dục. Lý Dục vừa dâng hương và tiền dầu cho chùa, đang ngồi cùng các vị hòa thượng, đích thân dùng dao cắt “xí giản” cho các hòa thượng. “Xí giản” chính là giấy vệ sinh dùng khi vào nhà tiêu, lúc đó giấy vệ sinh tương đối hiếm nên các hòa thượng phải làm sạch bằng những mảnh trúc nhỏ, nên giấy vệ sinh có nhu cầu rất lớn.
Bảo Kính đại sư nhìn thấy trong tự có chuyện chướng mắt, lại nằm ngay trong tầm mắt của nhà vua, liền không chịu được mà quát lên: “Đức Hạnh, ngươi đang làm gì vậy?”
Bích Túc đuổi theo Thủy Nguyệt, đang ngọt ngào dưới bóng cây, nói đến đoạn cao trào nên không phát hiện ra có người đang đến gần, nghe thấy phương trượng quát, hắn mới giật mình nhảy dựng lên, muốn tìm một lý do để lấp liếm đi nhưng chợt nhìn thấy Dương Hạo đang đứng đó nên bất giác ngẩn ra, quên cả trả lời.
Lý Dục vốn là một tín đồ của Phật tử, đồng thời cũng là một tài tử đa tình, hắn nhìn lén sang vị ni cô đang đứng đó, thấy cô là một người khá xinh đẹp. Với hắn, dù cô ta đã xuất gia với hắn cũng không có ý nghĩa gì mấy, bởi đã từng có chuyện hòa thượng lén cưỡng hiếp ni cô, sau khi sự việc xảy ra đã bị trừng trị nặng. Lý Dục thấy vậy mới nói vài câu giải vây cho đôi uyên ương: “Nơi này không phân định rõ quy định giữa hòa thượng với ni cô, Phật tâm không kiên định, bọn họ tư thông tâm tình, các ngươi nếu như muốn trừng trị họ thật nghiêm, sau đó đuổi họ ra khỏi tự thì chẳng phải đã cho họ đạt được tâm nguyện đó sao? Theo ý Trẫm, đối với những tăng nhân không tịnh như vậy thì hãy phạt họ đi bái Bồ Tát ba trăm lần là được”.
Hoàng đế nói như vậy, các nhà sư trong tự cũng không dám không nghe, do đó, trước mặt tăng nhân Giang Nam và rất nhiều người ở đó, chuyện quyến rũ con gái nhà lành cũng không được coi là chuyện lạ nữa, như sách nói: “Gian lạm công hành, vô sở cấm chỉ” (Làm việc sai trái ngay giữa ban ngày ban mặt mà không bị cấm).
Nhưng Kê Minh Tự là đệ nhất phật tự, đứng đầu nước Đường, Bảo Kính đại sư có yêu cầu vô cùng nghiêm ngặt, hơn nữa quan trọng nhất là hôm nay đệ tử của ông đã làm sai quy định, lại còn ngay trước mặt bao huynh đệ, trước mặt ông ta, hơn nữa còn ngay trước mắt vua Đường, tất nhiên không giận sao được.
Bích Túc lúng ta lúng túng không nói nên lời, Dương Hạo nhìn thấy hắn cũng không ngạc nhiên, cho tên tiểu tử này an phận trong thành Kim Lăng để chờ nghe ngóng tin tức, thế mà hắn lại khoác áo cà sa trốn trong chùa. Tên này đúng là hết thuốc chữa, Dương Hạo cũng nhất thời không biết nên giải vây cho hắn thế nào.
Lý Dục có chút bực mình, nhìn cẩn thận tên tiểu sa di và vị ni cô kia, nam thanh nữ tú, thật đúng là một cặp trời sinh. Lý Dục hiểu rõ nhất cách thưởng thức người đẹp, trong lòng cũng có phần thích thú, nhưng mặt không dám biểu lộ, liền cuời nói với Bảo Kính đại sư: “Tự chủ cần chi phải phẫn nộ, tôi thấy đôi này dung mạo thanh tú, làm sao lại có thể làm những chuyện nhơ bẩn được, để ta đi hỏi bọn chúng xem sao”.
Lý Dục tiến lên hai bước, Bảo Kính đại sư đi theo sau, cẩn thận dò xét hai người. Tĩnh Thủy Nguyệt đã quá sợ hãi mà đứng nép vào một bên, mặt trắng bệch, Lý Dục thấy có chút đáng thương liền làm mặt ôn hòa mà hỏi: “Sư phụ này ở đây cùng vị nữ nhi này làm gì?”
Dương Hạo vội ho một tiếng, nhắc nhở: “Tiểu hòa thượng, vị này là vua Giang Nam, làm sao mà ngươi lại không biết lễ nghĩa, mau hành lễ đi”
Bích Túc vốn không sợ hãi, nếu như Bảo Kính đại sư thực muốn đuổi hắn ra khỏi tự cũng chẳng sao, mục đích của hắn chủ yếu là tiếp cận Thủy Nguyệt mà thôi… Thủy Nguyệt tuy không từng bày tỏ thái độ với hắn, nhưng rõ ràng thái độ đối với hắn cũng khác, khi nghe hắn nói còn đỏ mặt mỉm cười, dù có chút cáu giận nhưng cũng chứng minh rõ là nàng cũng thích hắn, không sợ không có cơ hội đi tìm nàng nói chuyện. Nhưng khi nghe nói người đứng trước mặt mình chính là vua Đường, hắn mới bắt đầu thấy bối rối.
Dương Hạo cũng sốt ruột thay hắn, thấy Bích Túc cứ lắp bắp không thể mở miệng ra nói được, mặt Lý Dục cũng đã bắt đầu lộ vẻ khó chịu, Bích Túc lúc này đây chợt nghĩ đến khi giả mạo làm cao tăng Tây Tạng ở Khai Phong Dương Hạo đã từng nói: “Cao tăng mà, đều thích những lời nói sắc bén. Người khác nói những gì, chỉ cần ngươi cảm thấy không cần trả lời thì cứ trả lời nước đôi như không biết gì, ngươi yên tâm, càng nói chuyện không đâu thì càng giống Thiên Cơ, người ta càng cảm thấy nhà ngươi Phật học uyên bác. Người ta không hiểu thì đến hỏi cũng không dám hỏi ngươi, càng nói nữa, ngươi vốn là hòa thượng giả trang, có những điều ngươi nói không giống người xuất gia, nhưng cũng cứ kệ đi”.
Nghĩ tới đây, Bích Túc đột nhiên ưỡn ngực nói: “Người xuất gia nhảy ra khỏi Tam giới, không ở trong Ngũ hành, không bái Phật không bái tục, trước mặt Quốc vương, tiểu tăng cũng không cần phải bái. Mà thật ra Quốc vương mới là người cần bái tiểu tăng đây”.
Bảo Kính đại sư nghe thấy vậy đột nhiên giận dữ, Tĩnh Thủy Nguyệt thấy hắn nói vậy với Quốc vương cũng sợ hãi run rẩy, Lý Dục thì lại cười hỏi: “Tiểu sư phụ học những lời này ở đâu?”
Bích Túc cuống lên nói bừa: “Cái này… Kính tăng tức là kính phật, kính phật tức là kính pháp, tức là cung dưỡng tam bảo, mới được hưởng phúc. Tiểu tăng tuy chỉ là một vị tăng nhân bình thường nhưng lại là tín đồ của Phật, Quốc vương nếu như muốn ta hành lễ thì chẳng khác chi bắt Phật hành lễ, vậy là Quốc vương đã tạo tội rồi”.
Chương 357: Mây mưa sắp đến
Dương Hạo nghe thấy vậy không nhịn nổi cười, cái tên Bích Túc này quả là gan không nhỏ, chẳng phải là cao tăng gì, những lời nói của hắn đều bị Phương trượng nắm thóp, đang đứng ở kia tức khí bừng bừng mà hắn còn nói ra được. Còn vị tiểu ni cô kia cũng thật xinh đẹp, tên tiểu tử Bích Túc này cũng có mắt nhìn đấy chứ.
Lý Dục ngẫm nghĩ lời nói của Bích Túc, đột nhiên như tỉnh ra điều gì bèn quay sang nói với tiểu hòa thượng: “Tiểu sư phụ lễ Phật không lễ tục, nói cũng có lý, có thể thấy với trái tim kiên định hướng Phật như vậy tiểu sư phụ sắp đạt đến bậc cao tăng rồi. Nhưng không rõ tiểu sư phụ ở đây làm gì?”
Bích Túc đảo mắt một vòng rồi nói: “Thế Quốc vương ở đây làm gì? Tiểu tăng ở đây làm gì?”
Lý Dục cười nói: “Quả nhân hôm nay đến vốn là để lễ Phật”
Bích Túc nói: “Bần tăng ở đây cũng là để lễ Phật”
“Tiểu hòa thượng bái như vậy chẳng lẽ là thích Phật?” Lý Dục liếc vị ni cô kia một cái, câu hỏi này cơ hồ như cố ý thoát ra, nhưng thấy thân là Quốc vương, hình như không nên nói những lời này nên hắn lại ra vẻ trịnh trọng: “Quả nhân dâng hương lễ Phật, Phật trong Đại Hùng bảo điện, không biết vị sư phụ này lễ Phật ở đâu?”
Bích Túc càng bịa càng thấy vào, vung tay mà nói: “Nơi này một cành cây một cọng cỏ, điện các diêm ngói, ngài tôi cô ấy, đều có tính Phật, đều là Phật ta”.
Gia Luật Văn càng nghe càng mù mờ, không nhịn được mà cười khẩy nói: “Tiểu hòa thượng, ngươi ở đây với vị tiểu ni cô kia lôi lôi kéo kéo, đã là phạm vào sắc giới rồi, lại còn bốc phét, rõ ràng là người không tịnh, ắt hẳn là hòa thượng giả danh, ăn thịt uống rượu, muốn nói gì thì nói cũng đã là phạm tội rồi, còn đứng đó tự biên tự diễn”.
Bích Túc trợn mắt nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, Phật Tổ nằm lại trong tâm, cầm giới chưa chắc trong tâm đã có Phật, có Phật trong tâm chưa chắc đã phải cầm giới, đức Phật từ bi cũng không nổi trận lôi đình. Ngài ắt hẳn biết Phật tổ vốn là một vị hoàng tử, lấy vợ sinh con, ăn thịt uống rượu, thế mà vẫn tu hành ư?”
Bảo Kính đại sư quát to: “Đức Hạnh, ngươi thật to gan, thật hết cách để nói chuyện với ngươi. Đó là những chuyện Phật tổ làm trước khi thành Phật, còn sau đó đã giác ngộ bên dưới gốc bồ đề”.
Lý Dục nghĩ ngợi rồi nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm. Hay! Nói hay lắm, Phật gia kiêng rượu thịt, đó là quy định có từ thời Lương Võ Đế… Khi niệm Phật thác bác hóa duyên, thi xá cái gì thì ăn cái đó, nhưng chính xác không phải là rượu thịt. Tiểu sư phụ có tính Phật, lại tuệ căn, có thể nói ra những điều ấy, rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm, câu này có thể nói ra quả là bậc đại thánh”.
Bảo Kính nghe thấy vua nói vậy bèn chỉ biết cung kính mà rằng: “Quốc vương Phật pháp cao thâm, có cách khiến giải khác đi, lão nạp không sao sánh bằng”.
Bích Túc thấy vua nói một câu, Bảo Kính liền nghe một câu, trong lòng thầm nghĩ: “Sư phụ của ta là đệ nhất đại sư của nhà Đường, các hòa thượng khác đều phải nghe lời ông ta, nhưng Lý Dục nói gì ông ta cũng không dám cãi lời, nếu như ta có thể leo lên cái cây này, ông ta dặn dò Thủy Nguyệt lấy ta thì ắt Tĩnh Tâm am cũng phải nghe theo”.
Nghĩ tới đây, hắn liền nảy ra ý định phàn giao với Lý Dục, bèn nói: “Quốc vương đã đến đây lễ Phật, nhìn thấy tiểu tăng rồi sao còn không bái?”
Bảo Kính kinh sợ, đang muốn trách mắng thì Lý Dục lại quay về phía hắn hành lễ nói: “Bậc sư phụ giáo dục đúng là… tín đồ Lý Dục xin được hành lễ”.
Bích Túc nhận lễ, cũng không thi lễ lại, Lý Dục thấy vậy cũng có cảm giác khó lường, chỉ cảm thấy tên hòa thượng này nói năng sắc bén… dung mạo thì khôi ngô khác thường, nói không chừng có thể là tiên đồng hạ phàm của Bồ Tát hóa thành hắn. Nghĩ vậy nên Lý Dục nhìn hắn với thái độ có đôi chút hoảng sợ.
Hai người lại nói chuyện với nhau, cũng nhân đó mà hỏi chuyện riêng của Bích Túc với vị ni cô kia. Bích Túc đã qua cơn sợ hãi, lại đang hứng khởi nói chuyện mây núi trời đất, rõ là không biết sợ ai, người bình thường ai cũng nghe ra là hắn đang nói phét, nhưng Lý Dục – kẻ thông thuộc Phật pháp thì lại cứ bị những lời nói của Bích Túc rót vào tai, thấy lời nào cũng có lý, thậm chí còn nảy sinh lòng tin phục với Bích Túc.
Hai người nói chuyện một lúc lâu, Lý Dục vẫn chưa nói hết ý nhưng do đã đến lúc phải về nên hắn lấy giấy bút chỗ Bảo Kính đại sư, viết lên một vài chữ to rồi nói: “Hôm nay được đối đáp với tiểu sư phụ, quả nhân được mở rộng tầm mắt, chữ này là quả nhân tặng cho sư phụ làm quà. Hôm sau quả nhân muốn mời sư phụ vào cung nói chuyện Phật pháp, xin tiểu sư phụ chớ từ chối”.
Dương Hạo xem ý nghĩa của chữ kia, không khỏi không thấy buồn cười. Bích Túc thì gãi gãi cái đầu trọc, nói nhỏ: “Chữ quốc vương viết ra đáng giá nghìn vàng, thật đáng tiếc… Quốc vương viết trên bức tường này thì ai cũng có thể gỡ tường ra đi bán”
Lý Dục nghe xong cười lớn, chỉ cảm thấy từng câu từng chữ của tiểu sư phụ này quả thực không tầm thường, giống như nhặt được bảo bối, hắn xem Bích Túc như bậc thần thánh.
Sau khi cung kính tiễn Lý Dục đi khỏi, Bảo Kính mới quay lại điện, nhìn thấy những chữ trên tường mà phát rầu. Thủ Tọa đại sư nghe nói Quốc vương viết lên tường, cũng hoan hỉ dẫn theo vài hòa thượng đến xem. Trên tường treo chữ, bên dưới còn có một cái lồng để bảo vệ cho ngự bút mới dán. Vừa nhìn thấy Bảo Kính đại sư đang đứng trước tường tức khí, Thủ Tọa đại sư không nén được mà nói: “Phương trượng, Quốc vương ta lấy đệ tử của Phương trượng – Đức Hạnh làm đề tài viết chữ, cái này là phúc của chùa ta, cớ sao ngài lại nhìn như thế là ra đạo lý gì?”
Bảo Kính chỉ chữ treo trên tường, mặt sầu não mà nói: “Sư huynh, huynh đến xem kĩ đi, xem xem Quốc vương nói đến điều gì?”
Thủ Tọa đại sư nhìn lên tường, chỉ thấy trên tường là những chữ rồng bay phượng múa, trên đó viết “Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”. Thủ Tọa đọc đi đọc lại hai lần vẫn không hiểu ý nói gì, quay sang nhìn Bảo Kính như muốn nhờ ông ta giải đáp dùm, bất giác ông “a” lên một tiếng, bối rối nói: “Cái này… cái này phải làm sao cho phải?”
“Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”, câu này rõ ràng là có ý nói Bích Túc muốn lấy vợ sinh con, theo đuổi ni cô, đó là điều có thể. Lý Dục hiện giờ tuy là đã mất đi đế hiệu, nhưng vẫn là Hoàng đế của Giang Nam, lời của Hoàng đế viết xuống như thánh chỉ, nào ai dám không tuân theo?
Nhất là khi trong câu này còn nói đến chủ trì, làm sao có thể vờ như không thấy. Nhưng muốn tuân theo thì chẳng lẽ phải trao chức Phương trượng cho tên Bích Túc kia? Nếu như Bích Túc làm Phương trượng thì Kê Minh Tự sẽ đi về đâu? Bảo Kính và Thủ Tọa đối mặt với nhau, cảm giác không tưởng tượng nổi Kê Minh Tự sẽ như thế nào.
Lúc này đây Bích Túc mắt la mày lém bước vào, đứng sau hai vị, cười hì hì rồi chắp tay thi lễ nói: “Sư phụ, Thủ Tọa đại sư đã mời, Kê Minh Tự vãn là đệ nhất của nước Đường. Trong tự có khoảng 3.000 tăng nhân, đệ tử có thể làm Phương trượng của chùa này không? Quốc vương đã phong cho đệ tử chức Phong lưu giáo pháp, đó cũng là Phật hiệu, trụ trì của chùa vẫn cần nhờ vào phó Phương trượng này, đệ tử…”
Hắn thấy trên đầu hắn như có bao ngôi sao sáng lấp lánh, mặt mày hớn hở mà nghĩ: “Hahaha… phen này xem nàng còn dám kháng chỉ của ta không?”
************************************************** ****
Lý Dục khởi giá, đại đội ngựa người chậm rãi hồi cung. Trên đường, bách tính bị quân lính dẹp gọn vào hai bên đường, trong đám người chen chúc đó có một khuôn mặt vàng vọt, quần áo rách rưới… chỉ có đôi mắt là trong veo như suối chảy, dáng người gày gò đi theo đoàn người cả một đoạn đường dài.
Ánh mắt của hắn nhìn chằm chằm vào sứ giả Khiết Đan như tìm tòi điều gì, dường như không tìm thấy người hắn cần tìm, hắn khẽ nhíu mày nói: “Rõ ràng là hắn có đến Giang Nam, nghe nói đó là tâm phúc của Gia Luật Văn, lẽ nào Gia Luật Văn không đem theo hắn? Chẳng lẽ hắn lại có tư cách làm bạn của Gia Luật Văn, lúc nào cũng ở bên cạnh Lý Dục?”
Hắn rảo nhanh bước đi, chạy theo một đoàn người đi phía trước, vừa tìm tòi trong đoàn nghi thức, vừa tìm kiếm dọc hai bên mà vẫn không thấy bóng dáng ấy, lại nhìn lên phía trên thì chỉ thấy đám Lý Dục và Gia Luật Văn. Ánh mắt hắn lại nhìn sang người đang cưỡi ngựa trắng bên cạnh Lý Dục, thân thể cao to cường tráng, đang mỉm cười nhìn về phía bách tính hai bên đường, chậm rãi đi qua họ.
Tên mặt vàng đó khẽ dụi mắt, đi nhanh vài bước, suýt nữa hắn đụng phải quang gánh của những bà bán hàng rong, vội vàng hắn chạy tới đầu cầu, nơi binh lính đứng nghiêm kín mít không dễ gì chen qua nổi, mắt lại hướng về phía người cưỡi ngựa trắng đang đi tới, đôi mắt sáng ngời càng lúc càng mở to, khẽ kêu lên như một kẻ đang mộng du: “Nhị ca, đúng là nhị ca…”
Chỉ trông thấy Lý Dục vịn tay vào thành xe ngựa, đằng sau một quãng ngắn là những chiến mã cao to, bên phải là sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn, còn bên trái kia…, mặc dù khí chất không giống với những gì hắn nhớ trong quá khứ, nhưng dung mạo kia thì hắn không thể nhìn lầm, đúng là nhị ca…
Hắn, chính là Ngọc Lạc, là nữ giả trang thành nam, cô độc đến Bắc quốc, vượt hàng ngàn dặm để tìm dấu tích Đinh Thừa Nghiệp. Đoạn đường khó khăn vất vả, không biết phải chịu khổ thế nào mới có thể lần ra tin tức Đinh Thừa Nghiệp đang ở Thượng Kinh, dưới trướng của chỉ huy sứ bộ tộc – Gia Luật Văn. Nàng lặn lội đến Thượng Kinh, đã từng thấy Đinh Thừa Nghiệp theo bên cạnh Gia Luật Văn, nhưng cái tên Gia Luật Văn ấy bên cạnh luôn có hàng đống người bảo vệ, canh phòng kín mít, khiến nàng không có cơ hội tiếp cận.
Nàng không biết rằng, sở dĩ Gia Luật Văn cho người canh phòng như vậy là bởi hắn vẫn đang cảnh giới với Hoàng đế và Tiêu hoàng hậu. Do không thể tìm cách tiếp cận với Đinh Thừa Nghiệp, nàng hết sức buồn rầu, may thay nghe ngóng được tin Gia Luật Văn sẽ đi sứ, nàng cũng tìm cách theo đuôi đến. Tại đây, đúng là sự cảnh giới của Gia Luật Văn không kinh khủng như ở Thượng Kinh, nhưng rất lạ là từ khi đến nước Đường này, Đinh Thừa Nghiệp không mấy khi ra ngoài cùng hắn.
Mãi đến giờ Đinh Ngọc Lạc mới biết nguyên nhân, thì ra Dương Hạo cũng ở đây.
Nhìn Dương Hạo, Đinh Ngọc Lạc bất giác rơi lệ. Nàng vốn là một tiểu thư vô lo vô nghĩ, nhưng đột nhiên gặp biến cố, cha già chết thảm, đại ca tàn phế, may mắn thay nàng thoát được. Tiểu đệ mà nàng hết mực yêu thương lại trở thành kẻ thù giết cha, còn người anh cùng cha khác mẹ của nàng lại do điều tiếng thiên hạ mà coi nàng như người qua đường.
Nàng có thể chịu đựng những áp lực hành hạ, vượt ngàn dặm đến Thượng Kinh, rồi lại đến Kim Lăng, đi qua ba nước, tâm lực đã tàn. Khi nhà Đinh gặp phải đại nạn, khi đói khổ, khi không còn nơi nào để nương tựa, đều là Dương Hạo đã giúp nàng.
Nàng sớm đã coi Dương Hạo như một người anh để nàng có thể dựa dẫm, nhưng hôm nay… Chàng đang đứng trước mặt mà Ngọc Lạc lại không còn mặt mũi nào đi gặp chàng.
Đại ca đã nói, Đinh Thừa Nghiệp chính là hung thủ giết cha, hắn không những là nguyên nhân gián tiếp khiến mẫu thân Dương Hạo qua đời mà còn là kẻ thù không đội trời chung, cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến anh em bất hòa. Trước khi giết chết được hắn ta thì nàng không còn mặt mũi nào đến tạ tội với nhị ca, nàng chỉ có thể khẽ cắn chặt răng, mở to mắt nhìn Dương Hạo tiến tới gần, cách nàng vừa gần mà lại vừa xa… Tất cả những đau khổ và mệt mỏi, nàng chỉ có thể tự mình gánh chịu.
Khi đoàn nghi thức của Lý Dục rời đi, dân chúng mới bắt đầu tản đi, Đinh Ngọc Lạc đứng đơn độc trên đầu cầu, lặng lẽ cúi đầu, hai hàng lệ rơi xuống, hòa vào dòng nước sông…
************************************************** *****
Lý Dục hồi cung, đang hưng phấn về hậu cung để kể chuyện hôm nay nói chuyện với tiểu sư phụ Đức Hạnh cho Hoàng hậu nghe, thì một viên cung nhân vội vàng đuổi theo nói: “Quốc vương, hiệu thư lang Uông Hoán xin cầu kiến”.
Hiệu thư lang là người cốt cán của trường, là viên quan hiệu đính những lỗi sai, cũng không phải là chức quan gì to tát, nhưng Lý Dục thích nhất là thu thập những cuốn sách lẻ cổ đã bị thất lạc, rất xem trọng những điển tích văn chương, do vậy khi nghe Uông Hoán xin cầu kiến thì hắn cho rằng Uông Hoán lại phát hiện ra cái gì đó hay ho chăng, nên vội vàng nói: “Cho hắn vào”.
Uông Hoán vào cung, nhìn thấy Lý Dục liền nổi giận đùng đùng nói: “Thần nghe nói hôm nay đến Kê Minh tự lễ phật người đã quyên vạn tiền?”
Lý Dục vừa nghe đã biết hắn đến đây là vì cái gì, mặt liền trầm xuống, bực mình nói: “Không sai, có sao nào?”
Uông Hoán lại nói: “Thần còn nghe nói, Quốc vương thấy một hòa thượng không thanh thủ quy giới, không những không trừng phạt nặng mà còn nói chuyện trên trời dưới bể cùng hắn, còn đề chữ tặng hắn?”
Lý Dục bực mình cười: “Quả nhân ở đây hay là ở ngoài cung quả thật chuyện gì cũng không qua nổi mắt khanh. Việc lớn việc nhỏ trong cung trong chốc lát đã truyền ra bên ngoài, bên ngoài có động tĩnh gì cũng lập tức bay vào cung. Hiệu thư lang, khanh còn không quay về Tàng Thư các để chỉnh lý sách đi, còn cố ý chạy tới đây cầu kiến ta là vì chuyện này sao? Việc của ta liên quan gì đến khanh?”
Nói rồi hắn phất áo bỏ đi. Uông Hoán thấy vậy đành thất lễ, chạy theo kéo lấy áo Lý Dục mà nói: “Quốc vương dừng bước, thường nhân nịnh phật, tất nhiên là không can dự tới thần. Nhưng xã tắc Giang Nam ở trong tay người, thiên hạ đang dõi theo người, mà Quốc vương lại không chú ý câu nói, hoang đãi chính sự. Đến nạn đói năm nay dân chết đầy đường, quân thù thì dòm ngó nơi biên giới, thế mà Quốc vương lại hậu tăng bạc dân, xin hỏi người phục vụ Hoàng thất là Tăng hay là dân?”
Lý Dục biết hắn tuy là con mọt sách nhưng tấm lòng cũng trung thành và tận tâm, dù những lời hắn nói không dễ nghe nhưng cũng chỉ là nghĩ cho dân cho nước. Thấy vậy, hắn bèn an ủi nói: “Khanh vẫn còn dũng khí nói với trẫm những điều này, quả là đất nước ta còn phúc. Quả nhân tín phật cũng là để cảm hóa dân chúng hướng thiện. Khi ta xuất cung, nào ta có nhìn thấy cảnh dân chúng chết đói ngoài đường đâu, khanh nói những lời đó ngây thơ quá, tuy nhiên là do tính tình ngươi thuần phác, trẫm không trách ngươi đâu.”
Vừa nói xong hắn lại quay lưng rảo bước, Uông Hoán tiến tới trước mặt Lý Dục, đau khổ nói: “Quốc vương, ngày xưa Lương Võ Đế tín Phật, lấy máu viết Phật thư, xả thân làm nô lệ nhà Phật, cắt tóc đi tu, cuối cùng cũng chết đói trên bàn thành. Nay Quốc vương tiêu pha xa xỉ, lại thích Bồ tát, không quản chuyện chính sự lại đi mê tín vào chuyện Phật, không nghe những lời nói từ đáy lòng, thần e rằng Quốc vương sẽ rơi vào kết cục còn không bằng được Lương Võ Đế.”
Lý Dục nghe thấy Uông Hoán đem hắn so sánh cùng tên hôn quân Lương Võ Đế, trong lòng hết sức phẫn nộ, cười lạnh mà rằng: “Quả nhân đâu có dùng máu viết Phật thư, cũng không xả thân vì Phật. Liên Hành Nhân nói, vô vi mà trị, không lạm thi cực hình lệ pháp, làm sao rơi vào kết cục như Lương Võ Đế được? Thậm chí khanh nói bừa như thế, chẳng lẽ muốn giống Phan Hữu, Lý Bình hay sao?”
Phan Hữu vốn là Trung thư xá của nước Đường, Lý Bình là đại phu của nước Đường, hai người đã từng nói những điều giống như Uông Hoán hôm nay, khiến Lý Dục phẫn nộ, bị tống vào nhà giam, hai người cuối cùng phải tự vẫn trong ngục.
Uông Hoán ưỡn ngực nói: “Thần hôm nay đến, đúng là muốn giống như Phan Hữu, Lý Bình. Nếu như Quốc vương muốn giết Uông Hoán, Uông Hoán cũng nguyện xuống suối vàng kết bạn cùng Phan Hữu, Lý Bình.”
Lý Dục nghe xong cười lạnh một tiếng, ung dung nói: “Hư ngôn võng sự, mua danh chuộc tiếng”.
Uông Hoán nghe thấy vậy giận tím mặt, hắn vốn là một thư sinh bần kinh, thường không vận động mấy, nay bị Lý Dục kích động chỉ biết tức giận đến mức hoa mày chóng mặt, chân tay lạnh buốt, mắt hoa lên, cơ hồ như muốn ngất đi.
Lý Dục thấy vậy liền quay sang hai bên dặn dò: “Người đâu, mau dìu hắn đi”. Vừa nói hắn vừa đùng đùng bỏ đi. Lý Dục bị những lời nói của Phan Hữu làm hỏng tâm trạng vui vẻ của hắn, buồn bã tới hậu cung, cũng không cho người truyền báo mà lẳng lặng tiến vào, liền nghe thấy bên trong vọng ra tiếng nói của hai người đang rì rầm to nhỏ, Lý Dục liền khựng lại, dỏng tai lắng nghe…
Trong phòng có tiếng con gái: “Quốc vương đi đến Kê Minh tự dâng hương rồi? Trái tim Quốc vương thật nhân hậu, sùng tín Phật pháp, vốn bản tính của Quốc vương đã là Phật tâm rồi, không thể nào bỏ qua, nhưng nay cường địch ở bên, giang sơn nước Đường có nguy cơ bị mất, đến nước này Quốc vương nên dốc tâm xây dựng thủy quân lớn mạnh, tu sửa lại thuyền chiến, chiêu mộ anh tài, đẩy mạnh thế lực để tránh người Tống sang xâm lược từ phía Nam. Phân tâm vào quá nhiều việc thực chẳng ra sao cả. Nương nương, hiện trong dân gian có người nói nước Tống có dã tâm, không chịu để yên cho nước Đường đâu. Có rất nhiều nười nói, nước Tống đã mở rộng thành trì bên ngoài Khai Phong, đang luyện thủy quân, rõ ràng không chút che dấu, thử hỏi đại chiến hạm, luyện thủy quân như thế, nếu như không có ý với nước Đường thì là vì sao?”
Lý Dục nghe tiếng đoán người nói chính là Mạc cô nương, lần trước trái tim đa tình của hắn đã từng rung động trước Mạc cô nương, muốn nhờ cô nương viết thủ từ, ai ngờ cô ta lại không đồng ý, làm cho Lý Dục bị tổn thương. Bây giờ Mạc cô nương lại đang nói đến những chuyện của bản thân mình, Lý Dục cảm thấy hiếu kỳ, bèn muốn đứng nghe thêm xem cô ta nghĩ thế nào về mình, nên không nói lời nào, im lặng đứng phía sau bức bình phong nghe ngóng.
Chỉ nghe thấy tiếng Tiểu Chu nói tiếp: “Thực ra Quốc vương biết thừa dã tâm của nước Tống chứ, nhưng thực lực không đủ, không phải Quốc vương không thể dốc hết sức cứu vãn, nhưng nếu như huy động lực lượng lớn đi luyện binh thì e rằng sẽ là cái cớ để nước Tống lập tức xuất binh sang Đường. Đến nay Quốc vương vẫn im hơi lặng tiếng, muốn chủ động xưng thần với nước Tống là chẳng qua muốn lùi một bước, khiến bọn Tống không tìm ra cớ mà đánh nước Đường ta mà thôi.
Nước Đường ta có hơn 10 vạn binh lính tinh nhuệ, người Tống vừa không có lý do danh chính ngôn thuận, lại luyện binh trong hồ, nếu thật sự muốn đánh e rằng họ cũng không có cơ hội tốt, Triệu Khuông đâu có ngu mà không biết đánh giá điều đó? Còn về việc quân Tống cho đóng thuyền thì cũng chỉ là muốn dọa chúng ta thôi, chứ chưa chắc đã cố tình thảo phạt Đường Quốc. Hôm nay nước tống có được giang sơn nước Hán cũng cần có quân binh và chiến hạm canh giữ lãnh thổ chứ.”
Chương 358: Phong Mãn Lâu
Mạc Thu Nương thở dài nói: “Dã tâm hại người có thể có…nhưng phòng ngừa tâm địa con người thì không thể không có. Đúng là nhà Đường có 10 vạn binh tinh nhuệ, hơn nữa còn địa lợi, giỏi thủy chiến, không khó đánh một trận thực lực cho nhà Tống yếu thế. Hàng năm chúng ta xưng thần cống nạp, số tiền đã lên đến hơn 10 vạn lượng, bên kia có thêm được một phần thì chúng ta giảm đi một phần. Cứ như thế này thì thực lực hai bên ngày càng cách biệt, điều này chẳng phải là cổ vũ uy phong người Tống mà làm mất nhuệ khí quân ta đó sao?”
“Ôi! Không xưng thần cống nạp, Quốc vương làm sao có thể mù mịt được như thế. Muội cuối cùng cũng chỉ là nữ nhi, đừng có thiển cận…” Tiểu Châu thở dài một tiếng, rồi lại nói: “Có điều muội tuy là nữ nhi, không giỏi thi từ ca phú, son nữ hồng, mà lại thích bàn chuyện đại sự quốc gia, thật đúng là khác người”.
“À… Thu Nương sinh sống trong cửa nhà thế gia, thường xuyên thấy cậu và bố luyện binh, bàn chuyện quốc gia nên mới thấy hứng thú với những chuyện thế này”.
Tiểu Chu nghe xong cười hì hì mà nói: “Dù nói như vậy, nhưng muội cũng chỉ là nữ nhi. Bận tâm lắm làm gì, chúng ta làm sao có thể giúp gì cho việc đại sự? Muội quan tâm đến nhà Đường và Quốc vương như vậy, là do khai trí, hay là… muội có ý gì với Quốc vương?”
Lý Dục chợt giật nảy mình, không kìm được mà tiến lên hai bước, nghe Mạc cô nương nói: “Nương nương lại trêu ghẹo Thu Nương rồi, Thu Nương thân là người nước Đường tất nhiên phải lo cho nước Đường. Tôn trọng Quốc vương, đấy cũng là một bổn phận của người dân bình thường, Thu Nương sao dám có tơ tưởng gì với Quốc vương.”
Lý Dục thấy trong lòng trống rỗng… Tiểu Chu nghe xong cười mà rằng: “Muội không cần phải che giấu, mỗi lần ngồi cùng bản cung nói chuyện phiếm, người đều không nói gì khác ngoài chuyện Quốc vương. Chẳng lẽ ngươi tưởng ta không đoán ra tâm tình của ngươi sao? Ta không phải là người h ghen tị, trong số các cung tần mỹ nữ, người xem ta có bao giờ bực mình với họ đâu, huống chi ta và ngươi như chị em tâm đầu ý hợp như thế”.
Chiết Tử Du không biết nên khóc hay nên cười, bất đắc dĩ nói: “Nương nương… đúng thật là hiểu lầm Thu Nương rồi. Quốc vương có trong tay cả giang sơn Giang Nam, biết bao người dân, nhất cử nhất động của Quốc vương đều đại diện cho nhất cử nhất động của nước Đường, nói về chuyện quốc sự của Giang Nam chẳng lẽ lại không nhắc đến Quốc vương? Thực không phải… thực không phải nhi nữ có tư tình…”
“Hihi, xem bộ dạng xấu hổ của Thu Nương thật đáng yêu quá. Đến bản cung còn động lòng huống hồ là Quốc vương, ngài còn viết cho ngươi một phú từ để bày tỏ…”
“Nương nương!”
“Được rồi được rồi, ta không lôi chuyện này ra trêu ngươi nữa. Thu Nương, ngươi có thích vua Đường hay không, chuyện này không đề cập tới, nhưng không biết trong mắt ngươi vua Đường là người thế nào?”
“Cái này…”
“Chúng ta là tỷ muội có gì chẳng nói với nhau, muội cứ nói đi, không cần phải ấp úng”
“Vâng… Trong mắt Thu Nương thì Quốc vương dáng vóc không tầm thường, tài hoa hơn người, văn võ song toàn, thông âm luật, bản tính tốt, trước sau chẳng có ai bằng…”
Tiểu Chu cười nói: “Muội khen Quốc vương như thế thật ngoài dự liệu của ta đấy”
Đằng sau tấm bình phong, Lý Dục nghe thấy à như mở cờ trong bụng. Nếu không sợ làm kinh động đến mỹ nhân thì hắn chẳng đã nhẩy cẫng lên rồi.
Tử Du nghe thấy vậy liền nói: “Là người chẳng có ai hoàn hảo. Vua Đường cái gì cũng tốt, có điều nói về chuyện đại sự thì thiếu khí phách, hiểu cầm kỳ thi họa cũng vẫn không đủ để đem đến bình an cho nước Đường, quân sự và chính trị mới là phương pháp để đánh thắng. Nếu như Quốc vương không là vua thì ắt sẽ là đệ nhất tài tử Giang Nam, nhưng Quốc vương là người đứng đầu một nước mà chú tâm vào thi ca đền đạo, lơ là việc quốc sự, đó không phải là hạnh phúc của Quốc vương, lại càng không phải là hạnh phúc của Giang Nam.”
Lý Dục nghe thấy liền tự nhủ: “Chẳng trách ngày ấy ta bảo viết tặng nàng một bài thơ nàng không thèm, hóa ra là vì nàng sinh ra trong cửa thế gia, nên nàng thích mẫu đàn ông dọc ngang trên lưng ngựa, đi chinh phục thiên hạ. Nếu nói như vậy thì Triệu Khuông ắt hẳn sẽ là người anh hùng trong mắt nàng, sợ rằng nếu bây giờ ta mới bắt đầu học võ công thì xương cốt đã cứng mất rồi. Xoa xoa cái bụng mình, Lý Dục khẽ thở dài.
Tiểu Chu khẽ nói: “Muội muội, muội đừng trách Quốc vương, cần phải biết Quốc vương vốn là vị vua vô vi chi tâm, năm vị huynh trưởng đều sớm qua đời, ngôi vị hoàng đế này mới không thể không rơi vào đầu Quốc vương. Quốc vương cũng là do bất đắc dĩ, muội nghĩ rằng làm vua đất Giang Nam này là sung sướng lắm sao?”
Chiết Tử Du nói: “Là do thần nghe người ta nói, Quốc vương thưở nhỏ đã thích thơ từ ca phú, chán ghét chuyện kinh đạo, mới đầu cũng được phong làm thái tử. Lễ bộ thị lang Trung Mô Trác đã nói, Tòng Gia Đức chí yếu, lại khốc tín thị dân, không thể làm chủ. Còn Tòng Thiện quả dám ngưng trọng thì là có ích cho con cháu. Thế nhưng Quốc vương không cho câu nói này là đúng, ngược lại còn đày Trung Mô Trác đi ải, nương nương, có chuyện này sao?”
“Đúng vậy, nhưng chuyện này là bí mật”. Tiểu Chu nghe xong liền thở dài đáp: “Tòng Thiện, Tòng Thiện… Ôi, Quốc vương lệnh cho Tòng Thiện đi sứ nước Tống vốn là bày tỏ cho nước Tống thấy lòng kính trọng của ta, ai ngờ Triệu Khuông lại vô lễ, đem Tòng Thiện giam lỏng không thả ra, Quốc vương nghĩ đến tình huynh đệ mà luôn thấy phiền muộn. Vợ Tòng Thiện cơ thể ốm yếu suy nhược, phu quân thì lại bị tống vào tù nhà Tống khiến nàng ta ưu tư phiền muộn, thường tìm đến chỗ Quốc vương khóc lóc, khiến Quốc vương cũng khó xử. Nghe nói nàng ta hôm qua lại tiến cung, tức giận buông ra những lời bất tuân, nhục mạ Quốc vương”.
“Lại có việc này sao? Phu nhân của Quốc công lại dám to gan như vậy?”
“Làm sao lại không thể? Nội thị trong cung đều tận mắt nhìn thấy, lẽ nào còn là giả? Quốc vương nhân hậu, dù bị bà ta mắng chửi tức khí đến ộc máu cũng không hề trách bà ta, còn triệu thái y vào cung bốc thuốc chữa trị cho bà ta, đợi bà ta ổn định rồi mới đưa bà ta về phủ. Không giấu gì ngươi, Quốc vương đã sáu lần viết thư sang nước Tống để đòi lại Tống Thiện, nhưng triều đình nhà Tống nhất quyết không thả người thì biết làm sao?”
Chiết Tử Du trầm xuống, khẽ thở dài: “Người Tống giam giữ Trịnh Vương là có ý đồ gì? Lẽ nào Quốc vương không nhìn ra ý đồ của người Tống hay sao? Theo thần nghĩ, Quốc vương là một tài tử thì không ai bằng, nhưng làm một đức vua thì e rằng sẽ có ngày sai lầm. Không kể Quốc vương có muốn làm vua Giang Nam hay không, nhưng đã là vua rồi thì nên quan tâm đến việc chính trị đi chứ”.
Lý Dục nghe đến đây tức giận đùng đùng, lao vào phòng nói: “Ta xưng thần với nước Tống thực ra là vì thực lực của ta không bằng Tống, là do ta suy nghĩ cho bách tính. Ta không ngại cúi đầu liếm cánh, cốt sao để tránh thương vong. Mạc cô nương, ngươi sợ điều gì?”
“Mạc nhi khấu kiến Quốc vương”. Vừa nhìn thấy Lý Dục bước vào, Chiết Tử Du vội vã đứng dậy, đứng theo sau Tiểu Châu thi lễ, “Không biết Quốc vương giá đáo, thần không kịp tiếp đón từ xa,xin người thứ tội. Thần… thần không có ý bất kính với Quốc vương”.
Trong triều văn võ bá quan khuyên gián, Lý Dục có thể không cần để tâm, nhưng để một cô nương liễu yếu đào tơ xem thường mình, lại là người mà hắn thích thì làm sao mà chịu được, bèn làm mặt lạnh nói: “Nay ta nhẫn nại, do lực ta không bằng Tống, chứ không phải khiếp sợ bọn chúng. Quả nhân dù là văn nhân nhưng cũng có một trái tim của một viên võ tướng, sẽ có ngày nếu nước Tống có dũng khí xâm lược Đường quốc ta, quả nhân nhất định sẽ thân chinh ra trận, mặc áo giáp, tử chiến đến cùng để giữ gìn giang sơn xã tắc. Nếu như không bảo toàn được non sông ta cũng sẽ tự thiêu, quyết không làm ma xứ người.”
Những lời nói này thể hiện rõ niềm phẫn nộ, Tiểu Chu đứng sau lộ ra vẻ vui mừng rõ rệt, nói: “Quốc vương đúng là người dũng cảm, bản cung vốn biết Quốc vương có tư thế anh hùng”.
Chiết Tử Du nhìn thật sâu vào mắt Lý Dục, cúi đầu tạ tội nói: “Mạc nhi không biết được chiến lược của Quốc vương, nói năng hồ đồ, mạo phạm đến Quốc vương, xin được thứ tội”.
Lý Dục nhìn thấy ánh mắt Mạc Thu Nương có nét vừa như ngưỡng mộ vừa như hâm mộ, dường như nàng còn vui sướng hơn rất nhiều khi được Lý Dục tặng thơ lần đầu, ánh mắt đó khiến Lý Dục như trẻ ra đến mười tuổi, không nén được tiếng cười vang: “Đứng lên đi, Lâm tướng quân trung thành tận tâm bảo vệ Tổ quốc và thần dân, ngươi là cháu gái của tướng quân quả cũng không thiếu hào khí, quả nhân rất vui khi nghe được những lời nói từ đáy lòng như vậy. Nghe đương nhiên là không vui, nhưng Thái tông Hoàng đế cũng chính là tấm gương, ta tất nhiên không bằng Thái tông, nhưng lẽ nào không nghe được những lời của ngươi không phải là phản nghịch mà là tận trung hay sao?”
Chiết Tử Du thản nhiên cười, nàng và Tiểu Chu đều là những người phụ nữ khiến Lý Dục rung động, hắn muốn đỡ nàng, nhưng Chiết Tử Du đã đứng dậy, lại hành lễ nói: “Đa tạ lòng khoan dung của Quốc vương, Quốc vương hồi cung đúng lúc thần và nương nương đang nói chuyện, Mạc nhi xin cáo lui. Quốc vương, nương nương, thần…”
“À, không cần..” Lý Dục vội nói, vừa nãy hắn còn tỏ ra là mình để ý đến chuyện quốc sự trước mặt nàng, nay chẳng lẽ lại chuồn vào hậu cung nói chuyện phiếm, đứng giữa hai mỹ nhân, hắn đành nói: “Ta có việc phải đi, ta đã ra lệnh cho Trần Kiều vào cung, cùng bàn chuyện quốc gia đại sự, bây giờ phải quay về điện ngay, ngươi cứ ở lại trò chuyện cùng nương nương…”
Nói rồi hắn quay sang liếc Tiểu Chu một cái, quay người đi mất, bỏ lại Tiểu Chu và Chiết Tử Du thi lễ đằng sau: “Cung tiễn Quốc vương”.
Lý Dục vô cùng hả hê vì đã khiến được hai người đẹp phải động lòng, chỉ cần nói vài câu quốc gia đại sự đã khiến ánh mắt nàng ngưỡng mộ đến nhường ấy, thật điều đó đã khiến Lý Dục tự cao đến cực độ, hắn nhanh chân rời khỏi hậu cung, sai người gọi Trần Kiều đến Thanh Lương điện.
Chịu ảnh hưởng của Chiết Tử Du, gần đây Tiểu Chu Hoàng hậu cũng bắt đầu hứng thú với chuyện nước, lời người khác Lý Dục nghe không lọt tai, nhưng lời của Tiểu Chu Hoàng hậu thì hắn luôn để trong lòng. Sau vài lần nghe, hắn cũng ý thức được nguy cơ của nước Đường, lúc nào cũng phải suy nghĩ đến tình cảnh của nước Đường và lối đi trong tương lai.
Nếu như muốn chủ động tấn công Tống, hắn tuyệt nhiên không dám, nhưng nếu như gia tăng lực lượng phòng bị thì hắn lại không có ý kiến. Trước nay nếu như có bất kỳ hành động nào hắn cũng đều sợ sẽ làm nước Tống bất mãn, nay sứ giả Khiết Đan lại đang muốn liên minh với nhà Đường, xa hô tương ứng, một Nam một Bắc hiệp lực khống chế quân Tống, như thế thì quân Đường sẽ chẳng còn sợ gì nữa. Thật tâm mà nói, hắn cũng không muốn chịu lép vế trước nhà Tống, nếu như có được cách khác thì hắn sẽ quyết định nhanh, như là…thương lượng nhanh về vấn đề này, đường đường là người đứng đầu một nước, há để cho nữ nhi khinh bỉ?
************************************************** *********
Biện Kinh, Hoàng Nghi điện.
Tuyết vừa rơi một trận lớn, màu trắng bạc phủ khắp nơi, cả thành phủ một màu trắng, tiết trời như vào xuân. Triệu Khuông đang ngồi cùng đám đại thần bên bếp lò, vừa ăn lẩu vừa nói chuyện quốc sự.
Người đang nói chậm rãi kia chính là Lư Đa Tốn, từ sau khi Triệu Phổ rời kinh, Lư Đa Tốn đã được lên chức Trung thư thị lang học vị hàn lâm, đứng hàng Tể tướng, hắn là người hiểu rõ tâm tính của Triệu Khuông nhất, mỗi lời hắn nói đều đánh vào đúng chỗ ngứa của Triệu Khuông. Nay đã chính thức thay thế vị trí của Triệu Phổ, trở thành người phát ngôn tận tâm nhất của Triệu Khuông.
Hắn nói quên trời đất, trán đẫm mồ hôi, phải cởi bỏ áo khoác ngoài. Vương Kế Ân lập tức tiến đến trước, Lư Đa Tốn mỉm cười, quay lại tiếp tục nói: “Nay ở đất Thục có người dấy binh làm loạn, ở nơi đó địa hình hiểm rở, rừng rậm um tùm, vừa là chỗ tạp cư hỗn tạp, nếu muốn đến đó bình định thì phải mất nửa ngày mới xong. Mân Nam vừa mới quy về, muốn được lòng của dân cư nơi đó thì phải bình định được đất, khiến cho lòng dân quy thuận về Tống, cũng có lẽ cần một khoảng thời gian.
Trong tình hình này, nếu như chúng ta cần phải tu chỉnh lý để lấy lòng dân chúng, gia tăng sức mạnh quân đội, hòa hảo với dân tộc Khương ở phía Tây, phía Bắc chống quân Khiết Đan, đợi khi tất cả đã sẵn sàng, chúng ta sẽ đánh nước Đường, quy hết về một mối, nếu như đợi được đến ngày này thì nhanh cũng phải mất khoảng 3, 4 năm. Sau đó…”
“Sau đó chúng ta không đợi nữa, Trẫm, không cách nào đợi được đến lúc đó”.
Triệu Khuông tiếp lời, lá thư cầm trong tay run lên, trầm giọng nói: “Trẫm vừa nhận được tin, người Khiết Đan đã đem thủ lĩnh bộ tộc Gia Luật Văn đi sứ sang nước Đường, mà Tiêu hoàng hậu lại đang xóa sổ vây cánh của hắn ở trong cung, gài thân tín của bà ta vào, Trẫm cũng đang khá lo lắng”.
Hắn nhấp một ngụm rượu, vuốt râu, đảo mắt một lượt khắp các trọng thần đang ngồi xung quanh, chỉ tay nói: “Thứ nhất, Gia Luật Văn đi sứ sang nước Đường, quả nhiên là Tiêu Xước đang dùng kế điệu hổ ly sơn, cũng không biết có khả năng người Khiết Đan coi trọng nước Đường hay không, lẽ nào chúng muốn liên minh với Đường?
Thứ hai, nước ống ta Nam phạt, là nỗi uy hiếp lớn nhất của phương Bắc, khi chúng ta đánh nước Hán, dù Trẫm đã đạt được mục đích nhưng cho đến nay nước Hán đã danh tồn thực vong, sắp tàn lụy rồi, nhưng do sự can thiệp của người Khiết Đan mà rốt cuộc cũng không sụp đổ. Vài năm gần đây trong nội bộ phương Bắc rối loạn không ngừng, gây cho Trẫm rất nhiều bất lợi. Đến nay Tiêu Xước đã bắt đầu động thủ, rõ ràng là bà ta đã nắm chắc thực lực trong tay, ít nhất thì cũng đã có thể thống trị bộ tộc của hoàng đế.
Nếu như bà ta thành công thì chúng ta không thể coi thường dân Khiết Đan được đau, lúc đó Trẫm lại tiến hành Nam phạt thì đại bộ phận quân đội ta đến từ phương Bắc sẽ bị uy hiếp. Phải biết rằng quân đội nhà Đường có 10 vạn, lại thiện chiến đường thủy, nếu như dùng binh mã ít thì nước Tống ta rất khó giành thắng lợi. Đặc biệt là trong chiến tranh, một khi chiến sự trì hoãn lâu thì e rằng sẽ có nhiều biến đổi, dân nước ta sẽ rơi vào bể lầm than, nếu như lặp đi lặp lại thì sẽ không tránh khỏi dẫm phải vết xe đổ của Tùy Diễm khi phạt Cao Ly”.
Nói rồi hắn thắt chặt lại thắt lưng, trầm giọng nói: “Là do trẫm đang cân nhắc nên tấn công sớm hay muộn, hay là cứ sớm chinh phạt được nước Đường cho thỏa đáng? Trẫm đã quyết rồi, tháng 3 sang năm, chúng ta sẽ nổi binh đánh Đường, các khanh có ý kiến gì không?”
Đã trở về từ Mân Nam, kế tiếp lại Lý Sùng Củ, Tào Bân – người tiếp quản nhiều sứ mệnh nói: “Quan gia, nước Tống ta khi chinh phạt nước Hán, quân Khiết Đan đã từng xuất binh cản trở. Khi tấn công Nam Hán cũng do quân Khiết Đan không vãng lai cùng Nam Hán mà nội bộ phân tranh nên không xuấ binh, nhưng nước Đường và Khiết Đan có quan hệ mật thiết với nhau, thông thương trên biển, hơn nữa nước Đường cũng là trở ngại cuối cùng của mục đích chinh phục Trung Nguyên. Nếu như nội bộ Khiết Đan không phân tranh thì Tiêu Hoàng hậu có thể kịp thời nắm binh quyền trong tay, xuất binh tiến đánh chúng ta, hoặc làm hỏng kế hoạch đánh chiếm nước Đường của ta. Do đó, thần nghĩ rằng, với người Khiết Đan tuyệt đối không thể không phòng, tránh lơ là, phái quân thiện chiến đến đóng giữ đất Bắc, sẵn sàng đương đầu với quân địch, đồng thời với trận chiến với Đường cũng cần phải tốc chiến tốc thắng, như vậy mới có thể cắt đứt những ảo tưởng của nước Đường”.
Triệu Khuông cười nói: “Khanh nói được câu ấy hợp ý Trẫm lắm. Dù phương Bắc có nội loạn nhưng cũng không thể không ngại”.
Tiết Cư Chính nói: “Bệ hạ, Hồng lư thiếu khanh đi sang sứ nước Đường cũng đã lâu mà vẫn khong thấy báo cáo gì về thủy đồ, binh lực… của Giang Nam, nếu như muốn đánh Đường thì không thế thiếu những tin tình báo quan trọng đó, nếu không e rằng sẽ phải cố hơn gấp 10 lần. Liệu có cần bảo hắn tập trung thu thập thông tin hay không?”
Triệu Khuông đáp: “Trẫm đã đọc được tin báo của Tiêu Hải Đào, Dương Hạo ở nước Đường cố ý kiêu ngạo khiêu khích, Lý Dục một mặt cố nhẫn nhịn, vẫn một lòng xưng thần, còn về mặt cách gian quân thần và phương diện nhuệ khí thì Dương Hạo cũng thu được thành công. Dương Hạo và các thần vệ quân đô chỉ huy sứ nước Đường Hoàng Phủ Kế Huân có mối giao hảo rất tốt, hy vọng hắn sẽ moi được tình hình quân sự của nhà Đường. Do nhà Đường bảo mật thông tin rất kĩ về binh lực cũng như địa thế hiểm trở của Trường Giang mà nhiều gián điệp được cử đi đều không thu về được mấy kết quả.
Trẫm đã hạ lệnh cho hắn nghĩ cách, bằng mọi giá phải thu thập được thông tin, nhưng dù có thành hay không thì sang năm chúng ta vẫn giữ nguyên kế hoạch đánh Đường, Trẫm đã quyết và sẽ không thay đổi đâu”.
Lữ Từ Khánh trầm ngâm nói: “Bệ hạ, muốn đánh nước Đường còn cần một lý do danh chính ngôn thuận nữa, nếu như nhà Đường vẫn cứ một mực xưng thần với nước ta, đồng thời cống nạp lễ vật đều đặn thì làm sao chúng ta xuất binh được? E rằng thần dân nước ta không phục, càng kích động lòng báo thù của dân Đường”.
Triệu Khuông ngửa mặt lên trời cười to: “Haha, Lý Dục chỉ tính đến cái lợi cho hắn thôi. Hắn xưng thần và cống nạp cho Trẫm cũng chỉ là muốn Trẫm không tìm ra lý do nào để đánh Đường, Trẫm nào có thể cho hắn toại nguyện. Ngươi bảo tại sao ta lại cứ phải giam lỏng Lý Tòng Thiện? Ban thưởng cho hắn, phong hắn làm quan, cho hắn ăn ngon mặc đẹp và đối xử tốt với hắn để làm gì? Chính là để cho Lý Dục nhìn thấy”.
Trong ánh mắt Triệu Khuông ánh lên vẻ giảo hoạt: “Dù hắn có xưng thần với Trẫm, trẫm cũng triệu hắn đến kinh để nói chuyện. Nếu hắn dám từ chối là hắn kháng chỉ, Trẫm có cơ hội để đánh hắn không đây?”
Lữ Từ Khánh như chợt tỉnh ngộ, hứng khởi nói: “Kế này quả là diệu kế, như vậy thì trên danh nghĩa chúng ta có thể ra tay được rồi”.
Triệu Khuông mỉm cười, vuốt vuốt chòm râu của hắn mà nói: “Trẫm đã ra lệnh cho Lý Dục đến Biện Kinh, cùng Trẫm ngắm đèn. Nếu như hắn không tới thì ta sẽ xuống chiếu năm lần bảy lượt, phải làm tốt cả nhân và nghĩa, vậy mới là tốt”. Nói rồi hắn lại ngửa mặt lên trời cười lớn.
Hắn cười đắc ý, ánh mắt chợt lóe lên, liếc nhìn thấy Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa đang khẽ nhíu hàng lông mày, cúi đầu không nói, hắn không nén được cười hỏi: “Tấn Vương đang suy nghĩ chuyện gì thế?”
Triệu Quang Nghĩa ánh mắt lóe lên như nhập thần, không nghe thấy Triệu Khuông đang gọi hắn. Tào Bân đứng bên cạnh phải nhẹ nhàng kéo hắn một cái, hắn mới như sực tỉnh, vội vàng ngẩng đầu lên.
Triệu Khuông lại cười nói: “Tấn Vương đang suy nghĩ chuyện gì mà nhập tâm thế?”
“Hả?”
Triệu Quang Nghĩa làm quan trong phủ Khai Phong đã bao năm, thành tích lẫy lừng, chỉ duy nhất là người hay lo nghĩ, không có quân lực. Cấm quân trước sau tự thành một hệ thống, không cách nào cho hắn vào. Nay nghe nói muốn dụng binh đánh Đường, có lẽ sẽ là trận đánh cuối cùng để thống nhất Trung Nguyên. Triệu Quang Nghĩa lúc này đây càng phải suy nghĩ nhiều bộn phần, nhưng những gì hắn nghĩ làm sao có thể nói rõ ràng với Triệu Khuông được đây? Sau một hồi do dự, hắn mới tìm bừa một lý do nào đó, từ từ nói: “Bệ hạ, thần chỉ đang nghĩ trong giới quan võ Nam Đường thì chỉ có mình Lâm Hổ Tử là khó trị. Hắn rất thiện chiến, có tài binh lược, không cái gì không biết, nếu đánh với hắn thì mình hắn mạnh bằng bốn người, có dũng khí nghênh tiếp hàng vạn địch, chặn bước đường của đại quân Thế Tống Đại, thực lực rất lớn. Hôm nay hắn tiết độ trấn hải, trong tay lại nắm 10 vạn binh thì nước Tống chúng ta muốn thâu tóm Giang Nam cũng phải qua được hắn. Nếu chúng ta trị được hắn thì chẳng khác nào xoay chuyển được thế lực của mười vạn quân địch”.
Triệu Khuông nhíu mày nói: “Trước hết phải loại trừ Lâm Hổ Tử? Hừ, cách nghĩ này thật viển vông quá. Trong tay nắm nhiều trọng binh, hà tất phải nói giết là giết? Hắn giỏi võ, lại là cư binh trong doanh trại, dù có đi đâu ắt cũng có người đi theo hắn, làm sao chúng ta ra tay được?”
Triệu Quang Nghĩa cố tìm được từ để nói, lúc này đây không thể không nói tiếp, bèn chỉ biết cứng đầu nói: “Muốn nghĩ ra cách để diệt trừ hắn ắt không dễ, nhưng cũng không khó bằng việc đấu với 10 vạn tướng thủy binh của hắn chứ? Thần thiết nghĩ, chính là muốn giết hắn như thế nào thì thần cũng có cách, nhưng không biết có được hay không”.
Triệu Khuông nhìn thật sâu vào mắt hắn, cười nói: “Tốt lắm. Vậy Tấn Vương có thể nghĩ ra được nhiều thứ ở nhiều phương diện, nếu chúng ta hành động giết chết đại tướng số một của triều Đường thì coi như đã thành công một nửa rồi. Tấn Vương, mau lập tức đến bình định Giang Nam”.
“Thần xin lĩnh chỉ”. Triệu Quang Nghĩa cung kính đáp trả, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm.
Chương 359: Mỹ nhân đã đến
Tiêu Hải Đào vội vã đi vào chỗ ở của Dương Hạo, kích động nói: “Đại nhân, triều đình có tin tức”.
Dương Hạo hỏi: “Triều đình nói sao?”
Tiêu Hải Đào nói: “Phong thư này là của vua đích thân viết cho Quốc vương Giang Nam, còn yêu cầu đại nhân đọc cho Quốc vương Giang Nam nghe, đại ý là muốn mời mua Giang Nam đến Biện Kinh cùng đón lễ Thượng Nguyên với Hoàng đế”.
Lễ Thượng Nguyên cũng là tết Nguyên Tiêu, vốn có từ Tam nguyên nhật của đạo giáo. Do người xưa thường dĩ dạ vi tiêu nên nhân gian gọi đó là tết Nguyên Tiêu, mà phương Bắc người Khiết Đan gọi là “phóng thâu nhật”. Dương Hạo nghe nói xong lắc đầu cười nói: “Lý Dục sẽ không đi đâu, hành động này của bệ hạ là muốn đem quân đánh, để tránh Lý Dục lúc này lúc khác lại viết mục thư đòi thả Lý Tòng Thiện”.
Tiêu Hải Đào cười nói: “Đại nhân nói phải. Còn một phong thư khác là thư mật bệ hạ giao cho đại nhân và hạ quan, trong phong thư này có nhắc đến chuyện đi sứ hết sức kỳ quái, hạ quan xem đi xem lại mà vẫn không hiểu, mời đại nhân xem thử xem”.
Dương Hạo đón lấy bức thư, xem kĩ càng từ đầu chí cuối một lượt, rồi sau đó giơ lên ngọn đèn đốt cháy lá thư đó thành những mảng tro đen bay phất phơ như những con bướm đen mà trầm mặc không nói câu gì.
Tiêu Hải Đào không kiềm chế được mà hỏi: “Đại nhân, bệ hạ nếu như muốn có ảnh chân dung của Tiểu Chu Hoàng hậu thì còn có thể hiểu được, chứ Lâm Nhân Triệu nào có phải là tuyệt thế giai nhân gì, bệ hạ muốn có chân dung ông ấy làm gì kia chứ? Đại nhân thử nghĩ xem điều đó có ý nghĩa gì?”
Dương Hạo ánh mắt như có lửa, nói: “Ý của bệ hạ bản quan có đoán cũng không nổi. Bệ hạ đã ra lệnh như thế thì chúng ta cứ thế mà làm. Chuyện bức họa chân dung Lâm Nhân Triệu giao cả cho khanh, xem xem có thể lấy được ở nhà họ Lâm hay không. Nếu như không thể thì thuê họa sĩ, kiếm cớ đi Trấn Hải để xem dung mạo Lâm Nhân Triệu thế nào, xem cho kĩ rồi về Khai Phong vẽ lại. Còn về việc tìm kiếm thủy đồ địa lý và lực lượng quân phòng thì cứ để ta nghĩ cách”.
“Thần rõ ạ”, Tiêu Hải Đào cung kính đáp và lui ra ngoài.
Những ý nghĩ trong đầu Dương Hạo cháy rực như ánh nến, bay phất phơ theo bóng Tiêu Hải Đào, rồi lại bay thẳng lên trên. Hắn hít vào một hơi thật sâu, tự nói với chính mình: “Triều đình muốn lấy mạng Lâm Nhân Triệu! Tất cả quả nhiên là không thay đổi, người phải chết sẽ bị chết, người cần đến sẽ đến, cuộc chiến với nước Đường sắp bắt đầu rồi, Tử Du có lẽ cũng sắp phải quay về Phủ Châu đi thôi. Diễm Diễm, Oa Oa, các nàng bao giờ mới đến?”
************
Sau khi Dương Hạo đọc chiếu thư cho Quốc vương Giang Nam nghe, hắn cười hì hì mà rằng: “Quốc vương, bệ hạ nước tôi thực lòng hy vọng sẽ được đón tết Nguyên Tiêu cùng ngài, không rõ Quốc vương bao lâu nữa khởi hành?”
Lý Dục nghe nói Triệu Khuông muốn mời mình đến Biện Lương đón Tết Nguyên Tiêu xem hội đèn thì mặt biến sắc. Tửu vô hảo yến, ly rượu này của Triệu Khuông uống sao nổi đây? Lý Tòng Thiện đến giờ vẫn còn bị giam lỏng không về được, ngày ngày lấy nước mắt rửa mặt, hại hắn bây giờ đến mặt vợ của huynh đệ cũng không dám nhìn mặt, làm sao hắn còn dám tự chui đầu vào lưới.
Lý Dục từ chối ngay: “Xin nhờ Dương trái sứ về nói với bệ hạ hoàng đế, Lý Dục gần đây bị mắc bệnh nhẹ, sức khỏe không được tốt lắm, lại thêm khí hậu phương Bắc lạnh lẽo, e rằng không chịu được quãng đường xa xôi. Ý tốt của bệ hạ Lý Dục xin khắc cốt ghi tâm, về sau nếu còn cơ hội thì hạ thần sẽ đích thân đến. Tết Nguyên Tiêu này mong bệ hạ cho phép Lý Tòng Thiện thay mặt Lý Dục thi lễ”.
Mặt Lý Dục lúc này đã nửa xanh nửa trắng, nhìn giống như người đang lâm trọng bệnh. Dương Hạo mỉm cười, cuộn chiếu thư lại giao cho nội thị, cũng không thúc giục mà còn lấy trong túi áo ra một phong thư khác đọc: “Quốc vương, trong này còn có một lá thư khác, là do Trung thư thị lang của nước Tống chúng tôi, Lư Đa Tốn đại nhân đích thân viết, xin dâng Quốc vương xem”.
Lư Đa Tốn và Tiết Cư Chính, Lữ Từ Khánh đều là tể tướng trong triều. Triệu Khuông nghe theo lời của Triệu Phổ, đem chức tể tướng chia làm ba, hình thành nên ba cỗ xe ngựa nha môn tể tướng, có điều trong ba người thì rõ ràng Lư Đa Tốn được sủng ái nhất. Nghe đến tên hắn, Lý Dục cũng không dám khinh thường, sai người đón lấy lá thư, chưa chờ mở ra đã hỏi thăm dò: “Không biết tướng công định nói chuyện gì? Trái sứ có biết đôi chút chứ?”
Dương Hạo ung dung cười nói: “Cái này, ngoại thần có biết một, hai, nay nước Đường đã quy thuận Tống Quốc, Trung nguyên đã thống nhất, triều đình muốn vẽ lại bản đồ nước Tống. Lư tướng công được giao nhiệm vụ vẽ bản đồ các đường kinh hồ, đất đai từ đây nối đến Biện Lương. Lư Tướng công hy vọng rằng Quốc vương có thể cung cấp rõ ràng số dân Giang Nam, thuế phú, thành trì… càng nhanh đưa về Biện Lương càng tốt, để tránh trì hoãn công việc của đại Tống.
Lý Dục thở phào nhẹ nhõm, không nghĩ gì mà rằng: “Chuyện này đơn giản thôi, quả nhân nhất định sẽ đưa thông tin tỉ mỉ chính xác về địa lý Giang Nam cho trái sứ”.
Hắn thấy Dương Hạo vừa nói chuyện vừa như vẫn đang nắm giữ vật gì đó trong tay, bèn không khỏi hãi hùng, chỉ sợ hắn lại lôi ra một chiếu thư khác yêu cầu gì đó, vội hỏi: “Trái sứ đang cầm gì trong tay thế, có phải là một chiếu thư khác không?”
Dương Hạo ngây người, nhấc tay áo lên cười to nói: “Quốc vương hiểu lầm rồi, thần đang học theo cách tín Phật của Quốc vương, cũng bắt đầu có hứng thú với đạo Phật rồi. Trong ta áo thần chẳng qua là một chuỗi hạt thôi”.
Lý Dục nhìn kỹ, thấy vật trong tay Dương Hạo quả nhiên là một chuỗi tràng hạt, vừa nói hắn vừa lần tràng hạt không ngớt, Lý Dục mới thở phào nhẹ nhõm. Hắn tín Phật, chỉ hận nỗi giá mà mọi người trong thiên hạ đều tín Phật thì tốt. Vừa nhìn thấy Dương Hạo theo Phật, trong lòng Lý Dục đã thấy thích thú, cơ hồ như đã xích lại gần hắn thêm một chút. Thấy Dương Hạo vừa lầm rầm niệm châu, hắn cười tươi nói: “Chuỗi tràng hạt đó không phải là vật quý báu gì, e có phần mộc mạc quá. Ở đây quả nhân có chuỗi tràng hạt của Phật gia Thất Bảo Kim, Ngân, Lưu Ly, Sa Bà Trí Già, Mỹ Ngọc, Xích Châu, Hổ phách… tạo thành. Là bảo vật của Phật giới tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, có thể che chở cho con người. Ta tặng nó cho trái sứ”.
Nội thị dùng hai tay đỡ lấy, đưa đến trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo từ chối hai ba lần rồi mới nhận, ngắm nghía chuỗi tràng hạt được kết thành từ bảy món đồ cực quý. Quả nhiên là một báu vật, hắn vừa cuống quýt cảm ơn, mặt cũng hòa hoãn được đôi chút. Quay sang nhìn Lý Dục, cười hì hì mà rằng: “Quốc vương bị nhiễm bệnh nhẹ, sức khỏe không tốt, lại thêm khí hậu có lẽ không hợp, quả không phải hư ngôn. Thần sẽ giải thích rõ ràng với Quốc vương. Chỉ có điều, Lư tướng quân vừa mới được trọng dụng, hy vọng có thể sang sứ một chuyến, đây cũng là việc thường tình mà Giang Nam nên làm, nếu không ngộ nhỡ việc vẽ bản đồ có gì sai sót thì sẽ để thiên hạ cười cho, Lư tướng quân ắt sẽ tức giận, thần… cũng không dám nói hộ bệ hạ”.
“Điều đó là tự nhiên, là tự nhiên, Dương trái sứ yên tâm, quả nhân sẽ thu xếp xử lý việc này”.
Dương Hạo mỉm cười, chắp tay thi lễ đáp: “Vậy thần xin cáo lui”.
Dương Hạo vừa đi khỏi, Lý Dục ngay lập tức đập bàn đứng dậy, những đường gân xanh trên trán hằn lên. Bản đồ giống như địa giới của một nước, đại diện cho sự tôn nghiêm của lãnh thổ quốc gia, dâng bản đồ cũng giống như dâng nước, năm đó Kinh Kha đâm Tần vương có đem theo hai lễ vật, trong đó có một tấm bản đồ nước Yên, hàm ý nước Yên đã hoàn toàn bị quy phục.
Nước Tống đang muốn có bản đồ, điều đó mang hàm ý lăng nhục. Lý Dục kiến thức uyên thâm, làm sao lại không hiểu điều đó. Thế nhưng, hắn làm sao từ chối được? Nếu như nhà Tống trực tiếp đưa ra yêu cầu vẽ bản đồ thì hắn còn có thể làm qua loa tắc trách một chút. Nhưng việc ra chiếu thư yêu cầu hắn đi Tống hắn đã từ chối rồi thì làm sao lại tiếp tục từ chối việc vẽ bản đồ Giang Nam cho được, làm vậy chẳng khác gì chọc giận Triệu Khuông.
Nghĩ đến lần hội ý cùng Từ Phong, Trần Kiều, hắn hít một hơi dài rồi thầm nghĩ: “Không nhịn nổi việc nhỏ thì sao mưu được việc lớn, đến nay quân Khiết Đan vẫn chưa có hứa hẹn che chở gì, do vậy không thế vội trở mặt với nhà Tống. Cho nên hôm nay đành phải nhịn mối nhục này, đem bản đồ Giang Nam giao cho chúng vậy”.
Ngẩng đầu lên, hắn cao giọng nói: “Người đâu!”
Một tên cung nhan vội vã đi vào, Lý Dục dặn dò hắn: “Ngay lập tức gọi nội sử thị lang đến vẽ bản đồ địa lý 19 châu của Giang Nam, sông ngòi ao hồ, hộ khẩu thuế phú… tất cả cho thật chuẩn xác, duy có chỗ đóng quân và tình hình binh lực là không có ghi chú, phải nhanh chóng hoàn thành trước tết Nguyên Tiêu để mang đến Biện Lương. Đi đi!”
Chỉ một lát sau, nội sứ thị lang Vương Hiền Văn tóc bạc phơ vội vã đi vào: “Quốc vương, thần nghe nói người định vẽ bản đồ địa lý 19 châu Giang Nam dâng tặng cho vua Tống?”
Lý Dục tức giận nói: “Quả nhân cũng không phải là đã sai người nói rõ cho ngươi rồi sao? Còn đến hỏi quả nhân làm gì? Mau đi hoàn thành đi, đừng trì hoãn thời gian nữa”.
Nội sử thị lang Vương Hiền Văn chau đôi mày trắng muốt, trầm giọng nói: “Bản đồ địa lý đại diện cho lãnh thổ và dân chúng của một nước, nước Đường ta tuy xưng thần với nước Tống, nhưng chỉ là lệ thuộc vào Tống thôi chứ đâu có dễ để mất lãnh thổ và cư dân như thế? Tấm bản đồ này mà dâng tặng thì coi như ta đã dâng nước Đường cho đại Tống, xin Quốc vương hãy suy nghĩ lại”.
Lý Dục tức giận nói: “Quả nhân sớm đã nghĩ đến rồi, ngươi cứ nghe lệnh là được, đâu đến lượt ngươi lắm chuyện”.
Vương Hiền Văn hiên ngang lớn tiếng: “Quốc vương nguyện đầu hàng, nhưng Hiền Văn lại không thể hàng như thế, mệnh lệnh này của Quốc vương thần không dám tuân theo”.
Lý Dục vỗ bàn đứng dậy, định ngay lập tức hạ lệnh lôi hắn ra ngoài trị tội, nhưng nhìn mái đầu bạc phơ vẫn đang hiên ngang sẵn sàng đón nhận cái chết, không kìm được mà thở dài, vung tay nói: “Quả nhân thương hại ngươi tuổi già yếu không trừng trị, đi đi, ta cách chức quan của ngươi, từ nay trở đi về nhà dưỡng già”.
Vương Văn Hiền già nua không nghĩ rằng mình lại bị Lý Dục cách chức, hắn thoáng giật mình, chắp tay hành lễ rồi không nói gì mà lặng lẽ bỏ đi. Lý Dục tức khí nói với một người nội các trong cung: “Đi đi. Dặn người trong thị lang bộ vẽ bản đồ, làm ngay đi, chớ có trì hoãn”.
Người nội các đó vội vàng đi đến nội sử quán truyền thánh chỉ, chỉ trong chốc lát lại có một người khoảng 30 tuổi chạy tới, thi lễ rồi nói với Lý Dục: “Nội sứ Vương Hạo xin bái kiến Quốc vương”.
Lý Dục vẫn chưa nguôi cơn giận, trừng mắt nói: “Ngươi còn không mau đi vẽ bản đồ, lại đến đây bẩm tấu chuyện gì?”
Vương Hạo cất cao giọng nói: “Bản đồ địa hình mười chín châu của Giang Nam, địa lý Giang Nam và dân số đều là bí mật của nhà nước, tại sao lại dễ dàng dâng lên nhà Tống?”
Lý Dục cười khổ não nói: “Những điều ái khanh nói Trẫm không biết hay sao? Nhưng thế lực nhà Tống như thế, ta nào dám không nghe? Ta làm việc đó cũng là có nỗi khổ tâm, khanh có biết hay không?”
Vương Hạo nói: “Quốc vương xin hãy xem xét kĩ, thần chỉ e rằng nếu chúng ta càng nhân nhượng thì dã tâm của quân Tống sẽ càng kinh khủng. Trịnh vương Tòng Thiện đã dâng cho triều Tống, nay chúng lại bắt chúng ta giao ra bản đồ địa lý Giang Nam, Quốc vương mà vâng mệnh chúng ắt sẽ bức bách chúng ta, chẳng lẽ triều đình chúng ta chịu nhân nhượng hay sao? Hôm nay có thể chúng chỉ đòi bản đồ, chúng ta đồng ý dâng cho chúng, nhưng ngày mai liệu chúng đòi cả xã tắc Giang Nam này thì cúng ta cũng phải tặng cho chúng hay sao?”
Lý Dục khẽ nhướng mày, bực mình đáp: “Khanh nói như vậy là quá lời rồi. Quả nhân chỉ muốn tỏ lòng kính trọng với nhà Tống, xưng thần cống nạp, chưa từng trì hoãn, nước Tống tuy mạnh nhưng làm sao có thể vô cớ xuất binh? Ta đã xưng thần với Tống, cống nạp cho chúng bản đồ địa lý nước ta, như vậy mới nắm được điểm yếu của nhà Tống. Ngươi chỉ là con mọt sách, biết làm sao được chuyện đại sự, ngươi mau mau đi vẽ bản đồ đi, đó cũng là trách nhiệm của người đó, đừng nhiều lời nữa”.
Vương Hạo nhẫn nại nói: “Dã tâm của nước Tống ai ai cũng biết, Quốc vương còn đang tự lừa dối mình hay sao? Gia phụ đã nguyện bị bãi quan giáng chức, chứ không thể dùng hai tay dâng giang sơn xã tắc Giang Nam cho chúng được, thần Vương Hạo đây cũng không thể phụng theo ý chỉ này”.
“Gia phụ đó là ai?”
“Gia phụ đó là nội sử thị lang vương công Hiền Văn”.
Lý Dục tức khí mà cười: “Tốt, tốt, cha con các ngươi đều là trung thần, chỉ có quả nhân là bậc hôn quân phải không? Được rồi, được rồi, các ngươi không muốn làm quan trong triều nữa thì hãy đi về đi, không có cha con các ngươi thì triều đình này không có ai vẽ nổi bản đồ chắc? Cút, cút hết cho ta!”
Lý Dục càng nói càng tức khí, cuối cùng không nén nổi, thuận tay ném một quyển đồ thư đi, mắt nhìn theo bóng Vương Hạo đang đi khuất, Lý Dục kinh ngạc hồi lâu rồi mới chán nản quay về ghế.
******************************************
Trên xe, hai sứ giả nước Tống đang ngồi cạnh nhau. Tiêu Hải Đào vừa vuốt râu vừa nói: “Đại nhân, ngài muốn Lư tướng công đến Giang Nam là có dụng ý gì? Đợi nước Tống chiếm được Giang Nam thì địa lý, sông ngòi, thuế má, dân cư của Giang Nam thì vật đó mới hữu dụng. Còn nay cái chúng ta muốn chính là tin tình báo về mặt sông nước, nơi trú binh…”
Dương Hạo cười nói: “Nói thì dễ, chứ những thứ đó chúng ta đã có trong tay đâu? Tình hình nước sông Trường Giang phải mất hai đến ba năm đo đạc thăm dò cẩn thận, e rằng chúng ta không thể nắm chính xác được sự thay đổi thủy lưu theo mùa nông cạn trong một năm được. Nước ta muốn đánh nước Đường thì trên Trường Giang chỉ có một đường tiến công, đó cũng là khi không còn cách nào khác. Chúng ta hiện chỉ có thể nắm giữ được chút ít tư liệu về việc đóng trú quân.
Ta muốn có bản đồ Giang Nam, Lý Dục lại dễ dàng đồng ý trao cho chúng ta như vậy. Cũng tốt, khi đọc bức chiếu thư này của nhà vua, bản quan đã sớm dự liệu hắn sẽ từ chối, sau đó tái trình lên Lư tướng công, Lý Dục chẳng thể nào từ chối nổi. Tất nhiên, Lý Dục không thể nào nói cho chúng ta chi tiết nơi trú quân, binh lực… nhưng các thành trì lớn nhỏ cư dân nhiều ít thế nào, số lượng lương thực ra sao, địa hình địa lý như thế nào thì đã ghi rõ ràng trong bản đồ, chúng ta có thể tìm ra nơi trú quân của bọn chúng và phái người đi thăm dò”.
Tiêu Hải Đào đang chuẩn bị nói thì Dương Hạo lại cắt lời hắn: “Ta biết, chúng ta rất khó để thăm dò, nhưng căn bản phái người đi là để thăm dò nơi đóng quân. Nhưng nếu một khi chúng đã có thể dễ dàng tiến công vào thì nhất định không phải là nơi trọng yếu, còn nếu nơi nào chúng canh phòng cẩn mật không cho ai lọt vào thì đó có thể là nơi đóng quân của nhà Đường”.
Tiêu Hải Đào vừa gật gật đầu rồi lại lắc đầu: “Thế nhưng, ngay cả khỉ biết nơi nào là nơi trú quân thì chúng ta cũng không thể xác định được binh lực của chúng như thế nào. Nếu nói như vậy thì một nơi trú quân nhỏ vài trăm người cũng có khả năng bị chúng ta hiểu nhầm thành một nơi đóng quân to hàng vạn người, không những không giúp ích gì được cho Quốc vương mà sợ rằng còn đem lại cho Quốc vương cảm giác chẳng biết thế nào mà lần”.
Dương Hạo nói: “Nếu không, lúc đó tấm bản đồ sẽ được phát huy tác dụng thứ ba của nó. Sau khi tìm ra những nơi có trú quân, chúng ta có thể dựa vào đặc điểm ao ngòi sông hồ vùng đó cũng như dân cư ít nhiều thế nào, lương thực số lượng ra sao để phán đoán. Dân số và lương thực có liên quan đến nhau, nước Đường và nước Tống ta không giống nhau, chúng ta đóng quân không giống chúng. Lương thảo cần thiết cho nơi đóng quân là do địa phương trực tiếp trích cấp. Chúng ta chỉ cần so sánh số dân và số lượng thuế thực tế ở thành Kim Lăng là sẽ có thể đoán ra binh lực của nơi trú quân là bao nhiêu.”
Nói đến đây, hắn mỉm cười quay sang hỏi Tiêu Hải Đào: “Ngươi rõ rồi chứ?”
Tiêu Hải Đào nghe đến đây hai mắt đăm đăm, hồi lâu mới dùng ánh mắt kỳ lạ nhìn vào Dương Hạo khen: “Thảo nào đại nhân vẫn còn trẻ mà có thể leo lên được vị trí cao như vậy, đại nhân quả là đã khiến hạ quan tâm phục khẩu phục rồi”.
Dương Hạo cười nói: “Lý Dục có thi từ ca phú phải nói là nhất tuyệt, nhưng những vấn đề thế này hắn lại không thông. Những con mọt sách của nội sử quán cũng không chú ý đến mức độ tôn nghiêm và danh dự mà tấm bản đồ này mang lại, có bảo vật trong tay mà chúng không biết. Có thế thì kế hoạch này của ta mới dùng được, chứ nếu đổi một cơ mưu khác thì e rằng chúng sẽ đoán ra ta định làm gì”.
Tiêu Hải Đào vừa nghe vừa lo lắng nói: “Vậy… việc này không bị bọn chúng thần của nước Đường biết được chứ? Trong đó ắt cũng phải có vài tên thông minh…”
Dương Hạoười nhạt nói: “Lẽ nào Lý Dục thích công khai chuyện này sao?”
Dương Hạo vừa nói vừa lần tràng hạt trên tay nghe lách tách, Tiêu Hải Đào ngạc nhiên hỏi: “ Đại nhân giấu gì trong tay áo vậy? Có tiếng vang vang kỳ lạ”.
Dương Hạo cười nói: “Đây là chuỗi tràng hạt quý báu đấy, ngươi xem, đích thân vua Giang Nam tặng cho ta, đích thực là một món quà giá trị”. Hắn vừa hào hứng nói vừa đưa cho Tiêu Hải Đào xem: “Ta có chuỗi tràng hạt này rồi thì chuỗi hạt bằng gỗ kia không dùng đến nữa, tặng lại cho ngươi. Dù nói rằng chuỗi tràng hạt này không sánh được với chuỗi của ta, nhưng nó cũng là do đích thân đại sư Bảo Kính trong Kê Minh Tự khai quang, ắt cũng có công dụng xua đuổi tà ma “.
Tiêu Hải Đào cười khổ nhận lấy nói: “Đại nhân bắt đầu tín Phật từ bao giờ thế?”
Không thấy Dương Hạo trả lời, Tiêu Hải Đào cảm thấy hơi kỳ lạ, ngẩng đầu lên xem thì thấy Dương Hạo đang nhìn ra xa thẫn thờ, Tiêu Hải Đào thuận mắt trông theo thì thấy một cô nương đang đi trên đường, mặc một bộ quần áo màu huyền, eo nhỏ nhắn, da trắng như tuyết, đẹp mê hồn.
Dương Hạo vội vã cất chuỗi hạt trong tay đi, kích động nói: “Tiêu Hải Đào ngươi cứ quay về dịch quán trước đi, bản quan gặp người quen, lát nữa sẽ tự về sau”.
Tiêu Hải Đào vội vã khuyên: “Đại nhân, người Khiết Đan có mối thù sâu sắc với chúng ta, để đại nhân tự về e rằng…”
Dương Hạo không thèm để ý mà nói: “Bản quan là tống sứ nhà Tống, người Khiết Đan có thâm thù gì thì cũng không thể hành động giữa ban ngày ban mặt. Mấy ngày nay không phải bọn chúng rất yên ổn đó sao, không cần lo lắng, ta tự lo được”. Nói rồi hắn không chờ xe dừng, vội phi như bay xuống dưới đất.
Tiêu Hải Đào lẩm bẩm: “Người Giang Nam tín Phật cũng háo sắc như vậy sao?”
Cúi đầu nhìn xuống chuỗi vòng đang cầm trên tay, Tiêu Hải Đào vội vàng lẩm nhẩm tạ tội: “Tiêu mỗ nói bừa, biết tội, biết tội, nam mô a di đà phật…”
************************************************
Chiết Tử Du đang đi bộ, đột nhiên thấy ven đường có một người nhảy xuống liền vội vàng lui lại hai bước, thủ thế. Nhìn rõ ra là Dương Hạo, nàng ta mới tức giận trừng mắt lên, quay đầu đi về.
Dương Hạo không thèm để ý, cười ha ha và đuổi theo nàng, nói: “Mạc cô nương ăn mặc phong phanh quá. Mặc dù mùa đông ở Giang Nam không lạnh, thời tiết cũng ẩm ướt, nhưng Mạc cô nương vẫn phải chú ý bảo vệ ngọc thể nhé”.
“Hôm nay ngươi rảnh như thế sao?”
“Thật đúng câu ta đang muốn hỏi Mạc cô nương đó”.
Chiết Tử Du bĩu môi nói: “Những ngày này không thấy bọn Khiết Đan có động tĩnh gì, ngươi lại bắt đầu khinh thường rồi phải không?”
“Ha ha, hóa ra cô nương đang lo lắng cho sự an nguy của ta. Vậy là Dương mỗ có thể lọt vào mắt xanh của tiểu mỹ nhân được, thật sợ quá”.
Chiết Tử Du trợn mắt nói: “Xem ra hôm nay ngươi hứng chí ghê nhỉ, lại ăn nói luyên thuyên”.
“Chỉ cần vừa nhìn thấy cô nương trái tim đã sai nhịp rồi, nàng nói xem có kỳ lạ không?”
“Đừng nói luyên thuyên với ta nữa đi!” Chiết Tử Du không chịu được nữa, chóng mặt quát gay gắt: “Nếu như mới đầu lúc quen ngươi ngươi dám nói với ta những lời như thế thì ta đã đánh gãy chân ngươi rồi, cho ngươi bò về Phách Châu. Hôm nay sao ngươi lại ở Kim Lăng?”
“Ngày đó nếu như ta nói ngon nói ngọt mà cô nương muốn chặt đứt chân thì hôm nay những lời ngọt ngào này lại làm nàng xấu hổ… như vậy là vì sao?”
Chiết Tử Du hoắc mắt dừng lại, bẻ cong giày rồi đá vào mặt Dương Hạo. Dương Hạo sớm đã có chuẩn bị nên tóm gọn được đôi chân vừa định giơ lên, không nén được cười ha hả.
Chiết Tử Du buồn cười nói: “Ngươi thật là vô lại, dường như ngươi chẳng để tâm gì đến việc đi sứ lần này cả. Sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn cùng vua Giang Nam mới đây qua lại hết sức thân mật, dường như ngươi cũng chẳng buồn quan tâm?”
Dương Hạo vò vò đầu, có chút hoang mang nói: “Nói thật, ta mang trọng trách là hồng lư tự khanh, cũng là do ngoài ý muốn. Có thể đi sứ sang nước Đường, có rất nhiều điều không thể thành hiện thực đã thành sự thực. Ta vẫn cứ không rõ tại sao nhưng gần đây ta mới tỉnh ngộ”.
Chiết Tử Du tức giận mà hỏi: “Thế ngươi tỉnh ngộ cái gì?”
Dương Hạo làm mặt nghiêm trang nói: “Vốn ông trời an bài, đều là để ta ở đây gặp gỡ nàng. Nàng nói xem đó có phải là duyên phận không?”
Chiết Tử Du thở dài nói: “Xem ra ta cần đi đến miếu để bái rồi, nếu không sẽ cứ bị đen đủi mãi. Từ khi ngươi đến nước Đường, lại đổi thân phận, ta không cách nào tránh khỏi oan gia này. Ngươi đúng là âm hồn không tan”.
Dương Hạo tủm tỉm cười: “Oán chuyện gì? Oan gia?”
Chiết Tử Du xấu hổ, quay người bỏ đi, ném chiếc giày lên cao: “Đi đi đi… mặc kệ tên mặt dày”.
Dương Hạo cười ha hả, đuổi theo thấp giọng nói: “Tử Du, chớ quên là chúng ta đã từng có giao kèo. Nếu như những lời ta nói là thật thì nàng phải lập tức quay về Phủ Châu, không được nhiễu sự nữa. Chỉ cần nàng thuận theo mọi việc thì chưa chắc đã không thể bảo toàn được phú quý nhà họ Chiết”.
Trong đôi mắt mơ hồ của Chiết Tử Du chợt lóe lên, bỗng nhiên khựng lại nói: “Nước Tống… đã muốn đánh nước Đường rồi sao?”
Dương Hạo chợt thấy giật mình, tự mình đã dặn mình phải cẩn thận, thế mà hơi một tí đã nhắc đến chuyện này, còn khiến nàng cảnh giác. Dương Hạo không biết làm gì, bèn nói: “Vẫn còn chưa có kế hoạch, không… phải tùy theo thiên cơ, nhưng chỉ trong vòng hai ba năm nữa thôi. Nếu như tất cả đúng như những gì ta nói, hy vọng nàng có thể giữ lời hứa, hành sự tại thiên để tránh gây nên nhiều sát nghiệt”.
Chiết Tử Du nghe hắn nói như vậy, trong lòng không khỏi hoang mang, quay lưng bỏ đi, thấy trước mặt là một sạp hàng bày bán đủ mọi loại trang sức, liền tiện tay đứng xem.
Dương Hạo nhìn theo bóng Tử Du, trong mắt hiện lên nét khó hiểu. Gần đây khi nhìn thấy Tử Du, hắn thường ăn nói lung tung, vừa quấn quýt si mê nàng, muốn phá mưu đồ bí mật của nàng ở Giang Nam, nhưng mặt khác lại không nỡ xa rời nàng, không muốn nàng bỏ đi, sợ rằng đời này kiếp này không còn cơ hội tương ngộ nữa. Hắn không cách nào xác định, chỉ biết rằng ngày đó càng ngày càng gần.
Nếu như nàng biết được rằng ta chính là ‘sứ giả thần chết’ mang đền nhiều đau thương bấy lâu?”
Dương Hạo nhìn theo bóng nàng, trong lòng dấy lên một cảm giác thương cảm khó hiểu.
Chiết Tử Du đến bên sạp bán đồ trang sức, nhưng vẫn cảm giác có ánh mắt vẫn đang dõi theo đằng sau. Nàng cảm thấy không tự nhiên nên đứng dậy, quay mặt liếc nhìn một cái, đụng ngay cái nhìn của Dương Hạo, nên vội vàng quay đầu lại “Chàng… quả nhiên đang nhìn ta, tại sao cứ phiền như thế, có thể lẽ nào…? Cứ cho là ta không thèm để ý đến chuyện chàng đã có vợ, thì sao đây? Với thân phận hiện giờ của cả hai thì chúng ta không thể bên nhau được”.
Chiết Tử Du lặng lẽ nắm chặt đôi khuyên bằng đá trong tay, cảm giác buồn bã trong lòng.
Người chủ sạp hàng nhìn thấy chuẩn bị bán được hàng liền khấp khởi, luôn miệng quảng cáo: “Cô nương quả đúng là có mắt nhìn, đôi khuyên tai này là được làm từ kim cương đen, cô xem, trông nó giống như là đôi mắt vậy, gọi là ‘luật nhãn ban phúc’, có thể tránh được tà ma, làm tiêu bệnh, khí độc, điều không may… Cô nương xinh đẹp như thế, da lại trắng như tuyết, nếu như cô đeo đôi khuyên này thì nhất định sẽ càng thêm xinh đẹp”.
“Đôi bông tai này bao nhiêu tiền, ta mua nó!” Dương Hạo bước tới nói.
Người chủ hàng có chút đạo đức nghề nghiệp, đôi khuyên vẫn đang nằm trên tay Tử Du, hắn không dám ngay lập tức lấy lại bán cho Dương Hạo, liền quay sang ngó Tử Du. Dương Hạo mỉm cười nói: “Đôi khuyên này là ta mua tặng cho cô nương đây, bao nhiêu tiền?”
“Ai cần ngươi tặng?” Chiết Tử Du nhìn sang Dương Hạo, bỏ lại đôi khuyên bỏ đi. Dương Hạo cười cười, hỏi giá cả rồi mua đôi khuyên đó, đuổi theo Chiết Tử Du.
Chạy đến bên bờ sông thì Dương Hạo đuổi kịp Tử Du, cười nhẹ nhàng: “Chỉ là chút quà nhỏ thôi, cô nương sao không nhận lấy?”
Chiết Tử Du khẽ hừ một tiếng: “Không thích”.
“Nếu như không thích thì cũng không vấn đề gì, Tết Nguyên tiêu sắp đến rồi, rồi đến Phóng Thâu Nhật, mọi người đều trộm đồ của nhau, nàng cứ giữ nó đi rồi để người ta trộm mất cũng được”.
“Cảm ơn. Đến lúc đó tự ta sẽ chuẩn bị đồ cho người khác trộm, không cần món quà này của ngươi, xin nhận ý tốt.”
“Haha, sợ rằng sau này sẽ không có cơ hội nữa đâu, đây có lẽ là lần cuối cùng ta tặng quà cho nàng, nàng nhận đi, được không?”
Chiết Tử Du nghe nói đến ba chữ “lần cuối cùng” liền không kìm được thắc mắc. Lần trước khi chàng muốn hôn ta, chàng cũng nói “lần cuối cùng”, hôm nay tặng quà cũng nói như vậy. Được rồi, ta vốn cũng không nghĩ sẽ dây dưa gì với chàng nữa, thì giờ việc chi cứ phải suy nghĩ mông lung?
Dương Hạo đem đôi khuyên đặt vào tay Tử Du, tay nàng hơi run lên, rồi vứt nó ra xa. Nụ cười trên mặt Dương Hạo chợt cứng lại, hai người cứ thế nhìn nhau hồi lâu, sau đó, Chiết Tử Du không nói gì bèn quay người bỏ đi, mặt hướng ra phía bờ sông mà rằng: “Đại nhân bận rộn, không cần thiết phải tiễn ta nữa. Hôm nay ta cũng có chút chuyện bực mình, ra ngoài đi dạo một chút, không có chuyện gì đâu. Tên đại nghịch bất đạo trong mắt đại nhân đến rồi kìa!”
Dương Hạo cười khổ não, đang muốn nói gì thì bên cạnh nghe thấy tiếng niệm “A di đà phật! Này vị thí chủ…”
“A..a.. ”Bích Túc đang muốn làm bộ không quen biết Dương Hạo, đột nhiên nhìn thấy Chiết Tử Du, không nén nổi mà há mồm cứng lưỡi, cứ chỉ chỉ vào nàng mà không nói được lời nào.
Chiết Tử Du quay đầu nhìn hắn, mặt cũng nén nổi sự kinh ngạc, Dương Hạo liền níu lấy Bích Túc hỏi: “Ngươi đến đây làm gì?”
Bích Túc lấy lại bình tĩnh, vội vàng hạ giọng nói: “Đại nhân, hai vị phu nhân đã tới rồi, hiện đang ngồi ven hồ Huyền Vũ, hiện đang ở nhà trọ Thê Hà…” Nói rồi, hắn còn cảnh giác ngó Tử Du.
“Bọn họ đã đến rồi?” Dương Hạo vừa mừng vừa sợ: “Tốt lắm, chúng ta mất dấu nhau, e rằng Lễ Tân viện đang loạn cả lên rồi, ta sẽ ngay lập tức sắp xếp về dịch quán, sau đó đến bên hồ Huyền Vũ gặp họ”.
“Mạc cô nương, Dương mỗ cáo từ.”
Chiết Tử Du cũng không thèm quay đầu lại, thản nhiên nói: “Xin đại nhân cứ tự nhiên”.
Dương Hạo thở dài, quay người lại đi mất, nhưng đột nhiên như nhớ ra chuyện gì, bèn quay đầu lại ngó Bích Túc đang mặc áo cà sa, dở khóc dở cười nói: “Ngươi thật muốn đến Kê Minh Tự làm Phương trượng ư?”
Bích Túc xoa xoa cái đầu bóng lưỡng, cười hì hì nói: “Chỉ là vì tiểu sư thái Thủy Nguyệt thôi”.
Dương Hạo gật gật đầu, thở dài nói: “Hiếm khi ngươi rung động thật sự, hãy trân trọng đi, nếu như để lỡ mất thì sau này ngươi có hối cũng không kịp đâu”.
Chiết Tử Du nghe thấy, đột nhiên cắn chặt môi dưới.
Dương Hạo lại thở dài, thi lễ với nàng rồi quay lưng bước đi, Bích Túc nhìn Chiết Tử Du, ngượng ngùng nói: “Chiết… Chiết cô nương sao lại ở đây? Chẳng lẽ cô nương với đại nhân của ta…”
Chiết Tử Du quắc mắt xoay người lại, nói: “Bản cô nương đang không vui, ngươi cút ngay đi cho ta càng xa càng tốt, ta đếm tới ba, nếu như ngươi không cút…” Nàng ta nắm chặt cây kiếm bên hông, đếm lớn: “Một…”
Chẳng cần để nói đến hai lời liền bỏ chạy. Chiết Tử Du không khỏi phì cười, nhìn theo bóng Dương Hạo đi khuất dần. Nụ cười dần tắt, trên mặt chỉ còn phảng phất nỗi mơ hồ, dường như nhớ ra điều gì, nàng quay người đi vội vàng, chạy đến bên vạt cỏ gần đó tìm kiếm khắp nơi, nhưng có một người đã nhanh chân hơn nhặt chiếc hộp lên, mở ra rồi reo mừng: “Haha, hôm nay số hên quá, lại nhặt được báu vật”.
“Chậm đã!” Chiết Tử Du vội nói, đoạt lại chiếc hộp rồi nói: “Chiếc hộp này là của ta”.
Người thuyền phu đó mở to mắt ra nhìn Tử Du, nói: “Nhìn vị cô nương ăn vận xinh đẹp, thế mà lại đi cướp đồ của ta ư?”
“Ngươi!” Chiết Tử Du chau mày, nắm chặt lấy chuôi kiếm, vị thuyền phu kia lui lại hai bước, hét lớn: “Ái chà, còn muốn gây sự nữa đúng không? Anh em đâu mau lại đây, có người muốn cướp đồ của ta này”.
Trên bờ đê, bảy tám người cao to lực lượng lập tức xuất hiện, nói lớn: “Ai dám to gan, giữa ban ngày ban mặt mà dám giở trò?”
Chiết Tử Du hung hăng trừng mắt nhìn vị thuyền phu kia một hồi lâu, hít một hơi thật sâu nói: “Ngươi trả giá đi, ta sẽ mua nó. Nếu như vậy còn không được thì bản cô nương sẽ phải giở trò cường đạo rồi, đừng hòng làm khó dễ ta!”
***************************************
Dương Hạo vội vã quay trở về dịch quán tìm Tiêu Hải Đào, Tiêu Hải Đào vừa nhìn thấy hắn liền cười nói: “Đại nhân về nhanh thật đấy, cứ tưởng giữa đường gặp vị cô nương đó thì … hahaha”
Dương Hạo tươi cười nói: “Tiêu tự thừa, Dương mỗ quay về vốn là để dặn ngươi một tiếng, đêm nay ta ra ngoài, nếu như không quay trở về dịch quán thì ngươi không cần phải lo, sáng sớm mai ta sẽ quay về”.
“Hả?” Tiêu Hải Đào ngẩn người, lắp bắp nói: “Đại nhân… đại nhân có bản lãnh vậy sao? Chỉ mới có hai ba câu mà đã có thể…?”
Dương Hạo ngẩn ngơ một lúc rồi lập tức cười ha hả mà rằng: “Không sai, không sai, bản quan đêm nay cần phải đi hóng gió một chút, haha, do vậy không cần lo lắng cho bản quan. Ta phải đi rồi, cô nương nhà người ta còn đang đợi ta”.
“Khoan đã, khoan đã!” Tiêu thừa tự níu người hắn lại, nghi ngờ nói: “Đại nhân, vị cô nương đó làm sao mới chỉ có hai ba câu… đã có thể cam tâm trao thân gửi phận? E rằng có vấn đề”.
“Hừ, điểm này bản quan chẳng lẽ còn không nghĩ tới ư? Ta tất nhiên là phải làm rõ ngọn nguồn rồi mới có dũng khí chứ, được rồi, không để mỹ nhân đợi lâu nữa, bản quan đi đây.”
“Đại nhân, ngài…” Tiêu Hải Đào muốn cản cũng không cản kịp nữa, Dương Hạo dường như đã hóa thành bươm bướm bay đi mất.
Tiêu Hải Đào đứng dưới trời chiều, ngẩn ngơ hồi lâu rồi mới lẩm bẩm: “Dương tả sứ quả nhiên là không ai bằng, một cô nương diễm lệ như thế... làm sao đại nhân có thể may mắn thế nhỉ?”
Hắn quay đầu nhìn chuỗi tràng hạt đang đặt trên bàn, vội cầm lấy đeo vào cổ tay như sợ có ai cướp mất báu vật.
Chương 360: Phóng Thâu Nhật
Bên bờ hồ Huyền Vũ, trên chiếc cầu cong cong như lưỡi liềm, tòa lầu Tiêu Tiêu đứng cô độc, cảnh mùa đông ở Giang Nam vẫn ngời ngời sức sống, chỉ đến đêm mới cảm thấy đôi chút cái hiu quạnh. Lúc này trăng nhô cao, khắp hồ nước nổi lên những đợt sóng nhấp nhô có màu như ngọc, tràn đầy ý thơ.
Trên lầu, ánh đèn sáng mờ ảo.
Trên một chiếc giường vừa rộng vừa to, vừa sạch sẽ lại mềm mại, màn che phấp phới, chỉ nhìn thấy ánh sáng từ cây nến sáng chập chờn tỏa ra mang ý vị thật phong tình. Ba người cùng nằm trên giường, Dương Hạo nằm giữa, Oa Oa và Diễm Diễm nằm hai bên, như hai chú chim nhỏ nép vào người hắn.
“Bọn thiếp chọn ở nơi gần núi Thiếu Hoa, nơi đó thanh sơn thủy tú, nhất định chàng sẽ thích. Bọn thiếp sẽ dựng một tòa nhà lớn ở đó, chỉ cần đợi chúng ta đến đó là sẽ xây nhà mới cho chúng ta”.
Oa Oa vừa nói vừa bám vào cánh tay Dương Hạo, ngọt ngào: “Quan nhân, chúng ta khi nào sẽ rời khỏi đây về nhà hưởng cuộc sống vui vẻ đây?”
“Ta cứ chờ các nàng đến cũng là để tạo cơ hội, việc này còn phải chờ vào ý trời mới có thể thành được.
Dương Hạo trầm ngâm nói : “ Bây giờ đã có kẻ thù muốn giết ta, hắn chính là sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn. Sau này, ta sẽ thường xuyên đi du ngoạn sơn thủy cùng với các nàng, cho đến khi tin tức “ bất kinh ý gian” bị lộ ra ngoài, khiến cho bọn chúng biết được rằng phu nhân của ta đã đến Kim Lăng rồi.
Sau đó, chúng ta tìm một thời cơ thích hợp, khi chúng không đề phòng, sẽ cho 8 gã giả mạo người Khiết Đan đến hành thích chúng ta, thi thể để cho bọn Mục Vũ làm, lấy mấy cái thi thể của bọn tử tù, hoặc làm mấy cái thi thể đã thối rữa cũng được, cuối cùng là một mồi lửa là không hể sơ hở rồi.
Tám gã hộ vệ kia nên tìm bọn du mục trên thảo nguyên giống người Khiết Đan, bọn chúng vừa hiểu tiếng người Khương, vừa hiểu ngôn ngữ Nôn Phiên, cũng hiểu được tiếng người Khiết Đan, để bọn họ giả mạo làm người Khiết Đan “giết người phóng hỏa”, khiến cho bọn chúng mang tội, lại thêm mối thù sẵn có giữa Gia Luật Văn với chúng ta, thế là chết chắc. Thời gian đó cũng chính là Tết Nguyên tiêu, rồi vài ngày Phóng thâu nhật trên đường sẽ toàn người là người, rất nhộn nhịp, người đông hỗn tạp, đúng là thời cơ phóng hỏa giết người thích hợp.”
“Việc này để quan nhân quyết định là được rồi, cái gì mà xác chết, cái gì mà phóng hỏa giết người, ở chỗ nhà trọ hẻo lánh này quan nhân nói như thế khiến người ta nghe phát hoảng, chẳng dám đi ngủ một mình” Oa Oa vừa nói vừa dụi dụi đầu vào ngực Dương Hạo.
Đường Diễm Diễm cũng hưởng ứng: “Đúng rồi đó, quan nhân không cần nói rõ ràng như thế chứ, bọn thần thiếp vừa mới gặp ngài, nói những cái đó nghe mất hết cả tình”.
Đúng lúc đó, ngọn nến bị gió thổi vào khẽ lay động, đột nhiên động đậy một chút, khiến hai nàng sợ hãi kêu thất thanh, dụi đầu vào ngực Dương Hạo, Dương Hạo cười nói: “Có lý, vậy ta sẽ không nói chuyện chết chóc gì nữa, chỉ nói chuyện sinh thôi. Hai nương tử của ta, chúng ta vui vẻ với nhau cũng không phải một lần, tướng công của các nàng cũng mất đi không ít sinh lực, vậy mà bụng các nàng vẫn cứ phẳng lì như vậy nhỉ? Hay là chúng ta cùng cố gắng hơn nhé?”
Tay hắn xoa xoa hai cái bụng phẳng mà mềm mại của hai nương tử, hai mỹ nhân cùng đồng thanh “xì” một tiếng, rồi lắc mình né tránh, nhưng Dương Hạo động tác quá nhanh, đã giữ chặt được cái eo nhỏ nhắn của bọn họ, giữ chặt bọn họ dưới người mình rồi cúi người hôn lên môi Diễm Diễm.
Diễm Diễm mặt ửng đỏ, nói nhỏ: “Không được… không được ở đây, đi… đi vào phòng của thiếp…”
Đôi môi của Dương Hạo đã đặt lên cặp môi đỏ như quả anh đào chín của nàng, Diễm Diễm thả lỏng thân, đón nhận cái đi vào mềm mại nhẹ nhàng của hắn, cửa mình xinh đẹp mềm mại và ướt át như một cánh hoa mềm mại khép chặt, mặc hắn muốn làm gì thì làm.
“A…a…” Diễm Diễm nhẹ nhàng rên rỉ, đôi môi được Dương Hạo hôn tới tấp, đôi bàn tay hắn thì đang sờ nắn bộ ngực sữa mềm mại cho đến khi nó dựng đứng lên, vòng eo nhỏ nhắn của nàng không tự chủ được mà cứ nhấc lên cao mãi, để bộ ngực trần dâng cho người đàn ông của nàng. Bàn tay to của Dương Hạo nắm chặt lấy eo Oa Oa không biết đã rời ra khi nào để chuyển đến sau mông Diễm Diễm, dù Oa Oa xấu hổ vô cùng nhưng cũng chẳng có chỗ nào mà đào tẩu, chiếc giường này là giường của nàng, nàng thoát đi đâu cho được?
Nhìn Dương Hạo sau một hồi vuốt ve rồi “chà đạp” giờ trở nên xụi lơ như bùn, nằm thở phì phò, mặt đầy hứng khởi, bên cạnh Diễm Diễm sau một hồi hết mình, mắt Oa Oa bỗng ươn ướt tưởng như có thể khóc ngay được, nàng bỗng “Ưm” một tiếng rồi ôm lấy tấm lưng rộng mà rắn chắc của Dương Hạo từ phía sau, cọ cọ hai đầu vú đang dương cao vào người chàng.
Không biết ai buông tấm màn đỏ phất phơ, không biết ai cởi mà quần áo họ rất nhanh đã bị kéo tuột xuống, để lộ tấm thân đẹp đẽ của hai người. Không thể chịu nổi nữa, Dương Hạo nắm lấy đôi ngực trắng mà mẩy như bạch ngọc, hai chân nàng như hai cây mây cuốn lấy cây đại thụ vạm vỡ ở giữa, phát ra những tiếng thở hổn hển của hai người.
Trên án thư ánh nến đã tắt, Đường Diễm Diễm như hoa nở rồi tàn, tàn rồi lại nở, cũng không biết đã nếm trải qua bao cuộc vui, lúc này đây đến tay cũng không buồn cử động, cả người đầy mồ hôi nằm nghiêng trên giường, mắt khép hờ nhìn hai người kia mây mưa, ánh đèn đỏ chiếu đỏ cả tấm rèm, chiếu ngay chỗ Oa Oa đang vươn cao đôi vú tròn, nàng ta đang nằm trên người Dương Hạo, người như từng đợt sóng cứ phập phồng phập phồng, nhộn nhạo không bờ bến.
Chỉ nghe thấy tiếng hai người rên rỉ, cảm nhận được cái phất phơ của tấm rèm, Diễm Diễm cảm thấy mình như đang nằm trên một con thuyền, trôi dạt theo con sóng tình về nơi phương xa…
“Phóng Thâu nhật? Ngày đó đến rất nhanh thôi, qua ngày đó sẽ không cần phải lén lén lút lút nữa, đến ngày đó trong thiên hạ cũng đều đi ăn trộm, ta…ta và quan nhân cũng đi trộm một phen, trộm cái tiêu diêu tự tại, trộm cái thân tự do, từ nay về sau sẽ không còn ai tranh đấu với chúng ta trong thiên hạ nữa”.
***********************************************
Phóng thâu nhật, Khiết Đan, Thượng Kinh
Trên đường phố, muôn hình vạn trạng đèn đóm được treo hai bên đường, khiến cả con phố dài sáng bừng lên như ban ngày. Bên đường còn có tượng điêu khắc các loại động vật, các loài hoa với kích cỡ lớn, bên trong là đèn đủ màu sắc, nhưng vẫn chưa được thắp.
Trong cung không khí vui vẻ nhộn nhịp, rất nhiều quan nhân, nội thị đang bận rộn, La Đông Nhi vội vàng đi đến cung hoàng hậu, đột nhiên có một bóng người từ sau tự điện trụ gọi với theo: “La thượng quan”.
“A, hóa ra là Nhã công chúa!” Đông Nhi vội dừng bước, thi lễ rồi mỉm cười: “Đông Nhi bái kiến công chúa, công chúa có gì dặn dò chăng? Giờ Đông Nhi đang đi đến chỗ nương nương”.
“Không có, không có. La thượng quan là người tâm phúc bên cạnh nương nương, ta nào dám dặn dò gì”.
Gia Luật Nhã cười hi hi khoát tay, nàng xem xét qua rồi đột nhiên có chút xấu hổ mà bám ống tay áo: “Ta… ta chỉ là có chút chuyện nhỏ muốn nhờ La thượng quan giúp đỡ, không biết La thượng quan có đồng ý không?”
Đông Nhi thấy công chúa vốn hoạt bát nhanh nhẹn giờ lại có vẻ ra dáng tiểu nhi nữ, bèn không nhịn được cười nói: “Điện hạ có chuyện gì, chỉ cần Đông Nhi giúp được Đông Nhi sẽ cố gắng hết mình”.
Gia Luật Nhã cười nói: “Hay quá, hay quá, ta biết La tướng quân là tốt nhất mà, hihi, ta muốn đi Ngũ Phong lầu ngắm đèn, nhưng những người ở phủ ta toàn lũ ngu dốt, nhìn là đã thấy ghét, một mình trong cung chẳng có ai nói chuyện buồn chết. Tứ ca là người ăn nói có duyên, ta muốn chàng đưa ta đi ngắm đèn, La thượng quân có đồng ý không?”
“Cái này… Được rồi, Đông Nhi sẽ cho người đi gọi hắn…”
Gia Luật Nhã cười nói: “Vậy ta chờ chàng ở tượng Thạch Sư chỗ Ngũ Phong lâu”.
Đông Nhi mỉm cười đáp: “Được, ta sẽ cho bảo tứ ca đi đến tìm công chúa”.
Gia Luật Nhã mừng rỡ, cười nói: “Vậy trăm sự nhờ La thượng quân, ta đến Ngũ Phong lâu đây”, nói rồi nàng liền nhảy nhót bước đi.
Tết Nguyên tiêu, Phóng Thâu nhật.
Trộm tiền, trộm nhà, tại Khiết Đan và ở một vài bộ tộc thì quả còn có thể trộm người. Đương nhiên, người Khiết Đan có dễ dãi đến đâu cũng không thể để bị mọc sùng trong ngày tết Nguyên tiêu, nên cái trộm người này sớm đã mang ý nghĩa chỉ dành cho những đôi nam nữ chưa kết hôn. Còn những người vẫn thầm thích mà chưa có đối tượng cụ thể sẽ có thể kiếm được người yêu nhờ dịp này, tự đính ước với nhau hoặc trộm đồ vật nào đó của đối phương để làm tín vật.
Đông Nhi biết Nhã công chúa đã có tình cảm sâu đậm với tứ ca, nhưng tứ ca lại không hề có tình cảm. Vị công chúa điện hạ này chỉ có thể ở vào hàng cao quý, hai người bọn họ làm sao có thể có kết quả? Nhưng thấy nàng ta cầu khẩn tha thiết như vậy, làm sao nỡ lòng từ chối?
Đông Nhi khẽ thở dài, cất bước tiến vào tẩm cung…
Ngũ Phong lâu thắp đèn trên đỉnh, phía dưới là một con đường dài, trên đường người đi lại đông đúc, còn ở đây vắng vẻ lạnh lùng, do cấm dân chúng tiến vào, đoàn người chỉ có thể ngắm Ngũ Phong lâu từ một khoảng cách xa xa.
“Bản vương vừa mới hay tin, Hoàng thượng và nương nương đã chuẩn bị xuất phát đến Ngũ Phong lâu, tiếp đón các văn võ bá quan, sau khi làm lễ trong triều thì Hoàng thượng và nương nương sẽ xuống lầu, thắp đèn nơi điêu khắc băng đăng nhiều màu để cho dân chúng vui vẻ. Lúc này đây cũng là lúc đội quân phòng vệ canh phòng nghiêm ngặt nhất, không ai có thể tiếp cận…”
Lão vương gia Gia Luật đạp trên mặt tuyết dày mà đi trên đường, ngựa đạp trên mặt tuyết đọng phát ra những tiếng kẽo kẹt. Hắn mặc một bộ quần áo Khiết Đan truyền thống, đội mũ da cừu, hai bên sườn là những chuỗi hạt dài, bên hông đeo một thanh bảo đao, dù tuổi cũng đã đến năm mươi nhưng dáng người vẫn cao to, mặt to, lông mày rậm, râu đã ngả màu tiêu giống như nhiễm sương hoa.
“Theo sau đó, Hoàng hậu và nương nương sẽ quay trở lại lầu, hai bên tấu nhạc, tất cả những băng đăng đều được thắp đèn, sau đó các chư hầu hoàng tộc và quý tộc đều có thể vào phố, cầm đèn đi dạo, bắt đầu đêm trắng phóng thâu, cả thành vui chơi hết mình. Hoàng hậu và nương nương đều chơi trong thành đến nửa đêm, lúc này cũng là lúc lính canh lơ là cảnh giác, cũng là lúc tranh thủ được lúc hỗn loạn…”
Lão vương gia nói một cách hùng hồn, vài tên thị vệ tâm phúc đi bên cạnh cũng xích lại sát bên cạnh hắn.
“Đến lúc đó, bọn Hàn Đức Nhượng, Tiêu Thác Trí đều ở trên lầu cùng với Hoàng thượng và nương nương.
Bản vương sẽ dùng hết thủ đoạn, trà trộn vào đám người thắp đèn băng đăng, sau đó sắp xếp năm tên sát thủ lấy mạng hoàng thượng và đám người xung quanh hắn. Bọn chúng nắm trong tay cấm vệ quân, nếu như chúng không chết thì hoàng thượng chết, bọn chúng cũng khó mà khống chế được Thượng Kinh. Hừ, đều là lũ người của tên phế nhân Gia Luật Hiền, tự nhiên phong bà ta làm hoàng hậu, còn được gọi là nhị thánh, bà ta muốn làm Võ Tắc Thiên áp đảo gia tộc Gia Luật hay sao?”
Lão vương gia vừa đi vừa nói, tiếng bước chân vẫn vậy, giọng nói vẫn trầm như vậy, mỗi một bước hắn lại thở ra từng đám khói trắng như một con tuấn mã đang tức khí, hắn thở sâu mà nói: “Còn về hoàng thượng, bản vương sẽ để người của mình ra tay, trên lầu có thân tín của lão vương, chỉ cần chém một nhát là đi đời hắn, bản vương sẽ lập tức uy hiếp hoàng hậu.
Bất kể là sự việc thành hay bại, cũng đều có người có người đến lầu ứng cứu, chúng ta phải lập tức rời khỏi đây, điều binh vây thành, đợi chúng ta phát động chiến tranh ở Giang Nam sẽ khiến bọn Tống phải phát binh, đến lúc đó Tiêu Xước nếu như Tiêu Xước không muốn họ Tiêu và Gia Luật chúng ta bị tàn đời thì chỉ còn cách chấp nhận điều kiện của bản vương, phải cầu hòa với ta”.
Gia Luật Cách dẫn binh thị uy thần phục dân tộc Nữ Chân, đến lúc đó sẽ phải ngày đêm thần tốc để kịp về Thượng Kinh, có kịp chạy về được hay không thì cũng chưa ai biết, đấy là một biến số. Có điều, bản vương là thiện xạ, sẽ an bài cho hắn một cái ngã không phải lo lắng. Còn một biến số khác, đó chính là cung nỏ đã được gói giấy dầu chốn kín dưới đất từ n̉a tháng trước, dù cung nỏ được chế tạo hoàn mỹ nhưng cũng khó mà không bị ẩm ướt. Nếu như cung nỏ không có tác dụng thì không thẻ nhất cử giết được bọn đầu não, nhất định sẽ gặp phản kháng, các ngươi phải tùy cơ ứng biến, hết sức đề phòng.”
Phía trước mặt đã là Ngũ Phong lâu, lão vương gia đứng dưới đất ngó lên trên thành, nói lạnh lùng: “Bản vương có thể vào Ngũ Phong lâu, nhưng tám người các ngươi lại không có tư cách lên lầu ngắm đèn, chỉ có thể đứng dưới lầu để bảo vệ. Nếu như bản quan không thể giết chết tên hoàng thượng ngay tại chỗ thì thị vệ ắt sẽ đưa hắn hồi cung. Trong cung không có người của ta, nếu như hắn được đưa vào cung thì tình thế sẽ rất xấu, do đó nhiệm vụ của các ngươi là canh chừng ở cửa cung, chỉ cần hoàng thượng muốn vào cung các ngươi lập tức cản lại, lấy mạng hắn cho ta”.
Hắn hít một hơi thật dài rồi nói: “Thị vệ trên dưới thành bản quan sớm đã dự tính rõ ràng rồi, mọi hy vọng thành công đều đặt trên vai các ngươi, nhưng mưu sự tại nhân, rất nhiều biến số không thể phòng tránh được. Sự việc mà thành thì các ngươi cứ ngồi chờ phong hầu; còn thất bại, thì sẽ như ánh đèn trên lầu, chỉ có thể sáng trong tối hôm nay mà thôi, các ngươi rõ chưa?”
“Tuân lệnh!” Tám tên thị vệ đồng thanh hô, lão vương gia lại thở dài một hơi, gương mặt hắn như mờ ảo và chìm vào làn khói trắng. Khi làn khói tan đi đôi mắt có thần mới lộ ra, để lộ cái u uất thâm độc phảng phất đâu đó, hắn từ từ đi vào trong cửa thành…”
**************************************
“Năm nay trộm được đèn của nhà họ Lưu, nhất định năm nay là năm sinh. Có con gái đặt tên là Đăng Ca, có con trai đặt tên là Đăng Thành. Trộm được đèn nhà họ Đới, không mang theo cũng trúng…”
Bài ca dao truyền miệng được hát vang khắp ngõ phố nhỏ, nhà nhà ai cũng treo cao đèn, ánh đèn sáng rực cả mặt sông như dòng ngân hà vậy.
Trước cửa mỗi nhà đều đặt một ít bột nặn được làm từ đậu, dùng nước củ cải nặn thành hình một cái đèn nhỏ, bên trên viết tên họ của nhà đó. Rất nhiều thiếu phụ, bất kể mình đã là phu nhân của một gia đình lớn nào đó, hay chỉ là con dâu trong một gia đình bình thường cũng đều lượn như đèn cù quanh các đường ngang ng̃ dọc, thỉnh thoảng lại ăn trộm một cây đèn của nhà nào đó.
Những người thiếu phụ này đều là những người đã kết hôn ba năm mà chưa có con, tết Nguyên tiêu đi trộm đèn, nghe nói là sẽ sớm sinh quý tử.
Đèn mà các nàng thích trộm nhất là đèn của nhà họ Lưu hoặc họ Đới. Chữ “Lưu” là đồng âm của chữ “lưu lại hài tử”, còn chữ Đới là đồng âm của chữ “mang” (mang thai).
Những người thiếu phụ này đều là những người thành thân khi mới 15, 16 tuổi, ba năm chưa phát dục, đến bây giờ cũng chỉ mới 18,19, vẫn chưa nếm trải hết vị đau khổ của cuộc đời, vẫn còn là những viên ngọc phong tình, nên ngày Phóng thâu nhật cũng là ngày các nàng ta vui sướng nhất trần đời.
Chỉ có điều là trời rét quá. Những cô nương lớn có bé có đều đặc những chiếc áo dày, bọn họ chen chúc nhau trên đường nhưng cũng không lợi dụng được ai mấy. Gọi nhau rồi cười mắng ầm ĩ cũng có đôi chút thú vị, còn có người tự nhận mình là thần tiên, chứng minh tư sắc không hề tầm thường, rồi cười đùa đắc ý.
Triệu Khuông và hoàng hậu Tống rồi đến Tấn Vương, Ngụy Vương, nhị hoàng tử Đức Phương, tiểu công chúa Vĩnh Khánh đều rời hoàng cung, đổ ra đường chung vui cùng bách tính, còn đi chùa Đại Tướng Quốc nghe cao tăng Hoằng Pháp xướng kinh, rồi đốt pháo, sau cùng mới về cung, mở cửa cung, mời các tướng thần trong triều đình rồi thiết đãi các quan đại thần một bữa tiệc rượu linh đình.
Hoàng đế ba nước Kinh Hồ và Nam Nguyên cũng đã có mặt, quốc chủ nước Đường còn chưa đến, do Lý Tòng Thiện còn đang phải tiếp rượu hoàng đế. Võ Ninh tiết độ sứ bên trái có các tướng bảo vệ, bên phải có đại tướng Lưu Kế Hưng, ba vị này đã từng là quốc chủ, hoặc có suy nghĩ một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, hoặc là trong lòng bọn họ Lý Tòng Thiện sớm muộn cũng sẽ theo gót họ, nên họ đối với Lý Tòng Thiện cũng như người nhà.
Lý Tòng Thiện vốn không biết uống rượu, nhưng đứng trước lời mời thiết tha của các vị quốc chủ, khó từ chối nên đành uống hết ly này đến ly khác, rất nhanh mà say đứ đừ, chân bước loạng choạng. Trước mắt cũng không phải là quý tộc nhà hoàng đế, cũng chẳng phải là trọng thần trong triều đình nên Lý Tòng Thiện e rằng mình uống say sẽ thất lễ, vội vã đi ra ngoài điện.
Hôm nay trong cung cấm, khắp nơi đều là gia quyến của quan viên, Lý Tòng Thiện vừa xuống lầu, Mộ Dung Cầu Túy – người hay đi ngao du sơn thủy cùng hắn những ngày này, cũng vội vã bỏ chén rượu, ra ngoài cùng hắn.
Mộ Dung Cầu Túy cũng không theo Triệu Phổ xuất thành mà chuyển tới Tấn vương Triệu Quang Môn Hạ, người này thực lòng hay là do Triệu Phổ có ý lưu lại trụ cột này mà thật khó đoán chừng. Những người như Trình Vũ, Trình Đức Vũ cũng vài lần khuyên giải Tấn vương không nên thu nạp hắn.
Nhưng trong triều vốn chia bè chia phái, Triệu Phổ dù ngã nhưng những thế lực mạnh mẽ của hắn thì không dễ bị gục ngã hoàn toàn. Tấn Vương đang muốn thể hiện ý chí uy gia, mời bọn họ đến Môn Hạ của mình, nếu như đến một thực khách mà môn hạ của Triệu Phổ cũng không dung nạp được thì làm sao mời nổi các quan nhân?
Lý Hoàn có thể thu nạp những kẻ đã từng âm mưu giết chết mình, Lý Thế Dân có thể dung nạp thực khách quý phủ Ngụy Chinh. Từ trước đến nay Triệu Quang Nghĩa luôn tự coi mình là người lòng dạ hẹp hòi, do cự tuyệt Mộ Dung Cầu Túy nên Mộ Dung đã thay đổi, trở thành người của Tấn Vương.
Từ khi đến với Tấn vương, Mộ Dung Cầu Túy từ đầu chí cuối đều là một thanh nhàn cửa khách, không từng được giao bất cứ sứ mệnh gì nặng nề, lệnh cho hắn bám theo nhất cử nhất động của Lý Tòng Thiện cũng khiến Triệu Quang Nghĩa hắn thấy đó là một sứ mạng xui xẻo. Mộ Dung Cầu Túy tự biết rằng nhất thời không nên tín nhiệm Triệu Quang Nghĩa, do vậy cũng không hề do dự mà nhân cơ hội này mượn đao giết người. Nếu như thành công thì hắn có thể tin vào Triệu Quang Nghĩa, bởi biết đâu sau này hắn sẽ trở thành Ngụy Chinh thứ hai?
Nghĩ tới đây, trong lòng Mộ Dung Cầu Túy chợt nóng ran, rất nhanh bước lên phía trước, đỡ Lý Tòng Thiện rồi nói: “Sở quốc công, chậm một chút, haha, tửu lượng của quốc công kém quá, mới có mấy ly mà đã say rồi?”
“Mộ Dung tiên sinh, Tòng Thiện thực không biết uống rượu, nhưng các chư vị đại nhân lại nhiệt tình quá nên…” Hắn lắc lắc đầu rồi nói: “Nếu cứ tiếp tục Tòng Thiện e rằng mình sẽ thất lễ nên đành phải ra ngoài đi lại, e đã làm mất hứng rượu của Mộ Dung tiên sinh rồi”.
Mộ Dung Cầu Túy cười dài nói: “Không sao, không sao, ta cũng nhân tiện đi dạo cùng quốc công luôn cho tỉnh rượu, sau đó chúng ta quay về cung. Nào, bên này có vẻ thanh tĩnh, chúng ta đi thôi”.
Mộ Dung Cầu Túy vừa đi vừa nói, chân nọ đá chân kia mà đi không có mục đích, đến gần Ngưng Huy điện, Mộ Dung Cầu Túy xoa xoa bụng rồi nói: “Ôi chao, lão phu không nhịn được nữa rồi. A, quốc công vào trong Ngưng Huy điện đợi ta một chốc, ta đi vệ sinh xong sẽ quay lại ngay”.
Mộ Dung Cầu Túy xin lỗi xong rồi ngó ra xung quanh một lượt, vội vàng chạy đi. Lý Tòng Thiện lạ nước lạ cái nên cẩn thận quan sát khắp nơi, không dám tùy tiện một mình vào điện. Hắn vốn là người phương Nam, không chịu được cái lạnh ở phương Bắc, hôm nay đi yết kiến vua nhưng cũng không mặc trọng cửu, do vậy, đứng một lúc thấy gió lùa vào rét thấu xương, hắn không chịu được đành thất lễ tiến về phía điện. Cửa điện mở toang, huống chi điện này vốn không phải là nơi quan trọng để họp bàn gì, nên hắn yên tâm bước vào.
Trong điện có hai người phụ trách dọn dẹp, nhìn thấy hắn cũng không biết hắn là ai, chỉ hành lễ rồi chào. Lý Tòng Thiện đứng trong điện, đợi một hồi lâu vẫn không thấy Mộ Dung Cầu Túy quay lại nên đi lòng vòng khắp nơi trong điện. Trên góc tường của điện có treo một bức tự họa, Lý Tòng Thiện không phải là một người am hiểu về thơ nên nhất thời cao hứng, đi đến bên bức tranh ngắm nhìn tỉ mỉ.
Lý Tòng Thiện lại gần thưởng thức, nhìn những nét thư pháp đẹp tuyệt diệu, bất giác đưa tay lên làm động tác bắt chước theo. Khi sắp đọc gần hết bức thư vẽ thì hắn đột nhiên phát hiện ở góc bức họa có chân dung một người. Với nét vẽ thế này thì không giống một danh họa nổi tiếng, có thể là một bức chân dung ai đó thôi.
Lý Tòng Thiện ngẩn người ra ngắm nhìn hồi lâu, càng nhìn càng thấy giống một người. Trong lòng không khỏi nghi ngờ, đột nhiên thấy một người nội thị cầm phất trần chạy qua, Lý Tòng Thiện vội hỏi: “Này vị trung quan, tha thứ cho bản quan tò mò, nhưng không rõ bức tranh treo trên tường này là của ai vẽ vậy?”
Tên nội thị đó liếc mắt lên bức tranh trên tường một cái rồi cười nói: “Bức tranh này không phải là bức tranh của danh họa gì, người trong tranh là bức chân dung tự họa của tiết độ sứ nhà Đường Lâm Nhân Triệu, Lâm tướng quân nhìn ra thiên mệnh sở quy, có ý muốn lấy lòng nhà Tống ta nên cẩn thận viết bức thư pháp này rồi tự mình vẽ chân dung ở phía dưới để làm tín vật tặng quan gia.”
Lý Tòng Thiện mặt bỗng biến sắc: “Người này… người này chính là Lâm Hổ Tử của Giang Nam?”
Tên nội thị đó đắc ý nói: “Đúng vậy, Lâm tướng quân nói, ông ấy đã dùng trăm phương ngàn kế để lấy lòng vua Giang Nam, để vua cho ông ấy khởi binh phạt Tống. Nhưng lập tức sửa cờ xí, dẫn hơn mười vạn đại quân đến hàng. Quan gia nói, Lâm tướng quân nếu như thành công thì nước Tống sẽ lấy được Đường không mất tí sức nào, đến khi đó Lâm tướng quân sẽ là đệ nhất đại công thần có công thống nhất Trung Nguyên, quan gia bảo treo bức chân dung này lên có… cái gì mà yên cái gì các…”
“Lăng Yên các?”
“Đúng vậy!” Tên nội thị vỗ tay cười nói: “ Đúng đúng đúng, đúng là Lăng Yên các. Đại nhân cũng nghe nói rồi sao? Lăng này ở đâu vậy, có nổi tiếng không?”
“Cái này… cái này… đúng vậy, đã từng… rất nổi tiếng…” Trời lạnh, nhưng Lý Tòng Thiện cảm thấy toàn thân mình như đang toát mồ hôi, rượu cũng tỉnh được bảy, tám phần, hắn không dám ở trong cung điện quá lâu mà vội chạy ra ngoài. Ở ngoài hành lang, Mộ Dung Cầu Túy vội chạy lại, vừa nhìn thấy hắn đã cười nói: “Ta rốt cuộc đã cao tuổi mất rồi, uống có tí mà đã bị đau bụng, để quốc công chờ lâu thật thất lễ quá, thất lễ quá!”
“Không sao, không sao! Tòng Thiện ở đây cũng có thể giải rượu được đôi chút. À, Mộ Dung tiên sinh, chúng ta sớm về cung thôi, ngộ nhỡ quan gia mời rượu Tòng Thiện lại không có mặt thì thật thất lễ quá, đi thôi, mời…”
Lý Tòng Thiện cố gắng trấn tĩnh lại, hai tay nắm chặt lại, móng tay cắm vào lòng bàn tay đau mà hắn cũng không thấy gì nữa, trong lòng nghĩ: “Lâm Hổ Tử lại là tên phản nghịch! Trời ơi! Ta nhất định sẽ tìm cách quay về thành Kim Lăng sớm, thông báo tin này cho Lục Ca!”
*******************************************
“Pháp luân bầu trời chuyển, phạm thanh thiên thượng lai; đăng thôn thiên quang chiếu, hoa diễm thất chi khai. Nguyệt ảnh nghi lưu thủy, xuân phong hàm dạ mai; Bà động hoàng kim địa, chung phát lưu ly bàn”. Bài thơ này của Tùy Diễm đế thể hiện được sự vui sướng hồ hởi của Giang Nam trong đêm Nguyên Tiêu, cảnh tượng long lanh chiếu sáng bừng cả trời đất. Ăn canh viên, ngằm hoa đăng, đố đèn, trộm cắp không ngừng, trời đất và con người như cùng chung cái vui mừng, tức cảnh sinh tình, đẹp không sao tả xiết.
Cánh buồm đỏ giương rộng, trên lầu các cảnh đẹp mê hồn. Lý Dục vốn là người ưa lãng mạn đã cho bố trí cung điện giống như thiên đường. Đêm nay, hắn ngồi trên thuyền rồng, cùng với hoàng hậu và tất cả các quan văn võ trong triều du ngoạn sông Tần. Hai bên bờ đèn sáng ngập bởi hoa đăng, cả đất trời cùng đón tết Nguyên Tiêu.
Trên đường, tiếng pháo nổ râm ran, tiếng chúc tụng đầy đường, sân nhà sứ giả Khiết Đan lại nhuốm màu đìu hiu.
Đinh Thừa Nghiệp đem khoảng hơn chục võ sĩ, mặc trang phục người Hán, găm dao vào người rồi đứng thẳng trong điện.
Gia Luật Văn mặc đầy quần áo, đứng ngạo nghễ nói: “Đêm nay, phụ vương ta sẽ phát binh ở Thượng Kinh, giết chết hoàng thượng. Vì tái lập tân chủ ở Khiết Đan, các ngươi nghe rõ đây, đêm nay đến sông Tần ngắm đèn, các ngươi sẽ nghe lệnh Đinh Thừa Nghiệp, trà trộn vào đám dân rồi nhân thời cơ giết chết tên sứ giả nước Tống Dương Hạo cho ta. Nhớ là phải giết chết ngay tại chỗ, không được lộ thân phận chúng ta.
Dương Hạo cầm lễ tiền của nước Tống, nếu như hắn chết, nhà Tống ắt sẽ động binh, đồng thời buộc Lý Dục phải chọn giữa theo Tống hoặc theo Khiết Đan. Mượn uy nhà Tống, chúng ta sẽ ép triều đình ký hòa ước, Gia Luật Văn ta nhất định sẽ ngồi lên ngai vàng, đến lúc đó, các ngươi cứ đợi mà lĩnh công, tiền đồ vô đối!”
“Thuộc hạ tuân mệnh!” Bọn võ sĩ ầm ầm tuyên thề, Đinh Thừa Nghiệp đã tiến lên trước một bước hô lớn: “Thần, Đinh Thừa Nghiệp, khấu kiến hoàng thượng!”
“Chúng thần khấu kiến hoàng thượng”.
Gia Luật Văn hơi sửng sốt, rồi chợt phá ra cười thật lớn.
Cánh cửa vừa mở rộng ra, sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn liền nhắm hướng sông Tần mà đi. Hắn không biết rằng đằng sau hắn có hai con mắt sáng ngời lẫn trong đám đông đang nhìn chằm chằm vào hắn. Khi người ngựa đi đến hết đường, cặp mắt đó lộ ra chút hoang mang, hai đôi lông mày khẽ nhướn lên.
“Sao lại có thể như thế? Đinh Thừa Nghiệp rõ ràng là theo hắn đến nước Đường, tại sao đến hôm nay vẫn không lộ diện?”
Người đó tự lẩm bẩm, rồi khi thấy cánh cửa ở mé góc tường vừa mở ra, một thanh niên ăn mặc kiểu người Hán bước ra, nhanh chóng lẩn vào dòng người đi trên phố.
Đinh Ngọc Lạc sáng ngời hai mắt, liếc nhìn gã Đinh Thừa Nghiệp mà tự nhủ: “Cuối cùng thì ngươi cũng chịu xuất hiện”. Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng, nắm chặt thanh toản đao, nhanh chóng đuổi theo.
Bên bờ Huyền Vũ, trên lầu Tiêu Tiêu, sáu gã hộ vệ đang cẩn thận kiểm tra lưỡi móc, đao, cung tên cùng hỏa vật, tất cả đều được thu gọn lại. Mục Vũ khuôn mặt còn búng ra sữa ngó chằm chằm nói: “Tất cả xác chết, đại nhân và phu nhân đã được thay quần áo, hai người anh em đã lên thuyền trước rồi. Người phụ trách hành thích sẽ là bảy người chúng ta, các ngươi nhớ rõ, hôm nay dù là giả hành thích nhưng còn khó hơn đi hành thích thật, các ngươi mà hành động không nhanh thì hỗn loạn sẽ càng kinh khủng. Đợi đến khi đại nhân và phu nhân ra ngoài rồi chúng ta sẽ lập tức phóng hỏa con thuyền, mỗi người đều phải nói tiếng Khiết Đan, tuyệt đối nhớ kĩ những điều ta đã dặn dò, tất cả chuẩn bị xong chưa?”
“Chuẩn bị xong hết rồi!”
Mục Vũ uy phong lẫm liệt nói: “Xuất phát!” tiếng bước chân vang lên, đoàn người nhanh chóng lẩn vào trong đám đông.
Trên sông Tần, từng con thuyền ngược xuôi, tiếng nhạc xé gió vang lên không dứt bên tai. Ngươi đi lại hai bên bờ đông như mắc cửi, trong tay ai cũng cầm đèn đủ màu sắc và kiểu dáng. Thuyền của Lý Dục ở phía trước, hai bên là thuyền của vệ binh và các quan trong triều. Dọc bờ sông Tần đèn sáng loáng phản chiếu trên mặt hồ, con thuyền như đang trôi giữa sông ngân hà, hoàng hậu Tiểu Chu vui mừng khôn xiết, kéo Lý Dục đứng trên mũi thuyền, ngắm cảnh tượng đẹp đẽ một năm mới có một lần này.
Phía sau vốn là thuyền của đoàn sứ giả Khiết Đan và nhà Tống, cùng thuyền của các quan văn võ trong triều. Thuyền nào cũng treo đầy đèn lồng, Gia Luật Văn đứng trước mũi thuyền, hai mắt nhìn chòng chọc như đang thưởng ngoạn cảnh đôi bờ, nhưng tay lại nắm chặt, cả người hồi hộp đến toát mồ hôi: “Thượng Kinh liệu có thành công không? Kế hoạch này chỉ có sáu phần chắc, nhưng dù là chỉ có một phần thành công thì cũng đủ để ta mạo hiểm rồi. Nhưng tại sao đến bây giờ rồi ta vẫn cứ hồi hộp căng thẳng như thế?”
Trên thuyền đoàn nhà Tống, Tiêu Hải Đào đứng trên mũi thuyền, nghiêng mắt nhìn về phía một chiếc thuyền khác, nhẹ lắc đầu rồi thở dài: “Dương trái sứ này quả là phong lưu quá, đêm nay đi ngắm đèn trái sứ còn không ở trên thuyền, lại đi với hai nương tử, quả đúng là buồn cười. Có điều… hai vị phu nhân của trái sứ quả đúng là nhan sắc hơn người, đến lão phu nhìn mà còn thấy động lòng, chỉ cần lão phu có được hai người vợ đẹp như thế thì lão phu sớm đã không đứng ở đây đón gió rồi…”
Chiết Tử Du đứng trên bờ, đang giải một câu đố đèn. Vị chủ quán kia cao giọng chúc mừng, đưa chiếc đèn cá chép đủ màu treo trên cao cho nàng. Chiết Tử Du thản nhiên nói cười, vừa cầm chiếc đèn lồng thì bị ai đó va vào. Chiết Tử Du hơi nhăn mặt, quay đầu lại nhìn thì trước mắt nàng là một người đàn ông có dáng nhỏ, chiếc mũ nỉ đội trên đầu che kín gần hết mặt, hắn đang nhìn về hướng bờ sông như không chú ý thấy mình đã va vào ai.
Chiết Tử Du nhìn cách hắn ăn vận thì không giống dáng một người đàng hoàng, bèn tức giận nhìn hắn từ đầu tới chân, khẽ “hừ” trong họng một tiếng. Chiếc thuyền rồng chói lọi đang dần đi tới, vua Giang Nam Lý Dục tới rồi.
Chương 361: Loạn chiến
“La tứ ca, chàng… chàng có thể bảo bọn họ đi ra chỗ khác được không, ở đây chỉ cần chàng là đủ rồi”. Gia Luật Nhã nhìn Thiết Đầu và Loan Đao Tiểu Lục đang đứng bên cạnh La Khắc Địch như người thân, tỏ vẻ không vui.
La Khắc Địch không để ý đến ánh mắt oán trách của nàng ta, mặt giả lơ nói: “Điện hạ, chúng thần là anh em tốt của nhau, tam huynh đệ này luôn dính nhau như hình với bóng, không thể tách rời”.
“Không phải chứ…” Gia Luật Nhã trừng mắt nhìn hai người đứng bên cạnh nói:
“Hai tên tiểu tử này cứ bám dính lấy chàng từng bước thật đáng ghét quá”.
Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu cũng tỏ vẻ bất đắc dĩ. Đêm nay trên đường đâu đâu cũng là ánh đèn sáng, chiếu rọi như ban ngày, nhưng ngọn đèn sáng nhất và to nhất đêm nay không cần phải nghi ngờ chính là hai người bọn hắn.
Bọn hắn cũng không muốn đâu, nhưng La Khắc Địch là anh em tốt của bọn hắn, khi anh em mở lời cầu khẩn thì đến núi đao biển lửa cũng phải lao vào chứ huống hồ là việc đi gặp mặt cô công chúa này?
Hai người dường như không nghe thấy gì, cứ ở bên cạnh không rời La Khắc Địch nửa bước. Công chúa Gia Luật Nhã đứng một hồi lâu nhưng vẫn không làm gì được, cái hăng hái ban đầu cũng bị giảm đi vài phần, nhanh chóng quay lại dưới Ngũ Phong Lâu.
Nàng ta không thể chịu nổi nữa, không thèm chấp hai tên Thiết Đầu và Tiểu Lục, nói với la Khắc Địch: “La tứ ca, hôm nay là Phóng Thâu nhật, chàng… chàng không trộm đồ gì của ta ư?”
“À…” La Khắc Địch nhìn Gia Luật Nhã từ đầu tới chân, công chúa Gia Luật Nhã hôm nay mặc một bộ y phục Hán, dù dân tộc Khiết Đan không thích Hán, nhưng trong ngày lễ như thế này thì cũng không cần quá câu nệ về trang phục truyền thống. Nhưng với công chúa Gia Luật Nhã thì không biết tại sao mà La Khắc Địch cứ mỗi khi nhìn thấy công chúa thì cứ y như rằng nàng ta đang mặc trang phục Hán, và đêm nay quả cũng không phải ngoại lệ.
La Khắc Địch nhìn từ chiếc trâm từ trên tóc Gia Luật Nhã đến chiếc túi giắt trên thắt lưng, ngượng ngùng nói: “Ta… ta trộm cái gì mới được đây?”
Gia Luật Nhã ngượng ngịu nói: “Chỉ cần là đồ trên người ta, thì trộm gì cũng được hết. Lấy vui là chính mà, nếu như không có ai trộm đồ của ta thì rõ ràng là người đó không thích ta, rất mất mặt. Đợi một lúc nữa hồi cung thì các tỷ muội sẽ cười chết ta mất”.
La Khắc Địch ngượng ngùng nói: “Làm sao lại có ai không thích điện hạ được? Vừa mới khi nãy còn có ít nhất bảy quý tộc đến trộm đồ của công chúa, nhưng công chúa…”
Ánh mắt hắn nhìn vào cây roi trong tay Gia Luật Nhã, Gia Luật Nhã mặt ửng đỏ, vội vàng giấu cây roi ra sau lưng rồi gắt giọng: “Những tên đó thật là đáng ghét mà. Chàng xem, cái tên Tiêu Triển Chí khi nãy đó, mặt râu quai nón, che hết cả mũi cả mồm, nhìn xa thì tưởng con tinh tinh, thật khiến người ta ghét”.
Tinh tinh vốn là ngôn ngữ của Hung Nô, người Hán trực tiếp dịch nghĩa, nên trở thành từ của người Hán. Dân tộc Khiết Đan cũng kế thừa từ này của người Hung Nô, gọi tắt là tinh tinh. Trong triều đình các quan chăm sóc loài động vật này và coi đó như một loài vật quý hiếm. Tiêu Triển Chí có hình dáng như vậy thật cũng không khác loài tinh tinh là mấy, La Khắc Địch nghe thấy vậy cũng không khỏi không thầy buồn cười. Hắn không nói gì cả, chỉ vênh mặt lên cho Gia Luật Nhã nhìn thấy bộ râu vẫn chưa từng được cắt tỉa của hắn.
Gia Luật Nhã cười thản nhiên nói: “Tuy râu La tứ ca cũng dài, nhưng trông rất uy phong lẫm liệt, có thể nói là một bộ râu đẹp, Tiêu Triển Chí còn phải thua xa”.
Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu khẽ ho một tiếng, không hẹn mà cùng nhau quay mặt ra chỗ khác, cằm cúi xuống, hai con mắt nhìn chằm chằm xuống đất, mặt đỏ gay lên như hai con tinh tinh.
“Đến đây, cứ tùy chọn cái gì cũng được, chỉ cần chàng thích thì ta sẽ không trách chàng đâu”.
Gia Luật Nhã cười ngọt ngào, đôi mắt đa tình như có lửa đốt khẽ liếc La Khắc Địch, đầy chờ đợi, tưởng chừng như nếu La Khắc Địch có khiêng nàng ta về phòng riêng làm vợ bé thì nàng ta cũng không có chút gì do dự.
La Khắc Địch nhìn xuống, thản nhiên nói: “Điện hạ, La mỗ chỉ là một nô bộc nhỏ bé, không dám mạo phạm đến công chúa”.
“Ngươi thật là chẳng thú vị chút nào, người ta đã nói sẽ không trách ngươi mà”. Gia Luật Nhã mở mồm nói, rồi suy nghĩ một chút, lấy chiếc trâm trên đầu mình ấn vào tay La Khắc Địch, đầy hàm ý mà nói: “Đây, cho chàng”.
“La mỗ chỉ là một nô bộc, không dám nhận đồ vật của điện hạ, xin điện hạ nhận lại”.
“Ta đã nói rồi, coi như là chàng trộm nó… Được rồi được rồi, coi như là ta tặng cho chàng được chưa?”
“Vậy La mỗ càng không dám nhận, xin công chúa nhận lại”.
Hai bên cứ đùn đẩy một hồi, chiếc trâm sau một hồi bị bẻ cong lên, mũi trâm đâm vào lòng bàn tay Gia Luật Nhã chảy máu.
“Ngươi… ngươi…” Gia Luật Nhã bị đâm đau, nhưng trong lòng còn đau hơn. Nước mắt nàng tuôn ra ướt đẫm khuôn mặt, nàng cắn chặt môi, đột nhiên vứt chiếc trâm thật mạnh xuống đất, quay người lại chạy về hướng Ngũ Phong lâu, vừa chạy vừa lấy ống tay áo lau nước mắt.
“Này tứ ca, huynh quả là lòng dạ sắt đá”. Thiết Đầu không nhìn theo nữa mà quay người lại nói.
“ Nói nhảm! Công chúa Khiết Đan làm sao có thể dễ bị chọc tức như thế?” La Khắc Địch vểnh râu, quá đáng nói.
“Còn nói nữa!” Loan Đao Tiểu Lục nhấc chân đá cho hắn một nhát, nhặt chiếc trâm rơi xuống đất lên rồi nhét vào tay hắn: “Huynh còn không mau đi dỗ cho cô ta vui lên, thêm một người giúp đỡ chúng ta thì chúng ta mới có cơ hội tẩu thoát. Nếu như huynh đắc tội với cô ả thì hoàng đế nhất định sẽ tức giận mà đầy chúng ta đi nô dịch, như vậy thì hỏng bét”.
“Vậy phải làm sao bây giờ?”
“Làm sao bây giờ? Đi dỗ cô ta đi”.
“Dỗ thế nào?”
“Làm sao đệ biết phải dỗ như thế nào? Việc này ắt hẳn Dương Hạo đại ca có cách, La đại tẩu tính tình khó chiều như vậy cũng được huynh ấy dỗ cho tới bến, nếu như có huynh ấy ở đây thì tốt quá. Ôi, huynh còn ngẩn ra đấy làm gì? Mau đuổi theo đi, không phải cứ nhận lấy cây trâm này là xong hay sao?”
“Ơ..” La Khắc Địch ngẩn người đón lấy cây trâm, quay người đuổi theo, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu nhìn theo bóng hắn đi khuất khỏi tầm mắt mới thở phào nhẹ nhõm.
“Điện hạ, điện hạ, xin chờ chút”
La Khắc Địch đuổi kịp đến nơi, Gia Luật Nhã vội dừng bước, nức nở nói: “Chàng còn đuổi theo ta làm gì?”
La Khắc Địch thở dài, vẻ vô tội nói: “Không phải chỉ là một cây trâm thôi sao, sao điện hạ lại nổi nóng như thế? Thần nhận là được chứ gì?”
Bọn thị vệ đứng gác thành tò mò đứng nhìn về phía bọn họ, Gia Luật Nhã đỏ mặt, giận đến run người, đột nhiên xoay người, vung cây roi trong tay lên quất xuống đất, hung hãn nói: “Nghe cái giọng của ngươi và cái thái độ miễn cưỡng nhận cây trâm của ta, hừ, ngươi cút đi, cút, cái loại nô lệ ti tiện, một gã nô tài, ai dám…”
La Khắc Địch đứng đó không dám nhúc nhích, bị quất mười mấy roi, các tế bào đều như nứt hết ra, trong đó có một roi quất trật, một roi quất trúng mặt, trán thì chảy máu.
Gia Luật Nhã đột nhiên thấy mềm tay, nhưng xấu hổ nên nước mắt lưng tròng đứng nhìn La Khắc Địch, ngọn roi vút trong không trung nhưng không raquất vào đâu cả, hồi lâu sau nàng mới vứt roi, ôm mặt khóc nức nở: “Ngươi không để ý đến ta tốt với ngươi thế nào, ngươi chỉ biết bắt nạt ta, ta sẽ nói với hoàng huynh trị tội ngươi…”
Trên thành lầu, Gia Luật Cách vừa mới dẫn binh từ Nữ Chân về vào yết kiến hoàng thượng, nương nương trong tiếng hoan hô của bách tính trăm họ, lập tức lặng lẽ đi đến bên nữ quan Đông Nhi.
“Đông Nhi” Gia Luật Cách mỉm cười đứng trước mặt nàng.
“A, Gia Luật đại ca” Đông Nhi mỉm cười thi lễ.
“Không cần đa lễ. Ta mới từ Nữ Chân trở về”.
Ánh mắt như bốc lửa của Gia Luật Cách nhìn vào khuôn mặt Đông Nhi, tay lấy ra một chiếc túi, bên trong túi là năm viên Bắc Châu, là những hạt ngọc trai cực đại quý báu, màu vàng, đẹp tuyệt vời, nhìn là đã thấy bắt mắt, dưới ánh đèn còn tỏa ra những ánh sáng rực rỡ nhiều màu, mê hoặc lòng người.
Gia Luật Cách cười nói: “Đây là người Nữ Chân tặng ta để tỏ lòng hiếu kính, ta tặng nàng”.
Đông Nhi cuống quít nói: “Đây là món quà quý giá, Đông Nhi không dám nhận đâu”.
Gia Luật Cách cười một tiếng: “Có gì đâu mà quan trọng, hạt ngọc này tuy đẹp, nhưng lại không bằng dung nhan của nàng, đem nó làm vật trang sức cho nàng thì sẽ khiến nàng càng thêm xinh đẹp, người Nữ Chân tặng ta món quà này mới không phí của. Haha, người Nữ Chân còn tặng ta hai con Hải Đông Thanh, vốn con chim ưng của ta bị mất tích nên ta lấy một con ra dùng, con còn lại tặng nàng, cầm lấy đi”.
Đông Nhi lùi lại mấy bước, nói: “Món quà này quý giá quá Đông Nhi không dám nhận”.
Gia Luật Cách bất đắc dĩ, đột nhiên phát hiện ra nàng dùng kim thoa cài tóc, hai mắt chợt sáng lên, cười hihi nói: “Được rồi, vậy…ta sẽ dùng năm viên ngọc này đổi lấy cây trâm trên đầu nàng, như vậy là công bằng nhé, có được không?”
Gia Luật Cách cười nhẹ nhàng rồi định giơ tay lấy tay trâm cài tóc trên đầu Đông Nhi, sắc mặt nàng khẽ thay đổi, lùi lại mấy bước mà rằng: “Tuyệt đối không thể được, Gia Luật đại ca, cây trâm này không được”.
Gia Luật Cách chợt ngẩn người ra bởi thấy nàng chưa từng lộ vẻ kiên quyết đến thế, bèn nghi ngờ hỏi: “Cây trâm này có gì mà quý giá đến thế?” hắn chợt thấy lòng đố kị như một nỗi hận trào lên trong lòng.
Đúng lúc đó, một cung nhân đột nhiên chạy tới bên Đông Nhi ghé tai nói nhỏ điều gì đó La Đông Nhi chợt nhíu mày, kinh ngạc hỏi: “Nhã công chúa? Công chúa nổi nóng với tứ ca?”
Đông Nhi vội áy náy cười với Gia Luật Cách, nói: “Gia Luật đại ca, Đông Nhi có chút chuyện phải đi một chút”.
“Đứng lại!” Gia Luật Cách tiến đến phía trước một bước, nắm chặt vai nàng, tức giận nói: “Cây trâm này là của ai tặng nàng?”
Năm ngón tay của hắn như những mũi tên muốn lấy đi linh hồn của người chết trong cõi u linh, Gia Luật Cách vừa bước tới vừa nắm chặt vai Đông Nhi, khiến nàng đau đớn kêu lên, tay buông thõng xuống.
Bất chợt nàng hô to lên một tiếng, hai tay bất giác đưa lên che miệng. Lúc
này đây âm thanh kinh ngạc nổi lên bốn phía, hai người đồng thời quay mặt lại thì chỉ thấy Tiêu hoàng hậu đang vội đỡ hoàng thượng, một mũi tên đã găm ngay trên ngực hoàng thượng, sống chết không biết thế nào.
Người ngồi bên cạnh là đại tướng Tiêu Thác Trí cũng bị trúng tên ở ngực, Hán Đức Nhượng thì như đang nói chuyện với ai thì bị một mũi tên đâm xuyên qua cổ họng, hắn tức giận trợn mắt lên như muốn nói gì mà không thể mở mồm, đầu nặng nề chúc xuống đất.
Trên lầu là một cảnh hỗn loạn, Tiêu hoàng hậu và các trọng thần bên cạnh đều vội vàng đưa hoàng thượng về phía sau, thị vệ bốn phía quanh thành vội vàng rút gươm đao ra yểm trợ, rất nhiều người vừa mới đứng đây chỉ trỏ đèn này đèn kia, nói nói cười cười, giờ cũng rút hết đao ra, hướng về phía thị vệ trong cung.
La Đông Nhi hoảng sợ lùi về phía sau, Gia Luật Cách nắm chặt chuôi đao, nhưng bất giác thấy cánh tay bủn rủn, chỗ trúng tên không đau, hắn bất giác rùng mình: “Trong mũi tên có độc”.
Dưới thành, chợt nghe ngoài thành có một tiếng động lớn ầm ầm, Gia Luật Nhã mắt đẫm lệ nhìn lên, chỉ thấy mọi người kinh hoàng chạy qua chạy lại, tiếng kêu khóc, rồi tiếng dẫm đạp lên nhau vọng lại không dừng, không khỏi ngạc nhiên thốt lên: “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
*******************************
Thuyền rồng đã cập bến Giang Nam thư viện, trên bờ cao đèn sáng trưng, rất nhiều sĩ tử văn nhân đang đứng trên bờ, thi lễ trước thuyền rồng trong tiếng gió rít lên không ngớt.
Tiểu Chu Hoàng hậu sau khi lên bờ quay lại nói: “Quốc vương, các sĩ tử phía trước đang nghênh đón Quốc vương kìa”
Lý Dục vuốt râu cười: “Các phu tử và học sĩ của thư viện Giang Nam đã tự mình viết tặng quả nhân bộ vạn phúc tự địa đồ, hôm nay muốn trình cho quả nhân xem đây mà. Nào, chúng ta cùng lên bờ, tiếp nhận vạn phúc”.
Thuyền rồng vừa cập bến, vệ sĩ đã nhanh chóng đứng thành hai hàng, Lý Dục và Tiểu Chu hoàng hậu cùng xuống thuyền, những sĩ tử trong Giang Nam thư viện đã đang tấn kiến, đằng sau là những văn võ bá quan cũng đang lục tục xuống thuyền. Đinh Thừa Nghiệp nhìn chằm chặp vào chữ “Tống” thêu trên cờ của đoàn sứ giả nhà Tống, hạ giọng dặn dò: “Tiếp cận gần vào, khi thuyền vừa cập bến thì lập tức giết ngay, nhớ tìm đúng Dương Hạo, hành động nhanh không để lại dấu vết”.
Đoàn người lẩn vào rừng như rắn, từ từ tiến đến chỗ thuyền của các quan, chung quanh đèn màu đẹp rực rỡ, tiếng cười nói râm ran không dứt, người qua kẻ lại, rộn ràng nhốn nháo, từ xa xa còn nghe vọng đến tiếng nhạc xé gió vang lên, vẫn là một cảnh thanh bình như trước.
Đinh Thừa Nghiệp nắm chặt con dao giấu bên hông, tiến đến gần con thuyền chở các quan, mắt nhìn chằm chặp vào đoàn người đang lên bờ, đột nhiên cảm giác được dường như trong đoàn người có ai đó đang nhìn mình chòng chọc. Đinh Thừa Nghiệp chợt cảnh giác, quay đầu lại nhìn thì thấy một ánh mắt đang dõi theo hắn giữa đoàn người nói cười nhộn nhịp, đôi mắt đó như có lửa giận nhìn xoáy sâu vào hắn, đôi mắt đó thật lạnh lùng, có chút lạ lẫm mà lại có chút quen thuộc.
Tiếng động ầm ĩ ở bốn phía trở nên xa xôi mơ hồ, tất cả những ý thức còn lại của Đinh Thừa Nghiệp đều tập trung vào đôi mắt như có lửa này. Đoàn người cứ thế qua lại, nhưng vẫn không sao che nổi đôi mắt đầy hận thù. Đêm nay Đinh Thừa Nghiệp hóa trang thành một con bọ ngựa, ai dè lại gặp ngay một con hoàng tước bên cạnh. Hắn lùi lại một bước, nhưng người đó đã lạnh lùng nói một tiếng: “Giết!”
Ở khoảng cách hơn một trượng, ở giữa hai người là đoàn người đi đi lại lại, lộ ra một khe hở, lưỡi kiếm sắc bén trong tay người kia như một đường sáng ngọt sắc giơ ra, Đinh Thừa Nghiệp cũng nhanh chóng lôi lưỡi đao của hắn ra ứng chiến.
Hoa lửa tung khắp nơi, sáng rực trời như pháo hoa, cũng là lúc nhát kiếm thứ hai của người đó lao tới.
Sau khi thử giao đấu, Đinh Thừa Nghiệp đã chợt nhận ra kiếm pháp của người đó, kiếm pháp cũng chẳng hơn mình được bao nhiêu phần, liền trầm giọng nói: “Lên thuyền, hạ tay” Hắn vừa nói vừa chỉ huy bọn kiếm khách, bách tính bốn phía thấy có tiếng động binh khí va vào nhau liền lập tức kêu cha gọi mẹ, té ngã, cả một bến tàu trở nên hỗn loạn.
Con thuyền của Dương Hạo đi sát vào thuyền của sứ giả nhà Tống. Một mặt hắn nể lời thỉnh cầu của Tiêu Hải Đào, sợ rằng vua Giang Nam cao hứng muốn mời sứ giả nhà Tống lên thuyền mà lại không thấy đâu thì vô cùng thất lễ.
Mặt khác, hắn muốn mình sẽ “chết” ngày trước mắt Tiêu Hải Đào, như vậy thì mới có sức thuyết phục.
Hai chiếc thuyền cùng đồng thời cập bến, Mục Vũ nhanh chân tiến đến sát thuyền Dương Hạo, những thích khách giả mạo sứ giả Khiết Đan cũng nhanh chân đi theo. Trong khi mọi người còn đang hoang mang nhốn nháo bốn bề, thì hai đội ngũ nghênh đón hết sức ngay ngắn trật tự đã lập tức khiến mọi người chú ý. Ánh mắt của các thích khách Khiết Đan nhìn vào đoàn người, chỉ thấy những nắm đấm được giấu kín trong tay áo, bên hông thì căng phồng, ánh mắt như có lửa, hắn cũng không biết mình đang hoang mang điều gì, chỉ nghe thấy một tiếng thét lớn: “Giết!”
Mục Vũ không hiểu mô tê gì: “Đại nhân còn sắp xếp cả người ngựa ư?” Đột nhiên thấy những ánh dao sáng choang giơ lên, sát khí ầm ầm hướng đến phía họ thì hắn đã không còn thời gian để suy nghĩ nhiều nữa, vội rút dao ra, miệng hét lớn: “Giết!” Hai đội ngũ lập tức như một cơn đại hồng thủy lao vào nhau.
Đứng trên đầu thuyền, Dương Hạo đang đứng nghển cổ ra nhìn chợt thấy hai bên bờ không rõ đã xảy ra chuyện gì mà đoàn người ngựa lại đột nhiên đánh nhau, không nén nổi kinh ngạc. Vừa mới nãy thôi hắn còn đang định vào khoang thuyền thay đổi y phục thành một nam thường dân, đi theo hai võ sĩ nhân cơ hội hỗn loạn lên bờ mà giờ… Oa Oa và Diễm Diễm cũng nhìn thấy cảnh hỗn loạn mà kinh hãi, nói nhỏ với hắn: “Quan nhân, tại sao lại như thế? Chúng ta không cần thay y phục nữa hay sao?”
Dương Hạo hít sâu vào một hơi, không quay đầu lại mà nói: “Không cần. Các nàng hãy nhân cơ hội hỗn loạn này mà chạy trốn đi. Mẹ kiếp, đã xảy ra chuyện gì? Muốn chết cũng khó thế đấy, không vấn đề, ta tự đi chuốc lấy tai họa vậy”.
Một trận đại loạn, trên bến tàu các văn sĩ tú tài vừa mới nhốn nháo ở đây thoắt cái đã không còn thấy nữa, Hoàng Phủ Kế Huân phụ trách hộ giá, bên trái là Lý Dục, bên phải là Tiểu Chu hoàng hậu, vừa hô hào gọi thị vệ đến hộ giá, vừa tìm cách trốn vào sân viện Giang Nam, nhanh chóng đóng cửa lại.
Trên thuyền nhà Tống, cấm vệ quân đang khẩn cấp ứng biến, Tiêu Hải Đào ở giữa, bọn vệ binh còn không biết đường mời đại nhân của chúng rời thuyền mà chỉ biết đứng như trời trồng. Tiêu Hải Đào bị bọn cấm vệ quên bao vây xung quanh nên chẳng trông thấy gì, vội vàng nhảy lên hét lớn: “Đại nhân, bảo vệ đại nhân, trái sứ ở trên thuyền kia, mau đi bảo vệ Dương trái sứ”.
Dương Hạo rút nhanh thanh kiếm, vọt người đứng trên mạn thuyền hét lớn: “Mau bảo vệ Tiêu tự thừa lui ra giữa sông, chớ có để thích khách lên thuyền, nhanh lên!” Nói rồi phóng qua mặt nước rộng mà lên bờ.
“Dương Hạo!”
Chiết Tử Du kinh ngạc đứng nhìn cảnh tượng hỗn loạn xảy ra trước mắt thì chợt thấy Dương Hạo nhảy lên bờ, không nén được kinh ngạc mà hét lớn, lập tức rút kiếm chạy tới. Tiếng kêu của nàng lập tức làm ngừng lại cơn loạn chiến, tên mặt vàng và Đinh Thừa Nghiệp cùng đồng thời trông lên hướng bờ, đám võ sĩ Khiết Đan dỏm và bọn Khiết Đan thật cũng ngừng chiến trông ra phía Dương Hạo.
Dương Hạo không biết tại sao cục diện lại thay đổi như vậy, sau khi cầm kiếm chạy lên bờ, nhìn đám thích khách đang ngơ ngác không hiểu mô tê gì, không biết nên làm gì thì chợt trông thấy Chiết Tử Du cũng có mặt ở đó, hắn không nén nổi choáng váng, chỉ vào nàng nói: “Tử…Tử…”
Hắn chợt nhớ ra lúc đó không thể gọi tên thật của Tử Du ra được, bèn chuyển cách xưng hô: “Tử…Tử… từ đâu đến?”
Tiêu Hải Đào mặt đầy mồ hôi nghe thấy thế liền không thèm khách khí gì nữa: “Ôi chao, đến ranh giới của Giang Nam thư viện rồi mà đại nhân còn ngần ngừ cái gì? Đây là lúc nào rồi? Đại nhân nói đại nhân là quan văn làm sao tỏ được mặt anh hùng, đi theo lão gia đi công sai không có ngày nào là không lo sợ…”
“Giết!” Đinh Thừa Nghiệp đột nhiên hô lớn, mũi đao hướng thẳng về phía người kia, bình tĩnh chỉ huy những tên võ sĩ ở đằng xa.
Chiết Tử Du vội chạy đến bên Dương Hạo, đằng sau là những võ sĩ Khiết Đan đang giơ mũi kiếm vào nàng, Dương Hạo thấy vậy bèn kinh hãi hét lớn: “Cẩn thận, to gan!”
Hắn chạy nhanh về phía trước vài bước, vọt lên ôm gọn một đứa trẻ đang ngồi khóc dưới đất vào lòng, hóa kiếm vi đao, chiêu “lực bổ hoa sơn” của hắn nhắm thẳng vào tên võ sĩ Khiết Đan đang đứng sau lưng Chiết Tử Du.
“Phực!” chiếc đèn lồng to đang treo trên cao bị Dương Hạo dùng kiếm cắt phựt, chiếc đèn nổ vỡ, giấy đèn bay te tua trong gió, giống như một bông hoa đang rơi. Dương Hạo bay xuống đất, tên kia vừa mới chạy ra phía sau Chiết Tử Du giờ xuất hiện trước mặt hắn như chim bất đầu, một mũi kiếm sắc nhọn bổ vào mặt hắn, máu chảy đầm đìa, hắn ngả ngửa xuống đất chết.
“Ngươi là ai, tại sao lại ám sát ta?” Đinh Thừa Nghiệp liều mạng đâm tới, tức khí hét lên.
Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng nói: “Ngươi đi hỏi phụ thân đã qua đời đi!”
Nhạn Cửu cho đến chết cũng không hề nói ra thân phận của Đinh Thừa Nghiệp, Đinh Ngọc Lạc cứ cho rằng hắn chính là em trai mình nên không nói gì. Câu nói này của Đinh Ngọc Lạc khiến Đinh Thừa Nghiệp như nhận ra thân phận của mình, không khỏi vừa sợ vừa xấu hổ.
Hắn cũng không biết mình có phải là cốt nhục của nhà họ Đinh hay không, chuyện giết cha hại sư huynh là chuyện hắn cảm thấy sợ hãi và áy náy, đặc biệt là mình đường đường là nam tử hán, giờ lại trở thành thiếp hầu hạ Gia Luật Văn, vừa nhìn thấy người thân hắn không tránh khỏi cảm giác tự ti xấu hổ, đột nhiên thấy thối ý.
Hắn cắn chặt răng rồi bổ vài đao, sau đó đột nhiên rút đao bỏ chạy, mấy tên thuộc hạ kinh hãi trốn vào đám người, Đinh Ngọc Lạc quay lại nhìn Dương Hạo, nhưng hắn ta không chú ý tới nàng. Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng, đuổi theo Đinh Thừa Nghiệp.
Dương Hạo chém hết tên Khiết Đan này đến tên khác, những võ sĩ Khiết Đan khác cũng nhanh chóng xông đến, người mà bọn chúng muốn giết chính là Dương Hạo, nay hắn đã tự chui đầu vào lưới, làm sao có thể buông tha. Bọn võ sĩ Khiết Đan thì đông đảo, ngoài Mục Vũ và sáu, bảy tên Khiết Đan khác là theo phe hắn thì những kẻ còn lại đang vây quanh Dương Hạo và Chiết Tử Du, đao rút ra nhanh như gió, bao người phải bỏ mạng.
Dương Hạo một mặt rút gươm ra đánh trả, mặt khác quát: “Nàng đến đây làm gì?”
Chiết Tử Du cũng vừa bổ kiếm vào một tên, đáp trả: “Chàng tới được chẳng lẽ ta không tới được?”
Dương Hạo liếc mắt về phía bên kia bờ, thấy Oa Oa và Diễm Diễm đang đứng đó cùng hai gã thị vệ, đang ngóng nhìn về phía bên này, Dương Hạo lập tức cười ha hả và cao giọng nói: “Các ngươi ỷ thế đông sao, kiếm pháp của bản quan như thần, mười mấy người các ngươi đã làm gì nổi ta?”
“Ngông cuồng!” Chiết Tử Du không biết những lời đó là Dương Hạo dành để trấn an Diễm Diễm và Oa Oa để hai nàng tránh ra khỏi đây. Nàng vừa chặn đứng một đòn công kích của tên võ sĩ Khiết Đan vừa châm chích lời nói của hắn.
Dương Hạo vội ra hiệu cho Diễm Diễm, nàng ta trông thấy giữa vòng vây kẻ địch mà chàng vẫn có thể ra hiệu như đang đùa giỡn như thế thì mới yên tâm kéo Oa Oa cùng hai tên hộ vệ lẩn vào trong bóng đêm.
Dương Hạo trong lòng khoan khoái, cười ha hả nói: “Dương mỗ luôn hành thiện vì người khác, cũng không biết ở đâu ra lắm kẻ thù thế này, không có ta an ủi thì lấy đâu ra chí khí mà chiến đấu. Không nói bản thân được rồi, lẽ nào chúng ta buộc phải chết ở đây, làm một cặp uyên ương mới hợp ý nàng sao?”
Chiết Tử Du và hắn quay lưng lại với nhau, bất chợt cùng đánh, cùng che chở và phối hợp chuẩn vô cùng, nghe hắn nói thế Tử Du không khỏi tức giận mà mắng: “Câm miệng ngươi lại đi, muốn chết thì ngươi đi mà chết, bản cô nương sống vẫn chưa đủ đâu”.
Dương Hạo run rẩy đâm trúng tay một kẻ, khiến người đó rơi đao xuống đất, rú lên một tiếng quái dị rồi rút đi rất nhanh. Dương Hạo chợt nghĩ tới cái chết giả hôm nay, mãi mãi cách xa Chiết Tử Du. Như hôm nay hắn gặp nạn, nàng cũng đã lập tức cầm đao xông tới tương trợ, trong lòng ắt hẳn còn có tình cảm, nên trong lòng hắn không khỏi có chút kích động. Thừa dịp hai người đang đứng dựa lưng vào nhau, hắn hạ giọng hỏi: “Nàng rút đao ra vì ta, ta rất vui. Tử Du, ta đã từng không đúng, chỉ là… tình yêu ta dành cho nàng trước nay vẫn không hề thay đổi, thật đó”.
Chiết Tử Du thấy trong lòng chua xót, tưởng chừng như có thể rơi lệ ngay được. Nàng đột nhiên hét lớn một tiếng, tiến lên đánh lại tên võ sĩ Khiết Đan đang tiến tới, miệng quát lớn: “Đừng nói những điều nhảm nhí với bản cô nương nữa, lề mà lề mề, không mau đánh bọn chúng lui đi”.
Dương Hạo lập tức ra hiệu cho Mục Vũ, hắn hiểu ý, vội vàng lui khỏi chiến trận, chạy ra hướng thuyền.
Dương Hạo cười ha hả, buồn bã nói: “Đúng vậy, ta từng là kẻ lỡ lời, làm sao nàng có thể tin tưởng vào lời thề non hẹn biển này của ta?”
“Ta tin vào lời thề non hẹn biển, chỉ là ta không tin ngươi mà thôi”.
Hai người di chuyển dựa lưng vào nhau, chạy theo hình hoàn tẩu tìm kiếm khe hở của bọn võ sĩ. Chiết Tử Du cùng hắn đấu võ mồm không ngớt.
Thuyền phu trên con thuyền của Dương Hạo đang lo sợ, vừa nhận được hiệu lệnh của Dương Hạo liền lập tức cho thuyền chạy về phía giữa hồ, Mục Vũ trên thuyền hô to, chỉ huy thuyền đuổi theo, dọa cho bọn thuyền phu khác sợ hãi nhảy cả xuống nước. Thuyền tiếp tục chạy về phía giữa sông, Mục Vũ tiến vào khoang thuyền hô to như đang đánh nhau, rồi châm mồi lửa.
Dương Hạo vừa nhìn thấy mặt biến sắc, kinh hãi kêu lên: “Diễm Diễm và Oa Oa còn ở lại trên thuyền!” hắn vừa nói vừa liều mạng tiến về phía trước, dùng đao bổ mạnh xuống vài cái kêu “leng keng leng keng”. Dù Chiết Tử Du đã từng tặng hắn Thanh Sương kiếm vô cùng tốt, nhưng kiếm vốn là một thứ vũ khí nhẹ nên sau một vài nhát cắt nó kêu leng keng thêm vài tiếng rồi đứt làm đôi.
Nhưng đây là hồi công kích bão táp, hắn mở ra được lỗ hổng, Dương Hạo thả người chạy như điên, Chiết Tử Du cũng thay hắn chém về phía trước vài đao. Dương Hạo nhân cơ hội đó chạy tới bên bờ, nhảy lên trên thuyền.
Thuyền đã cách bờ hai trượng, Dương Hạo dùng hết sức nhảy lên đó, hai tay bám vào mạn thuyền, rồi dùng sức cố gắng trèo lên thuyền. Chiết Tử Du trông thấy thế không khỏi lo lắng, nhưng nàng đang mải đánh nhau với bọn võ sĩ Khiết Đan nên không thể thoát thân được.
Đầu thuyền khói lửa cuồn cuộn, Dương Hạo và đám người của Mục Vũ đã ở cùng với nhau, những võ sĩ Khiết Đan đó trông thấy tình hình như vậy vô cùng nháo nhác. Không biết đoàn người ngựa đó ở đâu ra. Vốn ban đầu định lấy Dương Hạo làm cột mốc, hai bên không phải đối đầu mà trái lại là đồng minh mới đúng, bọn thích khách đó vội hô lớn: “Lùi lại ra sau, lùi ra sau, chúng ta không phải là quân địch!”
Mấy tên võ sĩ Khiết Đan đứng đó cũng cao giọng la hét, nhân cơ hội cũng bứt ra. Bọn thích khách đó nói tiếng Hán, lại còn có thể nói tiếng Khiết Đan, như vậy mấy tên thích khách kia càng thêm tin tưởng đối phương là cùng một hội mà thực chất không rõ đối phương là từ đâu đến và lai lịch thế nào.
Dương Hạo mất đi vũ khí, hắn tức giận lấy dầu đổ lên mạn thuyền phía bên phải. Tình hình hết sức không ổn, bởi thuyền sứ giả nhà Tống đã sớm được lên kế hoạc sẽ cập sát thuyền của hắn, nhưng trận loạn lạc này đã khiến ai nấy chạy tứ tán, trên sông không có con thuyền nào qua lại, thuyền của nhà Tống lại to, muốn áp sát thuyền của hắn e cũng không dễ dàng, tình thế vô cùng gấp gáp.
“Tình hình có biến. Bọn sứ giả đó không biết từ đâu ra, nhưng chín mười phần là do Gia Luật Văn phái đến”. Dương Hạo cùng Mục Vũ đang vừa giả vờ động thủ, vừa hạ giọng nói: “Đại nhân giả vờ giết ta rồi lập tức tháo chạy, đợi ta ở địa điểm đã định trước, ta sẽ một mình đến đó sau”.
“Được rồi, đại nhân thận trọng nhé!” Mục Vũ nhìn thấy từ đằng xa đang có ánh đuốc sáng bừng lên, đang có đại đội quan binh đi tới. Thuyền của Tiêu Hải Đào cũng đang áp sát, không muốn làm lỡ thời gian nữa, hắn vung tay vờ chém Dương Hạo, rồi giả vờ đâm tới tấp xuống người Dương Hạo, Dương Hạo lập tức lấy tay kẹp lấy.
Chiêu này là chiêu thường hay dùng trong phim ảnh, mượn góc nhìn khác để từ xa nhìn vào sẽ không thấy sơ hở. Lúc này là đêm tối, bọn họ lợi dụng khói lửa đang bốc lên từng đợt đẻ những người đằng xa không nhìn thấy rõ, Tiêu Hải Đào từ đằng xa lập tức kêu lên thất thanh, nếu như không có đám lính hộ vệ ngăn lại thì có lẽ hắn đã nhảy xuống nước rồi.
Chiết Tử Du cũng nhìn thấy, kinh hãi kêu lên một tiếng, bị đâm trúng một đao. Trong mắt nàng khi ấy chỉ nhìn thấy Dương Hạo đang nhảy ra khỏi thuyền hết sức nhanh, tay với lên và nắm vào một cái cây to mọc ven hồ, rồi leo lên bờ bên kia. Ngực Chiết Tử Du như muốn nhảy ra, hai chân mềm nhũn.
Một đội binh sĩ nhà Đường đang nhanh chóng đến bến tàu, hai đội thích khách nhìn nhau rồi không hẹn mà cùng tháo chạy, lửa bốc ngày càng cao, Chiết Tử Du dường như đang nhìn thấy Dương Hạo nhìn nàng, đột nhiên trong lòng quặn đau. Nàng đem theo hai đoạn kiếm của Dương Hạo, lảo đỏa chạy ra hướng khoang thuyền.
“Không cần!” Chiết Tử Du hét lên một tiếng như xé vỡ lồng ngực, chạy đến bên bờ sông, đầu thuyền lửa cháy bừng bừng, lửa đã thiêu gần hết con thuyền. Chiết Tử Du như người mất hồn cứ đứng đó, mắt nhìn theo đám lửa bốc lên ngày càng lớn, dường như linh hồn nàng đang bay ra khỏi thể xác.
Gia Luật Cách tóm chặt mũi tên rồi kéo, máu tuôn ra xối xả, hắn cũng không thèm để ý. Gia Luật Cách vừa rút mũi tên ra vừa nói với Đông Nhi: “ Mau lui ra phía sau!” Nói rồi vội bước tới bên hoàng đế, cánh tay hắn chảy máu không ngừng, lúc đầu còn là màu xanh tím, sau mới dần chuyển sang màu đỏ. Hắn bắt đầu thấy đau đớn, tay dường như không còn chút sức lực.
Lão vương gia nhìn thấy hoàng thượng đã bị trúng tên, trong lòng vui sướng hoan hỉ. Hắn rút đao chém ngã hai tên đại thần đang run sợ không rõ quân ta hay địch ở bên cạnh, cầm lưỡi dao vấy máu tiến về phía Gia Luật Hiền.
Lúc này đây là cảnh hỗn loạn, Gia Luật Cách cũng không rõ người vừa bị giết là địch hay ta, bèn lớn tiếng nói: “Khánh vương chớ lo lắng, đã có ta bảo vệ bệ hạ”.
Lão vương gia lớn tiếng cười: “Để bản vương chặt đứt đầu lão ta đã thì mới yên tâm được”.
Gia Luật Cách nghe mà thất kinh, mắt nhìn lão vương gia rút đao ra, chạy lại chỗ hoàng thượng. Chỉ một đao của hắn là đủ để chém hoàng thượng đứt làm hai mảnh. Tiêu hoàng hậu vội chạy tới trước mặt hắn, hai mắt mở to, lớn tiếng quát: “Đông Nhi, bảo vệ hoàng thượng hồi cung”.
Khánh vương ngẩn ra, cắn chặt răng rồi giơ đao lên, nhưng Gia Luật Cách đã nhanh chóng bước tới, lấy đao đỡ lấy đao của hắn, trên vai Gia Luật Cách bị thương, không đủ lực để chặn lại Lão vương gia. Hai ngọn đao cứ chạm vào nhau tóe ra những tia như hoa lửa, chạm đến gáy Tiêu hoàng hậu thì ngừng lại. Tay Gia Luật Cách trở nên mềm nhũn, ngọn đao trên tay rời khỏi tay rơi xuống đất.
“Khánh Vương, ngươi dám hành tích vua!” Gia Luật Cách nhanh như gió đã chạy tới trước mặt Tiêu hoàng hậu, vội nói: “Nương nương, mời nương nương về cung, ở đây đã có thần”.
Tiêu Xước vừa bị một đòn thoát chết, không nói nhiều lời với hắn nữa mà vội vàng cùng Đông Nhi đỡ hoàng thượng Gia Luật Hiền, cùng với vài tên thị vệ dìu hoàng thượng về cung. Gia Luật Cách cầm đao đứng chặn phía trước, lớn tiếng quát: “Bọn chuột nhắt, không sợ bị tru di cửu tộc sao?”
Gia Luật Cách thân hình cao lớn khôi ngô, thân vốn là một dũng sĩ phương Bắc trên thảo nguyên, là một trong số những dũng sĩ Khiết Đan nổi tiếng, đồng thời cũng là người phụ trách đi giải quyết những tranh chấp, cãi cọ theo luật pháp. Đến cả hoàng tộc đối với hắn cũng còn có phần sợ hãi, giờ phút này tuy những tên kia đều đã làm phản nhưng trước tiếng quát thị uy của hắn cũng khiến nhiều gã phải mất tự chủ mà chùn bước.
“Các vị, các vị không phải là đang muốn chiếm phương Bắc đó chứ?”
Lão vương Gia Luật lại không hề sợ hắn, hai hàng lông mày dựng thẳng lên, cây đao trong tay vẽ thành một vòng tròn trong không trung. Những tên mưu phản đứng xung quanh hơi do dự một chút, rồi cũng lần lượt chạy tới, đứng cùng Gia Luật Cách. Đến lúc này mới phân rõ thành hai chiến tuyến, hai bên ở vào thế mặt đối mặt.
Bên ngoài thành vang lên tiếng kêu kinh ngạc, vài tên lính của lão vương gia ở ngoài thành đang uống rượu tán phét cũng phải lập tức đứng dậy, rút dao ra giết lũ lính gác cổng. Xảy ra biến cố, những tên lính gác cổng mới chỉ ít phút trước thôi còn gọi bọn chúng là huynh đệ, nay đã bị hạ sát không thương tiếc, chỉ một nhát đao đã chặt đứt người bọn lính, máu chảy đầy mặt đất.
Những tên mưu phản khác đều rút ra một chiếc khăn tay trắng buộc vào cánh tay, rút đao ra, những ai mà không có ám hiệu trên tay thì đều bị chúng rút đao chém, lính không tạo phản tuy đông nhưng cũng không phải là đối thủ của bọn chúng, một đám ô hợp nhốn nháo nào có ai là đối thủ, chỉ trong chớp mắt tất cả đã bị thảm bại.
Tám tên lính hộ vệ của lão Vương gia lại không hề xuống tay giết người mà cầm những thanh huyết đao tiến thẳng về phía hoàng cung. Lúc này đây Tiêu Xước và Đông Nhi tay đỡ hoàng thượng đang hấp hối, mặt tím tái dưới bậc thềm, Tiêu Xước vội hét lớn: “ Bảo vệ hoàng thượng!”
Trong tình cảnh đó, Tiêu Xước không khỏi ngẩn ra, lập tức có vài tên lính tay thắt khăn trắng tiến đến phía nàng. Tiêu Xước cắn chặt răng, bỏ Gia Luật Hiền ra đưa cho Đông Nhi đỡ, miệng hét lớn: “ Phải mở một con đường máu, Đông Nhi, mau dìu hoàng thượng hồi cung”.
Tiêu Xước đứng tiến lên phía trước nghênh đón, có vài tên mưu phản chém chết ngay vài gã nội thị đang xông tới, một cành đại tùng hướng thẳng ngực đâm tới, Tiêu Xước quay hông né tránh, nhảy sang một bên mà thoát thân. Nhưng rồi một mũi đao khác lại lao đến, đâm xẹt qua cổ nàng, một dòng máu tươi từ từ chảy ra.
Cả thân nàng mềm oặt như người không xương, dường như có thể vì bất cứ cái mà uốn éo vẹo vọ đi, ở bất cứ góc độ nào cũng có thể công kích, như một con cá bị kích động, năm sáu tên mưu phản cậy có sức lao đến bị nàng lao vào giết phải lùi bước, mấy tên võ sĩ hầu cận trong cung trông thấy thế cũng tiến lên trợ giúp.
Đông Nhi mặc dù đêm ngày ngóng trông ngày trở về trung thổ, nhưng Tiêu hoàng hậu đối xử với nàng quả không tệ, lại thêm hai người luôn sớm tối có nhau nên tình thân như tỷ muội. Đông Nhi thấy Tiêu hậu bị dồn như một con hổ bị rơi vào bẫy, nàng cũng thục mạng chạy lên cứu cánh, đưa hoàng thượng cho vài tên nội thị đứng đó, còn bản thân nàng cũng cầm đao tiến tới.
Nhã công chúa kinh hãi ngây người, vừa nhìn thấy biến cố, La Khắc Địch vội vàng kéo nàng đến bên góc tường, còn mình với Thiết Đầu và Loan Đao Tiểu Lục đứng hình tam giác, Nhã công chúa đứng giữa, bình tĩnh quan sát những biến động xung quanh. Những tên võ sĩ đó chỉ đi tìm những người có mang vũ khí để tàn sát, nhìn thấy họ đang đứng ngoan ngoãn ở góc tường, phục trang không giống những người có vũ khí nên cũng không ai để ý đến bọn họ.
La Khắc Địch cảnh giác nhìn ra bốn phía xung quanh, mặc kệ bọn chúng muốn giết ai thì chết, còn hắn thì đứng ở cửa rơi lệ, bất động. Nhưng đứng đó trông hoàng thượng hấp hối, Đông Nhi phận nữ cầm đao giết địch mà run lẩy bẩy, dáng vẻ liễu yếu đào tơ mảnh mai của nàng đứng một mình trong vòng vây của bè lũ mưu phản khiến người ta quả thực không yên lòng, La Khắc Địch quát to một tiếng, chạy về phía Đông Nhi.
Hắn vừa đi thì ba người trong vòng vây tam giác càng có cơ hội nhìn rõ tình hình bên ngoài. Gia Luật Nhã thấy hoàng huynh, hoàng tẩu và bọn phản tặc đang vây quanh huynh tẩu của nàng, Gia Luật Nhã hét lên một tiếng rồi chạy vội ra chỗ bọn họ. Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu thấy vậy chỉ biết nhìn nhau cười khổ não, lật đật chạy theo Nhã công chúa.
La Đông Nhi là người thiên tư thông dĩnh, có học thức, dưới sự chỉ giáo của Tiêu hậu, Gia Luật Cách và đại nội thị vệ, nàng đã bắn được những phát súng rất cao. Nhưng khổ nỗi bản lĩnh cũng không cao, đặc biệt là do nàng là nữ nhi, thể lực kém hơn nam giới, lại thêm xạ thủ Tiêu xước cứ như con chạch linh hoạt kỳ lạ, loan đao trong tay nàng cũng không quan trường nên sau khi vào trận chỉ chốc lát, nàng chỉ chống đỡ được mấy chiêu thì ngọn đao trong tay nàng đã bị đoạt mất.
Tên võ sĩ đó cười lớn một tiếng, sau đó đâm một nhát nhằm thẳng ngực Đông Nhi, không hề có ý thương hoa tiếc ngọc.
“Bọn chuột nhắt các ngươi dám?” La Khắc Địch hét lớn, chân đá một cước như một cây đại tùng mọc lên từ mặt đất, hùng dũng như một con rồng, miệng hét lên một tiếng, tên võ sĩ nọ bị một cú đá ngay ngực.
Tên nọ hung hăng trợn mắt, hầm hừ vài tiếng trong cổ họng, thanh sắt trong tay rơi xuống đất, mặt ngã úp xuống đất.
La Khắc Địch chạy tới trước mặt Đông Nhi, nắm chặt cành tùng đập chí mạng, tên kia nước mắt nước mũi và máu phun trào ra, bắn ướt cả người La Khắc Địch. La Khắc Địch run rẩy hét lớn: “Đông Nhi, mau lùi ra xa!”
Gia Luật Nhã và Loan Đao Tiểu Lục, Thiết Đầu vội vàng mỗi người nhặt một binh khí rồi chạy tới, Đông Nhi thì vẫn ngoan cố không chịu lùi ra sau, vội vàng nhặt một món binh khí rồi nói: “Tứ ca đến đúng lúc lắm, mau cứu hoàng hậu”.
Vốn dĩ nếu chỉ có mình Tiêu Xước thì cũng khó bảo đảm an toàn cho hoàng thượng, bên cạnh hoàng thượng lúc bấy giờ chỉ còn có một, hai tên nội thị đang dìu hoàng thượng chạy trốn, nếu để bị bắt gặp ắt sẽ bị giết ngay tại trận. La Khắc Địch võ công không tầm thường, một mình hắn cũng có thể đấu lại với bảy, tám gã khác. Bên cạnh đó còn có Thiết Đầu và Tiểu Lục là những người sở trường đánh nhau, nên mấy người hợp lực lại cũng đủ khiến cân bằng lực lượng đôi bên, bọn phản loạn của lão vương gia nhất thời không làm gì nổi họ.
Lúc này những người trong hoàng tộc do bị thương khá nhiều, tuy chưa chết nhưng thân mang trọng thương, không thể ngăn cản đoàn người ngựa như hổ báo đang lao đến, hai bên chiến đấu với nhau đã đổ máu không ít, Khánh vương giơ mũi đao đầy máu lên trời quát lớn: “Hoàng thượng đã chết, chúng ta phải tốc chiến tốc thắng!”
Bốn tên thuộc hạ lập tức hô lớn, Gia Luật Hiền lúc này mặt đã biến sắc nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị gục ngã, hắn biết rằng Khánh vương cố ý nói vậy để làm loạn lòng quân nên cố hết sức đứng dậy trấn an binh sĩ. Nhưng cơ thể suy nhược, lại thêm vừa mới bị trúng tên nên dù mặc giáp nhưng đầu mũi tên vẫn cắm sâu vào trong lớp giáp, tuy không cắm sâu vào thịt nhưng đầu mũi tên có tẩm độc. Hắn chưa từng nhờ Gia Luật Cách tẩy độc nên đầu hơi choáng váng, đứng cũng không vững, làm thế nào mà mở miệng phản bác cho được.
Những người ở gần nhìn thấy hắn thì biết được hoàng đế vẫn còn sống, nhưng những kẻ ở xa lại không biết điều đó, trong lòng loạn trướng cả lên. Gia Luật Cách toàn thân đầy máu, đập lưỡi đao xuống bậc thềm lớn giọng quát: “Hoàng thượng vẫn sống, đừng có nghe lời bọn phản nghịch. Nghịch thần mưu phản, binh lính hãy cầm vũ khí đến đây, trừng trị bọn phản nghịch, hộ giá hoàng thượng”.
Hai bên đánh một trận lớn, thủ hạ cũng không dám lơ là, nhưng Khánh vương thì sốt ruột, hắn đã tính cả nghìn lần vạn lần rồi, đến cả số lượng vệ binh của Ngũ Phong lâu cũng tính toán hết sức chính xác, duy chỉ có La Khắc Địch, Thiết Đầu và Tiểu Lục là ba biến số mà hắn không tính đến, mà đó cũng chính là những biến số khiến thay đổi hết cục diện.
Nếu như hắn không thể nhanh chóng lấy được đầu của hoàng thượng thì không cách nào làm lung lay được bọn cấm vệ quân, như vậy thì chỉ có thể chấp hành phương án hai, nhanh chóng rời khỏi đây, chạy khỏi Thượng Kinh, chờ xem tên Gia Luật Hiền sống chết thế nào rồi quyết định sau.
Do vậy lòng hắn đang rối như lửa đốt, hắn xông pha vào những cuộc ẩu đả. Tiêu Xước nhờ có bọn La Khắc Địch tương trợ mà nhân cơ hội đưa được hoàng thượng hồi cung. La Khắc Địch vốn không định dính dáng gì tới trận chiến này, chỉ là hắn ra tay vì Đông Nhi mà thôi, nên khi thấy Đông Nhi ra về hắn cũng đi theo.
Có vài người bọn hắn bảo hộ, quân của lão vương gia tuy đã kiệt lực tử chiến mà vẫn không làm gì được, mở mắt mà nhìn bọn họ đi đến cửa cung. Trời đã về chiều, Tiêu Xước một tay đỡ Gia Luật Hiền, một tay đập cửa cung, hét lớn: “Mau mở cửa! Mau mở cửa!”
Khánh vương ức phát điên, hét lớn: “Tuyệt đối không được cho bọn chúng vào được bên trong!” Nói rồi liều mạng xông lên.
Nơi cửa cung, hai tên nội thị, Đông Nhi, Gia Luật Nhã đang đứng cách đó không xa, chỉ nghe thấy tiếng Tiêu hoàng hậu đang dặn dò những tên lính gác mau mau khép chặt cửa lại, Đông Nhi và Gia Luật Nhã vội hét lớn: “Tứ ca, mau vào đi !”
La Khắc Địch khi đó đang bị Khánh vương bám theo không rời, chỉ cần tay chân lơ là một chút là sẽ bị ngọn đao của hắn bổ đôi, đến nửa bước cũng không thể lui về sau, Đông Nhi sốt ruột, cắn răng lao ra ngoài cửa cung, nhưng đã bị Nhã công chúa ôm cứng lại, đồng thời Tiêu hoàng hậu cũng nói lớn: “Khép cửa!”
“Ầm ầm” một tiếng, cửa cung nặng nềkhép lại. Trong phút cuối khi cánh cửa khép lại, Đông Nhi và Gia Luật Nhã còn kịp nhìn thấy La Khắc Địch tay cầm thanh tùng dài giết quân địch bao vây bốn bề.
Khi hai cánh cửa đã nặng nề khép chặt lại, Tiêu Xước mới vội vàng truyền lệnh: “Mau đỡ hoàng thượng!”
Nàng vội xé áo khoác ngoài của hoàng thượng, chỉ nhìn thấy bên trong lớp áo là đầu mũi tên bị găm vào người. Nàng sợ hãi đến mềm cả người, nàng không cần nghĩ đến lớp sương mù đọng lạnh giá trong thời tiết này, lập tức cởi bỏ hết cả lớp áo ngoài cùng áo giáp của hoàng thượng. Vết thương bên vai phải của Gia Luật Hiền đã sẫm màu lại, ở giữa chỗ bị thương là đầu mũi tên, nhưng không có máu chảy ra.
Tiêu Xước hít một hơi thật sâu, không rõ chất độc đã bắt đầu lan đi hay chưa, nàng lập tức rút con dao giắt ở hông ra rồi rạch một đường nơi miệng vết thương, dùng miệng hút chất độc ra…
Cửa cung đã khép lại, Khánh vương biết cơ hội của hắn cũng đã hết, vội nói: “Rút! Chờ cơ hội phản kháng!”
Bọn chúng nhanh chóng rút đi như nước rút, để lại trên mặt đất những vũng máu và băng đọng trơn trên mặt đất. Khánh vương không thèm để ý nên bị trượt chân, thanh đao trong tay hắn mất đà rơi xuống, La Khắc Địch thừa cơ cầm thanh tùng hướng thẳng vào ngực hắn.
Bọn thân tín của hắn sợ hãi, liều mạng chạy đến bên hắn, đồng thanh hét lớn: “Lão vương gia cẩn thận”.
“Vương gia?”
La Khắc Địch chợt giật mình, trong mắt hiện lên một thần sắc rất lạ lùng, tư thế chuẩn bị phóng tới của hắn cũng không còn. Hắn miễn cưỡng đứng vững, chỉ nghe thấy “hự” một tiếng, thanh tùng sắc bén cắm thẳng vào đầu vai của Khánh vương.
Khánh vương hét lớn một tiếng, lùi lại vài bước, vài tên tâm phúc vội chạy lại đỡ, gây nên một cảnh hỗn loạn bên ngoài Ngũ Phong lâu. Những quý tộc và thân tộc hoàng gia đi ngắm đèn chạy tán loạn, mỗi người một nơi, đám quân phòng thủ như rắn mất đầu. Trước cửa Ngũ Phong lâu đầy những người chạy qua kẻ chạy lại, phía trước lại có binh lính chặn đường, đâm đầu vào là bị dính ngay một đao.
Đám người của Khánh vương vội vã chạy tới, lục tục xoay người lên ngựa, bỏ lại sau lưng những binh sĩ đã quyết tử, chúng thúc ngựa, tiếng vó ngựa như sấm, vang động cả trời đất…
*********************************
“Kéo thuyền lại đây, mau lại đây!”
Tiêu Hải Đào đứng trên bờ hét lên, Hoàng Phủ Kế Huân, Gia Luật Văn cũng đứng một bên, mỗi người có một ánh mắt khác nhau. Quân của Lý Dục đang đứng bảo hộ trước cửa Giang Nam thư viện, hắn sốt ruột như ngồi trên đống lửa, đi đi lại lại chờ tin cấp báo, còn Chiết Tử Du thì hồn xiêu phách lạc đứng bên bờ sông, nhưng không ai chú ý đến nàng cả.
Con thuyền của Dương Hạo được kéo vào bờ, vài tên binh sĩ vội lên thuyền kiểm tra. Con thuyền giờ chỉ là những đầu gỗ bị cháy đen, vẫn còn khói và nóng. Trong tình hình này nếu như có người còn sống thì cũng hóa thành quỷ rồi.
Tiêu Hải Đào thì vẫn chưa từ bỏ ý định, dưới sự chỉ đạo thúc giục của hắn, những binh sĩ ra sức tìm kiếm cả ngày trời và phát hiện được 5 cái xác bị cháy đen thui trôi dạt vào gần bờ, những cái xác đó bị đốt đen như cột gỗ, già trẻ gái trai chẳng ai có thể trông rõ và phân biệt ai với ai.
Chiết Tử Du đứng cách đó không xa, nàng biết rõ trong 5 cái xác đó có xác của Dương Hạo, nhưng nàng không thèm tiến lại gần, vẫn cứ đứng đó. Thuở nhỏ sinh ra trong nhà thế gia, lại thêm mấy năm liên tục chứng kiến những cuộc chiến chinh phục liên tục ở Tây Bắc, cái chết với nàng đã trở nên quen thuộc. Trước mắt kể cả là thây phơi ngàn dặm thì đối với nàng cũng không là gì cả. Nhưng hắn thì khác, trên thế gian này chỉ có duy nhất một người là Dương Hạo, Chiết Tử Du không cách nào chấp nhận được một con người hoàn hảo như hắn, mới đây thôi còn nói nói cười cười, một người sống sờ sờ ngay trước mắt, trong chớp mắt đã biến thành một cái xác đen ngòm. Nước mắt nàng rơi xuống tựa những hạt châu, từng hạt từng hạt lăn dài, rơi vào trong dòng nước sông Tần.
“Đây là đại nhân, đây là miệng của đại nhân…”
Trong ánh đèn chiếu rọi, ánh mắt Tiêu Hải Đào lướt qua cái xác, kêu gào thảm thiết, tiếng kêu như lạc điệu, trong cái tĩnh mịch của bến tàu, tiếng kêu đó sao thê lương dị thường.
Hoàng Phủ Kế Huân chùng xuống, nói: “Đây có phải là Dương trái sứ hay không là một việc rất quan trọng, tiêu đại nhânxem cho kỹ lưỡng đó nhé!”
Tiêu Hải Đào kích động nói: “Không thể nhầm được, đây là Dương trái sứ, còn cái vòng Phật châu này của Dương đại nhân tận mắt ta đã xem qua, được kết thành từ bảy báu vật: kim, bạc, lưu ly, sa bà trí già, mỹ ngọc, xích châu, hổ phách, thượng tuyên phật giới tam bảo Phật. Ngài xem, trên mảnh bạc này còn chưa bị thiêu, vẫn còn có hình Phật…”
Hoàng Phủ Kế Huân chăm chú nhìn lại, thấy chiếc vòng vẫn chưa bị thiêu hết, sáng ngời, bên trên còn khắc hình tượng Phật rõ rệt.
Hoàng Phủ Kế Huân khẽ chau mày, từ từ đứng thẳng người lên, hít một hơi thật sâu rồi quay người đi về phía sân Giang Nam thư viện.
Khóe môi Gia Luật Văn khẽ nhếch lên, lộ ra một nụ cười đắc ý.
“Phong tỏa toàn thành, phong tỏa toàn thành… Không, không phải… Mọi ngõ ngách của 19 châu ở Giang Nam đều phải phong tỏa, nhất định phải bắt hung thủ về quy án, huy động hết toàn bộ binh lính trong cung, nhất định phải bắt được hung thủ!”
Lý Dục tức khí gào thét: “ Sứ giả nước Tống chết ngay trước mắt thì làm sao mà qua lại được với Triệu Khuông được nữa? Ngu xuẩn, còn đứng ở đó làm gì, còn không mau đi!”
“Vâng vâng vâng!” Hoàng Phủ Kế Huân vội vã vâng lời, vội lùi ra, cùng với đó là tiếng còi hiệu xé gió vang lên, một đội quân bắt đầu tản đi ra tứ phía.
Lý Dục trấn tĩnh lại, bất lực nói: “Người đâu, màu tìm vài cỗ quan tài tốt nhất đến cho Dương trái sứ và thân tín, bó xác lại, đem về cung, tốc chiếu cho Từ Huyễn, Trần Kiều mau vào cung”.
Xác chết được gói lại đem đi, trên bến tàu đèn hai bên bờ vẫn sáng rực như thế, nhưng đã không còn du khách nữa. Dần dần, những ánh nến cũng dần tàn, cảnh vật trở lại điêu tàn. Chiết Tử Du đứng bên thềm đá ven sông, mặt đối diện với bờ sông Tần, cả người nàng và màn đêm như hòa với nhau làm một.
Nàng nhẹ nhàng cầm lấy đôi khuyên đen trong tay, đôi khuyên vẫn không hề bị sứt sẹo tí gì, chỉ có viên đá là sáng lên một màu thần bí mê hoặc, nàng âm thầm khóc: “Chàng đúng là một oan gia, không một lần nào làm ta vui vẻ. Tự dưng xuất hiện trước mặt ta, rồi lại mơ hồ rời xa ta, chàng chỉ đem lại cho ta nỗi thương lòng, Chiết Tử Du ta không biết kiếp trước đã nợ nần gì chàng…”
“Nàng không phải tính toán làm gì, mọi việc đều do trời tính, đến cả bậc đế vương tướng quân cũng không nắm bắt được vận mệnh của mình, thì làm sao nàng có thể tính toán được vận mệnh bản thân? Nàng cho rằng tính sẽ ra thiên cơ, chứ không phải tất cả đều là do vận mệnh”.
Chiết Tử Du cười buồn nói: “Ta không tính toán, ta chỉ muốn làm, chàng không tính được, ta làm được, chàng để mọi sự tuân theo thiên mệnh, kết quả lại chôn vùi chính tính mạng của bản thân mình, ta chỉ làm mà không nói, vậy có thể sửa đổi được thiên mệnh hay không? Chàng trả lời cho ta, được hay không? Chàng nói nhiều như thế, tại sao giờ đây đến một câu cũng không nói?”
Nước mắt cùng những tiếc nức nở như nghẹn lại, nước mắt rơi xuống sông, hòa vào dòng nước chảy. Nàng bất giác nhảy lên, hướng về phía dòng sông mà khản giọng kêu lớn: “Ta phải đi giết người, ta muốn tìm ra hung thủ, thiêu đốt hết cả nhà hắn, bây giờ chàng sẽ không cản ta được đâu, làm sao chàng cản ta được nữa?”
Đêm, khung cảnh yên ắng. Không một ai trả lời nàng, chỉ có tiếng nước chảy xé tiếng gió, âm âm u u như tiếng khóc than…
Sáng sớm hôm sau, bầu trời âm u, mưa phùn rơi liên tục không dứt.
Những ngày này ở Giang Nam rất sợ mưa, do sau tết Nguyên tiêu mà mưa thì sẽ mang theo cảm giác âm u ướt át, từng giọt mưa như khiến lòng người thêm ảo não, cho đến đêm mưa mới dứt, dưới mặt đất là lớp băng trơn tuột.
Mới sáng sớm mọi người đều cắm cúi bước đi, cẩn thận vì sợ trượt, hơn nữa cái lạnh khiến người ta cũng phiền muộn bất an.
Nhưng cái lạnh này lại không hề ảnh hưởng đến tâm trạng của Gia Luật Văn.
Hắn rất vui vẻ, cảm thấy thời tiết dạo này quả không tồi, tên sứ thần Đại Tống Dương Hạo đã chết, Đinh thừa Nghiệp cũng an toàn chạy trốn về dịch quán, tuy chân bị thương nhưng cũng còn tốt, không bị thương ở phần mông, không ảnh hưởng đến quan cảm của Gia Luật Văn khi hắn sủng ái “mỹ nhân” của hắn.
Gia Luật Văn tự tay bó thuốc cho Đinh Thừa Nghiệp, ngon ngọt trấn an hắn, rồi còn tự tay dùng mỡ ngựa để chăm sóc mông hằng ngày, sắm sửa xiêm y đẹp và mỉm cười vào cung.
Trận loạn lạc đêm qua hắn cũng không rõ rút cuộc đã xảy ra chuyện gì, ngoài đoàn người ngựa của hắn còn có một đoàn khác là thuộc hạ của Dương Hạo, hơn nữa đoàn người đó còn là người Khiết Đan. Không, chính xác hơn mà nói thì không phải là có hai đoàn, phải là ba mới đúng. Sát thủ muốn giết Đinh Thừa Nghiệp chỉ có một người, khi hỏi rõ Đinh Thừa Nghiệp thì hắn cũng không rõ chính xác thân phận tên sát thủ là ai, có điều tiểu tiết này cũng chẳng cần để ý, Dương Hạo đã chết, như vậy là hắn mãn nguyện rồi, vậy là thành công rồi.
Bánh xe lăn lộc cộc, nghiến những hòn sỏi trên đường tạo nên một thứ âm thanh như có nhạc.
Mở rèm cửa ra nhìn, một màn mưa trắng hiện ra trước mắt, ngoài đường người đi lại rất ít, phong cảnh quả là như họa như thơ.
Gia Luật Văn tâm trạng rất tốt, cục diện hiện rất mỹ mãn.
Muộn nhất là đến ngày kia, hắn sẽ có tin tức từ Thượng Kinh.
Trong lòng Gia Luật Văn không khỏi không cảm thấy sốt ruột, nhưng sau khi sự việc phát sinh, rất cả những lo sợ căng thẳng đã biến mất rồi. Hiện tại có lo lắng cũng không có tác dụng, hắn chỉ cần thản nhiên đối mặt là được rồi.
Hơn nữa, kế hoạch của phụ vương cũng đã nắm rất chắc, kể cả không thể ngay lập tức lấy mạng hoàng đế và hoàng hậu được, chỉ cần chạy khỏi được Thượng Kinh thì cũng có thể xây dựng căn cứ và dấy binh, hắn ở đây đã thuận lợi giết chết được tên Tống sứ, chỉ cần quân Tống kích động Bắc phạt thì… Gia Luật Văn thở một hơi thật sâu, chậm rãi ưỡn ngực…
“Quốc vương, có sứ giả Khiết Đan cầu kiến!”
“Gia Luật Văn? Hắn đến làm gì? Cho hắn vào đi”. Lý Dục mắt đỏ ngầu ngước đầu lên, sau một đêm hội họp với các quan đại thần, đến tận sáng nay các quan mới rời cung, Lý Dục không có một phút nào được nghỉ ngơi. Chính vì đau đầu suy nghĩ xem làm thế nào để xử lý vụ việc của sứ giả nhà Tống. Không ngờ rằng tên sứ giả Khiết Đan lại đến làm phiền, hắn lại không thể đắc tội.
Gia Luật Văn ngẩng đầu ưỡn ngực đi vào điện, nhìn thấy bộ dạng của Lý Dục không nhịn nổi cười, chắp tay thi lễ: “Quốc vương vẫn còn đang đau đầu vì chuyện của Tống sứ ư?”
Lý Dục than thở: “Tống sứ cuối cùng có phải là bị người hành thích hay không? Hung thủ đã chạy đi đâu rồi? Làm sao quả nhân có thể tạ lỗi với nhà Tống, làm sao không lo cho được?”
Gia Luật Văn cười to: “Quốc vương hà tất phải ưu phiền, muốn tìm ra hung thủ có gì khó?”
Lý Dục vui vẻ, đứng bật dậy, nhoài người ra phía trước hỏi: “Sứ giả Gia Luật Văn biết tung tích của hung thủ? Bọn chúng đang ở đâu? Xin sứ giả Gia Luật hãy cho quả nhân biết, quả nhân lập tức phái người đi bắt chúng”.
Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Hung thủ à, xa tận chân trời, gần ngay trước mắt”.
Lý Dục sững người, mặt biến sắc hỏi: “Sứ giả Gia Luật hà cớ gì cứ phải trêu quả nhân”.
“Ngoại thần không dám, thích khách giết chết Tống sứ chỉ có thể ở đây. Nếu như không phải là người ở đây thì ai có gan như thế?”
Lý Dục ngơ ngác đứng sững hồi lâu, kinh ngạc nói: “Ngươi… ngươi… ám chỉ ngươi chính là kẻ ám sát Tống sứ? Như vậy làm thế nào cho phải? Ta phải làm thế nào cho phải?”
Gia Luật Văn cười lạnh lùng: “Thần muốn mách cho quốc vương một cách, không biết quốc vương có hứng nghe hay không?”
Lý Dục chần chừ nói: “Xin Gia Luật sứ cứ nói thẳng”.
Gia Luật Văn nói: “Thần có một cách, nếu như Quốc vương muốn nghe thì thần cũng xin nói. Tội mưu sát Tống sứ thần xinh nhận, để giải mối nguy trước mắt của bệ hạ. Đồng thời, Giang Nam vẫn hay bị nhà Tống ức hiếp, sớm muộn gì nước Đường cũng sẽ đi vào vết xe đổ của Kinh Hồ, Tây Thục, Nam Hán… mà thần thì.. lại có thể giải trừ nỗi lo trong lòng bệ hạ, để cho nước Đường được khuếch trương không ngừng, không biết ý Quốc vương thế nào?”
Lý Dục trợn mắt há mồm, cơ hồ như không dám tin vào những điều tai mình vừa nghe nữa, lắp bắp nói: “Ngươi… ngươi nói cái gì? Làm sao có thể…”
Gia Luật Văn cười nói: “Như thế nào là không thể?”
Hắn đem tờ kế hoạch mưu phản Thượng Kinh và liên thủ đánh Tống ra nói: “Ngài xem, chúng ta có thể ký hiệp định liên minh ngầm mà không tuyên bố ra, nhất định thần sẽ tự nhận mình là hung thủ. Thần vẫn là sứ giả của nước khác, được nước Đường mời tới, giết một sứ thần của nước khác thì mặc dù nước Đường có phiên tiết cũng sẽ không tránh khỏi trách nhiệm với nước Tống. Theo lễ thì ngài không thể bắt giam ngoại thần, nước Tống có cách gì trị ngài? Đến khi Quốc vương viết thư kể rõ căn nguyên đầu đuôi câu chuyện cho nước Tống thì đó sẽ là chuyện giữa Khiết Đan và Tống rồi”.
Lý Dục ấp úng nói: “Nước Tống… nước Tống sẽ từ bỏ ý đồ như vậy sao?”
Gia Luật Văn cười lạnh nói: “Cứ cho là chúng không từ bỏ ý đồ thì lúc đó cũng là trận chiến với quân Khiết Đan ta rồi. Kẻ giết người là sứ giả Khiết Đan, lẽ nào vua nước Tống chịu cho qua mà cứ dẫn binh sang gây chiến với nước Đường? Chúng chỉ ỷ mạnh hiếp yếu, quân vương thiên hạ xưa nay chẳng có ai thế.
Quốc vương, với dã tâm của nước Tống thì chúng muốn làm bá chủ Trung Nguyên, nếu như có tranh chấp với quân Khiết Đan thì thiên hạ đều phải mở to mắt ra mà trông. Nếu như quân Tống lại không có hứng động binh thì ắt chẳng còn mặt mũi nào. Do vậy, chỉ cần chúng chỉ huy quân Bắc phạt thì người Khiết Đan sẽ dơ đao ứng tiếp, đợi thần thuận buồm xuôi gió lên ngôi hoàng đế thì thần sẽ tự mình đánh cho quân Tống phải lùi bước, đem đất đai của chúng quy y về một mối.
Đến lúc đó, liên minh của chúng ta mới có hiệu lực, Quốc vương có thể nhân đó mà phục hận nước Tống, chúng ta kẻ Nam người Bắc tấn công thẳng vào Tống, tiêu diệt đại Tống, khi đó sẽ lấy sông Trường Giang làm biên giới, phần phía Nam là của Quốc vương, thuộc về đất nhà Đường, phần phía Bắc sẽ là của thần, hai nước chúng ta cùng chia nhau cai trị, mãi mãi kết huynh đệ, như vậy là tuyệt sách. Ý quốc vương thế nào?”
Lý Dục ngồi quay trở lại ghế, mặt xám xịt, hồi lâu cũng không nói được lời nào.
Gia Luật Văn mỉm cười, chậm rãi tới gần rồi hạ giọng nói: “Giang Nam có thể cứ ngồi im mà quan sát thay đổi, cho đến khi đại cục đã phân chia rõ ràng mới thực hiện liên minh. Nếu như Bắc quốc không thể tiêu diệt nước Tống thì nước Đường cứ im lặng làm ngơ về vụ việc Tống sứ bị chết, nước Tống ắt sẽ không gây chiến với hai nước một lúc đâu.
Nếu như ta chinh phạt Bắc quốc thành công thì sẽ dập tắt nhuệ khí của quân Tống, Quốc vương mà thừa cơ phát binh thì Nam Bắc cùng đánh, thì nước Đường không cần phải hướng Tống cầu an, lại có thể mở rộng biên giới, ngồi một chỗ mà nắm cả giang sơn. Cách này có thể gọi là có công mà không thủ, cần gì phải băn khoăn?
Quốc vương, hai đời vua trước đều là những anh hùng làm rung chuyển đất trời, hôm nay quốc vương ngồi canh giữ Giang Nam, dưới trướng có hơn mười vạn người, lẽ nào không muốn giống như những bậc tiền bối, kiến bắc lập nghiệp, khai cương lãnh thổ, thành một anh hùng để đời sao?”
Lý Dục chậm rãi ngẩng đầu lên, mặt không còn ý phẫn nộ nữa mà là một bộ mặt không có lực để thoát khỏi sự nguy nan, lớn tiếng nói: “Ngươi… ngươi muốn quả nhân thế nào?”
Gia Luật Văn cười tựa như một tên ác ôn, lôi từ trong áo ra một hiệp ước đã được viết sẵn, từ từ đặt lên án, mở ra trước mặt Lý Dục, nhẹ nhàng nói:
“Quốc vương xem thử xem, nếu như không có ý kiến gì thì xin mời ấn dấu…”
***********************
Trên mặt bàn đặt một thanh đoản kiếm, trên lưỡi kiếm có vài lỗ thủng, những đoạn đứt được dính với nhau làm một nhưng vẫn lộ rõ vết nứt không lành lặn. Đặt trên bàn, nó vẫn là một thanh kiếm hoàn hảo, nhưng không thể nào cầm lại Thanh Sương kiếm đã gãy. Dương Hạo đã mất, lúc này đây Thanh Sương kiếm cũng giống như trái tim của chủ nhân nó, đã vỡ, dù làm thế nào cũng sẽ vẫn còn vết thương.
Chiết Tử Du ngồi bên bàn, mặc một bộ y phục màu đen, eo thắt đai trắng, lẳng lặng lắng nghe tiếng gió rít ngoài cửa sổ, hồi lâu không nói gì. Đột nhiên, cửa sổ có tiếng mở khe khẽ, Chiết Tử Du ngẩng đầu, chỉ trông thấy Chương
Thập Tam đang đứng ở bậc thềm, trong màn mưa.
“Tiểu thư, sứ giả Khiết Đan vừa vào cung tự nhận mình là hung thủ giết Dương trái sứ”.
Chiết Tử Du không động đậy, nét mặt cũng không có chút biểu hiện kinh hoàng, chỉ có mí mặt khẽ cụp xuống, dường như đang trôi vào trong một dòng suy nghĩ nào đó.
Chương Thập Tam nói: “ Sứ giả nhà Tống Tiêu tự thừa rất phẫn nộ, đang vào cung gặp hoàng thượng, bị Hoàng Phủ Kế Huân chặn lại, sợ sứ giả hai bên sẽ động thủ. Hoàng Phủ Kế Huân đã điều động binh lính bao vây dịch quán của sứ giả nhà Tống. Vua nước Đường Lý Dục đã lên tiếng đuổi sứ giả Khiết Đan về nước, lệnh cho Gia Luật Văn trong vài ngày phải rời khỏi đây, viết thư tạ tội với triều Tống”.
Khóe môi Chiết Tử Du lộ ra một nụ cười chế giễu: “Người Tống không giết nổi Gia Luật Văn, Lý Dục không dám giết Gia Luật Văn, chúng ta đi”.
Chương Thập Tam giật mình nhìn nàng: “Tiểu thư…, chúng ta chỉ có hai người…”
Chiết Tử Du thản nhiên nói: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, chỉ cần lợi dụng đủ ba yếu tố thì một người có thể giết hàng vạn người”.
Chương Thập Tam bất an nói: “Thiên kim tiểu thư, đừng dễ dàng mạo hiểm, thuộc hạ không dám tuân lệnh. Sứ giả Khiết Đan sẽ rời khỏi đây trong vài ngày nữa, thuộc hạ sẽ tập trung bố trí bẫy ở khắp nơi, tuy người không đủ nhưng ít nhất còn ăn chắc hơn”.
Chiết Tử Du đứng thẳng lên, ánh mắt lướt qua Chương Thập Tam rồi nhìn vào màn mưa trước mặt, nhìn ra phía bầu trời âm u, hồi lâu mới nói: “Chàng đang ở trên trời dõi theo ta…”
Cảnh đêm tuyệt đẹp. Cơn mưa phiền lòng người mưa ròng suốt cả ngày trời và dường như vẫn chưa tạnh.
Gia Luật Văn uống rượu say sưa rồi mới rời khỏi hoàng cung, leo lên xe của mình với sự bảo vệ của ba mươi sáu quân hộ vệ.
Gần đây hắn quả là may mắn, sự việc của vua Giang Nam đã giải quyết thuận buồm xuôi gió, trong lòng đã có liên minh ngầm, Gia Luật Văn đắc ý cười lớn, bây giờ hắn chỉ còn đợi tin tức từ Thượng Kinh nữa thôi. Hai ngày này nên làm gì nhỉ, mỗi lần giết người, dục vọng của hắn đều rất lớn, nghĩ đến cảnh đám người của Dương Hạo đã từng cười nhạo hắn cũng bị một mồi lửa cho cháy đen thui như thế lòng hắn lại càng hưng phấn.
Nhưng vết thương ở chân Đinh Thừa Nghiệp không phải là nhẹ, làm thế nào có thể chữa khỏi trong vài ngày được… À, ta có thể tìm vài mỹ nhân Giang Nam, thưởng thức cái tư vị của con gái ở đây xem thế nào.
Gia Luật Văn cười ha hả vén rèm ra ngó, bên ngoài trời vẫn mưa, trời ẩm ướt đến ngán ngẩm. Đây là con đường quay về dịch quán, hai bên đường là những tảng đá lớn, bên thấp bên cao, mưa dọc theo tảng đá đổ nước xuống ầm ầm, ướt đến mức mặt đá như sáng cả lên.
Hai bên đường là những tường viện cao cao, mái ngói bằng gạch xanh, trong sân là những mái hiên cổ kính thanh tao uốn cong cong, hầu hết đều là nhà khá giả. Hoàng hôn đã thẫm màu, lại là một ngày trời mưa không ngớt, trên đường không có ai qua lại, ánh sáng từ những chiếc lồng đèn treo cửa của các nhà hai bên đường khiến không gian càng thêm tĩnh mịch, những chiếc lồng đèn khẽ đung đưa trong cơn mưa chiều.
Gia Luật Văn gọi một tên tâm phúc đến, dặn dò hắn đi đến vài lầu xanh nổi tiếng của Giang Nam tìm một vài mỹ nhân về dịch quán cho hắn say sưa một chầu, còn chưa dặn dò hết thì ngựa đột nhiên dừng lại, Gia Luật Văn khẽ chau mày, hỏi: “Có chuyện gì thế?”
Xa phu phía trước trầm giọng nói: “Đại nhân, phía trước có người chặn đường”.
“Hả?” Gia Luật Văn nheo mày, nắm chặt chuôi đao, đi ra khỏi xe, ngồi bên cạnh phu xe và mở dù.
Gia Luật Văn nhìn về phía trước, trước mặt đã là gần cuối đường, nơi đó có một người đang đứng, vóc dáng yểu điệu, bộ y phục màu đen trên người cô gái không làm sao che nổi dáng vóc và đường cong uyển chuyển.
Gia Luật Văn cười, hôm nay hắn quả là may, vừa mới nghĩ đến phụ nữ thì phụ nữ đến, mà lại là một cô gái trẻ trung xinh đẹp, vóc dáng động lòng người nữa chứ.
Hắn không biết người con gái này khi đến đây có ý đồ gì, nhưng giữa nơi mà hai bên đều là nhà cao, không có gì che chắn, đằng trước không có gì, hơn nữa đó chỉ là một cô gái mà thôi, một cô gái thì có thể làm được gì? Giết chết hắn trên giường ư?
Hắn không ngại bị phụ nữ giết chết trên giường, giết được hắn dục tiên dục tử.
Ba mươi sáu tên lính hộ vệ đã tới sát xe ngựa của hắn, bọn chúng ai cũng nắm chặt đao, chỉ chờ nghe lệnh Gia Luật Văn.
“Ta muốn cô ta sống, không làm bị thương một sợi tóc của cô ta!” Gia Luật Văn hạ lệnh một tiếng rồi quay vào ngồi bên trong xe. Tất nhiên rèm cửa vẫn còn được buộc lên cao, hắn muộn nhìn xem bọn thuộc hạ xử lý cô gái như thế nào. Cô nàng mặc một bộ đồ bó sát, Gia Luật Văn chỉ hy vọng cô gái này không nên quá yếu đuối, như vậy thì trò chơi mới thú vị.
Còn về thân phận cũng như ý đồ khi đến đây của cô gái, có thể hỏi trên giường – sau một trận mây mưa đã đời, sau đó sẽ cho cô nàng vừa mây mưa vừa khai báo. Gia Luật Văn nghĩ thầm rồi cười một cách tà ác.
Đột nhiên hắn phát hiện cô gái đó đang cười, khi bốn tên thị vệ chĩa đao về phía cô gái, giống như bốn con sói đang vây lấy con cừu non, nàng cũng vẫn chỉ cười. Mỹ nhân khi cười như mây tan nguyệt tỏa, hai mắt Gia Luật Văn sáng lên, không kìm nén được mà cúi người về phía trước, muốn ngắm rõ hơn nét cười mê lòng người ấy.
Sau đó, hắn đánh hơi thấy không khí có chút gì lạ lạ, nhưng vẫn chưa thể ngửi ra được cái lạ đó là gì. Hắn nhìn thấy cô gái mặc bộ đồ ôm sát màu đen, thắt đai lưng màu trắng, vóc người xinh đẹp, ném ngọn đuốc đang cầm trên tay về phía trước, động tác rất nhẹ nhàng sau đó vang lên một tiếng “phừng”, trước mặt Gia Luật Văn đã biến thành một biển lửa.
“A! A! A!...” Tất cả đám thị vệ đều bị biển lửa bao vây, phía trước mặt là lửa, cả con đường cũng là lửa, ngọn lửa cao như một đóa hồng liên, hơi bốc lên ngùn ngụt, tất cả những người trong đám lửa cũng như biến thành người lửa.
“Tại sao có thể thế này, sao lại thế?” Gia Luật Văn kinh ngạc chưa hiểu gì, phu xe hoảng loạn run rẩy thúc ngựa, muốn dùng vó ngựa nhảy ra khỏi vòng lửa, nhưng một tiếng kêu xé gió đã vang đến. Phu xe cũng là một cao thủ bắn cung, hắn rất rõ tiếng động đó tuyệt đối không phải là tiếng cung tên bắn tới mà là nỏ, là liên nỏ, một thiết nỏ có mười mũi tên.
Phu xe cúi người xuống, hắn phát hiện người bắn thiết nỏ đó không phải là người, mà là ngựa. Ngựa hý một tiếng dài, rên rỉ, tên phu xe và một tên hộ vệ trên xe ngã xuống đất, lập tức bị nuốt vào vòng lửa.
Tiếng kêu thê lương như tiếng quỷ vọng lên bốn phía, Gia Luật Văn ngồi trong xe, tạm thời tránh khỏi bị lửa thiêu, nhưng bốn phía đều là biển lửa, màn cửa đã bị cháy rồi, hắn không thể tiếp tục ngồi trên xe được nữa. Gia Luật Văn gầm lên một tiếng, xé đôi tấm đệm ngồi dùng che mặt, rồi hắn thả người nhảy xuống đất.
Hắn đã không thể quay đầu nữa rồi, lửa đã bốc lên rất mạnh, cả mặt đất đều là biển lửa, hắn cũng không thể chạy đến hết đường được, như vậy chỉ có cách chôn thân trong biển lửa. Hắn biết rằng phía trước có cô gái mặc áo đen đang đứng, và ít nhất một nỏ thủ đang núp trong bóng tối, nhưng hắn không còn sự lựa chọn nào khác.
Gia Luật Văn bước nhanh về phía trước, đụng ngay phải một tên thị vệ người đầy lửa, chạy đến đâu cũng đụng phải thị vệ, Gia Luật Văn chạy nhanh về phía trước. Cả râu và tóc của hắn đều bị lửa đốt, hai chân đã bị lửa liếm vào mà hắn hoàn toàn không để ý. Hắn không thể chết ở đây, không thể chết dễ dàng trong tay một người con gái. Hắn phải lên làm vua, hắn phải trở thành một vị hoàng đế vĩ đại nhất của Khiết Đan. Hắn phải đánh cả Trung Nguyên, thống nhất thiên hạ, đó là sự sắp đặt của thiên mệnh rồi. Hắn làm sao có thể chết được? Làm sao có thể chết thế được?
Cơ thể hắn bắt đầu đau, hai mắt cũng không mở được ra nữa. Gia Luật Văn cuối cùng cũng chạy ra khỏi được vòng lửa, cảm giác thấy được sự mát mẻ trước mặt. Hắn biết rằng mình đã thoát khỏi biển lửa, hai mắt hắn mở to và trông thấy một cô gái tóc đen dài tung bay trong gió, trong tay cầm một sợi dây mảnh. Sợi dây đó chắc là được làm từ kim loại, vì bị lửa liếm qua mà nó cũng không hề bị đứt.
Nàng đang đứng nhìn Gia Luật Văn chạy khỏi vòng lửa như hỏa nhân mà cười. Nụ cười vẫn đẹp như thế nhưng Gia Luật Văn nhìn thấy tựa như thấy ma quỷ, chỉ thấy tay nàng nhấc lên, dùng lực kéo, sợi dây trong tay nàng giống như một tấm lưới mảnh. Gia Luật Văn ngó theo, chỉ thấy bên ngoài vòng lửa là những sợi dây mảnh được kéo từ bên nọ sang bên kia, lúc này đây hắn mới phát hiện trên đầu tường có vài cái hũ. Như vậy là bóng đêm đã che mắt khiến hắn không nhìn rõ, bây giờ nhờ có ánh lửa hắn mới trông được tường tận.
Sợi dây kéo một cái, chiếc hũ rơi xuống đất vỡ tan tành, dầu từ trong hũ tràn ra khiến ngọn lửa càng thêm cháy mạnh. Lửa bốc lên cao càng khiến Gia Luật Văn tức giận, hai cây nỏ dài tám tấc cắm trúng vào ngực hắn. Nỏ cực cứng, xuyên vào trong người hắn, đem theo Gia Luật Văn ngã ngược trở vào đống lửa đó.
Hắn không cam lòng mà trừng mắt nhìn cô gái mặc y phục đen, da đầu hắn bị cháy trụi, mặt đầy bọt máu, trông hắn giống như một con quỷ, cố nắm lấy cây đao chống giữ mà hít mạnh, kêu gào thảm thiết. “Phực, phực” lại thêm hai cây nỏ sắt cắm thẳng vào người hắn, Gia Luật Văn lộ ra một nụ cười còn khổ sở hơn khóc, khắp mặt đầy những bọt máu, dữ tợn vô cùng.
Gia Luật Văn từ từ ngã xuống, lửa tràn ra, đôi chân hắn đã bị lửa nuốt hết, thiêu dần cơ thể hắn từng tí từng tí một. Hắn đã không còn lực để di chuyển nữa, mắt hắn dần ảm đạm rồi trắng bệch. Bốn cây nỏ sắt xuyên thủng người hắn, giờ thì đến thánh cũng không thể cứu nổi mạng hắn nữa rồi. Mà cô gái kia, từ đầu chí cuối vẫn còn chưa động thủ với hắn.
Một người từ phía trước thôn chạy lên, đem đống nỏ sắt trên tay thả vào biển lửa, cô gái nọ quay người đi, thản nhiên dặn dò: “Đem hắn vứt lại vào lửa để thiêu thành tro luôn”.
Người đàn ông nọ chạy về phía trước. Gia Luật Văn đến chết vẫn nhìn trân trân vào nàng, nhưng nàng đã quay người bước đi. Gia Luật Văn từ đầu chí cuối vãn chưa được nhìn rõ dung mạo của nàng, thân hình uyển chuyển, đúng là “sơn cao nguyệt tiểu, thủy lạc thạch xuất”, so với nhiều mỹ nữ Trung Nguyên thì các đường nét của nàng đều rõ ràng, nhưng Gia Luật Văn chỉ có thể nhìn được dáng đằng sau của nàng mà thôi.
Đôi bông tai bằng ngọc đen khéo léo tinh xảo rủ xuống trên đôi tai nàng. Trên đôi bông tai có một đường vân kỳ dị như hai mắt rắn, đôi khuyên đó như sáng lên nhờ đống lửa đang cháy ngùn ngụt. Cổ nàng xinh đẹp như thiên nga, làn da trắng nõn nà như được làm bằng ngọc, đôi khuyên tai mắt rắn đen càng làm cho nàng thêm đẹp, vẻ đẹp khiến người ta phải kinh sợ…
Một đôi chân che lấp tầm nhìn của hắn, đôi chân đó không quan tâm đến địa vị quý tộc cao quý của hắn mà cho hắn ngay một cước vào mặt. Có tiếng mũi bị gãy, cả phần người còn lại của Gia Luật Văn bị đá vào trong biển lửa.
Bốn bề đều là lửa cháy rừng rực, sáng vô cùng, hắn đã vĩnh viễn chìm vào trong bóng tối rồi… không còn hơi thở nữa, ngọn lửa đã nuốt gọn cả người hắn, nuốt luôn cả bản liên minh hắn ôm trong lòng…
“Quốc vương, quốc vương…”
Dạ Vũ thở hổn hển chạy vào Thanh Lương điện, Lý Dục tâm trạng không thoải mái một chút nào. Hắn tuy đã ký hiệp ước với Gia Luật Văn, cố lấy dũng khí mà sống, vì bá nghiệp chiến tranh với Tống, nhưng trong lòng vẫn thắc thỏm không yên, đến thơ ca là thứ hắn vốn yêu thích mà giờ cũng cảm thấy không còn hứng nữa.
Lý Dục đang suy nghĩ mông lung, muốn viết thư mời tiểu sư phụ trong Kê Minh Tự vào cung bốc quẻ xem cát hung tiền đồ thế nào thì thấy Dạ Vũ hớt hải chạy tới. Lý Dục thấy chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì nên vội hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?”
Dạ Vũ thở hổn hển, chỉ ra phía bên ngoài nói: “Gia… Gia…Gia Luật sứ trên đường hồi cung đã bị giết, Trường Hạng hóa thành biển lửa, ba mươi sáu người hộ vệ, một người phu xe, hai con ngựa, toàn bộ đều bị chôn vùi trong biển lửa. Ai cũng bị cháy thành tro, thật là thảm quá, không chừa lại một cái gì…”
“Bịch!” Lý Dục như cái bao bị cắt đứt dây, rên lên một tiếng rồi ngồi phịch xuống ghế, sau đó mới nhảy lên như một quả bóng da, nói: “Hoàng Phủ Kế Huân tên khốn ấy đang làm gì? Quả nhân đã gọi hắn đi trông coi nhà Tống sứ mà hắn lại để xảy ra việc báo thù này, làm sao… làm sao có chuyện này được chứ. Quả nhân phải trị tội hắn, quả nhân muốn diệt cả nhà hắn!”
Lý Dục tức khí nói, Dạ Vũ mặt mày đầy mồ hôi, run rẩy nói: “Quốc vương, nay làm thế nào bây giờ? Sứ giả nước Tống và sứ giả Khiết Đan đều bị chết trên đất nhà Đường, chúng ta… chúng ta phải làm sao cho phải?”
“Có liên quan gì đến quả nhân?”
Lý Dục vung tay, nói năng loạn xạ: “Sứ giả Khiết Đan giết sứ giả nhà Tống… sứ giả nhà Tống báo thù sứ giả Khiết Đan, quả nhân đối đãi với bọn họ như thượng khách, bọn họ làm sao lại giết tới giết lui… chẳng có liên quan gì tới quả nhân”
Hắn đi đi lại lại trong điện hai vòng, cũng biết rằng những lời nói đó không thể nào ứng phó được với Khiết Đan và quân Tống, hắn tức giận đạp một cái xuống đất rồi quát: “Mau triệu Từ Toàn và Trần Kiều đến!”
“Rõ!” Dạ Vũ lật đật định chạy đi thì đã bị Lý Dục quát gọi lại: “Truyền chỉ, dặn Hoàng Phủ Kế Huân đối với đoàn nhà Tống ôn hòa một chút… chớ có quá đáng làm bọn chúng tức giận”.
Hôm nay hắn vốn đã ký hiệp ước với Gia Luật Văn, trong lòng vốn đã định theo Khiết Đan, nhưng nay Gia Luật Văn đã chết, Lý Dục thấy nhà Tống báo thù kinh hãi như vậy trong lòng lại dần ngả về phía Tống. Dũng khí vừa mới được nhem nhóm lên lại bị dập tắt, hắn lại trở nên sợ làm người Tống tức giận.
*****************************
Dương Hạo bị hành thích rồi chết cháy trên thuyền, ngay sau đó thái độ của nhà Đường có thay đổi, Tiêu Hải Đào vừa tức vừa bực, đi tìm Hoàng Phủ Kế Huân kháng nghị. Nhưng Hoàng Phủ Kế Huân chỉ cười cười, mắng cũng không sợ, đánh cũng không giận, còn ra lệnh đoàn nhà Tống không được rời khỏi dịch quán, binh sĩ nhà Đường bao vây hết đoàn nhà Tống lại chẳng khác nào giam lỏng họ.
Tiêu Hải Đào không làm gì được, chỉ có thể quay về dịch quán, tỉ mỉ xem xét thái độ của nhà Đường, cảm thấy ắt phải có nguyên nhân gì đó. Hắn bèn tìm Chương Đồng Châu thảo luận đối sách, hai người nói với nhau hồi lâu mà vẫn không đưa ra được ý gì.
Chương Đồng Châu thân là quan võ nhưng lại để đại sứ nhà mình mất mạng, tự cảm thấy tội mình rất nặng, không biết làm gì hơn ngoài than ngắn thở dài: “Dương trái sứ chết thảm quá, ta lại không làm gì được, mất hết thể diện nhà Tống. Lần này quay về nhất định sẽ chịu tội với triều đình, làm thế nào đây?”
Tiêu Hải Đào cũng lộ vẻ lo lắng: “Ta đợi trừng trị thì cũng phải rồi, hôm nay thấy nhà Đường trở mặt quá, ta e rằng Lý Dục đã sợ hãi bọn Khiết Đan kiêu ngạo rồi”.
Người Khiết Đan hào khí hừng hực như thế, e rằng không có lợi cho ta. Chỉ sợ rằng… việc đi sứ lần này của chúng ta chẳng thành được việc nào, lần này về cung ắt tội cũng không nhẹ đâu…”
Chương Đồng Châu than thở nói: “Mất chức quan thì mất vậy, hiện giờ người Đường sợ chúng ta sẽ đi báo thù người Khiết Đan nên canh chúng ta như phạm nhân. Bản quan cũng thôi, đại nhân ngài có biết không, bản quan ở dưới trướng những lão gia đó, ở Khai Phong vốn là tiền thị vệ, coi trời bằng vung, kiêu ngạo nhận chiếu đến nước Đường, có trái sứ là chỗ dựa. Vốn thường diễu võ dương oai không ai bì được, nay lại bị coi như tù nhân thế này, bảy người không phục tám người không cam lòng, đến cái tên coi chúng ta mắt không ra mắt mũi không ra mũi. Ôi, bản quan là một nam tử hán mà để ta phải chịu nhục như thế thật mất mặt quá!”
Tiêu Hải Đào càng nghe càng thấy phiền muộn, hắn đứng dậy đi vài bước, nhận thấy tình cảnh trước mắt đang vô cùng khó khăn. Đột nhiên cảm giác được bên ngoài có động, hắn nhòm ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy bọn lính gác đã rời khỏi sân, không nén được kinh ngạc mà thốt lên: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Chương Đồng nhảy ra sân xem, nói: “Để ta đi dò xét xem sao”.
Chương Đồng Châu đi chưa đầy một tuần nhang đã vui vẻ trở về, kích động nói: “Tiêu thừa đại nhân, Gia Luật Văn chết rồi, ha ha ha, Gia Luật Văn chết rồi”.
Tiêu tự thừa không dám tin vào tai mình, kinh ngạc hỏi: “Gia Luật Văn chết rồi? Làm sao lại thế được?”
Chương Đồng Châu cười nói: “Ai dám đem chuyện này ra đùa chứ, là do chính miệng Hoàng Phủ Kế Huân nói đó. Ha ha, người như hắn đúng là loài rắn độc, vừa nhìn thấy bản quan đã vội xun xoe nịnh nọt. Hắn tuy không dám nói hẳn ra là chúng ta đã phái người đi giết Gia Luật Văn nhưng ta nhận thấy bọn chúng nghĩ rằng Gia Luật Văn bị chết bởi tay chúng ta. Xem thái độ cung kính sợ sệt của hắn thật bản quan chỉ muốn cười to lên thôi”.
Tiêu Hải Đào vội la lớn: “Chương đại nhân, Gia Luật Văn cuối cùng bị chết như thế nào? Ngài mau nói cho ta nghe rõ”.
Chương Đồng Châu kể lại câu chuyện mà hắn nghe được từ Hoàng Phủ Kế Huân thuật lại cho Tiêu Hải Đào, Tiêu Hải Đào nghe xong mới tin, cũng kinh ngạc không kém mà rằng: “Là ai đã giết Gia Luật Văn? Cuối cùng mục đích của bọn chúng là gì?”
Chương Đồng Châu cười nói: “Chẳng cần biết là ai đã giết, nhưng hắn đã chết, đó là chuyện đáng mừng”.
Lúc này trong sân đoàn sứ giả nhà Tống ai nấy đều đã biết tin, tiếng hoan hô dội lên như sấm, Tiêu Hải Đào đứng ở cửa sổ, sung sướng nhìn bọn lính reo hò. Còn bên sân dịch quán của sứ giả Khiết Đan chỉ thấy rất nhiều binh sĩ nhà Đường tiến đến như muốn đàn áp hỗn loạn.
Tiêu Hải Đào quan sát một lúc lâu, ánh mắt lấp lánh, càng ngày càng trầm xuống. Hắn quay người lại, nói với Chương Đồng Châu đang vui mừng hớn hở: “Gia Luật Văn chết như thế tất nhiên là chuyện đáng vui mừng, nhưng… có giúp ích được gì cho tướng quân và ta?”
Chương Đồng Châu kinh ngạc hỏi: “Đại nhân nói vậy là có ý gì?”
Tiêu Hải Đào trầm giọng nói: “Dương trái sứ đã mất.. chúng ta vẫn không thoát khỏi bị triều đình trừng trị. Cái chết của Gia Luật Văn tuy không phải chúng ta làm nhưng ắt cũng khó mà chối cãi, chúng ta làm sao có thể giấu được mọi người, sao giấu được hàng trăm b?”
Chương Đồng Châu ánh mắt sáng lên, rồi nói: “ Đại nhân nhất định là có kế rồi, hạ quan đang lắng nghe đây”.
Tiêu Hải Đào cười trầm, từ từ nói: “Đại nhân có biết câu chuyện của Ban Siêu không?”
Chương Đồng Châu đảo mắt hỏi: “Ban Siêu là ai?”
Tiêu tự thừa nói: “Ban Siêu là một vị sứ giả triều Hán, có một lần hắn dẫn ba mươi sáu binh lính đi sang sứ Trịnh Thiện, Trịnh Vương mới đầu đối xử với hắn rất hòa nhã, lễ phép, sau đột nhiên đổi thái độ, trở nên lạnh nhạt. Ban Siêu phát hiện ra sự khác thường, biết được sứ giả Hung Nô cũng đã tới, Hung Nô là quân địch của nhà Hán, nhưng Thiện vương lại hướng theo Hung Nô, trở nên lạnh nhạt với nhà Hán, thậm chí còn có dã tâm giết chết. Ban Siêu sai người phóng hỏa, vài người tấn công kẻ địch, đem quân mai phục hai bên sườn quân địch, lợi dụng đêm tối để tấn công, giết sạch bọn sứ giả Hung Nô, Trịnh Thiện thất kinh không dám lung lay ý định nữa, chỉ có thể một lòng một dạ quy thuận nhà Hán.”
Chương Đồng Châu chợt hiểu, không nén được mà kêu lên: “Tiêu đại nhân nói đến chuyện Ban Siêu là muốn ám chỉ muốn tập kích sứ giả Khiết Đan?”
Tiêu Hải Đào cười cười không đáp, Chương Đồng Châu nghĩ một lát rồi do dự nói: “Tiêu đại nhân, tình thế khó khăn của chúng ta hôm nay so với câu chuyện ngày trước của Ban Siêu không giống nhau, bắt chước giống như thế e rằng sẽ làm mọi chuyện nhốn nháo lên không cách nào cứu vãn”.
Tiêu Hải Đào ung dung cười: “Đến hôm nay đã không thể cứu vãn lại rồi, Gia Luật Văn đã chết, mặc cho ngài cho giải thích thế nào thì người Khiết Đan và triều Đường cũng nhất định quy trách nhiệm lên đầu ngài. Hôm nay ngài cũng đã nhìn rõ rồi đấy, Gia Luật Văn vừa mới chết, Lý Dục đã thay đổi hắn thái độ với chúng ta, sứ giả Khiết Đan đã chết rồi thì giết thêm vài tên lính tôm tép có là gì? Còn về phía quan gia thì cũng chỉ có một cái đầu, thò ra cho quan gia chặt một nhát là xong, chúng ta cũng chỉ có con đường đó mà thôi”.
Chương Đồng Châu trầm ngâm một lúc, cắn răng một cái rồi cương quyết:
“Cứ làm thế đi!”
Gia Luật Văn đã chết!
Nghe được tin này, Đinh Thừa Nghiệp dường như không thể tin nổi vào tai mình được nữa. Gia Luật Văn chết rồi, làm sao có thể như thế được? Cứ cho tin đó là do bên kia truyền đến thì nếu lão vương gia thành công trong việc soán ngôi vị thì tính sao đây? Bọn đó sẽ sống sờ sờ ra vui vẻ, chỉ còn Gia Luật Văn là yểu mệnh nơi đất Đường, nếu như quay về Khiết Đan, bọn hắn ắt sẽ chẳng thể được hưởng vinh hoa phú quý mà đón tiếp bọn hắn sẽ chỉ là lưỡi dao sắc bén.
Đinh Thừa Nghiệp khập khiễng đứng lên, thu dọn ít ngọc ngà châu báu mà vua Đường đã tặng cho Gia Luật Văn, giắt vào người rồi tính đường chạy khỏi đây. Hắn không dám quay lại Khiết Đan, Nhạn Cửu trước khi chết đã giao cho đi tìm người họ Lư kia mà hắn vẫn chưa gặp, trong lòng từ lâu cũng đã thôi nuôi hy vọng. Những hồi ức về một thưở anh hùng đầy tráng khí đã không còn, hắn không cầu được là một nhị gia họ Đinh oai hùng như xưa nữa mà chỉ hy vọng có cơm ăn áo mặc sống qua ngày bình dị là được.
Bọn lính trong dịch quán nghe tin Gia Luật Văn đã chết thảm, ai nấy cũng đều tức giận muốn đi tính sổ với bọn nhà Tống, nhưng đã bị Hoàng Phủ Kế Huân chặn lại. Bọn lính này như rắn mất đầu, sau khi trở về thì cũng chỉ biết uống rượu mà thôi. Rượu chất đầy sân, chúng uống say rồi lại quay ra đánh mắng nhau, biến cả cái sân mỹ lệ thanh tú trở thành một nơi không ra gì.
Đinh Thừa Nghiệp lạnh lùng quan sát, mặc dù không ra mặt ngăn cản nhưng cũng không có cơ hội để đào tẩu. Hắn giờ không thể thoát được… vết thương ở chân vẫn chưa khỏi, tỷ tỷ còn đang rình mò đuổi theo hắn, hắn mà chạy thì tỷ tỷ ắt sẽ tìm ra hắn, lúc này xuất thành còn có thể đi đâu được nữa?
Trằn trọc cả đêm, Đinh Thừa Nghiệp nhớ lại từ đầu, dường như tất cả đều bắt đầu từ việc Nhạn Cửu tranh đoạt địa vị của nhà họ Đinh. Hắn không thể nào nhấc nổi cái chân bị thương lên, cắn răn chịu đau. Nếu như hiện tại Nhạn Cửu còn sống trước mặt hắn thì Đinh Thừa Nghiệp nhất định sẽ không do dự mà bóp chết hắn để làm tan mối hận trong lòng.
Nửa đêm, khi Đinh Thừa Nghiệp đang dần chìm vào giấc ngủ thì đột nhiên nghe thấy tiếng động xôn xao. Hắn giật mình cảnh giác, lập tức đứng thẳng dậy, bò ra ngoài cửa sổ để nhìn ra ngoài thì chỉ thấy tại dịch quán của bọn Tống, lửa đốt cháy sáng một góc, quân trị an nhà Đường đều đã có mặt.
Đinh Thừa Nghiệp chẳng hiểu gì cả, lẽ nào trong dịch quán của người Khiết Đan lại có người lợi dụng bóng tối đi sang đánh lén người Tống? Đinh Thừa Nghiệp mới nghĩ đến đây thì nhận ra trong đội quân điều động của nhà Đường để ra một chỗ trống cho hắn nhìn rõ trong sân nhà Tống đang tiêu diệt một trạm gác ngựa. Mỗi người tay cầm đuốc, tay cầm đao, vọt nhanh như bay về hướng sân bên này.
Đinh Thừa Nghiệp há mồm cứng lưỡi, phải một lúc sau hắn mới tỉnh, lập tức mặc quần áo rồi đến nửa đêm mới ngủ, quần áo chỉnh tề. Hắn mặc áo khoác, chân đi giày, khập khiễng chạy đến cửa phòng, bốn bề sân là tiếng hô đòi giết của cấm vệ quân nhà Tống. Dưới sự chỉ huy của Tiêu tự thừa và Chương tướng quân, bọn chúng tiến vào sân Khiết Đan, gặp ai là giết.
Người Khiết Đan uống rượu tốt, bình thường có Gia Luật Văn ở cạnh không ai dám uống quá nhiều. Nhưng đêm nay chúng đang mượn rượu giải sầu, lại không có ai ngăn cản nên rất nhiều người uống say quên trời đất. Bọn chúng chỉ muốn xông vào sân nhà Tống để giết người chứ ai dè đâu quân nhà Tống lại tàn nhẫn như thế. Gia Luật tướng quân và ba mươi sáu lính hộ vệ đã bị thiêu chết hết bọn chúng không thôi thì chớ lại nhân cơ hội đêm tối mà cử một phái đoàn hung ác tới tiêu diệt hết bọn người ở đây.
Trở tay không kịp, rất nhiều lính Khiết Đan đang say giấc bị chặt đầu. Có người còn kịp nhổm dậy, quần áo xộc xệch, vũ khí không có cũng bị thảm bại dưới tay nhà Tống. Mấy hôm trước, chỉ huy dưới của nhà Tống còn bị người Khiết Đan làm nhục, nếu như không có Dương Hạo ra tay giúp bọn chúng thì thật là mất mặt quá. Đêm nay tuy là báo thù cho Dương Hạo nhưng cũng là trút giận cho bản thân nên bọn lính ra sức chặt chém như đang giết dê giết cừu không bằng.
Hoàng Phủ Kế Huân không ngờ lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn như thế, vừa nhìn thấy trong dịch quán của nhà Tống có lửa hắn đã sợ muốn thót tim, vội sai quân đến dập lửa. Khi chạy đến sân nhà Tống thì đã thấy trong sân chất hàng đống củi khô, lửa cháy rừng rực, nhưng tiếng kêu lại xuất phát từ phía sân của nhà Khiết Đan. Hoàng Phủ Kế Huân biết đã bị mắc lừa bèn dẫn quân về ngay lập tức.
Hắn vừa mới đứng trước dịch quán của người Khiết Đan đã thấy Tiêu Hải Đào cả thân mặc quan bào, đầu đội mũ quan, thắt đai lưng màu bạc, tay cầm cây chổi lông gà, tay kia đang kéo rìu sáng loáng, hình thù kỳ dị như một cao tăng Đại Đường, mới biết cái hắn đang cầm chính là khâm sai lễ tiền.
Hoàng Phủ Kế Huân còn chưa nói gì thì Tiêu Hải Đào đã nói lớn: “Người Khiết Đan giết khâm sai của chúng ta, bản quan hôm nay đến lm rõ sự việc. Trong tay ta là lễ tiền của nước Tống, nếu như nước Đường vẫn là nước chư hầu của nhà Tống thì hãy ngoan ngoãn lui ra một phía. Còn nếu như Hoàng Phủ tướng quân muốn giúp cho người Khiết Đan ra khỏi đây thì hãy bước qua xác ta đã”.
Hoàng Phủ Kế Huân vừa nghe thấy thế lập tức vội tỏ thái độ trung lập.
Đinh Thừa Nghiệp thấy vậy liền chạy ra khỏi phòng ngủ tìm chỗ trốn, hắn nép mình vào trong phòng, chỉ hé ra một chút nhìn lính nhà Tống đang dùng đao lùng sục khắp nơi tìm kiếm, không bỏ sót một chỗ nào. Trong tình hình cấp bách đó, hắn chợt thấy một bộ váy hoa treo đằng sau cánh cửa liền vội vàng lấy mặc vào người, đánh rối tóc lên, bôi một chút bụi tro lên mặt và chạy lại góc tường.
Đến khi lính nhà Tống chạy đến lùng sục, Đinh Thừa Nghiệp mới bắt đầu lên giọng run rẩy cầu xin: “Xin các quan lớn tha mạng, tiểu nhân chỉ là người lo việc nấu nướng củi lửa ở đây không biết gì hết, tiểu nhân là người Hán, không phải là bọn cẩu Khiết Đan đâu ạ”.
“Hả?” Bọn lính tròn mắt soi đuốc lại gần để nhìn rõ mặt Đinh Thừa Nghiệp.
Đinh Thừa Nghiệp từ khi đến cung nhà Đường vốn ít khi xuất đầu lộ diện nên bọn lính không có ấn tượng gì với hắn, lại thêm diện mạo của bọn chúng lại không giống người Khiết Đan, nói tiếng Hán rõ ràng nên bèn nói: “Bọn cẩu Khiết Đan đều phải giết sạch, thôi tha cho cái mạng mi, mau cút đi”.
Đinh Thừa Nghiệp thở dài nói: “Bên ngoài đang chém giết động trời, tiểu nhân sợ nhũn cả chân ra, quả thực không dám nhúc nhích”.
Bọn lính thấy vậy cười ha hả, đá cho hắn một cái mà rằng: “Đúng là chẳng được cái tích sự gì, vậy thì ngươi ngồi ở góc tường ấy, đợi đại nhân đây giết sạch bọn Khiết Đan rồi thì ngươi đi cũng không muộn, haha…”
*******************************
Lý Dục cho gọi Trần Kiều và Tử Đích đến nói chuyện đến khuya, tất cả bọn chúng đều bị nhà Tống dọa cho sợ chết khiếp, ý chí bắt đầu dao động. Trần Kiều khuyên giải hắn: “Quốc vương chớ quá lo nghĩ, theo ý của thần thì Gia Luật Văn đã chết, việc này đối với chúng ta càng có lợi. Bản hiệp ước trong tay Gia Luật Văn đã bị tiêu hủy, còn bản trong tay chúng ta vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta sẽ viết một bản hiệp ước khác có lợi cho đôi b mà không bị hủy do người đã chết. Người bị chết là Gia Luật Văn, triều đình Khiết Đan ắt sẽ phải chọn người khác lên làm vua. Chúng ta có thể ngồi im quan sát động tĩnh mà tùy cơ ứng phó. Nếu như chúng ta không thành công, quân Tống đem quân Bắc phạt thì chúng ta cũng không ngại mà hợp tác với bọn Khiết Đan. Người Khiết Đan tuy cũng có âm mưu làm bá chủ Trung Nguyên nhưng theo thần thấy thì quân Tống rất tinh nhuệ, dễ gì đối phó? Người Khiết Đan cũng muốn làm chủ Trung Nguyên, hai bên tranh chấp với nhau sẽ là cơ hội cho nước Đường dấy binh quật khởi, không thể bỏ qua. Nếu như bọn chúng không thể thắng được nước Tống thì cũng làm gì có ai biết được chúng ta đã từng ký hiệp ước với Khiết Đan cơ chứ?”
Lý Dục nghe mà gật đầu lia lịa, cảm thấy đắc ý. Hắn cảm thấy mưu kế này rất lợi hại. Chợt một tên nội thị chạy vội vàng vào, vừa thở hổn hển vừa bẩm báo: “Quốc vương, quốc vương, sứ giả nhà Tống Tiêu Hải Đào xin cầu kiến”.
“Ta không gặp!” Lý Dục vênh mặt nói: “Đêm hôm khuya khoắt, quả nhân còn tiếp hắn làm gì? Đây là nơi nào? Hoàng Phủ Kế Huân đúng là hỗn tướng, hắn đã phái binh đến mà vẫn để cho lính Khiết Đan và lính nhà Tống làm loạn, chẳng làm được việc gì nên hồn. Đây là lúc nên cho hắn giải thể, nếu như tên sứ thần nhà Tống này lại bị bọn Khiết Đan giết chết, hết tên này đến tên khác thì ta còn mặt mũi nào nữa mà sống?”
Tên nội thị liền chạy đến nói nhỏ vào tai Lý Dục điều gì đó, Lý Dục nghe mà đờ đẫn cả người, mặt đỏ gay lên, hét lên một tiếng tức giận, đập mạnh tay xuống bàn khiến mặt bàn bàn bằng ngọc vỡ tung tóe. Lý Dục giận đến run người, quát lớn: “Cường đạo, một lũ cường đạo. Hắn dám gây chiến ở ngay trên đất Đường, đánh đánh giết giết, trong mắt chúng còn có vua Đường hay không? Còn có vị vua của Giang Nam này nữa hay không?”
Tử Đích, Trần Kiều nhìn nhau, tên nội thị thấy Lý Dục đang nổi cơn lôi đình bèn sợ hãi nói: “Đúng đúng đúng ạ, nô tài sẽ đi mời hắn quay về, ngày mai hẵng quay lại”.
“Chậm đã!” Lý Dục ngực phập phồng, cố nén cơn giận, hồi lâu sau mới khoát tay nói: “Mời.. Tống sứ lên điện gặp trẫm”.
“Tiểu sư phụ, quả nhân có việc lớn khó giải quyết. Nay người Bắc kéo đến, ai là bạn ai là thù, hai bên đều có dã tâm như hổ như báo, quả nhân không thể quyết định được. Tiểu sư phụ phật pháp uyên thâm, nghe được ý trời, có thể giúp quả nhân thoát khỏi bên mê không?”
Mới sớm đã xong buổi triều. Lý Dục vội vàng đến Kê Minh tự, tìm cơ hội gặp Bảo Kính đại sư, một vài cao tăng và Bích Túc đến hỏi chuyện.
Bích Túc vừa nghe vừa nghĩ, điều này sao giống hắn thế, nói chuyện hai lời, mơ hồ không rõ ràng. Hắn làm hoàng đế không sướng lại cứ thích giả trang làm hòa thượng.
Bích Túc vội quay trở lại những điều đang suy nghĩ trong đầu, đột nhiên cười rồi ra vẻ cao thâm nói: “Quốc vương chớ có lấy nước xa mà cứu lửa gần, bà con xa không bằng láng giềng gần”.
“Nước xa khó cứu được lửa gần. Bà con xa không bằng láng giềng gần?”
Lý Dục lẩm nhẩm lại hai lần, rồi chần chừ nói: “Cái này… quả nhân hiểu ý của cao tăng rồi, chỉ là vị láng giềng gần này cũng không phải là tốt, theo ý quả nhân thì cái bà con xa cũng rất khó chơi, quả nhân có ý với tới bà con xa, không biết có được không?”
Bích Túc thầm chửi trong bụng: “Mẹ kiếp, đã có ý định thế rồi còn hỏi ta làm gì, định trêu tức ông nội ngươi à?”
Nhưng ngoài mặt hắn vẫn vờ không lộ cảm xúc, từ tốn nói: “Con hổ ở núi xa dù dữ nhưng còn dễ chơi hơn con sói ở gần, nó có thể nuốt tươi quốc vương bất cứ lúc nào. Chớ có để họa xảy ra ngay bên cạnh rồi mới lo. Tiểu tăng là người xuất gia không biết ăn nói, Quốc vương có thể suy nghĩ xem, trong vòng mười ngày là phải dứt khoát”.
Lý Dục nghe hắn nói như vậy thì không khỏi dao động: “Trong vòng mười ngày là phải dứt khoát ư?”
Bích Túc mắt nhòm mũi, mũi nhòm tâm, không nói thêm một lời nào nữa”.
Lý Dục đành phải chắp tay nói: “Đa tạ chỉ giáo của tiểu sư phụ, quả nhân trong vòng mười ngày tới xem động tĩnh thế nào rồi sẽ nói tiếp”.
Bích Túc cười thầm trong bụng: “Cứ đi mà xem tình hình đi. Hiện giờ tình thế đang nguy cấp, đại nhân cũng đang biệt tích ẩn thân, qua vài ngày nữa ta sẽ dỗ tiểu sư thái đi theo ta lên Thiếu Hoa Sơn hưởng phúc, đại sư cho phép hay không cũng kệ, ta chẳng có liên quan gì nữa”.
Cung tiễn Lý Dục xong, Bích Túc quay người tiến vào điện Công Đức, vừa vào đến điện đã thấy hương bay nghi ngút, một tên hòa thượng đang níu níu kéo kéo một nhi nữ. Bích Túc vừa thấy đã nổi giận, bước nhanh lại nói:
“Thành Không to gan, ngươi dám ở đây níu níu kéo kéo vị cô nương này, còn ra thể thống gì”.
Tên hòa thượng nọ thấy Bích Túc liền vội vàng chắp tay nói: “Thành Không không dám phạm giới. Vị cô nương này đang ở trong điện Công Đức lập bài vị thắp hương, nhưng theo quy định của Kê Minh tự thì muốn lập bài vị thắp hương phải nộp một nghìn quan tiền. Cô nương này không đủ tiền, tiểu tăng không đồng ý nên mới có tranh chấp đấy ạ”.
Bích Túc quay ra nhìn cô gái, đó là một người dáng cao, lông mày lá liễu, mũi thon, có dáng dấp mềm mại mà cương quyết. Nàng mặc một bộ quần áo trắng như tuyết, tuy không phải là áo tang nhưng trông giống một người đang có tang.
Trước nay một người con gái dẫu chỉ có năm phần tư sắc thì cũng đã hết sức xinh đẹp rồi, huống hồ cô gái này thân hình đẹp đẽ, đường nét xinh đẹp, Bích Túc vừa gặp đã ngay lập tức phải hòa nhã, chắp tay thi lễ rồi nói với cô gái: “Không biết vì sao nữ thí chủ muốn lập bài vị ở điện Công Đức này?”
Trông thấy vị hòa thượng trẻ tuổi mà đã là phương trượng này, cô nương nọ cũng hơi kinh ngạc, đợi đến khi Bích Túc hỏi xong thì nàng thấy cũng không cần thiết phải nói lại nỗi đau của nhà mình ra. Mắt đỏ hoe, nàng nhẹ nhàng đáp: “Phương trượng đại sư, tín nữ muốn thay gia huynh lập bài vị ở đây. Gia huynh tôi gặp tai nạn chết thảm. Khi sinh thời huynh ấy luôn hướng thiện, nhưng không rõ sao lại gặp phải tai họa như vậy. Tín nữ tôi rất đau lòng, nghe nói Kê Minh tự là ngôi chùa lớn nhất Giang Nam, hương khói nghi ngút, tín nữ muốn lập bài vị gia huynh tại đây để nhà chùa cầu phúc siêu độ cho huynh ấy sớm về miền cực lạc. Chỉ là trong túi tôi chỉ còn có tám trăm quan, mong Phương trượng đại sư từ bi đại đức cho phép gia huynh tôi được lập bài vị ở đây, tín nữ nhất định sẽ dâng hương dầu cho nhà chùa”.
Bích Túc nghe xong liền nhìn xuống tay cô gái, thấy trong tay nàng đang cầm một chuỗi vòng ngọc cùng vài vật linh tinh khác, hiển nhiên là đã rút sạch những gì đáng giá trong người ra, trong lòng không khỏi mắng thầm: “Đúng là đen đủi, chỉ là một tấm bài vị nhỏ bé trong điện thôi mà, thế mà muốn lấy của người ta những một nghìn lượng bạc, các người đúng là còn cướp được cái gì nữa?”
Bích Túc lấy từ trong tay cô gái một viên ngọc lẫn trong đám đồ mà cô cầm, rồi nói: “A di đà phật, sinh tử vô thường, nữ thí chủ có đau thương rồi cũng qua đi. Bần tăng nhận của thí chủ một tấm lòng thành, chỉ lấy viên ngọc này của cô thôi, cho phép thí chủ lập bài vị gia huynh ở đây”.
Thành Không hòa thượng đứng bên cạnh vội kêu lên: “Phương trượng…”
“Câm miệng! Còn không mau đi viết bài vị cho cô gái, còn muốn thế nào nữa?”
Thành Không hòa thượng hậm hực trong cổ họng rồi dẫn cô gái áo trắng đi.
Bài vị đã viết xong, được đặt trên điện Công Đức và cắm ba nén nhang. Cô gái áo trắng quỳ trước bài vị, vái ba vái rồi không nén được mà nước mắt tuôn rơi: “Nhị ca, gia môn rách nát, muội vốn trông đợi đến một ngày huynh muội ta sẽ xây dựng lại được gia viên, không ngờ…”
Nàng nghẹn ngào nói: “Nhị ca, hắn lại thoát rồi, nhị ca ở trên trời có thiêng xin hãy phù hộ cho muội tìm được tên hung thủ giết huynh, thanh lý môn hộ. Đợi khi mọi việc xong xuôi, muội sẽ đón nhị ca về nhà, nhị ca…”
Nàng khóc nấc lên thành tiếng, rồi lại bái tế ở đó một lúc lâu rồi mới rưng rưng đi khuất.
Bích Túc ở ngoài đi lại một vòng, khi không trông thấy bóng dáng cô gái nữa mới gọi Thành Không lại mắng: “Ngươi thật là to gan, ta đã nhận hạt châu của cô gái rồi, còn đồng ý giúp cô ấy lập bài vị, sao ngươi dám đuổi cô ấy đi?”
Thành Không nghe nói liền kêu oan: “Oan quá phương trượng sư thúc, vị cô nương đó ngồi khấn vái một hồi lâu rồi khóc lóc bỏ đi, phương trượng đã đồng ý thì làm sao tôi dám đuổi cô ấy đi? Phương trượng nhìn xem, vị cô nương đó đặt bài vị ở đây này, vết mực còn chưa khô”.
Bích Túc nói: “Vị cô nương đó thật đáng thương”. Ánh mắt hắn lướt qua tấm bài vị, toàn thân như bị điện giật, hắn chăm chú nhìn lại một lần nữa, tiến lên phía trước cầm tấm bài vị lên xem.
“Linh vị vong huynh Dương Hạo, muội, Tử Thị Ngọc Lạc lập”.
Đinh Ngọc Lạc và Bích Túc năm đó đã từng gặp nhau, nhưng hai người chưa từng nói chuyện với nhau. Giờ cả hai đều đã lớn, gặp mặt không nhận ra nhau. Bích Túc nhìn tấm bài vị, thở dài, nắm chặt tấm bài vị chạy ngoài, Thành Không hòa thượng ngơ ngác hỏi với theo: “Phương trượng sư thúc, ngài cầm tấm bài vị đi đâu thế?”
Bích Túc thầm nghĩ: “Đại nhân đang sống tốt, lập tấm bài vị ở đây chẳng khiến người sống khóc chết”.
Hắn không quay đầu lại, nghe thấy tiếng nói với theo sau lưng: “Sư thúc nghĩ kĩ xem, tiền hương dầu quyên ít, điện của chúng ta bao nhiêu người cần ăn cơm, sư thúc chạy theo cô ấy đòi thêm một ít…”
Bích Túc không dừng chân, đã chạy ra ngoài điện Công Đức, Thành Không bĩu môi, khinh thường nói: “Phong cái kẻ nông cạn rỗi hơi như ngươi làm đại sư… trụ trì đại sư từ bi nhân đức quá đi… ta nhổ vào!”
Bích Túc chạy ra khỏi điện, chạy ra khỏi Kê Minh tự, ngó nghiêng bốn phía, người đến dâng hương qua lại không ngớt… nhưng không thể tìm được bóng dáng thiếu nữ áo trắng nữa…
***********************************
Trong điện nhà Đường lại trở về yên ổn, Hoàng Phủ Kế Huân bị kẹp giữa hai gọng kìm cũng như trút được gánh nặng mà dẫn người đi. Sứ giả Khiết Đan bị giết đến thất kinh bát lạc, nay đã gần như không còn khả năng đứng dậy nữa, thử hỏi còn trú quân ở đây làm gì nữa?
Lý Dục là kẻ cố tình khơi mào chiến tranh giữa hai nước, nhưng hắn không hy vọng nhân vật quan trọng của bất kỳ bên nào bị mất mạng. Sự việc xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của hắn, khi hắn đang ngồi ở thế tọa sơn quan hổ đấu thì cuối cùng cũng bị quấn vào vòng chiến. Hiện phải theo phe nào, quân Tống hay Khiết Đan? Điều này khiến hắn phải đau đầu suy nghĩ.
Lúc này, đoàn sứ giả nhà Tống đã yên tĩnh, Tiêu Hải Đào đã khiêu khích bọn sứ giả Khiết Đan dám giết chết Dương Hạo, bản thân mình cùng Chương Đồng Châu khi bị khiêu chiến cũng đã học tập Ban Siêu, sau đó báo cáo tin tức về Biện Lương, ngồi đợi tin tức của vua Tống như chờ ngày bị phán lên đoạn đầu đài.
Di thể của Dương Hạo được đặt vào quan tài tại một góc ở dịch quán, có hai người ngày đêm túc trực ở đó.
Đêm đã khuya, Ôn Hám và Chương Đắc Thắng cầm đèn đi tuần một vòng xung quanh rồi ngáp dài đi về chỗ ở.
Ôn Hám than thở nói: “Ôi, bất kể khi sống tiếng tăm hiển hách thế nào, quyền uy có cao cỡ nào thì khi chết cũng chui vào quan tài mà thôi, có gì ghê gớm chứ. Cứ nhìn mấy người bọn họ, chết thật là thảm quá, hà tất phải khổ như thế? Cứ như chúng ta đây, hưởng thái bình, mặc kệ đời mà sống qua ngày chẳng tốt hơn ư?”
“Hừ, con người phải có chí chứ. Người chết tất nhiên là chui vào quan tài rồi, nhưng khi sống có giống nhau không? Ta nghe nói Dương trái sứ có hai nương tử xinh đẹp vô cùng, nếu Dương trái sứ đi sứ sang Giang Nam thì hai người ấy sẽ ra sao? Đi cũng không xong, kết quả… ôi!”
Hai người rì rầm với nhau một phen, Chương Đắc Thắng giơ cao đèn, đi trước: “Lão Ôn à, cứ giống như chúng ta đây làm gì có cơ hội thăng quan. Còn nhớ mấy năm trước triều Chu xuất sứ sang Giang Nam, Hán tướng công đã phái Tần cô nương đến đó sao? Đấy gọi là một người xinh đẹp thì không tránh khỏi lọt vào mắt của người khác, chúng ta đều đã cao tuổi rồi, thấy vị cô nương xinh đẹp còn động lòng, huống hồ các vị ấy như thế thì chẳng dễ bị mắc lừa? Lão Ôn à, ông đi đâu đấy?”
Chương Đắc Thắng quay đầu lại phát hiện ra đã không thấy bóng dáng lão Ôn đâu, không khỏi kinh ngạc đứng lại, ngó xung quanh vẫn không thấy bóng dáng hắn đâu bèn gọi lớn. Đột nhiên có người vỗ vào vai hắn một cái, Chương Đắc Thắng hết hồn, cười mắng: “Đã già nửa đời người rồi còn đùa trò này? Làm lão Chương ta sợ muốn chết!”
Hắn quay đầu lại, kinh ngạc khi trước mắt hắn không phải là lão Ôn mà là một khuôn mặt xa lạ, không khỏi ngẩn người ra. Người xa lạ đó đứng trước mặt hắn, ẩn mình trong bóng đêm, Đắc Thắng cũng chưa nhìn rõ hết toàn bộ khuôn mặt hắn, hắn vừa quay đầu lại đã bị đôi mắt của người xa lạ gây chú ý. Người đó có đôi mắt thật đen và sáng, thâm u như hai con suối đang chảy, khiến hắn không thể không chú ý.
“Ngươi tên là gì?”
Giọng nói đó hết sức nhẹ nhàng, nhưng lại khiến kẻ khác lạnh sống lưng không thể không trả lời. Chương Đắc Thắng đáp trong tiềm thức: “Lão là Chương Đắc Thắng, là lão lại trong dịch quán”.
“Tốt lắm! Đưa ta đến chỗ đặt quan tài Dương Hạo”.
Chương Đắc Thắng giống như người bị trúng tà, hai mắt cứ nhìn đăm đăm, ngơ ngác đáp: “Được!” Hắn quay người, ngoan ngoãn dẫn người lạ mắt đó đi.
Đằng sau cánh cửa đóng chặt, vài cây đuốc đang cháy trong phòng, ngoài vài kẻ đang đứng ngây ra như phỗng cầm đuốc trong tay như Chương Đắc Thắng, Ôn Hàm thì còn có bốn người khác, bốn người này đều che mặt, một người cao mà gầy, đôi mắt sáng lạ thường; một người dáng béo mà thô lỗ, đứng vững chãi ở một góc, hiển nhiên là người đứng đầu trong số bốn người.
Ngoài ra còn có hai người dáng vừa vừa, không gầy cũng chẳng béo, nhưng lại không có điều gì đặc biệt. Bốn người này là những kỵ sĩ che mặt mới xuất hiện khi nãy.
Chương Đắc Thắng chỉ cỗ quan tài của Dương Hạo, người béo kia khoát tay một cái, hai người vừa vừa kia nhanh chóng bước tới, dùng sức khiêng chiếc quan tài lên. Trong quan tài phát ra tiếng vang, ở đây đầy quan tài, ánh sáng chập chờn của những ngọn đuốc mang lại vẻ dị thường đáng sợ, nhưng ngoài hai tên lão lại đang sợ vãi linh hồn thì bốn kẻ kia không hề tỏ ra sợ hãi.
Quan tài vừa được mở ra, hai người nọ không chút hoang mang, khom lưng kiểm tra thi thể rồi báo cáo tình hình kiểm tra thực tế, sau đó nói: “Người này tuy bị thiêu cháy hết cả tứ chi, huyết nhục bị thương tổn nhưng theo tính toán thực tế về độ cao thấp, béo gầy thì có sai khác so với công tử”.
Một tên trong số đó thò tay vào trong áo lấy ra một đoạn dây, đo đạc cái xác, sau đó dùng sợi dây kéo cái xác đứng lên.
Một tên khác nhanh nhẹn lấy ra một cây kim bạc thử châm vào não và cổ họng rồi nói: “Người chết bị trúng độc”.
Bọn chúng kiểm tra thi thể cẩn thận, từ ngũ quan đến lưỡi, bụng… một cách hết sức lão luyện. Cả cơ thể dường như bị thiêu cháy thành than nhưng bọn chúng vẫn soi đuốc vào nhìn kỹ lưỡng cứ như thể trên cái xác có khắc chữ vậy.
“Miệng và mũi của cái xác đã bị thiêu cháy, khủy tay trái cũng bị thiêu, hai chân bị thiêu, bên vai phải vẫn còn nguyên, đã bị chết trước khi bị thiêu”.
Một tên sau khi xem xét tỉ mỉ lạnh lùng đưa ra những lời phân tích đó, giọng nói lạnh lùng vang lên trong không gian như mơ hồ mang theo âm khí.
Một tên khác sau khi xem xét vùng bụng của cái xác đã vừa tho găng tay ra vừa nói: “Vùng bụng có vết chém nhưng miệng vết thương có hai chỗ sai khác. Một là từ miệng vết thương có thể thấy lực chém và rút kiếm ra không đều, công tử đã từng nói ngày đó người này bị trúng kiếm ở mũi thuyền, đối thủ làm sao có thể rút kiếm ra nhẹ nhàng như thế? Lực chém nhẹ nhàng như thế này giống như bị chém trên mặt đất bằng phẳng. Hai là vết sẹo ở đây cho thấy đều là do bị lửa thiêu. Miệng vết thương trên thực tế trơn nhẵn, không có vết nhăn, người sống thì mạch máu vẫn đang chuyển động, cơ thể sau khi bị thương thì vết thương sẽ sùi ra ngoài, còn vết thương này cho thấy khi người này bị chém thì người đó đã chết”.
Tên béo kia thở một hơi thật dài rồi vén tấm khăn che mặt nạn nhân lên. Hắn giơ tay lên, như nghĩ ra cái gì rồi chợt vén ống tay áo lên, lộ ra một cánh tay có hình xăm. Hình xăm đó là hình sơn thủy đồ, bên cạnh còn có năm chữ nhỏ, liệt nhạc ngũ điểm thanh…”
Hằn thì thào: “Đúng là thú vị, ta chỉ rời đi có một lúc mà hắn đã kịp bỏ một món tiền lớn ra để làm kinh doanh, nhưng bạn làm ăn của hắn lại ở Biện Lương. Tất cả đều không nằm ngoài ý của Chương La, đến nay hắn lại chết một cách cổ quái thế na ỳ, cuối cùng là muốn làm gì?”
Trầm tư trong chốc lát, hắn cười một cách kỳ quái rồi nói: “Đem quan tài ra đậy lại như ban đầu”.
“Rõ!”
Mấy tên đó đậy nắp quan tài lại như ban đầu. Tên dáng người cao ánh mắt lướt qua Chương Đắc Thắng và Ôn Hám, tay nắm lại thành nắm đấm rồi nói như đang mê sảng: “Các ngươi đã đi tuần sân viện rồi, không có chuyện gì xảy ra hết, quay về chỗ ở và yên tâm ngủ đi…”
Tên béo xoay người, hất tay chỉ ra phía bên ngoài, thản nhiên dặn dò: “Huy động hết lực lượng của chúng ta ở nước Đường, kể cả có phải lật từng tấc đất lên thì cũng phải đào cho ra tên Dương Hạo”.
Quyển 9: Mây và trăng, tám ngàn dặm đường
Chương 362: Giết Hổ.
Trong cung Lý Dục gần đây thường có khách khứa tới thăm nửa đêm. Thực giống với câu nói: “Cú mèo vào nhà, vô sự bất lai”, những tin mang đến chẳng tốt lành gì, gây sức ép khiếm tâm lực Lý Dục tiều tụy, buổi tối có chút gió thổi cỏ lay cũng bị giật mình, một khi đã bị giật mình thì rất khó chìm được vào giấc ngủ, khiến cho ngườitrong cung lo lắng vạn phần. Đợi Lý Dục chìm vào giấc ngủ, đến con muỗi kêu vo ve thấy động tĩnh vậy cũng không dám thò đầu ra ngoài.
Mùi hương an thần mang theo tiếng ngáy say giấc vọng từ phòng ngủ ra, nội thị đô tri thở phào một hơi dài, mấy nội thị của cung nhẹ nhàng vươn vai, rồi rón rén cùng nhau đi ra ngoài điện, tời khỏi điện ngủ thật xa, nội thị đô tri mới nhỏ giọng thì thào bàn tán với nhau: “Ối, những ngày này, thực là làm khổ người ta, thật khó được cái cảm giác yên ổn ngủ say. Cấm không được có động tĩnh gì, nếu ai quấy nhiễu đại gia, ta sẽ đánh hắn chết thì thôi.”
Từ ngũ đại tới nạy, vua của một nước đều được người thân cận gọi là quan gia, nhưng Giang Nam thì không như vậy. Trung chúa Lý Cảnh cũng chính là cha của Lý Dục, năm đó từng xưng thần với Hậu Chủ Sài Vinh, tự hạ nhất cách, đổi hoàng đế là quốc chủ, trong cung Đường quốc không gọi quan gia với quốc chủ mà gọi là đại gia, sau đó lại phục hồi cách gọi hoàng đế, cách xưng hô này mãi mãi không thay đổi, giờ Lý Dục lại thành quốc chủ, đó cũng chỉ là đổi cách xưng hô mà thôi.
Các nội thị trong cung bên cạnh liên tục nhận lời, nội thị đô tri ngáp một cái nói: “Ôi chao, mấy ngày nay áp lức chết đi, cánh tay này, chân già này cũng không thể trụ nổi nữa. Ta phải quay về nghỉ đây, các người chăm nom đại gia cẩn thận nhé, sơ sểnh một chút là không được, cho dù chỉ là con chim sẻ cũng không được gần hoàng thượng, nghe thấy chưa?”
Mọi người vội gật đầu tuân lệnh, lão đô tri run rẩy cất bước đi về chỗ nghỉ ngơi của mình, vừa mới bước được vài bước, phía trước có một bóng đen lướt nhanh như chớp chạy tới, không kịp dừng lại, đâm luôn vào vai lão đô tri. Lão đô tri té ngã kêu một tiếng, tức giận mắng: “Tiểu…”
Hắn vội vàng tỉnh ngộ, sợ đánh thức Lý Dục, vội nhẹ giọng nói: “Thằng nhóc kia, không có mắt à? Cũng dám chạy trong cung cơ đấy, Tạp gia không cho người một trận, thì ngươi không biết quy củ gì hết.”
Mấy nội thị ba chân bốn cẳng chạy tới đỡ hắn dậy, tên tiểu hoàng môn lảo đảo đứng dậy nhìn thấy rõ là lão đô tri, vội vàng sợ hãi nói: “Đô tri thứ tội, tiểu nhân vì có việc gấp phải bẩm báo quốc chủ, chạy hơi vội, xin đô tri thứ tội.”
Lão đô tri nghe nói là bẩm báo sự tình với quốc chủ, càng giận dữ, quát lớn: “Hỗn xược, đại gia vất vả lắm mới chợp mắt được, ngươi còn muốn đánh thức đại gia? Nói cho ngươi biết, hôm nay dù trời có sập, cũng phải đợi cho tới sáng sớm ngày mai muốn bẩm gì thì bẩm.”
Tiểu hoàng môn đó lắp ba lắp bắp nói: “Nhưng… nhưng người này là mật thám của Sở Quốc Công Tòng Thiện đại nhân từ Khai Phong trở về, nói là có đại sự vô cùng nguy cấp cần phải bẩm báo với quốc chủ ạ.”
“Đặng vương… à không, Sở Quốc Công đại nhân phái về sao? Sở Quốc Công có tin gì?”
Lão đô tri vừa mừng vừa lo, hắn biết Lý Dục và mấy huynh đệ tình thâm nghĩa trọng, từ khi Lý Tòng Thiện bị quản thúc tại Khai Phong, quốc chủ thường buồn bực không vui. Chuyện bên lề đều có thể đợi, nhưng chuyện này dù thế nào cũng không thể trì hoãn được.
Lão đô tri biết tình thế khó xử, do dự một lát, rồi dậm chân nói: “Thôi, nếu người của Sở Quốc Công khiển đến, thì không thể trì hoãn được. Ngươi đi theo ta.”
Nói xong, lão đô tri chân chấm chân xóa đi vào tẩm cung của Lý Dục…
Chẳng được bao lâu, ngọn đèn dầu trong tẩm cung được thắp sáng, lập tức có hai ngọn đèn cung đình dẫn Lý Dục thân áo bào tím mặt tươi cười đi tới Thanh Lương điện.
Trăng sáng treo lơ lửng trên không, trong Thanh Lương điện lặng ngắt như tờ, Lý Dục ngồi sau bàn, mặt tái nhợt, trông thực đáng sợ. Tin được Lý Tòng Thiện đưa đến cũng không phải là tin tốt lành, không, nên là tin tốt, vạn hạnh.
Lý Dục thầm nhủ may mắn, nghiến răng nghiến lợi nguyền rủa: “Lâm Hổ Tử, Lâm Hổ Tử, cô… cô đối đãi với ngươi không tệ, ngươi lại lòng muông dạ thú thế này đây.” (cô là tiếng tự xưng của vương hầu thời phong kiến)
Từ Đường mạt, các đại tướng đối mưu làm phản không mệt nhọc đều là cùng một bí kíp. Bước một, tìm một cớ xuất binh thảo phạt kẻ thù bên ngoài; bước hai, chiếm đủ lương thảo quân lương, dẫn đội quân tinh nhuệ dời đi; bước ba, nửa đường dừng lại, rõ ràng trong quân đội và hắn không phải là tướng lĩnh một lòng, sau đó sửa cờ, hoặc là trở giáo một kích.
Giờ tin Lâm Nhân Triệu hàng Tống là Lý Tòng Thiện phái người đưa tới, Lý Dục sao có thể không tin đây? Đến Lâm Nhân Triệu đã từng hiến kế: “Quốc chủ có thể giả là không biết thần xuất binh tấn công Tống. Sự thành, quốc chủ hãy phái đại quân đi tiếp ứng, sự bại, quốc chủ có thể nói thần giả mạo chỉ dụ vua xuất binh, giết cả nhà thần, tạ tội với Tống quốc.” Những kế đó đều bị Lý Dục coi là kế hiểm ác.
Lý Dục vừa lo vừa sợ, mắng cho một hồi, đột nhiên nhớ tới lời nói của tiểu sư Kê Minh tự: “Trong vòng mười ngày, phải có kết quả.”
Lý Dục đột nhiên giật mình, thở dài: “Tiểu sư phó thực thần nhân vậy, quả nhiên là một lời thành thực. Nếu cô tùy tiện liên minh với người Khiết Đan, đến lúc đó ngự giá thân chinh, Lâm Nhân Triệu đi phạt Tống, thực là hồ đồ làm theo quỷ kế của hắn.”
Lý Dục càng nghĩ càng sợ hãi, liền cắn răng, cúi đầu quát: “Người đâu, tốc chiếu Hoàng Phủ Kế Huân vào cung.”
Hoàng Phủ Kế Huân mấy ngày nay bị Tống quốc và Khiết Đan huyên náo tới mức ngủ cũng không yên, giờ về phủ, vừa tắm gội thay quần áo, thư thái bò lên giường, hai mĩ thiếp dịu dàng ôn nhu vuốt ve, những cặp đùi trắng muốt mềm mịn, tướng quân Hoàng Phủ vừa lim dim, ôm mĩ nhân trên giường thì nghe có cấp chiếu của Lý Dục gọi vào cung.
Vừa nghe Lâm Nhân Triệu dục phát, quốc chủ bảo hắn dẫn binh đi trấn hải đòi lại, Hoàng Phủ Kế Huân giật nảy người, sợ hãi. Đừng thấy hắn bình thường đấu lợi hại với Lâm Nhân Triệu, có thể khi đó là cùng điện xưng thần thôi, có Lý Dục làm chỗ dựa cho hắn, hắn còn sợ Lâm Hổ Tử ăn hắn sao?
Nhưng vị tướng quân Hoàng Phủ là nội đấu nội hàng, ngoại đấu ngoại hàng, giờ phải bỏ qua thể diện so sánh công phu, Hoàng Phủ Kế Huân tự biết mình. Lâm Nhân Triệu là người nào? Đó là một mãnh tướng đệ nhất Đường quốc, dũng khí nổi tiếng thiên hạ, đánh đâu thắng đó, không thứ gì có thể cản nổi, thiết kỵ Khiết Đan đều bị hắn đánh cho tan tác. Là một mãnh tướng, Lâm Hổ Tử dám chỉ dẫn bốn người ngược gió đi hướng vạn tiễn trận, hỏa thiêu cầu gỗ, chặn đại quân Sài Vinh nam hạ, đó là uy phong gì? Thực phải lật mặt, để hắn dẫn quân đi thảo phạt Lâm Nhân Triệu, đây không phải là bánh bao đánh chó sao?
Lý Dục thấy Hoàng Phủ Kế Huân hơi chần chừ, mặt không khỏi biến sắc, tức giận nói: “Lệnh tôn nãi Đường quốc hổ tướng ta, trung thành tận tâm, vì nước hy sinh quên mình, Hoàng Phủ tướng quân hổ phụ hổ tử, cô có ý giúp đỡ, giờ lại sợ hãi như vậy sao?”
Hoàng Phủ Kế Huân mắt hơi chuyển, vội nói: “Quốc chủ nghĩ sai về thần rồi, thần đang nghĩ, nếu chúng ta huy binh đi trước, tất nhiên sẽ đánh rắn động cỏ, một khi đại chiến nổ ra, ngay cả giết Lâm Nhân Triệu, Đường quốc ta cũng bị tổn thất nặng nề. Sở quốc công bí mật phái người đưa tin về, Lâm Nhân Triệu lúc này còn không biết quỷ kế của hắn đã bại lộ hay chưa, chúng ta sao không giết quách hắn đi, như vậy, mười vạn thủy quân trấn hải sẽ không bị tổn hao gì mà thu về.”
Lý Dục vừa nãy còn nổi nóng, thầm nghĩ tiêu diệt phản thần, lúc này lại nghe Hoàng Phủ Kế Huân nói vậy, không khỏi giật mình tỉnh ngộ. Hắn cúi đầu trầm ngâm giây lát, mặt lộ nụ cười ảm đạm: “Người đâu, nhận chỉ, gọi trấn hải tiết độ sứ Lâm Nhân Triệu lập tức vào kinh, cấm chậm trễ!”
******
“Cho dù Tống quốc không đi tìm Khiết Đan gây chuyện, giờ sứ giả Khiết Đan bị giết, toàn bộ dịch quán Khiết Đan đều bị phá hủy, dựa vào sự kiêu ngạo của người Khiết Đan, tất nhiên sẽ không chịu từ bỏ ý đồ. Nhưng nội quốc Khiết Đan có nội ưu, dự đoán được ý đồ của bọn họ, song phương cũng sẽ không vội vàng bỏ trọng binh, cuộc chiến như vậy chẳng có cách đả thương. Tác dụng của Giang Nam quốc chủ lúc này hết sức quan trọng, hắn giờ cấp chiếu Lâm Hổ Tử tướng quân về, chẳng phải chính là đã ra quuyết định rồi sao?”
Chiết Tử Du vừa đi vừa suy tư: “Lâm Hổ Tử là hổ tướng có chủ trương quyết chiến với Tống quốc, Lý Dục gọi hắn về, có thể là liên hợp với Khiết Đan tác chiến với Tống. Nếu có Đường quốc tương trợ, hoàng đế Khiết Đan vị tất sẽ không buông tay đánh một trận. Như vậy tam quốc tất có tổn thất, nếu chiến trận xảy ra, ít nhất trong mười năm triều đình với tây bắc ta cũng không thể dùng binh, chỉ có thể áp dụng kế sách trấn an, sẽ là vậy sao?”
Nàng đột nhiên nhớ tới câu nói Dương Hạo đã từng nói với nàng, lòng bỗng chua xót: “Ta còn nói chàng theo danh sư học thuật gì là bói toán, trên đời ngay cả thiên cơ có thực, lại dễ dàng bị phá, nói gì Tống quốc trong hai ba năm dụng binh với Đường quốc, Đường quốc tất sẽ bị diệt, bảo ta không cần nghịch thiên tòng sự. Giờ có hy vọng, nếu chàng có trước mặt ta, ta chẳng lẽ lại không nói vậy sao?”
Chương 364: Đánh hôn mê.
Dương Hạo không thể yên tâm được, mạo hiểm đi tới gần Lâm phủ nghe ngóng tin tức của nàng. Ở Lâm phủ lớn nhỏ phần lớn bị bắt, chỉ chạy thoát được một đứa trẻ, một tiểu thiếp và Chiết Tử Du. Tiểu thiếp đó mang theo đứa con đi vào miếu dâng hương, trên đường về he thấy tiếng ầm ĩ của Lâm phủ, lập tức chạy trốn. Chạy thoát một tiểu thiếp, một đứa trẻ, Hoàng Phủ Kế Huân không để bụng, nhưng không bắt được Mạc Dĩ Minh làm hắn không cam lòng, giờ Lâm gia đã thành tù nhân, ngày xưa cao to là thế, có qua lại thân mật với Hoàng hậu nương nương, đến hắn cũng không dám đắc tội với cô nương họ Mạc, lúc này lại có thể khiến hắn ta thích thì cứ làm, nhưng cô tay chạy rồi.
Hoàng Phủ Kế Huân tức giận, phong tỏa toàn thành, nhất định phải tìm cho được cô ấy, Dương Hạo tới gần Lâm phủ, gặp mấy Đường binh, mấy người đó còn ngăn hắn lại, còn chỉ trỏ vào bức vẽ Chiết Tử Du hỏi hắn xem có gặp người này không. Dương Hạo lúc này mới biết được Chiết Tử Du đã chạy thoát, thở phào nhẹ nhõm. Theo sự cảnh giác và võ công của Chiết Tử Du, chỉ cần không bị sa lưới, thì Hoàng Phủ Kế Huân có đào ba tấc đất lên cũng không thể tìm được cô gái xảo quyệt hồ ly này. Giờ thực là tình cảnh có thể dự đoán được, tuy nói bọn họ ẩn nấp bí mật, nhưng dù sao thì người cũng quá đông, để đề phòng những người vô tội gặp tai họa, Dương Hạo sau khi lắc đầu lấy lệ với mấy tên Đường binh đó, thì lập tức trở về ngõ Ô Nê bên bờ sông Tần Hoài.
Dương Hạo cúi người, bước thong thả vào ngõ Ô Nê, nhìn xung quanh, cảnh giác chú ý quan sát người đi lại xung quanh, bỗng ánh mắt bất chợt nhìn thấy hai cái bóng đang đứng ở cửa ngõ, chỉ thấy dáng người phía sau của hai người, Dương Hạo bỗng giật mình.
Một tên lưu manh trong đó, quần áo có lẽ là người trong ngõ, còn một tên khác, tuy chỉ nhìn thấy dáng phía sau, nhưng dáng đó quen vô cùng, người đó tuy mặc quần áo giả trai, nhưng phía sau nhìn lại thấy giống hệt Đinh Ngọc Lạc trong trí nhớ của hắn. Trong khi hắn đi tới Quảng Nguyên vận chuyển lương thực, Đinh Ngọc Lạc từng giả làm nam nhi, bóng sau của người này rất giống với muội ấy.
Tên lưu manh đó chỉ vào trong ngõ nói mấy câu gì đó, và cái người giống Đinh Ngọc Lạc thì gật đầu, theo hắn vào trong ngõ. Dương Hạo lắc đầu cười: “Nhất định là nhìn nhầm, cô ấy sao có thể đến Nam Đường, lại còn đến cái nơi này làm gì nữa không biết?”
Hai ngày hôm nay Dương Hạo chưa liên lạc với Bích Túc, nhưng không biết Đinh Ngọc Lạc thực sự đã đến thành Kim Lăng hay chưa, hắn khẽ khom lưng, lại bước về phía trước, song vẫn do dự: “Ta trong cung Lý Dục đoán tuyệt không thấy Tử Du xuất hiện ở đó, lẽ nào không thể gặp Ngọc Lạc ở đây sao? Tên lưu manh ở đây hại mệnh phụ nữ, lừa bán phụ nữ chỗ nào chả có, nếu như hắn…thực sự là cô ấy, nếu như họ có …”
Dương Hạo càng nghĩ càng lo, không biết thân thế người nọ là ai, hắn không thể nào yên tâm được, thế là quay thân, đi về phía đầu ngõ nơi họ đang đi.
“Chính là ở đây?” Đinh Ngọc Lạc giật mình nhìn khung cảnh trước mắt.
Một căn phòng cỏ gianh lụp sụp. Tường dùng những viên đá vỡ xây thành. Ngoài tường là một cái rãnh thối. Trong rãnh là những thứ rác rưởi, những con mèo con chó chết, càng cỏ lá cỏ thối, cùng những vật màu vàng màu trắng nổi lềnh phềnh trên mặt nước, từ xa nhìn lại thấy nó khẽ dao động. Dù ở đây là nơi những dân nghèo ở, nhưng cái sông bên cạnh quả thực là rất thối, cho nên những căn phòng bên cạnh đã sớm lụp sụp, rách nát, chẳng có ma nào ở.
“Đúng vậy”. Tên lưu manh đó cười nói: “Mới đây đến thuê ở, trên đùi có thương tích, tuổi tác và tướng mạo cũng kha khá, hắn ở ngõ Ô Nê này. Tôi chỉ biết thế, cái khác thì không dám nói, tìm người loại này, 100 sai dịch cũng không thể so sánh với ta, dù chỉ là cái hẻm chuột, tôi cũng có thể đào nó lên, còn về có phải là người mà công tử cần tìm hay không, thì tại hạ không dám bảo đảm”.
Đinh Ngọc Lạc rút từ trong tay áo ra một chuỗi nặng trịch để vào lòng bàn tay tên lưu manh đó, gã nọ đếm đếm, mặt tươi như hoa nói: “Nếu tại hạ đoán không lầm, phải chăng là công tử muốn đi báo thù hắn? Tôi thấy người đó giống như luyện gia tử, cần giúp đỡ, tại hạ sẽ ngáng chân đánh hôn mê sau lưng, tạ hạ lành nghề chuyện này lắm, công tử chỉ cần thêm chút tiền nữa, tại hạ…”
Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng xua tay, người đó liền im bặt miệng, cười nhe nhởn với nàng rồi chắp tay chạy mất dạng.
Đinh Ngọc Lạc đứng lặng người nhìn một lát, rồi cất bước vào trong viện, vừa mới vào viện, cửa phòng đã có một tiếng mở ra, một người thọt mặc quần áo rách nát dính dầu mỡ đi ra, hai người chạm mặt nhau.
Bỗng nhiên, người đó vội xoay người, lết chân vào phòng. Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng nói: “Ngươi còn định trốn đi đâu nữa?”
Tên thọt đó đứng lại, người run lên, từ từ xoay người lại, Đinh Ngọc Lạc bước lại gần, cầm chặt chuôi kiếm cười nhạt nói: “Quả nhiên là ngươi, vừa nãy ta còn không dám tin, ngươi lại ẩn thân ở một nơi thế này, giờ, ngươi còn chạy đi đâu nữa đây?”
Đinh Thừa Nghiệp run rẩy, cười buồn bã, đứng thẳng người nói: “Tỷ, cũng thật là làm khó cho tỷ, từ Phách Châu đuổi theo đến Khiết Đan, rồi lại từ Khiết Đan đuổi đến Đường Quốc, rong ruổi mấy ngàn dặm, giờ ta trốn ở một nơi thế này, mà cũng tìm ra được. Được lắm, ta không trốn nữa, không muốn trốn tiếp nữa, muốn giết thì giết đi, sống như giờ thực không bằng chết, chết rồi…cũng tốt…”
Đinh Ngọc Lạc hơi rút dao ra khỏi vỏ, lạnh lùng nói: “Ngươi giết cha hại huynh, mưu đoạt gia chủ, làm cho Đinh gia đang êm đẹp bị hủy hoại, cũng chính là hủy hoại ngươi. Đây chính là gieo gió gặp bão, làm chuyện bậy bạ sao có thể sống. Đinh Thừa Nghiệp, Đinh gia sao lại có một tên nghiệt tử giết cha hại huynh táng tận lương tâm như vậy chứ?”
Mũi kiếm chĩa trước ngực Đinh Thừa Nghiệp. Cười thảm nói: “Ta đáng chết lắm, ta không nghĩ tới sẽ có ngày rơi vào bước đường này, thực là…thực ta không có dã tâm chiếm đoạt gia sản. Việc sai lầm duy nhất ta đã phạm phải là có tư tình với đại tẩu, tất cả những cái khác, còn không phải bị người ép sao?”
Đinh Ngọc Lạc tức giận quát: “Sự đến nước này ngươi còn dối trá, giết cha hại huynh, ai ép bức ngươi cơ chứ?” Nàng cầm thanh kiếm trong tay càng chặt hơn, cắm vào ba phần, máu tươi từ từ chảy ra.
Đinh Thừa Nghiệp khàn giọng nói: “Ta vốn cam tâm làm một nhị thiếu gia vô ưu vô lo, chưa bao giờ nghĩ đến việc cướp quyền của Đinh gia, nhưng…sau này đại ca xảy ra chuyện, Đinh gia ngoài ta còn thừa lại ai chứ? Ta không muốn làm cũng phải làm, nhưng…
Hắn cười nhạt: “Đại ca xem thường ta, cha cũng coi thường ta, họ thà phí tâm tư, dìu một tên gia nô lên, ai không cười ta sau lưng chứ? Những người bạn của ta, thậm chí đến người nhà trong phủ, thậm chí đại tẩu, ai không coi ta hèn mọn?”
Hắn bỗng lạc hẳn giọng đi nói: “Ta không muốn làm cái công việc gia chủ hao tâm tổn sức kia, nhưng nó tự nhiên lại rơi xuống đầu ta, dựa vào cái gì ta phải nhường cho ai đó? Tại sao ta lại phải giao cái thuộc về ta cho một tên không đâu. Đại ca giúp một tên trời ơi đất hỡi áp đến trên đầu huynh đệ thân thuộc, hắn bất nhân, thì ta bất nghĩa”.
“Súc sinh! Giao Đinh gia cho ngươi? Không cần nói làm cho nó vinh danh, để giữ vững sự nghiệp, ngươi làm được sao? Vì điều này, ngươi có lý do để hại đại ca? Đại ca chưa từng nghĩ đến việc giao gia nghiệpho nhị ca trước, lẽ nào ngươi xứng đáng với hắn sao? Cho tới nước này, ngươi còn nói sằng nói bậy, cái gì cũng là lỗi sai của người khác, ngươi mãi mãi cũng là vô tội, ngươi hại chết phụ thân cũng là bất đắc dĩ sao?”
Đinh Thừa Nghiệp mặt ỉu xìu, buồn bã nói: “Người, tại sao lại phải lớn? Lớn rồi, thì lại có quá nhiều dục vọng, mỹ sắc, tiền bạc, quyền lực, tham ô, ghen tị, hận thù. Lớn rồi, những thứ mà hồi nhỏ cho rằng nó quan trọng nhất sẽ coi nó không đáng một xu, nhân vật đã từng hèn mọn, mình cũng sẽ biến thành hắn, sẽ đi hại người, nếu như mãi mãi không lớn…có lẽ sẽ tốt hơn…”
Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng nói: “Ngươi nói hết chưa? Nói hết rồi thì ngươi có thể chết, giờ dù ngươi có nói gì đi chăng nữa, cũng đừng có mơ ta tha cho ngươi, hôm nay, ngươi phải chết”.
Đinh Thừa Nghiệp mơ hồ nhìn lưỡi kiếm, rồi nhìn lên khuôn mặt của Đinh Ngọc Lạc, kinh ngạc nói: “Ta hỏi ngươi sao lại tìm được ta, ngươi được ai giúp đỡ?”
“Hứ?” Đinh Ngọc Lạc nghiêng đầu sang một bên, nghĩ ngợi. Đinh Thừa Nghiệp bỗng nghiêng người, đánh một quyền về phía bả vai Đinh Ngọc Lạc. Quyền đánh của hắn tương đối mạnh, Đinh Ngọc Lạc khó mà tránh khỏi, Đinh Ngọc Lạc bị hắn đánh đúng xương vai, kêu lên một tiếng, đoản kiếm rơi xuống đất.
Đinh Thừa Nghiệp đoạt lấy thanh kiếm, mặt hiểm ác nói: “Muốn giết thì cứ giết đi, còn muốn ta liệt kê tội ác ra không?”
Đinh Ngọc Lạc giật bắn người ra, mắt sáng quắc, tìm kiếm thứ gì đó trong viện, lạnh lùng nói: “Ngươi đoạt lấy kiếm, có thể thoát mạng sao?”
Đinh Thừa Nghiệp nhe răng cười nói: “Tuy ta bị thương ở chân, ngươi lại tay không bắt giặc. Ta ngươi võ công về cơ bản cũng không kém mấy, ngươi giờ có thể giết ta được sao? Đệ ngươi âm hiểm giả dối, vô liêm sỉ, tội ác chồng chất, ngươi nhìn lạ lắm nhỉ? Không chịu được thì ở suối vàng với lão già kia đi”.
Đinh Thừa Nghiệp cố nén đau đớn ở đùi, buông người về phía trước đâm về phía Đinh Ngọc Lạc, kiếm trong tay chợt động, thì nghe thấy một tiếng rít “Ô” một tiếng. Đinh Thừa Nghiệp kêu thảm một tiếng, kiếm trong tay leng keng rơi xuống đất.
Hai người cùng nhìn về phía cửa viện, thì thấy một ông già lưng còng bước chậm rãi đến, trầm giọng nói: “Mặc dù nói người sẽ phải chết, về thiện mà nói, hắn cũng được coi là một người sao? Muốn giết thì giết, ngươi còn mong là hắn sắp chết thì có thể tỉnh ngộ sao, há chẳng phải đàn gảy tai trâu?”
Đinh Ngọc Lạc giật mình nhìn hắn, lúng túng nói: “Đa tạ tiền bối đã chỉ bảo, không biết đại danh của tiền bối là…?”
Đinh Thừa Nghiệp vội cầm lấy gậy chống, cầm lấy đoản kiếm, gắng sức đứng thẳng dậy, cười nhạt nói: “Các người quét rác ở cửa, không nên quan tâm đến chuyện người khác, lão già này, ngươi đã gần đất xa trời, chẳng lẽ còn oán mạng sống quá dài của mình sao?”
Dương Hạo cười nhạt, đi tiến thêm vài bước về phía hắn, đi qua người Đinh Ngọc Lạc, đột nhiên sờ vào bên hông nàng.
Đinh Ngọc Lạc dù chưa coi hắn là kẻ địch, nhưng bản năng luyện võ cảnh giác khiến nàng thuận thế vung tay và lui về phía sau, một chưởng vung ra bắn vào cổ tay lão già. Không ngờ lão già này thân thủ cực kỳ nhanh, Đinh Ngọc Lạc chỉ cảm thấy đai lưng mình nhẹ như không, nhìn chăm chú, thấy bao kiếm cắm ở đai lưng bỗng rơi vào tay người già đó.
Lão già nắm lấy chuôi kiếm múa vài cái, đột nhiên đâm về phía cổ họng Đinh Thừa Nghiệp, cú xuất chiêu dù không có nghệ thuật gì, nhưng vẫn nhanh như điện. Đinh Thừa Nghiệp lắp bắp kinh hãi, vội vàng giơ tay đón đường kiếm, hai người đấu với nhau bảy tám hiệp, chỉ nghe thấy tiếng “Keng”, kiếm của Đinh Thừa Nghiệp chui tọt vào vỏ kiếm của lão già.
Đinh Thừa Nghiệp ngẩn người, chưa kịp rút kiếm ra, lão già đã giữ chặt nó trong vỏ, một đòn mạnh truyền tới, Đinh Thừa Nghiệp không cầm được chuôi kiếm, đoản kiếm lại bị đoạt mất, lão già còn cho nó vào vỏ nữa, ngón tay cầm chuôi kiếm mềm nhũn, chuyển động hai vòng, đoản kiếm liền rời khỏi tay bay đi, xoẹt một tiếng, bay trở về bên hông Đinh Ngọc Lạc.
Chiêu thức kiếm thuật ấy chính xác vô cùng, Đinh Thừa Nghiệp biết kiếm thuật của mình còn kém xa, mặt biến sắc, vội giơ tay trái về phía đó, lão già làm bộ đợi hắn tới gần, rồi lấy quải trượng đoạt lại, “Bịch bịch bịch”. Hai vai, hai sường, hai chân, bị đánh mạnh, đánh đến mức Đinh Thừa Nghiệp chỉ kêu thảm thiết liên hồi, rồi ngã phịch xuống đất, ôm đầu mình kêu: “Ta…ta không thù không oán gì với ngươi, sao…sao ngươi lại hại ta?”
“Chúng ta không thù không oán sao?” Dương Hạo cười lạnh, bỏ đi chòm râu, nói lại giọng.
Đinh Thừa Nghiệp thấy rõ bộ dáng của hắn, cả kinh trợn mắt há mồm, run run nói: “Ngươi…ngươi…ngươi là người hay là ma…?”
Đinh Ngọc Lạc thấy bộ dáng Dương Hạo, vừa mừng vừa sợ nói: “Nhị ca, ca…ca vẫn còn sống sao?” Nói rồi nước mắt ngắn dài lăn xuống. Dương Hạo nhìn chằm chằm Đinh Thừa Nghiệp, không quay đầu lại nhìn nàng, Đinh Ngọc Lạc rưng rưng nước mắt buồn bã.
“Ngươi…ngươi chưa chết?” Đinh Thừa Nghiệp lúc này cũng đã hiểu ra, mắt thấy hắn đằng đằng sát khí, không khỏi hoảng hốt, lăn vài vòng trên đất, reo lên: “Ngươi, ngươi muốn thế nào? Ngươi giờ thanh vân trực thượng, làm quan lớn Tống Quốc rồi, ngay cả Giang Nam Quốc Chúa cũng nể ngươi, còn ta thì rơi vào bước đường này, còn chưa đủ thảm sao? Tại sao ngươi không bỏ qua cho ta?”
Dương Hạo cười nhạt nói: “Ngươi hãm hại ta, ta có thể bỏ qua cho ngươi, nhưng mối thù của nương ta, không thể không trả. Thù của Đông Nhi, ta đường đường là đấng nam nhi, không thể không báo”.
Đinh Thừa Nghiệp kêu rít lên: “Ta chỉ muốn hãm hại ngươi mà thôi, nào có ý nghĩ làm hại người khác? Mẫu thân ngươi mắc bệnh hiểm nghèo, giận dữ nên bệnh thêm nặng, thế nên mới mất, bà ấy không phải do ta giết, bà ấy không phải do ta giết”.
Dương Hạo trầm giọng nói: “Đúng vậy, Đinh nhị thiếu gia ngươi giết người, còn muốn dùng nước mà rửa tay đã nhuốm máu tươi sao? Dựa theo đạo lý của ngươi, Đông Nhi đương nhiên không phải do ngươi giết rồi”.
Đinh Thừa Nghiệp tức giận kêu lên: “Đông Nhi, ta càng không muốn giết, rõ ràng là Liễu Thập Nhất và Đổng Lý Thị sợ lộ chuyện gièm pha, nên mới giết người diệt…”
Nói đến đây, mắt hắn đột nhiên lóe lên nói: “Đông Nhi…Đông Nhi?” Nét cười quỷ dị xuất hiện trên mặt hắn, hắn chậm rãi ngồi thẳng người, bình tĩnh nói: “Đinh Hạo, ngươi không thể giết ta”.
“Cái gì?” Gậy từ từ đưa lên, Dương Hạo ung dung cười nhạt: “Hôm nay không có ai đi cứu ngươi hết…”
“Ai bảo không ai có thể cứu ta?” Đinh Thừa Nghiệp cười lớn nói: “Có một người có thể cứu ta, cô ấy nhất định có thể cứu ta, cô ấy chính là La Đông Nhi”.
Dương Hạo lắc đầu nói: “Phí lời, Đông Nhi lương thiện, nếu như nàng chưa chết…”
Lời Dương Hạo còn chưa dứt, gậy thảo mộc trong tay đã vun vút tiếng gió giáng xuống trán Đinh Thừa Nghiệp, Đinh Thừa Nghiệp giương mắt kêu lớn: “La Đông Nhi vẫn chưa chết”.
“Hic”. Chiếc gậy còn cách trán hắn ba tấc bỗng có một lực ngăn nó lại, mồ hôi lăn trên mặt Đinh Thừa Nghiệp, Dương Hạo điềm nhiên nói: “Ngươi nói gì?”
Đinh Thừa Nghiệp nuốt nước bọt, vội vàng nói: “Ta nói là…La Đông Nhi…chưa…chết”.
Dương Hạo trừng mắt một lúc lâu, người đờ ra, căng thẳng nói: “Ta không phải nhị tỷ của ngươi, ngươi có nói thế nào cũng không có tác dụng. Ngươi nghĩ rằng ta sẽ tin ngươi sao?”
Đinh Thừa Nghiệp vội nói: “Còn có Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu, bọn họ đều ở cùng nhau”.
“Cái gì?” Dương Hạo mặt biến sắc, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu có mối tương giao với mình, Đinh Thừa Nghiệp ở quê sao biết, đến La Đông Nhi cũng chưa gặp ba huynh đệ kết bái, Đinh Thừa Nghiệp nếu như cuống lên muốn lừa mình thì cũng không thể trong thời gian ngắn nhắc đến Loan Đao Tiểu Lục và Đông Nhi, như vậy thì sức tưởng tượng quá phong phú mới có thể nghĩ đến ba người họ?”
Tim Dương Hạo đập thình thịch, chăm chú nhìn Đinh Thừa Nghiệp một lúc lâu mới từ từ nói: “Ngươi muốn lừa ta?”
Đinh Thừa Nghiệp thấy sắc mặt hắn như vậy, thấy tính mạng mình tạm thời có thể được giữ lại, mặt hắn dương dương tự đắc ung dung nói: “Ta nói đến tăm tích của cô ấy, ngươi bỏ qua cho ta, thế nào?”
Dương Hạo nhìn hắn không nói gì, Đinh Thừa Nghiệp nhếch miệng cười nói: “Chẳng qua Đinh Thừa Nghiệp ta là một tiểu nhân vô liêm sỉ, La Đông Nhi là nương tử của ngươi, Loan Đao Tiểu Lục bọn họ là huynh đệ kết nghĩa của ngươi, nếu như ngươi không muốn biết sự sống chết của họ thì cứ giết ta đi”.
Mắt hắn giảo hoạt, nói: “Thực ra…trong lòng ngươi biết ta không nói sai đúng không?” Đinh Ngọc Lạc đứng một bên chỉ nhìn mà không nói gì. Dương Hạo trầm mặc một lúc sau chậm rãi nói: “Được, ngươi nói tung tích của nàng đi, ta sẽ không giết ngươi”.
Đinh Thừa Nghiệp nhìn Đinh Ngọc Lạc nói: “Cô thì sao?”
“Cô ấy nếu giết ngươi, ta sẽ cản”.
Đinh Thừa Nghiệp cười khanh khách nói: “Được, ta là tiểu nhân, nhưng ta biết ngươi là quân tử. Tiểu nhân…cũng thích làm bạn với quân tử lắm chứ, ta tin lời hứa của ngươi”.
Đinh Ngọc Lạc muốn giết hắn báo thù cho cha, nhưng lại nghĩ tới lời của Dương Hạo, nghĩ tới những lúc Dương Hạo phải chịu khổ. Đinh gia có lỗi với Dương Hạo quá nhiều rồi, người chết không sống lại được, giờ người sống thì sao đây? Cô chỉ có thể tạm thời gác lại chuyện báo thù cho cha, mong có thể có được tin gì đó của La Đông Nhi.
Dương Hạo trầm giọng nói: “Bớt những lời thừa thãi đi, ngươi nói Đông Nhi còn sống, vậy nàng ở đâu?”
Đinh Thừa Nghiệp không chút giấu diếm, ngồi dậy từ từ nói: “Vốn dĩ ta cũng cho rằng cô ấy đã chết, nhưng khi ta ở Khiết Đan thì đã tận mắt nhìn thấy cô ấy”.
Dương Hạo giật mình: “Khiết Đan, sao nàng lại ở Khiết Đan?”
Đinh Thừa Nghiệp nói: “Ta là người bên cạnh Da Luật Văn đại nhân, từng theo gặp Da Luật đại nhân đăng Thượng Kinh ngũ phượng lầu, lúc đó cô ấy đứng ở bên cạnh Hoàng hậu nương nương, ta còn cho rằng mình nhìn nhầm người, thế là nghe ngóng tin tức thông qua mọi người ở đó. Hóa ra, ngày hôm đó là người Lý gia trang dìm Đông Nhi xuống nước, mấy huynh đệ kết nghĩa với ngươi đến thôn trang tìm ngươi, trên đường qua Lý gia trang, biết được cô ấy là nương tử của ngươi, liền xuống nước, cái lồng lợn được họ mang đi, cứu cô ấy ra. Họ tìm ngươi mấy ngày liền, nhưng không thấy tung tích ngươi, đoán là ngươi đã bỏ chạy tới Quảng Nguyên, nhưng lúc đó khắp nơi đều là quan binh đi tuần, lại có người của Liễu gia và Lý gia lùng sục tìm tung tích ngươi, họ đành theo cổ hà cựu đạo tìm ngươi”.
Dương Hạo trầm ngâm, lời hắn nói tin được khoảng tám phần, giờ nhớ đến đám người Loan Đao Tiểu Lục gặp được Đông Nhi, là có khả năng, đặc biệt là ba người Loan Đao Tiểu Lục đã rời khỏi quê hương, sau 3 ngày mình đến Quảng Nguyên, thời gian này khớp với nhau. Đinh Thừa Nghiệp nếu như muốn nói năng bậy bạ thì không thể bịa ra câu chuyện trùng khớp như vậy được.
Hắn vội vàng bước về phía trước hai bước, run rẩy nói: “Về sau…về sau thì sao, họ sao lại đi Khiết Đan?”
Đinh Thừa Nghiệp nói: “Họ đi cổ hà cựu đạo, đó là một con đường rất khó đi, thường có tù trốn trại và bọn buôn lậu, không có quan phủ kiểm tra tuần tra, vốn dĩ cũng rất ổn thỏa, ai biết, họ khi đi ở cổ hà đạo, con đường ít người qua lại này lại có đại đội nhân mã Khiết Đan, cuối cùng họ bị bắt đi Khiết Đan”.
Dương Hạo nghe vậy người đờ ra, hóa ra khi mình đi trước, Đông Nhi đuổi theo sau, không thể tưởng tượng được thần xui quỷ khiến thế nào, mình vội vàng thoát khỏi truy binh của Khiết Đan thì nàng lại bị người bắt đi.
Đinh Thừa Nghiệp lại nói tiếp: “Ta ở Ngũ Phượng lầu khi gặp nàng, người mặc bộ quần áo Khiết Đan, đứng bên cạnh Hoàng đế, như là phi tử của Hoàng đế Khiết Đan, ta sợ cô ấy thấy ta nhận ra ta, vội trốn vào chỗ đông người, vì vậy cô ấy không phát hiện ra ta”.
Mặt Dương Hạo trắng bệch, thất thanh nói: “Ngươi nói gì, nàng…nàng bị làm Hoàng phi của Hoàng đế Khiết Đan?”
Đinh Thừa Nghiệp thấy bộ dáng của hắn thành như vậy, sợ hắn đổi ý đập chiếc gậy vào đầu mình, vốn là còn muốn có vài lời ác độc dày vò hắn, lúc này không dám thừa nước đục thả câu nữa, vội nói: “Lúc đó ta cũng nghĩ như vậy, sau đó nghe ngóng được mới biết, sau khi cô ấy bị đưa đến Khiết Đan, được Tiêu Hậu khen ngợi nên trở thành một người tin cậy nhất của Tiêu Hậu, ở trong cung nữ vui vẻ, quan cư thượng quan, không phải là phi tử của Hoàng thượng. Đám người Loan Đao Tiểu Lục và cô ấy ở cùng nhau, ta…ta cũng chỉ nghe ngóng lai lịch của cô ấy mới biết”.
“Đông Nhi…Đông Nhi…” Dương Hạo đờ đẫn, không kìm nổi xúc động, hắn hàng nghìn hàng vạn lần không thể ngờ rằng Đông Nhi vẫn còn sống, câu chuyện ly kì như vậy không thể bịa ra được, hắn thấy lời của Đinh Thừa Nghiệp nói vậy là thực, sau khi ngẫm nghĩ lai lịch của Tiêu Hậu, tình nhân tìm được là một người Hán, con rể cũng thích tìm người Hán, tuy nói trong số đó không thiếu nói thành phần, chính là vị Tiêu Xước nương nương hơi người Hán tình tiết có vẻ không thể sai được, Đông Nhi tri thư đạt lễ, nhu thuận thông minh, được bà trọng dụng cũng là hợp tình hợp lý.
Đông Nhi còn sống, nghĩ tới điểm này, Dương Hạo vui mừng khôn xiết, Đông Nhi chắc là sẽ không phụ hắn, hắn không chút nghi ngờ tình cảm của Đông Nhi đối với hắn. Đáng tiếc mình sớm cho rằng cô ấy chết rồi, mà nàng vẫn ở Khiết Đan, không biết có đang nhớ nhung mình không. Ở đó tách biệt, Đông Nhi muốn thoát thân cũng rất khó.
Hai tay Dương Hạo khẽ run lên, rưng rưng: “Ta…ta nhất định phải cứu nàng trở về! Cứu nàng và đám người Loan Đao Tiểu Lục về”.
Đinh Thừa Nghiệp thấy hắn như vậy, cẩn thận hỏi: “Ta…ta có thể đi được chưa?’
Dương Hạo xua tay, Đinh Thừa Nghiệp mừng rỡ đứng dậy, khập khiễng đi vài bước, rụt rè nhìn Đinh Ngọc Lạc, Dương Hạo thản nhiên nói: “Ta đang nhìn cô ấy đấy”.
Đinh Thừa Nghiệp cuối cùng cũng yên tâm, kéo cái chân bị thương khập khiễng bỏ đi. Đinh Ngọc Lạc nghe giọng nói lạnh lùng của hắn, nước mắt không khỏi tuôn rơi, nấc nghẹn ngào kêu: “Nhị ca, ca…ca cuối cùng cũng không chịu tha thứ cho muội muội sao?”
Dương Hạo không trả lời, từ từ bước về phía trước, duỗi tay ra, Đinh Ngọc Lạc ngây ngô nhận lấy tảo mộc quải trượng, nhưng không biết làm gì. Dương Hạo nhìn chằm chằm theo bóng dáng Đinh Thừa Nghiệp, lẩm bẩm: “Ta đồng ý không giết ngươi, cũng đồng ý ngăn muội ngốc này giết ngươi, nhưng nếu như cô ấy đánh ta hôn mê ngất xỉu, thì ta sẽ không vi phạm lời hứa”.
Đinh Ngọc Lạc nghe hắn nói mình là muội muội ngốc, vui mừng khôn xiết, lại nghe hắn nói “Đánh hôn mê”, không khỏi ngẩn người, Dương Hạo thở dài nói: “Tên súc sinh đó xem ra bỏ chạy không thành rồi”.
“Vâng, được”. Đinh Ngọc Lạc đồng ý một tiếng, rồi cầm chiếc gậy bổ một nhát về đầu Dương Hạo…
Chương 365: Bắc thượng nam chinh
Đinh Ngọc Lạc ngẩn người đứng bên cạnh cái cống thối đầy rác rưởi, nhìn tử thi vục mặt vào mặt nước đục ngầu đầy rác rưởi, uế thải mang theo mùi tanh tưởi, mang theo bọt vàng nhạt nổi lềnh phềnh, nếu không nhìn kỹ thì khó mà phát hiện ra đó là một thi thể. Đinh Thừa Nghiệp chạy đến bên mương, giãy dụa và bị trúng một kiếm, ngã ngay xuống cái cống hôi thối nhơ nháp không tưởng được, lẫn vào màu rác rưởi.
Sau một lúc, Đinh Ngọc Lạc mới lau đi nước mắt, quay người lại đến tiểu viện lạc, vừa vào trong viện thì thấy trong viện trống trơn, Dương Hạo không biết đã mất tích đi đâu rồi. Đinh Ngọc Lạc giật mình hoảng hốt, tìm trong tìm ngoài, không những không nhìn thấy Dương Hạo đâu, mà cái gậy quải trượng cũng không thấy đâu nữa. Đinh Ngọc Lạc nước mắt như mưa nói: “Ca… ca bảo ta đánh ca một cái, hóa ra chỉ là để thoát khỏi ta…”
Đầu gối nàng khuỵu xuống đất, thút thít: “Nhị ca, ca bảo ta phải làm thế nào thì mới tha thứ cho ta đây? Cha mất rồi, đại ca cũng thân tàn, tiểu đệ thì táng tận lương tâm, nhị ca, ca nhẫn tâm như vậy mà bỏ đi, để ta và đại ca cả đời này phải bứt rứt sao? Nhị ca, Đinh Ngọc Lạc này hai năm nay đi hết bắc rồi xuống nam, bôn ba ngàn dặm, màn trời chiếu đất, chịu bao nhiêu đắng cay cũng không buồn lòng, nhưng ca đi như vậy thực sự làm tổn thương trái tim của muội. Cái chết của Dương đại nương, trên dưới Đinh gia người nào cũng có tội, muội cũng muốn chuộc tội cho Đinh gia. Ngọc Lạc có bản lĩnh thiên đại, dù có gì xảy ra thì cũng không nề hà. Nhị ca, có phải là muốn muội chết thì ca mới tha thứ cho muội đúng không?”
Đinh Ngọc Lạc thút thít đem tất cả những chuyện trong hai năm ra kể lể, nói hết những bứt rứt trong lòng ra, rồi nàng khóc rống lên, phía sau đột nhiên truyền lại một tiếng thở dài: “Haiz, trên đời này có một dạng vũ khí, có lẽ mãi mãi ta không ngăn cản được, đó chính là nước mắt đàn bà…”
Đinh Ngọc Lạc vừa mừng vừa sợ, thấy Dương Hạo dính lại hàng râu và lông mi, người hơi cúi đứng ở cửa viện. Đinh Ngọc Lạc gọi một tiếng: “Nhị ca…” rồi chạy lại ôm chầm lấy hắn, ôm chặt như thể sợ hắn biến mất.
Dương Hạo nhẹ nhàng vuốt mái tóc của nàng, cười khổ nói: “Mới vừa rồi cho ta một gậy, làm thực là có hiệu quả.”
Đinh Ngọc Lạc xấu hổ, ngẩng đầu lên nói: “Nhị ca, ca… ca còn đau không?”
Dương Hạo thấy bộ dáng khóc sướt mướt của nàng, nhẹ nhàng lắc đầu nói: “Cũng thật là làm khó cho muội, từ Phách Châu mà tìm tới Khiết Đan, rồi lại từ Khiết Đan đến Đường quốc. Nhị ca bận bịu, tuy có tâm báo thù cho mẫu thân, nhưng so với muội thì lại vô cùng xấu hổ. Hôm nay tên súc sinh kia đền tội trước mặt ta, đều là công lao của muội, thì sao ta lại có tâm sinh oán với muội chứ, chỉ là… haiz… hiện giờ, muội có dự đình gì, khi nào về Phách Châu vậy?”
Đinh Ngọc Lạc hơi do dự nói: “Tên súc sinh giết cha đó đã chết, ta… ta sẽ mau chóng về thôi. Nhị ca à, muội nghe nói ca bị người Khiết Đan ám sát, chết cháy ở trên thuyền, sao… sao ca lại…?
Dương Hạo méo xệch cười nói: “Ta xuất thân bất chính, ở triều đình Tống quốc cũng chỉ là ngoại tộc, quan gia đã trọng dụng ta song lại phòng ta, dù có ý thiêu sát ta, vẫn có ý ràng buộc theo dõi, giờ ở tình cảnh xẩu hổ, hà tất nhớ nhung không đi? Lần này, ta chẳng qua chỉ là tương kế tựu kế, nhân cơ hội mà thoát thân thôi. Ẩn cư không bị ràng buộc gì, há chẳng sướng hơn là làm con chuột trong cái bễ, bị khinh bỉ sao?”
Đinh Ngọc Lạc rời khỏi ngực hắn, lau nước mắt, hít một hơi nói: “Thế… nhị ca định đi đâu để ẩn cư, sao không quay về Lô Châu?”
“Về Lô Châu?” Dương Hạo ngạc nhiên hỏi: “Muội sao lại nghĩ đến Lô Châu?”
Đinh Ngọc Lạc chần chừ, không muốn giấu diếm gì hắn bèn nói: “Cơ nghiệp Đinh gia ở Phách Châu, sớm đã bị lụi bại rồi, đại ca nản lòng thoái chí, không muốn ở Phách Châu nữa. Sau hôm nhị ca bỏ đi, ca ấy đã rời toàn bộ gia sản tới Lô Châu, ý đại ca là… sớm muộn gia nghiệp này vẫn giao cho nhị ca.”
Dương Hạo im lặng một lát, lắc đầu nói: “Đi thôi, đến chỗ ở của ta trước, hai ngày sau thì vè Lô Châu. Ca ấy… hai chân bị gãy, một mình lo gia nghiệp ấy e không tiện. Muội tuy là con gái, nhưng tài nghệ và khí phách cũng không kém gì nam nhi. Có muội giúp ca ấy, gánh vác gia nghiệp là chuyện không khó khăn gì. Còn về phần ta…”
Hắn thờ dài một hơi nói: “Ta vốn từ Lô Châu tới đây, ở đó người biết ta vô cùng nhiều, nếu ta về đó, tung tích khó mà tránh khỏi bị lộ, một khi triều đình biết được thì lại không hay. Muội nhận nhị ca này, ta cũng nhận muội ngươi, nhưng chưa chắc có thể sống cùng nhau. Muội cứ để nhị ca theo con đường mà ta muốn đi đi.”
Đinh Ngọc Lạc nghe hắn nói vậy, biết hắn buồn vô cùng, giờ dù nhận mình lại vẫn khúc mắc với Đinh gia, tạm thời không tiện khuyên nữa, chỉ yên lặng gật đầu, đi bên cạnh hắn.
Chỗ ở của Dương Hạo nằm trong một xóm nghèo, nơi này thường xuyên có bọn lưu manh phạm án trốn hoặc ẩn nấp, căn phòng mà họ thuê buôn bán đồ ăn, che chở lưu phạm, mật báo, đúng là khời nguồn nơi sinh kế vô bần của dân nghèo hạng nhất sinh sống, cho nên đám người Dương Hạo ở khu vực hỗn loạn này vô cùng dễ dàng.
Mấy thuộc hạ ở phòng bên cạnh, bao quanh lấy phòng của Dương Hạo và hai vị phu nhân, cho nên ngõ Ô Nê này tuy là nơi vô cùng hỗn loạn, nhưng gần chỗ ở của hắn cực kỳ yên tĩnh, đám lưu manh vô lại, lũ tạp vụ càng không thể tới gần chỗ hắn.
Chỗ ở của Dương Hạo chỉ là một nơi giống với mấy căn nhà bậc trung, sân viện tương đối chật, tường viện thì thấp bé, phòng lụp xụp, nhưng chỗ ở lại tương đối sạch sẽ, song vô cùng đơn sơ. Nơi như vậy, gia phó của Dương Hạo có thể ung dung, còn hai người Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi thân phận là thiên kim, hai mĩ nữ cũng chịu khổ được, như vậy mới đáng quý.
Thấy Dương Hạo mang theo một người Hán về, Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi vô cùng ngạc nhiên, nghe Dương Hạo giới thiệu về cô ấy, biết được cô này là muội muội cùng cha khác mẹ của Dương Hạo, hai người phụ nữ lúc này mới hiểu ra vấn đề. Đợi cô đi rửa mặt thay quần áo, hồi phục lại vẻ đẹp, là một cô gái hiền lành, thông minh lanh lợi vô cùng, hai cô gái có cảm tình vô cùng. Chuyện cũ của Dương Hạo hai cô đều biết tường tận, cũng biết vị tiểu muội này ban đầu rất tốt với Dương Hạo, rồi các cô quen biết nhau, Đường Diễm Diễm tính tình vô cùng thẳng thắn, Ngô Oa Nhi thì nhu thuận vô cùng, ba cô gái rất nhanh đã quen thân nhau.
Đêm hôm đó, trăng sáng ít sao, Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi sau một hồi tâm sự với Đinh Ngọc Lạc, thì cáo từ đi ra, vừa vào trong viện thì gặp Dương Hạo đang đứng ngẩng đầu nhìn mặt trăng, hai người liền đi tới.
Khi mũi ngửi thấy mùi thơm, hai thân kiều diễm đã nhẹ nhàng ôm lấy hắn, ánh đèn trong phòng Đinh Ngọc Lạc đã tắt.
“Quan nhân…” Oa Nhi khẽ nói.
“Các nàng… đều nghe Đinh Ngọc Lạc nói rồi sao?”
“Vâng.”
Dương Hạo bùi ngùi thở dài, cầm lấy tay hai nàng, nhẹ nhàng nói: “Hai nàng lại đây.”
Trong viện có một cái ghế băng, Dương Hạo kéo hai nàng tới ghế băng ngồi, kể lại chuyện của La Đông Nhi và mình lại một lượt, sau đó nói: “Lúc đó ta cho rằng cô ấy đã bị người ta hại chết rồi, nhưng mãi đến bây giờ ta mới biết, cô ấy… vẫn còn sống.”
Hai người con gái nắm chặt tay hắn. Dương Hạo lại nói: “Nếu như không phải Ngọc Lạc từ Phách Châu đến Thượng Kinh, từ Thượng Kinh đến Kim Lăng, bám riết truy đuổi không tha tên súc sinh kia, để ta hôm nay có thể có được tung tích của cô ấy, thì ta vẫn sẽ chẳng hay biết gì. Nếu ta không có tin tức gì, thì có một ngày Đông Nhi chạy về Trung Nguyên, cô ấy… cô ấy cũng nhất định sẽ cho rằng ta thực sự đã chết rồi, từ nay về sau không còn cơ hội gặp nhau nữa. Vừa nghĩ tới tình hình thê thảm ấy, thì ta cũng không rét mà run lên.
Ta và ân oán Đinh gia dây dưa không rõ ràng, giờ người ta hận đã chết rồi, Định đại thiếu gia và Ngọc Lạc dù cho có cái gì không phải, dựa vào cái này, ta cũng không có gì ân oán với họ nữ. Nhưng… Đinh Thừa Tông là con trưởng Đinh gia, từ nhỏ quen mắt, lòng chỉ có một sứ mệnh: chính là làm vinh dự Đinh gia, mà ta thì lại không phải người có thể kế nghiệp gia sản, hơn nữa cũng không có hứng thú lớn vậy. Ung dung tự tại một đời, làm những chuyện vui vẻ với người mình yêu thương, lẽ nào không hơn bôn ba cả đời, chỉ vì cái gia sản truyền lại sao? Huống hồ, ta không muốn sửa thành họ Đinh, cũng không muốn kế thừa gia sản họ Đinh…”
Đường Diễm Diễm khẽ thờ dài nói: “Làm chuyện vui vẻ với người yêu thương. Hạo ca ca, Đông Nhi tỷ tỷ là người tình nhân mà cả đời chàng mãi mãi không buông ra được, giờ tỷ ấy còn sống, chàng nhất định sẽ đi Khiết Đan đón cô ấy về, đúng không?”
Dương Hạo nhìn nàng, bỗng bật cười: “Từ đây đi Khiết Đan, nhất định vô cùng gian khổ, vô cùng nguy hiểm, đại nhân không phải rơi vào nhà bình thường, cô ấy giờ là người trong hoàng cung đại nội. Ở trong đó ai cũng có thể gặp tùy tiện được sao? Huống hồ… nơi đó ta chưa bao giờ đi, đời người chỉ có một lần, nếu muốn đưa nàng trở về, khó khăn như lấy trộm tiên nữ từ trên trời xuống hạ giới.”
Dương Hạo khẽ cầm lấy tay nàng, nhỏ nhẹ nói: “Nàng… không muốn ta đi?”
Đường Diễm Diễm cúi đầu, thầm thì: “Thiếp không muốn để quan nhân của chúng ta đi tới nơi cửu tử nhất sinh, vì canh cánh trong lòng, mất ăn mất ngủ, thiếp không muốn có một người phụ nữ quan trọng vô cùng với chàng trở về tranh giành tình cảm với ta. Nhưng… thiếp biết nhất định chàng sẽ đi. Đông Nhi tỷ tỷ tình thâm nghĩ nặng với chàng, hy sinh vì chàng quá nhiều, nếu chàng bỏ qua, thì chàng không xứng là người đàn ông của thiếp.”
Nàng ngẩng mặt lên, trăng sáng, mắt nàng long lanh, bầu trời thật đẹp.
“Diễm Diễm…” Dương Hạo cảm động cầm lấy tay nàng, nhất thời không biết nói gì.
Oa Nhi khẽ nhắc nhở: “Quan nhân, người này chàng nhất định phải cứu, nhưng quan nhân đi là đi cứu người, mà không phải đi vào chỗ chết, vì điều này nên chuyến đi này vô cùng nguy hiểm, cho nên quan nhân không nên quá nôn nóng, càng nóng lòng cứu cô ấy trở về, thì càng phải có kế hoạch hoàn hảo.
“Ta biết”.
Dương Hạo ôm lấy người hai nàng, cảm động nói: “Dương Hạo có thể có những người bạn tri kỷ như các nàng thực không biết phúc mấy đời của ta. Ta biết, lần này đi gian nan khổ cực vô cùng, giờ ta không thể quang minh chính đại mà đi, không có Tống Quốc cho ta chỗ dựa, không có mấy trăm dũng sĩ hộ vệ cho ta, không ai nghênh đón ta. Ở một nơi hoàn toàn xa lạ này, một khi đến Thượng Kinh, ta muốn gặp cô ấy trong Hoàng cung thông báo một tin cô ấy biết ta đến là việc gian nan vô cùng, chứ đừng nói đưa cô ấy về, cho nên ta hận một nỗi không thể mọc thêm cánh mà bay đến Thượng Kinh, nhưng ta tuyệt đối không làm việc lỗ mãng”.
Hắn dừng một lát, lại nói: “Mấy ngày nay ta sẽ nghĩ cho kỹ, tính toán một chút, nghĩ một kế sách vẹn toàn, đợi đến khi Kim Lăng gió êm bể lặng, chúng ta sẽ khởi hành đi, ta và các nàng đi Thiếu Hoa sơn trước”.
Đường Diễm Diễm hừ nhẹ một tiếng nói: “Chúng ta có thể tự tìm đến, chẳng lẽ có thể tự về, còn cần đưa chúng ta về Thiếu Hoa sơn? Chàng ý à…trái tim của chàng giờ đã mọc đầy cỏ rồi, còn có ý vậy sao?”
Dương Hạo dịu dàng nói: “Mỹ nhân ân trọng, há dám không đáp? Hai nàng vứt bỏ phú quý theo ta, Dương Hạo lòng cảm kích vô cùng, hơn nữa, cứu Đông Nhi về như nào, ta giờ vẫn chưa có chút chủ ý nào, vẫn là nên lên đường, từ từ nghĩ cách vậy. Đợi có kế hoạch, ta sẽ mang mấy hộ vệ biết nói tiếng Khiết Đan đi đồng quan bắc thượng hà đông lộ, tự đại châu xuất nhạn môn quan, từ đó đi đến Khiết Đan, con đường này cũng tương đối tiện.
Oa Nhi hỏi: “Thế…Ngọc Lạc thế nào đây?”
Dương Hạo trầm lặng nghĩ ngợi, nói: “Cô ấy một mình, tuy nói vào nam ra bắc, sóng gió đều đã từng trải qua, nhưng nghĩ đến chuyện một mình cô ấy ở một mình thực là không thể yên tâm, để ta phái hai người hộ tống cô ấy đi Lô Châu vậy”.
Dương Hạo vừa dứt lời, bên cạnh có một giọng nói vọng lại, quay đầu lại nhìn, Dương Hạo ngạc nhiên vô cùng: “Diễm Diễm, nàng khóc gì vậy?”
Đường Diễm Diễm bỗng sà vào ngực hắn, thút thít nói: “Chàng làm gì, thiếp cũng ủng hộ, nhưng chàng phải đồng ý với thiếp, dù thế nào đi nữa, chàng cũng phải sống trở về, nhất định phải sống trở về”.
“Ngốc nghếch, ta còn chưa đi mà, sao lại nói lời không may đó chứ?”
Dương Hạo tức cười, nhưng thấy Đường Diễm Diễm ôm chặt lấy eo hắn, khóc lớn nhào vào ngực hắn, nụ cười trên mặt hắn dần tắt, liền đưa tay nâng nàng đậy, vuốt ve mái tóc của Diễm Diễm, hắn không nói gì, cảm động vô cùng…
Ba người đi sát nhau trở về phòng, tường thấp có một bóng người đứng lặng nhìn theo, nhìn ánh đèn sáng ở phòng bọn họ, nhìn thật lâu…
Trời đã sáng, tuy tài liệu có hạn nhưng Oa Oa vẫn xem, vẫn là lo liệu mấy món ăn khai vị ngon miệng, nấu một nồi cháo thơm, Dương Hạo vốn muốn đợi Ngọc Lạc dậy rồi cùng dùng bữa, nhưng đợi hồi lâu vẫn không thấy cô ấy dậy, Oa Oa bèn đến phòng cô gọi một tiếng, sau một lúc gọi, Oa Oa giật mình trở về nói: “Quan nhân, Ngọc Lạc đi rồi”.
“Gì cơ?” Dương Hạo kinh ngạc, vội chạy đến phòng Ngọc Lạc, Oa Oa chạy theo nói: “Quan nhân, Ngọc Lạc đi rồi, đây là thư cô ấy để lại”.
Vì đuổi theo giết tên súc sinh kia, muội muội đã ở Thượng Kinh nhiều ngày, rất thuộc đường nơi đó, con đường quay về cũng biết, hơn nữa muội là thân nữ nhi, lần này lên kinh, một khi nghe ngóng được tin của nhị tẩu, cũng tiện đi tiếp cận tẩu ấy. Một đi Thượng Kinh trước, rồi hỏi dò đường, đợi đến thành công được vài phần, nếu như Ngọc Lạc có thể gặp nhị tẩu trước thì sẽ chuẩn bị trước.
Nhị ca hộ tống gia quyến rời Kim Lăng, đi them về phía Thượng Kinh rồi gặp muội ở đó. Muội lên Thượng Kinh trước, ở Thượng Kinh muội ở Phúc tự nhà trọ nghỉ chân, đợi khi Nhị ca đến chúng ta sẽ gặp nhau. Ngọc Lạc, khấu đầu tái kiến.
*******
Biện Lương, Hoàng cung, điện Tập Anh.
Các quan văn quan võ tập trung trong điện, bàn tán xôn xao.
Hôm nay quan văn quan võ trọng thần tập trung lại với nhau, nội dung tranh luận là đại sự quan trọng: Đánh ai.
Tiếng đao va chạm soàn soạt làm tăng tinh thần, mở rộng ranh giới, chính là hướng nam và hướng bắc, và nó thành vấn đề mà các quan trong triều tranh giành không ngớt.
Lúc này Dương Hạo mặc bộ sứ giả Khiết Đan, tin sứ giả Khiết Đan đột tử cũng đã truyền tới, theo đó mà còn có nội sứ quán Đường Quốc hao tâm biên soạn ra bản đồ địa lý Giang Nam, theo lời tường thuật của Dương Hạo về bản đồ, căn cứ vào điều này có thể phân tích phán đoán vị trí đóng quân nhiều ít binh lực.
Cùng lúc đó, mật thám bên Khiết Đan cũng truyền tin, Khánh Vương mưu phản, binh vây Thượng Kinh, tiêu thác trí, hàn đức bảo hơn mười tướng lĩnh và văn thần quên thân bỏ mình ở binh biến, Da Luật Hưu Ca mang theobinh mã tuần thành, Hoàng đế Khiết Đan sáng sớm hôm sau đăng thành ổn định lòng dân, về sau không thấy hắn lộ diện, phố phường trong ngoài loan tin Hoàng đế đã băng hà, nhưng hắn ốm yếu, triều chính xưa nay đều là Hoàng hậu lo liệu, cho nên triều chính không thấy bị xao lãng.
Tiêu hoàng hậu đã mật chiếu hơn mười đạo, cử người phá vây đi viện quân, các nơi, các tộc các bộ lạc giờ liên kết với nhau, cần vương binh mã nườm nượp, còn vị thủ lĩnh cầm đầu hơn mười đại bộ lạc đang có bài hịch Khánh Vương thề sống chết, khởi binh chạy tới Thượng Kinh, quân chúng ào ào, tình hình đại chiến vô cùng căng thẳng.
Được tin này, Triệu Khuông Dận mừng rỡ như điên, đám võ tướng trong triều, Da Luật Hiền, đám người Hô Diên Tán cho rằng đây là thời cơ trời cho, dựa vào nội loạn của Khiết Đan, nên khởi binh bắc phạt, lấy tội danh tự tiện giết Tống sứ thảo phạt Khiết Đan, đoạt về 16 châu U Vân, điều này có chiến lược dễ thủ mà khó công. Còn về Đường Quốc, thực sự không phải sợ, tùy thời cơ có thể phát binh tiêu diệt.
Dựa vào đám người Lô Đa Tốn, Tiết Cư Chính, Lữ Dư Khánh cầm đầu văn thần nhất trí cho rằng, tiên nam hậu bắc bình định thiên hạ là quốc sách định hạ của Đại Tống, nhiều năm qua, triều đình có nhiều sự sắp xếp, binh mã bộ thư, binh sĩ diễn luyện, cung cấp lương thảo…tất cả đều đã được chuẩn bị kỹ càng, không thể vội vàng sửa đổi quy chế.
Hai phái tranh chấp, Da Luật Hiền ưỡn bụng, rít gào nói: “Các ngươi là lũ nhà nho nghèo kiết xác, hiểu được chuyện đánh giặc sao, Đường Quốc nếu như lấy được, tùy lúc có thể ra tay, bắc phạt Khiết Đan cũng không phải chuyện dễ dàng, dựa vào quốc binh, chiến lực của nước ta, có cơ hội tốt thế này sao không dùng, nhân lúc hắn bệnh thì lấy mạng hắn mới là đạo lý”.
Lô Đa Tốn nói: “Da Luật Hiền nói lời này sai rồi, không nói đến Khiết Đan nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn giờ có mắt không tròng với tình hình loạn lạc của Thượng Kinh, bày thế trận chờ đón quân Tống ta, hơn nữa giờ chính là tiết trời giá rét, quần áo mùa đông, lương thảo, xe ngựa vận chuyển phải giải quyết như thế nào? Đảng tướng quân vội vàng nghĩ tới Bắc phạt, người Khiết Đan là dễ dàng tấn công đánh bại họ như vậy sao? Một khi chiến sự giằng co, binh mã của ta khốn đốn ở đất bắc, khi đó muốn quay đầu lại cũng khó, còn nếu Đường Quốc nhân cơ hội tác loạn, thì sẽ như thế nào đây?”
Da Luật Hiền trừng mắt, giơ hai tay ra nói: “Trước sợ sói, sau sợ hổ, thì chẳng cần làm gì nữa cả”.
Hô Diên Tán vội nói: “Các vị đại nhân, Khánh Vương có thể lợi dụng thế nào? Nếu chúng ta phái người tới bàn bạc với hắn, dựa vào điều kiện trên đây, hắn sẽ hợp tác với Tống Quốc ta. Giờ Tiêu hoàng hậu tọa trấn Thượng Kinh, Thượng Kinh bất loạn, cần vương chi sư ùn ùn, ta thấy Khánh Vương rất khó đắc thủ. Nếu chúng ta có thể thuyết phục hắn điều động binh mã chuyển công 16 châu U Vân, và trợ giúp hắn một tay, hợp lực cướp lấy U Vân đối kháng lại Thượng Kinh, Da Luật Tà Chẩn cũng không nghĩ tới.. Nếu Khánh Vương theo U Vân mà kháng Thượng Kinh, hắc hắc…”
Tiết Cư Chính phản bác nói: “Khánh Vương dễ dàng làm vậy sao? Hơn nữa nói đi cũng phải nói lại, đợi cho nghị binh đã định, thế cần đến khi nào rồi, sợ thời cơ đã sớm bỏ qua mất. Đảng Tiến ta một trận chiến mà san bằng Đường Quốc, sớm đã chuẩn bị, Nam chinh các cửa ải hiểm yếu có dự trữ lương thảo, giờ lại có bản đồ địa lý giang nam sơn hà, các nơi trú binh rõ như lòng bàn tay, chính khả lần này nam chinh, thống nhất Trung Nguyên, trừ bỏ mọi ưu phiền, khi đó mới chuẩn bị kỹ càng bắc phạt, mới là kế ổn thỏa, nếu không một khi Đường Quốc tham chiến, hai mặt khai chiến, Tống Quốc ta tất sẽ bị đại thương nguyên khí”.
Triệu Khuông Dận nghe hai phái nhân mã tranh chấp, thấy Tấn Vương đứng ở bên cạnh không nói nửa lời, bèn nói: “Tấn Vương nghĩ thế nào?”
Triệu Quang Nghĩa đi lững thững vài bước rồi đứng lại, chắp tay nói: “Bệ hạ, thần cho rằng, nếu lần này quyết phạt, thật là đầu cơ, chưa chuẩn bị đủ, lúc này là mùa gió lạnh rồi, miền bắc trời đông tuyết phủ, quân nhu khó mà có thể tiếp nhận được, một khi quân ta bị chặt đứt đường lui, hậu quả tất khó lường. Da Luật Tà Chẩn nhất đại danh tướng, hắn tọa trấn Nam viện, chiếm cứ thiên thời địa lợi nhân hòa, nếu như không có sự chuẩn bị đầy đủ, cuộc chiến này quá nguy hiểm, huống hồ đất Thục giờ có người tác loạn, Mân Nam tân phụ, Đường Quốc khó mà không có phản loạn, đây là những điều thần nghĩ, nghi nam…bất nghi bắc”.
Triệu Khuông Dận mỉm cười: “Khánh Vương nếu điều quân trở về phạt U vân, sẽ không suy nghĩ tới Tiêu hoàng hậu sau lưng hắn sao? Nam có Da Luật Tà Chẩn, bắc có Tiêu hoàng hậu, Khánh Vương kẹp ở giữa có thể làm được chuyện gì? Sự lựa chọn duy nhất của hắn chỉ có thể nhanh chóng tấn công Thượng Kinh, nắm được Tiêu Hậu trong tay, định lại thế cục, còn có một điểm nữa, các khanh chưa nghĩ tới, Trẫm nếu như bắc phạt, có khả năng phản mà thúc đẩy người bắc hòa giải nhất trí đối ngoại không?”
Hắn nhìn quần thần một lượt, thấy quần thần im lặng, có người vẻ mặt đã chợt hiểu, lại nói: “Khiết Đan Hoàng đế lâu không lộ diện, sống chết không hay. Nếu hắn đã chết, Tiêu hậu bí mật không phát tang thì sao? Tiêu Xước vô song, nếu Hoàng đế đã chết, Trẫm lại phát binh bắc phạt, loạn trong giặc ngoài, bà ta sẽ giảng hòa với Khánh Vương không đây? Còn về liên lạc với Khánh Vương, Trẫm…”
Triệu Khuông Dận mỉm cười, khinh khỉnh nói: “Trẫm há có thể bừa bãi qua lại với tên loạn thần”.
Triệu Quang Nghĩa bước lên một bước nói: “Bệ hạ anh minh”.
Đám người Lô Đa Tốn lần lượt khen ngợi Triệu Khuông Dận, Triệu Khuông Dận cười nhìn Da Luật Hiền, Tào Bân, nói: “Các khanh dốc hết chủ trương bắc phạt, không phải vì U Vân, hoàn toàn là vì người bắc và không dễ, các người kiêng kị cho nên vừa thấy cơ hội mới không muốn bỏ qua. Nguyên nhân chính là như vậy, Trẫm càng không thể vội vã làm bừa”.
Hắn cười lạnh lùng, ngạo nghễ nói: “Bắc quốc sao, đợi thống nhất Trung Nguyên, Trẫm sẽ ngự giá thân chinh, người bắc tuy rằng rất cao, Trẫm là Trẫm ngồi không cũng khó chịu”.
Hắn hơi ngả người về phía trước, trầm giọng nói: “Ý Trẫm, trước tiên nên lấy Đường Quốc, thống nhất Trung Nguyên. Các khanh, ai có thể thống binh nam chinh?”
Triệu Khuông Dận sẽ chọn ai gánh vác trọng trách này? Ai tự ứng cử mình đây? Mời các bạn cùng dự đoán và đón đọc chương tiếp theo.^^
Chương 366: Chủ động xin đi đánh giặc.
Triệu Khuông Dận vui vẻ vì Khiết Đan nội loạn, 16 châu U Vân rất hấp dẫn hắn, quyết định quốc sách trước nam sau bắc, đồng thời nắm bắt được cô hội này phát binh. Tống chinh phạt Đường quốc, trận chiến cuối cùng thống nhất Trung Nguyên, thời gian trong lịch sử đã bắt đầu trước một năm.
Nhưng ai phải gánh vác trọng trách này đây?
Tào Bân ắt không thể thiếu được, hắn giờ không những là khu mật thừa chỉ, mà còn là một đại tướng của Tống quốc, lão luyện, hữu dũng hữu mưu, có tài thống soái. Một người khác cũng thích hợp chính là Phan Mỹ. Phan Mỹ là chiếc đao nhọn sắc bén nhất trong những chiến tướng Tống quốc. Tào Bân giỏi thủ, Phan Mỹ giỏi công, hai người cùng phối hợp ăn ý với nhau, bọn họ liên thủ với nhau tất đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi.
Nhưng Phan Mỹ giờ vẫn ở Mân Nam chưa về, nguyên Thục quốc cảnh nội đang có một đạo nhân mã tạo phản, giờ phản tặc đã vượt quá vạn người, hơn nữa thanh thế càng ngày càng lớn mạnh. Thời điểm này Mân Nam vừa mới quy phục không được tái loạn, nếu không hai nơi khói lửa cùng dấy lên, xa cùng hô ứng, còn nói gì tới chuyện thảo phạt Đường quốc. Phan Mỹ giờ chỉ có thể tọa trấn Mân Nam.
Trận chiến cuối cùng thống nhất Trung Nguyên, đây là cơ hội khó có được, càng là một cơ hội quan trọng lưu danh sử sách, ai không biết cơ chứ? Da Luật Hiền, Hô Diên Tán hai viên hổ tướng này đều tranh giành đứng ra, Triệu Khuông Dận không khỏi lắc đầu, bọn họ là cấm quân tướng lĩnh, phụ trách an toàn kinh đô và hoàng thành, trừ khi ngự giá thân chinh, nếu không thì sao có thể dễ dàng mà phái họ điều binh được. Huống hồ hai vị tướng này dũng mãnh, nhưng bọn họ quen lục chiến, mã chiến bộ chiến là anh hùng nhất phương, nhưng thủy chiến thì… hai vị thống lĩnh mã quân bộ quân này không giỏi.
Lúc này, lại một vị quan không kiềm chế được đi ra, khiến người ta ngạc nhiên, hắn chính là một văn thần, quần áo hoa văn thiếp vàng long bào, đội mũ cánh chuồn, dáng người cao to, bước đi thong dong, chính là đương kim Tấn vương kiêm phủ doãn phủ Khai Phong Triệu Quang Nghĩa.
“Bệ hạ, thần đệ thỉnh lĩnh đại quân, xin phụng chỉ, xin thề san bằng Đường quốc.”
Triệu Khuông Dận kinh ngạc, ngẩn người ra, dở khóc dở cười nói: “Hoàng đệ, đệ… đệ sao có thể xông vào chiến trận hỗn loạn đó được, đệ với thân phận Khai Phong phủ doãn, dẫn binh nam hạ, chẳng phải là để cho thiên hạ cười triều ta không có người sao?”
Triệu Quang Nghĩa khom người nói: “Bệ hạ, là thần tự nguyên, sau trận chiến này, Trung Nguyên không còn chiến sự nữa, và thần đệ nguyện sẽ từ bỏ chức Khai Phong phủ doãn, thống binh nam hạ, tái lập công cho bệ hạ.”
Triệu Khuông Dận nhíu mày nói: “Hoàng đệ, Trung Nguyên các nước bên tỏng, dựa vào thực lực Đường quốc mạnh nhất. Lý Dục tuy ngu ngốc, nhưng Đường quốc không phải không có võ tướng dũng mãnh. Lần này nam chinh mười mấy vạn đại quân xuôi nam, lương thực hao tổn vô số, sự nếu bất thành, hậu quả mang đến vô cùng nghiêm trọng. Hoàng đệ thân là Khai Phong phủ doãn, lo liệu chính vụ đương nhiên là thuận buồm xuôi gió, nhưng…”
Triệu Quang Nghĩa chắp tay vái dài nói: “Bệ hạ, thần ngày xưa cũng đã từng đi theo bệ hạ. Thần đệ thuở nhò theo bệ hạ, bước theo binh nghiệp, thấy bệ hạ rong ruổi nơi sa trường, bắc chiến nam chinh, thần đệ có một ước mơ, muốn được như bệ hạ, thần đệ giải giáp cứ ngồi ở Khai Phong, giờ đã hơn mười năm rồi. Khi Cừ Châu Lý Tiên kéo cờ tạo phản, thần đệ muốn từ chức Khai Phong phủ doãn, thay bệ hạ tiêu diệt chúng, tích bị hàn lâm học sĩ, Bổng Châu tri phủ Chu Ngang đại nhân nhanh chân đến trước. Giờ Chu đại nhân thống ngự Quảng An quân liên tiếp chiến thắng, thần đệ há lại cam lòng. Thần đệ xuất thân võ tướng, nhiều năm nay lại chưa từng lập chiến công gì cho bệ hạ, nghĩ vậy, nay chinh phạt Giang Nam, thần đệ khẩn cầu bệ hạ, mong bệ hạ ân chuẩn.”
Lời cầu khẩn của Triệu Quang Nghĩa, Triệu Khuông Dận không khỏi nghẹn lời. Chu Ngang là văn nhân rõ ràng, dựa vào hàn lâm học sĩ, thân phận Bổng Châu tri phủ có thể kiêm ngự Quảng An quân phó tứ xuyên bình định, mà nhị đệ vốn là một võ tướng, sao có thể so với hắn là tri phủ?
Đang lúc băn khoăn, khu mật thừa chỉ Tư Mã Thiên Khuê liền tán thành: “Thần nghĩ rằng nguyên nhân Đường quốc không thể so với Thục Hán, càng cần một người uy vọng đức long, thống ngự chư quân, như thế mới có thể bảo đảm chỉ huy được các lộ đại quân. Lần trước Ngụy vương điện hạ tuần thú Giang Hoài, mượn long uy của bệ hạ, giải nguy cạn lương thực cho Khai Phong. Giở Tấn vương là thân cận của bệ hạ, thay bệ hạ chinh phạt Đường quốc, cũng tất sẽ tạo khí thế cho tam quân. Huống hồ Tấn vương đã theo bệ hạ nhiều năm, sỡ trường quân trung, ti thông võ lược, lần này nếu là chủ soái thảo phạt Đường quốc, chắc chắn sẽ được tam quân kính phục.”
Triệu Khuông Dận chớp chớp mắt, trầm ngâm không nói gì, Da Luật Hiền bước lên phía trước giải vây cho hoàng đế nói: “Bệ hạ, thần tuy không giỏi thủy chiến, nhưng lần nam hạ này, cũng không phải chỉ có thủy quân có thể tham chiến, bệ hạ phái thần đi đi.”
“Đảng Tiến tuy là một con vịt cạn, Trường Giang, Tần Hoài, trong mắt lão Đảng chỉ là một cái vũng bùn mà thôi, bước qua nó thực không thành vấn đề.”
Triệu Quang Nghĩa liếc mắt sang nhìn Đảng Tiến, mỉm cười nói: “Đảng tướng quân dũng mãnh thiện chiến, trong triều ai mà không biết, nhưng cuộc chiến phạt Đường, nên nhanh chóng không nên hoãn. Không biết Đảng tướng quân nếu cầm binh phạt Đường, bao lâu có thể tóm gọn Kim Lăng, đưa Lý Dục tới trước mặt bệ hạ thỉnh tội?”
Đảng Tiến không khỏi ngẩn người. Việc này ai dám cam đoan, lúc đó nếu như gặp phải một tòa kiên thành, rồi lại gặp tướng lĩnh giỏi thủ thành, chỉ cần trong thành lương thực dồi dào, đánh một năm hai năm cũng là chuyện bình thường. Lần này nam chinh, một đại tướng đem hết khả năng của mình ra là điều đương nhiên, nhưng hắn cần vỗ ngực cam đoan trong bao lâu có thể nắm gọn Đường quốc, thì hắn không thể nói rõ.
Đảng Tiến suy nghĩ một lát, do dự nói : “Mạt tướng… mạt tướng sẽ dốc hết sức mình, anh dũng giết giặc. Còn nắm được thành Kim Lăng trong bao lâu… cái này… chuyện binh gia thay đổi khó lường, giờ không thể nói chuẩn xác được. Nếu mạt tướng dẫn quân phạt Đường quốc, ta nghĩ… ta nghĩ, nếu như chiến sự thuận lợi, năm sau có thể chiếm được Kim Lăng.”
Triệu Quang Nghĩa mỉm cười, quay đầu lại phía Triệu Khuông Dận, thản nhiên cao giọng nói: “Bệ hạ, nếu vi thần thống binh nam hạ, thần bảo đảm nội ba tháng sẽ san bằng Đường quốc, để bản đồ của nó thuộc về Đại Tống.”
“Ba tháng… Tấn vương nói lời giữ lời đó chứ?”
“Thần đệ xin bảo đảm!”
“Tấn vương thực không hổ thẹn là bào đệ của bệ hạ, long huynh hổ đệ, khí khái bất phàm. Tấn vương điện hạ giỏi văn giỏi võ, dũng mãnh thiện chiến, là cũng được ảnh hưởng từ bệ hạ, đây là cái phúc của triều đình ta, là cái phúc của Đại Tống ta. Tấn vương có ý này, bệ hạ ngại gì mà chần chừ nữa. Thần tán thành Tấn vương thống binh.”
Tả gián nghị đại phu Đỗ Tuy vui mừng đứng dậy, chắp tay nói tỏ ý tán thành. Quần thần ai nấy cũng lần lượt tán thành, sau một lúc, văn võ đại thần trung thư xá nhân Trần Bình Chương, hữu phó Xạ Dương Tuần, phán bộ binh sự Tử Nguyên Mậu, thị ngự sử tri tạp sự Lý Huyền Triết, thiết kỵ tả hữu sương đô sứ Lý Hoài Trung lần lượt hưởng ứng.
Sắc mặt Triệu Khuông Dận hơi đổi, mắt hắn nhìn đám văn võ đại thần, mỗi người hắn đều nhìn qua, ánh mắt thâm thúy, nhưng hắn ngồi ở chỗ cao, không ai dám nhìn thẳng mặt hoàng đế, không ai có thể nhìn được ánh mắt của hắn.
Triệu Khuông Dận hít nhẹ một hơi, quay đầu nhìn về phía văn ban chi thủ, ở đó còn có ba vị tể tướng Lô Đa Tốn, Tiết Cư Chính, Hô Diên Tán. Triệu Khuông Dận mỉm cười nói: “Tấn vương chủ động xin đi giết giặc, chuyện phạt Đường quốc, không biết ý ba vị tể tướng ra sao?”
Ba người nhìn nhau, do dự bước lên phía trước nói: “Chúng thần… không có ý kiến gì.”
Sắc mặt Triệu Khuông Dận vẫn không đổi, lại quay sang phía La Công Minh vừa mới hồi kinh, quan thăng một cấp, trở thành Đại Tống triều tài thần gia, hỏi: “La khanh nghĩ sao?”
La Công Minh chớp chớp mắt, chắp tay nói: “Thần nghĩ rằng, dù vị đại tướng nào thống binh nam chinh, được bệ hạ bày mưu lập kế, thì lo ngại gì không chiến thắng đây?”
Triệu Khuông Dận trầm mặc một lúc, cười to nói: “Được, Tấn vương đã được mọi người ủng hộ, chức quan Giang Nam hành dinh mã bộ quân chiến trẫm sẽ giao cho ngươi, cho ngươi thống ngự tam quân thảo phạt Đường quốc. Còn về từ chức Khai Phong phủ doãn, tạm thời chưa tìm được người thích hợp, Tấn vương xử lý thuận buồm xuôi gió, trẫm không thể không nghĩ cho kỹ. Thế này đi, trong thời gian Tấn vương rời kinh, Triệu Quang Mỹ có quyền tri Khai Phong phủ doãn, phủ nha phó quan phụ tá, đợi khi Tấn vương công thành trở về, thì lại tính tiếp. Nhưng… Tấn vương chớ quên mình phải lập được nhiều công trạng nhé!”
“Thần đệ tuân chỉ.” Triệu Quang Nghĩa vui mừng cầm một góc áo bào quỳ xuống, thi lễ.
Sau khi bãi triều, Triệu Quang Nghĩa trở về phủ Khai Phong, vừa mới ngồi xuống chỗ của mình ở Thanh Tâm lầu, đám người Tống Kỳ, Trình Vũ, Trình Đức Huyền vội vàng chạy đến, vừa gặp Triệu Quang Nghĩa đã vội nói: “Thiên tuế, ngài từ chức Khai Phong phủ doãn rồi sao?”
Triệu Quang Nghĩa uống một hớp trà, cười ảm đạm nói: “Lo lắng chuyện gì, bổn vương ở phủ Khai Phong hơn mười năm rồi, có thể đổi ai đến có thể ngay lập tức khống chế nơi đây?”
Tống Kỳ vội vàng nói: “Nhưng… một khi không thể không thay một đời không thể, thiên tuế tuy có cơ hội, có ý đồ lập chiến công, bệ hạ chưa chắc sẽ không này sinh cảnh giác. Bệ hạ xuân thu chính thịnh, nếu có ý đổi phủ doãn, tân nhiệm Khai Phong doãn sẽ làm hơn mười năm cũng không phải là không thể. Bệ hạ lệnh thiên tuế quyền thống lãnh đại quân, chức Giang Nam hành dinh đô bộ có thể là tạm thời, chiến sự xong đương nhiên sẽ xóa bỏ, các bộ binh mã vẫn về các nơi, đến lúc đó chẳng phải là mất cả hai sao?
Chương 367: Ván bài lật ngửa.
Tao Trư Nhi tính toán hồi lâu, ho nhẹ một tiếng, nói ra lời mà hắn cho là thỏa đáng nhất nói: “Diệu Diệu này, người thì cũng đã chết rồi, đau thương cũng không có tác dụng gì, cô cần phải sống tốt lên, điều này...người sống không thể khiến…cô thấy cô còn trẻ vậy, dung mạo xinh đẹp, nếu như cả ngày chỉ buồn thương, Hạo Tử ở dưới suối vàng cũng không an lòng”.
“Hứ?” Diệu Diệu ngẩng đầu, không hiểu vị lão bá này nói hồ đồ cái gì.
Tụ Nhi trừng mắt nhìn hắn, sợ tên ngu ngốc này nói ra những điều không nên nói.
Tao Trư Nhi căng thẳng toát cả mồ hôi hột, viên viên góc áo nói: “Điều may mắn là Hạo Tử để lại cho cô một gia nghiệp lớn, cơm áo không phải lo nữa, đó là tâm huyết của hắn có được, cô cũng nên lấy lại tinh thần mà lo liệu, coi như là…ồ…coi như là niệm tưởng. Ồ…đây là…cô xem cô còn trẻ như vậy, ai mà ức hiếp cô, thì cô cứ nói với ta, ta và Hạo Tử không phải huynh đệ thân, còn hơn cả huynh đệ thân thiết”.
Diệu Diệu hơi cúi đầu nói: “Đa tạ đại bá an ủi, Diệu Diệu biết rồi”.
Tao Trư Nhi vội xua tay nói: “Không phải cảm ơn, người một nhà nói gì câu khách khí ấy, hic, cô đang lúc thanh xuân, hơn nữa tuy có danh phận với Hạo Tử, dù sao thì cũng chưa chính thức bước qua cửa, cũng không cần thủ lễ gì cả, sau này ấy, nếu như cô thấy người đàn ông nào thật thà, nếu như có ý với hắn thì không có gì phải kiêng kị cả…”
Diệu Diệu mặt từ tái nhợt chuyển sang đỏ ửng, cô nhướn mày, thở dài, lấy lại tinh thần, từ từ cúi đầu, khẽ nói: “Đại bá, ngươi…ngươi thực là huynh đệ tốt nhất của quan nhân nhà ta…”
Tao Trư Nhi nghe vậy vui mừng, mặt mày hớn hở nói: “Ồ, ta từ nhỏ đã thân với Hạo Tử, mặc chung chiếc quần đến khi lớn, chưa bao giờ tranh giành nhau, ta và hắn tuy hai mà một, chuyện của hắn cũng chính là chuyện của ta, hắn không còn nữa, ta nhất định sẽ quan tâm đến cô, nếu không thì ta cũng không xứng là huynh đệ tốt nữa, ha ha ha…”
Diệu Diệu đứng dậy, nói: “Ngươi…ngươi giờ đã không phụ lòng quan nhân nhà ta rồi”.
Tao Trư Nhi vội nhấc mông: “Hẳn vậy, hẳn vậy, nếu cô có chuyện gì thì cứ nhanh chóng nói với ta, ta không giúp cô thì ai giúp cô, về sau ta có thời gian sẽ đến, nếu cô…”
“Không cần đâu”. Diệu Diệu lạnh lùng phất tay áo: “Diệu Diệu cảm thấy rất mệ, có gì xin thứ lỗi”.
“Hả?” Tao Trư Nhi thầm nghĩ: “Ta còn chưa nói hết, chưa gì đã tiễn khách sao?”
Tụ Nhi xấu hổ, đứng dậy nói với Diệu Diệu: “Phu nhân xin bảo trọng, xin vào nghỉ ngơi, chúng ta đi đây”. Nói rồi kéo Tao Trư Nhi bước đi.
Tao Trư Nhi không hiểu gì cả, vừa ra khỏi đại môn Dương gia, Tụ Nhi liền véo tai hắn, nghiến răng nghiến lợi nói: “Tên ngốc này, ngươi là bề trên sao lắm lời thế? Ngươi muốn bảo người ta mang theo gia sản kếch xù đó gả cho ngươi phải không?”
Tao Trư Nhi vội bào chữa: “Ta nào có nói thế? Ta là loại người gì nàng còn không biết sao? Có ý với vợ của huynh đệ mình? Trư Nhi ta là loại người vậy sao?”
Tụ Nhi tức giận nói: “Chàng không phải người như vậy, nhưng những lời nói ra thật vô vị, may mà người ta còn để lại chút thể diện cho chàng, chàng không nghe người ta nói chàng là huynh đệ tốt nhất của quan nhân người ta, có nghĩa là đã nhắc nhở cho chàng rồi sao, chàng còn nói năng hàm hồ như vậy?”
Tao Trư Nhi ngẩn người nói: “Ta nói hàm hồ cái gì nhỉ? Ta có nói hàm hồ cái gì đâu?”
Tụ Nhi điên lên hét lớn: “Người ta còn nghĩ chàng ham muốn vẻ đẹp và tiền của nhà người ta, muốn người ta dâng cho chàng đấy. Chàng không hiểu hay giả vờ không hiểu đấy hả?” Nói rồi phất tay áo bỏ đi.
Tao Trư Nhi ngẩn tò te, dậm chân kêu oan: “Những lời ấy ta nào có nói, ta có thể là loại vô liêm sỉ như vậy sao? Đây…đây…ngầm ý gì hả? Người ta có lòng tốt thì lại coi là loại không ra gì, đánh chết ta ta cũng không đến nữa. Cái tên Hạo Tử đáng chết mà không chết, lại còn hãm hại người nữa.
Trư Nhi nói rồi đuổi theo Tụ Nhi.
Trong phòng Dương Hạo, Diệu Diệu ngồi trên giường khóc rống lên, chị em trong Nhất Tiếu lầu ác độc khỏi phải nói, cô có thể chịu được sao, không thể tưởng tượng được huynh đệ kết giao duy nhất với quan nhân cũng đục nước thả câu, thi thể quan nhân còn chưa lạnh, hắn đã vô liêm sỉ đến thúc giục mình tái giá. Người này còn có thể tin cậy sao? Nhất Tiếu lầu có toàn rắn độc, đến đây lại có người như hắn mưu chiếm tài sản, thế giới này còn có nơi nào cho mình sống đây?
Tấm ván gỗ, đinh, búa được đưa đến giữa phòng, đám sai vặt bị nàng đuổi đi hết, Diệu Diệu đóng chặt đinh vào tấm ván, đám sai vặt nghe thấy có tiếng động chạy lại, giật mình hoảng hốt: “Phu nhân, phu nhân làm gì vậy?”
Diệu Diệu trong phòng lạnh lùng nói: “Tự kỷ ôm oán hận trong lòng, bất kỳ người nào cũng không được vào…”
Lão người hầu ngạc nhiên nói: “Phu nhân, bà nói gì vậy?”
Trong phòng vắng vẻ, một lúc sau vọng ra tiếng Diệu Diệu: “Các người thu dọn đồ đạc trong phủ, đi hết đi. Diệu Diệu phu quân đã chết, sinh không luyến tiếc, tự kỷ trong phòng dâng hương cho phu quân, từ nay về sau tuyệt thực…lấy cái chết trọn tiết”.
Binh quý thần tốc. Triệu Khuông Dận quyết định xuất binh, lập tức ra tay quyết không chậm trễ. Ngày này, Hồng lư tự tín sứ/người mang tin tức vội vàng chạy tới Giang Nam, ngày thứ ba Tào Bân mang kỵ binh lên đường, cùng với thị vệ mã quân đô ngu hầu Lý Hán Quỳnh, phân bốn phương quán sự điền khâm tộ tới kinh nam.
Theo sự sắp xếp của Triệu Khuông Dận, lần này diệt Đường cần xuất bốn lộ đại quân, tổng cộng ước tính hơn mười vạn người, Tào Bân dẫn quân Kinh Nam trước, điều Kinh Hồ thủy quân đánh Trì Châu, lấy bờ nam đông Trường Giang cửa ải hiểm yếu của quân Đường, Triệu Quang Nghĩa thì dẫn bộ kỵ binh ngày đêm đuổi tới Hòa châu, ở Thái Thạch Cơ gặp Tào Bân, đội quân hùng hậu xông tới Kim Lăng. Kinh sư thủy quân từ biện thủy mà phá băng vào Dương Châu, từ Dương Châu tấn công sang Nhuận Châu.
Sau khi mất rất nhiều sức lực phá băng, mặt sông một đêm lại kết băng như cũ, nhưng may mà đội thuyền dài mười mấy dặm, sau khi một con thuyền đi qua, nước sông kết băng cũng không sao cả, hơn nữa càng đi về phía nam, mặt băng càng mỏng, chiến thuyền lại nhẹ, cho nên càng đi tốc độ càng nhanh.
Chi đội thứ tư là quân Ngô Việt. Triệu Khuông Dận truyền lệnh, mệnh thiên hạ binh mã đại nguyên soái, Ngô Việt Vương dẫn mấy vạn quân Ngô Việt từ Hàng Châu bắc thượng tấn công thường Châu, phối hợp với thủy quân Tống Quốc chiếm lấy Nhuận Châu, sẽ tấn công Kim Lăng, và phái Tống Quốc đại tướng Đinh Đức Dụ là tiên phong cho Ngô Việt quân, kỳ thực là giám quân, đồng thời lại lệnh hoàng châu thích sứ Vương Minh dẫn quân tấn công Vũ Xương, khống chế quân Đường tuyến tây, phòng ngừa bên đông viện trợ.
Tiêu Hải Đào được thánh chỉ lập tức vào cung gặp Lý Dục, Lý Dục nổi giận đùng đùng khiển trách là người không mắt, phụng chiếu mà không hướng, sứ giả thượng quốc bị ám sát, Đường Quốc bảo hộ bất lợi; Bản đồ địa lý sơn hà không đủ tường tận, qua loa cho xong thì phải chịu tội, và tuyên bố Đường Quốc vô lực che chở sứ giả thượng quốc, Tống Quốc lập tức triệu về sứ đoàn. Xong xuôi, Tiêu Hải Đào phủi tay áo đi, lập tức dẫn đầu sứ về nước, đi nhanh như bay, không dừng lại nghỉ.
Lý Dục thấy hành văn của Triệu Khuông Dận tuy nghiêm khắc, nhưng không nghiêm phạt có tính thực chất, không khỏi thầm nghĩ may mắn, vội viết lại một bức thư thỉnh tội, hết sức lo sợ thỉnh tội với Triệu Khuông Dận, lệnh người chuẩn bị đại lượng ngân bạc tiền tài, ca kỹ vũ nữ, chuẩn bị một phần hậu lễ xoa dịu cơn giận của Tống Quốc.
Qua vài ngày, mã bộ quân Biện Lương, thủy quân đồng thời lên đường, đại quân dũng mãnh vô cùng, thống binh chủ soái chính là Khai Phong phủ doãn, quyền tri Giang Nam hành doanh mã bộ quân chiến trạo đô bộ thự Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa. Mã quân, bộ quân, thủy quân được tin xuất động, gây náo động toàn phủ Khai Phong, trên đường người tấp nập đều đến xem đại quân đang trên phố tuyên thệ xuất quân rồi nam hạ.
Tao Trư Nhi và Tụ Nhi chen chúc trong đám người bên sông Biện Hà xem thủy quân triều đình uy vũ hùng tráng, ai nấy đều khen ngợi. Thủy vận tứ bang lần này cũng xuất quân, rất nhiều người cũng ra tay giúp đỡ, nhưng chiến hạm lại đều sử dụng chiến hạm kiểu mới mà triều đình bí mật tạo ra, do người bắc không tiện dùng thuyền, cho nên hệ thống động lực chiến hạm của triều đình áp dụng mái chèo gỗ, có to có nhỏ, có bốn mái, tám mái, mười hai mái, thậm chí có chiến hạm ba mươi hai mái chèo, binh sĩ chỉ cần hai chân choãi ra đạp về phía trước, sẽ đạt được tốc độ cực nhanh, như treo buồm lớn.
“Ôi, quả nhiên là uy vũ hùng tráng, đại quân xuất binh, đứng ở đây xem mà cũng thấy khí thế, thấy nhiệt huyết sục sôi, nếu mình mà ở trong đó, thì không biết cảm giác thế nào nhỉ. Chẳng trách Hạo Tử nói với ta, người bình thường trông thì nhã nhặn nhưng cũng rất uy hùng, đến khi đao thật thương thật hai quân chạm nhau cũng sẽ thay đổi thành thù hận hết, sau vài chiêu, người chết chỉ trong chớp mắt. Nếu ta cũng làm binh, nàng nói xem có thể được chức tướng quân trở về í nhỉ?”
Tụ Nhi cười nhạt: “Tỉnh dậy đi chàng ơi, nói còn chẳng nên lời, việc còn không làm được, có mỗi lòng tốt đến an ủi người ta, kết quả bị người ta coi là đồ dã tâm, chàng còn muốn làm quan? Chàng mà ở chiến trận, không làm thịt lợn cho người ta xơi mới là lạ”.
Trư Nhi xấu hổ, ngượng ngùng nói: “Ta…ta chưa bao giờ khuyên con gái, làm sao mà biết nói cái gì mới không làm đau lòng cô ấy? Thôi, không nhắc đến cô ấy nữa, người con gái này có điểm tốt xấu gì mặc kệ, Trư Nhi ta quang minh đường đường thế này, bị cô ta coi thành loại nào thì loại, chẳng có gì đáng bàn nữa”.
Tụ Nhi không nhịn được bật cười: “Thế có trách được người ta không? Lời chàng nói, đến ta còn hiểu lầm”.
Hai người đang đi trở về, thì nghe thấy phía trước có người nói: “Mấy ngày nay có rất nhiều tin nóng hổi, mấy ngày trước có người con gái muốn chết vì người mình yêu, đã đóng đinh chặt cửa, tự tuyệt thực mà chết trong phòng, hôm nay triều đình phát đại binh chinh phạt Đường Quốc, ồ ha ha, không biết hai ba hôm nữa sẽ có tin gì đây”.
“Tuyệt thực? Chết theo chồng? Ghê gớm nhỉ, triều đình biết chắc chắn sẽ treo biển tán thưởng”.
“Người đã chết rồi, hư danh còn tác dụng gì nữa? Nghe nói cô ấy là một mỹ nhân xinh đẹp như hoa như ngọc vậy, năm ngoái có cuộc thi hoa khôi, là trạng nguyên Diệp bảng đấy. Trong tay còn có Nữ Nhi Quốc của Thiên Kim Nhất Tiếu lầu nữa, tiền tài thiếu gì, xem xem sao cô ấy lại nghĩ quẩn vậy chứ? Cô ấy nếu như mời ta ở rể có phải tốt không, không hiểu ma xui quỷ khiến gì khiến cô ấy như vậy…”
“Cái gì?” Tao Trư Nhi nghe vậy giật mình, nhảy cẫng lên, kéo lấy tay áo người nọ quát: “Huynh đài xin dừng bước”.
Người đó giật nảy mình, xòe hai tay ra, mặt tím tái: “Làm sao, muốn đánh nhau à?”
Tao Trư Nhi vội buông tay ra: “Huynh đài hiểu lầm rồi, ta muốn hỏi, người con gái mà vừa nãy huynh nói đến là ai vậy?”
Người đó trừng mắt nói: “Nghe nói là người chủ của Nữ nhi quốc, là trạng nguyên Diệp bảng cuộc thi hoa khôi năm ngoái.
Tao Trư Nhi đừ người ra, vội hỏi: “Đã chết rồi sao?”
Người đó trừng mắt nói: “Ta không biết. Bốn năm ngày hôm nay rồi, không chết thì cũng sắp chết rồi, huynh đài muốn đi xem sao?”
Tao Trư Nhi không nói không rằng quay đầu bỏ chạy, Tụ Nhi nghe rõ ràng như vậy cũng không khỏi ngạc nhiên, vội đuổi theo sau hắn.
Tao Trư Nhi chạy đến Dương phủ thở hồng hộc, giờ Dương phủ trống trơn, hắn đi đến hậu viện, chỉ thấy Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi ngồi ở cửa, phía trước là chiếc bàn, bên trên bày thịt dê la liệt, mỗi người một chiếc bát đang uống rượu ăn thịt, miệng nhồm nhoàm.
Nhìn thấy hắn đến, hai người nhận ra hắn, vội nhảy dựng lên: “Tiết đại gia, ngươi đến vừa đúng lúc, Diệu Diệu cô nương cố tình tìm đến cái chết, ngươi xem làm gì mới được đây?”
Tao Trư Nhi tức giận nói: “Hai ngươi là đàn ông, mà không ngăn nổi cô ấy sao?’
Hai người bất đắc dĩ nói: “Ngăn lại kiểu gì, Diệu Diệu cô nương đã đóng đinh vào cửa, huynh đệ ta biết làm sao khi cô ấy nói chúng ta mà lại gần, cô ấy sẽ dùng kéo tự vẫn, ngươi nói chúng ta phải làm sao đây?”
Tao Trư Nhi nổi trận lôi đình quát: “Thế mà các ngươi vẫn tiệc rượu ở đây được? Chờ nhặt xác người sao?”
Trương Ngưu Nhi ngượng ngùng nói: “Tiết đại gia nói vậy, huynh đệ chúng ta tuy là lưu manh nhưng cũng hiểu được chuyện giang hồ, chữ nghĩa phải đặt lên hàng đầu. Dương đại nhân đi rồi, chúng ta cũng phải làm chút cơm cho Dương đại nhân chứ, chúng ta uống rượu ăn thịt là muốn làm Diệu Diệu cô nương đói ngửi thấy mùi đồ ăn không chịu được mà ra đấy…”
Tụ Nhi hỏi: “Thế Diệu Diệu cô nương đã ra chưa?”
Lão Hắc cười nói: “Chưa, hai hôm trước còn nói, hai hôm nay không nói gì nữa cả.”
Tao Trư Nhi tức không nói gì, chỉ tay vào bàn, rồi lại chỉ sang bên cạnh, trừng mắt nhìn hai người. Hai người ngẩn người, lúc này mới hiểu ra, vội bê chiếc bàn sang một bên. Tao Trư Nhi vận đủ đan điền khí, đạp vào cửa một cái, rồi đạp vào ván gỗ, cú đá này cửa vẫn chưa văng ra. Tao Trư Nhi quay đầu bỏ chạy, thấy Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi không hiểu gì, thấy Tao Trư Nhi chạy đến cửa viện rồi xoay người, hét lớn một tiếng, chạy lấy đà, bay toàn bộ thân mình lên, bả vai huých mạnh vào đại môn. Chỉ nghe thấy “bùm” một tiếng, cánh cửa chưa mở, trục cửa bị đứt, cánh cửa bay luôn vào phòng, Tao Trư Nhi cầm chặt lấy cánh cửa lao vào.
Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc cũng không nói nửa lời, đi cùng vào trong, không nhìn thấy người trong phòng, chỉ thấy màn buông xuống che giường. Tao Trư Nhi tiến đến kéo tấm màn lên, chỉ thấy Diệu Diệu mặc bộ đồ trắng nằm thẳng trên giường, mặt xám xịt không động đậy, phòng không có chậu than đốt, lạnh như hầm băng, hơn nữa mấy ngày không có nước uống, thấy cô chỉ còn lại hơi thở yếu ớt, không có không khí vào, Tao Trư Nhi mặt trắng bệch.
“Mau mau mau, cầm đồ ăn đến đây.” Tao Trư Nhi vội nghĩ, Hạo Tử dặn hắn làm chuyện này, nếu như cô nương người ta sống mà chết đói, thì hắn cả đời này cũng không còn mặt mũi nào mà gặp huynh đệ nữa.
Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi vội chạy ra ngoài, rồi nhanh chóng chạy vào, tay cầm bầu rượu và cái đùi béo. Tao Trư Nhi tức giận mắng: “Hai người còn ngu xuẩn hơn cả cái đầu lợn, cô ấy giờ còn có thể nhai được, còn có thể cứu được sao?”
Tụ Nhi đẩy hắn ra nói: “Chàng thì cũng đâu có giúp được gì, đi ra chỗ khác đi.” Cô cúi xuống nghe ngóng hơi thở của Diệu Diệu, rồi đắp chăn bông lên người, quay đầu dặn dò: “Các người mau đi lấy chậu than đến, ta đi xuống bếp đặt nồi cháo.”
Cháo nấu xong, Tụ Nhi ngồi bên giường, đưa từng thìa cháo lên thổi nhẹ rồi đưa vào miệng cho Diệu Diệu, mấy thìa cháo được đút xong, Tụ Nhi vui mừng nói: “Cô ấy tỉnh rồi, cứu được rồi.”
Không ngờ Diệu Diệu ý thức được mình tỉnh liền ngậm chặt miệng lại, không chịu để cho Tụ Nhi đút cháo. Tụ Nhi khó khăn một hồi lâu, Diệu Diệu mới thều thào nói: “Tụ Nhi… cô nương, nếu có… ý tốt, xin cô… cô cho Diệu Diệu toại nguyện, để cho Diệu Diệu đi cùng với phu quân… cho… toàn tiết đi.”
Tụ Nhi nghe vậy, sống mũi chợt cay sè, nước mắt ngắn dài nhìn về phía Tao Trư Nhi. Tao Trư Nhi như kiến bò trên chảo nóng, đi đi lại lại trong phòng, lúc thì lẩm bẩm, lúc thì nghiến răng nghiến lợi, không biết xả giận cho ai, Tụ Nhi không nhịn được nói: “Sư ca, mau mau nghĩ cách đi, như này… thực khiến cô ấy sống sờ sờ mà chết vì đói mất thôi. Đàn ông các người dã tâm thật…”
Tao Trư Nhi bỗng nhảy cẫng lên: “Kệ đi, kệ đi, việc này hết cách rồi.”
Tụ Nhi tức giận hét: “Chàng dám mặc kệ.”
Tao Trư Nhi cầm lấy tay Tụ Nhi nói: “Các người ra ngoài, ra ngoài hết đi, ta có cách khuyên Diệu Diệu hồi tâm chuyển ý rồi.”
Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi thấy hắn như vậy, ngượng ngùng nói: “Tiết đại gia muốn cứng rắn sao? Có cần trợ giúp gì không vậy?”
Tao Trư Nhi trừng mắt quát: “Giúp gì mà giúp, ra ngoài, trốn ở một nơi xa xa. Tụ Nhi, nàng cũng ra ngoài, ta có lời muốn nói với Diệu Diệu.”
Tụ Nhi cũng nghe lời, nhưng hắn còn đuổi mình đi, nói lời gì với cái cô nương kia, liền nhướn mắt lên: “Ta không nghe được sao?”
Tao Trư Nhi nói: “Cái này… nàng… nàng cứ ra ngoài đi.”
Tụ Nhi bực bội nói: “Chàng nói xem, có chuyện gì mà ta không hiểu chàng chứ, chàng nói gì, làm gì, chẳng lẽ dấu được ta? Được lắm, Tiết Lương họ Trư chàng, chàng không muốn ta nghe, bổn cô nương cũng không thèm nghe. Hôm nay đi ra khỏi cửa này, từ nay về sau, ngươi có gì thì cũng không cần nói với ta nữa, bổn cô nương đi đây.”
Tụ Nhi nói rồi bước đi, Tao Trư Nhi vội kéo lấy nàng, mặt méo xệch nói: “Thế… nàng ở lại cũng được, nhưng… nhưng nàng phải đồng ý với ta, không được nói với ai cả.”
Tụ Nhi nở nụ cười mừng rỡ, Tao Trư Nhi có chuyện gì nàng đã muốn biết thì có giấu cũng chẳng được, giờ hắn chịu nhượng bộ như vậy, có nghĩa là với hắn nàng đã chiếm được một vị trí vô cùng quan trọng. Tụ Nhi vui vè đáp: “Được.”
“Không được nói với cha nàng.”
“Không nói.”
“Không được nói với mẹ nàng.”
“Không nói.”
Tao Trư Nhi quay đầu nhìn Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc, hai người cùng nói: “Chúng tôi cũng không nói.”
Tao Trư Nhi không để cho họ chút thể diện, không khách khí nói: “Không nói cũng phải ra ngoài.”
Đuổi Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi, Tao Trư Nhi đóng chặt cửa phòng, rồi trở lại giường, ngồi xuống, nhìn Diệu Diệu mặt trắng bợt, lúng túng nói: “Diệu Diệu, Hạo Tử trước khi đi đã phó thác cho ta, nếu cô có chuyện không hay xảy ra, ta làm sao mà xứng đáng với huynh đệ của mình được chứ. Cô ăn một miếng đi.”
Diệu Diệu nhắm chặt mắt không nói gì, Tao Trư Nhi nghiến chặt răng, nhìn ra phía ngoài cửa, nhỏ giọng nói: “Diệu Diệu, Hạo Tử hắn… hắn thực ra là chưa chết, cô đừng có nghĩ không thông như vậy nữa.”
Diệu Diệu bỗng mở to hai mắt, nhìn chằm chằm vào mắt hắn, môi mấp máy, nhưng nói không ra lời.
Tao Trư Nhi vỗ đùi, nói ra kế hoạch giả chết thoát thân của hắn rõ ràng cho cô nghe, Tụ Nhi đứng một bên cũng ngẩn người ra. Diệu Diệu ở trên giường ban đầu thì còn tỏ vè ngạc nhiên, người hơi động đậy, như muốn ngồi dậy, nhưng ánh mắt thì lại tỏ ra buồn bã, sắc mặt vô cùng khó coi.
Tao Trư Nhi đã nói ra chuyện này, rồi bê bát cháo đến bên vui vẻ nói: “Nào, ta giờ đã nói hết cho cô nghe rồi, cô có thể yên tâm được rồi chứ?”
Thìa cháo đưa đến miệng Diệu Diệu, cô quay đầu, tránh nó, nói nhỏ: “Tiết đại ca, ngươi nói là… đại nhân… chỉ là lợi dụng Diệu Diệu, đại nhân… đại nhân vốn không thích Diệu Diệu, đúng không?”
Tao Trư Nhi ngẩn người, cứng lưỡi không nói được gì. Diệu Diệu nhắm tịt mắt lại, nước mắt dàn dụa chảy xuống.
Tao Trư Nhi khó xử nói: “Diệu Diệu cô nương.”
Diệu Diệu mặt mày ảm đạm nói: “Tiết đại ca, ngươi không cần nói nữa, Diệu Diệu ngu xuẩn, có sống… thì cũng là trò cười cho thiên hạ…”
Tao Trư Nhi đảo mắt nhìn quanh, Tụ Nhi đứng bên cạnh nói: “Đúng vậy, Dương Hạo kia chính là con lợn đã lợi dụng cô, cho nên coi cô chẳng ra gì, giờ gia sản kếch sù đã rơi vào tay cô, thành Biện Lương không biết có bao nhiêu người con gái muốn hắn lợi dụng như vậy, hắn nhất định là coi cô ngốc nhất, cho nên mới chọn cô. Hắn nhất định là coi thường cô, cho nên tuy cô xuất giá, nhưng lại chưa động phòng cùng cô, để cho cô một thân trinh tiết để cô tái giá. Hắn nếu như không phải vô tình vô nghĩa với cô, sao lại bảo sư ca ta – một tên ngốc nghếch tới chăm sóc cô…”
Diệu Diệu nghe xong, mắt lại sáng lên.
Tao Trư Nhi vừa nghe thấy không ra sao cả, dần dần mới hiểu ra, mặt không khỏi vui vẻ, phục Tụ Nhi, rồi quay sang nói với Diệu Diệu: “Diệu Diệu cô nương, Trư Nhi thật không ngờ tới là Hạo Tử lại tình thâm ý nặng như vậy. Người tốt như cô, nếu hắn cũng nhẫn tâm phụ lòng cô, thì đến Tiết Lương ta cũng không bỏ qua cho hắn.
Hạo Tử thực sự là rất thích cô, nếu không hắn chết thì chết đi, hà tất nhất định phải sắp xếp cho cô một con đường đi? Con người hắn là thuộc loại con lừa, dắt cũng không đi, đánh cũng không lui, làm việc luôn như vậy, ta cũng quen rồi. Khụ khụ… nhưng cô cứ yên tâm, lòng người cũng đều là thịt, giờ tình hình này, ta cho dù thế nào cũng phải giúp cô. Ta là huynh đệ hắn, lời ta nói hắn không thể không nghe. Cô gọi một tiếng đại bá, ta tuyệt đối sẽ không để cho cô gọi một cách vô ích…”
Diệu Diệu hơi mở mắt, khẽ lắc đầu nói: “Không, đại nhân… có cái khổ của đại nhân, đại ca ngài đừng làm khó chàng. Diệu Diệu… Diệu Diệu biết đại nhân không sao… cũng an tâm rồi. Diệu Diệu… là thân nô tỳ, vốn không xứng với đại nhân, từ nay… sẽ không ấu trĩ hoang tưởng nữa. Nữ Nhi quốc là của đại nhân, Diệu Diệu sẽ lo liệu cho tốt, lo cho nó cả đời.. cả đời… sớm muộn cũng cho nó hoàn hảo hoàn bích quy Dương…”
Tao Trư Nhi động lòng nói: “Diệu Diệu cô nương, cô… cô…”
Diệu Diệu quay người sang Tụ Nhi, mỉm cười nói: “Tụ Nhi tỷ tỷ, ta… ta đói quá, muốn ăn gì đó.”
Trương Ngưu Nhi đưa vài cô nương từ Nữ Nhi quốc đến lo liệu cho Diệu Diệu, Tao Trư Nhi thấy tất cả đã sắp xếp ổn thỏa, lúc này mới cùng Tụ Nhi cáo biệt đi về, trên đường còn lẩm bẩm tán dương không ngớt: “Cô nương này giỏi thật, tuổi còn nhỏ, băng thanh ngọc khiết. Hạo Tử không biết mấy đời cao số mới có được cô nương này. Cô nương người ta hiểu chuyện, nàng xem xem, không oán hận hắn chút nào, không quấn quýt lấy hắn, cũng không chiếm tài sản của hắn. Ôi thực phúc hậu, Hạo Tử thực là nghiệp chướng… híc.”
Tụ Nhi lấy tay che miệng cười, Tao Trư Nhi trừng mắt nhìn cô: “Nàng cười cái gì, ta nói có gì không đúng sao?”
Tụ Nhi cười khanh khách nói: “Chàng nói đúng, cái gì gọi là tình thâm, là băng thanh ngọc khiết vậy? … Nhưng mà, nói cô ấy thật thà, ta thấy chưa chắc.”
Tao Trư Nhi không phục nói: “Diệu Diệu cô nương làm sao mà không nhu thuận chứ?”
Tụ Nhi bĩu môi nói: “Diệu Diệu cô nương nói sẽ không tính toán nhân duyên này, chàng nghĩ sao?”
Tao Trư Nhi trừng mắt: “Thế thì sao được? Một cô gái tốt như vậy, thắp đèn lồng đi tìm còn khó. Hạo Tử làm việc không đến nơi đến chốn, ta nếu không nhúng tay vào, trời sẽ giáng sấm sét xuống. Mấy ngày nữa ta sẽ đi tìm hắn, việc này ta không kệ được. Hắn nếu còn nhận ta làm huynh đệ, thì hắn phải đưa Diệu Diệu cô nương bước qua cửa cưới về. Nếu không thì, ta tuyệt đối sẽ không để yên cho hắn.”
Tụ Nhi vẫn cười khanh khách nói: “Oa, có vị đại bá ở trên trời rơi xuống giúp cô ấy hành sự, Diệu Diệu cô nương đương nhiên có thể ngoan ngoãn hiền lành rồi. Nếu không thì chàng muốn cô ấy làm sao đây? Một người con gái nhà người ta, lẽ nào cô ấy đi cầu khẩn Dương Hạo cưới cô ấy về sao? Dương Hạo vốn có ý với cô ấy, nếu không thì cũng không cần nhọc lòng sắp xếp đường đi cho cô ấy, giờ cô ấy bỏ tình nghĩa ra nhiều như vậy cho Dương Hạo, lại được chỗ dựa là chàng nữa, Dương Hạo cũng biết còn có sự lựa chọn thứ hai sao?
Ôi nhìn xem cái miệng ngọt ngào làm sao, dễ nghe làm sao ‘Nữ Nhi quốc là của đại nhân, Diệu Diệu sẽ lo liệu cho tốt, lo cho nó cả đời.. cả đời… sớm muộn cũng cho nó hoàn hảo hoàn bích quy Dương…’ Chậc chậc chậc, người ta nói như vậy, họ Dương hắn biết xấu hổ không lộ diện? Nữ Nhi quốc là cái thứ đã chết, mình thì cả đời ở đó mà sống được chắc, huynh đệ nhà chàng còn mặt mũi thì đi mà giả câm giả điếc. Hoàn bích quy Dương… hi hi, cũng không biết hoàn bích quy Dương ấy là nói Nữ Nhi quốc, hay là nói cô ấy…”
Tao Trư Nhi trừng mắt, một lúc sau mới giật mình thở dài: “Ta đói bụng đến muốn chết, còn có chỗ để tâm địa gian xảo sao? Nội tâm này… huynh đệ ta thực thảm hại, trong nhà đến ngọn đèn thắp cũng không có. Tụ Nhi, nàng… nàng về sau đừng có học theo con gái nhà người ta nhé. Ta tâm nhãn thực, nếu nàng chơi đùa bỡn cợt với ta, ta sẽ làm lợn để nàng bán đi, ngốc nghếch giúp nàng kiếm tiền…”
Tụ Nhi khinh khỉnh nói: “Ừm, bản thân ta cũng muốn bán quách chàng đi cho rồi, nhưng ai muốn nhỉ? Như chàng ấy, có cáp thêm tiền cũng…”
Tụ Nhi bỗng mắt sáng lên, kéo lấy tay áo hắn nói: “Vừa này chàng nói gì? Chàng nói… chàng nói muốn ta đừng có học theo con gái nhà huynh đệ chàng phải không? Có phải không?”
Tao Trư Nhi biết mình nói lỡ lời, xấu hổ vô cùng, hắn liền bỏ chạy mất dạng. Tụ Nhi vừa cười vừa nói: “Chàng chính miệng mình đồng ý nhé, tuyệt đối không được đổi ý. Nếu không… nếu không thì ta cũng tuyệt thực cho chàng xem, này, chàng không phải trốn.”
Tụ Nhi vui vẻ ra mặt đuổi theo Tao Trư Nhi: “Bổn cô nương là con gái, làm sao cũng chỉ rụt rè thôi, giờ chính là chàng mở miệng nói, hừ hừ, cả đời này, còn muốn chạy khỏi tay ngũ nương này sao…”
Chương 368:Tình cờ.
Sau khi Dương Hạo rời thuyền đi, chưa tới một canh giờ, thành Kim Lăng đã bắt đầu hạn chế ra vào.
Dương Hạo theo sự phân tích lộ tuyến tấn công của quân Tống do Bích Túc thuật lại, quân Tống giờ từ ba hướng bắc, đông tây theo đường thủy cùng tấn công, cuối cùng vây mục tiêu chính là thành Kim Lăng. Hắn muốn đưa toàn gia đình an toàn ra khỏi Giang Nam, nhất thiết phải ở trước khi ba lộ đại quân tụ hợp vượt qua đại giang, cho nên mau chóng lên đường, vừa ra khỏi thành thì vào đường bộ, lấy xe ngựa đi thẳng đến Thái Thạch cơ. Nơi này hắn từng du lãm cùng Hoàng Phủ Kế Huân, bến sông địa phương vẫn đóng quân, còn đi lại thông thương thân thiết với Kính Hồ, chỉ cần hắn đi trước khi Đường quốc phong tỏa đường thủy thì coi như an toàn rời đi.
Thiên hạ đã bắt đầu có sự thay đổi. Tống quốc vẫn phát động chiến tranh với Đường quốc, đây là lẽ tất nhiên, nhưng chủ soái lại đổi người. Thời thế có thể tạo ra anh hùng, anh hùng cũng có thể tạo ra thời thế, hai cái này vốn có tác dụng tương hỗ nhau, Triệu Quang Nghĩa thống quân rốt cuộc có ý gì, thời thế của tương lại sẽ bị thay đổi ra sao đây?
Dương Hạo không thể hiểu nổi. Càng gần Thái Thạch cơ, đại quân binh mã đi đến càng đông, nạn dân cũng không ít, đoàn người Dương Hạo cứ thế đi, đi hướng ngược lại với nạn dân chạy về phía Kim Lăng nên có chút trờ ngại, cho nên hắn chỉ có thể chọn một vài con đường nhỏ đại quân sẽ không chọn mà đi, như vậy vòng qua vòng lại có thể trì hoãn được thời gian. Đợi hắn đến Thái Thạch cơ, cờ chiến, binh giáp Thái Thạch cơ nhiều vô kể, đã không còn đường đi nữa.
Sự tấn công của Tào Bân thực sự nhanh chóng, hắn đột phá Hồ Khẩu, phá hết các trại, đại quân thủy quân hùng mạnh vô cùng. Đồng Lăng thủ tướng Đường quốc Hồ Chính được tin không sợ sệt, sức chiến đấu của Tào Bân dẫn Kính Hồ thủy quân không thể so sánh với quân tinh nhuệ Đường quốc. Nếu không phải Hồ Khẩu thủ tướng hồ đồ, đại quân của hắn đừng mơ tưởng mà đi qua được an toàn. Trong tay Hồ Chính tuy chỉ có ba vạn nhân mã, nhưng tự tin về địa lợi, thừa sức ngăn cản được mười vạn thủy binh hướng đông của Tào Bân.
Hắn tập trung ba vạn nhân mã lên trên hơn một trăm chiến hạm, phong tỏa toàn sông, thuyền dày đặc, trước sau tầng tầng lớp lớp, như một bức tường đồng vách sắt. Đại quân Tào Bân đến, thấy Hồ Chính sớm đã có sự chuẩn bị, thấy không thể địch lại được, vì thế lệnh đại tướng Tào Hàn lên bờ trước, nhân lúc Hồ Chính triển khai quân ra sông, đánh chiếm thành Đồng Lăng, phóng lửa trong thành.
Quân thủ Đồng Lăng phần nhiều là dân bản địa, vừa thấy thành bị đốt, liền mang bố mẹ vợ con lần lượt hướng Hồ Chính thỉnh cầu lên bờ cứu thành. Lúc này thế trận đã triển khai, đại quân Tào Bân khí thế hừng hực xông đến, Hồ Chính sao có thể để như vậy được? Quân Đường thấy chủ soái không đồng ý, thẳng thắn chống lại quân lệnh, trực tiếp đưa thuyền vào bờ. Tục ngữ nói quân lệnh như núi, giờ quân lệnh này lại không địch lại cốt nhục thân tình, Hồ Chính lệnh thân binh chém giết nhiều danh sĩ dẫn đầu cũng không ngăn lại được.
Lúc đó thủy quân Tống chưa tiếp chiến, thủy quân Đường trận thế đại loạn, thuyền cái ngang cái dọc, cài vào nhau, tạo ra sự bế tắc về giao thông trên mặt nước. Tào Hàn nhận nghiêm lệnh của Tào Bân không được tự ý giết dân, lửa được phóng ra chẳng qua chỉ là củi ở phố xá trong thành bị cháy mà thôi. Hắn liền ra khỏi thành mai phục, đợi quân Đường lên bở mới phát hiện mình đã quá thận trọng. Quân Đường lên bờ khóc lóc thảm thiết chạy thẳng đến thành trì, chẳng một đội hình, không đâu vào đâu, đúng là một bọn tạp nham.
Tào Hàn lập tức thổi tù và nổi trống tấn công, chỉ huy quân đánh lén. Quân Đường kháng lệnh lên bờ bị bắt giết, quân Đường trên mặt sông thì càng khỏi phải nói, đội quân Tào Bân ngông nghênh tới gần, trực tiếp lên thuyền tác chiến. Song phương hỗn chiến, Tào Hàn giết sạch đám binh Đường kháng lệnh lên bờ, cướp thuyền rồi cũng hướng thủy quân Đường bức tới.
Hồ Chính thấy đại thế như vậy, bị bại một cách bất lực, khóc rống lên, được mấy thân binh yểm trợ chạy trốn tới chiến hạm ở hậu phương tẩu thoát chạy đi báo tin.
Tin truyền tới, ven sông, quân Đường kinh hồn bạt vía, chỉ có thể xây tường cản, bắn hỏa tiễn ngăn thủy quân Tống tấn công. Tào Bân không lui, chạy tới bụi cỏ, chuẩn bị kế tiếp chuyển hướng tấn công. Lúc này, trận chiến Thái Thạch cơ đã thành công.
Triệu Quang Nghĩa vốn là một viên võ tướng, thường theo đại ca chinh nam phạt bắc, tuy chưa độc lập dẫn quân, lại cũng không am hiểu quân sự, bàn đến binh pháp càng không phải nói, còn về có phải là lý luận suông không, hôm nay sẽ chứng minh.
Hắn chỉ huy quân nam hạ, một đường ngựa không dừng vó, ngày đêm chạy, khi đến Thái Thạch cơ và nơi Tào Bân đóng quân, thủy quân Tào Bân vẫn còn chưa tới. Theo sự dặn dò của Triệu Khuông Dận, mã bộ binh của hắn cần cùng qua sông hỗ trợ tác chiến với Tào Bân, nhưng Triệu Quang Nghĩa không chờ được. Nghe nói Tào Bân chưa đến, Triệu Quang Nghĩa vui mừng khôn xiết, lập tức hạ lệnh thu thập thuyền đánh cá ven sông qua sông.
Mục đích của hắn chỉ là: tranh công.
Chiến công của Tào Bân hiển hách, được liệt vào đệ nhất võ tướng Tống quốc lúc bấy giờ. Nếu Triệu Quang Nghĩa có thể tranh công của Tào Bân trước, cơ bản không cần thủy quân hắn giúp thì công phá Đường quốc cần nút Thái Thạch cơ, đó có thể bỗng nhiên nổi tiếng, trở thành đệ nhất đại tướng thiện chiến nhất Tống quốc. Tuy nói Mân Nam còn có Phan Mỹ cũng giỏi, nhưng luận về chức quan, về danh vọng, Phan Mỹ còn kém cả Tào Bân, cũng chẳng thể so sánh với hắn. Hắn lo liệu Khai Phong mười năm, những công lao có được ai ai cũng biết đến, đến khi võ công hắn cũng giỏi nữa, tất sẽ nổi danh thiên hạ.
Nhưng nơi hiểm yếu không thể dễ tấn công, dựa vào mấy cái thuyền đánh cá lớn nhỏ mà hắn thu thập được muốn công phá cứ điểm quan trọng đâu phải dễ. Thái Thạch cơ quân Đường thủ quân tướng là mã bộ quân phụ đô bộ thự Dương Thu, binh mã đô giám Tôn Chấn, trong tay bọn họ có hai vạn binh tinh nhuệ, trận chiến Thái Thạch cơ, quân Tống bị đánh tơi bời, máu nhuộm đại giang, trận đầu đã bại.
Triệu Quang Nghĩa tự biết dựa vào thực lực của Đường quốc sớm muộn cũng vẫn có thể đánh được, đại quân của hắn chỉ cần đánh nghi binh dẫn Thái Thạch cơ thủ quân, khiến họ không được phân binh, chỉ cần yểm trợ thủy quân Tào Bân đến rồi sẽ đánh một trận. Nhưng hắn lại định ra là trong ba tháng bình định được Giang Nam, quân lệnh trạng ấy là kết quả để bỗng nhiên nổi tiếng, nếu đánh trên nửa năm hay một năm, thì có khác gì với Da Luật Hiền đâu?
Vì cái lời thề chắc như đinh đóng cột ấy, nên Triệu Quang Nghĩa dùng cảm tử quân ngày đêm không ngừng tăng cường tấn công cứ điểm quan trọng, và mệnh lệnh hạ sát hàng loạt quân trong thành để khích lệ tam quân, nhận lời chỉ cần đánh hạ Thái Thạch cơ, cho phép binh lính cướp phá tô thành, dùng tiền tài nữ tử. Chiêu này quả nhiên dùng được, triều Thanh, Sát Cáp Nhĩ phản loạn, đại quân mắt thấy giết đến dưới thành Bắc Kinh, trong thành không có binh, hoàng đế bó tay không có kế sách. Trong thời khắc quan trọng Hiếu Trang thái hậu dùng các người hầu hạ vương tộc hoàng thân ở kinh thành lập một đội quân mấy nghìn người giao cho Chu Bồi Công đi đánh giặc. Chu Bồi Công là một thư sinh dẫn theo một đám người hầu, như vậy là một đội quân ô hợp, Chu Bồi Công dùng hai thủ đoạn biến họ thành đội quân hổ lang, giết cho Sát Cáp Nhĩ sợ hãi. Mánh khóe chỉ có hai: một là sau khi đoạt được thành trì, cho phép cướp bóc tiền tài nữ tử, hai là người tự tiện lui một bước thì giết không tha.
Triệu Quang Nghĩa dùng cũng là chiêu này, điều này so với nhân tính, có thể có tốc độ nhanh chóng kích thích người ta có dũng khí lớn nhất. Bị mê hoặc bằng mỹ sắc và tiền bạc, mã bộ binh quân Tống giống như đánh máu gà, quyết tử lập công, dùng vô số thi thể để lấp sông, tấn công lên bờ đông Trường Giang.
Nhưng kế tiếp sau đó bộ đội vận chuyển mệt mỏi, quân Tống đổ bộ không ai giúp, bị Dương Thu, Tôn Chấn đích thân dẫn binh phản công giết ở bờ đông Trường Giang. Triệu Quang Nghĩa điên tiết, cởi bỏ chiến giáp, điều khiển thuyền nhỏ nam hạ tấn công, nhưng khi hắn đến quá nửa sông, quân Tống trên bờ đã bị người Đường tiêu diệt, vạn tiễn được bắn ra, Triệu Quang Nghĩa chỉ có thể quay về Giang Tây, thu gom gỗ lớn chế tạo thành bè, tập hợp những con thuyền hai bên bờ, chuẩn bị tái chiến.
Dương Hạo lúc này chạy đến Thái Thạch cơ. Mục Vũ mang người đi thăm dò phía trước, vội vàng chạy lại thông báo tình hình phòng sông. Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, hắn không ngờ quân Tống đến nhanh như vậy, giờ lại phải đi về hướng nào, sợ rằng đã không còn đường ra nữa rồi. Dương Hạo đưa gia quyến tạm thời dàn xếp qua, chỉ mang theo một mình Bích Túc vẫn mặc tăng y, cùng lên Thái Thạch cơ quan sát tình hình, xem xem có hay không khả năng dùng thuyền nhỏ giữa đêm vượt sông.
Đại quân tập trung trên bờ sông, trên Thái Thạch cơ du khách thưa thớt, nhưng vẫn có ba năm khách hành hương lên núi lễ phật, phập phồng lo sợ khấn phật phù hộ.
Trước Thái Bạch lầu yên tĩnh, câu đối: “Tiến phần dương tái tạo Đường gia, bính vô thước đất thù công, chỉ lạc vào Thái Thạch cơ, cung ngày đó thần tiên mỉm cười; Hi phi tử có thể gièm pha sĩ tử, không phải thất ngôn cảm oán, chợt cởi bỏ danh lợi trói buộc, để tiên sinh nên thơ rượu ung dung.” Một công tử huyền sam ngọc diện, mày ngài hơi nhíu, khoanh tay đứng nhìn.
Người này chính là Chiết Tử Du, qua mấy ngày, cô dường như đã gầy đi rất nhiều, vốn xinh đẹp hồng nhan, hai má giờ hơi hóp lại, hia mắt dường như to hơn, bộ dáng thiếu nữ khó mà che lấp, nhưng cùng với chiến loạn, rất nhiều thiếu nữ đều cải trang thành nam nhi, và cách ăn mặc ấy cũng không khiến người ta nghi ngờ.
Trước mặt cô là Trương Thập Nhất và một quân quan thấp, chỉ nghe Chiết Tử Du nói: “Kim Lăng bên đó thế nào rồi?”
Quan quân nói: “Tiểu tướng nghe Tôn đô giam nói các văn võ bá quan trong triều bàn bạc, quân Tống phái chiến binh viễn chinh, vô cùng nhuệ khí, chiến tranh tất sẽ kéo dài, làm vườn không nhà trống, dựa vào thế Trường Giang hiểm yếu và và khi quân Tống bị hao tổn nhiều, mỏi mệt sẽ tự nhiên thối lui”.
Chiết Tử Du nhướn mày, nói: “Thực là ngu xuẩn, trong triều không có một người nào biết nhìn xa trông rộng sao? Nơi hiểm yếu mặc dù nguy hiểm đấy, còn cần do người đến thủ. Nhuệ khí quân Tống hừng hực, sĩ khí quân Đường để lâu sẽ bị chùn đi, đến lúc đó nơi hiểm yếu cũng chẳng có gì hiểm yếu nữa cả. Hồ Khẩu có hùng binh mười vạn, tuyến Thái Thạch có quân thủ tuyến đó cũng bị chặt đứt, n quân thủ Hồ Khẩu phối hợp với quân thủ Thái Thạch nam bắc cùng tấn công, nhân lúc quân Tống chưa ổn định mà chủ động tấn công, đánh tan quân Tống thì mới có khả năng tự bảo vệ mình, há lại ngồi đó mà chờ quân Tống tự rút lui?”
Quan quân đó cười mếu máo nói: “Nhưng…đây là mệnh lệnh của triều đình, Tôn tướng quân không có tiếng nói thì có thể làm gì đây? Nghe nói Hoàng thượng gọi ở Kê Minh tự một bị bị Hoàng thượng gọi là cao thăng tiểu sư phụ vào cung tụng kinh cầu phúc, nhưng rồi bóng dáng vị tiểu sư phụ đó đã mất tăm, mà Hoàng Thượng vẫn không chịu tỉnh lại, lại mời rất nhiều người xuất gia đắc đạo ở trong cung lập đàn tụng kinh cầu phúc cho Đường Quốc, tiểu tướng còn nghe nói Hoàng thượng giờ đang nghiên cứu “Dị Kinh”, muốn từ trong đó tìm ra cách có thể chiến thắng được quân địch”.
Chiết Tử Du buồn bã thở dài, lẩm bẩm: “Vị Hoàng đến này…thực không còn thuốc chữa nữa…”
Quan quân đó cũng im lặng và thở dài, lúc sau chắp tay nói: “Mạc cô nương, quốc quân đại sự, tiểu tướng không tiện nói. Tiểu tướng là nhất giới võ nhân, ngoại địch xâm chiếm, tiểu tướng có chết cũng không hàng, vì nước mà hi sinh thân mình, không hổ thẹn với ơn đề bạt và tri ngộ của Lâm tướng quân, cũng coi là hết bổn phận của mình. Lâm gia trung liệt, Lâm tướng quân chịu lời gièm pha mà chết, oan ức vô cùng, giờ việc triều chính lại bị gian thần thao túng, chúng ta bất lực xoay chuyển. Cô nương, Thái Thạch cơ này cũng không biết có thể giữ được đến bao giờ nữa, cô nương là phận nữ nhi, không cần dính vào chuyện binh đao, tốt hơn hết là sớm rời khỏi đây đi, đại sự quân quốc không cần phải để ý tới nữa”.
Chiết Tử Du im lặng một lúc lâu, chắp tay hướng về phía hắn, viên tiểu tướng đó cũng chắp tay thi lễ lại, rồi đi xuống chân núi.
Trương Thập Tam đứng cạnh đó tiến lại, nói nhỏ: “Tiểu thư, chuyện Giang Nam đã không thể cứu vãn, chúng ta…nên về tây bắc thôi”.
Chiết Tử Du phất tay áo, Trương Thập Tam câm miệng, nhìn Chiết Tử Du, hắn lẩm bẩm câu gì đó trong miệng rồi lui ra chỗ khác.
“Hạo ca ca, chàng nói trong hai ba năm, quân Tống tất diệt Đường, thống binh đại tướng là Tào Bân, Phan Mỹ, giờ quân Tống quả nhiên đến rồi, tướng thống binh lại không phải là người mà chàng đã nói, đúng cũng là do chàng, mà sai cũng là do chàng, ta có nên tin chàng hay không đây? Có nên tin lời chàng không, trở về tây bắc, khuyên huynh trưởng quy Tống sao?”
Nghĩ đến đây, cô chợt rùng mình, nghĩ đến lời mà Dương Hạo đã từng nói với cô.
“Tử Du, chỉ hôn cái thôi, lần này, đời này, lần cuối…”
“Ha ha, về sau sợ không có bao nhiêu cơ hội nữa, cái này coi là…lần cuối tặng quà nhé, hãy nhận đi”.
“Lúc ấy chỉ cảm thấy lời của hắn nói, người nghe cảm thấy không thoải mái chút nào, nhưng lẽ nào…lẽ nào càng sớm biết ta gặp đại nạn có chết vô sinh, cho nên mới…? Nếu chàng có sự dự liệu như vậy, thế chàng tuyệt đối sẽ không lừa mình, Phan Mỹ không đến hoặc là một sai số, nếu sinh tử của mình cũng có thể đoán trước, ít nhất đại thế là không thể sai được, Hạo ca ca, chàng muốn ta chủ động quy Tống, bảo vệ gia đình phú quý sao? Giờ đã thế này, ta thực sự quá mệt mỏi rồi, ta có nên nghe theo lời chàng không đây?”
Nghĩ đến lời Dương Hạo từng nói, nước mắt Chiết Tử Du lăn dài trên má, bao nhiêu oán, bao nhiêu hận, lúc này đều bị cô dứt bỏ hết, nếu có thể quay lại thời gian, cô nhất định sẽ đồng ý Hạo ca ca. Cho dù hắn đã có nương tử cũng không quan tâm nữa, cô tình nguyện kết duyên phu thê với hắn, để lại cốt nhục cho hắn…”
“Hạo ca ca…” nước mắt nhạt nhòa, Chiết Tử Du khóc và gọi tên hắn, mắt đẫm lệ, hình ảnh mờ mờ của Dương Hạo bỗng đứng trước mặt cô.
“Sao lại…? Rõ như ban ngày, ma quỷ có thể hiện thân sao?” Chiết Tử Du thầm nghĩ nhưng không hề sợ, cô thấy vui vô cùng, vội lau nước mắt, lấy lại bình tĩnh nhìn kỹ lại, Dương Hạo quả nhiên đứng trước mặt cô, mặc một bộ quần áo sĩ nhân bình thường, bên cạnh còn có một hòa thượng.
Quần áo…khuôn mặt…chàng…
Dương Hạo ngây ra, hắn không ngờ vừa đến Thái Bạch lầu thì đã gặp Chiết Tử Du. Hai người mặt đối mặt, Dương Hạo khẽ nói: “Tử Du…”
“Chàng chưa chết?” Chiết Tử Du bỗng hiểu ra mọi chuyện.
Dương Hạo thấy biểu hiện của cô như vậy, không khỏi rùng mình, mặt cô tái xanh, hàng mày thẳng ra, mắt to, tay cô… đang cầm chắc vào chuôi kiếm, mũi kiếm ma sát vào vỏ kiếm, phát ra những tiếng sàn sạt.
“Tử Du, nàng…nàng nghe ta giải thích đã, ta…ta…” Dương Hạo chột dạ bước lui về phía sau.
“Chàng…chưa…chết?”
“Ừ, ta chưa chết, chỉ là…”
“Không liên quan, chàng sắp phải chết rồi”.
“Hả?”
Bích Túc sờ vào cái đầu trọc, nhìn trái nhìn phải, nhìn vào đôi oan gia đang vui mừng này, lúc đó bỗng thấy kiếm quang lóe lên, làm Bích Túc giật nảy người: “Ôi! Chiết cô nương ra kiếm nhanh quá”.
Sau đó thấy Dương Hạo như con thỏ, nhảy, nhảy, nhảy, chui tọt bụi cỏ: “Tử Du, nghe ta giải thích đã”.
“Oa, Dương đại nhân thân pháp nhanh quá”.
Chỉ thấy kiếm quang Chiết Tử Du đổi chiều, hét lên một tiếng tiến về phía hắn: “Cấu kết với nhau làm việc xấu, đáng chết”.
“Oa! Cái gì vậy?” Bích Túc kêu lên một tiếng quái dị, chạy thục mạng chui tọt vào bụi cỏ như Dương Hạo. Chiết Tử Du thực đang rất tức giận liền đuổi theo.
Dương Hạo vừa trốn vừa giải thích: “Tử Du, ta cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi, ta không phải muốn như vậy…”
“Hừ! một tiếng, Bích Túc vung tay áo qua Dương Hạo: “Thoát thân trước đại nhân, sư tử mẹ đuổi đến nơi rồi”.
Dương Hạo quay đầu lại, chỉ thấy một kiếm quang lao tới, Chiết Tử Du hét lớn: “Chàng đi chết đi, chết luôn đi!”
“A!” Dương Hạo bị kiếm bổ trúng mông, hêu lên thê thảm, chạy thục mạng vượt qua cả Bích Túc, Bích Túc thấy vậy hét: “Đại nhân ngươi thực không nghĩa khí”.
Dương Hạo không quay đầu lại nữa, chỉ hét: “Nhanh lên”.
“Bên đó, rừng cây”. Bích Túc chợt thấy một mảnh rừng, lập tức hé lớn, Dương Hạo nghe thấy vội phóng qua. Cành lá lòa xòa rất khó đi, Chiết Tử Du dù sao cũng là nữ nhi, chạy nhanh cũng không được lâu, bước chân đã chậm đi rất nhiều, cô đuổi theo tới gần vách đá, trên vách đá có một con đường nhỏ uốn lượn cao thấp, cũng không biết Dương Hạo chạy lên hay chạy xuống.
Chiết Tử Du dậm chân mắng chửi: “Dương Hạo, chàng là loại đáng chết hàng nghìn hàng vạn lần, chàng lừa ta đau lòng như thế, chàng lừa ta, để chàng đi giết Da Luật Văn. Chàng…chàng…chàng chẳng có lời thật nào với ta cả, chưa bao giờ có lời nào thật cả, cái gì là Tống quân diệt Đường, thiên mệnh sở quy, hóa ra đều là giả dối cả, chàng là quan Tống Quốc, đương nhiên biết quân Tống phạt Đường, chỉ là chàng không ngờ tới là Phan Mỹ không quay về kịp, triều định lại phái võ tướng khác, đúng không? Họ Dương kia, ngươi là con rùa vương bát đản, từ nay về sau, bản cô nương thấy ngươi một lần, giết một lần, để cho ngươi mãi mãi trốn tránh không dám lộ mặt ra nữa”.
Chiết Tử Du tức giận rơi cả nước mắt, mắng một lúc mới khóc.
Trong bụi cỏ, Dương Hạo ngồi chồm hỗm nói ngốc nghếch: “Nàng…nàng đau lòng vì ta? Là nàng giết Da Luật Văn?”
Bích Túc bên cạnh ngắt một cây cỏ cho vào miệng nhấm, nhìn Dương Hạo, nói: “Đại nhân, lần này ngươi đắc tội Chiết cô nương rồi”.
Dương Hạo tự an ủi mình nói: “Không phải đâu, Tử Du nếu như không quan tâm tới ai thì mới không tức giận như vậy, chẳng qua…làm thế nào để cho cô ấy nguôi giận mới quan trọng, có lẽ là không khó”.
Bích Túc liếc nhìn hắn nói: “Đại nhân dù sao cũng phải ẩn cư, còn có cơ hội gặp lại cô ấy sao?”
Dương Hạo thở dài, lẩm bẩm: “Ta không biết, nói thực, trước đây là ta nắm chắc mọi chuyện/có tài, giờ ta giống cô ấy, ngày mai xảy ra chuyện gì, ta không hề biết được”.
“Haiz!” phía sau có một tiếng ho khan, Dương Hạo và Bích Túc như con thỏ bị kinh động, cùng nhảy lên.
Dương Hạo cho rằng Chiết Tử Du đến phía sau mình, quay ngoắt lại, nhìn rõ người đó, Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, trước mắt là một tăng nhân, khoảng ba lăm ba sáu tuổi, mặt gầy đen, mắt sáng ngời, Dương Hạo cảm thấy vô cùng quen, lập tức nhớ lại, nhớ ra tăng nhân Nhã Băng này ẩn cư ở trên núi.
Hòa thượng Nhã Băng lúc này cũng ngạc nhiên không kém, cũng nhận ra thân thế hắn, Dương Hạo không khỏi thầm kêu khổ: “Sao mà xui xẻo thế, không chừng…ta phải giết người diệt khẩu sao?”
“Ha ha, bần tăng nghe nói Dương tả sứ vì/để kẻ gian sở hại, đã từ thế, trong lòng vô cùng buồn thương, còn cho rằng niệm hướng sinh nguyền rủa siêu độ cho đại nhân, giờ xem ra, cũng chỉ là tin đồn à”.
Nhã Băng hòa thượng mỉm cười nói, Dương Hạo nghe xong thầm than một tiếng, Bích Túc đã trôi giạt tới gần, mắt lộ sát khí đằng đằng.
Chương 369:Thiên hạ ai hiểu quân.
“Từ đã!” Hòa thượng Nhã Băng mắt sáng lên, ung dung cười nói: “Dương tả sứ giả chết thoát thân, chạy tới thận đây, làm có mưu đồ, bần tăng ở đây kính đón, chính là duyên phận của ta và ngươi, bần tăng tuy thấy rõ thân phận đại nhân, lại không có hại gì cho đại nhân, ngược lại, còn có một công lớn muốn nói với đại nhân”.
Dương Hạo không chớp mắt, trầm giọng hỏi: “Công lớn?”
Hòa thượng Nhã Băng mỉm cười nói: “Không sai, bần tăng nghe nói Dương tả sứ bị người Khiết Đan giết, làm sao ngờ đại nhân không những chưa chết, mà còn xuất hiện ở đây. Hai nước Đường Tống triển khai quân sát khí hừng hực, im bặt ra không Thái Thạch cơ, không biết đại nhân muốn sao?”
Sắc mặt Dương Hạo chợt biến, còn chưa trả lời, hòa thượng Nhã Băng bật cười nói: “Không hỏi cũng biết, đại nhân lần này đến, chính là chuyện đại quân Tống qua sông ra sao, có phải không?”
Dương Hạo trở lại bình thường, mỉm cười nói: “Thế thì tính sao?”
Hòa thượng Nhã Băng nghiêm nghị thi lễ nói: “Mời đại nhân theo bần tăng lại đây, bần tăng có cái này muốn tặng cho đại nhân, đại nhân tự khắc biết”.
Dương Hạo cảm thấy có điều gì đó và ngăn Bích Túc lại, theo sau Hòa thượng Nhã Băng vào trong rừng, đến trước một cái nhà gianh, hòa thượng Nhã Băng nhìn quanh tứ phía, nhanh chóng chui vào trong phòng, Dương Hạo và Bích Túc sợ hắn tẩu thoát, lập tức vào cùng, chỉ thấy mọi thứ trong nhà hòa thượng Nhã Băng vô cùng đơn sơ, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một bếp, trên bàn là ngọn đèn, đầu giường có một hộp sách. Nhã Băng mở hộp sách ra, vén tấm vải, ở dưới giường lôi ra một bức lụa, vô cùng thành kính đưa cho Dương Hạo.
Dương Hạo không hiểu gì nhận lấy và xem, chỉ thấy bên trên có rất nhiều nét vẽ, bên trên còn có vài con số đánh dấu, lại có chữ xuân hạ thu đông, xem một hồi không hiểu là nghĩa gì, không khỏi ngạc nhiên nói: “Nhã Băng đại sư, đây là vật gì?”
Hòa thượng Nhã Băng trịnh trọng nói: “Dương đại nhân, thực ra không dám giấu gì đại nhân, tại hạ là một hòa thượng tự do, thực ra là giả làm hòa thượng. Tại hạ vốn họ Phàn, là một tú tài Đường Quốc, vì nhiều lần thi không đỗ, không thể vào học và trở thành quan, nên có ý đồ cạo đầu giả làm tăng, dựng nhà cư trú trên Thái Thạch cơ, quên đi tất cả, hai bờ vách đá này khắc Phật kim thân, mượn cớ thường dùng thuyền nhỏ đi trên sông, ngầm đo lường tình hình nước sông Trường Giang, xuân hạ thu đông, một năm bốn mùa, dòng nước chảy, đều có trên bản đồ.
Theo bản đồ nước của ta, dòng trường Giang có thể dựng một cái cầu nổi/cầu phao, để đại quân tới lui như dẫm trên đất bằng. Tại hạ nghe nói Tấn Vương đích thân dẫn binh tấn công Thái Thạch cơ, thương vong cực kì thảm trọng, giờ đã bại quay về, chuẩn bị tái tấn công, không biết còn cần bao nhiêu binh sĩ thương vong, nhưng nếu có bản đồ trong tay, đại quân tiến lùi tự biết, nơi hiểm yếu Trường Giang không công mà phá, có thể giảm vô số người chết”.
Dương Hạo nghe rồi vô cùng ngạc nhiên, hắn tự nhiên hiểu rằng điểm quý giá của bản đồ thủy này, nó sẽ có tác dụng không thể ngờ được đối với mấy vạn đại quân, nhưng với thân phận của mình hiện giờ, có thể đưa tấm bản đồ này đến tay Triệu Quang Nghĩa không? Nhưng không thể để thân phận mình bị bại lộ.
Giết người diệt khẩu thì sao? Vừa nãy để bảo vệ gia quyến còn không nỡ ra tay, giờ thì nghìn lần không thể.
Nếu biết có tấm bản đồ này có thể thay đổi cục diện chiến tranh, Triệu Quang Nghĩa dựa vào chút ít bè gỗ, thuyền đánh cá thì có thể tấn công Thái Thạch cơ ư? Song vì những tính mạng binh lính về sau, cộng thêm bị người Đường đoạt lại được trận địa, nhưng nghĩa khí người Đường vô cùng thấp, cái nơi gọi là hiểm yếu khó bảo vệ đã phần nào có thể tự hiểu nó, đợi thủy quân Tào Bân đến, thì có chiến hạm thực sự, lúc đó phối hợp với binh Triệu Quang Nghĩa, Thái Thạch cơ chẳng lẽ lại không bị phá? Nhưng như vậy đánh mạnh công mạnh, thương sát chắc chắn sẽ gấp chục lần so với hiện tại. Nếu mình giết chết Phàn Nhã Băng đi, giấu kín tấm bản đồ này, vậy thì cái chết không chỉ của một mình Phàn Nhã Băng hắn, tấn công mạnh đại giang sẽ làm cho vô số người bị thương vong, vô số tính mạng của quân sẽ oán cái đầu của hắn.
Dương Hạo loạn hết cả đầu, đang do dự chưa quyết định được, Phàn Nhã Băng lại nói: “Đại nhân chớ nghĩ nhiều, tấm bản đồ này thực sự này không giả. Đại nhân có thể mang tại hạ đi bờ tây gặp Tấn Vương, tại hạ gặp trực tiếp và nói về tấm bản đồ, nếu có tội vạ gì, đại nhân có thể lấy cái đầu của ta”.
Bích Túc tuy là người Tống, nhưng thấy hắn chỉ vì ở Đường Quốc, hơn nữa lại không thể làm quan, tính toán mọi cách, không tiếc chạy đến bên Trường Giang làm hòa thượng giả, tỉ mỉ kiên trì làm bản đồ đo mực nước sông để hiến kế cho Tống Quốc, chỉ vì mong muốn có một chức quan để làm, trong lòng không khỏi xem nhẹ, lạnh lùng nói: “Phàn tú tài nghĩ trăm phương nghìn cách, có tấm bản đồ này trong tay, chuyến này có thể có kỳ công rồi, nhất định làm quan rồi”.
Phàn Nhã Băng xấu hổ mặt đỏ ửng lên, quen thói a di đà Phật liền chắp tay, nói: “A di đà Phật, chim khôn chọn cây mà đậu, trung thần chọn chủ mà thờ, Đường chúa hôn quy, mải vui chơi, không lo việc nước, triều chính phủi bại, dân chúng khốn khó, triệu Tống được thiên hạ, quy thiên hạ về một mối. Phàn mỗ chẳng lẽ lại không biết theo bên đó sao?
Mấy ngày trước truyền đến tin rằng, Lâm hổ tử Lâm đại ướng quân là một trung thần có tiếng trong triều đã bị lời nói gièm pha mà chết, hơn nữa nguyên nhân cái chết vô cùng ngu xuẩn. Đế vương chỉ dám lén lút lấy rượu độc hại đại thần, quốc chúa tự chặt mất cánh tay của mình, tự hủy hoại tương lai, trên dưới Đường Quốc ai có trái tim băng giá? Đây là ý trời phải diệt Đường mà, mỗ là người bình thường, chẳng lẽ lại không thuận lòng trời?”
Dương Hạo hít một hơi dài, nói: “Tấm bản đồ này thực sự quý giá vạn lần, nhưng…làm sao đưa qua sông đây?”
Phàn Nhã Băng hai mắt sáng lên, nói: “Tại hại có con thuyền nhỏ, xưa nay không đưa lên bờ, nó ẩn trong bụi cỏ um tùm, chỉ cần giờ trên sông tuần phòng nối liền, mỗ là một thư sinh, muốn dùng cái thuyền nhỏ trốn qua sông không có khả năng, không biết đại nhân có thể có cách gì…?”
Dương Hạo lắc đầu nói: “Ta sống khốn khổ bên bờ sông, cũng chẳng có kế gì khả thi, tấm bản đồ này quý lắm, hơn nữa không thể thiếu ngươi là người giải thích, ngươi và tấm bản đồ này không thể mất, cho nên không được liều lĩnh, thế này nhé, ngươi…ngươi theo ta xuống núi, chúng ta bàn bạc kỹ lưỡng hơn”.
Chiết Tử Du thấy hắn vẫn còn sống, cũng không đường hoàng đi ra, Dương Hạo có niềm tin, nhưng Phàn Nhã Băng có khát vọng làm quan này rất khó nói, lòng Dương Hạo lo lắng không thôi, thực không nghĩ ra cách nào để giải quyết thích đáng người này, đành đi một bước nghĩ một bước, đưa hắn theo bên cạnh, mong là an toàn.
Tống Quốc dã tâm với Đường, Phàn Nhã Băng này sớm đã biết rõ, cho nên mới ẩn cư ở nơi bên bờ sông này, tuy kham khổ, nhưng mười năm gian khổ học tập đều đã nhẫn nhịn được, hắn chịu khổ để đến hôm nay tiếp tục theo đuổi con đường làm quan, cũng là kham khổ. Nhưng chưa đợi hắn hiến bản đồ cho Tống Quốc, Tống Quốc đã xuất binh, giờ triển khai quân bờ bên kia, hắn muốn đưa tấm bản đồ cho họ là không thể nữa rồi, nó khiến Phàn Nhã Băng lòng như lửa đốt.
Nếu đợi đến khi quân Tống tấn công mạnh qua sông, và có chỗ đứng vững, thì bản đồ này của hắn chẳng còn tác dụng gì nữa, giờ như lâu hạn gặp mưa rào, thế nhưng gặp được một người vốn là sứ giả đã chết của Tống Quốc, Phàn Nhã Băng vui mừng khôn xiết, chỉ cho rằng mình cuối cùng cũng đã có thể làm quan. Tất nhiên là vui vẻ đồng ý, lập tức ra đi cùng với Dương Hạo, trong căn nhà cỏ gianh chẳng có đồ gì đáng giá cả, có thể bỏ qua không cần đến nó.
Trước hắn nghĩ đến Thái Thạch cơ này sẽ không có người quen hắn, cho nên lên đường không chút che dấu, nào có ngờ gặp hai kẻ địch, lần này không dám lơ là nữa, hắn sửa sang lại chút dung mạo, lấy râu giả dính lên, lúc này mới theo hai người họ xuống núi.
Từ con đường này xuống núi, đến dưới núi, chỉ thấy trên đất bị đào lên mười mấy cái hố lớn, trên trong là những thi thể ngang dọc, dưới thi thể đó chặt cây cối cỏ, bên trên là bảy tám tầng thi thể, nào thì trúng tên, đao đâm, thương đâm…máu me be bét, không còn ra hình người, thực là sợ phát hoảng, nhìn trang phục, chắc chắn là quân Tống.
Nhìn thấy hai hòa thượng cùng đi với một người phàm tục xuống núi, một vài binh lính Đường Quốc đang khuân vác thi thể cũng không để ý tới, từ trên chiếc xe nhỏ lại bê mấy chục thi thể vứt vào cái hố, sau đó cho dầu hỏa vào, rồi châm lửa, lửa hừng hực cháy, nuốt hết tất cả vô số những thi thể đó.
Phàn Nhã Băng chắp tay mô Phật, hỏi: “A di đà Phật, thiện tai, thiện tai. Nhiều thi thể quá, có chuyện gì xảy ra vậy?”
Đại nhân Đường quốc phần lớn đều tín Phật, Phàn Nhã Băng ở nơi này, bình thường tự mình trôi nổi trên mặt sông, nói là yêu thích vàng, vùng ven sông phần lớn đều khắc tượng Phật, trong quân ngũ có rất nhiều người đều quen vị tăng khổ hạnh này, và cũng vô cùng kính trọng hắn, liền có một tiểu giáo đáp: “Đại sư, đây là thi thể quân Tống tiến công vào Thái Thạch cơ ta, tướng quân lệnh ta đợi ở đây thiêu, tránh sinh dịch bệnh”.
“A di đà Phật”. Phàn Nhã Băng không khỏi thốt lên tiếng Phật hiệu.
Lửa cháy hừng hực đốt cháy thi thể này cháy xèo xèo, thi thể bị hỏa thiêu co rút các gân, có thi thê bỗng dưng ngồi bật dậy rồi lại rơi bịch xuống, da thịt bị thiêu hết, từng mảng thịt cháy lộ ra xương xẩu, Dương Hạo tuy cũng nhập ngũ, từng tham chiến, nhưng lại làm thân binh của Trình Thế Hùng, vả lại chưa từng gặp quá nhiều thi thể thế này, thấy vậy mà hồn bay phách tán, không đành lòng nhìn nữa.
Phàn Nhã Băng bước đến, chỉ thấy khắp nơi là cái hố lửa, thi thể nhiều không kể xiết, không chịu nổi miệng tụng: “Nam mô ai di đà Phật, bản sư thích ca mâu ni, thế tôn có nói: Đất giấu, ta giờ niềm nở, dựa thiên nhân chúng, dặn dò vu nhữ. Thế tương lai, nếu có thiên nhân, thiện nam tử thiện nam nhi, trong Phật pháp, loại thiếu thiện căn, nhất mao nhất trần, anh có đạo lực, ủng hộ là người, chớ để mất đi.
Giấu nhiều lần đất, trong tương lai, có trời có người, tùy nghiệp báo ứng, dừng ở ác hứng, trước khi rụng rơi, hoặc tới môn đạo, là chư chúng sinh, nếu có thể niệm đắc Phật danh, có Bồ Tát bảo vệ. Là chư chúng sinh, anh có thần lực, tiện cứu hết đi, thế là người ở, thân ở lại, vỡ rơi vào địa ngục, bỏ lệnh sinh thiên, hưởng khúc ca lạc…”
Bích Túc thấy tình hình thê thảm như vậy, không khỏi chủ động chắp tay, miệng lẩm bẩm: “Nam mô Bồ tát đại từ bi, Bạch Phật nói: “Thế Tôn, mong muốn thế tôn không cho nghĩ. Tương lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ tử, trong Phật pháp, nhất niệm cung kính, ta cũng hàng trăm thuận lợi, độ cởi là người, sinh tử giải thoát. Huống hồ chỉ nghe thấy việc thiện, niệm tu hành, tự nhiên đạo mãi mãi không thể chuyển…”
Hai giả hòa thượng cầu cho trốn hồng trần, thấy vô số xác tử thi, lòng có thiện tâm, kinh văn này tụng vô cùng thành kính, khiến cho khung cảnh vô cùng nghiêm túc, rất nhiều binh sĩ nghe hai vị tăng nhân này đọc kinh, cũng dừng lại, chắp tay, tuy là kẻ địch, nhưng vẫn xót xa choinh mệnh.
“Ta nên làm thế nào đây? Bản đồ này hoặc có thể giảm đi vô số những thương vong không cần thiết, ta bỏ qua hàng nghìn mạng sinh tử này, thì lương tâm sẽ bất an, nhưng giờ tình hình này, ta nên làm thế nào đây?”
Dương Hạo theo hai vị tăng, không biết làm sao, tự giằng co trong lòng.
*******
Trong Đương đồ thành đã lộn xộn hết cả, rất nhiều người dìu già dắt trẻ chạy nạn, không người thân thích có thể nương tựa, hoặc là không muốn rời gia viên, ôm một ước vọng, mong Tống quân không qua được Trường Giang, hoặc là qua sông theo con đường nhỏ, dân đóng chặt cửa, trong thành tiêu điều vô cùng.
Ba người về đến nơi ở của Dương Hạo, Dương Hạo lúc này mới nhớ ra hai vị phu nhân của mình nhất thiết không được lọt vào mắt của Phàn Nhã Băng, Phàn Nhã Băng cho rằng mình là mình người hành thích, gia quyến đều chết thảm, cho nên ôm hận giấu danh, ẩn nấp ở đây tìm hiểu tình hình quân sự, nhưng nếu để hắn nhìn thấy hai vị phu nhân đoan chính ở đây, không tránh được sinh nghi, hắn vội nháy mắt với Bích Túc, Bích Túc hiểu ý vội vào trong viện kéo Phàn Nhã Băng lại nói: “Phàn tú tài, xin mời qua bên này ngồi, đợi lát nữa đại nhân có vài lời muốn nói”.
Dương Hạo một mình đi vào hậu viện, trong viện không có một ai, thấy hoa đình cũng không có ai, không chỉ không nhìn thấy Diễm Diễm và Oa Oa, ngay cả tiểu ni cô câm cũng không thấy đâu, đến đám người Trình Vũ và tám gã thị vệ bảo vệ các nàng ấy cũng không thấy đâu, Dương Hạo sửng sốt không hiểu gì, cao giọng gọi: “Diễm Diễm? Oa Oa?” Vừa gọi vừa đi về hướng phòng ngủ.
Đến phòng ngủ cũng vẫn không có người, Dương Hạo lo lắng, lập tức rút kiếm trở về phòng khách, vừa vào phòng, thì trong phòng khách lúc nãy không có một ai thì đang có một người ngồi, đang vắt chân thưởng thức trà. Dương Hạo nhìn rõ bộ dáng người đó, không khỏi đứng sờ sờ ở đó, chòm râu hơi bay, nhìn vẻ mặt phát phì cười.
“Ha ha ha, Dương đại nhân, Biện Lương từ biệt, không nghĩ ta và ngươi lại có ngày gặp mặt, đó chẳng phải duyên phận sao…?”
Một gã béo ngồi trong phòng nhìn Dương Hạo như người thân của mình, cười hề hề, cứ như thiên quan chúc phúc. Dương Hạo thở dài, lẩm bẩm nói: “Thiên hạ này…không có nơi nào là chốn bồng lai của Dương Hạo sao?”
Gã béo đặt chén trà xuống, mặt mày hớn hở đứng dậy nói: “Ôi, thế là sao vậy, bạn cũ đến, xem ngươi kìa, thái độ gì vậy? Dương đại nhân muốn bỏ trốn, nói dễ hơn làm, giờ ở thiên hạ này, không nhận ra Dương đại nhân ngươi còn có mấy người nữa?”
“Ngàn dặm mây bay nắng ban ngày, gió bắc thổi nhạn tuyết. Chớ lo con đường phía trước không biết, thiên hạ có ai không biết quân chủ?”
Gã béo họ Thôi vỗ tay đạp ca (một hình thức nghệ thuật vừa múa vừa hát) hay, Thôi Đại Lang vốn cao to, nhưng tán thưởng đạp ca, từ từ đứng dậy, đi lại nhẹ nhàng, tay múa, chân nhảy, tư thế tuyệt đẹp, bộ dạng khiến người ta thích thú, đến hắn cũng xem nhẹ cơ thể vốn béo tốt của mình. Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân, bắc phong xuy…
Dương Hạo cũng lĩnh hội chút phong tình của đạp ca cổ, nhưng hắn giờ chẳng có tâm trạng nào, mặt méo xệch nói: “Đây cũng là thơ của Bạch Lạc Thiên sao?”
Thôi Đại Lang nhướn mày nói: “Thơ của người bên cạnh, Dương mỗ cũng nhớ vài bài. Ha ha, Dương huynh cứ bình tĩnh, không muốn hỏi hai vị hiền phu nhân và đám thuộc hạ giờ đang ở đâu vậy?”
Dương Hạo thở dài nói: “Tin Thôi huynh ở chỗ này chờ ta, người trong nhà và thuộc hạ nhất định sắp xếp thỏa đángGiờ đến xem, Thôi huynh có Tề Châu Thôi Thị, không biết đến tìm tại hạ rốt cuộc có ý gì?”
Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Dương huynh đoán sai rồi, Thôi mỗ đang là Sơn Đông Thôi Thị, thế cư Tề Châu”.
“Nhưng ngươi tuyệt đối không phải là một thương nhân”.
Thôi Đại Lang cười tít mắt: “Dương huynh đoán sai rồi, Thôi mỗ là một thương nhân, một thương nhân chính cống, chẳng qua…quy mô to hơn bình thường mà thôi…”
“To thế nào?”
“To…có thể ví với một nước nào đó”.
*******
Trong phòng có hai người ngồi, ở giữa đặt một ấm trà.
Một người, nắm tài phú ẩn hình khổng lồ nhất thiên hạ.
Một người, nắm võ trang tiềm lực phát triển lớn nhất.
Quân Tống và quân Đường triển khai quân hai bờ Trường Giang, tiến hành triển khai thế trận quyết chiến đến cùng, hai người cách chủ chiến trường không quá mấy bước bàn bạc Đương Đồ nguy thành, và chẳng có liên quan gì tới trận chiến cả.
“Nói ra, Dương huynh có kế giả chết thoát thân tuy khéo léo đấy, nhưng không phải là không có sơ hở. Ta có thể sinh lòng nghi ngờ, người khác cũng vậy, chỉ cần nghi ngờ và có vấn đề rồi, hiện nay bận chuyện khác, lúc nào đó ngươi thử nghĩ xem, khó tránh khỏi có chỗ sơ hở. Nước cờ ngươi đi thế này, là chặt đứt tất cả đường lui của mình, một khi bị phát hiện, ngược lại lợn lành thành lợn què, đến lúc đó, Quan Gia chỉ cần biết thời biết thế, cho ngươi từ chết giả thành chết thật luôn…”
Dương Hạo phản bác lại nói: “Thế, nếu như gặp Thôi huynh, ta tìm thời cơ trở về Lô Châu, nguy hiểm vô sinh mệnh sao?”
“Ở đâu không có nguy hiểm chứ?”
Thôi Đại Lang bùi ngùi thở dài: “Lần này đi Thanh Châu, Thôi mỗ tham gia lễ tang của một trưởng bối. Chỗ Thừa Tự thất tông ngũ tính, có một tiềm lực khổng lồ trong thiên hạ, Thôi mỗ khoe khoang một câu, nói là địa hạ đế vương cũng không thể sánh. Vị Lão thái gia này là nhân vật quan trọng Thừa Tự đường, phú giáp thiên hạ, môn hạ buôn bán nhiều vô kể, buôn bán hải thương, và buôn bán ở Xuân Trường bắc quốc, cấu thành tam đại trụ. Đừng thấy hắn trong đám lộn xộn vô danh, người biết hắn không nhiều, nhưng ở Đông Doanh, Cao Ly, Lữ Tống, hắn nói một câu, quốc vương nơi đó phải nghe theo một câu, nhân vật lớn như vậy, nói chết thì phải chết, chắc ngươi biết hắn sao mà chết chứ?”
“Chết thế nào?”
Thôi Đại Lang thản nhiên nói: “Sáng sớm thức dậy, uống một cốc sữa dê. Trong sữa dê có sợi lông dê nhỏ tí, mắc ở cổ họng, thế là…hắn chết”.
Dương Hạo không nói gì.
Thôi Đại Lang lại nói: “Nam nhi ở cuộc đời này, tự có trách nhiệm. Trách nhiệm này, gánh vác này không chỉ là con cái, còn là huynh đệ, còn là gia tộc, là bộ hạ, vô cùng khó khăn, xuất hiện sự thoái chí, há còn là nam nhi?”
Nếu đổi mấy ngày trước, Dương Hạo có thể có thể dùng đại thế đã định, thiên mệnh sở quy đến phản bác Thôi Đại Lang, nhưng lịch sử giờ đã không dựa theo hướng đi của hắn nữa, cho nên nghe những lời này hắn chỉ có thể im lặng.
Thôi Đại Lang thở dài một tiếng: “Trên đời này thực sự có chỗ cực lạc sao? không nói đến sinh lão bệnh tử, bi hoan li hợp, nhân sinh mà, chính là gần ít xa nhiều, khổ nhiều hơn vui. Lý Dục là quân vương của một nước, có nguy hiểm quốc gia không? Da Luật Hiền là đế vương bắc quốc, cũng có khi gặp chuyện. Thế tiểu dân vô danh thái bình vô ưu hay không đây? Nỗi khổ của họ chỉ có càng nhiều, ngươi nghiêng tai nghe xem…”
Gào khóc trên đường chạy trốn, tiếng kêu thảm thiết của một người con gái vọng vào tai, Thôi Đại Lang trầm giọng nói: “Người ở Lô Châu tin theo ngươi, ngươi thực sự có thể thản nhiên mà bỏ qua sao? Ngươi ở ẩn, thực sự có thể từ nay về sau ung dung tự tại? Không sai, nếu ngươi về đến tây bắc, triều đình đầu tiên sẽ nghĩ cách đối phó với ngươi, nhưng, ngươi có thể vắt óc nghĩ ra cách giả chết trốn nguy hiểm, không thể nghĩ một triều đình thừa nhận cách của ngươi để mưu cầu an toàn càng lớn hơn sao?”
Dương Hạo nhìn chằm chằm Thôi Đại Lang, lạnh lùng nói: “Ta trở về Lô Châu, chính là kháng mệnh. Triều đình sẽ không muốn tây bắc lại thêm một thế lực nữa, ta lập tức sẽ trở thành mục tiêu mà quân đội triều đình hướng tới, đó chẳng phải kéo chiến hỏa tới tây bắc sao? Vẫn còn mong được thái bình?’
Thôi Đại Lang vui mừng cười: “Dương huynh, thực ra ngươi có thể nghĩ ra cách, song ngươi luôn không chịu đi nghĩ”.
Hắn hơi cúi người về phía trước trầm giọng nói: “Khi Tống Quốc chiếm Đại Biện, hắn là một trong những nước của Trung Nguyên. Tống Quốc khi chiếm Kinh Hồ, hắn đã trở thành nước mạnh đệ nhất Trung Nguyên. Ngay sau đó, bình Thục, diệt Hán, giờ lại đến tấn công Đường Quốc, lãnh thổ quốc gia không ngừng mở rộng, nhưng đế quốc càng lớn, lãnh thổ quốc gia tuy mở rộng nhưng vẫn chỉ có một người cầm đầu.
Sau khi diệt Đường Quốc, thống nhất Trung Nguyên thì sao? Lại về phía nam diệt Đại Lý sao? Đại lý nếu bị mất đi, sẽ diệt Giao Chỉ, chiếm thành, Thực Lạp, Phiêu Quốc sao? Đi về hướng đông, sẽ qua biển diệt Cao Ly, Nhật Bản, Lữ Tống, vươn xa tận trùng dương, đi thìm những quốc gia hải ngoại nhiều hơn nữa sao? Đi về hướng bắc diệt Khiết Đan sao? Diệt xong Khiết Đan, sẽ diệt Thất Vi, Nữ Trực, tộc Mô Hơ, Oát Lãng Cải sao? Ba thế lực nếu diệt, có phải là cần diệt Hồ Hức, Thổ Phiên, Nê Bà La, đại tiểu Bột Luật, theo sát đánh Hắc Hãn, Cát Tư, Hoa Lạt Tử Mô, Ba Tư, Thiên Trúc, Đại Thực…”
Thôi Đại Lang nói một hồi ra rất nhiều quốc gia có khi còn chưa nghe thấy bao giờ, thở dài nói: “Trời đất vô cùng vô tận, bất kỳ một quốc gia nào đều không thể mở rộng quá lớn vô hạn được, Tống đã chiếm cứ được vùng giàu có nhất, lại tiếp tục mở rộng, đã không phải là cần con dân và quốc gia, do là muốn chiếc vương miệng thêm sáng rọi vài phần.
Hán Vũ Đường Tống không có thực lực thực sự thống trị những nơi đó, đồng nghĩa Tống Quốc cũng không có lực lượng khống chế, và cũng không cần thiết xâm chiếm nơi đó, dốc hết binh lực để đi gây chiến thì cuộc sống của dân lầm than, lòng người tự khắc sẽ quy về Tống Quốc, nếu Tống Quốc theo thiên hạ mà nhiều lần gây chiến tranh, không phải cầu phúc cho dân, thế thì dân chúng Trung Nguyên sẽ nổi dậy phản lại. Đánh giặc không phải để đánh giặc mà là đánh dân.
Thừa Tự đường ta vốn đại đường thất tông ngũ tính tộc nhân, vì dự đoán Đại Đường sẽ diệt, Tạp Hồ loạn Trung Nguyên ta, lúc này trước tiên phải phòng bị từng bước, bảo toàn hậu thế và vinh hoa phú quý thất tông ngũ tính của ta, cho nên từ nay về sau trong Thừa Tự đường chuyên có một tốp trưởng lão phụ trách việc thu thập tình báo thiên hạ, phân tích đại thế thiên hạ.
Theo nghiêm phán của chúng ta, Tống được Đường Quốc, sau khi thống nhất Trung Nguyên, chiếm được chẳng qua chỉ là Hà Tây và U Vân, và mục đích không phải mở rộng đất đai, mà là để chiếm lĩnh được hai miếng đất quan trọng trong chiến lược, để giang sơn gấm vóc của bọn họ được che chở. Nhưng mà, họ rất khó làm được, cho dù là chiếm đoạt tây bắc trước, hay là tấn công Khiết Đan trước, kết quả chỉ có thể là uổng công vô ích”.
Dương Hạo ngẩn người, những điều Thôi Đại Lang nói rất giống với lịch sử, từng có người không mất công sức gì nhiều mà giành được ranh giới rộng lớn, quy tội Tống có chính sách sai lầm với tây bắc, cũng có người cho rằng là võ công Triệu Nhân không đề cập tới Triệu Đại Thần Dũng, Dương Hạo vẫn là lần đầu gặp và được thương nhân phân tích từ góc độc của hắn, và nó lại có thể chính xác như vậy, cách nhìn của Thừa Tự đường thực như Gia Cát Lượng phải mời ba lần mới ra nhà gianh và cách nói ba phần thiên hạ của ông, xu thế tình hình tương lai nắm được quá là chuẩn xác.
Thôi Đại Lang thấy sắc mặt của hắn, biết hắn đã bị kích thích, liền cười ha ha nói: “Không có người nào có cái nhìn thông suốt như thương nhân chúng ta, chiếc mũi rất nhạy bén, cũng không có ai có thể hiểu về các nước như chúng ta, họ giàu nghèo, quân đội mạnh yếu…chúng ta đều rõ hết.
Lý Tồn Húc của Đường Quốc, Thạch Kính Đường của Tấn Quốc đều vì Khiết Đan mà vong, nhưng lúc đó Khiết Đan vừa mới lập quốc, chẳng có cách nào thống trị Trung Nguyên, họ nhúng tay vào chuyện Trung Nguyên, chẳng qua chỉ là muốn nuôi dưỡng một Nhi Hoàng đế nghe lời, thay họ quản lý Trung Nguyên. Mà giờ lại không giống, Khiết Đan giờ tuy chính ồn nội loạn, nhưng lập quốc gần 60 năm, thời gian nghỉ ngơi lấy lại sức 60 năm, quốc lợi ngày càng mạnh, họ đã là là một thực lực của nam hạ.
Mà Trung Nguyên cũng lúc này thống nhất, Triệu Quan Gia hùng tài đại lược, cũng là một đại anh chủ, tuy đi sau mà tới trước, lại là lực lượng mới, lực lượng quốc gia phát triển không ngừng, đủ để chống lại Khiết Đan, chỉ đợi Đường Quốc sau khi bị diệt bỏ thì sẽ lên kế hoạch bắc thượng. Nhưng thực lực và lãnh thổ hai nước, dân số đông, nếu có danh tướng, có tốt xấu gì hoặc có bất đồng, lại không thể xóa bỏ các nước Trung Nguyên dễ dàng được.
Tống Quốc bắc thượng, bản đồ là 16 châu U Vân, muốn đoạt vào tay mình để làm bức thành che chở, bảo đảm Trung Nguyên vững như núi Thái Sơn, nhưng chỉ tính theo ý mình muốn thì không đánh như vậy, nơi màu mỡ nhất họ cũng chiếm rồi còn muốn chiếm nơi nguy hiểm, dị tộc lại há có thể kháng cự, mảnh đất bần hàn tự sinh tự diệt, ai mà không muốn đến nơi tốt nhất? Khiết Đan nội loạn, tất cũng huy binh nam hạ mưu đồ Trung Nguyên.
Giờ hai nước dân số tương đương nhau, nói đến binh lính, quân Tống huấn luyện hoàn hảo, người Hồ thiên tính dũng mãnh, người Tống có mấy chục vạn binh lính tinh nhuệ phòng thủ tốt, còn Khiết Đan lại có mấy chục vạn tinh nhuệ giỏi tấn công, tự Thạch Kính đường chắp tay dâng 16 châu U Vân, người Khiết Đan dốc lòng tạo dựng mấy chục năm, nơi nguy hiểm này đã vững như thành đồng, người Tống sao có thể chiếm dễ dàng vậy được sao?
Người Tống đánh sao lại được với người Khiết Đan, chỉ có thể kéo dài, hai nước đều hao người tốn của, khó mà tiếp tục tấn công. Nếu Tống Quốc trước khi giành lấy tây bắc cho rằng cần dưỡng mã thì sao? Không xuất toàn lực, khó mà toàn công, còn nếu như xuất công toàn lực, người Khiết Đan há không thừa cơ mà xông vào? Hai nước đấu nhau, tây bắc đặc biệt quan trọng, người Khiết Đan không ngu xuẩn, tuyệt đối sẽ không ngồi nhìn tây bắc thành đất Tống đâu. Nếu như vậy, nếu có người có thể thống nhất tây bắc, thì cho dù là Tống hay Khiết Đan, người Tống chiếm nơi phồn hoa nhất, tài lực thì hùng hậu, người Khiết Đan chiếm ưu thế về địa lý và ưu thế về binh mã, chủ của tây bắc này lại chiếm ưu thế về tình hình chính trị, tiến khả công, thối khả thủ”.
Dương Hạo hơi nheo mắt lại, trầm giọng nói: “Đại Lang quả nhiên không hổ thẹn là thương nhân xuất chúng, một lời nói ra vô cùng sắc bén, nhưng ta có năng lực gì mà có thể chiếm tây bắc chứ?”
Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Ngươi được trời ưu ái, giờ đã được Đảng Hạng Lục Thị ủng hộ, được họ tôn làm chúa của Hạ Châu, lại có Chiết Thị và Dương Thị ủng hộ nữa, nếu thêm Thừa Tự đường ủng hộ về tài lực, thì ngươi dựa vào thân thế là nghĩa tử của Lý Quang Sầm mà giành lấy Lý Thị, trở thành bá chủ tây bắc thì có gì là không khả năng chứ? Nếu ngươi trở thành tây bắc vương, triều đình chỉ có mời chào ngươi mà thôi, chẳng lẽ còn dám giết ngươi? Như vậy, chẳng phải là an toàn nhất sao?”
Dương Hạo trầm ngâm một lúc lâu sau nói: “Trung Nguyên thống nhất, thiên hạ thái bình, buôn bán mới tốt được, các hạ chỉ có tâm làm thương nhân, vì sao không trở thành tây bắc nhất phương thế lực?”
“Nguyên nhất rất là đơn giản”.
Thôi Đại Lang chậm rãi nói: “Bất kỳ hàng hóa đều có một nơi sản xuất riêng, thông hữu vô, đó chính là nguồn thu lợi của thương nhân. Tống và Khiết Đan thành lập, đương thế song hùng, để suy yếu đối phương, tất phải chịu trao đổi đồi mồi, ngà voi, sừng tê giác, đồng thiếc, hương trầm, da lông, bò dê, ngựa, lương thực, vải vóc, dược liệu...
Đường mạt loạn thế tới nay, chuyện buôn bán Thừa Tự đường dần dần rời về tứ phương và những nơi xa hơn, nếu như muốn chuyển về, thay đổi ngành nghề khác, cũng không phải là dễ, nếu không đả thương vào xương thịt, thì nguyên khí đại thất. Đành chịu bán lệch một chút, không biết bao nhiêu người ăn cháo đá bát. Hơn nữa, triều đình trọng sĩ, cũng rất chèn ép thương nhân chúng ta”.
Thôi Đại Lang băn khoăn rằng chính sách nguyên tự triều Đường tới nay, thời kì triều Đường địa vị chính trị của thương nhân vô cùng thấp hèn, luật pháp triều đình có quy định vô cùng nghiêm ngặt, các công thương chi sĩ không thể làm quan, các thương nhân không thể kết hôn với sĩ tộc, Đường Thái Tông từng nói: “Công thương tạp sắc chi lư Tất không thể vượt quá thời gian làm quan mười năm’.
Thương nhân có thân phận thấp hơn cả thứ dân, thứ dân phục vụ Hoàng thượng, công thương tạp hộ không được phục vụ Hoàng thượng, cấm thương nhân sử dụng ngựa. Tài sản tư hữu của thương nhân cũng không được sự bảo hộ của luật pháp, triều đình có thể mặc ý thu hồi. Nếu Khai Nguyên hai mươi hai năm không thu của cải thương nhân Kinh Triệu. Ba năm Kiến Trung, vơ vét tiền tài của thương nhân, lấy nó cung cấp cho quân đội, tất cả hàng hóa của thương nhân trong Trường An, người dân lầm than, khó qua nổi cửa ải chết”.
Triều đình bức hại thương nhân quá mức, như vậy, các thương nhân tất phải duy trì các phiên trấn, thế lực để đối kháng lại với triều đình Đại Đường, để giành lại vị trí xã hội nhất định, từ đó nó trở thành nền tảng của các thế lực. Kết quả hơn hai trăm năm nay, luôn là sĩ nhân khinh thương, võ nhân trọng thương, mà sau khi Tống thống nhất xong Trung Nguyên, hiện tượng thực tế dìm thương nhân không còn nghiêm trọng như trước nữa, nhưng giờ thì ai biết được đây? Triều đình trọng sĩ, đã thành tập tục, thiên hạ sau khi thái bình, trời biết được họ có theo Đường luật hay không? Tác phong Thừa Tự đường chính là trong thời bình nghĩ đến thời loạn, họ sẽ không ngồi đợi chính sách triều đình đưa ra rồi mới phản ảnh lên.
Huống hồ triều đình không dìm thương nhân, buôn bán của họ có quá nhiều thứ đề cập tới nam bắc, một khi hai nước xảy ra chuyện gì, ảnh hưởng đối với họ sẽ càng lớn hơn, họ đã phán đoán nam bắc cùng tồn tại định kết cục, cần phải tìm ra một cây cầu để nối liền nam bắc, trong suy nghĩ của họ, cây cầu này chính là việc tây bắc có thể hòa hoãn xung đột. Phân tích này, cùng với địa vị đặc thù của các lần phân tích của Dương Hạo, thì có lựa chọn mang tính hiệu quả như nhau.
Còn về nói thiên hạ thái bình, buôn bán của thương nhân mới hưng thịnh, nó cũng chưa chắc. Thời Xuân Thu các nước san sát nhau, có trở ngại rất nặng, theo lý mà nói điều này đối với các thương nhân là không hợp, mà trên thực tế thương nhân đương thời không những thu nhập cao, mà địa vị xã hội cũng rất cao. Các phương chư hầu từ Đường mạt năm đời lại đây cũng như vậy.
Dương Hạo chậm rãi nói: “Trưởng lão các người cho rằng, đất tây bắc tự lập, hòa hoãn Trung Nguyên và Khiết Đan, cũng là thương nhân các người muốn có bao chiếc cầu, cho nên các người muốn bồi dưỡng thế lực ở đó, có thể bảo vệ các người, mang đến cho các người khoản lợi nhất?”
Thôi Đại Lang sờ cằm nói: “Đúng, kỳ thực Thừa Tự đường ta hai mươi năm trước đã làm thử rồi. Lần đó, chúng ta chọn Lân Châu Dương gia, Chiết gia sống yên lâu dài, vị tất mang đến sự tiện lợi cho chúng ta. Huống hồ, tuy nói Thừa Tự đường ta sớm không còn tôn chỉ, giờ kéo dài mình là có mục đích, nhưng các trưởng lão vẫn mong mỏi có thể giúp đỡ đồng tộc. Dương gia là người Hán, Chiết gia lại không phải, cho nên các trưởng lão càng muốn cho Dương gia đến khống chế sự ra vào cửa ngõ Tây Vực. Tiếc thay…”
Hắn thở dài, méo mó nói: “Tiếc là Dương gia cuối cùng lại không có quyết đoán, không có can đảm để đối kháng lại Chiết gia. Cân nhắc một chút, Hỏa sơn vương Dương Cổn vẫn là quyết định bám lấy Lân Châu, cùng Phủ Châu giảng hòa đối kháng Hạ Châu, ngược lại trở mặt đối phó với chúng ta, khiến mưu kế của ta thất bại trong gang tấc. Vốn dĩ các trưởng lão đã mất lòng tin, không ngờ trên trời lại phái ngươi xuống.”
Thôi Đại Lang mỉm cười: “Người cơ bản dễ hiểu nhất, có thể giúp đỡ chúng tôi, mà người thì lại có liên quan với Hạ Châu Lý thị, Phủ Châu Chiết thị, Lân Châu Dương thị, là người có tiềm lực phát triển nhất trong số họ. Điều đặc biệt quan trọng là, ngươi lập Lô Châu là khẳng định chỗ đứng của mình, phát triển công thương, trọng công trọng thương nhất phương chư hầu, thực là xưa chưa từng có, cho nên các trưởng lão rất ưu ái với ngươi.”
Dương Hạo gượng cười.
Thôi Đại Lang lại nói: “Mấy trăm năm nay, Thổ Phiên và Hồi Hột cắt cứ tây bắc và Lương Châu, cảnh giác lẫn nhau, không qua lại, vị trí yếu đạo Trung Nguyên đi hướng Tây Vực vì thế ngưng hẳn, một con đường tài sản quan trọng đối với tThừa Tự đường và toàn bộ Trung Nguyên cũng phải đóng cửa. Người thống trị bế quan tự thủ chính là thiên địch lớn nhất của thương nhân chúng ta, ngươi hiển nhiên không phải loại người này.
Thổ Phiên tấn công Hồi Hột, Hà Tây, Lũng Hữu, đều nắm trong tay, sau khi trở thành bá chủ Tây Vực, tây bắc vẫn thái bình. Nhưng người Thổ Phiên giỏi tác chiến lại không giỏi về kinh doanh, họ thống ngự Tây Vực, nếu làm ầm đến tây bắc bách nghiệp tiêu điều, mọi người khó khăn, dân chúng lầm than. Một người thống trị ngu muội lạc hậu, đồng nghĩa là thiên địch của thương nhân chúng ta, ngươi vẫn không phải loại này.
Thổ Phiên bại lộ, người Khương sau khi nổi dậy, ba môn hộ Hạ Châu, Phủ Châu, Chiết Châu, và ở giữa tạp khi Hồi Hột, Thổ Phiên. Chiến tranh giữa các thế lực này không ngừng nghỉ, chiến loạn thường xuyên không hợp với sự sinh tồn của chúng ta. Cục diện lý tưởng nhất là tây bắc thống nhất, tạo thành thế chân vạc với Khiết Đan và Tống quốc, chúng ta mới có thể nắm chắc được.”
Dương Hạo nói: “Ngươi dường như là tình nguyện, dựa vào Đảng Hạng Lục thị bị Hạ Châu Lý thị áp bức, nhận ta làm cộng chủa cỉa họ? Ta không tiền không đất cũng không lương thảo, chỉ có mấy nghìn binh trong tay, dựa vào cái gì mà ngươi cho rằng ta có bản lĩnh thay thế được Hạ Châu Lý thị lớn mạnh, giỏi hơn Phủ Châu Chiết thị có bề dày kinh doanh hơn hai trăm năm, để trở thành cộng chủa tây bắc?”
Thôi Đại Lang than thở: “Ta đã nghĩ nhiều lắm rồi, trừ ngươi, ai cũng có thể có nhiều cơ hội như vậy sao? Ngươi có cơ hội, cho nên ngươi chính là thiên cơ, chính là thiên mệnh sở quy. Chỉ cần ngươi chắc chắn, tây bắc vương không phải ngươi thì là ai nữa đây? Ngươi muốn làm hoàng đế, cũng không phải là không có khả năng.”
Dương Hạo cười đau khổ, hắn luôn dùng thiên mệnh sở quy khuyên Chiết Tử Du bỏ đi sự phản kháng, đầu hàng Đại Tống, giờ lại bị người dùng thiên mệnh sở quy để khuyên nhủ, thực là báo ứng.
Thôi Đại Lang đương nhiên không phải dùng lời nói này để sai Dương Hạo, hắn cổ vũ tiếp: “Khi Thổ Phiên hùng bá Tây Vực, Đại Đường cũng không có cách chinh phạt, chỉ có thể làm mưa làm gió. Nhưng trong lúc đó, Thổ Phiên khi bị Trương Nghĩa Triều nhất giới bố y vung tay một cái thì sụp đổ tan tành, sao vậy? Thời thế tạo anh hùng mà thôi.
Thế cục tây bắc hiện giờ, nam bắc Thổ Phiên liên hợp Hồi Hột, đang ức hiếp Hạ Châu Lý thị khổ chiến không ngớt, hai châu Lân Phủ chặn Hạ Châu qua lại với Trung Nguyên, Đảng Hạng lục thị nội bộ lục đục, nội ngoại Lý thị khó khăn dồn dập, bộ tộc tha hồ oán giận, các loại tranh chấp nổ ra, tương tự như Thổ Phiên đương quốc?
Lại thấy Dương Hạo hôm nay có những điều kiện để so sánh với Trương Nghĩa Triều. Năm xưa Trương Nghĩa Triều khởi binh, nguồn cung cấp binh lực, tài lực đến từ ba phương. Một, danh môn vọng tộc của Đôn Hoàng, ví dụ Sách thị, Trương thị, Lý thị… các tộc tiền nhiều, có thể cung cấp quân tư. Hai, tăng chúng phật môn; phật giáo Tây Vực vô cùng phát triển, tín đồ vô số, các phật sống rất thân với Trương Nghĩa Triều, hắn có thể sử dụng các tín đồ. Ba, mới là dân chúng đã chịu đủ áp bức. Mà Dương huynh thì sao, giờ đã có một châu Lô Lĩnh, nam bắc hào thương tập trung đủ cả, lại còn có Thừa Tự đường ta toàn lực giúp đỡ, tiền tài không thành vấn đề…”
Dương Hạo cười nói: “Ta cũng biết vậy, dân chúng Tây Vực sùng bái phật sống vô cùng, tiếc là ta đồng thời xuất hiện với các cao tăng Tây Vực.”
Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Chưa chắc, giờ đã có rồi.”
Dương Hạo kinh ngạc nói: “Nói vậy có ý gì?”
“Ngươi trên đỉnh Lô Lĩnh từng đúc một pho tượng sắt Khai Bảo phủ?”
“Không sai.”
“Lệnh huynh Đinh Thừa Tông đã dựng thêm một pho tượng, mời phật sống Tây Vực đến chủ thiền viện, Tịch do đạt thổ Phật sống qua lại với các cao tăng Tây Vực, giờ quan hệ vô cùng thân thiết, hơn nữa…”
Thôi Đại Lang cười nói: “Ngươi, trong khai bảo thiền viện nhiều lần xuất hiện điềm lành, giờ không chỉ Hạ Châu Lý thị, đến Thổ Phiên, Hồi Hột và rất nhiều người tin yêu cũng lén truyền nhau, nói Dương huynh ngươi là cương kim cống bảo chuyển thế, lệnh huynh vì ngươi… mà tạo thanh thế mà.”
“Từ từ đã, cương kim cống bảo… nghĩa là gì?”
Thôi Đại Lang nói: “Đây là tiếng Thổ, dịch sang tiếng Hán là Quan Thế Âm Bồ Tát.”
Dương Hạo ngẩn người, Quan Thế Âm Bồ Tát? Dương Hạo hơi lúng túng, nghĩ một lúc, mới nghĩ ra Quan Thế Âm Bồ Tát hình tượng vốn có trong phật giáo là nam, về sau trung thổ phật giáo tuy đã tạo hẳn thành nữ, nhưng trong phật giáo Tây Vực vẫn là hình tượng nam.
Thôi Đại Lang nói: “Trong truyền thuyết Tây Vực, Công Tán Can Bố, Gia Ngõa Nhân Ba Thiết một đời anh hùng, đều là hiện thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Giờ dân chúng Tây Vực coi ngươi là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, đều này đối với dân chúng Thổ Phiên, Hồi Hột mà nói có ý nghĩa gì, đối với người Khương chờ đợi hòa bình có nghĩa gì, ta nghĩ là ngươi hiểu.”
Dương Hạo lẩm bẩm: “Ta hiều, ta đương nhiên hiểu…, có nghĩa là các ngươi đã chuẩn bị tất cả sẵn sàng, kiệu hoa đã chuẩn bị xong, chỉ chờ đưa ta vào động phòng, ta đây một tân nương đồng ý cũng phải đồng ý, không đồng ý cũng phải đồng ý. Nếu không… tin đồn ta là cương kim cống bảo chuyển thế truyền đến triều đình, thì ta không chết cũng không được.”
Thôi Đại Lang không nhịn được cười phá lên: “Ngươi không cần lo lắng, giờ tạo thế còn ở giai đoạn làm nền, chỉ có tín đồ thành kính mới biết, họ sẽ không nói lung tung, càng bí mật họ càng tin tưởng. Không dấu ngươi, lệnh huynh còn tạo ra một cái thanh thế, nói Tống dựa vào ngũ vận chuyển rời mà lấy được mạng đế quyền, được thiền vu chu quốc. Nãi mộc đức, mộc sinh hỏa, cho nên Tống là hỏa đức, Tống lấy hỏa đức thừa chính thống. Mà ngươi ở Trục Lãng Xuyên đáng chết không chết, mới là thần thủy đức phù hộ, rồi rời quan Khai Phong, xây Hỏa Tình viện chuyên diệt hỏa, đây là thiên mệnh sở quy. Ta cũng cảm thấy hoang đường nực cười, nhưng đích thân đi tây bắc một chuyến, ta mới hiểu…”
Hắn trầm lặng một lát, khẽ thờ dài nói: “Ta mới hiểu hắn tại sao lại làm vậy. Đây là cường quyền võ lực, tiền bạc của cải đều không có cách nào đổi lấy tín phục và sùng bái. Mức sùng bái của người Tây Vực đối với thần linh chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nếu ngươi thấy họ thành kính với thần linh, ngươi sẽ biết tại sao họ thà một năm bốn mùa ôm bọc rách, ăn uống kham khổ, nhưng mỗi quan tiền kiếm được đều đi nặn kim thân, trang sức cho thần phật.”
Hắn ngẩng đầu nhìn Dương Hạo, nói: “Hồi Hột, Thổ Phiên tranh đấu triền miên với Hạ Châu Lý thị, áp bức môn hộ của Lân Châu đối với ngươi lạc kiến kỳ thành, nội ngoại Lý thị khốn đốn, các bộ tộc đều rất oán giận, trên dưới Lô Châu duy chỉ có ngươi đáng tin, Đảng Hạng lục thị ngầm quy về ngươi, Thừa Tự đường ta nguyện giúp đỡ chính là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Như vậy, Dương huynh nếu như quay về tây bắc, vung tay lên, sợ gì tây bắc không thuộc về Dương thị? Thời thế tạo anh hùng mà Dương huynh!”
Biết rõ hắn miệng lưỡi có sự khích lệ, Dương Hạo nghe vậy vẫn nhiệt huyết sôi trào. Đúng vậy, thiên hạ đã có phương hướng không giống với cái vốn dĩ của nó, mình chuẩn bị những điều kiện được trời ưu ái ở tây bắc, chỉ cần làm, sao lo làm không nổi. Dù Trung Nguyên có Triệu Khuông Dận là vị anh chủ, ta khó mà nhòm ngó ngôi báu, nhưng là lấy tây hạ, trở thành chủ của tây bắc thì có gì không thể chứ? Nếu ta đến làm tây bắc vương, lẽ nào không mạnh hơn tây hạ mà Lý thị xây sao?
Dương Hạo trầm ngâm không nói gì, Thôi Đại Lang biết hắn lúc này đang phân vân khó xử, đưa ra một sự lựa chọn quan trọng nhất trong đời. Những lời hắn muốn nói đã nói hết, lúc này chỉ ngồi nhìn biểu hiện của Dương Hạo, không thúc dục.
Một lúc lâu sau, Dương Hạo liền dừng bước, ngẩng đầu nhìn trời, thở dài: “Người ở giang hồ, thân bất do kỷ, ta mộng tưởng hão huyền, mãn ý có thể giả chết để bình yên, từ nay sẽ tránh xa thế giới này. Điều ta nghĩ thật quá đơn giản.”
Thôi Đại Lang vừa nghe thấy thì vô cùng vui mừng nói: “Dương huynh có thể quyết định một lần nữa trở lại Lô Châu sao? Nếu như kế sách đã định, Thôi mỗ yên tâm vô cùng, lần này về tây bắc, tìm một cái thân phận khác, dứt khoát gọi là Thác Bạt Hạo, khi triều đình biết được, lúc đó Dương huynh căn cơ đã định, có đôi cánh khỏe mạnh, triều đình cũng chỉ đành quay mặt làm ngơ.”
Dương Hạo nói: “Không, ta đã thề với nương của ta, đời này chỉ mang họ Dương, sống cũng họ Dương, chết cũng họ Dương, mãi mãi không đổi. Đúng vậy, ta đồng ý về, Thôi huynh có sắp xếp cho ta từ Thái Thạch cơ qua sông không?”
Thôi Đại Lang nói: “Dương huynh nếu đã chắc chắn về tây bắc, ta bố trí đi men đường nhỏ, Thái Thạch cơ có đại quân tập trung dày đặc, nếu muốn thần không biết quỷ không hay mà đi qua thực là làm khó ta.”
“Không, ta phải đi gặp Tấn vương Triệu Quang Nghĩa.”
Thôi Đại Lang sửng sốt, Dương Hạo nhìn hắn cười, bình tĩnh nói: “Lòng ta vốn có một chuyện rất khó giải quyết, có sự ràng buộc giả chết, mọi chuyện đều bị giới hạn, cuối cùng cũng vẫn không nghĩ ra cách gì hay ho. Giờ nếu không phải chết nữa, ta có ý này, Đại Lang giúp ta đưa gia quyến về, còn ta về Tống quốc, tranh thủ lực lượng Tống quốc đang lộn xộn giải quyết cái đại sự đang khúc mắc trong lòng, đồng thời, nghĩ ra cách có thể quang minh chính đại về tây bắc. Với Tống quốc, chớ có làm ầm lên là tốt nhất.”
Thôi Đại Lang nói: “Dương huynh đi gặp Tấn vương, sẽ giải thích mình vẫn sống với hắn như thế nào?”
“Ta tự có cách của mình. Giờ họ chưa cảnh giác lắm,ta chủ động xuất hiện, ai sẽ còn nghi ngờ ta đã từng giả chết?”
“Nhưng… có chuyện gì cần lực lượng triều đình giúp vậy? Hơn nữa, làm sao có thể đường đường chính chính về tây bắc?”
Dương Hạo chau mày nói: “Đại Lang, đây có lẽ không phải là cách khởi đầu tốt.”
“Cái gì?”
Dương Hạo trầm giọng nói: “Ta và Đại Lang chỉ là một sự giao dịch, ta được đầu tư, phải hồi báo. Nếu ta thực sự có thể bảo đảm nắm trong tay tây bắc, tuyệt đối không nuốt lời và sẽ ủng hộ, đưa lại sự tiện lợi nhất cho các ngươi, nhưng các ngươi không nhất định không được can thiệp vào, hơn nữa càng không được nhúng tay vào, không được có ý đồ cản trở ta, ảnh hưởng đến ta. Hơn nữa, một khi bị ta phát hiện ra manh mối gì, giao dịch của chúng ta sẽ bị hủy bỏ, thứ các ngươi đã trả ra, ta sẽ không bồi thường.”
Thôi Đại Lang ngẩn người, không hiểu ra sao, ngược lại còn cười lớn, vỗ tay nói: “Dương huynh là ngọc thạch, giờ đã được dùi mài, quả nhiên có giá trị cao ghê gớm, đã là một sản phẩm tốt rồi. Được được được, Thôi mỗ đây sẽ không hỏi thêm gì nữa, ta sẽ đưa gia quyến của Dương huynh bình an đi tây bắc. Dương huynh, hãy đợi tin tốt lành của ta!”
***
“Diễm Diễm, nàng yên tâm, lần này về Tống doanh, ta tự có lý thoái thác, sẽ không có chuyện gì đâu.”
“Thiếp sao có thể yên tâm được? Thiếp đi theo chàng, nếu chết thì cũng chết cùng nhau.”
“Lại nói linh tinh gì vậy, nếu không định kế, ta bằng lòng đi vào chỗ chết sao? Nàng trở về tây bắc, còn có chuyện đại sự phải làm. Nàng cần đi gặp nghĩa phụ, bảo ngài lệnh cho Phi Vũ liên lạc với ta, từ nay về sau, ta đến thao túng, tin tức có động, ta đều cần nắm được kịp thời. Trước đây ta ở ẩn, làm chuyện đường hoàng, giờ ta tuy xuất hiện trước mặt người khác, việc làm lại phía sau màn, không có Phi Vũ liên lạc kịp thời, ta không làm gì được.”
Đường Diễm Diễm vui vẻ nói: “Hạo ca ca giờ như vậy, có vài phần giống khi ở Trung Nguyên, không chỉ nhượng bộ, nhượng bộ nữa, hi hi, như vậy khiếng người ta thích chết đi được.”
Dương Hạo cười nói: “Hoặc là không làm, hoặc là làm cho cẩn thận, không thể tùy ý sắp xếp. Nếu ta đồng ý xuất hiện, thì phải nghĩ cách khống chế hết thảy bọn họ. Ta có thể chủ động nhượng bộ, nhưng tuyệt đối không được để họ xỏ dây dắt đi.”
Đường Diễm Diễm gật đầu cười nói : “Vâng, vừa nãy bị người của Thôi Đại Lang khống chế, thực khiến người ta tức chết đi. Hắn cầu xin chàng, còn dám kiêu ngạo như vậy, phải cho hắn vài bài học mới được. Chàng tạm thời vể Tống triều cũng tốt. Nếu một mình đi Khiết Đan, thực sự là quá nguy hiểm, nếu có thể có chiêu bài của Tống quốc cũng an toàn hơn chút. Chỉ cần qua được cửa ải giả chết hồi sinh, thì mọi chuyện coi như yên tâm nhiều rồi.”
“Đương nhiên vậy rồi, các nàng thu dọn đi, mau chóng cùng với Thôi Đại Lang lên đường. Ta đi gặp Phàn tú tài cái đã, bàn bạc chuyện qua sông.”
Dương Hạo gặp Phàn Nhã Băng bàn bạc lúc lâu, nói xong chuyện đêm nay qua sông đi Tống doanh, Phàn Nhã Băng vui vẻ đồng ý. Dương Hạo lại gọi Bích Túc lại dặn dò, nói quyết định của mình cho hắn nghi: “Ngươi đi nói với Thủy Nguyệt cô nương một tiếng, bảo cô ấy cùng đi với Diễm Diễm bọn họ, tối nay chúng ta qua sông đi Tống doanh rồi.”
Bích Túc nghe vậy trầm ngâm một lúc, bỗng nói: “Đại nhân, tôi… tôi không muốn đi nữa…”
“Hả?” Dương Hạo nhướn mày: “Không đi, thế ngươi muốn đi đâu?”
“Đại nhân, Bích Túc vốn là một tên trộm lưu lạc giang hồ, chẳng có gì đáng giá, sau khi đi theo được, có lòng hướng thiện, muốn đi theo đại nhân xây dựng tiền đồ. Đại nhân quyết tâm quy về ở ẩn, Bích Túc cũng không oán hận một câu. Giờ đại nhân lại trở lại giang hồ, vốn hợp với ý của Bích Túc, nhưng… nhưng Bích Túc giờ đã có Thủy Nguyệt rồi. Thủy Nguyệt hiền từ dịu dàng, Bích Túc muốn… muốn sống cùng cô ấy, chẳng sợ một gian nhà tranh, hai mẫu đất cằn, nhưng lại có thể vui vẻ mà sống. Sự nghiệp… so sánh với cô ấy, thì không là gì nữa rồi.”
Dương Hạo ngẩn người, bỗng bật cười. Hắn vỗ vào vai Bích Túc, nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Không ngờ lãng tử như ngươi mà cũng có lúc động lòng, thực là giờ ta không thể ở ẩn được nữa, thì ngươi lại muốn ở ẩn. Thôi vậy, đi theo ta lâu như vậy, chịu kham chịu khổ, làm tùy tùng của ta cũng chẳng có lợi lộc gì, Dương mỗ cũng cảm thấy thẹn với ngươi. Ngươi quyết về ở ẩn, thế… Thiếu Hoa sơn bên đó có nhà cửa và vài mẫu đất, vậy nói sẽ là món quà ta tặng cho phu thê ngươi nhé. Ngươi và Thủy Nguyệt đến đó, sắp xếp cho Hạnh Nhi và Nguyệt Nhi bọn họ về Lô Châu, còn phu thê ngươi… hãy sống ở đó. Ở đó non xanh nước biếc, vô ưu vô lo, là một phú gia cũng tốt.”
Bích Túc từ chối không nhận, hắn vốn sợ Dương Hạo tức giận, không ngờ Dương Hạo lại còn tặng quà cho hắn nữa, không cầm nổi sự cảm kích và xấu hổ. Dương Hạo lại nói: “ Ta và ngươi hoạn nạn có nhau, tuy là chủ tớ, kỳ thực là huynh đệ thân thiến, có gì phải cảm ơn chứ. Ngươi có thể đi theo Đại Lang bọn họ chứ?”
Bích Túc nói: “Chưa chắc, con đường họ đi là hướng bắc trước, nếu như đi Thiếu Hoa sơn, không khỏi phải đi đường vòng. Ta và Thủy Nguyệt tạm thời tìm một chỗ ở tạm đã, đợi quân Tống qua sông, chúng ta sẽ tự qua sông mà đi về phía tây, tránh đi đoạn đường dài.”
Dương Hạo nghĩ ngợi giây lát, nói: “Cũng được, thế nhé, lên đường bảo trọng.”
“Đại nhân bảo trọng.”
Đêm hôm đó, bên bờ Trường Giang, Dương Hạo và Phàn Nhã Băng lại mang theo những bộ hạ biết bơi, tay cầm tiểu thuẫn, kéo chiếc thuyền nhỏ từ bụi cỏ ra, lặng lẽ cập vào bờ đợi người của Thôi Đại Lang cố ý gây động tĩnh gây sự chú ý của thủy quân đi tuần.
Đối diện bên kia, lửa trại mười dặm liên doanh. Nước sông cuồn cuộn, Dương Hạo vô cùng bình tĩnh, nghĩ đến lời của Thôi Đại Lang nói, Dương Hạo mất đi cảm giác căng thẳng, bật cười: “Trục Lãng Xuyên bị phá bởi nước, nghĩ đến đại sự Lô Châu, giờ ta tiếp tục đi qua sông, sẽ có vị thần nào đó che chở ta không đây?”
Chương 370:Xây cầu.
“Hôm nay không có ta, ngày mai có còn vua? Một khi thiên tử nhà Tống dễ báo đền công lao, quốc vương cũng như dân ảo vải”.
Lá thư rất ngắn, không dài quá hai dòng, cũng không có những từ ngữ hoa lệ như văn phong thường thấy của Lý Dục, nhưng nội dung thì không hề đơn giản. Đây là lá thư Lý Dục viết cho Đông Nam Thăng Châu, là nguyên soái đại binh mã trong thien hạ, mật tín Ngô Việt Vương Tiền Thục đã trình Biện Lương, đồng thời cũng lưu giữ lại một bản, chuyển cho chủ soái Triệu Quang Nghĩa. Và lúc này đây Triệu Quang Nghĩa đang ngồi đọc bức mật thư đó.
Lý Dục viết bức thư này cho Tiền Thục không hề có ý phản loạn gì, Ngô Việt Vương Thẩm hổ tử nhìn một lúc lâu, cho rằng Ngô Việt không liên kết với Đường để chống Tống, cũng không xuất binh đi diệt Đường. Nếu nước Đường mà bị diệt thì Ngô Việt cũng không thể tồn tại, đại vương Tiền Thục không thành công thì cái tên tể tướng như hắn cũng phải về vườn. Tiền Thục ngay lập tức về quê nên bức mật thư này bị lưu lạc vào tay anh em Triệu Thị.
Triệu Quang Nghĩa ung dung cười, hắn đã sớm biết Tiền Thục không dám phản Tống. Hoặc giả, hắn có một phần nghìn hy vọng thì cũng sẽ bày tỏ lòng trung thành của mình với Tống, trợ giúp cho những kế hoạch của nhà Tống, có thể làm cảm động Triệu Thị, có thể giữ lại Ngô Việt Vương – cái tên chẳng hại nổi ai, nhưng nếu như nhà Tống thực sự muốn thôn tính Ngô Việt thì hắn cũng chỉ có thể tuân theo mà thôi.
Tiền Thục là một quân vương tuy không sánh được với Triệu Khuông về tài thao lược, không văn hay chữ tốt được như Lý Dục, nhưng hắn nhìn người rất chuẩn, cũng rất rõ sức lực của mình thế nào. Hắn đã nhìn ra bất kể Tiền Thục có tham chiến hay không thì kết cục của nhà Đường cũng sẽ thế, chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Nhưng kết cục của Ngô Việt Vương lại nằm hoàn toàn nằm ở vua Triệu, phản kháng hay không, đối với Ngô Việt Vương mà nói thì không có gì khác biệt, nhưng đối với gia tộc Tiền Thị thì lại rất khác, do đó hắn cần phải đưa ra lựa chọn thông minh nhất.
Triệu Quang Nghĩa không hề để ý đến lòng trung thành của Tiền Thục mà chỉ liếc mắt qua một cái, sự chú ý của hắn tập trung ở bản báo cáo tình hình quân sự. Tiền Thục bỏ qua tể tướng Thẩm hổ tử, tiếp tục tấn công mạnh mẽ, tấn công Nghi Hưng, Giang Âm, bao vây Thường Châu, Tín Trung Thuyết. Quân Đường ở Thường Châu khổ chiến, Ngô Việt quyết định bao vây Thường Châu, để tránh có viện binh hắn chỉ chờ đánh bại quân viện binh rồi lại tiếp tục tiến công vào Thường Châu, sau đó mới coi đây là cứ điểm, phối hợp với quân Tống để bao vây Đường, từng bước khép chặt vòng vây, ép quay về Kim Lăng.
Triệu Quang Nghĩa thấy trong lòng cấp bách, Tào Bân phá Kim Lăng, hôm nay chính là đêm tấn công Vu Hồ, Tiền Thục liên tục phá Nghi Hưng, Giang Âm, vây Thường Châu, thế còn mình thì sao? Bản thân mình là chủ lực của quân Tống, là cấm quân tinh nhuệ của kinh sư, nay cứ ngồi thủ mà không tấn công, nếu như đợi Tào Bân và Tiền Thục đến rồi mới tiếp thì còn mặt mũi nào nữa?
Triệu Quang Nghĩa bỏ bức mật thư của Tiền Thục xuống, cúi người nhìn tấm bản đồ phòng thủ tấn công Thải Thạch Phàn, đôi lông mày khẽ nhíu lại.
Hắn mặc giáp sáng loáng, toàn thân sáng ngời và tỏa ra nét lạnh lùng, ngồi ở đó. Mặc lâu ắt không thấy thoải mái, nhưng Triệu Quang Nghĩa lại thích cảm giác này, đã bao nhiêu năm không trải qua chiến đấu thế này, bây giờ mặc lại hắn dường như thấy mình lại là một đại nguyên soái thống lĩnh ba quân, hắn thích cảm giác trong khung cảnh cờ bay máu chảy, hàng nghìn người cúi đầu hô lớn, mặc áo giáp thế này hắn dường như lại được quay trở về thời thiếu niên huyết khí bừng bừng.
Nhưng khi hắn đang khí thế bừng bừng cầm kiếm hướng về Giang Nam thì khó khăn ầm ầm kéo đến, lại chắn đường đi Thải Thạch Phàn của hắn. Việc này khiến hắn cảm thấy thật trắc trở, lửa giận trào lên ngực, cúi người nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ, hắn tức giận đấm mạnh lên bàn, quắc mắt đứng dậy, đi lại phía bức trướng.
“Thiên tuế, đêm đã khuya rồi, hay là ngài hãy đi nghỉ trước đi”
Vương Kế Ân chậm rãi nói, mang đến một ấm trà nóng từ trong lò rồi rót ra một chén.
Triệu Quang Nghĩa đứng dậy, tay nhẹ nhàng vuốt bảo kiếm bên hông, trầm ngâm trong chốc lát rồi lùi lại đằng sau tấm trướng, dặn dò hai đại tướng tiên phong đang đứng trong trướng: “ Đêm qua bản tướng đã qua sông thành công, nhưng đáng tiếc là không còn chút sức lực nào, quân sĩ lên bờ rất khó đánh lại quân Đường, sự việc sắp thành lại bại. Sáng sớm ngày mai, ba quân sau khi dùng bữa hãy tạm nghỉ một lúc rồi lại tiếp tục tiến công”.
Hai viên đại tướng thi lễ nói: “Tuân lênh!” hai người vừa cử động, bộ áo giáp đã vang lên những tiếng kêu loảng xoảng, làm gia tăng thêm sát khí. Triệu Quang Nghĩa đưa mắt nhìn, nói với viên tướng đứng bên trái: “Ngũ Cáo Phi, sáng mai hãy tập trung lục soát từng thuyền đánh cá một, tự mình tấn công quân Thải Thạch Phàn”.
“Tuân lệnh!”
“Dương Hải Thanh, ngươi hãy phái quân theo sau viện trợ, một khi Ngũ Cáo Phi ra tay ngươi hãy lập tức lên bờ, dẫu cho tất cả đều chết hết thì cũng phải thủ ở bãi đầu, cho thuyền lập tức quay về đón quân ta qua sông”.
“Tuân lệnh!”
“Thư ký Thường, ngươi hãy viết một chiến thư, sáng sớm mai cho người mang sang bờ bên kia”.
Thư ký Thường Huy nắm chặt cây bút lông, mở giấy ra, chỉ nghe thấy Triệu Quang Nghĩa đằng đằng sát khí nói: “Nói với Dương Thu, Tôn Chấn, chiến thắng của bọn chúng chỉ là nhỏ, cũng chỉ là nhất thời được mất. Khó khăn lớn nhất chính là thiên binh hùng hậu của ta, nếu chúng tỉnh ngộ, nhanh chóng xin thua thì bản vương bảo đảm sẽ cho chúng hưởng vinh hoa phú quý. Còn nếu không biết điều mà cố chống đối đến cùng thì bản vương qua sông nhất định sẽ dốc sức thủ quân, bọn chúng gặp phải đại quân của ta thì bọn chúng sẽ biến thành biển máu, sức hai bọn chúng có gánh nổi không? Hãy suy nghĩ cho kỹ rồi tự định lượng”.
Triệu Quang Nghĩa nói dứt lời bộ áo giáp của hắn cũng rung lên từng hồi, quát: “Đi đi”.
Triệu Quang Nghĩa bước những bước lớn ra khỏi trướng, đi về phía phòng mình. Vương Kế Ân cũng nhìn hai vị tướng quân, bưng tách trà trên bàn lên uống một hớp hết sạch, rồi đuổi theo Triệu Quang Nghĩa.
Vào trong trướng của Triệu Quang Nghĩa, Vương Kế Ân mỉm cười khuyên nhủ: “Thiên tuế, thiên tuế, ngài chớ vội, Tào Bân thủy sư vừa đến sẽ hợp nhất thủy lục, Thải Thạch Phàn ắt sẽ là của Vương gia thôi”.
Triệu Quang Nghĩa nói: “Tào Bân phái người đưa tin đến, quân Hồ Khẩu phái thuyền quấy rối, tàn quân Đường liên tục phóng hỏa tiễn, cản trở trên sông, thủ quân ở Vu Hồ quyết tử chiến đấu đến cùng, hắn còn muốn mất mấy ngày nữa mới đến Thải Thạch Phàn? Bản vương cần gì phải đợi lâu như thế”.
Triệu Quang Nghĩa vừa nói vừa cởi áo giáp, khoát tay cho Vương Kế Ân ngồi: “Biết rồi, ngồi đi”.
Vương Kế Ân mỉm cười ngồi xuống, nói: “Dục tốc bất đạt, Thiên tuế nóng lòng lập công làm gì, chỉ sợ Dương Thu, Tôn Chấn nhận chiến thư của Thiên tuế lại càng kiên quyết thà chết thì mới nên chuyện”.
Triệu Quang Nghĩa cười lạnh nói: “Người Nam trước nay luôn khiếp nhược, chẳng phải sao?”
Vương Kế Ân chần chừ nói: “ Nhưng… nếu như Dương Thu và Tôn Chấn quả thực không hàng thì Thiên tuế thực muốn tàn sát cả thành ư?”
Triệu Quang Nghĩa cười lạnh nói: “Tàn sát cả thành là thế nào?”
Vương Kế Ân chần chừ, hơi cúi người về phía trước nói: “Thiên tuế đừng quên chuyện của Vương Toàn Bân”
Triệu Quang Nghĩa ngẩn ra, rồi lập tức cười lớn: “Vương Toàn Bân là Vương Toàn Bân, bản quan là bản quan, làm sao có thể đem ra để bàn luận với nhau?”
Vương Toàn Bân là danh tướng nhà Tống, chiến công hiển hách, không hề kém cỏi so với Tào Bân, Phan Mỹ. Khi Tống đem quân diệt nước Thục, hắn là chủ soái ba quân. Khi đó Tào Bân còn ở dưới trướng hắn, nhưng hắn có sát tâm quá nặng, sau khi chiếm thành hắn dung túng cho thuộc hạ giết người cướp bóc, hãm hiếp con gái nhà lành, ngược đãi chiến phu, cuối cùng bị dân nổi dậy, quân Ngụy đem toàn bộ quân tạo phản, Đặng, Thục, Mi, Nhã, Đông Châu… mười ba nước lần lượt hưởng ứng, phản quân nhanh chóng tập trung, số lượng lên đến mười mấy vạn người.
Kết quả là Vương Toàn Bân lo lắng quân binh sẽ đi hàng bọn phản quân nên đã ra một chiếu giết toàn bộ chiến phu, đến người già và ốm yếu bệnh tật cũng không tha, kích động người Thục phản loạn. Cuộc chiến kéo dài hơn hai năm, trả giá rất đắt mới có thể yên ổn. Vua Triệu hết sức phẫn nộ, ra lệnh cho thu giữ toàn bộ tang vật, sau khi giữ lại để quan sát tiết độ sứ, hắn cũng cho đến các tỉnh.
Vương Kế Ân nhắc đến Vương Toàn Bân cũng là có ý muốn nhắc nhở Triệu Quang Nghĩa, e rằng hắn sẽ khiến cho vua không vui.
Triệu Quang Nghĩa không cho là đúng, cười ha hả nói: “Tội của Vương Toàn Bân không nằm ở việc hắn cho lính cướp bóc hãm hiếp dân lành, cũng không nằm ở chỗ hắn giết chết mấy vạn chiến phu, mà nguyên nhân là do hắn đã kích động dân Thục làm phản, vua mới phẫn nộ. Người Đường nhu nhược, thấy thủ đoạn độc ác của ta ắt sẽ kinh hãi, làm sao dám phản? Nội trong Giang Nam không có nguy hiểm gì, lại không có lợi về địa hình, ai dám làm phản? Huống hồ bản vương đã nói với quốc vương muốn xây dựng một khu công nghiệp lớn để khai thác, nếu như không lấy của cải và gái đẹp cổ vũ tinh thần hướng sĩ thì làm sao mà được?”
Hắn cười dài nói: “Ta đã biết thành ý của ngươi rồi, bản vương rất hiểu, thôi ngươi nên về nghỉ ngơi sớm đi, sáng sớm ngày mai sẽ dấy binh đánh Thải Thạch Phàn, nếu như thành công thì ngươi cũng sẽ có một phần công trong đó đấy, haha, nên hãy an tâm mà đi ngủ đi”.
Triệu Quang Nghĩa đích thân tiễn Vương Kế Ân đi về trướng nghỉ ngơi, chắp tay từ biệt, nhìn theo bóng Vương Kế Ân xa dần, hắn mới lộ ra một nụ cười nơi khóe môi: “Làm thế nào có thể bình định Giang Nam nội trong ba tháng được? Không sát tâm quá nặng thì sẽ mất lòng dân, làm sao hóa giải được cảnh giác của vua?”
Mười năm làm quan ở Khai Phong, đến nay lật lại Triệu Phổ, cương vị của hắn trong triều Tống dưới một người mà trên vạn người, kể cả lư đa tốn hàng quan tam vị tể tướng cũng không dám làm trái hắn, nhưng uy lực của hắn chỉ có thể khuếch trương trong triều văn. Có thực tế thế thì hắn mới dám mạo hiểm ra tay, mạnh mẽ xuất binh. Đây chính là động lực cổ vũ hắn có dũng khí, nhưng thực ra trong lòng vẫn thấp thỏm không yên.
Hắn cũng đang suy nghĩ đến việc đại ca e rằng sẽ vì vấn đề này mà lo lắng, nhưng có được ắt có mất, đây cũng là chuyện không thể làm khác được.
Nhưng hắn hy vọng rằng quyền lực của hắn sẽ không bị tổn hại gì, nếu như hắn phát binh đến Giang Nam, ba tháng sau diệt được Đường, rồi quân nghiêm minh, không đả thương người vô tội, hết lòng quan tâm đến dân chúng Giang Nam, vậy thì thời huy hoàng của hắn cũng đến hồi kết thúc.
Nhưng nỗi khổ tâm này của hắn lại không thể nói rõ với bất kỳ ai, kể cả với Vương Kế Ân, người có mối tư giao lâu nay với hắn.
Hắn quay lại trướng cởi áo, nằm trên phản quay lưng ra ngoài, trong đầu đang thầm tính toán kế hoạch ngày mai đi đánh Thải Thạch Phàn, rất lâu sau mới tắt đèn, ngáp một cái rồi đi ngủ. Chỉ nghe thấy phía ngoài trướng tiếng bước chân chạy gấp lại, một người nói lớn: “Thiên tuế, thiên tuế, mạt tướng Trúc Vũ Minh có việc quan trọng xin cấp báo”.
Triệu Quang Nghĩa ảo não ngồi dậy hỏi: “Có chuyện gì?”
Trúc Vũ Minh nói: “Thiên tuế, quân phòng ngự tại bờ sông đã bắt được bốn tên từ bờ bên kia lặn sang…”
Triệu Quang Nghĩa vội hỏi: “Nhưng có phải là người nhà Đường không?”
Trúc Vũ Minh nói: “Trong số bốn tên đó có một tên tự xưng mình là hồng lư tự của nhà Tống – Dương Hạo, mạt tướng không biết phân biệt thật giả, chỉ nghe nói Thiên tuế có biết hắn nên mới đến bẩm báo thiên tuế”.
“Hồng lư tự Dương Hạo…” Triệu Quang Nghĩa vẫn còn chưa nhớ rõ ra là ai, bỗng chợt giật mình hỏi lại: “Dương Hạo? Ngươi nói hắn là Dương Hạo?”
“Đúng ạ, hắn tự xưng là Dương Hạo”.
Triệu Quang Nghĩa vội vứt chăn sang một bên, mặc quần áo lót vào rồi nhảy xuống đất, vừa chạy vừa hỏi: “Người đâu”
“Hắn vẫn còn trong lều chủ soái”.
Triệu Quang Nghĩa chạy nhanh, Trúc Vũ Minh ngẩn người, mãi sau mới nói: “Thiên tuế, ngài vẫn còn chưa mặc quần áo…”
Lúc này Triệu Quang Nghĩa đã chạy đến trước cửa lều…
**************************************
“Ngày xưa Bái công gặp Lệ Sinh, lấy chân trần chạy lại đón, nay Tấn Vương gặp Dương Hạo không cho cổ nhân, hạ quan thực quả rất cảm động”.
Vừa nhìn thấy Triệu Quang Nghĩa tóc tai bù xù, mặc bộ quần áo lót, Dương Hạo lập tức tiến lại gần, nhưng bị hai gã thị vệ giữ lại, hắn đành đứng tại chỗ nói.
Triệu Quang Nghĩa nhìn theo, người này quả nhiên là người đã khuất, sau đó được triều đình gia phong làm quốc bá, khắp nơi ai ai cũng thương tiếc. Dương Hạo đeo bên hông một chuỗi hồ lô, mặc một bộ quần áo dạ hành.
Triệu Quang Nghĩa kinh ngạc nói: “Dương Hạo không phải đã chết rồi sao?”
Dương Hạo than thở nói: “Việc này… thật là khó nói một lời mà hết”.
Triệu Quang Nghĩa thấy hắn đang đứng bên một tăng lữ, hai người đều mặc quần áo đen, vội hỏi: “Đến đây, đến đây, ngồi xuống, chúng ta từ từ nói”.
Bọn thị vệ dâng trà. Dương Hạo ngồi xuống, tựa hồ như chính mình vừa từ cõi chết trở về kể lại. Hắn kể rằng hôm đó sau khi bị hành thích, khi thê thiếp của hắn đều bị cướp giết chết, hắn chợt nhớ ra trên bờ có hai đoàn người ngựa, sợ rằng là sứ giả Khiết Đan và nhà Đường hợp sức muốn giết hắn nên hắn sợ hãi nên hắn nhảy xuống nước tháo thân, tìm đến chỗ thuộc hạ đang chờ sẵn rồi trốn mất.
Triệu Quang Nghĩa nghe xong liền nghi ngờ hỏi: “Dương đại nhân lo lắng nước Đường và sứ giả Khiết Đan một chủ một khách liên kết với nhau gây bất lợi cho ngài ư? Giả chết để ẩn náu, điều này có thể lý giải được, có điều… tại sao bao lâu như vậy rồi ngài không cho triều đình hay biết?”
“Cái này…” Dương Hạo mặt có vẻ bi phẫn nói: “Thiên tuế che chở được cho Dương Hạo, cũng là có lòng nên Dương Hạo không giấu Thiên tuế. Thuộc hạ một vợ một thiếp, dẫu cho có chết thảm trên thuyền, thù này không trả thì cũng uổng một đời trai. Do đó Dương Hạo ta phải làm vậy để tìm cách báo thù, như Gia Luật Văn bị chết trong lửa cũng là thê thiếp của ta ôm mối hận mà trả thù cho Dương Hạo. Dương Hạo báo được mối tư thù này e rằng sẽ kích động quan gia, giáng tội vào hạ quan, nên vừa quy về ở ẩn, vừa nghĩ cách thông báo cho tiêu tự thừa.
Nghe nói cũng thông, Triệu Quang Nghĩa nói: “Nếu ngài đã quyết định lui về ở ẩn rồi thì tại sao còn đến đây gặp bản vương?”
Dương Hạo nói: “Hạ quan dưỡng thương xong vốn định tĩnh tâm, muốn quy
về ở ẩn, không ngờ thiên binh lần này tới lại là quân của Thiên tuế. Thiên tuế đối với hạ quan ân trọng như núi, Dương Hạo có lòng báo đáp Thiên tuế nên mới mạo hiểm tìm hiểu tình hình quân sự của Thải Thạch Phàn, hy vọng có thể giúp sức được cho Thiên tuế. Cũng nhờ hồng phúc của Thiên tuế mà hạ quan đến được đây và gặp được vị tú tài này”.
Dương Hạo vừa nói vừa chỉ vào Phàn Nhược Băng, Nhược Băng vội vàng thi lễ, Triệu Quang Nghĩa kinh ngạc nói: “Vị hòa thượng này là một tú tài?”
Dương Hạo tiếp lời: “Đúng thế, vị tú tài này sớm đã có ý phò tá nhà Tống ta, hắn giả mạo làm tăng lữ để đến Thải Thạch Phàn, vất vả bao lâu mới vẽ ra được bản đồ sông Trường Giang. Thiên tuế mà có được tấm bản đồ này thì sẽ nắm rõ từng đoạn nông sâu rõ như lòng bàn tay. Dùng cầu nổi có thể đưa đại nhân qua sông. Hạ quan nắm được tin tức quan trọng này liền quyết định đi gặp Thiên tuế ngay”.
Triệu Quang Nghĩa mừng rỡ nói: “Dương đại nhân đúng là cái phúc của bản vương. Ngươi tới thật tốt, thật tốt quá. Việc này nếu như thành công thì cũng có phần của ngươi đó”.
Dương Hạo chần chừ nói: “Nhưng mà… hạ quan nhất thời tức giận giết chết sứ giả Khiết Đan, e rằng sẽ dẫn đến chiến tranh hai nước. Nếu như hạ quan chết rồi thì đã đành, nay lại sống sờ sờ quay về, triều đình sẽ phải ứng phó ra sao với bọn Khiết Đan?”
Triệu Quang Nghĩa cười lớn: “Chỉ là một tên Gia Luật Văn thôi mà, chết thì cũng chết rồi, người Khiết Đan làm sao? Giá mà Dương đại nhân biết được, tên Gia Luật Văn đó cùng cha hắn mưu phản ở Thượng Kinh, ấm mưu giết hết giới quý tộc Khiết Đan, nay binh lính phản loạn, âm mưu giết vua không thành, ngươi giết được con trai của tên phản loạn người Khiết Đan không trách tội ngươi đâu, mà còn phải cảm kích ngươi phen này ấy chứ, ha ha ha…”
“Có việc này sao?” Dương Hạo không hề biết tin từ Thượng Kinh nên vừa nghe được tin này đã không nén nổi niềm kinh ngạc.
Trời đã sáng. Triệu Quang Nghĩa nghi binh dẫn quân áp Thải Thạch Phàn, cho lính ra phá thuyền, nhân cơ hội gõ trống tiến vào, đánh tập kích doanh trại nhà Đường. Bên cạnh đó quân lính cũng đi gom được hàng đống thuyền nhỏ, bè gỗ, xếp chi chít trên mặt sông tạo thành một chiếc cầu nổi trên mặt sông Trường Giang.
Nhược Băng tự mình lấy tấm bản đồ ra chỉ điểm, chỗ nào nông, chỗ nào sâu, tất cả những cọc trụ dài ngắn, mặt nước rộng thế nào… tất cả những số liệu đó đều được hắn đo đạc lại. Đợi chiếc cầu nổi được kết xong, buộc chắc chắn vào hai cọc thì có thể đi lại vững vàng trên mặt nước được rồi.
Mục Vũ đứng sau lưng Dương Hạo trên con đường, nhìn thấy mặt sông xuất hiện một công trình như vậy mới hạ giọng hỏi: “Đại nhân chạy tới đây đúng lúc cấp bách thế này, hiến thủy đồ, hiến kế xây cầu nổi, đã được lòng tin của Tấn Vương rồi, bước tiếp theo ngài tính làm gì?”
Dương Hạo nói: “Ta vẫn cứ nghĩ ta đối với người Khiết Đan như thế thì sao có thể vào Thượng Kinh? Ngọc Lạc tuy là đã đi trước nhưng nàng không biết rõ thân thuộc nơi này, lại không thể tiếp cận với người trong hoàng cung.
Nếu muốn cứu Đông Nhi quay về thì tuy biết nàng đang ở đâu nhưng cung tường bao vây thế muốn khó thể với tới. Nhưng ta không muốn giả chết, như vậy sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nếu như lấy thân phận Tống sứ đi sang Khiết Đan vào Thượng Kinh thì với tình thế hoàng hậu là người lên nắm quyền như hiện nay liệu ta muốn gặp nàng có còn dễ dàng? Đợi ta gặp được Đông Nhi, ta sẽ lập tức vạch kế hoạch cùng nàng tháo chạy, nàng chạy rồi ta sẽ về nước.
Ta là Tống sứ, ai dám khám xét xe của ta? Hoàng hậu Khiết Đan bị mất người cũng không dám nghi ngờ ta giấu trong xe. Nếu như có thể cứ thể cho qua chuyện thì ta sẽ có thể bình an đem nàng đi”.
Mục Vũ nghi ngờ nói: “Vậy… chúng ta làm sao có thể về được Lô Châu?”
Dương Hạo nhìn mặt nước sông trước mắt mà lo lắng bộn bề, trầm mặc một lúc lâu rồi mới nói: “Mọi việc tại nhân, ta cũng dò dẫm từng bước mà qua sông thôi, cứ tiến từng bước một”.
Coi thường người Tống thế công kém, bờ bên kia Dương Thu không hề nghi ngờ một chút gì. Đợi đến sáng, khi quân đi tuần ven sông phát hiện ra người Tống đaang làm cầu nổi trên sông mới vội vã bắn tên. Nhưng do mặt cầu dao động lại thêm có gió nên mũi tên bị gió thổi tạt bay hết xuống sông, không cách nào ngăn cản người Tống. Đến lúc này Dương Thu mới vội vàng chạy về Kim Lăng cấp báo.
Lý Dục đang cùng ngồi trong cung cầu phúc cùng các đạo sĩ, biết được tin không khỏi kinh ngạc, lập tức ra chiếu tập trung hết các quan trong triều nghị sự. Mọi người biết tin đều không khỏi bật cười: “Người Tống không biết đặc tính của nước, không biết nước sông tuy hiền hòa mà rất đỗi lợi hại, nếu như bắc cầu nổi trên những con sông nhỏ thì còn dễ, đằng này nước sông chảy cuồn cuộn, xem ra thì vô hại nhưng cả trăm trượng mặt sông như thế, sức công phá cũng không phải nhỏ, mà cầu phao lại dễ bị hủy, dễ gì làm nổi”.
Những đại thần tín cẩn của hắn cũng nói: “Từ trước đến nay chưa từng nghe thấy chuyện tương tự, người Tống quá ư mơ mộng viễn tưởng rồi”.
Lý Dục nghe thấy vậy cũng yên tâm, vui vẻ cười nói: “Đúng vậy, trẫm cũng cảm thấy Triệu Quang Nghĩa quá giỏi giở trò, người Tống ắt hẳn hết kế nên mới dùng hạ sách này. Xem ra trẫm kiên quyết chống chọi với quân Tống
cũng là có kết quả!”
Chương 371:Không một vết tích.
“Trò trẻ con” của Triệu Quang Nghĩa đã thành công. Khi người Tống tập trung hơn tám trăm binh lính lên bãi đầu, Dương Thu, Tôn Chấn đang chuẩn bị bổn cũ soạn lại thì cầu nổi của nhà Tống đã thành công cập vào bên kia bờ. Trên cầu, binh sĩ lập tức đem vô số những cây cọc ngắn dài cắm xuống nước, ngắn dài kết hợp vừa vặn, dùng thêm dây nối, thiết liên… làm thànhià đỡ chắc chắn cho chiếc cầu nổi trên mặt sông Trường Giang cuồn cuộn.
Vô số binh lính nhà Tống đã lăm lăm qua sông.
Quân canh phòng thấy quân Tống đã làm nên kỳ tích, từ một điều ngỡ như không thể lại thành có thể nên tinh thần như chùng xuống, trái ngược với khí thế đang bừng bừng của nhà Tống. Dương Thu, Tôn Chấn tuy gắng gượng chống đỡ nhưng cũng chẳng chống được mấy, sau một thời gian cũng người chết kẻ hàng, kẻ chạy người trốn. Thải Thạch Phàn sa lưới.
Triệu Quang Nghĩa thân mặc áo giáp, ngạo nghễ sải bước qua sông Trường Giang, ngó ra bốn bề xung quanh.
Thuộc hạ của hắn chạy tới hỏi: “Thiên tuế, chúng ta có phải chiếm luôn doanh trại nhà Đường không hay đợi Tào tướng quân đến?”
Triệu Quang Nghĩa cười ngạo nghễ nói: “Binh quý thần tốc, đã qua sông rồi thì cứ đánh thôi. Chiếm lấy Kim Lăng. Thiêu cháy hết doanh trại của bọn lính Đường, hiệu lệnh cho ba quân lập tức lên đường”.
Tên lính nghe lệnh làm theo, để lại một đội binh mã dọc hai bên bờ Trường Giang bảo vệ cầu, còn lại những người khác lập tức tập hợp, không ngừng tiến về phía trước.
Cây cầu nổi này không được đứt, nếu như không có nó thì quân Tống khó lòng qua sông. Trận chiến này chỉ có thắng chứ không được phép bại. Nếu như nhất thời địch mạnh ta yếu, muốn tránh được thương vong là điều không thể. Hơn nữa nhà Đường lại kiên quyết phòng thủ, lương thảo cạn dần cũng nhất quyết thủ trong thành, nếu như cầu mà đứt thì quân Tống cũng chỉ còn nước ôm bụng đói mà đánh nhau. Do đó Triệu Quang Nghĩa tuy vội vàng đánh nhanh thắng nhanh nhưng cũng không dám không coi trọng sợi dây sinh mạng này.
Hắn cho Dương Hải Thanh và Trục Vũ Minh ở lại cùng bọn lính canh giữ cây cầu, còn mình thì đích thân dẫn quân chạy không ngừng về phía trước.
Ngoài thành Vu Hồ, Tào Bân được tin Triệu Quang Nghĩa đã qua được sông và đang thẳng tiến về phía Kim Lăng. Đại tướng Hắc Ân Thành thì không khỏi lo lắng: “Tấn Vương Thiên tuế khinh địch mạo hiểm vào thành, ngộ nhỡ có gì xảy ra thì tướng lĩnh ba quân đi đời mất. Chúng ta không nên ở lại đây nữa, mau nhập hội với Tấn Vương đi thôi”.
Tào Bân trầm ngâm trong chốc lát rồi lắc đầu nói: “Hồ Khẩu mười vạn quân Đường còn đang không chút thương vong, bọn chúng nhất định sẽ đuổi theo. Nếu như ven đường không có quân của chúng ta chặn đánh thì chúng có thể đi tiếp lương thảo, chúng ta sẽ không có đường lui. Tốt nhất là chúng ta cứ tận lực ở đây, còn về phía Tần Vương…”
Tào Bân mỉm cười nói: “Từ sau khi Lâm Hổ tử mất, nước Đường đã mất đi kiện tướng, mà Tần Vương lại là cấm quân tinh nhuệ, dưới trướng ông ấy thì mỗi người đều là bách chiến, gặp phải cường địch nào cũng không cần phải lo lắng”.
Hoắc Ân Thành nhíu mày nói: “Nhưng… chúng ta cứ ở đây không rút binh thì bao giờ mới có thể hợp binh cùng Tần Vương? Như vậy có đi ngược lại kế trước khi quan gia dấy binh chúng ta phải tập hợp vào không?”
Tào Bân cười nói: “Trên chiến trường phải lập tức vạn biến. Ngươi hãy nghe theo hiệu lệnh của ta, lập tức tấn công thành”.
Hoắc Ân Thành không khuyên nữa, chỉ biết nghe theo mệnh lệnh, nhanh chóng chỉ huy quân tiến vào thành.
Tào Bân đứng ở chỗ cao, nhìn xuống thành Kim Lăng, như nghĩ ngợi gì đó rồi lẩm bẩm: “Tần Vương vội gì chứ, đợi không nổi ta sao? Nếu như không muốn đợi ta thì ta cứ thức thời một chút, đợi Tần Vương chiếm được thành Kim Lăng rồi ta sẽ gặp vậy…”
*************************************
Tin Dương Hạo vẫn còn sống đã được Triệu Quang Nghĩa phái người tốc mã cấp báo về kinh thành.
Dương Hạo gặp cơn nguy hiểm mà không chết. Sau khi cuộc tự thuật của hắn được các quan chỉnh lý lại đã tập hợp và báo cáo cả công lao của Nhược Băng, lập tức công lao to lớn này không thể không thiếu hắn được.
Nhược Băng tuy chịu khổ hơn hai năm trời bên bờ sông Trường Giang nhưng giờ thì một bước lên trời, công sức cực khổ hai năm trời cũng không phải vô ích. Cả ngày cứ tỉ mẩn như ong đi hút mật, giờ thì đã có thể suốt ngày ở bên hầu hạ Tấn vương.
Dương Hạo không biết được việc Triệu Quang Nghĩa tự mình báo thẳng tin về kinh, hơn nữa chiến cuộc ở Giang Nam vẫn chưa kết thúc, e rằng quan gia cũng không có lòng dạ nào mà nghĩ về chuyện Bắc quốc, nên hắn tạm thời ở bên cạnh Triệu Quang Nghĩa.
Giang Nam nát vụn, đội quân rã rời, Lý Dục thấp thỏm trong lòng, cố kham đánh một trận nhưng kế kéo dài thời gian chống đỡ cũng đã bị phá sản. Nước Đường bị nước Tống đè bẹp đã là một kết cục tất nhiên. Dương Hạo hiện chỉ hy vọng kết cục này sớm kết thúc. Chỉ cần ở đây một ngày còn là chiến trường thì sẽ càng có nhiều người dân vô tội bị liên lụy, người chết là bách tính trăm họ. Sớm một ngày tiêu diệt nước Đường là sớm một ngày người dân được yên ổn, hắn cũng có thể sớm một ngày quay trở về Biện Lương.
Ở bên Triệu Quang Nghĩa, hắn không hề lãng phí cơ hội tốt này, điều động quân thế nào, tác chiến thế nào, bố trí hành quân thế nào, vận chuyển lương thực ra sao, trấn an lòng quân như thế nào, thậm chí cả các chiến thuật tiến công, phòng ngự hắn đều ra sức tìm hiểu và học hỏi.
Đúc kết kinh nghiệm từ thực tế trực tiếp tốt hơn nhiều so với việc học trong sách vở. Ở bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, xem hắn nghị sự, phát hiệu lệnh, chỉ huy tác chiến qua sông, xem hắn tiếp thu tình hình quân sự, điều khiển chỉ huy chiến đấu, đứng ở chỗ cao mà quan sát toàn cục, càng dễ nắm bắt được rất nhiều chiến thuật.
Trong hoàn cảnh bị buộc phải lựa chọn để đánh Giang Nam, nhưng hắn đã chuẩn bị rất nhiều những điều kiện có lợi ở Tây Bắc, đối với những tiền đồ trước mắt hắn cũng không dám đắc ý. Những cái ở tương lai là những cái chưa biết, dẫu cho có thực lực nhưng những đánh giá khách quan về chuyện được mất trong chiến tranh rồi cũng ghi nhớ mãi trong lòng. Cũng rất hữu dụng nhưng hắn rất hiểu, đó không phải là cách sáng suốt để giành chiến thắng.
Cái mà học giả đời sau hiểu được, thì ở thời đại này người ta có thể thực sự lý giải hay không? Không, họ còn hiểu hơn bất cứ một người nào khác, không một ai có thể hiểu rõ hơn chính kẻ địch của mình, càng hiểu rõ những sở trường và điểm yếu của kẻ địch. Nhưng lý giải và hiểu khoogn có nghĩa là nhất định phải giải quyết, nằm ở muôn vàn điều kiện, họ chỉ có thể khống chế, lựa chọn những cách thích hợp mà không phải là lựa chọn khách quan thích hợp nhất của lịch sử.
Từ sau khi trở thành một phần của lịch sử, trong cái mê cung này hắn chỉ có thể tuân theo hết thảy những nguyên tắc, lợi dụng những điều kiện khách quan ở đây chứ không thể chỉ đạo hành vi của bản thân dựa trên những căn cứ sau này. Huống hồ…người hậu thế đứng ở góc độ tất cả đã xong xuôi để suy nghĩ, những kết luận được đưa ra có phải là khách quan hay không, ai là người đúng nhất? Tất cả đều rất khó nói.
Khi hắn đặt mình trong đó, khi ứng biến với tất cả dựa trên những kinh nghiệm của bản thân, những phản ứng và lựa chọn của đối thủ có thể khiến động tác của hắn thay đổi, thế là dựa vào những đánh giá và lựa chọn của lịch sử khi hắn đưa ra bước đầu tiên thì những kinh nghiệm đó cũng không có tác dụng gì.
Ví dụ như trong lịch sử hắn đã được mất gì đó trong một trận chiến với kẻ địch, sau đó vượt thời gian, tiến vào trận chiến này thì hắn có thể thành thần của cuộc chiến không? Đó chỉ là những hoang tưởng vô tri của thuở nhỏ. Khi hắn bước chân vào cuộc chiến này nếu như không thể chỉ đạo cuộc chiến thì chỉ có thể làm một tấm bia đỡ đạn, dẫu cho hắn có nắm chắc kết cục thì cũng không thể thay đổi được kết quả.
Nhưng nếu như hắn trở thành một chủ soái, hắn sẽ có thể thay đổi được những sai lầm này không? Đối với đối phương còn có cơ hội để đi theo những nguyên tắc này hay không? Đối phương cũng nhờ đó mà thay đổi, thì những thứ mà hắn nắm chắc trong lòng bàn tay cũng vô dụng. Đây giống như một quan sát viên, ngồi dưới võ đài rồi nhìn ngó quan sát hai quyền sư khác. Trên võ đài ai là người thảm bại hắn nhìn rất rõ, cũng có thể phân tích rõ mồn một trong đầu, nhưng để cho thời gian đảo ngược lại, trên võ đài lấy kẻ bại trận thì hắn đã quá lợi dụng rồi.
Từ việc thay đổi đấu pháp, khi chiếm lợi thế từ cú đấm thứ nhất, phản ứng của đối phương cũng theo đó mà thay đổi, tiếp sau đó không thể nào diễn tiến tình hình theo những lý giải trước đó được nữa, trừ phi cú đấm thứ nhất đó khiến đối phương gục ngay tại chỗ, nếu không hắn chỉ có thể dựa vào thực lực mà tiếp tục chiến đấu. Những dự tính ban đầu đã không còn tác dụng, những kế hoạch của hắn dường như đều mất hiệu quả, nếu như hắn vẫn cứ ngoan cố hành động theo những phân tích ban đầu thì hắn sẽ chết một cách còn thảm hơn lúc trước.
Do vậy, hắn phải dốc toàn lực để học hỏi, những dự tính tương lai đã thay đổi, hắn không cách nào có thể đi ngoài quỹ đạo, chỉ có thể dựa vào tài trí của bản thân.
“Đại nhân” Mục Vũ thúc ngựa chạy tới bên cạnh hắn, Dương Hạo khen: “Cấm quân huấn luyện có chất. Ngàn người như một, tiến lên như một tòa thành trì bằng thép đang đi động, quả nhiên rất giỏi”.
“Đúng vậy!” Ánh mắt của Mục Vũ lướt qua đoàn quân trước mặt, hỏi nhỏ: “Đại nhân, nếu như chúng ta có được đất Bắc thì triều đình sẽ có ngày… phát động chiến tranh không?”
“Hy vọng là không, nếu như có, cũng sẽ không đánh đến cùng…” Dương Hạo nhẹ thở dài: “ Nếu như không phải sự đã rồi thì ta cũng không muốn gây chiến với họ. Quân vương muốn thần chết, thần chỉ còn nước chết, ta giả chết để thoát thân cũng là vì mục đích này, tiếc là đã bại. Nếu như sau này… quân bắt thần chết…”
“Vậy đại nhân làm thế nào?”
Dương Hạo trầm mặc trong chốc lát rồi mở miệng cười: “Vậy thì thần cũng không còn cách nào khác, đành bắt vua… chết trước thần!”
Mục Vũ nghe thấy liền nắm chặt đuôi đao, mặt đỏ gay lên nói: “Tiểu nhân xin thề sẽ đi theo đại nhân!”
Phía trước có một người cưỡi ngựa đi tới, Dương Hạo vội nói: “Chớ có lên tiếng”.
Người đó đeo một lá cờ đỏ hình tam giác trên lưng, thúc ngựa đi, lá cờ bay phấp phới trong gió. Vừa nhìn thấy lá cờ đó bọn binh lính vội dạt sang hai bên nhường đường, người kị mã như ngọn gió lốc lướt qua bọn vệ binh, xông thẳng vào chỗ của Triệu Quang Nghĩa rồi mới thắng ngựa. Bước lại gần, hắn quỳ xuống bẩm báo: “Bẩm, phía trước có một đoàn quân Đường đang tiến đến”.
Triệu Quang Nghĩa ghìm cương hạ giọng nói: “Người tới ở phương nào? Có bao nhiêu binh mã?”
Tên kia vội báo: “Trên cờ có thêu chữ Đỗ, xem lai lịch thì chắc là thuộc hạ của quân thiên đức Đỗ Chân, khoảng hơn vạn người”.
Triệu Quang Nghĩa ngửa mặt lên trời cười to: “Chỉ có khoảng hơn vạn binh mã thôi ư, dám đến xin chết à? Ha ha ha, truyền cho ba quân nhanh tiến lên phía trước, san bằng bọn hắn cho bản quan”.
“Thiên tuế xin chậm đã”.
Đoàn cấm vệ quân của đô chỉ huy sứ nghe hiệu lệnh vội chậm bước, đến bên Triệu Quang Nghĩa nói: “Vương gia, đoàn quân của chúng ta mới qua sông, quân sĩ tuy mạnh nhưng thể lực không đủ, tuy là quân ta nhiều hơn chúng nhưng nếu như cương chiến thì cũng bị tổn thất không ít. Nếu như quân của chúng chỉ hơn vạn người mà dám nghênh chiến chúng ta thì hiển nhiên là chúng chỉ biết rằng bị mất Thải Thạch Phàn mà không biết chúng ta có bao nhiêu người đã qua sông, càng không dự liệu được chúng ta không hề nghỉ ngơi gì mà đã lên đường. Nếu đã như thế thì hà tất phải đương đầu, chúng ta chi bằng cứ lùi một bước, mai phục chúng, giết chúng sau cũng không muộn, vừa giảm được số lượng thương vong của chúng ta vừa tránh được cảnh chúng chạy toán loạn bốn phía khó bề truy kích”.
“Ừm.. lời của ngươi nói cũng có lý”.
Sau khi qua sông Triệu Quang Nghĩa đã thấy không còn vội vã nữa, hơn nữa tướng lĩnh cấp cao Lục Diệp Lan cũng là người mà Triệu Quang Nghĩa tin tưởng, lời của hắn lẽ nào lại không được xem trọng. Hơn nữa phân tích của Lục Diệp Lan cũng thấu tình đạt lý, nếu như giảm bớt được thương vong thì chẳng tốt hơn sao?
Triệu Quang Nghĩa lập tức hạ lệnh cho ba quân dừng bước, chạy trở về. Ba mươi dặm phía Bắc từ Thải Thạch Phàn có một cái hồ lớn gọi là Từ Hồ, cách Từ Hồ về phía tây không xa lắm là Trường Giang. Triệu Quang Nghĩa phái quân chặn đầu đoàn quân của Đỗ Chân, còn mình là Lục Diệp Lan dẫn hai vạn binh đến chỗ giữa Từ Hồ và Trường Giang, đợi đội quân giả vờ bại trận quay về, dẫn theo hai vạn người ngựa đến chỗ phục kích này.
Trong bụi cỏ, Dương Hạo nằm sấp ở đó náu mình, đột nhiên nghe thấy một loạt tiếng động ầm ầm, Phàn tú tài bò lại. Dương Hạo lười nhác gọi hắn lại, Phàn Nhược Thủy biết được hắn là tâm phúc của Triệu Quang Nghĩa, lại là bá nhạc của mình nên vừa thấy hắn liền lộ vẻ thân thiết: “Dương tả sứ, mấy ngày nay chỉ thấy Tống quân luyện tập, có thể chinh chiến, nay mới biết danh tiếng không phải là hư. Binh mã nước Tống tướng có mưu, sĩ có dũng, quân nước Đường làm sao mà có thể trở thành đối thủ được? Đỗ Chân chỉ có hơn vạn người, đội quân hơn năm vạn của thiên tuế còn cần phải đánh ư? Chỉ cần lấy số đông áp đảo bọn chúng thì Thiên tuế lại quá cẩn thận như vậy, đội quân như vậy mà không đánh thắng thì còn đánh thắng nổi ai nữa?”
Dương Hạo thấy tên này có chút vô xỉ, bèn cười lạnh mà nói: “Trên chiến trường thì phải có thiên thời địa lợi nhân hòa, cơ mưu, đó là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thắng thua của trận đánh, không phải cứ đông là có thể giành thắng lợi, từ cổ chí kim lấy ́t địch nhiều, thậm chí lấy tám trăm người mà đánh bại đội quân hơn mười vạn người cũng không phải là không có, thiên tuế cẩn thận như vậy là đúng chứ sao”.
Phàn tú tài cười khô nói: “Tả sứ nói đúng, Phàn mỗ không biết dụng binh đã thành trò cười rồi”.
Dương Hạo cười cười, hắn đang nằm chỗ đó đến vô vị, có người nói chuyện cũng hay, bèn nói: “Đỗ Chân là người thế nào? Ngươi có biết không? Binh mã của hắn tuy ít nhưng nghe nói Thải Thạch Phàn bị tấn công liền không nề hà sinh tử mà dẫn binh đến, cũng là một tướng tài hiếm có đấy chứ”.
Phàn Nhược Băng nói: “Tại hạ ở Thải Thạch Phàn đã ba năm rồi, cũng có hiểu đôi chút về tướng lĩnh và nơi trú quân. Mạt Lăng quan có hai tướng cố thủ, một người là Trịnh Ngạn Hoa, là chủ soái của Mạt Lăng quan, túc trí đa mưu, là một nho tướng, dưới trướng hắn có hơn một vạn quân. Còn người kia là Đỗ Chân, là một đại tướng dưới trướng của Trịnh Ngạn Hoa, dũng mãnh thiện chiến, Trịnh Ngạn Hoa phái hắn tới đây hiển nhiên là đã biết rõ Thải Thạch Phàn đã thất thủ, hắn cũng không giữ vững Mạc Lăng quan nữa rồi. Nhưng hắn xuất binh đến giải cứu thế nào đây?”
Dương Hạo cảm khái mà thở dài nói: “Đúng vậy, trên đời này tuy có nhiều việc đã thay đổi nhưng có những việc mà chỉ có một người mới có thể ảnh hưởng tới, cái gì đến sẽ phải đến, vận mệnh của nước Đường đã được định đoạt rồi”.
Phàn Nhược Băng không biết suy nghĩ kỳ quái này của hắn có ở đâu ra, nghe nói thế không hiểu ra sao chỉ biết cười bồi theo một tiếng.
Dương Hạo thay đổi tư thế, thuận miệng hỏi: “Phàn tiên sinh trong nhà có ai?”
Phàn Nhược Thủy than thở: “Song thân phụ mẫu, thê tử con cái đều có, than ôi, ba năm nay Phàn mỗ xa nhà, rời xa vợ con và song thân phụ mẫu, ở lại Thải Thạch Phàn, đúng là hổ thẹn với họ quá. May thay được tả sứ dẫn tiến, Tấn vương ưu ái, Phàn mỗ cuối cùng cũng có ngày xuất đầu lộ diện, những ngày sắp tới có thể báo hiếu cho cha mẹ, đối xử tử tế với thê tử”.
Dương Hạo trêu chọc nói: “Như thế là tốt, Phàn tiên sinh phải ghi nhớ những gì mà phụ mẫu và thê tử bỏ ra vì ngươi mới đúng. Những ngày tới được làm quan to, có ngựa cưỡi, tuy là những điều đang mừng nhưng cũng đừng có mới nới cũ, đừng có là một kẻ như Trần Thế Mỹ bị người đời sau khinh ghét hahaha…”
“Đại nhân chỉ dạy phải ạ”. Phàn tú tài tươi cười hớn hở: “Chỉ là không biết cái tên bị người đời khinh ghét Trần Thế Mỹ đó là vị nào ạ?”
“Haha, người ấy hả, hắn ta là đồng hương của ta… Không phải, không phải…”
Đang muốn lấy lòng Dương Hạo, Phàn Nhược Băng đột nhiên căng thẳng nói: “Đại nhân bảo cái gì không phải?”
“Không phải là không phải, mà là người thủ giữ ở Mạc Lăng quan – Đỗ Chấn có gì đó không phải…”
Dương Hạo nhíu đôi lông mày, suy nghĩ một hồi lâu rồi đột nhiên đứng phắt dậy nói: “Thiên tuế ở đâu, Thiên tuế ở đâu?”
Đang đứng ở chỗ mai phục đột nhiên thấy có người đứng lên, đang muốn quát lớn chợt nhận ra thân tín Tấn vương thiên tuế đang đứng bên cạnh hắn, có vài người nữa không có thân phận gì nhưng cũng đã từng thấy cưỡi ngựa đi bên cạnh Tấn vương, Tấn vương nói chuyện với bọn hắn cũng hết sức hòa nhã, vừa nói vừa cười, lập tức không dám răn dạy mà vội vàng chạy khỏi chỗ ẩn nấp, chạy lại chỗ Thiên tuế đang đứng.
Triệu Quang Nghĩa đang cúi thấp người sau một lùm cây để trông tình hình của địch, Dương Hạo liền vụt xuất hiện sau lưng, đứng bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, dồn dập hỏi: “Thiên tuế, hạ quan đột nhiên nảy sinh nghi ngờ, do vậy nên phải cấp tốc chạy đến bẩm báo. Xin thiên tuế tham khảo”.
Triệu Quang Nghĩa giờ rất khách khí với Dương Hạo, vốn xuất thân đã là quan của triều đình, khi đó lại còn là người được coi trọng. Dù chỉ là đồng hương hoặc là môn đồ của cùng một thầy giáo đã có thể cảm thấy gần gũi mà giúp đỡ lẫn nhau rồi, huống hồ đây là một viên quan trong triều. Hơn nữa Dương Hạo còn đem tấm thủy đồ tới, khiến hắn nhờ đó mà qua sông được nên hắn mới có được chiến thắng đáng mừng này. Khi nghe Dương Hạo nói thế hắn làm mặt ôn hòa mà nói: “Dương tả sứ có gì nghi vấn không tiện nói ra?”
Dương Hạo bèn kể lại câu chuyện hắn mới nghe được từ Phàn Nhược Băng thuật lại, rồi nói: “Thiên tuế, nếu như những tin tức Nhược Băng nghe được là đúng thì Mạc Lăng quan chỉ có hai vạn binh mã, Trịnh Ngạn Hoa liều lĩnh phái một nửa số quân đến thật khiến người ta nghi ngờ. Thiên tuế nghĩ xem, Trịnh Ngạn Hoa túc trí đa mưu như thế làm sao có thể dễ dàng để cho người ta biết rõ hắn có bao nhiêu binh mã? Mà thông tin về hai vạn quân đóng tại Thải Thạch Phàn bị tiết lộ thì ắt hẳn hắn cũng đã biết. Chúng ta là bên tấn công, binh lực ắt hẳn là nhiều, Trịnh Ngạn Hoa làm sao có thể yên tâm mà phái một nửa số quân của hắn đi như thế? Chắc chắn là có thể thu phục Thải Thạch Phàn hay sao?”
Ánh mắt Triệu Quang Nghĩa chợt lóe lên, mặt dần dần sầm lại.
Dương Hạo nói: “Mạc Lăng quan không phải là nơi khó tấn công, đến Phàn Nhược Băng một kẻ không biết gì về binh mã còn hiểu được việc Thải Thạch Phàn bị mất, Mạc Lăng quan căn bản không có nguy hiểm và có thể thủ, chắc chắn bị mất. Trịnh Ngạn Hoa không biết ư? Hắn tập trung toàn bộ lực lượng tử thủ, hoặc là muốn vứt bỏ cả thành mà chạy trốn, hoặc là khuynh sào xuất động, cứu lấy Thải Thạch Phàn, vốn binh lực yếu kém mà còn phân ra như thế, đó là cách làm của một tướng giỏi túc trí đa mưu đó ư?”
Ánh mắt Triệu Quang Nghĩa lóe lên không ngừng, rồi hắn trầm giọng hỏi: “Vậy Dương tả sứ cho rằng hắn có ý đồ gì?”
Dương Hạo trầm giọng nói: “Mạc Lăng quan có đến một nửa là thủy binh, một nửa là bộ binh, đều là nhưng lực lượng mà Đỗ Chân dẫn đến nghênh chiến với chúng ta, vậy một nửa số thủy binh đến nay vẫn còn ở Mạc Lăng phải không?”
Triệu Quang Nghĩa biến sắc, nói từng chữ từng chữ: “Dương đông kích tây, muốn phá hủy cầu phao của ta ư?”
************************************
Triệu Quang Nghĩa dụng binh tuy không được như các lão tướng Tào Bân, Phan Mỹ, nhưng sát phạt quyết đoán, cũng có phong thái của một tướng lĩnh. Những nghi ngờ của Dương Hạo tuy chỉ là có khả năng, nhưng Triệu Quang Nghĩa không dám coi thường, lập tức chia một vạn binh ra lệnh cho Dương Hạo và Nghiêu Lưu dẫn cấm vệ quân lập tức quay về Thải Thạch Phàn.
Nghiêu Lưu vẫn còn rất trẻ, cơ thể cường tráng, ánh mắt cương nghị, trông có vài phần có cái thần vận giống như La Khắc Địch
Nơi này cách Thải Thạch Phàn không xa, hai người vội vã dẫn binh quay lại, khiến Dương Hải Thanh và Trúc Vũ Minh không khỏi giật mình, còn tưởng rằng Tấn vương chưa chi đã bại trận nhanh như vậy. Vừa nghe thấy Dương Hạo nói, hai người vội cẩn thận cảnh giác, vội chèo những chiếc thuyền của nhà Đường ra xa, bố trí quân cảnh giác đi men theo Trường Giang.
Thuyền chiến của quân Đường đều rất sắc bén, nếu như chúng chủ động xuất kích thì chiến cục cũng chẳng có ngày hôm nay, tiếc rằng chúng đã sớm khiếp sợ uy phong của nhà Tống, lại có kế vườn không nhà trống của Lý Dục, kiên quyết cố thủ, tuyệt đối không chủ động xuất binh nên hôm nay mới thất bại.
Từ xa xa nơi bóng chiều quả nhiên có một đoàn quân đang giương buồm đến. Quân Tống hai bên bờ sớm đã chuẩn bị nên lập tức vào thế sẵn sàng chiến đấu, giương cung, đội thuyền chiến mười mấy chiếc tiến lên phía trước, bên trên chất đầy củi và cỏ, chi cần đợi thuyền của địch đến thì sẽ đốt lửa cho thuyền chạy về hướng địch. Tuy những con thuyền không thiện chiến nhưng hai bên bờ đã có cung thủ hỗ trợ, sẽ tập trung hết thuyền chiến lại với nhau, chuẩn bị một trận sống chết để bảo vệ cây cầu.
Người tới quả nhiên là Trịnh Ngạn Hoa. Hắn sai cấp dưới là Đỗ Chân dẫn binh đi giương đông kích tây, còn mình thì đích thân xuất binh, mục đích là muốn phá hỏng cây cầu phao này. Cây cầu này rất quan trọng, chỉ cần phá được cầu thì quân Tống sẽ hết đường lui. Có cây cầu, bọn chúng có thể đem vô số quân đến đây, vận chuyển lương thực đến cho quân Tống, bọn chúng lại hùng dũng tiến bước mà không phải lo nghĩ, thế nên nhất định phải đánh sập cây cầu, bất kể có phải trả giá gì đi chăng nữa.
Khi hắn vội vàng tới, hai bên bờ cung tên bắn ra như mưa, trên mặt nước có mười mấy chiến thuyền cháy rừng rực lao đến, quân Tống đã sớm dự liệu nên trận đánh lén đã biến thành một trận địa chiến. Lúc này, quân của Đỗ Chân hơn một vạn quân đang thảm bại mà chạy tán loạn, cho quân Tống thuận lợi xiết chặt vòng vây.
Lúc này đây, ngọn cờ giương cao, pháo hiệu n̉ liên hồi, phía Tây có Trường Giang, phía Đông có Từ Hồ, phía Nam là Lục Diệp Lan, Triệu Quang Nghĩa đang cắt đứt hết đường tháo lui của hắn, đánh cho hắn không còn lối thoát.
Chương 372:Vây thành.
Nói thực, Đỗ Chân thực là một viên mãnh tướng, nhưng nếu như bàn về dũng mãnh, quân Đường tuyệt đối sẽ không thể so sánh được với quân Tống, thêm nữa sự gia tăng binh lực còn kém xa, tiến vào vòng vây, nhân mã của hắn lập tức bước vào trận chiến gian khổ, bị bên quân Tống giết hại.
Đỗ Chân không phá vây ngay lập tức, cho dù sự dũng mãnh của quân Tống, hắn lập tức phá vây chưa chắc đã thành công, nhưng hắn đến thử cũng không dám làm, vì hắn cần tranh thủ thời gian cho tuyến binh mã Trịnh Ngạn Hoa, dù toàn quân bị diệt đi chăng nữa, chỉ cần chủ soái Trịnh Ngạn Hoa có thể hủy được cầu nổi của người Tống thì cũng xứng đáng. Hủy bỏ cầu nổi, người Tống lại muốn vơ vét vật tư để làm cầu mới, lại còn cần thời gian mấy ngày, thời gian vàng bạc mấy ngày ấy, chỉ cần quân Đường nắm bắt được thời cơ cuộc chiến, tập trung các lộ binh mã tấn cong và tiêu diệt thì có thể xóa bỏ quân xâm lược.
Mà cái sự tính toán này, bọn họ thậm chí còn không kịp báo cho Kim Lăng, hôm nay quả nhiên đã ứng chiến, là sự bàn bạc của Trịnh Ngạn Hoa và cá nhân hắn, sứ mệnh của họ chỉ như con thiêu thân mà thôi, liều chết lao vào đám lửa hoàn thành sứ mệnh, còn về triều đình có nắm bắt được thời cơ cuộc chiến hay không, thì các quan văn võ trong triều phải tự phán đoán, hoặc là họ sẽ vứt bỏ cái cơ hội khó có được này, vẫn cứ chờ đợi một cách bị động co rút thành trì, nhưng đó đã không phải là chuyện mà hắn có thể hao tâm nữa, hắn là người Đường, là một viên Đường tướng, hắn tự biết thân phận của mình, chết không uổng.
Đỗ Chân quyết tâm chết để làm một mồi nhử khi nước gặp nạn, thấy bị chủ lực quân Tống bao vây không sợ hãi, mà hắn còn lấy làm mừng, hắn chỉ huy một bên kháng lại, một bên thì chuyển dời số lượng nhỏ của Triệu Quang Nghĩa, làm ra cái tư thái phá vây, cố gắng lôi kéo quân chủ lực quân Tống, vì chủ soái Trịnh Ngạn Hoa mà chiếm lấy thời gian vàng ngọc.
Chiến hạm của Trịnh Ngạn Hoa còn chưa đến bên cầu phao, liền gặp một trận mưa gió rền dữ, mỗi chiến hạm đều bị cắm đầy tên, chưa giao chiến mà đã thiệt nhân mã, lập tức có mấy chục hỏa thuyền phong tỏa mặt sông đại giang, đánh tới chiến hạm không hề nể nang.
“Tướng quân sớm đã có sự chuẩn bị!”
Trịnh Ngạn Hoa giật mình, lập tức nhìn về phía cột buồm xa xa rồi lại quay về phía binh sĩ hô: “Đã phát hiện ra quân Tống, tướng quân Đỗ Chân đã bị bao vây”.
Mặt Trịnh Ngạn Hoa biến sắc, tập kích bất ngờ, tập kích bất ngờ, công kích chưa có chuẩn bị mới gọi là tập kích bất ngờ, không thể ngờ kế giương đông kích tây này lại dễ dàng bị quân Tống phá được, xem ra, quân Tống sớm đã đoán được sự đến của hắn, hắn còn có thể đắc thủ sao?
Trong lòng tràn ngập hi vọng mình có thể dựa vào kỳ quân mà có được kết quả kỳ diệu, thật không ngờ Triệu tiết độ lại bị rơi vào nơi đáng hối hận, nhìn thấy hỏa thuyền lái tới bị thu, rồi hàng loạt tiếng hò reo ầm ĩ của người Tống càng ngày càng gần hắn, Triệu đại tướng quân quả nhiên đưa ra quyết định: “Đi!”
Một mũi tên chưa được bắn ra, vài huynh đệ đồng đội lấy tính mạng làm mồi nhử và Triệu tướng quân tung hoành đại giang giỏi thủy chiến đã tiền đội biến thành hậu đội, hậu đội biến thành tiền đội, dựa vào tốc độ vô địch, triển khai thủy quân đã được huấn luyện nghiêm chỉnh của hắn rat rước mặt quân Tống, sự cao siêu của việc điều khiển thuyền, trước khi hai quân giao đấu, họ bỏ trốn mất dạng.
Dương Hạo và Nghiêu Lưu bất chấp khó khăn chỉ huy cấm quân chiến sĩ đã từng được huấn luyện vội vàng và sơ lược biết cách điều khiển thuyền, một nửa lưu động nhờ vào lực nước Trường Giang, đi từ từ tiến về phía quân địch, do tốc độ thuyền chậm, các binh sĩ dùng lực ở hai bả vai dùng để gõ trống trận, tiếng trống gõ vang, sau đó họ thấy quân địch đến trước mặt và kỹ thuật điều khiển thuyền thành thạo liền xoay thuyền lại, sau đó lướt trên mặt nước như bay, nhanh đến mức chúng muốn đuổi cũng chẳng thể đuổi được.
Đội quân như vậy, làm sao có thể thất bại!
Dương Hạo thầm than thở, hắn giờ đã hiểu, sự nhanh và mạnh của con bướm nhỏ đập cánh, thế giới này đã có sự thay đổi rất mạnh mẽ, sự thay đổi này đã đủ để ảnh hưởng tới rất nhiều đại sự của lịch sử, nhưng có vài thứ không phải hắn có thể thay đổi được, thực lực quân sự, cục diện chính trị, nhân tính,……
Quân Đường nhiều năm gom góp, một quốc chúa đùa gió trêu trăng, trước mặt quân Tống, căn bản chẳng có sức mà kháng lại, vị tướng như Lâm Hổ Tử vẫn còn sống thì đã không ra nông nỗi này, song giờ hắn chẳng qua kéo dài vài ngày, để Đường Quốc kéo dài hơi tàn vài ngày, chẳng có ai giúp được Lý Dục, đến thần Phật cũng đành bất lực.
Đỗ Chân toàn thân nhuốm máu đứng ở trên cao nhìn xuống phía Thái Thạch cơ, nhìn về phía cột buồm di động, đã hiểu được kế hoạch tập kích đánh úp bị thất bại, nhân mã của Triệu soái bị hủy nhanh như vậy, sợ…sợ rằng chúng căn bản chưa từng giao đấu với quân Tống, hắn trở thành một binh tốt vô dụng bỏ đi, tất cả những cái đã có hy sinh hết sạch.
Đỗ Chân buồn bã, tình hình giờ hắn báo quốc, chỉ có thể một đường sinh nào đó cấp dưới thề sống chết, Đỗ Chân dẫn thân binh vệ đội đến ngăn chặn đường lui của Triệu Quang Nghĩa, vì các huynh đệ đồng chí mà giành lấy con đường sống, hắn dùng máu thét ra lệnh lập tức phá vây, còn mình thì dẫn thân binh vệ đội thắt cổ phải trái, đảm bảo lỗ thủng sẽ không bị quân Tống lấp kín.
Triệu Quang Nghĩa phân một nửa quân để Dương Hạo dẫn binh, kết quả cuộc ẩu đả liều chết của Đỗ Chân bị hắn phá ra một lỗ thủng, không khỏi vừa giận vừa sợ, Triệu Quang Nghĩa cũng không kiềm chế được, lập tức mặc giáp lao vào đoàn chiến, cầm lấy một cây côn thép, lao về phía Đỗ Chân, thân binh bên cạnh sợ hắn gặp nguy hiểm vội bảo vệ bên cạnh hắn, Triệu Quang Nghĩa cầm thanh côn khí thế hừng hực, đằng đằng sát khí lao đến.
Máu nhuốm đỏ chiến bào của Đỗ Chân, tay cầm cây thương, máu tươi chảy theo cây thương, đang cố gắng ngăn cản sự tấn công mãnh liệt của quân Tống, Triệu Quang Nghĩa đến, hét lớn một tiếng, tay cầm côn thép vung mạnh về phía Đỗ Chân.
Đỗ Chân còn chưa kịp nhìn xem đó là ai thì nghe thấy một tiếng sét đánh ngang tai, tiếng côn đập trúng vào đầu, Đỗ Chân lập tức giơ vai lên chặn ngang hét: “Khai”.
Tiếng “Keng” phát ra, thương côn tương giao, trường thương hơi cong, sau đó lại thẳng lại, hai vai Đỗ Chân run rẩy, bàn tay cũng run lên, không khỏi thầm giật mình: “Tên này là tên nào, côn mạnh quá”.
Chiếc côn kia văng ra, đại hán mặc giáp cầm côn xoay người, đứng ở phía không xa mượn thế lại tiếp tục đánh xuống, không để cho hắn có thời gian thở, trước sau phải trái Đỗ Chân toàn là người, muốn xê dịch cũng khó, đại thương không kịp đánh trả lại quân địch, dưới tình thế cấp bách chỉ có thể đưa ngang cây thương ra đỡ.
“Haiizzzz”. Côn thứ nhất vừa đỡ được thì côn thứ ba lại bổ tới, chỉ nghe thấy tiếng “Răng rắc”, đại thương trong tay Đỗ Chân không ngăn được lực cực mạnh từ cây côn thép bổ tới, thương gãy, tiếng côn giáng mạnh bổ vào đầu Đỗ Chân, máu tươi tóe ra, cây côn của Triệu Quang Nghĩa dường như bổ một mạch xuống dưới bụng.
Triệu Quang Nghĩa thu côn lại, nhìn đám quân Đường bỏ chạy, gằn giọng hét lớn: “Năm vạn giết một vạn, còn để chúng bao vây, bổn vương còn mặt mũi gì nữa? Đuổi theo!”
****
Dương Hạo thu thập tình hình của Thái Thạch cơ, dặn dò các thủ tướng men theo sông lập trạm canh gác ngoài ba mươi dặm, lúc này mới huy quân đến giúp Triệu Quang Nghĩa, đợi hắn đến, Triệu Quang Nghĩa đã đích thân dẫn đại quân đuổi theo giết quân Đường, bộ đội đến sau thu dọn chiến trường, Dương Hạo hỏi rõ chuyện gì đã xảy ra, lập tức đuổi theo hướng Triệu Quang Nghĩa.
Quân Đường tháo chạy về phía thành Đương Đồ gần đó, Đương Đồ là một tòa thành nhỏ, không có đại quân bảo vệ xung quanh, đợi họ chạy đến Đương Đồ, thấy truy binh vẫn bám riết không tha. Tòa thành nhỏ không chống lại được, nên lại phải liều mạng bỏ chạy, quân Tống lao vào thành, bắt đầu cuộc đánh giết mới.
Khi Dương Hạo đuổi đến nơi, chỉ thấy lửa chiến hừng hực trong thành, gian dâm, bắt người cướp của, người dân bị giết trong tay không có mảnh vũ khí đâu đâu cũng thấy, binh sĩ bị giết thậm chí đến cái chùa chiền cũng không bỏ qua. Tuy nói người Tống tín Phật khá đông, nhưng người không tín Phật cũng có. Trước đây Sài Thế Tông diệt Phật, lệnh phá hủy các pho tượng Phật, các sư tăng hoàn tục giờ rất nhiều đã làm quân quan hạ cấp trong quân, họ bất kính thần minh, lâm nguy mang theo đồ châu báu trốn vào trong chùa miếu, dân chúng coi chùa miếu ấy thành nơi bảo vệ cũng bị cướp bóc trắng trơn, cô gái nào có chút nhan sắc cũng bị cưỡng trước Phật đường.
Dương Hạo vừa kinh ngạc vừa tức giận, thấy binh sĩ như bọn thổ phỉ, làm các nơi tan tác, muốn ngăn lại cũng không đủ sức, đành tức giận lao đi tìm Triệu Quang Nghĩa.
Khi Dương Hạo gặp Triệu Quang Nghĩa, phẫn nộ bẩm: “Thiên Tuế, vương sư quân Tống ta tới Giang Nam, tên cần thảo phạt là Đường chúa, còn dân chúng kia, vài ngày nữa cũng sẽ trở thành con dân Đại Tống cả, sao lại để binh như đám thổ phỉ, tùy tiện bắt người cướp của thế kia”.
Triệu Quang Nghĩa không cho là đúng, mỉm cười nói: “Bổn vương đã sớm hẹn với tam quân, nếu tam quân dũng mãnh tấn công, được một thành thì có thể bắt người cướp của, giờ quân ta phá được Thái Thạch cơ, diệt được Đỗ Chân sở bộ, ai nấy đều thiện chiến không sợ chết, ta nên khao thưởng chứ, bổn vương há có thể thất tín với tam quân?”
“Thiên Tuế, thảo phạt Đường Quốc, dân chúng nào có tội tình gì, nhìn thấy bọn họ phải chịu oan ức, Thiên Tuế cũng chịu được sao?”
Triệu Quang Nghĩa cười ha ha nói: “Hiền thì không nắm binh, mà chẳng lẽ không quan tâm đến tài của. Dương tả sứ há có thể có lòng dạ đàn bà như vậy? Thê thiếp ngươi chết thảm ở Đường Quốc, lẽ nào không hận bọn Đường, sao lại xin tha mạng thay chúng vậy?”
Dương Hạo chắp tay nói: “Dương Hạo có hận, song không muốn tội tình đến với dân chúng vô tội, nếu binh sĩ mà như thổ phỉ, mất đi niềm tin của con dân Giang Nam, quân dân Giang Nam khó bảo đảm không dẫm vào vết xe đổ của người Thục. Mất đi thành an dân, quân kỷ nghiêm minh, thì sao có thể lấy được lòng dân?”
Triệu Quang Nghĩa dung túng cho bộ đội sở thuộc, còn khích lệ tam quân thề sống chết cống hiến, cũng là có ý tự làm ô nhục, đồng thời quân quyền trong tay, chiến công của bản thân nhuốm tì vết, đây là quyết định sớm định ra ở bờ tây Trường Giang, lời khuyên của Dương Hạo đương nhiên là không có tác dụng gì.
Nhưng hắn giờ vô cùng nể trọng Dương Hạo, kế giương đông kích tây của người Đường bị phá công là ở Dương Hạo, hắn cũng không muốn chỉ biết mình, mục đích hiện giờ đã đạt được, hắn cười tỏ vẻ biết thời biết thế nói: “Nếu trong thành không gặp chống cự, bổn vương còn cần phải hạ lệnh giết hại dân trong thành ư, Dương tả sứ có tấm lòng nhân hậu, song không thích hợp là người dẫn binh, thôi, bổn vương nể tình ngươi, thu binh là được chứ”.
Quân Tống tuy khi đánh cướp như thổ phỉ, nhưng cuối cùng quân đội cũng có quân kỷ nghiêm minh, gọi một tiếng lập tức về đội, Dương Hạo dẫn người dập tắt ngọn nửa ở các nơi trong thành, sau đó mang theo thân binh đi vòng xem nơi này một lượt, thấy Bích Túc và Thủy Nguyệt tiểu sư thái đã không còn ở đó, lúc này mới yên tâm.
Dắt ngựa quay trở về, nhìn thấy khắp nơi bị phá, chiến hỏa la liệt, Dương Hạo không khỏi tức giận, nhưng cũng không biết làm thế nào. Cng với chiến loạn, tai ương đều là dân chúng chịu, cái gọi là nhân nghĩa chỉ tồn tại ở trong thần thoại sách sử.
Cái gọi là sự khác biệt giữa vương giả và quân đội khác cũng có ít thôi, lúc đó kiêu căng, dân chúng thường chịu sự chỉ huy của mình. Dương Hạo bùi ngùi thở dài: “Một ngày kia ta là soái thống binh cũng sẽ thạo thành sự lưu lạc của vô số người sao?”
“Nhưng ý chỉ của thống soái, phá bỏ chiến thời, xây lại sau chiến tranh có ảnh hưởng rất lớn. Cái gọi là không phá mà xây, máy móc chiến tranh nắm trong tay ta, còn hơn rất nhiều những cái có trong tay Lý Thị. Nếu không thể từ chối sứ mệnh lịch sử này, ta sẽ thử đi đón nhận nó.
Trận chiến Giang Nam này, là binh lính khó ta thống binh trước, cũng sau chẳng mấy thời gian, ta sẽ đích thân ra trận, cầm cung, cưỡi ngựa, dấy lên chiến trận ở tây bắc, hoặc là, ta sẽ trở thành một kẻ bại trận, hoặc là sẽ trở thành vương tể tây bắc. Chiến công, hậu nhân bình luận, lịch sử sẽ viết tên ta vào sử sách hay không đây?”
*********
“Sau trận chiến này, ta sẽ ghi danh sử sách!”
Triệu Quang Nghĩa ghìm cương ngựa, đắc ý nhìn bờ sông đối diện.
Cục diện đang phát triển có lợi cho bên quân Tống, Võ Ninh Khiêm đô giam nhân mã Hoàng Châu lục tục qua sông, tấn công chiếm Phàn sơn trại; hành doanh tả sương chiến trạo đô giam điền Khâm Tộ dẫn quân phá Lật Thủy( thuộc Giang Tô – TốNG QUốC), tấn công quân Nam Đường, giết đô thống Lý Hùng, mà Triệu Quang Nghĩa thì đích thân dẫn chủ lực lao tới Kim Lăng, sau đó Tào Bân kịp thời đuổi tới phối hợp với Triệu Quang Nghĩa.
Lý Dục vội vàng triệu tập thủy quân hơn mười vạn người trên sông Tần Hoài, dựa vào thành Giang Ninh để lập thế trận phòng thủ, đúng, phòng thủ vẫn là phòng thủ.
Triệu Quang Nghĩa hăng hái đối diện với đối thủ xác định mình trong một cái vòng không thể vượt qua, trận này đánh thoải mái vô cùng.
Triệu Quang Nghĩa ghìm ngựa đứng ở bờ sông, bên cạnh là giáp sĩ san sát, phía sau là quân đội đông nghìn nghịt. Bờ đối diện, quân Đường sẵn sàng chờ đón quân địch, đội hình san sát nhau đang ở tiền quân tiến hành điều động, như mạch nước ngầm lưu động. Song phcó mấy chục vạn quân, song lại lặng ngắt như tờ, chỉ có tiếng bước chân vang lên, tiếng trống khiến lòng họ chợt động, không khí bị áp lực ở quân mã, bộ quân và thủy quân Tống, đại quân hai bờ sông lưu động.
Dương Hạo cưỡi trên yên ngựa, lặng lẽ nhìn cục diện đôi bờ. Hắn qua một lượt thấy cục diện mấy chục vạn đại binh ở bờ đối diện, lần đó, song phương đều đã sẵn sàng, thống soái tam quân là nhất đế nhất hậu, giờ bên cạnh hắn hoặc sẽ nhận Hoàng đế của Tống Quốc, mà Hoàng đế bờ đối diện vẫn tránh ở trong đại viện thâm cung thành Kim Lăng không lộ diện, nhưng mà khí thế lần này căng thẳng vì đây là cuộc chiến then chốt của vệ quốc và diệt quốc.
Lần đó, hắn là một vị khách; Lần này, hắn là người xem, lần sau thì sao đây?
Tào Bân và Lý Hán Quỳnh đang một tả một hữu, điều động thủy binh, như một mỏ cặp, kìm chặt quân Đường, sau khi họ lay động trận thế quân Đường, Triệu Quang Nghĩa sẽ có thẻ phát động tổng tấn công, vừa mới phá hủy mười vạn đại quân, nhưng Triệu Quang Nghĩa không thích cách đánh này, giờ, người người theo dõi, hắn là thống soái tam quân, lẽ ra nhất mã đương tiến, há có thể bị người ta đoạt mất danh dự?
Hắn từ từ giơ roi ngựa lên, tam quân nín thở nhìn theo động tác của chủ soái, Triệu Quang Nghĩa vung roi giục ngựa, hét lớn: “Toàn quân, tấn công!” Câu vừa nói, chiến mã tiến về nước sông phía trước.
Dũng sĩ trái phải ngẩn người, lần lượt giục ngựa xông về phía trước, hò la phi về phía nước, mùa đông rét buốt lao vào nước để tấn công, thủy sư điều binh thấy chủ soái phát động, bất chấp trận hình tấn công có lợi nhất, lập tức tập trung vào chiến đấu. Triệu Quang Nghĩa lớn tiếng dọa người, làm tam quân Đường Quốc khiếp sợ, chúng vọi vàng phản lại.
Kim Lăng bảo vệ chiến, phát hỏa rồi.
Trận chiến này rốt cuộc thắng thế nào, người trong cục diện không thể nhìn rõ, Dương Hạo chỉ là bị động theo bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, thúc ngựa, qua sông, trận địa địch, Triệu Quang Nghĩa dùng kiếm của hắn chém quân địch nghênh diện, tay cầm côn thép, sát khí đằng đằng đích thân lao về phía quân địch, tiếng chém giết, toát mồ hôi ra toàn chiến giáp, khi nghe thấy tiếng hét: “Người bắc rất mạnh, không thể địch lại được, mau lui, trở lại vị trí thủ thành!”
Tiếng hét inh tai nhức óc, quân Đường lập tức binh bại như núi đổ, quân Tống được họ cuốn theo, vừa đuổi vừa giết, sau khi vô số tử thi quân Đường nằm xuống, tàn binh thì rút vào trong thành, thế là…quân Tống thắng.
Hoàng Phủ Kế Huân cũng không biết quân Đường bại như thế nào, hắn quăng mũ cởi giáp trốn vào trong thành, kinh hồn bạt vía ngồi ở ghế, một lúc sau mới hoàn hồn. Hắn quan thần vệ thống quân đô chỉ huy sứ là đại tướng của Đường Quốc, nhưng hắn chưa bao giờ khuếch trương thanh thế, trong vạn mã thiên quân, mỗi một sự mãnh liệt đều mất đi vô số tính mạng, giống như nhành hoa bị chặt đứt.
Hắn được thân binh liều mạng che chở, trong mắt hắn tràn ngập bóng hình của quân Tống, tai dường như còn nghe được tiếng la hét của quân Tống, cuối cùng, hắn cảm thấy không thể đánh tiếp được nữa, nếu có đánh tiếp thì quân bảo vệ Kim Lăng sẽ bị tiêu diệt toàn bộ, hắn nhất định phải làm được gì đó cho triều đình, thế là hắn hét lớn: “Người bắc mạnh lắm, không địch lại được…”
Sự thực đã chứng minh hắn đúng, quân Đường quả nhiên đã bị đánh bại.
*****
Đêm đến gió bắc mang theo luồng không khí lạnh tràn vào toàn thành Kim Lăng.
Trong cung của Lý Dục, nội thị, quan nhân bước đi lại vội vàng, vẻ mặt vô cùng lo lắng, tin tức về mười vạn đại quân đã bị bại họ đã biết, Lý Dục ngồi đần ra ở trên ghế, tay buông thõng, lạnh ngắt.
Hơn mười vạn đại quân tham chiến bị rơi vào kết cục ấy, hắn đâu phải có trái tim băng giá. Quân cảm tử chết ở chiến trường, Lý Dục đến giờ vẫn chưa hiểu mười mấy vạn đại quân sao lại bại được, lẽ nào trời trừng phạt mình? Nếu không, mười mấy vạn đại quân sao có thể bại một cách dễ dàng như vậy? Tiểu sư phụ thần thông quảng đại tại sao lại không cáo mà từ biệt?
Lý Dục đăm chiêu, vẻ mặt vô cùng khó coi.
“Bệ hạ, Trần Kiều, Từ Huyễn cầu kiến”.
“Mau, mau mời vào”. Lý Dục giật mình, giờ nếu như có ai đó hiến kế, hắn chắc chắn sẽ nghe theo.
Trần Kiều vừa gặp Lý Dục, phẫn nộ nói: “Bệ hạ, hôm nay quân ta thảm bại, thần vệ quân đô chỉ huy Hoàng Phủ Kế Huân lâm trận bỏ chạy, khiến nhuệ khí tam quân bị mất sạch, bệ hạ không trảm tên này để lấy lại nghiêm pháp, thì ý chí tam quân sẽ mất, không thể chiến đấu được nữa”.
“Lý Dục giật mình nói: “Cái gì? Hoàng Phủ Kế Huân? Hoàng Phủ Kế Huân thẳng thắn vậy, sao…sao lại…?”
Trần Kiều tức giận giậm chân nói: “Bệ hạ, Hoàng Phủ Kế Huân chỉ có trung dũng một nửa thôi, hơn mười vạn đại quân bối thành, tấn công cái là quân Tống phải tan rã”.
Trần kiều thuật lại chuyện Hoàng Phủ Kế Huân lâm trận cởi giáp và câu nói ‘người bắc mạnh lắm, không thể địch lại’ cho Lý Dục nghe, rồi lại nói tiếp: “Hắn còn xứng đáng là thần vệ quân chỉ huy sứ Trịnh Bất Phàm nói với thần rằng, khi đó hắn đứng gần bên trái Hoàng Phủ Kế Huân, Hoàng Phủ Kế Huân nói vậy xong liền quay đầu bỏ chạy, tam quân mất đi nhuệ khí, thất bại thảm hại.
Trịnh tướng quân còn nói, Hoàng Phủ Kế Huân sợ hãi quân Tống, nói là người Tống không thể địch lại nổi, khi nghe tin quân ta bị bại, còn nói là ‘người bắc mạnh lắm, ngoài người Đường ta có thẻ địch lại, giờ thì sao? Hắn là thần vệ quân đô chỉ huy sứ, chủ tướng oai phong vô cùng, chưa chiến đã nghĩ đến bại, quân ta sao lại bại chứ?
Chiến bại ngày hôm nay, Trịnh tướng quân đi gặp Hoàng Phủ Kế Huân, nói quân Tống có chiến thắng mới, binh lính kiêu ngạo vô cùng, tất sẽ sơ hở phòng bị, binh sĩ cảm tử có thể đêm hôm tập kích doanh trại địch, không ngờ Hoàng Phủ Kế Huân nghe vậy sợ hãi, phản đối và quát Triệu tướng quân, Triệu tướng quân hơi cãi lại, hắn bèn thẹn quá thành giận, trách Triệu Bất Phàm làm nhiễu loạn lòng dân, lệnh thân binh trói hắn lại, quất cho vài roi, Trịnh tướng quân vô cùng phẫn nộ, lúc này mới đi báo với thần, nếu không…thần cũng giống như Bệ hạ, chẳng hay biết gì”.
Lý Dục nghe vậy tức giận run người, không kiềm chế được quát: “Người đâu, người đâu, nhanh chóng đưa Hoàng Phủ Kế Huân lại đây chịu tội! Lập tức cho hắn vào ngục!”
Nội thị vội chạy đi truyền chỉ, Lý Dục nói xong ngồi sụp xuống ghế, lẩm bẩm: “Giờ…quân Tống đã hưu binh Kim Lăng, Trẫm…Trẫm phải làm gì đây?”
Từ Huyễn liền an ủi nói: “Bệ hạ, các châu phủ được triều đình ta cai quản, mười vạn thủy quân Hồ Khẩu không bị đả thương, tuy sự việc xảy ra thế này, chưa chắc đã không có cách giải quyết, b chớ nên nổi giận”.
Lý Dục trừng mắt nói: Tình hình hiện nay, Trẫm có thể làm được gì chứ?”
Trần Kiều nói: “Thần và Từ đại nhân đã bàn bạc với nhau, thần cho rằng, bệ hạ đã diệt trừ gian nịnh, quân dũng mãnh thiện chiến, quân thủ thành trì, binh sĩ không đủ sao, có thể đưa thanh niên trai tráng tập trung lại thủ thành; Đồng thời phái người phá vây ra, viện trợ cho mười vạn đại quân Hồ Khẩu, thêm nữa hạ thánh chỉ, kêu gọi các châu phủ giúp đỡ, nội ngoại hợp tác, cái nguy của người Tống chưa chắc đã không giải được”.
Lý Dục tuyệt vọng nói: “Triệu Quang Nghĩa giương giương mắt hổ dưới thành, hắn há có thể để Trẫm phòng bị?”
Từ Huyễn bước đi thong thả, thản nhiên nói: “Thần nguyện vì bệ hạ mà làm sứ giả, kéo dài thời gian bên quân Tống”.
“Từ Huyễn? Không gặp, nếu cần bổn vương hưu binh, ngoài Lý Dục phơi thịt ra xưng hàng với bổn vương ra, Từ Huyễn đến làm cái gì? Bảo hắn về đi”.
“Từ đã!”
Tào Bân tiến lên phía trước nói: “Thiên Tuế, Lý Dục không hàng, lại còn đưa sứ giả tới, danh nghĩa là cầu hòa, thực chất là kéo dài thời gian ra. Đại quân triều đình gặp tình thế hết sức nguy ngập, đương nhiên không thể đồng ý điều kiện gì của hắn, nhưng thành Kim Lăng tường dày, dễ thủ mà khó công, nếu như để hắn nghỉ ngơi vài bữa, khí thế quân thủ trong thành mất đi, là có lợi với chúng ta. Hơn nữa, nhất lộ tấn công của quân ta chiếm Kim Lăng, các thành trì Giang Nam vẫn nằm trong tay Lý Dục, Hồ Khẩu càng có mấy vạn đại binh chờ lệnh, nếu đi đánh, khó tránh khỏi điều động binh lực, giờ nếu như vây lấy Kim Lăng có thể dẹp các đường giúp đỡ quân Đường. Mà lương thảo quân nhu của quân ta giờ tiếp tế không kịp, Đường Quốc kiên trì vườn không nhà trống, chẳng có cách nào bổ sung, cần phải đợi đồ trong nước vận chuyển đến, thời gian chờ đợi kéo dài. Thứ tư, đường binh tốt tập kích bất ngờ đã mỏi mệt không chịu nổi, cũng cần có thời gian nghỉ ngơi, Thiên Tuế, không gặp Từ Huyễn sao”.
Dương Hạo cũng tiến lên trước nói: “Tào tướng quân nói phải lắm, nếu có thể ép Lý Dục cùng đường chủ động đầu hàng, không chiến mà khuất phục, thực tế tấn công sẽ khiến cho sinh linh kêu thán. Kim Lăng phồn hoa, không kém Khai Phong, nếu như ép hắn, Lý Dục học Lưu Kế Hưng của Hán Quốc, cho toàn bộ thành một bó đuốc, há không tiếc sao? Huống hồ giờ kiên thành tuyệt đối không chỉ dựa vào nhân lực thì có thể leo lên mà tấn công, cần chế tạo ra các loại vũ khí công thành cũng cần có thời gian, giờ bọn họ cần thời gian để điều binh khiển tướng, ta thì cũng cần thời gian để chuẩn bị cho tốt, có thể tính được kế nào thì tính, còn về giảng hòa…trận chiến này đánh hay không đánh, cần xem xem Lý Dục hàng hay không hàng; Trận chiến này là thắng hay bại, cần xem xem thực lực mạnh yếu của song phương, Từ Huyễn chỉ khéo nói, có thể xoay đổi thời cuộc sao, hắn là ai chứ?”
Triệu Quang Nghĩa nhướn mày, mặt giãn ra vui vẻ nói: “Hai vị đại nhân nói đều có lý. Được, người đâu, đánh trống lên, kêu Từ Huyễn tới gặp ta”.
Chiến tướng trong lều lớn nhiều vô kể, ai ai cũng mặc bộ giáp, đứng trang nghiêm sừng sững như núi, nhìn vô cùng nghiêm túc, khí thế giết, khiến người ta phải khiếp sợ. Từ Huyễn đội cao quan, ngang nhiên vào lều, thấy tình hình không nề hà, ung dung tự nhiên đi đến. Đến trước mặt Triệu Quang Nghĩa, Từ Huyễn thi lễ nói: “Đường Quốc Từ Huyễn, bái kiến Tấn Vương”.
Triệu Quang Nghĩa cười hỏi: “Bổn vương phụng lệnh Hoàng thượng thảo phạt nhị thần, giờ binh đang vây thành Kim Lăng, Lý Dục không ra mà thỉnh tội, lại còn phái Từ đại học sĩ ra, xin hỏi có ý gì vậy?”
Từ Huyễn nghiêm túc đáp: “Tấn Vương nói vậy sai rồi, Đường Quốc ta đã hồi phục quốc hiệu, xưng Hoàng đế. Giờ chúa ta vẫn là Hoàng đế Đường Quốc, là độc nhất vô nhị với quý quốc quân thượng, đều là chí tôn, hà tất lại nói là nhị thần - bề tôi thờ hai triều đại (quan triều đại trước đầu hàng và ra làm quan cho triều đại sau)? Từ Huyễn phụng quốc thư, lần này đi sứ, gặp Hoàng đế bệ hạ quý quốc giáp mặt Trần Từ, Tấn Vương có thân thế cao quý, không phải là nhân vật bình thường, há lại coi đại sự quốc gia này như vậy là có ý gì?”
Triệu Quang Nghĩa bật cười nói: “Hóa ra Từ đại học sĩ lần này xuất thành xuất sứ đến Tống Quốc ta, lãnh thổ quý quốc giờ chẳng phải là trong thành Kim Lăng sao? Ha ha, thất kính, thất kính, thực sự thất kính, không biết Hoàng đế Kim Lăng quý quốc có lời gì không?”
Các tướng đứng trong trại đều cười ồ lên, Từ Huyễn vẫn rất bình tĩnh, cũng cười theo một lúc rồi điềm tĩnh nói: “Từ Huyễn phụng chỉ Hoàng đế ta, mong gặp được Hoàng đế bệ hạ Tống Quốc, hưu binh giải hòa. Nếu Tấn Vương làm chủ, thế thì Từ Huyễn sẽ đưa quốc thư cho Tấn Vương, bàn bạc với Tấn Vương”.
Nói rồi, Từ Huyễn mỉm cười, tay hơi cong, rút ra từ trong một cái quyển vải, tháo sợi lụa vàng ra, tiến lên một bước dâng.
Triệu Quang Nghĩa thấy quốc thư trong tay Từ Huyễn, hai hàng mày rậm rạp nhướn lên, mặt đen xì xì, tức giận vô cùng, nhưng không biết làm thế nào. Trong lều lặng ngắt như tờ, các tướng lĩnh không ai nói gì, lặng yên nín thở quan sát, Triệu Quang Nghĩa im lặng một lúc lâu, rồi bỗng bật cười, mặt mày vui vẻ nói: “Từ đại học sĩ nói gì lạ vậy, đại sự quân quốc Tống Quốc được quyết định bởi thánh chỉ, Triệu Quang Nghĩa nào dám làm chủ. Từ đại học sĩ lần này lấy thân phận quốc sứ tới gặp Hoàng đế của chúng tôi, bổn vương há dám ngăn cản, giờ đâu đâu cũng là loạn binh, con đường hướng bắc không hề an toàn, hôm nay trời cũng đã tối rồi, mời Từ đại học sĩ vào trong doanh trại bổn vương nghỉ ngơi tạm, sáng sớm ngày mai, bổn vương sẽ đích thân phái người đưa các người tới kinh”.
Từ Huyễn mỉm cười, nhận lại quốc thư, cung kính đáp: “Đa tạ Tấn Vương Thiên Tuế”.
Sau khi Từ Huyễn ra ngoài, văn võ tướng quân ra khỏi lều, Triệu Quang Nghĩa ngồi trước bàn, trán nhăn lại, tức giận, quát: “Ân Duy, vào đây”.
Một viên quan đứng trước lều bước lên phía trước, cung kính thi lễ. Người này là thân tín của Triệu Quang Nghĩa, nguyên là một công tào ở Khai Phong, người này vô cùng thông minh, lo liệu mọi việc rất được, Triệu Quang Nghĩa khong thể không mang theo một thân tín như này theo bên mình, hắn cùng ở trong quân trại, chỉ đứng trước lều nghe ngóng sự tình.
Triệu Quang Nghĩa dặn dò nói: “Ân Duy, ngươi mau chóng đem trăm tên đại hán biết sử dụng thông thuộc thuyền bè, chọn ra một cái thuyền nhanh, đồng thời chuẩn bị khoái mã xe kiệu, gặp nước dùng thuyền. Gặp đường dùng ngựa, hộ tống bọn họ, ngày đêm đưa tới Biện Lương, nếu như Từ Huyễn có ý kéo dài, ngươi phải coi chúng như mạng chó chết, kéo dài cũng phải kéo tới Biện Lương, không được để họ trì hoãn một ngày nào giữa đường “.
Ân Duy ngầm hiểu, lập tức nhận lệnh.
Triệu Quang Nghĩa hừ nhạt một tiếng, nói: “Từ Huyễn hao tâm tổn khí, muốn kéo dài thời gian cho Lý Dục, thì có thể thay đổi được gì chứ? Bổn vương giờ vừa tĩnh dưỡng binh mã, vừa chuẩn bị khí giới, đợi ngươi quay lại, lập tức sẽ san bằng Kim Lăng, dựa vào tài khéo ăn khéo nói của ngươi thì có tác dụng gì chứ! Ha ha!”
******
“Dương tả sứ, ôi, tại hạ khi ở trong thành nghe nói Dương tả sứ có phúc lớn mạng lớn, rơi xuống nước mà không chết, hôm nay được gặp, mới biết lời đồn có thật”.
Dương Hạo đi ra lều chủ tướng thì gặp một sứ tiết đoàn của Đường Quốc vô cùng to lớn, có mấy chục người với thân phận là tòng sứ, tướng từ trong lều đi ra nhìn thấy một sứ tiết đoàn, cảm thấy vô cùng lạ, đứng ở đó chỉ chỉ trỏ trỏ, bàn tán với nhau. Dương Hạo cũng dừng chân, vừa đúng lúc có một quan văn bước ra từ sứ đoàn thi lễ với hắn.
Dương Hạo nhìn, chẳng có chút ấn tượng gì về người này, liền ngạc nhiên nói: “Vị huynh đài là…Dương mỗ quen ngươi sao?”
Vị quan văn đó vuốt vuốt chòm râu cười nói: “Hạ quan là Lý Thính Phong là Đường quan Hồng Lư tự của Đường Quốc, đã từng cùng Dạ phu nhân tiếp đãi Dương tả sứ, Dương tả sứ quý nhân hay quên, hạ quan nghĩ tất là bất nhận ra”.
Dương Hạo cười nói: “Trí nhớ tại hạ kém quá…”
Hắn đang nói, Lý Thính Phong cười theo, tay trái vỗ vào hắn, nhét một tờ giấy lấy từ trong ống tay ra đưa cho hắn, Dương Hạo ngạc nhiên, cầm lấy giấy, cười nói: “Tại hạ vụng quá, không giỏi nhớ người, nói thế này, ta nhớ ra rồi. Thế…lần này Dạ Vũ Dạ đại nhân không cùng đi xuất sứ với Từ đại nhân sao?”
Chương 373:Đàm phán.
Người đó nói: “Sứ tiết Tống Quốc, sứ tiết Khiết Đan ngay cả xảy ra chuyện trong thành, bệ hạ thì tức giận, bãi đi chức quan của Dạ đại nhân, Dạ đại nhân đã về quê nhà Bành Thành rồi”.
Dương Hạo ngây người, khẽ thở dài nói: “Tái ông mất ngựa, yên tri phi phúc…giờ quan này…bãi rồi cũng tốt. Ha ha, lần trước xuất sứ quý quốc, nhận được khoản đãi, Dương mỗ luôn khắc ghi trong lòng, hôm nay lại gặp túc hạ trong doanh ta, hôm nay Dương mỗ có móc câu con cá béo ú ở sông tần Hoài, đúng lúc đến cùng nhậu, Lý Đường quan có thể uống cùng Dương mỗ vài chén được chứ?”
Lý Thính Phong mặt vui mừng nói: “Đại nhân nói vậy, hạ quan nào dám chối từ”.
Vui mừng đi theo Dương Hạo, các vị quan trong sứ tiết đoàn thấy Lý Thính Phong nhanh chóng giao hảo với quan bậc trên của Tống Quốc, nhìn hắn đầy vẻ thán phục.
Đến trong lều của Dương Hạo, Dương Hạo bảo quân lui đi, chỉ để lại thân tín bảo vệ cửa lều, mở giấy ra, chỉ thấy bên trên có vài tên người, nghiêm mặt hỏi: “Các hạ đây là gì vậy?”
Lý Thính Phong vào lều, cười không nhìn nữa, hắn bình tĩnh nhìn Trình Vũ đứng bảo vệ ở cửa lều, hỏi: “Người này có đáng tin không?”
Dương Hạo trả lời: “Là thuộc hạ của ta, không phải lo đâu”.
Lý Thính Phong gật đầu, chắp tay nói: “Lý mỗ được Đại Lang báo tin, biết đại nhân giờ có quan hệ với đẳng ta. Hôm nay nguy hiểm hết sức, có việc cần nhờ đại nhân, mong đại nhân đưa tay giúp đỡ”.
Dương Hạo giật mình, thất thanh nói: “Đại Lang? Các hạ cũng là Thừa…người trong Thừa Tự đường?”
Lý Thính Phong mỉm cười, nói: “Đúng”.
Dương Hạo nhìn không chớp mắt hỏi: “Không biết Lý huynh đến tìm ta có chuyện gì?”
Lý Thính Phong nói: “Chẳng qua là phòng mà thôi. Không giấu gì đại nhân, Triệu Quan Gia ý xuất binh thảo phạt Đường là chắc chắn, chúng ta đã được tin, sản nghiệp nội cảnh Đường Quốc, tộc nhân quan trọng, chỗ nên dời, chỗ nên trốn, đã bắt đầu có sự chuẩn bị rồi”.
Dương Hạo thầm nghĩ: “Thừa Tự đường này thực to lớn, sợ bất cứ thế lực mạnh nào cũng có tai mắt của họ, đây quả thực là một hệ thống gián điệp vô khổng bất nhập, nếu có thể đến giúp họ, muốn dụng binh như thần có gì khó. Nghe khẩu khí của hắn, và ý của Thôi Đại Lang, giữa chúng không phụ thuộc, hắn họ Lý, hay cũng là nhân vật quan trọng trong thất tông ngũ tính? Nếu như vậy, năng lượng vĩ đại có thể dùng được ở Thừa Tự đường không thể lập đại sự, thực là tổ chức quy mô của Thừa Tự đường, thất tông ngũ tính của Thừa Tự đường là chính, hình thức thì tương đương với thương gia hội, chẳng có duyên cớ nào lấy lực lượng các thị cùng thống nhất dùng. Giờ ta hợp tác với Thừa Tự đường, nếu có thể thông qua Thôi Đại Lang, có mối quan hệ với các thị tộc khác, thì mới có thể xoay chuyển được cục diện, hóa bị động thành chủ động, không bị chúng dắt mũi, ngược lại có thể dễ dàng không chế chúng trong lòng bàn tay”.
Dương Hạo nghĩ đến đây, liền tỏ ý thân thiết nói: “Lý huynh mời ngồi, thế các người sớm đã có sự chuẩn bị, không biết muốn Dương mỗ làm gì vậy?”
Lý Thính Phong nói: “Có vài tài sản song không thể kịp thời ra tay, trong tộc ta có vài người vì thân phận đặc biệt công khai cũng không tiện nói đi thì đi, ví như tại hạ và người nhà, ở lại trong thành, mãi đến hôm nay, giờ chúng ta muốn đi thì cũng không đi được, nếu Lý Dục hiến thành đầu hàng, vạn nghìn sinh linh trong thành hoặc những tai bay vạ gió khó tránh được, bằng không, đại quân một khi tấn công thành, thì coi như Triệu Quan Gia đích thân chỉ huy cũng không thể bắt người đốt giết, trong lúc quân loạn cũng không thể khống chế được, như vậy thì tộc người chúng ta ở lại trong thành càng nguy hiểm”.
Dương Hạo giật mình nói: “Lý huynh có ý là…bảo ta phá thành cứu lấy bọn họ?”
Lý Thính Phong thản nhiên nói: “Đúng vậy”.
Dương Hạo nói: “Lý huynh đến tìm ta, Dương mỗ không thể từ chối, nhưng mà, một khi đại quân phá thành, nơi nơi có báo động, khói lửa khắp nơi, chiến tranh loạn lạc, tại hạ không có nghìn tay nghìn mắt, nào có thể lo liệu được những người trong danh sách thoát khỏi nguy hiểm được?”
Lý Thính Phong cười nói: “Điều này không có gì khó cả, một khi phá thành, tộc người chúng tôi lập tức sẽ tập trung đến một địa điểm đã hẹn, đại nhân vào thành xong thì đi đến chỗ đó, ngăn được quân binh giết người, đương nhiên có thể bảo vệ được chúng ta rồi”.
Dương Hạo bừng tỉnh hiểu ra, nghĩ đi nghĩ lại, trong thành tiện cho họ tập trung, nơi mà mình biết lại không nhiều, nghĩ đi nghĩ lại ngoài cái Lễ Binh viện, Kê Minh tự, thì cũng chẳng còn nơi nào nữa. Hắn bỗng nghĩ đến một nơi, vội vỗ vào trán mình nói: “Thế…hẹn nhau ở Giang Nam thư viện, thấy sao? Ở đó là thư viện, không có tiền tài, nữ tử, nếu tướng lĩnh như thổ phỉ, cũng chưa chắc đã chọn nơi đó, nếu như có phá thành thật, ta sẽ đến thẳng nơi này”.
Lý Thính Phong vui vẻ nói: “Như vậy là tốt nhất, ta lập tức sẽ truyền tin này về trong thành, hiểu dụ tộc nhân của các nơi”. Nói rồi, hắn rút từ ngực ra một cái bọc, đặt lên trên bàn, mở cái bọc đó ra là vàng bạc châu báu.
Dương Hạo chau mày, nói: “Ta và Lý huynh, kết giao với nhau không ì tiền tài, chỗ vàng bạc châu báu này không cần dùng đến đâu”.
Lý Thính Phong cười ha ha nói: “Đại nhân, ngươi nói Từ đại học sĩ xuất sứ Biện Lương, có biết bao quan viên cố sống cố chết đâm vào cái sứ đoàn? Họ đều muốn có bí quyết trước, khẩn cầu các vị tướng quân, bảo đảm nhà họ bình an. Giờ nghĩ các vị tướng quân tất đang hoạt động, chỗ tài của này của ta, chỉ là chút ít thôi, đại nhân đồng ý nhận lấy, mà không nhận thì nó giao cho Tấn Vương”.
Hắn cười dài và đứng dậy, chắp tay nói: “Lý mỗ còn lưu lại lâu sẽ gây bất lợi cho đại nhân, xin cáo từ”.
Dương Hạo tiễn hắn tới cửa lều, nhìn thấy sứ giả Đường Quốc, Tào Bân, Tào Hàn đi ra, gật đầu khom người thi lễ, Tào Hàn đứng ở cửa mỉm cười và nói gì đó với hắn, bỗng nhìn thấy Dương Hạo, thấy trong lều Dương Hạo đi ra một sứ tiết Đường Quốc, Tào Hàn cười ngụ ý với hắn, chắp tay thi lễ xa, rồi mới xoay người vào trong lều.
Dương Hạo thấy vậy không khỏi lắc đầu: “Tai vạ đến nơi tự bay, Giang Nam quan lại đã bawtd đầu tìm lối ra, nhưng Lý Dục…lối ra của ngơi ở đâu vậy?”
******
Đầu thành Kim Lăng, Hoàng La Tản Cái Hạ, Lý Dục đang đích thân tuần thành, ủng hộ sĩ khí tam quân.
Đầu thành, giáp sĩ san sát, trong đó có rất nhiều binh sĩ đều đội giáp trắng, loại nón giáp sắt/khôi giáp dùng giấy làm, bình thường là lấy vải cứng dán lên phần khung, rồi sau đó lấy giấy dán lên, vô cùng nhẹ, chất lượng lại ngăn cản được cung nỏ, gọi là giấy giáp, bình thường cũng sẽ dựa vào màu vải mà trang trí các loại hình vẽ, giờ Lý Dục đều nắm các tráng đinh trai tráng sĩ nông công thương trong thành, khôi giáp tự chế vội vã, không nhuộm màu cũng chưa tô điểm gì, còn về bên trong không ăn bớt nguyên vật liệu, thì không thể biết được.
Dân chúng Kim Lăng thường xuyên nhìn thấy Quốc Chúa Lý Dục, khi hắn xuất cung, hoặc là đi vào chùa chiền bái Phật, hoặc là đi du lãm sông Tần Hoài, lần này vẫn là nhìn thấy long bào của hắn, đầu đội vương miện, uy nghi đi tuần tra tam quân.
Tiếc là khi cổ vũ sĩ khí tam quân, bộ mặt vui buồn của Lý Dục không thể che dấu, hắn chau mày, bộ dạng lo lắng. Một loạt những binh giáp trắng cầm đao thương đứng ở đầu thành, khi nghe tiếng bước chân Tống Quốc dưới thành điều động, những binh sĩ chưa từng được huấn luyện, chưa từng thấy chém giết chiến trận thì sợ hãi mặt tái xanh, Lý Dục ở chỗ bọn họ, xung quanh là giáp trắng/bạch giáp, cứ như đưa ma.
“Từ Huyễn có thể hoàn thành sứ mệnh không? Thủ quân Hồ Khẩu khi nào có thể cứu trợ? Cần Vương của Trẫm đều ở đâu hết rồi?”
Lý Dục mù tịt nhìn doanh trại Tống Quốc dài liên miên không thấy đuôi đâu cả, nối tiếp nhau về phía bắc, lại nhìn về phương hướng Khai Phong, cái tên Triệu Đại Lang thô bỉ bất văn, bất kính thần Phật, chỉ là một thối quân mà thôi, sao lại có thể kiêu ngạo vậy, may mắn vậy, trở thành bá chủ Trung Nguyên? Trẫm…lần này có thể thoát khỏi bàn tay quỷ dữ của hắn không đây? Cứu binh, cứu binh rốt cuộc ở đâu?”
Da Luật Văn từng để cho hắn một cơ hội, đầu tiên để hắn vui mừng an nhàn thụ hưởng cuộc sống, và bắt đầu dã tâm xưng bá Trung Nguyên, hắn từng mơ tưởng hợp tác với Khiết Đan, một nam một bắc đánh Tống, rồi từ nay về sao làm cửu ngũ chí tôn của toàn phương nam, nhưng…
Nhưng cái tên Dương Hạo đáng chết lại sống trở lại, Da Luật Văn lại thực đáng chết đi, giờ cũng không biết Khánh Vương mưu phản của bắc quốc có thành công hay không, nếu hắn thành công, thì cái khế ước của mình có hiệu lực, vấn đề là, nếu như hắn thành công, mình có thể kéo dài tới ngày đó sao? Thượng Kinh, giờ sao rồi? Da Luật Hiền là Đế vương có được quốc gia cường mạnh, hắn…giờ đã làm con quỷ dưới đao Khánh Vương rồi sao?
******
Thành Thượng Kinh, một đoàn tướng lĩnh đang đi tuần thành.
Đi ở giữa là một viên nữ tướng, người mặc bộ trường bào màu lam, khoác ngoài áo giáp, trước ngực là ngọc kính bảo hộ sáng chói, đầu đội mũ lông cáo, trên mũ có lông trĩ bay bay, da trắng môi đỏ, khuôn mặt đẹp vạn phần, oai hùng hiên ngang, bước chân đi rõ ràng, chính là hoàng hậu Khiết Đan Tiêu Xước.
Bên phải cô là một viên nữ tướng, mặc chiến bào trắng, sườn dắt bội kiếm, trên vai đeo cung, sau lưng là lông chim, mắt ngọc mày ngài, đoan trang quyến rũ, là một thân tín được sùng ái lục cung thượng quan La Đông Nhi.
Bên trái là một thanh niên võ tướng anh tú, chính là đại thích ẩn ti, cung vệ quân nguyên soái Da Luật Hưu Ca, sau đó có mấy viên tướng lĩnh, La Khắc Địch, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu. Bọn họ ai nấy đều chiến bào, giờ cũng là tướng lĩnh trong cung vệ quân, sau khi giết lui phản quân, Tiêu Xước lập tức phong tướng cho họ, thành Lang quân, giống như tiến sĩ trong kỳ thi của Tống Quốc, có nghĩa là có thể làm quan. Quả nhiên, Da Luật Hiền sau khi mang thương tuần thành, thì một đạo chiếu lệnh được ban, ba người họ trở thành đại tướng cung vệ quân.
Tiêu Xước sắp xếp Thượng Kinh thiết dũng, mỗi ngày cô đều tuần thành, xử lý quốc sự, ban thưởng cho quan binh thủ thành, những tên nào tung tin vịt ra thì giết bất luận tội, khó khăn chống đỡ cục diện Thượng Kinh. Hôm qua, nam viện cuối cùng cũng đã đưa tin tới, quân Tống đã nam phạt.
Tiêu Xước nghe vậy không khỏi thở dài, người Tống lần này nam phạt, chứng minh là Tống Quốc đã quyết định vứt bỏ cơ hội bắc phạt, lúc này, cô mới hạ chiếu lệnh cho nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn phân binh phó viện, giải vây Thượng Kinh. Tiêu Xước không lệnh cho Da Luật Tà Chẩn phân binh đi Thượng Kinh, Thượng Kinh được cô phòng ngự thiết dũng, Khánh Vương tuy ngày đêm công thành, tạm thời cũng không có cơ hội mà tiến thêm. Tiêu Xước lệnh cho Da Luật Tà Chẩn phân binh tập kích bổ sung bộ tộc lãnh địa, đặc biệt mấy người ủng hộ kiên định nhất đối với Khánh Vương, ví như bạch cam bộ lạc.
Trước lúc này, cô đã phái các tù lĩnh xuất thành bí mật tiếp xúc với các đồng phản, và kẻ đầu cơ chiến tranh phản loạn ý chí vô cùng kiên định của cải kim tiền, mỹ sắc, phân hóa phản quân, tin tưởng mấy bộ tộc phản loạn bị máu rửa bộ lạc xong, công phu cô dự trước lên men để phản quân tứ phân ngũ liệt.
Quá trình tuần tra đã xong, Tiêu Xước về cung, trước tiên đi thăm Hoàng đế, Hoàng đế bộ dáng già cả, bị hôn mê, bất tỉnh nhân sự. Tuy nói hai người không có tình cảm gì, song vẫn là phu thê, nhìn Da Luật Hiền hai má hóp lại trắng xanh, bộ dạng hấp hối, Tiêu Xước mắt đẫm lệ.
Cô không chỉ buồn thương cho Hoàng đế, mà cũng tự buồn thương cho mình. Da Luật Hiền vốn gầy còm ốm yếu, sau khi bị trúng kiếm độc thì bệnh càng nặng hơn, cả ngày chỉ hôn mê, lúc tỉnh lúc không, thời gian hôn mê thì nhiều mà thời gian tỉnh chẳng được bao lâu, thực ra không chỉ là cô, mà người trong tẩm cung Hoàng đế đều biết, Da Luật Hiền giờ là một cái xác sống, chỉ dựa vào dược vật đem mạng đi mà thôi.
Tiêu Xước thành thân với Hoàng đế không lâu, không có con, nếu Hoàng đế băng hà không người nối nghiệp, lúc đó phải làm sao đây? Gia tộc Da Luật vì xã tắc giang sơn, vì tình đoàn kết các bộ lạc, sẽ chọn ra một Hoàng đế mới, thậm chí giảng hòa với phản quân cũng không phải là không có khả năng, còn mình thì sao? Cảnh tượng cuối cùng chính là bị bãi chức thái hậu, chuyển lãnh cung, từ đó về sau bị giam cầm trong một góc cung điện, cách biệt với thế giới bên ngoài, sống vậy cả quãng đời còn lại.
Một Thái hậu mười bảy tuổi…
Nước mắt lăn dài trên má nàng, đôi vai non nớt khẽ run run, lúc này ai còn có thể nói nàng là một nữ trung hào kiệt sát phạt tuyệt đoạn, dẫn ngàn quân, là nữ đế Khiết Đan nữa? Tiếng thút thít vọng ra từ trong tẩm cung, các quan nhân nội thị đều bị đuổi rồi, ai cũng sẽ không thấy cô rơi nước mắt.
Khi cô đi khỏi tẩm cung, thay bộ áo khác, áo màu xanh, cổ tay áo có điểm vài bông hoa thêu, bộ váy ôm lấy eo thon được buộc bằng một sợi dây, mái tóc đen bóng được búi cao. Vai nhỏ nhắn, đi lại nhẹ nhàng không tiếng động, nhưng khuôn mặt thì lạnh lùng vô cùng, uy nghiêm vô cùng, khiến người ta không dám nhìn, ai cũng sẽ không ngờ tới, một vị Hoàng hậu như vậy, cô cũng có lúc mềm yếu, cũng có lúc khóc.
Cô khẽ thở dài, chỉ thấy trong cung điện còn lạnh băng hơn cả phía đầu thành, cô khẽ chớp mắt nhìn quanh, tất cả nội thị trong cung nhìn thấy cô đều nơm nớp lo sợ không ai dám nhìn trực diện, trong cung điện lo lớn, không một ai nói chuyện. Tiêu Xước buồn rã rời, thở khẽ, phất tay áo đi ra ngoài.
Tiêu hậu không mang theo người phục vụ trong cung, như bình thường lại đến chỗ ở của La Đông Nhi.
Mở cửa đi vào, vòng qua bình phong, là một chiếc giường, trước giường là hai chậu than cháy. Trong trướng, một chiếc quần lót ôm lấy cơ thể mềm mại đang duỗi thẳng tắp trên giường, hai tay đỡ eo, từ ngực xuống mũi chân thẳng tắp một đường, đầu và ngực gãy thành góc chín mươi độ.
Tiêu Xước nhìn thấy, môi cô hơi mấp máy, bước về phía trước, người trên giường thấy có động tĩnh, hai chân hơi động, định buông xuống.
“Đừng động, cứ luyện đi”.
Tiêu Xước mỉm cười, đưa tay để vào một bên hông, áo bào không tiếng động chảy xuống đất, lộ ra cơ thể mềm mại, nàng khẽ lên giường, vào bên trong giường, ưỡn bụng, cơ thể cong lại, lưng kề sát với mông, hai chân gãy về phía trước, hai chân để lên vai, Tiêu Xước dùng tay đan chéo, cầm lấy hai mũi chân, toàn người trở thành cái tam giác.
Cô để cằm lên giường, tạo thành trung tâm của chiếc tam giác, nhìn La Đông Nhi, Tiêu Xước thản nhiên cười nói: “Ngươi đã lớn, xương cốt đã cứng, không ngờ ngươi có thể tập luyện động tác khó như này, đây là công phu mà tăng nhân tây vực truyền cho Trẫm, nghe nói là Thiên Trúc. Võ công này không chỉ có thể cường thân kiện thể, còn có tác dụng tu chỉnh thân thể đấy, ngươi cũng biết, người ở thảo nguyên ngay ngày cưỡi ngựa, nếu không chú ý, hai chân sẽ vòng kiềng, trông rất buồn cười, nhưng…võ công này còn có một môn kỳ hiệu…”
“Gì ạ…kỳ hiệu?” Công phu của Đông Nhi mềm hơn của cô, giờ còn không làm được động tác khó của cô nữa, lúc này mới trở về tư thế đầu và hít thở sâu, cô điều phối hơi thở, lúc này mới cất tiếng nói.
Tiêu Xước nở nụ cười, nói nhỏ: “Còn có thể có tác dụng làm tình trong khuê phòng”.
Đông Nhi xấu hổ mặt đỏ ửng, không biết vì đứng chống ngược quá lâu hay là do xấu hổ.
Tiêu Xước mỉm cười nói: “Đông Nhi, Trẫm và ngươi tình như tỷ muội, có gì mà không dám nói vậy? Ngươi còn trẻ, có dự định cô đơn tuổi già không? Hưu Ca rất tốt với ngươi, lẽ nào ngươi không động lòng sao? Sau khi thê tử của hắn bệnh chết, theo phong tục Khiết Đan ta, là em gái hoặc chị gái phải lấy thay tiếp tục thay em là thê tử của người ta, nhưng Hưu Ca vì để lại vị trí chính thất cho em, quyết định không lấy cô ấy.
Cho dù là nữ chân nhân, người Bắc Hán hiến mỹ nữ cho hắn, hay là Trẫm ban thưởng cho hắn những cô gái đẹp, dù những người con gái đó đều quan tâm yêu thương hắn đến mấy, cuối cùng cũng không được làm thê tử của hắn, Da Luật Hưu Ca vẫn để ngôi vị chính thất đó cho em đấy, hắn coi trọng em đến nhường nào chắc em cũng tự rõ. Phẩm chất con người Hưu Ca, võ nghệ, quan vị, chẳng lẽ không xứng với em sao? Em trở thành chính thất của hắn cũng chính là người của nhà Tiêu chúng ta, cô ta đã nhiều lần tìm tới Trẫm làm ầm lên, Trẫm vì các người nên đều đuổi cô ấy về”.
“Nương nương…”, Đông Nhi ngăn lời của cô, ngập ngừng một lát nói: “Nương nương, sau khi nam viện đại vương xuất binh, Khánh Vương sẽ biết khó mà lui, giải vây cho Thượng Kinh không?”
Tiêu Xước thầm thở dài, biết cô ấy sẽ không chịu tái giá, bèn nói: “Khánh Vương chẳng qua là dựng một vở hài kịch mà thôi, Trẫm nể nang không để ý tới hắn, Trẫm giờ để ý là bàn long Biện Lương đó”.
Ánh mắt nàng đăm chiêu nói: “Đường Quốc dễ đánh, Khiết Đan khó công, Triệu Khuông Dận bỏ cơ hội trời cho là nội loạn của ta đoạt U Vân, mà tập trung lực lượng đánh Đường Quốc, thực ngoài dự tính của ta. Xem ra, mấy năm này hắn tuy ở Trung Nguyên đông chinh tây phạt, lại chưa từng bỏ qua Khiết Đan ta. Thế nhân đều nói Trẫm và Khánh Vương theo thành tử chiến, cho rằng cơ hội chiếm lấy U Vân, trên thực tế, hắn nếu như bắc phạt thật, bộ tộc Da Luật vì bảo vệ xã tắc giang sơn, sẽ buông tha cho chỗ này không đến ba năm, Hoàng đế lâu rồi không lo được triều chính, cùng Khánh Vương giảng hòa cộng ngự ngoại địch. Triệu Khuông Dận có cái nhìn xuyên suốt, giỏi giang, nhân vật này, xưng chúa, nếu Trẫm lo liệu không chu toàn, sau khi Tống thống nhất trung Nguyên, chắc chắn sẽ là kẻ địch mà Đường Quốc ta không thể coi thường…”
******
Triệu Khuông Dận ngồi trên cao nói: “Tuyên Đường Quốc sứ tiết Từ Huyễn, Chu Duy Giản tiến kiến!”
Trước hoàng nghi điện, một tiếng hô lớn, chính phó Đường sứ vào tấn kiến.
Từ Huyễn là sứ bộ thượng thư của Đường Quốc, còn phó sứ Chu Duy Giản là một đạo sĩ, gần đây Lý Dục mê mẩn “Chu dị”, Chu Duy Giản bình thường vào cung giảng Dị kinh cho Lý Dục nghe, vì thế trở thành thân thiết, hoàn tục làm ngu bộ lang trung, lần này xuất sứ, Lý Dục lại gia phong hắn là điện tiền cấp sự trung, tu văn quán học sĩ thừa chỉ đưa theo lão đạo này đến, đại khái là mượn võ công thái cấp của hắn và Triệu Khuông Dận chăm chỉ luyện thôi thủ, nhưng không biết, Triệu Khuông Dận có thói quen dùng côn và có cái tâm tình kia không.
Hai người lên điện, bước lên bậc thang, Từ Huyễn dừng lại hít một hơi sâu, hô to: “Lý Dục vô tội, bệ hạ xuất binh vô danh”.
Triệu Khuông Dận ngồi ở ghế trên, nhìn hai bên, mỉm cười nói: “Từ Huyễn lão này đến thực quá vội, để hắn vào rồi mới nói”.
Từ Huyễn tiến vào điện, thất thanh nói: “Lý Dục dựa tiểu sự đại, như tử sự phụ, tất cung tất kính, chưa bao giờ thất lễ, giờ vì ốm yếu, không thể đi xa, nên mới tới chỗ bệ hạ xin khẩn từ, và bảo sứ giả mang theo trọng lễ, thần lấy thân phận quân quốc, những hành vi của Lý Dục, đều rất kính trọng tôn sùng bệ hạ, không hề có gì khiển trách, bệ hạ có tâm nhân hậu, thiên hạ hữu đạo minh quân, dựa vào cái gì tự nhiên hưng binh thảo phạt, 19 châu Giang Đông chiến hỏa loạn lạc, vô số lưu dân khóc lóc kêu than, tội của bệ hạ cũng…”
Từ Huyễn vừa đi vừa nói, lời nói của hắn dõng dạc vô cùng, nhịp điệu trầm bổng, khi hắn đi đến chính diện điện thì bách quan nghe vậy mặt biến sắc.
Triệu Khuông Dận bễ nghễ cười nhạt, hỏi: “Từ đại học sĩ nói hết chưa? Đại học sĩ đọc nhiều thi thư, há lại không nghe bách hành chi thủ? Ngươi nói Lý Dục đối với Trẫm như con với cha, thế Trẫm thấy lạ lắm, nếu Trẫm và Lý Dục có tình là phụ tử, thì sao lại ăn cơm hai nơi?”
Từ Huyễn cứng họng không nói được gì, không ngờ ngôn từ của Triệu Khuông Dận sắc bén như vậy, đấu tài ăn nói quá là mạnh, và không ngờ gậy ông lại đập lưng ông, hắn đem Lý Dục và Triệu Khuông Dận so sánh với tình quân thần cha con, giờ bị Triệu Khuông Dận dùng một lời nói chặn cứng họng hắn, ngay cả hắn đầy bụng kinh luân, tuyệt chiêu đòn chí mạng của hắn không sao xoay chuyển được.
Chu Duy Giản thấy tình thế không ổn, vội lấy ra quốc thư giấu trong tay áo, cao giọng nói: “Bệ hạ tức giận, khởi binh thảo phạt, Lý Dục tự biết mình đắc tội, xin thỉnh bệ hạ nguôi ngoai cơn giận, Lý Dục nguyện sẽ nhượng triều, chịu cơn thịnh nộ của bệ hạ. Mong bệ hạ hiểu tấm chân tình của Lý Dục, hạ chiếu hoãn binh, bảo toàn mệnh nhất bang”.
Lý Dục phái sứ đến Tống Quốc, nhằm vào khả năng phản ứng của Triệu Khuông Dận, chuẩn bị hơn mười quốc thư, lần lượt giấu ở trên người của hai vị sứ giả, hai vị đại sứ giống như nghệ nhân Biện Lương, tùy lúc mà hành sự, và lấy quốc thư ra ứng biến. Giờ thấy Triệu Khuông Dận không buông tha, Chu Duy Giản bèn lấy một quốc thư ra, chuẩn bị nhượng ngôi của Lý Dục, phù nhi tử lên đài.
Nội thị nhận lấy quốc thư, dâng lên ngự giá, Triệu Khuông Dận cầm lấy nhìn, cười khinh miệt, rồi để luôn sang một bên bàn, thản nhiên nói: “Lời của chúa ngươi nói, Trẫm xem không hiểu”.
Từ Huyễn thấy Triệu Khuông Dận đùa dỡn như vậy, tức giận run người, râu bay bay, nhưng không thể làm gì được đành cúi đầu, sức người không đông, làm sao đây? Rắn cũng không được, mềm cũng không xong, Triệu Khuông Dận quyết lấy Đường Quốc, giờ còn định sao nữa?
Từ Huyễn mặt tím tái, bỗng nhiên ngã bịch luôn xuống đất, bỏ mũ, khấu đầu cầu xin, tiếng nói tiếng khóc, văn võ trong triều thấy vạy không khỏi động lòng, Triệu Khuông Dận nghe vậy không kiên nhẫn được, từ từ đứng dậy nói: “Từ Huyễn!”
Từ Huyễn ngẩn người, ngẩng đầu dậy, nghe thấy Triệu Khuông Dận gọi tên mình, nói: “Chớ nhiều lời, Trẫm hôm nay nói thực cho ngươi biết, chúa ngươi tội gì. Một mái nhà thiên hạ, chỉ biết nằm, rồi ngủ. Ngươi tự về, nói với Lý Dục hắn đừng có mơ tưởng, mau mau hiến thành xưng hàng, Trẫm tất sẽ không bạc đãi, bằng không nếu như dụng binh, thì Trẫm sẽ không nể nang gì đâu”.
Từ Huyễn mặt mày ảm đạm, quỳ ngu si trên đất, không nói được câu nào, nào thì xuất quân vô danh hữu danh không tính toán nữa, Triệu Khuông Dận đã nói thẳng vào mặt hắn trước văn võ bá quan, chính là cần phẫn cường đạo, hắn còn có thể nói gì đây? Đường Quốc, thực là đại thế đã mất…
Từ Huyễn và Chu Duy Giản bị bẽ mặt trước điện, không dám ở lại lâu, lập tức trở về Kim Lăng báo tin của Triệu Quan Gia, nhìn Từ Huyễn đi lảo đảo, Triệu Khuông Dận có điều suy nghĩ: “Lý Dục xem ra còn chưa có ý quy hàng. Mệnh kinh tây chuyển vận sứ Lý Phù Ích vận chuyển lương thảo từ Kinh Hồ, tiếp tục vận chuyển hướng Giang Đông, vừa chuẩn bị chiến tranh, vừa dùng để chiến hậu an dân, Đường Quốc này, nay tất phải bị diệt”.
Hắn lại gọi người mang tấm bản đồ Đường Quốc mà Ân Duy tiến kinh sứ tiết Đường Quốc đến, đây là bản đồ bố trí quân sự của Triệu Quang Nghĩa ở Kim Lăng, Triệu Khuông Dận tỉ mỉ xem một lúc lâu, gọi Ân Duy đến, chỉ vào ngoại thành Kim Lăng bắc trại nói: “Lý Dục dựa vào địa thế hiểm trở, khó bảo toàn sẽ không xuất binh đánh lén, Trẫm thấy tình hình Kim Lăng, chỉ có bắc trại thích hợp đánh lén, ngươi về báo cáo với Tấn Vương, làm hoa tiêu, làm bức thành che chở, để phòng Lý Dục dùng cảm tử quân ban đêm xông vào đại doanh, tuyệt đối không được lơ là”.
Ân Duy vội nhận chỉ, Từ Huyễn đáng thương và Chu Duy Giản bị hắn ngày đêm chạy đi, một phần gây sức ép, hai tên sứ giả một hớp nước cũng không uống, vội vội vàng vàng ngay cả cửa viện cũng chưa vào thì bị Ân Duy tiễn luôn về Đường Quốc.
Lúc này, dưới thành Kim Lăng, Dương Hạo cũng đội mũ cao, thân mặc bộ long trọng, đeo ngọc bội, cùng tùy tùng đang dưới thành đợi thủ quân trong thành phóng cầu vào thành, phụng lệnh Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa, hắn cần vào thành khuyên Lý Dục đầu hàng.
Chương 374:Hỏa
Thô hào chém giết vọng lại ngày càng gần, Lý Dục ngồi ở trong điện Thanh Lương cả người trong ngoài đều lạnh ngắt.
Mùa đông phương nam vốn ẩm ướt và lạnh, vì Kim Lăng bị vây lâu như vậy, than trong cung không đủ dùng, không thể có chậu than sưởi ẩm, trong đại điện trống trải gió lạnh thổi vào từng cơn. Nhìn cung nữ hoảng sợ, nội thị như đám u hồn, vẻ mặt Lý Dục buồn thiu, ngẩn ngươi ngồi ở đó như khúc gỗ.
Đại thế mất đi, quân Tống đến rồi, ngày này, cuối cũng cũng không tránh được…
Trước đây, Dương Hạo đã nhiều lần vào Kim Lăng giảng hòa, trao đổi với hắn về chuyện đầu hàng.
Lần thứ nhất đến, Dương Hạo khuyên hắn: “Kim Lăng lục triều cố đô, cung điện lầu các, văn hóa, đều là tâm huyết của tổ tiên, những bảo vật còn tồn tại đến nay có bị hủy diệt bởi chiến hỏa hay không, đều là nằm trong tay của bệ hạ hết. Như đại quân vây thành bây giờ, sự đã không thể làm. Hà tất phải như thế chứ? Kim Lăng có mấy chục vạn dân, nhiều năm nay vất vả lao động, lấy mồ hôi nước mắt của dân để phục vụ quân thượng, giờ quân thượng không có sức để bảo vệ xã tắc, thì cũng nên nghĩ đến con dân nhiều năm nay đi.”
Dương Hạo nói thẳng như vậy, không như lần trước kiêu ngạo ở Giang Nam, Lý Dục nghe vậy không phải không động lòng, nhưng lúc đó Từ Huyễn vẫn chưa về, hắn mong Triệu Khuông Dận có thể đồng ý với điều kiện xưng thần của hắn, bảo vệ giang sơn xã tắc. Hắn vẫn ôm một tia hy vọng như vậy, thế là từ chối khéo léo.
Khi lần thứ hai Dương Hạo đến, tuyến ngoài quân Tống tác chiến, tuyến bắc quân Tống lần lượt chiếm lĩnh Viêm Châu, Bạch Lộc Châu, Giang Âm… Ngô Việt vương tiền thích quan đông lộ cũng diệt quân Đường phó viện, phá được Thường Châu. Tuyến Nam Vương Minh Sở Bộ ở Võ Xương Giang Châu đánh bại được hơn vạn quân Nam Đường, đoạt được 500 chiến hạm.
Với tình hình như vậy, nếu như Lý Dục thức thời, nhanh chóng xuất binh mã, ra thành đầu hàng, có bại cũng là bại đẹp, hoặc là tập trung tam quân, quyết tử một trận với quân Tống, thế thì vị vua vong quốc này cũng được coi là oanh liệt. Nhưng Lý Dục lại không đánh cũng không hàng, vẫn làm như bình thường, kéo dài thời gian, rồi ngầm đưa ra mật chỉ, thúc dục thủ quân Hồ Khẩu đến Kim Lăng giải vây giúp, dùng cơ hội quý giá Từ Huyễn dành được làm cái giãy dụa cuối cùng.
Song, mười vạn đại quân Hồ Khẩu, trong khoảnh khắc tan biến từ lúc nào không hay.
Thủ tướng Hồ Khẩu Chu Lệnh Uân chỉ huy mười vạn đại quân, lấy chiến hạm lớn để đối phó với đại quân đến, muốn phá cầu nổi Thái Thạch, lao thẳng tới dưới thành Kim Lăng, chúng gặp thủy quân Tống Lưu Ngộ ở Hoàn Khẩu.
Song phương lập tức triển khai đại chiến. Nhân mùa đông nước cạn, mặt nước không rộng, đại quân Chu Lệnh Uân chỉ có thể xếp thành hành dài hơn mười dặm, tuy chiếm cứ ưu thế về số người, song lại khó có thể thi triển. Lúc đó đang có gió đông nam, Chu Lệnh Uân nắm thời cơ, lập tức thổi kèn thu binh, đổ vô số dầu hỏa trên mặt sông, rồi châm lửa đốt. Lửa cháy ngùn ngụt, trong khoảnh khắc thiêu hơn tám ngàn quân tiên phong Tống, mấy trăm chiến chiến hạm.
Không ngờ đến ông trời cũng trêu đùa với Đường quốc. Lửa vừa mới bùng lên, gió bỗng nhiên đổi hướng, gió đông nam trở thành gió tây bắc, đám lửa cháy lại bị gió thổi về phía bọn chúng. Chiến hạm Chu Lệnh Uân, những chiếc bè mảng chật chội trên sông, không có khe hở nào, cùng với thể lửa chảy hừng hực, trong chốc lát từng chiếc thuyền bị thiêu cháy, diện tích mặt sông Trường Giang hơn mười dặm biến thành đống tường thành bị thiêu rụi.
Tướng Tống đối diện Lưu Ngộ thấy vậy há hốc mồm. Lúc này đại tướng Tống quốc Vương Minh lại nghe tin vội đến, trấn thủ đôi bờ Trường Giang, không cho quân Đường lên bờ. Chu Lệnh Uân lên trời không đường, xuống đất không cửa, vô cùng đau đớn, chỉ oán trời than đất bất công, sau đó thì tự sát.
Cường viện duy nhất của Kim Lăng lúc này sụp đổ tan tành, Lý Dục khi nghe thấy tin thì người đần ra. Lúc này, Từ Huyễn đã về, tin mang đến không phải hi vọng mà là tuyệt vọng. Từ Huyễn mang nguyên vẹn danh ngôn của kẻ xâm lược Triệu Khuông Dận: “Bên giường há lại dung người khác ngủ say.”
Dương Hạo cũng theo Từ Huyễn vào thành lần ba khuyên hàng. Lần này, Dương Hạo mang đến một chiến báo mới nhất của quân Tống, Tống tướng Đinh Đức Dụ và Ngô Việt quân thống soái Tiền Thích đánh bại năm nghìn quân Đường ở Nhuận Châu, thủ tướng Nhuận Châu Lưu Trừng mở thành đầu hàng. Cửa bảo vệ cuối cùng của Kim Lăng để kéo dài thời gian bị phá hỏng, Kim Lăng đã trở thành một tòa thành cô độc.
Lý Dục buồn bã, lâm vào đường cùng, chỉ có thể đầu hàng, tình nguyện phái sứ xuất thành Biện Lương, sau khi bàn bạc chi tiết thì hiến đất đầu hàng. Nhưng đến đêm, hắn lại triệu tập năm nghìn danh sĩ quả cảm tập kích doanh trại quân Tống, mơ tưởng rằng có thể đánh bất ngờ xoay chuyển thế cuộc.
Về mặt địa lý mà nói, thích hợp nhất là đêm hôm tập kích đánh úp phía bắc doanh trại Tống. Địa **** tấn công mà hắn chọn không sai, tiếc rằng, các tướng lĩnh thủ hạ của hắn nhìn ra được, thì chẳng lẽ Triệu Khuông Dận cả đời chinh chiến lại không nhìn ra? Triệu quan gia đã sớm đích thân hạ chỉ, lệnh cho Triệu Quang Nghĩa để phòng nghiêm mật mặt bắc, đại quân bắc doanh đã sớm được bảo vệ.
Một đêm khổ chiến, năm nghìn binh sĩ quả cảm Đường quốc không chịu thối lui, bị giết toàn bộ trong quân doanh Tống. Khi sáng sớm dọn dẹp chiến trường, từ trên người thi thể phát hiện ra phù ấn cấp soái tướng, đội cảm tử ấy là những chiến sĩ tinh anh của thủ quân Đường quốc, trong đó thậm chí còn có những tướng tá đích thân dẫn quân đảm đương làm cảm tử quân, họ tất cả đều bị chôn vùi ở đó, lực lượng nòng cốt của quân Đường đã không còn nữa.
Lần tập kích này còn chọc giận tới Triệu Quang Nghĩa. Hắn lệnh cho Dương Hạo bao vây toàn thành Kim Lăng, lần này, điều kiện giảng hòa không phải là khuyên Lý Dục nữa, mà là một lá chiến thư của Triệu Quang Nghĩa, trong thời gian đêm nay, địa điểm ở Kim Lăng, quyết một trận tử chiến.
Đêm, quân Tống công thành, đạn thạch như mưa, vô vàn thang, phi câu, xe pháo… thành Kim Lăng rộng lớn được coi thành trận chiến, trong thành những quân quan trung, hạ cấp có kinh nghiệm phần lớn đều đã tử trận trong trận đánh úp đêm qua, giờ đều là những viên quan mới được đề bạt, mang những bạch giáp quân vừa mới nhập ngũ không hiểu phải bắn cung tiễn thế nào, hoảng sợ chạy đến đầu thành Kim Lăng.
Thành trì mặc dù vững chắc, còn cần cường binh tới thủ, quân đội như vậy, làm sao có thể phát huy được lợi thế phòng thủ của thành Kim Lăng được?
Lúc này, tiếng la hét ngày càng gần, quân Tống nhanh chóng công tường.
***
Lý Dục ngờ nghệch đứng dậy, đi chầm chậm ra ngoài, trong điện quá ư âm u, hắn mặc ấm một chút, cơ thể vốn hơi béo nên trông càng thêm mập, cái long bào mặc bên ngoài cũng không thể cho hắn thêm tinh thần được nữa.
Dưới điện, tập trung rất nhiều vũ kỹ, cung nga, nội thị, mặt mày ai nấy đều tái xanh, có người không kiềm chế được sợ hãi đang khóc thút thít. Lý Dục đứng lại, ngẫm nghĩ, rồi nói với bọn họ: “Thành, không giữ được nữa rồi!”
Lời này nói ra, mọi người trong cung vừa khóc vừa khấu đầu, tiếng khóc rung trời. Lý Dục lấy lại tinh thần, rưng rưng nói: “Các ngươi không cần ở lại trong cung, cùng trẫm đi đến chỗ chết nữa. Các ngươi lập tức rời cung, tìm một nơi yên tĩnh mà trốn tạm thời đi đã, các ngươi đều có tài âm nhạc, sau này dù Kim Lăng họ Lý hay là họ Triệu, nơi quyền quý môn đình đều không thể thiếu các ngươi. Haiz, truyền chỉ, mở tất cả các cửa cung, tài sản trong cung, cầm đủ dùng thôi, đi đi, đi đi. Các ngươi đều đi cả đi, sống cho tốt…”
Các ca kỹ trong cung, cung nhân nội thị khóc lóc dập đầu tạ ơn Lý Dục, hoảng loạn bỏ chạy.
Lúc này, lại có một tốp người hoảng sợ chạy tới, có khoảng mấy chục người. Lý Dục còn cho rằng đó là tốp người ca kỹ lúc nãy chạy lại, nguyện đồng sinh cộng tử với mình, lòng không khỏi cảm động, nhưng định thần nhìn lại, lại là các văn võ quan viên. Xem ra chức quan của họ không cao lắm, và phần lớn là không quen, nhưng quốc nạn đương đầu, còn có trung lương tiến đến hộ giá, so với tâm phúc của mình, thủ tướng Nhận Châu Lý Trừng mở thành đầu hàng quân Tống, đáng quý cỡ nào? Hai mắt Lý Dục ướt nhòe.
“Các vị ái khanh…”
Giọng Lý Dục run run, hai hàng lệ lăn dài trên má.
“Bệ hạ, đại thế đã đến đường cùng rồi, thần liều chết tiến lên, xin bệ hạ đổi quần áo dân tráng, đem theo bảo vật, chúng thần nguyện giấu bệ hạ vào đám dân mà trốn chạy thoát thân. Mười chín châu Giang Nam giờ đã rơi vào tay người Tống rồi, nếu có được thời cơ, bệ hạ chưa chắc đã không thể đông sơn tái khởi.”
Lý Dục nhìn cẩn thận, vị quan này có hơi quen quen, hình như là một Đường quan của hồng lư tự, cũng là họ Lý.
Lý Dục hỏi: “Ái khanh là?”
Lý Thính Phong nói: “Thần là Lý Thính Phong, Đường quan hồng lư tự.”
Lý Dục giữ chặt tay hắn, khóc lóc nói: “Lý ái khanh, quân Tống bao vây Kim Lăng chặt như nêm cối, trẫm không thuộc đường, có thể đi về hướng nào? Lại đây, các người theo trẫm lại đây.”
Lý Thính Phong nhắc đến bảo vật, Lý Dục bỗng nhớ đến bảo vật mà hắn quý trọng nhất, thế là đưa họ vội vàng đi đến Trừng Tâm điện, bên cạnh Trừng Tâm điện là Thanh Huy đường, hai nơi này đều là kho chứa những bảo vật vô giá. Lúc này thái giám trông coi ở đây nghe nói Lý Dục mở cửa cung, đầu hàng lấy đường sống, sớm đã bỏ chạy hết.
Bảo vật Mạnh Sưởng Thục quốc là kim ngân ngọc khí, các loại ngọc thạch, bảo vật trong mắt Lý Dục lại không phải là kim ngân châu ngọc, mà là sách quý truyền thế, văn học bảo điển. Từ Tần Hán tới nay, mỗi lần Trung Nguyên chiến loạn, sĩ gia đại tộc lần lượt di dời về phía nam, điển tích sử sách cũng lưu lạc đến vùng Giang Nam. Lý thị tổ tôn có sức mạnh, bỏ ra rất nhiều tiền của để thu trữ, kết quả thì có thể thấy, mấy chục năm đã thu được những trân phẩm điển tích cô bản trong thiên hạ.
Khổng Tử đọc Dị kinh Vi biên tam tuyệt, dùng da trâu và dây thừng đóng quyển. Bản thảo của Lã Bất Vi, Lý Tư, Tư Mã Tương Như, ngự bút của Hán Vũ Đế, bản thảo cuốn sử ký Tư Mã Thiên, bản tấu chương thỉnh chiến của quán quân Hầu Hoắc, lan đình tự của Đường Thái Tông đích thân vẽ, bút tích của Vương Duy, Lý Bạch, Bạch Cư Dị…
Đây là bảo vật tổ tiên ba đời hắn khó nhọc tích lũy được mà truyền lại tới ngày nay, nhìn từng cuốn, từng trang đều có thể nói rằng nó là báu vật vô giá, máu trong lòng Lý Dục hừng hực, liền cao giọng nói: “Trẫm ban đầu từng nói, nếu người Tống thảo phạt, sẽ đích thân mặc giáp, dẫn hổ binh bắc cự quân Tống, nếu như sự bất thành, thì tự sát chứ không quy hàng. Giờ thành trì đã bị phá, quân địch vào thành, trẫm đã khó thực hiện được hứa hẹn thứ nhất, nhưng về cái thứ hai, trẫm nhất định phải làm cho bằng được.”
Hắn đứng thẳng lưng dậy, tay nắm chặt nói: “Các khanh, trẫm… giờ có thánh chỉ cuối cùng cho các khanh.”
Lý Thính Phong vội dẫn các tướng và quan viên nghe chỉ. Lý Dục lớn giọng nói từng chữ một: “Quốc sự đã không thể làm gì nổi, quân vương phải bảo vệ xã tắc, song ta đã không thể bảo vệ, làm chết đi xã tắc. Trẫm tức khắp nhập hậu cung, cùng với hoàng hậu châm lửa tự sát, tận trung với xã tắc. Các ngươi đi lấy vật dễ cháy ở quanh đây, mang vào Trừng Tâm điện, Thanh Huy đường đốt quách bảo vật đi cho rồi, chôn nó cùng với trẫm, sau đó thì tự mà trốn đi.”
“Bệ hạ, bệ hạ, tuyệt đối không được.” Các quan viên nghe vậy mặt mũi tím tái, quỳ lạy khuyên can. Lý Dục phất tay áo một cái, nghiêm nghị quát: “Thánh chỉ cuối cùng của trẫm, các ái khanh cũng không tuân theo?”
Ngừng giây lát, Lý Dục lại nói: “Trẫm đã quyết vậy, chớ nhiều lời!” nói rồi đi về phía hậu cung.
Lý Thính Phong nghe thấy tiếng bước chân Lý Dục dần xa, từ từ ngẩng đầu dậy, mắt lạnh lùng nói: “Chư vị, tính mạng toàn gia các người có thể bảo toàn hay không, đều ở số bảo vật trong cung điện này. Trong Tống doanh có một vị đại nhân, không thích vàng bạc châu báu, chỉ thích văn thơ cổ chương, khi bổn quan xuất xứ Tống quốc đã biết được điều này. Nếu có thể bảo vệ chỗ báu vật này, hắn sẽ bảo vệ ta ngươi chu toàn. Huống hồ những thứ này đều là tâm huyết của người trước để lại, là những bảo vật quý giá, các ngươi nhẫn tâm cho nó một mồi lửa sao? Ý bổn quan là, chi bằng cứu lấy những bảo vật này, cứu lấy tính mạng gia tính ta ngươi, các vị thấy thế nào?”
Mấy chục vị quan nhìn nhau, lòng mỗi người đều có chung ý nghĩ, rồi một người bước ra tức giận nói: “Lý đại nhân có ý vậy là kháng lại thánh chỉ ư? Ta tuy là tiểu thần, cũng biết tận trung với xã tắc. Giờ bệ hạ có mong muốn chết theo xã tắc, ta còn tiếc gì cái thân này, nguyện đi theo bệ hạ. Nếu ngươi sợ chết, thì cứ chạy đi, việc gì phải kháng lại thánh chỉ như thế?”
Lý Thính Phong ảm đạm cười, đảo mắt nhìn xung quanh nói: “Các vị, đại thần trong triều, tất cả đều như quần áo mặc, nếu có thể bảo vệ được thân quyến, ta ngươi tiểu quan, nếu như vô công, trong chiến loạn, ai còn dám bảo toàn ta ngươi? Chỗ cô bản điển tàng này chính là vật bảo vệ tính mạng ta ngươi, các vị chết vì xã tắc, thế còn phụ mẫu thê tử có muốn bảo vệ không?”
Đám người im lặng không nói câu gì, chỉ nghe thấy tiếng thở, vị quan đó tức giận đến mặt mũi đỏ gay, hét lớn: “Được, được, các người được lắm. Ta còn tưởng các người lâm nguy nhập cung, thực lòng hộ giá, hóa ra đều chỉ tính toán cái lợi của bản thân. Đừng có xem thành phá thế nguy, quân Tống vào thành, cung này trái lại vẫn là thiên hạ của bệ hạ. Ta sẽ đi báo cáo hoàng thượng, giết hết bọn gian nịnh các ngươi.”
Người này phất tay áo bỏ đi, bên cạnh có một vị quan đột nhiên hét một tiếng, bổ nhào đến bóp cổ hắn. Các vị quan bên cạnh cũng phản ứng được, có người hoang mang đứng nhìn xung quanh, có người chạy đến bàn cầm lấy nghiên mực, có người thì cầm lấy lư hương, có người thì cầm lấy đồng hạc, nghiến răng nghiến lợi đập, coi đồng nghiệp ngày xưa thành đại thù sinh tử hung hăng mà đập vào. Ngọn đèn lay động, in cử động của bọn họ lên tường, tiếng hét của bọn họ còn thê lương hơn vị quan đó, mấy viên quan mơ hồ như bóp lấy máu thịt, nhìn mặt người nọ chết thảm, tay chân run rẩy buông ra, mặt còn trắng hơn cả người chết.
“Các vị, sự việc hôm nay, các vị đều là người thông minh, nên biết tự giữ lấy mình, nếu không, đừng nói vị đại quan Tống quốc đó không tha cho các vị, tội kháng chỉ, giết đồng nghiệp, cả thiên hạ không dung. Bổn quan đã mua được ngự thiện phòng chủ sự và tây môn thủ tướng, các vị lập tức đưa bảo vật lên xe, ta theo xe xuất cung, chạy về thư viện Giang Nam!”
Mấy chục viên tiểu quan hoang mang lo sợ, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, đồng ý chạy đi.
***
“Hoàng thượng…”
Vừa thấy Lý Dục, tiểu Chu hậu nước mắt ngắn dài nói.
“Nữ Anh, giang sơn của trẫm… đã mất rồi.”
Lý Dục rưng rưng nước mắt nói: “Trẫm sẽ lấy thân này chết theo xã tắc, ái khanh có nguyện đi cùng trẫm xuống suối vàng không?”
Tiểu Chu hậu nức nở nói: “Hoàng thượng, thiếp chỉ là thân nữ yếu đuối, còn có thể đi đâu nữa đây? Thần thiếp là phi tử của hoàng thượng, thành bị phá cung bị nghiêng, thiếp sao có thể chịu được nỗi nhục này? Hoàng thượng nếu đi như vậy, thần thiếp xin đi theo hầu hạ.”
“Được, được!”
Lý Dục mỉm cười, hắn bỏ chụp đèn, cầm lấy ngọn nến, châm vào các rèm, màn che. Lửa nhanh chóng lan ra, thị tị nội thị trong cung khuyên can không kịp, ôm đầu chạy ra ngoài.
“Nữ Anh…”
Lửa cháy hừng hực, Lý Dục ôm lấy thân thể mềm mại.
“Bùm!” Cửa thành bị phá, quân Tống đã giết chết thủ quân và mở cửa thành ra, đại quân ngoài thành chen chúc xông vào. Triệu Quang Nghĩa hăng hái vung tay lên vẫy, lớn tiếng cười nói: “Huy quân vào thành!”
Tẩm cung hoàng hậu biến thành ngọn lửa ngùn ngụt trong đêm, lửa cháy ngút trời.
“Bùm!”
Một góc điện sập xuống, đám lửa như hàng ngàn con đom đóm bay lên, Lý Dục ôm tiểu Chu hậu lo sợ lùi vào mấy nàng, long bào của hắn đã bị đốt mất một góc, tóc tai dựng đứng lên, mặt mũi nhem nhuốc, bộ dạng lúc này như một tên ăn mày.
Hắn quyết tận trung chết vì nước, nhưng hắn không thể ngờ rằng, khi đám lửa cháy, lại có nỗi sợ ấy. Lửa cháy xèo xèo, da thịt tựa hồ vỡ tan cả ra, hắn không thể tưởng tượng khi lửa đốt tới người hắn, lại đau đớn khó chịu đến vậy. Vì thế khi long bào của hắn bị đốt một góc, Lý Dục vội thay đổi quyết định, nhắm mắt ôm lấy tiểu Chu hậu vào lòng chạy ra ngoài.
“Bùm!” Lại là một cây cột bị đổ. Lý Dục run rẩy, lắp bắp: “Ta… chúng ta hàng đi…”
Lý Thính Phong ở Thanh Huy điện, Trừng Tâm đường, mang theo những quan lại và ngự thiện phòng chủ sự cùng đám tôi tớ lên xa, lúc đi vứt một mồi lửa, hủy bỏ dấu tích.
Lý Dục hoảng sợ chạy đến điện Thanh Lương, trên đường đi nhìn thấy Thanh Tâm đường lửa cháy cuồn cuộn, khóc lóc thảm thiết.
Những tinh hoa văn chương được truyền lại tự thời Xuân Thu chiến quốc, Tần Hán Tấn Đường, Hoa Hạ dân tộc mấy nghìn năm, chỉ một tiếng thánh chỉ của hắn mà bị đốt thành tro bụi. Vô số bảo vật hóa thành đám tro tàn, bảo vật quý giá đều do hắn thiêu đốt, hắn sao không khóc được.
“Bệ hạ!”
Vừa vào điện Thanh Lương, thì thấy Trần Kiều cầm lấy kiếm chạy đến. Vị khu mật sứ đại nhân này sau khi giết chết Hoàng Phủ Kế Huân, đích thân kiêm nhiệm thần vệ quân đô chỉ huy sứ, chủ trì Kim Lăng phòng ngự. Vừa thấy Lý Dục, Trần Kiều rưng rưng nói: “Bệ hạ, tướng lĩnh Mã Thành Tín, Mã Thừa Tuấn đang dẫn quân trên đường ngăn chặn quân Tống, bệ hạ sao lại mở rộng cửa cung để người tùy tiện ra vào lấy hết tài vật đi. Rất nhiều cung vệ quan binh đã cởi giáp, chạy hết rồi.”
Lý Dục cười thảm nói: “Trần ái khanh, sự đã đến nước này, còn đóng cửa cung làm gì nữa chứ? Kệ bọn họ đi, trẫm… đã quyết định đầu hàng rồi.”
“Gì ạ?”
Trần Kiều vừa ngạc nhiên vừa giận: “Bệ hạ vốn đã thề chết không hàng, tướng sĩ toàn thành nguyện đồng sinh cộng tử với bệ hạ, giữ nước đến giây phút cuối cùng. Giờ cửa thành bị phá, lại quay ra quy hàng, há chẳng phải là trò cười cho thiên hạ sao? Bệ hạ, từ cổ chí kim, nước mất mới quy hàng, nhục nhã lắm bệ hạ à. Xin bệ hạ phong bế cung môn, quyết tử một trận đi, đại trượng phu có chết cũng phải chết cho oanh liệt chứ.”
Lý Dục định chết rồi lại không chết, lúc này không còn dũng cảm đi chết nữa. Hắn lắc đầu thở dài, không nói gì.
Trần Kiều thấy tình hình như vậy, quỳ xuống nói: “Đã như vậy, xin bệ hạ giết thần đi cho rồi. Thần là quan Đường quốc, phục vụ bệ hạ, xin bệ hạ nhân lúc quân Tống chưa đến nơi, kết liễu mạng thần đi, chờ đến lúc Triệu quan gia hỏi tội bệ hạ, bệ hạ có thể đổ hết tội vạ lên đầu thần.”
Lý Dục nghe xong không khỏi khóc lớn, giữ chặt hắn nói: “Vận số đã đến gần, khanh chết đi còn ích gì, trẫm không nỡ ra tay!”
Mặt cho Trần Kiều khẩn cầu, Lý Dục vẫn không làm. Trần Kiều bi phẫn nói: “Thần không chết đi, còn mặt mũi nào mà đi gặp kẻ sĩ Giang Nam? Bệ hạ muốn đầu hàng, thần không nỡ nhìn bệ hạ hàng.” Nói rồi chạy ra điện, nhìn khói lửa trong thành, hét lớn một tiếng rồi tự vẫn.
Nội thị tận tâm đều chạy vào điện, hét lớn: “Bệ hạ, bệ hạ, quân Tống đã đến ngoài cung môn rồi…”
Lý Dục run rấy, mặt mày tái nhợt ngẩng đầu hỏi: “Ai lãnh quân?”
Nội thị đô tri run run: “Quân Tống đến cung môn thì thủ tại ngoại môn không vào, nô tì không biết là ai lãnh quân.”
Lý Dục nghe vậy an tâm một chút, trầm mặc lúc lâu nói: “Ngươi đi nói với quân Tống ngoài cung môn, nói là… trẫm… xin hàng…”
Vừa vào thành, các lộ tướng lĩnh phân nhau đi các nơi. Tào Bân dẫn quân vào cung môn, quân Tống vào thành đốt giết, nếu ngộ nhỡ để chúng vào cung làm bẩn hoàng hậu, bức tử hoàng đế, thì trước mặt Triệu quan gia còn đâu mặt mũi mà mở mồm. Khi đợi hắn chạy đến cung môn, chỉ thấy cửa cung được mở, rất nhiền quan nhân nội thị bịch lớn bịch nhỏ chạy ra, thủ tướng cung môn cũng đã hồn bay phách tán, còn tưởng Lý Dục đã tự vẫn.
Tào Bân ngăn hai tên trong cung hỏi rõ tình hình, lúc này mới yên tâm, vội phái người đi thủ tất cả cung môn, không được vào mà cũng không được ra, đồng thời phái người đi báo tin cho Triệu Quang Nghĩa.
Sau khi Dương Hạo vào thành, bèn dẫn thân vệ khiêng cờ chữ Tống từ sông Tần Hoài đến thẳng thư viện Giang Nam, hắn từng qua đây, rất quen các nơi gần đây, trước khi hắn đến thư viện Giang Nam, thì gặp mấy sĩ tử đang vội vàng chạy về hướng đại môn thư viện, đập tay vào viện môn, mong muốn được vào tránh nạn, mà lúc này một tốp quân Tống nhìn thấy họ đang lao tới.
Mấy sĩ tử Giang Nam cơ thể gầy gò vô cùng, người nào người nấy như thân liễu, một đại hán thô xì lao tới, họ chỉ kịp hét lên, giọng nói vừa thanh vừa nhỏ hệt con gái. Mấy quân hán ban đầu còn sững người, sau đó cười hô hô ha ha: “Là con gái, họ là con gái”. Nói rồi càng lao đến, bỗng một thư sinh hét:
“Dừng tay! Bệ hạ nghiêm chỉ, Tào tướng quân nghiêm lệnh, không được dâm tà, ngươi dám mạo phạm quân lệnh không?”
Dương Hạo đứng một bên giục ngựa chạy tới, vừa lớn tiếng quát mắng, Mục Vũ đưa tay cầm đao, đánh vào má của quân hán kia, làm chúng hoảng sợ.
Mượn ánh lửa ngẩng đầu, hắn nhìn Dương Hạo nhung trang, cưỡi ngựa cao lớn, phía sau có mấy tên hổ vệ, trong đó một người cầm đại kỳ, rõ ràng là một viên thượng tướng, không dám kháng lệnh, vội nhảy cẫng lên, xin lỗi vài tiếng, nhân lúc Dương Hạo vẫn chưa nhìn rõ bộ dáng, lệnh cho người của hắn chuồn đi.
Dương Hạo đến gần, ghìm cương ngựa nhìn, chỉ thấy mấy sĩ tử quả nhiên là con gái, dung nhan xinh đẹp, tuy giả trai song không giảm chút nhan sắc, không khỏi nhẹ nhàng nói: “Binh rối loạn, các người chạy ra ngoài làm gì, mau mau về nhà của mình đi, đóng cửa cho chặt lại, thủ quân trong thành một khi bỏ kháng cự, ý chỉ trấn an sẽ đến, khi đó, các người tự khả vô ngu”.
Một người bị quân hán đẩy ngã nhào, mũ đội lệch sang một bên, tóc rối tung lồm cồm bò dậy, nhìn Dương Hạo, bỗng nói: “Tướng quân trên ngựa, có phải là Dương tả sứ không?”
“Hả?” Dương Hạo định thần lại nhìn, người con gái đứng trước ngựa tóc tai rối bù, đôi mắt nhanh nhẹn, khuôn mặt vô cùng xinh đẹp, có vẻ đã gặp đâu đó, nhưng do trời nhá nhem, hơn nữa cô ấy lại mặc đồ nam nhi, nên không nhớ ra cô ấy là ai.
Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, giữ chặt chuôi kiếm: “Ồ, cô là?”
“Dương đại nhân, nô gia là Diểu Nương, từng gặp đại nhân…một…hai lần…hic…gặp đại nhân mấy lần rồi…”
“Diểu Nương?”
Dương Hạo vô cùng ngạc nhiên, chăm chú nhìn, quả nhiên là cô, Dương Hạo không khỏi giật mình nói: “Diểu Nương, sao cô lại ở đây?”
Diểu Nương buồn bã nói: “Khi cửa thành bị phá, Hoàng thượng bảo đám nô tì rời cung, Diểu Nương từ nhỏ đến lớn trong cung, không có chỗ nào đi, liền cùng với vài tỷ muội thu dọn đồ đạc, cải trang nam nhi, vốn là muốn chạy đến Tịnh Tâm thiền viện trốn, không muốn để cho quân hung hãn biết, thiền viện cũng bị họ thiêu cả rồi, đồng Phật cũng bị họ phá bỏ, nô gia sợ quá, nghĩ đến chỗ thư viện là nơi mà các quân hung hãn không thích nên chạy lại đây, không ngờ lại gặp họ…”
“May mắn mà gặp được đại nhân, đại nhân, làm ơn cứu mạng…” Diểu Nương nói rồi, quỳ sụp xuống đất.
Dương Hạo nghe lời khẩn khoản vô cùng do dự, hắn không có năng lực cứu giúp thiên hạ, thế gian bao chuyện bất bình làm sao lo được hết, nhưng nếu sự việc chính mắt mình trông thấy mà cũng làm ngơ, thực không phải với lương tâm, nếu giờ đuổi bọn họ đi, họ chẳng có chỗ nào có thể trốn, tất sẽ bị loạn binh tóm được, binh sĩ giờ đánh đến đây, ngày mai đánh nơi khác, không thể mang con gái theo người kè kè được, sợ rằng sau khi đưa họ đi như thế sẽ bị một đao làm thịt, đến lúc đó mình sao có thể yên tâm được?
Nhưng nếu như muốn giúp, thì giúp thế nào đây? Trong thư viện đều là tộc người thân tín của Lý Thính Phong, cơ nghiệp Lý Thính Phong ở Giang Nam bị quét sạch, đang cần tìm nơi ở, hắn có lòng lôi kéo Lý Thính Phong làm cho mình, lúc này mới liều mạng tới, bảo vệ nhà hắn chu toàn, vốn trong doanh rất nhiều đại tướng đều hứa hẹn phải bảo vệ quan lại cho chu đáo, quy tắc ngầm này mọi người ngươi biết ta biết, ai cũng sẽ không làm trái. Nhưng mình không muốn văn vật Giang Nam bị hủy bởi loạn chiến, muốn làm của riêng, nếu Lý Thính Phong lần này sự thành, thì bảo vật vô giá kia giờ sẽ nằm trong thư viện, nếu để cho Diểu Nương bọn họ thấy…
Diểu Nương ngại ngùng nhìn tướng lĩnh quân Tống không nói lời nào, thấy Dương Hạo ngồi trên ngựa chần chừ, Diểu Nương sợ hắn phẩy tay áo bỏ đi, liền khấu đầu liên tục, cầu xin: “Dương đại nhân, tính mạng của bọn nô tỳ đều nằm trong tay đại nhân, cầu xin đại nhân khai ân, cứu lấy chúng tôi với”.
Diểu Nương quỳ xuống, mấy cô gái kia cũng lần lượt quỳ xuống, khóc thút thít cầu xin, Dương Hạo ghìm ngựa hơi xoay người, nghĩ ngợi một lúc nói: “Diểu Nương, bổn quan phái người bảo vệ các người rời khỏi đây, tìm nơi vắng lặng mà trốn tạm một thời gian, đợi khi chiến sự dừng lại, các người có thể tự tìm đường ra nhé”.
Diểu Nương đâu chịu, tự dưng nhặt được một cây cỏ cứu mạng, có đánh chết cô cô cũng không chịu đi, sau Dương Hạo là mấy võ sĩ xem ra giống như bọn cường đạo, trời mới biết bảy tám cô gái như hoa như ngọc đi theo họ, bọn họ lại không nảy sinh ý đồ gì, giết người diệt khẩu thì sao.
Hơn nữa, giờ nhìn tình hình trong thành, sợ rằng quan lại thân hào, ai nấy đều trốn hết rồi, nhà giàu bị phá, khắp thành là lưu dân, ngày mai tự tìm đường ra…đường ra ở đâu? Binh phỉ, dân phỉ, đến lúc đó chỉ có cùng đường, nếu như có thể bảo vệ tính mạng ở chốn loạn lạc này cũng được coi là tốt lắm rồi.
Giờ nghe khẩu khí của Dương Hạo, rõ ràng là đang chối từ, người thương hoa tiếc ngọc lại là một đại quan, nếu bỏ qua hắn, sợ rằng sẽ không còn đường nào tốt nữa, tìm một chủ nhân tốt còn khó hơn lên trời.
Diểu Nương lập tức khấu đầu cầu xin nói: “Thân thiếp bạc mệnh, không nơi an thân, ngay cả đại nhân cũng khai ân, bảo vệ đám nô tỳ, bọn nô tỳ này không có đường sống có thể đi, cầu xin đại nhân khai ân, thu lưu lại nhóm nô tỳ, đại nhân đại từ đại bi, xin hãy khai ân, đại nhân, cầu xin ngài…”
“Dừng lại đi!”
Dương Hạo nhướn mày, nhìn quanh, không có binh sĩ nào tới, mới nhỏ nhẹ nói: “Diểu Nương, nếu như hôm nay các cô theo ta, thì sẽ không được tự do đâu, huống hồ…nhất định phải rời xa quê hương Giang Nam, cô…hiểu không?”
Dương Hạo thực khong nhẫn tâm đuổi bọn họ đi, nhưng nếu như giữ bọn họ lại, thì cái bí mật có điển tàng cô bản quý giá truyền từ xưa để lại sẽ bị họ phát hiện mất, mà chỉ có thể để họ theo Lý Thính Phong cùng đến Lô Châu, còn mình thì trở về Lô Châu ván bài lật ngửa với Đại Tống, tuyệt đối không được để họ tự do, đây là một câu hỏi lớn.
Diểu Nương đương nhiên là hiểu, mặt cô không khỏi nóng ran, đại nhân có ý như vậy với mình, cả đời có thể dựa vào, tuy xấu hổ, song nỗi sợ hãi đã được trấn định lại, mấy cô gái vội đáp: “Nhưng được đại nhân bảo vệ tính mạng, đại nhân chính là phụ mẫu tái sinh của đám nô tỳ, bọn nô tỳ cảm kích cả đời này, nguyện cả đời bên cạnh đại nhân…”
Dương Hạo thở dài, quay đầu nói: “Tiểu Vũ, ngươi mang bọn họ vào trong thư viện. Mấy người các ngươi đứng đều sang hai bên phải trái, chớ để loạn binh quấy rầy”.
*****
Trời sáng, Triệu Quang Nghĩa mặc long bào cưỡi ngựa đến trước cung môn.
Tối qua chiến loạn, đắc tri Tào Bân đã thủ viện môn, không để cho Lý Dục tẩu thoát, Triệu Quang Nghĩa đã yên tâm rất nhiều, hắn không vội tới tiếp nhận đầu hàng của vua một nước, đó là việc quan trọng đến mức nào, thời khắc này sẽ ghi danh sử sách, đương nhiên cần phải rõ như ban ngày, được vạn dân chiêm ngưỡng.
Trải qua một đêm loạn ly, quân Đường trong thành Kim Lăng đã hàng, đã chết, đã hoàn toàn không còn sự kháng cự, Triệu Quang Nghĩa cũng ước thúc loạn binh, khôi phục lại trật tự. Hắn ngồi trên ngựa đi trên quãng đường tới cung thành Đường Quốc la liệt xác chết và những vết máu còn chưa khô, sĩ binh đứng bên đường san sát nhau, kéo dài đến tận cung môn, sau binh sĩ là dân chúng Đường Quốc chạy tới xem, lúc này, Triệu Quang Nghĩa nhiệt huyết sôi trào.
“Bệ hạ…” Nội thị đô tri đứng trước điện, gọi Lý Dục một tiếng.
“Đất nước bốn mươi năm, ba nghìn dặm địa sơn hà, …
Lý Dục mặc bộ quần áo trắng, rơi lệ, nhìn đám nội thị trong cung, buồn bã nói: “Đi thôi!”
Cung môn từ từ được mở ra, quân Tống đứng thành hàng trước cửa, Triệu Quang Nghĩa, Tào Bân, Dương Hạo, Tào Hàn và đám văn võ xuống ngựa xong, lặng lẽ nhìn đội ngũ đi ra từ trong cung.
Mấy chục quan viên Đường Quốc, mặc quần áo trắng, Lý Dục đứng giữa, để lộ thịt trắng béo mập, cầm một đầu bạch dương, rối bù đi tới, nghiêm túc dâng lễ vật xin hàng. Phía sau hắn, hai tên nội thị, một tên đưa cao thư xin hàng, một tên thì cầm quốc tỉ, ở chỗ đội ngũ còn bê một cái quan tài, ý là đáng chết vạn phần.
Lúc này tinh thần Triệu Quang Nghĩa rất tốt, ba tháng bình định Đường Quốc, hắn làm được rồi. Quân vương Đường Quốc sống không bằng chết nhận tội trước mặt hắn, hắn đã làm được. Hắn còn gì không hài lòng nữa?
Khi Lý Dục quỳ xuống nhận tội, Triệu Quang Nghĩa nhảy xuống khỏi ngựa, nhẹ nhàng nâng hắn dậy, hiến hàng lễ tất, cởi áo bào ngoài của mình phủ lên người Lý Dục, vỗ về một lúc, rồi mới mời Lý Dục cùng về trong doanh trại của hắn.
Lúc này Lý Dục bị giam lỏng trong doanh, đợi Lý Dục được mang ra, Triệu Quang Nghĩa thu vẻ tươi cười lại, nghiêm túc nói: “Giờ Lý Dục đã hàng, thông báo tin Lý Dục quy hàng cho khắp thiên hạ, châu phủ Đường Quốc, thủ thành định ngày mà dâng thành đầu hàng, người nào kháng mệnh không theo, một khi thành bị phá, tàn sát hết dân trong thành”.
Dương Hạo rùng mình, Triệu Quang Nghĩa hạ lệnh sẽ tàn sát hàng loạt dân trong thành, giờ đường hoàng hạ lệnh, thế là thế nào? Dương Hạo nhúc nhích người, Triệu Quang Nghĩa đã nói tiếp: “Quốc Chúa Giang Nam đã hàng, tên nào vẫn theo thành không hàng, làm sĩ binh tận trung với Đường Quốc, tiêu diệt hết, tro tàn một khi đốt hết, không biết sẽ chiến loạn ra sao, cô độc chống lại cũng chẳng ích gì, đây là quân lệnh, chớ nhiều lời”.
Dương Hạo thở dài, dừng bước chân.
Rời khỏi lều soái, Tào Bân nhìn Dương Hạo, nói: “Dương đại nhân có cách nghĩ khác với Tấn Vương sao?”
Dương Hạo lắc đầu: “Nếu Giang Nam nhất như người Thục, kéo cờ tạo phản, tập hợp đại quân, không biết sẽ dẫn đến bao nhiêu người ly loạn đây, Tấn Vương lấy giết chỉ giết, Dương Hạo hiểu nỗi khổ của Thiên Tuế, trường thông không bằng đoản thông, nhưng…sau khi thành phá còn cần giết dân trong thành, không khỏi gánh nặng chết chóc quá nặng. Rất nhiều dân chúng bất đắc dĩ mà ở tron thành, và cũng không thề sống chết nguyện trung thành với Đường, nếu như ngọc thạch đốt hết, không khỏi làm người ta oan thán”.
Tào Bân nói: “Đúng vậy, Tào mỗ cũng nghĩ vậy, cho nên đã lệnh cho khoái mã về bẩm báo với Kinh thành, để Bệ hạ lo chuyện này, chứ giết thế này…hic…mong…thánh chỉ sớm tới”.
Hắn nhìn về phương bắc thở dài nói: “Dương tả sứ, chúng ta đi gặp Lý Dục, Tào Bân có việc, kính nhờ đại nhân”.
Dương Hạo không biết Tào Bân tại sao như vậy, chỉ đi cùng với hắn, đến nơi giam lỏng Lý Dục, Lý Dục vội chạy ra nghênh đón, Tào Bân nói: “Bệ hạ nhớ Quốc Chúa đấy, nay Quốc Chúa trung thành đến hàng, Bệ hạ tất sẽ khen ngợi. Ngày mai Tấn Vương Thiên Tuế sẽ sắp xếp cho Quốc Chúa đến Biện Lương gặp Bệ hạ, Quốc Chúa giờ lệnh cho gia quyến đi chuẩn bị đi, chuẩn bị vàng bạc đồ cống nạp, có bao nhiêu thì cầm hết đi, nếu không sau khi tài vật bị niêm phong, rồi không cầm ra được nữa”.
Lý Dục buồn bã nói: “Tội thần khiến Bệ hạ tức giận, lần này đi Biện Lương, tính mạng khó mà bảo toàn, còn mang theo tiền của đi có ích gì?”
Tào Bân mỉm cười nói: “Bệ hạ nhân từ, tuyệt đối sẽ không làm thương Quốc Chúa. Nhưng…lần này đi nhận chức quan, bổng lộc chắc sẽ ít, cuộc sống sợ sẽ không hậu đãi được như trước kia. Quốc Chúa sống an nhàn sung sướng lâu rồi, sao chịu được cảnh thanh bần cực khổ. Nếu Quốc Chúa có ý, bổn tướng sẽ phái một đạo nhân mã, mời Dương đại nhân chiếu ứng, theo ngươi vào cung mang vác tiền của”.
Tào Bân nghe vậy vừa mừng vừa lo, vội vàng bái tạ, rồi lập tức bảo nội thị bên người theo Dương Hạo vào thành.
Binh tướng thủ cung môn là bộ hạ của Tào Bân, được tướng lệnh bèn theo Dương Hạo vào cung, trong cung rắn mất đầu, hoảng sợ, vừa nghe Dương Hạo đến, Tiểu Chu hậu cũng bất chấp lễ nghi, vội vàng ra nghênh đón nói: “Dương đại nhân, Quốc Chúa nhà ta giờ sao rồi, gắn vào tội trạng gì?”
Tiểu Chu hậu lúc này như mơ ngủ, kiều diễm, lúc này vô cùng tiều tụy, mặt mày ảm đạm. Dương Hạo hơi thi lễ về phía cô, vẻ mặt ổn hòa nói: “Nương nương chớ nên lo lắng, Quốc Chúa giờ vẫn rất tốt. Ngày mai sẽ đưa Quốc Chúa và nương nương đến Biện Lương gặp Bệ hạ, Dương mỗ hôm nay đến là theo sự phó thác của Quốc Chúa, bảo nương nương chuẩn bị vàng bạc và các đồ châu báu, trước tiên đưa chúng vào trong doanh, để mai khởi hành tránh không kịp chuẩn bị”.
Tiểu Chu hậu nghe nói Lý Dục không sao, thở phào nhẹ nhõm, cô cảm ơn Dương Hạo, nghĩ chi li, không biết nên mang theo vật nào, cô từ nhỏ tới lớn sinh ra và lớn lên trong gia đình phú quý, đến khi trưởng thành thì trở thành Hoàng hậu của Đường Quốc, cầm kỳ thi họa thì không ai sánh bằng, song lại không có sở trường về quản lý tài sản, nghĩ ngợi một lúc lâu, bèn dặn dò nội thị đô tri, tùy ý sắp xếp tiền của, đặc biệt là tứ bảo trong phòng Lý Dục luôn nâng niu giấy trừng Tâm điện, nghiên Long Vĩ, mực Lý Đình Khuê và gói chúng thật kỹ lưỡng vào bảy tám mươi chiếc hòm, nghìn ơn vạn tạ giao cho Dương Hạo.
Dương Hạo nhìn mỹ nữ buồn bã, và vô cùng lo sợ, không đành lòng, hơn nữa hắn còn trộm vật quý vô giá của nhà người ta, giờ thấy chủ nhân vậy cũng hơi không vững tin, cho nên hắn cũng không ở lại lâu, thấy cô đã thu dọn kha khá, liền cáo từ đi ra.
Dương Hạo hộ tống bảy tám chục hòm ra khỏi cửa thành Kim Lăng, phía trước có thân binh Tào Bân không có gì đáng ngại, lúc này đi, kính bôn thư viện Giang Nam.
Người của hắn còn thủ ở thư viện, Dương Hạo vào thư viện Giang Nam, Lý Thính Phong lập tức ra nghênh đón.
Dương Hạo hỏi: “Việc đã lo ổn thỏa chưa?”
Lý Thính Phong cung kính cười nói: “May mắn không sao”.
Dương Hạo thở phào, mặt tươi cười nói: “Vàng bạc châu báu, nếu mất có thể lấy lại được, chỗ văn chương vô giá đó có từ thời Hoa Hạ mấy nghìn năm tinh túy, một khi có bị mất mát, cũng không thể nào lấy lại được, Lý huynh có thể giữ gìn, cho dù ngàn năm sau, hậu thế cũng sẽ cảm động và nhớ nhung công lao to lớn của huynh đài”.
Lý Thính Phong xua tay cười nói: “Không dám, không dám, điều đó xuất phát từ ý của Dương huynh, Lý mỗ chỉ là người thực hiện thôi. Ha ha, không ngờ Dương huynh thực là người thích sách, hao hết cả tâm tư, không cần đồ châu báu mỹ nữ, lại chỉ thích văn thơ kinh điển, thực là khiến người ta bái phục”.
Hắn nói đến châu ngọc mỹ nữ, Dương Hạo bèn nghĩ tới hôm qua cứu Diểu Nương và mấy ca kỹ vũ trong cung, liền mỉm cười hỏi: “Đúng, hôm qua bảo Tiểu Vũ đưa mấy cô gái vào đây, đã sắp xếp ổn thỏa chưa? “
Lý Thính Phong nói: “Đại nhân đã an bài, ai dám quấy rầy họ, giờ đã dàn xếp phía sau rồi”.
Dương Hạo gật đầu, mặt lại tươi cười hỏi: “Cơ nghiệp Lý huynh đều ở Đường Quốc, giờ cơ nghiệp bị hủy, dự tính đợi Giang Nam bình lặng lại, lại khôi phục Đông Sơn, hay là…muốn di cư?”
Lý Thính Phong mắt sáng lên, hỏi lại: “Giờ Giang Nam đã quy Tống, liệu trong mấy năm Tống Quốc nghỉ ngơi lấy lại sức, hưu binh nghỉ dân, kiểm kê nội chính, lấy lại lực lượng, không biết Dương huynh khi nào về tây bắc, chủ trì đại cục?”
Dương Hạo hơi tính toán, nói: “Muộn nhất sẽ không quá tháng 7 năm nay, cây cỏ tươi tốt, dê béo mã tráng”.
Lý Thính Phong cười nói: “Đã như vậy, Lý mỗ lần này đi Lô Châu, thì sẽ qua đó cung hầu đại nhân, còn về gia nghiệp Lý Thị, cũng sẽ lần lượt rời đến Tây vực”.
Dương Hạo thầm nghĩ: “Người trong Thừa Tự đường thực cẩn thận, xem ra Lý Thính Phong này còn chưa hết hy vọng đạp chiến thuyền của ta. Thế giới này không có chế độ tiên tiến nhất, hoàn mỹ nhất, chỉ có nhập gia tùy tục, thích hợp với chế độ của địa phương, nếu ta quật khởi tây vực, tuyệt đối không thể giống như tân triều Vương Mãng hoàng đế rập khuôn với một chế độ hoàn mỹ trên giấy, còn về thực hiện, sợ kéo dài chế độ môn phiệt Tùy Đường trở lại đây, mới có thể có được sự ủng hộ thế lực người ta”.
Trong lòng nghĩ vậy, Dương Hạo nói: “Được, quay đầu lại Dương mỗ sẽ thu thư nhất phong, sau khi Lý huynh đến có thể giao cho nghĩa phụ Dương mỗ, ông ấy nhất định sẽ nhận. Dương mỗ nghĩ mấy vị cô nương, sợ…họ cũng không thể không phó thác Lý huynh, cùng đi Lô Châu”.
“Đại nhân đến rồi, đại nhân đến rồi”. Mấy cô nương sống sót sau tai nạn vừa nhìn thấy Dương Hạo thì như gặp được người đáng tin cậy kêu lên. Họ vẫn giả trang nam nhi, tuy hơi gượng song vẫn xinh đẹp vô cùng. Người trong Đường cung đi ra, quả nhiên bộ dạng thướt tha Giang Nam, mỗi người đều là một giai nhân trong thiên hạ.
“Đại nhân đến rồi sao?”
Diểu Nương ở trong phòng nghe thấy, vội nở nụ cười hỏi han, lúc này tuy không son phấn, nhưng được ánh mặt trời chiếu, khuôn mặt nhẵn không tì vết, cô đưa ngón tay ngọc ra, vuốt lại mấy sợi tóc bay rối, và nhìn về phía hắn, và đi đến.
Đối với vị ân chủ của mình, cô chỉ là một thiếu nữ mà thôi, trong thời loạn, có thể tìm một nơi yên bình chính là sự thỏa mãn lớn nhất, giờ Dương Hạo đã là chỗ dựa đáng tin duy nhất của cô, đến thư viện, nhìn thấy đống văn chương vô giá, cô càng hiểu Dương Hạo không có dã tâm giết bọn họ diệt khẩu, nên cô vô cùng cảm động.
Cô vội vàng đến gặp Dương Hạo, Dương Hạo mỉm cười với họ nói: “Các cô yên tâm ở đây mấy ngày, ngày mai Lý Dục sẽ vào kinh, thành Kim Lăng qua vài bữa nữa sẽ không còn nghiêm mật thế này nữa, đến lúc đó bổn quan sẽ sắp xếp cho các cô một nơi an toàn”.
Diểu Nương giật mình: “Đi nơi nào? Nô gia…nô gia và mấy tỷ muội không theo đại nhân về Biện Lương sao?”
Dương Hạo cười lớn nói: “Chớ có hỏi nhiều, các cô chỉ cần yên tâm ở đây, bổn quan đồng ý cứu các người, thì sẽ không bỏ rơi giữa đường đâu”.
Diểu Nương vội dịu dàng nói: “Vâng, nô gia nào dám hỏi đại nhân nhiều, chỉ là…được đại nhân giúp đỡ, cứu lấy tính mạng của mấy tỷ muội tôi, chúng tôi đều vô cùng cảm ơn đại nhân, muốn ở bên cạnh đại nhân, bưng trà rót nước, trải giường trải chiếu, nghiên mực mài mực, thơ ca, hầu hạ đại nhân…”
Dương Hạo cười ha ha, nói: “Diểu Nương, nếu cô có thực là thông minh thì không cần nói những lời đó với ta, các cô ở trong cung cũng là vũ nhạc ca kỹ, không phải là cung nữ bình thường, Dương mỗ há lại giận dữ, đem các cô làm nha đầu sai khiến? Các cô cho dù yên tâm đi đến nơi ta đã sắp xếp cho các cô, sau này nếu có phu quân vừa ý, bổn quan làm chủ, để về sau các cô có cuộc sống yên ổn”.
Đám người Diểu Nương không chịu tin, vội nhẹ nhàng nói: “Bọn nô tỳ giờ được đại nhân thu nhận, đương nhiên là toàn tâm toàn ý phụng dưỡng đại nhân, chỉ cần đại nhân không chê, thì đám nô tỳ cả đời sẽ hầu hạ đại nhân”.
Dương Hạo thở dài nói: “Đừng say đắm quá vậy, chỉ nói đến đây thôi, đến nơi đó các cô nhất định phải cẩn thận lời ăn tiếng nói, nếu không…một khi hai hổ mẹ nhà bổn quan tức giận, bổn quan cũng không bảo vệ được các người đâu. Nữ nhân nhà Dương gia ghê gớm lắm.
Mấy cô gái nghe hắn nói vậy, khúc khích cười, mấy cô gái cải trang nam nhi che miệng cười, liếc mắt nhìn, thực xinh đẹp vô cùng.
Diểu Nương thản nhiên nói: “Đại nhân là chủ một nhà, còn không quản nổi nương tử của mình sao?”
Dương Hạo nghiêm mặt nói: “Thực không giấu gì các cô, ở chỗ bổn vương, bổn vương là loại bỏ đi, các cô lần này đi Lô…à, nhất thiết phải cẩn thận, bổn quan có thể cứu được tính mạng các cô trong nghìn mã quân, nhưng các cô không nghe lời, rơi vào miệng cọp, bổn quan cũng không thể cứu được”.
Diểu Nương nhìn Dương Hạo, thầm nghĩ: “Vị đại nhân này xem ra cũng khôi hài, hoàn toàn không giống với đám người trước đây trước mặt Quốc Chúa. Đi cùng với vị chủ nhân này, về sau…sẽ không khổ đâu…”
Chương 375:Vướng mắc.
Triệu Quang Nghĩa phái đại tướng thủy quân Lưu Ngộ, hộ tống thống soái kỵ binh Đinh Đức Dụ dẫn trọng binh. Tào Bân đích thân đi theo, đưa phu thê Lý Dục và toàn bộ hoàng tộc Lý Thị tới Biện Lương, đồng thời viết một bức chiến báo, dâng lên Hoàng đế.
Trong tấu biểu có viết: quân Tống thảo phạt quân Đường, phụng chỉ dụ của Hoàng đế, khi tấn công Kim Lăng nghiêm cấm tàn sát kẻ vô tội, nghiêm cấm cưỡng dâm bắt người cướp của, đại quân vào thành, quân kỷ nghiêm minh, những sĩ hào dân chúng Đường Quốc vô tội, sĩ phu Giang Nam phải được bảo toàn, không được cướp bóc hào thân Kim Lăng, kho phủ triều đình chiếm giữ đều phải được niêm phong, không được mất kiện nào. Vương giả Đại Tống hùng binh có nhân có nghĩa, cho nên đến đâu, dân chúng Giang Nam không thể không kính phục, đây là hồng phúc của Bệ hạ…
Lần này, các sĩ binh từ trong tiền thành gia Cần Chính điện đại học sĩ, Tiền đại học sĩ vì có loạn binh vào nhà cướp bóc không kịp thời lên án mạnh mẽ, một nhà sáu mươi tám người không phân biệt già trẻ trai gái đều bị giết hại.
Các ngõ hẻm, chân tường kẽ tóc, đi qua thì sẽ phát hiện rằng, thi thể nữ tử trần trụi non nớt nằm ngửa mặt lên, trên người một mảnh che thân cũng không có.
Thời kì Kiến Vu lương triều, cao có tòa tháp Thăng Nguyên Kim Lăng nguy nga hơn mười trượng, dư âm vẫn còn, sập tòa tháp, có hơn một ngàn oan hồn, đây là vì dân chúng trốn chiến loạn nên chạy đến Phật tháp, vốn nghĩ rằng tự viện tương đối an toàn, song lại bị loạn binh châm lửa thiêu, và họ ở trong đó chờ chết…
Song, chiến báo của Triệu Quang Nghĩa không coi là nói dối, so với sự mãnh liệt cướp bóc Vương Toàn Bân khi đánh chiếm thành đô, Kim Lăng thực sự dân chúng lầm than khắp nơi, sát thần Vương Toàn Bân chỉ là phụ trợ thêm, Triệu Quang Nghĩa mới chính là Phật sống vạn nhà, nên thưởng cho ông ấy chút hoa hồng.
Mặt Triệu Quang Nghĩa giờ cười giống như đóa hoa hồng đáng yêu, nụ cười của hắn nhìn già trẻ nhà Lý Dục lên thuyền rời đi, mùi vị sinh sát đó khiến hắn vô cùng hài lòng. Lý Dục đã được đưa vào Kinh rồi, các châu phủ Giang Nam đều đã cắm cờ Tống, bình định nơi đó xong, sẽ trở về Khai Phong, hắn sẽ nhận được sự hoan nghênh long trọng cỡ nào? Đến lúc đó, thành tựu quân công hắn đều chiếm thượng đỉnh, Hoàng huynh còn dám phiêu lưu giang sơn, truyền ngôi vị cho Hoàng tử sao?
Đọc đến đây, Triệu Quang Nghĩa xoa tay, nhiệt huyết sôi trào.
Đầu thuyền, nhìn về thành Kim Lăng càng ngày càng xa, Lý Dục không khỏi buồn bã, hắn vịn vào mép thuyền, nhìn về Kim Lăng xa xa, ngâm:
“Đường thuỷ sơ trừng tự ngọc dung
Sở tư hoàn tại biệt ly trung
Thuỳ tri cửu nguyệt sơ tam dạ
Lộ tự trân châu nguyệt tự cung
Thâm viện tĩnh
Tiểu đình không
Đoạn tục hàn châm đoạn tục phong
Vô nại dạ trường nhân bất mị
Sổ thanh hoà nguyệt đáo liêm lung
Dịch thơ:
Hồ nước vừa in tựa ngọc dung
Vẫn trong ly biệt, kẻ ta mong
Mồng ba tháng chín đêm hôm đó
Móc tựa trân châu, nguyệt tựa cung
Thâm viện tĩnh
Tiểu đình không
Chày chập chùng khua, gió chập chùng
Khốn nỗi đêm trường không chợp mắt
Nguyệt đưa từng tiếng lọt liêm lung ”
Ngâm đến đây, thì nấc nghẹn không thành tiếng.
“Bệ hạ…”
Tiểu Chu hậu đi nhẹ lại đến trước mặt hắn, kéo khăn che mặt, khuôn mặt khả ái đẹp hơn hoa ngọc, cũng đã đẫm lệ, hai phu thê nắm tay nhau không nói gì.
Nước sông lững lờ chảy, chiếc thuyền đi từ từ, lòng người buồn bã, lần này, từ miếu ly quốc, sẽ có ngày trở về không….
*****
Kim Lăng nhanh chóng được mở cấm thành, các tướng lĩnh đều cho rằng, Kim Lăng đã không còn thế lực phản kháng, cũng không chuẩn bị nổi thế lực phản kháng nữa, nhanh chóng hồi phục lại bình thường, để dân chúng an cư lạc nghiệp, để giúp uy vọng của triều đình được tăng lên, Triệu Quang Nghĩa làm việc thiện.
Mở cấm thành, các vị tướng quân mới tiện đưa tiền của vợ con người nhà ra thành, đưa về Biện Lương, Triệu Quang Nghĩa trong lòng biết rõ điều này, tự cũng sẽ không làm hỏng việc tốt của đám viên tướng dũng mãnh này.
Dương Hạo quan sát hai ngày, phát hiện rất nhiều tướng lĩnh ngông nghênh hộ tống đội xe rời Kim Lăng, không bị chất vấn gì, mới thông báo Lý Thính Phong lên đường. Đoàn người họ lại không ít, hai mươi mấy đại xe, hơn trăm người, Dương Hạo đích thân hộ tống, khi đi ở trên đường, gặp ngay Tào Hàn.
Tào Hàn là một viên đại tướng dưới quyền của Tào Bân, hung dũng vô cùng, đôi mày như nhuộm mực đen xì, đôi mắt đằng đằng, uy vũ bất phàm. Hôm qua hắn vừa mới hộ tống mấy chục chiếc xe rời thành, không ngờ hôm nay lại gặp Dương Hạo lén lút rời đi.
Tào Hàn nhìn thấy hắn từ xa, nhếch miệng cười, đoàn người Dương Hạo đi vô số nữ quyến cải trang thành nam nhi. Dáng điệu uyển chuyển, rõ ràng là thư sinh con gái, đâm ra càng vui, đi đến trước mặt Dương Hạo, còn giơ ngón cái lên, khen hắn: “Được lắm, rất nhiều võ tướng đều đánh không qua ngươi”.
Dương Hạo hơi xấu hổ, mặt hắn đỏ gay, thấy Tào Hàn mặc giáp, cầm thương thúc ngựa, bên cạnh là độ ngũ dài, khi hai người chào hỏi nhau, Dương Hạo ghìm dây ngựa, mỉm cười nói: “Tào tướng quân vất vả, đang đi tuần thành đó sao?”
Tào Hàn cũng ghìm ngựa lại, cười dài thi lễ nói: “Không phải, mỗ phục lệnh Tấn Vương Thiên Tuế đang đi chinh phạt Giang Châu”.
Dương Hạo ngạc nhiên hỏi: “Giang Châu? Giang Châu chưa chịu hàng sao?”
“Đúng”.
Tào Hàn cười rộ lên: “Thủ quân Giang Châu đã được tin Lý Dục hiến thành xin hàng, song lại không chịu quy thuận. Giờ toàn 19 châu Đường Quốc, chỉ còn thừa lại một thành đó, thực không biết thời thế, rồi đừng có trách đao người Tống ta không có mắt?”
Dương Hạo có vẻ hơi bất an nói: “Tào tướng quân, quân Đường còn cố giữ thành không hàng. Những dân chúng vô tội trong thành, chẳng lẽ cũng chấp họ sao, thực đáng thương, đâu phải chuyện gì cũng có thể do tự họ làm chủ? Tào tướng quân uy phong lẫm liệt, một tòa Giang Châu có thể mã đáo thành công, song đức thượng thiên, mong Tào tướng quân có thể thông cảm cho nỗi khó khăn của bách dân, khi thành bị phá, cũng nên mở rộng lòng tha thứ, đó sẽ là công đức lớn cho con cháu về sau”.
Tào Hàn cười càng to hơn nói: “Dương đại nhân quả nhiên là một thư sinh, mở miệng là nói đến nhân nghĩa. Công huân tướng quân chắc được, chủ yếu là dựa vào nhát đao thôi, Lý Dục tín Phật, thế mà có ai đến cứu con cháu hắn? Đạo thần Phật, ta khuyên Dương đại nhân chớ có tin hắn. Tàn sát là tội, tàn sát vạn là vi hùng, đồ đắc 900 vạn, vi hùng trung hùng, cứ coi như cái thế gian này có thần Phật, Tào Hàn tu cũng là đạo A Tu La, không giết gì? Ha ha, Dương đại nhân giờ đang bận thì đưa người về quý phủ đi? Tào mỗ không làm phiền nữa, cáo từ…”
Tào Hàn nghe lời Dương Hạo, chỉ thấy buồn cười ghê gớm, nhưng biết hắn là người thân cận bên Triệu Quang Nghĩa, nên không dám đắc tội, lời nói còn rất khách khí, nói xong Tào Hàn cưỡi ngựa chắp tay thi lễ, rồi lệnh cho quân đi.
Dương Hạo nhìn theo bóng dáng của hắn không khỏi thở dài: “Tào Bân tướng quân đã phái người đi đưa thánh chỉ cho Triệu Khuông Dận rồi, không biết thánh chỉ khi nào mới đến, nếu như muộn, thành Giang Châu bị phá, sợ lại bị tàn sát khủng khiếp. Chẳng lẽ từ hậu Đường diệt vong, cuối cùng là triều Tống, Kim Lăng không bì được với Tô Hàng, cho nên Minh Thanh mới hồi phục nguyên khí, các nơi cướp bóc thực rất nghiêm trọng, mọi thứ phá rồi có thể hồi phục lại, sĩ thân thương nhân đều giết hết rồi, sợ hãi mà chạy hết rồi, muốn hồi phục lại đâu có dễ…
********
Giang Châu không có trọng binh trấn thủ, thủ tướng cũng không nổi tiếng, nhưng thành trì cô độc không có sự viện trợ, toàn Giang Nam một lá cờ độc lập, sau khi Đường chúa Lý Dục xưng thần đầu hàng, đầu thành của nó đã bay theo cờ Đường rồi.
Họ cũng biết mình không thể trấn thủ được Giang Châu, nhưng vẫn trấn thủ ở đó, không màng sinh tử. Chỉ vì mình nhiều năm ăn bổng lộc Đường Quốc, cần phải có bổn phận quân nhân đến cùng.
Không biết thời điểm sao? Đúng.
Trung thành tận nghĩa sao? Đúng.
Họ là người Tống, vốn có trách nhiệm bảo vệ đất, nhưng lúc này bảo vệ, mang lại những sự thương vong cho dân chúng trên mảnh đất đó, nhưng ai có thể chịu trách nhiệm cho họ đây? Dù có là Dương Hạo, cũng không thể đứng ở góc độ hậu thế mà đi khuyên họ đừng kháng cự lại nữa.
Sau khi Tào Hàn đi được bốn ngày, tin thành Giang Châu bị phá vẫn chưa được đưa đến, khoái mã của triều đình đã đến, thánh chỉ của Triệu Khuông Dận được đặc sứ mang đến, trên thánh chỉ nói Lý Dục đã hàng, những kẻ không đủ gây sợ hãi một khi tấn công thành trì, nhất thiết không được tàn sát người vô tội, để khỏi sinh linh kêu thán, dân chúng bất an.
Dương Hạo nghe được tin này vui mừng khôn xiết, vội đi gặp Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa nhìn hấy Tào Bân dấu hắn thánh chỉ triều đình, lòng vô cùng không vui, vừa nhìn thấy Dương Hạo đến chung ý nghĩ với Tào Bân, lòng càng bất mãn, nói với Dương Hạo: “Tào Hàn đã đi được mấy ngày rồi, tin thành Giang Châu bị phá vẫn chưa đến, Bệ hạ đưa ra chiếu thư này cùng đã muộn mất rồi”.
Dương Hạo bất chấp vội nói: “Thiên Tuế, tin Tào Hàn phá thành không phải còn chưa tới sao? Chiếu thư này vị tất không thể cứu được bách tính Giang Châu. Nếu chúng ta nhận thánh chỉ mà không nói với đại quân công thành, một khi đồ tăng bị giết hết, mặt mũi Quan Gia phải để đâu, chúng ta cũng không còn mặt mũi nào nữa”.
Dương Hạo đứng ở góc độ dân chúng thay hắn nghĩ, Triệu Quang Nghĩa nghe cũng có vẻ hiểu, cân nhắc lại thánh chỉ của Quan Gia, nếu như thuyền thuận dòng mà trôi thì không có vấn đề gì, thế là mặt buồn thiu, trầm ngâm nói: “Thế…bổn vương ngày mai phái người đi Giang Châu truyền ý chỉ”.
Dương Hạo vội nói: “Hà tất phải ngày mai? Giờ trời chưa tối, nếu như Thiên Tuế đồng ý, hạ quan nguyện đi Giang Châu một chuyến”.
Triệu Quang Nghĩa mặt đần ra, vuốt cằm nói: “Thôi vậy, thế ngươi đi giang Châu truyền chỉ đi, giờ khắp nơi đều có loạn binh, ngươi đi một mình nhớ cẩn thận”.
Dương Hạo vui mừng, lập tức nhận lấy thánh chỉ, lệnh cho một đội thị vệ nhân mã, khoái mã tăng tốc đến Giang Châu, trên đường đi Dương Hạo không dám nghỉ ngơi, chỉ nghĩ đến dân chúng Giang Nam, thì thúc khoái mã chạy như bay, mau chóng đến thành Giang Châu không chậm trễ.
Chân núi Lư Sơn, thành Giang Châu.
Dương Hạo cầm thánh chỉ vào chỗ cửa thành bị phá, chỉ thấy hỏa chiến bốn bề trong thành, mọi nơi đều là phế tích, ngõ hẻm vô số thi thể, thi thể già trẻ trai gái la liệt, không còn một ai sống.
Thành đã bị phá, người đã chết, lúc này ở hang cùng ngõ hẻm, khắp nơi là quân Tống cướp bóc. Sáu vạn quân dân Giang Châu, xác chết la liệt.
Dương Hạo bàng hoàng, buồn bã đứng ở đầu đường, nhìn thấy vô số thi thể nằm ngổn ngang, không dám để ngựa dẫm lên, hắn nhảy xuống ngựa, dắt ngựa đi trên đường, máu me be bét, hắn muốn có một cái lễ rửa tội.
Tào Hàn phi đến, vừa đi vừa dặn dò đám thân tướng: “Tiền tài có được từ Giang Châu, cần ba trăm đại thuyền chở đi, ngươi lập tức đi thu xếp thuyền bè, mau chóng chở mấy thứ đó về, không cần để ở đây làm gì cho chướng mắt. Sau khi đi, mỗ sẽ lấy nó mang biếu Thiên Tuế và các vị tướng quân”.
“Tướng quân, mấy trăm đại thuyền, thanh thế quá lớn, ngài cũng biết, các ngự sử trong triều đều rảnh rỗi cả, bàn tán nhau, ngỗ nhỡ họ biết, trước mặt Quan Gia lại nói vài lời gièm pha…”
“Ồ,…mấy trăm chiếc thuyền hơi chướng mắt, để thư sinh nghèo đi nói huyên thuyên không tốt thật…”
Tào Hàn dừng bước lại trầm ngâm giây lát, mắt bỗng sáng lên nói: “À, vừa nãy qua chỗ cổ tự, trong tự không phải có năm trăm tôn thiết La Hán sao, dời chúng hết lên thuyền, lần lượt đặt ở các đầu thuyền, nói là La Hán hiến cho Quan Gia, hắc hắc, họ còn dám lên thuyền kiểm tra xem thuyền ta đựng cái gì nữa không? Dùng thiết Phật chặn mồm nhà nho nghèo, không để họ om sòm”.
“Vâng vâng vâng, tướng quân nói phải lắm…”
Tào Hàn liền ngẩng đầu lên, giật mình sợ hãi nói: “Dương đại nhân, ngươi sao lại đến Giang Châu thế này”.
Dương Hạo nhìn vô số phế tích, thi thể tràn lan, lạnh lùng hỏi: “Giang châu? Xin hỏi tướng quân, Giang Châu ở đâu?”
Tào Hàn cười ha ha nói: “Dương đại nhân chẳng lẽ say rượu sao, người đang đứng ở Giang Châu sao lại không biết là Giang Châu, ha ha, Dương đại nhân của tôi ơi, đây là thành giang Châu mà…”
Tay Dương Hạo hơi buông thõng, ống tay chảy xuống, che đi tấm thánh chỉ, hắn nhìn xung quanh, buồn bã nói: “Dương mỗ chưa nhìn thấy thành Giang Châu, chỉ nhìn thấy…một toàn thành Tu La…”
*******
Dưới chân núi Lư Sơn, trên người tuấn mã chở đám người bị cắm mũi tên nhọn đang hí dài, tiêu hao hết sức lực, té ngã trên mặt đất, một tiểu hòa thượng trên xe ngựa suýt ngã xuống, người đổvề phía trước, rồi lập tức lại lăn vào trong khoang xe, nói: “Thủy Nguyệt, Thủy Nguyệt, nàng sao thế?”
Thủy Nguyệt hấp hối nằm ở trong khoang xe, tăng y trắng đã bị máu nhuốm đỏ, trước ngực cô bị cắm một mũi tên nhọn, mũi tên cắm khá sâu vào trong người, Bích Túc hoảng quá, muốn đưa tay ra nhổ, song lại không dám, ôm lấy Thủy Nguyệt, chỉ khóc.
Một góc xe làthi thể bảo nguyệt nữ ni Tịnh Tâm am, cô bị người ta cho vài nhát đao, xương sườn bị chặt ba khúc, nội tạng theo vết thương lồi ra, nhìn vô cùng thương tâm.
Bích Túc cũng thân nhuốm máu, chân trái bị cﭠmột mũi tên, ngực phải bị vũ khí sắc bén xoẹt cho một nhát, nhìn người đều bị mũi tên cắm, không biết làm sao có thể ôm chặt.
Tịnh Thủy Nguyệt mở mắt vô hồn nhìn bộ dạng khóc như mưa của Bích Túc, khóe miệng nở nụ cười hiền lành, cô gắng gượng mình dậy, khẽ lau đi nước mắt trên mặt Bích Túc, rồi khẽ lắc đầu, Bích Túc gật đầu, nín không khóc nữa, nước mắt cũng không lăn dài nữa.
Bích Túc không đi cùng đám người Thôi Đại Lang, vốn muốn đưa Tịnh Thủy Nguyệt ở quân Tống qua sông xong thì lén vượt qua Trường Giang tới Thiếu Hoa sơn, không ngờ sau khi quân Tống qua sông, Thái Thạch cơ bị tranh đoạt cầu nổi, song phương đại chiến không ngừng nghỉ, Bích Túc muốn đưa Tịnh Thủy Nguyệt đến nơi khác lấy thuyền nhỏ qua sông, kết quả tướng Đường tàn quân Đỗ Chân trốn ở Đương Đồ thành, gây sự chú ý, quân Tống quay lại. Lúc đó Bích Túc vừa mới về thành, sớm hơn một bước, vội mang Thủy Nguyệt từ cửa Nam thành trốn ra.
Nhìn thấy quân Tống không kính thần Phật, đến tự miếu mà cũng phá, hòa thượng còn giết, Thủy Nguyệt lại lo lắng sư phụ tình như mẹ con, Bích Túc bị cầu xin không từ chối, biết đây là chiến trường khốc liệt, còn đạo nghĩa không cho phép chùn bước mang cô về. Hai người về đến Kim Lăng, khó khăn khuyên Bảo Nguyệt nữ ni rời đi, Bảo Nguyệt nghĩ đến các am, không nỡ rời đi, Bích Túc rơi vào đường cùng, đành phải mạnh mẽ đưa cô đi, đường tướng được báo là trong am có ni cô, bảo họ tháo chạy, liền núp vào thâm sợ tự viện, nói hết cũng cho dù họ có nghe hay không cũng lập tức trốn ra thành Kim Lăng.
Lúc này các đạo quân Tống đang chạy tới hướng Kim Lăng, bất luận là hướng bắc hay hướng tây đều không thể, nếu hướng đông, cách nơi đến của hắn càng ngày càng xa, Bích Túc chỉ có thể chọn hướng nam, trốn sự tấn công của quân Tống, khó khăn đến Giang Châu. Hắn vốn có dự định ở đây tìm một cái thuyền qua sông, không ngờ thần xui quỷ khiến đâm vào chỗ chết, thủ tướng Giang Châu phong tỏa tất cả các con đường thủy ra vào thành, bảo vệ thành trì quyết chiến với quân Tống, ba người họ cũng nhàn rỗi ở trong thành, mãi đến khi Tào Hàn phá thành, lúc này loạn quân mới xông vào giết, và chạy tới chân núi Lư Sơn.
“Thủy Nguyệt, nàng không được chết, nàng đã đồng ý với ta, nghe ta cả đời niệm kinh, cả đời theo ta, cả đời theo ta, ta và nàng sinh hai tiểu hòa thượng, Thủy Nguyệt…”
Bích Túc khóc rống lên, Thủy Nguyệt gượng sức giơ tay lên, chỉ vào ngực của mình, rồi chỉ vào Bích Túc, ngón tay nhuốm máu chỉ vào ngực Bích Túc, lẩm bẩm không nên lời, không có giọng nói phát ra, chỉ có thể nhìn miệng cô mấp máy, sau đó, tay cô từ từ buông thõng xuống, hai mắt nhìn Bích Túc đắm đuối….
Tay buông hẳn xuống, đôi mắt dịu dàng cũng từ từ khép lại, Bích Túc đờ đẫn, kêu lên: “Thủy Nguyệt…”
Tiếng gọi vang trời, len lỏi vào từng vách núi…
*******
Bích Túc xuống núi, miệng lẩm bẩm niệm kinh, đi từng bước tới bờ sông, dẫm lên chiếc thuyền đi về hướng bắc, nước sông Trường Giang cuồn cuộn, chảy về phía đông. Tăng y của Bích Túc đã rách bươm, nhưng vẫn trang nghiêm, tuổi còn trẻ, nhưng khách trên thuyền không dám khinh thường, hắn đứng ở đầu thuyền, mắt đờ đẫn, song ít ai có thể nhìn thấy mắt hắn tràn ngập sát khí.
Lúc này, Triệu Quang Nghĩa công lao viên mãn đã mau chóng chạy về Khai Phong.
Lý Dục đã bị mất hữu ngàn ngưu vệ, thêm tước vi mạng hầu, Từ Huyễn, Trương Ký thì sĩ bác học, đều có quan chức hết, Triệu Khuông Dận đã lệnh cho người khẩn cấp lấy mười vạn hộc gạo chuyển đến cho lưu dân Giang Nam, mảnh đất Trung Nguyên màu mỡ, cẩm tú giang sơn giờ đã nằm trong tay, vô cùng vui mừng.
Nhưng, Triệu Khuông Dận lại không biểu lộ vẻ vui mừng ra mặt, lấy giang sơn không dễ, giữ được giang sơn còn càng khó hơn, diệt Đường Quốc không là gì, Thần Thủy Hoàng hợp được sáu nước lại, chiến công so sánh với hắn thế nào? Nhưng giang sơn chuyển mấy đời? Cái hắn cần là giang sơn lâu bền, nhưng giờ làm được điều đó đâu phải đơn giản?
Hắn lúc này đang nghĩ đến vấn đề dọn sạch Đường Quốc càng thêm khó khăn, dựa vào hùng tài đại lược của hắn, quyết định sát phạt, diệt một nước chẳng qua chỉ là chuyện trong chốc lát, nhưng vấn đề này lại khiến hắn vô cùng đau đầu. Lập quân công, văn trị võ công nhất thời nhị đệ uy phong trở về, hắn nên làm gì với huynh đệ này đây?
Người, đều có nhược điểm, Triệu Khuông Dận cũng không phải ngoại lệ, nhược điểm lớn nhất của hắn chính là mặt không đủ dày, tâm không đủ đen tối, hắn trọng tình nghĩa. Biết rõ là đại tướng tay có trọng binh soái vị mưu phản như cơm bữa, hắn kết nghĩa huynh đệ một khi chim đủ lông đủ cánh, đuôi lớn không rụng, vì tất không phản, nhưng lại không giống như Hán Cao Tổ, Minh Thái Tổ giết sạch công thần, thà ban thưởng họ tiền tài con dân, ruộng đất màu mỡ, tốn thêm chút theo dõi họ, không để họ tác loạn quyền hành; Dù biết rõ hoàng thất vị tất sẽ không bị người ta ngụy trang tạo phản, Kinh Hồ, Thục Hán, Đường Quốc các vị minh chủ một khi bị người ta cứu ra, có thể minh chính ngôn thuận giương cờ tạo phản, nhưng vẫn là quan chức được ban thưởng, không đành lòng giết bọn họ.
Đối với người ngoài, uy nghi rõ ràng, hắn đều không nhẫn tâm loại trừ, huynh đệ thân có dã tâm với mình, hắn cũng không nhẫn tâm làm hại, thân thiết như tay chân, có lần Triệu Quang Nghĩa ốm, cần ngải thảo trị thương, Triệu Quang Nghĩa không chịu nổi được đau, Triệu Khuông Dận nhìn vậy không đành lòng, cầm lấy ngải thảo đốt, dùng cánh tay của mình dùng thử cách gì có thể làm giảm đau đớn vào chính vết thương của mình, một vị Hoàng đế, không cần phải làm vậy, hắn là huynh đệ của nhau mà.
Nhưng, người đều có tư tình, con mình đã lớn, Trung Nguyên đã thống nhất, giữa huynh đệ và con cái, con cái gần hơn chút. Hắn biết huynh đệ nhà mình thèm nhỏ rãi vị trí Đế vương, song chỉ muốn dùng cách mềm dẻo đều dùng để xóa dã tâm của họ, nếu có thể làm mất ý nghĩ xằng bậy, không làm tổn thương đến tình huynh đệ, nhưng, phải làm thế nào đây?
“Nhị đệ sắp vào điện, hắn đã là Tấn Vương, phong cũng không được mà không phong cũng không xong, quân quyền này, không thể lập tức đoạt lại từ công thần của hắn. Quân quyền, chính quyền, hắn đều có mặt, thế lực tiềm ẩn càng ngày càng mạnh, nội hoạn phòng ngoại hoạn, ta phải làm thế nào mới được đây?”
Triệu Khuông Dận bễ nghễ, giữa công tư quốc gia, cũng phải có lúc lâm vào tình huống khó giải quyết.
Chương 376:Đêm động phòng muộn màng
Lúc này, Tấn vương vội vã về Khai Phong, lệnh cho Mục Vũ chạy tới Nhạn Môn Quan, Dương Hạo thì theo kế hoạch của hắn xuất sứ Khiết Đan chế tạo thời cơ đang đứng ở bậc cửa hoàng cung đợi tấn kiến. Vì vừa mới từ phương nam về, cả đường ngồi xe ấm, mặc không nhiều, nên đứng dưới bậc thềm cung một lát, hai chân đã lạnh cóng. Hắn trốn vào một góc khuất tránh gió, nhìn ngược nhìn xuôi, bỗng nhiên, hắn nhìn xuống chân, bỗng nhớ tới một chuyện lớn.
Kế hoạch của hắn vốn là giả chết thoát thân, chạy đến Thiếu Hoa sơn ôm ấp kiều thê, thụ hưởng cuộc sống an nhàn, không ngờ giờ lại trở về Biện Lương. Tất cả mọi chuyện ở Biện Lương hắn đã sắp xếp thỏa đáng, duy nhất có Diệu Diệu vẫn chưa yên tâm, cũng dùng cách nạp vợ bé trên danh nghĩa để giao tài sản của hắn cho nàng.
Giờ… mình lại về, giờ thì Diệu Diệu phải làm sao đây?
Mặt Dương Hạo trở nên ngốc nghếch, hắn cảm thấy mình giống như một tên ngốc, dời hòn đá lớn đi thì lại bị nó rơi ngay vào chân. Nhưng hòn đá ấy lại là một tiểu mỹ nữ xinh xắn thông minh, rơi vào chân cũng không đau…
“Hic… Diệu Diệu không biết ta giả chết đó chứ? Hic… ôi, tiểu mỹ nữ…” Dương Hạo dậm chân, bỗng cảm thấy chân đông cứng lại tê tê…
Dương Hạo đến Kim Lăng mới biết, mình không cẩn thận đã được thăng quan. Nhưng chức quan được thăng cũng không lớn, chỉ là làm thuê cho người ta, chức quan to cũng có to bằng Triệu Phổ hay không? Dương Hạo giờ đã quyết định sự nghiệp của mình, phong thưởng của Triệu Khuông Dận hắn không để ý tới nữa.
Cảm tạ hoàng ân, rời kim điện, vừa ra khỏi ngọ môn, Dương Hạo gặp ngay Tao Trư Nhi và Tụ Nhi đang ngồi trên xe ngựa bên ngoài cung.
“Trư Nhi”
Dương Hạo chạy ra đón, Tao Trư Nhi lập tức gọi với: “Tên xui xẻo ngươi lại về đó à? Diễm Diễm bọn họ đâu?”
Dương Hạo thở dài: “Một lời khó nói hết, sau này chúng ta nói sau. Hic, Diệu Diệu giờ sao rồi?”
“Diệu Diệu cô ấy…” Trư Nhi nói không nên lời lắp ba lắp bắp, quay đầu nhìn Tụ Nhi.
Dương Hạo nghi ngờ: “Diệu Diệu làm sao?”
Tụ Nhi mặt méo xệch nói: “Đại nhân, từ khi biết đại nhân thân tử Giang Nam, Diệu Diệu cô nương đau buồn vô cùng, còn để tang cho đại nhân, rồi tự nhốt mình trong phòng tuyệt thực đi theo đại nhân.”
“Cái gì?” Dương Hạo mặt mũi trắng bệch hốt hoảng: “Cô ấy, cô ấy hết hy vọng rồi sao? Giờ cô ấy sao rồi?”
Trư Nhi ngượng ngùng nói: “Còn làm sao nữa? Đương nhiên là, đương nhiên là…”
Tụ Nhi tiếp: “Diệu Diệu cô nương c người hầu trong phủ về nghỉ rồi tuyệt thực, chuẩn bị một ngôi mộ ở ngoài thành cho mình. Sư ca ta cũng không cho hay tin đại nhân vẫn còn sống, song giờ không biết thế nào. Xem ra đại nhân cũng nên đi gặp cô ấy.”
“Cái gì?” Dương Hạo giận tím mặt mũi, quát Trư Nhi ầm lên: “Đồ bỏ đi, ta đã dặn dò ngươi là huynh đệ thân nhất của ta, sao ngươi lại làm vậy hả?”
Tụ Nhi khó chịu khi Dương Hạo như vậy, còn tức thay cho Diệu Diệu.
Trư Nhi còn không thèm để ý, Tụ Nhi thấy người bị đánh không vui, vừa đỡ Tiết Lương, vừa cười nhạt nói: “Người cần tìm cái chết, ai lại ngăn cô ấy, ngươi không tự trách mình, lại còn trách sư ca ta cái nỗi gì?”
Dương Hạo buồn bã nói: “Trách ta, trách ta, đương nhiên là trách ta rồi, nhưng ngươi, ngươi…”
Hắn chỉ Trư Nhi, cũng bấp chấp nói tiếp: “Ngươi đã thấy cô ấy tìm chết, sao không nói rõ chân tướng ra cho cô ấy biết?”
Tụ Nhi lạnh lùng nói: “Ngươi tưởng mình là một pho tượng bồ tát sống sao? Diệu Diệu cô nương vốn tuẫn tiết, nghe được chân tướng, càng nản lòng thoái chí, chẳng còn thiết tha gì sống nữa, thế thì còn ra thể thống gì nữa.”
Dương Hạo kỳ lạ hỏi: “Sao lại vậy? Cô ấy…” Hắn cứng họng, nhảy luôn lên ngựa, lao về phía nhà.
Trư Nhi lồm cồm bò dậy, nói: “Tụ Nhi, chúng ta làm vậy với Dương Hạo, liệu có quá đáng quá không?”
Tụ Nhi thản nhiên đáp: “Có gì là quá đáng chứ? Dương Hạo hắn nghĩ mình là gì chứ, rất giỏi sao? Hắn cho người ta một cái ơn huệ, là bố thí? Dù người ta muốn hay không, dù cô nương tình thâm nghĩa nặng với hắn vẫn là sự nhục nhã? Hừ! Thứ kênh kiệu đó, không giáo huấn cho hắn một trận, hắn cứ tưởng mình là một nhân vật gớm lắm ấy.”
Trư Nhi ngượng ngùng nói: “Nhưng, nhưng huynh đệ ta, thực có ý tốt. Hơn nữa Diệu Diệu cô nương cũng không muốn giấu hắn, muội hà tất phải làm điều thừa.”
Tụ Nhi trừng mắt lên nói: “Diệu Diệu bị hắn ức hiếp mãi quen rồi, lúc này không dám đấu lại hắn, ta sợ gì hắn chứ? Hừ! Việc này là ý của ta, chàng không cần làm bộ dáng thương xótcha chết đó. Mau đi thôi, chúng ta đi xem có gì hay ho. Để hắn ta đau đớn một phen, ta mới trả được nỗi hận này.”
Dương Hạo một mạch về nhà, xuống khỏi yên ngựa nhìn quanh, quả nhiên không thấy người giúp việc đâu, trong viện lặng ngắt như tờ, đến một con chim cũng không có. Dương Hạo càng sợ hãi, xông vội vào phòng, chỉ thấy phòng trống không, câu đối phúng điếu được treo trên cao, giữa là một cái điện tự lớn, chiếc bàn và chiếc quan tài. Trên bàn có một linh bài, viết: “Dương môn Lâm thị chi linh vị”.
Dương Hạo rùng mình đờ đẫn. Hắn đến từ hậu thế, bao nhiêu cách nghĩ, cách làm không giống với người thời đại này, làm việc luôn tính đến kết quả, không cần thủ đoạn.
Dương Hạo bổ nhào về quan tài, đập đập vào nó. Diệu Diệu một cô gái thông minh xinh đẹp vì hắn mà phải chết, nội tâm hắn rối như tơ vò, khóc: “Diệu Diệu, ta sai rồi, ta sai rồi, tất cả là lỗi của ta. Sao nàng ngốc như vậy, nàng đợi ta quay về, dù có mắng có đánh ta, ta cũng không oán trách lời nào. Tại sao lại đi tìm cái chết, tại sao…”
Lúc Trư Nhi và Tụ Nhi đến, Dương Hạo vẫn vịn vào quan tài, nói gì đó rất lâu. Trư Nhi nhìn thấy vậy không nỡ, ho khan một tiếng, xoa tay nói: “Hạo Tử, việc này, thực sự, hic…”
Vạt áo của hắn bị Tụ Nhi kéo lấy, nên câu nói bị đứt đoạn. Dương Hạo vẫn ôm lấy quan tài, không quay đầu lại, nghiến răng nói: “Cái đầu lợn nhà ngươi, ta giao cô ấy cho ngươi, ngươi chăm sóc thế này đây hả? Ngươi đi ra ngay cho ta, giờ ta không muốn nhìn thấy mặt ngươi nữa.”
Trư Nhi dụi mũi, ngượng nói: “Đúng vậy, Diệu Diệu cô nương…”
“Cô ấy làm sao?” Dương Hạo quay ngoắt người lại, hét: “Cô ấy là người của Dương Hạo ta, hậu sự đương nhiên là ta đến lo liệu. Nếu không phải coi ngươi là huynh đệ tốt, giờ ta sẽ không khách khí với ngươi nữa. Đi!”
Tiết Lương thấy hắn tức giận, lòng hơi xấu hổ, đồng ý một tiếng rồi chần chừ không đi ra ngoài.
“Bùm!”
Dương Hạo tức giận: “Cái đầu lợn chết nhà ngươi, ở trong linh đường làm ô uế, đi ngay.”
“Ta không, ta nào có…” Trư Nhi vội xua tay lia lịa, lén nhìn sang Tụ Nhi, Tụ Nhi tức giận, hai tay chống nạnh, quát: “Nhìn gì mà nhìn, bổn cô nương cần gì phải nhìn ?”
“Bùm!”
Lại một tiếng nữa vọng về phía Dương Hạo. Trư Nhi và Tụ Nhi đều quay lại nhìn hắn, Tụ Nhi nói: “Ồ, tự mình làm nên, còn quay sang nói người khác.”
“Bùm!”
Lại một tiếng nữa, Dương Hạo nghe thấy âm thanh vọng lại từ phía sau, vội quay người lại, chỉ nghe thấy nó vọng đến từ trong quan tài, không khỏi vừa mừng vừa sợ. Nghe thấy lại một âm thanh vọng ra từ quan tài, Dương Hạo liền đập tiếp.
Hắn cuối cùng đã thấy, rõ như ban ngày thế này không còn gì băn khoăn nữa, không đóng đinh. Dương Hạo vui vẻ cậy nắp quan tài ra.
Trong quan tài, Diệu Diệu bị trói, người nằm thẳng duỗi ra. Không biết cô phí bao nhiêu công sức, mới làm phát ra tiếng động, trán cô đỏ ứng, nguyên nhân do cô dùng đầu đập vào nắp quan tài, miệng cô bị nhét vải. Nắp quan tài được mở, ánh sáng chiếu vào chói mắt, nên cô ti hí mở mắt ra từ từ. Cô dịu dàng nhìn Dương Hạo, mặt lộ vẻ vui mừng, nước mắt rưng rưng.
Dương Hạo thở phào, quay sang nhìn Tiết Lương. Trư Nhi vội lùi lại một bước, cười mếu máo: “Hạo Tử.”
Dương Hạo trừng mắt: “Trư Nhi, ngươi nói với ta là Diệu Diệu chết rồi cơ mà?”
“Cái này… cái này…” Trư Nhi bỗng quay người toan bỏ chạy, vừa chạy vừa hét: “Không phải do ta làm, ta không liên quan, là Tụ Nhi bảo cần cho ngươi một bài học.”
“Nhưng ta và ngươi là huynh đệ tốt cơ mà.” Dương Hạo hét theo, cầm lấy giá nến trên bàn ném về phía hắn. Trư Nhi ngã lăn trong sân, xấu hồ lồm cồm bò dậy, nhìn thấy Tụ Nhi đứng phía trước hắn, cười hì hì: “Bán đứng ta? Hứ!”
“Không được, oa.” Nhìn thấy giày của Tụ Nhi giẫm mạnh lên, Trư Nhi hét toáng lên.
***
Đây là đêm động phòng muộn màng của Diệu Diệu.
Cô một tay cầm vào eo, một tay thì cầm vào đùi, chân dẫm lên thảm mềm. Nghĩ đến tất cả những gì có thể xảy ra, Dương Hạo không thể không thừa nhận, người con gái xinh đẹp mà thông minh này, có tư cách làm chủ nhân của phòng này.
Nhưng vị chủ nhân này thực quá non nớt, ngoài khuôn mặt xinh đẹp ra thì đôi vai nhọn, bộ ngực gầy, tuy nói là có ba vòng, song vẫn chưa đến mức nở nang như Đông Nhi và Diễm Diễm, nhưng thậm chí đã được coi là thành niên, còn Diệu Diệu thì quá là non nớt. Dương Hạo cảm thấy hơi có lỗi khi làm chuyện này, mà dưới bộ quần áo mềm mại kia, là cơ thể đang tràn đầy sự thanh xuân, sức hấp dẫn mê người, Dương Hạo dường như không khống chế nổi mình, hắn nhìn thấy sương mù uốn lượn trong mắt Diệu Diệu, hắn không thể không trìu mến ôm lấy nàng vào lòng.
Nàng xinh đẹp, ngọt ngào, vô cùng đáng yêu, dịu dàng như Oa Oa, song sự quyến rũ hoàn toàn không giống, Diệu Diệu có một sức hút kì lạ của vị thành niên đang căng tràn sức sống. Hai chữ phong tình không hợp với cô. Con gái chưa đến độ tuổi nhất định, chưa qua sự từng trải nhất định, thì lấy đâu ra phong tình. Con trai chưa đến độ tuổi nhất định, chưa qua sự từng trải nhất định, cho hắn nhìn hắn cũng không thể bình phẩm con gái thế nào là phong tình. Sự hấp dẫn tuyệt vời, chưa chắc cần phải phong tình, cô gái đáng yêu như Diệu Diệu, có mấy ai biết được nó có sức hút thần kỳ.
Dương Hạo hôn cô, âu yếm cô. Diệu Diệu nằm trong lòng hắn đã mềm yếu vô cùng, mang theo một vị mê hoặc, khuôn mặt nhỏ nhắn, ánh mắt trong suốt nhìn hắn, cô ngọt ngào và hài lòng về người đàn ông của mình, đợi thời khắc quan trọng. Nhưng Dương Hạo tuy đã ngắm nhìn cô thể của cô, song vẫn không có cách nào lấy hết dũng khí cho kiếm vào vỏ.
Thế là, hắn tức giận, nghĩ ngợi: “Mục Vũ đã đến Nhạn Môn Quan rồi sao? Ngày mai đi Hồng Lư tự, xem can thiệp bên Khiết Đan ra sao, tốt nhất là tìm cơ hội đi Khiết Đan, nếu không có cơ hội thích hợp, thì ta chỉ có tạo ra cơ hội mà thôi. “Phi vũ” lẽ ra đưa tin liên lạc với ta rồi chứ nhỉ?”
“Quan nhân, chàng đang nghĩ gì vậy?” Diệu Diệu mở to đôi mắt to nhìn hắn say đắm, giọng nói không hề oán trách. Con gái là loại động vật có trực giác rất mạnh, Dương Hạo phân tán tư tưởng, lập tức sẽ bị phát hiện ngay, nào có người con gái nào thấy người đàn ông của mình trong lúc thân thiết với mình lại không tập trung mà vui được.
Dương Hạo giật mình xấu hổ, vội phân bua: “Hic, ta đang nghĩ, lần này chinh phạt Giang Nam, Tấn vương lấy thân phận Khai Phong phủ doãn thống soái tam quân, thực là uy phong, nghĩ đến ta xuất thân hành ngũ, nếu có cơ hội thống ngự đại quân, chinh chiến sa trường, thì có uy phong được như vậy không?”
Diệu Diệu thấy hắn nghĩ một đằng nói một nẻo, liền nhìn hắn oán trách, rồi hai má ửng hồng, tay ngọc bỗng xuyên qua quần Dương Hạo, cầm lấy xy của hắn. Dương Hạo giật mình, cảm thấy tay hơi lạnh, mềm, trơn…
“Diệu Diệu, nàng, nàng làm gì vậy?” giọng Dương Hạo hơi khàn.
Diệu Diệu vẫn nằm ở đó, mềm mại, như đang điều khiển hắn. Chuyện khuê phòng không phải là cô không hiểu, song đêm đầu tiên, cô cảm thấy mình nên rụt rè một chút, để cho quan nhân làm chủ mới đúng. Nhưng, quan nhân nhà mình có bộ dạng thế này, cô sao chịu được. Lẽ nào đêm động phòng cũng phải giống như con gái có chồng, nàng phải chết lần nữa mới có thể để Dương Hạo ngoan ngoãn đáp ứng sao?
Dương Hạo vừa hỏi, Diệu Diệu nũng nịu đáp: “Quan nhẫn đã muốn làm đại tướng quân, giờ cửa ải khó trước mắt, tướng quân có thể cưỡi ngựa vượt qua, xông pha chiến đấu?”
Câu hỏi này của Diệu Diệu, tay dưới đồng thời nắm chặt. Dương Hạo nhìn bộ dáng vô cùng non nớt của cô, không khỏi nhụt chí, chỉ ho đáp: “Bổn tướng quân đang nghĩ, hic, đang nghĩ, làm thế nào có thể không chiến mà có được binh.”
Diệu Diệu nhìn hắn với con mắt trong suốt, hai con ngươi ướt át rưng rưng. Cô dịu dàng đáp: “Tôn Tử mười ba trang đều là vi chiến. Không chiến mà cần có chiến, tướng quân chần chừ không lên ngựa, tiểu nữ sao biết đại tướng quân chàng có năng lực không chiến mà cũng có binh?”
Diệu Diệu, thực là người phụ nữ của khuê phòng.
Dương Hạo toát mồ hôi hột, lắp bắp: “Cái này, cái này… quân địch yếu, không chịu nổi một kích, bổn tướng quân, bổn tướng quân không đành lòng ra tay.”
Diệu Diệu dịu dàng nhìn hắn nói: “Tướng quân không làm thì thôi, quan nhân nhà ta hay là thành quan văn đi.”
“Được, ha ha, làm quan văn tốt đấy.” Dương Hạo cười khan, cố gắng nhét xy vào cái nơi vừa mềm vừa chặt, xy của hắn như bị trêu chọc đã không kiềm chế được.
Diệu Diệu nghiến chặt răng, mặt đỏ gay như lửa, mặt cô gục vào lòng Dương Hạo, hơi thở nóng rực phả vào ngực hắn, nũng nịu hỏi: “Thế một quan văn cũng cần thi, rồi trúng tiến sĩ, nhập kim điện, thì mới có thể là bạch ngọc trụ. Quan nhân, chàng nói đúng không?”
Dương Hạo không nhịn nổi cười phá lên, cô gái hiểu chuyện khuê phòng này, ai dám nói là cô chưa thành niên, dịu dàng đáng yêu, đêm nay phải trả ơn mĩ nữ mới được.
Hắn yên tâm cúi người lên cơ thể mềm mại kia, nhìn nhũ hoa phập phồng nói: “Được, thế ta thành lão gia cử nhân, giờ phải đỗ tiến sĩ, vào kim điện, rồi đại đăng khoa, làm một cái bạch ngọc trụ, nương tử à.”
***
Triệu Quang Nghĩa về đến Khai Phong, quyền Khai Phong phủ doãn Triệu Quang Mỹ giao đại ấn, Triệu Quang Nghĩa vẫn là quan phụ mẫu của thành Biện Lương. Chức vụ hắn vốn là chức vụ chiến tranh, lúc này các bộ quân đội đã về bản doanh, binh quyền tự nhiên tan hết.
Nhưng trận chiến này, Triệu Quang Nghĩa không những tạo được thế uy phong và công trạng ở Tống quốc, mà hắn còn bắt đầu làm tan chảy lớp băng giữa cấm quân. Hắn lần này là chủ soái nam chinh bình định Đường quốc, đương nhiên là hắn tự ứng cử, và thu được chiến công, hoàng đế chắc chắn sẽ phong thưởng.
Qua chuyện này khiến hắn giành được mối quan hệ giữa các tướng lĩnh trong quân đội, thế là đủ. Chỉ cần quân đội quan tâm ủng hộ hắn, thế là đủ, hắn không cần binh quyền kè kè. Hắn biết đó là không thể, toàn Đại Tống ngoài hoàng đế ra ai cũng không thể.
Nhưng thế thì có can hệ gì? Hắn chưa bao giờ nghĩ đến chuyện cầm binh tạo phản, tranh đoạt ngôi vị hoàng đế của đại ca. Lương tâm thiên địa, hắn chỉ muốn dựa vào chiến công mình lập được, có cái thanh danh lớn lớn, tạo tầm ảnh hưởng với vua và dân.
Sau khi ban thưởng cho các tướng và tam quân, văn võ bá quan thượng thư hoàng đế, bắt đầu tôn sùng hoàng đế. Như La Công Minh đã nói, dù người khác lập bao nhiêu công lao, vòng nguyệt quế lớn nhất của chiến công là đội lên đầu hoàng đế.
Trong triều, tam tể tướng đưa thượng thư của văn võ bá quan lên hoàng đế, cầu xin hoàng đế Triệu Khuông Dận “Thống nhất thái bình” đã bị từ chối, văn võ bá quan không thấy có gì lạ, hoàng đế đương nhiên phải khiêm nhường, thế là lại thỉnh, lại chối, ba lần thỉnh, ba lần chối.
Lần này văn võ bá quan không thể hiểu nổi, theo lệ thường, lần một lần hai không được thì đến lần ba lần bốn. Hoàng đế từ chối nhiều nhất không quá hai lần. Hoàng đế từ chối ba lần rồi, hắn thực không muốn phong hiệu sao?
Lúc này Triệu Khuông Dận mới nói: “Yến, Tấn chưa phục, có thể nói là thống nhất thái bình ư?”
Văn võ bá quan mới hiểu ra, hóa ra vị hoàng đế này lại nhớ đến 16 châu U Vân và lãnh thổ nước Bắc Hán. Dã tâm, haiz, hùng tâm quả thực không nhỏ, chỉ là vừa mới đánh được Đường quốc, giờ Đại Tống có thể liên tục tác chiến sao?
Triệu Khuông Dận nói với quần thần: “Thạch Kính Đường cắt nhường Khiết Đan, khiến bách tính lầm than, trẫm xót thương vô cùng.”
Khiết Đan giờ đã là một nước mạnh, hoàng đế Khiết Đan không phải dùng một bóng thủy tinh có thể đổi lấy tù trưởng, dự trữ tiền tài dân chúng thì có thể khiến cho Khiết Đan cắt nhường nửa giang sơn? Ai sẽ tin chuyện ma quỷ của Triệu Khuông Dận, ai sẽ tin hoàng đế Khiết Đan ngu xuẩn như trứng thối, mà giao ra con gà? Ai cũng biết, đây chẳng qua là một mình Triệu Khuông Dận cần ngụy trang nhân nghĩa chí tận, U Vân 16 châu, hắn nhất định phải giành được.
Song Tống vừa mới lập được hơn mười năm, vừa mới có được toàn Trung Nguyên, hắn cần thời gian tiêu hóa lãnh thổ mới chiếm được, lo liệu cho dân chúng, quân đội cần nghỉ ngơi. Tạm thời, hắn không có ý gây chiến với Khiết Đan, cần có sự chuẩn bị đầy đủ thì cần đến mấy năm sao?
Triệu Quang Nghĩa nghe xắn tay áo lên, mong có thể lãnh quân bắc phạt. Hắn chưa bao giờ tự mình dẫn binh, phạt Đường là lần đầu tiên. Chiến tranh lần này, hắn cảm thấy đánh giặc không như vậy, có sự luyện tập, sự chuẩn bị lương thực và vũ khí cho quân địch, quân địch vốn không chịu nổi một kích, nếu chiến công bắc phạt có thể rơi vào tay hắn, thì người kế thừa hoàng vị, không có ai có thể đoạt được khỏi tay hắn.
Nhưng, hưng phấn quá, hắn hoàn toàn không nghĩ đến vị hoàng huynh biết tính toán kia. Triệu Khuông Dận đã chuẩn bị những đòn phản công cho các thân huynh đệ nhòm ngó ngôi báu.
Dương Hạo sáng sớm đã đuổi tới Hồng Lư tự.
Diệu Diệu lần đầu làm chuyện đó, Diệu Diệu dưới hắn hóa mềm như bún, Dương Hạo chưa bỏ ra hết sức chiến đấu, hắn mới chỉ bỏ ra 1/3 vì sợ làm đau Diệu Diệu, sợ làm tổn thương cơ thể mềm mại là khó mà thừa nhận.
Buổi trưa, Dương Hạo đã có các tin liên quan đến Khiết Đan, không ngoài dự đoán, thời gian này vì Khiết Đan nội loạn, Tiêu hậu đứng lên dàn xếp ổn thỏa, tạm thời giảng hòa với Tống quốc, cho nên thở phào nhẹ nhõm. Tống quốc đang nam phạt, đồng thời chưa có ý nghĩ về bắc phạt, song phương đều có ý giảng hòa tranh chấp, song phương đã hòa giải kha khá rồi, nếu Dương Hạo muốn xuất sứ Khiết Đan, tạm thời chưa mượn cớ được.
Dương Hạo thầm nghĩ: “Không ngoài dự đoán của ta, xem ra trước phái mc đi Nhạn Môn Quan là đúng. Tìm không được cái cớ, thì ta cũng phải tạo ra một cái cớ. Tình hình giữa Khiết Đan và Tống quốc hiện nay, xung đột mà ta tạo ra tuyệt đối có thể khống chế trong phạm vi và dùng thủ đoạn hòa bình để giải quyết, đây là lợi ích của song phương. Còn Khánh vương phản loạn Khiết Đan lại là: “Chết trong tay ta, ta sẽ đi sứ Khiết Đan gặp người mà Tiêu hậu quý mến nhất.”
Hắn đang tự cân nhắc, Tiêu Hải Đào chạy tới, kích động nói: “Ha ha, đại nhân, quả nhiên đại nhân vừa về, chuyện tốt liên tiếp tới…”
Chương 377:Rút củi dưới đáy nồi, khó hạ thủ
Tiêu Tự cười dài, nói: "Quả nhiên là đại nhân vừa về, nha môn nước trong (ý nói nha môn nhàn rỗi) của chúng ta liền bắt đầu bận rộn rồi. Ha ha, xin nói cho đại nhân biết, quốc vương Tiền Thục của Ngô Việt vào triều thăm thánh thượng rồi, quan gia lệnh cho Ngụy vương Đước Chiêu và Dương tả sứ phụ trách nghênh đón khoản đãi."
Dương Hạo "ừ" một tiếng, thầm nghĩ: "Nơi ta muốn đến là Khiết Đan, chỉ cần Phi Vũ phái người đến, ta sẽ chế tạo ra một cái cớ để xuất sứ Khiết Đan. Tiền vương ư? Hắn tới thì tới, liên quan chó gì tới ta."
Dương Hạo nghĩ thầm trong lòng rồi thuận miệng hỏi: "Lúc trước tiếp kiến Tiền vương có quy cách gì, có lệ cũ gì có thể tuân theo, còn phiền Tiêu tự thừa sắp xếp một chương trình, Dương mỗ sẽ chiếu theo mà làm là được. Tiêu đại nhân cũng biết đó, những lễ hi phiền phức như thế này, Dương mỗ không hiểu lắm."
"Không sao cả, không sao cả, chuyện này cứ giao cho hạ quan là được."
Tiêu tự thừa cười hì hì, nói: "Nói tới lệ cũ, kể ra thì cũng không có. Tiền vương và triều ta qua lại là mật thiết nhất, cũng nhận được lễ ngộ của quan gia nhất, lúc trước tiếp đón Tiền vương, luôn luôn đều là do Tấn vương thiên tuế chủ trì, Tấn vương nắm cả phủ Khai Phong, trên địa bàn Biện Lương này quản nhiều việc hơn Hồng lư tự của chúng ta. Nhân thủ nghênh đón tiễn đưa, an bài tiếp đón khoản đãi, người của Nam Nha một tay làm hết. Hồng lư tự của chúng ta căn bản không cần phải ra mặt. Lần này là lần đầu tiên Hồng lư tự của chúng ta tiếp nhận đại sự nghênh đón Tiền vương, có điều thuộc hạ tự sẽ xử lý việc này thỏa đáng, đại nhân hiện giờ là cột trụ của Hồng lư tự ta, không cần phải lộ mặt nhiều."
Dương Hạo mỉm cười, cảm ơn: "Như vậy thì phiền Tiêu tự thừa và chư vị đồng liêu rồi."
Đợi Tiêu tự thừa bước ra, Dương Hạo xoay xoay chén trà, tâm tư hoạt động thật nhanh: "Lúc trước là do phủ doãn Khai Phong, cũng chính là đương kim tấn vương phụ trách tiếp đãi vị Tiền vương này, lần này sao lại đổi người nhỉ?"
Mắt hắt hơi híp lại, chính trị của nước ta, huyền diệu vô cùng, một chỗ đứng, một thái độ đều có thể trở thành một tín hiệu của chiều hướng chính trị nào đó. Trước giờ người do Tấn vương phụ trách tiếp đại lại đột nhiên đổi thành Ngụy vương tiếp đãi. Ý tứ gì đâu? Chắc hẳn Tấn vương hiện tại đã có chút đứng ngồi không yên rồi...
Có đám quan lại có kinh nghiệm như bọn Tiêu tự thừa đứng sau xuất mưu tính kế cho hắn, chuyện Dương Hạo và Ngụy vương Đức Chiêu tiếp đón Tiền vương tuy là làm lần đầu tiên, nhưng cũng xử lý đâu ra đấy. Tiền Thục lần này tới, là rất thức thời vụ chuẩn bị tới Khai Phong làm con tin, cùng với quốc quân của các nước Kinh, Hồ, Hán, Đường gặp mặt, uống trà, tiếp nhận sự kết nạp hòa bình của Triệu Khuông Dận, cái mà hắn muốn chính là một nhà già trẻ được bình an.
Nhưng chẳng ai biết được quan gia nghĩ thế nào, tựa hồ như ông ấy không muốn dệt hoa trên gấm, lập tức tiếp nhận lãnh thổ của Ngô Việt. Trên quốc yến long trọng, Tiền Thục thấp thỏm bất an ở ngay tại đương trường đọc lời chúc tụng, biểu lộ hết tâm ý của hắn.
Triêu Khuông Dận nghe lời chúc mà hiểu ý, lập tức trịnh trọng tỏ thái đội: "Trẫm thề không giết Tiền vương! Ta sống trọn một đời thì ngươi cũng sống trọn một đời. Con cháu của họ Tiền, vĩnh viễn hưởng phú quý!" Tiền Thục ở Biên Lương ngông nghênh dạo một vòng, được bản thưởng rất nhiều, rồi được trả về Ngô Việt một cách nguyên vẹn.
Tiền Thục lần này tới rõ ràng là vì hiến đất, không cần một binh một tốt, xòe tay ra là chiếm được lãnh thổ, quan gia lại không thuận nước đẩy thuyền mà tiếp nhận. Bệ hạ rốt cuộc là đang nghĩ gì đây? Chẳng lẽ hiện tại còn có chuyện quan trọng hơn việc tiếp nhận Ngô Việt ư? Thánh ý thật sự là khó dò.
Vào lúc văn võ bá quan đang suy đoán không ngớt, Triệu Khuông Dẫn thánh ý khó dò đột nhiên tuyên bố muốn tây hạnh Lạc Dương, thăm lại Lạc Dương giáp mã doanh, nơi mà ông ta sinh ra để tế bái mộ địa của tổ tiên.
Đây là chuyện đương nhiên, nhất thống Trung Nguyên, chiến công hiển hách như vậy, đương nhiên phải bẩm cáo với tổ tiên rồi. Thế là văn võ bá quan bắt đầu rộn ràng chuẩn bị. Triệu Quang Nghĩa nghe vậy cũng vội vàng vào cung gặp hoàng đế, lúc trước bất kể là Triệu quan gia ra ngoài xuất chinh hay là tuần du, người ở lại thủ Biện Lương đều là hắn. Lần này Triệu quan gia muốn tây hạnh Lạc Dương, hắn tất nhiên phải tới hỏi an bài hành trình, thời gian quay về của hoàng đế, cùng với lời dặn lưu thủ kinh thành.
Vào đại nội rồi, tới thẩm điện của hoàng đế, vừa thấy Triệu Khuông Dận, Triệu Quang Nghĩa liền dùng gia lễ thân thiết chào hỏi đại ca: "Đại ca, lần này tới Lạc Dương, đại ca chuẩn bị đi bao lâu? Đối với chuyện trong kinh, đại ca có lời dặn dò gì không?"
Triệu Khuông Dận đang uống trà, nghe thấy câu hỏi của hắn, thản nhiên như không, nói: "Hiện giờ Trung Nguyên được nhất thống rồi, đại sự như thế này, nên đốt nhang báo cáo với tổ tiên. Chúng ta nhiều năm chưa từng về gia hương rồi, lần này về, ngươi và ta cùng về đi."
Triệu Quang Nghĩa ngây người, tim đập có chút nhanh hơn, hắn do dự nói: "Đệ cũng phải đi ư? Vậy... vậy phía Biện Lương..."
Triệu Khuông Dận ung dung mỉm cười, nói tiếp: "Hiện giờ Giang Nam được bình định, Trung Nguyên đã nhất thống, Hán quốc chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn, tự bảo vệ còn hiềm không đủ sức, Khiết Đan nội loạn không ngừng, nghe nói, Nam Viện đại vương Da Luật Tà Thương phái binh vớ lấy nguyên quán của phản quân, Khánh vương thì bị bức phải dẫn quân chạy tới cương vực Nữ Chân, Tiêu hậu hạ chiếu, cùng người Nữ Chân liên thủ tiêu diệt cỗ đại địch này, nước ta hiện giờ yên ổn như Thái Sơn, cũng không có đại sự gì. Biện Lương ư, cứ để Đức Chiêu và Quang Mỹ tạm thời chăm lo là được."
Triệu Quang Nghĩa trong lòng trầm xuống, gượng cười, nói: "Cũng được, nhiều năm rồi không về gia hương, trong lòng huynh đệ cũng rất nhớ, hiện giờ cùng ca ca về một chuyến vậy."
Sau khi trời khỏi tẩm điện, sắc mặt của Triệu Quang Nghĩa lập tức trở nên âm trầm: "Tiền vương bắc thượng, Ngụy vương nghênh đón. Đại ca tế tổ, Ngụy vương lưu thủ. Những cái này trước giờ đều là công việc của ta, đại ca an bài như vậy, rốt cuộc là có ý tứ gì, xem ra Vương Kế Ân đối những sự an bài này cũng không hề biết chút gì, cho nên trước đó mới không thông báo cho ta.”
Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ càng thấy bất an, hắn nặng nề đi xuống hành lang, lẩm bẩm nói một mình: "Đây là sự trừng phạt đối với việc ta nhúng tay vào binh quyền ư?"
"Đồ lưu manh, đánh rắm gì vậy!"
Giọng nói của Triệu Quang Nghĩa tuyệt đối không thể bị người ta nghe thấy, không đề phòng trên không trung đột nhiên truyền tới một tiếng kêu quái lạ, dọa cho Triệu Quang Nghĩa giật bắn mình, sắc mặt đại biến. Hắn đột nhiên ngẩng đầu lên, quát: "Là ai?"
Ngẩng đầu lên nhìn, nào có ai đâu, lại nghe thấy giọng đó vang lên: "Cái miệng chó của ngươi, khiến cho thiếu gia đây đầy một bụng tức." Triệu Quang Nghĩa tập trung nhìn, chỉ thấy trên cột nhà có một con anh vũ đang đậu, dùng mỏ chải lông, sau đó trừng hai con mắt chim hướng tới hắn vận khí. Triệu Quang Nghĩa đã nghe nói trong cung nuôi một con anh vũ rất thích mắng người, chính là vật cưng của Vĩnh Khánh công chúa, từng chọc cho quan gia nửa đêm biến hoàng cung thành chiến trường.
Hắn bị con chim này dọa cho giật nảy mình, không khỏi vừa tức lại vừa buồn cười, nhìn ra xung quanh, Triệu Quang Nghĩa thuận tay thò ra, từ vườn hoa ở ngoài lan can nhặt lên một viên gạch, nhắm chuẩn vào con anh vũ đó mà mắng: "Con súc sinh lông lá mày, dám vô lễ với bản vương à, ăn đòn này!" Nói xong liền ném viên đá trong tay ra.
Con chim đó ngay cả Triệu Khuông Dẫn cũng phải bỏ qua không chấp nhặt với nó, những ngày này hoành hành trong hoàng cung đại nội, quả thực là một tổ tông sống, bất kể là ai cũng không sợ. Sớm đã biến thành không sợ người, ngàn vạn lần không ngờ rằng lại có người dám cầm gạch ném nó, kết quả né không kịp, bị gạch của Triệu Quang Nghĩa ném trúng, rít lên một tiếng từ trên xà nhà ngã xuống.
Con anh vũ đó rơi xuống đất, vừa kêu thảm vừa dãy dụa đứng dậy, vỗ cánh vội vàng chạy trốn, nghiêng nghiêng ngả ngả bay lên không trung, rơi rụng mấy sợi lông mao, từ đằng xa còn truyền tới tiếng kêu thống khổ của nó: "Đồ lưu manh, đồ lưu manh."
Triệu Quang Nghĩa sợ bóng sợ gió một hồi, dở khóc dở cười lắc lắc đầu, lúc này lại nghe thấy từ đằng xa truyền tới tiếng kêu còn sắc bén thê thảm hơn cả giọng của con chim: "Tên khốn nào đả thương chim của ta!"
Triệu Quang Nghĩa ngây người: "Thủy Khánh? Ài, con gái con đứa, đường đường là công chúa điện hạ, cả ngày đều tên khốn tên khốn, đúng là bị con chim này dạy hư rồi!"
Triệu Quang Nghĩa lắc lắc đầu, vội vàng chuồn mất.
...
Dương Hạo ở Khai Phong không đợi người của "Phi Vũ" tiếp xúc với hắn thì lại bị Triệu Khuông Dận dắt tới Lạc Dương. Văn võ bá quan tùy hành, hoàng thượng bãi giá tới Lạc Dương, trước tiên tới An lăng cúng mộ tổ tiên, sau đó Triệu Khuông Dận làm hai chuyện, hai chuyện khiến văn võ bá quan nghị luận phân tích không ngừng.
Chuyện đầu tiên là triệu tri phủ đương nhiệm chủ quản quân chính Lạc Dương, hữu võ vệ thượng tướng quân Tiêu Kế Huân tới, không có công mà được phần thưởng, tấn thăng hắn làm Chương Đức quân tiết độ sứ. Một bước lên trời, lên tới vị trí mà võ tướng không thể lên được nữa.
Chuyện thứ hai, là đến thăm Triệu Phổ, Triệu Phổ sau khi bãi tướng, tuy có quan hàm Tam thành tiết độ sứ, kỳ thực đều là hư chức, không có chức vụ cụ thể phái cho hắn, cho nên hắn một mực nhà cư ở tây kinh Lạc Dương, bình thường đóng cửa không ra ngoài, cũng không tham dự bất kỳ chính sự nào. Triệu Khuông Dận đột nhiên đăng môn bái phỏng, ý vị là gì đây?
Nhất cử nhất động của đế vương không cái nào là không có thâm ý, liên hệ tới việc Ngụy vương Triệu Đức Chiêu thay Tấn vương Triệu Quang Nghĩa nghênh đón Tiền vương vào triều, Triệu Đức Chiêu, Triệu Quang Mỹ thay Triệu Quang Nghĩa lưu thủ thành Biện Lương, rất nhiên quan viên đột nhiên hiểu ra. Hoàng thượng muốn ra sức nâng đỡ trưởng tử và hoàng tam đệ, Triệu Quang Nghĩa đã chế thành thế đuôi to khó vẫy rồi.
Hoàng thượng triệu kiến Triệu Phổ, rõ ràng là có ý lại muốn trọng dụng hắn, hiện giờ chỉ có tư lịch và nhân mạch của Triệu Phổ, sau khi quay lại triều đình, mới có thể đối kháng với Triệu Quang Nghĩa. Nhưng vô duyên vô cớ đều bạt Tiêu Kế Huân là ý tứ gì? Chẳng lẽ cấm quân cũng phải thanh tẩy một lần ư?
Nhất thời nhân tâm hoảng hốt, nghị luận rào rào, Triệu Khuông Dận thì lại bất động thanh sắc, mỗi ngày đều du sơn ngoạn thủy, thăm viếng bạn cũ, kiểm duyệt quân đội trú thủ Lạc Dương. Lúc mới đầu Dương Hạo cũng không hiểu được ý đồ của Triệu Khuông Dận, cho tới một ngày khi Triệu Khuông Dận đông du long môn thạch quật, khen "từ Võ vương phạt Trụ, tám trăm chư hầu hội Mạnh Tân, Chu công phụ chính, chuyển cửu đỉnh tới Lạc Ấp. Tướng nhân noi theo, mười ba vương triều đều định đô ở Lạc Dương. Khí tượng của Lạc Dương thật không hổ là đệ nhất đế đô của thiên hạ" thì Dương Hạo mới đột nhiên tỉnh ngộ, nhớ tới một chuyện lớn trong lịch sử.
"Vĩnh Hoài hà lạc gian, hoàng hoàng tổ tông nghiệp, thượng thiên hữu nhân thánh, vạn bang tẫn thần thiếp", nghiền ngẫm bốn câu thờ bỗng nhiên nhớ tới này, hồi tưởng một loạt những hành vi bất thường từ lúc Tiền vương vào kinh của Triệu quan gia. Dương Hạo đột nhiên minh bạch mục đích của ông ta.
Ông ta là muốn rời đô!
Hơn nữa là rời đô một cách gấp rút, thậm chí ngay cả ốc thổ Ngô Việt mà Tiền vương dâng tặng hai tay cũng tạm thời gác sang một bên, lập tức chuẩn bị chuyện rời đô. Trong lịch sự, chuyện đại sự này liên quan tới quốc vận ba trăm năm tới của Tống quốc. Ông ta chưa hề thành công, lần này, liệu có thể thành công hay không?
Trong phủ của Triệu Phổ, ánh mắt của Mộ Dung Cầu Túy chậm rãi di động theo bóng người của Triệu Phổ.
Triệu Phổ nhíu chặt lông mày, vuốt râu, trầm ngâm nói một mình: "Rời đô là chuyện tốt, khí tượng một nước, quyết định bởi đế đô. Trường An nằm ở Quan Trung đối mặt với thiên hạ, cổ phác đại khí, hào hùng vạn quốc. Lạc Dương ở giáp Lạc Thủy, là trung tâm của trung nguyên, văn hóa hưng thịnh, cũng không mất hùng phong. Kim Lăng có sơn thủy, hưởng sự giàu có vào đông đúc của Giang Nam, là vùng giao tranh chấn hưng và k Hán thất. Khai Phong, dùng cái lợi của Hoàng Hà, thiên hạ tài phú hội tụ, vật nhiều người đông, cực kỳ phồn thịnh. Song Khai Phong có hai chỗ bất lợi lớn, một là Hoàng Hà tứ ngược, nước tràn thành tai, đế đô của một nước thường không nên đối mặt nguy hiểm phải biến thành vùng ngập nước được. Hai là về địa lý thì không có chỗ hiểm trở để thủ, vùng đất bằng phẳng, Bắc nhân nếu muốn nam hạ, thoáng cái là có thể tới, không có trăm vạn hùng binh thì không thể thủ được. Vài ba năm thì có lẽ là không sao, nhưng về lâu dài thì triều đình khó mà gánh vác được. Chỉ là..."
Hắn ngẩng đầu lên, nhìn về nơi nóc nhà hư vô, nhẹ nhàng lắc lắc đầu.
Mộ Dung Cầu Túy nói: "Đại nhân, quan gia đi một bước thật tuyệt diệu. Rời đô, đối với giang sơn xã tắc mà nói thì có lợi rất lớn. Đây chính là chuyện liên quan tới lợi ích ngàn thu. Còn trước mắt ư? Tấn vương một nhà độc đại, đã dẫn tới sự nghi kỵ của quan gia rồi, quan gia rời đô, có thể rời khỏi Khai phong, nơi mà Tấn vương khổ tâm kinh doanh mười năm, thế lực thâm căn cố đế, tai mắt khắp triều, tới Lạc Dương bắt đầu từ con số không.
Tình hình hiện giờ, Tấn vương nằm trong tay bệ hạ, Khai Phong đã rơi vào trong tay tay hoàng tam đệ và Ngụy vương Đức Chiêu. Quan gia đề bạt Tiêu tiết độ, trọng hưởng thủ quân Lạc Dương, lại cân nhắc ý của Ân tướng, một khi như vậy, bất kể thế nào, thế lực của Tấn vương ắt sẽ bị nhổ tận gốc!"
Triệu Phổ lắc lắc đầu, trầm giọng nói: "Cái đó cũng chưa chắc."
Trầm mặc một hồi lâu, hắn mới phân phó: "Ngươi về đi, không cần tới nữa, cứ một lòng một ý làm việc cho Tấn vương. Tuyệt không được để lộ ra nửa điểm dị tâm. Bệ hạ rời đô có thành công hay không, chúng ta cứ yên lặng chờ xem, tuyệt không nhúng tay vào."
Mộ Dung Cầu Túy nghi hoặc không hiểu, do dự một hồi mới chắp tay nói: "Vâng, Cầu Túy cẩn tuân phân phó của Ân tướng."
Nhìn bóng lưng của Mộ Dung Cầu Túy khuất xa, Triệu Phổ lặng im không nói gì, không biết được hắn đang nghĩ gì, cho tới khi một cỗ gió lạnh thổi tới, khiến cho hắn lạnh run, Triệu Phổ mới phất tay áo quy lại, lẩm bẩm: "Tiềm cư ở đây, không đếm xỉa gì tới chính sự, Triệu mỗ đã nhìn rất rõ ràng rồi, địch nhân cường đại nhất của bệ hạ, không phải là người khác mà là chính bản thân ông ta. Nếu ông ta không chiến thắng được mình, vậy thì tất cả đều là nói suông.”
Triệu Khuông Dận quả nhiên tuyên bố rời đô. Rời đô tới Lạc Dương, chia Khai Phong, trung tâm kinh tế, chính trị ra làm hai, kinh tế thì để lại ở Khai Phong, chính trị thì rời tới Lạc Dương, đây chính là một phát hỏa giải thế lực ngầm mà Triệu Quang Nghĩa khổ tâm kinh doanh mười năm. Chia cách, hạn chế, chính là thủ đoạn sở trường của Triệu Khuông Dận, chính là nhờ vào loạn thủ đoạn này mà ông ta đã triệt để giải quyết phong trào võ tướng soán vị từ thời Ngũ Đai tới nay. Lập quốc mới được mấy năm ngắn ngủi đã khống chế quan lại châu phủ của thiên hạ trong tay triều đình, phàm là nơi chiếm được, không để một phiên trấn nào xuất hiện.
Hiện giờ ông ta dùng kế điệu hổ ly sơn, lại thi ân cho thống soái tối cao đóng quân ở đương địa, gần thêm một bước lung lạc quân đội. Triệu Quang Nghĩa sẽ như hổ rời núi, còn không ngoan ngoãn để mặc cho ông ta bài bố ư? Đây chính là thủ đoạn giải quyết nguy cơ nội bộ mà không cần phải binh đao nhuốm máu của Triệu Khuông Dận. Nhưng, ông ta ngàn vạn lần không ngờ rằng, ý tứ rời đô vừa được biểu đại ra ngoài liền gặp phải sự nhất trí phản đối của triều dã. Bá quan xôn xao là điều mà ông ta đã đoán trước được rồi, nhưng ông ta ngàn vạn lần không ngờ rằng, bá quan lại cờ xí liên minh tỏ ý phản đối, chẳng lẽ văn võ toàn triều đều bị nhị đệ mua chuộc hết rồi ư?
Không, không thể nào.
Ánh mắt của Triệu Khuông Dận quét qua các đại thần đang tranh biện đến đỏ mặt tía tai, hơi lắc lắc đầu. Ngự sự trung thừa Lưu Ôn Tẩu không thể phản bội ông ta, cấm quân điện tiền ti Khống Hạc, chỉ huy sứ Điền Trọng Tiến không thể phản bội ông ta, xu mật sứ Tào bân không thể phản bội ông ta. Lô Đa Liêu, Tiết Cư Chính, Lữ Từ Khánh, ba vị tể tướng mà ông ta một tayđề bạt không thể phản bội ông ta, cấm quân mã bộ quân đô chỉ huy sứ Đảng Tiến, đại tướng Hô Duyên Tán, bọn họ đều không thể phản bội ông ta, nhưng đại đa số trong bọn họ cũng kiên quyết phản đối rời đô. Vì sao? Đây là vì sao?
Một vị văn quan đỏ mặt tía tai kêu lên: "Thần cho rằng, những lời nói trước tiên rời đô tới Lạc Dương, nhìn thiên hạ đại thế rồi lại dời đô tới Trường An của bệ hạ là rất có đạo lý, hơn hẳn định đô ở Khai Phong. Trường An có Hoàng Hà, Tần Lĩnh làm lá chắn, ngồi ở Quan Trung mà nhìn thiên hạ, có đế vương chi khí. Lạc Dương phía bắc có sông lớn vắt ngang, phía nam có y khuyết khóa chặt, phía đông có thành cao, Hổ Lao vững trãi, phía tây có Long môn, Khẳng sơn hiểm trở. Mà Khai Phong lại không có núi non để dựa vào, hoàng hà ngược lại lại thành họa hoạn, một khi địch tới từ bất kỳ một phương hướng nào đều có thể tiến công dễ dàng. Càng lợi cho chiến mã người phương bắc tung hoành, tương lại một khi giằng co với bắc quốc, không có trăm vạn đại quân thì khó mà thủ được. Cần binh lực nhiều như vậy, quốc lực làm sao mà gánh được? Không bằng rời đô tới Lạc Dương, dựa vào núi sông hiểm trở mà nuôi binh, có thể an thiên hạ."
Một tướng quân nhảy ra, cao giọng nói: "Chỉ biết nói bậy, triều ta mới lập, quốc lực có hạn, xây dựng rầm rộ ắt sẽ làm dao động nền tảng của đất nước. Hiện giờ Quan Trung đã không còn là Quan Trung ngày trước nữa, bách nghiệp điêu linh, nhân khẩu thưa thớt, làm thế nào mà trở thành trung tâm thiên hạ được? Còn Lạc Dương, cũng không thuận lợi bằng Khai Phong, thuế phú toàn quận dựa vào vận hà mà cung cấp, một khi rời đô tới Lạc Dương, xe ngựa nườm nượp, cả ngày không ngớt, phí dụng chẳng phải lại đánh vào quân phí ư?"
"Không đâu, không đâu" lại có một vị văn quan bước ra, gật gù đắc ý, nói: "Dựng nước xây đô đều phải dựa vào nơi hiểm trở, thành trì ắt phải dùng núi sông vây quanh. Khai Phong thì bốn phía trống không..."
Hắn còn chưa nói xong thì một văn quan liền nhảy ra phản bác: "Lạc Dương không phải là nơi tứ thông ngũ đạt (ý nói giao thông không thuận tiện), không đủ để cung dưỡng hoàng thất, cứu giúp vạn dân. Biện Lương tuy không có núi non hiểm trở vây quanh, nhưng có thể dùng binh làm hiểm, thiên hạ giàu có đông đúc, chẳng lẽ lại không đủ để nuôi binh cho Biện kinh ư?"
"Hai tên nhà nho nghèo các ngươi nói linh tinh cái gì vậy!" Lại có một tướng quân nhảy ra, vị tướng quân này dốt đặc cán mai, nghe hai người trước chi hồ giả dã, cũng không nghe ra ai là người có cùng ý kiến với hắn, dứt khoát mắng cả hai: "Cái gì mà hiểm với cả không hiểm, Giang Nam lấy Đại Giang làm hiểm, hiểm này không phải là hiểm ư? Tướng hùng binh mạnh, tấn công một cái là có thể đánh gục, mỗ cho rằng, biện kinh là tốt nhất, không cần phải rời đo."
"Tướng quân nói vậy sai rồi, quốc đô không phải ở mãi một nơi vĩnh viễn không di chuyển, khi xưa Bàn Canh rời Ân, triều Thương phục hưng. Triều Chu từ Chu Nguyên rời tới Cảo kinh, cuối cùng cường thịnh lên rồi diệt được Ân Thương. Ngụy Hiếu văn đế từ Bình thành rời đô tới Lạc Dương, làm suy yếu thế lực của của các tù trường mà lập được vương quyền, từ đó có thể xưng bá thiên hạ. Hiện giờ rời đô tới Lạc Dương, dùng tinh binh tới bắc phạt Yến Vân, thì giang sơn sẽ vĩnh viễn vững chắc!"
"Bệ hạ, bệ hạ!"
Mắt thấy văn võ bá quan trang biện không ngừng, thiết kỵ tả hữu sương đô chỉ huy sứ Lý Hoài Trung không nhịn được mà bước ra khỏi hàng, Lý Hoài Trung kiêu dũng thiện chiến, trung tâm cảnh cảnh, chính là tâm phúc do một tay Triệu Khuông Dận đề bạt lên, vừa thấy hắn đứng ra, Triệu Khuông Dận đã có chút sứt đầu mẻ trán rất là vui mừng, vội vàng cúi người, nói: "Ái khanh có gì muốn nói?"
Lý Hoài Trung cẩn thận tìm từ, nói: "Bệ hạ, đông kinh Biện Lương có thủy vận của Biện hà, mỗi năm từ Giang, Hoài vận tới mấy trăm ngàn gánh gạo, để cứu giúp trăm vạn người trong kinh sư, nếu bệ hạ rời đô tới Lạc Dương, vậy thì vận lương như thế nào? Hơn nữa, kho khố căn bản đều ở tại Biện Lương, hiện giờ Trung Nguyên vừa mới thống nhất, thiên hạ lại chưa ổn định, thực sự là không nên vội vàng dao động. Thần cho rằng, chuyện này hãy để sau hẵng bàn, từ từ thực thi, để tránh làm tổn thương nguyên khí của đất nước."
Triệu Khuông Dận lại chậm rãi ngồi thẳng lên, mặt không có chút biểu tình, trong mắt lại lóe lên vẻ thất vọng, thậm chí là thống khổ.
Ông ta hiểu rồi, ông ta cũng nhìn rõ rồi, ông ta nhìn ra chỗ không tốt của Biện Lương, những khai quốc công thần này làm sao mà không nhìn ra chỗ thiếu sót trí mạng của Biện Lương? Song, bọn họ vẫn một mực phản đối, bọn họ không phải là vì bị Triệu Quang Nghĩa mua chuộc, mà là bị lợi ích mua chuộc rồi.
Nhà của bọn họ ở Biện Lương, tài phủ, thổ địa, thân quyến, nhà cửa của bọn họ toàn bộ đều ở Biện Lương, cửa hàng lương thực, cửa hàng quần áo, hiệu cầm đồ, tửu lâu mà bọn họ kinh doanh toàn bộ đều ở Biện Lương, bọn họ làm sao mà chịu rời đi? Cho dù bọn họ cảm thấy nên di dời kinh sư, bọn họ cũng tuyệt không hi vọng lại di dời vào lúc mà bọn họ đang làm quan.
"Tấn vương, khanh thấy thế nào?" Triệu Khuông Dận trầm mặc một hồi lâu, quay sau hỏi Triệu Quang Nghĩa cũng im lặng đã lâu.
Triệu Quang Nghĩa thấy phản ứng của quần thần, tảng đá đang treo trong lòng cũng được hạ xuống, hắn chậm rãi đứng dậy, trầm ổn bước tới trước ngự tọa, đột nhiên quỳ xuống, trịnh trọng hành lễ, cao giọng đáp: "Thần, phản đối rời đô."
Triệu Khuông Dận cười khổ, nói: "Tấn vương, ý tứ trong lời nói của trẫm, người đã từng nghe rõ chưa?"
"Thần nghe rõ rồi!" Triệu Quang Nghĩa trầm ổn nói: "Nhưng thần cho rằng, sự vững chắc của giang sơn là ở đức chứ không phải là ở hiểm!"
Triệu Khuông Dận sắc mặt trầm xuống, một hồi lâu vẫn không nói gì.
Ở đức chứ không phải ở hiểm? Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa? Chỉ cần có được dân tâm thì nhất định sẽ có được thiên hạ? Lý Dục tuy là hỗn đản, nhưng dân tâm Giang Nam lại không hướng về Tống. Thuế của Mạnh cơ thu nặng hơn, nhưng người Thục lại không ngóng trông người Tống tới "giải" cứu bọn họ, bọn họ bảo vệ giang sơn ư?
Từng có một vị môn đồ của thánh nhân cả ngày kêu gọi đối phó với Hung nô là ở đức không phải ở hiểm. Đó là thời của Hán Võ đế, Hán Võ đế không nói câu nào, trực tiếp cho hắn tới biên cương dùng đức phục người, đối phó với Hung Nô. Kết quả là, không lâu sau Hung Nô liền chém đầu hắn, tấn công vào thành, tự ý chém giết cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ.
Nhưng, ông ta có thể dùng biện pháp đó để đối phó với Triệu Quang Nghĩa ư? Đây là thân huynh đệ của ông đó!
Lần này vì rời đô, ông ta quả thật đã chuẩn bị rất nhiều, bảo gồm cả về mặt quân sự, nhưng có một chuyện ông ta không ngờ tới, có một chuyện mà ông ta không hạ quyết tâm được. Ông ta không ngờ văn võ đại thần trung thành với mình nhất cũng dám ở ngay trước mặt phải đối ý kiến rời đô của ông ta. Ông ta không thể hạ quyết tâm giết một răn trăm, lấy huynh đệ của mình ra khai đao được.
Làm sao đây? Bất chấp tất cả, hung hãn chuyên quyền ư? Ông ta không làm được, lưu manh Lưu Bang giết người như ma dưới tính huống văn võ toàn chiều nhất trí phản đối cũng không dám tự tiệt thay đổi thái tử. Hiện giờ giang sơn mới định, là lúc cần bình ổn, ông ta cũng không thể chuyên quyền độc đoán, khăng khăng rời đô được.
Dương Hạo lặng lẽ nhìn cảnh ở trước mặt, hắn và La Công Minh là hai trong số ít những quan viên không tỏ thái độ. La Công Minh là người lão làng đã trải qua mấy triều, quyết không tùy tiện tỏ thái độ. Còn Dương Hạo, Dương Hạo kỳ thực cũng nhìn thấy rất rõ, Tống quốc sau này chuyện quân sự, chính trị trở nên rối ren tất nhiên là có nguyên nhân khác, nhưng Biện Lương làm quốc đô, là một nguyên nhân quan trong không thể coi thường ở trong đó.
Lạc Dương không tốt ư? Trường An không tốt ư? Nơi đó hiện tại kinh tế không phát đạt, nhân khẩu quá ít ư? Cái này mà cũng gọi là lý do được à, một khi trung tâm chính trị chuyên tới đó, sao có thể không một lần nữa hưng vượng được? Trường An, đó là nơi mà hai trăm năm sau thiết kỵ mông cổ tung hoành thiên hạ, không đâu địch nổi cũng không thể chính diện công phá, rời đô có thành công hay không, chỗ yếu hại chân chính không phải là ngươi đưa ra được bao nhiêu lý do đường hoàng, mà là ở cuộc đọ sức giữa hai huynh đệ họ Triệu, mới là điều then chốt có tính quyết định.
Triệu Khuông Dận là đế vương, lần này tới Lạc Dương tế tổ, ông ta đã chuẩn bị rất nhiều. Hiện tại, chỉ xem xem ông ta có thể sát phạt quyết đoán, dùng thủ đoạn thiết huyết mà Minh Thành Tổ Chu Lâm thường làm, dẹp yên tất cả những tiếng nói không đồng ý. Ông ta có bá lực này không, có dụng tâm lãnh huyết như vậy không?
"Chuyện này, thạm thời gác lại, về sau sẽ thương nghị tiếp, bãi triều!" Triệu Khuông Dận khó nhọc đứng dậy, chầm rãi bước ra sau điện, Triệu Khuông Dận luôn luôn long tinh hổ mãnh, đây là lần đầu tiên lộ ra vẻ mệt mỏi ở trước mặt văn võ bá quan.
Dương Hạo nhìn bóng lưng của ông ta, trong lòng lờ mờ có chút chua xót. Hắn bắt đầu có chút đồng tính với vị hoàng đế này. Có những chuyện, ông ta làm không phải là không đúng, ông ta không phải là không làm được, mà là ông ta không thể làm. Ông ta là một anh hùng, nhưng ông ta không làm được một vị anh hùng cái thế, sát phạt quyết đoán, thái thượng vong tình.
Vài ngày liên tiếp, hoàng thượng cáo ốm không ra ngoài, cũng không du lãm chỗn cũ, cũng không lên triều, nhìn tình hình này, Triệu quan gia khúc mắc chưa giải, tạm thời không có tâm tình du sơn ngoạn thủy nữa rồi. Văn võ bá quan cũng thanh nhàn hơn, Dương Hạo rất nhàn, hắn cả ngày đi dạo khắp nơi, nhìn thấy ai cũng cảm giác giống như là người của "Phi Vũ", cho dù là tên ăn xin, hắn cũng hi vọng tên ăn xin sẽ vèo một cái chạy tới trước mặt hắn, hỏi khẽ: "Muốn mao phiến không?" À không, nên là thấp giọng bẩm báo: "Đại nhân, phi vũ đến đây đợi lệnh."
Đáng tiếc, đợi mãi vẫn không thấy người của Phi Vũ tới, Dương Hạo bắt đầu hoài nghi phải chăng là sau khi mình rời khỏi Tô châu, Phi Vũ đã triệt để tan rã rồi.
Đúng vào lúc này, người mà hắn trông mòn con mắt cuối cùng cũng tới.
"Đại nhân, đại nhân" Dương Hạo dẫn hai thân binh vừa bước ra khỏi chùa Bạch Mã, phía sau sư tử đá đột nhiên có một nữ nhân đầu tóc tán loạn vẫy tay với hắn, Dương Hạo lấy làm lạ: "Làm sinh ý cả ở đây ư? Không sợ Phật tổ trách tội à.”
Tập trung nhìn lại thì giật nảy mình: "Diệp đại thiếu ư?" Dương Hạo nhìn xung quanh, vội vàng lên xe, đánh mắt ra hiệp cho Diệp Chi Tuyền đang ăn mặc giả nữ. Diệp đại thiếu hiểu ý, bước tới lên xe, ngồi ở bên cạnh hắn. Dương Hạo lập tức buôn rèm xa, kinh ngạc nhìn bộ dạng phong trần của hắn, hỏi: "Ngươi sao lại thế này?"
Diệp đại thiếu mặt mày bi thương nói: "Có phải rất giống vừa bị người ta cưỡng gian không?"
"Giống lắm!"
Diệp đại thiếp lại u oán hỏi: "Có phải là giống vừa bị mấy người cưỡng gian không?"
Mặt Dương Hạo co giật mấy cái: "Ngươi... không không phải là thực sự "gì đó" rồi chứ?"
Chương 378:Nghi ngờ lớp lớp
Diệp đại thiếu nghe thấy câu hỏi chế giễu của Dương Hạo, tức giận nói: "Ai mà mắt kém như vậy, ngay cả trống mái cũng không phân biệt được?"
Dương Hạo tắt cười, nói: "Là ngươi nói vậy thì ta mới hỏi vậy, ta còn cho rằng tên cường nhân nào đó dục hỏa công tâm, cũng đành làm tạm."
Diệp đại thiếu tức dận trợn mắt lên lườm hắn, đưa tay ra múa loạn, hậm hực nói: "Nói ra thì đúng là xui thật, ta vốn là tới Biện Lương gặp ngài..."
Dương Hạo chen vào, nói: "Ngươi không biết ta theo quan gia tây tuần à?"
Diệp đại thiếu nói: "Quan gia tây tuần thì ta biết, ta còn biết Tấn vương, ba tể tướng, xu mật sứ, tam ti cũng đều đi theo, nhưng không nghe thấy tên của ngài."
Dương Hạo nói: "So với bọn họ, chức quan của ta quả thực là nhỏ hơn một chút. Được rồi, ngươi nói đi, tới Biện Lương tìm ta, sao lại thành bộ dạng như thế này?"
Diệp đại thiếu nghe thấy vậy liền cười khổ, nói: "Vốn là đang êm đẹp, tới Khai Phong ta liền đi tìm ngài, đang đi trên đường thì thì nhìn thấy quan binh đầy đường, không nói câu nào lao ngay về phía ta, ta còn cho rằng là bị lộ thân phận rồi, bị ty cấp hoàng thành theo dõi, dọa cho ta phải nhảy xuống xe co giò chay trốn. Đại nhân ngài cũng hiểu mà, cái mà ta dùng là xe nhà, nếu như bọn họ tìm thấy ta, chứng thực được thân phận của ta, vậy thì Diệp gia của ta sẽ tan tành mất."
Dương Hạo khẩn trương hỏi: "Bọn họ sao lại theo dõi ngươi, không bị bọn họ xác nhận được thân phận thực của ngươi chứ?"
Diệp đai thiếu vỗ đùi, nói: "Cực kỳ không may, khi ta chạy rồi mới hiểu ra người bọn họ muốn bắt không phải là ta, mà là tất cả những người ăn mặc kiểu thư sinh như ta. Lén lút nghe ngóng mới hiểu rằng có một vị đại nhân vừa bị đâm, hung thủ chính là một người ăn mặc kiểu thư sinh giống ta, những quan binh đó nhất thời không phân biệt được, chỉ đành bắt tất cả, để người đã từng thấy hung thủ tiến hành xác nhận, cả đông kinh thành đều đại loạn, các học sinh phu tử của thái học viện đều chạy tới chỗ Ngụy vương kháng nghị.
Dương Hạo hiếu kỳ hỏi: "Là vị đại tướng quân nào bị đâm?"
Diệp đại thiếu nói: "Chính là Tào Hàn Tào đại tướng quân vừa lập đại công trong trận chiến diệt Đường. Tào đại tướng quân áp tải năm trăm bức tượng La Hán sắt, vừa tới bến tàu Biện Lương thì có một vị sĩ tử giơ cao một bức tranh cuộn, nói là chúc mừng Tào đại tướng quân khai cương thác thổ, chiến công hiển hách, vẽ một bức Hoàng sa bách chiến hoàng kim giáp tặng cho Tào đại tướng quân, vì hắn lập được đại công.
Tào đại tướng quân rất là vui mừng, còn bảo thư sinh đó bước lên tặng tranh, tên thư sinh đó dưới ánh mắt của mọi người, vào lúc đưa tranh tới trước mặt Tào tướng quân liền rút một thanh đoản nhận từ trong quận tranh ra, đâm thẳng vào cổ trái của Tào tướng quân, rồi lập tức giống như một con chim to, xuyên tường vượt vách, chạy mất tăm. Đáng tiếc bên cạnh Tào đại tướng quân tùy tùng như mây, lại có một thân võ công cao, vậy mà vẫn phải chết một cách oan uổng..."
Dương Hạo giật mình nói: "Tào Hàn bị người ta ám sát ư?"
Diệp đại thiếu nói: "Đúng vậy, người khắp phố đều đồn đại, có người nói, vị thư sinh có một thân khinh công cao tuyệt đó ngày đi ngàn dặm, chính là kiếm hiệp của nhà Đường, dùng kế hành thích là thủ đoạn Kinh Kha hành thích Tần vương, nói chung là đồn đại rào rào. Người đó cũng chạy rồi, nhưng những người ăn mặc kiểu thư sinh như bọn ta thì xui xẻo. Người khác không sợ bị bắt, ta thì trong lòng có quỷ, trốn đông trốn tây, nhân đêm tối chạy vào phủ của ngài. Lúc này mới biết ngài đã theo hoàng thượng tới Lạc Dương rồi. Thế là ta liền vội vàng chạy tới đây, trên đường, họa ảnh đồ hình, tới chỗ nào cũng thấy đang truy nã thư sinh đó, ta mà mặc như thư sinh một bước cũng khó đi, thế là liền cơ linh, đổi sang nữ trang..."
"Được rồi, được rồi. Ta biết ngươi khổ sở rồi. Ha ha, có điều nói đi cũng phải nói lại, đi chuyến này, ngươi đừng chỉ dựa vào hộ vệ, bản thân ít nhiều gì cũng nên luyện chút công phu, sau này rảnh rỗi thì tìm một vị sư phụ học công phu đi..."
Dương Hạo vừa an ủi hắn vừa trầm ngâm nói: "Tào Hàn chết rồi ư? Ta biết hắn sát nghiệp quá trọng, ông trời không báo thì cũng ắt sẽ có người tới báo thù. Trận chiến Giang Châu đồ sát sáu vạn sinh linh cả thành, đây nhất định là nhân vật trên giang hồ khó chịu với thủ đoạn của hắn, cho nên mới thế thiên hành đạo."
Diệp đại thiếu nói: "Hắn chết thì mặc cha hắn, liên quan chó gì đến chúng ta. Đại nhân bảo tiểu nhân tới đây là có chuyện gì muốn phân phó?"
Dương Hạo hồi phục lại tinh thần, nói: "Ừ, phía Lô châu tình hình thế nào rồi, ngươi kể tường tận lại cho ta nghe đi. Còn nữa, thần ưng mà ngươi huấn luyện, có gắng nhanh chóng nghĩ biện pháp đưa cho ta một con. Bắt đầu từ bây giờ, để người ở lại bên cạnh ta, có tin tức gì thì kịp thời thông báo. Còn nữa, ngươi phải nhanh chóng truyền tin tức về, bảo nghĩa phụ phái một nhánh nhân mã tới Nhạn Môn quan chờ Mục Vũ phân phó. Đúng rồi, thân thể của nghĩa phụ hiện giờ sao rồi?"
"Ài, thân thể của Mộc lão gia tử... yếu lắm rồi. Đinh đại gia mời danh y tới chuẩn trị cho ông ta nhưng cũng không thể giúp ông ta đỡ bệnh. Không ai để cho ông ta uống rượu, bọn Mộc Ân đều quỳ xuống van cầu, nhưng ông ta có chịu nghe ai đâu..."
Bánh xe lộc cộc, dần dần biến mất trên đầu đường Lạc Dương...
....
Trong hành cung Lạc Dương, Triệu Khuông Dận đi đi lại lại trong ngự hoa viên. Lúc này đông tuyết đã tan hết, mầm xuân hé nở, cột băng dưới mái nhà không ngừng tan chảy thành nước, không khí đầu xuân khiến lòng người thêm ấm áp.
Triệu Khuông Dận mặc tiện bào màu vàng, trán buộc khăn cùng màu, dưới chân là giày vải, miệng rộng mày rậm, long hành hổ bộ, chậm rãi bước trong ngự hoa viên, giống như một võ phu cáo lão về quê.
Ông ta quả thực là bệnh rồi, có điều chỉ là bệnh nhẹ, với thể phách cường kiện của ông ta, căn bản không phải là vấn đề, mấy ngày liền không thượng triều, một mặt cũng là tâm tính không tốt, hai là đang suy nghĩ kế hoạch tiếp theo.
Ông ta dùng kế điệu hổ ly sơn, lung lạc thủ quân Lạc Dương, chỉ là thủ đoạn phòng hoạn theo thói quen, trên thực tế ông ta cũng không tin rằng nhị đệ sẽ gây bất lợi cho ông ta, dám gây bất lợi cho ông ta. Từ ngay lúc đầu, ông ta đã muốn dùng thủ đoạn nhu hòa để giải quyết bất đồng giữa huynh đệ. Nhưng không ngờ nhị đệ lại không hề bị trận thế mà ông ta bày ra dọa ngã, hơn nữa tất cả trọng thần văn võ toàn triều cơ hồ đều phản đối rời đô, ông ta cũng không thể ngoảnh mặt làm ngơ, rời đô chiêu này hiện giờ mà nói là rút củi dưới đáy nồi, từ dài lâu mà nói thì lợi ở đại kế thiên thu, nên chỉ đành tạm thời gác lại.
Cái mà ông ta còn là thời gian, thủ đoạn, có gì mà phải gấp?
Từ sau loạn An sử hơn trăm năm trước, Trung Nguyên dần dần bắt đầu tiêu vong, dị tộc xâm nhập, chư hầu cát cứ, không ngừng thay triều đổi đại, không ngừng chém giết cướp đoạt. Nhưng ông ta, con của một võ quan Lạc Dương giáp mã doanh, hoành không xuất thế, chỉ dùng hơn chục năm ngắn ngủi, thống nhất lại Trung Nguyên đại địa, xây dựng một bá nghiệp chính quyền cường đại ổn định, đại sự như vậy mà ông ta còn làm được thì còn có gì mà ông ta không làm được?
Ông ta không gấp, nhị đệ thì vẫn cứ không chịu bỏ qua, ông ta có thể dùng mười năm, hai mươi năm thời gian, dần dần mài bớt đi tráng khí của nhị đệ. Nhị đệ không có gan phản ông ta, cũng không thể phản được ông ta, nhị đệ chỉ muốn sáng tạo ra một danh vọng không ai sánh bằng ở trong triều, ép buộc ông ta suy nghĩ nếu một khi lựa chọn hoàng tử để kế thừa đại thống, vậy thì sau khi ông ta băng hà, đại Tống ắt sẽ xuất hiện cục diện nguy hiểm chủ yếu thần mạnh, ép ông ta không thể không đưa cả huynh đệ vào trong mục tiêu lựa chọn lập trữ.
Không sao cả, không phải chính là chủ yếu thần mạnh ư? Chiêu này của nhị đệ sao có thể làm khó được ta?
Triệu Khuông Dận ung dung mỉm cười, dừng bước lại, ánh mắt nhìn về bầu trời ở phía Tây Bắc.
Nơi đó còn có một vương quốc, một vương quốc đang lảo đảo sắp đổ.
Trung Nguyên đã nằm trong tay, tiếp theo, ông ta muốn tiêu diệt Bắc Hán quốc, đoạt lại U Vân mười sáu châu, vào lúc ông ta còn sống, khiến cửu châu lại một lần nữa được thống nhất. Nhưng thiện hạ mới ổn định, Tống quốc hiện cần phải nghỉ ngơi dưỡng sức, tích súc lực lượng rồi mới có thể bắc phạt. Ông ta ý thức rõ ràng được rằng, người Khiết Đan không phải là dễ đối phó như vậy, nó cường đại hơn Thục, Hán, Kinh, Hồ rất nhiều, hơn nữa còn cường đại hơn những nước đó cộng lại, thậm chí còn cường đại hơn Tống quốc hiện tại. Bắc phạt chi chiến không thể một lần là xong, nhất định phải tính toán cho kỹ. Nếu không một khi thất bại, rất có thể sẽ từ đó mà làm tổn thương sĩ khí của Tống quốc, lần sau muốn bắc phạt sẽ khó khăn hơn nhiều.
Do đó, Bắc Hán quốc đang núp dưới bóng Khiết Đan, trước khi quyết định chính diện khai chiến với Khiết Đan thì sẽ không động đến nó. Nhưng hiện tại cơ hội đã tới rồi, Khiết Đan chủ yếu đăng cơ, dẫn tới những kẻ có dã tâm nhao nhao chiếm quyền. Khánh vương sau khi ám đấu cuối cùng cũng xé rách da mặt làm phản loạn, dẫn tới Khiết Đan chư tộc quyết chiến. Hiện giờ Nam Viện đại vương Da Luật Tà Thương dẫn binh đi qua nguyên quán của bọn họ, Khánh vương tuy từ thượng kinh hoảng sợ lui binh, nhưng thực lực của hắn lại bị tổn thất rất lớn. Nếu như vậy, một khi muốn binh chinh Bắc Hán quốc, Khiết Đan sẽ bị Khánh vương kéo ra sau, rất khó giúp đỡ. Không có người Khiết Đan chống lưng, Bắc Hán há có thể kham nổi một kích, sao không nhân cơ hội này mà chiếm lấy nó?
Triệu Khuông Dận mỉm cười: "Lần này sau khi hồi kinh, sẽ bảo Đức Chiêu tự mình suất binh bắc phạt, tướng lĩnh thiện chiến trong triều có thể trợ giúp cho hắn. Những tướng lĩnh lần này nam chinh không giành được chiến công tất sẽ nhao nhao hưởng ứng, lại sai Triệu Phổ làm tham tán, theo quân phụ chiến, đợi hoàng nhi thành công trở về, thì chính là vương gia chi tôn, có công diệt quốc. Quang Nghĩa là Tấn vương, cũng có công diệt quốc, hai người coi như là ngang nhau.
Lúc đó lại lập thêm chiến công. Triệu Phổ sau khi nhận được lần giáo huấn này, chắc sẽ thu liễm một chút, có hắn chế ngự nhị đệ, sau này ta sẽ giao thêm nhiều quốc sự cho Đức Chiêu đi làm, có ta một tay nâng đỡ, sau năm ba năm, sau năm lần bảy lượt, uy vọng quyền thế của Đức Chiêu chẳng lẽ lại không hơn Quang Nghĩa ư?
Quang Nghĩa, ngươi cho dù là một gốc đại thụ che trời, hiện giờ cũng đã mọc tới tận cùng rồi. Còn Đức Chiêu vẫn chỉ là một khúc mầm mới nhú, đợi khi bọn họ song song nhau, tới lúc đó, ngươi tự nhiên sẽ hiểu phải rút tay, cho dù không chịu rút tay, lúc đó ngươi cũng không còn sức xoay chuyển trời đất nữa rồi....
Triệu Quang Nghĩa cưỡi trên lưng ngựa, hứng thú nói: "Lúc đi thì hứng thú, lúc về thì thất vọng. Ài, nhớ lúc nhỏ cùng đại ca tới Lạc hà du ngoạn, phong quang vô hạn, đẹp không sao tả xiết. Hiện giờ nhìn lại, sao cảm thấy chẳng hứng thú chut nào."
Mộ Dung Cầu Túy mỉm cười, nói: "Thiên tuế, hiện giờ tuyết vừa mới tan, còn chưa tới lúc xuân ấm hoa nở mà. Lạc hà tất nhiên không có cảnh đẹp gì để xem."
Triệu Quang Nghĩa lắc đầu, than: "Lúc đó cũng là thời tiết vừa mới ấm..."
Mộ Dung Cầu Túy cười nói: "Tình thú thời thiếu niên không giống như sau lúc thành niên. Ha ha, lúc đó thiên tuế tới bờ Lạc hạ, là muốn tới phá băng câu một con cá béo, chính là chuyện vui lớn nhất. Hiện giờ thì khác rồi, nếu là tới Lạc hà này, có thể có Lạc thần tới đón, đó mới là cái vui vô thượng?"
Triệu Quang Nghĩa ngẩng mặt lên cười to: "Không sai, không sai, nhạc thú lúc thiếu niên tất nhiên là khác biệt rất lớn với sau khi thành niên. Ồ... Lạc thần, bản vương từ lúc nhỏ đã nghe nói rồi, Lạc thần Bí phi vốn là nữ nhi của Phụ Hy, nàng ta định cư ở bên bờ Lạc hà, bị hà bá Hoàng Hà đánh thắng, bắt vào trong thủ cung, muốn bức nàng ta phải làm vợ. Lúc này thê tử trộm linh dược chạy về thiên cung, Hậu Tị một mình ở lại nhân gian nghe nói tới chuyện này liền tới đánh hà bá, cướp nàng ta về nhân gian, hai người lâu ngày sinh tình, kết thành phu thê. Thiên Đế liền phong Hậu Tị làm Tống Bố thần, Bí phi là Lạc thần."
Mộ Dung Cầu Túy nói: "Đúng vậy, về sau Tào Tử Kiến thầm yêu đại tẩu Chân thị, còn từng lấy lý do ở bờ Lạc thủy gặp Lạc thần thái phi, viết xuống một thiên "Lạc thần phú", để ký thác tấm tình mê luyến đối với Chân thị. Kỳ hình dã, phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long, vinh diệu thu cúc, họa mậu xuân tùng. Tông man hề nhược khinh vân chi tế nguyệt, phiêu diêu hề nhược lưu phong chi hồi tuyết. Viễn nhi vọng khởi...., viễn nhi vọng khởi...,"
Triệu Quang Nghĩa cười cười nói tiếp: "Sao, Mộ Dung tiên sinh không nhớ câu tiếp à? Viễn nhi vọng chi, kiều nhược thái dương thăng triều hà. Bách nhi sát chi, chước nhược phù dung xuất lục ba. Cảm tiêm đắc trung, tu đoản hợp lộ. Kiên nhược tước thành, yêu như ước tố. Duyên cảnh tú hạng hạng, hạo chất trình lộ, phương trạch vô gia, duyên hoa phất ngự. Vân kế..."
"Vương gia, cũng không phải là hạ quan quên lời, ngài thấy vị nữ tử đó, có được xem là cổ nhỏ, dài ngắn phù hợp, vai như vót mà thành, eo như được đặt làm không?"
Triệu Quang Nghĩa liếc mắt nhìn, chỉ thấy ở phía trước có một vị nữ tử áo trắng, thân hình thon dài, thắt lưng quấn hông, đi đường trông rất thướt ta, không khỏi hai mắt sáng lên, khen: "Phong tư như tiên, quả nhiên..."
Hai người bình phẩm từ đầu đến chân, cước bộ dần dần chậm lại, đi tới trước mặt nữ nhân đó, hai người không hẹn mà cùng nhìn lại, muốn được thấy tư dung của nữ tử đó có được kinh diễm như bóng lưng của nàng ta không. Vừa quay đầu lại nhìn mắt của hai người đồng loạt sáng lên, nữ tử trước mặt quả nhiên tư dung mỹ lệ. Triệu Quang Nghĩa chỉ cảm thấy đôi mắt hoa đào của nữ tử ấy mị khí bức người, còn chưa kịp lộ ra thần sắc kinh ngạc thì nữ tử áo trắng đó đột nhiên phất tay áo, hàn quang bắn ra, thân ảnh bật lên, tung ra một kiếm nhanh thiểm điện, đâm tới yết hầu của hắn.
"A!" Mộ Dung Cầu Túy hét lên một tiếng kinh hãi, thân hình muốn bay lên, nhưng trong lòng đột nhiên nghĩ gì đó, bất giác lại dừng lại, trong thời gian một cái chớp mắt này, kiếm quang đã tới yếu hầu của Triệu Quang Nghĩa. Triệu Quang Nghĩa ngửa người, hai chân hất ra, dùng sức đạp lên lưng ngựa, thân hình khôi vĩ không ngờ lại cực kỳ nhanh nhẹn né tránh một kiếm hiểm hóc ấy.
Mày liễu của nữ tử đó nhướn lên, tựa hồ như có chút kinh ngạc vì thân thủ của hắn. Ả ta đưa tay ra ấn lên lưng ngựa, lại đâm tiếp một kiếm, vẫn là nhắm tới yết hầu của hắn. Triệu Quang nghĩa vừa rơi xuống, bịch bịch bịch lui liền mấy bước, tay áo quận tròn, bọc lấy mũi kiếm của nữ tử áo trắng đo, chỉ nghe thấy "xoạt" một tiếng, tay áo rách toách như bươm bướm, kiếm trong tay nữ tử đó bị hất lên không. Triệu Quang Nghĩa thổ khí khai thanh,vỗ một chưởng lên bộ ngực đang nhấp nhô của nàng ta, xuất thủ ngoan độc, không hề có ý thương hương tiếc ngọc.
Thị vệ của Tấn vương lúc này toàn bộ đều xông tới, Triệu Quang Nghĩ phủi phủi tay, cảm thấy kiếm thuật của nữ tử này cũng không được tính là cao minh lắm, vừa rồi một kiếm kinh diễm đó của ả ta hoàn toàn là nhờ vào thân pháp quá nhanh của ả ta nên mới cấu thành uy hiếp đối với mình, cho nên lớn tiếng quát: "Đựng ở bên cạnh, đợi bản vương bắt ả."
Triệu Quang Chỉ gập tay thành móc, liên tục thi triển cầm nã, kiếm pháp của nữ tử áo trắng quả nhiên rất kém, chỉ có thể dựa vào thân pháp kỳ diệu vô cùng của mình mà vừa chiến vừa lui. Mộ Dung Cầu Túy giục ngựa chầm chậm, ánh mắt lấp lánh, nhìn song phương đại chiến, đột nhiên thò tay ra, rút bội kiếm giắt trên hông một thân binh, ném ra rồi cao giọng hô: "Thiên tuế, tiếp kiếm!"
Triệu Quang Nghĩa lui ra một bước bắt lấy kiếm, đột nhiên hô lên một tiếng như sấm nổ. Kiếm này ở trong tay hắn, cảm thấy mạnh hơn nữ tử đó không biết bao nhiêu lần. Nữ tử đó thối lui, Triệu Quang Nghĩa lại tung kiếm đuổi theo, nữ tử đó giao thủ với hắn mấy hiệp, đoản kiếm trong tay mấy lần suýt tuột khỏi tay mắt thấy không địch được, nhờ vào thân pháp kỳ diệu, trước tiên muốn thoát thân mà đi. Triệu Quang Nghĩa nào có chịu bỏ qua, sử kiếm cản ả lại, mắt thấy nữ tử áo trắng đó dần dần không địch nổi, ngoài tường thấp ở bên đường đột nhiên có một người nhảy ra, cũng một thân y sam nữ tử, trên mặt lại che vải đen, trong tay cầm một thanh kiếm, giống như thiên ngoại phi thiên bay tới.
"Keng, keng, keng", hai người mũi kiếm chạm nhau, Triệu Quang Nghĩa bị bức phải lui ba bước liên tục. Triệu Quang Nghĩa kinh nghi bất định nhìn người che mặt, vừa kinh ngạc vì kiếm pháp cao diệu của người này lại vừa kinh ngạc vì thanh kiếm mà ả sử dụng. Hai người đều sử dụng kiếm bản to mà trong quân hay dùng, có thể dùng hai tay để cầm, chém xuống như đao phủ.
"Ngươi là ai?" Vừa thấy đối phương dùng đại kiếm trong quân đội, Triệu Quang Nghĩa vừa kinh ngạc lại vừa tức giận, cao giọng quát.
Người đó trên mặt che khăn, đầu lại đội mũ nỉ, mũ nỉ sụp xuống tận lông mày, đầu hơi cúi xuống, không nhìn thẳng vào hắn, đưa tay ra kéo nữ tử áo trắng. Triệu Quang Nghĩa quát lớn một tiếng, hai tay nắm kiếm, chém liền ba phát vào người đó, đều bị người đó dùng một tay cầm kiếm, với thủ pháp cực kỳ xảo diệu hóa giải hết. Triệu Quang Nghĩa vốn không giỏi kiếm thuật, vừa thấy kiếm thuật của người đó rõ ràng là cao minh hơn mình, keng một tiếng ném kiếm đi, tung người ra đoạt lấy một cây thương trong tay một thị vệ.
Thương đâm một đường dài, côn đánh một mảng lớn, song côn lắp thêm mũi nhọn thì là thương, thương bỏ mũi nhọn thì là côn, cho nên thương và côn tương thông, thương cũng có thể dùng quất, bổ, đánh, đập, côn cũng có thể đâm, hất, vẩy.
Cây thương này lọt vào tay Triệu Quang Nghĩa, đúng là may mẽ hơn hẳn, lúc thì dùng thương pháp, lúc thì dùng côn pháp, chính là cái gọi là dài một tấc thì mạnh hơn một tấc, cây thương lớn này lọt vào tay Triệu Quang Nghĩa, người dùng kiếm liền có chút cật lực.
Triệu Quang Nghĩa thương như du long đâm một cái, côn như gió cuốn quét một cái, đem kỹ nghệ của thương côn phát uy tới vô cùng nhuần nhuyễn, người dó tựa hồ như muốn kéo nữ tử đi, mắt thấy côn pháp của Triệu Quang Nghĩa lợi hại như vậy, đột nhiên buông nữ tử ra, hay tay cầm kiếm phản kích.
Triệu Quang Nghĩa cười lạnh một tiếng, đại thương trong tay đong đưa, đột nhiên điểm tới trước ngựa người đó. Thương sợ lắc đầu côn sợ đâm, đại thương lắc một cái, giống như phượng hoàng gật đầu cái, mũi thương bị rung thành một vòng tròn vừa nhanh lại vừa nhỏ, đột nhiên nhanh như thiểm điện hướng về cổ họng và hai vai của người đó, một thương là thực, một thương là hư, khiến người ta khó đoán.
Một thương của hắn di lắc, móc, đâm, ba động tạc liền mạch lưu loát, không ngờ kiếm pháp của người đó cũng cao tuyệt, một thanh trọng kiếm ở trong tay, không ngờ lại sử dụng cực kỳ nhẹ nhàng, một thương tất sát này không ngờ lại bị hắn phá giải, hơn nữa còn lật tay chém vào tay đang cầm thương của Triệu Quang Nghĩa.
Thương như du long, khó mà nắm bặt, cáng thương đó không phải là đi thẳng tới thẳng, mũi thương sắc bén đâm ra, cán thân run rẩy, giống như long xà đang trườn về phía trước, một kiếm này chém tới, Triệu Quang Nghĩa chấn động cổ tay một cái, trước tiên dùng cán thương hất văng thanh kiếm đó, đại thương lật một cái, dùng đuôi thương đánh vào hạ âm của người đó. Người đó một kiếm bức lui thế công hắn, nhân cơ hội kéo nữ tử áo trắng, quát khẽ: "Đi!" rồi song song nhảy qua đầu tường.
Triệu Quang Nghĩa đại thương rung lên, giống như một con rồng bay thoát khỏi tay lao vút theo người đó, người đó thân ở trong không trung, vung kiếm gạt đi, nhờ lực phản chấn của một thương này, càng bay nhanh hơn về phía sau tường.
Triệu Quang Nghĩa đường đường là vương gia, đương nhiên không có đạo lý ở ngay trên đường mà đuổi theo, hắn quát lớn một tiếng: "Đuổi! Đuổi theo cho ta!" Những sĩ binh đó liền lập tức nhao nha chạy về phía đầu tường.
"Thiên tuế..." Mộ dung Cầu Túy bước lên, Triệu Quang Nghĩa xua tay ngăn hắn lại, nhìn bách tính ở xung quanh đang vậy lại xem náo nhiệt, sầm mặt nói: "Quay về rồi nói."
Hắn nhảy lên ngựa, các thị vệ lập tức vây quanh, bảo vệ hắn ở giữa, lại có người xua đuổi bách tính, Triệu Quang Nghĩa thúc ngựa chạy về phía trước, đi không xa liền thấy ở phía trước có một cỗ xa kiệu, trên càng xe có người đứng, đang nhìn về phía này. Người đó vừ quay dầu lại liền thấy Triệu Khuông Dận đang phi ngựa tới, vội vàng nhảy xuống vái chào: "Thiên tuế."
Triệu Quang Nghĩa thấy người này chính là Dương Hạo, chỉ có một cỗ xa kiệu, cũng không có thị vệ tùy tùng, thấy bộ dạng của hắn giống như là vừa đi dạo về, Triệu Quang Nghĩa vội ghìm cương ngựa, nói: "Dương tá tử từ đâu tới vậy?"
Dương Hạo nói: "Hạ quan hôm nay tới chùa Bạch mã, vừa mới quaylại, vừa rồi thấy mấy sĩ tốt của vương phủ vội vàng chạy về phía trước, không biết..."
Triệu Quang Nghĩa mắt sáng lên, vội vàng hỏi: "Vậy vừa rồi ngươi có thấy hai nữ tử hối hả chạy qua không?"
Dương Hạo nói: "Đích xác là có thấy, có điều... một người trong đó tuy mặc nữ trang, nhưng nhìn thân hình dáng đi của hắn giống như là một nam tử, bọn họ đi rất nhanh, hạ quan đang bực bội thì thấy thân binh của vương phủ chạy tới. Thấy hạ quan cũng hỏi nơi hạ lạc của họ, hạ quan vừa chỉ hướng xong. Bọn họ lại vội vàng cám ơn rồi đuổi theo. Thiên tuế, xảy ra chuyện gì vậy, không biết hạ quan có giúp gì được không?"
Triệu Quang Nghĩa cố nặn ra một nụ cười, nói: "Không có chuyện lớn gì cả, chỉ là hai dân nữ đụng phải nghi trượng của bản vương, các thị vệ chuyện bé xé ra to mà thôi. Dương tả sứ cứ đi làm việc của mình đi." Nói xong liền vung roi giục ngựa đi tiếp. Dương Hạo vội vàng né sang một bên, chắp tay đưa tiễn. Đợi đoàn người của Triệu Quang Nghĩa đi xa rồi. Dương Hạo mới thầm thở phào một hơi. Hắn vội vàng tung người lên xe, vào trong khoang xe, lại thấy Diệp đại thiếu và một nữ tử áo trắng đang ngồi sánh vai.
Dương Hạo vội vàng buông rèm xuống, trầm giọng hỏi: "Bích Túc, nàng là gì vậy?"
Thì ra, nữ tử đó chính là Bích Túc cải trang, một màn ám sát ở trên đường đều lọt vào mắt Dương Hạo vừa hay đi qua nơi này. Dương Hạo vừa nhìn một cái đã nhận ra là Bích Túc, không khỏi kinh hãi, mắt thấy Bích Túc không địch được, đỡ trái hở phía sắp bị bắt, dưới tình huống khẩn cấp Dương Hạo cũng không nghĩ nhiều, hắn một mặt lệnh cho xe tiếp tục tiến về phía trước, một mặt hớt hải đổi nữ trang của Diệp đại thiếu, lấy khăn tay che mặt, lại từ trong tay của hai thị vệ thân tín lấy một thanh kiếm, bảo bọn họ một mình về trước, sau đó thì vội vàng tới cứu Bích Túc về, còn chưa kịp hỏi nàng ta nguyên do, sau khi lừa những quan binh đuổi bắt đó đi, liền đứng ở càng xe làm trò.
Nghe thấy hắn hỏi, Bích Túc mắt đỏ ngầu, nghiến răng nghiến lợi nói: "Muội muốn... giết Triệu Quang Nghĩa!"
"Thiên tuế..."
Triệu Quang Nghĩa đi đi lại lại, khiến cho Mộ Dung Cầu Túy hoa cả mắt, Triệu Quang Nghĩa lúc này mới dừng bước, nhẹ nhàng lắc đầu, nói: "Không thể, không thể là ông ta, ông ta không thể phái người giết ta được, không thể..."
Mộ Dung Cầu Túy mắt lóe sáng, vội vàng hỏi dồn: "Thiên tuế chẳng lẽ biết là ai phái người tới hành thích ngài ư?"
Triệu Quang Nghĩa trợn mắt lên, sắc mặt càng lộ ra vẻ lo lắng, hắn trầm ngâm một lát rồi lại lắc đầu, thấp giọng phân phó: "Ngươi đi nghỉ ngơi đi, bách tính bình thường sẽ không thể tự dưng tới tố cáo dâu. Chuyện này cứ cố gắng áp chế xuống, nếu thật sự có người hỏi thì cứ nói chuyện này không tiện làm to..."
"Vâng, Mộ Dung cáo lui." Mộ Dung Cầu Túy nhìn xoáy vào hắn một cái, chắp tay lui xuống.
Triệu Quang Nghĩa quay về ngồi lên ghế, lẩm bẩm nói: "Người đó sử dụng đại kiếm trong quân... có thể là ai muốn giết ta nhỉ? Không thể, không thể là ông ta, tuyệt đối không thể là ông ta. Đại ca cho dù giận ta giành hoàng vị, với tính tình của đại ca cũng không thể nổi sát tâm với ta. Cuộc đọ sức này là tính toán thực lực, ai có thể lập trữ quân, người đó liền có thể giành được ngôi báu, đại ca với thân phận chí tôn, tuyệt không thể dùng thủ đoạn này được."
Hắn suy tính kỹ càng, lại thấy lung lay vì phán đoán của mình: "Nhưng... hoàng huynh liệu có thể vì bá quan phản đối rời đô, cho rằng là vì bị ta mua chuộc, cho nên mới nảy sinh kiêng kỵ không?"
Hắn giơ hai tay lên, lại đi đi lại lại trong sảnh, trên mặt âm tình bất định: "Ta tự diệt đường về, thân thế nhất thời quá lớn. Lý Hán Quỳnh, Tào hàn, những cấm quân đại tướng chịu chấp hành quân lệnh của ta một cách tuyệt đối này, ta đều cố gắng nghĩ cách xin công cho bọn họ. Bọn họ cũng có đi có lại, đối với ta có chút thân cận, qua lại cũng mật thiết hơn. Tào Hàn cướp được vô số kim ngân, còn nhớ tặng ta một phần hậu lễ, hiện giờ lại có bá quan cùng ta trăm miệng một lời phản đối rời đô, đại ca liệu có phải vì nghe thấy những tin tức này, mà hạ thủ đối với ta.., nhưng... ống ta thật sự hạ quyết tâm hạ thủ đối với ta ư?"
Nghĩ tới tình tính trước giờ của Triệu Khuông Dận, và cảm tình thâm hậu đối với huynh đệ nhà mình, Triệu Quang Nghĩa do dự khó quyết, đang trầm ngâm thì nghe thấy ngoài cửa đột nhiên có người bẩm báo: "Thiên tuế, trong cung có người mang tin tức khẩn cấp đến."
Triệu Quang Nghĩa đột ngột ngẩng đầu lên, phân phó: "Cho hắn vào đi."
Tên đó là một tiểu lại của Nam nhan, cũng là tâm phúc của Triệu Quang Nghĩa, vừa vào đại sảnh, thấy Triệu Quang Nghĩa lập tức thi lễ. Triệu Quang Nghĩa hỏi: "Trong cung xảy ra chuyện gì vậy?"
Người đó nói: "Thiên tuế, Tào Hàn tướng quân vào ngày về kinh, ở bến tàu Biện hà bị đâm mà bỏ mình rồi."
"Cái gì?"
Triệu Quang Nghĩa nghe vậy lập tức ngây người, người đó lại nói: "Chuyện này vốn chẳng gây trở ngại gì cho Nam nha chúng ta, có điều thiên tuế đã từng phân phó, trong cung có gió thổi cỏ lay gì, bất kể là có liên quan tới Nam nha chúng ta hay không thì cũng đều phải bẩm báo cho thiên tuế. Cho nên Trình phán quan lệnh cho thuộc hạ tới bẩm báo."
Triệu Quang Nghĩa hơi nhướn mắt lên, hỏi: "Tào Hàn tướng quân bị đâm là chuyện khi nào?"
Người nọ bẩm: "Ba ngày trước, bởi vì không phải là chuyện gấp liên quan tới Nam nha chúng ta, lại có người tập nã hung thủ khắp nơi, sợ dẫn tới sự chú ý của người hữu tâm, cho nên thuộc hạ không dám dùng khoái mã của quán dịch, cũng không dám để lộ thân phận của Nam nha, chỉ dùng thân phận thương nhân tới đây, di đường không dám vội vã, cho nên hôm nay mới tới được Lạc Dương."
Triệu Quang Nghĩa biến sắc: "Ba ngày? Đã ba ngày rồi, đường đường là trọng thần trong triều bị ám sát, ngày hôm sau đã nên bẩm báo cho quan gia rồi, vì sao phía Lạc Dương này lại không có một chút tin tức nào?"
Người đó ngạc nhiên nói: "Cái gì? Ngụy vương thiên tuế và hoàng tam đệ tạm thời giữ chức phủ doãn Khai Phong chưa hề thượng tấm việc này lên quan gia ư? Cái này... thuộc hạ không biết..."
Ngụy vương Đức Chiêu và Triệu Quang Mỹ quả thức đã áp chế việc này xuống, bởi vì hoàng đế lần này tây tuần, là sau khi nhất thống Trung Nguyên, vui vui vẻ vẻ đi bái tế tổ tiên. Lúc này mà thông báo chuyện đại thần trong triều bị ám sát, sẽ khiến quan gia mất vui. Hơn nữa, hai người là lần đầu tiên đảm nhiệm đại sự lưu thủ Biện Lương, lập tức lại có án tử lớn như vậy xảy ra khi mình quản lý, hung thủ là ai cũng không hay, thế thì biết ăn nói với quan gia như thế nào? Hai người cũng muốn bắt hung thủ, nếu có thể ở trước lúc bẩm báo cho Triệu Khuông Dận mà bắt được hung thủ, mặt mũi cũng dễ coi hơn một chút. Lo lắng như vậy, cho nên thân là giám quốc, tạm thời áp chế chuyện này xuống, không muốn để Triệu Quang Nghĩa vốn đã đa nghi mà trong lòng còn có quỷ thấy nghi kỵ.
Triệu Quang Nghĩa mặt đảo mấy vòng, lại hỏi: "Tào tướng quân bị ám sát thế nào?"
Người đó nói: "Hôm đó Tào tướng quân áp tải năm trăm pho tượng La Hán sắt về kinh, lúc ở bến tàu Biện hà, đột nhiên có một vị thư sinh cầm thư họa tới tặng..."
Tên tiểu lại đó kể lại từ đầu tới cuối, Triệu Quang Nghĩa sau khi hỏi tử tế thì phất tay đuổi hắn ra, sắc mặt lập tức biến thành càng khó coi hơn. Trong chư tướng, người hiện tại có qua lại thân mật với hắn nhất chính là Tào Hàn. Tác phong sát thần của Tào Hàn rất hợp với vị khẩu của Triệu Quang Nghĩa, lúc xin công, hắn cũng dùng nhiều lời lẽ đẹp đẽ cho Tào Hàn nhất. Tào Hàn cũng có qua có lại, sớm đã sai người đưa tin tức về, nói là dẫn theo một lượng lớn tài vật về kinh, trong đó đặc biệt chọn lữa kỹ càng mười thuyền bảo vật để tặng cho Tấn vương.
Hiện giờ hắn chết rồi, giám quốc không ngờ lại không công khai, tiếp theo chính lại là chuyện mình cũng bị ám sát, hung thủ hành thích dùng thủ pháp tương tự, đều là cải trang, kinh công như linh viên, đi lại như gió, há chẳng phải là một chuyện lạ ư.
Đại thần bị ám sát, đại sự mười năm không gặp, trong vòng ba ngày ở Đông Kinh, Tây Kinh liên tiếp xảy ra chuyện, giữa hai người bị ám sát lại có quan hệ thân mật, lại nghĩ tới tên thích khách hấp tấp nhảy ra, thân mặc nữ trang đó chính là có thân hình nam nhi, tay lại cầm đại kiếm trong quân, Triệu Quang Nghĩa trong lòng liền trầm xuống: "Đại ca, vì lưu lại hoàng vị cho nhi tử của huynh, huynh thực sự muốn dồn huynh đệ vào chỗ chết ư?"
....
Trong phủ nơi Dương Hạo ở tạm, nghe thấy Bích Túc nuốt lệ thuật lại những gì đã xảy ra, khi nhắc tới Thủy Nguyệt cô nương chết thảm, nhớ tới tiểu cô nương chỉ biết hàm súc ôn nhu mỉm cười với hắn, không ngờ lại chết như vậy, Dương Hạo trong lòng như bị kim châm, Diệp đại thiếu ở bên cạnh chõ miệng vào, có lòng muốn khuyên Bích Túc mấy câu, nhưng nhìn thấy bộ dạng của hắn, không ngờ lại nói không ra lời.
Bích Túc nói xong, nuốt lệ đứng dậy, nói: "Cám ơn đại nhân đã ra tay giúp đỡ, ân này đức này, Bích Túc xin ghi nhớ trong lòng, một thích khách như Bích Túc, không tiện ở lại nơi này để rồi gây họa cho đại nhân, xin cáo tử."
Dương Hạo trầm giọng nói: "Nàng muốn đi đâu?"
Bích Túc dừng bước, nghiêm giọng nói: "Không giết được tên khốn Triệu Quang Nghĩa, Bích Túc uổng thân làm người. Muội sẽ tìm tới cơ, hành thích một lần nữa."
Dương Hạo lạnh lùng nói: "Nàng không phải là đối thủ của hắn, một lần đánh lén không thành, khó mà tìm được cơ hội để hạ thủ nữa, không muốn ta giúp đỡ à?"
Bích Túc chậm rãi quay người lại, vái hắn một cái, nói: "Tập sát hoàng tộc trọng thân là tội tày trời, Bích Túc cô độc một mình, không có gì vướng mắc, đại nhân có gia quyến và tiền đồ cẩm tú, lại có nhiều huynh đệ muốn dựa vào đại nhân để mưu đồ đại sự, Bích Túc sao dám làm liên lụy tới đại nhân? Bích Túc chỉ hận lúc đó không nghe lời đại nhân, không đồng hành cùng Đại Lang, hiện giờ gặp phải tai bay vạ gió, có thể được đại nhân liều chết cứu giúp đã thấy cảm động bất tận rồi, không thể kéo đại nhân xuống nước được nữa."
Dương Hạo bước từng bước về phía nàng ta, trầm giọng, nói: "Ngày trước nàng và ta tương phùng ở bến đò, hai người vong mệnh chạy tới Tây Bắc, sống dựa vào nhau như thế nào, nàng quên rồi ư?
"Trên thảo nguyên, Dương mỗ bị độc xà cắn mà mạng nguy trong sớm chiều, là nhờ vào thuốc rắn của nàng mà cứu lại được một mạng, nàng quên rồi ư?"
"Từ lúc tới Lô châu, ta làm quan cũng được, làm dân cũng được, làm phỉ cũng được, nàng tận tụy đi theo, vì ta mà bôn tẩu, không một câu oán trách, nàng quên rồi ư?"
"Nàng quên rồi, nhưng ta thì lại không quên, ta như huynh đệ của nàng, há lại đối xử như chó săn? Thiên hạ này có thể bớt đi một Tấn vương, chứ Dương Hạo ta lại không muốn mất đi một huynh đệ như nàng!"
Bích Túc cảm động, lệ nóng chứa chan, rung giọng nói: "Không, đại nhân cơ đồ rất lớn, há có thể vì cừu oán của bản thân Bích Túc mà chịu chết, Bích Túc không dám đáp ứng, không thể đáp ứng."
Dương Hạo bước lên phía trước, đặt tay lên vai nàng ta, nhìn thẳng vào mặt nàng ta, nói: "Nàng sai rồi, ta biết nàng hiện giờ hận còn cao hơn trời, nhưng ta vẫn chưa muốn lập tức cùng nàng đi báo cừu. Võ công của hắn... thực sự là nằm ngoài dự liệu của ta. Kiếm mà hôm nay ta sử dụng không vừa tay, với tình hình giao thủ vừa rồi cho thấy, nếu đơn đả độc đấu, với võ công hiện tại của ta, vẫn không làm gì được hắn. Huống chi trải qua chuyện lần này, hộ vệ của hắn, tất sẽ nghiêm ngặt hơn, chúng ta cho dù đắc thủ thì cũng khó toàn thân mà lui được. Ta sẽ giúp nàng đối phó với cừu nhân của nàng, nhưng không phải là góp thêm cả tính mệnh của hai chúng ta vào. Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn, nếu muốn một kích mà thành công, nàng hiện tại phải đợi."
Bích Túc gật đầu một cái, trầm giọng nói: "Muội có thể đợi, cho dù phải là suốt đợi thì muội cũng sẽ đợi."
Dương Hạo mỉm cười, nói: "Vậy thì được rồi, nàng hiện tại chớ có lộ mặt, trước tiên cứ tiềm cư ở đây, đợi mấy ngày cho yên ổn lại, ta mới đưa này rời khỏi."
Hắn quy sang nhìn góc trời ở bên ngoài, nói khẽ: "Thế giới này đã thay đổi nhiều rồi, nhưng có rất nhiều thứ chưa hề thay đổi, cho dù thương hải tang điên, nhân tâm, nhân tính, dục vọng... những thứ này đều không thay đổi, có một số lựa chọn của con người sẽ không thay đổi, chỉ cần lựa chọn của hắn không thay đổi, hành động của hắn chưa chắc là không thể không nắm bắt được. Ta đáp ứng nàng, nhất định sẽ tìm được một cơ hội thỏa đáng nhất, để nàng tự tay đâm chết cừu nhân!"
Chương 379:Tam diện mai phục.
Triệu Khuông Dận muốn rời giá về kinh, tren đường ông ta chậm rãi đi qua nơi ở cũ, nhìn mái hiên chưa hề tay đổi, nhìn đầu thường mà mình từng bò qua, nhìn cây táo nhà hàng xóm mà mình từng hái trộm, phảng phất như quay lại thời trẻ con vậy, đế quân một đời cũng không khỏi ruột mềm trăm mối.
Chuyện xưa vẫn như sờ sờ ở trước mắt, nhưng ông ta đã từ một người hán tử cô độc, cầm một cây gậy bước ra khỏi nhà lang bạt thiên hạ, biến thành cửu ngũ chí tôn, chủ của Trung Nguyên, vô số chúng thần vây quanh, thân ở đỉnh cao của nhân thế, nhưng trong lòng lại cảm thấy tịch mịch vô hạn.
Đứng trong một ngõ hẻm, trầm ngâm một hồi lâu, Triệu Khuông Dận mỉm cười: "Ta nhớ là, lúc nhỏ từng có một nhận được một con ngựa đá nhỏ, quý như trân bảo, thường bị bạn chơi cùng trộm mất, cho nên chôn ở đây, không biết nó hiện tại có còn không?"
Lập tức lại có đại hán cấm quân bước lên đào, ở gần nơi mà ông ta chỉ đào ra một cái lỗ lớn, quả nhiên tìm thấy một con ngựa đá nho nho, Triệu Khuông Dận nhận lấy cầm trong tay, cũng không để ý tới bùn đất bên trên, nhẹ nhàng vuốt ve, trên mặt lộ ra vẻ ấm áp vô hắn.
Ông ta hít sâu một hơi, nói: "Đi thôi, đi thôi..."
Bánh xe lộc cộc, vó ngựa rền vang, đại đột nhân mã lại biến mất trước phần mộ của phụ mẫu ông ta, chào tạm biết với hai ông bà.
Sau khi khóc tế song thân xong, Triệu Khuông Dận lên vọng gác của nghĩa trang, nhìn ra xung quanh, chỉ thấy phía nam có núi non, phía đông có chòm sao Thanh Long, người đá, phía tây rừng dựa sông Lạc thủy, phía bắc nối Hoàng Hà.
"Địa phương tốt như vậy, cho dù Quan Trung điêu linh, ít nhất cũng nên chọn nơi này làm đế đô của ta, nơi này, ta sẽ không bỏ qua đâu!"
Ông ta bỗng gọi một thị vệ cấm quan tới, lấy kình cung của hắn, đặt một mũi tên lên, hướng tới phía Tây Bắc ra sức bắn một phát, cao giọng phân phó: "Điểm dừng của tên này sẽ lấy làm hoàng đường, ta ngàn năm sau sẽ táng ở đó!"
Ông ta lấy ra con ngựa đó đó, lệnh cho người chôn ở nơi tên rơi làm ký hiệu, lập tức có đại tướng thân tín tới nhận ngựa dá, dẫn hơn trăm thị vệ vội vàng phi đi, tìm nơi tên rơi.
Triệu Khuông Dận lại nhìn núi cao nước xanh, nói: "Đi, về Biện Lương!"
Lúc này, Dương Hạo dang trên đường bắc hành, dẫn một ngàn tám trăm cấm quân, nghênh ngang tiến về phía bắc, tới thẳng Thượng kinh.
Triều hội hôm qua, Tấn vương Triệu Quang Nghĩa đột nhiên báo bệnh, không thượng triều. Đây là chuyện bình thường, trời mới vào xuân, người rất dễ sinh bệnh. Các văn võ đại thần trong mấy ngày nay cũng không ít người bỗng dưng mắc bệnh vặt, không có ai để chuyện này ở trong lòng.
Vốn cho rằng triều hội ngày hôm nay không có việc gì, khi đang muốn kết thúc lệ hành thì đột nhiên nhận được quân tình cấp báo, ngoài Nhạn Môn quan có bắc nhân cướp ngũ cốc, cướp phá phóng hỏa một ven, hại vô số bách tính, thủ quân Nhạn Môn đưa tin gấp tới, song phương đại chiến, ai cũng có tử thương.
Bá quan văn võ xôn xao, Dương Hạo cũng rất kinh ngạc, hắn đang chuẩn bị phái người tới bên ngoài Nhạn Môn quan chế tạo xung đột, tạo cơ hội cho mình xuất sứ Khiết Đan, nhưng tin tức của Diệp đại thiếu vẫn chưa truyền ra, không thể là người của hắn làm. Hiện giờ tình hình của bắc quốc e rằng con rối loạn hơn Tống quốc, bọn chúng còn dám tới trêu chọc người Tống ư?
Văn võ trong triều nhao nhao nghị luận, có người cho rằng Bắc nhân lúc này còn dám sinh sự, phải trừng phạt thật nặng, có vị lão thành cẩn trọng thì cho rằng triều ta chiến đấu nhiều lần, chinh nam phạt bắc, lúc này nên nghỉ ngơi dưỡng sức, tích góp quốc lực, chuyện này nói không chừng là một bộ lạc cùng khổ nào đào vào đầu xuân không có thực vật, cả tộc đều sắp chết đói, bất đắc dĩ nên mới đi cướp bóc, nên giải quyết một cách hòa bình.
Dương Hạo nắm lấy cơ hội này, thỉnh cầu được xuất sứ Khiết Đan, dùng thủ đoạn ngoại giao giải quyết tranh chấp. Triệu Khuông Dận đang định sau khi về kinh sẽ phái hoàng tử đi phạt Bắc Hán quốc, đây là một quả đào nhất định phải giành tới tay, tuy dự liệu Khiết Đan đang có nội loạn, sẽ không phải binh cản trở, nếu có thể nhân chuyện tới phái sứ giải tới vỗ về Khiết Đan, rõ ràng là càng thỏa đáng hơn, thế là Dương Hạo nhất phách tức hòa, lập tức đáp ứng.
Lúc triều hội, Triệu Khuông Dận bí mật triệu Dương Hạo, bảo hắn tùy cơ ứng biến, hai người nói chuyện một lúc lâu, hôm sau Triệu Khuông Dận lại tới bái tể lăng mộ tổ tông rồi về Biện Lương, còn Dương Hạo thì dẫn đội tới Khiết Đan.
Lúc sắp xuất quan, Dương Hạo mang theo một phong quốc thư, phong quốc thư này là Triệu Khuông Dận tự tay viết, chứ không phải là hắn thảo. Trong quốc thư có cả mềm lẫn cứng, yêu cầu Khiết Đan đừng quản chuyện Hán quốc, nếu vậy Khiết Đan bình loạn, Tống quốc sẽ giúp đỡ, bên trong có lời lẽ rất hào hùng: "Hà Đông nghịch mệnh, đáng bị hỏi tội, nếu Bắc triều không giúp, thì vẫn thân như xưa. Nếu không, chỉ có chiến mà thôi!"
Triệu Khuông Dận đúng là hào kiệt, vì ông, cũng vì huynh đệ của bản thân ta, ta sẽ mạo hiểm đối phó với vị Tấn vương thiên tuế đó. Có điều, chuyện này không phải là hiện tại có thề đồ mưu được, ta phải xuất sứ Khiết Đan đã. Lần đi này, trước tiên đón Đông Nhi mệnh khổ đã rồi hẵng nói.
"Đông Nhi, Đông Nhi!"
Dương Hạo lẩm bẩm danh tự này, nhớ lại tình cảnh hai người từ lúc quen nhau tới nay, hai mắt liền ươn ướt, nhẹ nhàng vuốt ve bức quốc thư ở trong lòng, nói: "Đông Nhi của ta, theo lý nên đưa về. nếu Tiêu hậu chu toàn chuyện này thì vạn sự đều tốt đẹp, nếu không, ta nhất định sẽ đại náo thượng kinh, khiến cho bà sứt đầu mẻ chán, không đón được kiều thê, thề không quay lại!"
Tới Nhan Môn quan thì dừng lại nghỉ ngơi chỉnh đốn, mấy thiếp thân thị vệ bọn Mục Vũ sớm đã đợi ở đó liền tới hội hợp với Dương Hạo, đoàn người xuất quan tiến về phía Đông Bắc.
Tái ngoại lúc này là một đế chế văn minh khác, nếu như nói Hung Nô, Tiên Ti, Đột Quyết trước đây đều bị Trung Nguyên chế giễu là man di, không có quy phạm quốc gia, cũng không có kết cấu tổ chức hoàn thiện, càng không có thể hệ tư tưởng chín muồi, cơ cấu tổ chức của họ chỉ là một liên minh các bộ lạc, nhưng bắt đầu từ khi Khiết Đan lập quốc, tình huống đã nảy sinh biến hóa.
Khiết Đan bát bộ thống nhất, tiếp đó Thất Vi, Ô Cổ, Hồi Hột, Nữ Chân các loại bộ lạc cùng với các nước Bột Hải học, phế trừ thể chế bộ lạc, bắt chước Trung Nguyên xây dựng thể chế đế quốc, thiết lập thể chế quan lại phủ đài tể tướng, tam tỉnh lục bộ và đơn vị hành chính châu, quận, huyện, xây dựng một hệ thống quốc gia giống như đế quốc Hán Đường, ra sức chiêu nạp Hán dân, cổ vũ nông canh và công thương, thu nạp văn minh của người Hán, hưng kiến Khổng miếu.
Một nước hai chế độ, lấy Hán nhân của U Vân mười sáu châu làm con dân, chứ không phải là làm nô đãi, loại đế chế văn minh này, chính là nhân tố quan trọng đưa các đế quốc cường đại như Khiết Đan, Tây Hạ, Nư Chân sau này có thể vượt qua các bộ tộc du mục trước kia, trở thành đối thủ cường đại nhất của dân tộc Hán.
Khi Trung Nguyên vẫn đang chiến loạn không ngừng, quốc gia Khiết Đan này dần dần lớn mạnh, thảo nguyên phương bắc, Tây Vực, thế giới Ả Rập, thậm chí là Châu Âu cũng đều cảm nhận được sức ảnh hưởng của nền văn minh của đế quốc Khiết Đan, rất nhiều dân tộc phương tây đều hiểu lầm đế quốc Khiết Đan này chính là đế quốc Trung Hoa trong truyền thuyết.
Song văn minh Trung Hoa dẫu sao cũng có mấy ngàn năm nền tảng, tuy trải qua trường kỳ hỗn loạn và chiến tranh, nhưng sau khi thống nhất nó lại, lập tức sẽ lại được trút vào sinh mệnh lực cường đại. Tống quốc cái sau vượt cái trước, hiện giờ đã có được năng lực ngang vai ngang vế với Khiết Đan, hơn nữa còn có xu thế vượt lên, bắt đầu dần dần đoạt lại địa vị đáng có của Trung Nguyên trong mắt thế giới.
Dương Hạo trên đường đi, phát hiện bách tính nơi này đa phần lầm canh tác làm chủ, chăn thả là phụ, đại thể giống với biên dân ở cảnh nội Tống quốc, nếu tới gần nói chuyện, sẽ phát hiện bọn họ cũng mặc Hán phục, nói Hán ngữ, không khác gì người Trung Nguyên cả. Những người sinh hoạt ở đẫn, đại đa số vẫn là người Hán, ngươi cơ hồ nhìn không ra được bọn họ với người Hán ở quan nội có gì khác nhau.
Chỉ có điều hơn năm mươi năm phân cách và sự thống trị của Khiết Đan, bởi vì ở giữa hai bên dựng một tấm chắn gắn cờ hiệu của Đại Tống, Dương Hạo không nhìn thấy hình ảnh mà Tống triều tuyên truyền tư liệu cho hậu nhân. Người Hán phương bắc không hề kích động rơi nước mắt, hoan hô chiêm ngưỡng sứ giá của tổ quốc mà bọn họ ngày đêm mong ngóng như trong tưởng tượng của Dương Hạo, mà ánh mắt của bọn họ xa cách và lạnh lùng, thậm chí còn mang theo một tia địch ý. Nhìn thấy bọn họ, ngươi liền minh bạch, ngăn cách giữa hai bên không phải là ngăn cách của trọng binh và quan ải, mà là tồn tại trong lòng bọn họ.
Hơn năm mươi năm trước, chính là lúc các lộ chư hầu Trung Nguyên lấy thiên hạ bách tính làm thịt cá, tàn sát lẫn nhau. Bách tính của U Vân mười sáu châu lúc đó đã bị Khiết Đan thống trị, sau đó Trung Nguyên lại trải qua rất nhiều triều đại, mới có Tống quốc ngày hôm nay. Đối với Tống quốc, bách tính của U Vân mười sáu châu không hề có cảm giác trung thành và thân thiết gì cả, Tống quốc đối với bọn họ mà nói, là một quốc gia hoàn toàn xa lạ trong ký ức.
Chín cửa ải thiên hạ, Nhạn môn quan dựa vào núi, hai bên đông tây, núi non mấp mô. Lưng núi trường thành, thế núi uyển chuyện, phía đông qua Bình Hình quan, Tử nh quan, Đảo Mã quan là có thể tới thẳng U Yên. Nếu như là từ Biện Lương trực tiếp đi ra, vậy thì ra thẳng Dung quan, qua Thạch Môn quan, nếu đi qua Hãn châu Phó Kê Minh sơn thì nhanh hơn một chút. Có điều là bọn họ đi từ Lạc Dương, người mà Dương Hạo phái đi trước lại đợi ở ngoài Nhạn Môn quan, cho nên Dương Hạo liền lấy cớ rằng trước tiên tới Nhạn Môn quan thăm dò tình hình một chút, nắm được thêm tình báo có lợi rồi mới từ đó tới thượng kinh, cho nên chọn con đường khác. Có điều khác đường cùng đích, sau cùng vẫn sẽ tới Hóa châu.
Sau khi xuất quan, bọn họ đã liên hệ với thủ quân ở phía Khiết Đan, thủ quân Khiết Đan phái đội ngũ năm trăm người hộ tống bọn họ cùng lên đường, lại dùng khoái mã truyến tới Nam viện và Thượng kinh.
Nhánh thủ quân này thuộc Nam viện, tám thành chiến sĩ trong quân đều là người Hán, thống lĩnh thủ quân được phái tới hộ tống cũng là người Hán, tên là Phùng Tất Vũ, trên vấn đề ngôn ngữ thì không có vấn đề gì với bọn họ.
Trên đường đi, Dương Hạo và Phùng Tất Vũ thường tìm cơ hội để nói chuyện, thăm hỏi tin tức về các phương diện, biết được sau khi Thương kinh nội loạn, Nam viện tể tướng của Khiết Đan nghiêm khắc ước thủ sở bộ không được phát sinh xung đột với người Tống. Lần này biên trại người Tống bị quấy nhiễm, bọn họ cũng rất kinh ngạc, không biết là lộ nhân mã nào vi phạm cấm lệnh.
Dương Hạo còn biết được rằng, Khánh vương sau khi bộ tộc của mình bị quan binh Nam viện tập kích, đã bỏ qua thành Thượng kinh đánh lâu mà không hạ được, di chuyển về phía khu vực của người Nữ Chân, nhưng đây chỉ là một giả vờ,, sau khi hấp dẫn binh của Cần vương đi về phía Nữ chân, bọn họ đã vứt bỏ những người già yếu, nhanh chóng chạy về hướng Tây.
Tuy nói nơi này là phạm vi thống trị của Nam viện, nhưng bởi vì đất rộng người thưa, phạm vi có thể hoạt động càng lớn, hơn nữa không phải là hu vực hoạt động chuyên thống chủ lực của Khiết Đan, Nam viện lại không thể điều động đủ nhân mã để cản dường chúng, cho nên bọn chúng giống như mỗi một bộ lạc thảo nguyên mỗi khi tranh quyền thất bại, ý đồ vượt qua đại thảo nguyên, giết tới hướng Tây bắc nơi mà sức khống chế của Khiết Đan yếu nhất, ở đó xây dựng lãnh thổ cho mình. Nam viện tể tướng lần này phái thám mã dò xét lộ tuyến của bọn chúng khắp nơi, cố gắng hết sức để ngăn cản đám phản quân này.
Dương Hạo nghe xong liền mừng thầm, Khiết Đan và Tống quốc đứng cùng một chỗ, giống như là một đại hán lam lũ mặt mày dữ tợn đứng cạnh một công tử cẩm ngọc ***, nói tới tính xâm lược và tính uy hiếp, bọn họ rõ ràng là mạnh hơn bất kỳ ai khác, nếu nhánh nhân mã của Khánh vương có thể thành công đột phá trọng vậy, ở tây bắc xây dựng một chính quyền có thể đối kháng với Thượng kinh, thì có thể khiên chế cả quân đoàn Khiết Đan không có sức để nam hạ, vậy thì vô luận là đối với Hán nhân Trung Nguyên mà nói, hay là đối với tương lai hắn sinh tồn ở Tây bắc mà nói, rõ ràng càng có lợi hơn. Hắn hiện tại đã có chút chờ mong Khánh vương thành công.
Những ngày này, vẫn đi tới tây kinh, phía trước dẫn dần là nơi hoang lương vắng bóng người. Phùng Tất Vũ dùng roi ngựa chỉ vào mảng cỏ xanh mượt ở bên đường, nói: "Dương đại nhân nhìn xem, loại cỏ này chính là cỏ nuôi súc vật mà ngựa của quan ngoại chúng ta thích ăn nhất, gọi là Tức Kê thảo, Tức Kê thảo rễ to mà lại béo, đối với ngựa mà nói thì là ngon nhất, chiến mã quan ngoại của chúng ta to béo chắc khỏe, phần lớn là nhờ vào cỏ này. Ngựa được cho ăn mười ngọn là no rồi."
Dương Hạo nghe vậy liền dõi mắt nhìn, cỏ đó so với cỏ lau của quan nội thì có tám phần tương tự, không ngờ cỏ dại không hề bắt mắt này là lại thực liệu chủ yếu của chiến mã phương bắc. Dân tộc phương Bắc có đồng cỏ và nguồn nước dôi dào thích hợp làm bãi có với quy mô chăn thả lớn, bộ lạc du mục sinh trưởng trên mảng thảo nguyên này có năng lực cơ động cường đại có thể tùy thời nam hạ xâm lược Trung Nguyên, một khi gặp phải phản kích thì có thể lui về thủ sa mạc thảo nguyên, khiến người Hán kó mà xâm nhập được. Đợi khi người Hán binh phong giảm đi, lại trùng xuất giang hồ, cái này gọi là tiến lui tự nhiên.
Giống ngựa Mông Cổ của bọn họ so với giống ngựa Ả Rập và giống ngựa Bắc Âu mà nói thì kém hơn nhiều, nhưng lại rất dễ sinh sôi nảy nở, dễ chăn nuôi, cho nên rất dễ dàng xây dựng được một đội ngũ kỵ binh với số lượng khổng lồ, nếu dân tộc Hán một khi mất đi nguồn ngựa có thể trông cậy, không thể xây dựng một quân đoàn kỵ binh cường hãn có thể đối kháng, chỉ dựa vào bộ binh, tác chiến chính diện rất khó thủ thắng, cho dù chiến thắng cũng rất khó truy kích để khoách đại chiến quả, chỉ có thể ngồi đợi bọn chúng tập kết rồi lại đánh ra, cho tới tận khi kiệt quệ mà bại thì mới thôi.
Không biết binh khó làm được tướng, không trọng nông canh khó thành chủ nhân Trung Nguyên, mà hắn nếu muốn khống chế Tây Bắc, đối với ngành chăn nuôi không thể không trọng thị. Dương Hạo chỉ cần không ngại học hỏi kẻ dưới, tìm hiểu thêm một số tri thức về phương diện này. Đột nhiên trong không trúng có một tiếng gèo thét bén nhọn vụt qua, Phùng Tất Vũ ngây người, giục ngựa tiến về phía trước.
Phùng Tất Vũ lao lên một sườn núi thấp ở phía trước, nhìn về phía xa một lát rồi quát lên: "Dừng tại chỗ, bảo vệ Tống sứ."
Năm trăm kỵ binh Khiết Đan lập tức tản ra, hộ vệ một ngàn quân Tống ở giữa. Những binh lính Khiết Đan này chỉ có năm trăm người, nhưng lại bảo vệ bọn họ ở giữa như người già trẻ em, bọn họ cũng là anh hùng hán tử bên dưới có ngựa, trong tay có thương, há lại chúng để người ta khinh thường như vậy. Thống binh chỉ huy sứ Trường Đồng Chu lập tức giục ngựa, hô to với Dương Hạo: "Đại nhân, bọn họ chỉ có năm trăm người mà muốn bảo vệ chúng ta ư, đã có địch nhân lại không cho phép chúng ta động võ, khó tránh khỏi không coi ai ra gì quá!"
Dương Hạo cười nói: "Trương chỉ huy chớ có nóng nảy, đây là chức trách của bọn họ, chúng ta là sứ giả triều đình, hiện giờ tình thế chưa rõ, tất nhiên không tiện động đao động thương rồi?"
Hắn liếc Trương Đồng Chu một cái, mỉm cười nói: "Các ngươi ở nội tuyến bố trí thêm một đạo phòng ngự, cố gắng giữ an toàn là được."
"Vâng!" Trương Đồng Chu nhận lệnh, lập tức lớn tiếng hạ lệnh, quân Tống hành động khẩn cấp, những binh sĩ đã được huấn luyện kỹ càng liền bố trí một trận tròn, cử chỉ tiến thoái đều chỉnh tề vô cùng, nhất thời đao thương san sát, cũng nỏ lên dây, sự chỉnh tề của quân dung hơn hẳn năm trăm binh lính Khiết Đan, đây đều là cấm quân tinh nhuệ, tuy chỉ có ngàn người, nhưng ngàn người như một, uy thế tất nhiên bất phàm, một chút hành động để lấy le này, lập tức dẫn tới sự chú ý của các binh sự Khiết Đan.
"Xảy ra chuyện gì vậy?"
Phùng Tất Vũ lớn tiếng quát, giục ngựa chạy ra sau hỏi.
"Phùng đại nhân, phái trước có một toán nhân mã, ít nhất cũng trên dưới ngàn người, đang hướng về phía này, thuộc hạ liên tiếng hỏi mấy lần, nhưng bọn họ thế tới không giảm, ngược lại còn phi nhanh hơn, xem ra là không có ý tốt."
"Ngươi tới có cờ hiệu gì không?"
"Cờ hiệu màu sắc lòe loẹt, rất khó đoán lai lịch."
Phùng Vũ nghe thấy vậy không khỏi nhíu mày, lúc này phía trước tiếng vó ngựa như sấm, một nhánh kỵ binh nhanh chóng phi tới, Phùng Tất Vũ quát lớn: "Cảnh cáo, không được dừng lại, nếu không dừng lại, báo rõ thân phận, cung tiễn sẽ tiếp đón!"
Nhìn nhân mã ở phía trước, Phùng Tất Vũ quay đầu lại nói với Dương Hạo: "Dương đại nhân đừng lo lắng, người tới cờ hiệu tán loạn, đội hình không nghiêm chỉnh, nhìn thì hung hãn nhưng giữa hai bên rất khó phối hợp chiếu ứng, không thể là quân đội, cũng không thể là tộc binh của bộ tộc cường đại, nếu thật sự có ác ý, mỗ tất sẽ cho đám ô hợp này có đi mà không về!"
Mắt thấy địch ở ngay phía trước, hắn lớn tiếng hạ lệnh, đội hình của binh lĩnh Khiết Đan lập tức có biến hóa, lai lại hai trăm người bảo vệ hai bên cánh của quân Tống, ba trăm người còn lại thì giục ngựa phi lên trước, bố thành một trận hình mũi tên sắc bén, kỵ sĩ trên lưng ngựa nhao nhao rút cung đặt tên, mũi tên giơ lên trước, chuẩn bị chiến đấu.
Tên lệnh cảnh báo bắn ra, người đang lao tới ở phía tước không chậm lại một chút nào, ngược lại còn hô hoán bắt đầu chạy nước rút. Phùng Tất Vũ sắc mặt hơi biến đổi, nhìn đội ngũ đang nhe nanh múa vuốt đó, nghiến rằng cười gằn: "Là mã tặc, bọn chúng lớn gan thật, phóng tên!"
Một loạt tên được bắn ra, đột ngũ mã tặc đang cuồn cuộn lao đến lập tức hỗn loạn, có tên cầm lá chắn ra để che, có tên thì nấp sau bàn đạp, có tên trúng tên rơi xuống ngựa, lập tức bọn chúng cũng trả đũa, vô số lợi tiễn bắn ra, binh sĩ quân Tống lập tức giơ thuẫn lên che thân. Dương Hạo từ trong hộ vệ giật lấy một chiến thuẫn da, chăm chú nhìn quân địch ở phía trước.
Đối phương tuy đông, nhưng chẳng qua là mã tặc mà thôi, đối với với bộ lạc tầm thường hoặc là thương lữ thì tất nhiên là kiêu dũng, nhưng quân chinh quy của Phùng Tất Vũ thì không để bọn chúng vào trong mắt. Mắt thấy quân địch lao tới rất nhanh, chỉ bắn ra được ba loạt tên là đối phương đã ở ngay trước mặt, Phùng Tất Vũ lập tức quát to: "Xông lên trước, giết chết đám chó không có mắt này đi, giết sạch chúng cho ta!"
Ba trăm chiến sĩ Khiết Đan lấp tức hò hét xông lên, khi song phương còn cách nhau không tới trăm bước, bọn họ đã dùng sống đao vỗ vào mông ngựa, hai chân đạp lên bàn đạp, mông tách khỏi yên ngựa, khoái mã như tên, cương đao sáng choang, nhìn thế tới, nếu bị bọn họ chém một đao, e rằng cả người và ngựa đều bị chẻ thành hai phần.
Song phương rầm rầm đụng vào nhau, máu và xương cốt vỡ nát bắn lên không, binh lĩnh Khiết Đan giống như một thanh đao sắc bén, đâm xuyên đội ngũ của mã tặc. Kỵ binh phải trùng phong thật nhanh mới lộ ra được uy lực của bọn họ, cho dù giết vào địch trận thì ngựa cũng không dừng vó, quyết chí tiến thẳng về phía trước, nếu ghìm cương ngựa chiến đấu giằng co tại chỗ, song phương đều sẽ bị chôn sâu ở đây. Phùng Vũ Tất dẫn người vung cương đao chẻ mã tặc ra làm hai, giống như một mũi tên rời cung bắn về phía trước, bọn họ muốn xông qua đội ngũ của mã tặc, rồi lại quay lại trùng sát trở về, đội ngũ của mã tặc bị chia làm hai nữa cũng không dừng một giây nào, cùng bọn họ đan qua nhau, trên đường binh khí giao kích, leng keng lao về phía binh lĩnh Khiết Đang đang ở tại chỗ đợi lệnh và sở bộ của Dương Hạo.
Mắt thấy bọn chúng xông tới trước, hai trăm binh Khiết Đan giống như là lang cẩu khiêu chiến, gầm gừ lao tới, đúng vào lúc này, tiếng kèn lệnh vang lên, vọng khắp cả bầu trời, từ phía sau có một nhánh đội ngũ giết ra, nhân số ít nhất cũng hơn ngàn người, ai ai cũng nhe nanh múa vuốt, gầm gừ lao tới.
Nếu không thể phát huy ưu thế của kỵ binh phía mình, để mặc cho quân địch lao tới phía trước, vậy thì chỉ có thể để mặc cho người ta giết mổ. Trương Đồng Chu thấy vậy, lập tức ra lệnh cho hậu đội chuẩn bị, chuẩn bị đợi khi địch binh xông tới gần thì cũng sẽ xung phong giống như là binh lính Khiết Đan. Dương Hạo thấy vậy, trong lòng đột nhiên cảm thấy có chút bất diệu.
Mã tặc chỉ muốn tài vật, tập kích mình làm cái gì? Nếu bọn chúng hiểu lầm mình là thương đội, lúc này nên nhận ra mà rút lui rồi chứ, vì sao vẫn liều mạng như vậy? Đặc biệt là đội ngũ mà tặc này không ngờ lại chia binh làm hai đường, tiến hành dẫn dụ binh Khiết Đan, kế đó đột kích bản bộ của mình, rõ ràng là có chuẩn bị mà tới, thậm chí ngay cả lộ tuyến hành tung, nhân số nhiều ít của bọn họ cũng bị dò la rõ ràng rồi, e rằng bọn chúng không phải đơn giản là mã tặc.
Đúng vào lúc này, trong bụi Tức Kê thảo xanh mượt giống như cỏ lau đột nhiên có vô số mũi tên bắn ra, bắn ngã rất nhiều quân Tống đang nghiêm trận chờ đợi, sau đó một nhánh nhân mã đột nhiên giết ra, người đi phía trước trong tay cầm cương xoa sáng loáng, thân hình khôi ngô, một mắt bịt vải che mắt màu đen, chính là một tên độc nhãn long.
Hắn vung vẩy cương xoa, từ đằng xa hét lớn: "Giết Tống sứ Dương Hạo, giết, giết, giết!"
"Quả nhiên là vì ta mà tới! Người khác làm sứ tiết, đó là việc tốt, sao công việc mà ta tiếp nhận luôn không tránh được đánh giết thế nhỉ?"
Dương Hạo thở dài một hơi, rút lợi kiếm ra, quát lớn một tiếng: "Toàn quân, giết!" Nói xong liền suất lĩnh quân mình, lao về phía trước. Hướng mà hắn xông tới không phải là hậu lộ, cũng không phải là bên cánh, mà là cỗ mã tặc ở phía tước đang giằng co với binh Khiết Đan.
Chương 380:Thân cừu Khiết Đan
Vừa thấy ba nhóm mã tặc có xu thế vây kín, Dương Hạo đã cảm thấy tình huống không ổn. Đám mã tặc này rõ ràng là đến có chuẩn bị, tuy vị thiên phu trưởng đại nhân Phùng Tất Vũ của Khiết Đan này vừa thấy mã tặc liền cười nhạt, nhưng đám mã tặc này tuy biết rõ ràng lai lịch của bọn họ mà còn dám tấn công bọn hắn, điều này nói lên rằng, bọn chúng rất tin tưởng vào lực lượng của mình, và không chỉ là một đám ô hợp như vậy.
Hơn nữa, trong tay hắn chỉ có một ngàn cấm quân thị vệ, Phùng Tất Vũ có năm trăm binh Khiết Đan, đám mã tặc đánh tới tổng cộng ít nhất cũng phải hơn bốn ngàn người. Đây không phải là đánh trận trên chiến trường, chỉ cần binh tinh tướng dũng, chỉ cần có chiến thuật thích hợp là có thể dùng ít thành nhiều. Hiện giờ là hỗn chiến. Dưới tính huống đánh hỗn chiến, những thứ như đội hình, nhịp điệu quân nhân luyện được đều không có tác dụng, phát huy ra nổi sức chiến đấu, lại đối mặt với quân địch đông gấp mấy lần mình thế này thì rất khó thủ thắng.
Vì thế Dương Hạo quyết định thật nhanh, đột nhiên hét lớn, lệnh cho toàn quân bỏ mặc phòng thủ phía sau cùng cánh trái, tập trung toàn lực gia nhập vào chiến cuộc phía trước. Ở phía trước, địch ta song phương đang lâm vào thế giằng co, hắn dẫn toàn quân gia nhập chiến cuộc, làm cho hai đội mã tặc đang lao tới sợ ném chuột vỡ đồ, không dám bắn tên, đồng thời trong một mạch trùng kích mở đường. Chẳng biết có thể thoát khỏi vòng vây hay không, nhưng ít nhất cũng không đến mức ba mặt thụ địch.
Còn về phần sơn lĩnh bên phải, Dương Hạo căn bản không hề quan tâm tới. Nếu đám mã tặc này đã sớm có chuẩn bị, chọn nơi này phát động tấn công, thì toàn sơn lĩnh này cho dù không có mai phục thì cũng là cái bẫy chết người. Dương Hạo không tin đám mã tặc này lại đi tuân thủ nghiêm chỉnh luật ngầm, cấm kỵ phóng hỏa như những bộ lạc thảo nguyên bình thường. Lúc này hướng gió đang là từ triền núi thổi xuống, nếu như bọn chúng phóng hỏa đốt núi, cho dù bọn hắn không bị lửa thui chết thì cũng bị hun thành thịt xông khói.
Hành động khác hẳn với người thường của Dương Hạo đã hoàn toàn vượt ra khỏi dự liệu của đám mã tặc, hơi chững lại trong giây lát, quả nhiên khiến bọn chúng bỏ lỡ mất cơ hội siết chặt vòng vây tốt nhất. Toàn quân Dương Hạo đánh giết, hung mãnh xông vào chiến cuộc phía trước, khiến tên một mắt kia lửa giận ngút trời, lớn tiếng quát tháo chỉ huy đám thuộc hạ đuổi theo.
Tên chột này chính là Lô Nhất Sinh. Lô Nhất Sinh từ khi được người Khiết Đan ngầm đồng ý, ở giữa miền quan nội đánh giết ngang dọc, không kiêng nể kẻ nào, lập tức khiến tiếng tăm hắn nổi như cồn, rất nhiều nhóm mã tặc nhỏ đều nghe tiếng mà tới đầu quân, rất nhanh chóng trở thành một thế lực mã tặc mạnh mẽ nhất trong khu vực này.
Chỉ là sau khi Khiết Đan cùng Tống quốc ngưng chiến, lo cho thân mình, trên danh nghĩa hắn vẫn là mã tặc, mà trên thực tế cũng chính là mã tặc, chỉ là sau khi được Hoàng đế Khiết Đan bí mật phong cho hắn một cái chức Lô đại tướng quân, người Khiết Đan vẫn chưa từng cấp một hạt quân lương nào cho bọn hắn, vì thế bọn hắn luôn phải tự cung tự cấp, tự túc hết thảy. Từ khi Khánh Vương mưu phản, Thượng Kinh bị vây, liên lạc giữa hắn với triều đình Khiết Đan cũng bị gián đoạn. Đến lúc này tình hình lại càng gian nan, vì thế Lô Nhất Sinh chỉ có thể mạo hiểm chạy tới vùng Nhạn Môn Quan để cướp bóc, thu hoạch được rất nhiều của cải.
Mấy ngày nay hắn đang tính toán làm một chuyến nữa, nhưng không ngờ mật thám phái ra lại báo về cho hắn một tin tức đặc biệt: Triều đình Tống quốc phát sứ đi Khiết Đan, sứ giả là Hồng Lư Tự Khanh - Dương Hạo.
Trước đó, Lô Nhất Sinh đã từng phát thuộc hạ tâm phúc xâm nhập vào Tống cảnh, hỏi thăm tin tức huynh trưởng Lô Cừu Tử. Không ngờ đến khi tên thuộc hạ kia trở về lại báo tin, huynh trưởng đã chết thảm, chất nhi ( cháu trai) mất tích. Mà kẻ đầu xỏ chuyện này chính là Đinh Hạo, hiện giờ đã đổi tên thành Dương Hạo, còn làm quan trong Tống triều cơ đấy.
Lô Nhất Sinh nghe xong bẩm báo, hận một nỗi không thể lập tức bay tới cắt lấy đầu hắn, tế vong linh huynh trưởng. Chỉ là đội quân mã tặc dưới tay hắn lúc này đã rất khổng lồ rồi, thuộc hạ bè phái đông đảo, chỉ có hắn mới trấn trụ được, không thể dễ dàng rời đi, chỉ có thể tạm thời ẩn nhẫn, một mặt phát người vào Tống cảnh tìm kiếm tin tức chất nhi, một mặt khổ sở tìm kiếm sinh tồn cho cả sơn trại.
Bây giờ chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà tên đốn mạt kia lại tìm tới tận cửa, Lô Nhất Sinh hắn làm sao có thể dễ dàng bỏ qua, để cho tên khốn kia chuồn mất ngay trước mắt. Thế là hắn vội vàng triệu tập đầu lĩnh thuộc hạ lớn nhỏ tới, nói rằng, Tống quốc phái một vị sứ giả, mang theo rất nhiều của cải đi sứ Khiết Đan. Chỉ cần phi vụ này thành công, ai nấy cũng có thể dùng chậu vàng rửa tay, làm một đại phú ông rồi. Đám mã tặc liều mạng kia nghe xong mừng rỡ như điên, lập tức lên kế hoạch tấn công, đánh cướp sứ giả Tống quốc.
Bọn chúng phái người dò xét số lượng nhân mã hộ tống sứ giả, cân nhắc chênh lệch binh lực giữa song phương địch ta, cẩn thận vạch ra một kế hoạch hoàn hảo, có tới tám phần chắc thắng. Nhưng phản ứng của Dương Hạo thật sự đã vượt ngoài dự tính của bọn hắn. Sau khi Dương Hạo dẫn người xông về phía trước, gia nhập vào trong chiến cuộc hỗn loạn, vòng vây săn giết đang kín kẽ, không chút sơ hở bỗng mất đi hiệu lực. Phùng Tất Vũ dẫn người đánh giết thành một con đường máu, đang định vòng ngựa quay lại, Dương Hạo dẫn người liền phi ra, Phùng Tất Vũ quyết tâm giao chiến với bọn đạo tặc này đến cùng, song cũng chỉ giết được chút ít mã tặc.
Dương Hạo vội la lên: "Phùng đại nhân, đi mau, mã tặc có mai phục." Sau đó hắn cũng chẳng kịp nói rõ ràng, liền dẫn người chạy về phía trước, Trong cánh rừng trên sườn dốc kia quả nhiên chui ra bảy tám trăm người, vừa thấy địch nhân không bỏ chạy, trốn lên sườn núi như dự đoán, liền lập tức xông ra, bốn nhóm mã tặc hợp binh lại với nhau, cố gắng đuổi theo phía sau.
Đám mã tặc này tuy trang bị hơi kém một chút, nhưng nghề của bọn chúng chính là giết người cướp của, cướp phải nhanh, chạy phải lẹ mới có thể sống sót được. Cho nên đám mã tặc này chẳng những kỹ thuật điêu luyện mà chiến mã cũng tốt vô cùng, đều cực kỳ dai sức. Trong lúc truy đuổi, đám mã tặc vừa đuổi vừa bắn tên, còn binh lính Khiết Đan phía trước cũng không ngừng bắn trả, song phương vừa bắn vừa chạy. Chạy đượcmột hồi lâu, binh lính Khiết Đan còn đỡ chứ người ngựa dưới tay Dương Hạo đã không còn giữ được tốc độ như ban đầu nữa, càng lúc càng chậm lại.
Sứ mạng của Phùng Tất Vũ chính là hộ tống sứ giả Tống quốc an toàn về tới Thượng Kinh, nếu để cho mã tặc giết chết bọn họ ở nơi này, vậy tính mạng Phùng Tất Vũ hắn cũng kết thúc theo luôn. Tình huống vạn bất đắc dĩ, đột nhiên lại thấy dải núi phía trước uốn lượn, ngoằn ngoèo, lại nhìn quân Tống phía sau càng lúc càng chậm, Phùng Tất Vũ chỉ có thể cắn răng quát lớn: "Dương đại nhân, vứt ngựa lên núi thôi. Chúng ta dựa vào địa lợi đánh cầm chừng với đám mã tặc này. Phùng Hổ, ngươi dẫn mấy người nhanh chạy tới Tây Kinh, xin viện binh tới cứu."
Một gã thuộc hạ đang chạy bên cạnh hắn lập tức ứng tiếng, quất ngựa dẫn theo một ít kỵ binh tiếp tục phi về phía trước, gia tăng tốc độ xuyên qua khe núi xông về phía trước. Phùng Tất Vũ cùng Dương Hạo thì nhanh chóng nhảy xuống ngựa, bắt đầu chạy lên núi. Sườn núi này đều là nham thạch phong hóa, đối diện là một cánh đồng cỏ bát ngát, phía trên sườn núi là một cánh rừng tùng thấp, trải qua ngàn năm, rừng tùng này đã trở nên um tùm, rậm rạp, hoàn toàn không thể đi lọt người. Bọn họ nhanh chóng leo lên núi, dựa lưng vào sườn dốc, đứng ở trên cao, lấy cung nỏ, đá vụn làm vũ khí, bày sẵn trận địa nghênh đón quân địch.
Đám mã tặc đuổi theo đang định tấn công lên núi thì bị mũi tên, đá tảng từ trên cao giáng xuống, tử thương thảm trọng, nửa bước không tiến lên được.
Gặp tình hình này, Lô Nhất Sinh vội vàng quan sát địa hình sườn núi, vừa cho người dùng cung tiễn áp chế nhân mã trên núi, vừa cho người tiếp tục tấn công.
Phùng Tất Vũ vừa chỉ huy nhân mã ngăn cản, vừa tính toán lộ trình từ đây tới Tây Kinh, ước lượng thời gian viện binh chạy tới nơi này.
Lần công phòng này, nhân mã của Phùng Tất Vũ cùng Dương Hạo coi như chiếm được địa lợi, nhưng đám mã tặc dưới chân núi lại đông gấp mấy họ, chia ra vừa dùng cung tiễn khống chế, vừa cho người tấn công lên, khiến cho lực lượng phòng thủ phải phân tán, tình hình cũng cực kỳ nguy hiểm. Phùng Tất Vũ tính kế an toàn, vội chạy tới bên người Dương Hạo nói: "Dương đại nhân, đám mã tặc này rõ ràng đến là vì đại nhân. Bản quan có trách nhiệm bảo vệ, không dám để quý sứ bị thương. Song tình hình hiện giờ, nhất thiết không thủ được đến lúc viện quan tới đây, sợ rằng sẽ gây bất lợi cho đại nhân. Theo bản quan, quý sứ nên thay quần áo, mang theo mấy thị vệ bên người, phá rừng mở đường, tạm thời trốn vào trong rừng rậm trên kia đi."
Dương Hạo nhìn tướng sĩ Tống quốc đang khổ chiến, phòng thủ trên sườn núi, không khỏi có chút do dự. Trương Đồng Chu nghe thấy vậy cũng quay đầu lại kêu lên: "Phùng đại nhân nói đúng lắm. Đám mã tặc dưới chân núi quá đông và hung hãn. Đại nhân mau thay y phục, tạm thời lánh đi. Nơi này đã có hạ quan, cho dù phải chiến tới người cuối cùng cũng tuyệt đối không để bọn chúng lên núi."
Đúng lúc này, một đợt những tiếng ầm ầm như sấm động vang lên, Trương Đồng Chu mừng rỡ nói: "Chẳng lẽ sắp có mưa to rồi?"
Nếu như có mưa to, nước rơi như trút, đám mã tặc dưới chân núi ai nấy đều mặc ủng da áo da, bị mưa xối ướt lập tức sẽ trở nên nặng nề vô cùng, đi trên đường bằng đất phẳng còn khó khăn, chứ còn muốn leo núi thì tuyệt đối không thể, khi đó bọn họ chỉ cần nấp dưới tán cây, không phải khổ cực như lúc này.
Dương Hạo kinh ngạc nói: "Hiện giờ cây cỏ mới nảy mầm, sao lại có mưa to được?" Hắn nhìn bầu trời một chút, quả thực không hề giống như sắp có mưa to.
Phùng Tất Vũ hơi ngẩn người ra một chút rồi lập tức mừng rỡ nói: "Đây không phải là tiếng sấm, là tiếng vó ngựa, có đại đội nhân mã đang chạy tới đây. Tiếng vó ngựa từ trong sơn cốc vang ra, chẳng lẽ là cứu binh Tây Kinh tới rồi?"
Phùng Tất Vũ vũ nói xong liền quay đầu nhìn về phía sườn núi nhô ra, Dương Hạo cùng Trương Đồng Chu cũng không hẹn mà cùng nhìn về phía đó.
Tiếng vó ngựa nổ vang như sấm động cũng khiến cho Lô Nhất Sinh sinh lòng phòng bị. Hắn do dự nhìn lại, không tin có viện binh tới đây nhanh như vậy. Đang lúc không biết nên xử lý thế nào thì thấy một tên kỵ binh phóng đi như bay lao tới. Kỵ binh nọ chính là Phùng Hổ mới rời đi không lâu. Lúc này trên đầu vai phía sau lưng hắn đã bị găm mấy mũi tên, song hắn vẫn cố gắng hô lớn: "Tướng quân chạy mau, tướng quân chạy mau, nhân mã Khánh Vương, nhân mã Khánh Vương tới rồi."
Chưa kịp nói xong hắn đã ngã nhào sang một bên, nhưng chân vẫn bị mắc trên bàn đạp, không rời ra được, lập tức bị chiến mã kéo lết đi trên sơn đạo toàn đá vụn, chỉ trong chốc lát đã máu thịt lẫn lộn. Đám Dương Hạo, Phùng Tất Vũ đứng trên sườn núi còn thấy không quá rõ ràng, song đám người Lô Nhất Sinh dưới chân núi lại thấy rất rõ ràng. Khi con ngựa kia kéo theo thi thể Phùng Hổ chạy vào trong đội ngũ bọn chúng, ngay cả đám mã tặc man rợ, giết người như ngóe nhìn thi thể máu thịt be bét kia cũng phải thấy buồn nôn.
"Khánh Vương? Nhân mã Khánh Vương giết tới đây rồi?" Phùng Tất Vũ kinh hãi ngẩng đầu lên, chỉ thấy dưới vách núi phía trước đột nhiên tràn ra vô số người ngựa như hồng thủy, chiến mã lao như bay, ánh đao chớp lóe.
Đột nhiên thấy phía trước có một đạo nhân mã chặn đường, đội quân kia vẫn không hề ngừng lại, bọn họ tràn tớihồng thủy sau đê vỡ, cùng lúc đó, một cơn mưa tựa như một đám mây đen kịt từ trong đội ngũ của bọn họ bay lên, nhìn uy thế, thật giống như gặp người giết người, Phật cản giết Phật, muốn mạnh mẽ đạp nát đạo nhân mã của Lô Nhất Sinh trên sơn đạo.
Một màn hí kích đột nhiên xuất hiện.
Dương Hạo cùng bọn Phùng Tất Vũ đứng trên sườn núi nhìn xuống, đám mã tặc vừa rồi còn diễu võ dương oai, ngông cuồng tự đại dưới đòn công kích bất ngờ của đội ngũ kỵ binh kia, giống như một lưỡi đao cháy hồng cắt lên tấm da trâu, nhanh chóng tan vỡ...
Nhân mã Khánh Vương tới quá nhanh, hơn nữa còn chẳng hỏi phải trái đúng sai, gặp người là giết, nhân mã Lô Nhất Sinh vội vàng bỏ ngựa chạy lên núi. Cả một đám mã tặc ở phía ngoài chen chúc với nhau ở một chỗ, nhất thời không kịp lên ngựa chạy thoát chết, lập tức bị loạt tên bắn chết hơn một nửa. Đám mã tặc còn lại thấy vậy cũng vội vàng bỏ chạy lên núi. Lúc này quân phòng thủ trên núi tự lo cho mình còn không xong, làm gì có ai dám bắn tên ngăn cản, nếu bắn tên ra không khéo lại lấy lửa đốt mình chứ chẳng chơi. Thế là hai đám nhân mã vừa rồi còn đánh nhau đến người sống ta chết trong chớp mắt lại thành cùng cảnh ngộ, ai nấy tự chiếm lấy một góc sườn núi của mình.
Đại quân dưới chân núi dừng lại không tiến tới, một người bộ dáng giống như thủ lĩnh mang theo vài người chạy tới trước đám mã tặc, hỏi bọn chúng cái gì đó, thỉnh thoảng còn nhìn về phía sườn núi chỗ bọn Dương Hạo. Không lâu sau, tên đầu lĩnh kia bỗng nhiên rút dao, chỉ thẳng về phía bọn Dương Hạo trên sườn núi, ngửa mặt lên trời hét dài một tiếng, lập tức có vô số binh lĩnh đưa tên lên cung, hướng về phía bọn Dương Hạo mà bắn, đồng thời có rất nhiều binh lính lập tức xuống ngựa, dựa vào đám mưa tên yểm trợ mà xông lên sườn núi, bắt đầu công kích phe bọn Dương Hạo.
Nhân mã dưới chân núi đông đảo, tên bay tán loạn như mưa, quân trên sườn núi tuy chiếm được địa lợi, nhưng quân đội của Khánh Vương dưới chân núi lại người đông thế mạnh, mưa tên gào rít, trên sườn núi vẫn không ngừng có binh lính trúng tên ngã xuống. Trong những tiếng kêu thảm thiết, Phùng Tất Vũ biến sắc kêu lên: "Mau, lui vào rừng tạm tránh!"
Đám thuộc hạ Lô Nhất Sinh dưới chân núi vẫn còn nỗi khiếp sợ chưa tan hô lớn vài câu. Lô Nhất Sinh nghe xong cắn răng một cái, mặc dù hận nhân mã Khánh Vương không hỏi trái phải trắng đen đã giết vô số huynh đệ của hắn, chỉ là với tình hình trước mắt, không cúi đầu tất sẽ bị chôn cùng Dương Hạo. Hơn nữa Dương Hạo lại là kẻ thù hắn phải giết, nghĩ tới đây, hắn liền lớn tiếng hét lên, dẫn theo tàn binh tấn công nhân mã Dương Hạo.
Phùng Tất Vũ vừa giận vừa sợ, vung đao lên gạt một mũi tên bắn tới rồi hét lớn: "Nhân mã Khánh Vương từ Thượng Kinh bỏ trốn, không lo chạy trốn đi, còn cố gắng quấn lấy chúng ta làm gì đây? Ngũ kinh hương binh ta với tộc trướng quân hắn trước nay nước sông không phạm nước giếng, con mẹ nó, chó chết thật!"
Dương Hạo vung kiếm gạt tên bắn tới, trong lòng cũng hiểu rõ, chuyện Chiết Tử Du giết chết Da Luật Văn đã bị hắn nhận tội, Khánh Vương tất nhiên đã biết được, giờ lại biết người trên núi chính là mình, đám nhân mã Khánh Vương này buông ta cho mình mới là chuyện lạ.
Nguyên nhân bên trong hắn cũng không tiện nói tỉ mỉ với Phùng Tất Vũ, phản quân Khánh Vương dưới chân núi tuy nhiều, nhưng nhất thời vẫn không thể công lên núi được. Chỉ là tàn quân của Lô Nhất Sinh đã xông tới trước mặt, hắn lập tức vung kiếm xông tới.
Mấy tên mã tặc vừa nhảy tới trước mặt đã bị bọn họ phản kích mãnh liệt, dưới ánh thương của người Tống cùng đại đao của ngũ kinh hương quân Khiết Đan, nếu không bị chém thành hai đoạn thì cũng bị chọc thành cái sàng. Bất quá Lô Nhất Sinh lại mang theo rất nhiều thuộc hạ giết tới, rất nhanh cuốn lấy bọn họ, đánh giết thảm thiết. Đúng lúc này Dương Hạo suất lĩnh thân binh xông tới trước mặt, vung kiếm đằng đằng sát khí đâm về phía Lô Nhất Sinh.
"Keng!" Lô Nhất Sinh gạt trường kiếm của Dương Hạo ra, nhe răng cười nói: "Dương Hạo, bây giờ ngươi rơi vào ta, e rằng ngươi phải chôn thây trên ngọn sơn lĩnh này rồi!"
Dương Hạo quát: "Nhìn bộ dạng của ngươi, chắc cũng không phải vì tiền tài. Ta với đám mã tặc các ngươi không thù không oán, vì cớ gì lại đuổi giết không tha?"
Lô Nhất Sinh giọng căm hận nói: "Ngươi đi hỏi đại ca Lô Cửu Tử của ta đi!" vừa dứt lời liền đâm tới một nhát.
Dương Hạo tránh sang một bên, lớn tiếng mặng: "Chó chết, ngươi làm nhảm cái gì thế? Lô Cửu Tử cái rắm gì, ta hoàn toàn không biết!"
Lô Nhất Sinh đứng ỷ vào thế cương xoa lực lớn nặng, không để cho Dương Hạo tới gần người. Hắn từng xoa từng xoa hung hăng đâm tới, tựa như chỉ hận không thể đục mấy cái lỗ máy trên người Dương Hạo, lớn tiếng mà quát: "Huynh trưởng của ta chính là Nhạn Cửu. Bây giờ thì ngươi đã hiểu chưa?"
"Nhạn Cửu?"
Hình ảnh một người đã dần dần phai nhạt trong tâm trí Dương Hạo đột nhiên trở nên cực kỳ rõ ràng. Dương Hạo vừa giật mình vừa nghi hoặc: "Nhạn Cửu là Lô Cửu Tử? Các ngươi rốt cuộc là ai?"
"Là người muốn giết ngươi! Dương Hạo, hôm nay ngươi nhất định phải chết! Lên trời không đường, xuống đất không lỗi, còn ai có thể cứu được ngươi nữa đây?"
Lô Nhất Sinh không hề hồi đáp, hắn điên cuồng cười lớn, trong mắt hắn, Dương Hạo đã hoàn toàn đã biến thành một kẻ đã chết.
Người ta thường nói thời tiết thất thường, tựa như tính cách một đứa trẻ, thay đổi thất thường. Lúc này Dương Hạo cũng xem như cảm nhận được rồi.
Trên núi dưới núi đều xảy ra đại chiến. Quân Khánh Vương dưới núi đã từ bỏ tấn công lên núi, quay lại cùng một đạo nhân mã từ đồng cỏ phía sau xông tới, bắt đầu chém giết lẫn nhau trong khu vực dưới chân núi chật hẹp. Nhân mã song phương tổng số không dưới hai vạn người.
Đội quân này đột nhiên xuất hiện, mang theo cờ hiệu Nam viện đô giám Da Luật Túng Hoành, nhân số không dưới nhân mã Khánh Vương, lại cộng thêm yếu tố tấn công bất ngờ, phản quân Khánh Vương lập tức trở tay không kịp, dần dần rơi xuống thế hạ phong.
Thì ra Khánh Vương dương đông kích tây, một mạch chạy trốn về phía tây, lúc này đã chiếm lĩnh Tây Kinh, đoạt lấy lương thực bắt đầu nghỉ ngơi chỉnh đốn binh lính. Nam viện tể tướng hay tin liền phái Nam viện Đại vương Da Luật Tà Thâu đích thân lãnh binh thảo phạt, cùng với quân của Da Luật Hưu từ phương Bắc đuổi tới, hai mặt giáp công Tây Kinh. Khánh Vương không dám đánh lâu, lập tức chia bình làm mấy đường, tiếp tục bỏ chạy về phía bắc. Một lộ nhân mã này chính là một trong mấy lộ đại quân đang bỏ chạy về phương Bắc, đại tướng cầm bính là thân tộc của hắn. Tên đại tướng kia vừa nghe trên sườn núi này chính là Dương Hạo Tống quốc đã giết chết Da Luật Văn, tự nhiên không chịu buông tha. Mắt lại thấy trên sườn núi không có bao nhiêu nhân mã liền muốn bắt giết đối phương rồi đem về tranh công với Khánh Vương. Không ngờ nhân mã Nam viện lại phản ứng như vậy, chỉ có một đạo nhân mã đã đánh tới, muốn tiêu diệt hoàn toàn bọn hắn.
Song phương huyết chiến một trận dưới chân núi, vô số tính mạng trong khoảnh khắc đã ngã xuống mặt đất, bị những chiếc vó ngựa to bằng cái bát đạp thành đống máu thịt nhầy nhụa. Lúc này đá vụn trên đường đã nhuộm đỏ máu tươi, vô số máu thịt bị đạp nát nhanh chóng lấp đầy khe hở giữa những viên đá. Bọn họ đều là quân đội thiện chiến, binh lính phối hợp với nhau rất thành thục, chém giết lại càng tàn nhẫn, người thường tuyệt đối không thể sánh được.
Da Luật Túng Hoành tự mình dẫn một lộ quân, tính toán định cắt đôi phản quân Khánh Vương rồi tiêu diệt từng phần. Hắn chọn một chỗ giữa đội hình quân địch làm chỗ đột phá, dẫn quân liều chết xung phong, giống như hắt nước nóng vào trong tuyết, biến quân địch thành từng mảnh từng mảnh huyết nhục dát mặt đường dưới chân. Thủ lĩnh phản quân Khánh Vương mắt thấy nếu tiếp tục chiến nữa thì toàn quân tất bị diệt sạch. Chỉ một đội quân đội Nam viện hắn đã địch không lại, có trời mới biết có đạo nhân mã thứ hai nào nữa đang đuổi tới đây nữa hay không?
Hắn không cam lòng quay lại nhìn về phía sườn núi rồi cắn răng gằn ra một chữ: "Lui!" Nói xong hắn liền xuất lĩnh tàn quân hường về phía tây mà liều mạng phá vòng vây bỏ chạy. Da Luật Túng Hoành không hề đuổi theo, dưới sự chia cắt của hắn, phản quân Khánh Vương trốn thoát được còn không đến một nửa, nếu hắn dẫn binh đuổi theo, đám phản quân còn lại nhất định cũng phá vây chạy thoát. Nhóm phản quân kia vừa đi, nhân mã của hắn liền nhanh chóng nhảy vào chiến cuộc tiêu diệt đám tàn quân phản quân còn lại. Mắt thấy đại thế đã mất, sau khi tiếp tục trả giá bằng gần một ngàn sinh mệnh, nhóm phản quân này cuối cùng cũng buông vũ khí đầu hàng.
Sau khi cho tướng lãnh thuộc hạ dọn dẹp chiến trường, Da Luật Túng Hoành ghìm cương đứng lại nhìn lên sườn núi. Phùng Tất Vũ hoan thiên hỉ địa vội vàng phái người xuống núi liên lạc với hắn. Chỉ trong chốc lát đã thấy Da Luật Túng Hoành vung tay lên, rất nhiều binh sĩ liền nhanh chóng tấn công lên núi.
Lô Nhất Sinh đang từ trên thiên đường một bước rơi xuống địa ngục. Hắn như thế nào cũng thể ngờ tới, từ sống tới chết lại gần nhau đến vậy, cuộc đời đúng là biến hóa khôn lường. Lúc này thuộc hạ bên người hắn đã chẳng còn được bao nhiêu, nhìn thấy uy thế đại quân dưới chân núi, rất nhiều mã tặc đã hoàn toàn mất đi ý chí chiến đấu. Mà lúc trước rất nhiều huynh đệ đã chết dưới tay phản quân Khánh Vương, vậy mà hắn lại nghe lời uy hiếp của phản quân Khánh Vương, nghe lệnh của bọn chúng, làm cho rất nhiều mã tặc sinh lòng oán hận, người cố gắng chống cự đến cùng đã ít này lại cà ít.
Mắt thấy đại thế đã mất, Lô Nhất Sinh hồn bay lạc phách, gần như chẳngcòn sức lực cầm nổi thanh cương xoa nặng nề trong tay nữa.
Dương Hạo tra kiếm vào vỏ. Mỉm cười nhìn hắn rồi nói: "Bây giờ, túc hạ đã nói cho ta biết thân phận của ngươi được chưa?"
Khiết Đan Thượng Kinh, hoàng cung.
Tiêu Xước mở tấu chương của thủ quân Nhạn Môn Quan đọc thật kỹ một lượt, nhẹ nhàng thở dài: “Tống quốc phái sứ giả tới đây, bọn họ đã bình định Nam Đường, thống nhất Trung Nguyên, lần này định đến Khiết Đan chúng ta diễu võ dương oai đâu mà.”
La Đông Nhi nhẹ nhàng bước tới, dâng cho Tiêu Xước một tách trà, tò mò hỏi thăm: “Tống quốc phái sứ giả đến đây? Vì chuyện gì vậy?”
Tiêu Xước cười ảm đạm: “Nói là vì dân chúng Nhạn Môn Quan bị người Khiết Đan chúng ta đánh cướp lương thảo. Hừ, bao nhiêu năm qua, chuyện mấy bộ tộc ở biên cương đánh cướp lương thảo còn ít sao? Vậy mà không hề thấy bọn họ sai sứ vấn tội. Hiện giờ bọn họ thống nhất Trung Nguyên, khí thế đang thịnh, lại đúng lúc Khiết Đan chúng ta nội loạn, một chuyện nhỏ như vậy cũng bị bọn họ lôi ra lấy cớ.”
Nàng đứng dậy, chậm rãi đi lại rồi nói: “Haiz, nếu giờ Khiết Đan chúng ta trên dưới một lòng thì người Tống làm sao uy hiếp? Chỉ là tình hình hiện giờ không ổn a. Từ khi bản triều khai quốc tới nay, nhược chủ đương quốc (vua trẻ, bệnh tật gánh việc nước” luôn luôn nguy hiểm, chuyện mưu nghịch nhiều lần xảy ra. Hiện giờ sức khỏe hoàng đế càng ngày càng sa sút, Khánh Vương lại công khai mưu phản, trong hoàng tộc có khối kẻ cũng đang thèm rỏ dãi ngôi vị hoàng đế. Thái Tông, Lý Hồ cũng đang nhìn chằm chằm về nơi này. Mà Da Luật Tâm Minh…
Nói đến đây, nàng hơi dừng lại một chút, cũng không nói đến chuyện Da Luật Tâm Minh hối lộ, chạy chọt tộc nhân Tiêu Thị, du thuyết nàng nhận con trai hắn làm hoàng tử, chỉ thở dài: “Người Tống tới đây nhất định là có mưu đồ mà đến, không thể chỉ vì một chuyện đánh cướp lương thảo cỏn con như vậy, chỉ hoa hỏi quả bất quá chỉ là một thủ đoạn mà thôi. Haiz, trong triều bất ổn, lòng người khó định, hoàng đế Nam triều cũng nhân cháy nhà mà tới hôi của. Uổng cho Triệu Khuông Dận hắn tự phụ một đời anh hùng, đi khi dễ một nữ tử yếu nhược như ta thì tính là cái bổn sự gì?”
Đông Nhi nhu thuận nói: “Nương nương tuy là nữ tử, nhưng anh dũng không nhường tu muội, so với Triệu hoàng đế cũng không thua kém chút nào.”
Khuôn mặt Tiêu Xước khẽ dãn ra, nở một nụ cười, trừng mắt nhìn La Đông Nhi một cái mà rằng: “Vậy mà ngươi cũng nói ra được.” Nàng suy nghĩ một chút rồi nói: “Hồng Lư tự khanh triều bị ta giết trong Ngũ Phượng lầu, hiện giờ vẫn chưa tuyển ra được chủ sự Hồng Lư mới. Hơn nữa bệnh thể hoàng đế khó hết, tất nhiên phải cử người khác ra mặt. Ô, Tống quốc phái Hồng Lư tự khanh – Dương Hạo, ngươi lại là lục cung thượng quan, hơn nữa cũng là người Hán, tinh thông Hán học. Chức vị cũng không chênh lệch bao nhiêu, vậy để ngươi tiếp đãi hắn đi.”
Tiêu Xước nói xong, bỗng phát hiện không thấy La Đông Nhi trả lời, không khỏi kinh ngạc ngẩng đầu lên, chỉ thấy hai mắt La Đông Nhi mở lớn, nhìn chằm chằm vào mình. Tiêu Xước ngạc nhiên hỏi: “Làm sao vậy? Có gì đã có ta sau lưng, hơn nữa lần này bất quá chỉ là tiếp đãi một sứ giả Tống quốc mà thôi, ngươi sợ cái gì?”
“Không, không phải.” Đông Nhi cố gắng nuốt một ngụm nước miếng, khó khăn nói ra: “Nương nương, Tống quốc phái ai làm sứ giả cơ?”
“Hồng Lư tự khanh – Dương Hạo. Người này giết Da Luật Văn, khiến cho Khánh Vương phải chịu đả kích lớn. Ha ha, cái này cũng coi như đã giúp chúng ta một việc lớn. Tiếp đón hắn cũng nên long trọng một chút. Này, Đông Nhi, ngươi làm sao vậy?”
Trái tim La Đông Nhi lúc này đập thình thịch tựa như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, hô hấp cũng có chút không liền lạc. Nàng vội vàng nói: “À, Đông Nhi nhớ ra rồi, Dương Hạo này chính là tên quan Tống quốc đã viết lá thư vô lại hí lộng nương nương mà. Nếu là Đông Nhi, lần này gặp hắn thì nhất định sẽ không tha cho hắn. Cũng chỉ có nương nương người mới có thể khoan hồng độ lượng như vậy, bỏ qua hiềm khích lúc trước. Đúng là trong bụng tể tướng chứa được thuyền a!”( chỉ người bụng dạ rộng rãi, khoan hồng độ lượng.)
Tiêu Xước dù sao vẫn là một thiếu nữ, nghe như vậy không khỏi đắc ý nói: “Ha ha, ta há có thể so sánh được với tể tướng? Trong bụng tể tướng chứa được thuyền, chứ bụng ta làm sao mà chứa được?”
Ngẫm lại lời này có chút kì cục, nàng không khỏi phì cười, hoa dung khẽ trừng mắt nhìn Đông Nhi một cái: “Đi đi, chuẩn bị cho tốt một chút, chúng ta không thể để thua uy phong trước mặt người Tống, nhưng lúc này cũng không thể để họ tức giận, gây ra chuyện binh đao vô ích. Còn chuyện xử lý chi tiết thế nào, ngươi cứ tự mình suy nghĩ thật kỹ đi.”
“Vâng.” Đông Nhi khẽ khom người thi lễ rồi rời khỏi cung điện. Nàng đứng dưới bậc thềm thở hổn hển ra mấy hơi thật lớn, lúc này mới áp chế được trái tim đang đập thịnh thịch như trống, rồi cất bước đi tiếp.
Nàng càng đi càng nhanh, đến khi vừa bước ra khỏi nội cung một bước liền nhấc cả váy lên, vội vàng chạy đi như một con chim én vui vẻ.
“Tứ ca, tứ ca!” tiến vào trong viện, Đông Nhi liền hưng phấn kêu lên.
La Khắc Địch cùng Loan Đao, Tiểu Lục, Tiểu Ngưu hiện giờ đã là tướng quân, có phủ đệ của riêng mình. Đông Nhi cũng không về phủ đệ của mình, mà lập tức chạy tới phủ của La Khắc Địch. La Khắc Địch nghe tiếng đi ra, vừa thấy La Đông Nhi trước ngực phập phồng, hô hấp dồn dập, hai má ửng hồng, đôi mắt đen huyền lúc này tựa như đang tỏa sáng. Từ trước tới nay hắn chưa bao giờ thấy nàng lộ ra thần sắc kích động như vậy, không khỏi ngạc nhiên hỏi: “Đông Nhi, có chuyện gì vậy?”
Đông Nhi tựa như một con cá nhỏ hít thở không thông, há cái miệng nhỏ nhắn cố gắng thở dốc, sau một lúc mới đè ép được tâm tình đang kích động xuống, nói: “Hạo ca ca tới rồi, Hạo ca ca làm sứ Tống, đi sứ Khiết Đan rồi.”
Nói xong lời này, nước mắt nàng đã không kìm được mà như những hạt trân châu thi nhau rơi xuống: “Tứ ca, Hạo ca ca… tới rồi!”
Nói xong nàng liền nhào vào trong lòng La Khắc Địch, nước mắt vui mừng lại càng không ngăn được mà tuôn rơi.
La Khắc Địch mang theo tùy tùng, tuần tra kinh thành như thường ngày. Mặc dù lúc này thân hắn đang bước trên đường trong Thượng Kinh, nhưng hắn lại chẳng hề quan sát xung quanh, mà cúi đầu suy nghĩ, trong lòng tràn đầy tâm sự nặng nề.
“Đến Thượng Kinh rồi, Dương Hạo sẽ lập tức đi gặp hoàng hậu nương nương, hắn lại không biết Đông Nhi còn sống, một khi nhìn thấy, khó tránh khỏi lộ ra dấu vết, có trời mới biết Tiêu hoàng hậu có phát giác ra điều gì hay không. Nhưng phải làm thế nào mới có thể thông báo trước cho hắn? Haiz, khó, thật sự là khó. Ta vừa ra ngoài đã tiền hô hậu ủng, Dương Hạo lại càng không cần phải nói. Hiện giờ mặc dù làm tướng quân, nhưng người có thể tin dùng đến một mống cũng chẳng có.”
La Khắc Địch nhíu chặt hai hàng lông mày, đang cố gắng suy nghĩ thì bên đường đột nhiên có một thiếu nữ vội vàng chạy về phía hắn. Từ sau biến cố Ngũ Phượng lâu, mọi quan lại trọng yếu của triều đình đi lại trong Thượng Kinh đều phải mang theo rất nhiều binh sĩ bảo vệ an toàn. Mặc dù người kia chỉ là một nữ tử nhưng cũng không thể có cơ hội tới gần hắn. Nếu không phải nhìn thấy nữ tử kia dung mạo xinh đẹp hiếm thấy thì với sự liều lĩnh của nàng, đám binh sĩ này đã sớm một thương giết chết nàng rồi.
“Đứng lại, làm cái gì vậy, không được tới gần!”
Đinh Ngọc Lạc vội vàng dừng bước chân. Nàng đến Thượng Kinh nhiều ngày nay, mà vẫn không có cơ hội gặp được La Đông Nhi. Mỗi khi La Đông Nhi xuất cung thì đều là đi cùng với hoàng hậu, thị vệ đông như mây, đừng nói tới gần, cho dù muốn đứng từ xa nhìn thấy bóng dáng của nàng cũng cực kỳ khó khăn. Điều này khiến cho Đinh Ngọc Lạc vội đến độ ăn ngủ không yên. Mấy ngày nay nàng đã nghe được một tin tức, trong triều gần đây có ba viên tướng quân cung vệ quân mới được thăng chức, hơn nữa ba người này trước kia đều là môn hạ gia nô của La thượng quan. La thượng quan tuy chỉ là lục cung thượng quan nhưng trong triều lại có sức ảnh hưởng rất lớn. Ai cũng nói nàng là đệ nhất tâm phúc bên người hoàng hậu nương nương, không thể động vào.
Đinh Ngọc Lạc nghĩ rằng, mình muốn đến trực tiếp gặp mặt La Đông Nhi tuyệt đối là không thể, lại nghe được vị tướng quân người Hán đang tuần hành này xuất thân là môn hạ của La Đông Nhi, mới cắn răng quyết định đập nồi dìm thuyền, tới cầu xin hắn dẫn kiến. Hôm nay nàng chuyển qua mặc nữ trang chính là để tới gặp hắn. Bị quân sĩ ngăn cản, nàng lập tức kêu lớn: “Tướng quân dừng bước, tướng quân xin hãy dừng bước, dân nữ có chuyện muốn nói.”
La Khắc Địch đang tâm sự ngập lòng thì chợt nghe thấy một âm thanh êm tai truyền đến. Vừa ngẩng đầu lên, liếc mắt một cái đã nhìn thấy diện mạo của Đinh Ngọc Lạc. Hai mắt hắn lập tức sáng ngời: “Một nữ tử thật thanh lệ động lòng người. Không tưởng được trong Thượng Kinh lại có một nữ nhi như vậy.”
La Khắc Địch vội vàng ghìm cương, giơ tay ra hiệu nói: “Cho nàng đến đây.”
Binh sĩ của hắn lập tức tuân lệnh, tránh sang nhưng vẫn cẩn thận đề phòng, áp đao vào lưng nữ tử. La Khắc Địch quan sát nàng từ trên xuống dưới một lượt, thần sắc càng lộ ra vẻ nhu hòa. Hắn bám yên nhảy xuống ngựa, hiền hòa hỏi han: “Cô nương gọi bản tướng quân, có chuyện gì sao?”
“Ta muốn xin tướng quân đại nhân dẫn ta đi gặp La thượng quan.”
“Ồ?” Ánh mắt La Khắc Địch lập tức trở nên ngưng trọng, cảnh giác nói: “La thượng quan? Cô nương là ai, vì sao lại muốn gặp La thượng quan?”
“Ta…” Đinh Ngọc Lạc cố lấy hết dũng khí, ưỡn bộ ngực sữa lên nói: “Ta là muội muội của nàng.”
La Khắc Địch ngẩn ngơ, kinh ngạc nói: “Cô nói gì? Cô là muội muội của La thượng quan?”
“Đúng.” Vừa thấy ánh mắt hoài nghi của hắn, Đinh Ngọc Lạc cũng không còn đường lùi nữa rồi, chỉ có thể kiên trì: “Ta từ Trung Nguyên, ngàn vạn dăm xa xôi tới đây tìm tỷ tỷ nương tựa, song cung cấm sâm nghiêm, không thể gặp được tỷ tỷ, đành phải xin tướng quân đại nhân giúp đỡ.”
Ánh mắt La Khắc Địch thoáng lóe lên, hỏi lại: “Cô thật sự là muội muội La thượng quan?”
“Không sai, nếu tướng quân không tin thì hãy dẫn ta tới gặp nàng, chỉ cần La thượng quan nhìn thấy ta là nàng sẽ xác nhận ta là muội muội của nàng.”
La Khắc Địch nhìn nàng một hồi lâu mà không nói.
Đinh Ngọc Lạc vội la lên: “Tướng quân, ngươi còn không tin sao? Một nữ tử yếu ớt như ta, tay không tấc sắt, lại ở dưới giám thị của tướng quân, làm sao có thể gây bất lợi cho La thượng quan được chứ? Nếu tướng quân không tin thì hãy trói ta lại, chỉ cần thấy tỷ tỷ là nàng tự khắc nhận.”
La Khắc Địch nở một nụ cười đầy thâm ý, nói: “Bản tướng quân không phải là không tin ngươi, chỉ là, bản tướng quân đang suy nghĩ, trừ ngươi ra, rốt cuộc là còn có mấy người muội muội tốt nữa đây?”
Đinh Ngọc Lạc nghe xong, mặt ngọc khẽ đỏ lên, sẵng giọng nói: “Ai là muội tử của ngươi? Ta thật sự là muội muội của La thượng quan, nếu ngươi đắc tội với ta, tỷ tỷ ta sẽ không tha cho ngươi đâu!”
La Khắc Địch thở dài: “Được rồi, ta dẫn ngươi đi nàng là được chứ gì, muội muội!”
Chương 381:Thượng Kinh
Nhìn huynh đệ bên người càng lúc càng ít, rất nhiều quân Tống cùng binh sĩ Khiết Đan giương cung lắp tên vây mình vào giữa, Lô Nhất Sinh thở dài một tiếng, vứt cây cương xoa trong tay xuống đất.
"Nhạn Cửu là huynh đệ ruột của ngươi? Nói đi, hai huynh đệ các ngươi, một người làm nô cho hào môn, một người làm cường đạo ngoài tái ngoại, rốt cuộc là vì cái gì?"
Lô Nhất Sinh nghe hỏi mà chỉ cười lạnh không nói.
Dương Hạo cười cười: "Bí mật này có giải được hay không cũng chẳng liên quan gì tới ta, ngươi muốn giữ bí mật, vậy cứ mang theo nó xuống âm tào địa phủ đi."
Dương Hạo vừa mới vung tay, một đợt những tiếng cung tiễn lên dây vang lên, vô số mũi tên lập tức chĩa về phía Lô Nhất Sinh, chỉ cần Dương Hạo hạ tay xuống là những mũi tên lạnh lẽo này sẽ găm chặt vào cơ thể Lô Nhất Sinh. Đúng lúc này, ánh mắt Lô Nhất Sinh chợt lóe lên, đột nhiên hô lớn: "Chậm đã!"
Dương Hạo lắc đầu nói: "Ta sẽ không tha mạng cho ngươi đâu. Rất nhiều huynh đệ của ta đã chết, vì vậy ngươi đừng cố gắng xin ta tha mạng, khiến cho bọn họ khinh thường ngươi. Nếu đã phải chết thì nên chết cho xứng hai chữ hán tử!"
"Ta không xin ngươi tha mạng. Từ ba mươi năm trước, đáng ra ta đã nên chết rồi. Lô mỗ cửu tử nhất sinh, còn sống tới bây giờ đã là may mắn lắm rồi!" Lô Nhất Sinh ngạo nghễ ưỡn ngực lên nói: "Dương Hạo, ta chỉ muốn biết, Đinh Thừa Nghiệp hiện giờ thế nào? Hắn hiện tại đang ở nơi nào? Ngươi có tin tức gì của hắn không?"
Dương Hạo nhìn hắn, trong mắt không khỏi lộ ra một vẻ cổ quái. Lô Nhất Sinh có chút kích động nói: "Ta sắp phải chết, hiện giờ ta chỉ muốn biết nơi hạ lạc của hắn. Nếu ngươi biết tin tức của hắn, xin hãy nói cho Lô mỗ, Lô mỗ cầu xin ngươi."
Dương Hạo chậm rãi nói: "Định Thừa Nghiệp có quan hệ gì với ngươi?"
Lô Nhất Sinh nghe hỏi lập tức ngậm chặt miệng không đáp.
Dương Hạo hít thật sâu rồi nói: "Đinh Thừa Nghiệp đã chết rồi."
"Cái gì?" Con mắt còn lại của Lô Nhất Sinh lập tức mở lớn, mang theo vẻ hoảng loạn vội vàng bước lên phía trước hai bước, khàn giọng kêu lên: "Ngươi nói cái gì? Ngươi nói cái gì? Nó đã chết, nó thật sự đã chết rồi?"
Dương Hạo thản nhiên nói: "Đúng, hắn đã chết rồi. Ngay trước cuộc chinh phạt Nam Đường, hắn đã chết trong một cái cống rãnh bẩn thỉu ở Kim Lăng."
Sắc mặt Lô Nhất Sinh chuyển sang trắng bệch, thống khổ gào lên: "Nó đã chết? Nó đã chết! Hậu duệ cuối cùng của Lô gia ta, hậu duệ cuối cùng a. Là ngươi giết hắn? Lô Nhất Sinh ta có thành quỷ cũng không tha cho ngươi, họ Dương kia!"
Lô Nhất Sinh gào lên một tiếng rồi đột nhiên nhào về phía Dương Hạo. "Sưu sưu sưu sưu" vô số lợi tiễn lập tức bắn ra. Dương Hạo vừa nghe hắn gào lên hậu duệ cuối cùng của Lô gia liền giống như bắt được điều gì đó, vội vàng hô lớn: "Dừng tay!"
Nhưng không còn kịp nữa rồi. Lô Nhất Sinh trong khoảnh khắc đã bị bắn thành một con nhím, một con nhím mang theo vô số tên trên người, giương nanh múa vuốt bổ nhảo tới trước người Dương Hạo. Hai gã thị vệ bên cạnh Dương Hạo nhanh tay nhanh mắt, khi Lô Nhất Sinh còn chưa kịp lao đến gần thì đã bị hai thanh khoái đao vung ra như hai dải lụa, trong tiếng kêu gào thê thảm của hắn mà chặt đứt hai bàn tay.
Máu tươi phun ra, Lô Nhất Sinh cả người rơi bịch xuống mặt đất một cái nặng nề. Hai bàn tay cùng bị chặt đứt, trên người găm đầy lợi tiễn, trong cổ họng hắn vẫn tiếng gầm gừ, ánh mắt mang theo vô tận hận ý cùng oán độc, dùng hết sức lực toàn thân là trườn về phía Dương Hạo. Mắt thấy không còn cách nào giết được kẻ thù diệt tộc nữa, hắn gầm lên một tiếng rồi đột nhiên ngửa đầu ra, cắn chặt lấy vạt áo Dương Hạo, dùng hết sức lực mà cắn nghiến, phảng phất như đang cắn vào cổ họng Dương Hạo vậy.
Dương Hạo nhìn vậy nhưng vẫn bất động. Hắn chậm rãi ngồi xổm xuống nhẹ nhàng nói: "Đinh Thừa Nghiệp không phải chết trong tay ta. Là tỷ tỷ hắn tự tay giết hắn đó, giết chết một thằng nghịch tử giết cha hại huynh, thanh lý môn hộ."
Trong ánh mắt mờ đục của Lô Nhất Sinh thoáng hiện lên một chút mê ma, hắn từ từ há miệng, lẩm bẩm: "Hắn không giết cha hại huynh, hắn không giết cha hại huynh. Lô Cửu Tử đại ca ta mới là phụ thân của hắn, ta là thúc thúc duy nhất của hắn, trừ hắn ra, chúng ta không còn người thân nào nữa, không còn một người thân nào nữa rồi, không còn một người nào, không còn người thân nào nữa rồi. Hắn... là hậu duệ duy nhất của Lô gia nhất mạch chúng ta."
Một hàng nước mắt từ từ theo gương mặt hắn chảy xuống, đem những vệt máu đỏ tươi trên mặt hắn hòa tan vào bên trong.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro