Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Biểu tượng thất truyền c 51-72

Chương 51

Katherine Solomon luôn rất cẩn thận khi lái xe, nhưng lúc này cô đang nhấn mạnh ga chiếc Volvo và phóng bạt mạng với tốc độ hơn 90 dặm trên đường Suitland Parkway. Bàn chân áp trên chân ga cứ run bắn suốt cả một dặm đường dài cho tới khi cơn hoảng loạn của cô lắng dần. Bấy giờ, cô cũng nhận ra nỗi sợ hãi không còn là nguyên cớ khiến cô run đến mức mất hết kiểm soát như thế nữa.

Mà là do lạnh.

Khí đêm giá buốt tràn qua cửa sổ xe vỡ nát, trùm lên cơ thể Katherine như trận gió miền cực bắc. Nhận ra hai bàn chân đi tất mỏng đã tê cứng, cô bèn lần tìm đôi giày dự phòng vẫn cất sẵn dưới gầm ghế bên cạnh. Trong khi tìm giày, cô cảm thấy đau nhói ở vết bầm tím trên cổ họng, nơi bàn tay của kẻ tấn công siết vào.

Kẻ đập nát cửa sổ xe cô chẳng có nét gì của quý ông tóc vàng mà Katherine vẫn nghĩ là bác sĩ Christopher Abaddon. Mái tóc dày và nước da mịn màng của hắn đã biến mất tăm, thay vào đó là cái đầu trọc lốc, bộ ngực trần và gương mặt vằn vện những hình xăm trổ gớm ghiếc.

Katherine lại như nghe thấy giọng nói của hắn, thì thào trong tiếng gió hú bên ngoài cửa sổ xe vỡ nát. Katherine, lẽ ra ta đã phải giết chết ngươi từ mười năm về trước... vào cái đêm ta giết mụ già mẹ ngươi ấy.

Katherine rùng mình, không còn nghi ngờ gì nữa. Chính là hắn.

Cô không bao giờ quên vẻ hung bạo dữ tợn trong đôi mắt ấy. Cô cũng chưa bao giờ quên tiếng súng duy nhất của anh trai mình, tiếng súng đã hạ sát gã đàn ông này, hất hắn từ một vách đá cao xuống dòng sông lạnh giá phía dưới, hắn chìm luôn qua lớp băng và không thấy nổi lên nữa. Các điều tra viên đã tìm kiếm hàng tuần liền nhưng không bao giờ thấy xác hắn, cuối cùng họ kết luận rằng hắn đã bị nước cuốn ra Vịnh Chesapeake.

Họ nhầm rồi, giờ thì cô biết rõ như vậy. Hắn vẫn còn sống.

Và hắn đã trở lại.

Ký ức ồ ạt tràn về làm Katherine lặng người đau đớn. Đã tròn mười năm rồi. Đúng Lễ Giáng sinh. Katherine, Peter, và mẹ của họ - toàn bộ gia đình cô - quây quần tại lâu đài đá ở Potomac. Lâu đài này toạ lạc trên khu đất có rừng rộng hai trăm mẫu, có dòng sông chảy ngang qua.

Theo truyền thống, mẹ cô miệt mài ở trong bếp, sung sướng thực hiện truyền thống ngày nghỉ lễ là chuẩn bị đồ ăn cho hai người con. Dù đã ở tuổi 75, Isabel Solomon vẫn là một đầu bếp xuất sắc, và tối nay, mùi thịt quay, nước xốt củ cải, khoai tây nghiền tỏi toả khắp nhà, thơm đến chảy nước miếng. Trong khi bà mẹ chuẩn bị bữa ăn thì Katherine và anh trai thư giãn bên nhà kính trồng cây, thảo luận về niềm đam mê gần đây nhất của Katherine - một lĩnh vực lạ lẫm mang tên Lý trí học. Là hình thức kết hợp mới mẻ giữa vật lý hạt hiện đại và chủ nghĩa thần bí cổ xưa, Lý trí học hoàn toàn chinh phục được cô.

Vật lý gặp gỡ triết lý.

Katherine kể cho Peter nghe về một vài thí nghiệm mà cô ao ước được thực hiện, và nhận thấy vẻ thích thú trong ánh mắt anh mình. Katherine cảm thấy rất vui vì có thể giúp anh khuây khoả trong dịp Giáng sinh, bởi ngày lễ này cũng gợi nhớ một bi kịch kinh khủng và đau xót.

Con trai của Peter, Zachary.

Sinh nhật lần thứ 21 của đứa cháu trai cũng chính là sinh nhật cuối cùng của nó. Cả gia đình đã trải qua một cơn ác mộng, dường như chỉ đến lúc này Peter mới có thể cười vui trở lại.

Zachary là một thanh niên có lớn nhưng không có khôn, hư hỏng ương bướng, dễ nổi loạn và hay cáu bẳn. Mặc dù được nuôi dạy trong tình yêu thương và sự chiều chuộng, thằng bé dường như vẫn quyết tâm tách mình khỏi "chuẩn mực" của gia đình Solomon. Nó bỏ học trung học, đua đòi nhậu nhẹt và lảng tránh những nỗ lực đến tuyệt vọng của bố mẹ nhằm hướng cho nó đi vào đường ngay nẻo chính.

Nó làm trái tim Peter tan nát.

Không lâu trước sinh nhật 18 của Zachary, Katherine đã cùng ngồi với mẹ và anh trai cô để nghe họ tranh luận xem có nên truất quyền thừa kế của Zachary cho tới khi cậu ta trưởng thành hơn không.

Quyền thừa kế của gia đình Solomon - một truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm trong gia đình - để lại một khoản tài sản khổng lồ cho tất cả mọi đứa trẻ của gia đình Solomon vào đúng sinh nhật lần thứ 18. Gia đình Solomon tin rằng một khoản tài sản thừa kế sẽ có ích ngay từ giai đoạn đầu cuộc đời người ta hơn là về cuối đời. Trao khối tài sản lớn của gia đình Solomon vào tay những cô cậu thanh niên đầy nhiệt huyết cũng chính là chìa khoá để làm cho tài sản của gia đình sinh sôi hơn nữa. Tuy nhiên, trong trường hợp này, mẹ Katherine cho rằng sẽ rất nguy hiểm khi trao cho cậu con trai quậy phá của Peter một khoản tiền lớn như vậy. Peter thì không nhất trí.

- Tài sản thừa kế của gia đình Solomon, - anh trai cô đã nói - là một truyền thống gia đình không nên phá bỏ. Khoản tiền này có thể buộc Zachary phải sống có trách nhiệm hơn.

Buồn thay, anh trai cô đã nhầm.

Ngay khi nhận được tiền, Zachary đã bỏ nhà đi biệt, không hề mang theo bất kỳ thứ gì, vài tháng sau, nó xuất hiện trên các báo lá cải: TAY CHƠI GIÀU CÓ VỚI LỐI SỐNG VƯƠNG GIẢ KIỂU ÂU CHÂU. Các báo "lá cải" thích thú săn tin về cuộc sống sa đoạ của Zachary.

Những bức ảnh ghi lại các buổi tiệc tùng trác táng trên du thuyền và những trận say sưa bốc trời trong các vũ trường quả là khó chấp nhận với gia đình Solomon, nhưng những bức ảnh về đứa con hoang dã của họ chuyển từ thất vọng sang hãi hùng khi báo chí đưa tin Zachary bị bắt trên đường vận chuyển cocaine vào biên giới Đông Âu: TRIỆU PHÚ SOLOMON TRONG NHÀ TÙ THỔ NHĨ KỲ.

Họ được biết nhà tù đó mang tên Soganlik - một trại tạm giam mạt hạng và khắc nghiệt nằm ở quận Kartal ngay ngoại ô Istanbul. Peter Solomon, vì lo lắng cho sự an toàn của con trai, đã bay sang Thổ Nhĩ Kỳ để cứu nó. Ông trở về tay không, thậm chí còn không được gặp mặt Zachary. Tin hứa hẹn duy nhất là những người quen biết rất có thế lực của gia đình Solomon tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đang nỗ lực làm thủ tục dẫn độ thằng bé càng nhanh càng tốt.

Tuy nhiên, hai ngày sau, Peter nhận được một cuộc gọi đường dài đầy hãi hùng. Sáng tiếp theo, báo chí đưa tin: THÁI TỬ SOLOMON BỊ SÁT HẠI TRONG TÙ.

Các bức ảnh chụp trong tù thật kinh khủng, vậy mà báo chí vẫn nhẫn tâm đăng tất cả lên, thậm chí sau khi lễ an táng của gia đình Solomon qua đi đã lâu. Vợ Peter không bao giờ tha thứ cho chồng vì đã không thể giải cứu được Zachary, sáu tháng sau cuộc hôn nhân của họ kết thúc. Peter cô độc từ đó.

Phải mất nhiều năm sau Katherine, Peter và mẹ của hai người, bà Isabel, mới lại sum họp nhân lễ Giáng sinh. Nỗi đau vẫn còn hiện diện trong gia đình họ, nhưng cũng đang phôi pha dần theo mỗi năm tháng qua đi. Lúc này, tiếng nổ lách tách vui tai phát ra từ nhà bếp khi bà mẹ chuẩn bị bữa ăn tối truyền thống. Còn trong nhà kính, Peter cùng Katherine đang khoan khoái ăn một chút pho-mát mềm và trò chuyện thoải mái.

Rồi bất ngờ có một âm thanh vang lên.

- Xin chào, cả nhà Solomon, - ai đó cất tiếng nhẹ hẫng phía sau họ.

Giật mình, Katherine cùng anh trai quay phắt lại và nhìn thấy một kẻ cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn bước vào nhà kính. Anh ta đeo chiếc mặt nạ trượt tuyết màu đen che kín cả gương mặt, chỉ để lộ đôi mắt ánh lên nét hung bạo man dại.

Peter định thần lại ngay.

- Anh là ai?! Làm sao anh vào được đây?

- Tôi quen Zachary, con trai ông, trong tù. Nó cho tôi biết chìa khoá giấu ở đâu - Kẻ lạ mặt giơ ra một chiếc chìa khoá cũ và cười hềnh hệch như một con thú dữ - Ngay trước khi tôi đập chết nó.

Miệng Peter há hốc.

Một khẩu súng xuất hiện, nhắm thẳng vào ngực Peter.

- Ngồi xuống.

Peter ngã ngồi xuống ghế.

Khi gã kia bước vào phòng, Katherine cứng đờ người. Sau chiếc mặt nạ, ánh mắt hắn man dại không khác gì của một con thú điên.

- Này? - Peter kêu lên, như thể tìm cách báo động cho bà mẹ đang ở trong bếp - Anh là ai chứ, cứ lấy thứ gì anh muốn, và ra khỏi đây ngay!

Gã đàn ông chìa súng vào ngực Peter.

- Vậy ông nghĩ tôi muốn thứ gì?

- Cứ nói thử xem bao nhiêu - Peter đáp - Chúng tôi không có tiền mặt trong nhà, nhưng tôi có thể...

Con quái vật cười phá lên.

- Đừng phỉ báng tôi thế. Tôi không đến đây vì tiền. Tối nay tôi đến đây vì một quyền thừa kế khác của Zachary - Gã cười nhăn nhở - Nó kể cho tôi nghe về cái kim tự tháp.

Kim tự tháp ư? Katherine ngẫm nghĩ trong nỗi hãi hùng. Kim tự tháp gì?

Peter tỏ ra thách thức.

- Tôi không hiểu anh đang nói về cái gì.

- Đừng tưởng lừa được tôi! Zachary nói với tôi về thứ ông cất giữ trong phòng nghiên cứu. Tôi muốn có nó. Ngay bây giờ.

- Bất kể Zachary đã nói gì, thì cũng là lầm lẫn, - Peter bác bỏ - Tôi không biết anh đang nói về chuyện gì.

Không ư? - Kẻ đột nhập quay phắt lại và chĩa súng vào mặt Katherine - Giờ thì sao nào?

Mắt Peter đầy vẻ sợ hãi.

- Anh phải tin tôi! Tôi không biết anh muốn thứ gì?

- Nếu ông dối trá tôi một lần nữa thôi, - gã kia đe doạ, vẫn chĩa súng vào Katherine - tôi thề rằng sẽ khiến ông mất bà ta - Gã mỉm cười - Theo lời Zachary, cô em gái bé bỏng của ông đối với ông còn quý giá hơn cả...

- Có chuyện gì vậy? - bà Isabel quát lên, bước vào phòng với khẩu súng Browning Citori của Peter, nòng chĩa thẳng vào ngực gã đàn ông. Kẻ đột nhập xoay về phía bà, nhưng bà già 75 tuổi không hề lãng phí thời gian. Bà nã ngay một phát súng đinh tai nhức óc. Kẻ đột nhập bật người về phía sau, bóp cò tứ tung làm mấy ô cửa sổ vỡ tan rồi chạy lao qua cửa, đánh rơi cả khẩu súng ngắn.

Peter phản ứng tức thì, ông tung người chộp lấy, khẩu súng vừa rơi. Katherine ngã khuỵu xuống, bà cụ Solomon chạy vội đến bên con gái, quỳ xuống cạnh cô.

- Chúa ơi, con có đau không?!

Katherine lắc đầu, choáng váng đến nỗi không nói được gì. Bên ngoài ô cửa kính đã vỡ tan, gã đàn ông đeo mặt nạ lồm cồm bò dậy và chạy vào rừng, ôm chặt lấy mạng sườn. Peter Solomon liếc nhìn lại để biết chắc rằng mẹ và em gái vẫn an toàn. Thấy họ đều ổn cả. Ông mới cầm khẩu súng và lao ra cửa đuổi theo kẻ đột nhập.

Mẹ Katherine cầm lấy tay cô, run bắn.

- Ơn Chúa, con không sao - rồi đột nhiên bà giật nảy mình. -Katherine! Con đang chảy máu kìa! Có máu! Con bị thương!

Katherine nhìn thấy máu. Rất nhiều máu. Trên khắp người cô. Nhưng cô không hề cảm thấy đau.

Bà cụ cuống cuồng tìm kiếm vết thương trên cơ thể Katherine.

- Vết thương ở chỗ nào nhỉ?

- Mẹ, con không biết, con không hề cảm thấy gì cả!

Bất chợt phát hiện ra chỗ chảy máu, Katherine lạnh toát người.

- Mẹ, không phải con... - Cô chỉ vào sườn chiếc áo khoác bằng sa tanh màu trắng của bà cụ, chỗ máu đang chảy ra xối xả, và rõ ràng có một lỗ thủng nhỏ. Mẹ cô nhìn xuống, trông bà còn ngơ ngác hơn bất kỳ điều gì khác. Bà nhăn mặt và rúm lại, cứ như thể đến bây giờ cơn đau mới tác động đến bà.

- Katherine? - Giọng bà vẫn rất bình tĩnh, nhưng đột nhiên nó như mang toàn bộ sức nặng của cả bảy mươi lăm năm - Mẹ cần gọi cấp cứu.

Katherine chạy bổ tới điện thoại trong sảnh và gọi cấp cứu. Khi trở lại nhà kính, cô thấy mẹ mình nằm bất động trên vũng máu.

Katherine chạy nhào tới bà, quỳ xuống, ôm chặt xác mẹ trên tay.

Thời gian trôi không biết lâu hay chóng, cuối cùng Katherine nghe thấy tiếng nổ xa xăm trong rừng. Cuối cùng, cửa nhà kính cũng bật mở, và anh trai cô. Peter, lao vào, mắt trừng trừng, tay vẫn cầm khẩu súng. Khi nhìn thấy Katherine nức nở, tay ôm chặt xác bà mẹ đã bất động, gương mặt ông rúm lại đau đớn. Tiếng thét vang động khắp nhà kính là thứ âm thanh mà Katherine Solomon sẽ không bao giờ quên.

Chương 52

Mal'akh chạy phăm phăm quanh toà nhà về phía cánh cửa vẫn còn để ngỏ của Khoang 5, những phần cơ mang hình xăm trên lưng gã co giật theo bước chạy.

Ta phải đến phòng thí nghiệm của mụ.

Việc Katherine trốn thoát là ngoài dự liệu... và rất lôi thôi. Cô không chỉ biết chỗ Mal'akh sống mà còn biết nhân dạng đích thực của gã... và biết chính gã là kẻ đã đột nhập vào nhà họ mười năm về trước.

Mal'akh không quên đêm ấy. Gã đã gần có được cái kim tự tháp thì số phận lại cản đường. Ta chưa sẵn sàng. Nhưng giờ thì gã đã sẵn sàng. Mạnh mẽ hơn. Nhiều quyền năng hơn. Đã phải chịu đựng những thử thách nghiệt ngã không thể hình dung nổi để chuẩn bị cho việc trở về của mình, đêm nay Mal'akh sẵn sàng hoàn tất số phận của mình. Gã tin chắc rằng trước khi đêm nay qua đi, gã sẽ được nhìn xoáy vào đôi mắt hấp hối của Katherine Solomon.

Đến cửa, Mal'akh tự trấn an mình rằng Katherine thực sự chưa trốn thoát được, cô chỉ kéo dài điều không thể tránh khỏi mà thôi. Gã lách người qua khe hở và bình tĩnh rảo bước trong bóng tối cho tới khi chân chạm tới lớp thảm. Sau đó, gã rẽ sang phải và tiến thẳng tới Khối vuông. Tiếng đập cửa Khoang 5 đã dừng hẳn, và Mal'akh tin rằng người bảo vệ lúc này đang cố tìm cách moi đồng xu mà Mal'akh đã tọng vào khe chìa khoá để vô hiệu hoá nó.

Tới cánh cửa dẫn vào Khối vuông, Mal'akh tìm bảng khoá ngoài và nhét thẻ của Trish vào. Bảng điện tử sáng lên. Gã nhập PIN của Trish rồi bước vào trong. Toàn bộ đèn sáng bừng lên. Khi tiến thẳng vào khu vực vô trùng. Mal'akh ngạc nhiên lướt nhìn cả dãy thiết bị.

Gã không xa lạ gì với sức mạnh của công nghệ, bản thân gã cũng đã tiến hành thứ khoa học của riêng mình ở tầng hầm nhà riêng, và đêm qua, một phần thứ khoa học ấy đã cho ra kết quả.

Chân lý.

Cách giam hãm rất độc đáo đối với Peter Solomon - nhốt một mình ở "quãng giữa" - đã moi được toàn bộ bí mật của người đàn ông này. Ta có thể nhìn thấy linh hồn của lão. Mal'akh đã biết một số bí mật mà gã mong đợi từ trước, ngoài ra có những bí mật gã chưa biết, kể cả thông tin về phòng thí nghiệm của Katherine và những phát kiến gây sửng sốt của cô. Khoa học đang ngày càng tiến xa, Mal'akh nhận ra như vậy, và ta sẽ không cho phép nó soi sáng đường cho những kẻ đê tiện.

Công trình của Katherine ở đây bắt đầu sử dụng khoa học hiện đại để trả lời những câu hỏi triết học cổ xưa. Liệu có ai nghe thấy lời nguyện cầu của chúng ta không? Có cuộc sống sa u khi chết không? Con người có linh hồn không?

Thật phi thường, Katherine đã trả lời được tất cả những câu hỏi này, và còn nhiều câu khác nữa. Bằng khoa học. Rất thuyết phục. Những phương pháp mà cô sử dụng là không thể phủ nhận được. Thậm chí những người hoài nghi nhất cũng sẽ bị thuyết phục trước kết quả thí nghiệm của cô. Nếu thông tin này được công bố rộng rãi, nó sẽ tạo ra sự thay đổi căn bản trong ý thức con người. Họ sẽ bắt đầu tìm đường đi của họ. Nhiệm vụ cuối cùng của Mal'akh đêm nay, trước khi gã biến đổi, là không để điều này xảy ra.

Khi đi qua phòng thí nghiệm, Mal'akh xác định được phòng dữ liệu mà Peter đã nói. Gã chăm chú nhìn qua bức tường kính đồ sộ, bên trong là hai hộp lưu trữ dữ liệu sử dụng công nghệ đa sao lưu toàn ảnh đúng như lời lão nói. Mal'akh thấy thật khó tin rằng nội dung của những cái hộp nhỏ xíu này lại có thể làm thay đổi tiến trình phát triển của loài người, và Chân lý vẫn luôn là thứ xúc tác có uy lực nhất.

Nhìn các hộp đĩa sao lưu một lượt. Mal'akh lại lấy thẻ của Trish nhét vào bảng khoá ở cửa. Gã ngạc nhiên khi bảng điện tử không sáng lên. Rõ ràng, Trish Dunne chưa được phép vào phòng này. Giờ gã mới lấy chiếc thẻ tìm thấy trong túi áo choàng của Katherine ra.

Thẻ vừa nhét vào khe, bảng điện tử liền bật sáng.

Nhưng vấn đề mới lại nảy sinh. Ta chưa biết PIN của Katherine Gã thử bằng PIN của Trish nhưng vô hiệu. Xoa xoa cằm, gã bước lùi lại và kiểm tra cánh cửa bằng kính Plexiglas dày gần 8 cm. Gã biết rằng dù có dùng rìu thì gã cũng không thể phá nổi để lấy những ổ dữ liệu bên trong.

Tuy nhiên, Mal'akh đã chuẩn bị cho tình huống này.

Bên trong phòng cấp điện, đúng như Peter mô tả, Mal'akh xác định được giá để vài chiếc bình kim loại giống như những bình khí thở cho thợ lặn, loại lớn. Các bình này đều có chữ LH số 2, và ký hiệu dễ cháy nổ. Có một đầu chụp của bình được nối với pin nhiên liệu hydro của phòng thí nghiệm.

Mal'akh vẫn để nguyên đầu chụp nối như vậy và cẩn thận nhấc một bình dự trữ xuống chiếc xe đẩy dựng bên cạnh giá. Sau đó, gã đẩy chiếc bình ra khỏi phòng cấp điện, băng qua phòng thí nghiệm, tới chỗ cánh cửa Plexiglas của phòng lưu trữ dữ liệu. Mặc dù vị trí này đủ gần nhưng gã vẫn chú ý thấy cánh cửa Plexiglas nặng trịch có một điểm yếu, đó là khoảng trống nhỏ giữa rầm cửa và chân cửa.

Ngay chỗ ngưỡng cửa, gã cẩn thận đặt cái đầu chụp nằm nghiêng và nhẹ nhàng luồn ống cao su xuống dưới cửa. Gã phải mất một lúc mới tháo được niêm phong và xử lý xong van bình chứa, nhưng hoàn thành các thao tác này rồi, gã vẫn không thể mở nổi khoá van. Qua lớp kính Plexiglas, Mal'akh nhìn thấy rõ chất lỏng trong suốt, sủi bọt đang rỉ ra khỏi ống và tràn khắp sàn phòng lưu trữ. Gã theo dõi thứ chất lỏng loang dần ra khắp sàn và bốc hơi ngùn ngụt. Hydrogen ở nguyên dạng lỏng chỉ khi còn lạnh, và khi nóng lên, nó bắt đầu bay hơi. Rất tiện lợi là cái thứ khí sinh ra đó còn dễ cháy hơn chất lỏng.

- Hãy nhớ lại vụ tai nạn Hindenburg(64)

Giờ thì Mal'akh vội vã đi vào phòng thí nghiệm và lấy chiếc bình nhiên liệu đèn Bunsen hiệu Pyrex - một thứ dầu rất dễ cháy nhưng không gây nổ. Gã mang nó tới cánh cửa Plexiglas, hả hê nhìn chiếc bình hydrogen lỏng vẫn đang chảy, vết loang của thứ chất lỏng đang bốc hơi bên trong phòng lưu trữ dữ liệu giờ đã kín cả nền nhà, bao chặt lấy những cái bệ đỡ các hộp lưu trữ. Bấy giờ, khi hydrogen lỏng chuyển thành dạng khí, một màn sương trắng đục bắt đầu bốc lên... dâng kín đặc trong không gian chật hẹp.

Mal'akh nhấc bình nhiên liệu đèn Bunsen và phun mạnh lên bình hydrogen, đường ống cao su, và phun cả vào cái khe hẹp bên dưới cánh cửa. Sau đó, rất cẩn thận, gã bắt đầu lùi dần ra khỏi phòng thí nghiệm, để nguyên dòng dầu tiếp tục phun chảy trên sàn.

***

Tối nay, nhân viên trực xử lý các cuộc gọi khẩn cấp 911 khu vực Washington D.C. bận rộn một cách bất thường. Bóng bầu dục, bia, và đêm rằm, cô nghĩ bụng khi một cuộc gọi khẩn cấp nữa xuất hiện trên màn hình, lần này là từ bốt điện thoại trả tiền của một trạm xăng ở đường Suitland Parkway tại Anacostia. Có lẽ là một vụ tai nạn xe hơi.

- Chín-một-một. - cô trả lời máy - Quý vị gặp tình huống khẩn cấp gì vậy?

- Tôi vừa bị tấn công tại Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian, - giọng nữ đầy hốt hoảng vang lên - Xin hãy phái cảnh sát tới số 4210 phố Silver Hill.

- Vâng, cứ bình tĩnh, - nhân viên trực đáp - Bà cần...

- Tôi cần chị cử ngay cảnh sát đến một toà nhà ở Kalorama Heights, tôi nghĩ rằng anh trai tôi đang bị giam giữ ở đó!

Nhân viên trực thở dài. Đêm rằm.

Chú thích:

(64) Khí cầu khổng lồ Hindenburg của Đức dài 245m - gấp 3 lần chiều dài một chiếc siêu phản lực, có thể chở 117 hành khách từ châu Âu sang Mỹ. Năm 1937, nó bùng cháy khi đáp xuống New Jersey ở Hoa Kỳ, làm thiệt mạng 36 người - ND.

Chương 53

- Như tôi đã cố giải thích với anh - Bellamy nói - kim tự tháp này có nhiều ý nghĩa hơn những gì chúng ta nhìn thấy.

Rõ ràng là như vậy. Langdon phải thừa nhận rằng với anh, ngọn kim tự tháp có vẻ bí ẩn hơn lúc trước rất nhiều. Việc giải mã đang chững lại ở một ma trận chữ cái xem chừng vô nghĩa.

Mất một lúc khá lâu, Langdon kiểm tra ô chữ, cố dò mối liên hệ giữa các chữ cái này, nào là ghép từ, đảo chữ và đủ mọi manh mối khác nhưng anh chẳng tìm thấy gì cả.

- Người ta nói rằng Kim tự tháp Tam điểm giấu kín bí mật của nó dưới rất nhiều lớp màn nguỵ trang - Bellamy giải thích - Cứ vén được một tấm màn, anh lại đối mặt với một tấm khác. Anh đã giải được những con chữ này, nhưng chúng chẳng nói lên điều gì cho tới khi anh bóc được một lớp nữa. Dĩ nhiên, chỉ người nào nắm giữ cái chóp mới biết cách bóc. Tôi cho rằng cái chóp cũng có chữ khắc, mách bảo ta cách giải mã kim tự tháp.

Langdon liếc nhìn cái gói hình hộp trên bàn. Từ những gì Bellamy nói, Langdon hiểu rằng cái chóp và kim tự tháp là một "mật mã được tách rời ra" thành từng phần. Các chuyên gia mật mã hiện đại vẫn thường xuyên dùng mật mã tách rời mặc dù ý tưởng bảo mật này được phát minh tại Hy Lạp cổ đại. Người Hy Lạp, khi muốn lưu giữ thông tin bí mật, thường khắc thông tin ấy lên một phiến đất sét rồi đập vỡ nó thành từng mảnh, cất giữ rải rác ở những địa điểm khác nhau. Chỉ khi tất cả các mảnh được gom lại thì bí mật mới hiện hình. Loại phiến đất sét có khắc chữ này - gọi là biểu hình - trên thực tế chính là nguồn gốc của từ biểu tượng.

- Robert, - Bellamy lên tiếng - Người ta đã tách rời kim tự tháp đá và phần chóp của nó suốt nhiều thế hệ qua nhằm bảo đảm tính an toàn cho bí mật - Giọng ông bỗng trở nên thiểu não - Tuy nhiên tối nay, hai phần lại đến gần nhau một cách quá nguy hiểm. Tôi định không nói điều này... nhưng nhiệm vụ của chúng ta là ngăn ngừa việc ráp liền kim tự tháp.

Langdon cảm thấy Bellamy hơi quá quan trọng hoá vấn đề. Ông ấy đang nói đến cái chóp và kim tự tháp... hay là thiết bị kích nổ và quả bom hạt nhân? Anh vẫn không hoàn toàn tán thành quan điểm của Bellamy, nhưng cũng chẳng sao.

- Cứ cho đây là Kim tự tháp Tam điểm, và coi như phần chữ khắc này sẽ thật sự hé lộ vị trí của kho tri thức cổ xưa thì làm thế nào kho tri thức ấy có thể tạo ra sức mạnh như người ta đồn đại?

Peter luôn nói với tôi rằng anh là người rất khó thuyết phục, một học giả thích có bằng chứng để suy xét.

- Vậy là ông thật sự tin huyền thoại đó phải không? - Langdon vặn lại, cảm thấy mất hết mọi kiên nhẫn - Xin thứ lỗi... ông là một con người thời hiện đại, có học thức. Tại sao ông tin nổi một chuyện như thế chứ?

Bellamy nở nụ cười nhẫn nại.

- Công việc ở Hội Tam điểm dạy tôi phải kính nể những điều vượt quá hiểu biết của con người. Tôi đã học được cách không bao giờ khép chặt trí óc của mình trước một ý tưởng đơn giản chỉ vì nó có vẻ huyền hoặc.

Chương 54

Nhân viên tuần tra vòng ngoài của SMSC cuống cuồng lao bổ theo lối đi lát sỏi viền quanh toà nhà. Anh vừa nhận được cuộc gọi của nhân viên bên trong, thông báo ổ khoá Khoang 5 đã bị phá, và đèn an ninh cho biết cửa chuyển mẫu vật của Khoang 5 đang mở.

Chuyện quái gì thế nhỉ? Người bảo vệ đến cửa chuyển mẫu vật, quả nhiên thấy nó đã mở rộng đến vài thước. Quái quỷ, anh ta nghĩ bụng. Cửa này chỉ mở được từ bên trong thôi chứ? Anh rút đèn pin bên thắt lưng và soi vào khoảng tối mịt mùng trong khoang. Chẳng thấy gì cả. Anh không có ý định bước vào, nên chỉ di chuyển theo ngưỡng cửa, chĩa ngọn đèn qua chỗ hở, xoay sang trái và sau đó sang...

Hai bàn tay rắn chắc chụp lấy cổ tay người bảo vệ và kéo tuột anh vào bóng tối. Người bảo vệ thấy mình bị xoay tít bởi một sức mạnh vô hình. Mùi ethanol xộc lên. Ngọn đèn pin văng khỏi tay, anh ta chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì đã bị một cú đấm nặng như búa tạ nện thẳng xuống ức. Người bảo vệ gục xuống nền xi măng... rên rỉ vì đau. Lúc đó một bóng đen cao lớn bước qua người anh và đi ra.

Người bảo vệ nằm nghiêng, cố thở. Ngọn đèn pin của anh nằm kế bên, rọi sáng mặt sàn và soi rõ một thứ gì đó giống như thùng kim loại. Nhãn thùng cho biết đó là dầu nhiên liệu dùng cho đèn Bunsen.

Một chiếc bật lửa sáng lên, và ngọn lửa màu cam soi sáng một cái bóng không hẳn là người. Lạy Chúa! Người bảo vệ không đủ thời gian để nghĩ xem mình vừa nhìn thấy gì thì cái sinh vật cởi trần đó đã quỳ xuồng và dí ngọn lửa xuống sàn.

Một vệt lửa lập tức xuất hiện, chạy rất nhanh khỏi chỗ họ, tiến thẳng vào khoảng trống phía trước. Người bảo vệ hoảng hốt ngó lại, nhưng sinh vật kia đã lách ra khỏi cánh cửa để ngỏ, biến vào màn đêm.

Người bảo vệ cố gắng ngồi dậy, nhăn mặt vì đau, mắt vẫn nhìn theo vệt lửa. Chuyện quái quỷ gì vậy? Ngọn lửa thoạt trông rất nhỏ, không có vẻ quá nguy hiểm, nhưng đến lúc này, người bảo vệ mới nhìn thấy thứ thật sự khủng khiếp. Ngọn lửa không chỉ chiếu sáng khoảng tối mịt mùng nữa. Nó đã chạy tới tận bức tường phía sau, soi rõ một kết cấu chống cháy đồ sộ. Người bảo vệ chưa bao giờ được phép vào bên trong Khoang 5, nhưng anh biết rất rõ kết cấu đó là gì.

Khối vuông.

Phòng thí nghiệm của Katherine Solomon.

Ngọn lửa chạy một đường thẳng băng tới cửa ngoài phòng thí nghiệm. Người bảo vệ cố gượng đứng lên, biết rất rõ rằng vệt lửa kia có thể tiếp tục chui qua cửa phòng thí nghiệm... và sẽ phát cháy bên trong. Anh ta đang định chạy đi kêu cứu thì một luồng không khí bất ngờ tràn tới.

Trong tích tắc, toàn bộ Khoang 5 rực sáng.

Người bảo vệ không bao giờ nhìn thấy quả cầu lửa hydrogen phụt lên trời, phá tung mái Khoang 5 và vọt cao hàng trăm mét trong không trung. Anh cũng không thể nhìn thấy cả cơn mưa vụn titan, thiết bị điện tử và các mảnh silicon nóng chảy từ những hộp lưu trữ của phòng thí nghiệm từ trên không rào rào trút xuống.

***

Katherine Solomon đang cho xe chạy về phía bắc thì nhìn thấy ánh sáng đột ngột nhá lên qua kính chiếu hậu. Một tiếng nổ trầm đục rền vang qua màn đêm, khiến cô giật mình.

Pháo hoa à? Cô băn khoăn. Đội áo đỏ trình diễn giờ giải lao giữa hiệp chăng?

Cô lại tập trung chú ý vào đường đi, tâm trí vẫn luẩn quẩn về cuộc gọi tới số 911 mà cô đã thực hiện từ bốt điện thoại ở một trạm bơm xăng vắng tanh vắng ngắt.

Katherine đã thuyết phục được nhân viên điều phối 911 phái cảnh sát tới SMSC để điều tra một kẻ đột nhập xăm trổ khắp mình và cô cũng mong họ tìm thấy trợ lý Trish của cô. Thêm vào đó, cô còn giục nhân viên điều phối tới kiểm tra tư gia của bác sĩ Abaddon ở Kalorama Heights, nơi cô nghĩ Peter đang bị giam giữ.

Thật không may, Katherine lại không thể gọi được tới số di động của Robert Langdon vì cô không lưu sẵn trong máy. Cho nên lúc này, chẳng còn lựa chọn nào khác là phóng đến Thư viện Quốc hội, Langdon đã báo với cô rằng anh sẽ tới đó.

Việc nhận ra nhân dạng đích thực của bác sĩ Abaddon đã làm thay đổi mọi thứ. Katherine không biết phải tin điều gì nữa. Tất cả những gì cô biết chắc là chính gã đàn ông đã sát hại mẹ cô và cháu trai của cô nhiều năm về trước nay lại bắt giam anh trai cô và tìm tới để giết cô. Gã điên loạn này là ai chứ?Hắn muốn gì? Câu trả lời duy nhất cô nghĩ ra lại chẳng có ý nghĩa gì cả. Một cái kim tự tháp ư? Điều khó hiểu không kém là tại sao gã này lại mò tới phòng thí nghiệm của cô tối nay. Nếu hắn muốn làm hại cô thì tại sao hắn không thực hiện như vậy ngay tại nhà hắn hôm nay? Tại sao phải phiền phức gửi tin nhắn và mạo hiểm vào tận phòng thí nghiệm của cô?

Ngọn lửa trong gương chiếu hậu càng lúc càng chói lọi, chớp sáng ban đầu kéo theo nó một cảnh tượng bất ngờ - một quả cầu lửa màu cam nóng bỏng bùng lên phía trên những hàng cây... và chẳng có vẻ gì gần sân Fedex của đội bóng áo đỏ cả. Lo lắng, Katherine cố gắng xác định xem phía sau những hàng cây ấy, ngay phía đông nam đại lộ là cơ sở công nghiệp nào...

Sau đó, như có tia chớp nhá lên trong óc, cô nghĩ ra.

Chương 55

Warren Bellamy khẩn trương bấm phím điện thoại di động, cố gắng liên lạc với ai đó có thể giúp họ, bất kỳ ai.

Langdon nhìn Bellamy, nhưng tâm trí anh ở bên Peter, cố gắng nghĩ xem cách nào tốt nhất để tìm ra ông. Giải mã nội dung chạm khắc, kẻ bắt cóc Peter ra lệnh như vậy, nó sẽ cho ông biết nơi cất giấu báu vật vĩ đại nhất của nhân loại... Chúng ta sẽ đi cùng nhau... và thực hiện giao kèo của chúng ta...

Bellamy tắt máy, cau mày. Vẫn không ai trả lời.

- Tôi thật không hiểu nổi - Langdon lên tiếng - Cứ cho là tôi chấp nhận sự tồn tại của kho tri thức bí mật... và đúng là kim tự tháp này sẽ chỉ lối tới vị trí ngầm của nó... thì tôi phải tìm kiếm cái gì đây? Một căn hầm ư? Hay một boong ke?

Bellamy yên lặng hồi lâu rồi thở dài do dự và thận trọng đáp.

- Anh Robert này, theo những gì tôi nghe kể nhiều năm qua thì kim tự tháp dẫn tới lối vào một cầu thang xoắn ốc.

- Một cầu thang ư?

- Phải. Một cầu thang dẫn xuống lòng đất... sâu hàng trăm thước.

Langdon không tin vào tai mình. Anh cúi xuống gần Bellamy.

- Tôi nghe nói rằng kho tri thức cổ xưa được chôn ở dưới đáy.

Robert Langdon đứng lên và bắt đầu rảo bước. Một cầu thang xoáy ốc dẫn xuống lòng đất hàng trăm thước... tại Washington D. C. - Và chưa ai nhìn thấy cầu thang ấy?

- Nghe đồn có một khối đá khổng lồ chặn lối vào.

Langdon thở dài. Ý tưởng một hầm mộ được lấp kín bằng tảng đá khổng lồ bắt nguồn từ các thuyết trong Kinh thánh kể về mộ phần của Chúa Jesus. Mô típ này đã lưu truyền rất lâu rồi.

- Warren, ông cũng tin rằng cái cầu thang bí mật dẫn xuống lòng đất ấy có tồn tại hả?

- Cá nhân tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó, nhưng vài ba tín hữu Tam điểm lớn tuổi thề rằng nó tồn tại. Tôi đang cố liên lạc với một trong số những người ấy đây.

Langdon tiếp tục rảo bước, không biết phải nói gì nữa.

- Anh Robert, anh để cho tôi một nhiệm vụ khó khăn liên quan đến kim tự tháp này - ánh mắt Warren Bellamy sắt lại trong luồng sáng dìu dịu của đèn đọc sách - Tôi biết không thể ép buộc người khác tin vào những điều họ không muốn tin. Nhưng tôi hy vọng anh hiểu được nghĩa vụ của anh đối với Peter Solomon.

Phải, tôi có nghĩa vụ giúp ông ấy, Langdon nghĩ bụng.

- Tôi không cần anh tin vào sức mạnh tiềm năng của kim tự tháp.

- Tôi cũng không cần anh tin rằng ngọn tháp này sẽ dẫn lối tới một cầu thang. Nhưng tôi thật sự cần anh tin rằng anh có nghĩa vụ bảo vệ bí mật này... cho dù nó là gì - Bellamy ra dấu về phía cái gói hình hộp - Peter tín nhiệm giao chóp tháp cho anh vì tin rằng anh sẽ làm theo mong muốn của ông ấy và giữ bí mật. Giờ anh phải thực hiện đúng như vậy, cho dù phải hy sinh mạng sống của Peter.

Langdon khựng lại và xoay người.

- Sao cơ?!

Bellamy vẫn ngồi, sắc diện tái nhợt nhưng đầy quả quyết.

- Đó chính là những gì Peter muốn. Anh hãy quên ông ấy đi. Peter đã biến mất sau khi hoàn thành phần việc của mình, cố gắng hết sức để bảo vệ kim tự tháp. Còn lúc này, công việc của chúng ta là bảo đảm những nỗ lực của ông ấy không trở thành vô ích.

- Thật khó tin những lời này lại thốt ra từ miệng ông! - Langdon kêu lên phẫn nộ - Cho dù kim tự tháp có phi thường như ông nói thì hai người cũng là huynh đệ Tam điểm. Ông đã thề sẽ bảo vệ ông ấy hơn hẳn mọi thứ, kể cả tổ quốc kia mà?

- Không, Robert. Một hội viên Tam điểm phải bảo vệ tín hữu của mình trên hết mọi thứ... trừ bí mật vĩ đại mà hội chúng tôi giữ gìn cho toàn thể nhân loại. Bất kể vốn tri thức bị thất truyền này có sức mạnh như lịch sử nói hay không thì tôi cũng đã thề giữ kín nó trước những kẻ vô đạo, và tôi sẽ không trao nó cho bất kỳ ai... thậm chí là để đổi lấy mạng sống của Peter Solomon.

- Tôi biết rất rõ về Hội Tam điểm, - Langdon giận dữ nói - kể cả những chi tiết mới nhất, và tôi dám chắc hội viên không thề hy sinh mạng sống của mình vì một cái kim tự tháp đá, và tôi cũng dám chắc không ai trong số họ tin vào cầu thang bí mật dẫn xuống một kho báu chôn sâu trong lòng đất.

- Trong nhóm này lại có những nhóm khác, anh Robert ạ. Không phải ai cũng biết được mọi thứ.

Langdon thở hắt ra, cố gắng kiểm soát cảm xúc của mình. Anh, cũng như tất cả mọi người, từng nghe đồn đại về các nhóm tinh tuý ngay trong Hội Tam điểm. Tuy nhiên, điều đó đúng hay sai dường như không liên quan đến tình huống này.

- Warren, nếu kim tự tháp và cái chóp thực sự hé lộ bí mật tối thượng của Hội Tam điểm thì tại sao Peter lại kéo tôi vào cuộc? Tôi thậm chí không phải là tín hữu... chẳng hề thuộc bất kỳ nhóm nào cả.

- Tôi biết, và tôi cho rằng đó chính là lý do khiến Peter chọn anh để bảo vệ bí mật. Trước đây kim tự tháp này đã bị nhòm ngó, nhiều kẻ còn tìm cách thâm nhập vào hội của chúng tôi với những động cơ hèn hạ. Việc Peter cất giữ nó bên ngoài hội là một lựa chọn khôn ngoan.

- Ông có biết tôi cầm cái chóp không? - Langdon hỏi.

- Không hề, và nếu Peter có tiết lộ thì chỉ với một người thôi - Bellamy rút điện thoại di động ra và bấm nút gọi lại - Nhưng đến giờ, tôi vẫn chưa thể gọi được người đó - ông nhận một lời nhắn thoại và tắt máy - Chà, anh Robert, có vẻ như anh và tôi phải tự xoay xở một thời gian rồi. Sau đó chúng ta cần ra một quyết định.

Langdon nhìn chiếc đồng hồ Chuột Mickey. Đã 9 giờ 42 phút tối.

- Ông cũng biết đấy, kẻ bắt cóc Peter yêu cầu tôi giải mã kim tự tháp tối nay và nói cho gã biết nó nói gì.

Bellamy cau mày.

- Các vĩ nhân trong lịch sử đã hy sinh bản thân để bảo vệ những Bí mật cổ xưa. Anh và tôi cũng phải làm như vậy - ông ấy đứng lên - Chúng ta nên đi tiếp. Sớm hay muộn thì Sato cũng sẽ biết chúng ta ở đâu.

- Thế còn Katherine thì sao? - Langdon gặng hỏi, vẻ không muốn đi. - Tôi không thể liên lạc được với cô ấy, mà cũng chưa thấy cô ấy gọi lại.

- Rõ ràng là gặp sự cố rồi.

- Nhưng chúng ta không thể bỏ rơi cô ấy được!

- Quên Katherine đi? - Bellamy nói, giọng ra lệnh - Hãy quên Peter! Quên tất cả mọi người! Anh không hiểu sao, Robert, rằng anh đã được giao phó một nhiệm vụ nặng nề hơn tất cả chúng ta: anh, Peter, Katherine và chính tôi nữa? - ông ấy chằm chằm nhìn Langdon - Chúng ta cần tìm một nơi an toàn để giấu kim tự tháp và cái chóp này thật xa khỏi...

Tiếng kim loại loảng xoảng rất to vọng vào từ hướng đại sảnh.

Bellamy xoay người, mắt đầy vẻ sợ hãi.

- Nhanh thế sao?

Langdon quay ra phía cửa. Tiếng động vừa rồi rõ ràng là phát ra từ cái xô sắt mà Bellamy đặt lên thang chắn chỗ cửa đường hầm. Họ đến tìm chúng ta rồi.

Sau đó, thật bất ngờ, tiếng loảng xoảng lại vang lên.

Lần nữa.

Rồi lần nữa.

***

Gã vô gia cư trên chiếc ghế băng trước cửa Thư viện Quốc hội dụi mắt và nhìn cảnh tượng lạ lùng đang diễn ra trước mắt gã.

Một chiếc Volvo màu trắng chồm lên vỉa hè, lạng qua lối đi bộ vắng tanh và phanh kít dưới chân lối vào thư viện. Một phụ nữ tóc sẫm màu, rất quyến rũ nhảy vội ra, lo lắng nhìn quanh một lượt và kêu lên khi chạm mắt vào gã vô gia cư.

- Anh có điện thoại không?

Quý bà ơi, tôi còn chẳng có chiếc giày bên trái đây này.

Rõ ràng đã nhận ra tình hình, người phụ nữ phăm phăm lao lên bậc cấp về phía cửa chính của thư viện. Khi đến bậc trên cùng, cô nắm lấy tay kéo và cố sức mở ba cánh cửa đồ sộ.

Thư viện đóng cửa rồi thưa quý bà.

Nhưng người phụ nữ dường như không để tâm. Cô túm lấy những tay nắm hình khuyên to nặng, giật về phía mình rồi thả ra để nó va mạnh vào cửa. Sau đó cô làm lại.

Lần nữa.

Rồi lần nữa.

Trời ạ, gã vô gia cư nghĩ bụng, chắc cô ta cần mượn sách lắm đây.

Chương 56

Khi cánh cửa đồng nặng trịch của thư viện mở ra trước mắt, Katherine cảm thấy như cửa xả cảm xúc vừa được kéo lên. Bao nỗi sợ hãi và rối loạn mà cô phải dồn nén suốt tối được dịp vỡ oà.

Bóng người đứng ở cửa thư viện là Bellamy, một người bạn tâm giao của anh trai cô. Nhưng chính người đứng lẩn trong bóng tối đằng sau ông ta mới khiến Katherine thực sự sung sướng vì được gặp mặt. Rõ ràng cả hai đều có cảm giác ấy. Mắt Robert Langdon thể hiện rõ sự nhẹ nhõm khi cô chạy lao qua cửa... nhào vào vòng tay anh.

Katherine đắm mình trong vòng tay an ủi của người bạn cũ, Bellamy đóng cửa trước lại. Tiếng sập khoá khiến Katherine cảm thấy cuối cùng mình cũng được an toàn. Nước mắt bỗng trào ra, nhưng cô cỗ kìm lại.

Langdon ôm lấy cô.

- Thế là được - anh thì thầm - Chị ổn rồi.

Vì anh đã cứu tôi đấy. Katherine muốn nói với Langdon như vậy.

Hắn đã phá tan phòng thí nghiệm... phá tan toàn bộ công trình của tôi! Bao nhiêu năm nghiên cứu... tan thành mây khói. Cô muốn kể cho anh nghe mọi việc, nhưng cô còn không kịp thở.

- Chúng ta sẽ tìm Peter - Giọng trầm ấm của Langdon dội vào ngực Katherine, khiến cô khuây khoả phần nào - Tôi hứa đấy.

- Tôi biết kẻ gây ra việc này! Katherine muốn hét to lên. Chính cái gã đã giết mẹ và cháu tôi! Cô chưa kịp giải thích thì một tiếng động bất ngờ phá tan sự im lặng của thư viện.

Tiếng loảng xoảng rất to vang lên phía dưới họ ở cầu thang tiền sảnh, nghe như thể một vật gì đó bằng kim loại vừa rơi xuống sàn đá hoa. Katherine cảm thấy các cơ của Langdon cứng lại.

Bellamy bước lên trước, vẻ mặt sợ hãi.

- Chúng ta đi thôi. Ngay bây giờ!

Katherine hoảng hốt theo Kiến trúc sư và Langdon băng qua đại sảnh về phía phòng đọc của thư viện, nơi vẫn còn sáng đèn. Bellamy nhanh chóng khoá hai lớp cửa lại phía sau họ, đầu tiên là cửa ngoài, tiếp đến là cửa trong.

Katherine còn đang thảng thốt thì Bellamy đã đẩy cô và Langdon về phía giữa phòng. Cả ba đến bên một chiếc bàn, trên đó có cái túi xách bằng da nằm dưới một ngọn đèn. Bên cạnh cái túi có một gói nhỏ hình hộp mà Bellamy cầm vội lên và bỏ vào trong túi, cùng với một...

Katherine sững lại. Một kim tự tháp ư?

Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy kim tự tháp đá có chạm khắc này, Katherine cũng cảm thấy toàn thân chấn động. Ít nhiều thâm tâm cô đã đoán biết sự thật. Cô vừa chạm trán với cái vật huỷ hoại cuộc đời cô Kim tự tháp.

Bellamy kéo khoá và đưa túi cho Langdon.

- Đừng để thứ này rời khỏi tầm mắt anh.

Một tiếng nổ bất ngờ làm chấn động cửa ngoài căn phòng. Tiếp đến là tiếng mảnh kính vụn rơi rào rào.

- Lối này! - Bellamy nói to, nhớn nhác xua cả nhóm tới chiếc bàn tròn ở chính giữa: gồm tám ô quầy quây xung quanh một cái bục bát giác lớn. Ông dẫn họ ra sau những chiếc quầy và trỏ một chỗ mở trên bục.

- Chui vào đó!

- Vào đó ư?- Langdon gặng hỏi - Họ sẽ tìm thấy chúng ta mất!

Tin tôi đi. - Bellamy nói - Không như anh nghĩ đâu.

Chương 57

Mal'akh phóng chiếc Limousine lên hướng bắc, về phía Kalorama Heights. Vụ nổ trong phòng thí nghiệm của Katherine khủng khiếp hơn gã dự đoán và rất may mắn là gã thoát ra mà không xây xước gì. Cũng tiện, tình trạng hỗn loạn tiếp theo vụ nổ đã giúp việc đào tẩu thuận lợi. Gã dễ dàng phóng chiếc Limousine qua một người bảo vệ đang cuống quít gào vào máy điện thoại.

Ta phải rời đường lớn, gã nghĩ thầm. Dù Katherine chưa kịp gọi cho cảnh sát thì vụ nổ chắc chắn cũng gây chú ý cho họ. Một gã đàn ông cởi trần lái xe Limousine khó lòng qua mắt bọn cớm.

Sau nhiều năm chuẩn bị, Mal'akh tin tưởng rằng đêm nay hoàn toàn tuỳ thuộc vào gã. Hành trình cho tới thời điểm này quả là một hành trình đằng đẵng, khó khăn. Những gì bắt đầu nhiều năm về trước trong cay đắng... sẽ kết thúc đêm nay trong vinh quang.

Vào cái đêm mọi việc bắt đầu, gã chưa mang tên Mal'akh. Thực ra, lúc ấy gã chẳng có tên gọi nào cả. Thằng tù số 37. Như hầu hết những kẻ bị tù tội ở Trại giam Soganlik tàn bạo nơi ngoại ô Istanbul, Thằng tù số 37 phải vào đây vì ma tuý.

Gã nằm trên giường trong một phòng giam bê tông tăm tối, bụng đói và rét run, tự hỏi không biết còn bị giam giữ bao lâu nữa. Người bạn tù cùng phòng, mà gã mới gặp hai mươi tư giờ trước đó, đang ngủ trên chiếc giường ngay phía trên gã. Viên quản ngục vừa tắt hết đèn đóm. Lão ta béo, nghiện rượu, không thích thú với công việc của mình và thường trút bực bội lên đám tù nhân.

Khoảng gần 10 giờ thì Thằng tù số 37 nghe thấy tiếng trò chuyện vọng qua đường ống thông hơi. Giọng nói thứ nhất không lẫn đi đâu được đó là giọng cắm cảu, chói lói của tay quản ngục, rõ ràng không thích thú gì việc bị đánh thức dậy lúc khuya khoắt.

- Vâng, vâng, ngài vừa đi cả chặng đường dài, - lão nói - nhưng không có chuyện thăm nom trong tháng đầu tiên. Quy định của Nhà nước mà. Không có ngoại lệ.

Giọng đáp lại rất nhẹ nhàng và lịch thiệp, mà cũng đầy đau khổ.

- Con trai tôi có được an toàn không?

- Nó nghiện ma tuý.

- Nó có được đối xử tử tế không?

- Cũng ổn, - lão quản ngục nói - Đây có phải là khách sạn đâu.

Một khoảng im lặng tái tê.

- Ông biết Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ sẽ yêu cầu dẫn độ mà.

- Vâng, vâng, họ luôn làm như vậy. Người ta sẽ đồng ý thôi, mặc dù khâu giấy tờ thủ tục có thể làm chúng ta mất đến vài tuần... hoặc thậm chí cả tháng... còn tuỳ.

- Tuỳ cái gì?

- Chà - lão quản ngục đáp - chúng tôi rất thiếu nhân viên - Lão dừng lại - Dĩ nhiên, thỉnh thoảng các bên liên quan như ngài quyên góp một số khoản cho nhân viên nhà lao để giúp chúng tôi thúc đẩy mọi việc nhanh hơn.

Vị khách nín lặng.

- Ngài Solomon - lão quản ngục nói tiếp, giọng hạ thấp - với một người mà tiền bạc không thành vấn đề như ngài, luôn có rất nhiều lựa chọn. Tôi quen khối người trong chính phủ. Nếu ngài hợp tác với tôi, chúng ta có thể đưa con trai ngài ra khỏi đây... ngay ngày mai, sạch sẽ hoàn toàn. Thằng bé thậm chí còn không hề bị truy tố khi về nước.

Người kia trả lời ngay.

- Quên gợi ý của ông đi, tôi không định dạy cho con trai tôi biết rằng tiền có thể giải quyết được mọi rắc rối hoặc là cuộc đời không cần biết đến trách nhiệm, đặc biệt là với một vấn đề nghiêm trọng thế này.

- Ngài muốn bỏ thằng bé lại đây sao?

- Tôi muốn nói chuyện với nó. Ngay bây giờ.

- Tôi đã thông báo rồi, chúng tôi cớ quy định. Không thể gặp gỡ gì hết... trừ phi ngài thu xếp phóng thích cho nó ngay lập tức.

Sự im lặng lạnh lùng kéo dài một lúc.

- Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ sẽ liên hệ với ông. Hãy giữ an toàn cho Zachary. Tôi tin nó sẽ lên máy bay về nước trong tuần tới. Chào ông.

Cửa đóng sầm lại.

Thằng tù 37 không tin vào tai mình. Sao lại có loại bố bỏ con trai mình ở cái địa ngục này để dạy cho nó một bài học chư? Peter Solomon thậm chí còn không chấp nhận lời đề nghị tẩy sạch lý lịch của Zachary.

Khuya hôm đó, nằm thao thức trên giường, Thằng tù số 37 đã nhận ra cách để tự giải thoát mình. Nếu tiền là thứ duy nhất khiến một thằng tù mất tự do thì Thằng tù số 37 sẽ có tự do. Peter Solomon có thể không chịu chi tiền nhưng, đúng như bất kỳ ai đã từng đọc các báo lá cải đều biết, con trai ông ta, Zachary, cũng có rất nhiều tiền.

Ngày hôm sau, Thằng tù số 37 nói chuyện riêng với lão quản ngục và đề xuất một kế hoạch, một âm mưu táo bạo, khéo léo sẽ đem lại cho cả hai đúng những gì chúng muốn.

Zachary Solomon phải chết thì kế hoạch mới có kết quả. - Thằng tù số 37 giải thích - Nhưng chúng ta đều có thể biến mất ngay lập tức. Ông cứ lui về quần đảo Hy Lạp. Ông sẽ chẳng bao giờ phải nhìn lại nơi này nữa.

Sau khi thảo luận, hai tên bắt tay nhau.

Chỉ ít lâu nữa Zachary Solomon sẽ chết, Thằng tù số 37 nghĩ, mỉm cười khi thấy mọi việc quá dễ dàng.

Hai ngày sau, Bộ Ngoại giao liên hệ với gia đình Solomon để thông báo tin dữ. Những bức ảnh chụp trong tù cho thấy xác con trai họ bị đánh đập dã man, nằm co quắp và bất động trên sàn phòng giam. Đầu bị nện mạnh bởi một thanh sắt, phần cơ thể còn lại bằm dập không tưởng tượng nổi. Có lẽ nó bị tra tấn rồi bị giết. Nghi can chính là tay quản ngục, kẻ đã biến mất, có lẽ cùng với tất cả tiền bạc của thằng bé bị sát hại. Zachary đã ký giấy tờ chuyển toàn bộ tiền bạc của mình sang một tài khoản bí mật và tài khoản này được rút hết ngay sau cái chết của nó. Không dò ra nổi tiền chảy đi đâu.

Peter Solomon bay sang Thổ Nhĩ Kỳ bằng máy bay riêng và trở về cùng với bình tro hài cốt của con trai để an táng trong nghĩa trang gia đình Solomon. Người ta không tìm thấy lão quản ngục. Sẽ không bao giờ thấy, Thằng tù số 37 biết rõ điều đó. Thân hình phì nộn của lão Thổ giờ đang yên vị dưới đáy biển Marmara, xực lũ ghẹ xanh di cư tới qua Vịnh Bosporus. Toàn bộ tài sản khổng lồ thuộc về Zachary Solomon đã được chuyển sang một trương mục ngân hàng hoàn toàn bí mật. Thằng tù số 37 lại trở thành người tự do, một người tự do với khối tài sản khổng lồ.

Các quần đảo ở Hy Lạp thật là thiên đường. Với ánh sáng. Nước. Và đàn bà.

Chẳng có gì là không mua được bằng tiền - nhân dạng mới, hộ chiếu mới, hy vọng mới. Gã chọn một cái tên Hy Lạp là Andros Dareios, Andros nghĩa là "chiến binh", còn Dareios nghĩa là "giàu có". Những đêm tăm tối trong tù khiến gã khiếp sợ, và Andros thề sẽ không bao giờ quay lại nơi ấy. Gã cạo trọc đầu, đoạn tuyệt hoàn toàn với thề giới ma tuý, bắt đầu một cuộc đời mới và khám phá những khoái lạc trần tục chưa hề nghĩ đến trước kia. Cảnh thanh bình một mình dong buồm trên biển Aegean xanh như mực trở thành cơn nghiện, khoái cảm khi hút chất dịch trên món thịt cừu nướng kiểu Hy Lạp trở thành niềm đam mê, và trò nhảy từ trên vách đá xuống những suối nước ngầu bọt ở Mykonos trở thành ma tuý mới của gã.

Ta đã phục sinh.

Andros mua một biệt thự sang trọng trên đảo Syros và sinh sống bên những con người lịch lãm tại thị trấn Possidonia. Cộng đồng mới này không chỉ giàu có mà còn rất văn minh và hoàn hảo về thể chất.

Những người hàng xóm của gã vô cùng tự hào với hình thể và trí tuệ của họ, mà cái sự hãnh diện đó rất dễ lây lan. Kẻ mới đến đột nhiên thấy mình cũng hăng hái tập chạy trên bãi biển, tắm nắng để cho cơ thể xanh xao trở nên dạn dày với nắng gió, và chịu khó đọc sách.

Andros đọc trường ca Odyssey của Homer, say mê hình ảnh những con người mình đồng da sắt mạnh mẽ chiến đấu trên quần đảo này.

Ngày hôm sau, gã bắt đầu tập tạ, ngạc nhiên khi thấy ngực và tay nở nang rất nhanh. Dần dà, gã cảm nhận ánh mắt phụ nữ thường hướng về phía mình. Sự ngưỡng mộ là một thứ tạo men say, gã thèm được nở nang hơn nữa, và đúng như vậy. Với sự hỗ trợ của các loại steroid trộn với hormone tăng trưởng bán ngoài chợ trời cùng những giờ miệt mài tập tạ, Andros đã biến đổi mình thành một người mà gã chưa bao giờ hình dung ra - một mẫu đàn ông hoàn hảo. Gã phát triển cả về chiều cao và cơ bắp, ngực căng phồng, chân tay gân guốc nở nang, nước da rám nắng đẹp tuyệt vời.

Tất cả mọi người đều phải ngắm nhìn.

Nhưng như đã được cảnh báo trước, các loại steroid và hormone không chỉ làm cơ thể Andros thay đổi mà còn tác động cả vào thanh quản, khiến giọng gã thành lào phào, nhẹ hẫng nhưng điều đó lại làm cho gã cảm thấy mình thêm phần bí ẩn. Cái chất giọng nhẹ, gây tò mò, kết hợp với cơ thể mới cùng tiền bạc của gã, và việc gã không chịu nói về quá khứ bí ẩn của mình, khác nào một thứ bùa mê đối với đám phụ nữ. Họ sẵn sàng hiến mình, và gã làm cho tất cả thoả mãn, từ những người mẫu thời trang tới đảo để chụp ảnh, những sinh viên đại học khêu gợi đi nghỉ mát đến những bà vợ cô đơn của hàng xóm láng giềng, đôi khi cả mấy cậu choai choai nữa. Bọn họ luôn đầy khát khao.

Ta là một kiệt tác.

Tuy nhiên, năm tháng qua đi, những cuộc phiêu lưu tình ái của Andros bắt đầu bớt dần tính ly kỳ. Mọi thứ khác cũng vậy. Hòn đảo thôi hấp dẫn, sách vở không còn thú vị, và thậm chí những buổi hoàng hôn đẹp mê hồn nhìn từ biệt thự cũng chán ngắt. Biết làm thế nào bây giờ? Hắn chỉ mới hai mươi tư tuổi và gã chưa cảm thấy già. Cuộc đời này còn những gì nữa? Gã đã nhào nặn cơ thể mình thành một kiệt tác, đã bồi bổ kiến thức và nuôi dưỡng trí tuệ mình bằng văn hoá, đã biến căn nhà của mình thành thiên đường, và vui thú với bất kỳ ai mà gã muốn.

Nhưng lạ thay, gã cảm thấy trống rỗng hệt như lúc còn ngồi trong nhà tù ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Ta thiếu thứ gì?

Vài tháng sau, câu trả lời đến với gã.

Andros đang ngòi một mình trong biệt thự, lơ đãng dò các kênh truyền hình phát vào lúc nửa đêm, thì tình cờ chọn tới một chương trình nói về những bí mật của Hội Tam điểm. Chương trình rất tệ, đưa ra nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời, nhưng gã lại thấy vô cùng thích thú với vô số luận điểm hoài nghi xung quanh hội ái hữu này.

Người dẫn chương trình đề cập hết huyền thoại này đến huyền thoại khác.

Hội Tam điểm và Trật tự thế giới mới...

Quốc ấn đầy tinh chất Tam điểm của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ...

Tổng bộ P2 của Hội Tam điểm...

Những bí mật thất truyền của Hội Tam điểm...

Kim tự tháp Tam điểm...

Andros giật mình nhổm dậy. Kim tự tháp. Người dẫn chương trình bắt đầu kể lại chi tiết câu chuyện về một kim tự tháp bằng đá bí ẩn có những dòng chữ khắc đã được mã hoá hứa hẹn dẫn tới nhiều tri thức thất truyền cùng nguồn sức mạnh vô biên. Câu chuyện có phần hoang đường ấy gợi gã nhớ lại một ký ức xa xăm... một hồi tưởng mờ nhạt về thời kỳ tăm tối. Andros nhớ ra rằng Zachary Solomon đã từng nghe cha mình nhắc đến một kim tự tháp huyền bí.

Hay chính là nó? Andros căng óc lục lại các chi tiết.

Khi chương trình kết thúc, gã bước ra ban công, để không khí mát mẻ giúp tâm trí khôi phục sự sáng láng. Giờ thì gã nhớ ra nhiều hơn, và khi hồi ức hiện về trọn vẹn, gã cảm thấy có một phần sự thật trong huyền thoại này. Nếu đúng như vậy thì Zachary Solomon - mặc dù đã chết từ lâu - vẫn có chỗ để tận dụng.

Ta còn gì để mất đâu?

Ba tuần sau, kế hoạch được vạch ra rất kỹ lưỡng, Andros đứng trong gió lạnh cắt thịt bên ngoài nhà kính tại tư gia Solomon ở Potomac. Qua lớp kính, gã nhìn thấy Peter Solomon đang trò chuyện và cười với em gái ông. Rõ ràng họ chẳng ngại ngùng gì mà không quên đi Zachary, gã nghĩ bụng.

Trước khi kéo chiếc mặt nạ trượt tuyết xuống, Andros hít một chút cocaine, lần đầu tiên sau nhiều năm không dùng, cảm giác táo tợn quen thuộc trở về với gã. Andros rút một khẩu súng, sử dụng chiếc chìa khoá cũ để mở cửa, và bước vào trong.

- Chào cả nhà Solomon.

Rủi thay, đêm hôm đó lại diễn ra không đúng như kế hoạch. Thay vì đoạt được kim tự tháp - cái mục tiêu khiến gã mò đến - gã lại bị dính đạn và phải chạy tháo thân qua bãi cỏ phủ đầy tuyết về phía khu rừng gần đó. Gã rất ngạc nhiên thấy Peter Solomon đuổi theo đằng sau, tay vung vẩy khẩu súng. Andros lao vào rừng, chạy men theo lối mòn dọc một khe suối sâu. Tít phía dưới, tiếng thác nước đổ ầm ầm trong không khí mùa đông lạnh lẽo. Gã chạy qua một khu trồng toàn cây tùng và ngoặt sang trái, vài giây sau, gã trượt xuống lối đi tuyết phủ dày, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.

Lạy Chúa!

Chỉ vài bước chân nữa là con đường kết thúc, lao thẳng xuống dòng sông băng giá phía dưới. Tảng đá lớn ở cạnh đường vẫn còn nguyên nét khắc vụng về của một bàn tay trẻ dại: CẦU CỦA ZACH

Phía bên kia khe suối, con đường lại chạy tiếp. Cây cầu đâu? Ma tuý trong người không còn tác dụng nữa. Ta mắc kẹt rồi! Hoảng hốt, Andros quay người chạy ngược lên lối mòn, nhưng Peter Solomon đã đứng chắn trước mặt, thở hổn hển, tay vẫn lăm lăm khẩu súng.

Andros nhìn khẩu súng và lùi lại một bước. Từ chỗ gã xuống dòng suối băng phủ kín phải cao ít nhất 15 mét nữa. Hơi nước phía đầu nguồn thác nước bốc lên ngùn ngụt, khiến gã lạnh thấu xương.

- Cây cầu của Zach mục nát từ lâu rồi. - Solomon nói - Nó là đứa duy nhất lần mò xa tới tận đây - ông cầm chắc khẩu súng - Vì sao mày giết hại con tao?

- Nó chẳng là gì cả, - Andros đáp - Một thằng nghiện ma tuý. Tôi làm thế là ban phước cho nó đấy.

Solomon tiến lại gần hơn, khẩu súng nhằm thẳng vào ngực Andros.

- Có lẽ tao cũng ban phước như vậy cho mày - Giọng ông dữ tợn đến ngạc nhiên. "Mày đánh đập con trai tao tới chết. Một con người sao lại làm việc đó?

- Con người làm những việc không ai nghĩ tới khi bị dồn vào đường cùng.

- Mày đã giết hại con trai tao!

- Không, - Andros đáp, vẻ giận dữ - Chính ông đã giết con trai ông. Làm gì có loại người bỏ mặc con trai trong tù khi có khả năng giải thoát cho nó! Chính ông đã giết con trai ông! Không phải tôi.

- Mày không biết gì cả! - Solomon quát lên, giọng đầy đau đớn.

Ông nhầm rồi, Andros nghĩ thầm. Tôi biết tất cả.

Peter Solomon tiến lại gần hơn, chỉ còn cách năm thước, súng vẫn chĩa thẳng. Ngực Andros bỏng rát, gã thấy rõ là mình đang chảy máu rất ghê gớm, hơi ấm đang lan xuống bụng. Gã ngoảnh nhìn vực sâu phía sau. Không thể được. Gã quay lại phía Solomon.

- Tôi hiểu ông nhiều hơn ông nghĩ đấy - gã thì thào - Tôi biết ông không phải loại máu lạnh giết người.

Solomon bước lại gần hơn, ngắm thật chính xác.

- Tôi cảnh cáo ông, - Andros nói - nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông suốt đời.

- Vậy mày đã được như ý rồi - Nói xong. Solomon nổ súng.

***

Khi phóng chiếc Limousine đen về phía Kalorama Heights, kẻ giờ đây tự gọi mình là Mal'akh hồi tưởng lại điều kỳ diệu đã giúp gã thoát khỏi cái chết cầm chắc tại khe suối băng giá đó. Gã đã được chuyển thân mãi mãi. Phát súng chỉ vang xa trong khoảnh khắc nhưng ảnh hưởng của nó thì còn tác động qua hàng chục năm. Cơ thể gã, từng rám nắng gió và rất hoàn hảo, nay đầy sẹo... những vết sẹo mà gã che giấu bên dưới các biểu tượng xăm trổ dùng làm đặc điểm nhận dạng mới.

Ta là thiên thần Mal'akh.

Đây đúng là số mệnh của ta từ lâu.

Gã đã đi qua lửa đỏ, bị biến thành tro tàn, và giờ đây lại hồi sinh... chuyển thân một lần nữa. Đêm nay sẽ là bước cuối cùng trong hành trình dài và phi thường của gã.

Chương 58

Lực lượng Đặc biệt chế tạo được một loại chất nổ có biệt danh Key4, chuyên dùng để mở những cánh cửa khoá kín với mức độ thiệt hại nhỏ nhất. Thành phần chủ yếu gồm cyclotrimethylenetrinitramine và chất làm dẻo diethylhexyl, về cơ bản là một mảnh C-4 quấn trong mấy tờ giấy mỏng để nhét vào rầm cửa. Thứ chất nổ này rất đắc dụng với trường hợp phòng đọc sách tối nay.

Trưởng nhóm, đặc vụ Turner Simkins, bước qua tàn tích của những cánh cửa, nhìn khắp căn phòng bát giác rộng mênh mông xem có dấu vết di chuyển nào không. Chẳng có gì cả.

- Tắt hết đèn đi, - Simkins nói.

Đặc vụ thứ hai tìm thấy bảng điện trên tường, bèn với tay tắt các công tắc khiến căn phòng chìm trong bóng tối. Cả bốn người đồng loạt kéo mặt nạ dạ hành, điều chỉnh cặp kính đeo trên mắt. Họ đứng im, quan sát căn phòng đang hiện ra dưới sắc xanh lục của lớp kính đi đêm.

Mọi vật vẫn không thay đổi.

Chẳng ai lao ra trong bóng tối cả.

Những kẻ trốn chạy có lẽ không có vũ khí, nhưng cả đội tác chiến vẫn tiến vào phòng với súng ống sẵn sàng. Trong bóng tối, súng của họ phát ra bốn tia la-de đầy hăm doạ. Cả nhóm quét những chùm tia sáng theo mọi hướng, qua nền nhà, trên những bức tường phía xa, ra ban công, xuyên qua bóng tối. Thông thường, bóng dáng một khẩu súng ngắm bắn bằng tia la-de trong căn phòng tối om là đủ để buộc đối phương đau hàng ngay lập tức.

Nhưng tối nay không như vậy.

Vẫn không có gì chuyển động.

Đặc vụ Simkins giơ tay, làm hiệu cho đồng đội tiễn vào. Cả bọn lặng lẽ toả ra. Simkins thận trọng men theo lối đi chính giữa, đồng thời bật công tắc trên kính của mình, kích hoạt thiết bị bắt hình bằng nhiệt chi tiết mới nhất bổ sung cho vũ khí của CIA. Công nghệ bắt hình bằng nhiệt ra đời đã nhiều năm, nhưng những tiến bộ gần đây về kỹ thuật thu nhỏ, cảm biến vi sai và tích hợp nguồn kép còn góp phần tạo ra một thế hệ thiết bị hỗ trợ thị lực rất mới, tăng cường khả năng quan sát của các đặc vụ tác chiến.

- Chúng ta nhìn được trong bóng tối. Nhìn xuyên qua tường, và giờ đây còn nhìn ngược cả thời gian.

Thiết bị bắt hình bằng nhiệt nhạy với độ chênh nhiệt đến mức có thể xác định được không chỉ vị trí của một người... mà cả vị trí trước đó của họ. Khả năng nhìn thấu quá khứ là tiện ích quý báu hơn hết thảy Và đêm nay, một lần nữa nó lại chứng tỏ giá trị của mình. Lúc này, đặc vụ Simkins đã phát hiện được mấy hình ảnh nhiệt tại một chiếc bàn đọc sách. Hai chiếc ghế gỗ phát quang trong kính anh ta, toả ra thứ ánh sáng màu đỏ-tím, chứng tỏ chúng ấm hơn những chiếc khác trong phòng. Đèn bàn toát ánh sáng màu cam. Rõ ràng có hai người đã ngồi ở chiếc bàn này, nhưng vấn đề là hiện nay họ đã đi về hướng nào.

Anh ta tìm được câu trả lời của mình ở giữa phòng, chỗ có dãy quầy quây lấy một chiếc bục lớn. Trên quầy in vết tay đỏ lờ mờ.

Simkins giơ cao vũ khí, tiến về phía cái bục bát giác, quét thiết bị nhìn la-de qua bề mặt của nó. Anh ta vòng quanh bục và phát hiện một chỗ để ngỏ ở mé bên. Chẳng lẽ họ rúc được vào cái bục này. Tay trưởng nhóm đặc vụ nhìn kỹ viền cửa và phác giác một vết tay nữa đang phát sáng. Rõ ràng có người đã vịn mép chỗ hổng để chui vào bên trong cái bục.

Giờ thì không cần giữ im lặng nữa.

- Có dấu nhiệt! - Simkins nói to, chĩa súng vào chỗ hổng - Các cánh dồn lại đi!

Hai nhân viên mé bên tiến vào từ hai hướng đối diện nhau, vây chặt lấy bục bát giác.

Simkins tiến về phía chỗ hổng. Còn cách mười bước chân, anh ta đã phát hiện ra một nguồn sáng bên trong.

- Có ánh sáng trong khối hộp - anh ta nói to, hy vọng lời mình sẽ buộc ngài Bellamy và ngài Langdon phải chui ra khỏi bục, tay giơ cao trên đầu.

Chẳng có gì xảy ra.

Được chúng tôi sẽ có cách khác.

Simkins tiến lại gần chỗ hổng, và nghe thấy tiếng ầm ì mơ hồ vọng ra. âm thanh ấy rất giống tiếng máy chạy. Simkins dừng lại, cố gắng nghĩ xem vật gì tạo ra tiếng ồn trong một không gian chật chội như vậy. Anh ta nhích tới gần hơn, giờ đã nghe rõ tiếng ồn đó quả đúng là tiếng máy chạy. Nhưng khi anh ta tiếp cận chỗ hổng, mọi ánh sáng trong bục liền tắt ngấm.

Cảm ơn quý vị, anh ta thầm nghĩ, điều chỉnh lại thiết bị nhìn đêm của mình. Chúng tôi vẫn chiếm lợi thế cơ mà!

Đến chỗ hổng. anh ta ngó vào, hoàn toàn bất ngờ trước cảnh tượng bên trong. Đây không phải là một cái bục mà đúng hơn là phần trần được nâng cao của một cầu thang dốc dẫn xuống căn phòng phía dưới. Tay đặc vụ chĩa súng xuống cầu thang và bắt đầu dò dẫm tiến.

Tiếng máy chạy càng lúc càng to.

Đây là chỗ quái nào?

Căn phòng phía dưới phòng đọc là một không gian nhỏ, đầy máy móc. Tiếng ầm ì đúng là tiếng máy, Simkins chưa đoán ra nó hoạt động vì Bellamy và Langdon kích hoạt hay vẫn luôn vận hành như vậy. Nhưng dù thế nào thì cũng chẳng có gì khác nhau cả. Những kẻ chạy trốn đã để lại dấu nhiệt trên lối thoát duy nhất của căn phòng, đó là một cánh cửa thép nặng trịch với bảng khoá còn hiện rõ bốn dấu tay trên các phím số. Những đốm sáng màu cam loe ra quanh mép cửa, chứng tỏ rằng mé bên kia có ánh sáng.

- Phá cửa - Simkins ra lệnh - Đây chính là lối thoát của họ.

Mất có tám giây để kích nổ một tờ thuốc nổ Key4. Khi khói tan, cả nhóm tác chiến cùng trợn mắt nhìn cái thế giới ngầm lạ lùng mà ở đây người ta gọi là "kho sách".

Các giá sách của Thư viện Quốc hội trải dài hàng dặm, hầu hết đều nằm dưới lòng đất. Những dãy sách bất tận trông như một dạng ảo giác "vô hạn" trong gương.

Một tấm biển đề rõ:

KHU VỰC KIỂM SOÁT NHIỆT ĐỘ.

Đề nghị luôn đóng chặt cánh cửa này!

Simkins đẩy mấy cánh cửa đã bị phá hỏng và cảm nhận không khí mát mẻ phía trước. Anh ta phì cười. Không ngờ lại dễ đến thế này.

Trong các môi trường có kiểm soát nhiệt độ, dấu nhiệt thường hiện lên rõ rệt chẳng khác gì ánh sáng mặt trời, thiết bị nhìn la-de lập tức phát hiện một vệt đỏ trên tay vịn trước mặt, chắc hẳn Bellamy và Langdon đã nắm lấy trong khi chạy qua.

- Các vị có thể chạy. - Simkins tự nhủ - nhưng các vị không trốn nổi đâu.

Cả nhóm tiến vào mê cung giá sách, Simkins nhận ra rằng sân chơi này rất thuận lợi cho anh ta, thậm chí chẳng cần dùng đến thiết bị nhìn đêm để xác định đối phương nữa. Trong điều kiện bình thường, mê cung kiểu này sẽ là một nơi trú ẩn rất tốt, nhưng Thư viện Quốc hội sử dụng loại đèn kích hoạt nhờ cử động của người để tiết kiệm năng lượng, và lộ trình đào tẩu của những kẻ chạy trốn lúc này hiện rõ như một đường băng. Một dải đèn chạy dài về phía xa, thỉnh thoảng lại đổi hướng.

Tất cả các nhân viên công lực đều tháo thiết bị nhìn đêm của họ. Với những đôi chân đã được rèn luyện kỹ càng, cả nhóm bám sát theo lối đi sáng đèn đó, luồn lách qua mê cung sách dường như bất tận. Chỉ lát sau. Simkins bắt đầu thấy ánh sáng nhấp nháy trong khoảng tối trước mặt. Chúng ta tới rồi. Anh ta chạy nhanh hơn, cho tới khi nghe thấy tiếng bước chân và tiếng thở nặng nhọc phía trước. Cuối cùng anh ta phát hiện một mục tiêu.

- Tôi nhìn thấy rồi! - anh ta tri hô.

Cái bóng cao lênh khênh của Warren Bellamy hiện rõ. Quý ông da đen ăn mặc chải chuốt loạng choạng luồn qua các giá sách, rõ ràng là thở không nổi nữa. Không ích gì đâu, ông già ạ.

- Dừng lại ngay, ông Bellamy! - Simkins hô to.

Bellamy vẫn tiếp tục chạy, ngoặt gấp, len lách qua những dãy sách. Mỗi lần ông rẽ, đèn trên đầu lại sáng lên.

Khi cả nhóm chỉ còn cách Bellamy chừng hai mươi thước, họ lại hô to nhưng viên Kiến trúc sư vẫn không dừng bước.

- Hạ ông ta đi! - Simkins ra lệnh.

Một đặc vụ vung khẩu súng an toàn của cả đội lên và bóp cò.

Loại đạn có biệt danh Dây nhợ Ngớ ngẩn vọt ra và quấn chặt lấy chân Bellamy, tên gọi như vậy nhưng nó chẳng hề ngớ ngẩn tí nào.

Là một công nghệ quân sự được sáng chế tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Sandia, "thứ công cụ vô hiệu hoá" không gây chết người này là một sợi polyurethane dính lớp nhớp có khả năng đông cứng ngay khi tiếp xúc, tạo thành một mạng chất dẻo cứng ngắc bám ở khoeo chân của kẻ chạy trốn. Hiệu ứng đối với mục tiêu di chuyển tương đương với cây gậy đâm ngang nan hoa xe đạp đang quay.

Chân Bellamy bị chụp dính khi đang nhấc lên, ông chúi người về phía trước và ngã nhào xuống sàn, trượt thêm mười bước nữa vào lối đi tối om rồi mới dừng lại được, những ngọn đèn trên đầu ông nhấp nháy lúc sáng lúc tắt.

- Tôi sẽ giải quyết Bellamy, - Simkins hô to - Các anh tiếp tục đuối theo Langdon! Hắn ta ở phía trước đấy...

Tay trưởng nhóm bỗng im bặt vì phát hiện ra những giá sách trước mặt Bellamy hoàn toàn tối om. Rõ ràng, không hề có ai khác chạy cùng viên Kiến trúc sư. Ông ta chỉ có một mình thôi sao.

Bellamy nằm sấp, thở nặng nhọc, chân và mắt cá dính đầy thứ chất dẻo đã đông cứng. Tay trưởng nhóm đặc vụ bước lại và dùng chân lật ông già nằm ngửa lên.

- Hắn đâu rồi?! - anh ta hỏi.

Môi Bellamy rớm máu do cú ngã.

- Ai ở đâu rồi?

Đặc vụ Simkins nhấc chân lên và đặt giày ngang chiếc cà vạt bằng lụa của Bellamy. Sau đó, anh ta nhấn chân xuống.

- Tin tôi đi, Bellamy, ông không muốn chơi trò này với tôi đâu.

Chương 59

Robert Langdon cảm thấy mình như một xác chết.

Anh nằm ngửa, tay khoanh trên ngực, mắc cứng trong một không gian tù túng, tối như bưng. Katherine nằm cạnh đó trong tư thế tương tự, ngay trên đầu anh, nhưng Langdon không thể nào nhìn thấy cô.

Anh nhắm mắt lại để khỏi phải trông thấy, dẫu là trong một thoáng, tình trạng ngột ngạt của mình.

Không gian xung quanh anh thật chật chội.

Rất chật chội.

Mới sáu mươi giây trước, khi những cánh cửa đôi của phòng đọc sách đổ rầm xuống, anh và Katherine đã theo Bellamy chui vào khối tủ bát giác, chạy xuống cầu thang và ẩn mình trong khu vực ít ai ngờ bên dưới.

Langdon nhận ra ngay họ đang ở đâu. Trung tâm hệ thống lưu thông sách của thư viện. Tương tự hình ảnh thu nhỏ của khu trả hành lý ở sân bay, phòng lưu thông sách có rất nhiều băng chuyền bố trí theo nhiều hướng khác nhau. Thư viện Quốc hội được sắp xếp ở ba toà nhà tách biệt nên sách vở đưa lên phòng đọc thường phải vận chuyển bằng băng chuyền qua cả quãng dài những đường hầm trong lòng đất.

Bellamy lập tức băng ngang phòng đến một cánh cửa sắt, nhét thẻ cá nhân vào, bấm một chuỗi phím rồi đấy mạnh cửa. Không gian phía sau tối om, nhưng khi cửa mở, một loạt đèn cảm biến chuyển động lập tức nhấp nháy sáng.

Ngắm không gian trước mắt, Langdon nhận ra mình đang nhìn thấy thứ mà rất ít người từng thấy. Các giá sách của Thư viện Quốc hội. Anh phấn chấn hơn về kế hoạch của Bellamy. Còn nơi ẩn náu nào tốt hơn một mê cung khổng lồ?

Thế nhưng Bellamy không dẫn họ về phía các giá sách. Thay vào đó ông chặn một cuốn sách vào khe cửa để giữ cho cửa mở rồi ngoảnh lại nói với hai người.

- Tôi hy vọng có thể giải thích được nhiều hơn với hai người, nhưng chúng ta không đủ thời gian - ông đưa thẻ của mình cho Langdon - Anh sẽ cần cái này.

- Ông không đi cùng chúng tôi sao? - Langdon hỏi.

Bellamy lắc đầu.

- Chúng ta mà cứ túm tụm với nhau thì chẳng làm ăn gì được cả. Điều quan trọng nhất là giữ kim tự tháp và phần chóp ở nơi an toàn.

Langdon không nhìn thấy đường thoát nào ngoại trừ lối thang bộ dẫn trở lại phòng đọc.

- Thế ông định đi đâu?

- Tôi sẽ lừa họ vào những giá sách để tránh xa chỗ hai người, - Bellamy nói - Đó là tất cả những gì tôi có thể làm để giúp các vị thoát ra.

Langdon chưa kịp hỏi xem anh và Katherine có thể đi, đâu thì Bellamy đã nhấc một thùng sách khá nặng ra khỏi băng chuyền.

- Nằm lên băng chuyền đi - ông dặn - Để tay gọn vào nhé.

Langdon trố mắt nhìn. Ông đùa đấy à! Băng chuyền trải ra thêm một đoạn ngắn rồi biến mất sau một cái lỗ đen ngòm trên tường. Cái lỗ trống khá lớn, đủ cho cả một thùng sách to lọt qua, nhưng cũng chí đến mức ấy thôi, không rộng hơn. Langdon liếc lại những giá sách.

- Thôi mà, - Bellamy nói - Đèn cảm biến chuyển động sẽ làm anh không trốn nổi đâu.

- Có dấu nhiệt! - một giọng nói vang lên phía trên - Các cánh dồn lại đi!

Rõ ràng Katherine đã hiểu được những việc cần làm. Cô leo lên băng chuyền, đầu chỉ cách cái lỗ có vài bước chân. Cô đặt chéo hai tay trên ngực như một xác ướp nằm trong quách.

Langdon đứng trơ ra.

- Robert, - Bellamy giục - dù anh không định làm vì tôi, thì cũng hãy làm vì Peter.

Giọng nói phía trên nghe đã gần hơn.

Như trong cơn mộng du, Langdon tiến lại băng chuyền. Anh quăng chiếc túi của mình lên trước rồi leo lên sau, đặt đầu ngay sát chân Katherine. Mặt chuyền cao su lạnh ngắt dưới lưng anh. Langdon trân trân nhìn trần nhà và cảm thấy mình như một bệnh nhân sắp được đưa vào máy cộng hưởng từ.

- Cứ bật điện thoại nhé, - Bellamy dặn - Sẽ có người gọi đến... và giúp anh. Cứ tin tưởng người ta.

Có người gọi đến ư? Langdon biết rằng Bellamy đã cố gắng liên hệ với ai đó nhưng không gặp, đành để lại tin nhắn. Chỉ vài phút trước, khi họ vội vã chạy xuống cầu thang xoắn trôn ốc, Bellamy cố gắng lần chót và gặp may, nhưng chỉ kịp thì thào vài câu vắn tắt bằng giọng rất vội vã rồi tắt máy.

- Cứ theo băng chuyền tới tận cùng, - Bellamy dặn - Và nhảy ra thật nhanh trước khi nó đưa các vị vòng trở lại. Dùng thẻ của tôi để thoát ra.

- Thoát ra khỏi đâu? - Langdon hỏi lại.

Nhưng Bellamy đã kéo các cần gạt. Tất cả băng chuyền trong phòng cùng rù rì khởi động. Langdon cảm thấy mình nảy lên và tiến tới trần nhà bắt đầu di chuyển phía trên.

Xin Chúa cứu con.

Khi băng chuyền tiến đến lỗ hổng trên tường. Langdon nhìn lại và thấy Warren Bellamy chạy băng qua cửa, lẩn vào giữa các giá sách.

Cửa sập lại. Một lát sau, bóng tối thư viện nuốt chửng lấy Langdon và Katherine Solomon... vừa lúc một đốm sáng la-de đỏ lòe nhảy nhót trên đường xuống cầu thang.

Chương 60

Nữ nhân viên lương thấp thuộc Phòng An ninh ưu tiên kiểm tra thật kỹ bảng ghi chép cuộc gọi để xác định địa chỉ ở Kalorama Heights. Phải đây không nhỉ? Lối xe chạy có cổng chắn trước mặt cô thuộc về một trong những khu nhà lớn nhất và yên tĩnh nhất địa bàn này, thành thử hơi lạ khi 911 lại nhận được một cuộc gọi khẩn cấp liên quan đến nó.

Đối với các cuộc gọi chưa chứng thực, 911 thường liên hệ với đơn vị an ninh khu vực trước khi huy động cảnh sát. Cô nhân viên an ninh hay nghĩ khẩu hiệu của đơn vị - "Phòng tuyến đầu tiên của các bạn" - rất dễ trở thành "báo động nhầm, giỡn chơi, chó mèo đi lạc, và lời ca than của những láng giềng lập dị". Đêm nay, như mọi khi, cô đến đây mà không hề biết chi tiết về một mối lo cụ thể nào đó. Quá nhiều so với mức lương mình được trả.

Công việc của cô chỉ đơn giản là xuất hiện cùng với ngọn đèn vàng xoay tròn nhấp nháy, ước định tài sản và báo cáo bất kỳ điều gì khác thường. Đôi khi, một chuyện chẳng đâu vào đâu cũng có thể kích hoạt hệ thống báo động nhà dân, và cô chỉ cần dùng thẻ đặc biệt của mình để cài đặt lại chương trình là xong. Tuy nhiên, ngôi nhà này lại im lìm. Không có tiếng còi báo động. Từ ngoài đường nhìn vào, tất cả đều tối om và yên tĩnh.

Cô nhân viên an ninh gọi qua hệ thống điện thoại ở cổng, nhưng không có tiếng trả lời. Cô nhập mã ưu tiên của mình để mở cổng và cho xe chạy vào. Vẫn để xe nổ máy và đèn nóc nhấp nháy, cô tiến tới cửa trước và bấm chuông. Không ai trả lời. Không ánh đèn đóm và cũng chẳng có gì chuyển động.

Miễn cưỡng làm theo đúng thủ tục, cô bật đèn pin để bắt đầu đi tuần quanh ngôi nhà, kiểm tra cửa ra vào và cửa sổ xem có dấu hiệu đột nhập không. Khi cô vòng qua góc nhà, một chiếc Limousine dài màu đen phóng ngang cửa trước, hơi giảm tốc rồi chạy tiếp. Đám hàng xóm tọc mạch đây mà.

Cô từ từ đi vòng quanh nhà, nhưng chẳng phát hiện điều gì bất thường. Ngôi nhà rộng hơn cô nghĩ, khi ra đến sân sau, cô rùng mình vì lạnh. Rõ ràng nhà không có ai.

- Trung tâm? - cô gọi qua bộ đàm - Tôi đang gọi từ Kalorama Heights. Chủ nhà đi vắng. Không có dấu hiệu bất thường. Đã kiểm tra xung quanh. Không có vết tích đột nhập. Báo động nhầm.

- Tốt rồi, - trung tâm trả lời - Chúc ngủ ngon.

Cô nhân viên an ninh giắt bộ đàm vào thắt lưng, bắt đầu bước vòng trở lại, mong chóng quay trở vào chiếc xe ấm áp của mình. Tuy nhiên đang đi, cô bỗng chú ý một thứ mà lúc trước bỏ sót - một đốm sáng màu xanh rất nhỏ phía sau nhà.

Thắc mắc, cô lần tới chỗ đó và nhìn rõ nguồn phát sáng - một ô cửa sổ con ở vị trí rất thấp, chắc chắn là ở tầng hầm của ngôi nhà. Kính cửa sổ đã được làm tối lại, hình như bằng một lớp sơn bên trong. Chắc là một kiểu phòng tối đây? Cái đốm sáng xanh mà cô nhìn thấy phát ra qua một điểm nhỏ xíu trên cửa sổ nơi sơn đen bị tróc.

Cô cúi xuống, cố gắng nhìn qua, nhưng chẳng nhìn thấy gì nhiều qua cái lỗ bé xíu đó. Cô gõ nhẹ lên cửa sổ, băn khoăn không biết liệu có ai đó đang làm việc ở trong chăng.

- Xin chào? - cô gọi to.

Không có tiếng trả lời, nhưng khi cô gõ lên cửa sổ, mảng sơn đột nhiên tróc ra và rơi xuống, giúp cô nhìn rõ mọi thứ bên trong. Cô ghé xuống, gần như áp mặt vào cửa sổ để bao quát một lượt gian hầm. Cô lập tức ước sao mình chưa từng trông thấy gì cả.

Nhân danh đức Chúa, thứ gì vậy chứ?

Cô nhân viên an ninh chết khiếp, cứ cúi lom khom ở đó một lúc, trân trối ngó cảnh tượng khủng khiếp bày ra trước mắt. Cuối cùng, tay run bắn, cô lần tìm bộ đàm đeo ở thắt lưng.

Nhưng cô chẳng bao giờ tìm thấy nó.

Một cặp kìm điện áp mạnh vào gáy cô, liền đó là cơn đau buốt chạy suốt thân thể. Các cơ co rút lại, cô ngã chúi về phía trước, thậm chí còn không kịp nhắm mắt trước khi đập mặt xuống nền đất lạnh.

Chương 61

Đêm nay không phải là lần đầu tiên Warren Bellamy bị bịt kín mắt.

Cũng như tất cả các huynh đệ Tam điểm, ông từng đội chiếc "mũ trùm" trong quá trình hành lễ để lên các cấp cao hơn của Hội. Tuy nhiên, tình trạng đó diễn ra giữa những bằng hữu đáng tin cậy. Còn tối nay thì khác. Mấy gã đàn ông tay chân thô bạo này trói nghiến ông lại, trùm một cái túi lên đầu ông và giờ đang kèm chặt ông đi qua các giá sách thư viện.

Đám đặc vụ đã đe doạ dùng vũ lực với Bellamy để truy hỏi xem Robert Langdon đang ở đâu. Biết rằng cái thân già của mình không thể chịu nổi đòn thù nên Bellamy đã nói dối họ thật nhanh.

- Langdon không hề theo tôi xuống đây! - ông vừa nói vừa gắng hớp không khí - Tôi đã bảo anh ấy chạy lên ban công và nấp sau bức tượng Moses, nhưng tôi không biết giờ anh ấy ở đâu!

Câu chuyện rõ ràng có sức thuyết phục vì hai đặc vụ vội vã chạy đuổi theo. Hai đặc vụ còn lại im lặng dẫn ông qua các giá sách.

Niềm an ủi duy nhất của Bellamy là biết rằng Langdon và Katherine đang đưa kim tự tháp đến nơi an toàn. Chỉ lát nữa sẽ có người liên lạc với Langdon và thu xếp cho anh một nơi nương náu.

Cứ tin tưởng người ta. Người ấy rất am hiểu Kim tự tháp Tam điểm và những bí mật liên quan đến nó, chẳng hạn vị trí của cầu thang xoáy bí mật dẫn xuống lòng trái đất, tới nơi cất giấu kho tri thức cổ xưa hùng mạnh đã được chôn giấu từ lâu. Khi cùng Langdon và Katherine Solomon chạy trốn khỏi phòng đọc, Bellamy đã liên lạc được với người đó, và ông tin tưởng rằng người đó hoàn toàn nắm bắt được điều ông muốn nói trong tin nhắn ngắn gọn của mình.

Lúc này, di chuyển trong bóng tối đặc quánh, Bellamy hình dung ra kim tự tháp và phần chóp bằng vàng nằm trong túi Langdon. Đã bao nhiều năm rồi, hai vật này mới xuất hiện trong cùng một căn phòng.

Bellamy không bao giờ quên được cái đêm đau đớn ấy. Đêm bắt đầu hàng chuỗi ngày tháng thống khổ của Peter. Bellamy được mời tới tư gia Solomon ở Potomac để dự lễ sinh nhật lần thứ 18 của Zachary Solomon: Zachary, mặc dù là một đứa trẻ nổi loạn, nhưng vẫn là một thành viên gia tộc Solomon, có nghĩa là tối nay, theo truyền thống gia đình, nó sẽ được nhận phần thừa kế. Bellamy là một trong những người bạn thân nhất của Peter, đồng thời cũng là một bằng hữu Tam điểm đáng tin cậy, nên được mời tham dự với tư cách nhân chứng.

Ông đến rất sớm và chờ đợi trong thư phòng riêng của Peter Solomon. Căn phòng cổ kính tuyệt vời này toát ra mùi da, mùi củi cháy, và mùi chè lá. Warren vừa ngồi xuống thì Peter dẫn cậu con trai Zachary vào phòng. Trông thấy Bellamy, thằng bé 18 tuổi gày gò cau mày.

- Ông làm gì ở đây thế?

- Làm nhân chứng ấy mà, - Bellamy đáp - Chúc mừng sinh nhật, Zachary nhé.

Thằng bé lầm bầm và nhìn đi chỗ khác.

- Ngồi xuống đi, Zach - Peter nói.

Zachary ngồi phịch xuống một chiếc ghế tựa trước bàn gỗ đồ sộ của cha mình. Solomon cài chốt cửa. Bellamy tìm một chỗ ngồi bên cạnh.

Solomon hỏi Zachary bằng một giọng nghiêm trang.

- Con có biết tại sao con ở đây không?

- Tôi nghĩ là có, - Zachary nói.

Solomon thở dài.

- Ba biết là đã lâu chúng ta không gặp nhau. Ba đã gắng hết sức để làm một người cha tốt và để chuẩn bị cho khoảnh khắc, này của con.

Zachary chẳng nói chẳng rằng.

- Con biết đấy, mọi đứa trẻ nhà Solomon, khi đến tuổi trưởng thành đều được tặng món quà thừa kế là một phần tài sản gia đình, với hy vọng nó là hạt giống... một hạt giống cho con trưởng thành và sử dụng để đóng góp vào sự phát triển của nhân loại.

Solomon đi tới một cái hốc trên tường, mở khoá và lấy ra một túi tài liệu lớn màu đen.

- Con trai, tập hồ sơ này chứa tất cả những gì cần thiết để chuyển phần tài sản thừa kế sang tên con - ông đặt nó lên bàn - Mục đích là mong con sử dụng số tiền này để xây dựng một cuộc sống ý nghĩa, thịnh vượng và bác ái.

Zachary với lấy tập hồ sơ.

- Cảm ơn.

- Gượm đã, - Peter ngăn lại, tay chặn lên tập hồ sơ - Có vài điều ba cần giải thích.

Zachary ném cho cha một cái nhìn khinh khỉnh và ngồi phịch xuống ghế.

- Có nhiều khía cạnh liên quan đến phần thừa kế của gia đình Solomon mà con chưa rõ hết - Người cha đăm đăm nhìn thẳng vào mắt Zachary - Con là con trai lớn của ba, Zachary, nghĩa là con được phép lựa chọn.

Thằng bé nhổm dậy, trông đầy hào hứng.

- Lựa chọn này có thể quyết định hướng đi tương lai của con, vì thế ba khuyên con hãy cân nhắc cho thật kỹ.

- Lựa chọn gì?

Cha nó hít một hơi thật sâu.

- Lựa chọn... tiền bạc hoặc tri thức.

Zachary nhìn cha bằng ánh mắt vô cảm.

- Tiền bạc hoặc tri thức à? Tôi chẳng hiểu.

Solomon đứng dậy, lại tiến đến cái hốc, rồi bê ra một kim tự tháp đá nặng trịch mang đầy vết chạm khắc các biểu tượng của Hội Tam điểm. Peter đặt nó lên bàn, cạnh tập hồ sơ.

- Kim tự tháp này ra đời rất lâu rồi, và được giao phó cho gia đình ta đã bao thế hệ.

- Kim tự tháp à? - Zachary chẳng lấy gì làm hứng thú.

- Con trai, kim tự tháp này là một tấm bản đồ... cho biết vị trí của một trong những kho báu thất lạc lớn nhất trên đời. Tiền nhân tạo ra bản đồ để một ngày nào có thể tìm lại kho báu - Giọng Peter trở nên đầy tự hào - Và tối nay, theo truyền thống, ba có thể giao nó cho con... với những điều kiện nhất định.

Zachary nghi ngờ ngó cái kim tự tháp.

- Kho báu gì cơ?

Bellamy dám khẳng định rằng bạn mình không mong đợi một câu hỏi sỗ sàng như thế. Tuy nhiên, Peter vẫn rất kiên nhẫn.

- Zachary, thật khó giải thích nếu như không hiểu biết nhiều. Nhưng kho báu này... về cơ bản... được gọi là những Bí ẩn Cổ xưa.

Zachary phá lên cười sằng sặc, rõ ràng cho rằng cha nó đang đùa.

Bellamy nhận ra vẻ u uất tăng lên trong mắt Peter.

- Ba không biết diễn giải thế nào cho dễ hiểu, Zach ạ. Theo truyền thống, khi một đứa trẻ nhà Solomon được 18 tuổi, nó sẽ bắt đầu những năm tháng học hành cao hơn về...

- Tôi đã bảo rồi! - Zachary vặc ngay - Tôi không thích học đại học!

- Ba không nói đến đại học, - Giọng Peter vẫn rất bình tĩnh và nhẹ nhàng - Ba đang nói về Hội Tam điểm, về một nền giáo dục tập trung vào những bí ẩn của khoa học nhân loại. Nếu con muốn cùng ba gia nhập hàng ngũ của họ, con sẽ nhận được học vấn cần thiết để ý thức được tầm quan trọng của quyết định tối nay.

Zachary đảo mắt.

- Xin miễn cho tôi bài giảng đó đi. Tôi biết tôi là thành viên đầu tiên nhà Solomon không muốn gia nhập Hội Tam điểm. Nhưng có sao? Ông không hiểu điều đó ư? Tôi không hứng thú với việc chải chuốt cùng một đám toàn những lão già!

Cha nó im lặng một lúc lâu. Bellamy nhận thấy những nếp nhăn tuổi tác đã bắt đầu xuất hiện quanh đôi mắt vẫn còn trẻ trung của Peter.

- Có ba hiểu, - cuối cùng Peter lên tiếng.- Thời đại thay đổi rồi. Ba biết rằng đối với con, Hội Tam điểm có vẻ quá xa lạ, thậm chí còn quá tẻ nhạt. Nhưng ba muốn con nhớ, rằng cánh cửa sẽ vẫn luôn rộng mở nếu con thay đổi suy nghĩ.

- Đừng phí thời gian, - Zach càu nhàu.

- Thế là đủ! - Peter ngắt lời và đứng dậy - Ba nhận thấy cuộc đời là một cuộc đấu tranh đối với con, Zachary ạ, nhưng ba không phải là cọc chỉ đường duy nhất của con. Còn có những người tốt bụng khác đang chờ con, sẵn sàng chào đón con vào Hội Tam điểm và chỉ cho con thấy những tiềm năng đích thực của bản thân.

Zachary cười khùng khục và liếc sang Bellamy.

- Có phải vì thế mà ông ở đây không, ông Bellamy? Để hai huynh đệ Tam điểm các người kéo bè kéo cánh áp đảo tôi?

Bellamy im lặng, chỉ hướng cái nhìn kính cẩn về phía Peter Solomon, như nhắc cho Zachary biết ai là người nắm quyền lực trong căn phòng này.

Zachary ngoảnh sang nhìn cha mình.

- Zach, - Peter lên tiếng - chúng ta chưa đi tới đâu cả... hãy để ba nói với con điều này. Dù con có hiểu trách nhiệm đặt lên vai mình tối nay hay không, thì gia đình vẫn có nghĩa vụ giao phó nó lại cho con - ông ra dấu về phía kim tự tháp - Bảo vệ ngọn tháp là một đặc quyên hiếm hoi. Ba khuyên con nên dành vài hôm suy nghĩ về cơ hội này rồi hẵng đưa ra quyết định.

- Cơ hội ư? - Zachary khiêu khích - Ngồi trông một hòn đá ư?

- Trên đời này có rất nhiều bí mật vĩ đại, Zach ạ, - Peter nói kèm một tiếng thở dài - Những bí mật vượt hẳn mọi tưởng tượng của con.

Ngọn tháp này bảo vệ những bí mật ấy. Quan trọng hơn là sẽ đến một lúc, biết đâu ngay trong cuộc đời con thôi, chúng ta sẽ giải mã được kim tự tháp và khai phá những bí mật bên trong. Đó là thời điểm vĩ đại cho quá trình chuyển hoá của con người... và con có cơ hội đóng một vai trò trong thời khắc ấy. Ba muốn con hãy cân nhắc thật cẩn thận. Tiền bạc rất sẵn, nhưng tri thức thì vô cùng hiếm hoi - ông ra dấu về phía tập tài liệu và sau đó về kim tự tháp - Ba mong con nhớ, rằng tiền bạc mà thiếu tri thức thì thường dẫn đến một kết cục thảm hại.

Nét mặt Zachary cho thấy nó đang nghĩ rằng cha mình loạn trí.

- Cho dù ông nói gì, thưa ông bô, thì cũng không có chuyện tôi từ chối phần thừa kế của mình vì thứ này - Nó trỏ kim tự tháp.

Peter khoanh tay trước ngực.

- Nếu con chọn chấp nhận trách nhiệm, ba sẽ giữ hộ tiền và kim tự tháp cho tới khi con hoàn thành quá trình giáo dục trong Hội Tam điểm. Việc này phải mất hàng năm trời, nhưng con sẽ đủ chín chắn khi nhận cả hai thứ. Tiền bạc và tri thức. Một sự kết hợp hùng mạnh.

Zachary nhảy nhổm lên.

- Lạy Chúa, ông bô ơi! Ông không chịu thôi đi à? Ông không thấy rằng tôi chẳng quan tâm mẹ gì đến Hội Tam điểm, kim tự tháp đá cùng những bí mật cổ lỗ à? - Nó cúi xuống và nhặt lấy tập hồ sơ màu đen, huơ huơ trước mặt cha mình - Đây là quyền thừa kế của tôi! Quyền thừa kế của các thành viên nhà Solomon trước đây! Tôi không tin thể tin nổi là ông lại định lừa tôi từ chối món thừa kế này bằng mấy câu chuyện vớ vẩn về bản đồ mới cả kho báu! - Nó kẹp tập hồ sơ dưới nách, bước qua mặt Bellamy ra cửa phòng.

- Zachary, đợi đã! - Peter chạy theo khi Zachary bước vào bóng đêm - Dù làm gì, con cũng đừng bao giờ tiết lộ về cái kim tự tháp vừa nãy! - Giọng ông thất thanh - Đừng hé ra với bất kỳ ai! Đừng bao giờ!

Zachary không buồn trả lời, cứ thế biến thẳng vào đêm tối.

Peter Solomon quay lại bàn của mình và ngồi phịch xuống chiếc ghế da, đôi mắt xám đong đầy đau khổ. Im lặng hồi lâu, ông nhìn lên Bellamy và cố nở một nụ cười.

- Thế đấy?

Bellamy thở dài, cùng chia sẻ nỗi đau của bạn.

- Peter, tôi không muốn tỏ ra thiếu tế nhị... nhưng... anh tin nó ư?

Solomon trân trân nhìn khoảng không.

- Ý tôi là - Bellamy nhấn mạnh - đừng nên nói gì về cái kim tự tháp cả.

Gương mặt Solomon vô hồn.

- Tôi thực sự không biết phải nói gì, Warren. Tôi không chắc mình còn hiểu nó nữa không.

Bellamy đứng lên và chậm rãi đi đi lại lại trước chiếc bàn lớn.

- Peter, anh đã tuân theo nghĩa vụ của gia đình, nhưng giờ đây, xem xét những gì vừa diễn ra, tôi nghĩ chúng ta cần thận trọng. Tôi phải giao lại cho anh cái chóp để anh tìm một nơi mới cho nó. Cần có ai đó khác trông nom nó.

- Tại sao? - Solomon hỏi.

- Nếu Zachary bép xép với người ngoài về cái kim tự tháp... và nhắc đến sự có mặt của tôi hôm nay...

Nó chẳng biết gì về cái chóp, và nó còn quá dại khờ nên không thể hiểu được ý nghĩa quan trọng của kim tự tháp. Không cần một chỗ mới cho nó đâu. Tôi sẽ giữ cái kim tự tháp trong hốc tường, và anh cứ để cái chóp ở đúng chỗ anh giữ. Như chúng ta vẫn làm bấy nay.

Chỉ sáu năm sau, vào ngày Giáng sinh, trong khi gia đình vẫn chưa nguôi ngoai về cái chết của Zachary, một gã đàn ông cao lớn tuyên bố đã giết thằng bé trong ngục đột nhập vào nhà Solomon.

Mục tiêu của hắn là cái kim tự tháp, nhưng cuối cùng hắn lại tước đoạt sinh mạng của Isabel Solomon.

Mấy ngày sau, Peter triệu tập Bellamy đến văn phòng. Ông khoá chặt cửa lại và nhấc kim tự tháp ra khỏi hốc tường, đặt nó lên bàn giữa hai người.

- Lẽ ra tôi nên nghe theo anh.

Bellamy biết Peter rất day dứt vì sai lầm vừa rồi.

- Sẽ ổn thôi mà.

Solomon mệt mỏi thở hắt ra.

- Anh có mang theo cái chóp không?

Bellamy rút từ trong túi ra một gói hình hộp vuông vức nhỏ nhắn. Lớp giấy nâu đã ngả màu được buộc chắc bằng dây và đóng dấu sáp hình chiếc nhẫn của Solomon. Bellamy đặt cái gói lên bàn, biết rằng đêm nay hai nửa của Kim tự tháp Tam điểm đã ở gần nhau hơn thường lệ.

- Hãy tìm ai khác trông giữ thứ này. Đừng nói cho tôi biết người đó là ai.

Solomon gật đầu.

- Tôi biết một chỗ anh có thể giấu kim tự tháp - Bellamy đề xuất. Ông cho Solomon biết về tầng đáy Điện Capitol - Chẳng đâu ở Washington an toàn hơn nó.

Bellamy nhớ lại rằng Solomon đã rất thích thú với ý tưởng đó, bởi vì quả là rất thích hợp khi cất giấu cái kim tự tháp ở ngay trái tim biểu tượng của quốc gia, đúng là Solomon, Bellamy nghĩ thầm. Một người luôn lý trí hoá mọi việc ngay cả khí gặp khó khăn.

Mười năm sau ngày ấy, bị bịt mắt dẫn đi trong Thư viện Quốc hội, Bellamy hiểu rằng khó khăn tối nay còn lâu mới kết thúc. Lúc này, ông đã biết Solomon chọn ai để bảo vệ cái chóp... và ông cầu Chúa cho Robert Langdon hoàn tất nhiệm vụ.

Chương 62

Mình đang ở dưới phố số 2.

Mắt Langdon vẫn nhắm chặt khi băng chuyền chạy trong bóng tối về phía Toà nhà Adams(65) Anh cố gắng không tưởng tượng ra cả tấn đất đá phía trên đầu và đường hầm chật hẹp mà lúc này anh đang di chuyển qua. Tiếng Katherine thở cách anh vài thước, nhưng cô tuyệt nhiên không nói một lời.

Cô ấy còn bị sốc. Langdon không muốn nói với Katherine về bàn tay của Peter. Mày phải nói, Robert. Cô ấy cần biết.

- Katherine? - Cuối cùng Langdon lên tiếng, mắt vẫn nhắm chặt - Chị ổn chứ?

Một giọng thất thần, run run đáp lại đâu đó phía trước.

- Robert, kim tự tháp mà anh mang theo là của Peter, phải không?

- Đúng, - Langdon thừa nhận.

Tiếp theo là một khoảng im lặng kéo dài.

- Tôi nghĩ... cái kim tự tháp đó là lý do khiến mẹ tôi bị giết.

Langdon biết bà Isabel Solomon bị sát hại mười năm về trước, nhưng anh không nắm rõ các tình tiết, và Peter cũng chẳng bao giờ đề cập đến kim tự tháp.

- Chị đang nói về chuyện gì cơ?

Katherine hồi tưởng những sự kiện hãi hùng đêm hôm ấy, nhớ lại gã đàn ông xăm trổ đầy mình đã đột nhập tư gia họ ra sao. Giọng cô còn đầy bàng hoàng.

- Chuyện lâu rồi, nhưng tôi chẳng bao giờ quên rằng hắn đã đòi một cái kim tự tháp. Hắn nói hồi trong tù, hắn nghe Zachary kể về cái kim tự tháp... ngay trước khi hắn giết thằng bé.

Langdon sửng sốt lắng nghe. Thật không thể tưởng tượng nổi gia đình Solomon lại có một bi kịch như thế. Katherine vẫn tiếp tục kể, rằng cô tưởng kẻ đột nhập đã bị giết, đêm hôm đó... nào ngờ cũng chính gã đàn ông ấy lại xuất hiện hôm nay, tự nhận là bác sĩ tâm lý của Peter và lừa cô tới nhà.

- Hắn biết những điều riêng tư về anh trai tôi, về cái chết của mẹ tôi và thậm chí công việc của tôi nữa - cô băn khoăn - những điều mà ngoài anh tôi chắc chẳng còn ai kể cho hắn được. Tôi đã tin... và cũng vì thế mà hắn lọt được vào Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian. - Sau cùng, hít một hơi thật sâu, Katherine nói rằng cô gần như tin chắc gã đàn ông đó vừa phá huỷ phòng thí nghiệm của cô.

Langdon nghe mà choáng váng. Cả hai cùng nằm im lặng mất một lúc Langdon biết anh có nghĩa vụ chia sẻ với Katherine những tin tức khủng khiếp còn lại của buổi tối nay. Anh bắt đầu thật chậm rãi, và thật nhẹ nhàng, cho Katherine biết Peter đã tin tưởng giao cho anh một gói nhỏ nhiều năm về trước, tối nay anh bị lừa mang cái gói đó tới Washington, và cuối cùng, anh kể về bàn tay đứt trong Nhà tròn Điện Capitol.

Katherine phản ứng bằng sự im lặng hoàn toàn.

Langdon đoan chắc cô đang choáng váng. Anh ước sao mình có thể nhoài tới để an ủi cô, nhưng nằm nối nhau trong bóng tối chật hẹp thế này thì không xoay xở gì được.

- Anh Peter vẫn ổn - anh thì thào - Anh ấy còn sống, và chúng ta sẽ đưa anh ấy trở về - Langdon cố gắng tạo cho cô hy vọng - Katherine, kẻ bắt cóc anh ấy đã hứa với tôi rằng anh trai chị sẽ còn sống trở về... chừng nào tôi giải mã cái kim tự tháp cho hắn.

Katherine vẫn nín lặng.

Langdon tiếp tục nói. Anh kể cho cô về cái kim tự tháp đá, về mật mã Tam điểm, về cái chóp được niêm phong, và dĩ nhiên cả tiết lộ của Bellamy rằng kim tự tháp này thực ra là Kim tự tháp Tam điểm trong huyền thoại... là tấm bản đồ cho biết vị trí bí mật của một cầu thang xoáy ốc rất dài dẫn sâu xuống lòng đất... sâu hàng trăm thước tới một báu vật cổ xưa đã được chôn giấu lâu đời tại Washington.

Cuối cùng, Katherine cũng lên tiếng, nhưng giọng thản nhiên và điềm tĩnh.

- Robert, mở mắt ra đi.

Mở mắt ra ư? Langdon không muốn, dù chỉ một liếc mắt, xem cái không gian này trông ra sao.

- Anh Robert! - Katherine giục, lần này gấp gáp hơn - Mở mắt ra đi! Chúng ta đến nơi rồi!

Langdon mở choàng mắt đúng lúc cơ thể anh trồi qua một cái lỗ tương tự như cái lỗ ở đầu xuất phát. Katherine đã chuồi khỏi băng chuyền. Cô nhấc cái túi lên, Langdon tung chân nhảy ra xuống nền lát gạch hoa vừa kịp lúc, trước khi băng chuyền ngoặt trở lại. Không gian quanh họ là một phòng lưu thông sách chẳng khác gì gian phòng họ vừa rời khỏi ở toà nhà đằng kia Một tấm biển nhỏ ghi TOÀ NHÀ ADAMS: PHÒNG LUU THÔNG SỐ 3.

Langdon cảm thấy như vừa thoát khỏi một quá trình sinh sản ngầm dưới lòng đất vậy. Tái sinh. Anh lập tức ngoảnh nhìn Katherine.

- Chị ổn chứ?

Mắt Katherine vẫn còn đỏ, chứng tỏ rằng cô vừa mới khóc, nhưng cô gật đầu với thái độ quả quyết cam chịu. Cô xách cái túi của Langdon lên và băng ngang căn phòng, mang túi theo mà không nói một lời, đặt nó lên một chiếc bàn bừa bộn. Cô bật ngọn đèn halogen, mở cái túi ra, gập các mép xuống và nhìn chằm chằm vào trong.

Dưới ánh đèn, ngọn kim tự tháp bằng đá hoa cương hiện lên với những đường nét đơn giản. Katherine lướt ngón tay trên dòng mật mã Tam điểm khắc chìm. Langdon theo dõi, nhận ra cảm xúc sâu sắc đang trào lên trong cô. Hết sức chậm rãi, Katherine thò tay vào túi và lôi cái gói hình hộp ra. Cô giơ nó lên trước ánh sáng, kiểm tra thật kỹ càng.

- Chị thấy đấy, - Langdon nói khẽ - con dấu sáp được đóng bằng chiếc nhẫn Tam điểm của Peter. Anh ấy kể rằng cổ nhân đã dùng chiếc nhẫn này đóng ấn niêm phong cái gói từ hơn một trăm năm trước.

Katherine không nói gì.

- Khi anh trai chị giao cái gói cho tôi. - Langdon kể - anh ấy nói rằng nó sẽ trao cho tôi sức mạnh tạo lập trật tự từ trong hỗn loạn. Tôi không dám chắc về ý nghĩa câu đó, nhưng tôi cho rằng cái chóp chứa đựng một điều rất quan trọng, bởi vì Peter nhấn mạnh rằng không được để nó lọt vào tay kẻ xấu. Ông Bellamy cũng vừa nói với tôi như thế, ông nhắc tôi phải giấu kín kim tự tháp và không để bất kỳ ai mở cái gói ra.

Katherine quay lại, đầy vẻ giận dữ.

- Bellamy bảo anh không được mở cái gói ra ư?

- Phải. Ông ấy là người rất tuân thủ kỷ cương.

Katherine tỏ vẻ hoài nghi.

- Nhưng anh bảo cái chóp này là chìa khoá duy nhất để giải mã kim tự tháp, đúng không?

- Có lẽ thế.

Giọng Katherine vống hẳn lên.

- Anh còn nói kẻ bắt cóc yêu cầu anh giải mã kim tự tháp. Đó là cách duy nhất giúp chúng ta đưa Peter trở về, phải không?

Langdon gật đầu.

- Vậy thì, Robert, tại sao chúng ta lại không mở cái gói ra và giải mã thứ này ngay bây giờ đi?

Langdon không biết phải trả lời sao.

- Katherine, tôi cũng có ý định y như vậy, nhưng Bellamy bảo tôi rằng việc giữ nguyên bí mật của kim tự tháp còn quan trọng hơn bất kỳ điều gì... kể cả sinh mạng anh trai chị.

Những nét kiều diễm của Katherine đanh lại. Cô đưa tay gạt một lọn tóc ra sau tai rồi lên tiếng, giọng đầy kiên quyết.

- Cái kim tự tháp đá này, bất kể là gì, cũng đã làm cả gia đình tôi trả giá. Trước hết là cháu tôi, Zachary, rồi đến mẹ tôi, và giờ là anh trai tôi. Chúng ta hãy đối diện với sự thật, anh Robert, nếu tối nay anh không gọi đến để cảnh báo tôi...

Langdon nhận ra mình đang mắc kẹt giữa logic của Katherine và những lời dặn dò của Bellamy.

- Tôi là một nhà khoa học. - cô nói - đồng thời còn xuất thân từ một gia đình Tam điểm danh giá. Tin tôi đi, tôi đã nghe đủ mọi chuyện liên quan đến Kim tự tháp Tam điểm và lời hứa hẹn về kho báu vĩ đại sẽ khai sáng nhân loại. Nói thật, tôi khó lòng tin rằng có một thứ như thế. Tuy nhiên, nếu quả thực nó tồn tại... thì có lẽ đã đến lúc khai phá rồi.

Katherine đưa một ngón tay rê rê bên dưới sợi dây cũ buộc cái gói.

Langdon bật dậy.

- Katherine, đừng? Đợi đã!

Cô dừng lại, những ngón tay vẫn nằm dưới sợi dây.

- Robert, tôi nhất định không để anh tôi phải mất mạng vì thứ này. Cho dù cái chóp nói gì... hay những dòng chữ khắc tiết lộ kho báu lớn cỡ nào... thì tối nay, những bí mật đó cũng phải chấm hết.

Dứt lời, Katherine kiên quyết bứt đứt sợi dây, và con dấu sáp vỡ bung ra.

Chú thích:

(65) Toà nhà John Adams Building là một trong ba toà nhà của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Ban đầu, toà nhà này được xây dựng như nhà phụ của Toà nhà chính (Thomas Jefferson Building). Nó mở cửa từ ngày 3 tháng 1 năm 1939 - ND.

Chương 63

Tại một khu vực khá yên tĩnh ngay phía tây Embassy Row(66) ở Washington, có một khu vườn nằm trong dãy tường bao kiểu Trung cổ nghe đồn hoa hồng nơi đây được trồng từ thế kỷ thứ XII. Vọng lâu Carderock của khu vườn - được mệnh danh là Ngôi nhà Bóng mát - nằm giữa những lối đi ngoằn ngoèo lát bằng đá khai thác từ mỏ riêng của George Washington.

Tối nay, sự im lặng của khu vườn bị phá vỡ. Một chàng thanh niên chạy bổ qua cánh cổng gỗ, miệng hét to.

- Bác ơi! - cậu gọi to, căng mắt nhìn trong ánh trăng - Bác có ở đây không?

Giọng đáp lại vô cùng yếu ớt, rất khó nghe.

- Trong vọng lâu... hít thở chút không khí.

Chàng thanh niên tìm thấy ông bác tiều tuỵ đang đắp chăn ngồi trên chiếc ghế băng bằng đá. Ông già lưng còng, vóc nhỏ thó như người tí hon. Năm tháng đã đè nặng xuống lưng và lấy đi thị lực của con người này, nhưng ở ông vẫn còn một thứ khí chất mạnh mẽ đáng kể.

Chàng trai trẻ vừa thở hổn hển vừa nói với ông già.

- Cháu mới... nhận một cuộc gọi... từ bạn của bác... Warren Bellamy.

- Thế hả? - ông già ngẩng lên - Chuyện gì vậy?

- Ông ấy không nói rõ, xem ra vội vã lắm. Ông ấy bảo rằng có để lại một tin nhắn trên thư thoại của bác, và bác phải nghe luôn đấy.

- Warren chỉ nói vậy thôi à?

- Không hẳn - Chàng trai ngập ngừng - Bellamy dặn cháu hỏi bác một câu - Một câu hỏi rất lạ - ông ấy bảo bác cần trả lời ngay.

Ông già nghiêng lại gần hơn.

- Câu hỏi gì?

Nghe chàng trai lặp lại câu hỏi của Bellamy, khuôn mặt già nua bỗng u ám hẳn đi, dù là dưới ánh trăng cũng có thể nhận ra điều đó.

Ông lập tức gạt tấm chăn và gắng đứng dậy.

- Đỡ bác vào nhà. Ngay bây giờ?

Chú thích:

(66) Embassy Row là tên gọi không chính thức một khu phố hay khu vực nơi tập trung nhiều đại sứ quán hoặc các cơ quan ngoại giao. Tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ, khu vực này dọc Đại lộ Massachusetts, vùng tây bắc - ND.

Chương 64

Không còn gì là bí mật nữa, Katherine Solomon nghĩ.

Trên bàn, con dấu sáp nguyên vẹn qua nhiều thế hệ nay lăn lóc từng mảnh. Katherine bóc nốt lớp giấy nâu bạc màu bọc cái gói quý giá của anh trai mình. Langdon đứng bên cạnh, vẻ bồn chồn.

Katherine lôi ra khỏi lớp giấy một cái hộp nhỏ bằng đá xám. Giống hệt một khối đá hoa cương mài nhẵn, cái hộp không hề có bản lề, khoá, hay khe nào để lách vào trong. Nó khiến Katherine nhớ đến cái hộp giải đố của người Trung Quốc.

- Trông như khối đặc ấy, - cô nhận xét, đưa ngón tay lần hết các mép - Anh có chắc máy X quang cho thấy nó rỗng không? Với một cái chóp ở bên trong?

- Đúng thế mà. - Langdon khẳng định, nhích lại gần Katherine và chăm chú xem xét cái hộp bí ẩn. Hai người săm soi nó từ nhiều góc độ khác nhau, cố gắng tìm cách mở.

- Đây rồi, - Katherine reo lên, móng tay cô vừa dò được một khe hở kín đáo chạy dọc theo cạnh trên của hộp. Cô đặt cái hộp xuống bàn và cẩn thận cạy nắp. Cái nắp tách ra rất dễ dàng, hệt như nắp hộp trang sức.

Khi cái nắp rơi xuống, Langdon và Katherine cùng hít mạnh. Lòng hộp đang toả sáng, thứ ánh sáng rực rỡ gần như siêu nhiên. Katherine chưa bao giờ nhìn thấy khối vàng nào lớn đến thế, và cô cũng nhận ngay ra rằng chất kim loại quý giá này phát quang do đang khúc xạ ánh sáng của ngọn đèn bàn.

- Tuyệt vời quá, - cô thì thào. Mặc dù bị niêm phong trong lòng hộp đá tối tăm suốt hơn một thế kỷ, cái chóp vẫn không hề xỉn màu hay mờ đi, vàng có khả năng kháng cự quy luật phân huỷ, đó là một trong những lý do khiến người cổ đại cho rằng nó có phép màu.

Katherine bỗng ghé lại gần, nhìn chằm chằm vào cái đỉnh nhỏ xíu, tim cô đập nhanh hơn.

- Có một dòng chữ khắc.

Langdon tiến sát lại, vai họ chạm vào nhau. Đôi mắt xanh biếc của anh ánh lên vẻ tò mò. Anh kể cho Katherine nghe về một thói quen của người Hy Lạp cổ đại, họ thường tạo ra một biểu hình, tức một mật mã được chia làm nhiều phần. Anh cũng cho biết cái chóp tách rời kia đang nắm giữ chìa khoá để giải mã kim tự tháp. Cho dù chứa nội dung gì, thì chắc chắn dòng chữ khắc này cũng sẽ an định hỗn loạn và lập lại trật tự.

Katherine cầm chiếc hộp nhỏ nhắn giơ ra ánh sáng và ngắm nghía cái chóp. Mặc dù rất nhỏ, những dòng chữ khắc vẫn hiện lên rõ rệt, đó là một mẩu văn tự được chạm tinh xảo ở một mặt chóp. Katherine đọc thấy sáu chữ đơn giản.

Cô đọc lại lần nữa.

- Không- sau cùng cô kêu lên - Sao lại như thế được!

***

Bên kia phố, Giám đốc Sato rảo bước trên lối đi dài bên ngoài Điện Capitol, tiến về điểm hẹn trên phố Số 1. Bà ta rất không bằng lòng với tin tức mới nhất từ nhóm tác chiến. Langdon đã tháo thoát. Kim tự tháp biến mất. Chẳng thấy cái chóp nào. Tuy bắt được Bellamy, nhưng ông ta không chịu, chí ít là chưa chịu, tiết lộ sự thật.

Ta sẽ buộc lão phải khai.

Bà ta liếc mắt qua vai, nhìn về một trong những hình ảnh mới nhất của Washington, đó là phần mái vòm điện Capitol sừng sững trên trung tâm khách tham quan vừa xây dựng. Phần mái vòm rực sáng chỉ càng nhấn mạnh ý nghĩa của thứ đang bị đe doạ tối nay. Thời khắc nguy hiểm.

Điện thoại reo, Sato thở phào khi thấy màn hình hiển thị tên chuyên gia phân tích của mình.

- Nola hả, - bà ta bắt máy - Cô tìm được gì rồi?

Nola Kaye thông báo cho bà ta toàn tin xấu. Bản quét phần chữ khắc trên chóp tháp quá mờ, không đọc nổi, dùng đến thiết bị lọc tăng cường hình ảnh cũng vô hiệu.

Mẹ kiếp. Sato cắn môi.

- Thế còn cái ma trận 16 chữ cái thì sao?

- Tôi đang cố đây, - Nola đáp - nhưng tới giờ tôi vẫn chưa tìm ra lớp mật mã thứ hai. Tôi đã cho máy tính đảo lại vị trí các chữ cái và tìm kiếm bất kỳ chi tiết gì khả dĩ nhận dạng, nhưng có đến hơn 20 nghìn tỉ khả năng.

- Cứ tiếp tục đi, rồi cho tôi biết - Sato cau có tắt máy.

Không còn hi vọng gì vào việc dùng tấm ảnh và bản chụp X quang để giải mã kim tự tháp nữa. Ta cần chính cái kim tự tháp đó cùng chóp của nó... và ta không còn nhiều thời gian.

Sato đến phố Số 1 đúng lúc một chiếc SUV Escalade màu đen với cửa sổ lắp kính tối màu lao vọt qua dải phân cách vàng vàng và đỗ két trước mặt bà ta, ngay tại điểm hẹn. Một nhân viên đặc vụ nhảy ra.

- Có tin gì về Langdon chưa? - Sato hỏi.

- Hi vọng khả quan, - anh chàng kia đáp, giọng vô cảm - Nhóm hỗ trợ vừa tới. Tất cả các lối ra khỏi thư viện đã bị vây chặt. Thậm chí huy động cả yểm trợ trên không. Chúng tôi sẽ dùng hơi cay lùa hắn ra và hắn không còn chỗ nào để chạy đâu.

- Bellamy sao rồi?

- Trói ở ghế sau kia.

Tốt lắm. Vai Sato vẫn đau nhức.

Nhân viên đặc vụ trao cho Sato một cái túi nhựa Ziploc trong có điện thoại di động, chìa khoá và ví.

- Tư trang của Bellamy.

- Không còn gì khác sao?

- Không, thưa bà. Kim tự tháp và cái gói chắc chắn ở chỗ Langdon.

- Được rồi, - Sato nói - Bellamy biết rất nhiều nhưng không chịu nói. Tôi muốn đích thân thẩm vấn lão.

- Vâng, thưa bà. Ta về Langley chứ?

Sato hít một hơi thật sâu và đi qua lại đi bên chiếc SUV một lát. Có những quy tắc ngặt nghèo kiểm soát việc thẩm vấn công dân Mỹ. Tra vấn Bellamy là hoàn toàn bất hợp pháp trừ phi được tiến hành tại Langley có ghi hình, nhân chứng, luật sư, và đủ thứ khác...

- Không về Langley, - bà ta đáp, cố gắng nghĩ ra một nơi nào đó gần hơn, và kín đáo hơn.

Nhân viên đặc vụ chẳng nói chẳng rằng, vẫn đứng nghiêm bên cạnh chiếc SUV, chờ nghe lệnh.

Sato châm điếu thuốc, rít một hơi dài và đăm đăm nhìn cái túi Ziploc đựng đồ đạc của Bellamy. Bà ta chú ý thấy chùm chìa khoá có mắc một cái điều khiển từ xa in bốn chữ cái - USBG. Dĩ nhiên, Sato biết thiết bị đó dùng để ra vào toà nhà chính phủ nào. Toà nhà nọ rất gần và vào giờ này, rất kín đáo.

Bà ta mỉm cười, đút cái điều khiến vào túi. Hoàn hảo.

Sato cho nhân viên đặc vụ biết nơi mình muốn đưa Bellamy tới, chắc mẩm anh ta sẽ tỏ ra ngạc nhiên, nhưng người nhân viên chỉ gật đầu và mở cửa bên cho sếp, cái nhìn lạnh tanh chẳng thể hiện điều gì.

Sato rất thích những nhân viên chuyên nghiệp.

***

Trong hầm Toà nhà Adams. Langdon nhìn chằm chặp dòng chữ khắc rất khéo trên bề mặt chóp vàng mà không dám tin vào mắt mình.

Đó là tất cả những gì nó nói ư?

Katherine giơ cái chóp ra ánh sáng và lắc đầu.

- Phải có gì đó nữa chứ, - cô khăng khăng, giọng ấm ức - Đây là thứ mà anh trai tôi đã bảo vệ suốt bao nhiêu năm qua ư?

Langdon phải thừa nhận rằng anh cũng rất bối rối. Theo lời Peter và Bellamy, cái chóp sẽ giúp họ giải mã kim tự tháp đá. Trước những lời khẳng định ấy, Langdon cứ nghĩ đến một gợi mở sáng tỏ và hữu ích hơn. Nhưng dòng chữ này thì quá rõ ràng mà lại vô tác dụng. Một lần nữa, anh đọc sáu từ khắc rất tinh xảo trên mặt chóp tháp.

Bí mật giấu

trong Tổ Chức

Bí mật giấu trong Tổ Chức?

Thoạt nhìn, dòng chữ khắc có vẻ khá rành mạch, ngụ ý rằng những chữ cái trên kim tự tháp rất lộn xộn, là vô "tổ chức" nào, và rằng bí mật của chúng nằm ở việc tìm ra cách sắp xếp cho đúng.

Tuy nhiên, câu này, ngoài ý nghĩa hiển nhiên, xem chừng còn một lý do nữa.

- Các chữ Tổ và Chức được viết hoa, - Langdon nhận xét.

Katherine gật đầu.

- Tôi có thấy.

Bí mật giấu trong Tổ Chức. Langdon chỉ có thể liên tưởng đến một hàm ẩn hợp lý.

Tổ Chức ở đây chắc là chỉ Hội Tam điểm.

- Nhất trí, - Katherine nói - nhưng vẫn vô ích. Nó chẳng cho chúng ta biết điều gì.

Langdon cũng phải thừa nhận như vậy. Rốt cuộc, toàn bộ câu chuyện về Kim tự tháp Tam điểm lại xoay quanh một bí mật được cất giấu ngay trong Hội Tam điểm.

- Robert! Peter nói cái chóp sẽ đem lại cho người ta sức mạnh để tổ chức lại mọi sự ở ngay nơi mà những kẻ khác chỉ thấy hỗn loạn phải không?

Langdon gật đầu thất vọng. Lần thứ hai trong tối nay, anh cảm thấy mình bất lực.

Chương 65

Giải quyết xong vị khách không mời - một nữ nhân viên Phòng An ninh ưu tiên, Mal'akh sơn lại chỗ cửa sổ mà cô gái vừa ghé mắt vào và nhìn thấy phần nào không gian làm việc thiêng liêng của gã.

Lúc này, leo lên khỏi mê cung tầng hầm nhuốm màu lam dìu dịu, gã đi qua một ô cửa bí mật mở thẳng vào phòng khách. Tới nơi, gã dừng lại, chiêm ngưỡng bức vẽ ấn tượng về Ba Kiều nữ, tận hưởng mùi vị và âm thanh quen thuộc của căn nhà.

Ta sắp ra đi mãi mãi. Mal'akh biết rằng sau đêm nay, gã không thể trở lại đây được nữa. Sau đêm nay, gã nghĩ và mỉm cười, ta cũng không còn cần đến nơi này.

Gã tự hỏi liệu Robert Langdon có hiểu được sức mạnh thật sự của kim tự tháp đá... hoặc là tầm quan trọng của cái vai trò mà số phận đã lựa chọn cho anh ta không. Langdon vẫn chưa gọi cho ta, Mal'akh thầm nghĩ, sau khi kiểm tra kỹ càng các tin nhắn trên điện thoại di động. Đã 10 giờ 2 phút. Hắn còn chưa đầy hai tiếng nữa.

Mal'akh đi lên gác, tới phòng tắm ốp đá cẩm thạch Italia và bật công tắc vòi tắm nước nóng. Gã cẩn thận cởi bỏ quần áo, háo hức bắt đầu nghi thức tẩy uế của mình.

Gã uống hai ly nước lọc để làm dịu cái dạ dày đang co bóp, sau đó đi tới tấm gương khổ lớn và ngắm nghía thân hình trần truồng của mình. Hai ngày nhịn đói đã làm rão các cơ bắp, và Mal'akh không khỏi ngưỡng mộ sự thay đổi của mình. Lúc bình minh lên, ta sẽ còn tiến xa nữa.

Chương 66

- Chúng ta nên rời khỏi đây, - Langdon nói với Katherine - Chẳng chóng thì chầy họ cũng sẽ bới ra chỗ này.

Anh hy vọng Bellamy đã tìm được cách trốn thoát.

Katherine vẫn chăm chú quan sát cái chóp bằng vàng, chừng như không tin nổi là dòng chữ khắc lại chẳng hề có tác dụng gì như vậy.

Cô đã lấy cái chóp ra khỏi hộp, kiểm tra kỹ từng mặt, và giờ lại cẩn thận đặt nó trở vào.

Bí mật giấu trong Tổ Chức, Langdon nghĩ bụng. Hay ghê.

Anh tự hỏi phải chăng Peter đã hiểu sai về nội dung cái hộp. Kim tự tháp và chóp vàng được tạo ra từ rất lâu trước khi Peter ra đời, và Peter chỉ đơn giản là tuân thủ những điều tiền nhân dặn dò, giữ kín một bí mật mà với bản thân ông có lẽ cũng huyền bí chẳng kém gì với Langdon và Katherine.

Mình kỳ vọng điều gì nhỉ? Langdon tự hỏi. Tối nay, càng biết thêm về truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm, anh càng thấy nó hoang đường. Mình phải tìm kiếm một cầu thang xoáy ẩn kín với một tảng đá lớn chắn lối chăng? Có điều gì đó mách bảo Langdon rằng anh đang đuổi theo những cái bóng. Tuy nhiên, giải mã kim tự tháp xem ra là cơ hội tốt nhất để cứu Peter.

- Robert, năm 1514 có ý nghĩa gì với anh không?

Mười lăm-mười bốn ư? Câu hỏi nghe chừng vô thưởng vô phạt.

Langdon nhún vai.

- Không. Nhưng sao cơ?

Katherine đưa cho anh cái hộp đá.

- Nhìn này. Cái hộp có ngày tháng. Anh xem kỹ dưới ánh đèn ấy.

Langdon ngồi xuống một chỗ bên chiếc bàn và ngắm nghía cái hộp vuông vức dưới ánh sáng. Katherine đặt bàn tay mềm mại lên vai anh, cúi sát vào để chỉ cho anh thấy dòng chữ nhỏ xíu khắc ngoài hộp, gần góc bên dưới của một mặt mà cô vừa phát hiện ra.

- Mười lăm-mười bốn A.D. - cô nói, trỏ vào trong cái hộp.

- Đúng, dòng chữ khắc ghi rõ con số 1514, sau đó là một dạng cách điệu rất lạ hai chữ cái A và D.

ẢNH

- Ngày tháng này, - Katherine nói, giọng đầy hy vọng - có lẽ là mắt xích chúng ta đang thiếu chăng? Khối vuông có khắc ngày tháng trông rất giống một hòn đá móng của Hội Tam điểm, biết đâu nó sẽ dẫn tới một hòn đá móng thật sự thì sao? Có lẽ là một công trình được xây dựng năm 1514 sau Công nguyên chăng?

Langdon không chú ý đến lời cô.

Mười lăm mười bốn A.D, không phải là ngày tháng.

Bất kỳ học giả về nghệ thuật trung cổ nào cũng có thể nhận ra hình vẽ này là một biểu ký ẢNH rất nổi tiếng. Nhiều triết gia, nghệ sĩ và tác giả ngày xưa ký tên tác phẩm của mình bằng những biểu tượng độc đáo riêng thay vì dùng tên chính thức. Thói quen này làm tăng thêm sức hấp dẫn bí ẩn đối với tác phẩm của họ và cũng để bảo vệ họ khỏi bị ngược đãi nếu như các tác phẩm nghệ thuật ấy bị xếp vào loại đi ngược lại truyền thống. Trong trường hợp biểu ký này, các chữ cái A.D, không phải là Anno Domini (sau Công nguyên)... mà là chữ cái tiếng Đức, chứa đựng một hàm nghĩa hoàn toàn khác.

Langdon lập tức nhận thấy tất cả các tình tiết ăn khớp đâu vào đó. Chỉ trong vài giây, anh đã tin chắc mình biết chính xác cách giải mã kim tự tháp.

- Katherine, chị cừ lắm, - anh nói và thu dọn đồ đạc - Chúng ta đã tìm được thứ mình cần ròi. Đi nào. Tôi sẽ giải thích trên đường đi.

Katherine có vẻ ngạc nhiên.

- Ngày tháng 1514 sau Công nguyên có nghĩa gì đó với anh thật à?

Langdon nháy mắt với cô và tiến thẳng ra cửa.

- A.D, không phải là ngày tháng đâu. Katherine ạ. Nó chỉ một con người đấy..

Chương 67

Phía tây Embassy Row, sau dãy tường bao, bên trong khu vườn có vọng lâu Ngôi nhà Bóng mát và những khóm hồng từ thế kỷ XII, tất cả lại chìm vào im ắng. Ở mé bên kia một lối vào, chàng thanh niên đang giúp ông bác lưng còng băng qua bãi cỏ rộng.

Bác để cho mình dẫn đường cơ à?

Bình thường, ông già mù khước từ mọi sự giúp đỡ, ông thích tự lần đi theo trí nhớ. Tuy nhiên đêm nay, rõ ràng ông rất vội, phải vào nhà ngay để trả lời cuộc gọi của Warren Bellamy.

- Cảm ơn cháu, - ông già nói khi vào tới toà nhà có thư phòng riêng của mình - Bác có thể tự tìm đường được rồi.

- Bác, cháu rất vui được ở lại giúp...

- Tối nay thế là đủ - ông già nói, buông cánh tay người giúp đỡ và hấp tấp tiến vào bóng tối - Chúc cháu ngủ ngon.

Chàng thanh niên ra khỏi toà nhà, băng qua bãi cỏ rộng và quay trở lại chỗ ở đơn sơ của mình, cũng trong khuôn viên ấy. Lúc bước vào căn hộ, cậu cảm thấy sự tò mò cứ thôi thúc trong lòng. Rõ ràng ông già rất bồn chồn trước câu hỏi của Bellamy... mà câu hỏi ấy cũng thật kỳ lạ, gần như là vô nghĩa.

Có hay không, sự hỗ trợ cho con trai bà goá?

Dù tưởng tượng thế nào, chàng thanh niên cũng không thể đoán nổi ý nghĩa của câu hỏi này. Bối rối, cậu bước tới máy tính và gõ lệnh tìm kiếm cả cụm từ.

Cậu vô cùng kinh ngạc khi thấy xuất hiện vô số trang tham khảo, tất cả đều trích dẫn chính xác câu hỏi. Cậu thích thú đọc thông tin. Warren Bellamy không phải là người đầu tiên trong lịch sử đưa ra câu hỏi kỳ lạ này. Chính những từ ấy đã từng vang lên nhiều thế kỷ trước... trên môi vua Solomon khi ngài ai điếu một người bạn bị sát hại. Câu hỏi đến nay vẫn được các hội viên Tam điểm nhắc đến và sử dụng như một ám hiệu cầu cứu. Xem ra Warren Bellamy đang gửi đi một thông điệp khẩn thiết, cho một huynh đệ trong Hội Tam điểm.

Chương 68

Albrecht Durer.

Vừa vội vã theo Langdon băng qua tầng hầm Toà nhà Adams, Katherine vừa cố gắng chắp ghép các đầu mối. Chữ D, là Albrecht Durer - Điêu khắc gia kiêm hoạ sĩ người Đức nổi tiếng thế kỷ XVI này là một trong những nghệ sĩ mà Peter yêu thích, Katherine ít nhiều cũng biết đến các tác phẩm của ông. Dù vậy, cô vẫn không suy đoán được Durer có tác dụng gì trong trường hợp này, chưa kể ông đã qua đời hơn bốn trăm năm rồi.

Tác phẩm của Durer khá hoàn hảo về mặt biểu tượng, - Langdon giải thích khi họ men theo một lối đi nhỏ gắn các biển đề LỐI RA - Có thể coi ông ấy như một tư duy Phục hưng tột bậc, một nghệ sĩ, một triết gia, một nhà giả kim, và một người học trò trọn đời theo đuổi những Bí mật cổ xưa. Cho đến giờ, chưa có ai thực sự hiểu được những thông điệp ẩn giấu trong nghệ thuật của Durer.

- Có thể thế - Katherine nói - Nhưng cụm từ 1514 Albrecht Durer hướng dẫn ra sao về cách giải mã kim tự tháp?

Họ tới một cánh cửa khoá chặt và Langdon sử dụng thẻ của Bellamy để đi qua.

- Con số 1514 chỉ cho chúng ta một tác phẩm rất cụ thể của Durer, - Langdon nói trong lúc bước vội vã lên cầu thang. Họ tiến vào một hành lang rộng. Langdon đưa mắt nhìn quanh và trỏ sang trái - Lối này!

Họ lại tiếp tục rảo bước.

Thực tế, Albrecht Durer giấu con số 1514 trong bức Melencolia I, tác phẩm nghệ thuật bí ẩn nhất của ông, hoàn thành năm 1514. Nó được coi là tác phẩm khai sáng trường phái Phục hưng Bắc Âu.

Peter đã từng cho Katherine xem bức Melencolia I. Trong một cuốn sách cổ về chủ nghĩa thần bí, nhưng cô không thể nhớ ra con số 1514 giấu ở chỗ nào.

- Chắc chị cũng biết. - Langdon nói, giọng đầy hào hứng - bức Melencolia I mô tả sự phấn đấu của con người nhằm hiểu được những Bí mật cổ xưa. Chủ nghĩa thần bí trong Melencolia phức tạp đến nỗi so với nó, nghệ thuật của Leonardo da Vinci cũng trở nên quá lộ liễu.

Ketherine đột ngột dừng phắt lại, quay nhìn Langdon.

- Anh Robert, bức MelencoliaI hiện hữu ngay ở Washington này. Nó được treo tại Phòng trưng bày Quốc gia.

- Vâng - Langdon mỉm cười - và có gì đó mách bảo tôi rằng đây không phải là sự trùng hợp. Giờ này phòng trưng bày đóng cửa rồi, nhưng tôi quen người quản lý và...

- Thôi đi Robert, tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra khi anh đến bảo tàng - Katherine đi vượt lên, đến gần một chiếc máy tính đặt trên bàn kê trong góc tường gần đó.

Langdon bước theo, vẻ không vui lắm.

- Hãy làm theo cách đơn giản hơn.

Giáo sư Langdon, người rất sành nghệ thuật, rõ ràng cảm thấy khổ tâm khi nguyên tác đang ở ngay trong gang tấc mà phải sử dụng Internet để xem. Katherine bước ra sau bàn và bật máy tính. Khi máy hoạt động, một vấn đề khác lại nảy sinh.

- Không có biểu tượng tìm kiếm rồi.

- Đây là mạng thư viện nội bộ mà, - Langdon trỏ một biểu tượng ngay trên màn hình nền - Thử cái này xem.

Katherine bấm vào biểu tượng có ghi SƯU TẬP SỐ HOÁ. Máy tính truy cập vào một màn hình mới, và Langdon lại trỏ tiếp.

Katherine bấm vào biểu tượng anh chọn: SƯU TẬP BẢN IN ĐẸP. - Màn hình lại thay đổi.

BẢN IN ĐẸP: TÌM KIẾM.

Gõ cụm "Albrecht Durer" vào xem.

Katherine nhập tên và bấm phím tìm. Chỉ vài giây sau, màn hình bắt đầu hiển thị một loạt ảnh nhỏ, cho thấy nhiều tác phẩm khá gần gũi về phong cách, cùng một kiểu điêu khắc đen trắng phức tạp. Rõ ràng Durer đã thực hiện hàng chục bản khắc tương tự nhau.

Katherine lướt qua danh sách tác phẩm nghệ thuật sắp xếp theo thứ tự chữ cái.

Adam và Eve

Bốn kỵ sĩ thành Apocalypse

Bữa tiệc Ly

Jesus chịu nạn

Phản Chúa

Nhìn những tiêu đề đầy tính chất Thiên Chúa giáo, Katherine nhớ ra rằng Durer từng thực hành Chủ nghĩa Cơ Đốc thần bí, một sự kết hợp giữa Thiên Chúa giáo sơ khai, thuật giả kim, thiên văn học và khoa học.

Khoa học...

Hình ảnh phòng thí nghiệm ngùn ngụt cháy ập vào tâm trí Katherine. Suốt từ lúc trốn chạy, cô chưa có lấy một phút bình tâm để suy xét từng chi tiết, nhưng lúc này đầu óc cô dồn hết về người trợ lý của mình, Trish. Hy vọng cô ấy thoát nạn.

Langdon đang nói gì đó về tác phẩm Bữa tiệc Ly của Durer, nhưng Katherine nghe rất lơ đễnh. Cô vừa nhìn thấy đường dẫn tới bức tranh Melencolia I Cô bấm chuột, màn hình chuyển sang những thông tin tổng quát.

Melencoha I

Alrecht Durer

(vẽ khắc trên giấy sần)

Bộ sưu tập Rosenwald

Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia Washington D.C.

Katherine kéo xuống dưới, một bức hình số hoá với độ phân giải cao hiện ra, phô bày kiệt tác Durer với tất cả vẻ lộng lẫy của nó.

Katherine ngẩn ngơ ngắm tác phẩm, hầu như quên bẵng nó kỳ lạ ra sao.

Langdon cười thông cảm.

- Tôi đã nói mà, nó rất khó hiểu.

Bức Melencolia I diễn tả một nhân vật với đôi cánh lớn đang trong tư thế suy ngẫm, ngồi đằng trước một toà nhà bằng đá, xung quanh là cả đống tạp nham những đồ vật kỳ lạ: chiếc cân đĩa, con chó gầy giơ xương, dụng cụ thợ mộc, đồng hồ cát, vài khối đá góc cạnh, một cái chuông, một tiểu thiên thần, một thanh kiếm và một cái thang.

Katherine mang máng nhớ ra Peter đã từng nói với cô rằng nhân vật có cánh là thể hiện cho "con người thiên tài" - một nhà tư tưởng vĩ đại tay chống cằm, vẻ rất phiền muộn vì không thể đạt tới sự khai sáng. Xung quanh thiên tài là tất cả những biểu tượng cho khả năng hiểu biết: nào là khoa học, toán học, triết học, tự nhiên, hình học, và thậm trí là nghề mộc... nhưng vẫn không thể leo lên chiếc thang để đạt tới sự khai sáng đích thực. Thậm chí con người thiên tài cũng gặp khó khăn trong việc lĩnh hội những Bí mật cổ xưa.

- Về mặt biểu tượng, tác phẩm này biểu hiện sự nỗ lực bất thành của nhân loại trong việc biến đổi tri thức con người thành sức mạnh thần thánh. Theo thuật ngữ giả kim thì nó thể hiện sự bất lực của chúng ta trong việc biến chì thành vàng - Langdon lên tiếng.

- Không phải là một thông điệp mang tính động viên - Katherine tán thành. Cô vẫn chưa nhìn thấy con số 1514 mà Langdon nói đến - Vậy thì nó giúp gì cho ta chứ?

- Trật tự trong hỗn loạn, - Langdon nhách miệng cười - Đúng như anh trai chị đã nói.

Anh thò tay vào túi, rút ra ma trận chữ cái sao chép từ bức mật mã Tam điểm.

- Hiện thời thì sơ đồ này vô nghĩa - Anh trải tờ giấy ra bàn.

ẢNH

Katherine chăm chú nhìn sơ đồ. Tuyệt nhiên không thấy ý nghĩa gì.

- Nhưng Durer sẽ thay đổi nó.

- Bằng cách nào?

- Bằng nghệ thuật giả kim dưới dạng ngôn ngữ - Langdon trỏ lên màn hình máy tính - Hãy quan sát thật kỹ nhé. Trong kiệt tác này có ẩn giấu một thứ giúp cho 16 chữ cái của chúng ta trở nên ý nghĩa - Anh chờ đợi - Chị đã nhìn ra chưa? Hãy tìm con số 1514 đi.

Katherine chẳng mảy may hứng thú với trò chơi lớp học.

- Tôi không thấy gì cả... quả cầu, cái thang, con dao, khối đá nhiều cạnh, cái cân? Tôi chào thua.

- Nhìn này! Ở phần nền ấy. Khắc trên toà nhà sau lưng thiên thần. Bên dưới quả chuông. Durer đã đục một hình vuông đầy những con số.

Giờ thì Katherine đã nhìn thấy hình vuông gồm nhiều con số, trong đó có số 1514.

- Katherine, hình vuông đó chính là chìa khoá để giải mã kim tự tháp đấy!

Cô nhìn anh đầy kinh ngạc.

- Đây không phải là hình vuông thông thường - Langdon cười rất tươi - Thưa cô Solomon, đó là một ma phương.

Chương 69

Họ đưa mình tới chỗ quái nào thế này?

Bellamy vẫn bị bịt kín mắt ở băng sau chiếc SUV. Sau một lúc dừng đỗ chóng vánh ở đâu đó gần Thư viện Quốc hội, chiếc xe tiếp tục chạy... nhưng chỉ chừng một phút, chắc vừa đủ chạy qua một dãy nhà, rồi lại dừng.

Bellamy nghe loáng thoáng vài tiếng nói.

- Xin lỗi, không được... - một giọng đầy quyền uy vang lên -... giờ này đóng cửa...

Người lái chiếc SUV cũng đáp lại bằng giọng quyền uy không kém.

- Cuộc điều tra của CIA... an ninh quốc gia...

Rõ ràng những lời đối đáp cùng giấy tờ trình ra rất có sức thuyết phục, bởi vì giọng kia thay đổi lập tức.

- Vâng, dĩ nhiên rồi... lối dành riêng... -. Có tiếng rít rất to nghe như tiếng cửa ga-ra. Khi nó mở ra, giọng đó nói thêm - Tôi sẽ theo các vị chứ? Vào trong rồi, các vị sẽ không thể đi qua nữa...

- Không. Chúng tôi đã có cách.

- Nếu người bảo vệ có tỏ vẻ ngạc nhiên thì cũng đã muộn. Chiếc SUV lại chạy. Nó chạy thêm khoảng năm mươi thước rồi dừng. Cánh cổng nặng nề đóng lại phía sau họ.

Im lặng.

Bellamy nhận ra mình đang run bắn.

Cửa sập chiếc SUV mở tung cùng một tiếng két. Bellamy cảm thấy vai đau buốt khi có ai đó dùng hai tay lôi ông ra, xốc ông đứng lên. Chẳng hé một lời, người ta thô bạo kéo ông băng qua lối đi rộng rãi. Nơi đây nồng mùi đất rất lạ mà Bellamy không xác định, được. Có tiếng bước chân khác đi cùng họ, nhưng chưa biết là ai vì chưa thấy lên tiếng lần nào.

Cả nhóm dừng lại trước một cánh cửa. Bellamy nghe thấy tiếng bấm điều khiển điện tử. Cánh cửa mở lạch xạch. Bellamy bị dẫn đi qua vài hành lang, ông nhận ra không khí ấm áp và ẩm ướt hơn. Một bể bơi trong nhà chăng? Không phải! Không có mùi clo... mùi này còn quen thuộc hơn nhiều.

Mình đang ở xó xỉnh nào nhỉ? Bellamy biết rằng chỗ này chỉ cách Điện Capitol một hoặc hai dãy nhà. Họ dừng bước lần nữa, Bellamy lại nghe tiếng bấm cửa. Cánh cửa này mở ra kèm theo tiếng rít xè xè. Bellamy bị đẩy vào trong, và ngửi thấy một mùi không thể lẫn đi đâu được.

Giờ thì Bellamy đã nhận ra họ đang ở đâu. Lạy Chúa! Ông thường xuyên đến đây, mặc dù chưa bao giờ đi theo lối dành riêng. Toà nhà kính đồ sộ này chỉ cách Điện Capitol chừng ba trăm thước, về mặt cấu trúc cũng là một phần trong Quần thể Capitol. Chính mình điều hành nơi này! Bellamy sực hiểu chùm chìa khoá của ông đã giúp họ đi qua các cửa.

Những cánh tay chắc nịch đẩy Bellamy, dẫn ông theo một lối đi quen thuộc, ngoằn ngoèo. Không khí ấm áp, ẩm ướt của nơi này thường làm ông cảm thấy thư thái. Nhưng tối nay, ông lại vã mồ hôi.

Ho làm gì ở đây nhỉ?

Bellamy đột ngột bị kéo khựng lại và đặt ngồi xuống một chiếc ghế băng. Cái người vai u thịt bắp nào đó mở còng tay cho ông vừa đủ thời gian để khoá nó vào chiếc ghế băng phía sau.

- Các người muốn gì ở tôi? - Bellamy hỏi, tim đập mạnh.

Câu trả lời duy nhất ông nhận được là tiếng giày đinh xa dần và cánh cửa kính đóng lại.

Tiếp đến là im lặng.

Im lặng hoàn toàn.

Họ chỉ bỏ mặc mình ở đây thôi sao?

Bellamy xoay xở tìm cách giải phóng hai bàn tay, mồ hôi mồ kê đầm đìa. Mình thậm chí còn không tháo được cái bịt mắt!

- Giúp tôi với - ông hô lớn - Có ai không?

Mặc dù hoảng hốt kêu cứu, Bellamy biết rằng sẽ chẳng ai nghe thấy tiếng ông. Nhà kính khổng lồ, mà người ta thường gọi là Rừng rậm này, hoàn toàn kín mít khi các cửa đóng lại.

Họ bỏ mình trong Rừng rậm, ông nghĩ bụng. Từ giờ đến sáng sẽ chẳng ai tìm thấy mình.

- Đúng lúc ấy ông nghe thấy tiếng động.

Một tiếng động mơ hồ, nhưng khiến Bellamy kinh hoàng hơn bất kỳ âm thanh nào ông từng nghe thấy trong đời. Có cái gì đó đang thở. Rất gần.

Không chỉ có mình ông trên ghế.

Xèo một tiếng, một que diêm bùng lên gần mặt Bellamy, gần đến nỗi ông cảm nhận được cả sức nóng. Bellamy co rúm lại, theo bản năng giật mạnh chiếc còng.

Không hề báo trước, một bàn tay đặt lên mặt ông, gỡ bỏ vuông vải bịt mắt.

Ngọn lửa trước mặt soi rõ đôi mắt đen của Inoue Sato. Bà ta dí que diêm vào điếu thuốc vắt vẻo trên môi, chỉ cách mặt Bellamy vài phân, đoạn chòng chọc nhìn ông dưới ánh trăng lọt qua trần kính. Bà ta có vẻ rất thích thú trước nỗi sợ hãi của viên Kiến trúc sư Điện Capitol.

- Thế nào, ngài Bellamy, - Sato lên tiếng, tay vẩy vẩy que diêm - Chúng ta bắt đầu từ đâu nhỉ?

Chương 70

Một ma phương. Katherine gật đầu nhìn ô vuông toàn con số trong tác phẩm của Durer. Chắc người khác phải nghĩ Langdon mất trí, nhưng Katherine nhanh chóng nhận ra rằng anh có lý.

Thuật ngữ ma phương dùng để chỉ một thứ đầy chất toán học chứ không phải ma mị gì. Nó là tên gọi của một ma trận gồm các con số sắp xếp liên tiếp sao cho tổng các hàng, cột và đường chéo là như nhau. Ma phương do các nhà toán học Ai Cập và Ấn Độ phát minh ra từ khoảng bốn nghìn năm về trước, nhiều người tin rằng nó chứa đựng trong mình những sức mạnh diệu huyền. Katherine đọc sách và được biết thậm chí hiện nay, dân mộ đạo ở Ấn Độ vẫn vẽ các ma phương 9 ô Kubera Kolam lên bàn thờ pooia(67), về cơ bản, người hiện đại xếp ma phương vào loại "toán học giải trí", nhưng có một số người vẫn tìm thấy niềm vui từ ô số này qua việc phát hiện ra các hình thể "kỳ bí". Chẳng khác nào trò chơi sudoku(68) dành cho những thiên tài.

Katherine phân tích nhanh ô vuông của Durer, cộng các con số theo hàng và cột.

ẢNH

- Bốn mươi tư, - cô nói - Mọi hướng cộng lại đều thành 44.

- Chính xác, - Langdon đáp - Nhưng chị có nhận ra rằng ma phương này nổi tiếng là vì Durer gắn kèm theo nó những chi tiết dường như vô lý không? - Anh nhanh nhẹn chỉ cho Katherine thấy, ngoài việc sắp xếp cho các hàng, cột và đường chéo cộng lại thành 44. Durer còn tìm cách khiến bốn ô vuông góc một phần tư, bốn ô vuông chính giữa, và thậm chí bốn ô vuông ở bốn góc cộng lại cũng ra tổng đó - Nhưng điều kỳ lạ nhất là Durer đã bố trí được con số 15 và 14 sát nhau ở hàng dưới cùng như một cách chỉ thời điểm ông hoàn thành kiệt tác?

Katherine nhìn lướt các con số, vô cùng kinh ngạc trước các kiểu kết hợp.

Giọng Langdon càng thêm sôi nổi.

- Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nhờ bức Melencolia I mà một ma phương xuất hiện trong nghệ thuật Âu châu. Nhiều nhà sử học tin rằng đây là cách mã hoá của Durer, suy ra Bí mật cổ xưa đã vượt khỏi phạm vi các trường Nghệ thuật Thần bí Ai Cập và rơi vào tay các hội kín châu Âu - Langdon ngập ngừng - Điều đó đưa chúng ta trở lại với... thứ này.

Anh trỏ mảnh giấy chép hình ma trận chữ cái trên kim tự tháp đá.

ẢNH

- Bố cục rất giống nhau, phải không? - Langdon hỏi.

- Một hình vuông mỗi chiều bốn ô.

Langdon cầm bút chì và cẩn thận ghi lại ma phương số của Durer lên mảnh giấy, cạnh ô vuông chữ cái. Katherine cảm thấy mọi việc dễ dàng đi nhiều. Langdon vẫn đứng lom khom, bút chì trong tay, nhưng lạ thay, sau khi vô cùng hào hứng, anh lại tỏ ra đắn đo.

- Robert?

Langdon ngoảnh nhìn Katherine, vẻ mặt rõ ràng là bối rối.

- Chị có chắc chúng ta phải làm việc này không? Anh Peter...

- Robert, nếu anh không muốn giải mã những chữ này thì để tôi - Cô giơ tay định giằng lấy chiếc bút chì.

Nhận thấy không thể ngăn cản được Katherine, Langdon đành thuận theo và lại tập trung chú ý vào kim tự tháp. Anh thận trọng áp chồng ma phương lên ma trận chữ của kim tự tháp và gán từng chữ cái với từng con số. Sau đó, anh tạo ra một ma trận khác, sắp xếp các chữ cái trong bức mật mã Tam điểm theo một trật tự mới trên cơ sở bố cục ma phương của Durer.

Khi Langdon làm xong, cả hai người cùng kiểm tra kết quả.

ẢNH

Katherine nghi hoặc.

- Vẫn chưa rõ.

Langdon im lặng một lúc lâu.

- Thực ra, không phải là chưa rõ đâu - Mắt anh lại sáng lên vì phát hiện mới - Nó là... chữ Latinh.

***

Trong hành lang dài, tối om, ông già mù gắng sức dò dẫm để về văn phòng của mình càng nhanh càng tốt. Đến nơi. Ông gần như đổ sụp xuống ghế, xương cốt già nua thư thái vì được nghỉ. Máy trả lời đang phát tín hiệu. Ông nhấn nút và lắng nghe.

- Warren Bellamy đây, - giọng thì thào gấp gáp của người bạn đồng thời là một huynh đệ Tam điểm vang lên - Tôi e rằng có tin khẩn...

***

Katherine Solomon đưa mắt nhìn ma trận chữ cái, xem xét lại nội dung. Hoàn toàn đúng, giờ đây một từ Latinh hiện rõ trước mắt cô. Jeova.

ẢNH

Katherine không học chữ Latinh, nhưng từ này rất quen thuộc vì cô đã đọc nhiều tài liệu tiếng Do Thái cổ. Jeova. Jehovah. Cô tiếp tục lướt xuống dưới, đọc ma trận như đọc một cuốn sách, kinh ngạc nhận ra mình có thể nắm bắt được bộ văn bản của kim tự tháp.

Jeova Sanctus Unus.

Katherine hiểu ngay ý nghĩa. Cụm từ này xuất hiện rất nhiều trong các bản dịch hiện đại của kinh văn Do Thái. Trong Torah(69) chúa của người Do Thái được biết đến với nhiều tên gọi - Jeova, Jehovah, Jeshua, Yahweh. Nguồn cội, Elohim - nhưng nhiều bản dịch tiếng La Mã đã biến danh pháp này thành một cụm từ Latinh duy nhất: Jeova Sanctus Unus.

- Đức Chúa đích thực ư? - cô thì thào tự nhủ. Chắc chắn cụm từ này không thể giúp họ tìm được Peter - Đó là thông điệp bí mật của kim tự tháp ư? Một Đức Chúa đích thực? Tôi cứ nghĩ đây là một tấm bản đồ cơ đấy.

Langdon cũng lúng túng không kém, vẻ hào hứng trong mắt anh đã tan biến.

- Cách giải mã này rõ ràng là đúng, nhưng...

- Kẻ giam giữ anh trai tôi muốn biết vị tr í- Katherine vén tóc ra sau tai - Kết quả này sẽ không làm hắn hài lòng đâu.

- Katherine, - Langdon thở dài - Tôi cũng sợ như vậy. Suốt đêm, tôi có cảm giác chúng ta đang phải xử lý cả một mớ huyền tích. Có lẽ dòng chữ khắc này trỏ tới một địa điểm ẩn dụ, cho chúng ta biết rằng chỉ có thể tiếp cận tiềm năng thật sự của con người thông qua một Đức Chúa đích thực.

- Chẳng có nghĩa gì! - Katherine đáp, hàm bạnh ra vì thất vọng - Gia đình tôi đã bảo vệ cái kim tự tháp này hàng bao thế hệ. Một Đức Chúa đích thực? Đó là bí mật ư? Và CIA coi đây là vấn đề an ninh quốc gia ư? Hoặc là họ đang nói dối hoặc là chúng ta còn bỏ sót điều gì!

Langdon nhún vai.

Bỗng nhiên, điện thoại của anh đổ chuông.

***

Trong văn phòng xếp đầy những cuốn sách cũ. Ông già còng người trên bàn, cầm chặt ống nghe trong bài tay viêm khớp.

Chuông đổ liên tục.

Cuối cùng, một giọng nói ngập ngừng vang lên.

- A lô? - Giọng trầm tĩnh nhưng không chắc chắn lắm.

Ông già thì thào.

- Tôi nghe đồn anh cần một chỗ kín đáo.

Người ở đầu dây bên kia giật mình.

- Ai đấy? Có phải Warren Bell...

- Xin đừng nói tên, - ông già ngắt lời - Cho tôi biết có phải anh đã bảo vệ được tấm bản đồ người ta uỷ thác cho anh không?

Lại giật mình im lặng.

- Vâng... nhưng tôi không nghĩ điều này quan trọng. Nó chẳng thể hiện gì nhiều. Nếu đó là một bản đồ thì dường như nó mang tính ẩn dụ hơn là...

- Không, bản đồ rất thật, tôi dám cam đoan với anh, và nó chỉ tới một địa điểm hữu hình. Anh phải giữ nó an toàn. Tôi khó lòng giải thích cho anh hiểu nó quan trọng đến thế nào. Anh đang bị truy đuổi, nhưng nếu anh có thể kín đáo tới chỗ tôi, tôi sẽ cho anh một chỗ ẩn náu... và câu trả lời.

Người kia ngập ngừng, rõ ràng là không chắc chắn lắm.

- Anh bạn, - ông già lại nói, thận trọng cân nhắc từ ngữ - ở một chỗ trú trong thành Rome, phía bắc sông Tiber, có mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn khác mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke. Anh biết chỗ tôi rồi chứ?

Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu, sau cùng trả lời.

- Vâng, tôi biết.

Ông già mỉm cười. Tôi chắc thể nào anh cũng đoán ra, Giáo sư ạ.

- Đến ngay đi. Nhất định đừng để bị bám đuôi.

Chú thích:

(67) Pooja hay puja là một nghi lễ trong tạ ơn hoặc một nghi thức tôn giáo trong Ấn Độ giáo, được tiến hành như một hình thức lễ vật dâng lên các vị thần, những người tôn quý, hoặc khách đặc biệt. Nghi lễ này được tiến hành trong nhiều dịp và ở nhiều bối cảnh, từ puja hằng ngày thực hiện tại nhà, đến các nghi lễ ở đền miếu và các lễ hội lớn. Puja hình thành từ ý tưởng dâng lễ lên cho thần để nhận được sự phù hộ của thần - ND.

(68) Sudoku là lên tiếng Nhật (nghĩa đen là "số độc nhất") của một loại trò chơi logic, cách chơi là điền số từ 1 đến 9 vào những ô trống sao cho mỗi cột dọc, mỗi hàng ngang, mỗi phân vùng nhỏ (ô 3x3) có đủ các số từ 1 đến 9 mà không được lặp lại. Bảng câu đố hình vuông, mỗi chiều có 9 ô nhỏ, hợp thành 9 cột. 9 hàng và được chia thành 9 ô lớn 3x3. Một vài ô nhỏ được đánh số, đó là những gợi ý duy nhất để bạn tìm lời giải. Tuỳ theo mức độ nhiều hay ít của các gợi ý, các câu đố được xếp loại dễ, trung bình, khó hay cực khó - ND.

(69) Torah (tiếng Do Thái nghĩa là "lời răn", hoặc "luật lệ") là 5 cuốn sách của Moses và cũng là toàn bộ các văn bản tôn giáo và luật pháp cơ bản của Do Thái giáo - ND.

Chương 71

Mal'akh trần truồng đứng trong phòng tắm hơi, giữa hơi nước nóng cuồn cuộn. Gột xong dấu mùi ethanol cuối cùng, gã thấy mình thanh khiết trở lại. Hơi nước ngâm dầu khuynh diệp ngấm vào da, nhiệt độ cao khiến các lỗ chân lông gã nở rộng. Mal'akh bắt đầu tiến hành nghi thức.

Trước tiên, gã trát hoá chất tẩy lông khắp người và cả mảng da đầu xăm trổ kín mít để loại bỏ hoàn toàn mọi thứ lông, tóc. Những người không có lông lá là thần thánh của bảy hòn đảo Heliades(70) sau đó, gã xoa đều dầu Abramelin lên lớp da thịt đã mềm mại và dễ hấp thu của mình. Abramelin là dầu thiêng của mẹ Magi vĩ đại. Rồi gã vặn hết cỡ vòi tắm sang trái, nước trút xuống lạnh như băng. Gã đứng hẳn một phút dưới làn nước buốt giá để các lỗ chân lông khép lại và giữ lấy hơi ấm cùng năng lượng. Cái lạnh còn có tác dụng gợi nhớ dòng sông băng giá, nơi khởi đầu cho hành trình biến đổi này.

Khi bước ra khỏi phòng tắm, Mal'akh rùng mình, nhưng chỉ vài giây sau, hơi ấm bên trong lan toả qua từng thớ thịt và làm gã ấm lên. Mal'akh cảm thấy trong người nóng sực như lò lửa. Gã đứng trần truồng trước gương và ngắm nghía hình thể của mình... có lẽ là lần cuối cùng, nhìn thấy bản thân trong bộ dạng một kẻ phàm tục hèn mọn.

Hai bàn chân gã là móng vuốt của một con chim ưng. Đôi chân là cặp cột tượng trưng cho trí tuệ cổ đại: Boaz và Jachin. Hông và bụng gã là cổng vòm của sức mạnh thần bí. Ngay bên dưới cổng vòm ấy, cơ quan sinh dục cỡ lớn mang đầy những biểu tượng xăm trổ thể hiện định mệnh của gã. Đã có lúc, cái khối thịt nặng nề này là nguồn khoái cảm nhục dục của gã. Nhưng giờ thì không như vậy nữa.

Ta đã giữ mình thanh khiết.

Như các tu sĩ tĩnh thân dòng Katharoi(71), Mal'akh đã tự cắt bỏ tinh hoàn, hy sinh khả năng giao cấu thể xác vì một thứ xứng đáng hơn. Thần thánh làm gì có giới tính. Vứt bỏ sự kém hoàn hảo về giới tính của loài người cùng với cám dỗ nhục dục trần tục, Mal'akh trở thành Ouranos(72) Attis(73), Sporus(74) và những pháp sư tĩnh thân vĩ đại trong truyền thuyết về vua Arthur. Mọi biến thái vật chất sẽ dẫn tới biến thái tinh thần. Đó là bài học của tất cả các vị thần vĩ đại... từ Osiris, Tammuz, Jesus, tới Shiva và cả Phật tổ.

Ta phải trút bỏ cái lốt người phàm bấy nay.

Bất ngờ, Mal'akh đẩy dần ánh mắt lên cao, qua hình phượng hoàng hai đầu trên ngực, qua những con dấu cổ trang trí trên mặt, và lên thẳng đỉnh đầu. Gã nghiêng đầu về phía gương, cố nhìn khoảng da tròn nhẵn nhụi vẫn nằm chờ đợi ở đó. Đây là vị trí rất thiêng liêng trên cơ thể, với tên gọi "cái thóp", là vùng sọ không liền khi người ta mới chào đời, là con mắt nhìn vào não bộ. Mặc dù cánh cổng sinh lý học này khép lại dần theo năm tháng nhưng nó vẫn là một dấu tích mang tính biểu trưng cho sự liên hệ đã mất giữa thế giới bên trong và bên ngoài.

Mal'akh ngắm nghía mảng da trơn thiêng liêng đó. Bao quanh nó là một vòng tròn hình hàm vĩ xà (ouroboros), mô tả một con rắn huyền bí đang ăn đuôi của chính mình. Mảng thịt nhẵn nhụi dường như cũng nhìn lại gã... rạng rỡ đầy hứa hẹn.

Không lâu nữa. Robert Langdon sẽ khám phá ra kho báu vĩ đại mà Mal'akh cần. Hễ gã nắm lấy kho báu ấy, khoảng trống trên đỉnh đầu này sẽ được lấp kín, đó là lúc sẵn sàng để tiến vào quá trình chuyển đổi cuối cùng.

Mal'akh băng ngang phòng ngủ, mở ngăn tủ dưới cùng và lấy ra một tấm lụa trắng dài. Tương tự các lần trước đó, gã quấn nó quanh bẹn và mông, rồi đi xuống gác.

Gã vào phòng làm việc, kiểm tra máy tính thì thấy có một bức thư điện tử.

Từ một người quen:

NHỮNG GÌ ANH CẦN GIỜ TRONG TẦM TAY.

TÔI SẼ LIÊN LẠC VỚI ANH TRONG VÒNG MỘT GIỜ NỮA. CỨ KIÊN NHẪN.

Mal'akh mỉm cười. Đã đến lúc thực hiện thao tác chuẩn bị cuối cùng.

Chú thích:

(70) Heliades là một thiên đường gồm bảy hòn đảo ở phương nam, nằm đâu đó ngoài khơi Aithiopia và Ấn Độ, tại Ấn Độ Dương. Đây là một vùng đất thanh bình, không có mùa đông, với những cánh rừng hoa trái quanh năm. Cư dân ở đây là một chủng tộc xinh đẹp và đức hạnh. Họ cao ráo và hoàn toàn không có lông - trừ trên đầu, cằm và lông mày. Họ có đôi tai có van và lưỡi chẻ nên họ có thể nói chuyện với hai người khác nhau cùng một lúc, cũng như bắt chước được tiếng các loài. Họ mặc áo choàng bằng vải lanh nhuộm màu tía. Cư dân Heliades (thần dân của Mặt trời) sống rất lâu. Đến tuổi 150, họ phải trải qua một hình thức chết mà không đau đớn. Mỗi hòn đảo có một vị vua, người lớn tuổi nhất đảo, trị vì. Ở nơi này không có gia đình. Trẻ em được nuôi chung và kiến thức làm cha mẹ bị cấm ngặt. Lúc mới chào đời, trẻ sơ sinh được đặt lên lưng một con chim thần để xác định khuynh hướng tinh thần của chúng. Những đứa trẻ không qua được "bài kiểm tra này sẽ bị loại bỏ và bị bỏ mặc cho tới chết - ND.

(71) Katharoi là từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "thuần khiết", dùng để chỉ một trường phái Thiên Chúa giáo với các yếu tố đối ngẫu xuất hiện ở vùng Languedoc nước Pháp và các vùng khác của châu Âu trong thế kỷ XI-XIII. Các tín đồ phái này hình thành một nhóm bài tăng lữ đối lập với Nhà thờ Công giáo, phản đối những gì họ xem là sự suy đồi về đạo đức, tinh thần và chính trị của Nhà thờ. Họ cho rằng giao phối và sinh nở khiến cho tinh thần bị lệ thuộc vào xác thịt, do đó có thể gây ra nhiều phiền toái. Những người thuộc tầng lớp trên (Perfecti) phải sống độc thân hoàn toàn - ND.

(72) Uranus hay Ouranus nghĩa là "bầu trời". Trong thần thoại Hy Lạp, Uranus được hình tượng hoá như là con trai và cũng là chồng của Đất Mẹ Gaia. Uranus và Gaia là thuỷ tổ của hầu hết các thần Hy Lạp. Theo truyền thuyết, đêm đêm Uranus trùm lên trái đất và giao cấu với Gaia, nhưng lại rất ghét những đứa con mà bà có với ông. Uranus giam những đứa con út của Gaia ở Tartarus, sâu trong lòng đất, khiến cho Gaia đau xót. Bà đúc một lưỡi hái và bảo các con trai của mình dùng nó để thiến Uranus. Chỉ có Cronus, đứa út dám làm việc này. Cronus phục kích và thiến cha mình, vứt tinh hoàn xuống biển. Sau khi bị thiến, Bầu trời không còn trùm lên Mặt đất nữa, mà ở nguyên một chỗ - ND.

(73) Attis theo thần thoại cổ là người tình của nữ thần Cybele. Attis không chung thuỷ nên bị Cybele trả thù bằng cách làm cho ông ta hoá điên và tự thiến mình. Các thày tế thờ cúng Attis đều tự hoạn - ND.

(74) Sporus là một thanh niên xinh đẹp có vẻ ngoài rất giống Poppaea Sabina, vợ của bạo chúa Nero. Khi Sabina chết năm 63 sau Công nguyên, Nero say mê thanh niên này, bắt anh ta phải thiến rồi cho mặc quần áo phụ nữ, và gọi anh ta bằng cái tên Sabina. Nero thậm chí còn công khai cưới Sporus vào năm 67 sau Công nguyên - ND.

Chương 72

Đặc vụ CIA tụt xuống khỏi ban công phòng đọc, lòng vô cùng cay cú

Lão Bellamy nói dối. Anh ta không phát hiện ra dấu nhiệt nào gần bức tượng Moses cũng như bất kỳ đâu trên gác.

- Thế thì tay Langdon biến đi đằng quái nào nhỉ?

Gã đặc vụ lần lại lộ trình của Langdon tới trung tâm phân phối của thư viện, địa điểm duy nhất xuất hiện dấu nhiệt. Một lần nữa, anh ta đi xuống cầu thang nằm bên dưới cái bục hình bát giác. Các băng chuyền đang chạy phát ra tiếng ồn nghe thật khó chịu, vào tới nơi, gã đặc vụ chỉnh thiết bị nhìn đêm và quan sát căn phòng một lượt. Chẳng có gì cả. Anh ta nhìn về phía những giá sách, cánh cửa bị phá hỏng vẫn còn nghi ngút hơi nóng do vụ nổ. Chẳng thấy...

Mẹ kiếp!

Anh ta nhảy bật lại khi một vệt phát quang bất ngờ lọt vào tầm nhìn Đó là hai hình người lờ mờ như cặp ma trơi, xuất hiện trên mặt tường cạnh một băng chuyền. Các dấu nhiệt.

Gã đặc vụ thừ người nhìn hai bóng ma theo băng chuyền di chuyển quanh phòng rồi biến mất sau một lỗ hổng hẹp trên tường.

Họ dùng băng chuyền để thoát thân ư? Đúng là điên rồ.

Ngoài việc nhận ra họ đã để sổng Robert Langdon qua một lổ hổng trên tường, gã đặc vụ còn hiểu rằng mình đang gặp phải một vấn đề khác. Langdon không chỉ có một mình?

Anh ta định tắt thiết bị nhìn và gọi cho đội trưởng, thì đội trưởng đã gọi lại trước.

- Các vị trí chú ý, có một chiếc Volvo bỏ không ở ngay quảng trường trước thư viện. Tên chủ xe là Katherine Solomon. Nhân chứng nói rằng cô ta vào thư viện cách đây không lâu. Chắc hẳn cô ta đang ở cùng Robert Langdon. Giám đốc Sato ra lệnh phải tìm cả hai ngay lập tức - Tôi vừa phát hiện dấu nhiệt của bọn họ - gã đặc vụ ở phòng phân phối thông báo.

- Lạy Chúa tôi! - viên đội trưởng hỏi - Băng chuyền chạy đi chỗ nào thế?

Gã kia kiểm tra biểu đồ tham chiếu nhân viên trên bảng tin.

- Toà nhà Adams, - anh ta đáp - Cách đây một dãy nhà.

- Các vị trí chú ý! Dồn hết về Toà nhà Adams! NGAY LẬP TỨC!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #gakute