1. Mùa hè
Mười mấy năm về trước.
Tôi sinh ra và lớn lên tại thị trấn Sotogahama, tỉnh Aomori. Nó nằm ở rìa bán đảo Tsugaru, mà có lẽ gọi là điểm xa nhất về phía Bắc của Nhật Bản sẽ dễ hình dung hơn.
Trên thực tế, điểm cực Bắc của Nhật Bản nằm trên đảo Hokkaido. Trong tác phẩm, bán đảo Tsugaru là phần lãnh thổ xa nhất về phía Bắc của Nhật Bản do Hokkaido thuộc lãnh thổ quốc gia khác.
Chỗ tôi chẳng có gì, chỉ thấy biển, núi, vài căn nhà thưa thớt, đồng ruộng, cùng lắm có thể kể thêm đài tưởng niệm Tsugaru trên mũi Tappi. Ngay cả siêu thị cũng mất vài chục phút lái ô tô mới tới. Không có xe hơi thì không thể sinh hoạt bình thường ở chốn này.
Nghe nói trước kia cũng có thời thị trấn nhộn nhịp người câu cá ghềnh đá, nhưng vì đường biên giới với Liên bang nằm ngay trước mặt, nên sau khi hai nước cắt đứt quan hệ ngoại giao, khu vực này rơi vào tình trạng căng thẳng, khách tới câu thưa dần. Thậm chí nghề cá ở cảng Hamana còn không biết sẽ đi về đâu.
Loại hình câu cá trên các mỏm đá, ghềnh đá ven biển, thú tiêu khiển được yêu thích nhờ trải nghiệm buông câu trên những mỏm đá nhô ra biển hơn là lượng cá câu được, tuy khá nguy hiểm.
Dựa trên nguyên mẫu Liên bang Xô Viết (quốc gia tồn tại 30/12/1922-25/12/1991). Trong tác phẩm, "Liên bang" hay "Liên Xô" đều là quốc gia hư cấu, chỉ liên hiệp các quốc gia cộng sản.
Dù vậy, thị trấn vốn gần như chưa bao giờ chứng kiến cảnh thịnh vượng, nên người dân ở đây cũng không quá lo ngại, họ vẫn sống rất bình thản.
Nhắc đến Aomori, người ta thường nghĩ về Xứ tuyết, Dazai Osamu, Terayama Shuji, căn cứ quân sự Mỹ Nhật ở Misawa, lễ hội Nebuta...
Tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, IPM phát hành 3/2018.
(1909-1948), nhà văn người Nhật Bản, sinh ra tại thị trấn Kanagi, tỉnh Aomori.
(1935-1983), nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, đạo diễn phim và nhiếp ảnh gia người Nhật, sinh ra tại thành phố Hirosaki, tỉnh Aomori.
Thành phố nằm ở phía Tây tỉnh Aomori, giáp Thái Bình Dương.
Lễ hội đèn lồng với ý nghĩa xua đuổi tà ma, dịch bệnh, diễn ra từ 2/8 đến 7/8 hằng năm tại thành phố Aomori.
Liên tưởng đến Xứ tuyết cũng đúng thôi, vì thực tế những trận tuyết lớn trút rầm rập từ trên trời xuống (quả thật tuyết rơi rầm rập). Nhưng hình ảnh nơi này trong tôi lại có màu lục sẫm.
Bán đảo Tsugaru là vùng đất của những dãy núi thấp, thoai thoải chạy dài đến bờ biển. Vào mùa hè, sau khi tuyết tan, cây cối trên núi ngả màu xanh đậm xinh đẹp, giống màu xanh crôm trên bảng màu vẽ. Ngược lại, cỏ và chồi non ánh lên màu xanh lá mạ tươi sáng dưới nắng. Tôi vẫn hay ngắm sự tương phản giữa hai sắc xanh đậm và nhạt ấy qua cửa sổ nhà mình. Việc đó khiến tôi cảm thấy được thả lỏng, thư thái, tâm trạng đang u ám cũng bừng sáng, hoàn toàn an tâm.
Nên thơ yên ả là vậy, nhưng xét tình hình thế giới, mười mấy năm nay Aomori luôn thu hút sự chú ý không nhỏ.
Nguyên nhân đương nhiên xuất phát từ vùng đất Ezo do Liên bang chiếm đóng, nằm ngay bên kia eo biển Tsugaru. Vùng đất này chính là biên giới phân chia Nhật Bản và Liên bang, tức Liên hiệp các quốc gia cộng sản hùng mạnh chiếm trọn nửa thế giới.
Ở Aomori, trong chương trình học môn Xã hội lớp Bảy có một phần đặc biệt xoay quanh lịch sử của Nhật Bản và Liên bang giai đoạn cận đại. Chúng tôi phải học để hiểu rõ chuyện đang xảy ra trên mảnh đất quê hương.
Giờ học vô cùng tẻ nhạt, nhưng không hiểu sao, tôi nhớ khá rõ những gì được dạy. Cuối tháng Mười năm 1945, Liên Xô chiếm đảo Hokkaido. Sau khi Nhật Bản lấy lại quyền sở hữu vào năm 1950, đảo Hokkaido cũ, với tên gọi mới là Ezo, vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Liên Xô. Năm 1956, tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 20, Khrushchev ra tuyên bố thành lập Liên bang, hợp nhất nước Nga và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Tây Á thành một khối. Nửa cuối năm 1960, các cuộc biểu tình theo chủ nghĩa dân tộc dâng cao trên lãnh thổ Ezo. Nhằm đối phó với tình hình trên, Liên bang chấm dứt quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào năm 1975. Nhật Bản bị chia cắt thành hai vùng Nam Bắc cho đến nay... Những câu hỏi trong bài kiểm tra luôn lặp đi lặp lại, vì thế đến giờ tôi vẫn thuộc làu từng mốc thời gian trong lịch sử cận đại liên quan đến Liên bang.
Việc Liên Xô kiểm soát Hokkaido và các sự kiện liên quan về sau đều là hư cấu trong phạm vi tác phẩm.
Nikita Sergeyevich Khrushchyov (1894-1971), Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô (1953-1964), là nhân vật lịch sử có thật, tuy nhiên các sự kiện liên quan trong tác phẩm đều là hư cấu.
À không, không hẳn chỉ nhờ giờ học hay bài kiểm tra.
Quan hệ ngoại giao đột ngột bị cắt đứt vào một ngày năm 1975, chia cắt Hokkaido và Honshu, nên ở khu vực này có nhiều gia đình đến giờ vẫn chưa thể đoàn tụ.
Rất đông bạn bè của tôi không được gặp mặt anh chị em họ, lắm đứa còn có ông bà kẹt ở Ezo. Tôi cũng có một người bác mất tích trong thời kì Bắc-Nam chia cắt.
Có lẽ vì thực tế tàn nhẫn ở ngay trước mắt, nên lịch sử cận đại cứ thế ăn sâu vào trí nhớ.
Và một thứ nữa. Là ngọn tháp.
Tôi sẽ kể về ngọn tháp.
Tôi yêu ngọn tháp.
Khi tôi ra đời, nó đã đứng sừng sững ở trung tâm Ezo. Tôi lớn lên, mỗi ngày đều ngước nhìn ngọn tháp ấy.
Từ thị trấn chẳng ra dáng thị trấn nơi chúng tôi sống, nhìn về phía Bắc, tôi thấy ngọn tháp trắng dựng đứng trên vùng đất Hokkaido xa xôi, mảnh như thanh ruột bút chì kim được đúc dài vô tận.
Bây giờ nhớ lại, khung cảnh đó vẫn đượm vẻ kì quái.
Ngày nào tôi cũng ngắm nó, vậy mà cảm giác lạ lùng không hề vơi đi.
Ngọn tháp cao khủng khiếp. Nó lôi tuột ánh nhìn của người ta lên cao như phẩy một nét vẽ thẳng tắp, vươn xa mãi, xa mãi, càng lên cao càng mảnh, rồi mất hút. Không có đỉnh. Không, thực tế là có, nhưng nằm ngoài tầm mắt.
Khi còn nhỏ, tôi thường tưởng tượng cảnh ngọn tháp vươn tới vũ trụ, kết nối với hành tinh khác. Nó thực sự khiến người ta có cảm giác ấy.
Từ bán đảo Tsugaru nơi tôi sống, miễn trên đầu là khoảng không, chỉ cần nhìn về phía Bắc là sẽ thấy ngọn tháp. Ngọn tháp luôn ở đó, cũng hiển nhiên như mặt trời, trăng, sao và mây.
Nếu có điểm gì khiến nó khác mặt trời hay những vì sao, thì đó là tính chất nhân tạo rành rành, muốn đến vẫn đến được. Mặc dù trên thực tế nó thuộc phần lãnh thổ đang trong tình trạng căng thăng vì tranh chấp quân sự của quốc gia khác, rất khó tiếp cận.
Vậy mà tôi từng muốn đến...
... ngọn tháp đó.
Bất chấp tất cả.
Một trong những lý do khiến ngọn tháp để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi cũng như nhiều người khác, là chúng tôi hoàn toàn không biết nó được dựng lên với mục đích gì.
Một tồn tại không rõ lai lịch, nhưng mang lại cảm giác vô cùng choáng ngợp.
Mọi người, hay chính tôi, đều lãng mạn hóa nó.
Đương nhiên người ta không bỏ cả núi tiền xây một tòa nhà chỉ để cổ vũ chủ nghĩa lãng mạn mà chẳng dùng cho mục đích thực tiễn nào. Liên bang có lý do khi xây nó. Nhất định là có.
Đúng, ắt là một động cơ khủng khiếp. Nằm ngoài sức tưởng tượng. Hoặc một mục đích vĩ đại. Hào nhoáng. Đầy quyền năng, có thể thay đổi vạn vật...
Những phỏng đoán nảy sinh từ chỗ vô tri, lớn dần thành niềm khao khát. Ý nghĩ "muốn đến" chuyển sang "phải đến", cuối cùng trở thành "không đến không được". Câu hỏi "Ở đấy có gì nhỉ?" được thay thế bằng lời khẳng định "Ở đấy có gì đó!". Chắc chắn trong ngọn tháp có một bí mật tồn tại vì tôi, sẽ thay đổi toàn bộ thế giới của tôi.
Mình phải tới ngọn tháp. Tôi hạ quyết tâm. Rồi ý nghĩ ấy trở thành lý tưởng không gì lay chuyển nổi. Tôi tin nó chứa đựng mọi tiềm năng của bản thân. Một khi chưa đến đó, tôi không thể đi đâu khác. Nếu không đặt chân tới tháp, tôi sẽ mất hết những cơ hội lẽ ra thuộc về mình. Tôi sẽ chẳng làm nên chuyện gì, biến thành kẻ sống mòn mỏi qua ngày, dần dần tàn lụi trên con đường thẳng không lối rẽ...
Xung quanh còn rất nhiều người ngưỡng vọng ngọn tháp, nhưng có lẽ ít ai thấy ám ảnh vì nó như tôi. Dẫu sao tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng nhận định của mình.
Và Takuya là một trong số ít người có suy nghĩ tương tự.
Đến giờ tôi vẫn hơi giận Sayuri, dù chỉ một chút, quả thật không hơn thoáng dư âm nằm sâu trong tâm trí.
Nói ngắn gọn, sự xuất hiện của Sayuri đã khiến tình bạn giữa tôi và Takuya thành ra gượng gạo, đó là sự thật không thể phủ nhận.
Nhà tôi ở khu Minmaya trong thị trấn Sotogahama, ngay cạnh chùa Gikeiji, nơi nổi tiếng với truyền thuyết về Miyamoto no Yoshitsune. Nhà Takuya cũng ở Minmaya, chỉ cách nhà tôi khoảng mười phút đi bộ. Vậy mà đến khi vào cấp hai chúng tôi mới biết nhau. Chúng tôi học khác trường tiểu học, vì ranh giới phân chia đối tượng nhập học nằm ngay giữa hai nhà.
(1159-1189), viên tướng của gia tộc Minamoto, em trai Minamoto no Yoritomo (người sáng lập Mạc phủ Kamakura, thể chế độc tài quân sự thống trị nước Nhật giai đoạn 1185-1333). Ông công khai chống đối anh trai và phải chạy trốn, sau đó thua trận và bị ép tự sát. Tuy nhiên, có thuyết cho rằng ông đã vượt biển từ Minmaya, đào thoát về phía Bắc chứ không tự sát như sử chép.
Tôi học trường Minmaya, Takuya học trường Imabetsu. Vì thế tôi và cậu không phải bạn từ nhỏ. Chúng tôi chỉ chơi với nhau trong ba năm cấp hai. Nhưng trong lòng tôi, cậu luôn chiếm vị trí đặc biệt hơn so với những đứa bạn khác, bây giờ vẫn thế, dù tôi đã ngoài ba mươi.
Tôi và Takuya gặp nhau lần đầu khi lên cấp hai, học cùng lớp.
Vào ngày khai giảng, từng người trong lớp đều phải giới thiệu bản thân. Có điều tôi hoàn toàn không nhớ cậu đã nói gì, hay hai thằng làm quen như thế nào. Tôi chỉ nhớ chúng tôi bắt đầu chơi với nhau nhờ những chiếc phi cơ. Giữa chúng tôi luôn có sự hiện diện của phi cơ.
Chuyện xảy ra trước kì nghỉ hè, hình như vào tháng Sáu. Đã quá quen với kiểu mỗi giáo viên dạy một môn ở cấp hai và bắt đầu thấy chán, tôi mở cuốn tạp chí máy bay ra, đặt dưới ngăn bàn để đọc.
Bỗng nhiên, gáy bị đập một cái.
Gì thế...
Tôi bực mình quay lại, thấy đứa ngồi sau để mẩu tẩy chì trên lòng bàn tay trái, chuẩn bị búng đi bằng ngón giữa tay phải. Thằng này thấy tôi quay xuống bèn nhe răng cười.
Tôi khá bất ngờ, vì đó là Shirakawa Takuya.
Có một kiểu người không cần bày trò gây chú ý vẫn nhanh chóng trở thành ngôi sao sau khi nhập học. Shirakawa Takuya chính là người như vậy.
Cậu ta đẹp trai, dư sức thu hút con gái. Không những thế, cậu còn có vẻ chững chạc, ra dáng người lớn. Nói chung là toát lên phong thái lôi cuốn người đối diện. Cực giỏi thể thao, thành tích học tập tốt không tưởng. Tôi nghe đồn cậu còn đứng nhất toàn khối trong cả bài kiểm tra học lực đầu năm học lẫn đợt thi giữa kì. Về sau tôi đã chính miệng hỏi, và cậu xác nhận là đúng.
Hóa ra "con nhà người ta" là có thật.
Nghĩ thế, tôi ngạc nhiên, thực lòng còn ngưỡng mộ cậu, nhưng chỉ dừng lại ở mức đó.
Tôi thì nhìn thế nào cũng khác xa kiểu "con nhà người ta". Không phải tôi không có điểm mạnh, nhưng đụng đến điểm yếu là tôi hoàn toàn vô dụng, mà số lượng sở đoản lại nhiều hơn sở trường. Cho nên dù ở gần người như Takuya, tôi cũng coi như cậu thuộc về thế giới khác hẳn, chẳng muốn so đo.
Vậy mà Takuya lại đột nhiên chủ động trêu tôi. Thật không hiểu vì lý do gì.
Giờ học kết thúc, cậu lập tức đứng dậy, đi thẳng tới chỗ tôi.
"Cái đó là tạp chí máy bay phải không? Cho tôi xem với." Nói đoạn, cậu giơ tay chỉ cuốn tạp chí hơi thò ra khỏi ngăn bàn.
Tôi ậm ừ "ờ" một tiếng, lôi cuốn tạp chí dày cộp gáy đóng ghim ra đưa cho cậu. Takuya đứng tại chỗ, một tay cầm cuốn tạp chí, tay còn lại thoăn thoắt lật từng trang. Thật là, tên này làm gì trông cũng bảnh!
"Tôi thích loại cánh ngược cơ," cậu nói. "Dù với người mê máy bay thì gu của tôi chắc hơi xoàng. Nói thế nào nhỉ, cảm giác khá hay ho, kiểu lạ mắt ấy."
"À, tôi hiểu." Tôi đáp. "Giống F-16FSW. Nhìn trên ảnh khác hẳn loại F-16 bình thường, nhưng cái khác ấy lại hay hay."
"Công nhận. Mẫu S-37 Sukhoi nữa, thiết kế khá độc đáo."
"Mẫu Thần sấm số 2 cũng thế."
"Chiếc đó xịn thật." Cậu cười. Nụ cười rất chân thành. "Còn YF-22 và 23, cậu thấy sao?"
Đó là hai mẫu phi cơ thử nghiệm, đang được cân nhắc cho vai trò dòng máy bay chiến đấu chủ lực tiếp theo của quân đội Mỹ.
"Tôi thích con 23 hơn." Tôi đáp.
"Cậu thích cánh đuôi chữ V hả?"
"Chính xác. Sao cậu biết?"
"Vì tôi cũng thích loại đó."
Mình và tên này có thể làm bạn. Lúc đó tôi đã tin chắc như vậy.
Cậu hỏi tiếp, "Cậu khá thích máy bay nhỉ?"
Tôi khoe, "Tôi còn lắp máy bay nữa cơ. Ở nhà. Mô hình thôi nhưng bay được đấy."
"Cái gì!? Thật không?" Cậu có vẻ kinh ngạc tột độ. "Này, cậu nói thật hả? Sao không bảo sớm? Tôi đến xem luôn hôm nay được chứ?"
Cậu chủ động đề nghị, quá đột ngột, khiến tôi hơi khựng lại, "Hôm nay à... Cậu phải đến câu lạc bộ mà, tôi cũng thế."
"Bỏ một buổi có sao đâu." Cậu đáp không suy nghĩ. "Câu lạc bộ ngày nào chẳng đến tập được, chứ mong muốn xem máy bay mà không thực hiện luôn thì sẽ nguội mất. Tôi chúa ghét vụ đó. Khỏi nói nhiều nữa, hết giờ học nhớ dẫn tôi đi xem đấy."
Kết quả là hôm đó, tôi bỏ buổi tập ở câu lạc bộ bắn cung vừa đăng kí tham gia để đưa Takuya về nhà. Có lẽ chính những lời "không thực hiện luôn thì sẽ nguội mất" của cậu đã khiến tôi đổi ý.
Bởi tôi cũng quan điểm như vậy.
Tôi thuộc kiểu nghĩ mà không làm ngay là thấy bứt rứt. Tôi chẳng thể dành thời gian nuôi dưỡng ý tưởng cho tới khi chín muồi. Định làm gì mà không bắt đầu luôn là khó chịu, nên tôi sẵn sàng bỏ qua ăn, ngủ, hay bài tập về nhà. Cũng vì thế mà tôi gặp không ít thất bại lãng xẹt, nhưng tôi chưa từng nghĩ đến chuyện sửa cái tính này.
Ở góc vườn nhà tôi có một nhà kho bằng gỗ đã cũ mà tôi vẫn tiện miệng gọi là gara, tuy cũng thấy thẹn vì nói quá. Tôi vừa kéo cánh cửa cuốn kêu cọt kẹt lên, Takuya liền cảm thán.
"Chà!" Cậu tròn mắt trầm trồ. "Chỗ này oách thật đấy!"
"Thế à?" Tôi hơi ngượng. "Không phải mọi thứ đều do tôi làm ra đâu."
Gara này vốn thuộc về bác tôi. Bác là anh trai của bố tôi. Tôi chưa gặp ông bao giờ, nhưng luôn cảm thấy thân thiết. Vì bác là người đam mê máy bay.
Bác tôi là sĩ quan Lực lượng Phòng vệ Trên không, mất tích trong thời kì bất ổn sau sự kiện Bắc-Nam chia cắt năm 1975. Khi đó tôi còn chưa ra dời. Nếu chưa hi sinh, chắc ông vẫn đang ở đâu đó bên Liên bang.
Hoàn cảnh ấy khiến bố tôi trở thành người thừa kế căn nhà. Ngay từ lúc đó gara này đã ngổn ngang đồ đạc. Trong gara đầy mô hình thu nhỏ hay mô hình điều khiển vô tuyến của vô số mẫu phi cơ trên thế giới, bộ phận máy bay thật từ cánh quạt, kính chắn gió đến cần lái, rồi bản vẽ thiết kế, bản vẽ chi tiết, linh kiện lắp ráp máy bay mô hình... Thậm chí có cả máy tiện, máy khoan bàn, máy dập. Với tôi, đó là một núi báu vật. Bố hoàn toàn không hứng thú với máy bay, tôi lại là con một, nên có thể độc chiếm những gì bác để lại theo nghĩa đen.
Mô hình RC (radio-controlled), mô hình điều khiển bằng sóng vô tuyến.
Dòng máy khoan công nghiệp có thiết kế dạng trụ đứng, động cơ vận hành mũi khoan gắn trên đỉnh trụ, bàn nâng đỡ vật liệu nằm bên dưới, chuyên dùng để khoan lỗ vật liệu kim loại với độ chính xác cao.
Từ bé tôi đã coi gara là sân chơi. Gọi nó là phòng riêng của tôi cũng chẳng phải nói quá. Tuy không thể ngủ lại vì gió lùa, tôi vẫn dành khá nhiều thời gian còn lại trong ngày ở đây. Lúc đó tôi có thể ở bên bộ sưu tập của mình.
Trước khi vào tiểu học, tôi đã mê mệt máy bay và mô hình phi cơ. Ở trường, tôi luôn chọn làm máy bay trong giờ thủ công, khi không có bài tập tôi cũng sẽ chế ra kiểu máy bay nào đó. Máy bay giấy, mô hình bay tự do chạy bằng động lực cao su, máy bay lông chim, đủ loại. Tôi cẩn thận bày từng sản phẩm của mình lên giá gỗ trên tường gara, sẵn sàng cho chúng bay bất cứ lúc nào. Tất nhiên tôi làm cả mô hình RC, đến khi không thỏa mãn với mô hình nữa, tôi tự chế tạo một chiếc máy bay mới theo thiết kế của riêng mình, chỉ tận dụng động cơ có sẵn. Đó là một cỗ máy mạnh mẽ sử dụng động cơ bốn kì, thay vì chạy bảng điện. Tôi hoàn thành nó vào năm ngoái, lúc học lớp Sáu.
"Cậu tự chế ra mấy cái này ấy hả? Siêu thật đấy."
Takuya bước vào, háo hức nhìn quanh với nét mặt phấn khích. Trông cậu giống hệt đứa trẻ con đứng trong tiệm đồ chơi. Mà thật ra vẻ mặt kia không khác gì biểu cảm của tôi mỗi khi đặt chân vào cửa hàng bán mô hình. Tôi hết sức bất ngờ. Bình thường Takuya luôn tỏ ra chững chạc như người lớn. Tôi cứ nghĩ cậu là thằng con trai không bao giờ hấp tấp, bình tĩnh trước mọi việc, trầm lặng như tượng Phật.
Vì thế, khi phát hiện khía cạnh mới mẻ ở cậu, tôi vừa ngạc nhiên, vừa thấy thân thiết.
Không, đâu chỉ ở mức độ thân thiết. Giây phút đó, tôi đã hoàn toàn bị cậu thu hút.
Takuya sục sạo khắp gara không chút khách sáo, chỉ vào từng mẫu vật trong bộ sưu tập rồi bắt tôi giới thiệu. Đương nhiên, tôi đáp lại rất nhiệt tình. Mẫu đó ra đời bao giờ, xuất phát từ ý tưởng thế nào, gây khó khăn gì trong lúc thực hiện, hoặc mất bao nhiêu tháng mới xong, bộ phận này có được từ đâu...
Tôi vốn luôn muốn chia sẻ với ai đó về những gì đã làm được, khao khát tìm ra người hiểu đúng giá trị của từng thứ mình sáng tạo.
Tôi mang tác phẩm hoàn thành năm ngoái ra ngoài, đưa Takuya bộ điều khiển, lấy đường ruộng gần nhà làm đường băng cho nó cất cánh. Quanh chỗ này chỉ có lác đác vài căn nhà, là nơi lý tưởng để chạy thứ máy bay mô hình.
Khi chiếc máy bay rời khỏi mặt đất, chúng tôi đồng thanh hét lên.
Tôi luôn kích động khi cho phi cơ bay, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ quen được với việc đó.
Lần nào cũng vậy, cơ thể tôi run lên khi nhìn đôi cánh nhân tạo cứng nhắc bay trên trời. Dù quan sát vào thời điểm nào, cho nó bay lên bao nhiêu lần, cảm giác kì lạ ấy vẫn vẹn nguyên, rạo rực lan tỏa khắp sống lưng.
Không cần giải thích cặn kẽ Takuya vẫn biết cách thao tác, cậu còn lập tức nắm được mấu chốt để điều khiển máy bay theo ý mình. Từ phía trên, bộ động cơ nhỏ bé truyền xuống mặt đất nơi chúng tôi đứng xung động của không khí ở tầng cao. Chiếc phi cơ cầm được bằng hai tay khi bay cao, khi xuống thấp, thong thả lượn vòng trên bầu trời vời vợi, loáng thoáng những đám mây nhuốm màu cam.
Hôm đó chúng tôi cũng thấy ngọn tháp mảnh trên đất Ezo rõ mồn một. Takuya cho phi cơ bay về phía Bắc, liệng theo đường tròn hẹp như thể quấn quanh ngọn tháp.
Khoảng không trên đầu đậm mà trong, vòm trời tròn như ống kính máy ảnh, khiến tôi thấy lòng nhẹ bẫng như bị bầu khí ấy hút lên.
"Giờ cậu đang làm dở cái nào? Định làm gì tiếp theo?"
Takuya ngồi xuống chiếc ghế đẩu tròn cạnh bàn vẽ, cất tiếng hỏi. Tôi vừa lau chùi mô hình RC vừa ậm ừ đáp.
"Mới ở giai đoạn lên ý tưởng thôi, tôi chưa bắt tay vào làm. Tôi đang nghĩ đến mấy thứ khá rắc rối. Chẳng biết cụ thể nên bắt đầu từ đâu, có vẻ không khả thi lắm."
"Gì chứ, bí mật à."
"Không hẳn là bí mật.." Tôi thoáng ngập ngừng. Tôi muốn làm phi cơ biến hình trong lúc bay."
"Biến hình? Như F-14 ấy hả?"
Grumman F-14 Tomcat, chiến đấu cơ được Hải quân Mỹ sử dụng trong giai đoạn 1972-2006. Cánh chính của máy bay có khả năng xòe sang ngang hoặc cụp về phía đuôi (đồng thời cả hai cánh hoặc bên cụp bên xòe).
"À, kiểu đó cũng hay. Nhưng mà..." Tôi định không nói vì sợ cậu cười cợt, nhưng rồi lại quyết định tiết lộ. "Tôi muốn một chiếc hoành tráng giống X-wing trong Star Wars cơ."
Chiến tranh giữa các vì sao, thương hiệu sử thi không gian mang tính biểu trưng của Mỹ, do George Lucas sáng tạo, gồm sáu phim điện ảnh và hàng loạt sách, phim truyền hình, trò chơi điện tử, truyện tranh... ăn theo.
Takuya không cười, nhưng có vẻ hơi sốc, "Cái đó cũng bay được hả?"
"Tôi bảo 'giống' thôi mà. Bắt chước y chang thì không bay được đâu. Ý tôi không phải thế... Nói sao nhỉ. Kiểu vừa bay vừa thay đổi hình dạng ấy, đẹp, lại còn ngầu."
"Ừm..."
"Nhưng muốn biến hình mà không tính đến khí động học thì cũng chẳng đâu vào đâu. Tạm thời tôi vẫn đang cân nhắc..."
Tôi cất mô hình RC lên giá, bước tới chỗ Takuya, cầm lấy cuốn sổ để mở trên bàn vẽ. Đó là tập phác thảo tôi dùng để ghi lại những thứ nảy ra trong đầu. Tôi lật cuốn sổ, mở trang ghi chép về máy bay biến hình rồi đặt xuống bàn.
"Tôi đã có vài ý tưởng thiết kế tổng thể. Vấn đề là cơ cấu điều khiển. Thử bao nhiêu cách mà chỉ thu được mấy mớ bòng bong rối tung. Tôi đang lo không làm được cái đó..."
"Này, cho tôi mượn bút chì." Nãy giờ Takuya ngồi im như tượng xem bản phác thảo, mãi mới lên tiếng, tay với lấy cây bút chì B trong ống bút. Cậu lật trang mới, bắt đầu hí hoáy vẽ.
"Cậu vẽ gì thế?"
"Ở yên đấy chờ tôi."
Tôi định ngó vào cuốn sổ, cậu liền dùng tay che. Có vẻ cậu không thích để người khác xem thứ đang vẽ dở.
"Cậu thấy cái này thế nào?"
Một lúc sau, cậu đẩy cuốn sổ sang, lúc ấy tôi mới biết được nội dung bức vẽ.
Nó khiến tôi kinh ngạc. Trên trang giấy là những ý tưởng cho bộ phận điều khiển, giúp hiện thực hóa thiết kế của tôi. Cậu vẽ nháp bằng tay không nên phần chi tiết bị lược bỏ, nhìn qua chỉ như tờ giấy lộn. Nhưng khi đọc kĩ những diễn giải bên cạnh, tôi biết đây là thiết kế khá khả thi và sáng tạo. Cơ cấu này cho phép thay đổi hình dạng, đồng thời điều chỉnh trọng tâm giúp ổn định chuyển động trong quá trình bay. Quả là một hệ thống thanh thoát.
Tôi trầm ngâm một lúc rồi nhìn Takuya chằm chằm.
"... Cái này thực sự dùng được đấy."
"Còn phải nói, tôi vẽ ra để dùng mà." Takuya tỉnh bơ đáp.
Tôi khá sốc, dẫu không muốn thể hiện ra mặt. Tôi vốn rất tự tin về lĩnh vực này, đừng nói bạn cùng tuổi, ngay cả người lớn trong giới chơi mô hình cũng ít ai đủ khả năng đọ với tôi. Vậy mà cậu lại giải được bài toán mà tôi không sao tìm ra đáp án suốt một, hai tháng nay trong nháy mắt.
Sững sờ hồi lâu, tôi thốt lên, "Cậu là thứ gì vậy?"
"Bố tôi chuyên làm mấy việc liên quan đến thiết kế cơ khí kiểu này mà. Nhờ làm chân sai vặt của ông, tôi cũng biết tự cắt kim loại rồi đủ thứ. Chẳng phải tự mãn gì đâu, chứ mấy cuộc thi Robocon ở trường nghề với tôi chỉ là trò trẻ con."
"Siêu thật..." Tới lượt tôi thốt ra câu nói mà cậu luôn miệng nhắc đi nhắc lại ngày hôm nay. "Cậu đúng là thiên tài..."
"Cứ khen thoải mái đi." Takuya đắc ý cười nhăn nhở.
Phấn khích một hồi, tôi chợt nhớ ra.
"Nhưng mà..." Tôi nói. "Ờ, chỗ đó."
Thiết kế của Takuya có một vấn đề. Đương nhiên, cậu cũng biết rõ.
Tôi thở dài nói nốt, "Hệ thống phức tạp thế này, gần như không thể chế tạo theo tỉ lệ mô hình..."
"Cũng phải."
Ý tưởng cậu vẽ ra quá tinh xảo, yêu cầu độ chính xác rất cao, quả thật khó chế tạo ở kích thước mô hình.
"Làm máy bay thật thì còn có thể..." Tôi bâng quơ nói, giật mình vì những lời vừa thốt ra.
"Được đấy. Đã thế thì chế hẳn máy bay thật đi. Dùng máy tính điều khiển." Takuya thản nhiên nói.
Máy bay thật ư... Khi lỡ miệng nói ra tôi đã giật mình, nhưng nghĩ lại mới thấy, tại sao trước giờ tôi không có dự định hay ý muốn chế tạo phi cơ thật nhỉ? Quả là khó hiểu.
Làm máy bay thật...
Đúng rồi, giờ mình có thứ kia mà.
Suy nghĩ đó khiến tôi phấn khích, say mê theo cách chưa từng có.
"Này, tôi có chuyện muốn bàn."
Takuya lên tiếng. Tôi quay sang nhìn cậu.
"Gì?"
"Hết kì nghỉ hè là đến lễ hội trường nhỉ? Lấy đó làm thời hạn, tôi với cậu chế tạo cái gì đi?"
"Ờ, được đấy."
Đây là ý tưởng hay. Có lẽ tôi cũng hơi nản khi cứ một mình đưa ra quyết định, một mình tiến hành mọi thứ. Tôi hỏi, "Nhưng cậu bảo nên làm gì đây?"
"À..." Cậu cười tươi. "Cái mà cả tôi và cậu đều chưa làm bao giờ."
Chúng tôi quyết định chế tạo phi cơ phản lực điều khiển bằng sóng vô tuyến. Trước giờ tôi mới làm máy bay cánh quạt, chưa làm chiếc nào chạy động cơ phản lực dùng cho mô hình.
Nghe tôi nói vậy, Takuya đáp "Chính thế", tay trỏ vào mặt tôi.
"Nhưng động cơ phản lực dùng cho mô hình đắt lắm đấy. Hét giá sơ sơ đã hơn một triệu còn gì. Đồ cũng phải vài trăm nghìn."
"Dĩ nhiên là tôi biết." Mặt Takuya tỉnh queo.
"Rồi cậu định làm thế nào?"
"Không nhất thiết phải mua, kiếm nguồn rồi xoay xở đem về là được đúng không?"
"Cậu nói cái gì thế? Kiếm nguồn với xoay xở là sao?"
"Thôi, chuyện đó để tôi lo. Tôi có cách rồi."
Vài hôm sau, vào Chủ nhật, Takuya mang động cơ phản lực dùng cho mô hình đến nhà tôi thật. Trên poocpaga xe cậu còn chở một can nhựa nhỏ dựng nhiên liệu dùng cho máy bay phản lực. Động cơ cậu mang đến không phải đồ mới, rõ ràng đã qua sử dụng, nhưng là hàng do Tây Đức sản xuất nên chất lượng cực tốt. Chính là chiếc động cơ khiến tôi thở dài thèm thuồng mỗi khi xem ảnh trong catalô.
Tôi dành khá nhiều thời gian vuốt ve, tận hưởng bề mặt mát lạnh của kim loại, ngắm nghía từ mọi góc độ, tán thưởng hình dáng đẹp hoàn hảo không chút dư thừa của nó. Mùi nhiên liệu xộc vào mũi cũng khiến tôi mê mẩn. Lùa ngón tay qua những rãnh xoắn tròn ở cửa lấy khí của động cơ, tôi có cảm giác một dòng điện vừa chạy khắp người. Thì ra trên đời có thứ xinh đẹp, quyến rũ nhường này. Tôi suýt quên mất cả thời gian lẫn Takuya ở ngay bên cạnh.
Một lúc sau, tôi thình lình quay sang hỏi cậu, "Nhưng này, làm thế nào cậu có được nó?"
Cậu thoáng bối rối, "À, chuyện đó... Muốn nghe tôi kể không?"
"Thôi đi, cậu đã làm gì?"
"Nói ra cũng được, nhưng tôi nghĩ cậu không nên hỏi đâu. Nếu biết, cậu sẽ phải dùng nó trong mặc cảm tội lỗi đấy."
"Ý cậu là..."
Có vẻ Takuya đã dùng phương thức không đứng đắn cho lắm để lấy được thứ này. Chắc mặt tôi lúc đó rất nhăn nhó. Takuya thì chẳng buồn mặc cảm, hào hứng nói tiếp, "Kệ đi. Dù sao cũng mang đến đây rồi. Nó muốn bay trên trời chứ không thích nằm chết gí trong kho đâu."
Nói đoạn, cậu gõ "boong boong" lên động cơ. Câu trả lời đó đã chấm dứt màn chất vấn, tôi không hỏi thêm gì nữa.
Sau này tôi dần hiểu ra, ở Takuya có một phần hư hỏng khác xa vỏ bọc học sinh ưu tú thường thấy. Tôi không rõ nó thuộc về bản chất, hay cậu chỉ cố tỏ vẻ phá phách.
Có thể kể ra vài ví dụ, hút thuốc lá là một trong số đó. Dù mới học lớp Bảy, cậu đã nghiện thuốc khá nặng.
"Tôi phải đóng vai con ngoan trò giỏi mà. Căng thẳng tích tụ. Cậu coi như không biết đi?"
Cậu nói thế khi chúng tôi đang đo kích thước động cơ, miệng nhả khói dù chẳng có vẻ ngon lành cho lắm. Takuya là đứa cẩn thận, những người xung quanh tuyệt nhiên không biết cậu hút thuốc. Nhưng trước mặt tôi, Takuya lại bình thản hút hết điếu này tới điếu khác.
Vì chuyện này, tôi phải hết sứt chú ý không để tóc tai hay quần áo bị ám mùi, kẻo bố mẹ và thầy cô nghi ngờ.
"Cậu biết bàn là hơi nước dùng để làm phẳng nếp nhăn trên áo vest chứ? Lấy cái đỏ ủi qua là hết mùi thuốc ngay."
Nghe lời Takuya, ngày nào tôi cũng mượn bàn là của bố, ủi một lượt quần áo đồng phục. Cũng nhờ vậy, suốt ba năm cấp hai chơi với Takuya, tôi là một thanh niên khá tươm tất.
"Con ngoan trò giỏi trông thế mà mệt nhỉ..." Tôi thở dài, lầm bầm. "Nhưng tôi vẫn muốn thử làm học sinh ưu tú một lần xem sao, có tí áp lực cũng được."
"Tôi nghi ngờ câu đó đấy." Takuya bỏ tàn thuốc vào chai trà Ô Long rỗng, cười thăm dò. "Cậu chẳng bao giờ có ý nghĩ ấy, chỉ giỏi khoác lác."
"Sao lại không? Tôi muốn thử thật mà."
"Không, cậu không nghĩ thế. Tôi biết mà." Takuya tự tin khẳng định. "Tôi thấy cậu mới đáng ghen tị."
Câu nói tiếp theo của cậu làm tôi hơi bất ngờ, "Sao tôi lại đáng ghen tị?"
"Cậu chỉ làm việc muốn làm, thư thả theo cách riêng. Mặc kệ xung quanh nói gì, cậu cứ là chính mình. Tôi thích thế lắm, nhưng người như tôi không giỏi sống kiểu đó."
"Vậy à..."
Giọng Takuya trầm lắng khác thường, khiến tôi cũng chùng xuống đôi chút.
"Tôi nổi bật đúng không? Chắc phải đến mức hơi chướng mắt."
"Ừ." Tôi thành thật đáp. Đúng là cậu làm gì cũng gây chú ý.
"Nổi bật nghĩa là phải thuận theo ánh mắt hay đánh giá của người khác. Bị ràng buộc, không hành động theo ý mình. Trông thế mà mệt lắm đấy."
"Ừm."
Tôi lẩm bẩm. Đây là lần đâu tiên tôi nghe điều này. Hóa ra thế giới của mỗi người lại khác nhau. Chỉ cần góc nhìn thay đổi, dù ở cùng không gian, cùng trường học, cảm nhận về mọi thứ vẫn chênh lệch rất nhiều.
"Cho nên từ đầu năm học tôi đã để ý đến cậu. Tôi thấy cậu vừa hợp tính, vừa đáng sợ. Cứ bảo nhạt nhẽo, không nổi bật, nhưng nhãng đi một cái là có thể làm ra chuyện vĩ đại gì đó, ở cậu có kiểu áp lực như thế đấy. Thành ra tôi chợn."
"Ừ, vậy à." Tôi nhìn xuống bộ động cơ, loay hoay thao tác, giọng nhát gừng. Thật ra trong thâm tâm, tôi vô cùng xúc động.
Takuya nói về điểm yếu của mình vô tư như kể chuyện phiếm. Cậu đem lại cảm giác kì lạ mà trước nay tôi chưa từng gặp. Cách nói chuyện không câu nệ cũng khiến tôi bất ngờ.
Tôi vốn thật thà, hay ít nhất, không phải loại người quá phức tạp. Còn cậu đã sớm biết tạo vỏ bọc làm hài lòng người khác rồi tùy ý gỡ nó xuống khi muốn sống thật với bản thân. Với tôi, việc đó thực sự đáng kinh ngạc và vô cùng mới mẻ.
Quả thật ở Takuya có những điểm thu hút tôi rất mạnh mẽ.
"Nhưng mà, hút thuốc có hại cho sức khỏe đấy." Tôi nghĩ mình nên nói gì đó, bèn đưa ra lời cảnh báo chiếu lệ.
Takuya châm điếu thuốc mới với vẻ mặt hơi khó chịu, rồi đột nhiên nhoài người phả khói thuốc vào mặt tôi.
"Cậu làm cái gì thế hả!"
Tôi ho sù sụ, vừa dùng tay xua khói vừa nói. Takuya nở nụ cười thâm sâu kì lạ.
"Có sao đâu. Tôi với cậu cùng chết vì ung thư phổi là cùng."
Chúng tôi có thể chọn làm mô hình theo tỉ lệ phi cơ thật, hoặc một khung máy chính thống với hình dáng tương tự.
Tôi hiểu rất rõ làm vậy nó sẽ bay. Tôi đã khá trầy trật tự học về khí động lực, cũng từng thiết kế và vận hành thành công máy bay của riêng mình, vì thế tôi có tự tin về điểm này. Điều tuyệt vời khi thiết kế phi cơ chính là, chỉ cần thiết kế chính xác, chế tạo đúng kích thước đã tính toán, mô hình chắc chắn sẽ cất cánh thành công. Nếu nó không bay thì chỉ có hai nguyên nhân, hoặc thiết kế sai, hoặc kĩ năng thao tác không đủ.
Tôi tự tin trong cả hai vấn đề đó. Không cần quá dụng công, sản phẩm của tôi vẫn bay được. Nhưng làm mãi theo lối đó cũng chán. Tôi muốn thử thách.
Tôi còn nghĩ, vật giống phi cơ bay trên trời là chuyện hiển nhiên. Tôi muốn tạo ra "vật thể bay có hình thù kì dị". Tôi muốn thử làm một thứ mà chính mình cũng chưa chắc có thành công hay không.
"Kiểu cánh bay thì sao?"
Flying wing. Loại máy bay không đuôi, thân gói gọn trong cấu trúc cánh chính.
Takuya mở cuốn Fan Hàng không, chỉ bức ảnh bên trong. "Như chiếc này chẳng hạn. Trông giống UFO, mới lạ đấy chứ?"
"Hình dáng hay thật. Nhưng tôi thấy cũng dễ bay mà."
"Cậu đúng là đồ lắm chuyện." Takuya trợn một mắt, tỏ vẻ bó tay. "Muốn làm thứ bay được mà lại bảo không thích loại dễ bay."
"Chịu thôi, biết trước kết quả chán lắm."
"Kiêu ngạo quá đấy." Cậu nói qua khóe môi ngậm điếu thuốc cháy dở. "Có điều, tôi cũng hiểu cảm giác đó."
"Cậu hiểu? Thật không?" Tôi hỏi.
"Tất nhiên là thật." Cậu đáp. "Thứ chưa thấy bao giờ. Chuyện chưa biết. Trải nghiệm chưa từng có. Cảm giác chưa từng trải qua. Đấy cũng là những thứ tôi muốn. Trên đời chỉ có một thứ thực sự giá trị. Nói ngắn gọn chính là 'vô tri'."
"Nói thì nghe hay thật đấy..."
"Máy bay cánh tròn thì sao?"
"Cánh tròn à..."
Tôi thử cân nhắc lựa chọn này. Máy bay cánh tròn là loại phi cơ có cánh chính dạng vòng kín hoặc ống trụ. Vì cánh không có đầu mút, nên máy bay không gặp phải hiện tượng mất lực nâng ở cánh. So với cánh phẳng, diện tích mặt tiếp xúc của cánh tròn nhỏ hơn, thoạt nhìn khó mà bay được, nhưng tôi vẫn có thể làm cho chiếc cánh nhỏ đó bay. Nói cho dễ hình dung thì nó gần giống tên lửa. Chỉ là...
"Có vẻ khó đây..." Tôi buột miệng.
"Đúng ý cậu còn gì?" Takuya chộp ngay câu này để chặn họng tôi. "Quyết rồi nhé."
Và từ hôm đó, chúng tôi bắt đầu vẽ thiết kế. Takuya vốn không biết nhiều về khí động lực, nhưng sau một đêm, cậu đọc hết ba cuốn sách chuyên môn tôi cho mượn và đạt đến trình độ có thể chế tác mô hình mà chẳng gặp khó khăn gì cả. Chỉ mất một đêm, cậu đã tiếp thu hết những kiến thức mà tôi mất khá nhiều thời gian mới học được. Tố chất thiên tài thật đáng gờm. Tôi phát hoảng, gần như sợ hãi khả năng của cậu, nhưng có bạn bè cùng trình độ hiểu biết quả là điều đáng quý. Đó là lần đầu tiên tôi gặp một đứa bằng tuổi dùng máy tiện hay máy phay ngang cơ.
"Nhà tôi cũng có cái máy thế này, với lại từ bé tôi đã thích chế tác. Giờ tay tôi vẫn còn đủ mười ngón là kì tích đó."
Takuya nói, mỉm cười khiến khóe miệng tôi cong lên theo. Khi đã quá đồng cảm với nhau, người ta sẽ bật cười. Chuyện tay tôi còn đủ mười ngón cũng không khác kì tích là mấy.
Thiết kế khí động quả thật rất khó, nhưng cả hai đã xoay xở được. Đương nhiên, tôi và Takuya đều không thích thiết kế chỉ để bay. Chẳng những bay tốt, nó còn phải bay thật ngầu. Chúng tôi vẽ các ý tưởng ra giấy, sửa chỗ này, chỉnh chỗ kia, cuối cùng khi hoàn thành bản vẽ ưng ý thì tháng Bảy đã qua.
Chúng tôi dùng sợi cacbon và gỗ balsa làm thân máy. Lý do thì nhiều, nhưng chủ yếu là vì ở nhà tôi có sẵn cả núi, đến mức đủ đem bán. Từ tận đáy lòng, tôi vô cùng biết ơn người bác chưa bao giờ gặp mặt.
Loại gỗ nhẹ, xốp, dẻ cắt, dễ uốn, hấp thụ keo tốt, thường được sử dụng để chế tạo mô hình.
Cùng ai đó chế tạo một thứ là việc rất vui vẻ.
Suốt kì nghỉ hè, tôi và Takuya ở lì trong gara làm máy bay. Chúng tôi im lặng cắt tạo hình, gia công vật liệu bằng giấy nhám với bộ mặt nghiêm túc. Khi thực sự tập trung làm cái gì đó, người ta sẽ không nghe thấy bất cứ âm thanh nào, cũng chẳng thốt ra lời.
Ngay cả lúc ấy, tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của người đồng sự bằng một giác quan khác, không phải tai hay mắt. Tôi không biết cảm giác của Takuya thế nào. Nhưng tôi đã hi vọng, và tin chắc, cậu cũng nghĩ như tôi.
Chúng tôi tán gẫu khi giải lao. Toàn chuyện lặt vặt, từ thành phần gia đình, chuyện về đứa nào đó trong lớp, đến chương trình ti vi ngày xưa thường xem.
Thỉnh thoảng, chúng tôi tạm gác việc chế tạo lại, lên tàu vào thành phố Aomori chơi. Mua sắm, ăn uống ở cửa tiệm trong trung tâm thương mại bên trên nhà ga, đi bơi. Tôi không hề cảm thấy hào hứng một cách vô cớ như những lần đi chơi với bạn mới quen. Tôi và Takuya hợp nhau như thể hai thằng đã làm bạn nhiều năm nay.
Tới ngày 20 tháng Tám, thời điểm kì nghỉ hè ngắn ngủi ở Tohoku kết thúc, thân máy gần như đã hoàn thiện. Hội trường diễn ra vào ngày 25 tháng chín, vậy là chúng tôi dành trọn tháng còn lại để sơn máy, tinh chỉnh và bảo dưỡng động cơ.
Chúng tôi chọn màu xanh dương cho thân máy bay.
"Màu xanh tạo cảm giác nhanh nhất."
Takuya nói. Tôi ồ lên trầm trồ. Cậu bảo vậy thì chắc phải có bằng chứng khoa học hay tâm lý học gì đó. Khi tôi hỏi, cậu trả lời.
"Không, cảm quan cá nhân thôi."
Tôi hơi thất vọng. Nhưng xanh dương là màu đẹp. Tôi rất thích màu xanh của đội phi cơ Blue Impulse.
Phi đội bay trình diễn của Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản.
Tôi và Takuya thống nhất không tiến hành bay thử trước ngày hội trường. Khoe thứ mình biết có thể bay ngon lành cũng chỉ là trình diễn đơn thuần, hết sức nhàm chán. Nhàm chán trong mắt người xem, và hơn hết, là trong mắt hai kẻ trực tiếp làm ra nó như chúng tôi.
Chúng tôi muốn thử nghiệm thứ chưa rõ kết quả trước mặt mọi người.
Dù vậy, nếu ai đó hỏi nó bay được không, câu trả lời chắc chắn là có. Chúng tôi đặt niềm tin tuyệt đối ở chiếc phi cơ. Bởi nó là tác phẩm do cả hai tạo ra, tôi và Takuya.
Chẳng có gì đáng tự hào, nhưng phải nói tôi là thằng đi đến đâu mang mưa đến đó. Từ xưa đã vậy, hễ tôi đi tham quan hay dự đại hội thể thao là mưa (thậm chí tuyết) sẽ rơi theo, vậy mà ngày hội trường năm đó lại nắng đẹp. Không trung trong vắt chẳng có lấy một gợn mây. Toàn bộ vòm trời nhuốm sắc xanh dương thăm thẳm của mùa hè.
Sáng hôm ấy, trên đoạn đường ngắn từ ga Minami Yomogita đến trường, tôi hơi ngẩng đầu nhìn trời rồi hít vào thật sâu. Quanh trường chúng tôi chỉ có đồng ruộng, vài căn nhà cùng mấy mảnh rừng nhỏ nằm rải rác. Núi non đều thấp và ở xa. Vì thế vào ngày nắng ráo, bầu trời trông rộng lớn đến choáng ngợp. Địa điểm và thời tiết đều lý tưởng cho phi cơ cất cánh. Tôi vừa dõi theo chú chuồn chuồn ngô bay ngang tầm mắt, vừa thở sâu để kìm nén cảm giác hưng phấn.
Ba mươi phút nữa mới đến giờ sinh hoạt chung, nhưng Takuya đã có mặt trong lớp.
"Cậu đến muộn, Hiroki."
"Tôi không muộn. Cậu đến sớm thỉ có."
Xung quanh chỉ có hai đứa khác đang sửa lại phần trang trí phòng học. Lớp tôi mở hàng đồ ngọt, kiểu quán bán bằng phiếu ăn có ở khắp nơi. Takuya tiến tới chỗ tôi, nói nhỏ để hai đứa kia không nghe được.
"Tôi lắp xong máy rồi."
"Hả? Xong rồi? Cậu đến từ mấy giờ vậy?"
"Tầm một tiếng trước. Tại tôi bồn chồn không chịu được."
Chúng tôi đã tháo rời máy bay, mang dần từng bộ phận đến trường để sẵn từ mấy hôm trước. Tất nhiên bộ dụng cụ lắp ráp và nhiên liệu cũng vậy.
Không biết bằng cách nào, Takuya đã đến phòng giáo viên kiếm được chìa khóa nhà kho bằng gỗ bỏ trống sau trường. Nhà kho đầy cát lạo xạo, nhưng nằm ở góc khuất ít ai để ý, rất thích hợp cho cậu trốn ra hút thuốc. Chúng tôi giấu máy bay trong đó.
Chúng tôi giữ bí mật chuyện này với cả nhà trường lẫn bạn học. Nói cách khác, hai thằng đang đóng vai du kích.
Chúng tôi đặc biệt không để giáo viên biết. Chắc chắn họ sẽ nhặng xị tra hỏi vấn đề an toàn, còn tệ nhất sẽ cấm cản. Tôi và Takuya đều không thích bị người lớn giảng đạo, chưa kể bọn họ toàn là tay mơ chẳng biết gì về máy bay. Chúng tôi ghét bị người khác điều khiển.
Chúng tôi muốn tự trưởng thành, tự kiểm soát cuộc sống của mình. Về chuyện này, tôi và Takuya suy nghĩ giống hệt nhau, thật không khác gì anh em sinh đôi.
Giờ sinh hoạt chung kết thúc, lẽ hội chính thức bắt đầu. Tôi và Takuya tức tốc làm cho xong phần việc ở quầy hàng của lớp rồi chạy đi. Hai thằng lao ra khỏi phòng học, phớt lờ mọi hàng quán, chia nhau tiến hành khâu chuẩn bị theo đúng những gì đã bàn trước.
Thời gian cất cánh ban đầu là 1 giờ chiều, nhưng do lắp máy xong sớm nên chúng tôi quyết định đẩy lên một tiếng.
Tôi cầm chìa khóa Takuya đưa, ra nhà kho, cẩn thận xem xét máy bay đã lắp có sai sót gì không. Từ lúc chế tác chúng tôi đã thống nhất kiểm tra chéo từng chi tiết, Takuya kiểm tra sản phẩm của tôi và ngược lại. Hoàn toàn không vấn đề. Cậu lắp nó một cách hoàn hảo. Tôi cấp nguồn, cho chạy thử để kiểm tra những bộ phận cơ động như cánh liệng, cánh lái độ cao, càng bánh xe. Càng bánh xe bị rít nên tôi chỉnh lại.
Sau đó tôi châm lửa để làm ấm động cơ phản lực. Làm việc này trong nhà kho bằng gỗ không mấy rộng rãi là khá nguy hiểm, nhưng chẳng còn cách nào khác. Không khí nhanh chóng nóng sực lên. Mùi khí thải lan ra cả nhà kho nên tôi phải hé cửa. Gian nhà được dựng cẩu thả và bị gió lùa ở nhiều chỗ, nhưng trong hoàn cảnh này đó lại là sự may mắn.
Trong lúc ấy, Takuya chuẩn bị đường băng.
Khoảng đất trống sau tòa học xá của trường cấp hai chúng tôi học được trải nhựa, dùng làm bãi đỗ xe cho giáo viên. Trường ở nông thôn nên đất có thừa, bãi đỗ vừa rộng vừa thưa xe. Bãi đỗ xe thông ra một con đường tư thẳng tắp. Trừ những người có việc phải vào trường, tuyệt nhiên không ai đi qua đây.
Trong lần vào thành phố Aomori trước đó, Takuya đã mua dây ni lông vàng và đen ở siêu thị bán đồ gia dụng. Cậu căng dây giữa bãi đỗ xe làm tín hiệu cấm đường. Phải làm thế để không có người hay ô tô cắt ngang cung đường dùng làm đường băng. Đường băng nối liền con đường sau bãi xe. Chúng tôi sẽ dùng nó để kéo dài cự li nếu cần, dù theo tính toán, diện tích bãi xe đủ cho máy bay cất cánh. Sau này biết chuyện tôi mới buồn cười. Vốn tính tỉ mỉ, Takuya đặt cả rào chắn nhặt từ công trường xây dựng nào đó ở đầu đường, cẩn thận dựng thêm tấm biển bằng ván ép đề dòng chữ "Cấm lưu thông do tổ chức lễ hội trường". Toàn đồ giả nhưng cũng khá ra trò.
"Cứ ra vẻ thản nhiên làm việc cần làm thì có phá luật cũng không bị nghi ngờ đâu."
Lúc còn ở giai đoạn lên kế hoạch, nghe tôi bày tỏ mối lo bị phát hiện rồi ăn mắng nếu tự ý cấm đường, Takuya đã nói vậy.
"Cho nên tôi mới nhận, phụ trách vụ đường băng. Cậu khó tỏ ra đường hoàng khi đang mưu tính chuyện bất minh, đúng chứ?"
Đúng. Tôi đành gật đầu, nghe theo kế hoạch của cậu. Quả thật bộ mặt lúc nào cũng tỉnh bơ của Takuya rất hữu dụng. Khi tôi lỉnh kỉnh xách máy bay, bộ phát tín hiệu cùng hộp dụng cụ đến nơi, cậu đã chuẩn bị xong đường băng mà không bị ai phát hiện.
"Đây là điểm xuất phát."
Takuya nói, dùng gót giày cao su vạch một đường vô hình trên mặt đường nhựa. Tôi nhẹ nhàng đặt máy bay xuống, châm lửa làm ấm động cơ lần nữa. Ngọn lửa gần như trong suốt, không ngả hẳn sang xanh hay đỏ bập bùng trong không khí. Thỉnh thoảng, mùi nhiên liệu máy bay cháy xộc vào mũi, khiến tôi không khỏi bồn chồn.
Lúc này chúng tôi đã thu hút kha khá sự chú ý. Khán giả bắt đầu kéo đến, trong đó có cả giáo viên. Trông ai nấy đều thong dong như thể họ không nhận ra đây là sự kiện chưa được cho phép. Không, có khi họ biết nhưng cố tình lờ đi.
"Ê, tên lửa à?" Một đứa bạn cùng khối mà tôi quen lên tiếng.
"Không phải, máy bay đấy."
"Làm gì có cánh."
"Có chứ, trông thế thôi."
"Bay nổi không? Hay lại kiểu trò đùa dùng một lần?"
"Mấy cậu cứ yên lặng mà xem. Takuya, bắt đâu luôn đi." Bị dồn ép, tôi nóng nảy bảo.
"Đúng đấy. Chơi thôi."
Takuya dang tay ra hiệu cho khán giả lùi về sau. Tôi cầm bộ phát tín hiệu lên, kéo ăng ten, gạt nhẹ cần lái. Động cơ điện servo trong thân máy bay bắt đầu hoạt động, cánh liệng và cánh lái độ cao xòe ra. Mới thế mà đám đông đã bắt đâu xôn xao.
Được ví với cơ bắp của hệ thống điều khiển chuyển động, cung cấp lực cần thiết cho các thiết bị khi vận hành.
Tôi thở sâu, "Tôi bắt đầu đây."
"Tới bến đi."
Tôi gạt cần điều khiển van tiết lưu.
Bộ phận điều chỉnh lưu lượng chất lỏng, ở đây là nhiên liệu máy bay.
Động cơ phản lực nhỏ đạp vào khoảng không đằng sau.
Động cơ phản lực không khí (jet engine) hút và nén không khí vào buồng đốt, phun nhiên liệu đốt cháy không khí sinh năng lượng, chuyển đổi năng lượng thành lực đẩy phụt ra sau, tạo phản lực đẩy máy bay về phía trước.
Chiếc máy bay chạy một đường thẳng như bị đẩy về phía trước. Tiếng kim loại cọ xát rít lên chói tai. Thân máy được chế tạo với trọng lượng nhẹ rung lên bần bật khi gặp từng vệt gồ ghề nhỏ trên mặt đường nhựa. Tuy lo lắng, tôi vẫn biết mình không được buông lỏng van tiết lưu lúc này. Tôi dồn hết sức tập trung, dùng ngón cái giữ chặt cần điều khiển.
Thật nhẹ nhàng, như thể được nâng bởi đệm khí, chiếc phi cơ vọt lên. Khoảnh khắc này luôn khiến tôi có cảm giác trái tim vừa được kéo lên từ tầng sâu.
Tôi đã cho máy bay cất cánh.
Chiếc máy bay này có sức mạnh khác hẳn những mô hình tôi thường điều khiển. Nó rất nhanh. Tôi cho nó chao lượn rồi bay ngược lại chỗ mình. Phi cơ phản ứng với các mệnh lệnh nhạy hơn tưởng tượng, không khỏi khiến tôi lạnh gáy. Cảm giác rùng mình quen thuộc chạy dọc sống lưng, lan khắp cơ thể, làm tê liệt mọi tế bào.
Tôi cho nó bay ngang qua tòa học xá, vòng ba vòng rộng trên không. Phải đến lúc đó tiếng hò reo lẫn âm thanh ở xung quanh mới lọt vào tai tôi.
Tôi đảo mắt nhìn qua, thấy ai nấy đều đang ngẩng đầu nhìn trời như kẻ ngốc, một cảnh tượng hết sức kì quặc. Có những đứa ở tầng hai, tầng ba còn nhoài hẳn người ra khỏi cửa sổ mà ngó. Tôi đã khiến khá nhiều người chú ý.
Tôi chợt muốn nhìn máy bay ở cự li gần, bèn cho nó lượn xuống thấp như vờn qua mặt đất đúng một lần. Chiếc máy bay vụt qua trong chớp mắt, chỉ để lại tiếng động cơ êm êm nhờ hiệu ứng doppler.
Hiệu ứng vật lý, trong đó bước sóng của các sóng nói chung thay đổi khi nguồn phát sóng chuyển động tương đối so với người quan sát, gây ra sự thay đổi về tần số sóng.
Aaaaaaaaa.
Chính là cảm giác này.
Phải miêu tả thế nào đây. Liệu những người đứng xem có hiểu không.
Cảm giác như có hai bản thân cùng tồn tại.
Lúc này, tôi vừa đứng trên mặt đất, vừa hóa thành chiếc máy bay nhỏ nương theo gió. Không phải tôi đang điều khiển phi cơ. Tôi vừa là tôi, vừa là chiếc máy bay. Tạm thời, trong tôi tồn tại hai năng lực. Chao lượn trên bầu trời và đứng vững trên mặt đất. Tôi ngước nhìn mình bay trên không, đồng thời nhìn xuống mình đứng dưới đất. Sự tách biệt dễ chịu. Đa tầng hóa cái tôi. Tôi gửi gắm cảm xúc đến một "tôi" khác cùng lúc đón nhận xúc cảm từ cái tôi đố. Đây quả là trải nghiệm đặc biệt. Không phải nhân hóa, cũng không phải hợp nhất với đồ vật, mà là tách một phần bản thân để tạo ra năng lực mới.
Hai cái tôi ấy cùng chìm trong cơn say.
"Này, đừng có đứng đực ra thế." Là giọng Takuya. "Đổi chỗ cho tôi."
Tôi ổn định chuyển động của máy bay, chuẩn bị chuyển giao bộ điều khiển.
Đổi người điều khiển khi phi cơ đang bay cần có kĩ thuật nhất định. Tôi giữ chắc cần lái bằng ngón tay, đưa nó cho Takuya đứng bên cạnh. Takuya ghì cần lái từ phía trên vị trí tôi đang giữ. Tôi lần lượt nhẹ nhàng thả ngón tay ra. Những động tác đó chỉ diễn ra trong tích tắc. Chúng tôi đã tập luyện rất nhiều lần, vì thế không gặp sai sót nào.
Sau khi rút tay về, tôi bần thần mất một lúc.
Buông bộ điều khiển ra, cuối cùng tôi cũng có thể bình thản chiêm ngưỡng chiếc máy bay. Khác hẳn máy bay cánh quạt, đường bay của nó sắc lẹm, kích thích mọi tế bào. Chiếc phi cơ với hình dáng mảnh và dài tựa tên lửa xuyên qua luồng gió. Bộ cánh tròn cắt không khí thành từng mảnh như dao nạo gọt vỏ trái cây. Tôi xúc động đến mức nổi da gà, tưởng như lớp vỏ của trái tim trong lồng ngực đang bị lột xuống sắc ngọt.
Tiếng hò reo hòa với tiếng kim loại rít lên từ động cơ rồi chìm mất. Cũng nhờ tiếng ồn chọc thủng màng nhĩ ấy mà không biết từ lúc nào, số người thò đầu khỏi cửa sổ ngó lên trời đã tăng lên. Đâu đó còn có tiếng vỗ tay.
Tôi nhận lại bộ điều khiển. Từng thớ thịt tự nhiên căng lên. Chuyển động của cần lái khuấy động cảm xúc của tôi lần nữa.
Tôi cao hứng cho nó bay tiếp một lúc.
Rồi linh tính không lành kéo đến. Tôi cảm nhận được sự bất thường rất khó diễn tả, giống như dấu hiệu báo trước cơn cảm cúm. Sau giây lát tôi mới nhận ra nguyên nhân. Phản ứng của máy bay không còn nhạy.
"Này, cậu có thấy lạ không?" Takuya vừa dứt lời, động cơ máy bay liền kêu "phụp" một tiếng.
"Hỏng rồi."
Tôi vội vàng hạ độ cao, kéo phi cơ trở lại điểm xuất phát, nhưng đã muộn. Động cơ ngừng hoạt động. Máy bay đang liệng sang phía bên kia tòa học xá. Nó rơi xuống, mất hút khỏi tầm nhìn.
Rầm! Nó đâm sầm vào cái gì đấy.
"Nhà thể chất!" Tôi và Takuya đồng thanh hét, rồi cùng phóng đi.
Chúng tôi vội vàng vòng ra sau tòa nhà, chạy đến bãi đất trống. Nhà thể chất ở đằng đó. Có vẻ máy bay đã đâm vào tường hoặc cửa sổ nhà thể chất. Hai thằng vừa đi vòng quanh vừa ngẩng đầu nhìn tường. Không thấy chiếc phi cơ đâu cả.
Nghe tiếng gọi tên cả hai ở đằng xa, chúng tôi quay lại, thấy vài người thò đầu ra từ cửa sổ tầng ba, tay trỏ nóc nhà thể chất.
"Ở trên đó hả trời!"
Tôi chạy về phía tòa học xá. Hình như Takuya bám theo ngay đằng sau. Chạy qua cửa lên cầu thang, vượt qua hai tầng nhà, chúng tôi lên đến tầng ba. Thế rồi cả hai lao vào phòng học gần nhất. Thật tình cờ, chỗ này để trống. Trường nằm ở vùng quê đáng gọi là vùng sâu vùng xa, nên có phòng học bỏ không cũng chẳng phải chuyện lạ.
Chúng tôi vọt về phía cửa sổ, nhoài ra ngoài.
Phi cơ kẹt trên gờ mái nhà thể chất, trông như miếng chanh găm vào miệng ly.
Chiếc máy bay xanh dương hòa hợp lạ thường với mái nhà bằng kẽm màu nước biển.
Mái nhà trông như máng trượt ở bể bơi, phi cơ có thể trượt khỏi đó bất cứ lúc nào. Đầu phi cơ bị bẹp do là phần mềm. Nhờ chỗ bẹp ấy nó mới mắc lại trên mái thay vì rơi xuống đất.
"Aaa!" Tôi và Takuya không hẹn mà hét lên âm thanh vô nghĩa gần như cùng lúc.
Trong vài giây tiếp theo, chúng tôi ngẩn người ngắm chiếc máy bay.
Chẳng hiểu sao tôi lại thấy nhộn nhạo. Cảm giác khó hiểu vô cớ sôi lên trong dạ dày. Tôi bối rối, tát mạnh lên má để xua đi sự kì quặc ấy. Rồi tôi bất giác nhìn sang Takuya. Vì lý do nào đó, nét mặt cậu y hệt tôi.
Hai chúng tôi, không biết đứa nào trước đứa nào sau, phá ra cười.
Chúng tôi bấm bụng cười ngặt nghẽo không thành tiếng một lúc, nhưng rồi chẳng nhịn nổi, bật ra tiếng ha hả. Tràng cười ngốc nghếch. Giờ không phải lúc cười, nhưng mọi chuyện cứ lạ lùng quá sức tưởng tượng. Tôi và Takuya tựa vào thành cửa sổ với bàn học mà cười đến khi bắt đầu nấc cụt.
"Ôi..." Sau khi phát mệt vì cười, Takuya thở dài. Rồi cậu nói. "Tôi với cậu đúng là cặp đôi hoàn hảo."
Đó là câu nói thân tình và chân thành nhất mà tôi từng nghe trong suốt ba mươi mốt năm cuộc đời.
Sau đó tôi và Takuya bị gọi lên phòng giáo viên, nghe thuyết giảng một trận ra trò. Giáo viên dặn chúng tôi không được tự ý làm chuyện nguy hiểm thêm lần nào nữa. Khuya hôm đó, hai thằng lẻn vào trường, leo lên mái nhà thể chất lấy lại chiếc máy bay, trước khi nó gặp mưa hoặc bị người lớn tịch thu.
Có vài cảnh tượng luôn tự động hiện ra trong đầu tôi mỗi khi nhớ về Sayuri. Một trong số đó là mẩu kí ức về lần bắt gặp Sayuri ở ga Minami Yomogita.
Minami Yomogita là ga gần trường cấp hai chúng tôi theo học. Nó là ga lớn trên tuyến Tsugaru, nhưng cũng chỉ có hai sân ga và một cửa soát vé phía tàu đến. Muốn sang sân ga phía tàu đi, chúng tôi phải leo lên rồi leo xuống cây cầu bộ hành kiểu tiền chế vắt qua đường ray, nối liền hai sân ga.
Trước sân ga là nhà dân, đồng lúa và rừng tạp. Nói thẳng thì nó chỉ là một ga xép như mọi nhà ga ở nông thôn khác. Đối diện cửa soát vé có phòng chờ dựng bằng gổ, vào mùa đông bếp sưởi lúc nào cũng đỏ lửa, có lẽ đủ gọi là khung cảnh đặc trưng của xứ tuyết.
Trừ những đứa đến trường bằng xe đạp, hầu hết học sinh trường tôi đều đi học qua ga này. Trường tôi là trường làng, nên nói là hầu hết chứ số lượng chẳng có bao nhiêu. Hằng ngày, tôi và Takuya mất bốn mươi phút đi tàu trước khi đặt chân xuống sân ga. Sayuri cũng vậy.
Bấy giờ là cuối năm lớp Tám. Những một năm rưỡi sau sự kiện liên quan đến chiếc phản lực RC. Tôi không nhớ chính xác ngày tháng, có lẽ khoảng hai ngày trước kì nghỉ xuân.
Học sinh trường chúng tôi gọi chuyến tàu lúc hơn 3 rưỡi là "tàu về", còn chuyến 5 giờ hơn là "tàu câu lạc bộ". Hằng ngày, tôi và Takuya đi chuyến dành cho nhóm câu lạc bộ. Takuya thuộc câu lạc bộ trượt băng tốc độ, còn tôi ở câu lạc bộ bắn cung, cả hai đều tham gia khá chăm chỉ.
Ngày nào cũng vậy, đến giờ tàu chạy, tôi và Takuya hẹn nhau ở chỗ cố định trên sân ga, lên tàu qua cùng cửa, ngồi chung khoang ghế. Dù trời lạnh đến thế nào, chúng tôi vẫn đợi nhau trên sân ga chứ không vào nhà chờ, đó là quy tắc ngầm giữa cả hai. Chúng tôi làm thế để đứa này có thể nhìn thấy đứa kia đang đợi, kể cả từ bên ngoài ga.
Chiều hôm đó, tôi chờ Takuya cùng chuyến tàu về nhà trên sân ga như thường lệ. Thời tiết dễ chịu, tôi giấu cằm trong cổ áo khoác, nhìn ánh nắng cuối ngày từ từ nhuộm cam bầu trời.
Một nhóm con gái lao xao trò chuyện đi qua cửa soát vé. Tôi bất giác nhìn sang. Chính là tại giọng nói của Sayuri.
Nhác thấy cô, tôi vội vàng nhìn đi chỗ khác, cố tỏ ra bình thản. Nhưng vẫn len lén dõi theo cô qua khóe mắt.
"Còn mấy phút nữa?"
"Vẫn kịp mà."
Tôi loáng thoáng nghe Sayuri đối đáp với bạn. Số chuyến đi về ga này rất ít, ai nhỡ tàu vào phút chót sẽ gặp phải vô số rắc rối.
Ngày ấy Sayuri hay bện tóc. Giản dị nhưng rất hợp. Hôm đó cô mặc áo khoác may bằng vải len thô dày ngoài bộ đồng phục mùa đông, khăn quàng quấn hờ quanh cổ. Cô đang vui vẻ cười với bạn.
Tôi nhớ rõ cảnh tượng ấy, bởi trường hợp này hiếm khi xảy ra.
Sau khi qua cửa soát vé, thấy tàu chưa đến, Sayuri và nhóm bạn liền quay lại nhà chờ. Tôi thả lỏng cả người, thở phào nhẹ nhõm.
Thế chỗ cho âm thanh cười nói của nhóm nữ sinh là tiếng bước chân nhịp nhàng vang lên từ phía bậc thang câu bộ hành. Là Takuya. Cậu cầm hai lon cà phê mua ở máy bán hàng tự động, thinh thoảng lại tung lên cho đỡ nóng. Bước hết bậc thang, vừa đặt chân xuống sân ga, cậu liền ném cho tôi một lon. Tôi đón lấy, lon cà phê quá nóng so với bàn tay lạnh buốt khiến tôi suýt đánh rơi. Hôm trước chúng tôi có tổ chức một vụ cá cược nhỏ, lon cà phê này chính là phần thưởng.
Takuya đưa lon cà phê lên miệng, lơ đễnh nhìn sân ga đối diện, "Hiroki, hôm nào cậu lại đi làm thêm?"
"À, ừ nhỉ."
Dạo đó chúng tôi giấu nhà trường, lén đi làm thêm. "Bên câu lạc bộ phải hết ngày mai. Chắc ngày kia.
Cậu thì sao?"
"Buổi tập sáng mai cũng là buổi cuối của tôi. Chốt ngày kia nhé."
"Ừ."
Theo quy định của trường, chúng tôi chỉ được tham gia hoạt động câu lạc bộ đến hết lớp Tám. Mục đích trên lý thuyết là tập trung ôn thi vào cấp ba. Nhưng tôi và Takuya lại dành thời gian rỗi để làm thêm. Trước đó hai đứa chỉ đi làm được vào thứ Bảy và Chủ nhật, nhưng từ ngày kia trở đi chúng tôi sẽ có kì nghỉ dài, thỏa sức kiếm chác.
Hai đứa hầu như không lo lắng về kì thi. Kết quả học tập của Takuya luôn tốt, tôi cũng không quá tệ. Chưa kể tôi còn nghĩ chỉ cần đỗ cấp ba là được, học trường nào chẳng quan trọng. Chí ít là ở thời điểm đó.
Chúng tôi bàn bạc đôi câu về lịch làm thêm, rồi im lặng đứng đợi tàu. Cả hai đều không phải kiểu hay nói, nên cảnh im lìm như thế này không hiếm.
Tiếng loa vang lên thông báo tàu sắp đến. Tôi hơi nhoài người về phía đường ray thẳng tắp, tìm kiếm ánh đèn nhỏ xíu trên đầu tàu ở đằng xa. Đoàn tàu từ từ tới gần, uể oải trượt vào sân ga, phát ra một tiếng "xịch" rồi dừng lại. Qua hai lần kính cửa sổ của toa tàu đỗ trước mặt, tôi thấy Sayuri và bạn vội vàng chạy qua cửa soát vé ở sân ga bên kia. Tôi vô thức dồn hết sự chú ý vào tiếng bước chân gấp gáp của nhóm con gái chạy lên rồi chạy xuống cây cầu.
Tiếng lon cà phê rỗng bị Takuya ném vào thùng rác vang lên, làm tôi nhận ra mình mới uống hết nửa lon. Tôi nốc một hơi hết chỗ còn lại, ném vỏ lon về phía thùng rác bằng tư thế thấp tay. Cái lon suýt trượt khỏi mép thùng rác, nhưng may sao vẫn lăn vào trong.
Submarine pitch. Một kĩ thuật ném bóng trong môn bóng chày. Bóng rời tay người ném ở vị trí sát đất.
Quay người lại, tôi nhác thấy Sayuri và nhóm bạn rối rít bước lên tàu. Nghe tiếng Takuya nhắc "Tôi bỏ cậu lại bây giờ", tôi vội theo sau cậu tiến về phía cửa.
Trước khi lên tàu, tôi ngước nhìn bầu trời đã nhuốm đỏ.
Phía trên nóc tàu, ngọn tháp vươn cao giữa những đám mây mỏng. Nó xuyên thẳng lên vòm trời hình tròn, ngả màu đỏ nhạt. Có lẽ tôi luôn bị hấp dẫn bởi những thứ chỉ có thể ngắm nhìn từ xa mà không chạm tới được.
Tôi và Takuya chiếm một khoang ghế trên tàu, thô lỗ gác chân lên ghế đối diện. Vẫn chỗ ngồi, vẫn tư thế mọi khi. Takuya chăm chú đọc cuốn tạp chí về máy tính dòng Mac. Để giết thời gian, tôi lật xem cuốn Jump mua muộn một ngày như thường lệ.
Tạp chí Weekly Shonen Jump, của nhà xuất bản Shueisha.
Chúng tôi hay im lặng khi ở trên tàu. Ngồi yên thế này đã trở thành lẽ tự nhiên. Có những người không chịu nổi nếu không có chuyện để nói, còn tôi lại chẳng hiểu họ bứt rứt đến thế vì lẽ gì. Khoảng lặng khi ở cạnh Takuya khiến tôi an tâm. Tiếng tàu lăn bánh trên đường ray hay tiếng trò chuyện rì rầm của những người xung quanh cũng đem lại cảm giác dễ chịu. Cảnh vật ngoài cửa sổ từ từ chìm vào màn đêm, nhà dân dần lùi xa để lại không gian tối đen, cửa kính biến thành tấm gương phản chiếu khuôn mặt lơ đễnh của chính tôi. Tất cả nằm trong thế giới mà tôi với tới, cho tôi cảm giác thân thuộc và được bảo vệ.
Ngày hôm đó, một thứ giống như đợt sóng bất an đột nhiên cuộn lên trong lòng thế giới ấy, khiến toàn thân tôi đông cứng. Ban đầu tôi không biết nó là gì. Thế rồi đợt sóng ấy tựu hình thành một giọng nói, xâm chiếm đầu óc tôi.
Là tiếng Sayuri. Trong những giọng nói xung quanh tôi có tiếng Sayuri chuyện trò cùng bạn bè. Giọng những đứa con gái khác mắc kẹt ở đâu đó không tới được tai tôi. Chỉ có lời Sayuri rành rọt tràn vào tâm trí. Trong không gian đầy tạp âm, tôi chỉ nghe thấy giọng Sayuri, bị choáng ngợp bởi tâm trạng bồn chồn, không biết phải làm gì để thoát ra.
Tôi tập trung nhìn bóng đêm bên ngoài, cố gắng trấn tĩnh. Và rồi, tôi thấy hình ảnh Takuya in trên cửa sổ, mắt vẫn dán vào cuốn tạp chí, nhưng nét mặt đanh lại khác hẳn dáng vẻ thường ngày.
Tôi bỗng có cảm giác Takuya cũng đang lắng nghe tiếng nói của mình Sayuri.
Dự cảm ấy gần như được khẳng định. Một cơn đau dữ dội nhói lên làm lồng ngực thắt lại. Tôi nghiến chặt hàm.
Có gì đó tựa như cảm giác thua cuộc nhen nhóm trỗi dậy. Đương nhiên rồi, cậu ta thông minh, dễ được con gái yêu thích hơn hẳn kẻ như tôi.
Nhưng tất nhiên chuyện không chỉ có vậy.
Hôm sau, khi buổi lễ bế giảng dài dòng chán ngắt kết thúc, tôi thay đồ thể thao rồi đến phòng tập. Câu lạc bộ tập hết buổi sáng là nghỉ, nhưng tôi vẫn muốn giương cung thêm một lúc.
Bắn cung là sở thích của tôi.
Tôi đối mặt với tấm bia. Nhắm toàn bộ sự tập trung vào đích. Đường bắn sắc nét liền xuất hiện giữa cả hai. Khi đó, cảnh vật lẫn thanh âm xung quanh đều hóa hư vô, thế gian chỉ còn lại kẻ cầm cung và đích bắn, không mảy may bị tạp niệm khuấy động. Tôi và tấm bia hòa làm một, đổi chỗ cho nhau. Bỗng chốc tôi trở thành tấm bia, còn tấm bia nhắm vào tôi.
Khoảnh khắc ấy tinh khiết đến đáng sợ.
Rồi âm thanh khô khốc vang lên, báo cho tôi biết mũi tên đã găm trúng tấm bia đằng xa.
Tất nhiên, không phải lần nào quá trình đó cũng diễn ra hoàn hảo. Đôi lúc tạp âm chẳng chịu biến mất, hoặc đường bắn bị lệch. Khi ấy tôi không thấy được cái đẹp của bắn cung.
Nhất là dạo gần đây, mọi sự vô cùng tệ. Trong đầu tôi luôn có một mớ bòng bong làm phản xạ rối loạn.
Kĩ thuật bắn của tôi phần nào đã thuần thục, nên mũi tên vẫn trúng đích. Nhưng khoảnh khắc tinh khiết kia không xuất hiện.
Khi sức tập trung đã cạn kiệt, phải bỏ cuộc ngồi thụp xuống, tôi mới nhận ra Takuya đang ngó vào qua cửa sổ.
"Tôi đến xem cậu tập. Xong rồi à?"
"Chưa... Tôi đang nghỉ. Tệ lắm."
Chúng tôi vào căng tin sắp đóng cửa, mua sữa hương cà phê đóng trong túi tam giác, ngồi xuống cạnh bồn uống nước ở góc sân.
"Rời đội rồi mà vẫn tập. Cậu nhiệt huyết thật đấy." Takuya vừa nói vừa cắm ống hút vào túi sữa hình tam giác.
"Tôi tập không phải vì nhiệt huyết. Cậu thì sao?"
"Tôi làm sao?"
"Buổi tập sáng nay. Buổi cuối còn gì, chắc nhiều thủ tục lắm. Thể nào chẳng có tiết mục tập hợp rồi chào hỏi đủ kiểu?"
"À, có." Rồi cậu kể cho tôi một chuyện động trời bằng vẻ dửng dưng. "Còn có một em gái tỏ tình với tôi nữa, nhân dịp tôi rời đội."
"Trời, lại nữa hả?"
"Ờ."
Takuya hào hứng kể. Cậu sắp thu dọn xong thì bị một nhóm ba cô nàng gọi lại, rồi em gái khối dưới tên Matsuura đưa thư cho cậu... Đương nhiên cậu không phải kiểu người đi khắp nơi khoe khoang chuyện này. Cậu chỉ kể khi có hai chúng tôi với nhau. Giọng cậu chẳng có chút tự mãn nào. Đối với Takuya, đó không phải chuyện đáng tự hào.
Tôi thở dài, "Cậu sướng thật đấy. Em thứ mấy rồi?"
"Cũng không nhiều nhặn gì. Tính từ tháng Tư đến giờ mới là em thứ hai."
"Vậy là nhiều rồi."
"Ừ, có khi thế thật."
Takuya lục lọi túi quần, lôi bật lửa ra. Tôi biết cậu lại định hút thuốc theo thói quen, bèn im lặng dùng mũi chân đá vào giày cậu. Nhớ ra mình đang ở trường, cậu đành thôi tìm gói thuốc, rút tay khỏi túi.
"Rồi sao nữa?"
"Hả?"
"Cậu từ chối à, lại như mọi khi?"
"Ờ."
Tôi dùng ống hút thổi làm hộp sữa kêu lụp bụp. "Phí thế. Matsuura có phải cô bé ở lớp 7-2 không? Trông dễ thương mà... Tiếc thật."
Tôi nói mà không có ẩn ý gì, nhưng sau này nghĩ lại, có lẽ lúc ấy tôi đã vô tình xoáy sâu vào tâm tư Takuya.
"Cậu nghĩ thế thật hả?" Takuya đột nhiên đanh giọng, khiến tôi chột dạ.
"Ừ thì, thật! Cô bé nổi tiếng lắm. Cậu thẳng thừng từ chối đứa con gái như thế còn gì? Bình thường ai chẳng thấy khó tin."
"Tôi cóc quan tâm người khác nghĩ thế nào." Takuya nhấn bật lửa tanh tách, và đột ngột nói, "Nếu tiếc thì cậu hẹn hò với em ấy đi?!"
"Hả? Sao lại là tôi?
"Nếu là cậu, cậu có đồng ý hẹn hò không?"
Tôi cứng họng.
"Matsuura Kana nhỉ. Dễ thương thật. Ngoan nữa. Tôi biết chứ. Nhưng đâu thể chỉ vì dễ thương mà hẹn hò, phải không?"
"Ừm..."
"Với tôi, lý do nằm ở chỗ khác cơ. Chứ không phải đủ điều kiện hay không. Đúng chứ, Hiroki?"
"Ừ, cậu nói cũng phải."
Tôi thấp giọng đáp. Lời cậu hoàn toàn chính xác. Ngược lại, những điều tôi vừa nói mới là tầm thường và nông cạn.
"Thế nên..." Cậu quay sang nhìn tôi rồi bảo, "Cậu cứ hẹn hò với Matsuura đi."
"Không không không, sao cứ phải là tôi?"
"Cậu cũng không thích Matsuura à? Hừm. Vậy ai mới vừa ý cậu đây?"
Hình ảnh Sayuri nháng lên trong đầu làm tôi phải tìm cách xua đi ngay. Tôi ấp úng.
"Không... Chuyện đó..."
"Cậu nói rõ ra xem nào."
Nụ cười quen thuộc mỗi khi mưu tính chuyện mờ ám xuất hiện trên mặt Takuya. Nhờ thế tôi biết cậu đang trà đũa tôi vì mấy câu nói lúc nãy. Tôi lảng tránh cố tình trả lời lạc đề.
"Thì... Không phải tôi không thích Matsuura, em ấy cũng dễ thương... Nhưng mà tôi đâu biết hẹn hò là thế nào. Cho nên, nói sao đây... Bỏ qua tôi đi."
Takuya khịt mũi với vẻ thỏa mãn, tay không ngừng nghịch bật lửa. Sau khi thưởng thức chán bộ dạng lúng túng của tôi, cậu mới quay ra nói nhỏ.
"Này, người em ấy tỏ tình có phải cậu đâu.
"Chính cậu lôi tôi vào còn gì!"
"Ha ha, cậu đúng là tệ lậu mấy chuyện này. "
Trong khi tôi còn hậm hực, Takuya tiếp tục cười một cách khó hiểu.
Cuộc đối thoại diễn ra bằng giọng điệu bông đùa mà chúng tôi vẫn hay dùng với nhau, nên lúc đó cả hai nhanh chóng bỏ qua như mọi khi. Sau này nghĩ lại, tôi mới nhận thấy chủ đề này nhạy cảm đến thế nào.
Takuya được yêu mến, ra dáng, lại có thần thái. Một đứa như vậy thì có gì phải lo nghĩ. Vấn đề nằm ở chỗ cậu là đứa tử tế, đứng đắn, nghiêm túc. Theo quan điểm của tôi, suy nghĩ nghiêm túc là điều quan trọng mà không phải ai cũng dễ dàng học được.
Hình như cậu mến Sayuri. Thằng con trai đứng đắn ấy đang nghiêm túc dành tình cảm cho Sayuri. Khác với đứa giấu giếm suy nghĩ rồi tìm cách lảng tránh như tôi.
Đó cũng là điểm khiến tôi thực tâm thích chơi với Takuya. Sức hút ở cậu không hề nhỏ.
Tôi vốn khá hòa đồng, nên có thể làm thân với hầu hết mọi người. Tôi có cả bạn cùng lớp lẫn khác lớp, những đứa vẫn hay cùng tôi bày trò, đùa nghịch. Nhưng thời gian ở cạnh Takuya có ý nghĩa đặc biệt, khác hẳn lúc chơi với đám bạn đó. Tôi không muốn đánh mất sự gắn kết đặc biệt với cậu. Ý nghĩ ấy mạnh mẽ hơn cả tình cảm tôi dành cho Sayuri. Ít nhất là ở thời điểm này.
Tôi biết sẽ có ngày cán cân ấy đảo chiều, điều này khiến tôi vô cùng lo sợ.
Còn nữa... Takuya là đứa tinh ý. Có lẽ cậu nhận ra tôi thích Sayuri rồi.
Sự căng thẳng đáng ngại đã bắt đâu nhen nhóm giữa chúng tôi.
Tôi và Takuya biết Sawatari Sayuri lần đầu sau khi lên lớp Tám.
Nói đúng ra, trong ngôi trường nhỏ như thế này, dĩ nhiên chúng tôi biết đến sự hiện diện của cô, chỉ là không có dịp tiếp xúc. Khi đó chúng tôi đơn thuần là bạn học cùng khối, mang máng nhớ mặt và tên, chưa thể nói là quen biết. Muốn kiếm cớ làm thân với bạn gái khác lớp, cách duy nhất là trông vào hoạt động câu lạc bộ, mà Sayuri lại thuộc câu lạc bộ âm nhạc.
Chúng tôi phải đổi lớp khi lên lớp Tám. Tôi thất vọng khi không còn học cùng mấy đứa bạn, nhưng mừng vì vẫn chung lớp với Takuya. Đứng trước bảng thông báo danh sách lớp của năm học mới, tôi và cậu nhìn nhau tươi cười, cụng nắm đấm rõ kêu như hai võ sĩ quyền Anh trước trận đấu.
Trong lớp mới có cả Sayuri.
Sayuri là cô gái rất xinh. Nhưng bọn con trai chưa bao giờ kháo nhau Sawatari dễ thương hay xinh xắn.
Nói sao nhỉ, nét đẹp của Sayuri thuộc kiểu ẩn sâu bên trong. Giống như bản nhạc nghe qua tai nghe, vẻ đẹp nằm trọn bên trong con người, không bộc lộ ra ngoài. Vì thế nếu không để ý kĩ, không thực sự chú tâm, người ta sẽ chẳng thể nhận ra ánh hào quang của cô. Có thể nói cô là hình mẫu đối lập với Takuya, đứa làm gì cũng tỏa ra thần thái thu hút một cách tự nhiên.
Khi đó tôi rất lấy làm lạ. Tại sao mọi người không nhìn thấy vẻ đẹp của Sayuri? Cô gái như bước ra từ trong mơ ấy ở ngay trước mắt mà sao họ chẳng hề rung động?
Tuy nhiên, tôi cũng không nhận ra nét đẹp của Sayuri ngay từ đầu. Phải sau này, khi đã có thể chuyện trò thân thiết với cô nhờ vài cơ duyên đặc biệt, tôi mới khám phá ra.
Sách giáo khoa Ngữ văn lớp Tám có giới thiệu vài bài thơ của Miyazawa Kenji. Giáo viên Ngữ văn của chúng tôi tên Yoshitsuru. Khi dạy đến phần đó, ông thầy này đột nhiên bừng bừng nhiệt huyết, hăng hái giảng giải như thể biến thành người khác.
Thầy nói, Miyazawa Kenji là đại thi hào xuất chúng, các em đã biết đọc tiếng Nhật thì phải đọc toàn bộ thơ của Kenji. Thế là bài giảng biến thành công cụ phô bày sở thích của ông. Chúng tôi chỉ biết ngớ người. Dạy cấp hai mà thầy lại in bài viết trong tạp chí khoa học của trường đại học nào đó rồi phát cho chúng tôi đọc, bắt chúng tôi học kiểu seminar, cuối cùng là chia nhóm nghiên cứu và nộp tiểu luận.
Hình thức học tập đòi hỏi người học chủ động trong tất cả các bước từ tìm hiểu đề tài, chuẩn bị tài liệu, thuyết trình, thảo luận đến rút ra kết luận.
Tôi, Takuya và Sayuri ghép thành nhóm, cùng viết tiểu luận.
Tổ hợp ấy phát sinh hoàn toàn ngẫu nhiên. Vốn dĩ tôi và Takuya định lập nhóm chỉ có hai đứa, nhưng Sayuri lại nghỉ học vào đúng hôm chia nhóm. Chúng tôi là nhóm ít người nhất trong lớp, vì thế đành để cô gia nhập một cách hơi miễn cưỡng.
"Lão ấy đúng kiểu mọt sách nghiện văn chương."
Takuya nói, chống tay lên bàn thư viện. "Lão ấy" ở đây là ám chỉ thầy Yoshitsuru dạy Ngữ văn.
"Ừ, quá mệt mỏi. Đây đâu phải bài tập cho học sinh cấp hai." Tôi đồng tình, bức xúc nói.
Sayuri nhìn chúng tôi, cười khẽ, "Miyazawa Kenji có những người hâm mộ vô cùng nhiệt thành. Nhiều người yêu thích thơ ông đến mức không lời nào tả xiết. Có người vào câu lạc bộ văn học chỉ vì muốn đọc tác phẩm của Kenji. Tớ không biết thầy Yoshitsuru cũng là một trong số đó..."
"Ồ..." Tôi nghe mà thoáng bối rối.
Dù là con gái, Sayuri không hề dè dặt hay lúng túng khi ở cùng chúng tôi. Vì thế tôi khá ngạc nhiên. Tôi cứ tưởng con gái sẽ bất an nếu thiếu bạn đồng giới bên cạnh. Nhưng Sayuri thuộc típ không quá để ý vấn đề giữ khoảng cách với bạn khác giới. Chí ít trong mắt tôi là vậy. Cô thoải mái bắt chuyện với chúng tôi dù chưa bao giờ nói chuyện với nhau, điều này cũng thật bất ngờ.
"Nhưng cả Shirakawa và Fujisawa đều khoái thầy Yoshitsuru phải không?"
Sayuri đột nhiên hỏi khiến tôi và Takuya không hẹn mà quay ra nhìn nhau, rồi nhìn cô chằm chặp. Không biết Takuya thế nào, chứ tôi thì trúng phốc.
"Sao bạn lại nghĩ thế?" Takuya hỏi.
"Mình thấy hai bạn và thầy có vẻ giống nhau. Cùng là kiểu người dễ say mê, quên hết mọi thứ khi làm điều thực sự yêu thích. Vì thế mình nghĩ, chắc hai bạn cũng thoải mái với thầy."
"Ừm..." Tôi lẩm bẩm. Nhận xét đó quả thật khá sắc sảo.
"Sawatari biết bọn mình từ trước à?" Takuya lên tiếng.
"Ừ."
"Sao bạn biết?"
"Hồi năm ngoái, mình có nhìn thấy, ừm..." Sayuri xòe lòng bàn tay phải, làm động tác bay vào không trung.
"... Hôm lễ hội trường hả?" Tôi hiểu ra.
"Ừ. Đẹp thật đấy. Hai bạn làm ra nó phải không?"
"Đúng thế." Tôi vui vẻ gật đầu.
"Năm nay các bạn không làm nữa sao?"
"Năm nay thì không." Takuya đáp. "Lặp đi lặp lại một việc giống nhau thì còn gì vui. Với lại, bọn mình đang bắt tay làm cái khác. Nó ngốn hết thời gian cùa bọn mình rồi."
"Cái khác? Là gì vậy?"
"Bí mật," tôi đáp.
"Tiếc ghê." Sayuri bặm môi, rồi đột ngột hỏi. "Này, giữa con trai với nhau thì tình bạn thế nào?"
"Hả?"
Tôi buột miệng hỏi ngược lại, ra chiều thắc mắc "Sao tự dưng lại hỏi vậy?".
"Shirakawa với Fujisawa rất thân mà. Cặp kè với nhau suốt. Mình tò mò không biết cảm giác đó thế nào."
"Bọn mình không biết, hơn nữa đâu phải lúc nào mình và cậu ấy cũng đi cùng nhau." Takuya trả lời, "Hiroki có bạn của Hiroki, mình cũng thế. Chưa kể, nói đến cảm giác khi làm bạn thì con trai hay con gái chẳng như nhau."
"Vậy à..." Sayuri khẽ hạ giọng. "Mình lại thấy khác."
Dù nói vậy, cô không hỏi thêm gì nữa.
Tôi buông một tiếng "Hừm" vô thưởng vô phạt.
Thú thật, khi đó tôi đã thoáng nghĩ Sayuri là kẻ phá đám. Tuy chưa hề tỏ ra tùy tiện, nhưng cô sẵn sàng đặt câu hỏi mà chẳng kiêng dè gì cả, không khỏi khiến tôi cảnh giác.
Nói trắng ra, tôi thấy thoải mái hơn khi ở riêng với Takuya. Sayuri xuất hiện làm tôi mơ hồ nghĩ có điều gì đó sắp sụp đổ. Với tôi mà nói, tôi và Takuya vốn đã là cặp đôi hoàn hảo, sự hiện diện của một thứ ngoại lai, tức con gái, sẽ khiến thế cân bằng bị phá vỡ.
Giờ đây nhìn lại, đó là linh tính chính xác, dù tôi hoàn toàn không phải đứa có giác quan thứ sáu tinh nhạy.
Hai hôm sau là Chủ nhật, sau khi hết giờ ở câu lạc bộ, ba chúng tôi cùng về nhà Takuya để viết tiếp tiểu luận. Nhà cậu chỉ có hai bố con, bố Takuya làm việc ở tòa nhà khác cả ngày cuối tuần nên tiện cho chúng tôi tập trung.
Sayuri đề nghị làm bài tại nhà mình, vì cô sống ở Nakaoguni gần trường, nhưng tôi và Takuya lịch sự từ chối. Hai đứa con trai đến nhà con gái, nghĩ thôi đã thấy ngại. Tuy nhiên, Sayuri có vẻ không để tâm đến điều này, cô không hề phản đối chuyện tới nhà con trai khi vắng mặt người lớn.
"Tính bạn ấy lạ thật."
Sau đó tôi và Takuya cùng nhận xét. Đối với hai đứa con trai đang ở lứa tuổi dậy thì đầy rắc rối, chuyện đó quả thật hơi khó hiểu.
Gia đình Takuya sống trong căn nhà cũ kiểu Nhật, rất giống nhà tôi. Takuya dẫn tôi và Sayuri vào căn phòng có đặt ban thờ, hì hục lôi một chiếc bàn thấp rõ to từ phòng bên cạnh sang. Chúng tôi bày sách vở và tài liệu mượn của thư viện lên bàn.
Sayuri ngồi thu mình, chân chỉ hơi xếp sang một bên. Bằng tư thế đó, Sayuri chứng tỏ cô đã nhanh chóng thích nghi với khung cảnh. Cô thản nhiên hiện diện trong căn phòng, dường như không băn khoăn bất cứ điều gì. Trông cô vô cùng thoải mái.
Cô tì hai tay lên đầu gối, gồng vai, hơi cúi đầu.
"Mình có cảm giác từng thấy cảnh này trong mơ," cô nói.
Có lẽ chính trong bầu không khí không chút phòng bị ấy, cán cân trong tim tôi đã bắt đầu dao động.
Mình thích Miyazawa Kenji, cô nói.
Việc viết tiểu luận diễn ra thuận lợi, chủ yếu nhờ công Sayuri.
Sayuri thông minh đến ngỡ ngàng. Cả tôi và Takuya đều thiên về khối tự nhiên, thành tích môn toán hay khoa học tự nhiên khá tốt. Ngược lại, Sayuri là thiên tài về các môn xã hội. Bài luận đầy tính chuyên môn về văn học cận đại mà thầy Yoshitsuru phát rõ ràng quá sức học sinh cấp hai, vậy mà cô đọc hết rồi tóm tắt lại cho chúng tôi chẳng mấy khó khăn, chúng tôi vô cùng cảm kích, gần như bê nguyên lời cô vào tiểu luận.
Nhưng vẻ hoạt bát của Sayuri khi nói về nhũng cuốn sách đã đọc mới là điều khiến tôi xúc động sâu sắc. Trừ những lúc ấy, cô như biến thành người khác. Trong cách cô nói về cuốn sách yêu thích có cả sự thấu hiểu, thân thiết và đồng cảm.
"Nói thế nào nhỉ, mình nghĩ mình rất hiểu Kenji"
Nếu biết thơ của mình được đón nhận nghiêm túc đến mức này, hẳn Miyazawa Kenji cũng thấy thỏa lòng.
"Miyazawa Kenji à..." Tôi có đọc cũng chẳng khác gì nước đổ lá khoai, bèn thở dài như muốn tống khứ mớ bòng bong lởn vởn trong đầu. "Mình còn chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện mình thích sách của ai cơ."
"Hai bạn thường đọc sách gì?"
"Mình đọc về máy tính hoặc vật lý thôi." Nói đoạn, Takuya chĩa ngón cái sang tôi. "Còn cậu ta chỉ đọc truyện tranh."
"Ai bảo tôi chỉ đọc truyện tranh?"
"Vậy cậu thử nói xem cuốn sách cậu đọc gần đây nhất là gì?"
"À..." Tôi nghĩ một lúc rồi đáp, "Diễn giải kĩ thuật mài". Nói xong tôi mới nhận ra câu trả lời này không ấn tượng lắm, và tự cảm thấy thất vọng.
"Đó là sách gì vậy?" Sayuri tò mò hỏi.
"Sách dạy cách mài các vật sắc nhọn." Tôi đáp. "Kĩ thuật phục hồi mũi khoan bằng máy mài, rồi lưỡi cắt, dao nữa..."
"Bạn biết mài dao à?" Sayuri bất ngờ.
"Mài dao đơn giản thôi. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Ai cũng làm được hết."
"Nhưng mình không biết đấy. Có vẻ hay quá. Hóa ra mấy bạn con trai đọc loại sách đó. Chắc là hữu ích lắm..."
"Không đâu, cậu ta là trường hợp đặc biệt. Mình chẳng bao giờ đọc mấy thứ đó." Takuya nửa đùa nửa thật nói. "Cậu ta hơi bất thường."
"Sở thích của cậu cũng bất thường đấy thôi!"
Sayuri khúc khích cười, nhìn chúng tôi. Cô luôn cười dễ thương kiêu ấy, như thể bị cù lét, "Hay thật. Mình toàn đọc truyện với thơ. Hễ sách văn học thì cuốn nào mình cũng đọc."
Với tính cách của Sayuri, có lẽ cô thực sự đọc mọi thứ cô bắt gặp.
Tôi chợt thắc mắc, bèn hỏi, "Sawatari này, sao bạn lại đọc sách? Ý mình là, mình đọc vì cần tìm hiểu cái này cái kia..."
"Bạn muốn hỏi tại sao mình đọc dù biết là không vì mục tiêu cụ thể nào cả, phải không?"
"Phải."
"Tại sao nhỉ..." Sayuri thoáng ngẫm nghĩ. "Có lẽ vì mình thèm cảm giác mơ hồ xuất hiện trong lúc đọc."
"Cảm giác gì cơ?"
"Cảm giác biến mất."
"Biến mất...?"
"Nói sao nhỉ... Đầu tiên là toàn bộ những thứ xung quanh. Rồi chính mình." Cô nói. "Bản thân vụt tan biến khi đọc, chỉ còn lại nội dung cuốn sách. Hai hạn biết cảm giác ấy chứ?"
"Để xem nào." Takuya nói. "Khi mải làm cái gì đó, thỉnh thoảng mình cũng thấy thế."
"Vậy là có, đúng không?" Sayuri lên tiếng. "Nhưng trường hợp của mình hơi khác. Như thể đi về giữa hai thế giới vậy."
"Đọc mấy thứ này bạn cũng có cảm giác đó à?" Tôi úp cuốn Mùa xuân và Tu La bản bunko lên mặt, ngả người nằm ngửa ra. "Mình thì hoàn toàn không hiểu ông ấy viết gì."
Tạm dịch từ "Haru to Shura".
Loại sách giấy bìa mềm khổ nhỏ của Nhật. Thường là cỡ A6, 10,5x14,8 cm.
"Ừ. Có đấy."
"Thật hả? Mấy câu 'Không sợ gió, chẳng sợ mưa' cũng làm bạn mê mẩn sao?"
"Mình không ghét câu thơ đó."
Sayuri khúc khích cười. Thế rồi cô nghiêm mặt, ngâm nga. '"Tay nóng chân run, Ta xây dựng tháp này.'"
"Tháp?" Tôi ngạc nhiên bật dậy.
"Ừ, tháp." Sayuri gật đầu, tay lật tuyển tập thơ. "Trượt theo dòng thời gian, Xây dựng nên xinh đẹp. Đuổi xa dần bóng đêm, Nặn lên hình dáng tháp.'"
"Đó là gì vậy?" Takuya hỏi.
"Tác phẩm này tên Tay nóng chân run. Bài thơ Miyazawa Kenji viết ngay trước khi qua đời. Mình thích bài này nhất. "
"Đoạn vừa rồi có ý nghĩa gì?"
"Đoạn này mình cũng không rõ... Mình đoán tác giả ám chỉ ông sắp trở thành sự tồn tại bất diệt..."
"Nghe giống thứ ở phía Bắc kia nhi." Tôi nói cụt ngủn.
"Đúng đấy. Ngọn tháp đó chắc cũng trăm tuổi rồi." Sayuri chọc chọc ngón tay vào bình thủy tinh đựng trà lúa mạch, làm nó rung rinh.
"Sách là kí ức bất tử." Sayuri nói "Ở trường hợp Miyazawa Kenji, dù trăm năm đã qua, sách của ông vẫn được xuất bản, có những độc giả như chúng ta, có cả những người hâm mộ như thầy Yoshitsuru, nên dường như ông vẫn sống. Mình nghĩ điều đó thật tuyệt vời. Còn mình chắc chắn sẽ bị lãng quên ngay, chẳng bao giờ được nhớ đến. Bây giờ mình vẫn tới lớp, ở bên bạn bè, hằng ngày đều rất vui, nhưng khi tốt nghiệp mỗi người một nơi, ai nấy đều sẽ quên mình ngay thôi..."
Tôi bàng hoàng. Takuya cũng có vẻ mặt tương tự. Không ngờ Sayuri lại đột nhiên nói chuyện nghiêm trọng như vậy với hai đúa chẳng mấy thân thiết như tôi và Takuya.
Giọng Sayuri không buồn bã hay đau khổ mà hờ hững bất thường. Chính vì thế, cảm xúc cô muốn giãi bày càng có vẻ chân thật.
Sự thành thật rất đáng sợ. Đùa cợt hay trêu ghẹo không khiến con người ta ám ảnh. Nhưng lời nói xuất phát từ thâm tâm đôi khi có thể gây ra nỗi bất an tột độ.
Biết phải phá vỡ bầu không khí im lặng khó xử, tôi lên tiếng, "Làm gì có chuyện..."
"Không. Thật đấy. Chính mình rồi cũng quên rất nhiều bạn bè và người quen mà. Ngay lúc này mình đã biết điều ấy, biết cả chuyện người khác sẽ lãng quên mình. Đó là cái kết không thể tránh khỏi..."
Tôi sững sờ, dù tránh thể hiện ra mặt. Con gái nghĩ về tương lai xa đến thế từ bây giờ ư? Thật kì lạ! Trong khi tôi chỉ nghĩ lát nữa làm gì, mai làm gì cũng hết ngày.
Dù sao đi nữa, tâm sự của Sayuri đã để lại tác động mạnh mẽ, đủ khiến tôi nhớ đến cô rất lâu về sau. Tôi tự nhủ phải lên tiếng, đại loại như "Mình không quên Sawatari đâu", nhưng sau một hồi phân vân, tôi thấy khó lòng thốt ra câu nói nghe như thoại phim ấy, đành im lặng.
Đáng lẽ tôi nên nói ra.
Mấy hôm sau, vào giờ Ngữ văn, thầy giáo gọi Sayuri đứng dậy đọc bài Sáng vĩnh biệt của Kenji. Chất giọng trong trẻo như thủy tinh đã qua chế tác của Sayuri rất hợp với bài thơ thấm đẫm hình ảnh mưa băng và tuyết trắng đó.
Tạm dịch từ "Eiketsu no asa".
Mãi sau này, nhiều năm trôi qua, tôi mới hiểu. Hồi ấy Sayuri đã liên tục tìm kiếm sự giúp đỡ ở tôi và Takuya. Cô khẩn thiết mong chúng tôi đưa cô đến nơi xa, "nơi hẹn ước". Tôi không biết tại sao cô chọn chúng tôi, chỉ khẳng định được một điều, ngày đó chỉ "chúng tôi" đủ khả năng đưa cô đi. Có lẽ cô cảm nhận được, Sayuri vốn là cô gái nhạy cảm đến đáng sợ.
Nhưng hai thằng lại quá ngây thơ, chỉ biết nghĩ đến bản thân. Ở tuổi ấy, đó là điều khó tránh khỏi. Dẫu thế tôi vẫn tự nhủ. Giá như chúng tôi nhận ra thông điệp không lời của Sayuri sớm hơn, có lẽ cô ấy, cậu ấy và tôi đã có một cái kết khác.
Nghĩ đến đó, lòng tôi lại đau đớn khôn nguôi.
Tạm biệt Takuya ở chỗ bồn uống nước, tôi quay lại phòng tập vắng tanh.
Tôi vẫn muốn bắn tiếp.
Bấm chặt ngón chân xuống sàn gỗ, mắt trân trân nhìn tấm bia, tôi thực hiện chuỗi động tác với sự tập trung cao độ để lắp đuôi mũi tên vào dây cung.
"Đâu thể chỉ vì dê thương mà đồng ý hẹn hò."
"Lý do nằm ở chỗ khác cơ."
...
"Vậy ai mới vừa ý cậu đây?"
Những lời không thể phủ nhận của Takuya vang lên, gây nhiễu đầu óc tôi.
Đường bắn chệch. Hẳn là tại tâm trí tôi không ngay thẳng.
Sawatari!
Mũi tên găm trúng bia, "pựt" một tiếng dễ chịu. Nhưng tên cách tâm một khoảng nhỏ.
Hôm đó chúng tôi chỉ phải tham gia lễ bế giảng và giờ sinh hoạt chung, vì vậy cả lớp kéo nhau về sớm, hơn 3 giờ chiều ga Minami Yomogita đã gần vắng bóng người.
Tôi đút tay vào túi áo khoác, lững thững đi qua cầu bộ hành. Tới đầu cầu thang dẫn xuống sân ga, tôi lơ đãng đưa mắt nhìn cảnh vật bên dưới qua cửa sổ rồi đột ngột dùng lại.
Trên sân ga, một cô bé đang đọc cuốn sách khổ bunko trong lúc chờ tàu. Là Sayuri.
Tôi liền cảm thấy căng thẳng.
Biết không thể đứng như thế mãi, tôi chầm chậm dấn bước. Vì lý do nào đó, tôi cố gắng không gây ra tiếng động khi đi trên cầu thang. Ngay khi đặt chân xuống sân ga, tôi dừng lại, quay về phía đường ray, vờ như không thấy cô.
Thú thật, tôi không dám lên tiếng. Tôi và Sayuri chẳng có chung đề tài nói chuyện nào cả. Hơn nữa, cuộc đối thoại rất dễ rơi vào không khí gượng gạo, biến tôi thành kẻ nhàm chán trong mắt cô. Hàng loạt suy nghĩ bi quan xuất hiện trong đầu, làm tôi chùn bước.
Chưa kể, dường như tôi sợ chính Sayuri. Tôi cảm nhận được ở cô năng lực thay đổi con người tôi, thứ quyền năng mạnh mẽ mà tôi không thể kháng cự. Khi ở gần cô, tôi luôn hình dung bàn tay nhỏ nhắn trắng trẻo của Sayuri xuyên qua lồng ngực, đảo lộn trật tự cảm xúc trong tim tôi như đổi chỗ những mảnh ghép của trò chơi xếp hình. Nếu đi cùng Takuya như mọi khi, biết đâu tôi sẽ tìm ra chủ đề để nói, thậm chí có thể thoải mái bắt chuyện...
Đúng vậy, Takuya là một phần nguyên nhân. Tôi bắt đầu có thái độ dè chừng trước cậu. Mà không, có thể đó chỉ là cái cớ để biện minh việc tôi muốn lẩn tránh Sayuri.
Cứ thế, tôi đứng cách cô khoảng mười lăm mét, quay mặt đi nhưng vẫn âm thầm dõi theo mọi cử động của cô.
Tiếng sột soạt vang lên khi Sayuri lật sách. Bị âm thanh đó gây chú ý, tôi lén liếc nhìn.
Sayuri mặc áo khoác và quấn khăn lên quá cằm giống như hôm qua. Đôi lúc, hơi thở cô hóa thành khói trắng, tan vào không khí trong trẻo của buổi chiều đông đẹp trời. Hôm ấy nhiệt độ xuống khá thấp, nhưng trông cô không lạnh lắm. Khi chìm đắm trong sách, người ta sẽ quên đi cái rét cũng nên. Dáng đứng của cô thật đẹp. Cô giữ lưng thẳng tắp chứ không học theo tư thế cúi đầu khó coi hay thấy ở người đứng đọc sách. Mắt cô to và đen. Tôi bị cuốn theo chuyển động nhịp nhàng của đôi đồng tử và bờ mi ấy lúc nào chẳng hay. Thế rồi...
Sayuri đột ngột quay sang, nhìn thẳng vào tôi.
"Fujisawa!"
Cô chập hai bàn tay vào nhau, gấp sách lại, mỉm cười gọi tên tôi. Nụ cười tươi sáng vô ngần, làm bầu không khí giữa chúng tôi thay đổi hoàn toàn trong chớp mắt. Tôi biết mặt mình đang đỏ lên. Mặt tôi nóng bừng, lòng thầm băn khoăn phải đáp lại nụ cười đó thế nào. Sayuri chạy về phía tôi, tôi cũng tiến tới hai ba bước. Cô dừng chân trước mặt tôi, cách chừng nửa mét. Hành động ấy khiến tôi bối rối.
"Thấy mình mà bạn chẳng gọi một tiếng." Cô nói, vẫn chưa nhận ra sự lúng túng của tôi.
"Mình vừa định gọi bạn mà." Tôi chống chế. "Sawatari về muộn nhỉ. Mình cứ nghĩ chỉ còn mình về chuyến này."
"Ừ. Mình ở lại tập nên về muộn."
"Bạn tập vĩ cầm à?"
"Đúng vậy. Mình vụng về nên luôn chậm hơn các bạn khác." Nói rồi cô tò mò hỏi. "Hôm nay bạn không về cùng Shirakawa sao?"
"À, mình cũng ghé câu lạc bộ tập thêm."
"Fujisawa thỉnh thoảng vẫn tập bắn cung một mình nhỉ?"
"Sao bạn biết?" Tôi càng bồn chồn hơn, bèn quay ra phía đường tàu.
"Mình hay đi dạo quanh phòng tập mà. Có lần nghe tiếng tên bắn ngoài giờ tập, mình đã ngó thử qua cửa sổ."
"Tại mình hay nghĩ lan man lắm. Lúc có mặt các thành viên khác, mình thường mất tập trung. Thành ra mình bắn rất tệ."
"Giống mình rồi."
Tôi cảm nhận được vẻ tươi cười của cô lan tỏa bên cạnh. Để ý thấy tàu sắp đến, tôi đưa mắt về phía cuối đường ray, thấp thỏm chờ đoàn tàu diesel màu trắng chầm chậm tiến vào sân ga. Tôi biết Sayuri vẫn nhìn mình suốt lúc ấy.
Tôi và Sayuri lên tàu qua cửa toa cuối cùng.
Sayuri không ngồi mà tựa vào vách ngăn giữa khoang hành khách và buồng lái. Tôi cũng đứng như vậy bên cạnh cô.
"Fujisawa này, mai là bắt đâu nghỉ xuân rồi, bạn định làm gì?"
"Mình đi làm thêm với Takuya."
"Làm thêm? Thích thật. Mình cũng muốn thử...
Bạn có nói với bố mẹ không?"
"Không. Sawatari không giỏi giấu giếm bố mẹ nhỉ?"
"Ừ, chắc chẳng bao lâu là mình để lộ. Hai bạn làm thêm ở đâu?"
"Xưởng sản xuất thuộc quân đội, ở Hamana. Bọn mình lấp ráp tên lửa tự hành."
"Hay ghê... Mình thì chỉ tham gia câu lạc bộ..."
"Bạn không định nghỉ sao?"
"Không, mình sẽ tiếp tục một thời gian nữa."
"Thế à."
"Ừ."
Câu chuyện giữa chúng tôi dùng lại.
Có lẽ lúc đó tôi nên hỏi nhiều hơn. Bình tĩnh mà nghĩ thì có vô vàn chuyện để nói. Bản nhạc cô đang tập ở câu lạc bộ, sở thích âm nhạc, hay chuyện gia đình. Nhưng không hiểu sao tôi lại im lặng.
Trong lúc im lặng, tôi lắng nghe âm thanh lịch kịch đều đặn phát ra từ đoàn tàu. Là tiếng bánh tàu lăn qua khớp nối đường ray. Ban đầu tôi dùng nó để k đếm ngược quãng thời gian ngượng ngùng giữa hai đứa, nhưng rồi tôi lại tưởng đang nghe tiếng đập của tim mình.
Con tàu lấc lư, vai cô khẽ chạm vào tôi. Vào khoảnh khắc ấy... Nó ập đến.
Nói ngắn gọn, nó là sức lôi cuốn. Tôi cảm nhận được năng lực ấy ở Sayuri. Có thể ví nó với xoáy nước ngoài biển. Tôi như chiếc thuyền nhỏ bị xoáy nước dữ dội nuốt chửng. Phần sản sinh ra mọi tình cảm hay nhận thức nơi tôi bị cuốn vào và khóa chặt trong Sayuri. Điều đó khiến tôi liên tưởng đến Tam giác quỷ Bermuda hay hố đen vũ trụ.
Dĩ nhiên, tất cả chỉ là cảm nhận đơn phương. Nhưng khoảnh khắc ấy đã gây ra chuyển biến quá lớn trong tôi. Con người từ trước tới nay của tôi như biến thành kẻ xa lạ. Nghe thật vô lý, nhưng tôi gần như oán Sayuri. Tôi chưa từng mong muốn sự biến đổi đột ngột nhường này. Tôi thích tự mình từ từ thay đổi bản thân. Ví dụ học cách dùng dụng cụ chưa đụng đến bao giờ cho thành thạo, hay tập luyện tới khi bắn được đường tên đẹp. Tôi thấy mình bị cô chi phối, và chỉ biết cố gắng chịu đựng nỗi đau đó.
Tiếng loa vang lên trong toa, thông báo tàu sắp đến ga Nakaoguni. Tâm trạng khổ sở như bị bão tố bủa vây trong tôi dịu đi. Có điều nó không tan hẳn mà vẫn âm ỉ khuấy động mặt nước. Chắc hẳn dù tôi có quen với cảm giác này, nó cũng không biến mất.
"Đến nơi mất rồi..."
Sayuri lên tiếng khi tàu bắt đầu giảm tốc. Tôi thầm thắc mắc, không hiểu cô nói câu đó với ý gì. Lẽ nào cô không thấy nhàm chán khi cả hai chỉ có vài câu để nói dù về chung chuyến tàu? Tôi muốn hỏi, nhưng trong lúc tôi còn chần chừ vì lo làm cô hụt hẫng, cô đã nhẹ nhàng ngước nhìn tôi rồi nói.
"Fujisawa này."
"... Sao?"
"Hôm qua, mình mơ thấy mình và Fujisawa cùng về với nhau thế này đó."
Tôi nín thở, đóng băng.
Tim tôi suýt ngừng đập. Rốt cuộc cô có ý gì? Tôi không biết nữa, có lẽ với cô, ở riêng cùng tôi không phải chuyện quá tệ. Biết đâu cô có tình cảm với tôi. Lý nào tôi lại không vui. Máu dồn lên não. Tàu dừng. Cửa mở kèm theo âm thanh nặng nề. Sayuri thoắt quay đi, nhẹ nhàng bước qua thềm cửa ra, đặt chân xuống sân ga bê tông. Tôi đi tới cửa như bị cuốn theo. Cô quay người sang phải lần nữa, đối diện với tôi, khẽ vẫy tay rồi mỉm cười.
"Tạm biệt. Hẹn gặp bạn vào năm học mới nhé."
"... Ừ."
Cửa nhanh chóng đóng lại như trong phim truyền hình. Lớp cửa kính ngăn cách tôi và Sayuri. Tôi chưa kịp hỏi gì, có lẽ vì cô cố ý không để tôi lên tiếng. Tôi nửa tiếc nuối, nửa nhẹ nhõm. Tàu từ từ lăn bánh, không gian tôi đứng và không gian Sayuri hiện diện chầm chậm lướt qua nhau.
Tôi gí sát mặt vào tấm kính ở đuôi tàu, nhìn theo Sayuri. Cô vừa bước xuống đường ray qua bậc thang ở rìa tay phải sân ga. Ga Nakaoguni không có cầu bộ hành nối các sân ga với nhau, hành khách phải trực tiếp băng qua đường tàu.
Sayuri không ra cửa soát vé luôn mà vui vẻ bước giữa đường ray theo hướng đoàn tàu mới rời ga. Sau đó cô nhón chân nhảy lên thanh ray, đi tiếp như bước trên cầu thăng bằng. Tôi ngắm Sayuri chơi trò stand by me qua cửa kính con tàu đang dần rời xa cô, thầm nghĩ cô quả thật rất đẹp.
Trò chơi đi dọc đường tàu thám hiểm của một nhóm bạn, ảnh hưởng từ bộ phim Stand by Me của Mỹ.
Khi bóng dáng Sayuri đã lùi xa, tôi tiến tới cánh cửa khi nãy cô xuống, tựa trán lên kính, thở dài. Thứ cảm xúc tựa bão bùng vẫn đang hoành hành trong tôi. Bất giác nhìn cảnh vật ngoài cửa sổ, tôi liền thấy ngọn tháp trên đất Ezo vừa vặn nằm cùng hướng di chuyển của đoàn tàu.
Ngọn tháp làm dấy lên một dòng xoáy khác trong lòng tôi. Sự hỗn loạn ngoài tầm kiểm soát bùng lên, làm tôi liên tục thở dốc. Tôi ngắm ngọn tháp bằng đôi mắt vô hồn, tới khi thấy bóng dáng Sayuri bước trên thanh ray chồng lên hình ảnh ngọn tháp. Giữa khung cảnh trong tưởng tượng của tôi, Sayuri như đang đi xa mãi trên đường tàu dẫn tới ngọn tháp.
Hình bóng Sayuri luẩn quẩn mãi trong lòng, khiến tôi trằn trọc tới tận gần sáng hôm sau. Khi tôi thức dậy trong trạng thái đầu óc mờ mịt thì bố mẹ đã đi làm, ông cũng ra ngoài rồi. Tôi xuống bếp nấu một bữa sáng qua loa, sau đó vừa xem ti vi vừa ăn với bộ dạng ngái ngủ.
Thời sự đưa tin về Hội nghị cấp bộ trưởng giữa Mỹ và Liên bang diễn ra trong vài ngày nữa. Nhiều khả năng chủ đề chính của hội nghị sẽ là tình hình phân chia Bắc-Nam tại Nhật. Liên bang bày tỏ quan ngại về việc Mỹ gia tăng sức mạnh quân sự tại căn cứ Mizawa. Trong khi đó, Mỹ chủ trương yêu cầu Liên bang hợp tác trong hoạt động thị sát nhằm làm rõ mục đích xây dựng tháp trên lãnh thổ Ezo, chứng minh nó không phải là công trình quân sự.
Đừng có đùa. Chẳng ai khiến mấy người tìm hiểu đâu.
Tôi hơi bực mình. Liên bang là nước đối địch với Nhật Bản, nhưng trong vấn đề liên quan đến ngọn tháp, dù thế nào tôi vẫn đứng về phía bọn họ.
Tôi ra khỏi nhà, đón tàu tới ga Tsugaru-Hamana. Lôi chiếc xe đạp bỏ bẵng trong bãi xe của nhà ga ra, tôi gồng mình đạp trên con đường nằm giữa cánh đồng. Vượt qua hai cây cầu, đi hết đoạn đường vòng vì phải tránh quả núi nhỏ là tới xưởng chế tác Emishi.
Tôi không buồn giảm tốc mà cứ thế phóng thẳng vào phần đất của xưởng, lượn một vòng trong bãi đỗ dư chỗ cho xe tải cỡ lớn quay đầu (nói cách khác là cái sân rộng um tùm cỏ dại), dừng xe trước văn phòng.
Bước vào xưởng qua khung cửa cuốn kéo cao hết cỡ, tôi thấy chú Miyagawa và chú Sato mặc nguyên quần áo lao động, ngồi cạnh chiếc lò sưởi kiểu daruma.
Do hình dáng giống búp bê daruma (loại búp bê truyền thống của Nhật Bản, thường làm bằng gỗ, hình tròn, sơn đỏ, không có chân tay, mắt để trống và có ria mép lớn màu đen).
"Cháu chào hai chú. May quá, đang nghỉ giữa giờ ạ?"
"Ờ, lại đây ngồi này." Chú Miyakawa nói.
Tôi vâng dạ rồi với lấy chiếc ghế gấp đang dựa vào tường. Takuya đến sớm hơn tôi, cậu đi ra từ phòng đun nước, bưng khay trà trên tay.
"Cậu đến muộn đấy, Hiroki."
"Xin lỗi."
Takuya bắt đầu xếp chén lên chiếc bàn cũ. Chú Sato nhanh tay bốc một thanh quẩy rán tẩm đường dùng kèm với trà, vui vẻ quay sang bảo tôi.
"Hiroki, chú biết rồi nhé."
"Chuyện gì vậy chú?"
Chú Miyakawa nói, "Hai đứa trộm con CHUKAR của bên Phòng vệ Biển đúng không?"
Phương tiện bay không người lái (drone) được Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản sử dụng làm mục tiêu huấn luyện bắn tên lửa.
"Không phải đâu ạ." Rót trà xong, ngồi xuống ghế xếp, tôi và Takuya cùng lúc trả lời giống hệt nhau.
"Bọn cháu đâu có lấy trộm. Bọn cháu nhặt được ở Amagamori mà." Takuya tiếp tục, "Nó rơi trong lúc tập luyện, bị bỏ lại trong rừng nên bọn cháu xin về thôi."
"Rõ ràng là lấy trộm còn gì." Chú Sato nói xen vào. "Mà hai đứa cũng biết tính toán đấy. Có thể động cơ đó hơi yếu, nhưng chắc vẫn dùng được. Ăn may kiếm được bộ phận đắt nhất mà không mất đồng nào nhỉ."
"Cẩn thận đừng để người ta lần ra." Chú Miyakawa nói. "Chú nhắc thế thôi, chứ dạo này bên đó hay huấn luyện bằng drone, mất một hai cái chắc cũng không thành vấn đề."
"Đúng rồi. Chỗ này chẳng làm gì cũng bị cảnh sát để mắt. Rủi mà để lộ là hỏng bét."
"Cảnh sát có đến ạ?" Tôi hỏi. "Xưởng hợp tác với quân đội Mỹ mà, sao lại bị nghi ngờ ạ?"
"Vì làm chất nổ chứ sao. Bọn họ thăm dò xem mình có tuồn hàng cho khủng bố không."
"Tại bộ mặt khả nghi của giám đốc nữa."
Chú Miyakawa nói xong, chú Sato nhỏ giọng bổ sung. Chúng tôi vừa định cười thì cánh cửa nhôm dẫn sang văn phòng mở ra, vị giám đốc mới được nhắc đến, tức ông Okabe, đi vào.
"Đừng có nói xấu người khác."
Giọng ông ồm ồm đầy dọa nạt. Tóc húi cua, râu ria lởm chởm, miệng lúc nào cũng phì phèo thuốc lá đúng kiểu ông chú đáng sợ, không có bộ đồ lao động liền thân thì trông chẳng khác gì dân anh chị.
"Rồi sao? Chú bảo mặt tôi thế nào cơ?"
Chú Sato lầm bầm hai tiếng "Bỏ xừ".
Ông Okabe quay sang tôi và Takuya, thông báo hôm nay không có việc cho chúng tôi làm.
"Nguyên liệu định để hai đứa xử lý chưa về đến nơi. Mai hẵng quay lại. Ta sẽ vắt kiệt sức chúng bay, đừng tưởng trả đủ tiền vật liệu là xong."
"Ơ..." Chúng tôi đồng thanh.
"Còn ơ gì nữa?"
"Vâng."
"Được rồi, hôm nay tới đây thôi, 'lên trên' mau rồi về." Sau đó ông nói tiếp với hai nhân viên của mình. "Còn các chú đừng có lười, làm việc đi."
Tôi và Takuya băng ngang khoảng sân đầy cỏ dại của xưởng Emishi, len lỏi giữa rừng ăng ten vô tuyến khổng lồ nhìn kiểu gì cũng thấy giống công trình phi pháp, ra đến chỗ hàng rào bằng lưới thép, sau đó chui qua lỗ hổng trên rào. Đi tắt qua khu đất của xưởng rồi lách ra phía sau là cách nhanh nhất để "lên trên". Nếu chọn lộ trình bình thường, chúng tôi sẽ phải cuốc bộ khá xa theo con đường vòng vèo.
Sau khi đi xuyên một nghĩa địa nhỏ, vòng qua ngôi chùa không người, chúng tôi bât đầu lên núi. Tôi và Takuya thẳng tiến trên đường núi chưa được khai phá. Đường khó đi, lại dốc, nhưng chúng tôi đến đích mà không mất nhiều thời gian.
Tôi và Takuya đi làm thêm đương nhiên vì có mục đích rõ ràng.
Vào thời Ezo còn được gọi bằng cái tên Hokkaido và vẫn là một phần của Nhật Bản, người ta từng lên kế hoạch đào đường hầm dưới eo biển Tsugaru, với độ dài tương tự công trình dưới eo biển Dover. Về sau kế hoạch bị dừng do sự kiện Bắc-Nam chia cắt, nhưng dấu vết của các công trình như nhà ga hay đuờng ray bỏ hoang vẫn nằm lại rải rác quanh khu Hakamagoshidake này.
Chúng tôi im lặng leo dốc. Hơi thở ngắt quãng, khói trắng bay lên mỗi lúc một nhiều. Nhưng chúng tôi vẫn leo, tới khi cây rừng đột ngột thưa đi, giải phóng tầm nhìn.
Đỉnh núi kia rồi, rộng và bằng phẳng đến choáng ngợp. Vào mùa này nó trắng xóa vì tuyết đọng. Mặt đất màu trắng trải dài, kết thúc ở một điểm nhất định, nhường chỗ cho bầu trời.
Chúng tôi luôn dừng chân ở chỗ này. Khoảng trời nhìn từ đây nằm chính giữa hướng Bắc.
Có thể nhìn thấy ngọn tháp. Chúng tôi ngắm nó trong chốc lát.
Chếch về phía tay phải đồng tuyết rộng lớn, vài công trình thấp cũ nát nằm im lìm.
Ba sân ga được nối với nhau bởi cây câu bộ hành, nhà chờ bằng gỗ.
Chính là nhà ga bỏ hoang.
Cụm kiến trúc đơn độc mọc lên giữa cánh đồng tuyết ấy dễ khiến người ta liên tưởng đến trạm nghiên cứu Nam Cực xem qua ảnh.
Đây là một trong những nhà ga thuộc kế hoạch xây dựng đường hầm xuyên biển. Nó bị bỏ hoang trong tình trạng chưa hoàn thiện. Hoàn toàn bị lãng quên, chẳng ai đến gần.
Chúng tôi bắt đầu chế tạo một thứ ở đây từ mùa thu năm lớp Bảy. Chúng tôi làm thêm ở xưởng Emishi là để kiếm tiền mua vật liệu cho nó.
Chúng tôi giẫm lên tuyết, bước đi giữa thảo nguyên trắng xóa. Tuyết tan bớt khá nhiều so với mọi ngày, đường ray gỉ sét thấp thoáng lộ ra.
"Tan gần hết rồi nhỉ. Tôi muốn bắt đầu lại quá." Tôi nói.
"Thế này ổn rồi, đừng rơi thêm là được." Takuya đáp.
Hồi giữa đông, chúng tôi hầu như không thể lên đây bởi vướng tuyết, ngoài ra còn vì bận kiếm tiền.
Cạnh nhà ga bỏ hoang có một gara bằng gỗ, dùng để chứa tàu điện. Có vẻ nó được dựng khá vội, chắc chỉ phục vụ mục đích tạm thời. Tôi và Takuya gọi nó là "xuởng máy bay". Chúng tôi đến gần gara, vòng ra cửa sau. Takuya vừa lấy chìa khóa khỏi túi vừa nói.
"Tóm lại, không kiếm đủ vật liệu còn thiếu thì chẳng làm gì được. Động cơ chính xoay xở được rồi, nhưng lưới nano bọc ngoài với mô tơ khởi động đều chưa có. Gay go nhất là mô tơ siêu dẫn, cuối cùng là thật nhiều dầu hỏa. Tiền làm thêm từ ngày mai chắc gì đã đủ..."
"Sẽ có cách thôi. Còn cả kì nghỉ hè mà." Tôi đáp.
"Cũng đúng."
Chúng tôi đi vào xưởng máy bay tối mờ.
Cả hai đã gặp may khi tìm được nơi này. Ván tường lỏng lẻo, để hở nhiều chỗ khiến ánh sáng từ bên ngoài lọt vào. Nhờ ánh sáng leo lét ấy, hình dạng của thứ đặt ở vị trí trung tâm lờ mờ hiện ra.
Takuya gạt cầu dao trên bảng điện treo tường xuống.
Tiếng "tách" vang lên, bốn bóng đèn pha halogen tỏa ánh sáng trắng xanh. Nguồn sáng từ tứ phía soi tỏ vật thể duy nhất.
Một khung nhôm, vài chỗ phủ ni lông.
Chúng tôi mới có bộ xương. Nhưng nhìn qua cũng đủ biết đó là chú chim khổng lồ đang dang cánh.
Một chiếc máy bay.
Chúng tôi đang chế tạo nó. Đồ thật. Chiếc phi cơ có một không hai trên đời.
Velaciela.
Về sau máy bay được đặt tên như vậy. Hình như từ đó nghĩa là "Đôi cánh trắng". Chứng tôi đã chọn màu trắng làm màu cho phi cơ từ trước. Bởi nó sẽ bay về ngọn tháp trắng kia.
Đúng thế. Chúng tôi không chỉ cho nó bay. Nó còn có đích đến.
Là nơi trông như nằm trong tầm tay mà không thể đặt chân tới.
Chúng tôi khao khát được nhìn tận mắt mảnh đất Ezo bí ẩn cùng ngọn tháp khổng lồ đứng sừng sững trên đó.
Hai đứa ngắm đôi cánh lắp dở chỉ có khung xương, chìm vào cảm giác khoan khoái từ từ dâng đầy, tưởng tượng một ngày nào đó cả hai ngồi vào buồng lái đôi, mở van tiết lưu, cảm nhận sức kéo của trọng lực khi bay vụt lên.
Chúng tôi dự định bay tới ngọn tháp bên kia biên giới trên chiếc Velaciela này.
Chúng tôi quyết định làm máy bay ngay sau tai nạn với chiếc phản lực năm lớp Bảy.
"Lần tới sẽ là máy bay thật."
Có lẽ ý nghĩ đó đã hiện diện như linh tính trong đầu cả hai ngay từ lúc chế tạo mô hình RC.
Làm được việc trước đây không thể. Mở rộng phạm vi năng lực của bản thân... Cảm giác thỏa mãn mà những trải nghiệm đó mang lại quả thật vô cùng hấp dẫn. Sự hào hứng ấy đã thôi thúc chúng tôi hành động.
"Chiến thôi."
"Ừ."
Hai đứa xác nhận quyết tâm của nhau chỉ bằng hai câu vắn tắt.
Chúng tôi không hề tính đến nguy cơ thất bại. Ngẫm kĩ thì Takuya và tôi đều thật táo bạo, vì mới học cấp hai mà đã dám nghĩ đến chuyện tự tìm vật liệu rồi chế tạo máy bay chở được người.
Sau khi lấy lại chiếc phản lực RC trên mái nhà thể chất, xếp lên yên sau xe đạp, tôi và Takuya trao đổi vài câu ngắn gọn trong lúc lững thững dắt xe đi bộ về. Cuộc thảo luận diễn ra chóng vánh, vì những lời kiểm chứng dài dòng gần như không còn cần thiết.
"Bay tới đâu bây giờ?" Tôi hỏi. Vì thiết kế sẽ thay đổi khá nhiều tùy đích đến.
"Về chuyện đó, tôi có một chỗ muốn tới." Takuya đáp.
"Tôi cũng thế." Tôi nói.
Chỉ có vậy. Đều không nói hẳn là ngọn tháp. Chúng tôi hiểu nhau rất rõ, khỏi nghĩ cũng biết cả hai nhắm tới mục tiêu giống nhau, ở phương Bắc.
Lúc ấy là nửa đêm, không thể trông thấy mục tiêu. Nhưng trong tâm trí tôi và Takuya, bất chấp bóng tối đen đặc, ngọn tháp trắng tinh vẫn tỏa sáng như mặt trời giữa hè.
Bấy giờ, nếu bị hỏi tại sao lại chọn ngọn tháp, có lẽ tôi không trả lời trôi chảy được. Cho đến hôm nay, tôi vẫn chưa chắc mình có thể giải thích thắc mắc đó một cách mạch lạc.
Nếu không sống ở gần, ngày ngày thấy nó, có lẽ người ta sẽ chẳng hiểu được khao khát ấy, sự nôn nóng ấy.
Mười mấy năm, hàng ngày chúng tôi nhìn ngọn tháp mà lớn lên. Đó chính là lý do.
Ngọn tháp đã dạy cho tôi biết một đường thẳng có thể đẹp đến nhường nào.
Xét về vị trí, tháp nằm cách bán đảo Tsugaru 350 kilomet. Khoảng cách khá xa, nhưng trông rất gần. Không, thay vì nói nó ở gần, nên miêu tả rằng nó đang tiến về phía này (về sau tôi mới biết đó không phải ảo giác, mà là hiện tượng vật lý lượng tử, gọi là "hiệu ứng đường hầm lượng tử vĩ mô"). Đôi khi tôi cảm thấy nó đang cố ý phô diễn vẻ đẹp.
Rốt cuộc chuyện gì đang diễn ra ở nơi đẹp đẽ ấy?
Những thứ hào nhoáng, tuyệt vời nào hội tụ ở đó?
Tôi từng nghĩ vậy.
Nếu ngọn tháp nằm ở nơi nối với đất liền, chắc chắn tôi đã tìm đến chỗ nó sớm hơn. Có tàu đi tàu, không có thì đạp xe. Không dùng được xe đạp thì cuốc bộ. Bất kể mất bao nhiêu ngày.
Nhưng thực tế, tôi và ngọn tháp bị ngăn cách bởi biển và xung đột quốc gia.
Nơi nằm trong tầm nhìn ấy nắm giữ thứ gì đó rất đẹp, nhưng nỗ lực tiếp cận của tôi lại bị cản trở, từ chối. Tôi còn có cảm giác bị cô lập.
Vì thế tôi phải kháng nghị.
Phải có được thứ đó.
Một ngày mùa đông năm lớp Bảy, vì vài lý do, tôi đến xem câu lạc bộ của Takuya tập luyện.
Cậu tham gia câu lạc bộ trượt băng tốc độ. Trong trường hiển nhiên không có sân băng, nên các thành viên câu lạc bộ phải bắt xe buýt mini đến một sân băng trên hồ ở xa. Chỗ đó nằm khá cao trên núi, khi phóng tầm mắt xuống dưới, có thể thấy rất rõ eo biển Tsugaru và ngọn tháp phía bên kia.
Tôi tựa vào cánh cửa lùa của xe buýt mini, nhìn Takuya trượt băng. Tiếng súng hiệu xuất phát vang lên, Takuya đạp xuống mặt băng bằng đôi giày chuyên dụng, lao vụt đi, nửa lướt nửa chạy.
Tôi nhận ra Takuya vừa lướt vừa chăm chăm nhìn thẳng vào ngọn tháp. Sau khi tăng tốc, hạ thân trên xuống rất thấp, ánh mắt cậu vẫn dán chặt vào nó.
Tiếp theo là khúc cua, ngọn tháp tạm rời khỏi tầm nhìn của Takuya. Nhưng tôi dám chắc, dù ngọn tháp thật ở sau lưng, cậu cũng vẫn lướt về phía nó, nhờ hình dung trong đầu.
Hết ba phần tư chặng, ngọn tháp lại lọt vào mắt Takuya. Lúc này, cậu dốc sức chạy trên băng như thể đang nổi giận. Rồi cậu cán đích, từ từ thả lỏng tốc độ toàn thân. Suốt quá trình ấy, ánh nhìn không lúc nào rời ngọn tháp.
Nhận ra điều đó, tôi suýt rơi nước mắt.
Tôi muốn nói thật to, rằng tôi cũng vậy, tôi cũng giống cậu.
Thật khó diễn tả bằng lời niềm xúc động khi tìm được kẻ có chung suy nghĩ, cùng quyết tâm. Khi ấy, tôi hoàn toàn không coi Takuya là người ngoài. Thậm chí tôi còn hình dung cậu như một "tôi" khác.
"Nhất định phải đi đấy."
Tôi vỗ lên lưng Takuya. Cậu chỉ vừa kịp thay giày để chuẩn bị quay lại chỗ xe buýt.
Takuya tròn mắt nhìn tôi ngạc nhiên.
"Ừ, nhất định." Nói xong, cậu ngượng nghịu cười.
Có hai vấn đề lớn khi chế tạo máy bay thật. Đó là tìm mua vật liệu và chuẩn bị đường băng.
Ban đầu, chúng tôi dự định dọn dẹp gara ở nhà tôi rồi chế tạo từng bộ phận một. Trong trường hợp này, hai đứa sẽ phải giải quyết bài toán vận chuyển máy bay đến chỗ nào và bằng cách gì, cho nó cất cánh từ đâu.
Chúng tôi cần nơi thật rộng, cố thể làm đường băng dài, càng gần Hokkaido càng tốt. Tôi muốn nhắm thẳng ra biển thay vì bay trên nhà cửa hay làng mạc. Đã có lúc chúng tôi nghiêm túc tính đến phương án chặn đường quốc lộ, hoặc thay đổi toàn bộ thiết kế để biến nó thành thủy phi cơ.
Việc tìm thấy nhà ga bỏ hoang xảy ra hoàn toàn tình cờ.
"Dùng đường ray ở nhà ga bỏ hoang được không nhỉ?"
Người nghĩ ra điều đó chỉ có thể là Takuya. Cậu có lắm ý tưởng thật.
Để tìm kiếm đoạn đường thẳng thích hợp làm đường băng, tôi và Takuya lang thang giữa đường ray tàu hỏa như vẫn thấy trong phim. Chúng tôi xuất phát khi tuyết đầu mùa năm ấy còn chưa rơi. Và rồi chúng tôi lên đến đỉnh núi kia.
Khi phát hiện nhà ga bỏ hoang, hai đứa vui mừng đến mức nhảy cẫng lên.
Mạng lưới đường ray gỉ sét đan xen phức tạp, xuôi theo ngọn đồi bằng phẳng.
Cần bẻ ghi.
Sân ga thiết kế theo mô hình ba đảo nổi thẳng hàng.
Và cây cầu bộ hành có mái cũ nát nối liền các sân ga.
Tất cả khiến tôi và Takuya mê mẩn. Mọi thứ giống như căn cứ bí mật vậy. Nước hồ gần đó dâng lên khiến phân nửa nhà ga chìm trong nước, sân ga kiểu đảo nổi như biến thành những hòn đảo thực sự, trông rất ấn tượng. Dưới nước có cả cá, còn câu được cũng nên.
Hai đứa háo hức đi vòng quanh, xem xét một hồi. Chúng tôi leo lên cầu bộ hành (lên đến nơi phải bước thật khẽ vì sàn đã bắt đâu thủng nhiều chỗ), đứng trên sân ga ném đá xuống mặt nước, chui vào chiếc xe buýt hỏng bị lật, tháo ghế rồi kéo ra ngoài.
Tôi thực hiện giấc mơ nho nhỏ muốn thử từ lâu, đó là ngủ trưa trên đường tàu, gối đầu lên thanh ray. Làm thế trên tuyến đường đang hoạt động sẽ dẫn đến hậu quả hết sức tai hại, còn ở đây chẳng có ai nhòm ngó, không cần lo lắng gì hết.
Thấy vậy, Takuya giả làm tàu hỏa chạy dọc đường ray, lao tới đá vào mạn sườn tôi. Cậu thở khò khè nghe như tiếng động cơ, hiển nhiên không chỉ vì vừa dùng sức chạy đến.
"Cậu hí hửng cái gì?"
"Làm mấy chuyện kiểu này kích thích đúng không? Hay cậu không biết cảm giác ấy?"
"Tất nhiên là tôi biết!" Tôi đáp.
Vậy là chúng tôi quyết định chế tạo máy bay ở nhà ga bỏ hoang. Xét về vị trí, nơi này thông ra biển, lại có đường ray thẳng tắp. Nếu cho máy bay cất cánh từ đây thì làm việc tại chỗ là đỡ tốn công nhất.
Đối với vấn đề còn lại là vật liệu, nhất thời chúng tôi không nghĩ ra phương án nào khả quan. Có cả núi thứ cần mua. Trước nhất là động cơ phản lực. Nhôm để tạo khung, lưới nano cacbon, động cơ siêu dẫn. Cái gì cũng đắt. Phải kiếm đủ tiền. Nhưng vấn đề khó nhằn hơn cả là nguồn cung. Hai đứa vị thành niên như chúng tôi biết mua những thứ đó ở đâu đây?
Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra câu trả lời, mà gợi ý dẫn đến đáp án ấy tiếp tục là nhà ga bỏ hoang. Trên đời đôi khi vẫn có chuyện như vậy, chỉ cần một bước diễn ra suôn sẻ thì những bước còn lại cũng trơn tru theo.
Sau nhiều lần đi đi về về nhà ga bỏ hoang, chúng tôi phát hiện ra rằng, xuyên rừng đi thẳng tới phía sau xưởng Emishi là lộ trình xuống núi nhanh nhất. Chúng tôi lén lút băng qua phần đất của xưởng, tiếp đó nhanh chóng ra ga nhờ con đường nhựa dễ đi. Hàng rào sắt gỉ sét bị rách một mảng, chui qua là vào được khu đất.
Cứ thế đến một ngày, chúng tôi bị nhân viên của xưởng bắt được. Sau này chúng tôi mới biết tên chú là Sato, người ít tuổi nhất trong công ty. Bằng vẻ mặt dữ tợn, chú lôi hai đứa lên phòng giám đốc. Khi bị phát hiện, chúng tôi cố bỏ chạy, nhưng chú đã kịp gạt chân đốn ngã Takuya rồi ấn chặt cậu xuống đất trong nháy mắt. Tôi không thể trốn một mình, đành chấp nhận bị tóm.
Tôi thầm nghĩ, hành xử thế này với hai thằng học sinh cấp hai lén lút trong mảnh đất bé xíu có nặng tay quá không, lại nơm nớp lo không biết chú sẽ làm gì nếu tôi dám nói ra.
Phòng giám đốc nằm trên tầng hai tòa nhà tiền chế, bên trong có vài chiếc bàn thép dành cho nhân viên, trông giống văn phòng làm việc hơn. Ngồi ở bàn đầu là giám đốc Okabe, lúc đó chúng tôi còn chưa biết tên. Ông đang đọc báo, miệng ngậm thuốc lá.
Chúng tôi bị đẩy vào lưng, hơi chúi về trước. Chú Sato nói. "Bọn đột nhập từ sau xưởng đây ạ." ông Okabe kêu "Hả" một tiếng, đặt tờ báo xuống rồi đứng dậy, điếu thuốc vẫn ngậm trên miệng.
Ông là người cao lớn, chắc chưa đến mét tám, nhưng cũng không thấp hơn cỡ đó là bao, cánh tay to như dùi cui. Ông nhìn xuống chúng tôi.
"Bọn bay muốn gì?" Ông nói với điệu bộ như sắp đánh chúng tôi. "Trình bày trong vòng một phút. Nếu trả lời vừa ý ta, ta sẽ tha cho về."
Tôi và Takuya sợ quá, cuống cuồng giải thích. Từ chuyện đi tắt qua xưởng để tiện lên ga, chuyện phát hiện nhà ga bỏ hoang khi tìm chỗ làm đường băng, tới chuyện định chế tạo máy bay trên đó...
"Máy bay hả?" Ông Okabe ngờ vực hỏi. "Ồ, hóa ra là bọn bay. Hai thằng ngốc đem khoe chiếc phản lực ở trường cấp hai rồi ăn mắng te tua đây đúng không?"
Tôi buột miệng hỏi lại, "Sao bác biết ạ?"
Nói xong tôi mới rụt cổ, lo ông nổi đóa vì bị hỏi ngược. Ông Okabe dụi điếu thuốc cháy dở vào gạt tàn, cười to.
"Người lớn có mạng lưới thông tin của người lớn. Giáo viên trường cấp hai Minami Yomogita toàn người quen của ta cả."
Takuya nhỏ giọng "Hừ" một tiếng. Tôi cũng có cùng cảm nhận.
Đoán chừng có thể thương lượng với những người này, Takuya đột ngột nói, "Cho cháu hỏi, đây là xưởng quân khí phải không ạ?"
"Ờ, đúng thế. Là chỗ mấy ông chú dữ tợn chế tạo đồ chơi nguy hiểm. Không phải chốn cho bọn trẻ con lảng vảng đâu."
"Các chú bán nhôm cho bọn cháu được không ạ?"
Tôi ngạc nhiên kêu thầm, tự dưng cậu nói linh tinh gì vậy!?
"Nhôm? Hai đứa định dùng thứ ấy làm gì?"
"Bọn cháu làm vật liệu cho máy bay."
Chú Sato chen vào, "Lại máy bay đồ chơi chứ gì?" "Không phải đồ chơi. Bọn cháu làm phi cơ hai chỗ ngồi đàng hoàng." Takuya hơi cáu, đáp.
Sau một hồi hoang mang trước những diễn biến bất ngờ, cuối cùng tôi cũng bắt kịp. Mua được vật liệu ở chỗ này thì còn gì bằng. Tôi hùa theo Takuya, dõng dạc nói, "Với lại nếu được, bọn cháu muốn mua cả mô tơ siêu dẫn, động cơ phản lực loại nhỏ nữa!"
"Từ từ, động cơ phản lực hả...?" Ông Okabe ngồi ghé vào mép bàn, châm điếu thuốc mới. "Có mang theo bản thiết kế không? Đưa ta xem."
Tôi lục túi áo khoác lấy bản vẽ được gấp kĩ đến mức sắp sờn rách, đưa cho ông. Tôi và Takuya đã dốc hết tâm huyết để vẽ bản thiết kế này từ đầu mùa thu. Ông Okabe trải tờ giấy lên mặt bàn, mạnh tay miết phẳng những nếp nhăn rồi chăm chú xem xét.
"Hệ thống truyền động kép... Cánh tròn... Ý tưởng táo bạo quá nhỉ. Này Sato, xem thử đi."
"Vâng... Ồ, gì đây. Trông hay đấy. Cái này, nhưng mà, hừm..."
"Sao?"
"Bay được ạ."
"Tất nhiên!" Tôi và Takuya đồng thanh nói.
"Gọi Miyakawa lên đây. Thằng đó rành nhất." Ông Okabebảo.
Chờ chú Sato chạy ra khỏi phòng, tôi hỏi, "Chỗ này chế tạo cả máy bay ạ?"
"Không. Bọn ta không làm cái đó. Nhưng bọn ta có chế tạo những thứ tương tự."
Chú Sato quay lại, dẫn theo một người cường tráng. Vậy ra đây là chú Miyakawa. Có vẻ chú đã biết chuyện, khẽ cúi đầu chào giám đốc rồi lập tức xem bản vẽ trên bàn.
"Thiết kế tạm ổn..." Sau một hồi xem xét kĩ càng, chú gọi chúng tôi lại gần. "Chỗ này lỏng lẻo quá. Sẽ vỡ từ đây vỡ ra. Làm nhẹ đi là tốt, nhưng thế này không đủ chịu lực."
"Nhưng nếu sửa chỗ đó thì hệ cân bằng của cả máy bay..."
Tôi vừa nói, chú Miyakawa liền ngắt lời, "Chính xác. Cho nên phải làm lại toàn bộ." Chú thẳng thừng bảo. "Tôi sẽ dạy kĩ cho, nhớ đến mà hỏi."
"Thế nào, có triển vọng không?" Ông Okabe hỏi.
"Ý tưởng tốt ạ. Cứ để bọn nó làm xem sao." Chú Miyakawa đáp.
"Hừm, vậy à..." ông Okabe nhả một hơi thuốc rồi nói. "Ta báo trước với hai đứa, hợp kim nhôm làm máy bay đắt lắm đấy. Chìa tiền ra thì ta vẫn bán, nhưng chắc gì bọn bay đã có tiền?"
"Chuyện đó..."
"Chưa kể, hai đứa nít ranh tụi bay có biết gia công kim loại không?"
"Biết chứ ạ!" Tối gần như gắt lên. Đó là công đoạn duy nhất tôi tự làm được, nhưng nến nhìn nhận theo hướng khác, đó cũng là lĩnh vực mà tôi tự tin nhất. Khiêm tốn hay dùng dằng vào lúc này khác nào phủ nhận chính mình, tôi bèn tiếp, "Bác đừng xem thường chúng cháu."
"Cháu nghĩ bọn cháu làm được." Takuya cũng tiếp lời. Giọng điệu từ tốn của cậu khi nói chuyện dường như có sức thuyết phục hơn.
"Ồ, mạnh miệng nhỉ. Vậy thì đi xuống dưới." Ông Okabe bước tới lối ra, mở cửa. "Ta sẽ thử tay nghề bọn bay."
Chúng tôi bị đưa ra ngoài, dẫn sang gian xưởng hai tầng kiểu giếng trời ở tòa nhà bên cạnh. Gần như toàn bộ một bên tường bị biến thành cửa cuốn, đủ rộng cho xe tải cỡ lớn ra vào.
"Làm mẫu cho chúng nó xem."
Ông Okabe khẽ hất hàm ra lệnh, chú Sato liền bắt đầu làm việc.
Chú mang ra một hộp sắt mỏng, cỡ đủ bê bằng hai tay, bên trong gắn kha khá móc để lắp linh kiện và dây nối. Chú Sato cho chúng tôi xem thao tác khoét một lỗ hình vuông trên thành hộp. Việc cần làm không khó, nhưng lệch vị trí một chút thôi là coi như hỏng cả công đoạn.
Chúng tôi bước tới, tự động lấy đủ dụng cụ cần thiết mà không cần giải thích gì thêm, thực hiện chính xác thao tác vừa rồi trên hai, ba hộp khác.
Hai đứa cũng dễ dàng hoàn thành yêu cầu tiếp theo là hàn vỏ ngoài của một thứ gì đó hình bán cầu. Nhưng vật hình trụ màu cam cao gần bằng người lớn xuất hiện trong thử thách cuối cùng quả thật đã khiến chúng tôi bất ngờ. Lắp ráp cánh đuôi, kết nối với máy tính xách tay để kiểm tra hoạt động của các linh kiện điện tử vốn là việc tôi và Takuya có thể thực hiện.
Nhìn chúng tôi thao tác trong bộ dạng thấp thỏm, ông Okabe bảo, "Con nít mà làm được thế này là giỏi đấy."
"Nhưng đây là..." Takuya nói nhỏ.
"Phải, tên lửa tự hành."
"Chậc, biết ngay mà!" Chống tôi lớn tiếng kêu lên quên cả dè chừng.
Ông Okabe gãi cằm sồn sột, thích thú nói, "Hai đứa làm việc ở đây đi. Giờ ta đang thiếu người. Rồi chúng bay muốn nhôm, mô tơ hay cái gì ta cũng bán cho với giá gốc. Công việc nguy hiểm nên lương không xoàng đâu."
Chúng tôi nhìn nhau.
Mọi thứ tình cờ đến thú vị.
Có vẻ cả tôi và Takuya đều được lòng mấy ông chú trong xưởng rồi.
Sau đó chúng tôi nhận tủ đồ và bộ đồ lao động liền thân, bắt đầu đến xưởng Emishi làm việc để kiếm tiền vào chiều Chủ nhật hoặc kì nghỉ dài.
Từ mùa đông năm lớp Bảy đến mùa xuân năm lớp Tám, chúng tôi vừa làm việc, vừa mượn một góc xưởng để sửa thiết kế (khi đó tuyết phủ dày nên hai đứa không thể lên nhà ga bỏ hoang). Đôi lúc, chú Miyakawa và chú Sato cầm bản vẽ lên vạch lỗi. Chuyện này khiến chúng tôi khá bực bội, nhưng rõ ràng lời họ nói là đúng, chưa kể họ còn thoải mái chỉ dạy nhiều kĩ thuật và kiến thức về thiết kế mà hai đứa không biết, nên cuối cùng chúng tôi vẫn nghe theo lời khuyên của họ với thái độ biết ơn.
Tuy nhiên, cũng có những lời khuyên mà chúng tôi nhất quyết không tiếp thu.
Chuyện xảy ra vào kì nghi đông năm lớp Tám. Từ sáng đến chập tối, tôi và Takuya lo hoàn thiện và kiểm tra thành phẩm tên lửa tự hành. Quan hệ ngoại giao Mỹ-Nhật và Liên bang dần trở nên căng thẳng, lượng công việc ở xưởng Emishi cũng ngày một tăng. Công đoạn chúng tôi phụ trách là phần nhẹ nhàng và đơn giản nhất, tuy không bận tối mắt đến độ phát hoảng, nhưng mỗi khi có thời gian rảnh, hai đứa đều bị gọi vào làm đỡ việc của nhân viên chính thức. Ngơi tay một lúc là tên lửa tự hành chất trên xe đẩy lại lũ lượt được chuyển vào. Công việc khá vất vả, phải dùng đầu óc tính toán xem tiến hành thế nào cho hiệu quả.
Giờ giải lao, tôi hỏi ông Okabe xem giá dầu hỏa khoảng bao nhiêu, vì sớm muộn cũng phải mua. Ông Okabe ngờ vực hỏi lại, không lẽ hai đứa định làm máy bay phản lực thật?
"Nghe đây, chỉ cân hai đứa trả tiền, ta sẽ bán cho cả dầu hỏa lẫn nitroglycerin." Ông Okabe vừa nói vừa nhai bánh gạo rôm rốp. "Nhưng nhiên liệu phản lực đắt lắm, lại nguy hiểm khi rơi vào tay trẻ con. Sao không dùng động cơ pit tông hoặc mô tơ siêu dẫn ấy?"
Chất lỏng không màu, nhạy nổ, có nhiều ứng dụng trong thuốc chữa bệnh, thuốc nổ, phá hủy công trình...
"Không ạ, đấy là điểm mấu chốt mà bọn cháu tuyệt đối không nhượng bộ," Takuya đáp.
"Hừm..." Ông Okabe lẩm bẩm, hình như còn định mắng bọn tôi tội hỗn láo, ngồi phịch xuống chiếc ghế xếp làm nó kêu lên cọt kẹt. Chiếc ti vi mono nhỏ cạnh lò sưởi đang đưa tin về tình hình huấn luyện cất cánh khẩn cấp ở căn cứ Mizawa. "Sao cứ phải là động cơ phản lực?"
Sử dụng hệ thống âm thanh đơn kênh (âm thanh phát ra từ nguồn âm duy nhất nằm ở một điểm cố định).
"Vì nó ngầu ạ!"
"Vì nó ngầu ạ!"
Tôi và Takuya đồng thanh đáp. Nói xong mới thấy sai sai, tôi vặn lại "Không phải thế!", Takuya cũng phủ nhận "Không phải thế!" gần như cùng lúc.
"Chờ đã Hiroki, còn nhiều nguyên nhân khác cơ mà."
"Đúng rồi, thành quả suy nghĩ rất lâu của bọn cháu đấy ạ "
"Gì nhỉ, lý do chọn động cơ kép ấy?"
"Ừm, vì cái đó."
"Đúng rồi, cái đó."
"Vì muốn cho nó biến hình!" Chúng tôi lại đồng thanh.
"Khoan, cũng không phải. Có nguyên cớ hẳn hoi nên bọn mình mới thống nhất cho nó biến hình mà?" Takuya nói.
"Thế hả?"
"Này, chúng bay có biết động cơ phản lực giá bao nhiêu không?" Ông Okabe chen vào.
"Bao nhiêu ạ?"
"Cái giá đủ làm hai đứa tỉnh mộng ngay lập tức."
Tôi tiu nghỉu. Takuya cũng im lặng.
Thời sự chuyển sang trình chiếu đoạn phim về cuộc diễn tập quy mô lớn đang diễn ra tại bãi phóng tên lửa Amagamori. Rất nhiều tàu chiến phục vụ huấn luyện neo dọc bờ biển Kibishiro, liên tiếp phóng ra CHUKAR IV và Firebee màu cam.
CHUKAR và Firebee là hai loại phi cơ phản lực không người lái với tên gọi "bia bay". Người ta coi chúng như máy bay địch rồi bắn hạ. Những chiễc phi cơ này được sản xuất chỉ để phục vụ mục đích diễn tập. Tên lửa đất đối không xuất phát từ bờ biển Amagamori, lao vút lên trời, kéo theo vệt lửa ở phía đuôi. Hình ảnh Firebee phát nổ do trúng đạn ở chính giữa phần thân hình trụ hay CHUKAR rơi xuống rừng khi bị bắn thủng cánh được quay cận cảnh.
"Phí thật..." Tôi thì thầm. "Toàn bộ chỗ máy bay đó được chế tạo làm mục tiêu bắn hạ. Đằng nào cũng bỏ đi, cho mình một chiếc có phải hơn không..."
Tôi tưởng sẽ bị vặn vẹo "Cậu ăn nói hồ đồ gì thế?", nhưng Takuya lại tròn mắt nhìn tôi.
"Chính nó."
"Hả..."
Tôi hiểu ngay Takuya đang nghĩ gì.
"Muốn làm gì thì làm... Dường như nhìn thấu ý định của chúng tôi, ông Okabe uể oải lên tiếng. "Hai đứa đừng có chết ra đấy là được. Phiền lắm."
Hôm sau, tôi và Takuya đón tàu từ sáng sớm đến Mizawa, chuyển sang xe buýt du lịch rồi xuống ở trạm Amagamori. Nhìn quanh một lúc, thấy không có ai để ý, chúng tôi trèo qua hàng rào lừng lững đề dòng chữ "Bộ Phòng vệ". Rồi hai đứa đi lòng vòng cả ngày trong cánh rừng sâu hun hút dày đặc cây cối, gần như chẳng xác định phương hướng. Tuyết trắng xóa phủ lên rừng cây lá kim màu xanh đen, tạo ra sự tương phản mạnh mẽ, bủa vây tứ phía trong thời gian dài làm tôi chóng mặt. Nếu bị nhân viên của bãi phóng tên lửa hay lính Phòng vệ bắt được, chắc chắn hai đứa sẽ gặp rắc rối to, vì thế tôi phải liên tục cảnh giác.
Mặt trời sắp lặn hẳn. Khi sắp bỏ cuộc, tôi bỗng nhác thấy một vật màu cam, cả người run lên. Chính là chiếc CHUKAR IV bị bắn rơi. Nó nằm như gối đầu lên rễ cây. Bia bay được thu hồi ngay sau khi bị hạ, nhưng Takuya đoán chắc trong số đó có thứ còn sót lại. Tôi định gọi Takuya thì cậu nhỏ giọng bào "Ê". Cậu cũng tìm thấy một chiếc CHUKAR, cách chỗ tôi khoảng hai mươi mét. Chúng tôi đã phát hiện những hai thứ cần tìm chỉ trong một lần.
Bọn tôi xem xét hai chiếc máy bay. Một chiếc đã hỏng hoàn toàn, nhưng chiếc còn lại gần như không hư hại, có thể tái sử dụng. Tôi và Takuya lấy ni lông phủ lên thân máy, dùng dây buộc lại để che kín. Thế rồi chúng tôi kéo nó ra khỏi rừng mà chẳng bị ai nhìn thấy.
Nhìn hai thằng học sinh cấp hai bê một vật hình trụ to trông như tên lửa, chắc chắn người ngoài sẽ cảm thấy bất thường. Trời sâm sẩm tối nên tôi phần nào yên tâm khi đi bộ trong phố, nhưng khi lên xe buýt, qua cửa soát vé, rồi lúc nhân viên soát vé tới kiểm tra đột xuất, quả thật tôi không khỏi lo lắng. Tôi liên tục nhủ thầm trong lòng như niệm thần chú, "Mình không làm gì khuất tất, mình không làm gì khuất tất."
Về đến Minmaya, đi qua cửa soát vé, tôi mới nhẹ nhõm bật ra tiếng thở sâu khó nhọc. Tôi và Takuya đi bộ trên con đường ruộng tối mịt, vác theo chiếc CHUKAR, mang nó về gara nhà tôi. Hôm sau chúng tôi kiểm tra, thấy động cơ vẫn hoạt động tốt. Vậy là hai đứa chỉ tốn vài nghìn yên tiền tàu xe mà vẫn kiếm được động cơ phản lực.
Sau này, khi nghĩ về Sayuri nhiều hơn tôi mới để ý, hình như sức khỏe cô không tốt. Cô ít nghỉ học, nhưng về sớm khá nhiều. Có vài lần cô chỉ có mặt trong giờ sinh hoạt buổi sáng rồi lại vào phòng y tế nằm. Bấy giờ, những người xung quanh gồm cả tôi chỉ nghĩ, Sayuri là con gái nên đó cũng là chuyện bình thường.
Nhờ bài tiểu luận môn Ngữ văn về Miyazaki Kenji mà tôi và Takuya trở nên thân thiết hơn với Sayuri, thi thoảng có nói chuyện với nhau.
Nhưng tất nhiên sự thân thiết đó không thực sự sâu sắc. Dù gì đi nữa, chúng tôi mới chỉ học cấp hai, ở lứa tuổi ấy giữa con trai và con gái vẫn có một bức tường vô hình ngăn cách. Tôi và Takuya đều thấy chơi với đám con trai thoải mái hơn nhiều. Dĩ nhiên Sayuri cũng có bạn cùng giới, cũng có vẻ khá thân với những cô bé đó.
Mọi sự bắt đầu bị xáo trộn khi chúng tôi lên lớp Chín.
Lại chuyển lớp. Đó là lần đâu tiên tôi và Takuya không còn học chung. Đúng là chúng tôi có thấy tiếc, nhưng hai đứa vẫn thường xuyên gặp nhau ngoài trường, học khác lớp cũng không làm tình bạn giữa chúng tôi thay đổi. Tôi là đứa dễ quen thân, nên ngay lập tức có bạn chơi cùng trong lớp mới. Takuya vẫn là Takuya, trở thành nhân vật trung tâm của lớp bên cạnh theo cung cách thường thấy.
Sayuri và tôi được xếp chung lớp. Tôi vui thầm vì điều đó, nhưng phần nào cũng cảm thấy tội lỗi. Cứ như tôi đang chơi xấu bạn mình... Thêm nữa, theo những gì tôi thấy, từ mùa xuân năm đó Sayuri bắt đầu tách khỏi đám con gái trong lớp. Tôi không rõ lý do, cũng không tiện hỏi cô.
Quan hệ bạn bè ở trường là thứ rất khắc nghiệt. Khi không kết bạn được trong vòng một hai tuần sau khi chuyển lớp, người ta sẽ phải chật vật suốt phần còn lại của năm học. Có thể đó chính là vấn đề của cô.
Sayuri rất đẹp, nhưng dường như cô không tự ý thức được điều ấy. Có lẽ vẻ đẹp của cô đã khiến đám bạn gái khó chịu. Đôi khi sức hấp dẫn toát ra trong vô thức sẽ gây ra ác cảm trong mắt bạn cùng giới.
Sayuri thuộc kiểu người có thể ghi nhớ giấc mơ của mình, đôi khi cô còn kể lại nội dung giấc mơ cho tôi và Takuya nghe. Cô thích nói về chúng. Nhưng cũng có người chẳng ưa loại chuyện không đầu không đuôi như thế. Nói chung, nếu suốt năm lớp Tám Sayuri vẫn về cùng chuyến tàu với bạn, thì từ mùa hè năm lớp Chín cô luôn về một mình.
Đến tôi còn nhận ra thì hẳn Takuya cũng biết, dù học khác lớp. Có lẽ đây là một phần lý do khiến cậu cố tình kéo cô vào kế hoạch bí mật của chúng tôi.
Đó là một ngày đầu tháng Bảy nóng bức, nắng chói chang. Quá trình chế tạo máy bay kéo dài gần một năm rưỡi của chúng tôi tiến triển đều đặn, giờ đã bước vào giai đoạn phủ lưới nano bọc ngoài lên bộ khung. Đây là phần việc thú vị nhất. Ngoại quan của cỗ máy thay đổi hoàn toàn, bắt đầu ra dáng phi cơ. Ngày nào cũng vậy, hết giờ học là tôi và Takuya nhanh chóng chạy đến nhà ga bỏ hoang, miệt mài gia công phần vỏ.
Lẽ ra hôm ấy chúng tôi cũng làm việc tương tự. Hết tiết sáu, tôi vội vàng rời phòng học, mắt liếc nhìn gần như cả lớp kéo nhau tham gia giờ luyện thi. Khi sắp ra đến cửa, tôi nghe Sayuri gọi.
"Fujisawa, mình cũng đi."
Giật mình vì nhiều lý do khác nhau, tôi đứng sững như trời trồng.
"Đi đâu cơ? Sawatari..."
"À. Chỗ Fujisawa ngày nào cũng đến ấy. Hôm qua Shirakawa rủ mình. Bạn ấy bảo sẽ cho mình xem một thứ rất hay."
"Thứ rất hay ư..." Tôi bối rối, không biết nói gì tiếp.
Việc Takuya rủ Sayuri đến nhà ga bỏ hoang mà chẳng thèm báo trước là cú sốc khá nặng nề đối với tôi. Nếu để lộ điều đang làm, hẳn chúng tôi sẽ gặp rắc rối lớn. Tôi không nghĩ Sayuri lại đi kể lung tung, nhưng ai biết bí mật có thể rò rỉ bằng cách nào hay vì nguyên cớ gì. Hành động tiết lộ thành quả làm việc lẫn nơi chốn quý giá của cả hai với một đứa con gái cũng thật khó chấp nhận. Thẳng thừng mà nói...
Cái quần què gì thế?
... chính là tâm trạng của tôi lúc ấy.
Nhưng tới nước này, nếu tôi còn từ chối đưa cô đi cùng, chuyện sẽ càng thêm phiền toái.
Sayuri vờ như không nhận ra thái độ khác thường cùa tôi.
"Nào, mau đi thôi."
Cô lên tiếng thúc giục với đôi mắt tròn đáng yêu, đầy chân thành. Tôi đành đầu hàng, dẫn theo cô rời khỏi trường.
Ra ga Minami Yomogita, tôi đợi Sayuri mua vé nối chuyến tới Tsugaru-Hamana rồi cùng cô sang đứng ở sân ga hướng tàu đi. Takuya đến muộn, một lúc sau mới xuất hiện ở cửa soát vé. Sayuri gọi tên cậu, vẫy tay. Tôi nhướng mày lên hết cỡ, lườm cậu từ góc độ mà Sayuri không nhìn thấy.
Xin lỗi.
Takuya ngầm nói với tôi điều đó qua nét mặt cùng cái phẩy tay yếu ớt. Chúng tôi chơi thân mấy năm nay nên chẳng cần lên tiếng vẫn hiểu nhau nhờ cử chi. Có vẻ Takuya cũng không lường trước tình huống bất ngờ này.
Khi lên tàu, tất nhiên ba chúng tôi ngồi chung một khoang ghế. Suốt quãng đường vài chục phút dẫn đến ga Tsugaru-Hamana, chúng tôi nói toàn chuyện phiếm. Chương trình tạp kĩ nào hay, nghệ sĩ kia ra sao... chẳng hạn. Dường như Sayuri thích giữ bất ngờ đến phút cuối, nên cô không mảy may thắc mắc mình đang đi đâu hay sắp được xem thứ gì. Vì thế tôi và Takuya vô cùng biết ơn. Trong lúc kể vài chuyện linh tinh, tôi rất muốn chất vấn Takuya cho ra lẽ "Tại sao Sayuri lại xuất hiện ở đây thế này?", nhưng đương nhiên không thể hỏi trước mặt cô.
Khi tới ga Tsugaru-Hamana, Sayuri bảo chúng tôi, "Vé của mình mắc dưới đáy túi mất rồi." Tôi và Takuya tận dụng cơ hội, bước xuống sân ga trước. Rồi tôi nhỏ giọng nói.
"Này, cậu tự tiện bày trò gì vậy hả?"
"Đâu còn cách nào khác... Chuyện gì đến phải đến thôi."
"Chuyện gì đến phải đến là sao?"
"Không giải thích rõ được, nói chung tôi buộc phải làm thế. Bỏ qua đi."
"Nghe cậu nói tôi chẳng hiểu gì cả." Tôi định vặn hỏi thêm, nhưng đúng lúc đó Sayuri xuống tàu nên đành giữ miệng.
Có vẻ Sayuri biết chúng tôi sẽ ghé qua chỗ làm thêm, nên cô vào tiệm tạp hóa trước ga mua kem làm quà. Tôi và Takuya đứng đợi ngoài cửa hàng, tiếp tục cuộc trò chuyện bí mật.
"Đem khoe cái đó là bị hỏi hết nước hết cái đấy. 'Tại sao', rồi đủ thứ." Tôi nói nhỏ.
"Tôi biết..." Takuya thấp giọng đáp.
"Trả lời sao đây?"
"Kể luôn vụ bay đến chỗ tháp được không?"
"Vụ đó gay đấy..."
"Công nhận. Nhưng nếu bị hỏi điểm đến thì phải trả lời thế nào?"
"Đồ đần, cậu đi mà nghĩ."
"Ai đần hả, đồ đần."
Nghe tiếng Sayuri cất lên rất gần, chúng tôi đồng thanh đáp. Cô đứng trước mặt cả hai từ lúc nào, tay giơ cao túi ni lông. Đang cúi người, chúng tôi bất giác vuơn thẳng lưng. Hai đứa đông cứng trong tư thế đó, im lặng một lúc rồi cùng cười cho qua chuyện, như thể đã mưu tính từ trước. Sayuri bị chọc cười theo, khúc khích nói.
"Fujisawa với Shirakawa thật là kì quặc."
Giọng cô vô cùng dịu dàng, tựa hồ xấu hổ, làm chúng tôi nhận ra trên đời còn có cách nói chữ "kì quặc" như vậy.
Khi đến được xưởng Emishi, mồ hôi rịn ra dưới lần áo sơ mi, chúng tôi thấy ông Okabe đang dùng vòi phun tưới sân. Chắc do không chịu nổi cái nóng, ông cởi hết hai bên tay áo của bộ đồ liền thân, ở trần, dưới chân là lon bia. Nghe chúng tôi chào từ xa, ông vừa đáp "ừ, nóng quá nhỉ" vừa quay lại. Nhìn thấy Sayuri, ông giật mình.
Sayuri lễ phép cúi chào một cách từ tốn, "Cháu chào bác, cháu xin phép làm phiền ạ."
"Ấy, không, bác xin lỗi..."
Ông Okabe luống cuống chưa từng thấy, vội vàng xỏ lại cánh tay vào tay áo của bộ đồ liền thân, kéo khóa lên. "À... Cảm ơn cháu luôn giúp đỡ hai thằng ngốc này..."
Nhìn mặt ông Okabe từ từ dãn ra, ửng đỏ, tôi kêu thầm trong bụng.
Này này...
Lần lượt nhận lấy phần kem que được chia, tôi vì Takuya dựa vào cái cây to giữa vườn. Đứng dưới bóng râm, không khí mát mẻ hẳn. Chỗ này đã có khách ghé thẳm trước, chính là con mèo hoang nhỏ sống dưới mái nhà xưởng, đang cọ lưng xuống thảm cỏ. Thấy chúng tôi lại gần, con mèo thoáng giật mình nhưng lại yên tâm ngay, tiếp tục gãi lưng.
Chúng tôi vừa gặm kem vừa quan sát động thái của ông Okabe. ông vẫn đang mải nói chuyện với Sayuri băng vẻ mặt ngượng ngùng.
"Ông Okabe ấy..." Tôi bâng quơ hỏi Takuya.
"Sao?"
"Hình như vẫn độc thân nhỉ?"
"Không, tôi nghe đồn ông ấy từng ly dị."
"Nghe cũng có vẻ hợp lý..."
Ông Okabe đang mất bình tĩnh hay đang căng thẳng trước cô bé nhỏ tuổi? Câu hỏi ấy cứ luẩn quẩn mãi trong đầu tôi. Tôi cũng không rõ Sayuri liên tục cười khúc khích vì câu chuyện của ông buồn cười, hay vì chính ông là người thú vị.
"Đúng là ông chú kì quặc..."
Buột miệng nói ra, tôi mới nhận thấy cách nói của mình không đủ thân thiện. Có thể coi phần thiếu hụt đó là khiếm khuyết, tuy rất nhỏ.
Takuya cắn một miếng kem, thả xuống cho con mèo. Nó lại khẽ giật mình rồi rón rén đến gần, bắt đầu ăn.
"Oa, nó ăn kem kìa." Takuya thốt lên ngạc nhiên, dù chính cậu cho nó kem.
"Con mèo kì quặc."
Tôi thử lẩm bẩm lần nữa, vẫn thấy chưa đủ dịu dàng.
Khi chúng tôi mở cửa xưởng máy bay gần nhà ga bỏ hoang, Sayuri chăm chú nhìn vật thể nằm giữa không gian tối mờ bên trong, cất bước tiến vào. Rồi cô quay đầu lại, đưa đôi mắt vốn đã to nay còn mở tròn xoe nhìn chúng tôi.
"Tuyệt quá... Đây là máy bay sao?"
"Đúng thế." Takuya đáp bằng giọng bình thản.
"Hai bạn tự làm ư?" Sayuri nhìn tôi, hỏi.
"Ừ. Bọn mình bắt đầu chế tạo từng bộ phận từ hè năm lớp Bảy. Vừa làm thêm ở xưởng dưới kia vừa tìm mua vật liệu, xin ý kiến ông Okabe và những người khác trong lúc tiến hành. Nói vậy đúng chưa?"
"Rồi." Takuya gật đầu.
"Vẫn còn rất nhiều phần chưa hoàn thành." Tôi nói ra sự thật mà chỉ nhìn cũng đủ hiểu.
Sayuri lại gần chiếc máy bay được phủ vỏ dang dở, từ từ vươn tay ra. Rồi nhớ ra điều gì đó, cô rút tay lại,
"Mình sờ được không?"
"Bạn sờ qua hoặc vỗ nhẹ thì được, không hỏng đâu." Takuya nói.
Sayuri chạm đầu ngón giữa vào lớp vỏ bằng lưới nano.
Tôi đăm đăm nhìn cảnh tượng lúc ấy. Có gì đó vừa xảy ra. Tôi dám chắc như vậy. Khoảnh khắc đầu ngón tay Sayuri chạm vào chiếc máy bay, toàn thân cô run lên như vừa bị điện giật. Sayuri ngạc nhiên, lập tức rụt tay lại.
"Này..."
"... bạn có sao không?" Tôi định hỏi thế, nhưng rồi lại thôi. Cô đặt hai lòng bàn tay lên thân máy bay, cảm nhận xúc cảm lạnh lẽo. Rồi cô tiến tới gần hơn như muốn dựa vào chiếc phi cơ, nhắm mắt, áp má vào nó. Tôi nghe cô thở dài.
Sayuri mặc bộ đồng phục thủy thủ màu trắng, má tựa vào chiếc máy bay trắng tinh.
Lúc đó, trong mắt tôi, Sayuri và chiếc phi cơ màu trắng như hòa làm một. Hoặc có thể ví cảnh tượng ấy với hình ảnh cặp song sinh gặp lại nhau sau thời gian dài chia cắt. Dường như cả hai đang trò chuyện mà không dùng đến lời nói. Chiếc máy bay vốn vô tri nay chẳng khác nào vật thể sống.
Thế rồi tôi ngỡ ngàng nhận ra, mọi nỗ lực làm nên chiếc phi cơ cho đến giây phút này đều là vì cô. Một thế lực thần bí nào đó thuộc về định mệnh đã sai khiến chúng tôi chế tạo máy bay cho cô. Ý nghĩ mơ hồ ấy trào lên trong tôi.
Không hiểu sao tôi thấy hơi sợ, quay sang nhìn Takuya. Cậu đang bật công tắc bộ điều giải, kết nối với máy tính xách tay để khởi động. Tôi im lặng kéo tay áo cậu. Takuya cằn nhằn quay lại, "Có chuyện gì?" Nhìn đáng vẻ của Sayuri, cậu trợn to mắt.
Modem, thiết bị điều chế sóng tín hiệu.
Sayuri hé mắt.
"Tuyệt thật đấy..."
Cô nhỏ giọng thì thầm, như đang nói chuyện bí mật.
"Phải không... Thực sự tuyệt vời."
Tiếng cô rất khẽ, vậy mà tôi ngỡ như nghe được ngay bên tai. Tôi cảm thấy toàn thân nổi da gà. Trong lúc cố trấn tĩnh, khó khăn lắm tôi mới nói được câu cảm ơn, đáp lại lời khen của cô.
Do không thể phớt lờ Sayuri mà chú tâm làm việc, ngày hôm đó tôi không động đến chiếc máy bay. Tôi, Takuya và Sayuri ngồi trên sân ga bỏ hoang, khi thì ném đá xuống hồ, khi thì vừa ngắm những cột mây vũ tích cuộn xoáy ở đằng xa, vừa thong thả hóng mát. Sayuri bảo cô muốn thử câu cá, vì vậy tôi vào xưởng lấy cần câu và mồi giả, dạy cô cách quăng dây. Sau cùng cô chẳng câu được con nào, nhưng vẫn có vẻ hài lòng.
Loại mây phát triển dày đặc theo phương thẳng đứng, cao tới hàng kilomet, thường có hình tháp, hình nấm... có khả năng sản sinh sấm sét và các loại thời tiết tiêu cực như gió giật, mưa đá, lốc xoáy.
"Mình biết cách quăng dây theo ý muốn rồi." Cô nói. Tôi nằm lim dim trong bóng râm của sân ga, nhìn lên không trung. Vầng dương càng lúc càng ngả về phía Tây, bầu trời bắt đầu nhuốm sắc đỏ. Hai vệt mây do máy bay để lại trải dài về phía Đông Nam. Takuya ngồi đọc sách ngay bên cạnh tôi. Sayuri cởi giày tất, ngồi xuống mép sân ga bê tông, thò chân khuấy động mặt nước bên dưới.
"Chỗ này rộng thật..." Sayuri nói. "Lại không có ai cả. Tại sao hai bạn biết chỗ này vậy?"
"Kể ra dài lắm." Tôi nói.
"Không tóm gọn được sao?"
"Tóm gọn thì là do tình cờ."
"Này, hai bạn có thấy nó giống chốn trong thần thoại không?"
"Thần thoại..." Takuya ngẩng mặt khỏi quyển sách.
"Ừ. Như ở Anh hay Bâc Âu ấy. Có người lạc vào xứ sở kì lạ không ai biết đến khi đang đi trong rừng. Xưa kia tiên từng sống ở đó, nhưng giờ không còn nữa."
"Ừm..." Takuya mập mờ gật đầu.
"Người đó ra sao sau khi lạc?" Tôi hỏi.
"Tất nhiên là không tìm được đường ra." Sayuri thản nhiên đáp. "Chẳng rõ tung tích. Biến mất trong thần bí. Sau đó một mình ở lại ngôi làng của tiên bấy giờ đã trống vắng, câu cá hái lượm mà sống."
"... Nghe không vui lắm nhỉ?" Tôi nói.
"Vậy sao..."
"Mình thấy nó giống chuyện cổ tích." Takuya nói.
"Thế à..." Sayuri thoáng tỏ ra phật lòng. "Mình lại nghĩ, đi lạc vào xứ sở kì lạ như vậy là chuyện vô cùng thú vị."
"Bọn mình mà không thể ra khỏi đây là gay đấy." Takuya nói. "Bây giờ thì không sao, nhưng mùa đông tuyết rơi dày lắm. Chẳng đi đâu được, xưởng máy bay lại đầy khe hở cho gió lùa vào. Tuyệt đối không phải chỗ để ở đâu."
Sayuri mím đôi môi nhỏ nhắn, "Không nghĩ theo hướng thực tế cũng được mà. Mình chỉ đang ví von thôi"
"Ừ, có lẽ thế." Takuya gật đầu.
"Chưa kể, hai bạn có thể bay đi bằng phi cơ bất cứ lúc nào kia mà." Sayuri tròn mắt nói như vừa sực nghĩ ra. "Này, khi nào hai bạn hoàn thành chiếc máy bay?"
Tôi ngồi dậy, khoanh chân trên nền bê tông, duỗi thẳng lưng. "Thật ra bọn mình muốn làm xong trong là nghỉ hè, nhưng mà..."
Takuya tiếp lời, "Chắc là không kịp. Có vẻ còn mất thêm nhiều thời gian nữa. Nói chung, mục tiêu là trong năm nay."
"Vậy à... Còn lâu quá nhỉ..."
Tiếng sấm ì ầm thoáng vọng đến từ xa. Tôi nhìn trời một vòng. Khối mây vũ tích dựng đứng như tảng kem ở phía Bắc đã chuyển sang màu xám đậm từ bao giờ. Lúc này đám mây ở ngay chỗ ngọn tháp. Nó vừa quấn lấy phần chân tháp, vừa chậm rãi trôi về phía Đông. Nếu đằng đó có người, hẳn họ đang khốn đốn vì mưa lớn và sấm sét.
"Này, hai bạn sẽ đi đâu trên chiếc máy bay đó?" Sayuri hỏi.
"Đến chỗ ngọn tháp kia." Tôi đáp.
Vai tôi bị chọc mạnh từ phía sau. Nhìn nét mặt khó coi của Takuya, tôi nhận ra mình vừa lỡ tiết lộ bí mật động trời. Tôi đang mải nhìn ngọn tháp, câu hỏi của Sayuri lại quá đỗi tự nhiên, làm tôi trả lời trong vô thức. Tôi tự thấy không ổn, định chữa lời nhưng đã quá muộn.
"Tháp bạn nói là tháp Liên bang ư?" Sayuri đột nhiên nhoài người về phía chúng tôi.
Tôi và Takuya nhìn nhau chưa đến một giây. Cái nhìn ấy có ý nghĩa xác nhận. Rồi chúng tôi quay sang Sayuri, cùng lúc gật đầu đáp "ừ".
Takuya nói. "Bọn mình tính có thể bay tới tháp trong khoảng bốn mươi phút."
Tôi cũng lên tiếng. "Vấn đề là vượt qua biên giới bằng cách nào. Nhưng bọn mình cũng có ý tưởng rồi."
"Hay quá... Thật vậy sao...?"
Nghe xong kế hoạch của chúng tôi, Sayuri không hề lo lắng hay nói lời can ngăn. Cô chỉ mừng rỡ thốt lên "Tuyệt quá, tuyệt quá" như đứa trẻ. Nhờ vậy, chúng tôi có thể yên tâm mở lòng với cô.
"Tuyệt thật đấy, hay thật đấy, Hokkaido..."
Chúng tôi nói ra điều hiển nhiên phải nói vào những lúc như thế này, "Sawatari cũng đi chứ?"
"Mình ư? Có được không?"
Tôi lập tức gật đầu. Đúng lúc Takuya cũng nói "ừ".
"Thật sao? ừ, mình sẽ đi. Mình muốn đi." Sayuri nhích đầu gối, tiến tới ngay trước mặt chúng tôi, ngồi quỳ trên hai chân, "Ôi, cảm ơn hai bạn nhé!"
"Nhưng nó có thể rơi giữa đường đó." Takuya nói.
"Không sao. Nó không rơi đâu."
"Tại sao?"
"Mình biết mà."
Nghe Sayuri vô tư nói thế, chúng tôi liền cảm thấy đó như lời tiên đoán xác thực. Máy bay của chúng tôi sẽ không rơi, bởi Sayuri đã tin như vậy...
"Này, hai bạn hứa đi." Sayuri nói.
"Hứa?" Tôi hỏi lại.
"Phải." Rằng nhất định hai bạn sẽ đưa mình đến Hokkaido. Hứa đi."
"Được." Tôi gật đầu.
"Nhất trí. " Takuya nói.
"Thật nhé, chắc chắn, chắc chắn đấy nhé." Sayuri lại khẩn thiết xác nhận.
Thấy cô quả quyết đến thế, tôi thực tâm vui mừng, có động lực hoàn thành lời hứa. Tôi còn muốn tặng thêm quà cho cô.
"Nếu bạn đã nói vậy, chúng mình hãy làm đi , đánh dấu lời hứa này đi."
"Đánh đấu?"
"Máy bay vẫn chưa có tên. Takuya, được không?"
"Ừ." Cậu gật đầu.
"Sawatari nghĩ giúp bọn mình đi."
"Ơ, nhưng, chuyện này... Nó là máy bay của hai bạn mà."
"Nếu không làm thế, bọn mình sẽ quên mất lời hứa đấy." Takuya dùng giọng trêu đùa nói một câu nghe như hù dọa.
"Sao cơ, không chịu đâu." Cô liền phản ứng.
"Nhưng đột ngột bảo mình đặt tên thì..."
"Không cần ngay bây giờ đâu."
"Chờ đã, để mình nghĩ, ừm..."
Sayuri đăm chiêu hồi lâu. Trong chốc lát, cô lẩm nhấm hàng loạt lựa chọn khác nhau. Cuối cùng, cô thì thầm một từ có âm hưởng hoàn toàn lạ lẫm với chúng tôỉ.
"Từ này xuất hiện trong một cuốn sách mình từng đọc, nghĩa là 'Đôi cánh trắng'."
Velaciela, cô nói.
Nó đã trở thành tên của lời hẹn ước.
Sau đó, ba chúng tôi sóng bước trên thảo nguyên, dưới ráng chiều đỏ thẫm. Chúng tôi đi xuống theo đường núi, chốc chốc lại chực vấp ngã, về đến xưởng Emishi lúc mặt trời gần như đã lặn hẳn. Tôi thở phào khi thấy ánh đèn hắt ra từ cửa sổ nhà xưởng và văn phòng.
Chào ông Okabe xong, chúng tôi đi qua phố mua sắm Okawadai, ra ga Tsugaru-Hamana, tiễn Sayuri ở sân ga nơi cô đón chuyến tàu về Nakaoguni. Dù đã lên tàu, ngồi xuống ghế, cô vẫn không ngừng vẫy tay với chúng tôi qua cửa sổ.
Tàu rời đi, tôi và Takuya sang sân ga bên cạnh, chờ thêm một lúc rồi bước lên chuyến tàu đi Minmaya.
"May mà cậu rủ bạn ấy đến." Tôi nói. Takuya gật đầu ra vẻ kiểu cách.
Chiếc quạt máy treo trên trần toa quay tròn. Tôi và Takuya chìm trong im lặng, chẳng vì lý do nào cụ thể. Takuya thẫn thờ nhìn cửa sổ, lúc này trông như một tấm gương. Tôi lơ đãng ngắm chiếc quạt đang quay, đều đều thở sâu trong tâm trạng thỏa mãn.
Không phải nhờ câu chuyện thần thoại của Sayuri, mà là vì tôi cảm thấy, khoảng thời gian thư thả ở nhà ga bỏ hoang hay sự im lặng dễ chịu trên tàu điện lúc này sẽ kéo dài mãi mãi. Ngày mai, ngày kia, sang năm, rồi cả sau này nữa.
Kể từ hôm ấy, ngọn tháp bên kia mây trời, chốn tôi hằng ngưỡng vọng, đã trở thành nơi hẹn ước quan trọng đối với tôi.
"Hai bạn hứa di."
Vào khoảnh khắc gật đầu nhận lời Sayuri không chút do dự, dường như chúng tôi chẳng sợ hãi bất cứ điều gì.
Thật ra, thế giới và lịch sử sắp chuyển mình ở rất gần. Nhưng khi ấy, trong cảm nhận của tôi, thế giới chỉ bao gồm hương đêm tràn ngập con tàu, niềm tin dành cho bạn mình và hình bóng Sayuri thấp thoáng. Không, phải nói rằng tôi đã thành tâm cầu nguyện, ước gì thế giới chỉ còn lại những điều đó.
Xung đột vũ trang giữa Mỹ và Liên bang ngoài khơi eo biển Tsugaru
Rạng sáng ngày 15, xung đột vũ trang giữa liên quân Mỹ-Nhật và Liên bang đã xảy ra tại vùng đệm tính từ ngoài khơi eo biển Tsugaru đến quốc lộ 42.
Theo phát ngôn của thư kí báo chí quân đội Mỹ, xung đột xảy ra với quy mô rất nhỏ và mang tính tự phát. Phía đồng minh Mỹ-Nhật không có thương vong. Hiện chưa rõ số thương vong phía Liên bang.
Huy động 3300 người nhằm thắt chặt an ninh quanh Đại sứ quán Liên bang
Nhận được thông tin về vụ xung đột vũ trang giữa liên quân Mỹ-Nhật và Liên bang, Sở cảnh sát Tokyo tuyên bố điều động 3300 nhân viên an ninh canh gác quanh Đại sứ quán Liên bang nhằm ngăn chặn hành vi đánh bom của tổ chức khủng bố trong nước.
Với mục đích phản đối hoạt động thâm nhập lãnh hải của tàu tuần tra Liên bang diễn ra vào tháng Hai năm nay, tổ chức khủng bố chống Liên bang với tên gọi Mặt trận Giải phóng Uilita đã đe dọa đánh bom khủng bố, nhắm vào Đại sứ quán Liên bang. Lợi dụng vụ xung đột vũ trang mới đây, có khả năng tổ chức này sẽ lên kế hoạch thực hiện hành vi tương tự. Cảnh sát Tokyo đang tăng cường phòng bị.
Tôi biết tin này qua trang báo điện tử của tòa soạn. Ngoài khơi eo biển Tsugaru chính là vùng biển hôm qua ba chúng tôi ngắm nhìn từ nhà ga bỏ hoang. Vậy là chiến sự nổ ra tại đó sau khi chúng tôi ra về. Tôi đã ở rất gần điểm nóng chính trị quốc tế mà chẳng nhận ra, tới khi xem tin tức mới biết. Cảm giác thật kì lạ. Quả thật, thế giới và lịch sử đang xoay vần ngay bên cạnh chúng tôi. Tuy nhiên (chí ít là ở thời điểm đó), với tôi mà nói, thế giới nhỏ bé hơn và có giới hạn, chi như vật nằm gọn trong lòng bàn tay.
Tan học, tôi và Takuya đến xưởng Emishi làm. Chúng tôi vừa vào phòng chứa tủ khóa để thay đồ lao động thì chú Sato xuất hiện, nói rằng hôm nay không có việc cho hai đứa vì có vấn đề khẩn phát sinh. Chúng tôi nhiệt tình xin ở lại bưng trà rót nước hoặc phụ giúp nếu cần, nhưng chú bảo trẻ con không được biết chuyện, bắt cả hai về ngay, rồi xua chúng tôi ra ngoài.
"Họ chỉ coi bọn mình là trẻ con những lúc họ muốn thôi. Mất công đến tận đây rồi, rốt cuộc có chuyện gì? Cậu nói xem?" Tôi bùng ra bất mãn.
Hình như Takuya đang mải suy nghĩ gì đó.
"... À, xin lỗi, vừa rồi tôi không nghe cậu nói."
"Chú Sato bảo có vấn đề còn gì?" Tôi nói. "Hay bọn mình ngó qua văn phòng xem sao?"
"Không được. Tuyệt đối không được đi."
Takuya lập tức ngăn cản bằng giọng điệu khá gay gắt, làm tôi chùn bước.
"Sao vậy?"
"Tôi nghi ngờ lâu rồi, xưởng này chẳng đơn giản như bề ngoài đâu." Takuya nói với vẻ mặt đăm chiêu. "Đừng dấn sâu vào thì hơn."
Hai ngày sau, Takuya ghé qua lớp tôi.
"Không có việc thì đừng thò mặt sang lớp nhau", đó là luật ngầm giữa tôi và Takuya sau khi lên lớp Chín. Đằng nào hết giờ học cũng gặp bên ngoài, nếu trong trường còn dính như keo thì sẽ ảnh hưởng tới quan hệ bạn bè với những đứa khác.
Vì vậy, hiếm khi cậu xuất hiện trước mặt tôi trong giờ nghỉ trưa thế này.
Cậu cất tiếng gọi "Lại đây" rồi kéo tôi ra chỗ Sayuri. Cậu nhìn cô, bảo rằng có chuyện muốn nhờ.
"Nhờ mình sao? Chuyện gì vậy?"
"Mình nghe nói hôm nay câu lạc bộ âm nhạc không tập."
"Ừ. Những thành viên còn hoạt động sẽ tham gia tổng duyệt ở nhà thể chất thành phố. Sắp đến buổi diễn rồi."
"Vậy là phòng nhạc đang trống. Sawatari mang vĩ cầm theo phải không?"
"Hả, ừ." Nghe chiều hướng câu chuyện, Sayuri đã đoán ra ý Takuya. "Shirakawa, lẽ nào..."
"Mình muốn nghe thử tiếng đàn của Sawatari."
"Mình..." Sayuri suýt lớn tiếng, nhưng kịp hạ giọng vì nhớ ra xung quanh còn có người. "Mình không muốn..."
"Tại sao?"
"Xấu hổ lắm."
"Chẳng có gì phải xấu hổ." Takuya độc đoán khẳng định.
"Sao bạn lại muốn nghe? Không đáng nghe đâu." Sayuri nói.
"Phải có lý do nữa hả? Nếu không thử, làm sao mình biết nó đáng nghe hay không?"
Tôi thầm thán phục thái độ đàm phán kiên quyết của Takuya. Chắc tôi chẳng bao giờ có được khí chất đó, kẽ cả khi bắt chước cách nói chuyện của cậu.
Bâng giọng điệu điềm nhiên nhưng mạnh mẽ kia, có lẽ cậu còn lay chuyển được nhiều đối tượng nữa trong tương lai.
Nhung tôi vẫn thấy đề nghị này hơi miễn cưỡng, bèn xen vào đôi câu.
"Đàn một bản cũng được, bản bạn chơi hay nhất ấy. Cứ coi đó là buổi tập như thường lệ, bọn mình chỉ tình cờ đến xem thôi." Và bổ sung. "Mà nếu bạn thực sự không thích, bọn mình cũng chẳng ép."
"Nếu mình nhất quyết nói không muốn, hai bạn sẽ làm gì?" Sayuri hỏi ngược lại.
Tôi thăm dò nét mặt Takuya. "Tùy cậu" là câu trả lời, vì thế tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi nói.
"... Chắc bọn mình sẽ giận bạn."
"Phải chơi thật sao..." Sayuri uể oải úp mặt xuống bàn, tỏ ý chịu thua.
Mặt Takuya thoáng đắc ý như muốn nói, "Tuyệt, thắng rồi.'"
"Ừ, sau giờ học, bọn mình sẽ đến phòng nhạc."
Lúc ra về, cậu huých cùi chỏ vào cánh tay tôi, nói khẽ "Tiếp ứng được lắm".
Mở cánh cửa kéo bằng gỗ dày cộp của phòng nhạc, chúng tôi thấy Sayuri đã tới trước, đứng cúi đầu tựa vào cây đại dương cầm.
Cửa sổ mở toang, gió thổi vào làm tầm rèm trắng đung đưa. Tôi thở phào. Ban nãy cô có vẻ rất xẩu hổ, tôi cứ lo phải chịu nóng trong căn phòng đóng kín. Chỉ cần người bên ngoài không biết ai đang đàn, có bị nghe thấy chắc cũng chẳng sao. Hình như câu lạc bộ âm nhạc đã diễn thử trước buổi tổng duyệt, bàn ghế trong phòng được xếp hết sang một bên. Tôi và Takuya lấy hai chiếc ghế làm bằng thép và gỗ cạnh tường, tìm chỗ ngồi đại xuống.
"Mình thực sự không giỏi đâu." Sayuri nói.
"Không sao. Mình chưa bao giờ xem người khác chơi đàn, làm sao phân biệt được hay dở." Takuya đáp, nghe hơi khó hiểu.
"Mình muốn nghe đâu phải vì bạn chơi giỏi." Tôi nói. "Mình mong mau được nghe quá."
"Ôi, hồi hộp ghê."
Sayuri chậm rãi bước khỏi bóng chiếc đại dương cầm vẫn lấy làm chỗ trốn nãy giờ, tay cầm cán cây vĩ cầm. Cô dừng ở giũa phòng, đặt bản nhạc lên giá đỡ. Gió từ cửa sổ lùa vào thổi tung trang nhạc, cô phải dùng ghim chặn lại. Nắng vàng chiếu xuống từ mặt trời xế trưa, rọi vào phòng qua cửa sổ. Từ chỗ chúng tôi ngồi, trông Sayuri như đang đón lấy luồng sáng ấy mà tỏa rạng. Cô vén lọn tóc trên mặt ra sau tai. Cử chỉ ấy cũng lồng bóng hoàng hôn.
"Bản nhạc tên gì vậy?" Takuya hỏi.
"Tiếng gọi phương xa." Sayuri nhắc, "Này, mình xin hai bạn, đừng hát theo nhé. Mình sẽ không chơi tiếp được đâu. Cũng đừng vỗ tay. Nếu được, mong các bạn đừng nhìn mình nhiều quá."
Takuya định bông đùa gì đó nhưng lại thôi, "Mình biết rồi."
Sayuri thở dài.
Rồi cô bắt đầu đàn.
Đúng như Sayuri cảnh báo, tôi thấy phần biễu diễn không chuyên nghiệp cho lắm. Nhưng cách chơi rất cẩn thận. Chẳng có chỗ nào vấp váp hay loạn nhịp. Tôi cũng giống Takuya, không biết nhiều về âm nhạc, nhưng tôi hiểu Sayuri đã biểu diễn một cách chân thành. Cô chú tâm tới toàn bộ giai điệu và nhịp nghỉ. Đó là cảm nhận của tôi.
Bản nhạc Sayuri chơi là một bản độc tấu đơn giản dành cho vĩ cầm. Có lẽ nó vốn được diễn tấu với phần đệm của dương cầm hoặc nhạc cụ nào đó, còn hôm nay hiển nhiên chỉ có vĩ cầm. Tôi chỉ muốn nghe tiếng đàn của cô, nên thế này là vừa đủ.
Đó là một bản nhạc nhẹ nhàng. Dịu dàng, du dương. Giai điệu khiến người nghe liên tưởng đến màu của bầu trời. Rất hợp với thời tiết lúc này, khi không trung ánh sắc xanh, điểm xuyết những đám mây thấp, như đang rót xuống mặt đất thứ gì đó trong suốt.
Tới nửa sau, bản nhạc bắt đầu nhuốm buồn, dù tông vẫn giữ nguyên độ cao. Nó khiến tôi nhớ đến cảnh mặt trời lặn. Nắng vốn trong vắt dần ngả sang gam màu nóng. Một nỗi bất an mơ hồ xâm chiếm tôi.
Khi chơi đoạn này, nhịp đàn của cô thoáng chậm lại có chủ ý, rồi lại ngân lên réo rắt. Ánh tà dương màu vàng xuyên vào qua cửa sổ, trông như dáng hình điệu nhạc. Tôi cảm nhận giai điệu ấy chảy vào tim mình. Tôi thấy gắn bó với Sayuri. Khoảng cách về tâm hồn giữa hai chúng tôi nhanh chóng được rút ngắn. Đương nhiên tất cả chỉ là ảo giác. Nhưng tôi lại say sưa đón nhận vào lòng những cảm xúc được giãi bày thành hình ảnh, âm thanh của cô.
Bản nhạc kết thúc theo cách rất kì lạ. Không có outro mà thình lình dừng lại như đứt đoạn. Dư âm vẫn còn khiến người ta bứt rứt, nhưng lại đột ngột bị thuyết phục. Việc không có outro này thật giống với cô gái tên Sayuri. Ở cô luôn thiếu vắng cảm giác chân thực, như thể cô chỉ tồn tại trong mơ, chỉ là ảo ảnh...
Sau đó, tôi, Sayuri và Takuya cùng nhau ra về. Chúng tôi khóa cửa phòng nhạc, bước trên hành lang không còn ai, móc chìa khóa lên bảng treo trong phòng giáo viên. Ba đứa thay giày ở sảnh ra vào học xá, băng qua sân trường, ra sân ga đón tàu về.
Theo thói quen, tôi đưa mắt nhìn ngọn tháp ngay trước khi lên tàu. Có những ngày tôi thấy tháp Liên bang ở rất gần. Hôm nay chính là ngày như vậy. Trông nó gần đến mức có thể đổ sập xuống đầu tôi ngay lúc này.
Suốt quãng đường về, cả khi Sayuri đã xuống tàu ở Nakakoguni, nhịp nghỉ của bản nhạc cô vừa chơi vẫn văng vẳng trong đầu tôi. Tôi nhớ lại bản nhạc, hồi tưởng dáng vẻ của cô khi rảo bước phía trước tôi và Takuya, hai đầu gối nhỏ khi cô ngồi xuống ghế trên tàu, cái cổ đung đưa khi chơi vĩ cầm. Tối hôm đó trời khá nóng, nhưng tôi lại ngủ ngon trong niềm hạnh phúc.
Kì nghỉ hè ở Tohoku rất ngắn. Kì nghỉ đông kéo dài bù vào phần thiếu hụt, nhưng tôi vẫn có cảm giác mất trắng số ngày nghỉ vào mùa hè.
Sau lễ tổng kết học kì một - sự kiện mở đầu là nghỉ hè ngắn ngủi - tôi, Takuya và Sayuri mặc nguyên đồng phục lên nhà ga bỏ hoang. Trời nóng nhưng có gió, thời tiết rất đẹp.
Thinh thoảng, khí nóng hầm hập xộc lên từ đám cỏ phơi mình dưới nắng gắt, nhưng lại bị xua đi ngay nhờ những cơn gió nhẹ.
Nheo mắt, tôi thấy luồng nhiệt bốc lên, biến không khí thành ống kính.
Từ lúc nào không hay, hết sức tự nhiên, Sayuri luôn đợi tôi và Takuya cùng về sau giờ tan học. Cô còn thường xuyên lên nhà ga bỏ hoang chơi. Chúng tôi cũng đón nhận sự thay đổi đó như lẽ đương nhiên.
Việc chế tạo máy bay tiến triển thuận lợi hơn dự kiến. Nhờ chú Miyakawa tìm giúp chỗ bán mô tơ siêu dẫn cũ với giá rẻ, chúng tôi gần như có đủ linh kiện cần thiết. Thế là cả hai hăng hái hơn hẳn, ngày nào cũng mải mê làm việc tới tối muộn. Công đoạn cắt gọt cánh biến hình đã xong, phần nhìn của máy bay cũng có vẻ sắp hoàn thiện. Chỉ còn bộ phận điều khiển phức tạp chưa được động đến. Cuối cùng là lên kế hoạch bay, tuy vẫn hơi sớm. Nếu thuận lợi, không chừng chúng tôi thực sự có thể cất cánh vào cuối kì nghỉ hè.
"Lưới nano không phản xạ sóng ra đa mà. Đâu cần kĩ tính đến mức đó?" Tôi nhìn màn hình máy tính Takuya đặt trên đùi.
Cậu đang mở bản đồ khu vực phía Nam Hokkaido tải trên mạng về bằng chiếc máy tính xách tay cỡ B5. Bản đồ khá chi tiết, tuy tôi không biết cậu kiếm được ở đâu. Chỉ cần bấm chuột vào bản đồ, địa hình mô phỏng dưới dạng 3D liền hiện lên.
"Cậu nói đúng, nhưng nó không phải phi cơ tàng hình, lại còn bay vào vùng đệm. Chắc chắn sẽ bị lộ, kể cả có vỏ bằng lưới nano. Không quân Liên bang... mà không, sơ sẩy là Mỹ sẽ phát hiện trước Liên bang."
Sayuri đứng ngoài nắng, tựa vào tường xưởng máy bay đọc sách. Lúc đầu cô có nghe cuộc nói chuyện của tôi và Takuya, nhưng chắc không hiểu gì nên cô nhanh chóng bỏ cuộc, đi ra chỗ khác.
Tôi và Takuya để cửa xưởng máy bay mở toang. Làm thế gió mát sẽ thổi vào, rất dễ chịu.
"Vậy chỉ còn cách bay thấp hết cỡ, bám sát sóng biển và địa hình. Có thể trốn trong sương mù nếu cất cánh từ sáng sớm, làm thế chắc khó bị phát hiện. Tới Ezo thì dựa vào bản đồ này, lần theo khe núi là ổn." Tôi chỉ mô hình núi 3D.
"Đúng, nhưng tôi vẫn hơi lo nếu bay dựa trên dữ liệu này. Đây là bản đồ cũ, chưa đến tận nơi thì chưa biết địa hình thực tế ra sao. Sau khi vào không phận trên đất liền, phải chấp nhận rủi ro để bay cao thôi."
"Vào đất liền thì ra đa của Liên bang không dò được nữa đâu. Bọn họ dồn hết sự chú ý về vùng đệm rồi mà. Velaciela bé, bay đủ cao thì bóng dưới đất còn chẳng bằng con chim nhỏ."
"Ờ, chắc thế. Vậy phải chuyển đổi động cơ cùng lúc tiếp cận đảo. Bay nhanh một mạch qua biển, tới đất liền thì giảm tốc."
"Ừ."
Sau đó chúng tôi quay lại với công việc. Takuya vùi đầu vào máy tính viết chương trình điều khiển bay, còn tôi miệt mài hàn bảng mạch điện tử. Tiếng gõ phím lạch cạch đều đặn vang lên trong gian nhà. Khói trắng lờ mờ cùng mùi dây thiếc hàn nóng chảy bốc lên từ chỗ tay tôi. Gặp việc tỉ mẩn thế này, nếu không chú tâm làm đến mức quên cả bản thân thì chẳng mấy chốc sẽ mỏi nhừ. Vì thế tôi tập trung tinh thần, thu gọn sự tồn tại của mình trong đôi tay. Dần dần ý thức về thời gian cũng biến mất. Nhìn lại thì công việc đã tiến xa đến không ngờ.
Hợp kim thiếc, có nhiệt độ nóng chảy thấp, được sử dụng trong hàn mạch điện tử (hàn thiếc).
Tôi chợt phân tâm bởi rung động mơ hồ nào đó. Hình như tôi vừa nghe một âm thanh rất nhỏ, tới mức không kịp xác định nó là gì.
Ở bên ngoài?
Tôi đặt mỏ hàn xuống, vươn vai đứng dậy, đi ra ngoài.
Trời vẫn đẹp. Bước khỏi bóng râm, tôi liền cảm nhận được cái nóng rát da thịt. Dưới nắng gắt, cỏ ánh lên màu lục đậm chói mắt. Mây lững lờ trôi, mặt nước hồ gợn sóng theo gió...
Hình ảnh tiếp theo lọt vào mắt khiến người tôi lạnh toát. Khi cơn rùng mình lẫn đợt run rẩy chóng vánh qua đi, tôi mới tiếp thu nối cảnh tượng vừa nhìn thấy.
Phía trước xưởng máy bay có ba sân ga. Một cây cầu bộ hành bằng gỗ nối liền ba sân ga đó. Do bị bỏ hoang giữa lúc đang xây, sàn cầu thủng lỗ chỗ, một góc tường đã biến mất. Ở chính góc tưởng bị hỏng đó, Sayuri đang bám vào sàn bằng một tay, treo lơ lửng như sắp rơi. Ngay bên dưới cô là hồ. Đường ray nối liền với hồ, chìm trong nước.
"Sawatari!" Tôi phóng vụt đi.
Tôi nhảy qua hào nước, chạy vào ga, mắt không rời Sayuri.
Cô treo mình bằng một tay dưới đầu tấm ván sàn. Chốc chốc cô nhắm nghiền mắt, cánh tay giữ toàn bộ trọng lượng cơ thể run bần bật. Tôi hiểu ngay chuyện gì vừa xảy ra. Ván sàn ở đó đã mục vì ngấm mưa. Có lẽ Sayuri leo lên cầu, đang ngắm cảnh vật đằng xa từ chỗ tường hỏng thì sàn gẫy rời.
"Đợi mình!"
Tôi chạy lên bậc thang cầu bộ hành, tiếng cọt kẹt theo sau từng bước chân. Lên đến nơi, tôi hớt hải lao tới chỗ Sayuri.
"Không sao đâu... Cũng không cao lắm."
Sayuri vừa nhìn xuống dưới vừa lo lắng nói. Lời vừa dứt, tấm ván cô đang bám gãy rắc một tiếng.
Khoảnh khắc mảng gỗ vỡ ra, tôi gần như ở ngay phía trên, mắt nhìn xuống.
Bạn ấy sẽ rơi!
Bàn tay đã mất chỗ bám của cô. Cổ tay... Nắm lấy cổ tay!
Tôi đang trong đà lao đầu xuống.
Linh tính mách bảo chần chừ là hỏng chuyện, vì vậy tôi quyết nắm chặt cổ tay Sayuri bằng tất cả sức lực. Cánh tay như muốn lìa khỏi vai khi đột ngột chịu sức nặng đáng kể cùng cú sốc đi kèm. Sayuri khá gầy, chắc chắn chưa tới bốn mươi cân, nhưng chừng đó đã đủ nặng khi giữ bằng một tay. Trước mắt tôi là mặt hồ in màu trời. Tôi nhoài thân trên ra khoảng không như đứng ở bệ nhảy của bể bơi. Ngay trên phông nền xanh biếc là khuôn mặt Sayuri, đang nhìn thẳng vào tôi. Mặt cô tái mét, đông cứng vì sợ. Cũng không có gì lạ.
Kịp rồi!
Lúc này tôi mới tạm thở phào. Cảm giác sởn da gà từ cánh tay lan khắp người. Mồ hôi bắt đầu vã ra. Sayuri chăm chăm nhìn tôi trong khi cổ tay đang bị nắm lấy, cả người treo lơ lửng dưới bầu trời.
Nét mặt cô bỗng chốc thả lỏng, trở nên mất tập trung.
"Chúng mình... trước đây cũng từng..."
Tôi nhớ cô đã nói vậy. Nhưng tôi gần như không để tai nghe. Cảm giác nhẹ nhõm lan tỏa khiến tôi không còn tâm trí nghe gì nữa. Tôi thở dài.
"May quá... kịp rồi. Giờ..."
... mình sẽ kéo bạn lên. Tôi vừa định nói thì tấm ván dưới chân vỡ ra, rơi xuống. Mọi thứ bỗng quay cuồng. Trước mắt là mặt hồ lấp lánh, rồi ngay sau đó toàn thân tôi chìm trong nước. Tôi rơi xuống hồ. Cát cuộn lên làm tôi không nhìn thấy gì. Sau một giây hốt hoảng, tôi quờ chân thấy đáy hồ, ngoi được đầu khỏi mặt nước. Sayuri cũng ngoi lên gần như cùng lúc. Đúng thẳng dậy, tôi nhận ra nước chỉ dâng tới eo.
Nhận thấy có chuyện, Takuya đã có mặt. Cậu rảo bước chạy tới, dừng chân trên ghềnh đá sát mép nước, rồi nhìn quanh. Chỗ cậu đứng là tiện lên bờ nhất. Tôi và Sayuri bì bõm lội về phía đó.
"Bạn ổn chứ?" Takuya hỏi. "Có bị thương không?"
"Không, mình chỉ bị ướt thôi." Sayuri đáp. Rồi cô quay sang cười với tôi. "Xin lỗi nhé, Fujisawa. Cảm ơn bạn."
"Cũng may bên dưới là hồ." Takuya chìa tay phải ra để kéo Sayuri lên bờ. Cô định nắm lấy tay cậu.
Tôi bỗng nảy ra ý bông đùa. Hay nói đúng hơn, tôi không muốn để cậu nắm tay Sayuri dễ dàng như vậy. Tôi túm lấy tay Takuya trước cô, dùng hết sức kéo giật lại.
"Cậu, này, aaa!"
Takuya mất thăng bằng, loạng choạng tìm cách trụ lại bên mép nước, nhưng rồi vẫn ngã nhào, làm nước bắn lên tung tóe.
Tôi cười ha hả. "Định khô ráo một mình sao, chẳng đáng mặt bạn bè gì cả!"
"Cậu làm cái gì thế!"
Từ dưới làn nước, Takuya trồi lên, chồm tới nhấn tôi chìm nghỉm. Tôi cố đứng dậy, ngóc đầu khỏi mặt nước. Takuya đã đợi sẵn, ào ào té nườc vào mặt tôi.
"Nhìn cậu xem, ướt như chuột lột rồi."
"Cậu thì khác gì."
"Cậu phiền quá đấy."
Tôi vẫn chưa ngừng cười "Xin lỗi xin lỗi. Thấy bộ mặt thản nhiên của cậu, tôi lỡ tay..."
"Cậu bảo sao?!"
"Đừng nổi nóng thế chứ!"
"Tôi cáu thật đấy!"
Tôi lại bị Takuya nhấn chìm. Lợi dụng lực đẩy của nước, tôi túm đầu Takuya dìm ngược lại. Takuya liền ngáng chân tôi dưới nước. Tôi ngã nhào, nổi trên mặt hồ.
"Cậu cứ ở đấy, đừng lên nữa. Đi thôi, Sawatari."
Takuya bắt đầu bước về phía bờ. Sayuri đang cười khúc khích, không rõ từ khi nào.
"Này Takuya, đợi tôi! Sawatari, bạn bảo cậu thôi giận dỗi đi."
"Xin lỗi nhé, Shirakawa..." Sayuri vẫn cười dù môi mím chặt.
"Sao thế? Sawatari." Takuya hỏi.
"Nhìn Shirakawa và Fujisawa, mình thấy thật yên lòng..."
"Cái gì?" Tôi và Takuya đồng thanh hỏi.
May là thời tiết đẹp, mặt trời giữa hè rực lửa như bếp lò, thiêu đốt mặt đất. Ba chứng tôi mặc nguyên quần áo, nằm dài ra sân ga hong người. Sau khoảng hai giờ đồng hồ mơ màng ngủ trưa, quần áo cũng gần khô.
Hoàng hôn từ từ buông xuống. Nền trời ban chiều nhìn từ đây luôn rực đỏ. Ánh sáng đỏ chiếu trên đôi giày Sayuri dựng vào cây cột, quay về phía mặt trời.
"Lúc thấy Sawatari treo trên cầu, mình thót tim." Tôi nói.
"Mình biết nó đã mục nát và nguy hiểm... Nhưng lúc đó mình muốn tản bộ để thay đổi không khí, nên..."
"Chắc bạn thấy chán lắm." Takuya tỏ ý áy náy. "Tại bọn mình để mặc bạn, chúi mũi vào công việc."
"Không, mình không có ý đó. Mình ổn mà." Sayuri vội vàng lắc đâu. "Mình muốn ngắm cảnh từ trên cao. Mình cũng muốn nhìn ngọn tháp kĩ hơn..."
"À." Takuya gật đầu.
"Ở đây nhìn ngọn tháp rõ thật. Không chỉ rõ mà còn đẹp. Mình mải ngắm nó, ngồi xuống mép cầu rồi thần người ra. Chắc mình ngồi lâu quá nên ván sàn không chịu nổi."
Sayuri nói bằng giọng thản nhiên, nhưng tôi vẫn nghe ra ý thanh minh rất con gái, ngầm nhấn mạnh cầu gãy không phải do cô nặng.
Nhưng Sayuri gầy đến mức chẳng ai cho rằng cân nặng của cô là nguyên nhân. Tôi còn nghĩ cô phải mập hơn đôi chút, không thì thực đáng lo ngại. Tôi không quên nổi cảm giác mảnh khảnh như sắp gãy khi nắm lấy cổ tay cô.
Tôi gập bụng ngồi dậy, liếc nhìn Sayuri.
Sayuri duỗi chân, tay đặt trên đầu gối, ngồi thu mình. Cô để đôi chân trần tắm trong ánh dương đỏ. Chân cô dài và thon. Tôi kinh ngạc khi bất chợt nhận ra vẻ đẹp của đường gấp khúc ấy. Tôi lén lút ngắm bắp chân và đùi lộ ra bên dưới váy đồng phục của cô một lúc lâu.
Sayuri lơ đãng nhìn đầu ngón chân mình. Sau đó cô đặt ngón trỏ lên ngón chân cái mà chẳng có mục đích rõ ràng. Chú bọ rùa bay gần Sayuri nãy giờ đậu xuống đầu ngón tay cô rồi chậm chạp bò dọc theo đó. Sayuri bất động, tránh làm nó giật mình.
"Khi nãy, chỉ thoáng qua thôi, mình đã mơ..."
Mơ?" Tôi hỏi lại. "Bạn mơ thấy gì?"
"Ừm... Mình quên mất rồi. Nhưng chắc là về ngọn tháp."
"Cảnh tượng này khó tin quá mà." Takuya nói trong tiếng thở dài. "Liên bang giỏi thật."
Tôi nhìn ngọn tháp, phóng tầm mắt ngắm đường thẳng ấy từ dưới lên trên.
"Hình như đỉnh tháp nối với thế giới khác."
Phần trên của tháp chìm trong mờ ảo, nằm ngoài tầm mắt. Tôi chưa bao giờ thấy đỉnh tháp, dù trời đẹp đến mấy đi nữa. Nó quá cao, không thể biết điểm dừng ở đâu.
Tiếng máy bay vọng xuống từ không trung.
Chú bọ rùa vẫn bất động trên ngón tay Sayuri. Nó nằm cuộn tròn gần vị trí đeo nhẫn ở ngón trỏ cùa cô. Tôi thấy nó giống như viên đá quý màu đỏ gắn trên nhẫn.
Chú bọ bay đi.
Sau khi ngồi yên hồi lâu để tránh làm chú bọ sợ, Sayuri thở dài một tiếng. Cô vươn thẳng người, chống hai tay xuống nền bê tông, nhìn trời.
"Mặt trời mãi chưa lặn hẳn nhỉ..."
Quả đúng vậy, tôi thầm nghĩ.
Nắng đã bắt đầu nhuốm đỏ khá lâu, nhưng vầng dương vẫn đang ở bên trên đường chân trời. Hoàng hôn lẽ ra phải qua đi trong chớp mắt, nay lại dài như vô tận.
"Cảm giác hoàng hôn kéo dài cả ngày ấy nhỉ." Tôi nói. Sayuri nhìn tôi.
Tôi nhìn vào mắt Sayuri trong ánh chiều tà đỏ rực.
Khi đó, thời gian dừng lại.
Tôi đã mơ một giấc mơ giữa ban ngày.
Trong giấc mộng thoáng qua đó, tôi trở thành Sayuri. Sayuri ngồi ở mép cầu bộ hành, chỗ tường bị sụp, ngắm ngọn tháp. Gió từ phía tháp thổi lại làm mặt hồ dậy sóng.
Thế rồi màu sắc của toàn bộ cảnh vật trước mắt tôi biến đổi, như thể bị cọ vẽ quét qua. Màu trời bỗng trầm xuống như màu ảnh cũ. Tiếng kim loại lạ lùng vang lên. Rất nhiều vệt mây máy bay chạy dài trên không trung, báo hiệu điềm chẳng lành.
Thế giới đảo ngược.
Trên thành dưới, trái thành phải, thứ ngay trước mắt hóa xa xôi vô cùng. Cũng có thể thứ đảo ngược không phải thế giới mà chính là tôi.
Những chùm sáng nhỏ bung ra như pháo hoa quanh tháp. Sayuri thác mắc chúng là gì.
Tôi biết. Là ánh sáng của chiến trận.
Chiến tranh. Chiến tranh đang diễn ra ở kia.
Tôi ngắm cảnh tượng đó mà không mảy may xúc động. Khi ở trong mơ, người ta khó lòng suy nghĩ thấu đáo.
Thế rồi, "chuyện đó" xảy ra.
Ánh chớp lóe lên ở chân tháp, mạnh gấp vài chục lần đèn flash của máy ảnh.
Một giây sau...
Ở chỗ tháp.
Một vụ nổ lớn bùng ra.
Ánh chớp khi nãy đánh dấu tâm của vòng tròn đỏ thắm quá đỗi bất hạnh đang loang rộng, nhuộm đỏ rực cả vòm trời. Từ bên trên tầng không nhuốm đỏ ấy, sắc đỏ đậm hơn tràn xuống thay thế. Và rồi thế giới bị nhấn chìm bởi một màu đỏ khác, u ám hơn tất thảy.
Tháp vỡ thành muôn mảnh, từ từ sụp đổ giữa không trung, vừa sập xuống vừa bùng cháy.
Mọi vật đều sẽ hư hỏng, tan biến, không để lại gì cả. Tôi nghĩ vậy. Tôi biết mình đang chứng kiến ngày tàn của thế giới. Hóa ra tận thế có màu đỏ của sơn, tôi thầm cảm thán.
Không khí rung chuyến dữ dội. Rồi cuồng phong kéo tới. Luồng nhiệt nóng bỏng thiêu đốt cơ thể. Tóc rối tung. Quần áo xộc xệch. Cả người như sẳp bị thổi bay. Cây cầu bộ hành oàn mình rên rỉ, lắc lư.
Tấm ván sàn thò ra khoảng không gãy rời. Đang ngồi trên đó, tôi đột ngột mất thăng bằng. Rơi. Tôi đang rơi. Sayuri đang rơi. Ra vậy, ngọn tháp chống đỡ không còn nên bầu trời sụp xuống. Hiến nhiên rồi.
Tôi rơi mãi, rơi mãi...
Cảm giác rơi tự do thi thoảng xuất hiện trong giấc ngủ ập đến, khiến tôi bừng tỉnh. Tôi nhìn quanh. Tôi đang ở sân ga bỏ hoang, cùng Takuya và Sayuri ngắm hoàng hôn.
Hình như tôi vừa trải qua một giấc mơ chớp nhoáng. Tôi có cảm giác nó rất quan trọng.
"Hình như mình vừa mơ, thoáng qua thôi." Tôi nói.
"Giấc mơ như thế nào?" Sayuri hỏi.
Tôi không nhớ ra, "Mình quên mất rồi..."
"Mặt trời mãi chưa lặn hẳn nhỉ..." Cô nói.
Rất lâu về sau, khi nhiều năm trôi qua, tôi mới nhớ ra giấc mơ ngày ấy. Nhưng mọi chuyện đã kết thúc, tôi đã đánh mất quá nhiều thứ. Tôi luôn nhớ tới những điều quan trọng một cách muộn màng.
Khi quần áo và giày đã khô cong, ba chúng tôi vẫn chăm chú ngắm cảnh mặt trời lặn. Tôi nghĩ hoàng hôn sẽ kéo dài mãi mãi. Tôi mong nó kéo dài vĩnh viễn.
Nhưng dù chậm, vầng dương to lớn vẫn đều đều chìm xuống phía Tây, chạm vào đường chân trời rồi hoàn toàn khuất bóng, chỉ để lại ánh sáng mờ mờ nơi cuối trời.
Thấy xung quanh tối hẳn, tôi và Takuya nhất loạt đứng dậy. Nhưng Sayuri vẫn ngồi im, hai tay đặt trên đâu gối. "Mình không muốn về," cô nói.
"Đang nghỉ hè mà." Takuya nói với Sayuri. "Cho đến khi mùa hè kết thúc, nơi này hoàn toàn thuộc về bọn mình. Bạn có thể đến vào ngày mai. Ngày kia cũng được. Bạn cứ tới bất cứ lúc nào bạn muốn. Từ giờ trở đi, ngày nào cũng sẽ giống hôm nay."
Sayuri ngước lên, nở nụ cười như đám mây vừa biến hình.
Mùa hè ấy thực sự đặc biệt.
Đến giờ tôi vẫn chưa thoát khỏi kí ức ngày đó.
Ngày cuối cùng chúng tôi thấy Sayuri, trước khi cô biến mất.
Kì nghỉ hè bắt đầu. Hằng ngày, tôi và Takuya làm việc ở xưởng Emishi từ sáng tới quá trưa, sau đó lên nhà ga bỏ hoang hoàn thiện Velaciela đến tối.
Khi chia tay vào hôm tống kết, Sayuri có nói từ mai, ngày nào cô cũng sẽ đến chơi. Vậy mà cô không hề xuất hiện. Việc này khiến chúng tôi hơi buồn, tự hỏi sao cô không tới, nhưng chẳng mấy chốc, chiếc máy bay có khả năng sắp cất cánh trước mắt lại choán hết tâm trí cả hai.
Sớm thôi. Tôi tự nhủ không biết bao nhiêu lần. Sắp bay được rồi. Sắp đến được đó rồi.
Tới nơi hẹn ước.
Sayuri bảo muốn tới tháp Liên bang. Khi chúng tôi nói sẽ đưa cô đến đó, cô mở to đôi mắt tròn xoe, ngạc nhiên. Cô nói nhất định phải đưa mình đi nhé, hứa với mình nhé. Cô yêu cầu rất khẩn thiết. Tất nhiên tôi sẽ đưa cô đi. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ thực hiện lời hứa. Nghĩ vậy, nỗi buồn cùng thắc mắc thoáng qua nhanh chóng bị xếp ra sau mối bận tâm về chiếc máy bay. Takuya dành trọn hai tuần để dựng chương trình điều khiển. Trong lúc làm, cậu mất khá nhiều thời gian xử lý vài chỗ phức tạp. Ban đầu chúng tôi cùng lập trình, nhưng những phần này vượt quá khả năng của tôi. Vì thế tôi rút khỏi mảng phát triển phần mềm, tập trung phụ trách phần cứng.
Ngày 6 tháng Tám có buổi tập trung toàn trường. Sayuri không đến.
"Hay bạn ấy ốm nhỉ?" Takuya nói.
Tôi nhớ ra sức khỏe Sayuri vốn không tốt.
"Ngã thẳng xuống nước như thế..." Tôi nghĩ đến hôm tổng kết. "Có khi vì cú ngã đó mà bạn ấy ốm..."
"Chắc vậy..." Takuya rít một hơi thuốc, nhăn mặt.
Tuần tiếp theo, chúng tôi lại vùi đầu chế tạo máy bay. Công việc tiến triển thuận lợi, nhưng không kịp xong trong kì nghỉ hè như mục tiêu ban đầu. Chẳng hề thấy bóng dáng Sayuri.
Ngày 13 tháng Tám, học kì mới bắt đâu. Sayuri không xếp hàng dự lễ khai giảng. Tới giờ sinh hoạt chung, chỗ ngồi của Sayuri vẫn trống. Tôi có dự cảm chẳng lành.
Chủ nhiệm lớp chúng tôi là cô giáo trẻ tên Sasaki. Cô đứng trên bục giảng, bỏ qua những câu chào hỏi sáo rỗng, nói rằng trước hết cô có chuyện quan trọng cần thông báo.
"Bạn Sawatari Sayuri đã chuyển trường trong kì nghỉ hè vì gia đình có chuyện đột ngột." Cô giáo nói bằng giọng hơi dè dặt. Có vẻ do chưa quen với tình huống này, trông cô không thoải mái lắm.
Cả phòng học xôn xao.
Nhất thời tôi không hiểu nổi cô vừa nói gì. Mất một lúc lâu tôi mới nắm bắt được ý nghĩa, nhưng cùng lúc, nỗi hoảng loạn tựa vòi rồng cũng cuộn lên trong đầu. Tôi nhìn chằm chằm hộp bút trên bàn. Tôi vừa thấy chiếc hộp lùi ra xa thì giây tiếp theo, nó đã ở ngay trước mặt. Cảm nhận về khoảng cách trở nên quay cuồng. Mắt tôi hoa lên.
Tôi nhắm mắt, day chân mày rồi dùng ngón giữa ghì chặt thái dương. Này, bình tình đi. Tôi tự bảo "tôi". Bình tĩnh cái gì hả, thằng đần? Tôi bực tức đáp trả chính mình.
Chuyển trường?
Tôi nhỏ giọng lầm bầm. Hai từ đó nghe vô cùng phi lý.
Không thể nào.
Hôm ấy, sau thông báo đột ngột kia, chúng tôi chỉ phải nộp bài tập về nhà, rồi buổi học kết thúc. Tôi lập tức sang lớp Takuya tìm cậu.
"Sao lại thế?" Cậu nói. "Chuyện gia đình là chuyện gì?"
"Tôi không biết."
"Bạn ấy chuyển đến trường nào?"
"Chẳng biết luôn. Trong giờ sinh hoạt cô giáo không nóỉ."
"Đi hỏi thôi." Cậu sải bước, hướng tới phòng giáo viên.
Takuya mạnh tay kéo cánh cửa gỗ cùa phòng giáo viên sang ngang. Dường như cậu đang bực bội. Đây là lần đầu tiên tôi thấy cậu thực sự nổi giận. Takuya đi thẳng đến bàn cô Sasaki, chẳng trình bày trước sau gì, hỏi luôn.
"Lý do chuyển trường của Sawatari là gì ạ?"
"Shirakawa..."
Cô giáo giật mình vì nét mặt cứng ngắc của Takuya, sau đó trả lời với vẻ ngần ngại, giống như lúc đưa ra thông báo trên lớp, "Bố mẹ em ấy nói do nhà có chuyện..."
"Chuyện gì ạ?" Takuya hỏi tiếp. "Đột ngột chuyển trường mà chẳng chào ai, không bình thường chút nào."
"Cô nghe nói nhà trường không can thiệp sâu đến thế. Shirakawa này..."
"Vậy bạn ấy chuyển sang trường nào ạ?"
Cô giáo thoáng bối rối, "Chuyện đó... Cô không biết"
"Không biết? Sao lại thế ạ? Phải có thủ tục chứ, đâu thể chuyển đi mà không khai báo tên trường mới?"
"Phải". Cô Sasaki nói. "Quy định là vậy. Nhưng do nguyên nhân nào đó, trường hợp của em ấy là ngoại lệ. Các thầy cô cũng đang đau đầu vì chuyện này. Tóm lại, nhà trường hoàn toàn không rõ em Sawatari chuyển đi đâu."
"Sao lại..." Tôi thì thầm.
"Không thể có chuyện vô lý như thế." Takuya lên tiếng.
Ra khỏi phòng giáo viên, Takuya lặp lại, "Đời nào có chuyện hoang đường vậy được."
Đến đứa bàng hoàng suốt nãy giờ như tôi còn thấy việc này phi lý. Rồi tôi nhớ ra, tờ danh sách lớp được phát đầu học kì một vẫn nằm trong chiếc cặp đang mang bên người. Tất nhiên trên đó có địa chỉ nhà Sayuri. Tôi lấy tờ danh sách lớp đã nhàu ra từ đáy cặp.
"Takuya, đến nhà bạn ấy hỏi đi."
Chúng tôi lên tàu, xuống ga Nakaoguni.
Takuya vào trang dịch vụ tìm địa chỉ trên máy tính xách tay, nhập địa chỉ nhà Sayuri rồi mở bản đồ. Nhà cô nằm sát tỉnh lộ gần ga, có vẻ không khó tìm.
Đúng như dự đoán, chúng tôi dễ dàng tìm thấy căn nhà. Sayuri sống trong một tư gia bề thế nàm trên mảnh đất lớn gấp đôi các nhà lân cận, có vườn rộng, bao quanh bởi tường cao, cành thông mọc chìa ra ngoài. Bên trong là ngôi nhà một tầng với lối kiến trúc truyền thống, có vẻ được xây cách đây khá nhiều năm, nhưng vẫn rất vững chãi. Chúng tôi tiến vào vườn, bấm chuông ngoài tiền sảnh. Tiếng bước chân vang lên trong nhà, sau đó một người phụ nữ hình như là mẹ Sayuri đi ra. Cửa trước rất rộng. Mẹ Sayuri trông không giống Sayuri.
Nghe tôi giới thiệu "Chúng cháu là bạn của Sawatari", bà ngạc nhiên.
"Sayuri có bạn ư?" Bà thốt lên như thể đó là chuyện không tưởng. Tôi bỗng thấy ác cảm trước phản ứng của bà, nhưng không thể hiện ra mặt. Chắc là không.
"Vâng ạ." Tôi lễ phép đáp.
"Bọn cháu đến thăm Sawatari." Takuya nói thêm
Mẹ Sayuri có vẻ bối rối giống hệt cô Sasaki. Rồi bà nói Sayuri đã chuyến đến nơi ở mới.
"Mọi việc quyết định vội quá." Mẹ Sayuri nói. "Con bé tới đó từ trong hè rồi... Thật có lỗi vì không kịp tạm biệt hai cháu."
Bà tỏ thái độ khách sáo. Có thể đó là phản ứng đương nhiên của người mẹ khi thấy hai đứa con trai đột ngột đến tận nhà hỏi thăm con gái mình. Nhưng tôi không nghĩ vậy.
Chúng tôi nói muốn xin địa chi mới của Sayuri, hoặc tên trường mới cũng được.
Mẹ Sayuri im lặng một lúc. Rồi bà nói, sự tình rắc rối nên không thể cho chúng tôi biết.
Sự tình...
Rốt cuộc có chuyện gì?
Tôi nổi cáu, rơi vào cơn kích động, chỉ muốn lao tới túm lấy người phụ nữ kia. Tôi cố gắng kiềm chế, nhưng cũng không biết làm gì khác, đành hỏi một câu ngớ ngẩn.
"Sự tình thế nào ạ?"
Đương nhiên, bà không trả lời.
"Sayuri phải bắt đầu cuộc sống mới, trong môi trường mới." Tới nước này, dường như mẹ Sayuri cũng thấy có lỗi, bèn hạ giọng giải thích. "Chuyện rất phức tạp, không thể tóm gọn bằng một hai câu. Nó cần tách mình khỏi bạn bè và môi trường sống trước giờ một thời gian. Thế nên dù biết là quá đáng, tôi vẫn mong các cháu giữ im lặng giúp con bé."
"Sawatari nói bạn ấy muốn như vậy ạ?" Takuya đanh giọng.
"Không phải... Mà không, đúng thế, đó cũng là nguyện vọng của con bé."
Câu trả lời rõ ràng thiếu thuyết phục. Kìm câu "Thật hả?" suýt thốt ra khỏi miệng, tôi và Takuya đều giữ im lặng. Sự im lặng đầy tính công kích. Kiểu phản ứng này vốn là sở trường của tôi và Takuya.
"Này hai cháu..." Mẹ Sayuri chịu thua. "Các cháu cho tôi biết tên được không? Lần tới gặp Sayuri, tôi sẽ báo lại với con bé là hai cháu đã tới thăm."
Chúng tôi vẫn bất mãn, nhưng đoán chừng không thể làm gì hơn, đành cúi chào rồi rời khỏi nhà Sawatari. Tôi và Takuya lầm lì chẳng nói chẳng rằng suốt quãng đường ra ga. Có cái gì đó mắc kẹt trong lòng cả hai. Tôi cố gắng tìm hiểu vướng mắc ấy là gì.
Mẹ Sawatari bảo lần tới gặp Sayuri, bà sẽ chuyển lời. Có thể đó chỉ là lời đề nghị xã giao. Nhưng nghe cách nói, tôi có cảm tưởng ngay cả bà cũng khó lòng gặp được cô.
Lần tới ư? Rốt cuộc Sayuri đã đi đâu?
Chúng tôi mải miết leo lên nhà ga bỏ hoang, chui vào xưởng máy bay, không khác đi tìm chỗ trốn là bao. Sau khi lặng im hồi lâu, cả hai chậm chạp bắt tay hoàn thiện Velaciela.
Thế nhưng tiếng gõ phím của Takuya không nhanh nhẹn như mọi khi. Túi đựng dụng cụ tôi đeo bên hông cũng nặng hơn bình thường. Chẳng mấy chốc, chúng tôi mấthết hứng làm việc, uể oải dựa vào thân máy bay, ỉu xiu như quần áo phơi ngày mưa.
"Sự tình gì cơ chứ..." Tô vô thức lẩm bẩm.
Nói xong, tôi thực sự thắc mắc chuyện gì đã xảy ra. Tôi nghĩ một lúc, nhưng chỉ tưởng tượng tới những kịch bản từa tựa mấy bộ phim tình cảm chán ngắt chiếu vào buổi trưa.
Tiếng Takuya vang lên từ bên kia máy bay.
"Chắc không liên quan đến tiền nong. Nhìn là biết nhà bạn ấy thuộc dạng dư dả. Lúc đầu tôi nghĩ tại bố mẹ bạn ấy ly dị..."
"Chuyện đó không giải thích được tại sao phải giấu địa chỉ mới."
"Ừ. Vậy rốt cuộc nguyên nhân là gì?"
Chẳng còn lời nào đế nói, tôi im lặng. Takuya cũng không hỏi nữa.
Suốt khoảng lặng sau đó, tôi và Takuya quay cuồng với vô số suy đoán không phương hướng. Lượng thông tin chúng tôi có quá ít, phân tích thế nào cũng chẳngtìm ra đáp án hợp lý. Cả hai hiểu rõ điều ấy, nhưng vẫn không thể ngưng nghĩ ngợi. Trong khi đó, linh cảm xấu cứ lớn dần.
Takuya thình lình lên tiếng.
"Dù lý do là gì thì chuyện này cũng quá đột ngột với Sawatari. Biến mất mà không nói gì với tôi và cậu chắc chắn không phải chủ ý của bạn ấy."
"Sao cậu khẳng định như vậy?"
"Thì... Cậu xem cái này đi"
Tôi vòng qua thân máy bay, đi tới chỗ Takuya. Cậu đang nhìn một góc tường.
Ngày đầu tiên cùa kì nghỉ hè, khi chuẩn bị ra về, cô than mệt và bỏ nó lại vì nặng.
"Sawatari có ý định quay lại đây trong kì nghỉ hè." Takuya thì thầm.
Ra thế... nhưng cũng khó mà coi đó là một phát hiện đáng giá. Nó chỉ cho thấy lý do buộc Sayuri rời đi nghiêm trọng nhường nào.
Chúng tôi không làm thêm được bao nhiêu, ôm nguyên mối nghi vấn về nhà.
Tâm trạng ủ dột kéo dài suốt ba ngày tiếp theo. Đến lúc này, ngay cả tôi còn ghét chính mình. Mọi thứ quá mông lung khiến tôi cảm thấy hỗn loạn. Tôi muốn làm rõ một phần sự việc.
"Đến nhà Sawatari lần nữa đi."
Tôi nói với Takuya.
"Ừ... Nếu cương quyết, có khi sẽ hỏi được thêm gì đó."
"Vậy thì đi thôi."
Chúng tôi lại xuống ga Nakaoguni rồi đi dọc tỉnh lộ như lần trước. Thế rồi tôi và Takuya cùng lúc sững lại, đứng chôn chân không nói được gì gần một phút.
Nơi từng là nhà Sayuri đã biến thành bãi đất trống.
Chúng tôi ngồi lì trong xưởng máy bay trên nhà ga bỏ hoang, không thèm bật điện. Sự im lặng lúc này khác hẳn vài ngày trước.
Sayuri đã hoàn toàn biến mất.
Có thể nói vậy. Trong hình dung của tôi, cô không chuyển tới chỗ khác mà bị một quyền năng mạnh mẽ áp đảo nào đó đưa đi xa. Thật phi lý, tôi liên tục nhủ thầm. Tôi trút cơn giận lên thế lực giả tưởng vô hình đã cướp mất Sayuri.
Hệt như thêm dầu vào lửa, càng tìm cách trút giận, tinh thần lẫn thể xác tôi càng bị thiêu đốt. Mệt nhoài rồi thẫn thờ. Ủ rũ chưa được bao lâu, nỗi bực bội lại phun trào. Vòng luẩn quẩn ấy tái diễn hết lần này tới lần khác.
Bởi tôi không có phương hướng cụ thể để giải tỏa mớ cảm xúc ấy. Đối tượng mà cơn giận nhắm đến không rõ ràng, đó là điểm bất lợi. Nếu không giải tỏa được tâm trạng bực bội, tôi sẽ bị ám ảnh mãi mãi.
Takuya ngồi trên ghế trước bàn thao tác, chăm chăm nhìn tường. Tôi đi vòng vòng quanh Velaciela chưa hoàn chỉnh. Chân đã mỏi nên tôi dừng lại. Thật tình cờ, đó cũng là chỗ Sayuri mơ màng áp má lên khi chúng tôi cho cô xem chiếc máy bay lần đầu tiên.
Tôi đứng ở nơi Sayuri từng đứng, đặt đầu ngón tay lên chỗ Sayuri từng chạm vào.
Sawatari.
Velaciela sẽ ra sao đây.
Mình hứa chở bạn bay mà.
Bạn bỏ mặc Velaciela của bạn mà đi sao.
Đang thầm lẩm nhẩm, tôi bàng hoàng nhận ra mình vừa nói Velaciela thuộc về Sayuri. Chẳng biết từ bao giờ, tôi không làm máy bay cho mình nữa mà làm cho cô. Tôi chế tạo Velaciela vì hẹn ước với cô. Giữ lời hứa với Sayuri là việc quá đỗi hiển nhiên, tới giờ tôi mới nhận ra nó đã trở thành động lực của tôi bấy lâu nay.
Sayuri không còn ở đây, thứ gì đó cũng biến mất theo. Tôi nhận ra bầu nhiệt huyết mình dành cho Velaciela giảm sút rất nhiều. Sự thật ấy buộc tôi nếm trải cảm giác nóng lòng đến tuyệt vọng, khi cố theo đuổi thứ vĩnh viễn không tìm lại được.
Chúng tôi dự tính hoàn thành Velaciela sau một tuần làm việc nữa. Ngày đâu tiên sau khi Sayuri biến mất, tan học, tôi và Takuya rời trường trên tàu tuyến Tsugaru, tiếp tục hoàn thiện máy bay ở nhà ga bỏ hoang như thường lệ. Điếm khác với mọi khi là cả tôi và cậu đêu ủ rũ, công việc chẳng tiến triển chút nào.
Ngày thứ hai, Takuya không tới nhà ga bỏ hoang. Tôi đợi Takuya trên sân ga Minami Yomogita, nhưng tàu đến vẫn chưa thấy bóng dáng cậu đâu, tôi đành lên tàu. Liên tục gặp chuyện không hay, có khi cậu đã bị cảm.
Tôi lủi thủi gia công Velaciela. Đến giai đoạn này, phần do tôi và Takuya phụ trách hoàn toàn tách biệt, làm một mình cũng không vấn đề. Nhưng giữa chừng tôi đâm nản, bỏ dở công việc, quay ra ném đá xuống hồ cho đến khi mặt trời lặn.
Ngày thứ ba, Takuya xuất hiện ở ga Minami Yomogita đúng giờ. Dường như cậu không định giải thích cho sự vắng mặt của mình hôm trước.
Ngày thứ tư, Takuya lại không đến.
Ngày thứ năm, tới lượt tôi không lên ga.
Áy náy vì việc này, tôi cố ý tránh mặt Takuya ở trường vào hôm sau. Nhưng tôi lại thất vọng khi không thấy bóng dáng cậu trên sân ga Minami Yomogita, dù biết mình chẳng có quyền làm thế. Lên đến nhà ga bỏ hoang, tôi phát hiện hôm qua Takuya cũng không tới. Trong cuốn sổ theo dõi tiến độ công việc không có ghi chép mới của cậu.
Tiếng thở dài của tôi vang vọng vô nghĩa khắp xưởng máy bay thênh thang. Tôi mệt rồi, tôi biết. Tôi muốn nghỉ ngơi. Vài năm nay tôi chưa từng có ý nghĩ đó. Nói gì thì nói, trước khi gặp Takuya, tôi vẫn cần mẫn làm mọi thứ một mình mà chẳng bao giờ thắc mắc. Nhưng bây giờ tôi nhận ra, đơn độc không hề dễ chịu.
Ngày thứ bảy, rồi ngày thứ tám, tôi không đến nhà ga bỏ hoang nữa. Tôi định bụng sẽ đổi ý, "đi làm" nếu gặp Takuya ở sân ga, nhưng chẳng thấy cậu đâu.
Tuần tiếp theo, có ngày tôi lên ga, có ngày không. Dù đi, tôi cũng chỉ thẫn thờ ngắm trời ngắm đất rồi về.
Mùa chuẩn bị lễ hội trường tới gần, trường học trở nên náo nhiệt. Vì lý do nào đó, trường cấp hai tôi học tổ chức lễ hội sớm hơn các nơi khác. Phải rồi, chúng tôi đã lén cho chiếc phi cơ mô hình bay tầm này hai năm trước. Nhớ lại kỉ niệm đó, lòng tôi vừa bồi hồi vừa đau đớn.
Hôm ấy, do đàn em ở câu lạc bộ bắn cung giữ lại hỏi về việc tổ chức lễ hội trường nên tôi về muộn, phải đón chuyến tàu câu lạc bộ lâu rồi chưa đi.
Dù giờ đợi tàu khác mọi ngày, tôi vẫn đứng trên sân ga ở vị trí thường lệ theo thói quen. Thế rồi tiếng bước chân quen tai cùng giọng nói mà tôi biết rất rõ tiến tới gần. Tôi vô thức đưa mắt nhìn.
Chưa quay sang tôi đã biết đó là Takuya. Nhưng tôi vẫn hơi ngạc nhiên khi thấy cạnh cậu còn có một cô gái dễ thương bám sát rạt. Chính là đàn em của Takuya ở câu lạc bộ trượt băng tốc độ, Matsuura Kana. Bất chấp cái nóng gay gắt sót lại từ hè, Matsuura dính lấy Takuya như sam, nhìn kiểu gì cũng không giống thành viên cùng câu lạc bộ tình cờ đi với nhau.
"Cái gì đây?"
Đó là lời đâu tiên tôi thốt ra. Hình như nét mặt tôi rất khó chịu, dù tôi không nhận thấy. Matsuura Kana tỏ vẻ sợ sệt.
"Cậu hỏi 'Cái gì đây' là có ý gì?" Takuya đáp trả bằng chính câu nói của tôi.
"Cậu..." Tiếng tôi hơi run. Tôi định nói "Cậu tính sao với chuyện của Sayuri", nhưng kìm lại ngay. Không được để Matsuura biết.
"Chuyện đó vô phương rồi còn gì." Takuya cũng tránh dùng danh từ riêng. "Bế tắc rồi. Đâu thể nghĩ ngợi mãi."
"Velaciela thì sao?"
"Nó..." Giọng Takuya thoáng lạc đi. "Tôi rút lui. Tôi nản rồi. Cậu tự làm nốt đi."
"Cậu đùa hả? Thôi đi... Đừng nhắc đến chuyện từ bỏ. Bọn mình hứa sẽ cùng tới đó cơ mà?"
"Thật đấy, tôi oải rồi..." Giọng cậu thực sự mệt mỏi. Thú thật, không phải tôi không hiểu cảm giác chán chường đó. "Chuyện tới nước này chắc là do số mệnh. Có lẽ giờ là lúc thích hợp để dừng lại..."
"Cậu!" Tôi hét lên giận dữ. "Định chống chế hả!"
"Chống chế thì sao?"
"Thái độ đó không hợp với cậu. Đây không phải cách hành động của cậu. Cậu đâu phải đứa như thế. Thôi đi, đừng ra vẻ nữa."
"Cậu biết gì về tôi mà nói?" Takuya đáp trả bằng lý luận cũ rích, tệ hơn cả lời thoại phim truyền hình hạng ba... "Cậu làm tôi buồn nôn. Đừng có lên cùng toa với tôi."
Dứt lời, cậu kéo Matsuura ra xa, đứng chờ tàu ở chỗ chút nữa toa bên cạnh sẽ đỗ. Tôi nhìn theo cả hai, nửa cáu tiết, nửa thẫn thờ. Cô bé Matsuura tò mò quay đầu nhìn tôi mấy lần, còn Takuya nhất quyết không thèm ngoái lại.
Tàu đến, tôi bước vào. Cứ nghĩ đến việc cậu đang ở toa bên cạnh là tôi lại bực mình, bứt rứt rồi bắt đầu rung chân. Vốn dĩ tôi đâu có thói quen xấu này.
Quá khó chịu, tôi chẳng còn hứng lên nhà ga bỏ hoang vào hôm ấy, bèn về thẳng nhà.
Ngày hôm sau, tôi cố gắng xốc lại tinh thần rồi mới lên ga. Tôi làm thế vì ác cảm dành cho Takuya. Trước giờ tôi vẫn làm mọi thứ một mình. Nếu cậu muốn rút lui, tôi sẽ tự hoàn thành công việc cho cậu biết mặt.
Bước vào xưởng máy bay với thái độ quả quyết, tôi vẫn bị đả kích nặng nề đến không ngờ khi đối diện với không gian trống vắng, chỉ có tiếng động do chính mình tạo ra.
Dẫu vậy, tôi vẫn cố vực dậy tâm trạng để làm việc. Nhưng tôi không nghe thấy tiếng rè rè khi ổ đĩa cứng tìm đọc dữ liệu hay âm thanh lách cách phát ra từ bộ bàn phím cơ ưa thích của Takuya ở đằng xa. Sự thiếu vắng đó ảnh hưởng đến tôi nhiều hơn tưởng tượng.
Mọi thứ bỗng trở nên trống rỗng. Tôi bủn rủn, buông rơi dụng cụ đang cầm trên tay.
Mình đang làm gì thế này?
Bỏ ra ngần ấy thời gian, công sức, tiền bạc có nghĩa lý gì đâu, khi không còn người bạn chung vui, cũng chẳng còn cô gái vỗ tay khen ngợi trước thành quả thu được.
Tôi bước từng bước, chậm chạp xuống khỏi thang xếp nhôm, ngồi xổm trên mặt đất. Chỉ còn mình thôi. Lúc hoàn thành. Lúc cất cánh, lúc tới đích. Sao mà nhàm chán đến thế.
Từng chút, từng chút một, sức lực bị rút kiệt khỏi cơ thể như nước bị vắt khỏi tấm giẻ lau. Tự lúc nào không hay, cả người tôi thành ra bải hoải.
Sayuri, tại vì bạn không còn ở đây đó. Tôi nói thầm trong lòng. Sự hiện diện của bạn có ý nghĩa quá lớn. Bọn mình lệ thuộc vào bạn nhiều quá. Bạn đi rồi, bọn mình không vận động nổi nữa.
Vô vọng rồi. Không thể làm tiếp được.
Nguồn năng lượng thôi thúc chúng tôi hành động, dẫn đường cho chúng tôi tiến về phía trước đã biến mất. Tôi tháo túi đựng dựng cụ đeo bên người, ném đi.
"Đủ rồi."
Takuya đã nói vậy. Cậu luôn đưa ra quyết định rất nhanh chóng.
Đúng thế. Đúng như cậu nói. Đủ rồi. Mọi chuyện ra sao cũng được.
Tôi bước ra ngoài xưởng máy bay, khép hai cánh cửa lớn lại, dùng khóa xích quấn chặt tay nắm cửa, cài thêm ba lần khóa bấm, đóng kín hoàn toàn cửa trước.
Tôi vào trong qua cửa sau, đeo cặp lên. Tiếng bước chân vang to đến khó chịu. Không hiểu sao, tôi cảm thấy bồn chồn.
Tôi tới trước bảng điện, gạt cầu dao xuống. Một tiếng "cạch" vang lên, đèn trong xưởng tắt phụt. Trong không gian đã chết, trông Velaciela như một bộ xương mô hình ở viện bảo tàng.
Tôi ra khỏi xưởng từ cửa sau, khóa cửa, chôn chùm chìa khóa xuống đất. Rồi tôi thẫn thờ bước về phía con đường xuống núi. Hành lý nặng thật. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó nặng. Này, mày đang xuống núi đó, tôi tự nhắc nhở. Tôi bị làm sao vậy nhỉ.
Tôi đặt chân tới cửa rừng. Quay đầu lại, tôi thấy xưởng máy bay với cánh cửa bị dây xích khóa kín nằm im lìm đằng xa. Trông nó thật tả tơi.
Ở rất xa sau xưởng máy bay là ngọn tháp, thẳng tắp và xinh đẹp như trước giờ. Tôi lại tưởng tượng ngọn tháp kêu tên mình như mọi khi. Nhưng lần này tôi còn có cảm xúc khác. Tôi quay lưng với ngọn tháp, ngỡ mình đang bị nó trách cứ vì hành động ấy. Ngọn tháp vẫn thu hút, mời gọi tôi. Tôi thương hại chính mình, đến mức nước mắt chực trào ra. Tôi nghiến chặt răng vì tức giận và căm ghét khi thấy bản thân như vậy.
Đừng gọi tôi.
Đừng mời mọc tôi.
Đừng làm tôi thêm ngưỡng vọng...
Tôi dấn bước thật mạnh, nhưng đôi chân lập tức rã rời, chỉ biết cúi đầu lê bước.
Tôi chìm trong ảo ảnh ngọn tháp sau lưng đổ xuống men theo vòm trời, đè lên đầu mình. Tôi hối hận. Tôi muốn xóa bỏ thứ từng dốc hết tâm huyết để chế tạo, niềm khao khát ôm ấp suốt bao năm, và cả dư âm tha thiết của hai chữ "hẹn ước" mà Sayuri nói.
Đừng nhìn tôi.
Tôi thì thầm với ngọn tháp.
Tôi muốn đi đến nơi mà ngọn tháp nằm ngoài tầm mắt.
Đương nhiên đây là lần đầu tiên tôi nghĩ vậy. Nhưng ý nghĩ thoáng qua ấy cứ lớn dần trong đầu tôi, như một cái bong bóng không ngừng phình to.
Tôi không muốn thấy ngọn tháp nữa. Nó đã vượt quá sức chịu đựng của tôi. Vết tích chiếc máy bay tội nghiệp bị bỏ rơi khi còn dang dở hay hình bóng thi thoảng lại vô cớ hiện ra của Sayuri cũng thế. Tôi muốn tránh xa những thứ ấy.
Tôi muốn rời khỏi đây.
Tôi nhớ ra Sayuri từng nói điều tương tự. Thế ư? Chính vì thế cô mới biến mất chăng?
Nghĩ vậy, ý muốn đi thật xa bỗng trở nên thực tế đến lạ.
Tôi về nhà, thận trọng cân nhắc. Mùa xuân năm sau chính là thời điểm quyết định. Phải nắm lấy cơ hội này. Tôi chuyên tâm nghiên cứu sách hướng dẫn tuyển sinh và các trang thông tin tuyển sinh trên mạng. Qua đó tôi biết một trường cấp ba tư thục trên Tokyo, nổi tiếng nhờ tỉ lệ đỗ đại học cao, có chế độ ưu tiên dành cho học sinh từ tỉnh lẻ lên thủ đô. Bài thi đầu vào khá khó, nhưng tôi tin mình có thể đỗ nếu học hành nghiêm túc ngay từ bây giờ.
Sau khi tôi dành vài ngày thuyết phục, bố mẹ đã cho phép tôi thi vào trường cấp ba đó. Tôi vin vào luận điểm rằng, nếu mong vào được trường đại học tốt ở Tokyo, thay vì ở lại trường làng với nguồn thông tin ít ỏi, học trường điểm trên thủ đô, nơi có chương trình ôn thi chuyên sâu hiệu quả hơn nhiều.
Thế rồi tôi lao vào học với khí thế điên cuồng để lấp đầy lỗ hổng kiến thức từ trước tới giờ. Đó là kiểu học nhồi nhét chán ngắt, nhưng tôi lại giỏi việc đặt mục tiêu, xây dựng và bám sát lộ trình. Những lúc ngồi lì bên bàn học, vẽ đường phụ lên đồ thị hàm số, học thuộc cách dùng trợ động từ, tôi không nghĩ tới ngọn tháp hay Sayuri nữa. Càng tốt.
Thỉnh thoảng tôi có chạm mặt Takuya trên hành lang, nhưng cả hai đều thấy khó xử và áy náy, nên thậm chí chẳng mở miệng chào đứa kia. Nói theo kiểu trẻ con thì chúng tôi đang "tuyệt giao". Quả là sự thay đổi lớn so với dạo trước, khi mà ngày nào hai đứa cũng dính lấy nhau. Nghĩ đến đó tôi không khỏi đau lòng, nhưng mặt khác, giờ tôi có rất nhiều mục tiêu mới, cũng chẳng muốn tâm trạng mình bị xáo trộn thêm.
Cứ thế, học kì hai kết thúc, kì nghỉ đông bắt đầu, học kì ba chìm trong không khí ôn thi cũng trôi qua trong chớp mắt.
Tôi đỗ trường cấp ba mong muốn với số điểm suýt soát.
Tôi không biết Takuya học lên trường nào, cũng không có ý định tìm hiểu.
Thú thật, sau khi tình bạn thân thiết với Takuya đổ vỡ, tôi đã hơi giận Sayuri. Dù tôi biết làm thế là vô lý.
Giận cũng chẳng thay đổi được gì. Giờ nó đã là thứ nằm ngoài tầm với. Tôi cũng hiểu rõ, thật ra Sayuri không có lỗi. Chính vì thế tôi mới cam chịu. Đời là vậy, phải chấp nhận thôi.
Có điều, nhìn từ hậu quả thì đây không phải chuyện có thể cam chịu. Mãi sau này tôi mới hiểu ra điều ấy.
Tôi thích Sayuri. Tôi thích cả Takuya. Mất đi hai người họ, một điều gì đó trong tôi đã sụp đổ hoàn toàn.
Tôi cố gắng quên cả hai nhưng không sao quên được. Còn nhớ tức là còn đau khổ.
Có những kí ức dễ dàng phai nhạt. Có những kí ức dẫu muốn cũng chẳng thể xóa nhòa. Và có những kí ức nhất định phải khắc ghi.
Tôi đã nghiệm ra điều đó, dù vốn dĩ tôi không hề muốn hiểu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro