Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

đoạn kết mới

Truyện có rất nhiều yếu tố lịch sử, các nhân vật hư cấu không có thật. Bất cứ sai sót nào xin hãy cmt cho mình biết để sửa lại kịp thời.

Năm nhân vật Hân, Trí, Lân, Tuệ và Nhân đều là năm thành viên NewJeans.

Oneshot dài hơn 25k chữ, nếu làm ngốn nhiều thời gian của bạn thì xin cực kỳ cân nhắc trước khi đọc =))))), vì mình ngồi đọc lại để check chính tả cũng muốn bở hơi tai.


1.

Mùi ớt cay nồng xộc lên mũi.

Sài Gòn dạo này bụi bặm gớm, không phải bụi do người Sài Gòn, tôi đã không còn thấy người Sài Gòn chính gốc xuất hiện trên phố nhiều như trước.

Xóm tôi, khu xóm Gà, một cái xóm nhỏ chen chúc giữa hàng trăm xóm khác trong lòng thành phố, nghèo nàn và xập xệ. Thực ra khu nào cũng thế, dưới chính quyền mục rữa và thối nát này thì đành chịu, nhà nào mà phất lên cho nổi. Thỉnh thoảng mới lòi ra được vài ba hộ gia đình làm cho sở Mỹ, làm cho chính quyền Sài Gòn, rồi cút theo bọn Mỹ luôn. Chúng nó giàu nhờ vào tiền Mỹ, cái bọn chó đẻ, tôi vẫn hay nghe mấy cô mấy chú mấy dì quanh khu tôi ở chửi đổng mỗi khi trong xóm có đàn bà con gái dọn theo lấy mấy thằng Mỹ.

- Đồ trắc nết! Mỹ nó qua cướp nước mình, giờ đu theo chẳng khác gì làm cái máy đẻ cho nó.

Đó là khi tôi nghe người lớn truyền tai nhau rì rầm sau lưng chị Thuý, sống sát bên nhà tôi.

Chị Thuý trước có ba làm cán bộ, giờ ba mất thành ra mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tưởng chị cứ thế lấy chồng rồi lo lót chăm cái bàn thờ quanh năm nhan khói, nhưng hôm nọ, tôi và tụi con Tuệ thấy chị đi theo sau một thằng Mỹ đen. Tôi lo sốt vó, con Nhân xám ngoét cả mặt, nó trờ tới, níu áo chị nhè nhẹ:

- Chị bị bắt rồi há?

Chị sững sờ, chưa kịp trả lời thì con Nhân đã bị bà Ba kéo tay lại:

- Tụi bay đi vô trong! Hạng đàn bà con gái như nó không đáng để tụi mày hỏi. Biến, biến vô! Đừng có xớ rớ ở đây.

Tôi chỉ nhớ thoáng qua. Thằng Mỹ đen nán lại trừng mắt nhìn bà Ba, bà khựng lại hằm hè liếc nó. Thằng Mỹ hỏi chị Thuý gì đó, tiếng tây tiếng u gì ai mà biết, chị cười cười gật đầu, sau đó bỏ đi một nước, chẳng thèm chấp nhặt chuyện bà Ba hạnh hoẹ mình.

Trước khi đi, tôi nhác thấy gương mặt chị như mớ lọ nghẹ dưới cái đít xoong của má, như bầu trời u ám ngày mưa. Chị cười với bọn trẻ chúng tôi, khi ấy vẫn là đám lóc chóc chẳng kịp hiểu chuyện.

Lớn lên một chút, nghe người lớn nhắc lại về chuyện những người con gái như chị Thuý, tôi mới vỡ lẽ một nỗi thất vọng to lớn. Ba chị trước là cán bộ, vì dân vì nước mà bỏ mạng oanh liệt nơi chiến trường, giờ chị rước thằng Mỹ đen bự thù lù về nuôi, không biết ba chị trên bàn thờ thấy sao. Những lúc ấy, khi đang học trung học, tôi thường nghĩ về chị rồi thở dài với con Tuệ:

- Buồn quá mày ơi, trước chị Thuý đâu có như vầy.

Tuệ cầm chai xá xị con cọp của nó cụng vào miệng chai thuỷ tinh của tôi, tạo ra âm thanh leng keng:

- Giàu vậy ai mà chả khoái? Ờ mà có tao là không, ai chứ giàu nhờ mấy thằng Mỹ thì có cho tao cũng không thèm!

Nó đinh ninh, tay vỗ bôm bốp vào đùi. Tôi huých vai nó trêu:

- Ai cho mà đòi hả mậy?

Chị Thuý trước từng làm cho một cái xưởng giày tuốt bên Củ Chi, chỉ đủ để nuôi sống qua ngày. Bỗng từ dạo cái hôm chị nghỉ làm ở xưởng, tôi cứ thấy chị lảng vảng quanh tửu lầu Á Đông, khi thì đi với mấy cô mặc sườn xám xẻ sâu, khi thì đi với Mỹ trắng Mỹ đen. Rồi đùng một cái, chị rước thằng Mỹ về nhà, không một ai thèm bắt chuyện với chị nữa, và có lẽ chị cũng chả cần họ, bọn nó đủ nuôi cái miệng chị và thằng chồng Mỹ của chị rồi.

Chị Thuý từng nán lại vài tiếng đồng hồ chỉ để kể về lịch sử hình thành Đảng Cộng sản cho con nít trong xóm nghe. Hồi ấy chị theo chân ba đi làm nông, cuốc đất, gặt lúa, ba chị cứ đỡ đần được cái tay cái chân là hoạt động bằng cái miệng. Nhìn cái cách kể chuyện với đôi mắt lấp lánh của chị, ba chị yêu nước, yêu bác Hồ lắm.

- Sau này tao mà chết vì súng đạn thì mày cũng phải chết vì súng đạn, nghe con?

Ba chị dặn thế, sau này, chị lấy thằng Mỹ, nhưng chết vì cái gì thì chưa biết, vì chị chưa có chết, chị vẫn sống sờ sờ ở đây, vẫn sống dưới sự cay nghiệt và cạnh khoé của bà con chòm xóm.

Tôi thương chị Thuý, thương vì tình yêu nước lớn lao mà chị được ba truyền lại. Rồi thằng Mỹ về, tôi hết thương, nhưng không đâm ra ghét bỏ như bà con. Tôi chỉ giữ lại một dấu chấm hỏi lớn về chị, sau đó thôi không chuyện trò với chị nữa. Trước kia chị còn hay kể về Đảng, về cách mạng, con nít nghe, tụi nó khoái chí cũng đòi sau này làm cán bộ. Giờ tôi mà nán lại thì nghe được gì ngoài những tiếng thở dài sầu não và cả những lời than thân trách phận đây?

Người chị tin, con nhỏ Hân lóc chóc, chính là tôi đây. Tôi cũng bỏ chị, chị đâm chán nản, nản vì sự đối đãi bạc bẽo mà bà con dành cho chị, vì thế mà chị dứt áo đi, dẫu cho cái xóm nhỏ này gắn bó cùng chị hơn hàng chục năm trời. Giờ lòi ra một thằng Mỹ đen, hộ dân cư nuôi giấu cán bộ quanh vùng mà bị chính quyền phát hiện, chỉ có nước ra đảo sớm. Con Trí chắc mẩm như thế, chị không muốn hại cán bộ nên mới chuyển nhà lên khu xóm trên, chứ tôi chẳng là cái thá gì trong mắt chị.

- Nói cứ như chỉ ghét tao lắm.

- Chỉ ghét cả cái xóm mình chứ riêng gì mày đâu mà mày làm màu quá.

Trí càm ràm khi tôi nhắc về chị, có lẽ nó chán chị Thuý lắm rồi. Cũng như dân quanh đây, nó chỉ muốn chị đi cho khuất mắt nó, đi cho khuất mắt đồng bào, theo tiếng gọi tư sản.

- Người Sài Gòn chánh cống như tao với mày mà sao khó sống ở đây ghê, cứ trốn chui trốn nhủi như chuột.

Trí lại than.

Lại nói về chuyện nuôi giấu cán bộ, hồi ấy có bà con người quen của ba tôi lên trao đổi chuyện giấy tờ, xin ba tôi nhận nuôi giùm mấy thằng nhỏ ở dưới tỉnh. Ngày chú mang cả đám lên, gia đình tôi mới tá hoả, hoá ra mấy thằng nhỏ mà chú nói đều gần trạc tuổi ba tôi, nhìn là biết cán bộ liền. Thì bởi, ba tôi đến giờ vẫn theo hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi, nay gặp hai ông chú từ trên trời rơi xuống thì chưa đợi mẹ tôi đồng ý đã sốt sắng nhận người thân. Chú Sáu, chú Dân, mỗi người đều có việc riêng, người thì đi bán cơm, người đi bán cà rem dạo,...

Chú Sáu kể, chú đẩy xe cà rem dạo trước trường tiểu học Bình Tây, một đồng một cây cà rem dừa. Bảo bán thế thôi chứ thực chất chú đi kiếm tin tình báo. Hôm đó mà kiếm đủ tin để về báo cáo là chú phát hết cà rem cho tụi học trò luôn, đẩy cái xe con không đi về. Nghe chú kể, tôi, con Trí, con Lân trách:

- Kì quá hé, dư cà rem mà không đem về cho tụi con.

Chú cười khì, bảo để hôm khác.

Mấy lần tụi cảnh sát chìm của chính quyền đánh hơi được, mò theo má tôi dò hỏi. Má về, không quên kể cho mấy chú nghe, còn dặn tôi cẩn thận:

- Sau này ai mà hỏi thì nói mấy chú là anh em của ba, con của thím Tư, biết chưa?

Tôi chỉ đành gật đầu vâng dạ.

Nhà nhỏ xíu, nuôi thêm hai cái miệng ăn cũng là một vấn đề lớn. Mấy chú lấy tin tình báo rồi lo đi suốt ngày, chỉ thấy mặt trong giờ cơm. Cái vườn phía sau nhà, ba tôi cố ý đào hố thật to, cất giữ vũ khí, mấy khẩu thompson trộm được từ quân Sài Gòn. Chôn thật kín, sau đó ai nấy đều tự mình khoác lớp áo của dân thường, tiếp tục hoạt động.

Ba dặn không được kể ai, nhưng bí mật quá đỗi to lớn ấy không thể nào được giữ bởi một đứa con nít, tôi rỉ vào tai bọn con Tuệ, tụi nó trầm trồ:

- Ghê quá hén, mốt cầm khẩu súng ra nã bọn Mỹ đi mày.

- Mày vừa rớ vô là tụi Mỹ chặt đứt tay liền, bày đặt làm bộ làm tịch hả?

Tụi tôi lại nhao nhao cười ầm.

Sài Gòn mà tôi từng biết, à khi tôi chào đời đã là như vậy. Người Sài Gòn, người con Sài Gòn, đẻ ra trên đất Sài Gòn, sống trên đất Sài Gòn thật khép nép và tù túng. Tôi tự thấy trời cao vời vợi cứ như một cái lồng chim bằng tre, nhốt chúng tôi vào trong. Bí bách quá, dẫu cho có đang đạp xe vi vu ngoài phố phường, tôi vẫn thấy thật khó thở.

Tự dưng tôi ghét cái nơi tôi sống quá, nhưng cũng thương quá.

- Ê đứng lại!

Một thằng cha người Tàu, đầu tóc xoăn tít, da dẻ ngăm đen ngoắt xe tôi lại. Tôi lịch sự thắng xe, nghe một cái kít:

- Ngộ đang bận, chuyện gì không?

Đây là một kiểu chào hàng rong quá đỗi quen thuộc với dân thành thị. Thằng chả cầm cái mẹt đựng mấy bao thuốc lá ra đứng dang dang trước xe tôi, nếu là như mọi khi thì tôi giả điếc lướt qua, nhưng sực nhớ tới mấy bao thuốc rỗng ở nhà của chú Dân, tôi thò tay vào túi:

- Bao nhiêu một gói?

- Ruby 15 đồng.

Tôi chưng hửng:

- Mắc quá! Ngộ mua của cái sạp kế nhà có 13 đồng. Vậy thôi ngộ dông hà!

Tôi trèo lên lại yên xe, định nhấn bàn đạp, ổng níu cái ghi đông xe đã bong tróc sơn:

- Hầy da! Nị thương ngộ với, sáng giờ bán chác được mấy đồng đâu, thôi 13 đồng đó.

Nghe có thế, tôi hí hửng nhét tiền vào tay ông già, nhón tay lấy gói Ruby cho vào túi. Thực ra sạp kế nhà tôi bán tới 14 đồng, lời được một đồng cũng vui rồi.

Một Sài Gòn.

Tôi tạt qua Chợ Lớn, định bụng mua cái gì đó lót dạ rồi mới về. Sẵn tạt qua hàng bánh cóng thơm điếc lỗ mũi, tôi dừng lại mua vài ba cái, rồi lại lông bông té sang sạp nước ép, nước mía của bà Tám, rồi lại quay đầu xe về hàng cà phê rang mua cho ba.

Đột nhiên tôi muốn sống lại những ngày tiểu học, dù giờ tôi đã là cô sinh viên.

Thuở bé, mưa mùa hè, dù Sài Gòn chỉ có hai mùa khô và mùa mưa, nhưng tôi cứ thích gọi mỹ miều là mùa hè, cho nó oách. Tôi thường lén ba mẹ trốn ngủ trưa, cùng đám thằng Gù, thằng Đực sang bờ ruộng để xúc cá, mò ốc. Tôi không rủ đám con gái đi vì biết thế nào tụi nó cũng sợ dơ quần áo, đứng phía trên bắt đám con trai nai lưng mò cá lòng tong cho tụi nó. Bắt được chừng lưng lưng cái lon sữa đặc, cá nhảy liên hồi là tôi toàn bỏ về trước.

- Hân, con ếch nè mậy.

- Hay à, để tao đem về hù tụi con Nhân chơi.

Thằng Đực nghe thế, giựt con ếch lại:

- Thôi, mày đụng vô là hư chuyện hết, ếch đem về nấu cháo hổng phải ngon hơn sao?

- Chí phải!

Tụi con trai đồng thanh, tôi xí một tiếng, ôm lon sữa chất đầy cá chạy về.

Những hôm mò được quá chừng cá lòng tong ở dưới ruộng, tôi tranh thủ kéo quần với đôi dép lê sứt sẹo chạy về thật nhanh, cho miếng mỡ miếng mắm làm một chảo mắm kho quẹt thiệt kẹo, sót chút tóp mỡ thừa thì cho hết cả vào trong, rồi cắt hành, ớt thật nhuyễn. Vậy là xong một bữa cơm. Chỉ vậy thôi mà nồi cơm hôm nào cũng sạch bách, không còn một hột sót lại.

Con Tuệ lâu lâu lườm liếc tôi:

- Mày ngon quá hé?

- Ngon gì kệ tao.

- Trốn ngủ trưa mà còn dám mò theo thằng Đực hả?

Con Tuệ không ưa thằng Đực, chỉ vì thằng Đực khoái nó. Ờ, tôi cũng không hiểu.

- Mày thích nó thấy mồ mà bày đặt.

Nó vỗ đầu tôi:

- Thích cái đầu mày, báo cha báo mẹ, cái thằng cả tuần không thèm tắm, người ở dơ hôi rình mà mày xui tao khoái hả?

Tôi cười hí hí:

- Tưởng mày khoái mùi nước mắm chớ?

- Thằng quỷ sứ đó thúi như mắm thiu, thấy mà ghê. Nít nôi bày đặt yêu với đương.

Con Tuệ lúc nào cũng nói về Đực một cách chua ngoa. Tôi kể lại cho Đực, thằng nhỏ thở dài:

- Ai mượn mày nói tao thích nó vậy?

- Tao nói hồi nào, tính ra nó nói tao mới biết luôn ấy chớ cha?

- Ủa? Sao nó biết hay vậy cà?

Đực không biết, cách con nít thích thầm nhau thật lộ liễu, điển hình là nó. Nó thích con Tuệ mà muốn cả làng đều biết, nó đẩy đưa, liếc mắt tình tứ với con Tuệ hoài mà con nhỏ thì cứ chăm chăm vào đâu. Tuệ bảo, nhìn thằng Đực là nó đã buồn ói rồi.

Tôi buồn cười nhìn Đực rờ cằm, miệng chửi:

- Tại mày ngu.

Tuổi thơ của tôi, của chúng tôi gắn liền với rất nhiều những câu chuyện về người lính, về cán bộ, về chiến sĩ cách mạng.

Một phần là chị Thuý kể, phần còn lại là con Lân kể.

Hầu như ba đứa nào cũng làm cán bộ, người thì hoạt động ngoài Bắc Kì, người thì đi đưa tin tình báo. Nhưng chấn động nhất, có lẽ là cái ngày mà ba con Lân bị chính quyền bắt.

Hôm đó gió thổi nhẹ, mấy cây bông giấy hồng tím trước cửa nhà tôi cứ xào xạc, tôi nghe tiếng đập cửa:

- Ông Hai đâu?

Một đám người, mặt mày hầm hầm sát khí đập cửa nhà con Lân. Hai má con nó trong nhà nghe tiếng quát, mò ra bằng cửa sau qua nhà tôi, ba nó ra tiếp:

- Mấy ông kiếm tôi có chuyện chi đây?

Tiếp đó, tôi không còn nghe thấy gì nữa, tiếng chửi bới, tiếng ông Hai gào toáng lên, tức ba con Lân dần chìm vào hư không. Đám lính Sài Gòn của hai thằng Mỹ - Diệm còn xét thêm vài nhà nữa mới bỏ đi. Mẹ con nó ôm nhau ngồi bệt dưới nền nhà khóc tu tu.

Ba nó bị bắt, hai ông tướng cán bộ nhà tôi cũng giật thon thót, ba tôi vẫn bình chân như vại, đủ bình tĩnh dưới sự tra khảo của chúng. Nghe đâu đó bảo ông Hai bị đày tuốt ra ngoài Côn Đảo, mỗi lần nhắc đến nhà tù Côn Đảo là ai cũng lạnh sống lưng, sợ toát mồ hôi.

Con Lân kì đó khóc đến sưng đỏ mắt. Tới giờ khi cả bọn đã là sinh viên đại học, vẫn chưa biết ba nó sống chết ra sao.

Tôi nghĩ vẩn vơ dưới hàng phượng đỏ rực một mùa hạ dài thăm thẳm. Chiếc xe của tôi lướt bon bon qua mấy hàng cây, nắng chiếu chếch lên từng quầy bán bún nước bên lề đường.

Lâu rồi tôi chưa sà xuống ngồi húp lấy húp để một tô bún, tô mỳ hay món ăn nước lèo nào đó. Tôi nhớ mùi sa tế, mùi tàu vị yểu ở những tiệm nước, mùi bánh bao nhân thịt, mùi mấy ổ bánh mì mới cáu nóng hổi. Tôi còn nhớ mùi sữa đậu nành thơm nức, mùi cà phê sữa đậm vị đọng lại ở đầu lưỡi.

Tôi nhớ Sài Gòn, dù tôi đang đạp xe giữa lòng Sài Gòn.

- Hân!

Trí từ đâu hì hục đạp xe vọt lên, tôi réo:

- Đi đâu đây mậy?

Nó vỗ vào túi đeo chéo:

- Mới học ca sáng về, cực chết mồ mày ơi. Nắng chói thấy mẹ, cháy da hết.

- Ghé qua sạp bà Lan không?

Bà Lan là cái sạp nhỏ đầu phố bán rau má đậu xanh. Nghe thế, mắt nó sáng rỡ:

- Dữ ta? Nay bày đặt bao uống nước nữa à?

- Xời, ly rau má mấy đồng bạc hổng lẽ tao ki bo với mày sao?

Tôi cười giòn:

- Chừng nào tao dắt mày vô tửu lầu ăn bể cái bụng bia mới làm Mạnh Thường Quân.

Nó cười ngặt nghẽo, hai đứa tôi đạp song song nhau. Đoạn đường về khu xóm sao lại dài quá chừng, rồi nó lại quay sang cười với tôi một cái, nhún người cong lưng vọt lên trước.

Con nhỏ này, sinh viên đại học tới nơi mà cứ như mấy đứa con nít, tôi mặc kệ nó muốn ăn thua đủ, đạp chầm chậm hưởng thụ Sài Gòn những dịp mưa về. Một Sài Gòn ảm đạm nhưng cũng không kém phần rực rỡ, sắc nắng ngả đầu lên vai tôi nhẹ hều, tựa làn khí mỏng.

Và dù Mẫn Trí có kề bên, tôi vẫn thấy nó thật xa xôi.






2.

Trí là đứa thân nhất với tôi, hơn cả con Lân dù con Lân gần nhà tôi hơn là nó, hồi bé mỗi lần Trí muốn sang nhà rủ tôi đi chơi thì nó phải đi ngược một vòng xóm, nhiều lúc tôi thấy tôi và nó cứ như hai miền cực Bắc và cực Nam của địa cầu, không chỉ về mặt địa lý mà cả về mặt tính cách lẫn ngoại hình.

Dù bây giờ đều là sinh viên, đều đã qua tuổi trưởng thành, người lớn chỗ tôi hay gọi nôm na là tuổi khọm, họ mặc định qua cái ngưỡng mười tám thì đều đã đủ nhận thức về xã hội, mà đã vậy thì ắt hẳn phải già lọm khọm rồi. Đang rửa mấy rổ rau sau hè, tôi nghe tiếng Trí gọi loáng thoáng:

- Hân!

- Đi đâu đây mậy?

Nó xách mấy giỏ đan bằng sợi mây đi tìm tôi, áo thun màu cháo lòng, cái quần cộc dài tới đầu gối. Dáng dấp đã là cô sinh viên nhưng tính cách trẻ thơ của nó cứ làm tôi liên tưởng đến Trí của những năm tiểu học, của những năm chạy lông nhông khắp trường Bình Tây.

Nhác thấy tôi lò dò bước ra hiên nhà, nó ôm mấy thanh sắt ngay hàng rào nhà tôi, la ỏm tỏi:

- Ra đồng bắt cá lòng tong. Sài Gòn dạo này mưa dữ quá, thiếu điều muốn cuốn phăng cả cái mái tôn nhà ông Bứ luôn kìa.

Vừa nói, nó giơ hai tay che che ngang đầu, làm điệu bộ mưa dột thủng mái khiến tôi phì cười. Tôi lật đật trở vô trong lấy cái áo gió mặc cho đỡ lạnh, nói trỏng với má:

- Con đi nghe má.

- Từ từ, đi đâu đó? Sắp giờ cơm tới nơi rồi, kêu con Trí nữa.

Tôi xỏ chân vào quai dép:

- Tụi con đi lát về liền, nay đi xúc cá về kho quẹt ăn.

Trời ủ dột âm u, tiếng đôi dép kêu lệch xệch dưới chân, một tay cầm giỏ đan mây, tay kia được Trí kéo đi xăm xăm qua mấy con phố nghèo gần đó. Phải tới thiệt nhanh, thiệt lẹ vì khéo mấy con cá lòng tong nhỏ xíu mà mập ú bị tụi con nít xóm Hằm xúc hết thì mắc toi. Cho dù ở nhà đã có sẵn đĩa tép rang và mấy con cá khô queo khô đét, bọn tôi vẫn quyết ghé qua mấy bụi nhỏ gần đó hái rau nhót về xào ăn cho đỡ ghiền. Khỏi cần nêm mắm muối bột ngọt nhiều nhặn gì, nhiều khi má chỉ xào với một chút mỡ heo cũng thơm nức cả khu, mỗi lần mâm cơm có rau nhót xào là mấy cu em tôi bu vào ăn lấy ăn để, tôi và Trí chỉ đành cười trừ nhường bát rau của mình cho hai chú và ba má.

Đôi dép sứt quai của Trí cứ chệch lên chệch xuống, mấy lần nó suýt đâm đầu rớt xuống mé mương, làm tôi cản lại không kịp. Tôi phải đỡ bớt một cái giỏ mây được giắt bên lưng quần, không ngớt miệng trách:

- Đầu óc để đâu mà đi xuống ruộng miết.

Nó cãi ngang:

- Mắt đâu có rớt? Chắc tại nay thiếu hơi cháo lòng nên nhức nhức cái đầu.

- Thôi mày ơi, đòi tao bao thì nói mẹ đi bày đặt bóng gió.

Trí cười khì. Đó là một xe bán cháo lòng, cháo huyết, dầu cháo quẩy chiên vàng giòn bóng lưỡng túc trực ngay bên lề đường cách trường cấp hai của tôi vài chục mét. Tôi hay rủ Nhân, Tuệ ra đây ăn lén Trí và Lân vì hai con nhỏ đó mỗi lần sà xuống sạp cháo là gần như muốn vác cả nồi húp sì sụp. Sợ không đủ tiền trả cho dù một tô đầy ú ụ chỉ khoảng năm đồng, tôi vẫn hay bao Nhân ăn một tô bự tổ chảng vì nó đòi, và cũng vì con nhỏ còi nhất đám chúng tôi nên nó xứng đáng được ăn nhiều.

Trí bất mãn về vụ ba đứa tôi, Nhân, Tuệ hay lén đi ăn riêng, nó trề môi:

- Mày với hai con quỷ kia bỏ tao với con Lân đi ăn quài, cãi dẻo quẹo cái mỏ chứ có bao giờ rủ tụi tao đi ăn đâu?

- Mày với con Lân ăn nhiều như con Đụt nhà tao, sao sánh được với hai đứa kia?

Đụt là con chó cưng của ba tôi, tính nó thấy người quen thì hiền như bụt chứ còn gặp mấy thằng cha cảnh sát chìm là sủa muốn đứt gân cổ. Đụt ăn rất nhiều, lắm khi nó còn ăn sang phần cám của mấy con heo ngay chuồng sau nhà. Nghe tôi so sánh nó với cái bao tử rộng mênh mông của con Đụt, nó nhảy dựng:

- Không có chửi chữ à nghen! Nghĩ sao mà kêu tao giống chó hả?

- Bậy! Tao bảo mày giống chó hồi nào?

- Chứ Đụt là mèo hả?

- Ý của tao là cái miệng lẫn cái dạ dày của mày hoạt động còn năng suất hơn cả chó nữa kìa.

Tôi cười khì khì, sợ bị nó thộp cổ được nên vọt chân chạy lên đằng trước. Trí ở phía sau cố bắt lấy tôi nên lắm lần bị hụt chân, té nhoài người xuống ruộng.

Rốt cuộc chiều đó, ngoài xúc cá, hái rau, hai đứa sinh viên lớn tồng ngồng là tôi và nó còn ngồi ngẩn ngơ mặc kệ giờ cơm để ngắm diều bay phấp phới trên trời của lũ mục đồng.

Nó hắt hơi vài ba cái, quần áo lấm lem bùn đất, gương mặt khó chịu lạ thường.

- Xắn ống quần lên mày ơi, lát cái quần mày mà luộm thuộm là dì Tám la tao chết.

Dì Tám, chú Tám là ba và má tôi. Tuy đã lớn nhưng ba má vẫn quan niệm rằng tôi cần được chăm sóc và suốt ngày dặn Trí phải canh tôi cẩn thận. Lắm lúc tôi tức mình thoát khỏi gông kìm của hai bậc phụ huynh, nó cười mỉa:

- Con gái con đứa mà chẳng nết na đoan trang gì hết.

Những lần như thế, tôi lại gõ vào đầu nó lốc cốc mấy cái cho có lệ.

Xắn quần lên theo lời nó, tôi bám thật chặt vào cánh tay của Trí, hai chân dò dẫm đi xuống làn nước đục ngầu ngay các khe hở. Trong khi tôi chưa kịp định thần, Trí đã cúi lưng xuống dội nước ào ào:

- Lẹ lẹ, mấy con cá bơi đi hết!

Nhìn dáng vẻ mải mê đuổi theo đuôi cá nhỏ của nó, bất chợt tôi thấy lòng mình vừa lạnh lẽo lại vừa ấm áp.

Ở Trí có một điều gì đó khó hiểu tồn đọng sâu bên trong tâm hồn nó, bởi vậy nên đôi khi tôi thấy Trí trưởng thành hơn nhiều so với bọn con Tuệ, con Nhân.

Ngay từ bé, nó đã khác biệt so với bọn trẻ con cùng thời. Nó xinh như một đoá nhài, tóc đen nhánh suôn mượt, cao hơn tôi nửa cái đầu nhưng không ốm đói như bọn trẻ chúng tôi, nó trắng như trứng gà bóc và có da có thịt hơn bọn tôi nhiều. Chưa kể nó còn rất lanh, tụi tôi lanh một thì nó lanh tới mười, chuyện gì khó cũng toàn cái miệng nó vọt lên đi trước tụi tôi một bước. Nhiều khi năm đứa con gái ra chợ là tôi được chứng kiến màn trả giá "miễn nói thách" đầy ngoạn mục của nó với mấy cô hàng rau hàng thịt. Làm sao mà nó có thể khiến mấy cô hạ giá một bó rau tươi mơn mởn xuống chỉ còn chưa tới một đồng?

Người lớn trong xóm ai cũng bảo nó trời sinh được cái miệng mồm mép, sau này đi làm chính trị gia đuổi Mỹ về nước. Nó nghe thế chỉ cười cười xua tay:

- Con đi lính bắn chết thằng Mỹ là oai lắm rồi, hơi đâu mà lên chức mấy ông bộ trưởng nổi.

Trời không đẻ ra cái đầu thông minh và ham học hỏi sẵn mà tự nó tìm tòi và khám phá. Cũng như tính cách hướng ngoại của nó là do nó dang nắng ngoài đường ngoài sá miết, giao du rộng rãi tùm lum người nhưng chẳng bao giờ thấy nó mò về nhà, đơn giản là vì nó ngán mấy người nhà nó đến tận cổ.

Chợt nhớ những năm cấp hai, khi tôi và nó cùng nhau mút những que kem ống dừa mát lạnh, đi tản bộ dọc đường về nhà, tôi hỏi:

- Sao ít thấy mày về nhà quá, bộ ba má mày không la hay sao mà cứ thấy mày suốt ngày chạy nhong nhong rượt tụi thằng Đực quài vậy?

Nó không trả lời ngay. Trí là thế, trước những câu hỏi khó trả lời, mắt nó ráo hoảnh và khô cằn nhìn chòng chọc lại tôi, lúc lâu sau mới thở dài:

- Về đó bị la, bị đánh chứ ham hố gì đâu mà mày đòi về? Sao không ghé qua thử mà hỏi tao riết, y chang con Tuệ, con Nhân.

Nghe nó bắt đầu cộc cằn khó chịu, tôi im re. Cũng không dám hó hé gì về chuyện ghé chơi nhà, đơn giản là vì ba má tôi cấm bén mảng qua nhà nó.

Mà không chỉ ba má tôi, cả cái xóm này ai cũng ghét nhà nó, còn nó có bị ghét hay không thì tôi không nhớ.

Chỉ vì cả nhà nó đều theo Mỹ mất rồi.

- Trời... thiệt không mày?

- Tao nói xạo làm gì?

Quả thật lần đó Trí không dóc. Từ hôm đó trở đi, tôi bắt đầu theo dõi thật kỹ và kín đáo mới thấy đúng như những gì nó nói. Quả thật thái độ người trong xóm dành cho cả gia đình nhà nó thật lạnh nhạt, một điều mà trẻ con chưa kịp lớn như tôi đến giờ mới phát hiện ra.

Anh Lâm, anh hai nó, trước đi bán sỉ nước ngọt có ga cho mấy xí nghiệp lớn. Bẵng một hôm nghe xóm kháo nhau rằng anh Lâm trốn quân dịch, cun cút ở nhà cho ba má nuôi, suốt ngày rủ mấy thằng ất ơ ngoài xó nào đó vô hẻm nhà ông Gành chơi đánh bài ăn tiền, nhậu nhẹt liên miên tới tối mịt. Chị ba Quế của nó thì đi làm sở Mỹ rồi cũng cặp kè tụi Mỹ. Tôi lấy làm lạ, ba má Trí trước nay đều theo cộng sản, góp gạo cứu người đói, tiếp viện cho lính cách mạng mà chẳng lẽ lại để im cho anh Lâm chị Quế bết bát vầy sao?

Trí lúc này đã xúc đầy một giỏ vừa cá vừa tép, con nào con nấy bé tí bằng cái móng tay, nặng trịch cả giỏ mây. Nó ngước lên nhìn tôi đang quệt mồ hôi:

- Lên nghỉ tí, lội tiếp chắc lát tao nằm xỉu chèo queo liền.

Và thế là tôi lên ngồi nghỉ thật, để nó cố mò thêm vài con cua bé tí ở dưới lớp đất mềm nữa mới chịu dừng lại. Nhớ về gia đình nó, tôi hỏi bâng quơ, nó chỉ chép miệng:

- Nhà tao hồi trước cứ như mấy ngõ ngoài Chợ Lớn mày ơi. Mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy nghe, chả ra thể thống gì. Má tao thấy mấy đồng tiền sở Mỹ của con mẹ Quế đem về thì ham, ba tao thì suốt ngày giục mua rượu ngoại uống với thằng Lâm như nước lã. Hồi trước còn chửi mắng một hai câu, sau lại chẳng đoái hoài chi nữa.

Trí than thở, nó nói chị Quế là "con mẹ" và anh Lâm là "thằng" thì coi bộ nó vẫn thù ghét cái nhà theo Mỹ này. Những tưởng chừng ấy ký ức xấu xí bị nó chôn cất thật kỹ trong não bộ, ai dè có ngày bị tôi lôi ra quăng quật, không thể không nhớ lại.

Đột nhiên không khí lại chùng xuống.

Trường hợp giữa nó và chị Quế cũng na ná như tôi và chị Thuý. Chị Quế cũng thương nó như cách chị Thuý thương tôi, nhưng tôi khác nó, tôi chỉ thất vọng về một người không còn trao trọn niềm tin về một quốc gia đuổi theo sự tự do, độc lập ấm no mà phải đi theo lót đít cho bọn Mỹ - Diệm. Còn nó, nó cong cớn môi chửi đổng lên, chửi ba chửi má, chửi anh Lâm chị Quế, chửi bất cứ người nào xuất hiện trong cuộc đời nó bén gót theo bọn Mỹ, tức là bao gồm cả chị Thuý. Tôi nghe từ đầu đến cuối, không hé răng nói một lời, bây giờ tôi mà bênh chị Thuý thì chẳng khác nào đi theo lời ngon ngọt dụ dỗ của bọn Mỹ.

Tôi thấy khoé mắt Trí đỏ hoe, nhưng chẳng có giọt nước nào rơi ra cả. Ngồi mấp mé trên bờ ruộng, Trí buông thõng hai chân rồi nhúng xuống làn nước, mải mê suy nghĩ vẩn vơ.

Lên cấp ba, tôi cùng Trí, Lân, Nhân, Tuệ học chung một trường công lập tại Sài Gòn. Một trường chuyên dành cho nữ sinh, đợt đó ai cũng ráo riết gửi con vào đây học chỉ vì sợ con gái họ đàn đúm ăn chơi ở ngoài, nhiễm thói hư tật xấu của mấy thằng cao bồi du đãng. Với tà áo dài trắng thướt tha, chúng tôi cứ đi đi về về, ngày học hai buổi liên tục như thế. Những năm trước trưởng thành, Trí càng lớn càng trổ mã, xinh đẹp không tưởng. Trong tà áo trắng yểu điệu dịu dàng đó, nó làm biết bao anh chàng xóm trên xóm dưới, trường bên cạnh phải xao xuyến không thôi. Nhưng tiếng lành đồn xa, cả cái nhà theo lính Mỹ đó khiến các anh phải e dè. Nghe tôi buồn cười thuật lại, Trí cũng vơi đi căng thẳng:

- Lại thằng Lâm con Quế! Mày cứ nhắc riết làm tao tưởng tụi nó còn ở đây, chờ tao về chì chiết chửi mắng nữa ấy chớ. Hai đứa nó còn ở đây chắc có ngày tụi nó gông cổ tao lên chính quyền là thấy mẹ.

- Ruột thịt mà ai nỡ làm vậy?

- Sao không được? Nhất là thằng Lâm, nó muốn đuổi tao đi lâu rồi.

Cũng cùng năm đó, năm nhất cấp ba, tức là cả bọn được mười sáu tuổi, khi tôi và Trí cùng nhau đạp xe trở về nhà đã thấy trước ngõ xôn xao lời ra tiếng vào. Người ta báo với nó là cả họ nhà nó đi vượt biên cả rồi, bỏ lại nó một mình ở Việt Nam. Tôi biết Trí chẳng mặn mà gì với những người cùng chung máu mủ ruột thịt, nhưng nghe thế, nó xách tà áo chạy băng qua mấy con hẻm nữa, hại tôi phải xách cả hai chiếc xe. Đứng trước cổng nhà, nó cất tiếng gọi nhưng chả có ma nào đáp lại.

Căn nhà trống hoắc, nó liền hiểu ra nông nỗi. Lại nghe tiếng vài người rì rầm:

- Cha! Tội nó quá mày há? Ba má đi qua Mỹ rồi bỏ nó lại cái xứ nghèo đói này.

Người kia phản đối:

- Nghèo thì nghèo chứ con nhỏ yêu nước phản cả ba lẫn má thì mình phải nể chứ sao! Bộ mày không thấy mấy lần nó cãi lại ba má nó mấy vụ Mỹ trắng Mỹ đen hả?

Họ nói nhiều nữa, nhưng tôi biết nó chả thèm nghe. Nó chỉ đứng đó nhìn căn nhà trống hồi lâu, lặng lẽ vào trong gói ghém đồ đạc.

Người con Sài Gòn, vì Sài Gòn mà ở lại.

Ngọn cỏ trên tay tôi gãy gọn:

- Giờ hai anh chị đi vượt biên rồi há?

- Ờ. Nhắc chi cho sầu vậy mậy? Đi rồi thì vui chứ sao!

Nó ngả đầu ra ngắm trời cao vời vợi, tôi hỏi:

- Bị bỏ lại buồn không mày?

Trí không trả lời, nó nhắm mắt vờ ngủ nhưng thực tình tôi biết nó chưa có ngủ. Nó đang thả hồn theo hương đồng gió nội, theo thành thị tấp nập, theo đồng ruộng bát ngát. Tôi lại rủ rỉ:

- Vậy ba hay má mày có đánh điện về hỏi thăm mày không?

Trí không trả lời, lát sau nó thở dài:

- Sống chết ra sao còn đếch biết, có khi tàu chìm chết bỏ mẹ ngoài khơi không chừng.

Miệng lưỡi độc địa thế mà chẳng hiểu sao trong tôi lại day dứt một nỗi niềm gì đó khó tả bằng lời, tôi thấy khoé mắt nó đọng vệt sương sớm ngày hè.

Bởi thế mới bảo, vì những chi tiết vụn vặt linh tinh, vì những tổn thương còn sót lại trong quá khứ đó đã giúp nó trưởng thành hơn hẳn chúng tôi. Nó ra dáng một người phụ nữ hơn là thiếu nữ ở tuổi mười tám đôi mươi. Tôi từ lâu đã không còn nhìn thấy nụ cười hoạt bát năng nổ ngày xưa cũ, thay vào đó là vẻ dịu dàng đằm thắm của con gái thành thị.

Nó xa khỏi tầm tay của tôi quá, khi mà tôi nhận ra rằng bản thân tôi đã dành cho nó một tình cảm đặc biệt khác hẳn với bọn còn lại mà ngay cả tôi cũng không thể lý giải nổi. Chúng tôi quên cả giờ cơm rồi cứ thế ngồi lì ngoài bờ ruộng suốt nửa tiếng đồng hồ.

Nó ngay bên cạnh tôi, nhưng tôi tưởng chừng như hơi thở chiến tranh cận kề sẽ cuỗm nó đi mất, đi khỏi Sài Gòn thân thương này.






3.

Một buổi chiều muộn, độ sáu giờ hơn là tôi và Trí kéo nhau lục tục ra về.

Nó thọc tay vô túi quần, mái tóc dài xoã hiên ngang bay phấp phới trong gió, điệu bộ kênh kênh như thể ta đây chẳng ngán thằng nào con nào. Dòm nó, tôi cứ tưởng mấy bà tướng như Hai Bà Trưng hay Bà Triệu mà môn Lịch Sử xưa hay được giáo viên dạy, thảo nào ai cũng bảo nó sau này làm chức lớn.

- Cười chọc quê tao hả mày?

- Mày có biết quê bao giờ đâu, ai mà chọc nổi?

Trí phơi mặt trước làn gió chiều một lúc, sau đó mới chắp tay sau lưng đi tiếp.

Sau sự kiện ba má nó bỏ nhà bỏ nước đi vượt biên, xóm trên xóm dưới, xóm ngoài xóm trong đều tỏ ra thương hại nó, miệng xuýt xoa không ngớt nhưng mỗi lần đề cập đến chuyện giúp đỡ Trí thì ai cũng chỉ trả lời đúng một câu:

- Thôi mày ơi! Thân tao, mấy đứa con tao lo còn chưa êm thì đèo bòng thêm cục nợ chi cho nhọc sức?

Thấy nó cứ một thân một mình côi cút lo chuyện cơm nước, má tôi mới thương tình nhận nó làm con nuôi. Trước một lòng căm thù Mỹ - Diệm và ủng hộ hết mình vì cách mạng, ba má tôi cảm động nói:

- Sau này ráng học cho giỏi để làm tướng đuổi Mỹ nhe con!

Trí cười trừ, vội thoái thác:

- Con làm một chân cho bên y tế cứu thương bộ đội là giỏi lắm rồi, không ham lên chức lớn đâu.

Bởi thế từ năm cấp ba, ngay năm đầu của lớp đệ tam(*), nó học một buổi còn buổi chiều thì xách xe kiếm việc làm thêm. Cũng lắm hôm nó nhận giao báo vào sáng sớm, từ khi trời mới tờ mờ sáng là tôi đã thấy những tờ báo đặt ngay ngắn trước các hộ dân cư đặt theo tháng. May là học trường công nên đỡ phải lo học phí vì học trò bấy giờ được miễn, nó chỉ phải lo tiền ăn, tiền sách vở. Nó bỏ ăn sáng ở nhà với má con tôi và mấy chú, lấy xe đạp đi học từ sớm. Tôi hỏi nó dọc đường đi học có ghé qua sạp nào mua đồ ăn sáng lót dạ không, nó chỉ cười trừ rồi lảng tránh câu hỏi của tôi.

[Lớp đệ tam(*): lớp 10 trung học phổ thông bây giờ]

- Lúc thì ăn cái bánh bao bánh tiêu, túng quá thì nhịn chớ sao mậy?

Hồi ấy, chỉ cần rảnh tay là Trí tót đi kiếm việc làm thêm. Có hôm tôi còn thấy chú Năm bán bún đầu ngõ nhận nó vào bưng bê chạy việc, hôm thì thấy nó kéo xe đẩy chạy ro ro đi rao hột vịt ngoài chợ, lúc lại vắt giò lên cổ đánh máy chữ thuê cho mấy xưởng in. Nói chung là không lúc nào tôi thấy nó ngơi việc, ngày nào cũng phải tối mịt mới thấy nó rị mọ dò dẫm dắt xe trở vô. Những lần như thế, tôi đón đường nó hỏi:

- Mệt không mày?

- Sức mấy mà mệt? Tao khoẻ như trâu như bò, nhiêu đây ăn nhằm gì?

Vừa nói, nó thản nhiên giật lấy ca nước đá lạnh trên tay tôi vì nó biết thừa đây là dành cho nó. Nó ngồi xuống mấy bậc tam cấp thở dốc, tôi lẳng lặng ngồi xuống theo, hai tay co trên đầu gối chẳng nói gì.

- Vậy mà bảo không mệt.

- Thì thở xíu, hoạt động nhiều phải biết thở ra thở vô chứ mậy?

Nó tu ừng ực, thoáng cái đã cạn sạch cả ca nước, sau đó chùi mép vào vạt áo đã sờn cũ, tần ngần một lúc lâu mới cùng tôi quay gót trở vô nhà trong.

Chú Sáu, Chú Dân, ba hay má, kể cả tôi đều biết nó áy náy nhiều vì ăn nhờ ở đậu nhà tôi. Hết nuôi hai ông cán bộ tới nó, chắc Trí nghĩ nhà tôi khó khăn dữ lắm. Thực chất thuở đó nhà nào cũng khó, cũng nghèo, chỉ có nhà nghèo ít và nhà thì nghèo kiết xác. Ai mà bắt đầu buôn bán giàu giàu là tự động bỏ tiền cất cái nhà gạch khang trang ở mấy khu phía trên, làm gì mà nhớ tới cái xóm ọp ẹp này nữa. Nghĩ vậy, nó lao vào làm thuê cho người ta quần quật đêm ngày, mấy lần lén ba má tôi dậy sớm về trễ, bị la hoài không chừa.

- Thiệt là tình! Coi nó như người nhà mà nó cứ sợ mắc nợ nhà tao.

Tôi trách Trí với con Lân, con nhỏ ngồi nghe chữ được chữ không, tay thì cầm miếng bánh cốm cho vô miệng nhai rào rạo. Nó nhún vai:

- Là ai cũng vậy mà mày. Tao mà là con Trí thì tao cũng vậy thôi, ăn nhờ ở nhờ nhà người ta phải biết ngại chớ?

- Cái này ba má tao nhận nuôi nó, nó là con nuôi ba má tao thì việc gì phải làm cho nhọc xác? Trường miễn học phí, chỉ có ngày ăn cơm ba bữa mà nó còn khách sáo được nữa là.

- Ờ hé, lạ quá mày...

Lân kéo dài giọng. Trí chỉ ăn cùng gia đình tôi bữa cơm chiều tối, bữa sáng thì ít, còn bữa trưa là nó biến hẳn, chẳng về ăn lấy một lần dù trưa hôm đó tôi nấu biết bao nhiêu là món nó khoái.

Một buổi sáng, tôi men theo gạ nó:

- Trí, tao mới mua được miếng cà pháo với mớ rau đay cua đồng, mướp hương nữa mậy.

Nghe tới đó, tôi biết trong đầu Trí đang dần hiện lên hình ảnh tô canh cua nghi ngút khói, nồi cơm nóng hổi cùng chén cà pháo to tròn. Nó giả bộ quệt nước miếng, nói chơi chơi:

- Chừa cho tao với.

Tôi hí hửng chừa phần cơm cho nó, rốt cuộc trưa nó không về, tô canh cua cùng chén cà pháo nguội ngắt trong lồng bàn.

Tới chiều tối nó mới về, biết chuyện tôi chừa cơm canh, tôi giận lẫy bỏ vào nhà trong, để nó ngơ ngác với con Đụt sau hè. Lát sau tôi nghe tiếng bật bếp ga hâm canh, nó xúc vội mấy miếng cơm chan canh lùa vô miệng rồi gõ cửa phòng tôi:

- Hân.

Tôi giả điếc, cắm đầu học bài, lát sau nó nản, bỏ ra sau hè dội nước tắm. Nó biết là tôi giận nó lắm, Trí chẳng dám kì kèo gì nhiều, nó cũng xối nước ào ào ở cái nhà sau. Bữa cơm tối đó, nó nhìn tôi bằng ánh mắt nặng trĩu khi không khí giữa nhà vẫn vui vẻ và đầm ấm lạ thường, tôi ngấu nghiến chén cơm với mấy con tôm rang muối, múc canh húp sì sụp rồi thả chén vô thau ra ngoài hiên ngồi hóng gió. Lát sau nó tò tò theo, giọng hối lỗi:

- Thôi đừng giận nữa mày.

- Chứ con nào thằng nào kêu tao chừa cơm mà không về? Gặp mày, mày có bực không?

- Ờ... thì bực. - Nó phân bua. - Giữa trưa đang làm không có bỏ về ăn cơm ngay được mày ơi, tao quên nói.

Tôi vò đầu:

- Tao nói biết bao nhiêu lần, tụi mình là học sinh cấp ba thì cứ như vậy, làm thêm làm thiếc chi cho mệt? Mà mày làm cũng được có nhiêu đâu còn gửi má tao, bộ mày tưởng nhà tao không nuôi nổi cái miệng mày hả?

Tôi cáu, nó ngồi im thin thít nghe từng lời một, chốc chốc đưa tay lên gãi mũi.

- Nói rồi đó nghe, bớt làm lại đi mày ơi. Tao cũng đi bán bánh bột ngoài chợ mà có chừng mực, đâu có như mày, bán mạng đi kiếm tiền.

- Bậy à! Tao bán mạng hồi nào?

- Không phải bán thì cái gì? Mày ngon thì nói nghe coi, tao cùi sứt móng.

Giọng điệu của tôi bắt đầu bông đùa trở lại, nó xoa xoa tay:

- Hết giận rồi hén?

- Còn lâu!

Tôi hứ một tiếng, nó chắp tay cười cợt:

- Thôi, giận riết mau già lắm đó.

- Già kệ tao, xấu kệ tao, mày có nuôi được ngày nào đâu mà ý kiến ý cò dữ thần!

Trăng mập mờ thắp sáng Sài Gòn cũ dù trời chưa tối hẳn, bất thình lình nó che mất ánh trăng bằng cách lấy hai tay áp gò má của tôi sát vào mặt nó, bông đùa:

- Thì sau này tao nuôi, lo gì?

Dường như sợ bị tôi đuổi đánh vì trêu chọc quá độ, nó chạy ào vào nhà trong giành rửa chén đĩa với má tôi. Nó đâu có biết gò má được nó chạm vào vẫn đỏ lựng hết cả lên, chẳng thể nào dịu xuống được.

Nghe tiếng cười hích hích của nó và má, lòng tôi an yên nhẹ nhõm phần nào.

Lên đại học, mỗi đứa mỗi ngả rẽ riêng, tôi học sư phạm, Trí đậu trường y còn những đứa còn lại chẳng có tin tức gì mới. Trí nó nuôi mộng làm bác sĩ để chạy chữa cho bộ đội mình, không lương cũng được, góp phần giải phóng dân tộc là mừng lắm rồi. Trí nó tâm sự với tôi thế, được một chốc nó lái qua chuyện tôi:

- Mày sao?

- Sao là sao?

- Sau này ra trường rồi làm bà giáo hả?

- Chứ khi không tao chui đầu vô sư phạm chi? Hỏi ngu dữ.

Tôi buồn cười thở dài.

- Mày coi cái cửa kéo ra quài mà sao cứng ngắt vậy.

Về tới nhà từ lâu nhưng đến khi Trí kéo cái cửa rào mãi mà không mở, nó gọi tôi thì tôi mới sực tỉnh khỏi chuỗi suy nghĩ dài lê thê. Tôi nạt:

- Xê ra coi.

Quả nhiên cái cửa bị gỉ sét, loang lổ chỗ bong tróc vệt sơn ra thoạt ngứa hết cả mắt. Trí dạt sang một bên, tôi phải dùng cái que sậy từ bụi rậm gần đó nạy cái cửa một hồi mới mở ra được, nó tấm tắc khen:

- Sau này mày làm thợ sửa khoá giỏi nhất khu Chợ Lớn.

- Sao mày kêu tao làm bà giáo?

- Hồi đó khác giờ khác. Làm sao lúc đó tao biết mày tháo vát, giỏi sửa chữa cửa như kia?

Tôi chịu thua:

- Đồ ba lém!

Buổi cơm chiều hôm đó ngoài tôi và Trí ra còn có thằng Hợi, thằng cu em họ tôi tuốt dưới ngoài Châu Đốc, được bà con ở dưới gửi lên chơi ít hôm nhân dịp trường thằng nhỏ cho nghỉ lễ. Thằng nhỏ mới học tới lớp nhì(*) nhưng cũng lanh chanh và khôn đáo để chẳng kém gì Trí. Hợi cứ tót đi chơi miết với lũ mục đồng, mấy hôm tôi lẫn Trí phải đi gọi khản cả cổ mới chịu về ăn cơm. Nhưng hình như mẹ tôi ăn sớm rồi đi buôn từ chiều, trưa mai mới trở ngược lại Sài Gòn, nó được giao phải canh nhà cho tới khi hai đứa tôi bắt cá về, vậy nên vừa thấy Trí trờ tới, nó xúm xít đỡ lấy hai cái giỏ mây để xem có con ốc nào lẫn trong đám cá đám tép hay không.

[Lớp nhì (*): lớp 4 cấp tiểu học bây giờ.]

Chiều nay có một chảo cá lòng tong kho quẹt, kẹo thiệt kẹo mà cũng thật mặn. Tôi thích ăn cay, Trí thích ăn mặn, thằng Hợi lại khoái cho thêm và ba muỗng đường vô chảo mắm, vậy nên cái chảo thành ra đỏ rực màu ớt sừng và đậm đà không thể tả. Ngoài chảo mắm ấy còn có dĩa rau đắng luộc, nồi canh khoai môn thơm lừng.

- Ăn thêm rau đi mậy, ăn thêm rau cho dễ tiêu.

Trí toan gắp vài sợi rau đắng cho vào chén thằng nhỏ, Hợi cầm cái chén ráng gắp thêm vài miếng tóp mỡ với vài muỗng mắm rưới lên trên rồi chạy biến ra ngoài sân, nói trỏng:

- Đắng lắm, em ăn không nổi.

Trí chỉ đành cười khổ, nhưng nhờ vậy bữa cơm mới chỉ còn mình nó và tôi ngồi ăn uống tâm sự riêng.

- Mày nhớ anh Long không?

- Long nào? Xóm này tới ba ông tên Long lận.

- Không phải xóm mình, cái anh Long mà hay về mấy khu xóm này vận động tuyên truyền đăng ký đi lính á.

Tôi gật gù, cho miếng rau vào mồm:

- Ờ, mà sao?

- Ảnh có tin tình báo của con Tuệ với con Nhân.

Nghe Trí nói thế, tôi buông đũa, hai mắt sáng rực:

- Thiệt hả? Mà hai đứa nó làm gì, đi đâu biền biệt hai ba năm trời vậy cà? Anh Long mà biết thì chắc tụi nó đi hoạt động cách mạng rồi.

Trước sự hào hứng của tôi, Trí vẫn lùa cọng rau đắng nghét vào mồm, miệng nó cũng đắng như thuốc. Không nỡ gạt đi sự hạnh phúc trong đôi mắt tôi, nhưng sự thật thì vẫn phải kể, Trí dừng ăn cơm, thu đôi đũa lại thì thầm nói.

Tuệ sau khi tốt nghiệp cấp ba thì ra ngoài Huế học với con Lân. Hai đứa nó có học chung không thì tôi chẳng rõ. Tuệ ráng học lên đầu năm hai đại học thì nghỉ ngang, đăng ký xin đi lính, tham gia vào Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nghe bảo từng là một trong những thành viên nữ chủ chốt của tiểu đội phá bom, hoạt động vô cùng năng nổ.

Nghe đến đây, tôi khen:

- Con Tuệ dòm vậy chứ coi bộ oách quá há.

- Chả tới đâu hết mày ơi.

Trong một lần dẫn vài cô đi phá bom ở mặt trận tuốt dưới mấy tỉnh miền Trung, Tuệ bị địch châm ngòi bom kích nổ, cuối cùng tiểu đội chết sạch, không ai qua khỏi.

Nghe đến đây, tự dưng tôi im bặt, lát sau giọng run run:

- Còn con Nhân?

- Không khác gì con Tuệ.

Nhân cũng như Tuệ, tham gia vào hoạt động cách mạng. Nhưng nó không bỏ học ngang mà tiếp tục làm cán bộ giấu, làm giao liên đi đưa tin tình báo cho hai bên đơn vị. Mấy lần nó suýt chết, thoát khỏi nanh vuốt của địch một cách đầy ngoạn mục. Đột nhiên bụng tôi quặn lại, giật thon thót:

- Nó đâu bị gì nặng hả?

- Ừ, đạn ghim vào đầu, chết tại chỗ.

Cũng ngày khác, do địa hình giao tin là một cái đồng trống rộng mênh mông, biết chẳng thể nào luồn lách tránh giặc, nó đành nhào tới chạy ào ào qua đại, sống chết phó mặc cuộc đời. Chả dè có nòng sóng chĩa thẳng vào đầu nó, nã một viên, máu xả ồ ạt, cả cơ thể của Nhân ngã xuống cánh đồng hiu quạnh.

Đó là cách hai trong năm đứa tôi từ giã cõi đời.

Nghe Trí kể lại với một bộ mặt lạnh như tiền chẳng khác nào Đường Tăng đứng trước bẫy mưu mô xảo quyệt của bọn yêu quái, tôi thẫn thờ một hồi lâu, mâm cơm cũng nguội lạnh từ lúc nào chẳng hay.

- Xạo hả mày?

Tôi hỏi, giọng bần thần. Trí vẫn ăn cơm một cách từ tốn, nó bơ câu hỏi vớ vẩn đó của tôi, húp nốt ngụm canh cuối cùng để khỏi phải chấp nhận sự thật phũ phàng đó.

Tuệ và Nhân từ khi ra đi vẫn chưa về thăm bọn tôi dù chỉ một lần. Sực nhớ tới Lân, tôi lại hỏi, giọng nghẹn ngào:

- Còn con Lân, chết luôn hả?

Đột nhiên Trí nổi quạu, trừng mắt nhìn tôi:

- Hai con kia sống chết có số, về chầu Hà Bá sớm chứ con Lân còn sống sờ sờ ra đó mà nói chuyện chết chóc là xui lắm nghen mậy.

- Chứ giờ nó sao trăng gì rồi?

Theo thư Lân báo tin cho anh Long, nó vẫn đang theo sống tại Huế, hết mực chăm chỉ. Bây giờ nó đang hoạt động cách mạng theo con đường thơ văn. Trí nói thế, tôi cũng chẳng lấy gì làm lạ, Lân vốn giỏi văn từ hồi cấp hai, nó đi thi lần nào là cũng điểm chín điểm mười môn văn đỏ chói, lưu bút cuối năm của tụi tôi lúc nào cũng tranh giành cấu xé nhau để nó viết trước. Câu từ bay bổng và thơ mộng không thôi, nó là "lông vũ" của tập thể lớp đệ nhất(*) cũ của tôi, ngay cả trong giờ học môn Triết, trước những lời giảng khó hiểu của thầy Bàng, nó còn mang ra làm thơ cho bằng được. Bởi vậy hồi đó ai cũng nể, Lân là trưởng ban văn nghệ của lớp, được mấy đứa lớp khác vô cùng ngưỡng mộ.

[Lớp đệ nhất(*): lớp 12 phổ thông bây giờ]

Bây giờ bắt đầu củng cố tinh thần chiến sĩ cách mạng, nó để bút danh là Sương Vũ.

- Sao lại là Sương Vũ?

Tôi hỏi, Trí lại cau có:

- Đếch biết, mày đi mà hỏi nó.

Lân chuyên về mảng truyện ngắn, truyện dài thì cũng có kha khá tác phẩm đã được xuất bản. Có cái truyện gì đó về đợt nạn đói năm 1945, Lân lấy bối cảnh ở ngoài Bắc Kì, nó viết khá rõ ràng và thực tế, hay quỷ thần sầu.

- Truyện gì mà hồi hổm nó viết á, tao quên mẹ rồi.

Trí không ham đọc văn thơ, nó nhíu mày nghĩ ngợi, sau đó búng tay cái chóc:

- "Gàu nước giếng".

- Chắc không? Nghe lạ quá.

- Thiệt đó, bữa tao ghé qua hiệu sách, thấy cuốn tuyển tập ghi chình ình hai chữ tác giả Sương Vũ mà.

Trò chuyện luyên thuyên một hồi, chúng tôi lại im lặng chẳng nói với ai câu nào, dường như nỗi mất mát của Tuệ và Nhân là quá lớn trong lòng chúng tôi, đọng lại một dấu chấm lớn kết thúc câu chuyện.

Tôi nhìn bâng quơ ra ngoài:

- Trời buồn ghê mày há?






4.

Tôi và Trí lặng lẽ dọn chén đĩa vào thau rửa, để mặc Hợi rong chơi ngoài sân lớn nhà ông Phùng. 

Tôi nín thinh kỳ cọ chén bát, Trí cũng chẳng nói năng gì cùng tôi rửa lại bằng nước hai ba lần. Xong xuôi đâu đó, tôi và nó tự động tản về phòng.

Nhà tôi nhỏ xíu, tuy vậy mà cũng đủ phòng ngủ cho hai chú, Trí và thằng Hợi. Nay hai chú đi vắng tận một tháng trời thì Hợi được toàn quyền sử dụng phòng của hai chú, Trí ngủ ngay tại cái gác xép phía trên tầng lầu, còn phòng của tôi và ba má thì tách riêng biệt.

Ngày mai còn có mấy tiết tự học, sáng nay tôi ôn bài không kỹ nên thành ra kiểm tra trớt quớt, chẳng ra giống ôn gì. Tôi đóng kín cửa phòng, mở tung cửa sổ để gió lùa vô cho mát. Bài vở vẫn để ngay ngắn trên cạnh bàn, sống đời sinh viên rồi mà sao vẫn khổ quá chừng, nhắm không lo tự học ở trên giảng đường là điểm bù trớt rớt môn ngay.

Trí khác tôi, vốn mang cái mác sinh viên y khoa nên nó học rất giỏi, hồi bé xíu đã khoái tìm tòi về thế giới động vật. Nhưng bị một cái là nó hơi nhát máu, thấy con gì lăn kềnh ra giữa đường chết, một bụng văng máu tung toé cũng chẳng dám nhìn. Thấy vậy, tôi phì cười:

- Sợ máu me thì sao mà làm bác sĩ được mậy?

- Kệ tao.

Lớn lên một chút, nó không ngừng dành tình yêu cho các môn tự nhiên, đồng thời cũng vơi bớt nỗi sợ với máu me giết chóc. Nó biết tập giải phẫu trên xác của những con ếch, cóc nhái đã chết sình bụng ngoài mương, mà thường thì mấy cái xác đó là tôi lấy cây que bé xíu khều vô cái túi nhỏ để mang về cho nó. Coi bộ Trí vừa mừng vừa sợ. Nó không có dao chuyên dụng như mấy ông bác sĩ, nó len lén thó con dao nhỏ với cái nhíp nhổ lông heo của bà Liên xóm trên hay bày bán ngoài chợ, mải mê mổ ếch sáng đêm.

Với cái tánh ham học hỏi như thế, thảo nào điểm nó cũng cao ngất. Từ lớp đệ thất(*) tới lớp đệ nhất, lúc nào nó cũng đứng nhất lớp, còn tôi ráng lắm cũng chỉ lẹt đẹt hạng sáu, mấy lần suýt soát rớt hạng cái bịch như mít rụng. Đuối lắm cũng chỉ đến hạng ba, có hôm tôi hỏi:

[Lớp đệ thất(*): lớp 6 trung học cơ sở bây giờ.]

- Mày ham mổ xác mấy con vật chết mà sao điểm mấy môn kia cao dữ?

- Có bí kíp hết mày ơi. Tao con cậu ông Trời mà sao mày biết được?

- Mày con tao thì có!

- Thì tại tao ham học, sức mấy mà đậu nổi trường y.

- Vậy vô sư phạm với tao.

Đó là khi cả năm đứa, tôi, Trí, Tuệ, Lân và Nhân đều học lớp đệ nhị(*). Nó cười trừ:

[Lớp đệ nhị(*): lớp 11 phổ thông bây giờ.]

- Tao mà làm bà giáo chắc mấy đứa học trò như mày chết hết quá.

- Mắc gì? Hạng sáu bộ hổng giỏi bằng hả?

- Đâu? Tại mày lì quá đó.

Nói đến đó, nó lại cười toét cả miệng, lao vụt đi trong buổi chiều.

Ngồi im cất chén đĩa cho khô, đột nhiên khoé mắt tôi ướt đẫm dù trời Sài Gòn dạo gần đây nóng nực không thể tả.

Tôi nhớ những lần tôi cùng bọn con Trí chui đầu ra ngoài đường nắng nóng ba mươi mấy gần bốn chục độ, chỉ để đạp xe lông bông dạo phố trên con đường vắng tanh như chùa bà đanh, sau đó năm đứa sà xuống bên lề đường để ngồi nhâm nhi những ly chè, những ly xi rô đá bào đá nhận lạnh buốt óc. Hoặc lâu lâu túi tiền rủng rỉnh thì cùng nhau bá vai bá cổ chạy đến rạp Tân Bình, Tân Lạc xem chiếu bóng. Những bộ phim Mỹ, phim Ấn Độ tưởng chừng dở ẹc nhưng buồn cười là đứa nào đứa nấy lại xem không thiếu một tình tiết nào, lâu lâu còn ngồi bàn nhảm về bộ phim vừa xem.

Hoặc thỉnh thoảng, bọn tôi sẽ xem mấy thằng ngoài ngõ đá banh u đầu mẻ trán, ở những sân cỏ hoang, tụi tôi ngồi đến nhẵn cả đít quần để xem, cỏ châm vào da ngứa ngáy kinh khủng. Mấy trái banh nhựa màu sắc lâu lâu dội thủng lưới, tôi và Trí lại la ầm trời, Tuệ lâu lâu lại chửi thề mấy tiếng còn Lân và Nhân thì chăm chú xem chẳng nói gì.

Hình như ai lớn lên cũng thay đổi, chẳng hạn con Trí trở nên mộng mơ hơn.

Vào một lần vác cái bao gạo to tổ bố lên yên xe phía sau, tôi phải dùng tận mấy sợi dây thừng chắc một chút để nịt cái bao gần trăm kí thật chặt. Xe chạy bon bon mà cứ xiên vẹo như thể tôi và cái xe sắp đâm đầu xuống sông Sài Gòn không chừng, và cũng phải chật vật tận nửa tiếng hơn tôi mới lết về nhà nổi.

Giữa sân có một cây guitar.

Cây guitar gỗ nâu xịn xò bóng loáng, đặt bên cạnh cái lu đựng nước của ba. Tôi khệ nệ đẩy bao gạo xuống, sau đó xuýt xoa luôn miệng. Trí nghe thấy tiếng tôi, nó chạy ào ào ra đón tôi về rồi kéo bao gạo vào nhà trong. Xong xuôi đâu đó, nó làm bộ làm tịch khi tôi hỏi:

- Đàn đâu ra vậy mày? Chú Dân hả?

- Không.

- Chú Sáu há? Chớ ba tao làm gì biết đàn đúm? Hồi đó cua mẹ tao nhờ mấy cái thư ngỏ chứ đâu.

- Bậy luôn.

Tôi chưng hửng:

- Vậy chứ của ai?

- Của tao chứ của ai!

- Mày mua hả?

Trí gật đầu, quệt mồ hôi rịn trên trán:

- Ờ, cũ thôi nhưng còn tốt chán, mua lại của anh Long đó, ảnh bán đứt rẻ rề có mấy chục đồng hà.

Tôi mân mê sờ những sợi đàn:

- Mày biết đàn chưa?

- Chưa, nhưng tao biết đánh hợp âm rồi. Đợi bữa nào tao "oánh" đàn cho mày nghe, hay nức nở.

Tôi cự nự:

- Xạo ke hoài! Đàn được chưa không thấy mà tao nhắm chừng mày chơi được vài ngày rồi lại vứt một xó đó.

Mà mấy năm trước, con nít tụi tôi siêng coi cải lương, coi hát cọp. Mấy lần bị bảo vệ rạp lùng đánh, đuổi như đuổi tà mà chẳng đứa nào ngán, còn vênh mặt thách thức xem trời bằng cái vung cái nồi. Lớn lên muốn coi thì phải trả tiền, chứ hồi nảo hồi nao còn học cấp tiểu học thì thả ga chui vào coi cọp, nói chung là vui lắm.

Cải lương Hồ Quảng, đờn ca tài tử, ca ra bộ, nói chung là biết bao nhiêu tuồng, tôi đều coi ráo trọi, đếm không xuể. Mà ngay vùng Chợ Lớn, Gia Định đã mọc hơn bốn chục cái rạp hát cải lương lớn bé khác nhau. Nghệ sĩ cải lương ai cũng có tên hay, độc đáo lắm, nghe một lần là nhớ. Như con Nhân thì khoái Phương Quang, ổng đẹp trai có tiếng mà hát hay như sơn ca, tôi thì thích Út Trà Ôn với Bạch Mai, mỗi lần cầm cái mi-cờ-rô là tự nhiên cổ họng mấy ổng bả trơn tru như được quét dầu, hát vang tận ngoài Bắc Kì còn nghe.

- Thằng chả hát hay quá mày há?

Những lần ngồi coi hát cải lương cọp, tôi hay buồn cười tấm tắc khen với tụi nó như thế.

Một buổi chiều ngồi nhẩn nhơ nhổ rau, tôi với Trí nghe tiếng loa phát thanh có cải lương lúc bảy rưỡi tối, tôi quay qua hỏi Trí:

- Rạp nào mậy? Norodom hay Aristo?

- Chắc Aristo, mình mới coi tuồng "Bích Liên vương nữ" bên kia cách đây hai ba ngày mà.

Rồi liền đó, không ai nói với ai lời nào, tôi của thời cấp một cấp hai la thật to để báo cho má biết rằng mình chuẩn bị đi chơi, sau đó ba chân bốn cẳng chạy như bay đến nhà mấy đứa còn lại.

- Tuệ ơi, có nhà không mậy?

Con Tuệ nghe tiếng tôi la ỏm tỏi ngoài sân, hình như nó đang giặt đồ vì hai bàn tay đầy bọt. Nó gân cổ:

- Qua đây chi mậy?

- Tối coi hát không?

- Tuồng gì?

- Chưa biết, nhưng mà hình như coi ở Aristo đó.

- Mày trả tiền vé há?

Tôi giờ cùi chỏ:

- Trả cái cù loi tao nè! Coi cọp thôi mày ơi.

Nghĩ là làm, tối đó tôi chèo kéo nốt được Lân với Nhân, xong xuôi đâu đó tụi tôi mỗi đứa cầm trái bắp luộc hay củ khoai lang chống đói rồi lục tục lên đường.

Rạp Aristo hồi đó bự bành ki tô, nhưng mà gác cổng thì có mỗi một ông béo ục ịch, bởi mới nói con nít muốn chui vô coi cọp đâu có khó. Tôi để bốn đứa nó chui vô trước khoảng sân gạch hẹp tí bên trong rạp, tay giữ khư khư mấy bịch đựng khoai bắp rồi phóng thật nhanh qua mắt ông bảo vệ:

- Trót lọt.

Bắn tín hiệu cho đồng đội xong, tôi kéo lưng quần lên thật cao, nãy giờ chạy được mấy đoạn mà cứ rớt lên rớt xuống, cà trật cà vuột hoài. Vô được rạp, tụi tôi thoải mái mỗi đứa một ghế hàng sát sân khấu, hiên ngang như thế mà chả sợ ai, chỉ tới khi có nhân viên kiểm vé thấy tụi tôi ngồi giành chỗ của người khác thì chúng tôi đã chạy sang chỗ khác lánh nạn.

Giọng hát thời đó của mấy ông bà nghệ sĩ cải lương hay muốn đứt từng khúc ruột.

- Chậc chậc, mày thấy cái đoạn nhỏ...

Đèn rạp vụt tắt, các nghệ sĩ cải lương tót lên sân khấu trước tiếng hò reo vang dội của khán giả, con nít tụi tôi thoả sức la hét inh ỏi. Mấy tuồng cải lương dù đã xem đi xem lại đến thuộc lòng, dẫu vậy tôi vẫn cảm thấy hay như mới lần đầu được xem.

- Chết mẹ, con Lan nó nhảy sông hả mày?

Nhân gặm bắp luộc, đột nhiên nó la lên bài hãi, chỉ tay lên người nghệ sĩ đang hát tuồng. Tôi cao hứng lên lớp:

- Ờ, lát nữa mày coi, thể nào thằng Hùng cũng ôm xác nó lên khóc sướt mướt...

Quả thế thật, mọi chuyện của vở diễn y hệt những gì tôi vừa kể, thằng Hùng trong tuồng cải lương vừa khóc lóc thảm thiết, ẵm con Lan lên mà hát như hết hơi, nổi hết cả da gà. Tôi thích thú nhìn tụi nó oà lên trầm trồ, chứ tôi thì đã quen với điều này rồi.

Mấy đứa con nít thì bất ngờ, người lớn thì chả phản ứng rõ rệt gì, bởi lẽ họ cũng như tôi, họ xem vở diễn đó nhiều lần rồi.

- Hay ghê tụi mày ơi, sau này tao cũng muốn được làm thầy tuồng.

Con Lân nói, Tuệ nhảy vào chọc:

- Làm thầy tuồng là mấy thằng cha viết kịch hả?

- Hông, ý tao là diễn kìa.

Nhân cự nự:

- Ngu mà cứ thích làm bộ! Người nghệ sĩ khác thầy tuồng mày ơi.

- Vậy hả? Tao đâu có biết? Đó giờ đâu có coi cọp nhiều như mày.

Tụi nó trêu nhau nhiều nữa.

Được một lúc, tôi thấy Trí tụt lại phía sau, mặt cứ cúi gằm xuống.

Chúng tôi còn chưa lên cấp hai cấp ba.

- Sao đó mày?

Kệ tụi Tuệ, Lân và Nhân về nhà trước, tôi nán lại đi chung với Trí. Nhác thấy tâm trạng nó bất bình thường, tôi thụi cùi chỏ vô bụng nó:

- Điếc hả?

- Mày hỏi tao hả?

Tôi giả bộ nhìn quanh quất giữa ngã tư đường tối om.

- Mày thấy còn bóng ma nào không?

- Không.

- Thì tao hỏi mày chứ hỏi ai?

Tôi toan chửi nó ngu, nó lại cười hì hì rồi choàng tay tôi đi tiếp.

Hai đôi dép lệt quệt dưới chân.

Tiếng gió giữa lòng Sài Gòn vi vu.

Coi hát cải lương cọp tới gần nửa đêm, tụi tôi lội bộ về nhà, nơm nớp lo sợ bị ba má la. Trí đột nhiên thở một hơi dài, nó đá mấy hòn sỏi dưới mặt đường lát, bay đi trong không trung. Đèn đường ba chớp ba nhoáng tối om, cứ mờ mờ ảo ảo. Tôi sờ sợ, níu tay áo con Trí:

- Ghê quá mày!

- Ghê gì?

- Lỡ lòi đầu ra mấy thằng ất ơ bắt cóc hai đứa mình thì sao?

- Khùng hả? Bắt mày về lo cho tốn cơm tốn gạo thêm chi vậy? Nghèo chết mẹ mà còn ra vẻ.

Trí vờ gắt, dứ dứ tay trên đầu tôi.

Nó nói đúng, mấy xóm Sài Gòn chen chúc nhau chỗ ở, có người ở không được thì bán nhà dọn lên Mỹ Tho, Cần Thơ mà sống. Bởi lẽ dưới cái chính quyền mục rữa này, con nít tụi tôi còn thở không nổi, nói chi là người lớn. Mở mắt ra là biết bao áp lực đè nặng lên đầu, nhất là với mấy chú cán bộ, không cẩn thận là bị tụi cảnh sát chìm bắt vì bị tình nghi Việt Cộng, chạy đôn chạy đáo hết tỉnh này tới tỉnh khác cũng còn chưa chắc thoát khỏi tay tụi nó.

Trời đêm Sài Gòn tự dưng nhiệt độ hạ đột ngột, hai cái bắp tay tôi co lại, xoa liên hồi:

- Lạnh hả?

- Ờ.

Tôi nhìn cái áo gió của nó một cách đầy ngụ ý. Trí né tránh ánh nhìn đó của tôi, một lát sau chịu không nổi, nó phải lột cái áo ra:

- Thiệt tình, nãy kêu mang áo gió theo mà một hai không mang, giờ giành với tao.

- Hì hì.

- Cười cái đầu mày, suốt ngày báo cha báo mẹ chả nên cơm cháo gì.

Giọng nói cộc cằn cục sục, tuy thế mà nó vẫn chủ động nhường nhịn cái áo. Tôi biết nó cũng rất lạnh, nhưng cách nó đứng tần ngần một chỗ cài cúc áo cho tôi khiến tôi động lòng. Đột nhiên tôi rướn người lên xoa đầu nó:

- Tao giống con mày ghê.

- Ý là mày chê tao già như má mày hả?

- Ê, tao không có nói mày già, mày chê má tao già hả con quỷ?

Tôi và nó lại đuổi đánh trong tối muộn. Nhưng có lẽ nó không biết một điều, tuy tôi đang chìm nghỉm trong chiếc áo gió, má tôi vẫn đỏ rực, run lập cập như gái về nhà chồng.

Dù cho lúc đó chúng tôi mới cấp một.

Trí từ nhỏ đã cao hơn tôi, lên lớp đệ nhất, nó cao chắc cũng tầm mét bảy, một chiều cao phải nói thực là khổng lồ so với trai gái cùng thời. Tụi con trai thời đó cũng còi, cao tới mét sáu lăm mét bảy là quá trớn. Bởi vậy mỗi lần Trí đi cùng bọn con trai là tôi hùa theo đám con Lân trêu nó, gọi nó là thằng Trí. Trêu hoài chai mặt, nhiều khi nó còn chọc ngoáy lại tụi tôi:

- Vậy mấy cưng có muốn tụi anh đèo ra tửu lầu một chuyến hông?

Nghe nó thở câu đó, tụi tôi không hẹn nhau mà cười lăn bò càng. Đứa nào đứa nấy cười muốn tắt thở. Trí còn bày lắm trò, dù hay lêu lổng với tụi thằng Đực, nó cũng hay đầu têu mấy trò quậy phá trong lớp. Nó là đứa hay mang đồ ăn vặt vào lớp nhất. Trí lâu lâu thản nhiên gạt tà áo dài qua một bên, nó lấy mấy miếng ổi đã được cắt gọt chỉn chu trong hộp nhựa, quay sang tôi:

- Ăn hông?

- Hông có muối tôm là hông ăn.

- Nghĩ sao không có?

Vài ba trái ổi to oành là thế, vậy mà năm cái miệng của tụi tôi nhảy vô thì nhoáng cái đã hết sạch sành sanh. Hay những lần vẽ bài minh hoạ cho mấy khổ thơ của con Lân, lắm lúc nó vờ nguệc ngoạc mấy con cóc tía gì gì đó, để đến khi Lân nổi trận lôi đình thì nó mới mang bài minh hoạ vẽ đẹp thiệt đẹp ra.

Trí ga lăng nhất bọn, nó chiều chuồng bọn tôi, tiền làm thêm một phần gửi má tôi, phần còn lại dư dả cả tuần thì nó bao tụi tôi ăn chơi xả láng. Nhiều khi tôi trách nó, trách sao không biết tiết kiệm, nó lại xoa đầu tôi cười cười:

- Với mày thì tiền tao chả tiếc đâu à.

- Nói nghe ngon quá há? Chứ sao mày còn bao ba con kia?

- Chứ bao một mình mày thì tụi nó lại nhảy dựng lên hổng phải sao?

- Nói nghe mắc dịch quá!

Tôi buồn cười chê nó sến, nó cũng tự thấy nó sến. Bằng cách gãi gãi má liên tục, ánh mắt nó cứ lấp la lấp lửng đặt lên người tôi, má hồng hồng rồi bỏ đi đâu mất.

Lên cấp ba, tôi mới thấy nó khác nhiều, rất là nhiều. Nhưng khác thế nào thì tôi không rõ, vì tôi không phải nó. Tự nó biết bản thân nó đã trưởng thành lên nhiều.

Chỉ vì nó hay ngại mỗi khi đùa giỡn với tôi.






5.

Chiều hôm nọ, tôi nhẩn nhơ quét sân trước nhà, lá rụng từa lưa, nhiều đến nỗi phủ kín cả mặt sân. Thằng Hợi thì tôi vẫn để nó ở đó ngồi chơi u chơi đuổi bắt với bọn con nít cùng xóm. Đột nhiên tôi nghe tiếng gọi tên từ xa:

- Hân ơi! Hân! Mày có nhà không?

Rõ là giọng con Trí, tôi đó giờ chỉ xách xe đạp mỗi khi phải đi bán thay má hay đến đại học, nó biết tôi lười vác xác ra phố thế nào mà giờ đây lại gào toáng lên như thể tôi chết ở xó nào. Giọng nó lanh lảnh ngay đầu ngõ xóm, cái mặt còn chưa kịp thò vào cho tôi xem. Tôi không trả lời, tiếp tục cúi xuống quét sân.

- Mày điếc hả?

- Ờ, chuyện gì đó? Tự nhiên mày la ầm lên.

- Phải có chuyện thì tao mới la được chớ.

Nó thở hồng hộc, mồ hôi mồ kê lăn tòm trên cổ. Cả cái áo hoa màu của nó cũng ướt sũng, tôi nhướn mày, ý hỏi có gì không.

- Chú Dân bị bắt rồi.

Cây chổi chà trong tay tôi rơi bịch xuống sân.

- Thiệt đó, tao không có giỡn đâu.

Nó khẩn trương nhìn tôi, khi tôi chưa kịp hoàn hồn, nó quơ tay hốt đại cái xe đạp cọc cạch của nó, liếc xéo:

- Lên lẹ lên.

Dù không biết nó đưa tôi đi đâu, nhưng quả thật lúc đó đầu óc tôi không còn tỉnh táo. Như bị nó bỏ bùa mê thuốc lú, tôi nhảy phóc lên yên xe sau, hệt một con rô bô, chỉ kịp hét lên một tiếng:

- Hợi, ở nhà coi nhà đó nghe!

- Dạ.

Tôi nghe tiếng thằng Hợi dạ ran nhưng chẳng thấy nó đâu, vì từ khi mông tôi đặt lên yên xe, Trí đã co giò đạp xe lao đi trong gió.

Má đi đâu từ sáng, ba tôi thì mãi một tháng hơn rồi vẫn chưa thấy về, một mình thằng Hợi ở nhà làm tôi lo ngay ngáy. Nhưng cái tôi lo nhất bây giờ, chính là thái độ của Trí và câu báo tin lấp lửng của nó, tôi đập vào lưng nó:

- Rõ ràng coi!

- Chú Dân bị thằng Lễ bắt rồi.

Lễ là thằng cớm chìm làm việc dưới chính quyền Sài Gòn - một trong những khắc tinh của cán bộ Đảng vì cái thằng này nó hay rình bắt dân vô tội rồi gán cho họ danh Việt Cộng, dù cho người ta có hay không ủng hộ Đảng, nó vẫn bắt bỏ tù người ta cho được. Bỏ tù rồi, tụi nó lãnh tiền từ thằng Diệm, đi cà phê cà pháo suốt ngày.

Xóm tôi không sợ tụi cớm chìm như thằng Lễ, nó đâu có cớ bắt bà con tụi tôi. Mấy khi nó nghi nhà tôi nuôi giấu cán bộ, ba má tôi giấu nhẹm, làng xóm còn không biết chứ nói chi nó, nó sao mà có cửa bắt hai chú?

Vậy mà giờ chú Dân bị bắt thật.

- Tao đâu có nói mày giỡn.

- Nhìn cái mặt đa nghi như Tào Tháo của mày, mất uy tín quá!

Nãy nó gào to ơi là to, chắc bây giờ khối nhà trong xóm tôi nghe được, vội đôn đáo dọn đồ cho cán bộ cao chạy xa bay. Tụi thằng Mỹ nó rớ tới cái xóm này rồi, cán bộ sống không nổi.

- Ai nói chú Dân bị bắt?

- Cần gì ai nói? Chính mắt tao thấy.

Tôi ngẩn ngơ lặp lại, giợng ngờ vực:

- Chính mắt mày thấy?

Trí ít khi nói láo, tôi biết nó chưa bao giờ phóng đại sự thật. Nó xưa giờ nghe gì nói đó, không nói quá cũng chẳng đặt điều ai. Nó nói là tôi tin ngay, Trí thở dài:

- Nãy tao đạp xe về, thì chiều tao phải đi đánh chữ thuê đó, mày nhớ hông? Ờ đó, qua tới trung học Pe... Pe gì đó tao quên mẹ!

Nó chẳng nhớ gì ráo, tôi cười:

- Petrus Ký.

- Ờ Petrus Ký! - Nó tiếp. - Ngay ngã Năm, sát rạt kế bên đại lộ Cộng Hoà có cái lề đường bự thiệt bự, mày nhớ hông?

Tôi gật đầu một cái rụp:

- Nhớ.

- Ờ đó đó! Chú Dân bán cơm ở đó, mà hộp cơm có bao nhiêu đâu, mấy bạc lẻ hà.

- Vô chuyện chính coi, mày lằng nhằng hoài!

- Từ từ, bộ đó giờ cô giáo không dạy mày phải kể chuyện có đầu có đuôi sao?

Chú Dân cũng như chú Sáu, một chú bán kem ống dạo, người kia thì bán cơm vỉa hè. Mà mấy xe cơm đó đều là đồ mấy chú cán bộ khác trong xóm nấu rồi cắt cử hai ổng đi bán, đi tuồn tin về. Sáng nào Trí cũng dậy sớm tầm năm rưỡi, nó nói với tôi là chú Dân đã bắt đầu lục đục đảo nồi cơm nóng hổi, mấy hộp thịt cốt lếch ướp sẵn, nồi chảo lẫn dầu ăn, gia vị, mắm nêm gì đó đầy đủ cả. Sau khi kiểm chác lại cả rồi, chú chậc lưỡi mấy cái cầu hên không bị tụi cảnh sát chìm bắt rồi cười cầu tài với Trí, đẩy xe ra ngõ.

Tất nhiên là cơm gạo trắng thì được mọi người nấu sẵn, chú chỉ đảm nhận phần ướp gia vị, nhưng tôi với Trí từng được chú đãi ăn một lần rồi, ngon nhức nách. Kỳ đó là lúc khi tôi và nó phải đạp xe trối chết lội ngược lên bệnh viện Saint Paul để thăm thằng Út Chim, thằm con trai út của cô họ tôi. Hai đứa cầm cái gà mên đong đưa ngay tay lái xe đạp, chả biết thằng Chim muốn ăn gì. Tôi muốn mua bún riêu, Trí lại muốn mua cháo lòng bò ăn cho ấm ruột. Chí choé một hồi, chúng tôi dừng chân trước sạp cơm của chú, í ới:

- Chú Dân!

Chú bận chiên xào không ngơi tay, nhác thấy hai đứa tôi, chú cười toe:

- Hai đứa bây đi đâu đây?

- Qua thăm thằng Út Chim chú ơi! Bán cho tụi con miếng cơm sườn với.

Dù khách của chú đông bao nhiêu, chú cũng kéo tôi và nó xuống cái bàn con gần đó, bày ra hai đĩa cơm rồi giựt mất cái gà mên, thản nhiên quệt mồ hôi:

- Hai bây ăn đi, hổng phải hàng ế nên chú mới bao bây ăn đâu. Lâu lâu bao ăn một bữa, hà hà.

Chúng tôi đang vội, Trí và cơm như một cái máy, tôi quay sang chú:

- Bày đặt bảnh tỏn he?

- Ai thèm bảnh tỏn với bây? Khi nào đuổi được thằng Mỹ, chú bây mới bảnh tỏn với cô bây được chớ.

Trí nheo đuôi mắt:

- Cô nào chú?

- Vợ tao đó, bây hỏi nhiều quá!

Chú lại xới cơm, cái miệng của tôi và Trí hỏi liên tục:

- Vợ chú moi đâu ra vậy chú? Hổng lẽ từ trên trời rớt xuống hả?

Nghe Trí chọc quê, chú dứ dứ cái xẻng nhôm lên đầu nó:

- Moi từ đầu tao nè, mấy đứa sinh viên như tụi mày ưa bắt bẻ tao quá há? Tao nói vợ là lấy lúc nước mình độc lập, tự do đó mày ơi, đòi khôn hơn tao hả mậy?

- Chừng nào là chừng nào chú?

- Ai biết mậy? Trăm năm nữa, thằng Mỹ còn thì tao ế tới già.

Tôi định hỏi, sao phải ế hả chú. Nhưng rồi tôi chợt nhận ra, trăm năm mà chú nói đó, chú đi từ miền này tới miền kia, vùng đó vùng đọ, cầm súng, cầm giáo mác đi lùng giặc. Chú tới giờ vẫn toàn tâm vì dân vì nước, hỏi sao chẳng ế vợ, ế lòi mỏ, ế chèo queo vẫn chẳng có cô nào tới rước. Nghĩ vừa buồn cười vừa thương, tụi tôi cười rúc rích:

- Nghe chắc nịch há? Nhỡ thằng Mỹ chưa đi mà chú lấy vợ thì sao?

- Biết chừng mậy? Mà thôi tém cái mỏ, mấy thằng công an chìm nghe được là mình chết mẹ đó con ơi.

Chú suỵt khẽ, tụi tôi làm bộ sợ rồi nhanh nhảu nuốt hết dĩa cơm sườn, xong xuôi đâu đó, tôi giựt lại gà mên cơm từ tay chú, hai đứa với lấy ghi đông xe đạp dông biền biệt.

Giờ chú bị bắt, tụi tôi hết được ăn cơm sườn một cách ngẫu nhiên của chú.

- Mà sao bị bắt mới được? Hổng lẽ có đứa hớt lẻo chánh quyền sao?

- Tao núp bụi rậm, thấy chú trao đổi giấy tờ với mấy ông già xọm nào đó. Rồi thằng Lễ lao ra gông cổ nguyên bầy.

- Chết mẹ chửa! Thế mấy cha đó bị bắt chung à?

- Ờ! Tao mới đạp ngang chợ Lớn, má mày khóc quá trời.

Nghe Trí bảo má tôi khóc, dường như có quá nhiều suy nghĩ đọng lại trong tôi.

Chú Dân bị bắt, chắc chả mấy chốc nguyên xóm đều biết, miệng con Trí bự thế mà.

Chú bị bắt, ai cũng sợ, hơi thở chiến tranh bắt đầu rờ rẫm tới xóm tôi rồi, sợ toát mồ hôi. Tụi tôi không sợ chết, chết thì có sao, nước mình chưa giải phóng mà mình sống cơ cực vậy để chi? Tụi tôi chỉ sợ mấy chú, mấy bác cán bộ bị bắt, lúc đó ai lo cho dân, lo cho miền Nam nghèo nàn này? Người ta đâu có sợ chết, như bác Ba Xị xóm bên đó, nuôi chục ông cán bộ một lúc, bị đám thằng Lễ mò được, nó bắt cán bộ, giết bác Ba Xị rồi mấy thằng lính Diệm cứ vậy mà quăng xác bác ở xó nào chả ai biết, để cảnh cáo bà con chúng tôi.

- Sức mấy mà tao sợ. Tao thách tụi nó cắt cổ tao luôn đó, bây coi, đâu có sợ chết, không chết giờ thì chết mai, chết mốt, sau đăng ký xin đi tòng quân, bị địch bắn thì cũng chết, đường nào cũng chết, sống không nổi với tụi lính đó đâu mày ơi. Nhắm làm được nhiêu thì làm, bây còn nhỏ, lo học làm thầy, rồi mốt đi đàm đạo với chánh phủ Mỹ, không huề cả làng thì mình đuổi nó.

Trước khi chết, ông Ba Xị nói với đám con cháu ông vậy. Nghe cũng xuôi tai, sau mấy thằng con ông đăng ký đi lính, biền biệt mấy năm trời chẳng thèm dẫn xác về.

Sao mà con Trí đạp lâu quá.

- Lâu dữ mậy? Mà đạp đi đâu đó?

- Qua Lê Lai, bến xe miền Đông.

Tôi chưng hửng:

- Ủa, ra bến xe chi?

- Chú Sáu biểu, chú kêu hết ở lại Sì Gòn được rồi.

Cũng phải, họ không sợ chết nhưng sợ bị bắt chẹt. Những cán bộ như các chú, bị bắt một cái là thôi khỏi nói, tụi Mỹ nó tra tấn dã man, rồi liền đó là đày đoạ ra nhà tù tuốt ngoài Côn Đảo. Lỡ tinh thần yếu xìu, chưa kịp tra khảo, chưa quýnh mà đã khai, khéo mấy anh cán bộ còn lại cũng bị liên luỵ. Bởi vậy chú Sáu cùng vài người nữa đã vội dọn đồ ra bến xe dông sang tỉnh khác khi vừa nghe tin chú Dân bị bắt. Chả ai nỡ trách, nhưng bị tóm cổ một cái là toi cơm, vậy nên chúng tôi vội vã đạp xe ra bến để chào mấy chú lần cuối.

Bến xe xô bồ đông đúc, Trí chỉ kịp bấm ổ khoá nghe một cái cắc khoá xe, tụi tôi lại kéo nhau chạy hết chỗ này đến chỗ khác. Cát bụi mờ mịt, tiếng mấy thằng cha xì thẩu chửi bới, mấy thằng oắt rao kẹo sing gôm, tiếng mời chào ly sinh tố,... Ồn quá, chả nghe được gì, chả biết mấy chú ở đâu, sao mà tìm?

- Giờ sao? Hay mày chạy ra bến mấy số đầu đi, tao số cuối.

- Không được đâu mày, lỡ lạc một cái là thấy mẹ, không tìm được nhau đâu.

"Không tìm được nhau."

Đột nhiên nó lại kéo tay tôi chạy biệt.

Phải một lúc lâu tôi mới thấy chú Sáu cùng với vài anh nữa. Các chú với bộ áo chàm, khuân hết thứ này thứ nọ lên xe, nặng kềnh cả lưng. Tôi hét toáng:

- Chú! Chú ơi! Tụi con nè!

Trí cũng phụ tôi, đột nhiên chú quay lại, nở nụ cười hiền:

- Ờ bây đó hả? Sao giờ mới ra, mà ra là tốt, được! Chờ chú mày tí.

Nói đoạn, chú lục lọi gì đó trong cái túi áo chàm sờn cũ, đưa chúng tôi:

- Nè mỗi đứa một cái. Chưa biết chừng hai bây có đăng ký đi lính hông, thì đó, giặc tới nhà đàn bà cũng quýnh mà lị. Này là hai cái còi bằng đồng Pháp đàng hoàng đó nghen, hễ địch mò tới bắn bây, bây "rét" một hồi là có đồng minh mình tới cứu liền.

Chú vui lắm, nhưng tôi thì khóc, khóc ướt cả áo.

- Chú đi rồi chừng nào ghé qua thăm tụi con hở chú?

- Khóc lóc cái chi mày ơi! Hông gặp được thì tao đánh điện cho má bây vậy. Sống sao nổi, mốt tao ra chiến trường, cầm mấy khẩu súng Mỹ nã vô bụng tụi nó nghe đùng, rồi về nhớ bao tao ăn bể bụng đó nghe!

Trí sụt sịt theo tôi:

- Tụi con bao chú ăn hết cái Chợ Lớn còn được.

- Nói chứ giỡn chơi với mày, thôi đi thiệt. Đời mà, sống nhiêu lâu nữa đâu, mốt mày đi lính tự khắc thấy vui, gặp anh em chung đơn vị cười quài hổng ngớt. Ê đi đó nghen, nói má bây bả bớt khóc, làm tao đơn đớt quá chừng. Ba bây chưa biết gì đâu. Hai anh chị Tám làm tao ngại dữ thần. Thôi đi thiệt, bây khóc quài, người ta nhìn kìa.

Một hồi, chú cúi rạp người chào tụi tôi, mắt chú hoe đỏ, chú gân cổ nói:

- Chào hai đồng chí, tôi đi đó nghen!

Tôi và Trí chào hệt bộ đội:

- Chào!

Rồi cuối cùng, biển số xe ra mấy tỉnh miền Trung mờ dần, nhạt nhoà trong cát bụi.

Gặp chú Sáu xong, tôi và nó lại phải tức tốc quành đầu xe về nhà. Má chưa về, thằng Hợi mai cũng phải lên bến xe về quê, tụi tôi dỗ nó ngủ trước. Hai đứa ăn vội mâm cơm chiều tẻ ngắt, mấy con tôm rang muối mặn, canh bầu. Rồi lại rửa chén, không gian lặng như tờ ấy khiến tôi nghẹt thở.

- Chết quá mày ơi!

- Chết gì mà chết?

Nhác thấy tôi thẫn thờ ngồi hứng trăng ngoài hiên, nó đá một cái vào bắp đùi tôi:

- Đi hông?

- Đi đâu?

Nó dắt cái xe đạp của nó ra, trăng lên cao lắm rồi.

- Hóng gió chơi.

Vậy đó, và cũng đã lâu lắm rồi tôi mới hưởng thụ một đêm ngụ tại Sài Gòn trên yên xe phía sau Trí.

Mấy lần nó toàn đèo tôi đi vội vội vàng vàng, không kịp ngắm phố phường cho đã con mắt. Giờ đây ở phía sau lưng nó, một tay quàng qua hông nó, trên con xe cọc cạch của nó. Giờ đây không chỉ tôi, gần như cả Sài Gòn đang lệ thuộc vào nó.

Má của tôi, ngả vào lưng nó.

- Mắc gì xà nẹo người tao quài?

- Ý kiến thì lên phường mà ý kiến, mày rủ tao đi chớ ai?

Nó im bặt, sau đó thì thầm cười một mình.

Cái xe đạp cọc cạch cũ mèm, thoạt nhìn đã thấy ngứa con mắt. Lắm lần tôi giục nó mua quách con xe mới đi, nó chỉ cười giả lả cho qua. Chiếc chiến mã này của nó lâu lâu phát ra âm thanh như bị rỉ sét, thấy mà ghê.

- Lạng quạng tao thả mày giữa đường à.

- Ngon mày thả coi.

Giỡn hồi lâu, đột nhiên nó trầm mặc lạ lùng.

Đạp xe lanh quanh đường Ngô Thời Nhiệm, lát sau nó lại chở tôi đến mấy con phố đông đúc ánh đèn đường. Miệng nó cứ than thở, Sài Gòn chết mất đất rồi. Tôi lấy làm lạ, đèn đóm sáng rực cả một vùng trời, nhạc nhẽo xập xình ầm ĩ, rốt cuộc là chết gì và chết vì cái gì?

Nó trả lời tôi:

- Mày không để ý đó thôi, toàn mấy thằng Mỹ đen Mỹ trắng đi đầy đường, mấy cha người Tàu. Chứ người Việt mình, ít lắm mày ơi, giờ người ta lo ngủ để sáng mai đương đi làm đi bán đi buôn, mấy ai rảnh rang, người Việt theo Đảng ai cũng nghèo nức.

Nói tới đó, tôi cũng hơi chạnh lòng, nhưng nó nói đúng, tôi không cãi. Hai bên đường tấp nập toàn người Tây, toàn người Tàu, mở miệng cứ xỉa xỉa tiếng Hoa, tiếng Tây, tiếng u gì đó, mà bọn tôi học mấy thứ tiếng của tụi Tây bù trớt, ngữ pháp thì được, chứ tai nghe chữ được chữ không, tụi nó nói như gió, nói gà vịt ai mà hiểu.

Lòng đường Sài Gòn, nhưng mãi mới nghe hai ba câu tiếng Việt.

Lại chả phải, người Việt giờ này mà ra đường thì chỉ có coi cải lương, chiếu bóng. Người nghèo, người ta ngủ sớm để lấy sức đi bán đi buôn, phải có sức sống giữa cái chính quyền mục rữa thối nát này. Sống nay chết mai ai biết, mà chết bất đắc kỳ tử mới khổ, ào một cái, mấy thằng như thằng Lễ bỏ tù, người Việt mình khổ chứ ai khổ, còn tụi thằng Diệm rặt một lũ bán nước.

Sài Gòn bất tỉnh, hôn mê, chắc phải lâu lắm mới sống trở lại.

Tôi yêu Sài Gòn, yêu mảnh đất nơi tôi đẻ ra và lớn lên, nhưng tôi sống trong cái xác Sài Gòn thôi, hồn của thành phố này bị thổi bay mất, bị hơi thở chiến tranh cuốn đi mất.

Rồi nó lại đạp xe đưa tôi về những miền chợ cũ, những sạp chợ bỏ hoang tiêu điều, rau cỏ nằm rải rác chỏng chơ giữa đường. Nó hỏi tôi:

- Sau này tao đăng ký xin đi lính, tao như con Tuệ, con Nhân, mày có buồn không?

Tôi không trả lời, thay vào đó là một phần lưng áo nó ướt đẫm nước mắt của tôi.

- Đồ mít ướt.

Bỗng nó cất tiếng hát:

"Sài Gòn tôi đẹp một nỗi li biệt
Thành phố hoang tàn đã chết từ lâu
Xin cho tôi trời xanh tựa mắt biếc
Hồn tôi an yên vơi đi ưu sầu."

Nó dừng lại, hỏi tôi:

- Hay không mày?

- Hay, ông nhạc sĩ nào viết vậy?

Đột nhiên nó lắc mạnh ghi đông, tỏ ý giận dữ:

- Tao chứ ông nào?

- Ghê hén, nay bày đặt viết nhạc đồ đó.

Tôi chọc quê, nó cười:

- Kệ tao, mày. Nghe nữa không?

Thấy tôi tấm tắc khen, nó phổng mũi đòi hát tiếp, tôi gật đầu, và rồi nó lại gân cổ rống:

"Mưa đạn cháy bỏng ghim vào mũ áo
Rát da rát thịt nỗi nhớ quê nhà
Người đi người ở bịn rịn đưa tiễn
Để lại mùa hoa sim một chiều xa..."

Càng về cuối, giọng nó nghẹn lại, đứt quãng, như chực khóc đến nơi.





6.

Nhiều ngày sau đó, tôi lấy xe phóng đi, đạp bon bon qua Xóm Củi, chạy rào rạo tới bưu điện thành phố.

Bưu điện thành phố to oành và nguy nga tráng lệ hệt như những toà lâu đài mà tôi thường xem qua sách báo. Cái bưu điện này được Pháp xây từ thời má tôi, tức hồi dân mình còn chịu nhiều ảnh hưởng của giặc Pháp. Nhưng phải công nhận một điều, chính nhờ những công trình như bưu điện thành phố, tôi mới cảm nhận được Sài Gòn của tôi một cách thật chân thành và sâu sắc.

Tờ thư trong tay tôi mỏng dánh, thiếu điều có thể nhìn xuyên thấu qua từng con chữ để thấy được hàng cây phía sau. Nó mỏng lét, tôi chỉ sợ lỡ như mình lơ đễnh thì nó rơi xuống đường lộ, lúc đó công sức viết chữ tay đẹp thiệt đẹp trong cả một buổi tối của tôi đổ sông đổ bể. Mà đối tượng gửi thư không phải ai khác, tôi muốn gửi thư ra ngoài Huế.

Lân biết tôi và Trí vẫn ở địa chỉ cũ, thế nhưng nó chưa một lần đánh điện về cho tụi tôi. Tôi trách nó, anh Long cười:

- Thôi thông cảm cho Lân đi em. Lân nó cũng hoạt động cách mạng dữ dằn, lỡ lòi ra địa chỉ thì mấy đứa cũng vạ lây ít nhiều.

- Thiệt hông anh? Hay anh nói đỡ cho nó vậy?

Anh Long xua tay:

- Thiệt chớ đâu dám nói giỡn. - Anh Long bông đùa. - Mấy cô coi tui vui tánh vậy chớ tui cũng là lính vậy, không dám ba xạo với bà con đâu.

- Vậy anh có hay gởi thư cho nó hông?

Trí chen mỏ vào hỏi, rồi tới lượt anh trả lời nó:

- Thì phải gởi ra gởi vô mới nắm tình hình được chớ.

Đợt đó, cả tôi lẫn Trí đều thiếu điều quỳ lạy van xin anh Long để ảnh chịu rỉ tai hai đứa về địa chỉ của con Lân, anh mới chịu cho. Còn về công đoạn viết thư thì người đó ắt là tôi, chữ của Trí xấu tệ, thảo nào thầy cô giáo ai cũng bảo mấy ông bà bác sĩ viết chữ xấu hoắc. Những gì muốn nói với Lân, tôi dặn nó viết vào nháp cho tôi, để tôi ghi cho đủ rồi mang ra bưu gởi.

Công đoạn chọn tem dán cũng lắm chông gai. Dẫu ở Sài Gòn nhưng tôi vẫn quyết chọn một cái tem dán cộp mác thành Thăng Long - Hà Nội, vốn chẳng ăn nhập gì với người gởi và người nhận, một người ở Sài Gòn, người thì ở Huế. Khi đứng ngoài bưu điện viết tên, địa chỉ lẫn dán tem, tôi nghĩ vẩn vơ về một xứ Huế thơ mộng, thú thực thì bà con tôi ở ngoài miền Trung đầy ra đấy, nhưng tôi chưa đặt chân ra ngoài đó bao giờ, Huế lại càng không, chả biết có cái chi há? Xong xuôi đâu đó, rà lại địa chỉ một lần nữa, tôi mới mò xe đi về.

Giữa đường về, tôi lại thèm bánh mì không.

Bánh mì không ở Sài Gòn, mà phải là bánh mì lò điện đàng hoàng mới đúng điệu dân Sài Gòn à nghen! Chỉ cần đi dọc mấy đường lớn một xíu là gặp mấy thằng nhỏ, mấy anh chở xe bánh bự hoành tá tràng được nịt chặt trên cái yên xe nhỏ xíu. Sáng sớm mà, bánh mì cả trăm cục bột trắng khối, thả vô lò điện quay một chút là cục nào cục nấy nâu vàng óng ả, giòn rụm, cầm lên bẻ nghe rôm rốp đã lỗ tai. Mình tôi dư sức mua tới bảy ổ với thịt thà rau chua rau thơm đầy đủ, nhưng tôi không thích, bây giờ tôi chỉ thèm bánh mì không.

Trí thích ăn bánh mì không, tôi ngày trước thì thích kẹp thêm vào cái gì đó mằn mặn, ngòn ngọt để ăn kèm cho đỡ ngán. Có lẽ lâu dần tôi bị nhiễm thói quen của Trí, chỉ cần thấy xe bán bánh đi ngang qua nhà là tự động ới một tiếng, một hai câu cô ơi chú ơi, ba ổ "mì không".

Mùi bánh mì không rất thơm, thơm một thứ mùi riêng không lầm lẫn với thịt thà rau củ gì. Nhiều lúc siêng, tôi và Trí cầm tay nhau dung dăng dung dẻ đi thẳng ra ngoài lò điện tuốt dưới Chợ Lớn, chỉ phải đứng chờ năm ba phút thôi, mấy anh thợ sẽ trút những khối bánh nóng hổi vào cái giỏ đan mây để mấy chú mấy anh chở đi rao bán. Trời ơi, cái mùi đó như muốn cuốn lấy cả tôi và nhỏ bạn tôi bay về miền cực lạc, thơm đến lạ lùng.

Sài Gòn dạo này nóng quá.

Ới một tiếng mua ba ổ bánh còn nóng hôi hổi, bù thổi bù bỏ vô miệng, tôi còn ráng tạt ngang hàng cô Hồng mua sữa đậu nành nóng phỏng miệng. Bẻ miếng bánh chấm miếng sữa thơm bùi béo là no tới chiều, chả cần gì thêm cả.

Thư gửi con Lân chẳng biết bao lâu mới tới, vậy mà hai tuần sau, anh Long ghé qua trường tôi đưa một tờ thư khác. Tan trường, thấy anh đứng ngay đầu hẻm, chắc sẵn tiện giao liên với mấy ông cán bộ nên qua đưa giấy cho tôi. Thấy tôi, anh vẫy vẫy tay, tôi dắt xe trờ tới:

- Qua sư phạm chi vậy anh?

- Của hai cô đó! - Anh cầm tờ thư, huơ qua huơ lại.

Tôi nhận tờ thư, lật mặt trước đến mặt sau:

- Ủa? Giấy gì đây anh?

- Chứ hai đứa bây đòi địa chỉ con Lân riết, giờ nó gởi lại đó.

Tôi mừng rơn:

- Thiệt hông anh?

- Nó gửi tin về cho đơn vị, sẵn kẹp thư vô cho hai đứa luôn.

Nói đoạn, anh kéo sụp cái mũi lưỡi trai xuống che kín mặt, cái áo gió bự thù lù che mất cặp vai nhỏ thó, anh nhảy lên yên xe, cười với tôi:

- Thôi dông nghe Hân! Bữa nào gặp.

- Dạ anh đi.

Tôi quýnh quíu đạp xe về nhà ngay, trước khi cả hoàng hôn kịp buông xuống.

Sài Gòn một chiều nắng nóng, hoàng hôn buông xuống lòng đường một cách tuỳ hứng và mất trật tự. Tôi chẳng màng đến cảnh vật hai bên đường, thứ quan trọng nhất đối với tôi bây giờ chính là tờ thư của con Lân. Tôi cảm nhận mồ hôi chảy ướt áo, sự gấp gáp nóng vội trôi vùn vụt trên bánh xe đạp. Tôi biết Trí cũng nôn nóng chẳng kém gì tôi, vì đây là thư của một người con xa quê đã lâu không về.

Tôi từng mắng mỏ Trí vì cái tật chưa kịp trờ mặt mà chỉ nghe mỗi cái giọng, và giờ tôi cũng thế. Niềm vui hoá thành chim se sẻ bay vào không trung mùa khô bức, tôi hét um lên khi xe đạp chỉ mới bon bon đạp tới đầu ngõ xóm:

- Trí!

Trí khác tôi, nó không thờ ơ như tôi mà lại mở cửa rào phóng ào ào, chặn đầu xe:

- Sao? Mày thấy tay tao dính đầy bọt xà bông rửa chén hông?

- Thì chớ! Từ từ tao kể.

Tôi loạng choạng dắt xe vô trong, Trí tò tò theo sau:

- Bày đặt bí hiểm há?

- Mày thấy cái gì đây không?

Dựng xe lịch kịch, tôi giở giọng vui vẻ, hai tay cầm tờ thư giơ ngang đầu. Trí cao hơn tôi, nó giựt phắt tờ thư xuống. Săm soi hồi lâu, cuối cùng nó la lên bài hãi, khuỵu xuống sàn:

- Trời đất! Con Lân thiệt hả?

- Ờ!

- Nó gởi thư cho mình thiệt hả mậy?

- Ờ! Ngoài Huế, con tem Huế luôn đó nghe!

Chúng tôi bỏ dở bữa chiều, má đi buôn xa, ba đi mấy tháng nay chưa về, thằng Hợi đã về quê rồi, cơm chiều, cơm nóng canh ngọt chỉ còn có hai đứa tôi, muốn ăn cũng được, không ăn cũng chả sao.

Sợ tôi đói rồi trờ xuống bếp lục cơm nguội ăn, Trí xoa bụng tôi:

- Mày đói không?

- Đói, mà xoa bụng tao chi? Như có bầu vậy mậy?

- Còn mấy cái bánh ú, bánh ít trong lồng bàn đó. Nay tao không nấu cơm.

Tôi lật nắp chảo thức ăn lên, mùi mặn xộc vào mũi tôi.

- Mày nấu cá nấu thịt nấu canh vầy mà sao chưa nấu cơm?

- Thì chưa nấu là chưa nấu, quên đó.

- Sẵn còn hai ổ bánh mì nè, lát tao với mày gặm sau cũng được, giờ giở thư ra đọc đi.

Nó đặt thư lên bàn, chạy đi lấy cặp nến. Trời sắp tối hù hù, hai đứa chụm đầu vào đọc thư. Dường như vẫn còn ngờ vực, Trí hỏi:

- Chắc không đó? Phải chữ nó không?

- Chữ nó chắc như in, tao còn giữ quyển lưu bút đây nè.

Hồi cuối năm đệ nhất, ai cũng đăng ký xì-lốt viết lưu bút với Lân. Nó giỏi văn, trước giờ vẫn luôn nắm trùm lớp môn văn. Ai nấy được nó viết lưu bút cho, giở ra đọc ngay trước khi tốt nghiệp là nước mắt tuôn như thác lũ. Nói không phải ngoa, bây giờ trong tủ xó nhà tôi vẫn giữ in bốn cuốn lưu bút của tôi, Trí, Nhân và Tuệ. Nhân và Tuệ là để giữ giùm khi tụi nó hoạt động cách mạng xa nhà, giờ hai đứa nó bỏ mạng, tôi cũng không dám mở ra đọc lén.

Nghe tôi nhắc lại chuyện lưu bút, Trí hỏi:

- Sao không mở ra coi tụi mình viết gì ở trỏng?

- Thôi mày, đồ người chết mở ra đọc linh lắm. Bộ mày chưa nghe chuyện bà Hịch xóm dưới mở sổ của ba bả, đến sáng mai chết bất đắc kỳ tử hả?

Trí lắc đầu.

Chữ tay của con Lân đẹp thiệt là đẹp, đẹp chẳng kém gì tôi. Chữ viết tương xứng với con người, phải nói là thuở học đệ nhất, khối anh ngoài đường ngẩn ngơ trông theo tà áo dài trắng của các cô nữ sinh nhuộm trắng lòng đường, xin chết vì nó. Chữ đẹp, người cũng đẹp, nhưng nết thì không chắc lắm hà hà.

- Lo đọc thư đi, ngồi đó cười hoài.

Trí nhăn mũi, tôi nhéo tai nó:

- Cười kệ tao.

Nội dung thư chẳng có gì quá ghê gớm, vẫn là giọng văn bông đùa, sau đó hình như nó bị bệnh nghề nghiệp, câu nào câu nấy sặc mùi văn thơ bay bổng, đọc mà cứ tưởng nó gửi người yêu. Trí như đọc được suy nghĩ của tôi, nó quay phắt sang khi chóp mũi của nó chạm vào mái tóc lồng phồng được bới sau đầu của tôi:

- Nó có bồ chưa mày?

- Tao phải má nó đâu mà biết? Bồ bịch cái gì?

- Vậy mà dòm mặt mày, tao tưởng mày biết.

Tôi ngớ ngẩn hỏi:

- Biết sao?

- Xét nét dữ quá, mày y chang má nó rồi đó.

Thư chỉ có nhiêu đó, đại khái là con Lân cảm tạ hai đứa tôi vì vẫn còn nhớ đến nó và nó hứa hôm nào ghé thăm má trên Sài Gòn, nó sẵn ghé qua thăm tụi tôi luôn một thể. Mà nhà má nó sát bên tụi tôi chớ đâu?

- Chừng nào là chừng nào há mày?

- Tới chừng đó rồi tính.

Vậy mà chừng đó tới nhanh thật, nửa tháng sau, tôi thấy có một con nhỏ trạc tuổi chúng tôi, đứng sừng sững trong hiên tránh mưa bão.

Sài Gòn dạo đợt này chịu ảnh hưởng của mưa bão miền Trung, ngập kinh khủng khiếp. May là chỉ ngập chứ chưa tới mức lụt, lũ mà tới xóm này thì chúng tôi chỉ có nước bới đồ, tiền bạc của cải trốn xuôi xuống dưới mấy tỉnh miền Tây. Mấy cái ống cống khó thoát nước, được chừng lâu lâu là nước xả ra, đen thủi đen thùi, ngập tới hơn đầu gối, tới bắp đùi. Mấy thằng con nít xóm dưới bơi xuôi lên xóm trên tôi, cầm thau chậu gì đó, đưa đẩy nhau rồi quậy phá dưới nước. Tôi nhìn mà sởn cả da gà, nước dơ hầy, hôi rình vậy mà dính vô một cái là nổi mẩn ghẻ tùm lum, sao con nít thời nay quậy quá không biết.

Nhà tôi chẳng thèm đóng cái cửa vào, nước mưa cứ thế ào ào vào trong sân, thì thôi mở phắt cửa rào tre cho lành, tôi đã xua con Đụt vào nhà trong. Đụt là giống chó nhà nhưng sợ nước từ bé, tôi cũng chẳng nỡ để nó ngoài sân. Cứ thế để nước vào thôi, chừng vài giờ là nước rút như giặc rút, Trí thì đã đi bán quán từ sáng sớm, chưa về.

Ngay khi quay gót trở vô trong, tôi nghe tiếng lịch kịch phía sau, tưởng đồ đạc trong nhà bị cuốn đi thiệt, tôi quay phắt lại, chợt thấy có người phụ nữ nào lạ hoắc đứng giữa dòng nước trong sân nhà mình, tôi hỏi, giọng ngờ ngợ:

- Chị kiếm ai?

- Tôi kiếm Ngọc Hân, Mẫn Trí. Hai đứa nó có nhà không chị?

Ngay khi cô gái vừa cất tiếng đầu tiên, tôi đã reo ầm trời:

- Lân? Lân! Phải mày không đó?

Tôi mặc kệ nước lạnh lẽo mùa mưa bão chạm vào da thịt, mặc kệ cái quần bà ba lệt quệt bết nước bẩn, tôi lao tới, run run nắm tay nó. Nó cười:

- Con Hân có nhà vậy Trí đi đâu chị há?

Đúng, đúng là nó rồi, trời ơi, con Lân đây thiệt rồi. Nước mắt tôi hoà lẫn với màn mưa trắng xoá ngoài kia, ướt nhoè cả má, mờ cả một khoảng trời. Lân giãy nãy:

- Mới về mà làm như tao sắp chết đến nơi vậy?

- Mày biết tụi tao chờ mày lâu lắm không? Quỷ sứ?

Tôi khóc oà trong niềm vui tột đỉnh của một người ở lại nhìn người xa quê về thăm, rồi cốc đầu nó như cách chúng tôi vẫn thường làm, Lân la lên oai oái. Tôi xách tai Lân đi vào nhà trong cho khô ráo, bắt nó cởi đôi dép sũng nước để lên kệ.

- Ra ngoài sau tắm rửa xối nước cái cho tỉnh, người mày thúi hoắc.

- Con Trí đâu?

- Đi chạy ngoài tiệm ăn chưa về.

Hình như má con Lân cũng bận đi buôn nốt, nó đặt cái giỏ đồ nặng trình trịch xuống cái ghế bố rách rưới to tổ mẹ đặt ở giữa nhà tôi, vạch ra lấy bộ đồ bộ rồi tót ra sau hè cầm gàu nước xối ào ào lên tóc tai, vừa thở dài sảng khoái.

Trí vẫn chưa thấy về, mà nói vậy thôi, lát nó về ngay ấy mà.

Tôi định bụng hôm nay không nấu cơm để ra ngoài tiệm nước bao Lân ăn một bữa, lâu lâu nó mới về một lần mà. Một chốc con Trí về, thấy Lân, nó hiểu ra nông nỗi. Nó xô ngã cái xe đạp, hai đứa nhào tới ôm lấy nhau như hai ông bạn già:

- Lân, khoẻ không mậy?

- Khoẻ re!

Tôi cười cười, nhắc Trí:

- Tắm rửa gì chưa?

- Tắm ở tiệm luôn rồi, tụi bây không ở nhà ăn cơm mà đi đâu đây?

- Ra tiệm chú Thủ, mày đi hông?

Thì ở nhà có nấu cơm đếch đâu, nó phải bấm bụng tròng đại cái áo mới vô người te te theo tụi tôi thôi, giờ chắc nước rút hết trơn rồi.

Chú Thủ là một người đàn ông đứng bán hủ tiếu mì từ khi bọn tôi còn chưa được đẻ ra nữa, nói chung là chú bán từ cái hồi Pháp lận, lâu thiệt là lâu. Hồi nhỏ nhà nghèo, ít bữa nguyên đám dành đủ tiền mới dám hiên ngang ngồi lên mấy cái ghế con con như mấy ông quan ông tướng. Tô mì thì chẳng mất bao nhiêu, trẻ con thời đó tiền quà vặt một hai đồng là nhiều lắm rồi. Mà ông chú Thủ thì khoái con nít, biết tụi tôi lâu lâu mới được ăn, lúc nào chú cũng rải tôm thịt bằm, thịt xắt lát đầy ú ụ, đứa nào ăn một tô chắc cũng phải no hai ngày, bự như cái thau vậy. Từ hồi tốt nghiệp, đỗ tú tài tới giờ, tôi vẫn chưa quay lại tiệm nước của chú dù chỉ một lần.

Lần này tiệm của chú vẫn chỉ là một cái tiệm lề đường. Nói tiệm là nói cho sang thế thôi, thực chất vẫn chỉ là mấy cái bàn ghế con nhựa màu xanh màu đỏ. Tự dưng nhìn cửa tiệm của chú, con Lân rơm rớm nước mắt, tôi cũng thế. Tôi nhớ chú Thủ và nhớ tiệm cơm của chú Dân quá thể.

Sàu Gòn một buổi tối, lạnh tê người. Trí từ đâu ra lấy cho tôi cái áo gió, nó nhẹ nhàng đắp lên vai tôi rồi quăng cho Lân chiếc còn lại, nó chỉ mặc mỗi cái áo thun mỏng.

- Không lạnh hả?

- Ăn mì nóng hổi là hết lạnh liền.

- Vậy thôi chớ mày mặc đi, làm thêm về cực chết mồ, đừng có cái gì cũng nhường tao.

Hình như Lân khó chịu trước sự vùng vằn của tôi và cái dáng hay ra vẻ của Trí, nó thở dài thườn thượt:

- Tụi mày vẫn chẳng khác xưa mấy.

- Khác là khác sao?

- Thì xưa là xưa chớ sao, bộ mày hông nhớ hả? Ngày trước chơi trò cô dâu chú rể, chú rể thiệt đâu không thấy mà chỉ thấy chú rể dỏm.

Tôi vẫn không hiểu, trong khi đó Trí bắt đầu ngượng ngập, nó hết gãi cổ đến gãi gáy.

- Là sao? Rể riếc cái gì?

- Mấy thằng Đực đòi làm chú rể mà mày đâu có chịu, mày đòi con Trí đó, hổng nhớ sao? Hông chừng lớn lên mày cưới nó thiệt à?

Tôi và Trí nhảy dựng lên:

- Cái đó còn nhỏ lôi ra tính toán mần ăn chi mày ơi? Còn tụi thằng Đực thì do tụi nó bầy hầy thấy ghê, có con Trí ở đó cao nhòng vậy là ô kê con dê rồi.

Lân nhướng mày nhìn tôi:

- Thiệt không đó? Tụi mày chúa ba xạo.

Lân ơi là Lân, nó nói xong tự dưng tôi hết muốn ăn mì ngang xương. Lúc này đây, cái áo gió cuộn chặt trên người tôi, hai người con Sài Gòn chánh gốc, tôi và Trí nhìn nhau ngại ngùng trước những câu trêu chọc vô định của Lân, chẳng ai nói lời nào.





7.

Bữa đó, con Lân cứ một mực đòi trả.

Nó kêu ra ba tô hủ tiếu mì đặc biệt cỡ lớn, thêm ba chai xá xị con cọp ướp lạnh tê người. Rồi ngay sau đó, nó lau đũa cho hai đứa tôi, tay gõ gõ lên bàn liên tục:

- Này tao trả nghe.

- Trời đất, lâu lắm mày mới ghé về một lần, sao tụi tao bắt mày trả được?

- Kệ đi, cho tao lấy le một lần cho oai với chú Thủ coi. Mấy lần trước tụi bây bao quài.

Con Trí cười khùng khục:

- Sợ chú khinh hé?

- Ờ, nay phải làm mặt ngầu chớ.

Chú Thủ xem chừng chưa nhận ra chúng tôi, dẫu cho chúng tôi của thời sinh viên và hồi phổ thông chẳng khác nhau mấy. Chú thoăn thoắt chan từng vá nước lèo nóng hổi lên ba tô mì to oành, những sợi mì vàng óng cứ thế xẹp xuống sau từng đợt nước sôi ập đến. Thằng con chú, thằng Minh, trước học lớp kế tụi tôi hồi cấp hai, giờ chạy bàn cho quán ba nó, cứ đứng lăm lăm ở đó chờ lấy mì.

Thằng Minh nhận ra tôi ngay khi ba đứa vừa trờ tới sạp mì, riêng con Lân và con Trí thì đợi tôi nhắc khéo nó mới biết. Minh ngỏ ý bao cả ba đứa tôi, nó cười:

- Lâu rồi tụi mày mới ghé, khỏi phải trả đồng cắc nào hết.

- Vầy sao coi được mậy?

- Tao không nói ba tao cũng nói à, vầy nghen.

Thằng Minh rì rầm to nhỏ gì đó với chú, trong khi đó tôi đổ từng chai xá xị một ra cái ly bia đầy đá:

- Dạo này ngoài Huế được không mày?

- Được chớ.

Lân học ở viện đại học Huế, được hai năm thì nó nghỉ ngang, xin vô toà soạn nào đó làm báo, rồi viết tự truyện, truyện ngắn, nổi như cồn tuốt ngoài Huế. Lân kể, nó học được đến năm tiếp theo thì đâm chán, rồi nộp đơn xin bỏ học, quyết một hai đi theo nghiệp viết. Vừa nói, nó lôi ra hai cuốn tự truyện ngắn chìa trước mặt chúng tôi:

- Có chữ ký của Sương Vũ đàng hoàng đó nghe.

- Ê tao đọc quyển này rồi nè, viết mướt mườn mượt luôn mậy.

Trí cầm quyển sách nảy tưng tưng, thiếu điều muốn bay ra khỏi ghế nhựa mà nó đang ngồi chồm hổm. Lân cười toe toét, ngay lúc đó, chú Thủ đích thân bưng ba tô mì ra.

- Nước sôi, nước sôi!

Chú đặt từng tô một xuống thật cẩn thận và ngay ngắn khi mì vẫn còn nghi ngút khói, tôi ngẩn lên và bắt gặp ánh mắt của chú:

- Nhớ tụi con không chú?

- Tao mà quên thì ai nhớ nổi? Con Lân về khi nào đó?

Chú bật cười ha hả thành tiếng, giữa chiều tối vắng lặng và đoạn đường không bóng người, giọng cười đó của chú khiến lòng tôi như được sưởi ấm. Một thời gian dài tôi không được nếm mùi vị quen thuộc từ những sợi mì vàng óng, nước lèo sóng sánh của chú khiến tôi bất giác cảm thấy tủi thân. Và tôi hơi cay nơi khoé mắt:

- Bán chác gì ngon nghẻ chớ?

- Ngon mậy, giỡn quài. Tao mới cất cái nhà lầu ngoài quận 6 đó nghe.

- Vậy nay có bao hông chú?

Trí giỡn, nó chọc chú Thủ, ai dè chú cười khà khà:

- Chuyện nhỏ như con thỏ, tao dư sức bao tụi bây chín tô.

- Thôi, giỡn đó chú, nói chớ nay con Lân bao, lâu lắm nó mới về.

Đợi chú đi khuất, tôi bắt đầu đưa gắp mì đầu tiên cho vào miệng, Trí lúng búng hỏi:

- Quên hén, ngoài Huế có gì vui hông?

- Ủa bộ anh Long chưa nói tụi mày hả?

Xem chừng là chuyện gì nghiêm trọng, tôi khều chân Trí, nó dừng ăn, chuyển qua tu ừng ực ly xá xị:

- Cái gì là cái gì? Chưa ai nói cả.

- Con Tuệ đó mà.

Nghe đến tên Tuệ, người bạn đã khuất của chúng tôi, không ai bảo ai, cả tôi lẫn Trí đều tròn xoe mắt chồm tới:

- Sao?

- Nó đã chết đâu?

Tôi bật ngửa:

- Ủa chứ sao anh Long nói nó bị bom nổ banh xác mà?

- Chết đâu mà chết? Nó sống sờ sờ ra kìa.

Trước sự bất ngờ mà nó mang đến, Lân bình thản ăn từng đũa một, nó bắt đầu kể lể.

Đợt đó là đơn vị gỡ mìn, gỡ bom của con Tuệ đang hoạt động khá sôi nổi tuốt ngoài mấy cánh rừng ở mặt trận Tây Nguyên. Hôm ấy xui rủi sao mà mìn dưới chân chị Thành, một chị cùng đơn vị phát nổ, đùng một cái, khói bay nghi ngút đầy trời. Tuệ nghe thấy tiếng nổ lách tách vang lên tai, chân trái nó tê liệt hoàn toàn. Hơi nóng phủ lên cả cơ thể nó, một bên chân bị đất đá xới lên vùi mất, gần như cả nửa thân dưới của nó bị chôn sống. Nóng rát da mặt, nó tưởng như nó đang được nướng chín. Tuệ nhìn quanh quất, chị Thành, con Thư, con Hà,... đồng đội của nó, nó chỉ còn thấy mấy cái xác bầy hầy da thịt, bom nổ biến dạng mặt mũi. Đột nhiên nó không thấy sợ, Tuệ cố bám tay thật chặt vào từng nắm cỏ dại, móng tay bấu vào thịt đến độ bật máu. Khói quá, Tuệ nhủ thầm, độc quá, nó ho khan. Tuệ càng kéo mình lên, chỗ đất đó như lại kéo nó sâu xuống.

Nó không muốn chết.

Chân kia của nó, có lẽ bị liệt mất, nó muốn cắt bỏ cái chân vướng víu đó đi, chân còn lại thì thôi để lết cũng được. Máu nhiều quá, máu lênh láng khắp mặt đất, mắt nó hoa hoa mờ căm. Tuệ không thể bất tỉnh, nó không để nó ngất, nó tự lấy con dao găm thọc trong túi quần, rạch từng vết lên tay cho tỉnh, phải đau cho tỉnh. Họng nó rát buốt, nó không thể kêu hét, đồng đội chết hết cả rồi. Địch mà tới là nó cũng chết, sống giây nào hay giây đó, Tuệ vẫn cầm con dao găm giàn giụa máu trong tay, thở hổn hển. Ngay sau đó, trời đất quay cuồng, nó lịm đi khi máu vẫn còn đang xối xả.

Và nó tỉnh lại ở một bệnh viện dã chiến cách đó không xa.

- Anh Liêm? Anh Phúc? Mấy chị đâu rồi?

Tuệ tỉnh dậy khi toàn thân vẫn còn đau nhức, nhất là cái chân trái. Nó quay xuống nhìn, cái chân trái mất tiêu, nó đau là đau phần gối cụt. Tuệ bàng hoàng nhìn các anh, các anh ở đơn vị trên nhìn nó, sụt sùi:

- Cả đội còn có mình em, ráng cầm cự vầy là dữ dằn lắm, Tuệ ơi! Mấy chị mấy em đi cả rồi, còn chân...

- Dạ em biết, em cũng muốn cưa bỏ cái chân ngay lúc đó rồi, giờ hơi trễ anh hén?

Tuệ cười hề hề, nó thoải mái chọc chọc vào phần chân cụt, phần chân trắng trẻo giờ đây chỉ còn tới bắp đùi. Nó không vui được lâu, nhất là khi đầu nó vẫn còn đang băng bó, tay chân trắng nhách một màu của dải băng trị thương, và có lẽ tác dụng phụ từ thuốc vẫn còn lâng lâng trong người, Tuệ khóc um cả lên, ngay sau đó nó ngã xuống giường ngủ khì.

Nghe tới đây, tôi im lặng chẳng thốt được lời nào, Trí thì cứ xuýt xoa luôn miệng, nó thò tay nắm chặt hai bàn tay tôi xoa mãi.

- Rồi sao nữa?

Những gắp mì cuối cùng.

Sau trận khóc lụt, nó muốn cuốn trôi cả miền Trung ra tận ngoài biển Đông. Các anh đơn vị trên đánh điện về cho anh Long, dặn phải giữ kín chuyện nó còn sống, kẻo địch đánh hơi được thì tai bay vạ gió chẳng biết đâu mà lường.

Tuệ từ đó cứ cà trật cà vuột, thoạt đầu cái nạng kẹp sát nách, nó đi không được nên té hoài. Tập riết rồi cũng quen, nhưng tinh thần chống giặc của nó vẫn ngùn ngụt bừng lửa. Nó xin các anh lại cho đi phá bom, các anh cản:

- Chân vầy mà phá phiếc gì được? Em di chuyển còn khó chứ đừng nói tới là chạy, ở lại đơn vị viết tin tình báo là quý lắm rồi.

Anh Long sau khi nhận tin Tuệ mất thì báo cho Lân trước cả chúng tôi. Tuệ và Lân từ bé đã thân như hình với bóng, ngay khi nhận được giấy báo tử của Tuệ, nó thổn thức mãi không thôi. Cũng như chúng tôi, nó buồn rầu mấy tháng trời, thậm chí còn viết đoạn thơ dài tiễn biệt bạn.

Một hôm Huế, bóng xế tà.

Anh Long chạy xe mệt gần chết từ Sài Gòn ra, chưa kịp nghỉ đã khấp khởi chạy đến toà soạn báo, réo tên nó:

- Lân ơi, có đây không em?

Lân đang gõ lách cách, thấy anh Long, nó hào hứng:

- Tự nhiên ra Huế chi đây anh?

- Không có tự nhiên à, cho coi cái này hay lắm nghen!

Rồi ngay sau đó, trước con mắt bàng hoàng của Lân, anh Long từ từ đẩy xe lăn đi vào, mà người ngồi trên xe, không ai khác là bạn thân của nó.

Tuệ bây giờ tóc đã dài chấm lưng, chẳng thèm cột gọn gàng như trước. Đôi mắt nó nhìn chòng chọc vào Lân một cách vô hồn, ẩn sau sự vô hồn ấy dường như là lời kêu cứu thầm lặng. Cô đơn quá, Lân nhủ thầm. Da dẻ nó vẫn trắng trẻo nhưng chẳng còn hồng hào có da có thịt, da nó tái mét như miếng thịt thiu. Hai má hốc hác, có lẽ bất ngờ nhất là đôi bàn chân của nó nay chỉ còn lại một.

Mắt của Lân đẫm ướt nhoà, anh Long nói vội:

- Tuệ được điều về Huế viết thư tình báo. Một thân một mình, đã liệt nay chẳng có ai quen, em ráng giúp nó nghen.

Tay Lân run run nắm tay anh Long, xong xuôi, anh lại bắt xe dông mất.

Lân ráng không khóc trước Tuệ, khi đôi môi khô cằn nứt nẻ chỉ kịp bật ra vài ba câu:

- Tao xin lỗi.

Có lẽ, nó xin lỗi Lân vì không giữ được chân trái.

Lân kể chuyện khi ba tô mì đều đã cạn đáy, nó bắt đầu sụt sịt. Tôi phải uống tiếp chỗ nước tan ra từ đá lạnh để che giấu sự bồi hồi xúc động.

Lân không muốn mọi người ở toà soạn chú ý, nó đẩy chiếc xe lăn đi và xin về sớm. Sau lời xin lỗi, không ai nói với ai lời nào, đến căn hộ của Lân, đột nhiên nó quỳ rạp xuống trước Tuệ.

Nó lẩm bẩm gì đó, nhưng tay của Tuệ lem nước mắt của Lân mất.

- Về nhà rồi. Nhà của mình, hai đứa mình ở đây đó.

Tuệ cười trừ:

- Tao ở ít lâu thôi chứ đâu có ở mãi đâu?

Lân lạnh mặt đinh ninh:

- Chừng nào tao còn sống, chừng đó mày vẫn ở cạnh tao.

Tuệ mở to mắt nhìn nó, đôi mắt vẫn trong veo nước sông Sài Gòn ngày ấy. Tuệ không phản bác, chỉ thở dài. Lân choàng tay qua vai nó ôm nhè nhẹ, ngay khi Tuệ vừa mới nấc lên, Lân thỏ thẻ:

- Mất một chân là phước tám đời. Tao không để ai cưa cái chân kia của mày luôn đâu.

Câu chuyện của Lân kết thúc khi nước mắt nó chảy tràn, tụi tôi thì ngỡ ngàng. Rồi nó vội trả tiền ba tô hủ tiếu, hai chiếc xe đạp ai về nhà nấy, cuộc gặp gỡ sao mà chóng vánh quá.

- Hóng mát.

Trí lại thế.

Hẳn là hơn tám giờ tối, cửa nẻo ở nhà lỏng lẻo, nó không chở tôi về ngay mà lại rẽ qua bên quận 4. Nó đèo tôi qua những toà nhà cao thấp lớn nhỏ, những biển quảng cáo màu mè sặc sỡ, nó lại chở tôi xuyên qua từng cánh chợ đêm, rồi bến sông, bến Sài Gòn...

Dư âm sau câu chuyện vừa nãy khiến nó xúc động không thôi, tôi choàng tay qua níu lấy vai nó:

- Đạp từ từ nghe, hai đứa rớt xuống sông là chết à.

Nó cười khì.

Gió Sài Gòn hết rét, chuyển sang mát lạnh lạ thường. Tôi thấy lá cây rơi rụng đầy mặt đường rộng thênh thang, những chiếc lá như hội họp lại vùi lấp khoảng đen trên mảng đường đen kịt. Tôi thấy chân mình không chạm đất khi ngồi sau yên xe Trí, tôi như đang bay lướt trên lòng đường Sài Gòn. Tôi hít một hơi căng tràn buồng phổi, cảm nhận nhựa sống Sài Gòn chảy vội trong huyết mạch.

Rồi, Trí lẩm bẩm, tiếng nói của nó nhỏ xíu:

- Tao đăng ký đi lính như con Tuệ, con Nhân, mày có buồn không?

Tôi không trả lời, nói đúng hơn là sự im lặng của tôi khước từ câu hỏi của nó.

Tôi nghĩ lung lắm. Muốn cản lại không nỡ cản. Con Tuệ mạng lớn, còn dẫn xác về cho con Lân chăm được là hay, chẳng biết đến lượt Trí, nó có còn toàn mạng hay không? Ờ, Hân tôi đây sẽ không lấy chồng, lấy chồng chi, tôi lo cho cái thân nó không đủ mệt sao? Con Trí một khi đã muốn làm gì thì nó làm cho bằng được, ba má nó còn chẳng cản được nó thì ai cản được? Tôi áp mặt để vùi đi nước mắt đọng ở khoé mi ngay vào lưng Trí. Tôi không thể ngăn nó, lương tâm tôi không cho phép tôi làm thế. Trí đi đâu chỉ vì tôi, nó đi vì cả cái nước, cả tập thể người dân, vì đồng bào. Nó thà đổ máu vì súng đạn còn hơn là vì tuổi già sức yếu. Không muốn mất vui, tôi lặng lẽ mỉm cười:

- Vậy tao khỏi lấy chồng chờ mày về ha?

Trí bĩu môi:

- Mày chờ tao được hả?

- Thì tao chờ mày thiệt mà. Đi chục năm tao cũng chờ.

- Lỡ tao chết mất xác?

Nó dừng lấp lửng, tôi đập vai Trí khiến nó loạng choạng:

- Yên tâm, mày chết thì tao đi thay mày. Tao nói rồi, tao không có đi "chống lầy". Giặc đến nhà thì đàn bà cũng "oánh" mà!

Nó ngắc ngứ, một lúc lại thở phào:

- Vậy tao yên tâm rồi.

- Tao biết mà.

- Mày biết cái gì mà tỏ vẻ quá?

- Thì mày đăng ký xin đi lính mẹ rồi chứ bày đặt nếu với chả nhưng chi nữa? Tính mày tao còn hổng rõ sao?

Tôi nổi sùng ngắc eo nó, Trí la lên oai oái. Một lúc sau nó quay xuống:

- Vậy tao đi thiệt nghen.

- Nói vậy sao tao dám cản?

- Mày hứa đi.

Tôi khó hiểu:

- Thì hứa, nhưng hứa cái gì?

Giữa lúc ấy, gió nổi lên từng cơn mạnh bạo như muốn quật đổ con xe đạp cà tàng. Tôi ôm chặt nó, áp tai vào lưng và nghe từng nhịp thở đều đặn của nó.

Tôi biết Trí từ lâu đã dành cho tôi một tình cảm đặc biệt khác thường, không phải tình bạn bè, lại càng không phải chị em, nó chưa từng xem tôi như là một gia đình đúng nghĩa. Trí lẩm nhẩm hát những câu vu vơ tự sáng tác lần nữa, nó như muốn gửi những câu hát hoà lẫn với gió ngay bên bến cảng. Và không biết nó có biết không, nhưng tôi cũng như nó, tức là tôi chưa từng xem nó như gia đình.

Thật kỳ quặc, tôi không biết phải gọi thứ tình cảm này là gì.

Dẫu thế, chúng tôi vẫn chưa từng một lần khẳng định vị trí của người kia trong tim đối phương. Có lẽ sự tồn tại của nó đã đủ cho tôi trong suốt thời gian qua, rồi giờ nó nằng nặc đòi đi lính, tôi mới nhận ra tôi cần nó nhiều như thế nào.

Và rất nhanh, một tháng sau đó, tôi và nó mỗi đứa xách một chiếc xe đạp ra bến xe.

Lân đã về Huế từ lâu, phần vì chán Sài Gòn, phần vì lo cho Tuệ không tự chăm sóc được ở Huế. Trước khi đi, nó than với tôi, rằng Sài Gòn sao mà khác biệt quá, nó cảm thấy lạc lõng ngay chính nơi nó được sinh ra. Nó không tìm được nó của hồi thơ bé nữa, Sài Gòn của nó chết mất đất rồi. Nó nói y hệt Trí, nó chê Sài Gòn rồi khen xứ Huế thơ mộng trữ tình. Không muốn làm nó phật ý, tôi chỉ vu vơ:

- Sài Gòn mình đẹp, lúc trước cũng đẹp, bây giờ vẫn đẹp. Phần hồn mất thì còn mỗi cái xác, đẹp nao lòng.

Thế là nó lại bỏ về Huế, trước khi đi, tôi có nói nó là nhớ dặn Tuệ gởi thư cho tôi. Nó ừ hử cho có rồi đi biền biệt.

- Đủ đồ chưa?

Trở lại chuyện xin đi tòng quân, tôi quay sang thì thấy Trí đã dọn đồ xong, ba lô túi đồ đầy đủ cả. Tôi còn lận theo cho nó một bịch bánh trái với kẹo sing gum bạc hà, dầu cù là, dầu khuynh diệp. Chúng tôi đi ngay khi trời còn chưa kịp sáng, gió lạnh run thổi bật mái tóc của Trí ra sau, đầy vẻ hồ hởi phấn chấn lạ lùng, chắc nó không biết chút nữa thôi nó sẽ buồn như thế nào.

Sài Gòn không sương, nhưng qua mắt tôi thì thành có. Sương đọng trên mắt tôi, sương sắp được sinh ra từ tuyến lệ của tôi.

Bến xe độ sáng sớm chẳng đông đúc mấy. Chỉ có vài chuyến xe chạy ra ngoài Trung, đó cũng là bến dừng của Trí. Tôi chỉ chăm chăm lo cho nó, còn cảnh vật xung quanh trở thành diễn viên quần chúng trong mắt tôi. Tôi lờ đờ uể oải phụ Trí chất đồ lên xe, rồi nó nhảy xuống cười toe:

- Đi đó nghen.

Nó dợm bước lên xe, tôi níu vạt áo nó:

- Nói đi là đi thiệt hả?

Nó trèo xuống lại:

- Chứ lát bịn rịn là chân tao cứng ngắc như chân con Tuệ liền. Hay tao đứng đây với mày chút nữa nghe? Còn lâu mới đi mà.

Rồi, hay lại thôi? Đột nhiên tôi chẳng biết nói gì.

Sương từ sáng đọng trên mi hoá thành từng dòng nước nhỏ chảy gọn ghẽ trên mặt tôi, từ từ nhỏ xuống mặt đất. Tôi biết tôi chẳng hề muốn nó đi một chút nào. Tôi rất muốn ôm chầm lấy người tôi hằng nhung nhớ, mà chút nữa thôi tôi sẽ chẳng biết khi nào mới có dịp gặp lại. Tôi muốn nói tôi yêu nó rất nhiều. Miệng tôi như bị ai đóng đinh, ngậm tăm mà chẳng thể nào mở ra. Tôi cứ thế đứng nức nở mười phút liền trước mặt nó, trước sự bàng hoàng của nó. Tôi muốn bảo, hay là thôi đừng đi nữa. Nhưng kỳ cục quá, tôi nhón chân ôm chầm lấy nó:

- Mình đi rồi nhớ về nghen.

Gớm quá, giọng tôi vẫn thế nhưng sao nghe nó cứ "cải lương" quá chừng. Đột nhiên tôi chẳng thấy sến, tôi vùi mặt vào mớ tóc chải suôn mượt của nó và muốn lưu giữ mùi hương dìu dịu đó cho riêng mình. Tôi nghe tiếng nó hát văng vẳng bên tai dù chính mắt tôi thấy nó chẳng hề mở miệng.

Và dù nó đang kề da thịt sát với tôi, tôi vẫn nhớ nó da diết. Nó cười:

- Mình nhớ chờ tôi nghen.

Nếu không phải trong phút chia ly thế này, có lẽ tôi đã cắm đầu xuống đất ói mười bãi.

Nhưng tôi không làm thế, và rồi tôi với nó vẫn sến sẩm ẩm ương trong giây cuối cùng bên nhau.

Dẫu biết sẽ chẳng có ngày gặp lại.






8.

Cuối cùng tôi cũng tốt nghiệp.

Ngày nhận nhiệm sở, tôi tình nguyện dạy học ở mấy tỉnh tuốt trên miền Trung, chỉ vì tôi muốn gần Trí hơn một chút.

Tôi trở thành cô giáo tiểu học. Hôm dọn đồ ra bến xe để ra ngoài đó sống, nhà tôi vẫn ráo hoảnh và trơ trọi chẳng có một ai. Má chỉ căn dặn vài điều rồi bỏ đi buôn từ sớm, ba thì như tôi đã đề cập từ trước, mãi chẳng thấy về. Tôi dọn dẹp gói ghém hành lý trong cô độc, không có Trí, tôi cô đơn một cách kỳ lạ.

Hôm tôi ra bến, Sài Gòn tiễn tôi đi bằng một nụ cười buồn.

Sài Gòn ngày tôi đi khác hẳn với ngày Trí đi xa. Sài Gòn chào tạm biệt Trí bằng ánh bình minh lộng lẫy sắc cam đỏ, uy vũ, nguy nga và tráng lệ, với lời dặn dò rằng đi xa xứ xin hãy sớm trở về trong chiến thắng huy hoàng. Ngay đó lính đi bộ đội đông lắm, thảo nào Sài Gòn cứ rộn ràng những kẻ đi người ở, ai cũng bịn rịn đưa tiễn nhau chẳng khác gì tôi và nó, rồi Sài Gòn đáp lại bằng câu chào thân ái đầy chân tình. Như thể thành phố này đang dặn dò những người lính rằng hãy giải phóng Sài Gòn, giải phóng cái chốn đô thị tấp nập nhưng tù túng. Trí đáp lại bằng nụ cười giòn tan:

- Chừng nào giặc còn, tao vẫn sẽ nã súng ầm ầm ngoài chiến trường.

Tôi xách đồ cồng kềnh và nặng nhọc ra ngoài đường lớn, tay ngoắc mấy xe xích lô. Mãi cũng có một xe trờ tới, anh đỡ lấy túi đồ và ba lô quần áo của tôi lên, anh hỏi:

- Chị Hai đi đâu đây?

Tôi cười đáp:

- Ra ngoài Trung lận anh ơi.

Khi tôi yên vị trong chiếc xích lô nhỏ, anh nhún người nhấn bàn đạp phóng về phía trước, anh xuýt xoa:

- Cha, đi xa dữ hén? Chị ra ngoài đó thăm bà con há?

- Tôi ra ngoải dạy học, mới được bổ ra mấy tỉnh miền Trung dạy.

Anh xích lô lại gật gù, và ừm hửm gì đó trong miệng.

- Ra là bà giáo trẻ! Chị Hai người Sài Gòn chánh gốc đúng hông?

- Đúng rồi anh. Tôi ra đó dạy vài năm rồi sang tỉnh khác dạy tiếp.

Anh la lên:

- Oai hén, như mấy ông cán bộ đi công tác vậy.

Anh còn nói vài câu nữa, nhưng giờ đây tôi đóng vai trò là người nghe. Giọng anh nhỏ quá, tôi lại lười nhướn mình lên trước để trả lời. Tôi mặc kệ anh liến thoắng nói về Sài Gòn hồi Pháp thuộc, đột nhiên có gì đó kỳ lạ trào dâng trong tôi, có lẽ đó chính là nỗi bồi hồi xúc động.

Anh xích lô này yêu Sài Gòn quá đỗi, bằng chứng là cái cách anh huyên thuyên giảng về thành phố này bằng giọng điệu hết sức tự hào, dù khách không hỏi, anh vẫn trả lời bằng một âm vực khiêm tốn đủ cho một mình anh nghe. Người Sài Gòn có nhiều cách yêu chiều Sài Gòn khác biệt quá, điển hình là như anh xích lô này đây. Tôi nghe lẫn trong giọng nói của anh là một chút mưa phùn ngày hạ mát, Sài Gòn đang khóc ướt cả má.

Mấy hàng cây xanh cao to bị gió thổi, trông nó ngã rạp mấy lần khiến tôi giật thon thót. Sài Gòn nay bất ổn thật, nhớ mới hôm qua vẫn còn im lìm và nắng chiếu chếch xuống vui vẻ khắp phố phường, tôi vu vơ hỏi bằng âm vực cực kỳ thấp. Ai dè anh xích lô nghe thấy, anh cười:

- Sài Gòn không muốn chị đi xa đó, chị Hai! Mấy lần tôi chở khách là người Sài Gòn chánh gốc ra bến cũng tương tự vầy nè.

Có lẽ, thành phố này thật sự đang khóc. Nhân đi, Tuệ đi, Lân, Trí, từng người một giã từ thành phố thật vội vã và chẳng nhớ nhung sâu đậm gì, bốn đứa nó quên bẵng đi rằng Sài Gòn vẫn đợi chúng nó trở về. Tôi quyến luyến nơi tôi được sinh ra và lớn lên đến lạ kỳ. Mà tự tôi cũng chẳng rõ vì sao.

Ra đến bến, đưa mấy đồng cho anh xích lô, tôi lại khệ nệ ôm đồ chạy lon ton đi mua vé xe rồi mới xách hết lên xe ngồi chờ giờ khởi hành. Tôi nhìn Sài Gòn một lần cuối trước khi đi xa, thành phố cào lên ô cửa kính níu kéo tôi, từng giọt nước lạnh buốt khiến tôi tê tái dù đã mặc thêm mấy lớp áo gió. Tôi nghe tiếng bác tài khởi động xe, tiếng bước chân người người lục đục yên vị tại ghế của họ.

Tạm biệt, một Sài Gòn. Tôi sẽ nhớ những rạp cải lương, cái Chợ Lớn ồn ào, đồng ruộng đầy những cá lòng tong, khắp mọi phố phường và các nẻo đường mà tôi đã đi ngang qua, xe hủ tiếu mì của chú Thủ,...

Rất nhiều.

Tôi lặng lẽ lau ngang nước mắt, sau tất cả, Sài Gòn chẳng thể níu giữ ai, năm người chúng tôi gắn bó là vậy mà cũng đi mất rồi.

Dù đi một đoạn đường xa thiệt xa, phải ba ngày đi xe mới tới. Dọc đường, chúng tôi có dừng lại đôi ba quán ăn, trạm nghỉ, nhưng tôi chẳng buồn xuống ngoài những lúc phải đi vệ sinh, chỉ vì tôi chẳng thấy đói một chút nào và nhạt mồm nhạt miệng quá. Mấy lần ruột gan cồn cào, tôi chỉ giở bọc bánh lấy ra vài cái bánh ú ăn lót dạ.

Nơi tôi đặt chân đến chính là Phú Yên, một cái tỉnh hoàn toàn xa lạ với tôi. Nghe đến Phú Yên một vài lần nhưng tôi vẫn thắc mắc chẳng biết cái xứ này nó có gì ở trỏng há, chẳng biết Phú Yên sẽ đón tôi với bộ mặt như thế nào.

Khi đặt chân xuống bến, đột nhiên tôi buồn nôn kinh khủng khiếp, hai chân tôi loạng choạng va vào nhau như người say rượu. Tôi chạy đôn chạy đáo vào cái toa-lét gần đó và cảm giác bụng mình muốn lộn ngược rồi xới tung hết cả lên. Mắt tôi mờ đi, tôi nhìn chính mình trong gương và rồi tôi cũng giật mình.

Nhớ khi xa xứ, tôi chẳng hề rơi một giọt nước mắt nào, vậy mà vừa đặt chân đến Phú Yên, tròng mắt tôi đỏ quạch một màu máu, đẫm lệ nhạt nhoà. Mũi tôi sụt sịt như bị dị ứng, tôi lại ngả nghiêng rời khỏi nơi đó, xem ra Phú Yên đón tôi trong tình trạng vô cùng đáng báo động, tôi mang cả một Sài Gòn mơ mộng trong mơ và thay vì khóc ướt gối, tôi lại khóc ướt áo.

Phú Yên nắng đẹp lạ lùng.

Ở bến, nghe loáng thoáng tiếng chửi bới của mấy chủ xe, tiếng gọi hè nhau ra ngoài đường cà phê cà pháo. Tôi thấy núi non trùng trùng điệp điệp, tôi thấy cả biển xanh cát trắng, tôi thấy từng con hải âu, từng con mòng biển dập dìu chấp chới cánh vào đất liền kiếm ăn, chúng gặm từng mẩu đồ rơi vãi của các khách du lịch, của người dân làng chài. Điều đặc biệt là người Phú Yên họ hay cười cũng như người Sài Gòn, tôi để ý thấy ai đi ngang qua cũng toe toét miệng cười đầy phấn chấn chào đón một ngày nắng mới lên. Tôi hít một hơi thật sâu không khí Phú Yên, rồi thở phào đầy nhẹ nhõm.

Trí có đưa tôi địa chỉ hoạt động đơn vị của nó ở Quảng Nam cho tôi để còn biết đường mà gởi thư cho nó. Tôi rút miếng giấy nháp nhỏ xíu lận trong túi quần, đọc đọc một hồi, rồi bắt xích lô chạy về nhà thuê ngay. Đó là một căn nhà xập xệ nằm trong ngách hẻm đường nào đó, số nào đó mà tôi không tài nào nhớ nổi. Lạ nước lạ cái, lần đầu đi xa mà tỉnh lỵ gì thì tôi cũng chả biết. Tôi lặng lẽ nhận chìa khoá thuê nhà, tra chìa vào ổ, lấy cái chổi quét sơ nhà cho đỡ bụi. Tôi chẳng thèm dọn đồ vào ngay, tôi cất sách vở lên kệ trước, sau đó sà xuống bàn, rút một tờ giấy khổ bự với cái bút máy.

Trí dặn tôi mỗi khi đi đâu làm gì quan trọng cũng đều phải gởi thư báo nó trước một tiếng. Nói sao mà giống chồng tôi quá há, tôi buồn cười:

- Làm như mày là ba má hay chồng con gì của tao.

- Thì đợi tao về rồi tính, tao đi chục năm, còn sống thì tao vẫn về, trời sập tao vẫn về.

Tôi nắn nót ghi từng nét đậm nét thanh lên tờ bìa thư trắng trắng vàng vàng. Rồi tôi vừa cười tủm tỉm ngay khi đặt bút viết thư cho nó. Đó là một thói quen kỳ lạ những lần vào tôi viết thư để gửi ra ngoài Quảng Nam, thư tôi viết toàn mấy chuyện tầm xàm bá láp, nhưng tôi vẫn cứ tủm tỉm cười cứ như sắp sửa gặp được đứa bạn thân.

Mà thư Trí trả lời cũng có nhiều cái khiến tôi cười sặc.

Trí kể, lúc mới đặt chân xuống đất Quảng, bụng nó cũng cồn cào lâng lâng như tôi, ói mửa dọc đường đi. Trên xe bị các chú anh chú em cùng đơn vị trêu:

- Yếu mà đòi ra gió diệt địch hén?

Không chịu thua, nó cãi lại:

- Lâu chưa đi xe khách nên mới thấy khó chịu thôi, không chừng ra ngoài đó tôi bắn còn dữ hơn mấy anh đó.

Lại những tràn cười giòn.

Đơn vị của nó hoạt động tuốt trong rừng sâu hẻo lánh, sinh hoạt đi lại cũng khó khăn. Trí ở cùng đơn vị với mấy chị giao liên, cơm ngày ba bữa tuy thiếu thốn nhưng với nó vầy vẫn coi là tạm được, vì nó bán mạng đi chiến đấu chứ đâu phải để đi du lịch nghỉ dưỡng. Phải giữ im lặng tuyệt đối, đơn vị gần trăm người hoạt động xa xôi, nhưng chẳng hề ồn ào như những lần ở Chợ Lớn. Không khí im lặng bao trùm lấy toàn bộ đơn vị, nhỡ như ồn ào quá, giặc đánh hơi được là to chuyện. Dòm vậy mà mấy anh mấy cô mấy chị cũng dễ mến. Mọi người khi rảnh rỗi không có gì làm thì lấy bộ bài tây ra chơi giết thời gian, ngồi nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất vui vầy mỗi khi trực ca đêm. Nghe bảo ở ngoài rừng núi Quảng Nam sốt rét độc địa hoành hành, Trí lại không biết lo cho bản thân, nó tuỳ hứng lắm, ngoài đó chẳng biết thuốc men có đầy đủ không. Thế là tôi đạp xe chạy tới tiệm thuốc tây của ông Dẹt mua thuốc, nước khử khuẩn và đủ thứ hầm bà lằng linh tinh khác, xong xuôi tôi dán thư và gói ghém vào chung với bưu kiện gởi đi.

Giờ thì tôi chẳng khác gì nó, tôi cũng xem nó như chồng như con mà thôi. Tôi lo cho một người cách tôi tận mấy trăm cây số, từ Sài Gòn đến Quảng Nam, xa tít tắp mịt mù. Dù vậy, mỗi khi lặng yên nhắm mắt, tôi lại nghe thấy thanh âm của nó, gương mặt xinh đẹp của nó kề sát mặt tôi. Tôi sờ thấy mái tóc mịn như tơ, tôi nghe tiếng nó rủ rỉ rù rì trò chuyện, và tôi còn cảm nhận được cái ôm nhẹ nhàng hoà lẫn với hư không.

Ngồi trên ghế đến nóng cả mông ở Phú Yên, nắng nóng, tôi dán tem và để đồ đạc lạc lõng ở đó, tự mình rảo bước tản bộ ra bưu.

Trưởng tiểu học tôi được nhận dạy là một trường làng nhỏ xíu nằm gần ruộng lúa của mấy nhà dân gần đó, cách một quả núi cao khoảng chừng vài ki-lô-mét. Cái trường chỉ có dăm ba lớp, đã vậy lại còn thiếu giáo viên trầm trọng, một mình tôi phải chạy liên tục qua lại giữa hai lớp để dạy cho kịp bài. Học trò thì dễ mến và gần gũi. Mà sao tụi con nít Phú Yên lanh quá trời, trong đám học trò áo trắng của tôi, tôi đặc biệt quý nhất con Nhạn, chỉ vì nó có gương mặt y đúc Trí hồi bé thơ.

Nhìn con bé Nhạn, tôi bồi hồi tưởng như tôi đang đối mặt với Trí ngày ấy.

- Ra đồng bắt cá hông cô?

Tụi nhỏ rất quý tôi, vô cùng gần gũi và đáng mến khiến tôi hết mực cảm động. Định bụng theo chân chúng nó đi vòng vòng tỉnh xem có gì vui, thế là sau khi trống trường tan học, nghe con Nhạn và thằng Khoai rủ, tôi mỉm cười gật đầu tháo kính đồng ý:

- Nhưng đi là đi đâu há?

- Ra biển, ra ruộng, lên núi. Đâu đâu ở Phú Yên cũng có hết đó cô, cô ra biển hóng mát với tụi con nghe.

Sợ con nít một mình ra biển, sóng lớn từ ngoài khơi ập vô cuốn tụi nó đi mất, tôi ới một tiếng bảo mấy đứa nhỏ chờ ở ngoài rồi lận theo cái áo gió đi ngay.

Ngoài Nhạn và Khoai, còn có Dư, thằng Hùng và nhỏ Lan. Chỉ năm đứa, con Nhạn tuy giống Trí về gương mặt nhưng sức vóc thì nó bé người nhất, sợ gió thổi quăng quật bay đi, tôi nắm chặt tay con bé giữ lại, mấy đứa kia đi trước còn tôi đi sau canh chừng.

Tôi của tuổi đôi mươi và Trí của tuổi thơ bé.

Đột nhiên muối mặn nước biển làm mắt tôi cay xè, cay đến lạ lùng. Tôi quệt vội những dòng nước chỉ chực trào ra khỏi hốc mắt, dặn dò bọn nó chơi đùa trên bờ cho cẩn thận rồi ngồi trên đụn cát trắng gần đó che nắng và nghỉ mệt.

Tôi dạy ở Phú Yên hai năm, hai năm đó tôi và Trí trao đổi thư từ rất nhiều, chả có gì cũng kể, toàn những chuyện nhảm nhí và ruồi bu nhưng tôi rất thích. Tôi xếp tất cả thư của nó vào một chiếc hộp gỗ mà tôi từng được ba má phụ huynh học trò ở đây tăng những lúc buồn chán chẳng có gì làm, tôi lại lôi thư của nó ra đọc để vui, để cười, và để khóc khi tôi quá nhớ nhung hình bóng nó.

Trí từng nói, nó phải về để sống với tôi, cuộc đời của nó phần còn lại là dành cho tôi.

Chừng nào hết chiến, nó về lại Sài Gòn, tôi cũng giã từ tỉnh lỵ Phú Yên xinh đẹp dễ mến để về với mảnh đất có người tôi thương. Suy nghĩ phấn chấn đó tràn ngập tâm trí tôi suốt nhiều năm liền, để tôi có mục tiêu và niềm tin khi dạy học.

Bẵng đi một năm, tận gần một năm trời, tôi gửi biết bao nhiêu thư đi nhưng đều bị hoàn trả lại, không còn nhận được thư của nó, tôi nhớ nó cồn cào da diết, nhớ như những khi Sài Gòn mùa mưa dậy sóng.

Và rồi, cái gì đến cũng đến, sống ở thời chiến, sống chết gì thì phần nào mọi người cũng biết. Tôi đang ê a giảng bài tập đọc trong sách tiếng việt, tiếng trống trường vang lên từng hồi tùng tùng mùa thu lá rụng, tôi mới chào tạm biệt và ngồi lại lớp lo chuyện sổ sách giấy tờ, từng đứa học trò dễ thương dễ mến rời đi và chào tôi thật lễ phép. Mấy tháng nay tôi lo cho Trí, bọng mắt sắp xệ xuống cả, đêm nào tôi cũng khóc, khóc đến mệt lả mỗi khi đọc lại thư của nó, khóc đến cùng kiệt sức lực, thế mà nó vẫn chưa về.

Tiếng gõ cửa vang lên trên vách.

- Dạ, anh kiếm ai?

Tôi thấy một anh bộ đội, chắc cũng phải giữa đầu hai đầu ba. Anh ăn mặc chỉnh tề ngay ngắn, tuy đồ lính anh bận trên người lấm lem bùn đất, nhưng tôi nhác thấy mắt anh đỏ hoe như vừa mới khóc, tôi không hỏi nhiều. Đôi mắt sáng của anh nhìn tôi rực rỡ:

- Tôi kiếm cô Hân, cô Hân có dạy ở đây không chị?

- Tôi là Hân đây, thưa đồng chí! Anh kiếm có chuyện chi không?

Tim tôi đập loạn, vì sợ, rất sợ những giây phút này sẽ đến.

Anh lính với đầy nét khắc khổ ghim lên mặt, tuổi còn trẻ nhưng già nua quá đỗi, anh gục xuống trước mặt tôi, oà khóc nức nở như một đứa trẻ. Gió Phú Yên vẫn hiu hiu thổi, anh tỉ tê:

- Tôi... Tôi là Hoàng...

Anh Hoàng khóc nấc lên và giọng anh lạc hẳn đi, tôi chẳng còn nghe thấy tiếng anh nói. Tôi nghe tiếng tim mình vỡ vụn thành từng mảnh. Tôi thấy giấc mơ sống chung một mái nhà với người tôi thương tan thành mây khói. Tôi thấy Trí dần nhạt nhoà trong tâm trí tôi, tôi sợ tôi sẽ quên nó. Khi tôi cố đưa tay ra nắm lấy tay Trí, nó cách tôi cứ xa dần rồi sau đó lại mất hút. Anh Hoàng vẫn gục đầu khóc nức nở, khóc như bão táp mưa sa đổ bộ xuống Sài Gòn thân thương chẳng còn ai để trở về.

Anh đưa tôi chiếc khăn tay màu tím hoa sim, đó cũng là chiếc khăn kỷ vật mà tôi trao gửi cho Trí để nó nhớ về tôi trên chiến trường.

Một góc khăn lem vệt máu.

Anh Hoàng sau khi bình tĩnh hơn, nói năng giảng giải một hồi, tôi chào anh ra về. Tôi chẳng còn tâm trí nào để nghe, vì tôi mang hồn tôi về với đất mẹ mất rồi, tôi đi theo hồn con Trí mất rồi.

Trí còn chưa kịp sống cùng tôi một đời kia mà, tôi nghe nó cười:

- Chừng nào tao về, nhớ bao tao ăn sập Chợ Lớn đó nghen!

Và tôi còn chưa kịp thổ lộ với nó, tất cả lời thổ lộ của tôi bị bom đạn nhấn chìm xuống đáy biển. Tôi chỉ còn nghe câu nói như sét đánh ngang tai anh Hoàng vang lên trong trí óc:

- Trí là đồng đội chung đơn vị với tôi, đã oanh liệt bỏ mạng tại trận địa Núi Thành, Quảng Nam.









.

Cảm ơn mọi người đã đọc hết cái oneshot dài lê thê này mà không những không được healing mà còn rầu thúi ruột :"(. Khi viết mình cũng nghĩ dữ lắm, nhưng kết đến đây thôi. Và nó chẳng giống đoạn kết mới chút nào, đáng lẽ phải là đoạn kết cuối mới đúng.

Phần 2 có hay không thì mình khum biết tại giờ mình lười quá chừng 🥲

Hẹn gặp lại ở thế kỷ 18 tại Pháp.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro