Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

BH.cau1-5

Câu 1. Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường, so sánh bảo hiểm xã hội với bảo hiểm thương mại.

*Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường

a. Bảo hiểm góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư

Từ khi các loại hình bảo hiểm ra đời cho đến nay đã chứng minh, bảo hiểm góp phần to lớn trong việc ổn định tài chính cho các cá nhân và các tổ chức tham gia bảo hiểm. Có thể là ổn định về thu nhập cũng có thể là ổn định về tài chính. Khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm, nếu bị tổn thất các cơ quan hay doanh  nghiệp bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống và sản xuất làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường. Điều đó thể hiện vai trò bủ đắp thiệt hại và khắc phục tổn thất của bảo hiểm. Nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi  thường khi có  tổn  thất xảy ra, và vai  trò của các công  ty bảo hiểm  là  cung  cấp  các  loại dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như trước khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi thường cho người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm con người. Khi có tổn thất xảy đến với đối tượng được bảo hiểm thì nhiệm vụ cơ bản của bảo hiểm là khắc phục những hậu quả đó, ổn định đời sống và quá trình sản xuất - kinh doanh.

Vai trò này đáp ứng được mục tiêu kinh tế của người tham gia nên đối tượng tham gia ngày càng đông đảo.Trong các nền kinh tế hiện đại, bảo hiểm còn trực tiếp đảm bảo cho các khoản đầu tư. Nhà kinh tế học người Pháp Jerome Yeatman đã viết : “ Không phải các kiến trúc sư mà là các nhà bảo hiểm đã xây nên Newyork, chính là vì  không một nhà đầu tư nào dám mạo hiểm hàng tỷ đô la cần thiết để xây dựng những tòa nhà chọc trời ở Manhattan mà lại k hông có đảm bảo được bồi thường nếu hỏa hoạn hoặc sai phạm về xây dựng xảy ra. Chỉ có các nhà bảo hiểm mới dám đảm bảo điều đó nhờ cơ chế bảo hiểm.” Điều này đúng với hầu hết các loại đầu tư như đầu tư xây dựng các giàn khoan dầu khí, đầu tư thiết kế và sản xuất các loại vệ tinh, đầu tư xây dựng siêu thị. Hầu hết các dự án đầu tư hiện nay đòi hỏi phải có bảo hiểm. Không có sự đảm bảo của bảo hiểm thì các chủ đầu tư mà nhất là các ngân hàng liên quan sẽ không dám mạo hiểm đầu tư vốn cho dự án.

b. Bảo hiểm là một trong những kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh, người ta luôn phai tính đến những rủi ro có thể gặp phải, và luôn muốn chủ động trong tình uống xấu nhất. Việc tự khắc phục rủi ro đòi hỏi các cá nhân, tổ chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn lập quỹ dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng các quỹ dự phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có nhả năng sinh lợi lớn nếu đem đầu tư. Các cơ quan và DNBH thu phí bảo hiểm trước khi rủi ro va sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm. Điều đó cho phép họ có một số tiền rất lớn và cần phải quản lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra giữa thời điểm xảy ra rủi ro do tổn thất và thời điểm chi trả hoặc bồi thường luôn có khoảng cách. Khoảng cách thời gian này có thể kéo dài nhiều năm. Khi đó số phí thu được phải dựa vào dự trữ dự phòng và phải đem đầu tư để thu lãi.

Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Một nền kinh tế muốn tăng trưởng thì phải có một thị trường vốn phát triển lành mạnh, các kênh thu hút vốn đa dạng để có thể đáp ứng tối đa nhu cầu về vốn. . Ngày nay, các công  ty bảo hiểm  là một kênh huy động vốn không  thể  thiếu của nền kinh  tế và đang ngày càng được khai  thác một cách hiệu quả, do phạm vi hoạt động  rộng,  các  loại  hình  bảo  hiểm phong  phú. Thông  qua  các  hợp  đồng  bảo hiểm, các công ty bảo hiểm đã tập trung lượng tiền phân tán rải rác thành những quĩ tiền tệ khá lớn. Quĩ bảo hiểm đã trở thành một định chế tài chính trung gian quan trọng trên thị trường vốn. Đặc biệt, thông qua loại hình bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm đã khuyến khích các tầng lớp nhân dân tăng cường tiết kiệm và qua đó đã thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi để đầu tư.

Điều đó khẳng định vai trò huy động vốn để đầu tư của toàn ngành bảo hiểm là vô cùng quan trọng đối với các nền kinh tế

c. Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách nhà nước

Với các loại quỹ bảo hiểm ngày càng tăng do người tham gia đóng góp, các cơ quan, DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời cho họ để ổn định đời sống và sản xuất. Vì vậy ngân sách Nhà nước không phải chi tiền để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro. Mặt khác, các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại còn có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách thông qua các loại thuế. Hàng năm, thông qua việc nộp thuế, bảo hiểm đã đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, bảo hiểm đã góp phần tiết kiệm cho ngân sách thông qua việc tốt khâu phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giúp bảo vệ tối đa tài sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại đáng tiếc. Điều này giúp nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp những tổn thất như phải xây dựng đường xá, cầu cống, nhà xưởng, cong trình… ngoài ra, một thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân và tổ chức mua bảo hiểm của công ty bảo hiểm trong nước, góp phần tiết kiệm một khoản ngoại tệ lớn cho ngân sách nhà nước.

d. Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh cuộc sống

Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì người ta càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi trường kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi ro mới. Những rủi ro thiên nhiên như bão lũ, hạn hán, cháy rừng tự nhiên… đang trở lên hết sức phức tạp. Thế giới đang biến triển hết sức phức tạp, khó đoán như chiến tranh, khủng bố, xung đột. trong tình hình như vậy, bảo hiểm chính là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh trong cuộc sống cho con người. Đối với sự phát triển kinh tế, bảo hiểm có vai trò như một đòn bẩy tâm lí, giúp ổn định quá trình đầu tư của các doanh nghiệp, tăng khả năng phát triển đối với nền kinh tế.

Ở một quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh, thì hệ thống bảo hiểm của nó cũng phát triển một cách tương xứng để có thể đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của nền kinh tế. Và ngược lại, một hệ thống bảo hiểm tốt có thể giúp cho nền kinh tế phát triển đi lên bằng các nghiệp vụ của mình. Các nghiệp vụ này, một phần giúp thu được nguồn tiền còn nhànrỗi trong dân chúng, mặt khác, bảo hiểm còn có thể thu được 1 lượng tiền không nhỏ từ các doanh nghiệp để đem đi đầu tư và phát triển các lĩnh vực khác (mà ở đây thường là bất động sản và chứng khoán, hoặc các hoạt động phúc lợi xã hội khác), giúp tạo nên một cơ sở hạ tầng ngày càng vững chắc cho sự phát triển của kiến trúc thượng tầng phía trên của nền kinh tế. Đồng thời, bảo hiểm (tất nhiên là bảo hiểm tốt) còn có thể coi đó là một cam kết, một thỏa thuận giúp cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.

* So sánh bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại.

Những điểm giống nhau cơ bản sau:

Về sự hình thành và sử dụng quỹ của hai loại bảo hiểm này được thực hiện trên cùng một nguyên tắc là: có tham gia tạo lập hay đóng góp vào quỹ thì mới được hưởng quyền lợi.

Mục đích hoạt động cũng nhằm để hỗ trợ cho các đối tượng tham gia bảo hiểm một khoản kinh phí nhất định theo quy định khi họ gặp những khó khăn về tài chính do một nguyên nhân nào đó đối với họ.

Hoạt động của hai loại bảo hiểm này đều mang tính cộng đồng, nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” – tức là dùng số tiền đóng góp của số đông người tham gia để bù đắp, chia sẻ cho một số ít người gặp phải biến cố rủi ro gây ra tổn thất.

Những điểm khác biệt :

Tiêu thức

1 Bảo hiểm thương mại

2 Bảo hiểm xã hội

1.1 Phi nhân thọ

1.2 Nhân thọ

- Mục tiêu

1 Hạn chế hậu quả rủi ro, kinh doanh vì lợi nhuận.

2 Không vì lợi nhuận, thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo cho người lao động có khoản trợ cấp thiết yếu lúc khó khăn.

- Tính chất của mối quan hệ bảo hiểm

1 Đa số là tự nguyện.

2 Bắt buộc.

- Phạm vi

1 Diễn ra ở tất cả các quốc gia và mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

2 Diễn ra ở từng quốc gia và chỉ liên quan đến người lao động.

- Đối tượng

1.1

- Tài sản.

- Con người.

- Trách nhiệm nhân sự.

1.2 Con người.

2 Thu nhập của người lao động.

- Đối tượng tham gia BH

1 Con người.

2 Người lao động và người sử dụng lao động.

- Những sự kiện được BH

1.1

- Các hư hỏng, thiệt hại về tài sản.

- Ốm đau, tai nạn, nằm viện đối với con người.

- Các nghĩa vụ pháp lý phát sinh.

1.2

- Sống đến thời hạn nhất định.

- Ốm đau, thương tật, nằm viện, chế độ chăm sóc.

- Hưu trí.

- Chết.

2

- Ốm đau.

- Thai sản.

- Thất nghiệp.

- Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

- Tàn phế.

- Hưu trí.

- Tử tuất.

- Nguồn hình thành quỹ

1 Người tham gia đóng góp.

 2

- Người lao động.

- Người sử dụng lao động.

- Nhà nước.

- Các nguồn khác ( từ thiện, lãi do đầu tư quỹ nhàn rỗi…)

- Cơ quan quản lý quỹ

1 Doanh nghiệp bảo hiểm.

2 Nhà nước hoặc cơ quan bảo hiểm của một tổ chức thuộc nhà nước.

- Phí bảo hiểm

1 Theo cơ chế thị trường và tùy từng loại bảo hiểm, thỏa thuận theo nhu cầu và khả năng của người tham gia bảo hiểm.

2 Dựa vào chính sách xã hội trong từng thời kỳ của Nhà nước, dựa trên thu nhập của người lao động.

Câu 2. Trình bày những nội dung cơ bản về bảo hiểm xã hội

Khái niệm

 bhxh là sự bù đắp hoặc thay thế phần thu nhập bị mất hoặc giảm của người lao động khi gặp phải những rủi ro xã hội như ốm đau, thai sản, tan nạn lao động. bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già hoặc chết.. trên cơ sở hình thành 1 quỹ tài chính tập trung có sự tham gia đóng góp của người sử dụng lao động và lao động và có sự hỗ trợ của nhà nước khi cần thiết.

* Bản chất

Phần cô cho ghi

bhxh là sự chuyển giao rủi ro của người lao động thông qua đó những thiệt hại về thu nhập mà người lao đông phải gánh chịu do những rủi ro xã hội gây ra sẽ được chia sẻ cho các bên tham gia đóng góp bhxh

bhxh là sự phân  phối lại thu nhập giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với người lao động, giữa những chủ sử dụng lao động với nhau rộng hơn là toản thể thành viên trong xã hội

mđ của bhxh là đảm bảo đời sống cho người lao đông và gia đình họ trước những rủi ro có thể xảy ra bằng cách bên cạnh sự đóng góp của người lao động vào quỹ tài chính còn có sự đóng góp của người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của nhà nước. đây là đặc điểm đặc thù của bhxh  người sử dụng lao động và nhà nước không phải đối tượng được hưởng lợi trực tiếp từ quỹ bảo hiểm xh

xét trên khía cạnh kinh tế công, bhxh là một dịch vụ công nhưng được thực hiện theo nguyên tắc phải có đóng thì người lao động mới được hưởng

phần bản chất trong sách giáo trình

BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, đặc biệt trong xã hội hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện

Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.    

Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động.

Bên BHXH (Bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ.

Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.

Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH:

Những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...

Những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản v.v.... Những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.

Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.

Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. ILO cụ thể hoá như sau:

Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.

Chăm sóc sức khoản và chống bệnh tật.

 Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.

Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người".

Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội.

Chức năng

- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất, tạo sự yên tâm thoải mái khi tham gia lao động.

- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc…

=>  BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.

- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.

=> là đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.

- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động… Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.

Nguyên tắc

Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.

Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.

Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.

Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.

Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.

Tính chất

BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau:

- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội

    Trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn làm sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ - thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH

BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế của mỗi nước

- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động v.v...

- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ.

  Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích, mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại cuả tập hợp người lao động tham gia BHXH.

BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã hội của nó thể => Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao.

Câu 3. Quỹ bhxh và mục đích sử dụng quỹ , vì sao mức đóng bảo hiểm xh của người lao động và người sử dụng lđ lại căn cứ vào tiền lương.

Khái niệm: quỹ bhxh là quỹ tài chính tập trung độc lập nằm ngoài NSNN được hình thành trên cơ sở  sự tham gia đóng góp của các bên: người lao động, người sử dụng lao động và hỗ trợ của nhà nước nahwms mục đích thay thế hoặc bù đắp phần thu nhập bị mất hoặc giảm của người lao động khi gặp phải các rủi ro xã hội

- quỹ bảo hiểm xh được hình thành từ các nguồn sau: từ các bên tham gia bhxh:  người ld, ngưởi sd ld, hỗ trợ của nhà nước, mức đóng bhxh của người lđ và người sử dụng lao động thường được quy định bằng một tỷ lệ nhất định so với tiền công tiền lương mà người sd lđ trả cho người lđ

ở  những nước phát triển tỷ lệ đóng góp giữa người lđ và người sd lđ là tương đương nhau nhưng ở các nước đang phát triển chủ sd lđ  đóng với tỉ lệ cao hơn nhiều

+ đối với sự hỗ trợ của nhà nước cho quỹ bhxh ở mỗi nước là khác nhau.các nước thường trích 1 tỷ lệ trong tổng thu thuế VAT cho quỹ bhxh

+ được bù đắp them từ lãi đầu tư tiền nhàn rỗi thu được từ quỹ bh xh

+ nguồn khác

Mục đích sử dụng quỹ

- dùng chi trả cho các chế độ bhxh

- chi phí quản lí cho bộ mái thực hiện chính sách BHXH

-chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH

Câu 4: So sánh BHTM với BHXH

* Giống

- về mục đích: đều nhằm mục đích ổn định cuộc sống, ổn định kinh doanh, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống của ngừoi dân.  

- Vai trò: giống nhau là  

Đều kích thích hoạt động đầu tư ,huy động nguồn vốn lớn cho nền kinh tế  

Tạo thểm nhiều công ăn việc làm...  

-Bảo hiểm XH và BHTM đều áp dụng nguyên tắc số đông bù số ít  

* Khác

BHXH

BHTM

1 bản chất: ko vì mục tiêu lợi nhuận

2 đối tượng: là thu nhập của người lđ

3 đối tượng tham gia:người lao động,người sử dụng lđ

4 phương thức bảo hiểm:chủ yếu triển khai theo hình thức bắt buộc

5 phạm vi bảo hiểm:có 9 chế độ,chỉ trong những trường hợp luật định khi người lđ ốm đau,thai sản,tai ạn lđ,bệnh nghề nghiệp,nghỉ hưu…

6 quỹ bảo hiểm

Nguồn hình thành: do người lđ,người sd lđ đóng góp,ngoài ra còn có sự hỗ trợ của nhà nước,lãi đầu tư và 1 số nguồn thu khác

-sử dụng quỹ:chủ yếu là chi trả cho các chế độ bh,chi cho quản lý

-cơ chế quản lý quỹ:quản lý theo cơ chế cân bằng thu chi,ko vì mục tiêu lợi nhuận

7 phí bh:được xác định thường theo 1 mức b/quân dựa vào tiền lương của người lđ

Thực chất là loại hình kinh doanh rủi ro nên hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận

Tài sản trách nhiệm dân sự,tính mạng sức khỏe,tuổi thọ và những vấn đề liên quan tới con người

Tất cả các cá nhân tổ chức có nhu cầu

Theo hình thức tự nguyện

Rộng hơn,đa dạng hơn

+thu phí bh

+lãi từ hđ đầu tư

+từ 1 số nguồn khác(dvu cho cty bh khác…)

Chi bồi thường(là khoản chủ yếu)

Chi dự phòng

Chi đề phòng hạn chế tổn thất

Chi quản lý

Chi hoa hồng

Được quản lý theo cơ chế hđ kdoanh có lãi,vì mục tiêu lợi nhuận

Tùy thuộc vào từng đối tượng

//Vai trò của BHXH và BHTM ở Việt Nam hiện nay:

Tạo sự ổn định thu nhập cho người lao động khi có rủi ro xảy ra,góp phần đảm bảo ASXH

-Huy động được nguồn vốn lớn cho nền kinh tế

Câu 5: Phân biệt:Đối tượng BHXH và đối tượng tham gia BHXH:

+Đối tượng BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH.

+Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.

Đối tượng BHTM và đối tượng tham gia BHTM:

+ Phân theo tiêu chí đối tượng được bảo hiểm thì bảo hiểm thương mại chia thành bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người,theo đó:

Bảo hiểm tài sản có đối tượng được bảo hiểm là tài sản(cố định hay lưu động) của người được bảo hiểm.

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ 3 theo luật định.

Bảo hiểm con người có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khỏe của con người hoặc các sự kiện liên quan tới cuộc sống và có ảnh hưởng tới cuộc sống con người.

+Đối tượng tham gia BHTM là tất cả các tổ chức và cá nhân có nhu cầu tham gia BHTM.

Quỹ BHXH và quỹ BHTM:

+ Quỹ BHXH do người lao động và người sử dụng lao động đóng và nhà nước bù thiếu, mục đích sử dụng quỹ để chi trả theo các chế độ bảo hiểm và chi phí cho sự nghiệp quản lí, đảm bảo cân bằng thu chi.

+ Quỹ BHTM được hình thành do phí bảo hiểm của các đối tượng tham gia là chủ yếu dùng để chi trả hoặc bồi thường, dự trữ,, dự phòng, chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, thuế và chi phí quản lý... hạch toán kinh doanh có lãi.

Câu 6: Bản chất, chức năng và tính chất của BHXH:

Bản chất:

BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của XH, nhất là trong XH mà sx hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lđ phát triển đến 1 mức độ nào đó. KT càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói KT là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.

Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lđ và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên đc BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lđ hoặc cả ng lđ và người sử dụng lđ. Bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do NN lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lđ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.

Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những RR ngẫu nhiên trái ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lđ, bệnh nghề nghiệp... hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản, đồng thời nhưng biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lđ.

Phần thu nhập của người lđ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố RR sẽ đc bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung đc tích tụ lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn hỗ trợ từ NN.

Mục tiêu của BHXH nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của ng lđ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm

Chức năng

Thay thế hoặc bù đắp 1 phần thu nhập cho ng lđ tham gia BH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất KNLĐ hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế và bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng mất KNLĐ sẽ đến với tất cả mọi người lđ khi hết tuổi lđ theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất KNLĐ tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lđ cũng sẽ đc hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn đc hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ và tính chất và cả cơ chế của hoạt động BHXH.

Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có ng lđ mà cả những người sd lđ đều phải đóng góp cho quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số ng lđ tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những ng này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy theo quy luật số đông bù số ít BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang, thực hiện chức năng ngày có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng XH.

Góp phần kích thích ng lđ hăng hái lđ, sản xuất, nâng cao năng suất lđ cá nhân và năng suất lđ XH. Khi khỏe mạnh tham gia lđ sx, người lđ được chủ sử dụng lđ trả tiền lương, tiền công. Khi họ ốm đau, thai sản, TNLĐ hay khi về già đã có BH trợ cấp thay thế phần thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn đc đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó người lđ luôn yên tâm gắn bó tận tình vs công việc và nơi làm việc. Họ rất tích cực lđ sx, nâng cao năng suất lđ và hiệu quả KT. Chức năng này biểu hiện như 1 đòn bẩy KT kích thích người lđ nâng cao năng suất lđ cá nhân, kéo theo là nslđ XH.

Gắn bó lợi ích giữa ng lđ với ng sử dụng lđ, giữa ng lđ với XH. Trong thực tế lđsx  người lđ và người sử dụng lđ vốn có những mâu thuẫn nội tại khách quan về tiền lương, tiền công , thời gian lđ... thông qua BHXH những mâu thuẫn đó sẽ đc điều hòa và giải quyết, đặc biệt cả 2 giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm họ hiểu nhau và gắn bó lợi ích với nhau. Đối với NN và XH chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết đc khó khăn về mặt đời sống cho ng lđ và gia đình họ,góp phần làm cho sx ổn định, kinh tế chính trị và xh đc phát triển an toàn hơn.

Tính chất:

Tính tất yếu khách quan trong đời sống XH:

Trong quá trình lao động sx, người lđ có thể gặp nhiều biến cố,rủi ro. Khi dó ng sử dụng lđ cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như sx kd bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lđ luôn phải được đặt ra để thay thế... sản xuất càng phát triển những RR đối với ng lđ và những khó khăn với ng sử dụng lđ càng nhiều và trở nên phức tạp dẫn đến mối quan hệ chủ thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, NN phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH. Như vậy BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống XH của mỗi nước.

BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian

BH vừa có tính kinh tế, vừa có XH đồng thời có tính dịch vụ.

Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ: quỹ BHXH muốn đc hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải đc quản lý chặt chẽ, đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải đc tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của các tập hợp ng tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho ng lđ theo các điều kiện BHXH. Thực chất phần đóng góp của mỗi ng lđ là k đáng kể nhưng quyền lợi nhận đc là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với ng sử dụng lđ, việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để BH cho ng lđ mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ KT, họ cũng có lợi vì k phải bỏ ra 1 khoản tiền lớn để trang trải cho những ng lđ bị mất hoặc giảm KN LĐ. Với NN, BHXH góp phần làm giảm gánh nặng cho NSNN, đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền KTQD.

BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống đảm bảo XH. Vì vậy tính XH của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lđ trong XH đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại , BHXH phải có trách nhiệm BH cho mọi ng lđ và gia đình họ, kể cả khi họ còn trong độ tuổi lđ. Tính XH của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền KT – XH ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất XH hóa của BHXH ngày càng cao.

Vì sao trong thời kì đầu triển khai, BHXH chỉ áp dụng đối với những người làm công ăn lương:

Đáp ứng nhu cầu về BHXH cho người lđ làm công ăn lương

Người làm công ăn lương có thu nhập ổn định và thường cao hơn các tầng lớp khác.

Phù hợp với trình độ quản lý của các cơ quan BHXH, đặc biệt trong thời kì đầu.

Phù hợp với điều kiện thực tế của DN và khả năng tài trợ của NSNN.

Thực hiện ở tất cả các nước, trong đó có VN, cụ thể theo luật BHXH hiện hành.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: