benh co tim phi dai
BỆNH CƠ TIM PHÌ ĐẠI
Bệnh cơ tim phì đại là bệnh chưa rõ bệnh nguyên gây ra
hậu quả làm phì đại cơ tim mà không có sự giãn các buồng tim.
Chức năng tâm thu thất trái thường trong giới hạn bình thường
nhưng các thành tim co bóp mạnh. Đây là nguyên nhân hàng
đầu gây đột tử ở các bệnh nhân trẻ dưới 35 tuổi.
I. Nguyên nhân
Thường mang tính chất gia đình, hiện tại người ta tìm thấy 6
gen có liên quan đến bệnh cơ tim phì đại. Trong số đó gen
bêta myosin trên nhiễm sắc thể 14q1 chiếm tần suất gặp cao
nhất (35 đến 45%).
II. Giải phẫu bệnh
Giải phẫu bệnh của hầu hết các trường hợp bệnh cơ tim phì
đại thấy các dấu hiệu:
1. Phì đại không đồng tâm của tâm thất trái với vách
liên thất phì đại nhiều hơn thành tự do của thất trái.
2. Buồng thất trái nhỏ hoặc có kích thước bình thường.
3. Xơ hóa thành nội mạc của tim từ vách liên thất trên
đường ra thất trái cho đến lá trước của van hai lá.
4. Van hai lá rộng và giãn ra, có thể dày hoặc không
dày thứ phát.
5. Giãn buồng nhĩ.
6. Bất thường lòng động mạch vành với sự dày lên của
thành mạch và hẹp lòng mạch.
7. Xơ hóa các mô kẽ và rối loạn cấu trúc của thất trái.
III. Triệu chứng lâm sàng
A. Triệu chứng cơ năng
1. Triệu chứng suy tim: bao gồm khó thở khi gắng sức
hay xuất hiện về đêm, mệt mỏi, nguyên nhân thường
do tăng áp lực cuối tâm trương của thất trái vì giảm
khả năng giãn của tâm thất.
2. Thiếu máu cơ tim với biểu hiện đau ngực: Có thể
gặp trong cả các trường hợp bệnh cơ tim phì đại tắc
nghẽn hay không. Cơ chế chính xác của hiện tượng
này còn chưa rõ nhưng người ta cho rằng các yếu tố
sau có thể ảnh hưởng đến dấu hiệu đau ngực của
bệnh nhân:
a. Hệ thống mạch vành kích thước nhỏ, giảm khả
năng giãn ra khi nhu cầu ôxy cơ tim tăng.
b. Tăng áp lực của thành tim do hậu quả của thời
gian giãn tâm trương thất trái chậm và do cản trở
đường tống máu của tim.
c. Giảm tỷ lệ giữa hệ mao mạch và mô tim.
d. Giảm áp lực tưới máu của động mạch vành.
3. Ngất và xỉu: Nguyên nhân do giảm tưới máu não vì
cung lượng tim thấp hay liên quan với rối loạn nhịp
tim hoặc gắng sức. Ngất ở bệnh nhân trẻ tuổi không
nhất thiết là yếu tố tiên lượng nguy hiểm ở các bệnh
nhân có bệnh cơ tim phì đại. Ngược lại ở trẻ em và
thiếu niên đây là yếu tố làm tăng nguy cơ đột tử.
4. Đột tử hay những rối loạn nhịp nặng có thể gặp
trong khoảng 1 đến 6% các trường hợp.
B. Triệu chứng thực thể
Đối với các bệnh nhân có chênh áp qua đường ra thất
trái, khám lâm sàng có thể phát hiện thấy các dấu hiệu:
1. Tiếng thổi tâm thu ở phía thấp dọc theo bờ trái
xương ức, cường độ giảm khi bệnh nhân ngồi xổm và
nắm chặt tay, cường độ tăng lên khi bệnh nhân làm
nghiệm pháp Valsalva, đứng lên và sau các ngoại
tâm thu thất.
2. Dấu hiệu mạch ngoại biên nảy mạnh với dạng hai
pha, pha thứ nhất nhanh mạnh và pha thứ hai kéo dài
như nước thủy triều.
3. Mỏm tim đập ở hai vị trí, thường thấy nhát bóp tiền
tâm thu mạnh hơn, dấu hiệu này liên quan đến tiếng
thứ ba nghe được trên lâm sàng.
IV. Các xét nghiệm chẩn đoán
1. Điện tâm đồ (ĐTĐ): ĐTĐ bất thường trong khoảng
90 đến 95% các trường hợp. Tuy nhiên không có dấu
hiệu ĐTĐ đặc hiệu cho bệnh cơ tim phì đại. Dày thất
trái với tăng biên độ của phức bộ QRS và biến đổi
bất thường đoạn ST, T là các dấu hiệu thường gặp.
Cũng hay gặp bloc phân nhánh trái trước và sóng Q
sâu ở các chuyển đạo phía sau, sóng T đảo ngược,
dầy nhĩ trái và dấu hiệu giả nhồi máu với giảm biên
độ sóng R ở các chuyển đạo trước tim bên phải.
2. Chụp tim phổi: Bóng tim to với chỉ số tim ngực lớn.
Phù phổi là dấu hiệu có thể thấy trên phim do tăng áp
ở hệ tĩnh mạch phổi. Giãn buồng nhĩ trái cũng hay
gặp. Tuy nhiên bóng tim to ít có giá trị trong việc
đánh giá sự tiến triển của bệnh, người ta thường sử
dụng siêu âm Doppler tim để đánh giá vấn đề này.
3. Siêu âm tim: Là phương pháp hữu hiệu nhất để chẩn
đoán và theo dõi tiến triển của bệnh cơ tim phì đại
cũng như loại trừ các nguyên nhân khác như hẹp van
ĐMC, hẹp trên van ĐMC...
a. Siêu âm hai chiều: đánh giá mức độ phì đại của
thành tim. Thường có sự phì đại không đồng tâm
của thành thất trái, với ưu thế vượt trội của vách
liên thất so với thành sau thất trái. Thất trái
thường không giãn và không có các bệnh lý khác
có thể dẫn đến tăng độ dày của thành tim. Thành
tim có thể dày khu trú từng phần tuy nhiên thông
thường có sự dày lan tỏa của tất cả các thành tim,
nhất là của vách liên thất. Sự di động ra trước
trong thì tâm thu của van hai lá thường gặp được
gọi tắt là dấu hiệu “SAM”. Dấu hiệu này liên
quan đến sự cản trở đường ra thất trái và thường
đi kèm với việc đóng sớm van động mạch chủ.
bộ các thành thất trái (LV) trong thì tâm trương (A), tâm thu (B).
b. Siêu âm Doppler: cho phép đánh giá mức độ
chênh áp ở đường ra thất trái, dòng hở van hai lá,
ba lá và áp lực động mạch phổi, từ đó đánh giá
mức độ tiến triển của bệnh.
4. Thông tim: Chỉ định trong các trường hợp chuẩn bị
phẫu thuật, đặt máy tạo nhịp, gây tắc nhánh vách thứ
nhất của động mạch liên thất trước hay các trường
hợp khó khăn cần chẩn đoán phân biệt.
a. Chụp buồng thất trái sẽ giúp đánh giá kích thước
thất trái và sức co bóp của thất trái.
b. Về mặt huyết động thấy có chênh áp trong buồng
thất trái và do có cản trở đường ra thất trái nên có
cả chênh áp giữa thất trái và động mạch chủ. Nếu
chênh áp này không rõ ràng thì có thể làm các
nghiệm pháp làm tăng chênh áp trong bệnh cơ
tim phì đại như nghiệm pháp Valsalva, truyền
Isoproterenol hay ngửi Amyl Nitrite, gây ngoại
tâm thu thất.
c. Hệ thống động mạch vành thường bình thường
hay hẹp không đáng kể (hẹp dưới 50%). Cần chú
ý quan sát nhánh vách thứ nhất của động mạch
liên thất trước.
d. Không có chỉ định sinh thiết một cách có hệ
thống tất cả các trường hợp bệnh cơ tim phì đại.
5. Holter điện tim: Cần tiến hành để đánh giá mức độ
và sự xuất hiện của các cơn nhịp nhanh thất. Đây
chính là yếu tố đánh giá mức độ nguy cơ đột tử trong
bệnh cơ tim phì đại.
V. Diễn biến tự nhiên và tiên lượng
1. Đây là một trong những bệnh tim diễn biến hết sức
phức tạp. Nó là một nguyên nhân hàng đầu dẫn đến
đột tử ở các bệnh nhân trẻ tuổi. Tuy nhiên nhiều
trường hợp bệnh nhân vẫn có thể chung sống hòa
bình với bệnh mà không cần đòi hỏi các phương
pháp điều trị đặc biệt.
2. Đột tử: có thể gặp ở các bệnh nhân trẻ (từ 12 đến 35
tuổi). Các dấu hiệu suy tim có thể diễn biến tăng dần
sau tuổi 35 đến 40 tuổi. Cũng có một nhóm bệnh
nhân hoàn toàn không có triệu chứng cơ năng. Các
bệnh nhân lớn tuổi có thể có biểu hiện suy tim nặng
sau một giai đoạn hoàn toàn không có triệu chứng
lâm sàng. Cần chú ý đột tử có thể gặp ở cả các bệnh
nhân bệnh cơ tim phì đại có hay không có tắc nghẽn
đường ra thất trái. Một số ít các bệnh nhân trẻ tuổi
phải nhập viện nhiều lần vì các cơn nhịp nhanh thất
tái phát nhiều lần.
3. Rung nhĩ làm mất sự co bóp hiệu quả của tâm nhĩ có
thể là nguyên nhân của suy tim nặng trên lâm sàng và
tắc mạch. Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể gặp
ở các bệnh nhân có hở hai lá. Quá trình thai sản có
thể vẫn có diễn biến tốt, ngay cả khi cho bệnh nhân
đẻ thường.
VI. Chẩn đoán phân biệt
1. Tiếng thổi tâm thu trên lâm sàng cần phân biệt với
hẹp van ĐMC, thông liên thất, hay hở hai lá. Một vài
bệnh nhân trẻ em bị bệnh cơ tim phì đại có hạn chế
đường ra thất phải cần được phân biêt với hẹp van
động mạch phổi.
2. Đau ngực trong bệnh cơ tim phì đại có thể rất điển
hình như cơn đau thắt ngực và đôi khi ngay trên
ĐTĐ cũng có hình ảnh của NMCT với sóng Q hoại tử.
VII. Điều trị
A. Bệnh nhân không có triệu chứng: có thể không cần
điều trị thuốc đặc hiệu nhưng cũng có thể điều trị dự
phòng bằng chẹn bêta giao cảm hoặc Verapamil nhằm
mục đích giảm sự tiến triển của bệnh.
B. Bệnh nhân có triệu chứng khó thở và đau ngực
1. Cần điều trị bằng chẹn bêta giao cảm. Thuốc chẹn
kênh canxi như Verapamil có thể làm giảm triệu
chứng và tăng khả năng gắng sức của các bệnh nhân
không đáp ứng với thuốc chẹn bêta giao cảm. Một
vài trung tâm đang thử sử dụng Disopyramid để cải
thiện các triệu chứng lâm sàng.
2. Thuốc chống đông cần chỉ định trong các bệnh nhân
có rung nhĩ hoặc có rối loạn nhịp trên lâm sàng.
Kháng sinh dùng trong các trường hợp cần dự phòng
viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.
3. Thuốc giãn mạch không nên sử dụng mà chỉ nên sử
dụng lợi tiểu nếu cần ở các bệnh nhân có hạn chế
đường ra thất trái.
4. Digitalis có thể làm tăng chênh áp đường ra thất trái,
do đó chống chỉ định dùng các thuốc này ở các bệnh
nhân bệnh cơ tim phì đại có hẹp đườmg ra thất trái.
5. Các bệnh nhân có nguy cơ đột tử cao (tiền sử ngừng
tuần hoàn, tiền sử gia đình có đột tử, có nhịp nhanh
thất trên lâm sàng) cần dự phòng bằng Amiodarone
và máy phá rung tự động nếu có điều kiện.
C. Phẫu thuật và các can thiệp xâm lấn khác
1. Phẫu thuật Morrow (cắt bỏ phần cơ phì đại của
vách liên thất): được chỉ định ở các bệnh nhân có
triệu chứng nặng nề với chênh áp đường ra thất trái
trên 50mmHg không đáp ứng với điều trị thuốc. Phẫu
thuật cải thiện tốt chất lượng cuộc sống nhưng không
loại trừ hoàn toàn sự tiến triển của bệnh (tái phát
bệnh) và nguy cơ đột tử của bệnh nhân. Trong phẫu
thuật nếu có hở hai lá nặng có thể thay bằng van hai
lá cơ học.
2. Đặt máy tạo nhịp hai buồng loại DDD có thể chỉ
định trong các trường hợp nhịp chậm, bloc nhĩ thất
và giúp cho cải thiện triệu chứng lâm sàng và chênh
áp qua đường ra thất trái.
3. Gây tắc nhánh vách thứ nhất của động mạch liên
thất trước bằng cách bơm cồn chọn lọc vào nhánh
động mạch này. Đây là phương pháp được thực hiện
trong phòng thông tim sau khi chụp ĐMV. Các
nghiên cứu gần đây thấy rằng phương pháp này đã
cho các kết quả hết sức đáng khích lệ trong việc làm
giảm chênh áp đường ra ở các bệnh nhân có bệnh cơ
tim phì đại.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro