Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

bh thanhhuongd91

CHƯƠNG I

Câu 1: Các phương thức xử lý khi gặp rủi ro? Đặc điểm và tác dụng của xử lí rủi ro bằng bảo hiểm.Liên hệ thực tế ở Việt Nam hiện nay.

1. Các biện pháp đối phó với rủi ro (phương thức xử lý rủi ro)

Trong cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn cũng được con người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát triển, một mặt đã làm tăng năng xuất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống của con người, nhưng mặt khác nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày càng nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả tổn thất, lúc này con người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phòng vệ. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, những cách thức này thể hiện chủ yếu ở hai nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.

* Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất

+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc sống. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra nhằm loại nguy cơ dẫn đến bị tổn thất.

VD:  để né tránh tai nạn giao thông người ta đã hạn chế việc đi lại, hay để phòng tránh tai nạn lao động, người ta sẽ chọn những ngành nghề ít nguy hiểm hơn …

Tuy vậy, trong cuộc sống mà nhất là cuộc sống hiện đại như ngày nay biện pháp này rất khó thực hiện và thậm chí là không thể thực hiện được.

+ Ngăn ngừa tổn thất. Đây là biện pháp khá chủ động cách thực hiện các hành vi và hành động cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa ra nhằm giảm mức độ thiệt hại khi gặp rủi ro.

VD: để giảm bớt TNLĐ người ta đã tổ chức các khoá học cho người lao động về an toàn, vệ sinh lao động. Hay để phòng chống hoả hoạn, người ta đã thực hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy …

+ Giảm thiểu tổn thất. Cho dù khi đã gặp phải rủi ro, người ta vẫn có thể có các biện pháp làm giảm thiểu tổn thất.

VD: khi hoả hoạn xảy ra, để giảm thiểu tổn thất người ta đã sử dụng biện pháp cứu hoả. Hay khi bị tai nạn, dể giảm thiểu các thiệt hại về người, người ta đã đưa những người bị thương đi cấp cứu kịp thời và điều trị …

* Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm.

+ Chấp nhận rủi ro. Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn thất khi gặp phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm.

VD: người ta có thể tự lập ra quỹ dự trữ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất khi gặp phải rủi ro. Hoặc khi rủi ro xảy ra, người ta có thể đi vay mượn tiền bạc để khắc phục hậu quả.

+ Bảo hiểm. Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một hay một số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất.

2. Đặc điểm và tác dụng của xử lí rủi ro bằng bảo hiểm.Liên hệ thực tế ở Việt Nam hiện nay

ª     Đặc điểm

- Phân phối của quĩ bảo hiểm không phải là sự phân phối đồng đều bình quân theo mức đóng góp.

Khi tham gia bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có quyền nhận phân phối từ quĩ bảo hiểm nhưng không phải ai cũng nhận được phân phối và được nhận như nhau. Sở dĩ có hiện tượng đó là vì không phải ai tham gia bảo hiểm cũng đều gặp phải rủi ro và ngay cả khi gặp phải rủi ro thì mức độ thiệt hại cũng không giống nhau.

- Việc phân phối, sử dụng quĩ bảo hiểm không xác định trước được về qui mô, thời gian diễn ra.

Tổ chức bảo hiểm chỉ tiến hành trợ giúp, bồi thường khi rủi ro đã xảy ra và mức độ bồi thường trợ giúp được xác định dựa trên cơ sở những thiệt hại mất mát thực tế hoặc do luật định. Đây là đặc điểm riêng của bảo hiểm, khác với các khâu khác trong hệ thống tài chính. Ví dụ, trong quan hệ đi vay và cho vay của tín dụng thì qui mô tín dụng thời gian hoàn trả, lãi suất,... đã được xác định trước khi diễn ra hoạt động này.

- Bảo hiểm là một hình thức dự trữ tài chính nhằm bù đắp và khắc phục những tổn thất thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh và đời sống con người khi những biến cố bất lợi xảy ra.

Cũng như các quĩ tiền tệ khác quĩ bảo hiểm được tạo lập thông qua quá trình phân phối của cải xã hội, việc tạo lập quĩ bảo hiểm có thể tự nguyện hoặc bắt buộc nhưng đều xuất phát từ nhu cầu cần được đảm bảo an toàn trong sản xuất kinh doanh và đời sống của con người, việc phân phối sử dụng quĩ chỉ được thực hện khi các biến cố bất lợi xảy ra đối với các đối tượng được bảo hiểm; khi các biến cố bất lợi không xảy ra thì người tham gia bảo hiểm không được bồi hoàn số tiền đã đóng bảo hiểm phí. Như vậy hoạt động bảo hiểm vừa mang  tính chất bồi hoàn vừa mang tính chất không bồi hoàn, chính đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt quĩ bảo hiểm với các quĩ tiền tệ khác như: ngân sách Nhà nước, quĩ tín dụng...

ª     Tác dụng

- Theo đà phát triển của lịch sử và của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, trong số tất cả các biện pháp thuộc hai nhóm biện pháp nêu trên, biện pháp bảo hiểm mà con người áp dụng là phổ biến và có hiệu quả nhất. Bởi lẽ, hậu quả của rủi ro thông qua bảo hiểm sẽ được phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu. Bảo hiểm là hình thức chuyển giao rủi ro hữu hiệu nhất. Hơn nữa, bảo hiểm không chỉ thuần tuý là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó còn là sự giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình quản lý rủi ro được phối hợp giữa các cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội với các tổ chức bảo hiểm.

3. Liên hệ thực tế ở Việt Nam hiện nay

Câu 2: Trình bày các hình thức bảo hiểm trong nền kinh tế? Để thu hút người tham gia bảo hiểm, các tổ chức bảo hiểm phải quan tâm và giải quyết những vấn đề gì?

1. Các hình thức bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường

ª     Căn cứ vào mục đích hoạt động của các tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm

a. Bảo hiểm có mục đích kinh doanh (BH thương mại)

Là hoạt động của các công ty bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm kinh doanh. Người bảo hiểm tìm kiếm lợi ích kinh tế trên cơ sở của hợp đồng bảo hiểm mà qua đó, đổi lấy phí bảo hiểm. Người bảo hiểm cam kết thực hiện bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

b.  Hoạt động bảo hiểm không vì mục đích kinh doanh

Mục đích hoạt động của loại hình bảo hiểm này là nhằm mục đích tương hỗ giữa các thành viên tham gia. Với tư cách là tổ chức quản lý quỹ xã hội, quỹ tài chính tập trung, bảo hiểm xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà phục vụ cho chính sách xã hội, vì mục đích và quyền lợi của người lao động có tham gia bảo hiểm xã hội.

ª     Theo chủ thể quản lý quỹ bảo hiểm

a. Phương thức chuyển giao phân tán rủi ro

Theo cơ chế này, người tham gia bảo hiểm sẽ chuyển giao, phân tán các rủi ro cho các tổ chức bảo hiểm mà bản thân không muốn hoặc không thể gánh chịu được bằng  việc trích nộp một phần thu nhập của mình cho các tổ chức bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm.

b. Phương thức tự bảo hiểm

Thay vì việc chuyển giao rủi ro cho các tổ chức chuyên môn hóa trong hoạt động bảo hiểm, tự bảo hiểm là việc các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp thành lập các quỹ dự trữ riêng để bù đắp các tổn thất có thể xảy ra đối với quá trình sản xuất và đời sống của mình.

ª     Theo đối tượng bảo hiểm

a. Bảo hiểm tài sản

Đối tượng bảo hiểm là tài sản của tập thể hay cá nhân bao gồm: vật có thực:  ô tô, xe máy, tàu thủy… tiền, giấy tờ có giá. Thiệt hại được bồi thường trong loại hình bảo hiểm này mang tính vật chất

b. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm trước pháp luật của một tổ chức (có tư cách pháp nhân) hay một cá nhân (có tư cách thể nhân) đối với bên thứ ba khi tổ chức hay cá nhân này gây ra lỗi cho bên thứ ba.

c. Bảo hiểm con người

Đối tượng bảo hiểm là con người hay các bộ phận của cơ thể con người hay các vấn đề có liên quan như tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai nạn…

2. Để thu hút người tham gia bảo hiểm, các tổ chức bảo hiểm phải quan tâm và giải quyết những vấn đề gì?

Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, hoạt động kinh doanh gắn liền với các sản phẩm bảo hiểm cụ thể. Vì vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm, bên cạnh sự quan tâm về thị trường bảo hiểm nói chung cần đặc biệt chú ý tới thị trường những sản phẩm bảo hiểm cụ thể của doanh nghiệp. Nói cách khác, vấn đề cơ bản mà các doanh nghiệp bảo hiểm quan tâm đến thị trường chính là những người mua bảo hiểm và nhu cầu của họ về những sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp. Do đó, dưới góc độ marketing, thị trường bảo hiểm bao gồm toàn bộ khách hàng hiện tại và khách hàng tương lai của một loại sản phẩm bảo hiểm. Điều này đã mở ra triển vọng cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc mở rộng thị trường, hướng tới khách hàng bảo hiểm. Nhưng cũng chính điều này làm cho cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm càng trở nên gay gắt. Để lành mạnh hóa thị trường bảo hiểm, bên cạnh những nỗ lực của các chủ thể tham gia vào thị trường, Nhà nước cần có chính sách quản lý, điều chỉnh phủ hợp, đúng hướng.

Câu 3: Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm? Tại sao bảo hiểm được coi là biện pháp hữu hiệu nhất trong việc khắc phục những khó khăn về mặt tài chính do rủi ro bất ngờ gây ra.

1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm

- Bảo hiểm là hình thức chuyển giao rủi ro hữu hiệu nhất

Trong cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn cũng được con người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát triển, một mặt đã làm tăng năng xuất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống của con người, nhưng mặt khác nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày càng nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả tổn thất, lúc này con người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phòng vệ. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, những cách thức này thể hiện chủ yếu ở hai nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.

* Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất

+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc sống. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra nhằm loại nguy cơ dẫn đến bị tổn thất

+ Ngăn ngừa tổn thất. Đây là biện pháp khá chủ động cách thực hiện các hành vi và hành động cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa ra nhằm giảm mức độ thiệt hại khi gặp rủi ro.

+ Giảm thiểu tổn thất. Cho dù khi đã gặp phải rủi ro, người ta vẫn có thể có các biện pháp làm giảm thiểu tổn thất.

* Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm.

+ Chấp nhận rủi ro. Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn thất khi gặp phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm.

+ Bảo hiểm. Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một hay một số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất.

Theo đà phát triển của lịch sử và của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, trong số tất cả các biện pháp thuộc hai nhóm biện pháp nêu trên, biện pháp bảo hiểm mà con người áp dụng là phổ biến và có hiệu quả nhất. Bởi lẽ, hậu quả của rủi ro thông qua bảo hiểm sẽ được phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu.

- Bảo hiểm góp phần giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất

Rủi ro là sự không chắc chắn, khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn thiệt hại.

Tổn thất là sự thiệt hại của một đối tượng nào đó phát sinh từ một biến cố bất ngờ ngoài ý muốn của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu sử dụng

Trong sản xuất con người luôn có nguy cơ gặp phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau, như: bão lụt, hạn hán, ốm đau, bệnh tật, tai nạn. Mặt khác trong cuộc sống con người cũng phải đối mặt với rủi ro như: bệnh tật, tai nạn … Mỗi khi gặp phải rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường làm ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất và đến sức khoẻ của con người. Bởi vậy, ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng xuất hiện và nó là một trong những nhu cầu vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính bản thân mình và tài sản của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong sản xuất. Phương pháp bảo vệ lúc đầu là rất đơn giản và đôi khi là mù quáng, bằng cách họ luôn luôn cầu xin các đấng thần linh và chúa trời phù hộ để được yêu ổn, an toàn. Và chẳng bao lâu con người đã tìm ra cách thức bảo vệ một cách có tổ chức

Bảo hiểm không chỉ thuần tuý là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó còn là sự giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình quản lý rủi ro được phối hợp giữa các cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội với các tổ chức bảo hiểm.

- Bảo hiểm là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước

Trong điều kiện phát triển nền KTTT có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước cũng đòi hỏi phải có quĩ dự trữ bảo hiểm. Để tạo ra hành lang môi trường thuận lợi, đặc biệt giữ cho nền tài chính, tiền tệ, giá cả, chính trị xã hội ổn định tất yếu Nhà nước phải có lực lượng dự trữ vật tư, tài chính đủ mạnh để can thiệp vào nền kinh tế mỗi khi có những biến động kinh tế xã hội làm ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch Nhà nước đã hoạch định

2. Tại sao bảo hiểm được coi là biện pháp hữu hiệu nhất trong việc khắc phục những khó khăn về mặt tài chính do rủi ro bất ngờ gây ra?

 

Câu 4: Bản chất của bảo hiểm? Phân tích mối quan hệ giữa bảo hiểm với phát triển kinh tế- xã hội

1. Bản chất của bảo hiểm

- Khái niệm bảo hiểm

Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro các biến cố bảo hiểm, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội diễn ra bình thường

- Bản chất của bảo hiểm

+ Là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Quá trình phân phối này là phân phối lại (diễn ra ngoài lĩnh vực sản xuất) và không đều giữa những người tham gia bảo hiểm (có người đóng góp ít, người đóng góp nhiều), không mang tính hoàn trả trực tiếp (chỉ khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro thì mới được bồi thường).

+ Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm vì bảo hiểm ra đời là để phân tán chia sẻ rủi ro

+ Cơ chế chuyển giao trong bảo hiểm được thực hiện giữa bên tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm thông qua các cam kết bảo hiểm. Theo cơ chế này bên tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm và bên bảo hiểm cam kết bồi thường hay chi trả tiền  bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Tất nhiên rủi ro hay sự kiện bảo hiểm phải là ngẫu nhiên, khách quan mà hai bên đã thỏa thuận.

+ Hình thức dịch vụ đặc biệt doanh thu phát sinh trước chi phí phát sinh sau. Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải được thực hiện trước khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà bên bảo hiểm trả cho bên tham gia bảo hiểm hay cho người thứ 3 chỉ được thực hiện sau khi sự kiện bảo hiểm hay rủi ro xảy ra gây tổn thất.

+ Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm tính toán và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng như quỹ bảo hiểm mà họ thiết lập được dựa vào nguyên tắc số đông bù số ít.

+ Bảo hiểm thương mại là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt động sản xuất Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hóa rất cụ thể và vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia.

2. Phân tích mối quan hệ giữa bảo hiểm với phát triển kinh tế- xã hội

Tham khảo vai trò của bảo hiểm

Câu 5: Phân tích vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường?

ª     Vai trò kinh tế

Bảo hiểm nói chung và các loại hình bảo hiểm nói riêng đều mang lại lợi ích kinh tế- xã hội thiết thực. Xét về mặt kinh tế bảo hiểm có những vai trò to lớn sau đây:

+ Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư:

Từ khi các loại hình bảo hiểm ra đời cho đến nay đã chứng minh bảo hiểm góp phần rất to lớn trong việc ổn định tài chính cho các cá nhân và các tổ chức tham gia bảo hiểm. Có thể là ổn định về thu nhập nếu tham gia bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm thất nghiệp. Cũng có thể là ổn định về tài chính nếu tham gia bảo hiểm bảo hiểm y tế hay bảo hiểm thương mại. Bởi lẽ, khi rủi ro hay các sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm, nếu bị tổn thất, các cơ quan hay doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống và sản xuất, làm cho sản xuất, kinh doanh phát triển bình thường. Vai trò này đáp ứng được mục tiêu kinh tế của người tham gia nên đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng đông đảo.

Trong các nền kinh tế hiện đại, bảo hiểm đã trực tiếp đảm bảo các khoản đầu tư. Hầu hết các dự án đầu tư hiện nay đã đòi hỏi phải có bảo hiểm. Không có sự đảm bảo của bảo hiểm thì các chủ đầu tư. mà nhất là các ngân hàng liên quan sẽ không dám mạo hiểm đầu tư vốn cho dự án .

+ Kênh huy động vốn hữu hiệu để đầu tư phát triển kinh tế

Các cơ quan và doanh nghiệp bảo hiểm thu phí bảo hiểm trước khi rủi ro và sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Điều đó cho phép họ có một số tiền rất lớn và cần phải quản lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm . Ngoài ra, giữa thời điểm xảy ra rủi ro do tổn thất và thời điểm chi trả hoặc bồi thường luôn có một khoảng cách nhất định. Khoảng thời gian này có thể kéo dài nhiều năm, nhất là trong bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm xã hội. Bởi vậy, số phí thu được phải dựa vào dự trữ, dự phòng và phải đem đầu tư để thu lãi.

Thêm vào đó, các loại hình bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm xã hội lại ngày càng phát triển nhanh chóng và số phí được tồn tích lại ngày càng lớn. Điều đó càng khẳng định thêm vai trò huy động vốn để đầu tư của toàn ngành bảo hiểm là vô cùng quan trọng đối với các nền kinh tế.

+ Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước

Với các loại quỹ bảo hiểm ngày càng tăng do người tham gia bảo hiểm đóng góp, các cơ quan, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ  trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời cho họ để ổn định đời sống và sản xuất nếu như đối tượng bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Vì vậy, ngân sách Nhà nước không phải chi tiền để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro.

Mặt khác hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại còn có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách thông qua các loại thuế mà các doanh nghiệp bảo hiểm phải nộp. Và cũng trong hoạt động này, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp bảo hiểm thông qua tái bảo hiểm hoặc đồng bảo hiểm để phân tán rủi ro. Điều đó cho thấy vai trò ổn định và tăng thu cho ngân sách, đồng thời phát triển các mối quan hệ quốc tế của hoạt động bảo hiểm là rất đáng kể trong điều kiện thế giới ngày nay.

ª     Vai trò xã hội

+ Bảo hiểm góp phần ngăn ngừa, đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cuộc sống của con người an toàn, xã hội trật tự hơn

Trong quá trình tham gia bảo hiểm, các cơ quan, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng với người tham gia bảo hiểm phối hợp để thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất thông qua một loạt các hoạt động như: tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, vệ sinh, an toàn lao động, xây dựng thêm các biển báo và các con đường lánh nạn để giảm bớt tai nạn giao thông, tư vấn và hỗ trợ tài chính để xây dựng và thực hiện các phương án phòng cháy, chữa cháy, tiêm chủng và chăm sóc y tế cộng đồng…Tất cả những hoạt động nói trên của bảo hiểm đều nhằm mục đích góp phần ổn định cuộc sống, sản xuất và từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

+ Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tạo nếp sống tiết kiệm trên phạm vi toàn xã hội

Tiết kiệm trong bảo hiểm thường là tiết kiệm một cách có kế hoạch từ nội bộ mỗi gia đình, mỗi cơ quan, doanh nghiệp. Với những khoản tiền rất nhỏ, các cá nhân, các hộ gia đình vẫn có thể tiết kiệm được thông qua các loại hình bảo hiểm nhân thọ. Hay trong bảo hiểm xã hội, thì tiết kiệm hôm nay là để đảm bảo cuộc sống cho ngày mai khi người lao động về hưu…

Có thể nói, vài trò xã hội của bảo hiểm đã góp phần làm giảm tình trạng thất nghiệp cho người lao động và tạo dựng nếp sống đẹp trên phạm vi toàn xã hội

+ Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế- xã hội

Thật vậy, chỉ với một mức phí bảo hiểm rất khiêm tốn mà các cơ quan, các doanh nghiệp bảo hiểm thu được, họ vẫn có thể giúp đỡ cho các cá nhân, các gia đình, các cơ quan, doanh nghiệp khắc phục hậu quả rủi ro cho dù đó là những rủi ro khôn lường trong cuộc sống và sản xuất. Đó cũng là chỗ dựa để họ yên tâm hơn và tin tưởng vào cuộc sống trong tương lai

Câu 6: Phân tích mối quan hệ giữa bảo hiểm với sự phát triển kinh tế- xã hội?

Câu 7: Trình bày các yếu tố cấu thành bảo hiểm? Cho ví dụ minh họa.

(tự cho VD)

Ví dụ: Một sinh viên A tham gia bảo hiểm học sinh toàn diện tại công ty Bảo hiểm HN. Số tiền bảo hiểm là 10.000.0000. Hợp đồng có hiệu lực từ ngày 15/8/2006. Phí bảo hiểm đã trả đầy đủ.

Ngày 20/10/2006, sinh viên đó bị tai nạn giao thông hậu quả bị vỡ xương phải vào viện phẫu thuật. Đã bó bột 30 ngày, khi tháo bột phát hiện xương bị lệnh phải bó lại. Thời gian điều trị 20 ngày tại bệnh viện.

ª     Người bảo hiểm

Là người chấp nhận yêu cầu bảo hiểm bằng việc giao kết hợp đồng bảo hiểm, cấp cho bên mua bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng về hợp đồng bảo hiểm và ví thế có những quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận của hợp đồng bảo hiểm.

Theo ví dụ trên, doanh nghiệp bảo hiểm là công ty bảo hiểm Hà Nội, ký kết hợp đồng bảo hiểm học sinh toàn diện với sinh viên A. Công ty bảo hiểm Hà Nội có quyền nhận phí bảo hiểm và bồi thường bảo hiểm khi sinh viên A gặp tai nạn

ª     Người tham gia bảo hiểm

Là các tổ chức, cá nhân đứng ra yêu cầu bảo hiểm và giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm. Để có thể giao kết được hợp đồng bảo hiểm người tham gia bảo hiểm phải đảm bảo các yêu cầu về nănng lực hành vi dân sự năng lực pháp luật dân sự.

Theo ví dụ trên sinh viên A (trên 18 tuổi) đủ năng lực hành vi dân sự nên được phép giao kết hợp đồng bảo hiểm và bảo hiểm cho chính mình. Sinh viên A là người tham gia bảo hiểm.

ª     Người được bảo hiểm

Là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm, tính mạng, sức khỏe, khả năng lao động, tuổi thọ là đối tượng được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm .

Thông thường người được bảo hiểm là người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, những trường hợp người tham gia bảo hiểm khác người được bảo hiểm.

Trong ví dụ trên sinh viên A vừa là người tham gia bảo hiểm vừa là người được bảo hiểm (theo chế độ bảo hiểm sinh viên toàn diện).

 Trong nhiều trường hợp người tham gia bảo hiểm là con cái mua bảo hiểm nhân thọ cho bố mẹ (người tham gia bảo hiểm là con cái và người được bảo hiểm là bố mẹ), bố mẹ mua bảo hiểm cho con cái (đối tượng tham gia bảo hiểm là bố mẹ và người được bảo hiểm là con cái)

ª     Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm

Là người được bồi thường hoặc nhận tiền trả bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Thông thường quyền lợi bảo hiểm thuộc về người được bảo hiểm. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người được hưởng quyền lợi lại là người khác.

Trong ví dụ trên: sinh viên A vừa là người tham gia bảo hiểm vừa là người được bảo hiểm vừa là người nhận quyền lợi bảo hiểm (khi có tai nạn xảy ra ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của sinh viên A).

Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm có thể là bố mẹ cúa sinh viên A nếu sinh viên A bị tai nạn dẫn đến tử vong và được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm

ª     Đối tượng bảo hiểm

Là những cái gì  mà người tham gia bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm hoặc do pháp luật qui định bắt buộc phải bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm nói chung là tài sản, những lợi ích có liên quan đến tài sản hoặc trách nhiệm dân sự hoặc tính mạng, sức khỏe, khả năng lao động và tuổi thọ của con người.

 Trong ví dụ trên đối tượng bảo hiểm là tính mạng, sức khỏe của sinh viên A.

ª     Rủi ro bảo hiểm

Là mức độ hay khả năng xảy ra sự cố bảo hiểm, tức là một hoặc nhiều sự cố dự tính trong các điều kiện bảo hiểm mà khi những sự cố này xảy ra thì người bảo hiểm bắt buộc phải tiến hành trả tiền bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm

ª     Tai nạn bảo hiểm

Là sự cố bảo hiểm đã xảy ra kéo theo trách nhiệm của người bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm

 Trong ví dụ trên tai nạn bảo hiểm là tai nạn giao thông của sinh viên A, do tai nạn nên sinh viên A phải vào bệnh viện bó bột. Tai nạn bảo hiểm là sự cố xương bị lệch sau khi bó bột. Tất cả các tai nạn này đều làm phát sinh trách nhiệm của người bảo hiểm là công ty bảo hiểm Hà Nội. Công ty bảo hỉểm Hàn Nội phải trả mọi khoản chi phí hợp lý phát sinh.

ª     Giá trị bảo hiểm (GTBH)

Là giá trị bằng tiền của tài sản tại ngày ký hợp đồng bảo hiểm

Ví dụ: Một lô hàng xuất khẩu có tổng giá trị bảo hiểm (giá CIF) là 200.000 USD. Trong đó của:

+ Chủ hàng A: 120.000 USD

+ Chủ hàng B: 80.000 USD

Con tàu tham gia bảo hiểm ngang giá trị với số tiền là 300.000 USD.

Như vậy toàn bộ giá trị bảo hiểm trong chuyến hành trình của con tàu là: giá trị hàng + giá trị tàu = 500.000 USD

ª     Số tiền bảo hiểm (STBH)

Là số tiền tính cho từng loại tài sản được bảo hiểm mà trong giới hạn đó người bảo hiểm phải tiến hành trả tiền bồi thường tổn thất khi tai nạn bảo hiểm xảy ra đối với bảo hiểm tài sản, hoặc là số tiền phải trả cho đời sống và sức khoẻ đối với bảo hiểm thân thể.  Hay nói cách  khác, số tiền  bảo hiểm là số tiền tối đa người bảo hiểm phải trả cho người tham gia bảo hiểm

ª     Bồi thường bảo hiểm

Là khoản tiền mà nhà bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm (hoặc người thụ hưởng hợp pháp trên hợp đồng) khi rủi ro, tổn thất hoặc các trường hợp bảo hiểm khác xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm.

Tùy thuộc vào loại hình bảo hiểm  mà người ta sử dụng các từ ngữ khác nhau “số tiền bồi thường” cho các loại hình bảo hiểm thiệt hại (tài sản, trách nhiệm dân sự), “tiền bảo hiểm” cho các loại hình bảo hiểm con người.

Trong ví dụ về bảo hiểm học sinh toàn diện bồi thường bảo hiểm là số tiền mà công ty bảo hiểm Hà Nội phải chi trả cho sinh viên A

ª     Phí bảo hiểm

  Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho bên bảo hiểm. Thời hạn đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc theo định kỳ.

Phí bảo hiểm phụ thuộc vào các yếu tố; giá trị của rủi ro, giá phí cho sự quản lý của người bảo hiểm, dự phòng cho tổn thất lớn hơn.

Phí bảo hiểm là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Do đó, quy mô hưởng quyền lợi bảo hiểm phụ thuộc vào mức phí mà bên mua bảo hiểm đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm.

Đối với bảo hiểm tự nguyện, mức phí bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.

Đối với bảo hiểm bắt buộc, pháp luật quy định mức đóng phí bảo hiểm tối thiểu nên về nguyên tắc mức phí bảo hiểm do các bên thoả thuận không được thấp hơn mức tối thiểu

ª     Tỷ lệ phí bảo hiểm:

Là mức bảo hiểm phí tính trên một đơn vị của số tiền bảo hiểm cho một thời kỳ  bảo hiểm nhất định (thường là một năm), nó được tính theo tỷ lệ % so với số tiền bảo hiểm hoặc là một số tiền tuyệt đối.

ª     Thanh toán bảo hiểm

 Là việc nộp số tiền bảo hiểm phí theo từng đối tượng được bảo hiểm đúng với thời hạn đã được quy định trong hợp đồng bảo hiểm.

 

Câu 8: Các chủ thể tham gia vào thị trường bảo hiểm và vai trò của các chủ thể tham gia vào thị trường bảo hiểm ? Liên hệ ở Việt Nam hiện nay

1.Các chủ thể tham gia vào thị trường bảo hiểm và vai trò của các chủ thể tham gia vào thị trường bảo hiểm

+ Người mua bảo hiểm

Đây là các cá nhân hay tổ chức kinh tế- xã hội có nhu cầu được đảm bảo về mặt tài chính trước rủi ro. Họ đến với thị trường bằng cách trực tiếp hay thông qua môi giới để mua các dịch vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, việc quyết định mua loại bảo hiểm nào, mua ở đâu…còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như mức giá cả (mức phí bảo hiểm), khả năng tài chính, sự tin tưởng của người mua bảo hiểm…Khi hành vi mua bán được thực hiện, mối quan hệ giữa người bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm) và người mua bảo hiểm bị ràng buộc bởi hợp đồng bảo hiểm.

+ Người bán bảo hiểm

Đây là các doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động trên cơ sở luật pháp của Nhà nước sở tại.

1.Doanh nghiệp bảo hiểm

Pháp luật Việt Nam đã quy định các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm được hoạt động bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và tổ chức bảo hiểm tương hỗ.

1.1.Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước

Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước bao cồm có thể tồn tại dưới các dạng pháp lý:

1.1.1.Công ty bảo hiểm Nhà nước

Đây là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động kinh donah theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước. Công ty Nhà nước được tổ chức dưới hình thức Công ty Nhà nước độc lập hoặc Tổng công ty Nhà nước

1.1.2.Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà nước

Là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty Nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

1.1.3.Công ty trách nhiêm hữu hạn Nhà nước một thành viên

Là công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.

1.1.4.Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước có hai thành viên trở lên

Là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là các công ty Nhà nước, hoặc có thành viên là công ty Nhà nước và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.

1.1.5.Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước

Là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ và Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó. Quyền chi phối đối với doanh nghiệp là quyền định đoạt đối với điều lệ hoạt động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý chủ chốt, việc tổ chức quản lý và các quyết định quản lý quan trọng khác của doanh nghiệp.

1.2.Công ty cổ phần bảo hiểm

Công ty cổ phần bảo hiểm là loại hình doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ đươc chia thành nhiều cổ phần, do các cổ đông tham gia đóng góp thông qua hình thức phát hành cổ phiếu. Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ tương ứng với số vốn góp. Các cổ đông có thể tổ chức, có thể là cá nhân. Số lượng cổ đông tối thiểu theo quy định của Luật doanh nghiệp là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Các cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn góp vào công ty và có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.

1.3 Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh

Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh là doanh nghiệp bảo hiểm do hai bên (bên Việt  Nam và bên nước ngoài) hoặc nhiều bên hợp tác thành lập và kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh và Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài.

2. Trung gian bảo hiểm

Trung gian bảo hiểm là người được ủy quyền của một bởi một bên (bên mua bảo hiểm hoặc bên bán bảo hiểm), gọi là thân chủ để đưa thân chủ đó vào mối quan hệ hợp đồng  với bên kia (bên bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm), gọi là bên thứ ba.

Các trung gian bảo hiểm không tạo ra sản phẩm bảo hiểm và cũng không mua trước các sản phẩm bảo hiểm để bán mà chỉ là cầu nối giữa người mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm gốc, doanh nghiệp tái bảo hiểm, giữa cung và cầu trên thị trường bảo hiểm. Hoạt động trung gian bảo hiểm rất cần thiết. Nhờ các trung gian bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể tập trung vào chuyên môn hóa, nghiên cứu và thiết kế sản phẩm mới, đồng thời phát huy hết lợi thế của hoạt động trung gian để khai thác dịch vụ, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo lợi thế trong cạnh tranh và mở rộng, chi phối thị trường.

Trung gian bảo hiểm bao gồm hai loại: môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm.

2.1.Môi giới bảo hiểm

Môi giới bảo hiểm là người đại diện của bên mua bảo hiểm (đối với bảo hiểm gốc) hoặc doanh nghiệp nhượng tái bảo hiểm (đối với tái bảo hiểm) trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm.

2.2.Đại lý bảo hiểm

Đại lý bảo hiểm đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm trong các hoạt động thuộc phạm vi ủy quyền của hợp đồng đại lý bảo hiểm.

3. Hiệp hội bảo hiểm

Hiệp hội bảo hiểm là một tổ chức dân sự nghề nghiệp hoạt động trên cơ sở tham gia tự nguyện và đóng góp kinh phí của hội viên- các doanh nghiệp bảo hiểm.

Hoạt động của hiệp hội bảo hiểm- thực chất là hoạt động tự quản của các doanh nghiệp bảo hiểm, có vai trò rất lớn cho việc phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm từ nhiều phương diện.

·  Thứ nhất: Hiệp hội bảo hiểm được coi là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với Nhà nước.

·  Thứ hai: Hiệp hội bảo hiểm chính là nơi mà các doanh nghiệp bảo hiểm cùng nhau tạo nên một môi trường nghề nghiệp có lợi cho sự phát triển chung.

·  Thứ ba: hoạt động của Hiệp hội đa liên kết các tổ chức bảo hiểm trong một tổ chức thống nhất, để có thể thực hiện việc hợp tác với các tổ chức nghề nghiệp khác trong nền kinh tế cũng như các tổ chức nghề nghiệp bảo hiểm trên trường quốc tế một cách có hiệu quả nhất.

ÞNgoài người mua bảo hiểm và người bán bảo hiểm là những chủ thể chính trong thị trường bảo hiểm còn xuất hiện các trung gian bảo hiểm. Trung gian bảo hiểm là các môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm. Họ làm cầu nối giữa doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng bảo hiểm hay giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau.

Người mua và người bán bảo hiểm chính là đại diện cho các yếu tố cầu và cung trên thị trường bảo hiểm. Cầu trên thị trường của sản phẩm bảo hiểm là nhu cầu có sức mua của người tiêu dùng đã sẵn sàng mua hoặc sẽ mua. Trên thị trường, cầu về sản phẩm bảo hiểm thường rất phong phú, đa dạng và không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Cung trên thị trường của sản phẩm bảo hiểm là tổng lượng các hợp đồng bảo hiểm mà năng lực bảo hiểm cho phép người bảo hiểm cung ứng ra thị trường để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong một giai đoạn nhất định. Các doanh nghiệp bảo hiểm bán những sản phẩm bảo hiểm của mình cho người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu an toàn của họ thể hiện dưới dạng cầu. Khi cung và cầu sản phẩm bảo hiểm gặp nhau thì sản phẩm bảo hiểm được bán.

2.Liên hệ ở Việt Nam hiện nay

- Số lượng công ty bảo hiểm ở Việt Nam 2009-2010

Chỉ tiêu kinh tế

2009

2010

Tổng số công ty bảo hiểm

50

53

DN bảo hiểm phi nhân thọ

28

29

DN bảo hiểm nhân thọ

11

12

DN môi giới bảo hiểm

10

11

- Các loại hình doanh nghiệp trong các lĩnh vực năm 2009

Loại hình doanh nghiệp

Nhà nước

Cổ phần

Liên doanh

100%vốn nước ngoài

Tổng cộng

Bảo hiểm phi nhân thọ

2

16

3

7

28

Bảo hiểm nhân thọ

1

1

9

11

Tái bảo hiểm

1

1

Môi giới bảo hiểm

6

4

10

Tổng cộng

2

24

4

20

50

- Số lượng các sản phẩm dịch vụ của ngành bảo hiểm ngày càng đa dạng. Năm 2002, các loại sản phẩm dịch vụ trên 3 nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm và bảo hiểm con người với 90 sản phẩm. Năm 2009, số lượng này khoảng 800 sản phẩm các loại. Nhưng nhìn chung các sản phẩm này đều chưa có những khách biệt lớn, mang tính đặc trưng riêng, nên dễ dàng được sao chép giữa các công ty trong cùng một ngành, nguồn thu chủ yếu của các sản phẩm này dến từ nguồn phí bảo hiểm, dẫn đến các các cuộc chiến về hạ mức phí, tăng chi phí bán hàng, mở rộng các điều kiện bảo hiểm, thậm chí là các hình thức cạnh tranh không lành mạnh nhằm tranh giành thị phần. Càng nghiêm trọng hơn khi các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam thực hiện cơ chế giao chỉ tiêu doanh thu cho các đại lý hoặc chi nhánh. Khi tất cả các sản phảm trên thị trường đều gần như tương tự, một sự khác biệt nhỏ sẽ là một lợi thế cạnh tranh chiến lược, nhân tố then chốt quyết định bối cảnh cạnh tranh và thiết lập bảm đồ thị phần trong vài năm tới trong ngành bảo hiểm.

…..

 

Câu 9: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường bảo hiểm? Liên hệ với thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay?

ª     Các nhân tố kinh tế

            Các nhân tố kinh tế có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường bảo hiểm, mà cụ thể là ảnh hưởng trực tiếp đến cung và cầu về sản phẩm bảo hiểm, đến dung lượng và cơ cấu của thị trường. Xu hướng phát triển kinh tế gắn liền với nhu cầu bảo hiểm. Sức mua đối với sản phẩm bảo hiểm phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, mức thu nhập hiện tại, chiều hướng của giá cả hoặc lạm phát, vấn đề tiết kiệm hay tiêu dùng của cá nhân hay hộ gia đình, …  Sự suy thoái kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao, lãi suất tín dụng tăng, … đều ảnh hưởng đến sức mua sản phẩm bảo hiểm.

ª     Các nhân tố chính trị, pháp lý

            Đây là những nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường bảo hiểm, quy định kiểm soát các quá trình, các hoạt động và các mối quan hệ trên thị trường; đồng thời, có tác động hạn chế hoặc khuyến khích, tạo ra những thuận lợi cho thị trường bảo hiểm phát triển. Để nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, cũng như bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm, ngày càng có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thị trường bảo hiểm được ban hành và khuôn khổ luật pháp đó có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường bảo hiểm

ª     Các nhân tố xã hội, nhân khẩu

            Các nhân tố nảy ảnh hưởng đến sự hình thành cầu trên thị trường bảo hiểm. Giống như các thị trường khác, thị trường bảo hiểm là do các chủ thể người mua và người bán hợp lại. Do vậy, sự phát triển dân số và mật độ  dân cư là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng trực tiếp đến cầu về sản phẩm bảo hiểm. Rõ ràng là nơi nào dân cư đông đúc, tốc độ tăng dân số nhanh sẽ làm tăng nhu càu tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm, tức là cầu trên thị trường bảo hiểm lớn, có thể phát triển thị trường và ngược lại. Cơ cấu dân cư theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, gia đình … cũng ảnh hưởng đến sự đa dạng, phong phú của cầu trên thị trường và làm phân hoá thị trường bảo hiểm theo các đặc tính đó.

ª     Các nhân tố tự nhiên và các nhân tố khác

            Các nhân tố tự nhiên như thời tiết, khí hậu, môi trường sinh thái, dịch bệnh … có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng xảy ra rủi ro tác động đến đối tượng bảo hiểm, làm tăng hoặc giảm nhu cầu về bảo hiểm. Ngoài ra, thị trường bảo hiểm còn chịu tác động của các nhân tố khác như biến động về tâm lý, xu hướng đầu tư, …

Liên hệ với thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay?

Kinh tế

chính trị, pháp lý

·   Nền chính trị ở Việt Nam dược đánh giá thuộc vào dạng ổn định trên thế giới. Đây là một yếu tố rất thuận lợi cho sự phát triển của bảo hiểm và nền kinh tế nói chung.

·   Hệ thống văn bản pháp luật được quan tâm sửa đổi, bổ sung. Trong đó có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2011. Luật sửa đổi bổ sung với mục tiêu quan trọng nhất là tạo lập một hành lang pháp lý thống nhất và vững chắc để thị trường bảo hiểm Việt Nam từng bước phát triển, ổn định trong thời kỳ hội nhập.

Đặc biệt sau khi Việt Nam đã ký các thỏa thuận hợp tác song phương (BTA với Hoa Kỳ) và là thành viên của WTO với các cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm. Mặt khác, Bộ Tài chính đã là thành viên của Hiệp hội Các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế (IAIS), cho nên công tác quản lý, giám sát bảo hiểm đang dần từng bước theo các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế.

xã hội

Nhóm tuổi

2010

0 – 14

24%

15 – 64

70%

Trên 64

6%

Tổng dân số

87.8 triệu

Câu 10: Trình bày những điều khoản cơ bản của hợp đồng bảo hiểm? Phân biệt điều kiện chung và điều kiện riêng?

Về cơ bản, các yếu tố cấu thành bảo hiểm là các điều khoản (hay nội dung) của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, các yếu tố này được xếp thành nhóm các điều khoản chung, nhóm các điều khoản bổ sung và nhóm các điều khoản riêng

-Nhóm các điều khoản chung: Đây là nhóm các điều khoản có nội dung giống nhau ở hầu hết các hợp đồng bảo hiểm có cùng một nghiệp vụ bảo hiểm cho một đối tượng bảo hiểm. Vì thế, các điều khoản chung này thường được các doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo và in sẵn trong các tài liệu dưới những tên gọi như: quy tắc bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, đơn bảo hiểm. Các điều khoản chung của hợp đồng bảo hiểm: phạm vi bảo hiểm (rủi ro được bảo hiểm, và rủi ro loại trừ), nghĩa vụ của các bên..

- Nhóm các điều khoản riêng: Đây là những điều khoản tạo nên tính đặc thù cho mỗi hợp đồng bảo hiểm và do đó chỉ được in trước một phần. Những thông tin này chỉ được hoàn tất khi các bên đã thỏa thuận xong về hợp đồng bảo hiểm. Các điều khoản riêng: đối tượng bảo hiểm, người được bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm…

- Nhóm các điều khoản bổ sung: áp dụng chung cho mọi hợp đồng bảo hiểm cùng loại nghiệp vụ được giao kết theo kiểu đồng loạt..

Phân biệt điều kiện chung và điều kiện riêng?

Câu 11: Bảo hiểm trùng là gì? Nêu cách xử lí trong trường hợp bảo hiểm trùng tài sản?

Khi tài sản được bảo hiểm bởi nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một loại rủi ro với những doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau và tổng số tiền bảo hiểm trên các hợp đồng đó lớn hơn nhiều lần so với giá trị bảo hiểm thì đây là bảo hiểm trùng.

Thông thường bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của người tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc, doanh nghiệp bảo hiểm có thể hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy hợp đồng bảo hiểm có sự gian lận. Nếu các doanh nghiệp chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể

STBT của hợp đồng bảo hiểm A

=

Giá trị thiệt hại thực tế

x

STBH của hợp đồng A

∑ STBH

Câu 12: Trình bày nội dung quy định và mục đích áp dụng của những quy tắc bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm?

ª     Các chế độ bảo hiểm

- Chế độ bồi bảo hiểm theo mức miễn thường

Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thỏa thuận.

Có hai loại miễn thường: miễn thường không khấu trừ và miễn thường miễn thường có khấu trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi trả cho những thiệt hại thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng số tiền bảo hiểm không bị khấu trừ theo mức miễn thường.

STBH = Giá trị thiệt hại thực tế

Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải lớn hơn mức miễn thường quy định mới được bồi thường nhưng STBH sẽ bị khấu trừ theo mức miễn thường này.

STBH = Giá trị thiệt hại thực tế- Mức miễn thường

-Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ

Có hai loại tỷ lệ được áp dụng:

+ Tỷ lệ số tiền bảo hiểm (STBH) /Giá trị bảo hiểm (STBH)

Tỷ lệ này được áp dụng để tính ra số tiền bồi thương trong trường hợp bảo hiểm dưới giá trị

STBT

=

Giá trị thiệt hại thực tế

X

STBH

GTBH

+ Tỷ lệ số phí đã nộp/Số phí lẽ ra phải nộp

Tỷ lệ này được áp dụng trong các trường hợp khai báo không chính xác rủi ro. Bên bảo hiểm thường áp dụng tỷ lệ này để thanh toán nếu chấp nhận bồi thường

STBT

=

Giá trị thiệt hại thực tế

X

Phí bảo hiểm đã nộp

Phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp

- Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên

Theo chế độ bồi thường này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả STBT theo một giới hạn đã thỏa thuận. Các tổn thất của người được bảo hiểm nằm trong giới hạn này được gọi là tổn thất thuộc rủi ro đầu tiên hoặc tổn thất đầu tiên. các lần rủi ro tiếp theo cơ quan bảo hiểm không trả tiền cho người tham gia bảo hiểm nữa

Mục đích áp dụng

CHƯƠNG II

Câu 1: Tổn thất là gì? Trình bày các loại tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển

1. Tæn thÊt

Là những thiệt hại hư hỏng, mất mát của đối tượng bảo hiểm do rủi ro gây ra. Ví dụ: rủi ro do thiên tai gây ra gây hư hỏng một số trang thiết bị trên tàu trị giá 2.500 USD, rủi ro do đâm và với tàu khác làm thân tàu hư hỏng phải sửa chữa hư hỏng hết 40.000 USD.

2. Phân loại

ª     Căn cứ vào mức độ tổn thất: Tổn thất bộ phận và Tổn thất toàn bộ

-Tổn thất bộ phận: là một phần của đối tượng bảo hiểm theo một hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát. Ví dụ: thiếu hàng, gạo bị mất giá một phần do nước vào kính bị vỡ một phần.

-Tổn thất toàn bộ: toàn bộ đôi tượng bảo hiểm theo một hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, thiệt hại.

Tổn thất bộ phận bao gồm: Tổn thất toàn bộ thực tế và Tổn thất toàn bộ ước tính

+ Tổn thất toàn bộ thực tế (thực sự): toàn bộ đối tượng bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng thật sự: hàng bị mất cắp toàn bộ, xà phòng bánh bị nóng chảy.

Chỉ có TTTB “thực tế” trong 4 trường hợp sau:

·                    Hàng hóa bị hủy hoại hoàn toàn

·                    Hàng hóa bị tước đoạt không lấy lại được

·                    Hàng hóa không còn là vật thể bảo hiểm

·                    Hàng hóa ở trên tàu mà tàu được tuyên bố là mất tích

+ Tổn thất toàn bộ ước tính: là thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm có thể chưa tới mức độ tổn thất toàn bộ nhưng đối tượng bảo hiểm bị từ bỏ một cách hợp lý bởi tổn thất toàn bộ xét ra không thể tránh khỏi, hoặc có thể tránh khỏi nhưng phải bỏ ra một chi phí lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm

VÝ dô: gạo chở trên tàu bị ướt hết, chi phí sửa chữa tàu lớn hơn giá trị của con tàu,  một tàu chở sắt thép xây dựng bị đắm trên hành trình do gặp bão. Nếu tiến hành trục vớt thì chi phí trục vớt có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị ban đầu của lô hàng.

ª     Căn cứ vào tính chất của tổn thất (trách nhiệm của BH): Tổn thất riêng và Tổn thất chung

-Tổn thất riêng (TTR): Là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc một số chủ hàng ở trên tàu. TTR chỉ liên quan đến từng quyền lợi riêng biệt. TTR do một RR bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra ở bất cứ đâu chứ không riêng gì trên biển .TTR gây ra cho người nào thì người đó chịu.

Ví dụ: Tàu hàng đang đi trên biển thì gặp bão, toàn bộ lô hàng gạo của chủ hàng A bị mưa làm giảm chất lượng…

TTR bao gồm:

+ Thiệt hại về vật chất: Hàng hóa của các chủ hàng bị thiệt hại, hư hỏng bộ phận hay hư hỏng toàn bộ, tàu chở hàng bị hư hỏng. Ví dụ: tàu bị đâm va phải đá, thân tàu bị hư hỏng, thiệt hại, nước biển tràn vào trong tàu làm lô hàng bông của chủ tàu A bi ướt giảm giá trị.

+ Tổn thất chi phí riêng: là những chi phí phát sinh bảo quản hàng hóa để giảm bớt thiệt hại hoặc để khỏi hư hại thêm bao gồm: chi phí xếp dỡ gửi hàng, đóng gói lại, thay thế bao bì ở bến khởi hàng hoặc dọc đường

Ví dụ: để giảm bớt tổn thất do nước vào làm hàng bông giảm giá trị cần dỡ hàng và đóng gói thay thế bao bì cho lô hàng bông của chủ hàng A. Toàn bộ chi phí phát sinh khi thực hiện  các công  việc trên được coi là chi phí hợp lý và là bộ phận tổn thất chi phí riêng của TTR.

-Tổn thất chung (TTC): Là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý, hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hóa chở trên tàu, cước phí cho tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm chung, thực sự đối với chúng.

Ví dụ: thuyền trưởng tuyên bố dùng 2 kiện hàng của chủ hàng B để bịt lỗ thủng của tàu do bị đâm va vào đá.

Muốn có TTC phải có hành động TTC. Có hành động TTC khi và chỉ khi có sự hy sinh hoặc chi phí bất thường được tiến hành một cách hợp lý.

Ví dụ: Hành động TTC là hành động thuyền trưởng tuyên bố dùng 2 kiện hàng của chủ hàng B để bịt lỗ thủng của tàu, cứu cả đoàn tàu.

Các thiệt hại, chi phí hoặc hành động được coi là TTC khi có các đặc trưng:

- Hành động TTC phải là hành động tự nguyện, hữu ý của những người trên tàu theo lệnh của thuyền trưởng hoặc người thay mặt thuyền trưởng

- Hy sinh hay chi phí phải đặc biệt bất thường

- Hy sinh hoặc chi phí phải hợp lý và vì an toàn chung cho tất cả các quyền lợi trong hành trình

- Nguy cơ đe dọa cuộc hành trình phải nghiêm trọng

- Mất mát hay thiệt hại phải là hậu quả trực tiếp của hành động TTC

- TTC phải xảy ra trên biển

TTC bao gồm:

-Hy sinh TTC là những thiệt hại hoặc chi phí do hậu quả trực tiếp của một hành động TTC (Ví dụ: Hy sinh 2 kiện hàng của chủ hàng B để bịt lỗ thủng)

Vì hành động TTC liên quan đến mọi quyền lợi trên tàu nên cần tính toán, xác định mức đóng góp TTC của mỗi bên, gọi là phân bổ TTC. Việc phân bổ TTC được thực hiện theo các bước sau:

                 Bước 1: xác định giá trị TTC (Gi)

Giá trị TTC bao gồm giá trị tài sản hy sinh và các chi phí liên quan đến hành động TTC được xác định theo các đặc trưng đã nêu ở trên

                 Bước 2: Xác định tỷ lệ phân bổ TTC (t)

Tỷ lệ phân bổ TTC (t) là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị tài sản và chi phí TTC với giá trị chịu phân bổ TTC.

Tỷ lệ phân bổ TTC (%)

=

Giá trị TTC (Gi)

x

100

Giá trị chịu phân bổ TTC (Gc)

Gc là giá trị của tất cả các quyền lợi có mặt trên tàu ngay trước khi xảy ra hành động TTC. Như vậy, nếu TTR xảy ra sau TTC thì giá trị TTR vẫn phải đóng góp chịu phân bổ TTC, nếu xảy ra trước thì không tham gia phân bổ

Giá trị chịu phân bổ TTC

=

Giá trị của tàu, hàng khi chưa có tổn thất

-

Giá trị TTR xảy ra trước TTC

Giá trị chịu phân bổ TTC

=

Giá trị của tàu, hàng khi về đến bến

-

Giá trị TTC

+

Giá trị TTR xảy ra sau TTC

                 Bước 3: Xác định mức đóng góp TTC của mỗi bên (Mi- chi số I là các bên liên quan đến TTC)

Số tiền đóng góp TTC của mỗi bên (Mi)

=

Giá trị chịu phân bổ TTC của mỗi bên (Gc)

x

Tỷ lệ phân bổ TTC

Câu 2: Rủi ro là gì? Trình bày các loại rủi ro trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển?

a. Khái niệm

Rủi ro là yếu tố ngẫu nhiên, xuất hiện không báo trước và ngoài sự mong đợi, gây tổn thất và thiệt hại cho con người nói chung cùng các doanh nghiệp nói riêng.

Rủi ro hàng hải là những nguy cơ xảy ra tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ của biển xảy ra, những tai nạn, những sự cố xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên ở trên biển.

Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra làm hư hỏng hàng hóa và phương tiện chuyên chở

 b. Các loại rủi ro hàng hải

- Theo nguồn gốc:

+ Thiên tai (mưa bão, biển động… ở trên biển)

+ Tai họa của biển (đâm và với tàu khác, bị mắc cạn, bị phá hủy, cháy…)

+  Các tai nạn bất ngờ khác

+ Do các hiện tượng chính trị xã hội

- Về mặt bảo hiểm

+  Rủi ro thông thường được bảo hiểm (rủi ro loại trừ): những rủi ro thường không bảo hiểm trong mọi trường hợp. Bao gồm: buôn lậu, tịch thu, phá bao vây, các hành vi sai lầm cố ý của người tham gia bảo hiểm…

+ Rủi ro phải bảo hiểm theo điều kiện riêng (còn gọi là rủi ro được bảo hiểm trong trường hợp đặc biệt): là những rủi ro loại trừ đối với bảo hiểm hàng hải. Đó là những rủi ro đặc biệt, phi hàng hải như: chiến tranh, đình công, bạo loạn…Các rủi ro này chỉ được bảo hiểm nếu có mua riêng, mua thêm. Khi chỉ mua bảo hiểm hàng hải thì những rủi ro này bị loại trừ.

+  Rủi ro không được bảo hiểm: (còn gọi là rủi ro loại trừ): là những rủi ro thường không được bảo hiểm trong mọi trường hợp. Bao gồm: buôn lậu, tịch thu, phá bao vây, các hành vi sai lầm cố ý của người tham gia BH…

Câu 3: Những rủi ro được loại trừ trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển?

Rủi ro không được bảo hiểm: (còn gọi là rủi ro loại trừ): là những rủi ro thường không được bảo hiểm trong mọi trường hợp. Bao gồm: buôn lậu, tịch thu, phá bao vây, các hành vi sai lầm cố ý của người tham gia BH…

Câu 4: Trình bày các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm vận chuyển hàng hóa nội địa?

ª     Rủi ro được BH

Cháy hoặc nổ, động đất, bão lụt, gió lốc, sóng thần, sét đánh, phương tiện vận chuyển bị đắm, lật đổ, rơi, mắc cạn, đâm và vào vật thể khác, trật bánh, cây gãy đổ, cầu cống, đường hầm và các công trình kiến trúc khác bị sập đổ, phương tiện chở hành mất tích. Các chi phí: các chi phí hợp lý cho việc phòng tránh hay giảm nhẹ tổn thất , các chi phí hợp lý cho việc dỡ hàng lưu kho, gửi đi tiếp hàng hóa được bảo hiểm tại một nơi dọc đường đi do hậu quả của rủi ro thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, các chi phí hợp lý cho việc giám định tổn thất thuộc phạm vi trách nhiêm bảo hiểm

ª     Rủi ro loại trừ

Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, khởi nghĩa, phản loạn, hành động xấu, cố ý hay hành vi phạm pháp của người được bảo hiểm hay người làm công cho họ, mất mát, hư hỏng do khuyết tật vốn có hoặc nội tỳ của hàng hóa, xếp hàng quá tải hoặc sai quy cách an toàn về hành hóa nguy hiểm, đóng gói sai quy cách, bao bì không thích hợp hoặc hàng bị hỏng trước khi xếp lên phương tiện vận chuyển…

Câu 5: Trình bày các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.

Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hóa. Hàng được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong điều kiện đó mới được bồi thường. Như vậy, điều kiện bảo hiểm về chất là phạm vi bảo hiểm, bao gồm các rủi ro được bảo hiểm và các rủi ro loại trừ. Nội dung cơ bản của ICC (International Commercial Chairman) 1-1-1982

-         Điều kiện bảo hiểm C

Phạm vi bảo hiểm theo điều kiện C: tổn thất hay tổn hại của hàng hóa được bảo hiểm có nguyên nhân hợp lý do cháy nổ, tàu bị mắc cạn, chìm đắm, bị lật, đâm va, dỡ hàng tại cảng lánh nạn, TTC, phần trách nhiệm mà người tham gia bảo hiểm phải chịu theo điều khoản hai tàu đâm và nhau đều có lỗi.

Các loại rủi ro loại trừ (rủi ro không được bảo hiểm) bao gồm: tổn thất hay tổn thật do hành vi xấu, cố ý của người tham gia bảo hiểm, rò rỉ, hao hụt thông thường về trọng lượng, khối lượng hoặc hao mòn tự nhiên của đối tượng được bảo hiểm, do nội tỳ hoặc bản chất của hàng hóa, tổn thất hoặc tổn hại do đóng bao bì không đủ điều kiện, không thích hợp, tổn thất hoặc tổn hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ…Điều kiện C không bồi thường tổn thất do mất nguyên kiện hàng cũng không phân biệt TTTB hay TTBP.

-Điều kiện bảo hiểm B

Theo điều kiện này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện C, doanh nghiệp bảo hiểm còn bồi thường tổn thất hay tổn hại đối với hàng hóa được bảo hiểm do động đất, núi lửa, sét đánh, bị nước biển cuốn khỏi tàu, nước biển, nước sông, hồ xâm nhập vào hầm tàu, vào container hoặc nơi bán hàng, tổn thất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.

- Điều kiện bảo hiểm A

Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất, bao hiểm tất cả những hư hỏng, mất mát của hàng hóa, kể cả rủi ro cướp biển, chỉ trừ những rủi ro loại trừ theo quy định và không áp dụng mức miễn thưởng.

-Điều kiện bảo hiểm chiến tranh

Theo điều kiện bảo hiểm này, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường những mất mát, hư hỏng của hàng hóa do: chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự xảy ra từ những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào, chiếm đoạt, bắt giữ hoặc kiếm chế…

- Điều kiện bảo hiểm đình công

Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của hàng hóa được bảo hiểm do: người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối loạn lao động, bạo loạn hoặc nổi dậy, hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị…

-Điều kiện bảo hiểm ở Việt Nam

Ngoài các điều kiện bảo hiểm theo ICC 1982, hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đang áp dụng các điều kiện bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, có thể áp dụng cho cả việc bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nối tiếp bằng đường bộ, đường sông hoặc đường hàng không.  Ví dụ: các điều kiện bảo hiểm C, B và A trong Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển ban hàng kèm theo Quyết định số 263/BHHH/98 ngày 12/12/1998 của Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex.

 

Câu 6: Trình bày các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hải

(tham khảo điều kiện bảo hiểm đg biển)

Câu 7: Bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản? Nêu cách xác định số tiền bồi thường của bảo hiểm?

Khi tài sản được bảo hiểm bởi nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một loại rủi ro với những doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau và tổng số tiền bảo hiểm trên các hợp đồng đó lớn hơn nhiều lần so với giá trị bảo hiểm thì đây là bảo hiểm trùng.

Việc bồi thường tuân theo các nguyên tắc sau:

- Nguyên tắc 1: STBT < = STBH + chi phí đã chi ra để cứu vớt hàng, chi phí cứu nạn, chi phí giám định…

- Nguyên tắc 2: Bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng hiện vật

- Nguyên tắc 3: Nguyên tắc khấu trừ, doanh nghiệp BH sẽ khấu trừ các khoản tiền mà người tham gia BH đòi được ở người thứ 3

Trình tự tiến hành bồi thường:

- Bồi thường TTC

+ Doanh nghiệp bồi thường tiến hành bồi thường phần TTC cho người tham gia BH dù hàng được BH theo điều kiện nào và bất kỳ tỷ lệ nào nhưng không vượt quá STBH.

+ Không bồi thường trực tiếp cho người tham gia BH mà thanh toán cho người tính toán TTC do hãng tàu chỉ định

+ STBT này được cộng thêm hay khấu trừ phần chênh lệch giữa số tiền thực tế đã đóng góp vào TTC và số tiền phải đóng góp vào TTC

- Bồi thường TTR

+ Đối với TTTB thực tế: bồi thường toàn bộ STBH

+ Đối với TTTB ước tính: bồi thường toàn bộ STBH nếu người tham gia BH từ bỏ hàng. (Nếu người tham gia BH không từ bỏ hàng hoặc xin từ bỏ nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận thì bồi thường theo mức độ tổn thất thực tế).

+ Đối với TTBP: bồi thường số kiện, số bao hàng bị thiếu, mất hay giá trị trọng lượng số hàng rời bị thiếu, mất hoặc bồi thường theo mức giảm giá trị thương mại của phần hàng bị tổn thất.

Ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm còn áp dụng chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường (có khấu trừ hoặc không khấu trừ) nhằm giảm trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp khi tổn thất xảy ra đối với hàng hóa được bảo hiểm.

 

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro