BNDC 2
Trong dòng văn học Việt Nam, Người ta chọn Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ và Cáo bình Ngô là 3 dấu mốc đánh dấu những chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại. Ðặc biệt phải nói đến cáo bình Ngô, ý thức độc lập chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nước và dân, vấn đề nhân nghĩa,.. mới thực sự phát triển rực rỡ "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi được đánh giá là ánh "thiên cổ hùng văn", là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn tự hào.
"Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, Nguyễn Trãi (1380-1442) là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.
Cáo-một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân.Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.
Nếu đoạn đầu thể hiện việc nhân nghĩa, thì đoạn tiếp theo là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh.Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu thâm độc của giặc Minh: mượn danh nghĩa Phù Trần diệt Hồ, lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh đã thừa cơ vào cướp nước ta:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa".
Đây là lập trường dân tộc- chủ trương cai trị phản nhân nghĩa: "quân cuồng Minh"chúng điên cuồng không còn tính người, chúng dùng nhiều chính sách mua chuộc bọn "gian tà". Nhằm khủng bố dân tộc ta bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội"Nướng dân đen", "vùi con đỏ". thường dân vô tội bị chúng thảm sát 1 cách man rợ, chúng xem dân ta không phảià con người để mà chúng thoả sức "nướng trên ngọn lửa hung tàn" "vùi xuống hầm tai vạ". tàn sát thôi chưa đủ bọn quân Minh đề ra những thứ thuế nghịch lý hòng bóc lột dân:" "Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi". Nhân nghĩa của chúng thật không còn gì, một lũ người bất nhân trời đất chẳng dung. Tình cảm dân ta khốn cúng thậm chí tính mạng không được đảm bảo thế mà chúng còn muốn vét sạch tài nguyên sản vật
"Người bị ép ...nơi nơi cạm đặt". Bắt dân ta xuống bể mò ngọc trai, lên rừng bẫy hươu đen... gây ra bao thảm cảnh. "chốn chốn lưới chăn", " nơi nơi cạm bẫy" chúng ta có thể tưởng tượng được Đại Việt- được thiên nhi ên u ái ban tặng nhiều sản vật quý hiếm mà giờ trờ nên hoan tàn xơ xác.
Đã cướp sản vật thì thôi bọn quân minh diệt cả sự sống trong tự nhiên "Tàn hại cả ... cây cỏ", đày đoạ bắt dân ta đi phu phục dịch ham muốn quá độ của chúng
"Nay xây nhà ...nỗi phu phen". tội ác hơn nữa chúng triệt sản xuất của ta "Tan tác cả nghề canh cửi." không muốn dân ta có một con đường nào để sống cả. Hậu quả bọn chúng để lại thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực. trên sự khốn cùng cùa dân bọn thái thú, bọn tướng tá Thiên triều như một lũ quỷ khát máu vô cùng ghê tởm: "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán!". Tội ác của giặc Minh chồng chất như núi, đầy mưu mô xảo quyệt "dối trời, lừa dân... gây binh, kết oán". Một cách nói thâm xưng đầy căm thù, ám ảnh lột tả hết bộ mặt điên cuồng, khát máu của giặc Minh: "Độc ác thay ... rửa sạch mùi". Ở phần đầu bản cáo trạng là một hình ảnh đầy ấn tượng: "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ", để rồi két thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết cao: "Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội- Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi". Lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để nói,cái vô han (tội ác của giặc), dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói cái vô cùng .Câu văn hình tượng và đanh thép cho ta cảm nhận sự nhơ bẩn của kẻ thù, tội ác của giặc để lại sâu sắc trên dân ta. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của chúng:
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?
Đoạn văn đã làm sống lại một thời kỳ đau thương, đen tối của dân tộc qua đó thể hiện nỗi căm giận ngút trời. tác giả đã sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động.
Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, nỗi đau xé lòng của tác giả. Lời lẽ chính xác, cô đúc, chứa đựng nhiều hình tượng gợi cảm, vừa là văn chương chính luận, vừa là văn chương trữ tình. "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Bài thơ đã kết hợp hài hòa giữa cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo đến mức kỳ diệu mà chưa 1 tác phẩm văn học chính luận nào đạt tới.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro