Chương 31-40
Chúng nó mỗi đứa đều cầm trong tay một cành liễu, chặn tôi trên con dương mòn từ trường về thôn. ánh nắng xiên khoai, mặt đứa nào đứa ấy vàng như sáp. Vu Vân Vũ với chiếc mũ da trăn và một bên mặt sưng vù, Quách Thu Sinh cặp mắt độc ác, Đinh Kim Câu với vành tai quăn như mộc nhĩ, lại còn tên nổi tiếng gian giảo trong thôn Ngụy Sùng Dê với hàm răng đen xỉn. Mỗi thằng một vẻ hiện ra lồ lộ dưới ánh nắng đã dịu của buổi chiều tà. Hai bên đường là rãnh nước bẩn, mấy con vịt lông cánh tơi tả, kêu cạc cạc. Tôi lánh ra tận mép đường, định đi vòng qua chúng nó. Ngụy Sừng Dê giơ cái gậy bằng cành liễu ra chặn tôi.
- Các anh làm gì thế? - tôi run run hỏi.
- Làm gì hả, thằng con lai? - trợn trừng cặp mắt gà chọi, nó nói - Hôm nay chúng tao phải dạy cho thằng con lai của lão mục sư tóc đỏ một bài học!
- Tôi có trêu chọc gì các anh đâu? - tôi nói, cảm thấy mình bị oan.
Thằng Vu Vân Vũ quất tôi một roi vào mông. Tôi thấy rát như phải bỏng.
- Tôi sao thế này?...
Bốn ngọn roi dâu thi nhau quật lên cố, lên lưng, lên mông, lên chân tôi. Tôi gào khóc. Thằng Ngụy Sừng Dê rút trong túi ra con dao cán bằng xương khua khua trước mặt tôi, dọa:
- Câm mồm! Mày mà khóc ông cắt lưỡi, khoét mắt, xẻo mũi mày đi! Con dao lóe ánh thép xanh, tôi sợ quá im thin thít.
Chúng thúc gối vào mông tôi, vụt roi vào bắp chân tôi, như bốn con sói quần một con dê, dồn tôi vào sâu hơn trong cánh đồng. Nước trong rãnh hai bên đường lặng lẽ chảy, bốc lên mùi khăn khẳn của những thứ bị thối rữa, những bọt khí nối đuôi nhau chạy lên mặt nước. Tôi mấy lần quay lại van xin:
- Các anh tha cho tôi?
Nhưng mỗi lần như vậy lại hứng thêm một trận đòn, định khóc to nhưng lại sợ con dao của thằng Ngụy Sừng Dê. Tôi chỉ còn cách duy nhất là cắn răng mặc cho chúng nó đánh, đến cái nơi mà chúng nó bắt phải đến.
Qua chiếc cầu ken bằng những bó cây cao lương, chúng bắt tôi dừng lại trước một bụi tì ma. Đũng quần tôi dính nhom nhớp, không biết là máu hay nước đái. Nắng hồng nhuốm đỏ mặt chúng. Chúng dàn thành hàng ngang, những chiếc roi đã gãy nát phần ngọn, vỏ trước hết chỉ còn phần lõi màu xanh. Những chiếc lá tì ma to bằng cái quạt, con cuốc lặc lè cái bụng, kêu thê thảm trong đám lá. Mùi hăng hăng của lá cây tì ma khiến tôi chảy nước mắt. Ngụy Sừng Dê hỏi lấy lòng Vu Vân Vũ:
- Đại ca, ta nên xử lý thằng lỏi này như thế nào?
Vu Vân Vũ sờ bên má sung tím, nói:
- Theo tao thì nên giết quách nó đi.
- Không nên, không nên - Quách Thu Sinh nói - anh rể nó là phó huyện trưởng, chị nó cũng làm quan, giết chết nó thì ta cũng không sống nổi!
Ngụy Sừng Dê nói:
- Giết nó rồi kéo xác ra sông Mục, vài ngày sau là trôi ra biển làm mồi cho cá, chẳng ma nào biết?
Đinh Kim Câu nói:
- Tôi không tham gia vào việc giết nó. Anh rể nó là Tư Mã Khố cái tên ma vương giết người như ngóe ấy không biết lúc nào trở về, giết em vợ nó, e rằng nhà chúng ta sẽ không sót một mống!
Trong khi chúng nó thảo luận về số phận của tôi, tôi đứng bên như người không liên quan, không sợ mà cũng không bỏ chạy, đầu tôi mụ đi. Thậm chí tôi còn có thời gian nhìn ra xa, nơi cánh đồng cỏ đỏ rực như máu và ngọn núi Trâu Nằm màu vàng kim, và cả cánh đồng hoa màu xanh ngắt rộng mênh mông ở phía chính nam. Con đê sông Mực như một con rồng uốn khúc, ẩn hiện phía sau những vạt hoa màu cao, lộ hẳn ra nơi những vạt hoa màu thấp. Những con chim trắng bay là là mặt nước như những mẩu giấy trắng. Biết bao chuyện cũ lần lượt lướt qua trong đầu, tôi bỗng cảm thấy mình đã sống ở trên đời hàng trăm năm.
- Các anh giết tôi đi, giết đi, tôi sống thế đủ rồi!
Trong ánh mắt chúng lóe lên những tia ngạc nhiên. Chúng nhìn nhau rồi nhìn tôi, làm như chưa nghe rõ tôi nói gì. Tôi nhắc lại, kiên quyết, và khóc hu hu, nước mắt đặc quánh chảy vào miệng tôi, mặn và tanh như máu. Lời đề nghị thành thực của tôi khiến chúng khó xử. Chúng lại nhìn nhau, đưa mắt dò hỏi nhau. Tôi được thể, bốc lên:
- Tôi van các ông, cho tôi rảnh nợ đi, giết kiểu nào cũng được, miễn là nhanh, đừng hành hạ tôi?
- Mày tưởng chúng ông không dám giết mày phỏng? - Vu Vân Vũ bóp cằm tôi băng những ngón tay cứng như thép, nhìn thẳng vào mắt tôi để uy hiếp.
Tôi nói:
- Tôi đâu dám, tôi đâu dám, tôi chỉ yêu cầu các ông nhanh lên, giết tôi đi!
Vu Vân Vũ nói:
- Anh em, hôm nay dính vào cái thằng này, xem ra không giết không được rồi Đã nói là làm, giết quách nó đi!
Quách Thu Sinh nói:
- Phải giết thì anh giết, tôi không nhúng vào
- Thằng ranh, mày định phản bội phải không? Vu Vân Vũ túm lấy cánh tay Quách Thu Sinh mà lắc - Chúng ta như bốn con chuồn chuồn cột chung một sợi chỉ, đừng ai nghĩ tới chuyện bỏ chạy? Mày mà chạy là tao tố cáo mày hiếp dâm con bé dở người nhà họ Vương?
Ngụy Sùng Dê nói:
- Thôi, xin hai đại ca dùng cãi nhau nữa, ta đang giết người mà? Nói thật nhé, bà già ở Tiểu Thạch Kiều là tớ giết đấy, tớ không có thù oán gì với bà ta, chỉ là thử xem lưỡi dao của tớ có sắc không thôi. Trước kia tớ cứ tưởng giết người là tốn sức lắm, thực ra hết sức đơn giản, tớ dùng con dao này đâm vào bụng bà ta, con dao lút cán, như đâm vào tảng đậu phụ. Tớ rút lưỡi dao ra thì bà ta đã chết, không kịp kêu một tiếng!
Nó liếc lưỡi dao vào quần, nói:
- Xem đây! - rồi chĩa mũi dao vào bụng tôi đâm tới.
Tôi khoan khoái nhắm mắt lại, hình dung máu tươi vọt ra từ bụng tôi bắn vào mặt chúng. Chúng chạy đến bên mép nước, xắn quần xắn áo rửa máu trên mặt. Nước đầm mà chúng vốc lên quánh như mật mía, không những không sạch máu, mà làm cho mặt càng bẩn thêm. Cùng với máu vọt ra, ruột của tôi cũng đùn ra một đống, trườn qua vạt cỏ rơi xuống lòng mương. Rồi sau đó là mẹ vừa kêu gào vừa nhảy xuống nước vớt ruột tôi lên vắt từng vòng trên cánh tay, vừa vắt vừa đi tới trước mặt tôi, thờ phì phò vì nặng. Mẹ nhìn tôi đau xót, hỏi: - Con ơi, con làm sao thế này? - Mẹ, chúng nó giết con rồi? Nước mắt mẹ rơi lã chã trên mặt tôi. Mẹ quì xuống, nhét từng khúc ruột vào bụng tôi, nhưng chúng ương ngạnh, nhét vào lại chui ra. Mẹ bực phát khóc, nhưng cuối cùng cũng nhét hết ruột vào trong bụng, rồi mẹ lấy kim chỉ cài trên mái tóc xuống khâu vết thương lại như người ta khâu quần áo. Tôi cảm thấy bụng đau nhói, mở mắt nhìn thì ra không phải mơ ngủ, mà hiện thực sỗ sàng là tôi bị chúng đá ngã lăn dưới đất, bốn thằng vạch chim đái vào mặt tôi, mặt đất bồng bềnh quay đảo tôi cảm thấy thân thể tôi như dầm trong nước.
- Cậu ơi cậu!
- Cậu ơi, cậu!
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa đứa giọng cao đứa giọng thấp vang lên từ phía sau bụi tì ma. Tôi mở miệng định gọi chúng nó thì miệng tôi đã đầy nước dái. Bọn Vu Vân Vũ vội kéo quần lên, nấp trong bụi tì ma.
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa như một cặp Kim Đồng Ngọc Nữ, đứng bên cầu ghép bằng cây cao lương mà gọi. Tiếng gọi vang xa khắp cánh đồng, khiến tôi thấy mủi lòng, nghèn nghẹn trong họng. Tôi lồm cồm bò dậy, chưa đứng vững đã lại gục xuống. Tôi nghe thấy tiếng reo phấn khởi của Sa Tảo Hoa:
- Đây rồi! Hai đứa xốc nách tôi đứng dậy, người tôi cứ lắc lư như con lật đật. Sa Tảo Hoa nhìn mặt tôi òa khóc. Tư Mã Lương sờ mông toi, tôi rên lên đau đớn. Nó nhìn bàn tay dính máu và nhựa của roi dâu, nghiến răng nói:
- Cậu ơi ai đánh cậu đến nông nỗi này?
- Chúng nó... - Tôi nói.
ư Mã Lương hỏi:
- Chúng nó là ai?
- Vu Vân Vũ, Ngụy Sừng Dê, Đinh Kim Câu và thằng Quách Thu Sinh!
Tư Mã Lương nói:
- Cậu ơi, ta hãy về nhà đã, ngoại đang cuống lên ở nhà. Thằng Vân Vũ, thằng Sừng Dê, thằng Kim Câu, thằng Thu Sinh kia, bốn thằng khốn kiếp hãy nghe đây, chúng mày có thể trốn hôm nay, nhưng không trốn được ngày mai, trốn được mồng một nhưng không trốn được ngày rằm! Chúng mày nhổ một lông chân của cậu tao, thì tao sẽ dòng cọc vào nhà chúng mày!
Tư Mã Lương nói chưa dứt lời, bốn thằng kia vừa cười ha hả vừa nhảy ra.
- Đ. mẹ! - Vu Vân Vũ nói - Thằng lỏi này ở đâu ra mà phét lác dữ thế? Chúng nhặt những cành liễu giờ đây đã tướp như xơ mướp, hè nhau xông tới như bầy chó dữ.
- Tảo Hoa, dìu cậu Kim Đồng? - Tư Mã Lương gọi to, dẩy tôi ra, xông tới trước mặt những tên cao to hơn nó nhiều. Bọn kia giật mình trước tinh thần quyết tử của nó. Không đợi chúng đánh tới, cái đầu răn như đá của Tư Mã Lương đã húc trúng bụng dưới của Ngụy Sừng Dê. Thằng cha hung bạo, luôn miệng chửi thề này gục xuống cuộn tròn như một con nhím. Ba thằng kia múa roi vun vút xông tới. Tư Mã Lương hai tay che đầu, quay mình chạy, bọn kia rượt theo. Tư Mã Lương quả đã thành công trong việc khơi dậy sự hung hăng của bọn lưu manh. So với sự nhu nhược, nhũn như con chi chi của Kim Đồng thì con sói con Tư Mã Lương thú vị hơn nhiều. Bọn Vu Vân Vũ vừa quát tháo vừa đuổi theo, chúng mở cuộc truy kích trên đồng cỏ. Nếu như Tư Mã Lương là con sói con, thì bọn Vu Vân Vũ to xác nhưng chậm chạp như những con chó nhà. Thằng Ngụy Sừng Dê là con vật lai giữa chó sói và chó nhà, vì vậy nó là đối tượng đả kích số một của Tư Mã Lương. Đánh quị Ngụy Sùng Dê là đánh quị đầu não của lũ chó. Tư Mã Lương chạy lúc nhanh lúc chậm và áp dụng chiến thuật như đối với quỉ nhập tràng, luôn luôn rẽ ngoặt, khiến chúng luôn luôn bị hẫng. Vì nôn nóng, chúng đã mấy bận trượt ngã, có lút đến đầu gối rẽ ra dưới chân chúng. Từng đàn thỏ đồng nhỏ bằng nắm tay kinh hoàng chạy tán loạn, một con không kịp tránh, bị Vu Vân Vũ xéo lòi ruột. Tư Mã Lương không phải chỉ có chạy, trong khi chạy, nó có những lần đánh lại. Nó rẽ ngoặt gấp để bứt bọn kia một khoảng cách, rồi tấn công chớp nhoáng một trong ba tên, ném bùn vào mặt Đinh Kim Câu, cắn rách mu bàn tay Vu Vân Vũ. Nó còn vận dụng chiến thuật của cô hiếng, tóm lấy hạ bộ của thằng Quách Thu Sinh mà bóp. Ba thằng kia đểu bị thương, Tư Mã Lương cũng bị chúng vụt trúng đầu mấy lần. Chúng chạy chậm dần, Tư Mã Lương rút về phía cầu. Ba tên tụm lại một chỗ, miệng sùi bọt thở như kéo bễ, vừa đuổi vừa dè chừng Tư Mã Lương. Thằng Ngụy Sùng Dê đã thở được hắn cong lưng như một con mèo ngồi dậy rồi từ từ đứng lên tìm con dao. Con dao rơi xuống bãi cỏ.
- Đ. mẹ mày, cái giống Hoàn Hương Đoàn, tao không thịt mày thì chớ kể!
Hắn vừa lúi húi tìm con dao vừa chửi một mình, lòng trắng trong mắt hắn đầy những tia máu. Sa Tảo Hoa nhanh như con sóc, nhảy tới chộp lấy con dao, rồi hai tay cầm cán dao, nó chạy lại sau lưng tôi. Ngụy Sùng Dê đứng thẳng lên chìa tay ra dọa:
- Con nhà Hán gian, trả dao cho tao!
Sa Tảo Hoa không nói gì, dùng mông hẩy tôi đi giật lùi. Nó nhìn không chớp những chai tay trên bàn tay thằng Sừng Dê. Thằng Sừng Dê mấy lần nhào tới nhưng vội lùi lại vì sợ con dao sắc trong tay Tảo Hoa. Tư Mã Lương đã chạy về chỗ đầu cầu. Vu Vân Vũ gọi to:
- Đ. mẹ thằng Sừng Dê, lại đây mau, dập chết con thằng Hoàn Hương Đoàn này!
Ngụy Sừng Dê hậm hực:
- Lát nữa sẽ cho con ranh biết tay! Nó định nhổ một cây tì ma làm vũ khí, nhưng cây tì ma to quá, không nhổ được. Nó đành bẻ lấy một cành chạy về chỗ cây cầu.
Sa Tảo Hoa bám sát tôi, bảo vệ tôi qua cầu. Dưới cầu hẹp lại nên trông rõ nước chảy, những con cá nho thấy động nhảy lung tung, con nhảy qua, con mắc cạn trên mặt cầu, cong người giẫy tanh tách. Tôi cảm thấy dính nhơm nhớp giữa hai dùi, những chỗ bị đánh ở lưng, mông, bắp chân và gáy rát như chèm lửa. Tôi cảm thấy mùi tanh lợm của rỉ sắt trong miệng, mỗi bước đi lại loạng choạng chỉ chục ngã, không muốn mà tự nhiên cứ rên rỉ. Cánh tay tôi quàng trên vai gầy của Sa Tảo Hoa, tôi muốn đứng thẳng lên giảm bớt gánh nặng cho nó nhưng không làm nổi.
Tư Mã Lương chạy thong thả trên con đường về thôn. Đằng sau đuổi nhanh thì nó chạy nhanh, đuổi chậm, nó chạy chậm. Nó giữ một khoảng cách để bọn kia không nản lòng nhưng cũng không tóm được nó. Hơi nước ngùn ngụt bốc lên từ những thửa ruộng hai bên đường nhuộm đỏ bởi ráng chiều, ếch nhái kêu ộp oạp dưới mương rãnh. Ngụy Sùng Dê nói nhỏ điều gì đó với Vu Vân Vũ, chúng bèn chia làm ba ngả. Ngụy Sừng Dê và Đinh Kim Câu lội qua con mương hai bên đường, mỗi đứa tấn công một mũi. Vu Vân Vũ và Quách Thu Sinh đuổi chậm lại, quát to:
- Tư Mã Lương, bỏ chạy không phải hảo hán, có giỏi thì đứng lại chơi nhau một trận!
- Anh Lương, chạy mau lên! - Sa Tảo Hoa gọi to - Đừng mắc lừa chúng nó!
- Con ranh! - Vu Vân Vũ ngoảnh lại, giơ nắm dấm lên, quát - Tao đập chết mày bây giờ?
Sa Tảo Hoa dũng cảm chặn đường bọn chúng, con dao thủ trong tay, nói:
- Lại đây, tao không sợ chúng mày!
Vu Vân Vũ xông tới trước mặt chúng tôi. Sa Tảo Hoa dùng mông đẩy tôi lùi lại. Tư Mã Lương quay lại quát to:
- Thằng chốc đầu kia, mày đụng vào nó dù chỉ một ngón tay, là tao bỏ thuốc độc giết chết con vợ bán đậu phụ của mày!
- Anh ơi, chạy mau đi! - Sa Tảo Hoa nói to - Hai thằng chó Sừng Dê và Kim Câu đang chặn đường về của anh đấy!
Tư Mã Lương dừng lại, nó lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng có thể nó cố ý dừng lại. Nó dừng, Vu Vân Vũ và Quách Thu Sinh cũng dừng. Ngụy Sừng Dê và Đinh Kim Câu lại lội qua mương trèo lên mặt đường, bùn đen bám đầy hai chân chúng. Chúng thận trọng áp sát như người ta dồn thú dữ. Tư Mã Lương vẫn đứng yên bất động, lại còn làm ra vẻ ung dung dùng tay áo lau mồ hôi trên trán. Lúc này, từ phía thôn vẳng lại tiếng gọi của mẹ. Tư Mã Lương nhảy xuống mương rồi chạy theo con đường một bên là ruộng cao lương, một bên là ruộng ngô. Ngụy Sùng Dê phấn khởi la to:
- Hay rồi, anh em ơi, đuổi mau!
Chúng nhảy xuống lòng mương lội lõm bõm như vịt sang bờ bên kia, đuổi theo. Ngô và cao lương giao nhau, che khuất con đường, chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng rẽ lá soàn soạt và tiếng chúng nó sủa như chó.
- Cậu ở đây chờ ngoại, để cháu đi giúp anh Lương!
Tôi nói:
- Tảo Hoa, tôi sợ!
- Cậu đừng sợ, ngoại đến bây giờ. Ngoại ơi! - nó gọi to - chúng nó định giết anh Lương!
Tôi gọi:
- Mẹ ơi, con ở đây, con ở đây!...
Sa Tảo Hoa dũng cảm nhảy xuống mương, nước ngập đến ngang ngực. Nó vùng vẫy trên mặt nước ngầu bọt. Tôi lo nó chết đuối, nhưng nó đã lội sang bờ bên kia, tay vẫn cầm con dao, hai chân lút trong bùn đen. Giày của nó mắc kẹt dưới bùn. Nó chui vào con đường nhỏ, thoáng cái đã mất hút.
Mẹ lồng lên như con trâu nái bảo vệ con, huỳnh huỵch chạy tới, tóc mẹ ánh lên màu vàng, da mặt cũng phảng phất một màu vàng.
- Mẹ ơi! - tôi kêu lên, khóc hết số nước mắt còn lại. Tôi không đứng vững được nữa, loạng choạng ngã vào lòng mẹ.
Mẹ khóc, hỏi tôi:
- Con trai của mẹ, đứa nào đánh con đến nông nỗi này?
- Vu Vân Vũ, Ngụy Sùng Dê... - Tôi vừa khóc vừa nói.
- Đồ kẻ cướp! - mẹ gầm lên, hỏi tôi - Chúng nó đâu rồi?
- Chúng nó đuổi theo Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa - tôi chỉ sang con đường.
Từng đám hơi nước bốc lên từ phía bên kia đường tạt sang, trong khoảng sâu tít tắp có tiếng động vật kêu, tiếng va chạm khi đánh nhau và tiếng kêu lanh lảnh của Tảo Hoa.
Mẹ nhìn về phía thôn, sương mù dày đặc đã che lấp tất cả Tiếng chó nhà sủa nghe như vọng từ đáy nước lên. Mẹ kéo tôi lội xuống mương, nước âm ấm như dầu bôi trục xe thấm ngược từ dưới lên. Người mẹ to lớn, hai bàn chân lại quá nhỏ, lội bùn cực kỳ vất vả. Mẹ phải bám những bụi cỏ ở bờ mương mới trèo lên được.
Mẹ kéo tôi chạy theo con đường mòn. Chúng tôi phải khom người mà chạy vì nếu đứng thẳng lên, lá lau sẽ cứa đứt mặt, thậm chí có thể mù mắt. Hai bên vệ đường mọc đầy cỏ rậm, những cây tật lê bò cả ra mặt dương, gai nhọn hoắt đâm thủng bàn chân. Tôi rên rỉ đau đớn, những vết thương bị thấm nước rát như phải bỏng, đã mấy bận tôi ngã lăn ra, nhưng cánh tay lực lưỡng của mẹ lại lôi tôi dậy. ánh sáng mờ mờ, trên cánh đồng hoa màu bạt ngàn hình như có những quái vật bé tí xíu đang nhảy múa, mắt xanh lè, lưỡi đỏ chót, mũi thở phì phì. Tôi như lạc xuống âm phủ trong truyện cổ tích, mà người lôi tôi xuống thì thở như trâu, bất chấp tất cả, cứ thế mà xông tới. Lẽ nào đây lại là mẹ tôi? Hay là quỉ sứ giả dạng làm mẹ để lôi tôi xuống địa ngục? Tôi thử giằng tay ra, nhưng kết quả là tay tôi bị nắm chặt hơn.
Con đường đáng sợ rồi cũng sáng sủa ra. Hai bên đường vẫn là những cánh đồng cao lương nối tiếp, một khoảng đất hoang hiện ra ở phía bắc. Mặt trời lặn hẳn, dế kêu rỉ rả như một dàn đại hợp xướng. Một chiếc lò gạch bỏ hoang chờ đón chúng tôi với tường lò đỏ như tiết gà. Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa đang đánh du kích với bốn thằng ác ôn sau mấy đống gạch vụn mà mỗi bên đều lấy làm bình phong rồi ném nhau bằng gạch vỡ. Rõ ràng là Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa lâm vào thế yếu. Lực lượng đã mỏng, lại yếu tay, so với bốn thằng lực lưỡng, ném cấp tập như mưa, hai đứa khó mà chống nổi. Mẹ quát to:
- Dừng lại, bọn súc sinh quen thói hiếp đáp kia!
Bốn thằng đang say máu, không thèm đếm xỉa những lời cảnh cáo của mẹ. Chúng vừa tiếp tục ném, vừa triển khai thành hai gọng kìm bao vây Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa. Tư Mã Lương kéo Sa Tảo Hoa chạy về phía lò gạch. Một cú gạch ném trúng đầu Sa Tảo Hoa. Nó ối lên một tiếng, nẩy đom đóm mắt nhưng tay vẫn giữ chặt con dao. Tư Mã Lương hai tay hai viên gạch vỡ, nhảy qua gờ tường ra phía ngoài, nhằm bọn kia mà ném. Mẹ giấu tôi trong vạt cao lương, rồi hai cánh tay vung vẩy như múa ương ca, mẹ xông lên! Giày của mẹ đã mắc kẹt trong bùn, hai bàn chân bé tí nhún nhảy trên mặt đất một cách đáng thương, gót chân hằn trên mặt đất những vết lõm tròn tròn, nông choẹt.
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa đã hiện ra ở bức tường đổ, chúng dắt tay nhau chạy về phía lò gạch. Mặt trăng đỏ như máu đã nhô lên, bóng hai đứa đổ dài trên mặt đất. Bóng của bốn thằng ác ôn càng dài hơn. Chúng chạy nhanh như gắn lò xo vào chân, bứt khỏi mẹ một quãng khá xa. Tư Mã Lương vì vướng Sa Tảo Hoa nên không thể chạy nhanh, đến bãi đất trống trước lò gạch thì bị Ngụy Sừng Dê ném trúng một gạch, ngã lăn ra. Sa Tảo Hoa giơ dao nhằm Ngụy Sừng Dê đâm tới. Ngụy Sừng Dê tránh được, Vu Vân Vũ đá Sa Tảo Hoa ngã lăn ra.
Mẹ quát to:
- Dừng lại!
Bốn thằng ác ôn khuỳnh tay như bốn con kền kền đi trên mặt đất, tám chân cùng đá Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa gào khóc, Tư Mã Lương cắn răng không kêu một tiếng. Cả hai đứa lăn lộn trên mặt đất. Dưới ánh trăng, bốn thằng ác ôn trông như bốn con ác quỉ đang nhảy múa.
Mẹ vấp ngã nhưng chồm dậy ngay, hai tay túm chặt vai Ngụy Sừng Dê. Thằng này đánh mẹ một cú rất hiểm: thúc cả hai cùi tay ra phía sau trúng hai vú của mẹ. Mẹ rú lên một tiếng, loạng choạng giật lùi rồi ngã ngồi dưới đất. Tôi ngã sấp, mặt dính đầy đất, cảm thấy máu rỉ ra từ khóe mắt của tôi.
Chúng tiếp tục đá Tư Mã Lương, mức độ điên cuồng vượt xa một cuộc đánh lộn. Giữa cái chết và cái sống của Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa chỉ còn trong khoảnh khắc. Chính khi đó, một người to như hộ pháp, tóc rối bù, mặt đầy bụi than, đen nhẻm từ đầu đến chân, từ trong chiếc lò gạch đổ nát chui ra. Vụng về như một con gấu, người ấy giơ nắm dấm hộ pháp lên, và chỉ một dấm đã gãy xương quai xanh thằng Vu Vân Vũ. Thế là người anh hùng ngã ngồi xuống đất, rú lên như con lợn bị chọc tiết. Ba thằng kia vội dùng lại, Ngụy Sùng Dê kinh hoàng kêu:
- Tư Mã Khố!
Nó định bỏ chạy thì một tiếng gầm như sấm khiến nó chững lại. Tư Mã Khố giơ nắm đấm thép lên, cú thứ nhất đấm lòi con ngươi Đinh Kim Câu, cú thứ hai: Quách Thu Sinh nôn ra mật xanh mật vàng. Quả đấm thứ ba chưa giơ lên, thằng Ngụy Sừng Dê quì sụp xuống vái như bổ củi:
- Xin ông tha cho con, con bị chúng nó ép buộc, không theo thì chúng nó đánh chết. Chúng đã đánh con chảy cả máu răng, xin ông tha cho con!
Tư Mã Khố do dự một thoáng rồi đá cho Ngụy Sừng Dê một đá. Ngụy Sùng Dê theo đà lăn đi một quãng rồi lủi nhanh như thỏ. Rất nhanh, trên con đường về thôn vang lên tiếng kêu như chó sủa của nó:
- Bắt lấy Tư Mã Khố!... Thằng đầu sỏ Hoàn Hương Đoàn Tư Mã Khố đã về!
- Bắt lấy Tư Mã Khố!
Ttr Mã Khố kéo Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa dậy, rồi đỡ mẹ dậy. Mẹ ấp úng hỏi:
- Anh là người hay là ma?
- Thưa nhạc mẫu... - Tư Mã Khố giọng nghẹn lại, nhưng không khóc.
Tư Mã Lương kêu to: - Bố ơi, có phải bố đấy không?
Tư Mã Khố nói:
- Con trai của ta, con giỏi lắm! - Thưa mẹ, ở nhà còn những ai? - Tư Mã Khố hỏi mẹ.
- Anh đừng hỏi thêm gì nữa? - mẹ sốt ruột giục - Chạy đi!
Tiếng thanh la dồn dập từ phía thôn vọng đến.
Tư Mã Khố túm ngực Vu Vân Vũ, dằn từng tiếng:
- Thằng súc sinh, nói lại với bọn đốn mạt rằng, thằng nào dám đụng vào người nhà Tư Mã Khố thì ta sẽ làm cỏ cả nhà nó! Mày nhớ lời ta dặn chưa?
- Cháu nhớ, cháu nhớ rồi! - Vu Vân Vũ vâng dạ luôn miệng.
Tư Mã Khố vừa buông tay, Vu Vân Vũ đã sóng soài trên mặt đất.
Trời ơi, chạy mau đi... - Mẹ vỗ tay bồm bộp xuống đất, cuống quít giục.
Tư Mã Lương vừa khóc vừa bảo Tư Mã Khố:
- Bố ơi, cho con theo bố?
Tư Mã Khố nói: - Con yêu, con phải ở lại với bà ngoại!
Tư Mã Lương nói: - Bố, con xin bố, bố đem con đi theo!
Mẹ nói:
- Lương con, đừng quẩn chân bố con, để cho bố đi.
Tư Mã Khố quì sụp trước mặt mẹ lạy một lạy, giọng thê thảm:
- Mẹ, xin gửi cháu cho mẹ. Tư Mã Khố con chịu ơn mẹ, kiếp này không trả được thì xin để kiếp sau.
Mẹ vừa khóc vừa nói:
- Tôi không bảo vệ được con Phượng, con Hoàng, xin anh đừng oán tôi!
Tư Mã Khố nói:
- Con không oán mẹ, con đã báo thù cho chúng nó rồi!
Mẹ bảo:
- Đi đi, đi cho thật xa, oán thù càng báo càng sâu!
Tư Mã Khố đứng dậy, chui vào trong lò gạch. Khi trở ra, trên mình khoác áo tơi, trước bụng đeo khẩu trung liên, dây đạn vàng chóe quấn quanh bụng. Thoắt một cái anh đã khuất sau những dãy cây cao lương. Tiếng rẽ lá sột soạt Mẹ gọi với theo:
- Anh nghe lời tôi, cao chạy xa bay, không nên giết bừa bãi!
Cánh đồng im ắng. ánh trăng như nước từ trên cao tràn xuống. Rồi tiếng người ồn ào từ phía thôn ngày càng rõ.
Do Ngụy Sừng Dê dẫn đường, các dân quân thôn và công an khu xách đèn lồng, cầm đuốc, vác súng vác đao hè nhau chạy tới chỗ lò gạch bỏ hoang, hùng hổ dàn quân bao vây. Viên công an có một chân giả bằng nhựa, nấp sau một đống gạch vụn, nói qua loa sắt tây:
- Tư Mã Khố, đầu hàng đi! Chạy không thoát đâu? Loa gọi hồi lâu, bên trong lò gạch vẫn im ắng. Viên công an rút khẩu pạc-hoọc bắn liền hai phát vào trong vòm lò, tiếng đội trở lại chói tai.
- Đem lựu đạn lại đây - Công an Dương gọi với ra phía sau.
Một dân quân bụng sát đất trơn tới như con giun, móc thắt lưng lấy hai quả lựu đạn đưa cho viên công an. Anh ta móc dây giật nụ xòe lồng vào ngón tay rồi nghiêng người ném quả lựu đạn vào trong lò. Ném xong, anh ta nằm bẹp xuống chờ đợi tiếng nổ. Quả lựu đạn nổ trong lò. Anh ta ném tiếp quả thứ hai, cũng nổ. Dư âm của tiếng nổ đã hết, trong lò càng im ắng. Viên công an gọi loa:
- Tư Mã Khố, đầu hàng thì không giết! Chúng tôi có chính sách khoan hồng đối với tù binh! Trả lời, chỉ có tiếng dế kêu đứt quãng và dàn hợp xướng của ếch nhái ngoài đồng.
Viên công an mạnh dạn hẳn lên, tay đèn pin, tay pạc-hoọc, gọi phía sau:
- Theo tôi? Hai dân quân bạo gan, một người cầm súng trường, một người cầm cây đao dài có ngù đỏ, lom khom chạy theo sau viên công an. Viên công an cứ mỗi bước đi, cái chân giả lại kêu cục một tiếng, đồng thời thân hình anh ta lại vẹo đi một cái. Họ cứ vậy mà chui vào trong lò, bình yên vô sự. Lát sau, họ chui ra.
- Ngụy Sùng Dê! - Viên công an gầm lên - Nó đâu?
Ngụy Sừng Dê nói: - Cháu xin thề có trời đất, Tư Mã Khố đúng là từ trong lò này chui ra. Không tin, các chú hỏi họ mà xem!
- Có đúng là Tư Mã Khố hay không? - Công an Dương hỏi gặng Vu Vân Vũ, Quách Thu Sinh, Đinh Kim Câu đã ngất xỉu dưới đất bằng một giọng ngao ngán: - Hay là chúng mày nhìn lầm?
Vu Vân Vũ nơm nớp nhìn ra cánh đồng cao lương:
- Hình như...
- Chỉ một mình hắn hả? - Viên công an gặng hỏi.
- Chỉ mỗi mình hắn!
- Có đem theo vũ khí gì không?
- Hình như ôm một khẩu trung liên, người quấn đầy dạn...
Vu Vân Vũ chưa nói hết câu, công an Dương và tất cả dân quân đều nằm rạp xuống như cỏ bị phạt gốc.
32
Triển lãm giáo dục giai cấp được tổ chức trong nhà thờ. Từng đoàn dài học sinh vừa bước tới cổng thì như tuân theo một mệnh lệnh, tất cả cất tiếng khóc. Trường tiểu học Đại Lan đã mở rộng thành trường tiểu học trung tâm vùng Cao Mật, do vậy tiếng khóc của mấy trăm học sinh chấn động cả một đường phố. Hiệu trưởng mới, một phụ nữ trung niên có khuôn mặt khắc khổ, một nốt ruồi mọc lông ở cằm, đứng trên bậc tam cấp của nhà thờ, lớn tiếng khuyên các học sinh bằng một giọng không phải vùng Cao Mật:
- Các em, các em thân mến, các em hãy cố nén?
Bà ta rút khăn mùi soa màu nâu chấm nước mắt và hỉ mũi thật to.
Hàng ngũ học sinh đã ngừng khóc, nối đuôi nhau đi vào nhà thờ, đứng chen chúc trong một hình vuông vẽ bằng phấn, để chừa một hành lang dọc theo bức tường. Trên tường treo rất nhiều tranh bằng bột màu, dưới mỗi bức đều có những câu chú thích.
Bốn cô thuyết minh đứng ở bốn góc tường, trong tay đều cầm thước kẻ bảng.
Cô thuyết minh thứ nhất là cô Quỳnh Chi, cô giáo dạy âm nhạc của chúng tôi. Cô bị kỷ luật vì đánh học sinh. Mặt cô hơi tái, ánh mắt tối sầm trong cặp mắt vốn rất đẹp. Trưởng khu mới vai đeo súng, đứng trên bục giảng của mục sư Malôa. Cô Quỳnh Chi dùng thước chỉ vào từng bức tranh, đọc to những hàng chữ chú thích ở dưới bằng giọng tiêu chuẩn. Hơn mười bức tranh dầu, giới thiệu địa lý tự nhiên, lịch sử và tình hình xã hội trước giải phóng của vùng Cao Mật. Sau đó là một tranh vẽ một lũ rắn độc thè lưỡi đỏ chót, trên đầu mỗi con đều chú một tên người, trong đó con rắn đeo kính đầu to quá cỡ ghi chú tên bố đẻ Tư Mã Đình và Tư Mã Khố. Dưới sự bóc lột tàn khốc của những con rắn độc, cô Quỳnh Chi đọc một cách trơn tru và vô cảm nhân dân Cao Mật sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, cuộc đời như trâu ngựa. Cô chỉ một bức tranh vẽ một bà già mặt như mặt lạc đà, tay khoác chiếc làn rách, lê cây gậy đánh chó, bám vạt áo bà già là một bé gái gầy như một con khỉ, góc bên trái bức tranh vẽ những nét phẩy màu đen và những lá cây khô quắt, biểu thị gió rét căm căm. Rất nhiều gia đình tha phương cầu thực, sống kiếp ăn mày, bị chó nhà địa chủ cắn, máu me đầm đìa Cô Quỳnh Chi vừa nói vừa giơ thước chỉ một tranh khác: Hai cánh cổng đen sì hé mở, phía trên cổng là tấm biển khắc ba chữ vàng Phục Sinh Đường. Từ chỗ khe cửa, ló ra cái đầu đội mũ quả dưa chỏm đỏ, tất nhiên đó là tên địa chủ tác oai tác phúc trong vùng. Điều kỳ lạ là tên địa chủ được vẽ với khuôn mặt trắng như mâm bột, mắt sáng như sao, không đáng ghét mà còn đáng yêu. Một con chó vàng to bự đang cắn xé một em trai. Lúc này, một nữ sinh bắt đấu sụt sịt khóc, bạn ấy người thôn Sa Khẩu, là một cô gái mười bảy mười tám, năm nay mới học lớp hai. Các học sinh tò mò nhìn cô ta, cố hiểu vì sao cô khóc. Một người trong đám học sinh vung tay hô khẩu hiệu làm đứt đoạn lời thuyết minh của cô Quỳnh Chi. Cô chống thước, kiên nhẫn chờ đợi. Cái người hô khẩu hiệu kia cất giọng ồm ồm gào khóc, nhưng mắt thì ráo hoảnh, lòng trắng đầy những tia máu. Tôi liếc nhìn các bạn học đứng bên cạnh, họ đều khóc rất to, khóc như thủy triều, đợt sau tiếp theo đợt trước. Ông hiệu trưởng đứng ở một chỗ nổi bật, che toàn bộ khuôn mặt bằng chiếc khăn tay màu nâu, tay trái nắm lại đấm thình thịch vào ngực. Thằng Trương Trung Quang đứng bên cạnh tôi, mặt bôi đầy nước dãi, hai tay luân phiên đấm vào ngực, không hiểu nó căm thù hay đau xót? Gia đình nó được qui là cố nông, nhưng ở chợ Đại Lan trước ngày giải phóng tôi thường gặp con trai của vị cố nông này đi theo cha nó kiếm ăn bằng nghề cờ bạc, hai tay bê một gói thịt lợn quay gói bằng lá sen tươi, mỗi bước lại ngoạm một miếng, mỡ lợn dính đầy hai bên mép và cả trên trán nó. Khi ngoạm miếng thịt, miệng nó há rất to, dãi dớt chảy xuống tận cằm. Bên phải tôi là một đứa con gái phốp pháp, hai bàn tay đều có ngón thừa mọc ở phía ngoài ngón tay cái. Hình như tên nó là Đỗ Tranh Tranh, nhưng chúng tôi đều gọi nó là Đỗ Lục Lục. Nó hai tay ôm mặt, tiếng khóc cục cục như chim câu mới ra ràng, hai ngón tay thừa ve vẩy như đuôi lợn con, hai ánh mắt thâm hiểm lọt qua kẽ tay. Thật tình, tôi trông thấy rất nhiều bạn học khóc thật sự. Mọi người rất quí những giọt nước mắt, không ai nỡ lau đi. Tôi quả thực rặn không ra một giọt nước mắt và không thể hiểu chỉ mấy bức tranh nguệch ngoạc khiến các bạn học đau xót đến thế? Để không bị lộ, vì tôi thấy đã mấy lần Đỗ Lục Lục đưa mắt về phía tôi, vẻ dò xét. Nó thù tôi đến tận xương tủy, tôi biết thế. Nó với tôi ngồi cùng một ghế trong lớp học ban đêm, nó đã từng đưa bàn tay sáu ngón của nó sờ đùi tôi, trong khi miệng nó vẫn đọc theo sự chỉ dẫn của cô giáo. Khi đó, tôi hốt hoảng đứng lên, bị cô giáo phê bình vì làm mất trật tự trong giờ học. Tôi nói rõ sự việc, tất nhiên đó là một cử chỉ hèn hạ, vì đã là thằng đàn ông thì không nên từ chối những cái ve vuốt của phụ nữ, mà dù có từ chối thì cũng không nên tố cáo trước đám dông. Đây là điều mà mấy chục năm sau tôi mới nhận thức được, thậm chí tôi còn cảm thấy hối hận, sao mình lại không..
Nhưng khi đó, hai ngón tay thừa trông giống hai con tằm béo múp míp khiến tôi sợ quá, mất hết hứng thú. Những lời tố cáo của tôi khiến nó chỉ thiếu nước độn thổ, may mà đang giờ ôn tập buổi tối, ánh đèn mờ mờ, khoảng sáng trước mặt mọi người chỉ bằng quả dưa hấu. Nó gục đầu xuống ngực, phía sau nổi lên tiếng cười dâm đãng của bọn con trai. Nó biện bạch:
- Tôi không cố ý, tôi tìm cái tẩy để mượn!...
Tồi tệ hết chỗ nói, tôi bảo:
- Không, bạn ấy cố ý véo đùi tôi?
- Kim Đồng, thôi không nói nữa? - Cô Quỳnh Chi dạy nhạc kiêm dạy ngữ văn nghiêm giọng nẹt tôi.
Từ đó, tôi trở thành kẻ thù của Đỗ Tranh Tranh. Một bận, tôi thấy một con thạch sùng chết trong cặp, tôi nghi là Đỗ Tranh Tranh nhét vào. Hôm nay, trong khung cảnh trang nghiêm này mà trên mặt tôi không có nước mắt hoặc nước bọt sùi ra mép thì vấn đề trở nên nghiêm trọng vô cùng. Nếu như Đỗ Tranh Tranh có ý định trả thù... hậu quả sẽ không thể lường được. Tôi giơ hai tay ôm mặt, há miệng giả vờ khóc nhưng cũng không làm sao mà khóc được.
Cô Kỷ Quỳnh Chi bỗng cao giọng át cả những tiếng khóc, giai cấp địa chủ phản động sống phè phỡn. Một Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ! - cây thước trong tay cô gõ bồm bộp trên bức tranh vẽ. Tư Mã Khố đầu sói mình gấu, hai cánh tay dài ngoằng đầy lông lá đen sì ôm lấy bốn con yêu tinh: hai con bên trái đầu người mình rắn; hai con bên phải đều mọc đuôi vàng như đuôi sóc, phía sau lúc nhúc một đám tiểu yêu, rõ ràng là lớp con cháu của Tư Mã Khố. Thằng Tư Mã Lương, người anh hùng mà tôi tôn thờ, chắc cũng trong số này, vậy tiểu yêu nào là Tư Mã Lương? Phải chăng là con miêu tinh có hai tai mèo hình tam giác ở trước trán? Phải chăng là con tinh chuột mặc áo đỏ, giơ hai vuốt trước bé xíu? Tôi cảm thấy ánh mắt thâm hiểm của Đỗ Tranh Tranh lại liếc về phía tôi Vợ thứ tư của Tư Mã Khố - cái thước của cô Quỳnh Chi chỉ vào người đàn bà có đuôi hồ ly - người ấy chính là chị Hai Chiêu Đệ của tôi - cất giọng rất cao nhưng không một chút biểu cảm, nói- Nó ăn chán sơn hào hải vị, cuối cùng chỉ thích ăn da của chân gà trống choai. Vì sở thích này mà gà trống bị giết chất đống trong nhà Tư Mã Khố.
Bịa đặt? Chị Hai tôi ăn da gà hồi nào? Chị Hai không biết ăn thịt gà, càng không có chuyện gà chết chất đống trong nhà Tư Mã Khố! Tôi đang nhớ lại cảnh mình bị đánh đập tàn nhẫn, định mượn chuyện đó để rặn ra một ít nước mắt. Nghĩ đến chuyện mẹ bị thằng Ngụy Sừng Dê thúc khuỷu tay ngã ngửa, sống mũi tôi cay cay và nước mắt tự nhiên ứa ra. Họ nhục mạ chị Hai khiến tôi căm phẫn và thấy oan uổng quá, cũng làm tôi chảy nước mắt. Vậy là nước mắt của tôi hàm nghĩa rất phúc tạp, tôi chùi ngay không thương tiếc, nhưng nó vẫn tiếp tục ứa ra.
Phần thuyết minh của cô Quỳnh Chi đã xong, cô lui sang bên mà thở, vẻ mệt mỏi. Tiếp theo là cô giáo Sái mới từ tỉnh điều về. Cô có khuôn mặt nhẹ nhõm, giọng trong vắt, chưa nói câu nào đã nước mắt ràn rụa. Phần này có tiêu đề nảy lửa: Tội ác tày trời của bọn Hoàn Hương Đoàn. Như lúc dạy học sinh tập đọc, cô dùng thước chỉ lần lượt từng chữ trên tiêu đề. Bức tranh thứ nhất: Góc trên bên phải là một đám mây đen lấp ló vầng trăng lưỡi liềm, góc trên bên trái là những lá khô kéo theo những phẩy đen, nhưng đây là chỉ gió thu chứ không phải gió đông. Và dưới trời mây và vầng trăng ấy gió thu hiu hắt ấy, Tư Mã Khố - ở đây là con sói khổng lồ đi đứng như người - ngoác miệng nhe hàm răng lởm chởm, thè lưỡi đỏ lòm máu nhỏ giọt, mặc quân phục, dây đạn đeo chéo, từ ống tay áo rộng thùng thình thò ra lưỡi dao bầu sút mẻ vì đâm chém nhiều. Đó là tay trái. Tay phải cầm khẩu pạc-hoọc, mũi súng tóe lửa chứng tỏ đang bắn. Tư Mã Khố không mặc quần, vạt áo dài trùm mông chỉ để lộ một cái đuôi sói to tướng dài quết đất. Hai chân được vẽ rất thô không cân xứng với phần trên, không giống chân sói mà to như chân trâu, có điều, không phải móng guốc mà là nanh vuốt của loài sói. Sau lưng là một bầy thú vật hung hãn, kinh tởm, một con rắn đeo kính cổ cất cao, lưỡi đỏ chót. - Đây là Thương Hi Lộ, tên phú nông phản động ở thôn Sa Lương - Cô Sái dùng thước chỉ vào đầu con rắn đeo kính nói: - còn đây là... - cô chỉ vào con chó hoang - tên địa chủ ác bá Đỗ Kim Nguyên ở thôn Sa Khẩu. Tất nhiên Đỗ Kim Nguyên cũng kéo lê cây gậy dính đầy máu. Bên cạnh hắn là tên đầu gấu Hồ Nhật Khuê ở thôn Vương Gia Khưu. Tên này cơ bản vẫn là hình người, chỉ có khuôn mặt dài ngoằng như mặt lừa. Tên phú nông phản động Mã Thanh Vân ở đồn Hai Huyện thì vụng về như một con gấu. Tóm lại, cả một bầy thú dữ, tay cầm vũ khí, hùng hổ kéo vào Cao Mật. Bọn Hoàn Hương Đoàn đã tiến hành một cuộc trả thù đẫm máu, chỉ trong mười ngày, bằng những thủ đoạn không thể tưởng tượng nổi, chúng đã giết chết một ngàn ba trăm tám mười tám người - Cô Sái vừa nói vừa chỉ vào bức tranh, nơi có một đám lổn nhổn chứng tỏ người bị giết.
Các học sinh lại bùng lên một trận gào khóc. Tiếp theo là những bức tranh có cả hình vẽ lẫn ghi chú, trình bày như một cuốn từ điển về hình phạt tàn khốc. Mấy bức đầu là những phương pháp truyền thống như chặt đầu, xử bắn. Những bức sau là những hình thúc mới. - Đây là chôn sống - cô Sái chỉ vào một bức nói. Qua cách gọi cũng hiểu, chôn sống là đem chôn người đang sống. Một cái hố rất to, mấy chục người mặt vàng như nghệ đứng dưới hố, trên miệng hố lại là Tư Mã Khố đang chỉ huy bọn Hoàn Hương Đoàn lấp đất.
- Theo lời tố cáo của bà Quách... - cô Sái đọc dòng chữ chú thích bên dưới - bọn phỉ Hoàn Hương Đoàn khi chôn người đã mệt, chúng bắt những nạn nhân tự đào huyệt để chôn lẫn nhau. Đất lấp đến ngực là không thở được nữa, ngực như vỡ tung, máu dồn lên đầu. Lúc này, bọn Hoàn Hương Đoàn nhằm vào những cái đầu mà nổ súng, máu trộn lẫn với óc vọt cao hàng thước.
Trên bức tranh, một cái đầu nhô trên mặt đất máu vọt cao tận mép trên của tranh rồi tỏa ra như những hạt anh đào, rơi xuống. Cô Sái mặt nhọt nhạt, hình như cô bị chóng mặt, tiếng khóc của học sinh rung chuyển cả mái nhà, nhưng cho đến khi đó, mắt tôi vẫn ráo hoảnh.
- Theo thời gian ghi chú trên tranh, khi Tư Mã Khố dẫn bọn Hoàn Hương Đoàn trở lại vùng Cao Mật tiến hành cuộc đại tàn sát, thì gia đình tôi cùng với các cán bộ cách mạng và những phần tử tích cục rút lên miền duyên hải đông bắc. Tư Mã Khố mà tàn bạo đến như vậy sao?...
Cô Sái quả thực đã ngất xỉu, đầu cô tựa vào cái hố chôn người trong tranh, nơi vẽ một Hoàn Hương Đoàn đang cầm xẻng lấp đất trông như định lấp đầu cô. Mặt cô đẫm mồ hôi, cô từ từ trượt theo tường, đầu miết trên bức tranh khiến nó bật cả đanh ghim rơi phủ lên đầu cô, vôi vữa trên tường rơi xuống từng mảng.
Trước sự kiện đột ngột này, các học sinh nín bặt. Vài cán bộ khu chạy tới khênh cô Sái đi. Ông trưởng khu, một trung niên có cái bớt chiếm nửa mặt, thân hình cân đối tay giữ khẩu pạc-hoọc kè kè bên hông, giọng nghiêm nghị:
- Các em học sinh, các đồng chí, sau đây chúng tôi mời bà Quách kể lại những gì bà đã trải qua. Đi mời bà Quách? - Ông ta bảo mấy cán bộ trẻ của khu.
Cán bộ khu chạy như bay qua chiếc cửa nhỏ thông sang phòng ở của mục sư Malôa.
Một sự im lặng khác thường, im lặng đến khó chịu. Mọi người dán mắt vào cánh cửa sơn đỏ đã phai màu, như đang đợi một diễn viên nổi tiếng ra sân khấu. Im lặng, im lặng, rồi đột nhiên sự im lặng bị phá vỡ, một giọng khóc dài lê thê từ trong vườn vọng ra, các học sinh gào khóc theo. Hai cán bộ dùng mông đẩy cánh cửa dìu bà lão đi vào. Bà Quách tóc đã hoa râm, bịt miệng bằng chiếc khăn rách, mặt ngửa lên, khóc như không còn thiết sống. Mọi người khóc theo đến năm phút. Bà Quách bỏ khăn bịt miệng ra lau mặt, kéo lại vạt áo cho ngay ngắn, nói:
- Các cháu đừng khóc nữa, người đã chết thì khóc cũng không sống lại được, người sống thì phải tiếp tục sống!
Các học sinh ngưng khóc nhìn bà. Bà cảm thấy hơi bị gò bó, tâm trí hoảng loạn, nói:
- Nói gì bây giờ? Chuyện đã qua, không nói là hơn.
Bà định bỏ đi, nhưng chủ nhiệm phụ nữ thôn Sa Lương là Cao Hồng Anh ngăn lại:
- Bác ơi, bác đã đồng ý rồi cơ mà! Sao bây giờ lại giở chứng?
Rõ ràng là Cao Hồng Anh không bằng lòng. Trưởng khu đấu dịu, nói:
- Bác kể bọn Hoàn Hương Đoàn chôn sống người như thế nào để giáo dục các cháu đừng quên quá khứ. Quên quá khứ đồng nghĩa với phản bội, đồng chí Lênin đã nói vậy. Đồng chí Lênin cho tôi nói thì tôi nói vậy.
- Đêm ấy là một đêm trăng tròn, có thể ngồi thêu dưới ánh trăng. Trăng sáng đến như vậy quả ít thấy. Hồi còn nhỏ nghe người già nói có một năm loạn lạc trăng cũng sáng như hôm nay. Tôi không sao ngủ ngon giấc, cảm thấy sắp có chuyện xảy ra. Tôi định đến nhà bà Phúc Thắng ở ngõ tây để mượn cái mẫu giày, nhân tiện bàn với bà ta về chuyện lấy vợ cho con trai. Tôi có một đứa cháu gái đã đến tuổi lấy chồng. Tôi vừa ra khỏi cửa thì trông thấy thằng Sư tử tay cầm đại đao sáng quắc áp giải vợ Tiến Tài, mẹ Tiến Tài và hai đứa con của Tiến Tài, đứa lớn là con trai, khoảng bảy tám tuổi, đứa nhỏ là con gái, chỉ nhỉnh hơn hai tuổi. Đứa lớn đi cùng bà, sợ quá khóc ti tỉ, đứa nhỏ thì vợ Tiến Tài bế trên tay, cũng sợ quá khóc ti tỉ. Tiến Tài lệch hẳn một bên vai do bị chém một nhát dao, máu mẹ đầm đìa, nhìn mà phát khiếp. Đi sau thằng Sư tử còn có ba người đàn ông cao lớn trông có vẻ quen quen, đều cầm dao trong tay, mặt hầm hầm. Tôi định lánh mặt nhưng đã muộn, thằng con hoang Sư tử đã trông thấy tôi. Tôi với mẹ hắn là chị em họ. Nó hỏi:
- Có phải dì Quách đấy không?
Tôi hỏi: - Sư tử, anh về khi nào thế?
Nó nói:
- Đêm qua.
Tôi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy?
Nó nói:
- Không làm gì cả, thu xếp chỗ ngủ cho gia đình này!
Tất nhiên tôi hiểu nói như vậy là có nghĩa xấu, bèn nói:
- Sư tử, đều là hàng xóm láng giềng, thù oán gì mà phải đến nỗi như thế?
Nó nói:
- Không thù oán gì, bố tôi với nó không thù không oán, bố tôi với bố nó còn là anh em kết nghĩa. Vậy mà nó vẫn treo cổ bố tôi lên cành cây, tiêu tiền âm phủ.
Mẹ Tiến Tài nói:
- Cháu ơi, người anh em của cháu nhất thời mê muội, xin cháu nể mặt già này mà tha cho nó, già này lạy cháu đấy!
Tiến Tài nói:
- Mẹ, không việc gì phải lạy, không cần xin xỏ nó?
Sư tử nói:
- Được, Tiến Tài, mày dáng mặt thằng đàn ông, không hổ là Đội trưởng dân quân!
Tiến Tài nói:
- Mày không còn nhảy múa được mấy bữa nữa đâu!
Sư tử nói:
- Mày nói đúng, tao cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng nữa là cùng, nhưng đối phó với gia đình mày, tao chỉ cần đêm nay là đủ!
Tôi mượn thế người già, bảo Tiến Tài:
- Sư tử à, anh tha cho gia đình Tiến Tài nếu không, già không coi anh là cháu nữa đâu?
Sư tử vằn mắt lên:
- Mẹ kiếp, ai là cháu của mụ? Đừng có nhận vơ! Năm xưa ta lỡ dẫm chết con gà nhép của mụ, vậy mà mụ vụt gậy vào đầu ta.
Tôi nói: - Sư tử, anh không phải giống người!
Hắn quay lại nói với ba thằng kia:
- Anh em, hôm nay giết bao nhiêu rồi nhỉ?
Một thằng nói:
- Tính cả gia đình nhà này là chín mươi chín người!
- Này bà dì bắn moóc-chê không tới kia, phiền bà bổ sung vào cho đủ một trăm?
Tôi run lên cầm cập, thằng con hoang này định giết tôi. Tôi bỏ chạy nhưng chạy đâu cho thoát chúng nó. Thằng Sư tử không thân không sơ với ai hết. Nó nghi vợ nó tằng tịu với người khác, bèn đánh bẫy lựu đạn ở bếp. Sáng hôm sau mẹ nó dậy sóm xúc tro bếp, lựu đạn nổ, chết liền. Tôi quên bẵng chuyện này nên mới lắm điều, vậy là thiệt vào thân! Chúng nó dẫn cả nhà Tiến Tài và tôi đến bãi cát. Một thằng trong bọn đang đào hố chôn người. Cát dễ đào, chẳng mấy chốc đã xong. ánh trăng vằng vặc nhìn rõ mọi vật, những cọng cỏ, những bông hoa tí xíu, những con kiến, trông thấy tất. Thằng Sư tử đến bên miệng hố xem xét rồi bảo:
- Anh em, đào sâu chút nữa, Tiến Tài nó cao đấy! Tên kia lại đào thêm, cát ẩm được tiếp tục hất lên.
Sư tử hỏi:
- Tiến Tài, mi có nói gì không?
Tiến Tài nói:
- Sư tử, tao không xin xỏ mày, tao đã giết bố mày. Tao không giết thì người khác cũng giết!
Sư tử nói:
- Bố tao ăn nhịn để dành được ít tiền buôn tôm cá cũng như bố mày, dành dụm tậu được mấy mẫu ruộng. Bố mày không gặp may, bị kẻ cắp lấy sạch, không còn đồng nào. Tao hỏi mày, vậy bố tao có tội gì?
Tiến Tài nói:
- Tậu ruộng, tậu ruộng là có tội.
Sư tử nói:
- Mày nói thực lòng tao xem nào, ai không muốn có ruộng?
Tiến Tài nói:
- Mày đừng hỏi tao làm gì, có hỏi tao cũng không trả lời được Huyệt đào xong chưa?
Tên đào huyệt nói:
- Xong rồi!
Tiến Tài không nói gì, nhảy xuống, hố sâu đến cổ. Tiến Tài nói:
- Sư tử, tao phải hô khẩu hiệu!
Sư tử nói:
- Mày cứ hô. Tao với mày là bạn từ thời mặc quần thủng đít nên mày được ưu đãi đặc biệt, mày muốn hô gì thì hô.
Tiến Tài nghĩ một thoáng rồi giơ cánh tay không bị thương lên, hô to: Đảng Cộng sản muôn năm! Đảng Cộng sản muôn năm, đảng Cộng sản muôn muôn năm!. Hô ba lần rồi thôi. Sư tử hỏi:
- Không hô nữa à?
Tiến Tài nói:
- Không hô nữa!
Sư tử nói: - Hô nữa đi, giọng mày khỏe đấy?
Tiến Tài nói:
- Không hô nữa, chỉ hô ba lần là đủ rồi?
Sư tử nói:
- Vậy thì thôi! Nào bác - nó đẩy mẹ Tiến Tài một cái - xuống đi!
Mẹ Tiến Tài quì sụp xuống lạy Sư tử. Sư tử giằng lấy chiếc xẻng trong tay tên đào huyệt, và chỉ một nhát, hất bà già xuống hố. Những tên kia cũng đẩy vợ con Tiến Tài xuống. Bọn trẻ khóc inh ỏi, vợ Tiến Tài cũng khóc. Tiến Tài nổi giận nói: Đừng khóc, ngậm miệng lại, đừng để xấu mặt tôi? Vợ con anh ta ngừng khóc.
Một tên chỉ vào tôi, hỏi Sư tử:
- Tiểu đội trưởng, mụ này tính sao? Có chung một hố không?
Không đợi Sư tử trả lời, Tiến Tài đã quát to dưới hố:
- Sư tử, đã nói là cả nhà ta một hố, mày đừng cho ai xuống nữa.
Sư tử nói:
- Tiến Tài, mày yên tâm, tao hiểu ý của mày. Cho mụ già... - Sư tử bảo tên kia - nói anh em, chịu khó đào hố khác cho mụ!
Bốn tên chia làm hai tốp, tốp đào huyệt cho tôi, tốp lấp huyệt gia đình Tiến Tài.
Con gái Tiến Tài khóc:
- Mẹ ơi, cát đầy mắt con...
Vợ Tiến Tài kéo vạt áo chụp lên đầu con gái. Nó giãy giụa định trèo lên lại bị chúng dùng xẻng hất xuống. Đứa con trai thì khóc ầm lên. Mẹ Tiến Tài ngồi thụp xuống nên bị lấp rất nhanh. Bà hổn hển chửi: - Cộng sản ơi là cộng sản, mẹ con tôi là chết trong tay các ông!
Sư tử nói:
- Sắp chết mới sáng mắt ra! Tiến Tài! Chỉ cần mày hô Đả đảo đảng Cộng sản là tao để lại cho nhà mày một người làm giống, sau này còn có người hương khói trước mồ.
Mẹ và vợ Tiến Tài vội giục:
- Hô đi, Tiến Tài, hô mau lên!
Tiến Tài mặt đầy cát, giương cặp mắt tròn xoe đáng mặt một trang hảo hán, nói: - Không, tao không hô, tao vừa hô Đảng Cộng sản muôn năm, bây giờ lại hô Đả đảo Đảng Cộng sản sao được?
- Được lắm, khí phách đấy. - Sư tử tỏ vẻ thán phục rồi giằng lấy chiếc xẻng từ tay đồng bọn, xúc lia lịa.
Bà mẹ Tiến Tài không thấy động cựa gì nữa. Vợ Tiến Tài thì cát đã lấp đến cổ, đứa con gái đã bị lấp kín từ lâu, đứa con trai còn hở cái chỏm đầu, hai tay vung loạn xạ. Máu rỉ ra từ lỗ mũi và lỗ tai vợ Tiến Tài, miệng há hốc kêu ằng ặc thê thảm quá, thê thảm quá!
Sư tử dừng tay xẻng, hỏi Tiến Tài:
- Thế nào?
Tiến Tài thở như trâu, đầu nở ra như một cái sọt, trả lời:
- Sư tử, dễ chịu lắm!
Sư tử tức điên lên: không một câu tỏ ra yếu đuối thốt ra từ miệng Tiến Tài! Hắn vớ lấy xẻng xúc lia lịa. Lấp đầy rồi, không còn trông thấy vợ con Tiến Tài đâu nữa, nhưng cát vẫn đang chuyển động, họ chưa chết hẳn. Cái đầu to tướng của Tiến Tài vẫn chưa bị lấp kín, trông dễ sợ. Anh không còn nói được nữa, khóe mắt và lỗ mũi rỉ máu, các mạch máu trên đầu nổi lên như những con tằm. Sư tử như con choi choi, dẫm cho cát lèn chặt. Hắn ngồi xổm trước đầu Tiến Tài hỏi:
- Người anh em, bây giờ thấy thế nào? Tiến Tài không trả lời được nữa. Sư tử búng ngón tay vào đầu Tiến Tài, hỏi đồng bọn:
- Các anh em, có ăn óc người không? Bọn kia trả lời:
- Ai dám ăn cái của ấy, lợm giọng chết!
Sư tử nói:
- Có người ăn đấy, đó là chi đội trưởng Trần, ăn kèm tương ớt và gừng thái chỉ, ăn như người ta ăn óc đậu.
ên đào huyệt bảo Sư tử:
- Huyệt đào xong rồi đấy! Sư tử đến bên miệng huyệt ngó một cái, quay lại bảo tôi:
- Bà dì xem qua cái huyệt tôi chuẩn bị cho dì đã được chưa?
Tôi nói: - Anh Sư tử, anh hãy rủ lòng thương mà tha cho cái mạng già này!
Sư tử nói:
- Già rồi, còn sống để làm gì? Với lại, tha cho dì thì lấy ai bù vào cho đủ con số một trăm?
Tôi nói:
- Nếu vậy thì anh chém đầu tôi, đừng chôn sống, tội lắm!
Thằng con hoang ấy nói:
- Chịu tội sống thì khi chết mới lên thiên đàng!
Thằng khốn đó đá tôi ngã xuống huyệt. Lúc này một đám người ồn ào đi tới, dẫn đầu là Tư Mã Khố, ông Hai nhà Phúc Sinh Đường. Tôi từng hầu hạ vợ ba của ông ta, nghĩ bụng: Cứu tinh đến rồi? Tư Mã Khố chân đi ủng khệnh khạng bước tới. Mấy năm không gặp, ông ta già đi nhiều. Ông ta hỏi:
- Ai đấy?
Sư tử nói: - Tôi đây ạ, Sư tử đây!
- Anh đang làm gì ở đây - Chôn người!
- Chôn những ai rồi? - Gia đình Tiến Tài, đội trưởng dân quân thôn Sa Lương!
Tư Mã Khố bước tới, hỏi:
- Dưới hố kia là ai?
- Ông Hai, cứu già mấy! - Tôi nói - già từng hầu hạ bà Ba, già là vợ nhà Quách đây ạ!
- Thế ra là bà hả? Sao bà lại rơi vào tay Sư tử?
- Già chót nhiều lời. Ông Hai, xin ông rủ lòng thương!
Tư Mã Khố bảo Sư tử:
- Tha cho bà ấy! Sư tử nói:
- Thưa đại đội trưởng, tha thì không đủ con số một trăm.
Tư Mã Khố nói:
- Đừng lệ thuộc vào con số, đáng giết mới giết, không đáng giết thì đừng?
Tên đào huyệt đưa lưỡi xẻng xuống cho tôi bám rồi kéo lên. Nói gì thì nói, Tư Mã Khố là con người còn biết lẽ phải, nếu không có ông ta thì già đã bị thằng súc sinh Sư tử chôn sống rồi!
Các cán bộ khu vừa lôi vừa đẩy bà Quách đi nơi khác. Cô giáo Sái mặt tái nhợt, cầm thước trở lại vị trí cũ tiếp tục thuyết minh. Mặc dù cô vẫn nước mắt lưng tròng, mặc dù giọng cô vẫn thê thảm, nhưng các học sinh không ai khóc nữa. Tôi nhìn xung quanh, những người vừa nãy dậm chân đấm ngực, giờ đây trên khuôn mặt họ chỉ còn là sự mệt mỏi và sốt ruột. Những bức tranh sặc mùi máu, giờ đây khô khốc vô vị như chiếc bánh nướng khô để lâu ngày. So với sự hiện diện đầy tính thuyết phục của bà Quách, thì những bức tranh sao mà giả dối, sao mà thiếu cảm tình! Trong đầu tôi cứ lởn vởn hình ảnh vầng trăng sáng như bạc, cái đầu to tướng của Tiến Tài trên mộ huyệt và thằng Sư tử với bộ mặt hung hãn như con mèo rừng. Những hình ảnh đó sao mà sống động, còn những bức tranh thì như những chiếc bánh tráng ngâm nước lâu ngày.
33
Họ vào trường học điệu tôi ra.
Phố xá đông nghịt, rõ ràng là đang đợi tôi. Hai dân quân tóc bám đầy đất lập tức tiến đến trói tôi lại. Sợi thừng rất dài, quấn quanh người tôi hơn chục vòng mà vẫn còn thừa một đoạn dài. Anh dân quân đeo súng cầm đầu thừng dắt tôi như dắt súc vật. Anh dân quân đi sau dùng đầu nòng súng trường đẩy đít tôi. Người trên đường trợn tròn mắt nhìn tôi, người nào người ấy lấm lem như những con chuột vừa chui ra khỏi hang. Từ đầu phố bên kia, một đám người vừa lôi vừa đẩy, thoáng nhìn tôi đã nhận ra mẹ, chị Cả, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa bị trói thành một dây. Ngọc Nữ và Thắng Lợi không bị trói, chúng nhảy xổ vào ôm lấy mẹ, nhưng mỗi lần như vậy đều bị một nữ dân quân lực lưỡng gạt bắn ra. Đến cổng nhà Phúc Sinh Đường, nay là trụ sở chính quyền khu, tôi nhập vào đoàn của mẹ. Mẹ, chị Cả và bọn trẻ nhìn tôi, tôi cũng nhìn lại. Tôi cảm thấy không có gì để nói, những người thân của tôi chắc chắn cũng có ý nghĩ như tôi.
Chúng tôi bị dân quân áp giải hết sân nọ vào sân kia cho đến sân cuối cùng. Họ giam chúng tôi trong một gian buồng phía nam. Cửa sổ mở ra phía nam đã bị hỏng, khung gãy đằng khung, giấy rách đằng giấy. Chúng tôi trông thấy Tư Mã Đình ngồi co ro ở xó nhà, mặt mũi tái xanh tái xám, răng cửa bị đánh gãy. Ông ta buồn rầu nhìn chúng tôi. Bên ngoài cửa sổ là một cái sân nữa rồi đến tường vây đã bị phá một đoạn, như cố ý làm thành cái cổng xép. Bên ngoài cổng có mấy dân quân đi đi lại lại, gió nam thổi tung vạt áo của họ. Trên chòi gác đông nam và tây nam vang lên tiếng lên đạn rôm rốp.
Đêm ấy, cán bộ khu treo bốn chiếc đèn khí trong buồng chúng tôi, kê một chiếc bàn, sáu chiếc ghế tựa, còn bày la liệt nào là roi da, gậy, roi mây, xích sắt, dây thừng, thùng nước, chổi, còn khênh đến một chiếc bàn mổ lợn bằng ván ghép dây đầy máu, một con dao bầu để chọc tiết, vài con dao lá đề để cạo lông, móc sắt treo thịt, thùng hứng tiết. Họ định biến cái buồng thành lò mổ.
Công an Dương cùng một số dân quân bước vào trong buồng. Cái chân bằng nhựa của anh ta kêu rin rít. Hai má bánh đúc của anh ta xệ xuống, kẽ nách phè ra những mỡ là mỡ khiến hai cánh tay suốt đời cành ra hai bên. Anh ta ngồi ở ghế giữa sau bàn, chậm rãi chuẩn bị cho công việc thẩm vấn. Anh ta móc khẩu súng lục đeo trên mông, lên đạn rồi đặt lên bàn; đặt chiếc loa bằng sắt tây bên cạnh khẩu súng lục; móc túi thuốc sợi và tẩu đặt bên cạnh chiếc loa; cuối cùng, anh ta tháo cái chân bàng nhựa cùng với bít tất đặt lên góc bàn. Cái chân cụt, dưới ánh sáng của những cây đèn khí, đỏ hỏn trông dễ sợ. ở mỏm cụt của chân giả có những sợi dây da, còn từ bắp chân trơ xuống thì là một khoảng trống, từ cổ chân trở xuống là một đoạn bít tất và chiếc giày da rách. Cái chân giả dựng trên bàn như một vệ sĩ trung thành của công an Dương.
Những cán bộ khác của khu chia nhau ngồi hai bên công an Dương, nghiêm trang lấy giấy bút ra, chuẩn bị ghi chép. Các dân quân dựng súng vào tường, xắn tay áo cầm lấy roi gậy, sắp thành hai hàng như sai nha trên công đường.
Lỗ Thắng Lợi ôm chân mẹ mà khóc. Chính nó tự đâm đấu vào lưới Chị Tám Ngọc Nữ úa nước mắt nhưng miệng thì lại nở một nụ cười mê hồn. Dù trong hoàn cảnh khó khăn đến mấy, chị vẫn cứ đẹp, đầy sức hấp dẫn. Tôi rất hối hận về chuyện hồi nhỏ tôi giành vú mẹ cho riêng mình. Nét mặt mẹ vô cảm, nhìn không chớp ngọn đèn khí sáng chói.
Công an Dương nhồi một tẩu thuốc, cầm que diêm đấu trăng quẹt vào chỗ ráp trên mặt bàn, xoẹt, đầu que diêm bùng cháy, anh ta dẩu môi bập bập cho thuốc bén lửa rồi vút que diêm, dùng ngón tay cái dập tắt ngọn lửa trên tẩu, rít liền mấy hơi, hai luồng khói trắng tuôn ra từ hai lỗ mũi. Anh ta gõ tẩu vào chân ghế cho tàn thuốc rơi ra, đặt túi thuốc và tẩu lên bàn, cầm loa đặt lên miệng chĩa về phía lỗ hổng của bức tường, làm như bên ngoài có rất nhiều quần chúng, cần nói chuyện với họ. Với giọng ồm ồm, anh ta hỏi:
- Thượng Quan Lỗ thị, Thượng Quan Lai Đệ, Thượng Quan Kim Đồng, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa, các người có biết vì sao bị bắt không?
Chúng tôi đưa mắt nhìn mẹ, mẹ nhìn cây đèn khí. Mặt mẹ sưng bủng trong suốt. Môi mẹ mấp máy nhưng không nói gì, chỉ lắc đầu.
Công an Dương nói:
- Lắc đầu thì không thể nói rõ điều gì! Căn cứ vào những lời cáo giác của quần chúng, căn cứ vào kết quả điều tra, chúng tôi đã có hàng lô chứng cứ. Gia đình Thượng Quan do Lỗ thị cầm đầu, trong nhiều năm đã che giấu Tư Mã Khố, tên đầu sỏ phản cách mạng ở vùng Cao Mật, tên hung thủ tội ác chồng chất, kẻ thù của nhân dân? Hơn nữa, trong đêm vừa qua, một thành viên trong gia đình Thượng Quan đã phá hoại phòng triển lãm giáo dục giai cấp, viết hàng loạt khẩu hiệu phản động trên bảng đen trong nhà thờ. Căn cứ vào những tội trạng đó, chúng tôi hoàn toàn có thể đem cả nhà ra hành quyết, nhưng xem xét từ góc dộ chính sách, chúng tôi dành cho các người cơ hội cuối cùng, các người hãy khai báo nơi ẩn nấp của tên thổ phỉ Tư Mã Khố, để hắn rơi vào lưới pháp luật càng sớm càng tốt. Hai là các người hãy khai báo tội viết khẩu hiệu phản động, phá hoại triển lãm giáo dục giai cấp. Dù chúng tôi đã biết là ai viết, nhưng chỉ cần thành khẩn là chúng tôi có thể khoan hồng. Các người rõ chưa?
Chúng tôi vẫn im lặng.
Công an Dương vớ lấy súng, gõ họng súng cộc cộc trên mặt bàn, miệng vẫn không rời chiếc loa, miệng loa vẫn chĩa ra ngoài lỗ hổng trên tường, gầm lên:
- Thượng Quan Lỗ thị, người rõ chưa?
Mẹ bình tĩnh nói:
- Oan cho chúng tôi
Chúng tôi đồng thanh kêu lên:
- Oan quá!
Công an Dương nói:
- Oan hả? Chúng tôi không để cho một người tốt bị oan cũng không để một kẻ xấu lọt lưới. Treo tất cả chúng nó lên!
Chúng tôi giãy giụa, gào khóc nhưng chỉ kéo dài được đôi chút thời gian, cuối cùng vẫn bị trói giật cánh khuỷu treo lủng lẳng dưới xà nhà bằng gỗ thông, mẹ bị treo ngoài cùng, đầu xà phía nam, rồi đến chị Lai Đệ, rồi đến Tư Mã Lương, rồi đến tôi, và sau tôi là Sa Tảo Hoa.
Những tên dân quân chuyên nghiệp này đều rất thiện nghệ trong việc đánh trói người. Chúng đã treo sẵn năm chiếc ròng rọc trên xà, do vậy khi kéo chúng tôi lên không khó khăn gì. Tôi cảm thấy cổ tay còn có thể chịu nổi, nhưng ở hai bả vai thì đau xói lên óc. Tất cả chúng tôi đều gục đầu trước ngực, cổ tự nhiên vươn dài ra, hai chân duỗi thẳng, các ngón chân buông xuôi, thẳng góc với mặt đất. Không chống được, tôi bật lên tiếng kêu, nhưng Tư Mã Lương thì không. Chị Lai Đệ rên rỉ, Sa Tảo Hoa không động tĩnh gì. Cơ thể to béo của mẹ khiến sợi dây thừng căng như dây đàn. Mẹ là người đầu tiên mồ hôi đầm đìa, mái tóc rối bù của mẹ bốc hơi trắng xóa. Lỗ Thắng Lợi và Thượng Quan Ngọc Nữ ôm chân mẹ mà lắc. Bọn dân quân xách cổ Ngọc Nữ và Thắng Lợi như xách hai con gà quẳng ra, hai cô cháu lăn xả vào, lại bị quẳng ra. Một dân quân hỏi:
- Anh Dương, có nên treo chúng lên không?
Công an Dương kiên quyết không cho, nói:
- Không được, chúng ta phải chấp hành chính sách!
Lỗ Thắng Lợi vô ý làm tuột một chiếc giày của mẹ. Mồ hôi cuối cùng đọng trên đầu ngón chân, rớt tong tỏng trên mặt đất.
- Các người có nói không? - Công an Dương hỏi - chỉ cần khai ra là được tha ngay lập tức!
Mẹ cố ngửng đầu lên, vừa thở vừa nói:
- Thả bọn trẻ ra... tôi chịu trách nhiệm tất!
Công an Dương nói to với bên ngoài:
- Đánh, đánh đau vào!
Bọn dân quân vung roi vung gậy, hò hét đánh cầm chừng. Tôi la toáng lên, mẹ và chị Lai Đệ cũng kêu, Sa Tảo Hoa vẫn im lặng, có lẽ nó đã ngất. Công an Dương và các cán bộ khu đập bàn quát tháo ra oai. Mấy người dân quân khiêng Tư Mã Đình đặt lên chiếc bàn mổ lợn, đánh vào mông ông ta bằng chiếc que sắt mỗi cái đánh là một tiếng rú đau đớn.
- Thằng Hai, thằng khốn mau về chịu tội đi! Các ông không được đánh tôi, tôi đã từng lập công?...
Bọn dân quân lặng lẽ vung que sắt làm như sẽ đánh nát mông. Một cán bộ khu giơ roi vụt vào cái túi bằng da trâu, một dân quân dùng roi mây quật bôm bốp vào cái bao tải. Bốp bốp bịch bịch, quát tháo hầm hè, hư hư thực thực rối tung cả căn buồng, roi gậy bay loang loáng dưới ánh đèn. Thời gian khoảng một tiết học, bọn dân quân cởi dây thừng buộc ở khung cửa sổ, mẹ rơi bịch xuống đất, mềm nhũn. Bọn dân quân lại cởi một nút khác, chị Lại Đệ rơi xuống. Chúng tôi lần lượt được thả xuống. Bọn dân quân xách đến một thùng nước, dùng gáo múc nước hắt vào mặt chúng tôi. Chúng tôi tỉnh lại, nhưng tất cả các khớp xương đều mất hết cảm giác.
Công an Dương lớn tiếng quát:
- Đêm nay mới cho các người một trận phủ đầu. hãy suy nghĩ kỹ, khai ra thì xóa bỏ tội cũ, lập tức thả về nhà, không khai thì, hãy đợi đấy!
Công an Dương đi chân giả vào, giắt túi thuốc và súng lục vào thắt lưng, dặn dò đám dân quân phải canh giữ cẩn thận, rồi cùng các cán bộ khu khệnh khạng đi ra. Đám dân quân đóng cửa lại, ngồi vào một xó, ôm súng hút thuốc. Chúng tôi ngồi tựa vào mẹ, thút thít khóc. Mẹ giơ bàn tay sưng vù sờ nắn từng đứa. Tư Mã Đình rên rỉ đau đón.
Một dân quân nói:
- Khai ra thôi! Công an Dương mà tra khảo thì gỗ đá cũng phải khai! Các người đầu đen mắt thịt chịu được hôm nay, làm sao chịu nổi ngày mai?
Một dân quân khác nói:
- Tư Mã Khố nếu là hảo hán thì ra đầu thú là xong! Bây giờ còn ẩn nấp được, đến mùa đông thì nấp vào đâu?
Một dân quân bảo mẹ:
- Con rể bà đúng là một con hổ dữ. Cuối tháng trước một trung đội công an huyện bao vây hắn ở hồ Bạch Mã lại để hắn xổng mất. Hắn nã một tràng giết bảy người, trung đội trưởng bị gãy đùi?
Hình như đám dân quân mách ngầm chúng tôi điều gì đó nhưng cụ thể là điều gì thì không rõ. Nhưng chúng tôi có tin về Tư Mã Khố. Từ khi gặp nhau ở lò gạch cũ, anh biến mất như đá chìm đáy biển. Chúng tôi mong anh bỏ đi thật xa, không ngờ anh vẫn luẩn quẩn vùng này, gây cho chúng tôi biết bao phiền phức. Hồ Bạch Mã ở phía nam đồn Hai Huyện, cách Đại Lan không đầy hai mươi dặm, là nơi phình ra lớn nhất của con sông Mục, nước sông tràn vào chỗ trũng trở thành hồ. Trong hồ lau lách bạt ngàn, vịt trời đông vô kể.
33
Sáng hôm sau, chị Phán Đệ từ huyện đi ngựa về. Chị tức điên lên, định tìm cán bộ khu để làm cho ra nhẽ. Nhưng khi bước ra khỏi phòng trưởng khu, cơn giận của chị biến mất. Chị theo trưởng khu vào thăm chúng tôi. Chúng tôi xa nhau đã nửa năm, không hiểu chị làm chức gì trên huyện. So với cách đây nửa năm, chị có gầy đi. Những vết ố của sữa trên ngực áo chứng tỏ chị đang trong thời kỳ cho con bú. Chúng tôi lạnh nhạt nhìn chị. Mẹ hỏi:
- Phán Đệ, vậy mẹ có tội gì?
Chị Phán Đệ nhìn một thoáng ông trưởng khu khi ấy đang nhìn ra ngoài cửa sổ với thái độ dửng dưng, nước mắt ứa ra, chị nói:
- Mẹ, cố chịu đựng vậy... Hãy tin vào Chính phủ... Chính phủ không bao giờ để người tốt bị oan!...
Chính vào lúc chị Phán Đệ đang khuyên giải chúng tôi thì tại hồ Bạch Mã, trong khu nhà mỏ rợp bóng tùng xanh của Hàn lâm họ Đinh, Thôi Phượng Tiên, một phụ nữ góa chồng đội bát nhang Hồ ly, cầm viên đá quạ gõ cách cách vào tấm bia công đức của nhà Hàn lâm. Tiếng gõ nhọn và sắc hòa với tiếng mổ công cốc của chim gõ kiến. Một con chim rẻ quạt xòe đuôi bay lượn trong lùm cây. Thôi Phượng Tiên gõ một hồi rồi ngồi đợi. Chị thoa một lớp phấn mỏng, quần áo gọn gàng sạch sẽ, tay khoác chiếc làn trên phủ chiếc khăn hoa, trông như cô dâu về thăm nhà mẹ đẻ. Tư Mã Khố từ sau tấm bia chui ra.
Thôi Phượng Tiên giật mình, nói:
- Đồ quỉ, sợ chết khiếp đi được!
Tư Mã Khố nói:
- Sợ gì, hồ ly tinh mà lại sợ quỉ
Thôi Phượng Tiên thở dài:
- Nông nỗi này mà anh còn đùa cợt! - Nông nỗi này là thế nào?
- Tốt quá đi chứ, chưa bao giờ tốt như lúc này! - Tư Mã Khố nói - Bọn khốn kiếp định bắt sống tôi? Ha ha, có mà nằm mơ!
Anh ta vỗ vỗ khẩu trung liên, rồi khẩu tiểu liên báng gập có máy ngắm do Đức chế tạo, rồi vỗ khẩu Braoninh đeo bên sườn, nói:
- Mẹ vợ tôi khuyên tôi nên đi thật xa, đừng bao giờ trở lại vùng Cao Mật. Sao tôi lại phải đi thật xa? Đây là nhà của tôi, là nơi chôn cất hài cốt những người thân của tôi, từng gốc cây ngọn cỏ đều thân thiết với tôi, là nơi tôi mặc sức chơi bời nhảy múa, ở đây còn có con hồ ly tinh bốc lửa như cô, thử hỏi, làm sao tôi có thể bỏ đi!
Trong đám sậy phía xa, đàn vịt trời hốt hoảng bay lên, Thôi Phượng Tiên lấy tay bịt miệng Tư Mã Khố. Tư Mã Khố gỡ tay Phượng Tiên, nói:
- Không có chuyện gì, bọn Bát lộ địa phương bị tôi khiền cho một trận, đám vịt trời bị những con diều đến rỉa xác chết làm cho hoảng sợ đấy thôi!
Thôi Phượng Tiên kéo Tư Mã Khố vào trong phần mộ, nói:
- Có chuyện quan trọng cần nói với anh!
Họ rẽ bụi gại rậm chui vào trong, nhà mồ rất rộng. Gai cào xước tay Thôi Phượng Tiên, chị ái lên một tiếng. Tư Mã Khố đặt súng xuống, lắp cây đèn dầu treo trên vách hầm, quay lại nắm lấy tay Phượng Tiên, xuýt xoa:
- Xước tay hả? Đưa anh xem nào!
Thôi Phượng Tiên gỡ tay ra, nói:
- Không hề gì, không sao đâu!
Nhưng Tư Mã Khố đã ngậm ngón tay Phượng Tiên mà mút chùn chụt. Phượng Tiên rên rỉ:
- Đồ quỉ hút máu!...
Tư Mã Khố nhả ngón tay Phượng Tiên ra, gắn đôi môi vào môi chị, hai tay chụp mạnh hai bầu vú chị. Phượng Tiên oằn người, chiếc làn tuột khỏi tay, những quả trứng nhuộm phẩm đỏ lăn lông lốc. Tư Mã Khố bế xốc Phượng Tiên đặt trên ván thiên của cỗ quan tài rộng như tấm phản... Tư Mã Khố trần như nhộng nằm trên nằm quan tài, mắt lim dim, đưa lưỡi liếm bộ ria lâu ngày không xén tỉa. Thôi Phượng Tiên vuốt ve những ngón tay như chuối mắn của anh ta rồi đột nhiên úp khuôn mặt nóng rực vào ngực, ngay chỗ xương mỏ ác phảng phất mùi đã thú. Chị cắn nhè nhẹ lên khắp ngực Tư Mã Khố, giọng tuyệt vọng:
- Anh là đồ quỉ sứ, lúc đắc thế thì chẳng ngó gì đến người ta. Giờ gặp vận đen thì cứ bắt người ta dính vào!... Em biết, người đàn bà nào gắn với anh đều không gặp vận may, vậy mà em không kiềm chế nổi, chỉ cần anh vẫy đuôi là em chạy theo như con chó cái!... Nói đi anh, con quỉ chết tiệt, anh có bùa phép gì mà đám phụ nữ bất chấp tất cả, thừa biết sẽ rơi xuống vục mà vẫn mở mắt nhảy xuống.
Tư Mã Khố có vẻ xót xa nhưng vẫn mỉm cười, kéo bàn tay Phượng Tiên đặt vào ngực mình, nơi có trái tim đang dập, nói:
- Chính là cái này, trái tim, sự chân thành của tôi đối với phụ nữ! Thôi Phượng Tiên lắc đầu:
- Anh chỉ có một trái tim, vậy phải chia làm bao nhiêu phần?
- Dù chia làm bao nhiêu phần thì mỗi phần đều chân thành! Ngoài ra, còn ở cái này - Anh ta cười chớt nhả, kéo tay Phượng Tiên xuống phía dưới.
Phượng Tiên giằng tay ra, đặt ngón tay trên môi Tư Mã Khố, nói:
- Cái quái vật của anh thì có bùa phép gì, bị người ta dồn đuổi phải ngủ trong nhà của người chết mà còn làm chuyện ma mãnh! Tư Mã Khố cười:
- Càng phải như vậy chứ, đàn bà là thứ ngon lành, là của quí trong những của quí! Anh ta vừa nói vừa vuốt ve hai bầu vú của Phượng Tiên. Phượng Tiên nói:
- Trời đất, ở nhà xảy ra chuyện tày đình rồi!
Tư Mã Khố hỏi:
- Chuyện gì? Thôi Phượng Tiên nói:
- Mẹ vợ anh, chị vợ em vợ anh, con trai anh, em trai của vợ anh, rồi hai đứa con gái của chị Cả và dì Năm, rồi anh trai anh, đều bị bắt giam trong nhà anh, ngày nào cũng treo lên xà nhà, đánh bằng roi, bằng gậy... Thảm lắm? Chỉ e chẳng được mấy bữa họ chết hết!
Bàn tay Tư Mã Khố hóa đá ngay trên ngực Phượng Tiên. Anh ta nhảy từ nắp quan tài xuống, xách súng định chui ra ngoài. Thôi Phượng Tiên ôm ngang lưng anh ta, nài nỉ:
- Anh định tìm cái chết hay sao?
Tư Mã Khố trấn tĩnh lại, ngồi xuống ăn một quả trúng gà luộc. ánh nắng lọt qua bụi gai chiếu trên cái cằm bạnh ra và bên tóc mai đã đốm bạc. Lòng đỏ trứng tắc nghẹn trong họng, anh ta húng hắng ho, mặt đỏ gắt. Phượng Tiên dấm lưng cho anh, vuốt họng cho anh hồi lâu mới hết nghẹn. Phượng Tiên mặt đầy mồ hôi, vừa thở vừa nói:
- Cha mẹ ơi, sợ quá đi mất!
Hai giọt nước mắt to tướng lăn trên gò má Tư Mã Khố, anh ta nhảy dựng lên, suýt nữa đầu chạm nóc hầm, ánh căm thù lóe lên trong mắt.
- Bọn khốn kiếp, tao phải lột da chúng mày! - Anh gầm lên.
- Anh yêu, anh đừng đi! - Phượng Tiên ôm chặt anh, khuyên - Ngay đàn bà như chúng em còn biết đó là gian kế! Anh thử nghĩ, anh đơn thương độc mã đến đó, chắc chắn bị mai phục!
- Em bảo anh làm thế nào bây giờ?
Nghe lời khuyên của mẹ vợ anh, đi thật xa. Nếu anh không sợ em quẩn chân thì em tình nguyện đi cùng anh, đi nát gót chân em cũng không hối tiếc!
Tư Mã Khố nắm chặt tay Phượng Tiên, cảm động nói:
- Tư Mã Khố này thật có phúc mới gặp được người như em, tốt mọi mặt, hết lòng hết dạ vì anh, ở đời còn mong gì hơn thế? Nhưng anh không muốn làm hại em hơn nữa. Phượng Tiên, em về đi, và đừng bao giờ gặp anh nữa? Khi được tin anh chết, em không được buồn. Anh sống đủ rồi, đáng chết lắm rồi!
Thôi Phượng Tiên nước mắt chan hòa, gật đầu lia lịa. Chị lấy chiếc lược sừng giắt trên mái tóc, khẽ gỡ từng tí mái tóc hoa râm rối bù của Tư Mã Khố, nhặt ra rất nhiều hạt cỏ, vỏ hến và những con sâu nhỏ, rồi áp đôi môi ẩm ướt chị hôn lên những nếp nhăn trên trán anh, bình tĩnh nói:
- Em đợi anh!
Chị xách làn bước lên các bậc thang bằng gạch, rẽ gai chui ra khỏi phần mộ. Tư Mã Khố ngồi bất động, cho đến khi bóng chị đã khuất từ lâu, anh vẫn nhìn không chớp vào cành cây đung dua trong tia nắng.
Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố để lại súng ống đạn được trong hầm mộ, anh đi ra bờ hồ Bạch Mã tắm rửa sạch sẽ, rồi như một khách nhàn du anh đi dọc theo mép hồ nhìn ngắm mọi thứ, lúc dừng lại đối thoại với lũ chim, lúc chạy thi với con thỏ bên đường. Anh men theo bờ đầm, hái một bó hoa dại cả trắng lẫn đỏ, đưa lên mũi ngửi một cách thèm khát, rồi anh đi vòng đến bên rìa nghĩa trang, ngó sang ngọn núi Trâu Nằm vàng rục dưới nắng. Anh nhảy nhảy trên cầu đá bắc qua sông Mực, tựa hồ muốn thử xem cầu còn chắc hay không. Chiếc cầu rung rinh, kêu cót két. Cặp mắt đen như mờ đi vì sung sướng, ánh mắt dịu dàng như ánh ngọc, thật phong tình, thật trong sáng? Anh nghịch ngợm thò tay vào sờ nắn cái ấy trong đũng quần, ngắm nghía nó mà thở dài, rồi đái một bãi xuống dòng sông Mực. Cùng với tiếng nước tiểu róc rách, anh cất tiếng hét thật to: A... a...a... tiếng ngân trải dài trên cánh đồng mênh mông. Trên đê, một trẻ chăn dê vụt một tiếng roi rõ kêu khiến Tư Mã Khố chú ý. Anh ngoảnh lại nhìn thằng nhỏ, thằng nhỏ cũng nhìn lại anh. Hai luồng mắt gặp nhau rồi đọng lại thành hai nụ cười trên mặt. Tư Mã Khố cười hì hì, nói:
- Ta biết cháu, hai chân bằng gỗ lê, hai tay bằng gỗ hạnh, ta và mẹ cháu lấy đất nặn chim cho cháu!
Thằng bé chăn dê cả giận, chửi:
- Đ. mẹ ông?
Câu chửi rất bậy khiến Tư Mã Khố trong lòng rộn lên, mắt ướt đẫm, vô cùng cảm khái. Thằng bé chăn dê vung roi đuổi con dê đi chỗ khác. Nắng chiều nhuốm đỏ khuôn mặt nó. Bóng nó đồ dài trên mặt đất. Nó cất giọng trong như ngọc mà hát rằng:
- Năm một chín ba bảy, Nhật tiến vào Trung nguyên. Chiếm Lư Cầu Kiều. Chiếm Sơn Hải Quan. Đường sắt kéo dài đến Tế Nam. Giặc bắn pháo, Bát lộ quân bắn súng trường, ngắm thật chuẩn, bắn chết thằng sĩ quan, hai chân duỗi thẳng, nó về Tây Thiên!... Khúc hát chưa dứt, Tư Mã Khố đã ứa nước mắt, anh bưng mặt ngồi thụp trên cầu...
Sau đó anh xuống sông rửa sạch ngấn nước mắt trên mặt, gột sạch bùn đất trên người, chậm rãi đi theo bờ đê nở đầy hoa dại. Tiếng chim kêu lúc hoàng hôn nghe buồn thảm, các màu sắc nhòa vào nhau, mùi hoa dại hoặc nồng hoặc thoang thoảng khiến Tư Mã Khố như mê đi, mùi cỏ dại hoặc đắng hoặc cay khiến anh tỉnh lại. Đất trời mênh mang, nghìn năm chỉ một chớp mắt, anh nghĩ mà đau! Mặt đê, trên lối đi con trạch, rất nhiều châu chấu đang đẻ trứng, cắm bụng trong đất, người dưới thẳng, đau đớn trong hạnh phúc. Tư Mã Khố ngồi xuống lôi một con châu chấu lên, ngắm cái vòi lủng lẳng như một đoạn ruột của nó, lập tức nhớ lại thời niên thiếu của anh, lập tức nhớ lại mối tình đầu với một cô gái má trắng môi son. Anh thích nhất là cọ mũi trên bầu vú của cô ta...
Thôn trấn đã ở trước mặt, khói bếp lan tỏa, hơi người nồng đậm. Anh ngắt một bông cúc vàng đưa lên mũi ngủi, gạt bỏ những tạp niệm riêng tư, chấn những ý đồ ngang trái, nhằm hướng cổng xép phía nam nhà mình đàng hoàng tới. Đám dân quân nấp phía sau cổng xép nhảy ra, lên đạn rộp rộp, quát to:
- Đứng lại, không được vào!
Tư Mã Khố điềm nhiên như không:
- Đây là nhà của tôi?
Lính gác sững người, quẳng súng la rầm lên:
- Tư Mã Khố dây này, Tư Mã Khố đây này! Tư Mã Khố khinh bỉ nhìn bọn dân quân, cằn nhằn:
- Sao lại bỏ chạy, đúng là...!
Anh ta vừa ngửi bông hoa vàng vừa bước vào cổng xép miệng hát một đoạn trong bài ca chống Nhật, phong thái ung dung, nhưng anh bị sa xuống cái hố đào sẵn để bẫy anh ngay trước cổng. Một đám đông binh sĩ của Cục Công an huyện ngày đêm phục kích ở vạt ruộng trước cổng ùa tới, mấy chục họng súng đen ngòm cùng chĩa xuống Tư Mã Khố ở dưới hố. Một mũi chông cắm dưới hố xuyên suốt qua bàn chân của anh. Anh đau đến nỗi miệng méo xệch, chửi:
- Đồ con nít, chẳng ra thể thống gì cả! Ta về tự thú mà lại dùng bẫy lợn rừng để bẫy ta?
Trưởng phòng trinh sát Cục Công an kéo Tư Mã Khố từ dưới hố lên, còng tay anh lại.
Tư Mã Khố nói:
- Thả hết những người nhà Thượng Quan ra! Tội ai nấy chịu!
35
Nghe nói để đáp ứng yêu cầu bức thiết của nhân dân vùng đông bắc Cao Mật, phiên tòa xử Tư Mã Khố sẽ thiết lập tại địa điểm Bác-bít chiếu phim lần đầu. Đây chính là sân phơi của nhà Tư Mã, trên sân vẫn còn cái bục đất, dấu vết thời Lỗ Lập Nhân làm cải cách ruộng đất. Để đón tiếp Tư Mã Khố, cán bộ khu huy động dân quân có vũ trang đốt đuốc làm suốt đêm đào mấy trăm khối đất, đập một cái đài cao hơn mặt đê sông Thuồng Luồng, đào một rãnh sâu hình chữ U ở mặt trước và hai bên đài, rãnh đầy nước do bên ngoài thấm vào. Cán bộ khu còn trích từ quĩ đặc biệt một khoản tiền làm tương đương với một tấn gạo, đi ba mươi cây số mua về hai xe chiếu cói dày, màu vàng rơm, dụng trước đài một căn nhà quây bốn bên bằng chiếu cói dán đầy những tấm áp phích lời lẽ khi thì nghiến răng nghiến lợi, khi thì vui sướng điên cuồng. Số chiếu còn thừa thì trải trên nền đài và treo kín bốn ta luy. Trưởng khu tháp tùng huyện trưởng đến xem xét địa điểm phiên tòa. Họ đứng trên đài cao, chân giẫm lên mặt chiếu trơn nhẵn, gió lạnh từ phía sông thổi phồng ống tay áo và ống quần như những khúc dồi lợn khổng lồ. Huyện trưởng xoa xoa cái mũi đỏ tía, lớn tiếng hỏi trưởng khu đứng phía sau:
- Kiệt tác của ai đây?
Trưởng khu chưa rõ huyện trưởng hỏi như vậy là có ý châm biếm hay là lời khen, bèn nói úp mở:
- Tôi tham gia thiết kế, còn chủ yếu là anh ta thực hiện - Trưởng khu chỉ anh cán sự tuyên truyền đứng phía sau.
Huyện trưởng nhìn một thoáng anh cán sự tuyên truyền mặt mày tươi tỉnh gật đầu, hạ giọng nói khẽ nhưng cũng đủ cho người đằng sau nghe thấy:
- Đây đâu phải là phiên tòa, chẳng khác lễ đăng quang của nhà vua?
Phiên tòa quyết định vào buổi sáng ngày mồng Tám tháng Chạp. Những người hiếu kỳ dậy từ nửa đêm, đội trăng đội sao từ làng trên xóm dưới kéo về bãi xử. Trời tờ mờ sáng, bãi đất trống đã dầy đặc những người là người, trên đê Thuồng Luồng, người ta cũng đứng ken nhau như một hàng rào. Mặt trời uể oải nhô lên, nhuốm hồng những cặp lông mi và những bộ ria bám đầy băng, nhuốm hồng những làn hơi thở trăng xóa. Mọi người quên bẵng hôm nay là ngày ăn cháo lạp chúc, nhưng nhà tôi thì không quên. Mẹ giả vờ hăng hái để chúng tôi vui lây nhưng tiếng khóc thút thít của Tư Mã Lương khiến chúng tôi chẳng còn bụng dạ nào nữa. Chị Tám như một bà cụ non, lấy miếng bọt biển lau hai dòng nước mắt cho nó. Nó khóc không thành tiếng, nhưng như thế còn xót xa hơn gào khóc. Chị Cả bám sau mẹ đang tất bật, luôn miệng hỏi:
- Mẹ, anh ấy chết, con có phải tuẫn tiết không?
Mẹ mắng:
- Điên à, ngay dù cưới xin hẳn hoi, cũng không phải tuẫn tiết?
Chị Cả hỏi đến lần thứ mười hai, mẹ mất hết kiên nhẫn, mắng té tát:
- Lai Đệ, con không biết xấu hổ sao? Con với nó chẳng qua là em rể tòm tem với chị vợ chuyện xấu xa chứ hay gì!
Chị Cả sững người nói:
- Mẹ, mẹ khác trước rồi!
Mẹ nói:
- Tao khác trước mà cũng không khác. Mười mấy năm nay, người nhà Thượng Quan chúng ta như những cây hẹ, búi tàn úa búi mọc lên, có sống ắt có chết, chết thì dễ, sống mới khó, càng khó càng phải sống! Càng không sợ chết lại càng phải cố mà sống! Mẹ phải nhìn thấy cái ngày con cháu mẹ mở mày mở mặt với đời!
Mắt mẹ mọng nước, nhưng ánh mắt thì rục lửa, nhìn chúng tôi khắp lượt, cuối cùng đọng lại trên mặt tôi như ký thác niềm hy vọng lớn nhất ở tôi. Tôi cảm thấy vô cùng hoang mang vì tôi chẳng có ưu điểm nào cả, ngoại trừ khả năng học thuộc lòng ttương đối nhanh bài khóa và hát tương đối chuẩn bài Phụ nữ giải phóng ca. Tôi hay khóc, dút dát, nhu nhược, chẳng khác một con cừu đực bị thiến!
Mẹ bảo:
- Thu xếp mau lên, đi tiễn anh ta một tí! Anh ta là đồ đốn mạt, nhưng cũng là trang hảo hán! Những người như vậy, trước đây cứ khoảng mươi năm lại có một người. Từ nay về sau chắc là tuyệt chủng.
Cả nhà tôi đứng trên đê. Những người xung quanh đều né tránh chúng tôi. Rất nhiều ánh mắt nhìn trộm chúng tôi. Tư Mã Lương còn định chen lên, nhưng mẹ nắm cánh tay nó, nói:
- Thôi con, đứng xa mà nhìn cũng được. Gần quá, cha con sẽ bị phân tâm?
Mặt trời lên đến hai con sào thì có mấy chiếc xe hơi thận trọng qua cầu Thuồng Luồng chạy tới chỗ thân đê bị sụt trên xe là các binh sĩ đầu đội mũ sắt, ôm tiểu liên; nét mặt nghiêm trang như sắp xung trận. Xe chạy đến chân đài thì dừng lại, binh sĩ từng đôi nhảy xuống và lập tức triển khai thành vòng cung bao vây lấy khán đài. Cuối cùng, hai binh sĩ chui ra khỏi ca bin, mở nắp sau của xe đẩy Tư Mã Khố xuống. Tư Mã Khố hai tay bị còng, ngã lăn ra nhưng lập tức bị hai binh sĩ cao lớn xốc nách đừng dậy, tập tễnh đến trước căn nhà, máu thấm từng mỗi dấu chân, rồi bước lên khán đài. Sau này một số người nói lại rằng, khi chưa trông thấy Tư Mã Khố, họ cứ nghĩ anh ta phải là một quái vật mặt xanh nanh vàng, nửa người nửa thú, nhưng khi trông thấy anh ta, họ cảm thấy hơi thất vọng. Người đàn ông trung niên đầu bị cạo trọc này có cặp mắt to buồn buồn, hoàn toàn không có vẻ hung dữ, trái lại, còn tỏ ra chất phác, trung hậu, khiến mọi người ngờ rằng công an đã bắt lầm người khác.
Phiên tòa được tiến hành rất nhanh. Quan tòa đọc tội trạng của Tư Mã Khố, rồi tuyên án tử hình. Quần chúng nhốn nháo, người đang ngồi thì đứng dậy, người đang đứng thì chen lấn nhau lên phía trước. Mấy vệ binh giải Tư Mã Khố xuống dưới dài, họ khuất sau căn nhà quây bằng chiếu rồi xuất hiện ở đầu nhà phía đông. Tư Mã Khố bước đi tập tễnh, khiến hai người xốc nách anh ta bước chân quýnh cả lên. Đến bờ đầm, nơi diễn ra những vụ hành quyết nổi tiếng, họ dừng lại. Tư Mã Khố quay mặt nhìn lên đê. Có thể anh nhìn thấy chúng tôi, cũng có thể không nhìn thấy. Tư Mã Lương vừa buột miệng kêu bố ơi thì đã bị mẹ bịt chặt miệng, ghé sát tai dỗ dành:
- Lương con, nghe lời ngoại, con đừng làm ầm lên! Ngoại biết con đau xót lắm, nhưng cái chính là con đừng làm cho bố con bối rối, để bố con ra đi thanh thản!
Lên khuyên của mẹ như có phép lạ khiến Tư Mã Lương thoắt cái trở lại hiền lành như con cừu non. Hai binh sĩ to lớn nắm vai Tư Mã Khố, cố sức xoay người anh lại, quay mặt về phía đầm. Nước trong đầm tù đọng hàng mấy chục năm, xanh màu vỏ chanh, mặt nước phản chiếu khuôn mặt tiều tụy và vết rách do dao cạo trên má. Lưng quay về đội hành quyết, mặt hướng ra đầm, bao nhiêu khuôn mặt đàn bà hiện trên mặt nước, bao nhiêu mùi thơm của người đàn bà lan tỏa mặt đầm, anh bỗng thấy mình trở nên ủy mị, trong lòng đang êm ả bỗng nổi cồn sóng gió. Anh quay phắt lại và bằng cái giọng khiến viên Trưởng phòng Tư pháp Cục Công an và những tên đao phủ giết người không chớp mắt sợ tái mặt:
- Tôi không thể để các ông bắn tù phía sau!
Trước mặt những tên đao phủ mà tên nào cũng ngây ngô đần độn, Tư Mã Khố cảm thấy vết xước trên má bỏng rát. Vết đứt trên má khiến Tư Mã Khố giận điên lên, những chuyện hôm qua trở lại trong ký ức anh. Viên chấp pháp đến thông báo cho anh về án tử hình, anh vui vẻ chấp thuận. Viên chấp pháp hỏi anh có yêu cầu gì không, anh sờ râu ria trên mặt tua tủa như lông nhím, nói:
- Xin cho một thợ đến giúp tôi sửa sang râu tóc một tí? Viên chấp pháp nói:
- Tôi sẽ báo cáo với lãnh đạo!
Ông thợ cắt tóc xách chiếc hòm gỗ, rụt rè bước vào phòng giam tù tử hình. Chân tay run lẩy bẩy, ông ta cạo trọc đầu Tư Mã Khố, rồi cạo râu cho anh. Cạo được một bên, ông ta làm đứt má, chảy máu. Tư Mã Khố gầm lên một tiếng khiến ông thợ cắt tóc bỏ chạy nấp sau hai lính gác.
- Tóc thằng cha này cứng hơn lông gáy lợn! - Ông thợ cắt tóc giơ lưỡi dao cạo cho hai người lính gác xem - Lưỡi mẻ hết cả? Râu hắn càng cứng hơn, như cái bàn chải bằng dây thép. Vậy mà hắn còn vận nội công lên râu?
Ông thợ cắt tóc thu dọn đồ nghề định ra về, Tư Mã Khố chấn: - Đ. mẹ, sao lại thế hả? Định để ta ra mắt bà con với nửa bộ râu này hả?
- Thằng tử tù, râu đã cứng mà còn vận nội công! - Ông thợ cắt tóc chửi.
Tư Mã Khố cười dở mếu dở, nói:
- Con ơi, trăm dâu đổ đầu tằm, ta có biết vận nội công là thế nào đâu?
- Anh cứ nghiến răng ken két, không vận nội công thì là gì? - Ông thợ cắt tóc nói - tôi có điếc đâu!
- Thằng khốn, đó là vì ta đau quá!
Người lính gác bảo:
- Sư phụ, ai lại thế! Ông chịu khó cạo nốt cho người ta!
Ông thợ cạo nói: - Tôi cạo không được, các ông đi tìm người khác!
Tư Mã Khố thở dài:
- Đ. mẹ, trên đời lại có loại người như vậy? Này người anh em - anh ta nói với người lính gác - Mở còng cho tôi, tôi sẽ cạo lấy vậy?
Người lính gác kiên quyết:
- Không được! Nhân đó ông hành hung, chạy trốn hoặc tự sát thì trách nhiệm đổ lên đầu chúng tôi!
Tư Mã Khố chửi:
- Đ. mẹ các ông, gọi một quan chức đến đây! - Tư Mã Khố dập còng vào chấn song sắt loảng xoảng.
Một nữ cán bộ công an chạy vào, hỏi:
- Tư Mã Khố, gì mà làm ầm lên vậy?
Tư Mã Khố nói: - Nhìn bộ râu tôi đây này, cạo một nửa rồi không cạo nữa, cái lý ở đâu thế?
- Chẳng có lý nào như thế cả - Chị ta vỗ vai ông thợ cắt tóc hỏi - Sao không cạo nốt cho anh ta?
- Râu cứng quá, lại còn vận nội công lên râu nữa chứ!
- Đ. cụ anh, lại còn nói ta vận nội công!
Ông thợ cắt tóc giơ lưỡi dao mẻ ra để thanh minh. Tư Mã Khố nói:
- Bạn ơi, bạn có dám bạo gan một lần không? Mở còng cho tôi, tôi cạo lấy, đây là đề nghị cuối cùng của đời tôi?
Người cán bộ công an này đã từng tham gia vây bắt Tư Mã Khố. Chị do dự một thoáng rồi bảo:
- Mở còng cho anh ta.
Người lính gác run run mở còng cho Tư Mã Khố rồi vội vàng né sang một bên. Tư Mã Khố xoa bóp hai cổ tay rồi chìa tay ra. Chị cán bộ công an nhận con dao từ tay ông thợ cạo rồi đưa cho Tư Mã Khố.
Tư Mã Khố đón lấy con dao cạo, nhìn thẳng vào đôi mắt đen láy ẩn sau cặp lông mày rậm của chị cán bộ công an, giọng cảm kích:
- Chị không sợ tôi hành hung, chạy trốn hoặc tự sát hay sao?
Chị công an cười:
- Nếu vậy thì không phải là Tư Mã Khố!
Tư Mã Khố thở dài: - Không ngờ người hiểu ta hơn cả lại là phụ nữ!
Chị công an mỉm cười khinh miệt.
Tư Mã Khố thèm thuồng nhìn đôi môi cương nghị của chị công an, lại nhìn rất lâu bộ ngực nhô cao sau lần áo quân phục màu vàng, nói:
- Này cô em, vú cô không nhỏ chút nào!
Chị công an cắn môi, thẹn quá hóa giận, mắng:
- Quân đạo tặc chết đến nơi còn nghĩ lung tung!
Tư Mã Khố nói nghiêm chỉnh: - Cô em, tôi đã đ. không biết bao nhiêu phụ nữ, chỉ tiếc rằng cho đến nay vẫn chưa đ. được một nữ đảng viên Cộng sản!
Chị nữ công an giận dữ đánh Tư Mã Khố một bạt tai. Cái tát mạnh đến nỗi bụi trên xà nhà rơi xuống. Nhưng Tư Mã Khố vẫn cười, thản nhiên như không:
- Tôi có cô em vợ là đảng viên Cộng sản, lập trường kiên quyết, vú vê đồ sộ. Tôi ôm lấy cô ta và bảo: Dì ơi, cho anh mần dì nhé! Cô ta bảo: Này anh rể, mỡ này không đến miệng mèo được đâu!
Chị công an mặt đỏ như gấc, nhổ nước bọt vào mặt Tư Mã Khố, khẽ chửi:
- Đồ chó dái, bà thì thiến nhà ngươi!
...
Tiếng kêu gào của Tư Mã Đình bứt Tư Mã Khố ra khỏi những hồi ức ngọt ngào. Anh trông thấy mấy dân quân sắc mặt hầm hầm xốc nách anh trai, rẽ đám đông đi tới.
- Oan quá, oan quá? Tôi là người có công, tôi cắt đứt quan hệ với nó từ lâu...
Tư Mã Đình kể lể, nhưng không ai thèm nghe. Tư Mã Khố thở dài, trong lòng cảm thấy bứt rút. Quả thực đây là một con người trung hậu, tuy có ác khẩu đôi chút, nhưng vấn đề then chốt là lúc nào cũng hướng về em trai. Tư Mã Khố nhớ lại cái lần lên huyện cách đây đã nhiều năm, khi anh mới lớn, theo anh trai đi thu nợ. Qua ngõ nhà thổ, anh trai bị một đám son phấn lòe loẹt kéo vào. Khi trở ra thì túi đã rỗng tuếch. Anh trai nói:
- Em này, về nói với bố là chúng mình bị cướp!
Một bận khác, hình như vào dịp trung thu thì phải, anh rượu say vào mới đến nhà vợ, bị kẻ nào đó lột sạch quần áo treo lên cây hòe.
- Em cứu anh mấy, cởi dây cho anh! Đầu anh chảy máu.
Tư Mã Khố hỏi:
- Anh sao thế?
Lúc đó anh sao mà hài hước, anh nói:
- Em ơi, đầu bé khoan khoái, đầu to oan trái?...
Tư Mã Đình chân mềm nhũn đứng không vững.
Một cán bộ thôn hỏi dồn:
- Tư Mã Đình, kho báu nhà Phúc Sinh Đường chôn ở đâu? Không nói thì cho đi theo thằng kia?
- Chẳng có kho nào cả, hồi cải cách ruộng đát đã đào hết lượt sâu ba thước rồi! - Anh trai cố thanh minh một cách thảm hại.
Tư Mã Khố cười:
- Anh đừng la toáng lên như thế!
Tư Mã Đình chửi: - Tất cả là cái thằng khốn kiếp này hại tôi!
Tư Mã Khố lắc đầu cười đau khổ. Một cán bộ công an tay đỡ khẩu súng bên hông, khiển trách cán bộ thôn:
- Chỉ bậy, giải đi, chẳng hiểu gì về chính sách cả?
Cán bộ thôn nói:
- Bọn tôi nhân tiện thì khai thác thêm đó thôi! - Anh ta vừa nói vừa kéo Tư Mã Đình đi.
Viên giám quan giơ ngọn cờ bé tí lên, hô sang sảng:
- Chuẩn bị...
Các tay súng nâng súng lên, đợi khẩu lệnh cuối cùng. Tư Mã Khố nhìn những họng súng đen ngòm, trên mặt thoáng một nét cười băng giá. Một đạo hồng quang sáng rục trên đê, mùi đàn bà trùm lên tất cả. Tư Mã Khố la to:
- Ôi đàn bà mới là những người tốt nhất trên đời!
Đám đông đứng lặng như trời trồng. Lời hô của Tư Mã Khố tuy không hùng tráng nhưng nó lại xoáy vào tâm khảm mọi nói. Đàn bà có tốt không? Có lẽ đàn bà là những người tốt, quả thực đàn bà là những người tốt. Nhưng suy cho cùng, đàn bà là những người không tốt! Liền sau đó là tiếng nổ đùng đục, đầu Tư Mã Khố vỡ toác như cái gáo bị dập bể, máu trộn với óc bắn tung tóe. Lúc này, y hệt vở kịch đến đoạn cao trào trước khi hạ màn, thiếu phụ góa chồng Thôi Phượng Tiên, áo lụa hồng, quần đoạn xanh, trên đầu cài bông hoa đỗ quyên màu vàng kim, từ trên đê chạy ào xuống phủ phục bên cái xác Tư Mã Khố. Tôi nghĩ rằng chị sẽ ôm lấy Tư Mã Khố mà gào khóc, nhưng không phải. Có lẽ cái đầu vỡ toác khiến chị khiếp đảm. Chị móc cái kéo giắt bên mình ra, tôi nghĩ rằng chị sẽ tự dâm vào ngực để cùng chết với Tư Mã Khố, nhưng cũng không phải. Trước những cặp mắt nhìn chăm chú của đám đông, chị thọc lút kéo vào giữa ngực cái xác, rồi hai tay ôm mặt, chị vừa kêu gào vừa bỏ chạy.
36
Hôm Kim Đồng vừa tròn mười tám tuổi, chị Phán Đệ ép Lỗ Thắng Lợi phải đi với chị.
Sau khi Thăng Lợi đi rồi, Kim Đồng ngồi một mình trên đê, buồn bã nhìn những con chim én chao cánh trên mặt sông. Sa Tảo Hoa từ một bụi rậm chui ra, tặng Kim Đồng một chiếc gương nhỏ làm quà sinh nhật. Con nhỏ da nâu này ngực đã nhô cao, cặp mắt hơi hiếng, đen láy như hai, viên đá quạ dưới lòng sông. Kim Đồng bảo:
- Giữ lại để tặng cho Tư Mã Lương.
Sa Tảo Hoa lôi trong bọc ra một chiếc gương nữa to bằng cái đĩa, nói:
- Cái này là để tặng anh ấy! Cái gương phản chiếu ánh nắng lên bức tường sơn đen trông như tường chảy mỡ.
- Mày làm gì mà có nhiều tiền thế?
- Cháu ăn trộm ở Hợp tác xã cung tiêu - nó nói khẽ - Cậu nhất thiết không được cho ngoại biết nhé, cháu có quen một kẻ cắp siêu hạng ở trên chợ đồ dùng gia đình. Anh ta thu nhận cháu làm đồ đệ. Cậu ạ, cháu chưa học được nghề, khi nào có nghề, cậu thích cái gì cháu ăn trộm cho cậu cái đó. Sư phụ cháu lấy trộm được cả răng vàng trong miệng, đồng hồ trên tay các cố vấn Liên Xô nữa kia!
- Trời ơi, thế là phạm tội đấy!
Sa Tảo Hoa lại nói:
- Sư phụ cháu có nói, mèo tha miếng mỡ thì đuổi, hổ tha con lợn thì lại cho qua! Cậu học xong tiểu học nhưng trung học thì không đến phần mình, chẳng thà học nghề ăn cắp với cháu lại hóa hay!
Ra vẻ thông thạo, nó cầm những ngón tay Kim Đồng lên ngắm nghía, nói:
- Ngón tay cậu thon và mềm mại, chắc chắn học được!
- Không, tao không học, tao nhát lắm? - Kim Đồng nói - Tư Mã Lương bạo gan mà tỉ mỉ, nó chắc chắn là học được, đợi nó về học cùng với cháu.
Sa Tảo Hoa cất cái gương vào bọc, rên rỉ như một thiếu phụ:
- Anh Lương ơi là anh Lương, khi nào thì anh trở lại!
Tư Mã Lương đã biến mất cách đây năm năm, trong đêm thứ hai sau khi chôn cất Tư Mã Khố. Đêm ấy gió đông bắc ào ào lạnh thấu xương, chum chĩnh trong sân rên rỉ. Chúng tôi ngồi lặng trước ngọn đèn dầu. Đèn tắt, chúng tôi yên trong bóng tối, không ai nói một tiếng, mọi người đang nhớ lại cảnh tượng chôn cất Tư Mã Khố. Không có quan tài, chúng tôi bó anh trong một chiếc chiếu như người ta cuộn bánh tráng, bên ngoài cuốn mươi mấy vòng dây thừng. Hơn chục người khiêng xác anh ra ngoài nghĩa trang, đào một hố sâu rồi chôn anh ở đó. Khi nấm mồ đắp xong, Tư Mã Lương quì xuống lạy một lạy. Nó không khóc, trên khuôn mặt bé nhỏ của nó đã xuất hiện một số nếp nhăn. Tôi rất muốn an ủi nó, nhưng nghĩ mãi mà không biết nên nói thế nào. Trên đường về, nó nói nhỏ với tôi:
- Cậu ạ, cháu sẽ đi!
- Lương định đi đâu bây giờ? - Tôi hỏi.
Nó đáp:
- Cháu cũng không biết nữa!
Khi gió thổi tắt đèn, tôi bàng hoàng trông thấy một bóng đen lủi đi, biết đó là Tư Mã Lương, nhưng tôi không nói gì. Tư Mã Lương đã biến mất. Mẹ kéo lê cây sào dài, đi tìm tất cả những giếng cạn và hồ ao. Tôi biết đó là một công việc vô bổ, Tư Mã Lương không đời nào tự tử. Mẹ nhờ người đi hỏi thăm khắp nơi, nhận được toàn những tin trái ngược. Có người bảo trông thấy nó trong một đoàn xiếc rong, có người nói trông thấy cái xác của một đứa con trai ở ven hồ, mặt mũi không thể nhận ra vì bị quạ rỉa. Một toán dân công từ đông bắc trở về thì nói chắc như đanh đóng cột rằng, có gặp nó ở gần cầu sông áp Lục. Khi ấy đang có cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên, máy bay Mỹ ngày đêm bắn phá cầu cống...
Vì có cái gương của Sa Tảo Hoa, lần đầu tiên tôi nhìn rõ khuôn mặt mình. Tôi đã mười tám tuổi, mái tóc vàng rực, hai vành tai đầy đặn, trắng nõn, lông mày vàng như tiểu mạch chín, lông mi vàng rộm soi bóng trong cặp mắt xanh biếc. Mũi cao, môi đỏ như son, lông ngực từng mảng rậm. Thực ra, qua chị Tám, tôi cũng đoán ra mình không giống mọi người. Tôi đau xót khi nhận ra rằng, cha đẻ ra tôi, dứt khoát không phải Thượng Quan Thọ Hỷ, mà như người ta vẫn nói vụng sau lưng: Chúng tôi là con riêng của mục sư Malôa, lai một trăm phần trăm. ý thức về sự hèn kém bám chặt lấy trái tim tôi. Tôi lấy mực đen nhuộm tóc, bôi đen mặt, còn con mắt thì không làm cách nào thay đổi được màu sắc, tôi chỉ tiếc là không thể móc bỏ được chúng đi. Tôi nhớ đến chuyện nuốt vàng tự tử bèn lục lọi trong hộp trang sức của chị Lai Đệ, lấy chiếc nhẫn vàng từ thời Sa Nguyệt Lượng, nuốt chửng và lên giường năm đợi chết. Chị Tám mò mẫm quay sợi ở góc giường. Mẹ đi làm Hợp tác xã về thấy bộ dạng của tôi vô cùng kinh hoảng. Tôi nghĩ rằng mẹ sẽ xấu hổ, không ngờ mẹ lại nổi trận lôi đình. Mẹ túm tóc đánh tôi tám bạt tai. Tôi bị chảy máu răng, tai ù đi, mắt nổ đom đóm. Mẹ nói:
- Hoàn toàn đúng, cha đẻ chúng mày là mục sư Malôa! Vậy thì sao nào? Dậy mà rửa mặt, gội đầu cho sạch, rồi ưỡn ngực mà nói rằng: Bố tôi là mục sư Malôa, người Thụy Điển, là hậu duệ của quí tộc, cao quí hơn nhiều cái giống nghêu sò ốc hến nhà các người!
Khi mẹ đánh tôi, chị Tám vẫn ngồi thản nhiên quay sợi, làm như chuyện này không liên quan gì đến chị. Tôi khóc sụt sịt, rửa mặt trong chậu gốm, nước trong chậu lập tức đen kịt. Mẹ đứng sau tôi, miệng vẫn chửi lảm nhảm, nhưng tôi biết không phải mẹ chửi tôi. Rồi mẹ lấy gáo múc nước sạch gội đầu cho tôi, mẹ khóc tấm tức. Dòng nước từ trên đầu chảy xuống cứ trong dần. Mẹ lấy khăn mặt lau đầu cho tôi, vừa lau vừa nói:
- Con ơi, ngày ấy mẹ cũng không còn cách nào khác! Nhưng trời đã sinh ra con thì con phải nhìn thẳng vào sự việc. Con đã mười tám tuổi, là một người đàn ông rồi, Tư Mã Khố dù trăm xấu nghìn xa, nhưng vẫn dáng mặt là một thằng đàn ông, con phải học tập nó?
Tôi gật đầu hứa với mẹ, nhưng lập tức nghĩ ngay đến chuyện nuốt vàng. Tôi định thú thực với mẹ thì thấy chị Lai Đệ vừa thở vừa chạy về. Chị là công nhân nhà máy diêm của khu, chiếc tạp đề chị đang mặc có dòng chữ
Nhà máy diêm ánh Sao khu Đại Lan. Chị hốt hoảng bảo mẹ:
- Mẹ, nó về rồi!
Mẹ hỏi: - Đứa nào về?
- Thằng Câm - chị nói.
Mẹ lấy khăn mặt lau tay, buồn rầu nhìn chị Cả, nói:
- Con ơi! có lẽ số kiếp nó thế!
Thằng Câm đi vào nhà tôi bằng cách đặc biệt của hắn. Mấy năm không gặp, trông hắn có già đi, mớ tóc hoa râm ló ra dưới vành mũ lính đội ngay ngắn. Đôi con ngươi vàng của hắn trông càng u tối, cái cằm rắn chắc chìa ra như chiếc lưỡi cày han gỉ. Hắn mặc chiếc áo quân phục mới tinh, thắt lưng rất chặt đúng quân phong quân kỷ. Trước ngực đeo một lô huy chương. Hai cánh tay dài quá khổ, bàn tay đeo găng trắng bằng vải bông lồng vào hai chiếc ghế nhỏ. Một đệm da gắn dưới đít, như là một bộ phận của mông. Hai ống quần rộng thùng thình buộc lại với nhau trước bụng. Hình như hai chân hắn cụt đến bẹn. Đó là toàn bộ chân dung của Thằng Câm xuất hiện trước mặt chúng tôi sau nhiều năm xa cách. Hai tay hắn tì trên hai ghế, nhích từng bước một, tấm đệm dưới đít thấp thoáng màu huyết dụ.
Sau năm cái nhích lên, hắn dừng lại cách chúng tôi khoảng ba thước rưỡi. Khoảng cách này đủ để giao lưu ánh mắt với chúng tôi mà không phải ngửa mặt lên. Nước bẩn gội đầu lan đến chỗ hắn, hắn chống tay lùi lại một tí. Nhìn hắn tôi mới hiểu rằng, chiều cao của người ta là do hai chân quyết định. Mất đi hai chân nửa người trên của Tôn Bất Ngôn càng đồ sộ. Con người này tuy còn có nửa người, nhưng vẫn tiềm ẩn một sức mạnh kinh người. Hắn giương mắt nhìn chúng tôi, một tình cảm phức tạp hiện rõ trên khuôn mặt xám ngoét, cái cằm rung rung như ngày xưa, lập bập mãi mới thốt được mấy tiếng: - Cởi cởi cởi! Hai giọt nước mắt trong suốt như pha lê ứa ra từ hốc mắt...
Hắn rút tay khỏi ghế, giơ lên cao làm điệu bộ, miệng vẫn: Cởi, cởi, cởi! Tôi lập tức đoán rằng, hắn hỏi thăm Câm anh và Câm em, vì từ khi đi chuyển lên đông bắc, chúng tôi chưa gặp lại hắn lần nào. Mẹ dùng khăn che mặt, vừa khóc vừa chạy vào trong nhà, Thằng Câm đã hiểu ra, hắn gục đầu xuống ngực.
Mẹ cầm ra hai chiếc mũ quả dưa nhỏ vấy máu đưa cho tôi, ra hiệu chuyển cho hắn. Tôi quên bẵng chiếc nhẫn trong bụng, đi tới trước mặt hắn. Hắn ngửa mặt nhìn thân hình cao như cây sào của tôi, buồn bã lắc đầu. Tôi cúi xuống, nhưng thấy vậy bất tiện, liền ngồi xuống đưa hai chiếc mũ cho hắn, rồi chỉ tay về quảng đông bắc. Tôi nhớ lại chuyến đi bi thảm ngày ấy, nhớ lại tình cảnh Thằng Câm cõng một thương binh gãy chân trên đường rút lui, lại càng nhớ hai cái xác Cârn anh và Câm em bị bỏ lại trong hố đạn pháo. Hắn chìa tay lấy chiếc mũ đưa lên mũi ngửi không khác chó nghiệp vụ đánh hơi hung thủ hoặc đánh hơi người chết, rồi đặt xuống giữa hai chân quần, đón lấy chiếc thứ hai đưa lên mũi ngủi rồi đặt lên trên chiếc thứ nhất. Sau đó, mặc dù không một lời mời mọc, bằng hai tay, hắn đi khắp các xó xỉnh trong nhà, hết gian chính đến gian phụ, từ nhà xay đến nhà kho. Hắn thậm chí còn đi một vòng ra chỗ nhà xí, thò đầu vào ổ gà xem xét một luật. Tôi đi theo sau, thích thú nhìn ngắm cách thức đi chuyển nhẹ nhàng của hắn. Vào đến phòng ngủ của chị Cả và Sa Tảo Hoa, hắn biểu diễn động tác trèo lên giường. Hắn ngồi dưới đất, mắt ngang tầm giường, tôi buồn thay cho hắn. Nhưng chuyện xảy ra sau đó chúng tỏ tôi đã lo bò trắng răng. Thằng Câm hai tay bám thành giường rồi từ từ đu người lên. Tôi chưa bao giờ thấy những cánh tay khỏe đến như thế, trừ một lần xem xiếc. Đầu hắn đã cao quá mặt giường, hai cánh tay kêu răng rắc rồi đột nhiên hất người hắn lên giường. Hắn chỉ ngất ngưỡng một hai cái rồi trở lại tư thế ngồi ngay ngắn.
Hắn ngồi trên giương chị Cả, nghiễm nhiên là một gia trưởng, càng giống một thủ trưởng. Tôi đứng bên giường, tự cảm thấy mình là người ngoài.
Trong buồng mẹ, chị Cả vừa khóc vừa nói:
- Mẹ bảo nó đi đi, con không cần nó. Khi nó còn lành lặn, con đã không thích nó, bây giờ nó chỉ còn một nửa người, con lại càng không cần
Mẹ nói:
- Con ơi, chỉ sợ rước về thì dễ, đuổi đi thì khó!
Chị Cả nói:
- Ai rước nó về?
Mẹ nói:
- Đây là sai lầm của mẹ. Cách đây mười sáu năm, mẹ đã hứa gả con cho nó. Mối oan nghiệt này không hiểu thắt nút tự bao giờ?
Mẹ rót một bát nước nóng đưa cho Thằng Câm. Hắn giơ tay đón, mắt chớp chớp, có vẻ rất cảm động, uống một hơi ừng ực.
Mẹ nói:
- Tôi cứ ngỡ anh đã chết, ai ngờ anh còn sống. Tôi không bảo vệ được hai đứa con của anh, tôi đau xót hơn anh nhiều, con là con của anh chị nhưng nuôi dưỡng chúng là tôi. Xem ra, anh là người có công với nước, Chính phủ sẽ có nơi có chốn cho anh hưởng phúc. Chuyện hôn nhân cách đây mười sáu năm là do tôi bao biện kiểu phong kiến. Xã hội mới bây giờ hôn nhân tự do, không ai được ép buộc. Anh là người của Chính phủ thì nên độ lượng, xin đừng chì chiết mẹ góa con côi chúng tôi. Hơn nữa, Lai Đệ chưa lấy anh mà ba đứa em đã chống lại nó. Tôi xin anh, anh hãy về nơi Chính phủ sắp xếp cho anh hồng phúc, anh đi đi!
Thằng Câm không đếm xỉa những lời xin xỏ của mẹ. Hắn chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn ra ngoài sân. Chị Cả tìm đâu ra chiếc kẹp rèn sắt cầm bằng cả hai tay xông vào, chửi:
- Thằng Câm, thằng cụt, cút khỏi đây!
Chị định kẹp Thằng Câm, nhưng hắn chỉ vươn tay một cái là tóm được cái kẹp, chị không sao giằng lại được. Trong cuộc đấu không cân sức đó, Thằng Câm vênh váo nở nụ cười khinh miệt. Chị Cả bỏ tay ra, ôm mặt vừa khóc vừa bảo Thằng Câm:
- Anh Câm, anh từ bỏ ý định ấy đi! Thà rằng tôi lấy lợn đực còn hơn là lấy anh!
Tiếng thanh la rộn ràng trong ngõ, một đoàn người ồn ào kéo vào nhà tôi, đi đầu là ông trưởng khu, theo sau là mười mấy cán bộ, lại còn một đám đông học sinh tiểu học tay cầm hoa. Trưởng khu khom người chui vào nhà, nói với mẹ:
- Chúc mừng! Chúc mừng!
Mẹ mặt lạnh như tiền, hỏi:
- Mừng gì mà chúc?
Trưởng khu nói:
- Bác ơi, mừng từ trên trời rơi xuống. Nghe tôi nói đã!
Các học sinh đứng vẫy hoa trong sân, reo từng đợt:
- Chúc mừng, chúc mừng! Gia đình vẻ vang, chúc mừng chúc mừng!
Trưởng khu gập từng ngón tay, nói:
- Thưa bác, chúng tôi đã phúc tra hồ sơ trong cải cách ruộng đất, thấy rằng qui gia đình bác thành phần trung nông là không thỏa đáng! Sau khi gặp nạn, gia đình bác đã phá sản, thực tế chỉ là bần nông đỏ. Nay chúng tôi đã sửa lại thành phần cho bác, thành phần bác là bần nông. Đó là chuyện vui mừng thứ nhất. Chúng tôi đã nghiên cứu những tư liệu về cuộc tàn sát của giặc Nhật năm một chín ba chín, cho rằng có một sự thực là mẹ chồng và bác giai đều có chống cự lại chúng và hy sinh vẻ vang, vậy phải khôi phục vị trí lịch sử cho họ, gia đình bác dáng được hưởng chính sách ưu đãi. Đó là chuyện vui mừng thứ hai. Do hai chuyện trên, trưởng trung học quyết định tiếp nhận Kim Đồng vào học. Nhà thương sẽ bố trí người phụ đạo những bài chưa học cho Kim Đồng. Đồng thời, cháu ngoại của bác, cô Sa Tảo Hoa cũng có dịp được học tập, đoàn kịch Mậu Xoang tuyển diễn viên, chúng tôi sẽ cố sức bảo lãnh cho cháu được trúng tuyển. Đó là chuyện vui mừng thứ ba. Điều vui mừng thứ tư, tất nhiên là Tôn Bất Ngôn, con rể của bác, đặc dẳng công thần Chí nguyện quân, vinh qui cố hương. Điều vui mừng thứ năm là Viện điều dưỡng quân nhân vẻ vang quyết định tuyển dụng cô Lai Đệ là hộ lý bậc Một, cô không phải đến Viện, hàng tháng có người đem lương đến tận nhà. Điều vui mừng thứ sáu là mừng người anh hùng của chúng ta đoàn tụ với người bạn đời Lai Đệ. Hôn lễ của anh chị sẽ do Chính phủ đảm nhiệm. Bác ơi, bác là bà mẹ cách mạng có sáu chuyện mừng trong một ngày.
Mẹ như bị sét đánh, mắt trợn ngược, cái bát trong tay rơi xuống đất.
Trưởng khu giơ tay vẫy, một cán bộ rẽ đám học sinh đi tới theo sau là một nữ sinh tay cầm bó hoa. Anh cán bộ đưa cho trưởng khu một gói bọc bằng giấy trắng, nói nhỏ: giấy chứng nhận gia đình bị giặc sát hại.
Trưởng khu chuyển cái gói cho mẹ, nói:
- Thưa bác, đây là giấy chứng nhận gia đình bị giặc sát hại!
Mẹ run run đỡ lấy, ôm trước người.~ Em nữ sinh bước tới cài một bông hoa trắng trên kích áo mẹ, chỗ gần nách. Anh cán bộ lại đưa cho trưởng khu một gói bọc giấy hồng, nói: giấy bổ nhiệm. Trưởng khu chuyển cho chị Cả, nói:
- Chị Cả, đây là giấy bổ nhiệm.
Chị Cả giấu hai tay đầy muội than ra sau lưng. Trưởng khu kéo tay chị ấn bọc giấy hồng vào tay, nói:
- Phải vậy thôi!
Em nữ sinh lại cài lên kích áo chị bông hoa tím. Anh cán bộ khu đưa cho Trưởng khu một bọc gói trong giấy màu vàng, nói: đây là thông báo nhập học. Trưởng khu chuyển cho tôi, nói:
- Chú em, tiền đồ của chú sáng sủa lắm, hãy cố học cho giỏi nhé!
Em nữ sinh trao cho tôi một bó hoa màu vàng kim, cặp mắt đa tình nhìn tôi quyến rũ. Tôi ngửi mùi hương thoang thoảng của bông hoa vàng, chợt nhớ đến chiếc nhẫn trong bụng. Trời ơi, biết thế này thì tôi nuốt vàng làm gì? Anh cán bộ khu đưa cho Trưởng khu chiếc gói bằng giấy màu tím, nói: đây là giấy gọi vào Đoàn kịch. Trưởng khu cầm cái gói, nhìn quanh tìm Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa từ sau cánh của bước ra đón lấy cái gói. Ông Trưởng khu bắt tay nó, nói:
- Em gắng họ cho tốt để trở thành diễn viên nổi tiếng.
Em nữ sinh tặng Sa Tảo Hoa một bông hoa tím. Khi nó giơ tay nhận bông hoa, chiếc huy chương lấp lánh rơi xuống đất. Trưởng khu nhặt cái huy chương lên, xem hoa văn và chữ trên đó liền đưa cho Thằng Câm. Thằng Câm đeo chiếc huy chương lên người. Tôi vừa sợ vừa mừng khi nghĩ rằng: Một tên trộm cắp siêu hạng đã xuất hiện trong nhà tôi. Trưởng khu nhận cái gói cuối cùng từ tay anh cán bộ, chiếc gói màu xanh lam, chuyển cho Thằng Câm, nói:
- Tôn Bấc Ngôn, đây là giấy đăng ký kết hôn của đồng chí với Thượng Quan Lai Đệ. Khu đã làm thủ tục giấy tờ cho đồng chí, hai người chỉ cần điểm chỉ là xong!
Cô nữ sinh đưa tận tay Thằng Câm một bông hoa màu xanh.
Trưởng khu nói:
- Bác ơi, bác có ý kiến gì không? Xin chớ khách khí, chúng ta là người trong nhà! Mẹ nhìn chị Cả, vẻ khó xử. Chị Cả tay cầm bông hoa, miệng méo xệch, những giọt nước mắt rơi trên bông hoa tím.
Mẹ phát biểu đầy mâu thuẫn: - Xã hội đổi mới rồi, bọn trẻ có ý kiến của chúng, do chúng quyết định?.
Trưởng khu nói:
- Đồng chí Lai Đệ, đồng chí có ý kiến gì không
Chị Cả nhìn chúng tôi, thở dài: - Số tôi nó như thế?
Trưởng khu nói: - Vậy thì tốt rồi! Tôi lập tức cho người đến dọn dẹp. Tối mai làm lễ thành hôn
Đêm hôm đó tôi ị được cái nhẫn ra ngoài. Chính vào giờ phút tôi trút được gánh nặng đó, nhà máy diêm ánh Sao của trấn Đại Lan xảy ra vụ nổ, nhà máy bị cháy rụi, tất cả nữ công nhân của nhà máy, trừ chị Lai Đệ, không một ai sống sót.
37
Tổ y tế gồm hơn chục bác sĩ của bệnh viện huyện, dưới sự chỉ đạo của chuyên gia Liên Xô, đã vận dụng học thuyết Páplốp chữa khỏi chứng luyến nhũ yếm thực* (*chứng bệnh chỉ ăn sữa, không ăn được thứ gì khác) cho tôi. Tôi rũ bỏ những ràng buộc, vào trường trung học. Tôi học rất giỏi, trở thành học sinh ưu tú của khối tiểu, trung học thị trấn Đại Lan. Đây là thời hoàng kim trong cuộc đời tôi. Tôi có một gia đình cách mạng nhất, có một đầu óc thông minh nhất, có một thân thể và tâm hồn lành mạnh có một khuôn mặt mà các bạn nữ không dám nhìn thẳng vào. Tôi ăn rất khỏe. Trong nhà ăn của học sinh, tôi dùng đũa xâu từng xâu màn thầu, tay kia thì cầm củ dưa hành to tướng, vừa cười nói vừa nhai hành rau ráu. Trong nửa năm tôi nhảy hai lớp, là cán sự môn tiếng Nga của lớp 3A, không làm đơn cũng được kết nạp vào Đoàn, và lập tức được bầu là ủy viên tuyên truyền của Chi đoàn, chủ yếu là quản ca, hát dân ca Nga băng tiếng Nga. Giọng tôi trầm lắng, có cái nhuần nhuyễn của sữa và hoang đã của hành dại, tôi cất tiếng hát là đám đông cứ lặng đi mà nghe. Tôi là ngôi sao sáng của trường trung học Đại Lan cuối những năm 50. Cô giáo Hoắc, một phụ nữ có khuôn mặt đoan chính, từng làm phiên dịch cho chuyên gia Liên Xô rất khen ngợi tôi, nhiều lần biểu dương tôi trên lớp, khen tôi rất có khiếu ngoại ngữ. Để nâng cao trình độ Nga văn cho tôi, cô đã móc nối một nữ sinh lớp chín trường trung học thành phố Khác-cốp để tôi trao đổi thư từ. Cô ta là con một chuyên gia Liên Xô từng công tác ở Trung Quốc, tên là Natasa. Chúng tôi gửi ảnh cho nhau.
Trên tấm ảnh trắng đen, Natasa giương đôi mắt to nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, cặp lông mi cong vút...
Kim Đồng tim đập dữ dội, máu dồn lên đầu, tay cầm tấm ảnh run lẩy bẩy. Cặp môi đỏ mọng của Natasa hé mở, hàm răng trắng muốt, một mùi thơm thoang thoảng của hoa dạ lan vấn vương ngay trước mặt, khiến Kim Đồng thấy sống mũi cay xè. Anh trông thấy mái tóc hoe vàng của Natasa rủ trên bờ vai mịn màng, cổ áo xẻ trễ, có thể là áo của mẹ hay của cô, thấp thoáng cặp vú xinh xắn, cái cổ dài, khoảng lõm giữa ngực trông rõ mồn một. Nước mắt Kim Đồng tự nhiên ứa ra. Qua làn nước mắt, Kim Đồng hình dung toàn bộ cặp vú của Natasa, mùi sữa thơm thơm tràn vào tâm thức, nghe văng vẳng tiếng gọi từ phương bắc xa xôi với thảo nguyên mênh mông, rùng bạch dương bát ngát, căn nhà nhỏ trong rừng, những cây sam tuyết phủ trĩu cành... Phong cảnh mê hồn lướt qua trước mắt như một cuộn phim và từng cảnh đều có Natasa ôm bó hoa màu tím. Kim Đồng đưa hai tay lên bưng mặt, khóc lên vì sung sướng, nước mắt lọt qua kẽ ngón tay...
- Kim Đồng, bạn làm sao thế? - Một bạn nữ có cái cằm nhọn lắc vai Kim Đồng, hỏi.
Kim Đồng vội giấu tấm ảnh, nói:
- Không làm sao cả!
Đêm hôm ấy, Kim Đồng chập chờn trong trạng thái nửa ngủ nửa thức. Natasa với chiếc váy phồng dài lê thê đi lại trước mặt anh. Anh nói với Natasa rất nhiều chuyện bằng tiếng Nga mà anh diễn đạt không khó khăn gì, nhưng thái độ của cô lúc vui vẻ, lúc giận dỗi, đưa anh từ tuyệt đỉnh của niềm vui rơi xuống vực sâu của tuyệt vọng, rồi với nụ cười trêu chọc, đưa tay lôi anh từ dưới vực lên.
Sáng ra, ông bố của hai đứa trẻ là Triệu Phong Niên ngủ giường dưới kháng nghị:
- Kim Đồng, tôi biết là anh tiếng Nga rất giỏi, nhưng anh phải cho tôi ngủ với chứ? Kim Đồng đầu nhúc như búa bổ, khó khăn lắm mới rũ được hình ảnh xinh đẹp của Natasa. Anh buồn rầu xin lỗi Triệu Phong Niên. Nhìn sắc mặt tái nhợt và cặp môi nút nẻ của Kim Đồng, Triệu Phong Niên kinh ngạc hỏi:
- Kim Đồng, cậu ốm rồi!
Kim Đồng lắc đầu đau khổ, cảm thấy dòng suy nghĩ của mình không sao nắm bắt được, y hệt một chiếc xe đang xuống dốc, dưới chân dốc là thảo nguyên mọc đầy hoa tím, Natasa xinh đẹp tay nâng gấu váy lặng lẽ chạy tới.
Anh ôm chặt và đập đầu côm cốp vào cọc giường. Triệu Phong Niên chạy đi gọi giáo viên chủ nhiệm Tiêu Kim Cương. Ông là một cán bộ công nông xuất thân từ đội đặc công, từng tuyên bố bắn bỏ cô giáo Hoắc Lệ Na về tội mặc váy ngắn, cho rằng ăn mặc như vậy là trụy lạc. Đôi mắt ti hí, dữ dằn trên khuôn mặt tai tái của ông khiến Kim Đồng lạnh xương sống.
- Kim Đồng, em làm cái trò gì vậy? - Thầy Tiêu Kim Cương nghiêm giọng hỏi.
- Tiêu Kim Cương, đồ mặt mẹt! Ông không khiến ngươi chõ mõm vào! - Bất chấp hậu quả, Kim Đồng chọc tức thầy giáo, định mượn cái uy của ông rũ bỏ hình ảnh Natasa.
Tiêu Kim Cương đấm cho Kim Đồng một quả vào đầu, chửi:
- Mẹ mày, dám chửi ông hả? Trò cưng của Hoắc Lệ Na đây! Tao quyết không tha mày?
Bữa ăn trưa, Kim Đồng không cưỡng được cơn buồn nôn khi ngồi trước bát cháo ngô. Anh hoảng sợ nhận ra rằng, chứng bệnh luyến nhũ yếm thực lại tái phát. Anh bê bát cháo lên, cố dùng đôi chút lý trí còn lại buộc mình phải ăn, nhưng vừa nhìn vào bát cháo, anh trông thấy hai bầu vú nổi lềnh bềnh trong đó. Bát cháo rơi xuống đất vỡ thành nhiều mảnh, cháo bỏng đổ vào chân vậy mà anh không cảm thấy gì.
Các bạn học kinh hoàng dìu anh đến phòng y tế. Cô y tá nhà trường lau sạch cháo bám trên bàn chân và bôi thuốc mỡ cho anh. ánh nhìn chòng chọc bức tranh giải phẫu sinh lý treo trên trong. Cô y tá đút cái cặp nhiệt độ vào miệng cho anh ngậm, miệng anh chúm chím như mút vú. Cô tiêm cho anh một liều thuốc an thần, bảo các bạn đưa anh về phòng ngủ.
Anh xé cái ảnh Natasa thành trăm mảnh, vứt xuống sông phía sau nhà trường. Những mảnh Natasa trôi theo dòng nước rồi chụm lại ở một chỗ xoáy, anh lại trông thấy một Natasa nguyên vẹn như nàng tiên cá, ngực trần lồ lộ, mái tóc dài chấm mông. Nàng buồn bã nghiêng nghiêng mái đầu, những giọt nước chảy trên cổ, hai tay nâng bầu vú, núm vú đỏ hồng như quả nho chín. Điệu dân ca quen thuộc, buồn buồn, từ lòng sông dâng lên. Natasa nhìn Kim Đồng có vẻ oán trách. Anh nghe rõ lời cô: Anh tàn nhẫn lắm! Kim Đồng lòng như dao cắt, anh cảm thấy mình bị chìm trong mùi sữa xô tới từng đợt như sóng biển.
Từ xa, các bạn học trông thấy Kim Đồng lao đầu xuống sông, còn nghe anh thét lên câu gì đó. Họ nháo nhào chạy ra bờ sông, có người chạy về trường gọi người. Kim Đồng chìm xuống đáy sông. Natasa bơi giữa các bụi cỏ nước như cá, vừa bơi vừa vẫy gọi anh. Nước xộc vào miệng làm anh ngất đi.
Kim Đồng mở mắt, thấy mình nằm trên giường mẹ. Đầu anh trống rỗng, trong tai có tiếng ù ù như gió thổi qua dây diện. Anh thử ngồi dậy, nhưng mẹ ngăn lại. Mẹ cho anh uống một ít sữa dê trong bình. Anh nhớ mang máng rằng con dê của anh đã chết, vậy sữa dê này lấy ở đâu? Đầu óc anh mụ đi, không sai khiến được nữa, anh mệt mỏi nhắm mắt lại. Trong cơn thảng thốt, anh nghe thấy mẹ bàn với chị Cả về chuyện trừ tà. Tiếng mẹ ồm ồm như nói trong chum, nghe như từ một nơi rất xa vọng lại. Mẹ nói:
- Nó bị ma ám!
Chị Cả hỏi:
- Ma nào?
Mẹ nói:
- Theo mẹ thì là con hồ ly tinh.
Chị Cả hỏi:
- Có phải cái cô góa chồng ấy không? Khi còn sống, cô ấy thờ hồ ly tinh.
Mẹ nói:
- Tiên thật quá đáng, chọn ngay Kim Đồng nhà mình! Hừm, mới được ít ngày sống dễ chịu...
Chị Cả nói:
- Mẹ, đối với con bây giờ một ngày cũng không sống nổi... Mẹ ơi, nếu con có làm chuyện gì đó thì mẹ đừng có mắng đấy nhé!...
Mẹ nói:
- Mẹ còn có thể mắng con về chuyện gì?
Kim Đồng nằm hai ngày, đầu óc dần dà trở lại linh hoạt, hình ảnh Natasa lúc nào cũng đứng ngay trước mặt. Anh rửa mặt, thấy Natasa khóc trong chậu. Anh soi gương, thấy Natasa cười trong gương. Anh nhắm mắt lại, nghe thấy tiếng thở của cô, thậm chí còn cảm thấy tóc cô quệt vào mặt, bàn tay âm ấm của cô rờ khắp cơ thể anh. Bà Lỗ sợ đến mụ người trước những cử chỉ kỳ quặc của cậu con trai yêu quí, bà chỉ khóc, suốt ngày luẩn quẩn quanh bên anh. Anh soi khuôn mặt vàng võ trong chum nước, thốt lên:
- Cô ấy ở trong này!
Mẹ hỏi:
- Ai? - Cô ấy?
- Cô ấy là ai?
- Natasa. Cô ấy lại không vui rồi!
Bà trông thấy con trai thò tay vào chum. Trong chum không có gì khác, ngoại trừ nước, nhưng con trai bà vẫn rất xúc động, lẩm bẩm nói những gì mà bà không hiểu. Bà kéo con trai ra, đậy nắp chum lại, nhưng Kim Đồng đã lại quì bên cái chậu bằng gốm nói chuyện với nước trong chậu. Bà đổ hết nước trong chậu đi, Kim Đồng lại dán mặt vào cửa kính, môi dẩu ra như nói chuyện với bóng của mình.
Mẹ tuyệt vọng, ôm lấy Kim Đồng mà khóc:
- Con ơi, con làm sao thế? Mẹ vất vả mới nuôi được con khôn lớn, ngờ đâu con đến nông nỗi này?...
Mắt mẹ mọng nước, Kim Đồng trông thấy Natasa nhảy múa trong đó, từ giọt này nhảy sang giọt kia.
- Cô ấy đây rồi - Anh nhìn chằm chằm giọt nước mắt trên mặt mẹ, nói - Em đừng chạy, Natasa?
- Cô ấy ở đâu? - Mẹ hỏi.
- Trong nước mắt ấy? - Kim Đồng nói.
Bà Lỗ vội lau sạch nước mắt. Kim Đồng thở dài:
- Cô ấy nhảy vào trong mắt mẹ rồi!
Cuối cùng bà Lỗ đã hiểu, bất cứ vật gì có thể soi gương là có Natasa trong đó. Bà đậy nắp tất cả những thứ đựng nước, chôn gương dưới đất, dán kín cửa kính bằng giấy màu đen và không để Kim Đồng nhìn vào mắt. Kim Đồng lập tức nhìn thấy Natasa trong bóng tối. Từ giai đoạn tìm mọi cách tránh mặt Natasa, anh tiến tới điên cuồng đuổi theo Natasa. Còn cô thì từ chỗ lúc nào cũng có mặt, tiến tới giai đoạn né tránh như chơi trò ú tim. Anh nói với xó nhà tối mò: Natasa, nghe anh nói này?... rồi lao thẳng vào. Natasa chui vào hang chuột, Kim Đồng cũng thực sự cảm thấy anh chui vào theo, rượt đuổi cô trong cái hang ngoằn ngoèo, gọi toáng lên: Natasa, Natasa, đừng chạy? Sao em lại chạy tôi? Natasa chui ra từ một lỗ khác, biến mất. Anh tìm khắp xó xỉnh, phát hiện ra cô dán vào tường, người dẹt như tờ giấy. Anh nhào tới, hai tay sờ mặt tường, cho rằng đang sờ mặt Natasa. Natasa luồn qua nách anh chui vào trong bếp lò, mặt đầy bụi tro. Anh quì trước cửa bếp, thò tay vào lau mặt cho cô, mặt cô không sạch nhưng mặt anh thì đen nhẻm.
Mẹ dùng đủ mọi cách mà vẫn chào thua, cuối cùng, mời được Mã Sơn Nhân, một phù thủy có tài trước quỉ trừ tà bỏ nghề đã lâu. Mã Sơn Nhân pháp thuật cao cường, lấy giấy trắng cắt thành con chim bồ câu, niệm câu thần chú thổi phù một cái, con chim bay lên trời. Cối xay bột trong nhà ông đều do bọn tiểu quỉ đảm nhiệm việc đẩy cối. Rất nhiều người trông thấy cối xay lớn trong nhà ông tự động quay, bột rơi rào rào xuống thớt hứng. Ông có một thanh kiếm bằng gỗ đào, ra ngoài là đem theo bên mình. Một bận, ông sơ ý để quên thanh kiếm ở nhà, bị bọn quỉ lâu nay làm không công cho ông, bắt giữ. Bọn chúng lôi ông đến một khúc sông dìm xuống bùn, suýt nữa ông chết ngạt. Ông cắn ngón tay giữa lấy máu trừ tà mới thoát hiểm. Về nhà, ông múc một chậu đầy nước, niệm chân ngôn bắt tất cả bọn quỉ lại, dùng thanh kiếm gỗ đào khuấy nước trong chậu, bọn quỉ la khóc, chậu đầy máu. Ông chém chết hết bọn quỉ. Ông thấy hối hận vì mình quá tàn nhẫn, bèn rửa tay không hành nghề nữa. Ông không những biết trước quỉ mà còn có tài sai khiến linh hồn con người. Một bận, ông mở tiệc, khách khứa rất đông, từ xa có một người đàn bà đi tới, trong đám khách có một ông quan huyện hỏi:
- Ông Mã, ông biết trước quỉ, nhưng ông có chế ngự được con người không?
Mã Sơn Nhân nói:
- Tôi có thể bắt người đàn bà kia cỏi bỏ hết quần áo mà đi đến đây.
Ông giơ tay bắt quyết miệng niệm thần chú. Quả nhiên người đàn bà cởi bỏ hết quần áo rồi thản nhiên đi tới trước mặt Mã Sơn Nhân hỏi:
- Cha lâu nay mạnh khỏe chứ ạ?
Thì ra người này là con gái Mã Sơn Nhân. Ông ta ngượng quá, vội làm phép hóa giải. Người con gái ông ta chợt nhận thấy mình trần truồng trước các vị khách, thẹn quá hóa giận, lui vào hậu đường nuốt nhẫn vàng mà chết. Từ đó, ông sống như người bình thường, không bao giờ trước quỉ trừ tà nữa. Mà thay đổi được ý định của ông ta, quả không dễ.
Sơn Nhân mặc áo chùng đen, xõa tóc, chân không giày, bàn chân nhuộm đỏ, tay cầm kiếm gỗ đào, miệng lẩm bẩm những gì không rõ. Kim Đồng nhìn ông ta, nhớ lại những truyền thuyết ly kỳ về ông, bỗng thấy tinh thần phấn chấn khang khác uống một bát to đầy dấm, hình ảnh Natasa tạm thời biến mất khỏi cái đầu rối mù. Sơn Nhân sắc mặt tím tái, mắt lồi, tướng mạo hung dữ. Ông bị viêm họng, khạc nhổ luôn miệng, đờm trắng như gà bị bệnh cứt cò. Ông vừa múa kiếm vừa nhảy một vũ điệu kỳ quái. Nhảy một hồi xem chừng đã mệt, ông ta dừng lại bên chậu nước, niêm thần chú, nhổ vào chậu một bãi nước bọt rồi thò kiêm vào khuấy nước trong chậu, một lúc sau quả nhiên nước trong chậu đã biến thành màu hồng. ổng ta quẳng kiếm ngồi thở, gọi Kim Đồng lại bảo:
- Cậu xem trong chậu có gì?
Kim Đồng ngửi thấy mùi thuốc bắc trong chậu, bèn nhìn chăm chú mặt nước đã phẳng như gương. Anh giật mình khi thấy khuôn mặt mình thước đây hồng hào là thế mà bây giờ vàng võ đầy nếp nhăn?
- Có thấy gì không? - Sơn Nhân đứng bên hỏi dồn. Khuôn mặt Natasa từ đáy chậu dềnh lên, đầy máu, lồng vào khuôn mặt Kim Đồng. Cô chửi khẽ: - Kim Đồng, anh tàn nhẫn lắm? - Natasa! - Kim Đồng rú lên thê thảm rồi vục mặt vào chậu nước. Anh nghe thấy mẹ nói với chi Cả:
- ổn rồi, khiêng nó vào trong nhà!
Kim Đồng chồm dậy, quyết một phen sống mái với Sơn Nhân. Đây là lần đầu tiên trong đời, anh đánh người, mà lại cả gan, dám tấn công một người làm bạn với ma quỉ. Tất cả vì Natasa? Anh giơ tay trái túm lấy bộ râu đốm bạc của Sơn Nhân cố sức dằn xuống, miệng Sơn Nhân há hốc như hình trứng, nước dãi lòng thòng trên mu bàn tay Kim Đồng. Natasa tay chống cằm ngồi trên đầu lưỡi Sơn Nhân, nhìn Kim Đồng bằng con mắt tán thưởng. Được cổ vũ, Kim Đồng giật càng mạnh, hơn nữa, còn dùng cả hai tay. Ông Sơn Nhân đau đớn oằn người xuống chẳng khác pho tượng nhân sư vẽ trong sách giáo khoa. Ông giơ kiếm gỗ chém vào chân Kim Đồng, nhưng vì Natasa, anh không thấy đau. Đau cũng không bỏ ra, để bảo vệ Natasa đang ở trong miệng Sơn Nhân. Anh nghĩ đến hậu quả đáng sợ một khi bỏ tay ra: Natasa bị Sơn Nhân nhai nát bét rồi nuốt. Ôi cái bụng của ông ta bẩn thỉu làm sao! Tên ác ma chuyên dùng pháp thuật giết hại phụ nữ! Tên ma đầu chuyên bắt bọn tiểu quỉ đáng yêu xay bột không công. Chuyện ông ta có thể cắt giấy thành chim bồ câu thì còn khả dĩ. Chuyện ông ta gấp thuyền giấy thả vào chậu nước rồi ngồi lên thuyền, chỉ một đêm đã tới Nhật Bản, hôm sau trở về đem theo bao nhiêu là quít ngọt biếu bố vợ thì còn khả dĩ. Nhưng tại sao ông ta lại hãm hại Natasa? Natasa, mau nhảy ra đi! Kim Đồng sốt ruột gọi. Natasa hình như bị điếc, vẫn ngồi yên trên đầu lưỡi Sơn Nhân. Kim Đồng cảm thấy chòm râu Sơn Nhân ngày càng trơn. Dòng máu trên vú Natasa chảy dài xuống chòm râu của ông ta, nhuộm đỏ hai bàn tay Kim Đồng. Ông Sơn Nhân vút kiếm, hai tay túm hai tai Kim Đồng rồi ra sức kéo sang hai bên. Miệng Kim Đồng tự nhiên há ra, anh nghe thấy tiếng la hét của mẹ và chị Cả. Anh buộc phải rời tay khỏi chòm râu.
Hai người quần nhau quanh sân. Mẹ và chị Cả cũng chạy vòng quanh Kim Đồng và ông ta. Anh bị vấp không tránh kịp, Sơn Nhân ngoạm đúng mu bàn tay, căn chặt không nhả. Anh hoàn toàn lâm vào thế yếu, hai tai gần như bị dứt đứt, tay bị cắn rách lòi xương. Anh gào khóc vì đau đớn. Nhưng nỗi đau trong tim còn ghê gớm hơn cái đau trên da thịt khi anh cảm thấy tuyệt vọng về Natasa. Nàng đã bị Sơn Nhân nuốt chửng, đang thối rữa trong bụng ông ta, những gai trên thành dạ dày đang chà xát nàng. Mắt anh tối sầm lại như bị con cá mục phóng cả túi mực vào mắt.
Tôn Bất Ngôn uống rượn ngoài phố về, đi vào sân. Bằng con mắt quân sự dày dạn kinh nghiệm, hắn nhận ra ngay ai là ta, ai là địch và tình thế mỗi bên. Hắn từ tốn để chai rượu sát chân tường.
Mẹ kêu:
- Cứu Kim Đồng mấy!
Chỉ nháy mắt, Tôn Bất Ngôn đã lết đến sau lưng Sơn Nhân, nện đồng thời cả hai đòn ngồi ở hai tay vào bắp chân Sơn Nhân. Ông ta quị xuống, Tôn Bất Ngôn nện tiếp hai đòn vào hai vai ông ta, hai tai Kim Đồng được giải phóng. Hai chiếc đòn ngồi trong tay Tôn Bất Ngôn lượn một điều theo thế song lôi quán nhĩ, cùng nện đánh bốp vào hai bên má Sơn Nhân, bàn tay Kim Đồng được nhả ra. Sơn Nhân lăn lộn trên mặt đất rồi nhặt thanh kiếm gỗ đứng lên, miệng mím chặt. Tôn Bất Ngôn hộc lên một tiếng rồi ú ớ điều gì đó. Kim Đồng gào khóc định xông tới rạch bụng Sơn Nhân để cứu Natasa, nhưng đã bị mẹ và chị Cả ôm chặt. Sơn Nhân đi vòng qua Tôn Bất Ngôn đang ngồi chồm hổm như hổ vồ mồi, rồi vắt chân lên cổ mà chạy.
Kim Đồng tỉnh táo dần nhưng vẫn không thể ăn cơm. Mẹ đi gặp trưởng khu, ông ta lập tức sai người đi mua một con dê dắt đến. Mẹ cho nó ra ăn cỏ ngoài bãi. Kim Đồng nằm trong nhà, đôi khi cũng đi dạo ngoài đồng. Mỗi khi nhớ lại cái cảnh Natasa máu chảy nhỏ giọt trên hai bầu vú, anh lại nước mắt đầm đìa. Anh không buồn chuyện trò, đôi khi chỉ lẩm bẩm một mình, hễ trông thấy người là lại im như thóc.
Một buổi sáng trời u ám, Kim Đồng nằm trên giường mà khóc cho bầu vú rớm máu của Natasa. Anh thấy nghẹt mũi, đầu óc lâng lâng, một cơn buồn ngủ ập đến. Chính lúc đó từ buồng Lai Đệ và Thằng Câm vọng lại một tiếng kêu rợn tóc gáy khiến Kim Đồng tỉnh ngủ. Anh dỏng tai lên nghe nhưng không thấy động tĩnh gì, định nhắm mắt lại ngủ tiếp thì một tiếng kêu nữa lại vang lên, lần này kéo dài và thê thảm hơn. Kim Đồng tim đập thình thịch, tóc dựng đứng. Anh nhẹ nhàng bước xuống giường, nhón gót đi tới chái đông, nhìn qua khe cửa vào trong buồng. Anh trông thấy Tôn Bất Ngôn đã cởi bỏ quần áo, trông như một con nhện đen khổng lồ phủ lên người Lai Đệ Cái mồm dẩu ra như mồm châu chấu của hắn sùi bọt, lúc cắn đầu vú trái, lúc cắn đầu vú phải. Cổ Lai Đệ gác lên thành giường, sắc mặt trắng nhợt, hai bầu vú mà Kim Đồng đã từng trông thấy hôm ở chỗ cối xay bột, nằm ườn như hai chiếc màn thầu trên ngực. Đầu vú chị rỉ máu. Trên ngực và hai cánh tay chị đầy vết cào cấu: Chị sạch sẽ mịn màng là thế mà nay Thằng Câm đã biến chị thành con cá trước hết vẩy. Hai chân thon dài không có gì che đậy, đập bình bịch trên giường.
Kim Đồng bật khóc. Tôn Bất Ngôn nhả đầu vú ra, vớ lấy chai rượu trên đầu giường thăng cánh ném ra phía cửa. Trong một thoáng trước khi bỏ chạy, Kim Đồng trông thấy chị Lai Đệ rướn cổ lên, và cũng trông thấy thằng Câm luồn bàn tay hộ pháp xuống phía dưới. Chị hét lên một tiếng như bị chọc tiết. Kim Đồng chạy vụt ra sân nhặt hòn gạch ném vào cửa sổ, chửi:
- Thằng Câm, mày không thể chết yên ổn!
Kim Đồng cảm thấy thân thể rã rời, hình ảnh Natasa biến thành mây khói.
Nắm đấm thép của Thằng Câm đấm vỡ cửa kính thò ra ngoài. Kim Đồng khiếp đảm đi giật lùi mãi đến chỗ gốc cây ngô đồng. Cậu trông thấy cái nắm đấm lại rụt vào trong, rồi dòng nước tiểu màu vàng chảy từ chiếc ống nhựa ra ngoài sân, ngay dưới cửa sổ. Cậu cắn môi bỏ đi, đụng phải một người hình dung cổ quái ở cửa buồng.
Anh ta cúi lom khom, hai tay dài buông thõng, đầu cạo trọc, lông mày chổi xể đã đốm bạc, những vết nhăn chằng chịt vây quanh cặp mắt tụt sâu vào. Không ai dám nhìn thẳng vào cặp mắt đó. Khuôn mặt đầy sẹo, không phải vì bỏng thì là do lạnh gây ra, hai vành tai quăn queo như nấm mộc nhĩ. Bộ quần áo Trung Sơn màu xám không vừa với khổ người còn phảng phất mùi long não. Hai cánh tay gầy guộc, móng tay sút mẻ, ngọ nguậy hai bên đùi.
- Ông tìm ai? Kim Đồng tin chắc rằng người này là bạn chiến đấu của Thằng Câm nên hỏi không chút thiện cảm. Anh ta lễ phép vái một vái, ngọng nghịu nói:
- Lãnh... Đệ... Tôi là chồng... là Hàn... Chim!...
38
Tôi tôi không nói... gì đâu?... Hai tay Hàn Chim bấu chặt vải trải bàn, ngập ngừng ngẩng )đầu lên, nhìn sang ông hiệu trưởng Khưu Gia Phúc ngồi bên cạnh. Hôm nay ông chủ trì buổi báo cáo của Hàn Chim.
- Tôi chả biết... nói... gì... bây giờ...
Anh ta như bị nghẹn, không nói được thành câu, dù là câu thật ngắn, cái cổ cong lên như cổ chim. Đây là buổi báo cáo đầu tiên của Hàn Chim sau khi trở về quê. Sân bóng rổ nhà trường đông nghịt những người: toàn thể thầy trò trường tiểu học và trung học, các cán bộ khu ủy và nhân dân quanh vùng. Phóng viên nhiếp ảnh của huyện chụp Hàn Chim từ những góc độ khác nhau. Hàn Chim ngồi trên khán đài nhìn xuống đám người đông nghịt, sợ đến rụt cổ lại, chỉ muốn bỏ chạy nấp sau gốc cây cổ thụ hoặc sau tường. Khi không nói, anh ta rụt cổ, hai vai so lên, hai tay đặt trên đũng quần, khư khư ôm lấy cái số ta của anh ta.
Ông Hiệu trưởng đứng dậy, đi tới trước mặt rót cho anh ta một cốc nước nóng nói:
- Đồng chí Hàn uống chút nước nhấp giọng, đừng sợ, dưới kia đều là bà con mình. Mọi người đều rất quan tâm đến đồng chí, đều tự hào vì có một người bà con nổi tiếng như đồng chí! Các em học sinh thân mến, thưa các đồng chí, thưa bà con? - Ông hiệu trường quay về phía mọi người, giọng xúc động - Đồng chí Hàn Đỉnh Sơn sống như người rừng ròng rã mười lăm năm trong núi Bắc-hải-đạo trên đất Nhật. Một kỳ tích trên thế giới? Câu chuyện của đồng chí có tác dụng giáo dục rất lớn đối với chúng ta! Đề nghị nhiệt liệt vỗ tay một lần nữa hoan nghênh bản báo cáo của đồng chí!
Tiếng vỗ tay phía dưới ran lên như sấm? Lời ông hiệu trưởng khiến chúng tôi xúc động úa nước mắt. Hàn Chim giơ tay chạm vào quai ca nước, y như con chuột chạm thử vào miếng mồi ở bẫy chuột, rồi rụt lại ngay. Chạm lần thứ hai, anh ta mới dám lẩy bẩy cầm cái cốc lên, nhíu mày uống một hớp nhỏ. Nước nóng khiến anh ta dướn cổ lên, nhắm tít cả hai mắt. Nước trào ra mép, chảy xuống cổ, anh ta ho khùng khục như con nhím mắt vẫn nhắm làm như đang suy nghĩ rất lung.
Ông hiệu trưởng đi vòng ra phía sau vỗ vai động viên anh ta:
- Nói đi, đây là tổ quốc mình, quê hương mình, bà con mình, có gì mà sợ!
Hàn Chim ngẩng mặt lên, hai giọt nước mắt to tướng lăn trên má, hỏi:
- Nói, ừ.
Hiệu trưởng động viên:
- Phải nói chứ!...
- Vậy... tôi... nói - Hàn Chim vẫn hai tay ôm bẹn, im lặng trong vài phút, rồi vươn cổ, mở mắt, nói một cách khó nhọc:
- Tôi, bẫy chim, hôm ấy, bọn áo vàng nổ, nổ súng, tôi chạy, chúng nó đuổi, tôi bắn mù mắt một thằng. Chúng bắt tôi, trói, đấm dá, đánh bằng báng súng. Một xâu một xâu, một xâu, ba xâu, hơn một trăm người. Thằng áo vàng hỏi, tôi nói, làm ruộng, không giống, tao thấy, mày là không nghề nghiệp, dân lang thang, thế nào là lang thang, tôi không hiểu, bốp, đánh tôi một tát, ông hỏi tôi, tôi hỏi ai, lại một tát nữa, tôi không chịu, nó giằng lấy cây cung của tôi bật dây, tách, thế mà còn cãi, đánh, đánh, đánh, roi, gậy, nói, có phải vô nghề nghiệp không, lang thang. Nhận thì nhận, sợ gì, đến ga xe lửa, cởi trói, người nọ tiếp người kia, leo lên, tôi bỏ chạy, súng nổ trên đầu, ngựa vây quanh, một kiếm chém vào đầu, mấy đầu người rơi xuống đất, mắt trợn ngược, tay đầy máu. Lên xe lửa, đến Thanh Đảo, giải ra cảng, bọn Nhật lùn, đứng hai bên, lên tàu, tàu to, rút cầu, tàu rời bến, đều khóc, cha ơi, mẹ ơi, thế là hết, như cánh chim, trôi đi đâu, không biết, chắc không trở về. Biển, sóng, lắc lư, nôn mửa, đói, chết, vút xuống biển, cá mập, một đớp mất chân, hai đớp cả người, cá mập đuổi theo hàng đàn, đến Nhật, lên bờ, ngồi xe lửa, lại lên thuyền, lại lên bờ, đến Bắc Hải-đạo, vào núi, tuyết ngập bắp chân, rét tím mặt, tai chảy nước vàng, chân đất, ở nhà gỗ, không cho ăn no, dồn xuống hầm mỏ, bọn chúng gác, tiếng Nhật xì xà xì xồ không hiểu, không hiểu thì đánh, khoan gió, đầu đội đèn, đào than, bánh dai ngoách, cắn không đứt, anh em ơi, không thể đợi chết, bỏ trốn, chết trên núi, không đào than cho chúng, không đào than luyện thép, đóng tàu đúc súng, giết người Trung Quốc, không làm, không đào than cho giặc, chết cũng không đào!
Đột nhiên Hàn Chim nói đâu ra đấy, rất hấp dẫn, công chúng ngẩn người vỗ tay tán thưởng. Anh ta giật mình, nhìn xuống dưới rồi lại nhìn sang ông hiệu trưởng; ông hiệu trưởng giơ ngón tay cái về phía anh ta. Anh kể ngày càng trôi chảy:
- Chú Trần bỏ trốn bị bắt lại, bị chó xé xác trước mặt mọi người. Bọn giặc xì xồ, phiên dịch nói lại: Thái quân nói là đứa nào bỏ trốn thì trông gương thằng này. Tôi nhủ thầm, tiên sư chúng mày, còn một hơi thở tao cũng bỏ trốn (tiếng vỗ tay rào rào). Một phụ nữ quét tuyết, vẫy tôi, tôi chui vào lều chị ta. Chị nói: Chào anh, tôi sinh ra và lớn lên ở Thẩm Dương, tôi có cảm tình với Trung Quốc! Tôi không dám bắt chuyện, sợ chị ta là do thám. Chị ta nói: Chui qua nhà xí là vào rừng...
Chính là vào cái hôm Lỗ Lập Nhân cùng đại đội bộc phá của anh ta ăn mừng thắng lợi ở trấn Đại Lan, thì Hàn Chim lách qua nhà xí trốn vào rừng sâu. Anh chạy như điên, cho đến khi sức cùng lực kiệt, ngã gục trong khu rừng mọc đầy cây hoa thụ, mùi lá mục nồng nặc, tiếng nước chảy rót rách như tiếng đàn. Không khí ẩm ướt hơi nước mù mịt, những tia nắng lọt qua kẽ lá như những mũi tên, tiếng chim vàng anh khiến người nghe thổn thức. Trước mặt là thảm cỏ xanh biếc, lẫn trong đám cỏ là không quả chín đỏ mọng. Anh bút quả ăn, nước bọt ứa đầy miệng. Anh ăn tiếp một nắm nấm trắng, bụng đau quặn, nôn mửa. Anh ngửi thấy một mùi thối khẳm bốc lên từ cơ thể mình. Lần ra con suối, anh tắm rửa cho hết mùi hôi thối, Nước lạnh buốt, anh run cầm cập nghe từ phía mỏ than vọng lại tiếng chó bécgiê sủa. Bọn Nhật phát hiện ra mình bỏ trốn khi điểm danh buổi tối. Anh cảm thấy lâng lâng vì sung sướng là đã trả thù được. Này các con, bố mày đã bỏ chạy rồi! Bọn lính gác mỏ ngày càng ít, nhưng chó bécgiê thì ngày càng nhiều lên, anh nghĩ thầm, bọn Nhật sắp đi đời rồi! Không ổn, phải vào sâu hơn nữa, bọn Nhật sắp toi mà để chúng bắt được làm mồi cho chó thì uổng quá! Nghĩ đến con chó bécgiê đầu to đít nhọn anh lại rùng mình. Nó ngoạm một khúc ruột chú Trần, máu rỏ từng giọt hai bên mép.
Anh cởi bộ quần áo của bọn Nhật cấp phát quẳng xuống suối. Cút mẹ mày đi! Chiếc quần phồng lên, như cái bong bóng trâu màu vàng, theo dòng nước trôi đi. Mặt trời sắp lặn, đỏ như máu. Cây cỏ đều thay đổi màu sắc, những cây hoa thụ và tượng thụ, những dây leo và những bụi cây lúp xúp những cây sam, thông đuôi ngựa, những dây nho rừng lá màu vàng kim mọc lưng chừng vách núi, dòng suối nhỏ chảy rót rách... tất cả đều đổi màu dưới nắng chiều đỏ rực. Anh không còn bụng dạ nào để ngắm cảnh, chạy theo bờ suối, nhảy trên những hòn đá trơn tuột đầy rêu, lẩn sâu vào rừng. Nửa đêm, khi biết chân lũ bécgiê không đuổi kịp nữa, anh mới dừng lại ngồi tựa dưới gốc cây. Anh cảm thấy bàn chân bỏng rát, người nóng rực từng cơn, rồi hết nóng lại lạnh. ánh trăng lạnh lẽo trùm lên rừng cây một màu trắng bạc, những hòn đá nhẵn thín mọc đầy rêu như những quả trứng khổng lồ, mờ mờ dưới trăng. Anh nép mình trong bóng tối, vừa đói vừa rét, đau về thể xác và khủng hoảng về tinh thần hành hạ anh. Thậm chí anh còn nghĩ rằng mình bỏ chạy là sai, và mỗi khi ý nghĩ ấy chọt đến, anh lại tự xỉ vả mình nghĩ như vậy là tầm bậy, mình tự do rồi, mình khá đấy chứ, không đào than cho bọn Nhật, không còn bị bọn lính Nhật miệng còn hơi sữa khinh rẻ, hành hạ mình. Anh ngủ thiếp đi trong tâm trạng vừa đau khổ vừa sung sướng. Lúc trời rạng, anh bị tiếng nói mê rất to của chính mình đánh thức dậy. Giấc mơ sợ quá, nhưng tỉnh dậy là anh quên sạch, chỉ còn mồ hôi đầm đìa trên người, tìm lạnh như cục đá. Mặt trăng đã khuất sau rặng núi phía tây vài ngôi sao nhấp nháy trên bầu trời màu sữa. Hơi nước ngùn ngụt trong khe, bóng mấy con thú đang uống nước. Anh ngủi thấy mùi tanh vừa nghe thấy tiếng gầm rung chuyển vách núi.
Trời sáng hẳn, mặt trời lên, sương mù trắng toát, mênh mông. Thấy lạnh, anh ra sưởi dưới nắng, nhìn những vết roi thâm tím trên người, có chỗ đã đóng váy, có chỗ còn sưng mọng, rồi những vết do ruồi muỗi cắn. Đâu còn là người? Suýt nữa thì anh khóc? Phơi nắng, người ngứa ran nhưng con giống ở giữa hai chân thì vẫn lạnh toát, hai hột thót lên trên, bụng ngâm ngẩm đau. Anh nhớ câu nói của người xua: Bìu dái là nơi sợ lạnh nhất của người đàn ông, vú là nơi sợ lạnh nhất ở nguòi đàn bà. Anh xoa bóp bìu dái, cảm thấy nó mềm dần ra. Anh hối hận đã vút bỏ bộ quần áo. Gì thì gì nó cũng là quần áo, ban ngày che thân, ban đêm chống muỗi. Anh tìm thấy quanh gốc cây một số rau dại đã biết: Rau diếp đắng, xa tiền thảo, hẹ rừng... Những thứ này không độc. Có rất nhiều loại rau dại, quả dại trông đẹp mã nhưng không dám ăn vì sợ độc. Anh cũng phát hiện bên sườn núi có một cây lê rùng, những quả lê chín vàng rơi vương vãi trên mặt đất, đã lên men, anh nhặt những quả còn tốt ăn thử, chua chua ngọt ngọt, y hệt lê Trung Quốc. Anh vui mừng quá đỗi, ăn kỳ no. Anh định đánh dấu cây lê, tìm một vật chuẩn, nhưng xung quanh toàn cây là cây, không phân biệt được đông tây nam bắc, tuy rằng mặt trời mọc đằng đông, nhưng đó là định vị kiểu Trung Quốc. Còn mặt trời ở Nhật thì sao? Có phải vẫn mọc đăng đông lặn đằng tây không? Anh nhớ tới lá cờ mặt trời bay phần phật trên ga xe lửa. Anh nghĩ, về nhà, chạy trốn chưa phải là giỏi, chưa phải là mục đích. Về nhà, về Cao Mật, Sơn Đông, Trung Quốc. Trước mắt anh hiện lên hình ảnh người thiếu nữ ngây thơ, nét mặt thanh tú, mũi cao, vành tai trắng trẻo đầy đặn, anh chìm đắm trong hương vị chua ngọt của trái lê mùa thu. Anh láng máng nhận ra rằng, vùng Bắc Hải- Đạo của Nhật Bản là ngang với dãy Trường Bạch của Trung Quốc, nhằm thẳng hướng tây bắc mà đi là có thể về tới đất Trung Quốc. Anh nghĩ, đất Nhật to bằng cái lỗ mũi, mình bỏ ra ba tháng là đến biên giới. Anh thậm chí còn nghĩ rằng, nếu đi nhanh hơn, chưa chừng có thể ăn Tết ở nhà. Mẹ mất rồi, công việc đầu tiên của anh là hỏi con gái nhà Thượng Quan làm vợ, sống một cuộc sống dễ chịu. Quyết tâm như vậy rồi, anh quyết định tìm lại bộ quần áo vứt đi ngày hôm qua. Anh thận trọng dò dẫm từng bước, đề phòng gặp chó bécgiê. Gần trưa, anh cảm thấy hình như đã trở lại chỗ vứt quần áo, nhưng quang cảnh khác với những gì hôm qua anh đã thấy. Hôm qua anh không thấy có bụi trúc, hôm nay lại thấy có một bụi, dưới khe có một cây đại thụ xõa tóc, vỏ cây đen sì, những cây bạch hoa chọc trời, những cây nở đầy hoa, đỏ có, trăng có, tím có mùi thơm thoang thoảng. Rất nhiều chim đậu trên cành, tò mò nhìn anh, có con anh biết tên, nhiều con anh không biết là chim gì, tất cả đều có màu lông sặc sỡ, giá anh có bộ cung tên thì hay biết mấy!
Tròn một ngày, anh không làm sao ra khỏi khe núi. Con suối nhỏ như một đứa trẻ tinh nghịch, chơi trò ú tim với anh. Không thấy chó bécgiê xuất hiện, quần áo cũng tìm không thấy. Giữa trưa, anh thấy rất nhiều mộc nhĩ mọc trên một thân cây mục, anh nếm thử thấy rất giòn và hơi cay thì yên tâm, ăn một bữa no bụng. Chiều tối anh đau bụng, bụng chướng lên như cái trống, sôi ùng ục, rồi sau đó thì thượng thổ hạ tả, mọi vật trước mặt đều trở nên to đùng. Anh giơ tay lên xem: những ngón tay sung mọng. ở chỗ nước lặng, anh nhìn đáy nước thấy mặt mình sưng vù, hai mắt híp lại, các vết nhăn trên mặt biến mất. Đêm hôm đó anh mê sảng, trông thấy những người khổng lồ lảng vảng trước mặt, lại còn trông thấy một con hổ văn cứ đi quanh bụi cây anh nằm. Lúc trời sáng, anh cảm thấy dễ chịu hơn, mặt cũng bớt sưng, anh nhìn mặt mình dưới nước mà giật mình, chỉ sau một đêm vừa thổ vừa tả, anh chỉ còn có da bọc xương! Bảy hay tám đêm đã trôi qua, một buổi sáng, anh gặp hai người quen. Khi ấy anh đang nằm sấp trên bờ, thò đầu xuống như con thú uống nước, thì có tiếng hỏi khẽ từ trên cây tượng thụ vọng xuống:
- Anh Hàn Chim đấy phải không?
Anh nhảy dựng lên, nấp sau một bụi rậm. Đã lâu mới lại nghe tiếng người khiến anh giật thót. Lúc này, anh lại nghe thấy tiếng hỏi từ trên cây vọng xuống nhưng lần này là một giọng mới vỡ của con trai:
- Có phải anh Hàn Chim không?
Anh vừa gào lên vừa nhảy ra:
- Phải anh Đặng đó không? Tôi nhận ra anh, và cả chú Tốt nữa, thế là tôi lại gặp anh và chú rồi!
Anh chạy tới gốc cây tượng thụ ngẩng mặt nhìn lên, nước mắt ứa ra chảy vào tai. Trên cây, anh Đặng và chú Tốt cởi thắt lưng buộc người vào cành cây ra, bám thân cây đầy rêu, lóng ngóng tụt xuống đất. Ba người ôm chặt lấy nhau vừa gọi tên nhau vừa khóc.
Ba người đi cách nhau một quãng, Hàn Chim nhìn lần lượt anh Đặng, chú Tốt, còn anh Đặng chú Tốt thì trước sau chỉ nhìn Hàn Chim.
Cuối cùng, họ dừng lại để hội ý. Lão Đặng từng làm nghề sơn tràng ở núi Trường Bạch, có kinh nghiệm về rừng, căn cứ vào rêu bám trên thân cây, lão có thể xác định được phương hướng. Nửa tháng sau, khi lá cây trên núi nhuốm màu đỏ rục, họ đã đến một sườn núi thấp, lá cây thưa thớt, trước mắt là biển mênh mông, những ngọn sóng xám xịt xô đẩy không mệt mỏi vách đá màu nâu, đuổi nhau như những dàn dê trên bãi cát mịn.
Trên bờ biển, ừ, neo mười mấy chiếc thuyền, một số người, ừ, bà già, đàn bà, trẻ con, ừ, đang phơi cá, ừ, cũng khổ lắm, hát, bài hát buồn lắm, khóc, vừa hát vừa khóc, khóc rồi lại hát. Lão Đặng bảo, qua biển là Yên Đài, ừ Yên Đài cách quê nhà không xa, ừ, mừng quá, muốn khóc, ừ, bên kia biển có dãy núi xanh mờ, ừ, lão Đặng nói, đó là Trung Quốc, ừ, nấp trên núi đến khi trời tối, người trên bãi biển về hết, chú Tốt nôn nóng định xuống, tôi bảo hãy đợi, ừ, hãy đợi, một người đầu đội cây đèn khí, trên bãi, ừ, đi một vòng, ừ, tôi bảo được rồi đấy, ừ, hơn một tháng ăn toàn cỏ và rau dại, ừ, trông thấy cá khô, ừ, như mèo thấy mỡ, ừ, ăn luôn mấy con, ừ, chú Tốt còn bảo cá có gai, ừ, lại ăn rau câu, đau bụng, họng đau như nuốt đậu phụ nóng, đau thắt ruột, ừ, chú Tốt nói, ừ, ruột bị ngạnh cá đâm thủng, ừ, trên dây phơi có chiếc tạp đề bằng vải không thấm nước, ừ, tôi rút xuống, mặc vào người, lại thấy một chiếc nữa, ừ, chiếc áo của phụ nữ, mặc chật cứng, ừ, cởi trần cả tháng nay rồi, có quần áo mới ra người, ừ, nhảy lên một chiếc thuyền, ừ, đẩy, ừ, kéo, ra mép nước, ừ, người ướt đẫm, ừ, thuyền cũ nát, không biết làm thế nào cho thuyền đi, chèo lia lịa, thuyền dở chúng, xoay tròn, ừ, không ổn, ừ, chèo thế này, ừ, không thể về Trung Quốc, ừ, lão Đặng nói, anh em, không được rồi, quay lại thôi, tôi nói, không quay lại, chết cũng về Trung Quốc, chỉ còn cái xác cũng phải về Trung Quốc!
Thuyền lật, nước đến ngực, sóng dẩy vào bãi cát, sóng biển cuồn cuộn, ừ, như ngàn vạn con ngựa phi nước đại, hí vang trời. Sao đầy trời, mặt biển lấp lánh lân tinh. Hàn Chim lạnh đến mức không nói thành lời được. Chú Tốt khóc thút thít. Lão Đặng nói:
- Anh em, trời không dồn ai vào ngõ cụt, điều quan trọng là đừng ngã lòng?
Hàn Chim hỏi:
- Anh Đặng, anh lớn tuổi hơn, anh bảo nên làm thế nào bây giờ?
Lão Đặng nói:
- Chúng mình là những con vịt nuôi trên cạn, không có kinh nghiệm, ra biển chỉ có chết. Trốn được ra đâu có dễ! Thế này nhé, ta hãy lên núi nghỉ một ngày, tối mai, bắt một ngư dân người Nhật đưa chúng ta về?
Tối hôm sau, họ nấp bên vệ đường, tay cầm gậy, đá. Đợi mãi mới thấy người đội đèn hôm trước. Hàn Chim nhào ra, ôm chặt eo lưng, quật anh ta xuống đất. Anh ta kinh hoảng thét lên một tiếng rồi ngất luôn. Lão Đặng gỡ chiếc đèn nhìn kỹ, thì ra là một phụ nữ mặt vàng bủng. Chú Tốt giơ hòn đá lên, nói:
- Đập chết nó đi, nếu không nó sẽ đi báo đấy.
Lão Đặng nói:
- Thôi đừng, bọn giặc bất nhân, chúng ta không thể bất nghĩa, giết người đàn bà này, Thiên Lôi sẽ đánh chết chúng ta!
Họ bỏ lại người đàn bà, vội vã rút vào rùng. Chợt trông thấy trên bãi biển có đốm lửa. Có lửa là có người. Không cần ra hiệu, cả ba nín thở, bò về phía ánh lửa. Hàn Chim nghe thấy chiếc tạp đề mặc trên người miết trên cát lạo xạo ánh đèn hắt ra từ một căn nhà bằng gỗ. Xung quanh nhà là những lọ thủy tinh nuôi rau câu và một số lốp ô tô cũ nát. Hàn Chim ngó qua khe hở của chiếc cửa đơn sơ trông thấy một ông già đầu bạc đang ngồi ăn cơm, mùi thơm của cơm khiến ba người đau quặn ruột. Lửa giận bốc lên đầu, tiên sư chúng mày, bắt chúng ông ăn rau ăn cỏ, ăn lá cây, còn chúng mày thì ăn cơm. Hàn Chim định xông vào thì cổ tay đã bị lão Đặng giữ chặt. Lão Đặng kéo hai người ra một quãng xa, rồi ngồi xuống, chụm đầu bàn bạc. Hàn Chim nói:
- Sao không xông vào? Lão Đặng nói: - Người anh em, đừng vội, cho ông ta ăn xong cơm đã.
- Ông anh tốt bụng thật đấy - Chú Tốt cằn nhằn.
Lão Đặng nói:
- Này chú, chúng ta về được Trung Quốc hay không, hoàn toàn nhờ vào ông già này. Tôi xem ông ta cũng là người nghèo, đừng đánh ông ta, nên từ tốn đề nghị ông ta giúp đỡ. Ông ta nhận lời thì tốt, không nhận lời thì hãy dùng vũ lực. Tôi sợ các vị đã xông vào là hăng lên, nên ra đây ta bàn kỹ một tí.
Hàn Chim nói:
- Anh Đặng, chẳng có gì phải bàn, chúng tôi sẽ làm theo lời anh!
Họ xông vào nhà, ông già sợ cứng người. Ông rót nước mời họ. Trông thấy khuôn mặt ông già héo quắt vì gió biển, Hàn Chim thấy trong lòng không nỡ. Lão Đặng nói:
- Cụ ơi! Chúng tôi là lao công người Trung Quốc, xin ông chở chúng tôi trở về quê hương!
Ông già giương cặp mặt ngây dại nhìn họ, vái lia lịa. Lão Đặng nói:
- Cụ đưa chúng tôi về Trung Quốc, thì dù có phải bán hết nồi niêu xoong chảo, bán vợ đợ con để có đủ tiền cho cụ trở lại nơi này chúng tôi cũng sẵn sàng! Nếu cụ muốn ở lại Trung Quốc thì chúng tôi coi cụ như cha, chúng tôi ăn gì cụ ăn nấy. Kẻ nào không giữ lời thì kẻ ấy không phải giống người!
Ông già quì sụp xuống đất, miệng lẩm bẩm những câu khó hiểu, dập đầu lạy như tế sao, nước mắt nước mũi chảy ràn rụa. Hàn Chim sốt ruột đụng vào ông già một cái, ông già kêu toáng lên như lợn bị chọc tiết rồi bỏ chạy. Hàn Chim kéo ông già lại, ông già cắn Hàn Chim một miếng vào tay. Hàn Chim nổi cơn điên, vó lấy con dao thái rau kề vào cổ ông già, dọa:
- Câm mồm, kêu lên là tôi giết ông?
Ông già im bặt, mắt chớp lia lịa. Hàn Chim nói:
- Anh Đặng này, đã đến nước này thì không thể làm khác, đưa cái của này lên thuyền, dùng dao bắt lão phải chở?
Ba người tìm được dao chẻ củi, gậy gộc, dùng dây ni lông trói ông già lại, rồi vừa đùn vừa đẩy ông ta ra bãi biển. Mặt biển đen kịt, gió gào thét. Nhưng vừa ra khỏi chỗ rẽ thì đã trông thấy một đám đèn đuốc rầm rập chạy tới. Ông già gỡ được dây trói, kêu toáng lên. Lão Đặng nói:
- Anh em, chạy thoát thân đi!
Họ chạy lên núi, buồn đến nỗi không ai nói một câu, ngồi chờ sáng, không biết làm gì. Hàn Chim nói:
- Tại sao cứ phải đi đường biển? Tôi không tin là Nhật Bản không có đất liền với Trung Quốc. Chẳng lẽ bọn lính Nhật đông như kiến cỏ đều lên tàu thủy sang Trung Quốc?
Chú Tốt nói:
- Vậy thì phải bao nhiêu là tàu, làm gì có nhiều tàu như thế?
Hàn Chim nói:
- Ta lần theo bờ biển, thế nào cũng có lúc gặp đường cái, đi vòng thì đi vòng, năm nay chưa gặp thì sang năm, đi miết thế nào cũng về đến Trung Quốc.
Lão Đặng nói:
- Cũng đành vậy thôi. Hồi đốn gỗ ở núi Trắng Bạch, tôi nghe nói Nhật Bản liền với Triều Tiên, chúng ta lên Triều Tiên đã rồi về Trung Quốc, chết bởi tay người Triều Tiên còn sướng hơn chết trong tay bọn Nhật?
Ba người đang trao đổi thì nghe thấy tiếng người ồn ào dưới chân núi, tiếng chó sủa và tiếng thanh la. Hỏng rồi, bọn Nhật lên núi lùng sục rồi! Lão Đặng nói:
- Chúng ta đừng để lạc nhau, một mình là bị chúng tóm đấy!
Nhưng rồi họ cũng bị mỗi người mỗi ngả. Hàn Chim nấp sau một bụi trúc, trông thấy một phụ nữ mặc chiếc áo quân phục cũ của đàn ông, hai tay cầm khẩu súng săn, bên trái bên phải là mấy ông già cầm dao chẻ củi, gậy gộc, theo sau là một bé trai dùng cán xẻng gõ vào chiếc chậu đồng cũ. Mấy con chó gầy nhom chạy phía trước, sủa ăng ăng. Có lẽ để thêm can đảm, người phụ nữ và mấy ông già vừa chạy vừa la hét hoặc đôi khi nổ một phát súng. Một con chó đen đốm trắng chạy đến trước bụi trúc có Hàn Chim nấp thì chững lại, cụp đuôi giữa hai chân sau, vừa giật lùi vừa sủa như điên. Trạng thái khác thường của con chó khiến người phụ nữ chú ý. Chị ta chĩa súng vào bụi trúc quát to, cánh tay khẳng khiu thò ra ngoài ống tay áo rộng, run bần bật. Hàn Chim từ trong bụi trúc nhảy vọt ra, chĩa dao xông thẳng vào người phụ nữ. Bị bất ngờ, chị ta quẳng súng bỏ chạy, Hàn Chim chém một nhát vào đầu chị ta, chiếc nón đội trên đầu bay đi một miếng, lộ ra mớ tóc vàng cháy. Chị ta rú lên một tiếng, ngã lăn ra. Hàn Chim chỉ ba bước nhảy đã khuất sau những lùm cây rậm rạp dưới khe.
Tiếng quát tháo của bọn Nhật, tiếng chó sủa náo động cả khu rừng.
Lão Đặng và chú Tốt bị bắt lại. Thế lại hóa may, sau khi Nhật đầu hàng được một năm, hai người được coi là tù binh, trao trả Trung Quốc. Còn người chạy thoát là Hàn Chim thì sau mười ba năm sống một mình trong rừng sâu, một người đi săn lôi từ trong hang tuyết ra vì tưởng nhầm con gấu ngủ đông mới thoát nạn. Khi mùa đông cuối cùng băng tuyết đầy trời bắt đầu, mái tóc Hàn Chim đã dài hơn một thước. Mấy năm đầu, anh đôi khi cắt ngắn bớt bằng con dao thái rau, nhưng sau vì mài nhiều, con dao hết nước thép, trở thành vô dụng, tóc anh cứ thế mà dài ra. Chiếc tạp đề và chiếc áo cánh phụ nữ đã rách như xơ mướp, anh vắt chúng lên bụi gai, còn anh thì che thân bằng rơm rạ ăn trộm ngoài đồng hoặc bao tải dựng phân hóa học, mỗi bước đi lại kêu sột soạt, chẳng khác quái vật thời khủng long. Giống như thú rừng, anh khoanh lấy lãnh địa của mình. Một bầy sói xám rất nể sợ anh, chưa bao giờ dám chọc tức anh. Anh biết bầy sói này là con cháu của cặp vợ chồng sói già. Mùa đông năm thứ hai, đôi vợ chồng sói này định xơi tái anh, anh cũng rất muốn lột da chúng để làm đệm. Thoạt đầu, hai bên cứ đứng xa mà chiếu tướng nhau. Hai con sói có vẻ sợ anh, nhưng tính kiên trì của loài thú ăn thịt, khiến chúng nằm phục hết đêm này sang đêm khác ở bên kia suối đối diện với hang anh ở.
Chúng ngẩng mặt hú dài dưới ánh trăng lạnh, tiếng hú thê thảm đến nỗi những vì sao run rẩy nhấp nháy liên tục. Về sau, không thể chịu đựng được nữa, anh ăn một lần hai suất rau câu, ăn thêm một đùi thịt nhím, tập trung tinh thần để tiêu hóa những thứ đã ăn, xoa bóp chân tay xương cốt, chuẩn bị xuất kích. Vũ khí chỉ có mỗi con dao thái rau đã sứt mẻ và chiếc gậy gỗ đầu vót nhọn để đào rễ cây. Anh đem theo cả hai, đẩy hòn đá chặn cửa hang, chui ra ngoài. Vợ chồng sói trông thấy một con vật mà chúng chưa bao giờ gặp, một con vật cao to mình đầy vảy vàng kêu loạt soạt, tóc trên đầu dài như làn khói, ánh mắt xanh biếc. Anh vừa quát tháo vừa tiếp cận vợ chồng sói, nhưng khi chỉ còn cách mấy bước, anh ngập ngưng khi nhìn thấy cái miệng rộng, hàm răng trắng nhởn, cái lưỡi đỏ chót của con sói đực, không dám tiến, cũng không dám lui, anh biết rõ bây giờ mà rút lui thì hậu quả sẽ như thế nào. Hai bên trong thế giằng co, con sói hú, anh cũng hú, thậm chí hú dài hơn, thê thảm hơn? Con sói nhe răng, anh cũng nhe răng, lại còn gõ sống dao vào gậy để trợ oai. Con sói nhảy nhót dưới trăng đuổi theo cái bóng của đuôi nó, anh cũng rung rung những thứ khoác trên người, giả vờ vui vẻ nhảy như điên, và quả thật anh rất vui vì trông thấy cái nhìn bè bạn và đầm ấm trong mắt con sói.
Tại buổi báo cáo thứ chín, Hàn Chim đưa thêm cuộc đối thoại giữa người và sói vào đoạn này. Miệng lưỡi anh bây giờ dẻo quẹo vì nói nhiều. Con sói - sói cái chứ không phải sói đực, phụ nữ bao giờ cũng khéo miệng: Hàn đại ca, ta kết bạn với nhau đi! Hàn Chim bĩu môi, nói: Kết thì kết, nhưng tôi nói để các người biết, giặc Nhật tôi còn không sợ, lẽ đâu tôi sợ các người? Sói đực nói: Đánh nhau thật chưa chắc anh đã thắng nổi chúng tôi! Trông kìa, răng anh đã lung lay, hàm anh đã yếu lắm rồi! Sói đực vừa nói vừa ngoạm một phát vào que củi to bằng bắp tay bên bờ suối, que củi gãy đôi. Hàn Chim lạnh cả người, nói: Tao có dao đây! Nói rồi giơ dao chém bay một miếng vỏ trên thân cây. Sói cái nói: Đàn ông các anh chỉ thích đánh nhau. Sói đực nói: Tôi biết anh cũng không phải tay vừa, vậy ta làm hàng xóm với nhau, không ai làm phiền ai, được không? Hàn Chim nghĩ: Mẹ kiếp, mình ở cái thế chẳng đừng, phải hòa giải với chúng, nhưng trong bụng thì sợ, nhưng vẫn phải nói cứng. Tôi nói: Được thôi, hàng xóm thì hàng xóm...
Đoạn đối thoại giữa nói và sói khiến đám đông dưới khán đài không nhịn được cười. Hàn Chim lại càng cao hứng định nói tiếp, khiến người điều khiển chương trình phải đề nghị anh nên chuyển sang chuyện khác. Kim Đồng tin rằng có thể có sự thỏa thuận ngầm giữa Hàn Chim và sói, vì rằng trong khi đánh bạn với động vật cậu vô cùng kinh ngạc về trí thông minh của chúng, chẳng hạn con dê cho cậu sữa thì cậu và nó chỉ thiếu nước nói chuyện với nhau như người.
Hàn Chim biết rất rõ mối quan hệ huyết thống của bầy sói, biết tuổi tác, thứ bậc trong bầy đàn, thậm chí sở thích của chúng. Ngoài bầy sói, ở hẻm núi này còn có một con gấu đực mắc bệnh tâm thần, nó ăn tất cả mọi thứ, rễ cây, lá cây, quả dại, động vật nhỏ. Nó bắt được những con cá vẩy bạc rất to dưới suối, nhai rau ráu, ăn cả vây như ăn củ cải. Một bận vào mùa xuân, nó tha về một cái chân phụ nữ, ăn không hết, nó vứt xuống suối. Ăn no rồi, con gấu không biết làm gì, bèn giải trí bằng cách nhổ cây. Trong lãnh địa của nó, tất cả những cây nhỏ đều bị nó nhổ bật gốc, không còn sót cây nào.
Rồi đến một hôm - trong buổi báo cáo lần thứ hai, Hàn Chim kể, anh ta có một cuộc ác đấu với con gấu. Anh sức yếu, bị con gấu quật ngã. Nó ngồi lên người anh, hai chân trước đấm thùm thụp lên ngực, cất tiếng cười điên dại. Dưới sức nặng của nó, anh có cảm giác xương cốt của mình bị gãy vụn. Trong lúc tuyệt vọng, anh bỗng nảy ra sáng kiến gãi dái con gấu. Nó khoái quá giơ cả hai chân lên. Anh vừa gãi vừa lấy sợi dây trong bọc ra, dùng một tay và miệng thắt thành cái thòng lọng rồi lồng vào cuống dái con gấu thắt lại, còn đầu kia thì buộc vào một gốc cây nhỏ bên cạnh. Sau đó anh luồn ra rồi bỏ chạy. Con gấu chồm lên đuổi theo và nó bị ngất luôn. Hàn Chim nói, cũng là đau nhưng đau ở dái thì kinh khủng, hoàn toàn không như đau ở chỗ khác, đàn ông biết rất rõ chuyện đó, những phụ nữ vô lại cũng biết rõ chuyện đó. Tóm được dái là coi như tóm được tính mạng. Câu chuyện của Hàn Chim khiến những người từng đến Quan Đông ngờ ngợ. Họ có được nghe chuyện như vậy với con gấu, nhưng người làm chuyện đó là một phụ nữ xinh đẹp, mà con gấu thì thuộc loại thích trêu ghẹo phụ nữ. Hàn Chim đang nổi tiếng nên họ đành để bụng, không ai dám bắt bẻ.
Theo lời Hàn Chim kể thì mùa đông cuối cùng anh sống trên một vách núi trông ra biển. Anh nói rằng, mười mấy năm nay, chỗ ở mùa đông của anh cứ nhích dần về đây. Anh đào một cái hang trên vách núi, cửa hang trông xuống một làng nhỏ dưới khe. Anh trữ trong hang một bó rau câu, một bó cá khô và hơn chục cân đậu ván. Sáng sớm và chiều tối mỗi ngày anh ngồi trong hang, hai tay thu trong bẹn, nhìn những cuộn khói bốc lên mà như ngây như dại, những mẩu hồi ức lướt qua trong đầu nhưng chỉ là những mảnh vụn, không sao ghép được một chuyện hoàn chỉnh, kể cả một khuôn mặt. Tất cả đều bập bềnh như trên mặt nước, thoắt cái đã thay đổi, không sao nắm bắt được. Khi tuyết đã phủ kín, người trong làng rất ít khi ra ngoài. Một con chó đi trên đường cũng để lại những dấu chân đen sì. Các ống khói trong làng ngày đêm tỏa khói. Bầy quạ cãi nhau suốt ngày trong rừng cây đầu thôn. Trên bãi cát có mấy chiếc thuyền cũ. Sát mép nước có một lớp băng mỏng, luôn luôn bị thủy triều ngày hai lần phá vỡ. Hàn Chim cứ ngồi thu lu như thế cả một mùa đông, đói quá thì nhấm nháp mấy cọng rau câu, khát thì nhai tuyết, chập chờn lúc ngủ lúc thức, đại tiện thì dùng tay bốc phân vứt ra ngoài hang. Một mùa đông chỉ đi đại tiện hơn chục lần.
Sang xuân tuyết tan, nước thấm xuống nóc hang. Khi anh ra ngoài hang vứt phân, đã trông thấy những mảng màu nâu của mái nhà, nước biển cũng chuyển màu xanh, nhưng trên núi thì vẫn trắng xóa. Một hôm, anh đoán khi đó là giữa trưa, bên ngoài hang có tiếng chân giẫm trên tuyết lạo xạo. Tiếng chân đi vòng quanh rồi lên trên nóc hang. Anh ngồi co rúm trong hang, hai tay không ôm bẹn nữa, mà ghì chặt chiếc xẻng đã mòn vẹt, sợ đến mụ người đi, mỏ hôi tay ướt đẫm, cứ tuột khỏi chiếc xẻng. Trên đầu có tiếng đào đất bình bịch, rồi đất vụn rơi lả tả, một luồng ánh sáng dọi thẳng xuống. Theo bản năng, anh nép sang một bên, mắt nhìn không chớp tia nắng. Phía trên vẫn tiếp tục đào, đất cục lẫn với tuyết lại trút xuống, rồi đầu nòng khẩu súng săn thò xuống nổ một phát, đất bắn tung tóe, mùi thuốc súng nghẹt thở. Anh úp mặt vào giữa hai đầu gối, không dám ho. Sau khi nổ phát súng, người kia chừng như yên tâm nên đi đứng không cẩn thận, thụt luôn một chân xuống lỗ thủng. Khi trông thấy cái chân bọc bằng một miếng da thú, Hàn Chim không kịp suy nghĩ gì nữa, cầm xẻng vụt luôn. Người kia kêu thét lên bỏ chạy, tiếng chân trên tuyết lạo xạo dội vào trong hang. Anh nghĩ, người này thể nào cũng gọi người tới, không để họ bắt sống. Anh cố thoát ra khỏi tình trạng mụ mẫm, suy nghĩ mạch lạc hơn. Phải chạy đi nơi khác. Anh gỡ tấm ván chặn cửa hang, vớ lấy một nắm rau câu, một miếng vải buồm nhặt được ở sân phơi của một gia đình người Nhật từ mùa thu năm ngoái, rồi chui ra khỏi hang. Anh cảm thấy lạnh buốt toàn thân, mắt đau nhói dưới ánh sáng gay gắt, ngã lăn ra như một cây gỗ mục. Anh cố đứng dậy, nhưng lại lập tức ngã lăn ra. Anh đau xót nghĩ thầm: Thế là hết, mình không còn đi đứng được nữa rồi. Anh không dám mở mắt, hễ mở mắt là đau buốt không chịu được Bản năng muốn sống đã mách anh phải theo sườn dốc mà bò xuống. Anh nhớ mang máng rằng, phía bên phải dưới chân dốc có một vạt rùng nhỏ. Anh cảm thấy mình bò đã lâu rồi, đáng lẽ đã đến vạt rùng ấy rồi, nhưng khi mở mắt ra mới biết chưa được năm mươi thước.
Lúc trời gần tối, anh bò đến vạt rừng. Lúc này mắt anh đã quen dần với ánh sáng, dù vẫn còn buốt và chảy nước mắt. Anh vịn vào một cây thông nhỏ, đứng lên, nhìn về cửa hang cách đó khoảng một trăm thước. Trên tuyết còn lưu lại vết tích của anh đã bò qua. Cái làng nhỏ bên dưới có tiếng gà kêu chó cắn, khói lam bốc lên từ những mái nhà đầy vẻ thanh bình. Anh nhìn lại mình, rách như tổ đỉa, đầu gối và bụng rớm máu, những ngón chân lở loét bốc mùi khăn khẳn. Một cảm giác thù hận bỗng lóe lên trong anh, như có tiếng gọi từ trên cao vọng xuống: Hàn Chim, Hàn Chim, người là thằng đàn ông, không được để bọn Nhật bắt lại!
Anh từ gốc cây này bám sang gốc cây kia, rồi cứ như thế anh lần vào rừng sâu. Đêm hôm ấy lại có một trận tuyết rất to. Anh ngồi xổm dưới một gốc cây nhỏ, lắng nghe tiếng gầm gào của biển cả và tiếng hú của bầy sói, rồi lại rơi vào trạng thái mụ mẫm. Tuyết lấp kín anh, xóa sạch dấu vết chiều hôm trước anh để lại.
Sáng sớm hôm sau, anh trông thấy ánh nắng ban mai trải màu ngọc bích lên mặt tuyết. Từ bên kia sườn núi, từ chỗ cái hang cũ vọng lại tiếng người ồn ào, tiếng chó sủa. Anh ngồi yên, lắng nghe những tiếng động ấy như từ một nơi xa xôi vọng tới..
Rồi một quầng lửa bùng lên, ngọn lửa không một tiếng động, mềm mại như lụa dập dòn nhảy múa. Giữa quầng lửa là một thiếu nữ mặc quần trắng, ánh mắt như mắt chim, xa vắng và đơn độc. Anh đội tuyết chồm tới và ngã lăn bất tỉnh.
Những con chó săn đánh hơi rất thính, dẫn theo những người thợ săn đến chỗ Hàn Chim. Anh chống hai tay trên tuyết, ngước nhìn những họng súng đen ngòm. Anh cất tiếng chửi nhưng lại sủa như chó sói. Những người thợ săn nhìn anh ngạc nhiên, còn lũ chó thì hốt hoảng lùi lại
Một người thợ săn bước tới cầm cánh tay lôi anh dậy. Anh cảm thấy lồng ngực như muốn vỡ, vận hết sức tàn còn lại ôm chặt lấy người thợ săn cắn vào mặt anh ta bằng hai hàm răng không còn một chút sức lực rồi ngã lăn ra. Người kia cũng ngã theo. Anh không hề chống cự mặc cho những người thợ săn gỡ từng ngón tay cong cong như móc câu của anh, và hoảng hốt khi thấy người ta kéo anh như kéo một xác chết về làng.
Trong một quán tạp hóa nhỏ, anh bị cơn đau rất khó diễn tả làm cho tỉnh dậy. Anh nghe thấy lửa réo ù ù trong ống khói bằng sắt tây, khắp mình đau buốt như kim châm. Anh giãy giụa, gào thét tránh xa bếp lửa. Những người thợ săn chợt hiếu ra, khênh anh sang một gian để những thứ lặt vặt, gian này không có bếp lò. Người phụ nữ chủ hiệu tạp hóa chăm sóc anh rất chu đáo. Khi anh húp thìa nước đường đầu tiên, nước mắt tự nhiên ứa ra.
Ba hôm sau, những người thợ săn cuốn anh trong một tấm chăn chiên, khênh anh đến một nơi có những người ăn mặc đàng hoàng, hỏi anh gì đó bằng tiếng Nhật. Lưỡi anh ngọng cứng, không nói được thành lời. Sau đó, anh kể lại:
- Họ đem đến một chiếc bảng đen, ừ phấn viết, để tôi viết viết gì nhỉ ừ, ngón tay tôi co quắp như vuốt chim ưng, ừ, cầm phấn mà cổ tay đau buốt, cầm không chặt, viết gì nhỉ, tôi nghĩ, nghĩ mãi, à, nghĩ ra rồi, ừ, Trung Quốc, ừ, Trung Quốc, hai chữ Trung Quốc, tôi viết lên bảng đen hai chữ, Trung Quốc xiên xẹo, hai chữ thật to: Trung Quốc.
39
Sau hai tháng đi khắp vùng Cao Mật nói chuyện hơn năm mươi buổi, Hàn Chim trở lại nhà tôi. Khi sự hâm mộ Hàn Chim dần lắng xuống, người ta bắt đầu nêu câu hỏi về những chuyện mà Hàn Chim kể vì anh ta càng kể càng phong phú, càng ly kỳ. Có thể thế được chăng? Mười lăm năm ở miết trong núi được chăng?
Hàn Chim trả lời:
- Đ. mẹ anh, mười lăm năm của người ta anh nói gọn trong một câu đã hết, chưa kịp mỏi lưng, còn ta thì ngóng hết năm này sang năm khác tháng này sang tháng khác, giờ này sang giờ khác, phút này sang phút khác! Các người có giỏi, cứ thử ngóng năm năm xem nào!
- Mươi lăm năm thì quả là kinh khủng, nhưng những chuyện như đánh nhau với gấu, đấu khẩu với sói liệu có thật không?
Hàn Chim tức điên lên:
- Đ. mẹ anh, nếu không đánh nhau với gấu, đấu khẩu với chó sói thì tôi hỏi các anh mười lăm năm trong rừng sâu núi thẳm ở Nhật, tôi làm những gì?
Cách đây hai tháng, khi bước chân vào nhà tôi lần đầu anh khiến tôi giật mình. Tôi chỉ còn nhớ mang máng những chuyện liên quan đến Tiên Chim, nhưng đó là chuyện quan hệ nam nữ giữa chị với Thằng Câm và chuyện chị nhảy từ vách núi xuống bãi cỏ, hoàn toàn không nhớ chị có người chồng chưa cưới quái đản như thế này. Tôi né sang một bên để anh vào sân. Chính khi đó chị Lai Đệ nửa mình trên ở trần, nửa dưới quấn bằng chiếc khăn trải giường màu trắng, chạy ra sân. Thằng Câm dùng nắm tay đấm thủng một lỗ to tướng giấy dán cửa sổ rồi thò nữa người ra ngoài, quát to: - Cởi cởi! Lai Đệ ngã vật xuống đất khóc hu hu, chiếc khăn giường quấn quanh người thấm máu loang lổ. Chị xuất hiện trước mắt Hàn Chim trong tình cảnh như vậy. Khi trông thấy trong sân có người lạ, chị vội quấn chặt hơn chiếc khăn trải giường, máu từ bắp chân rỏ xuống đất. Mẹ tay dắt chị Tám, tay cầm roi lùa con dê vào sân. Mẹ không ngạc nhiên lắm về tình trạng khó coi của chi Lai Đệ, nhưng khi nhìn thấy Hàn Chim, mẹ ngồi phệt xuống đất.
Về sau mẹ nói với tôi, khi ấy mẹ biết ngay rằng người đòi nợ đã tới. Đã đến lúc phải trả cả vốn lẫn lãi món nợ ăn thịt chim của mười lăm năm trước. Nhà Thượng Quan hy sinh cô con gái đầu lòng đổi lấy vinh hoa phú quí, nay sắp kết thúc cùng với chuyện Hàn Chim trở về. Mặc dù vậy, mẹ vẫn tiếp đãi Hàn Chim tử tế. Con quái điểu như từ trên trời sa xuống này ngồi trong sân nhà tôi, hai tay ôm bẹn theo thói quen, mắt đờ đẫn nhìn mẹ và chị Lai Đệ đang bận rộn quanh bếp. Chị Lai Đệ rất xúc động trước cảnh ngộ của Hàn Chim, tạm thời quên đi nỗi thống khổ mà thằng Câm đã gây ra cho chị. Chị mặc áo ngoài vào, đốt bếp giúp mẹ. Thằng Câm ra sân, nhìn Hàn Chim bằng cặp mắt khiêu khích. Bên bàn ăn, Hàn Chim lóng ngóng cầm đũa, mãi không gắp được miếng thịt gà. Mẹ gỡ đôi đũa trong tay anh ta, ra hiệu bảo anh ăn bốc. Anh ngẩng nhìn mẹ, hỏi:
- Cô... vợ tôi đâu?
Mẹ nhìn thằng Câm bằng ánh mắt căm hờn, hắn đang nhai lấy nhai để cái đầu gà.
Mẹ nói:
- Nó đi xa rồi!
Bản chất lương thiện khiến mẹ không thể từ chối Hàn Chim ở lại, huống hồ còn có lời của ông trưởng khu và ông Cục trưởng Cục Dân chính huyện:
- Anh ấy không có gia đình, không nhà cửa. Với người từ địa ngục trần gian trở về, ta nên thỏa mãn mọi yêu cầu, vả lại...
Mẹ ngắt lời ông Cục trưởng Cục Dân chính, nói:
- Khỏi nói nhiều, xin cho vài người đến dọn dẹp chái hiên phía đông.
Vậy là người anh hùng huyền thoại Hàn Chim ký ngụ tại gian chái phía đông trong nhà tôi, nơi trước kia chị Tiên Chim từng ở. Mẹ lấy bức tranh đầy bụi giắt trên xà nhà xuống, treo lên tường. Bức tranh đã bị mối mọt ăn thủng lỗ chỗ. Hàn Chim đi diễn thuyết trở về, vừa trông thấy bức tranh liền nói:
- Tôi biết kẻ nào hại vợ tôi rồi? Tôi chẳng chóng thì chầy phải trả thù? Cuộc tình kỳ lạ giữa chị Cả và Hàn Chim như hoa cây thuốc phiện, rực rỡ và cuồng nhiệt nhưng độc. Buổi trưa hôm ấy, Thằng Câm ra hợp tác xã cung tiêu uống rượn. Chị Cả ngồi giặt chiếc quần lót đầy vết máu dưới gốc đào. Mẹ ngồi trên giường ghép chiếc phất trần bằng lông gà trống, chợt nghe thấy tiếng kẹt cổng, Hàn Chim xách chiếc lồng có con chim nhỏ lông cánh rất đẹp, bước vào. Anh ta đã trở lại nghề bẫy chim xưa kia. Anh dừng lại bên gốc đào, nhìn không chớp cái cổ chị Lai Đệ. Con chim nhỏ xù lông cổ, cất tiếng hót réo rắt gọi bạn tình, tiếng hót đằm thắm đến nỗi làm rung lên sợi dây tình cảm của những người phụ nữ. Mẹ cảm thấy trong lòng vô cùng áy náy: Con chim này rõ ràng là hóa thân của Hàn Chim, một Hàn Chim đầy đau khổ? Mẹ trông thấy Lai Đệ từ từ ngẩng đầu lên ngắm cái ức rất đẹp và hai con mắt đen nhánh bằng hai hạt vừng của con chim. Mẹ nhìn khuôn mặt ửng hồng và đôi mắt long lanh của chị Lai Đệ, hiểu rằng cái điều mà mẹ lo nhất sắp sửa diễn ra cùng với tiếng hót của con chim nhỏ. Mẹ không còn sức để ngăn chặn vì mẹ biết rằng bọn con gái nhà Thượng Quan một khi đã có cảm tình với người đàn ông nào, thì dù có tám ngựa cũng không kéo lại. Mẹ nhắm mắt, tuyệt vọng hoàn toàn.
Với niềm xúc động sâu xa, Lai Đệ từ từ đứng lên, hai tay đầy bọt xà phòng. Con chim chỉ to bằng hạt quả đào mà có thể đa tình đến thế, hót say sưa đến thế. Chị cảm thấy hình như con chim muốn chuyển cho chị một thông điệp thần bí, một sự lôi cuốn vừa hứng khởi lại vừa dáng sợ. Chị cố thoát khỏi sự dụ dỗ mê hoặc đó, đứng lên định đi vào trong nhà, nhưng hai chân như mọc rễ không nhúc nhích, còn hai tay thì vươn về phía con chim. Hàn Chim lắc tay một cái, con chim bay vụt tới, đậu trên tóc chị Lai Đệ. Chị cảm thấy những cái vuốt tí xíu bám vào mái tóc. ánh mắt chị Lai Đệ bắt gặp ánh mắt hiền lành, u uất của Hàn Chim, và nỗi uẩn khúc mãnh liệt dâng lên trong lòng chị. Hàn Chim gật đầu với chị rồi đi vào trong phòng, con chim bay theo anh.
Chị Lai Đệ ngẩn người. Chị nghe thấy tiếng mẹ gọi giật giọng, nhưng chị không quay đầu lại, chạy vào phòng Hàn Chim, vừa chạy vừa khóc không một chút xấu hổ. Hàn Chim giang rộng hai cánh tay đã từng đánh nhau với gấu, ôm chị. Nước mắt chị thấm đẫm ngực anh. Chị cho rằng chị hoàn toàn có quyền đánh anh, và anh cũng vui lòng để cho chị đánh, hai bàn tay to lớn của anh ve vuốt sống lưng chị, theo vết lõm dọc theo cột sống. Trong khi đó, con chim đậu trên bàn thờ tranh Tiên Chim sung sướng cất tiếng hót, cái miệng xinh xinh đỏ hồng nước bọt lấp lánh như những ngôi sao nhỏ.
Chị Lai Đệ thản nhiên cởi bỏ quần áo, chỉ vào những vết bầm tím trên người, bảo Hàn Chim:
- Anh xem này, Thằng Câm đã giày vò em gái em đến chết, giờ đây nó lại hành hạ em, em cũng sắp chết rồi, không còn chút hơi sức nào nữa? Nói xong, chị nằm phục trên giường, khóc hu hu.
Đây là lần đầu tiên Hàn Chim nhìn kỹ thân thể người con gái. Anh ngạc nhiên nhận ra rằng, đàn bà, linh vật của tạo hóa mà vì số phận hẩm hiu, anh chưa một lần được hưởng, đẹp hơn tất cả những cái dẹp mà anh đã từng trông thấy. Anh xúc động ứa nước mắt khi nhìn cặp chân thon dài, cặp mông tròn lẳn, đôi vú bè ra vì đè lên chăn, màu da trắng như ngà, mặc dù trên đó đầy những vết thâm tím. Ngọn lửa thanh xuân bị kìm nén trong suốt mười lăm năm cơ cực, cháy bùng lên. Anh quì xuống áp cặp môi nóng bỏng hôn lên gan bàn chân mịn màng của Lai Đệ.
Một cảm giác rân rân từ gót chân lan khắp thân thể, khiến khi co rúm lại rồi đột nhiên òa ra như vỡ đê. Chị lật ngửa; hai chân dạng ra rồi ưỡn người vòng tay ghì chặt Hàn Chim. Bằng kinh nghiệm phong phú của mình, chị hướng dẫn người đàn ông còn là trai tân này. Khoảng giữa những cái hôn điên cuồng, chị vừa thở vừa nói:
- Cho cái Thằng Câm ấy, cái thằng nữa người nửa ngợm ấy chết đi, cho quạ mổ mù mắt nó đi!...
Trong tiếng rú vì hoan lạc của hai người, mẹ hốt hoảng đóng sập cửa lại, gõ liên hồi chiếc chảo vỡ để át đi. Ngoài ngõ đẩy những học sinh tiểu, trung học đi tìm đồng nát sắt vụn. Nồi niêu xoong chảo, cuốc xẻng dao búa, cả đến móc cửa, vòng sẹo mũi trâu bò, cặp tóc phụ nữ... của mọi nhà đều được đem đi luyện thép. Vì trong nhà tôi có anh hùng quân đội Tôn Bất Ngôn và anh hùng huyền thoại Hàn Chim, nên các đồ sắt mới còn. Mẹ mong cho cuộc tình giữa chị Cả và Hàn Chim mau chóng kết thúc. Mẹ làm người bảo trợ không hợp pháp cho mối tình của hai người, vì mẹ thông cảm và day dứt khi thấy chị Cả bị Thằng Câm hành hạ, vì mẹ thông cảm với cuộc sống đầy cơ cực của Hàn Chim và món nợ thịt chim ngon lành cách đây mười lăm năm, đồng thời để tỏ lòng thương nhớ và nể trọng chị Tưởng Đệ. Tuy mẹ tiên đoán được kết cục chẳng hay ho gì, nhưng mẹ vẫn cố sức che chở cho họ để cái kết cục bi thảm đó chậm xảy ra. Nhưng trên thực tế, với một người đàn ông như Hàn Chim, sau khi đã cảm nhận ở người đàn bà tình yêu bốc lửa mà vẫn dịu dàng, thì không gì có thể trói buộc nổi anh. Đây là người đàn ông đã sống mười lăm năm trong rừng sâu như thú rừng, người đàn ông trong mười lăm năm đánh đu với cái chết, thì trong con mắt anh ta Tôn Bất Ngôn không đáng một xu! Với Lai Đệ, người đàn bà đã qua tay ba người đàn ông: Sa Nguyệt Lương, Tư Mã Khố? Tôn Bất Ngôn khác nhau hoàn toàn, người đàn bà trải qua lửa dạn, từng nếm mùi vinh hoa phú quí, từng trải qua cuồng hoan tột đỉnh kiểu Tư Mã Khố hoặc bạo ngược đến tởm lợm như kiểu Tôn Bất Ngôn, thì Hàn Chim khiến chị hoàn toàn thỏa mãn. Những cái vuốt ve tỏ vẻ biết ơn của Hàn Chim khiến chị thỏa mãn trong tình cảm làm cha mẹ, sự lóng ngóng vụng về của anh trong yêu đương khiến chị thỏa mãn với tình cảm của người thầy về mặt tình dục, sự ngốn ngấu trong ăn vụng trái cấm của Hàn Chim khiến chị thỏa mãn về dục vọng, đồng thời là sự trả thù Thằng Câm? Vì vậy, mỗi khi làm tình với Hàn Chim, chị đều nước mắt đầm đìa, khóc không thành tiếng, hoàn toàn không mang tính dâm đãng mà coi đây là hành vi cực kỳ nghiêm chỉnh của cuộc đời. Trong quá trình giao hoan, cả hai đều ngây ngất vì những ý tưởng ấy trong đầu...
Thằng Câm vọt lên từng bước rất nhanh giữa dòng người nườm nượp trên đường đầy bụi. Một toán dân công đẩy những xe quặng sắt màu nâu từ phía đông đi sang phía tây; một toán dân công khác cũng đẩy những xe quặng cùng loại đi từ tây sang đông. Thăng Câm nhảy vọt, nhảy vọt, đại nhảy vọt giữa đoàn người. Đám dân công nhìn những huy chương trên ngực thăng Câm bằng con mắt kính nể, tự động dừng lại nhường đường cho Thằng Câm tiến lên, khiến Câm ta cảm thấy thỏa mãn tột đỉnh. Hắn chỉ cao đến ngang đùi mọi người, nhưng về tinh thần thì hắn cao vạn trượng, không ai bằng hắn! Từ đó, hắn dùng toàn bộ thời gian ban ngày cho việc đi lại trên đường, uống dăm hớp rượu cho tinh thần phấn chấn, từ đầu mút phía đông nhảy vọt đến tận đầu mút phía tây của con đường. Trong khi hắn nhảy vọt trên đường, thì ở trên giường, ở dưới đất, Hàn Chim và Lai Đệ cũng không ngừng nhảy vọt. Thằng Câm người đầy bụi, hai chiếc ghế nhỏ độn tay mòn hàng tấc, đệm đít cũng bị thủng một lỗ to tướng. Cây cối trong thôn bị đốn sạch, khói đen cuồn cuộn trên cánh đồng. Kim Đồng đi theo đội diệt chim sẻ, tay giơ cao cây sào buộc mảnh vải đỏ gõ phèng phèng, thanh la dồn đuổi chim sẻ từ thôn này sang thôn kia, khiến chúng không có thời gian nghỉ ngơi, ăn uống, cuối cùng rơi xuống đất như những hòn đá. Do tác động của nhiều nhân tố, bệnh tương tư của Kim Đồng đã hết, chứng yếm thực chỉ ăn sữa, cũng khỏi luôn. Nhưng uy tín thì sa sút nghiêm trọng, cô giáo tiếng Nga Hoắc Lệ Na rất thân với cậu thì đã bị qui là phái hữu, đưa đi lao động cải tạo tại nông trường Thuồng Luồng cách trấn Đại Lan năm cây số. Trên đường, cậu trông thấy Thằng Câm, Thằng Câm cũng trông thấy cậu. Hai người giơ tay chào nhau rồi mỗi người đi mỗi ngả.
Những ngày tháng ồn ào, khắp nơi bập bùng ánh lửa trôi qua rất nhanh. Cơn cuồng nhiệt đi qua, vùng Cao Mật bước vào thời kỳ ảm đạm. Một buổi sáng trời mưa tám tã, đại đội trọng pháo gồm mười hai xe tải hạng nặng kéo mười hai cỗ lựu pháo theo con đường nhỏ hẹp phía đông nam kéo vào thị trấn Đại Lan. Khi các xe kéo pháo tiến vào thôn thì Thằng Câm đang vọt từng bước trên đường một cách uể oải vì có bao nhiêu tinh lực đã dốc vào những ngày tháng đại nhảy vọt mắt mờ đục vì uống nhiều rượu. Thân hình hắn răn chắc là thế mà bây giờ nhão ra. Sự xuất hiện đại đội pháo binh, khiến hắn rất phấn chấn, vì vậy, rất không đúng lúc, hắn lết ra giữa đường chặn đoàn xe lại. Đoàn xe bị dừng đột ngột, các binh sĩ trên xe nheo mắt vì nước mưa, nhìn con người quái dị dưới đường. Một sĩ quan nhỏ bé, súng lục bên hông, từ ca bin nhảy xuống, giận dữ quát tháo:
- Đồ khốn, không thiết sống nữa hả?
Vì đường trơn, xe lớn, Thằng Câm lại vọt ra từ một góc chết lái xe không thể nhìn thấy, mà chỉ cảm thấy có một bóng vàng trước mũi xe liền đạp phanh, dù vậy, thanh chắn vẫn va vào đầu thăng Câm, không chảy máu, nhưng sưng lên bằng quả trứng. Viên sĩ quan định mắng nữa, nhưng tim anh ta giật thót khi trông thấy tấm huân chương trên ngực Thằng Câm. Anh ta vội đứng nghiêm, xin lỗi:
- Xin lỗi thủ trưởng, xin thủ trưởng bỏ quá cho?
Thỏa mãn đến cao độ, Thằng Câm lùi lại bên đường cho đoàn xe đi qua. Các binh sĩ trên xe đều giơ tay chào, Thằng Câm cũng giơ tay chào lại bằng cách đặt cạnh bàn tay lên vành mũ rách nát. Đoàn qua xe đi, mặt đường bị cày xới nham nhở. Gió đông bắc ào ào, những hạt mưa thu rơi theo một đường xiên, trắng xóa mặt đường. Những con chim sẻ sống sót nháo nhào tìm chỗ chú mưa. Mấy con chó ướt lướt thướt, cụp đuôi đứng dưới bảng thông tin, đưa mắt nhìn Thằng Câm như chào hỏi.
Đại đội pháo đi qua đánh dấu chấm hết cho những tháng cuồng nhiệt. Thằng Câm buồn rầu trở về nhà. Khi hắn giơ chiếc ghế gõ cổng như thường ngày, cánh cổng tự động mở ra và hắn bỗng nghe thấy tiếng kẹt cửa rõ mồn một. Hắn vốn sống trong một căn buồng tĩnh mịch, nên trong một thời gian tương đối dài, Hàn Chim và chị Lai Đệ vẫn che mắt được hắn. Tất nhiên, mấy tháng vừa qua, phần lớn thời gian hắn ở ngoài phố hoặc bên lò luyện thép, khi trở về nhà thì đã mệt bã ra, ngủ như chết, trời vừa rạng sáng đã lại ra đi, không còn lúc nào ngó đến Lai Đệ. Đây là lý do chủ yếu khiến hắn không phát hiện ra sự gian dâm giữa Lai Đệ và Hàn Chim. Thằng Câm khỏi chứng điếc chỉ có thể cắt nghĩa là do đập đầu vào thanh chăn ô tô. Có lẽ do cú va đập đó, cái vật đút nút lỗ tai hắn văng ra ngoài. Tiếng kẹt cổng khiến hắn giật mình, tiếp đó, hắn ngạc nhiên đến sững sờ khi nghe thấy tiếng mưa rơi lộp bộp trên lá cây trong sân, và còn nghe rõ tiếng ngáy của bà Lỗ trong buồng. Mẹ đã không làm tròn nhiệm vụ: Quên đóng cổng. Điều khiến Thằng Câm càng lạ lùng là tiếng rên rỉ trong khoái lạc của chị Lai Đệ vọng ra từ chái đông.
Hắn đánh hơi như chó săn, ngủi thấy mùi ngầy ngậy trên người Lai Đệ. Rồi với tốc độ cục nhanh, hắn vọt tới chái đông. Nước mưa trong sân thấm ướt mông hắn, khiến hắn cảm thấy hậu môn buốt như kim châm.
Cửa chái đông mở toang, trong buồng thắp một ngọn nến, con mắt Chim Tiên trên bức tranh lấp lánh những tia sắc lạnh. Hắn nhìn ngay thấy cặp chân thon dài, chắc nịch, đầy lông lá của Hàn Chim, cặp chân luôn làm hắn ghen tị, còn cặp mông thì nhún nhảy. Phía trước Hàn Chim là cái mông vổng cao của Lai Đệ, cặp vú lủng lẳng, mái tóc đen xõa trên gối của Hàn Chim, hai tay Lai Đệ không ngừng vò xé chiếc gối và những tiếng rên từ đó bật ra khiến thần kinh hắn lập tức vỡ tung ra như bị chập điện. Hắn gầm lên một tiếng như con thú bị thương, ném mạnh chiếc ghế trong tay. Chiếc ghế sượt qua vai Hàn Chim đập vào tường, rơi trên gối, ngay bên cạnh má Lai Đệ. Thằng Câm lại ném chiếc ghế còn lại, lần này thì trúng mông Hàn Chim. Hàn Chim ngoảnh lại nhìn Thằng Câm bằng con mắt bốc lửa, nhưng miệng thì mỉm cười đầy vẻ kiêu ngạo. Lai Đệ vội nằm sấp trên giường mà thở rồi kéo chăn che người. Chị nhổm dậy, chửi Thằng Câm:
- Thằng khốn, mi đã thấy rồi đấy!
Thằng Câm hai tay chống đất, trông như một con ếch khổng lồ, rồi chỉ một cái nhún, hắn đã vọt qua ngưỡng cửa, cái nhún thứ hai hắn đã tới trước mặt Hàn Chim, dùng đầu húc ngược một cái thật mạnh. Hàn Chim rú lên một tiếng, hai tay ôm chặt hạ bộ, chưa đầy một giây mà trên mặt mồ hôi đầm đìa. Thằng Câm càng hung hãn, vươn cánh tay dài ngoẵng như vòi bạch tuộc chộp lấy yết hầu Hàn Chim bóp mạnh bằng những ngón tay thép. Hàn Chim từ từ mềm nhũn ra, miệng ngáp như cá bị mắc cạn, mắt đảo tròng, rồi trọn ngược, chỉ còn đầy lòng trắng. Trong con kinh hoàng, Lai Đệ vớ lấy chiếc ghế, cứ lõa lồ như vậy nhảy xuống đất, nện lia lịa vào cánh tay Thằng Câm, nhưng tay hắn chẳng khác hai khúc gỗ lim. Chị nện lên đầu hắn. Đầu hắn như một quả dưa chín, vang lên tiếng bồm bộp. Sau cùng, chị quẳng ghế, vớ lấy thanh chặn cửa phang một nhát vào giữa định đầu hắn. Hắn hực lên một tiếng nhưng vẫn giữ nguyên tư thế cũ, chị bồi thêm một nhát nữa, Thằng Câm mới nhả Hàn Chim ra, rớt xuống đất như một chiếc chum trong khoảnh khắc rồi đổ kềnh. Thân thể Hàn Chim mềm nhũn rơi đè lên Thằng Câm.
Cuộc chiến trong gian chái đánh thúc mẹ dậy. Mẹ xỏ giày chạy ra cửa, nhưng mọi chuyện đã kết thúc. Mẹ đau khổ khi nhìn thấy Lai Đệ không mảnh vải trên người, ngồi rũ rượi bên khung cửa. Chị quẳng thanh chặn cửa, đờ đẫn đi ra sân, mưa rơi chênh chếch, những giọt mưa nối đuôi nhau lăn trên người chị như những dòng nước mắt. Bàn chân chị dẫm nhem nhép trên các vũng nước đọng đục ngầu. Chị ngồi xổm bên chậu, khỏa tay rửa sạch máu.
Mẹ cố sức lôi Hàn Chim đứng dậy, tì bờ vai vào nách anh ta, dìu anh ta lên giường. Mẹ mở chăn, ngán ngẩm đắp cho anh ta. thấy anh ta rên lên một tiếng thì biết rằng người anh hùng huyền thoại này đã sống lại. Mẹ cúi xuống dựng Thằng Câm ngồi dậy, phát hiện ra hai dòng nước đen đen chảy ra từ hai lỗ mũi của hắn, đưa tay thử thấy hắn đã tắt thở. Cái xác Thằng Câm không đổ vẫn giữ nguyên tư thế ngồi.
Mẹ quệt ngón tay dính máu lên tường rồi dở ngây dở dại đi về giương mình, để nguyên cả quần áo mà nằm xuống. Từng chuyện của Thằng Câm khi còn sống lướt qua trước mặt mẹ. Nhớ lại quang cảnh Thằng Câm cầm đầu mấy đứa em xưng hùng xưng bá một thời, mẹ bật cười mỉa. Ngoài sân, Lai Đệ rửa tay hết lần này đến lần khác bằng xà phòng. Bọt xà phòng chảy đầy sân. Buổi chiều, Hàn Chim một tay che cổ họng, một tay che hạ bộ bước ra sân rồi ôm choàng lấy Lai Đệ. Lai Đệ ôm chặt cổ anh ta, cười khanh khách như hóa dại.
Sau đó, viên sĩ quan môi đỏ hồng, bê một hộp quà trên phủ tờ giấy hông điều, đến cùng Bí thư Khu ủy bước vào sân. Họ gọi, không có tiếng trả lời, Bí thư Khu ủy liền dẫn viên sĩ quan vào phòng mẹ.
- Chào bác! - Bí thư Khu ủy nói - Đây là Đại đội trưởng đại đội lựu pháo đến thăm đồng chí Tôn Bất Ngôn.
Đại đội trưởng Tống vẻ mặt áy náy, nói:
- Thưa bác, rất không phải với gia đình về chuyện xe của chúng tôi đụng phải đầu đồng chí Tôn Bất Ngôn?
Mẹ ngồi bật dậy, hỏi: - Chú nói gì cơ?
Đại đội trưởng Tống nói: - Xe chúng tôi... đương quá trơn... đã đụng phải đầu đồng chí Tôn Bất Ngôn, bị sưng lên một cục...
Mẹ khóc to:
- Về nhà, làm ầm lên một trận, chết rồi?
Đại đội trưởng Tống mặt trắng bệch: - Bác ơi, chúng tôi đã đạp phanh, nhưng đường trơn quá?...
Khi pháp y đến khám thi thể, chị Lai Đệ quần áo chỉnh tề, vai đeo một bọc nhỏ, nói với mẹ: - Mẹ, con đi đây chuyện phải như thế nào thì cứ phải như thế, không thể để các chú bộ đội bị oan.
Mẹ nói:
- Con nói với Tòa là xưa nay đã có qui định, với người đang mang thai thì đẻ xong mới...
Lai Đệ nói: - Con hiểu, chưa bao giờ con hiểu rõ mọi việc như lúc này!
Mẹ nói: - Mẹ sẽ nuôi đứa bé!
Lai Đệ nói:
- Mẹ ơi, vậy con không còn vương vấn gì nữa!
Chị bước ra sân, nói vọng vào chái đông: - Không cần khám nghiệm làm gì, chính tôi đập chết hắn, lúc đầu dập bằng ghế, sau đó bằng thanh gỗ chặn cửa, đó là lúc hắn đang bóp cổ Hàn Chim
Hàn Chim xách một xâu chim bước vào sân, nói:
- Chuyện gì thế này? Thằng cha vô tích sự đã chết rồi hả? Chính tôi dập chết hắn đấy!
Công an xích tay Hàn Chim và Lai Đệ dẫn đi. Năm tháng sau, một nữ công an đem đến nhà một đứa bé trai gầy gò như con mèo hen, và bảo mẹ rằng, ngày mai Lai Đệ sẽ bị hành quyết, gia đình có thể nhận xác, nếu không, sẽ đưa vào bệnh viện giải phẫu. Người nữ công an còn cho mẹ biết Hàn Chim bị xử tù chung thân, nơi thi hành án là bồn địa Talimu, cách Cao Mật hàng vạn dặm. Trước khi đưa đi, gia đình có thể đến thăm.
Kim Đồng vì làm gãy một cây con trong vườn trường, bị đuổi học. Sa Tảo Hoa phạm tội cắp vặt, bị đoàn kịch sa thải.
Mẹ nói:
- Chúng ta phải đi nhận xác Lai Đệ về! Sa Tảo Hoa nói:
- Ngoại ơi, dùng nhận làm gì!
Mẹ lắc đầu, nói:
- Nó chỉ phạm tội bị một phát đạn, không phạm tội trăm nhát dao phanh thây.
Hôm xử bắn Lai Đệ, có không dưới mười vạn người đến xem. Một chiếc xe tù chở Lai Đệ đến chân cầu Đoạn Hồn, kẻ đồng phạm là Hàn Chim cũng bị giải đến. Để phòng ngừa phạm nhân nói bậy, nhân viên thi hành án chụp lên miệng chị một dụng cụ đặc biệt để không nói được
Sau khi Lai Đệ bị hành quyết không lâu, gia đình Thượng Quan lại nhận được thông báo về Hàn Chim: Trên đường đi phát vãng, anh nhảy tàu, bị bánh xe nghiến thành hai đoạn.
40
Để khai khẩn cánh đồng hoang rộng hàng vạn mẫu ở vùng đông bắc Cao Mật, tất cả thanh niên nam nữ trấn Đại Lan đều trở thành công nhân nông nghiệp của nông trường quốc doanh Thuồng Luồng. Hôm phân công, Chủ nhiệm Văn phòng nông trường bộ hỏi tôi:
- Sở thích của cậu là gì?
Tôi bị đói đến nỗi tai ong ong như tiếng ve kêu, nghe không rõ ông ta hỏi. Ông ta nhe hàm răng có chiếc răng giữa bọc thép không gỉ, hỏi lại rất to:
- Biết làm nghề gì?
Tôi nhớ lại vừa rồi gặp cô giáo Hoắc Lệ Na đang gánh phân trên đường, cô từng khen tôi là thiên tài tiếng Nga. Vậy là tôi trả lời:
- Tôi giỏi tiếng Nga.
- Tiếng Nga? - Chủ nhiệm Văn phòng cười nhạt, nhếch mép khoe chiếc răng thép, mỉa mai: - Giỏi đến mức nào? Phiên dịch cho Khơrútsốp và Micôiăng được không? Dịch được thông cáo chung Hội đàm Trung-Xô không? Này chú, ở chỗ chúng ta, sinh viên học ở Liên Xô về đều đi gánh phân, tiếng Nga của cậu có giỏi hơn họ không?
Những thanh niên đang đợi phân công bật cười.
- Tôi hỏi, cậu ở nhà làm gì? Việc nào cậu làm giỏi hơn cả?
- Tôi biết chăn dê.
Ông ta nói:
- Đúng, vậy đó là sở trường? Tiếng Nga ư, tiếng Pháp ư, tiếng Anh tiếng Nhật tiếng ý ư, vô dụng tuốt - ông ta viết nguệch ngoạc mấy chữ, đưa cho tôi - Tìm đội trưởng Mã ở đội chăn nuôi, chị ấy sẽ phân công cụ thể.
Trên đường, một công nhân già bảo tôi, đội trưởng Mã tên là Mã Thụy Liên, vợ của giám đốc nông trường Lý Đỗ, tiếng tăm đang nổi như cồn. Khi tôi cầm mảnh giấy về nhận công tác ở đội, chị ta đang cho tiến hành một thí nghiệm động trời về lai giống. Trên bãi phối giống của đội có một con trâu cái, một con lừa cái, một con cừu cái, một con lợn nái, một con thỏ cái, tất cả đều đang động đực. Năm nhân viên, hai nam ba nữ, làm công việc phối giống, đều mặc áo choàng trắng, đeo khẩu trang chỉ hở đôi mắt, tay đeo găng cao su, dàn thành thế trận lặng lẽ chờ lệnh, công cụ dùng để thụ tinh lăm lăm trong tay. Mã Thụy Liên tóc ngắn rẽ ngôi lệch, không ra nam cũng chẳng ra nữ, dựng lên như bờm ngựa. Chị ta có khuôn mặt tròn xoay đỏ lựng, cặp mắt lươn ti hí, mũi to nhưng nhúc những thịt, miệng rộng môi dầy, cổ ngắn mà thô, ngực rộng, cặp vú đồ sộ như hai nấm mồ. Đồ khốn? Kim Đồng rủa thầm, tưởng ai, té ra là chị Phán Đệ. Vì nhà Thượng Quan chúng tôi tiếng xấu dồn xa, nên chị ta thay tên đổi họ. Qua đó có thể suy ra, cái ông Lý Đỗ kia chính là Lỗ Lập Nhân, trước đó vốn tên là Tưởng Lập Nhân, chưa chừng trước đó nữa còn có tên là X Lập Nhân, Y Lập Nhân cũng nên. Cặp vợ chồng sau khi đã thay tên đổi họ bị đày đến chỗ khỉ ho cò gáy này xem ra không gặp may: Chị ta mặc chiếc áo lót bằng vải bông Nga-la-tư, chiếc quần đen băng vải nhăn như váng đậu phụ, giày thì là giày thể thao cổ cao, gót cao su, tay kẹp điếu thuốc lá nhãn hiệu đại nhảy vọt, làn khói xanh lởn vởn xung quanh những ngón tay nần nẫn như quả dưa chuột.
Chị ta rít một hơi thuốc, hỏi:
- Phóng viên báo nông trường đã đến chưa?
Một ông trung niên đeo kính cận từ sau chỗ buộc ngựa lách ra, lễ phép trả lời:
- Đến rồi đấy ạ!
Ông ta cầm chiếc bút máy đã mở nắp, mở sổ tay ra, đặt ngòi bút lên mặt giấy, sẵn sàng ghi chép. Đội trưởng Mã cười khanh khách, giơ bàn tay mũm mĩm vỗ vai ông trung niên, nói:
- Chủ bút đích thân ra trận hả!
Ông trung niên nói:
- Chỗ chị đây là đầu mối lấy tin, giao cho người khác tôi không yên tâm?
- Lão Vu nhiệt tình thật đấy - Mã Thụy Liên khen, lại vỗ vai ông chủ bút lần nữa. Ông ta mặt trắng bệch, rụt cổ lại như bị lạnh. Sau này tôi mới biết ông chủ bút tờ báo nhỏ in rônêô dày tám trang này họ Vu tên Chính, từng là Chủ nhiệm kiêm Tổng biên tập tờ báo của Tỉnh ủy một nhân vật phái hữu vua biết mặt chúa biết tên.
- Hôm nay - Mã Thụy Liên nói - tôi cung cấp thông tin cấp một cho anh.
Chị ta ném sang Vu Chính một cái nhìn gợi tình, rít hơi thuốc cuối cùng đến bỏng môi rồi phụt đầu mẩu ra xa, giấy cuộn một nơi, những sợi thuốc còn lại một nẻo. Tuyệt chiêu này của Phán Đệ khiến những người định nhặt mẩu thuốc thừa bầm gan tím ruột. Nhả nốt chỗ khói cuối cùng, chị ta hỏi:
- Chuẩn bị xong cả chưa?
Các nhân viên giơ cao dụng cụ thụ tinh trong tay, thay cho câu trả lời. Máu dồn lên mặt, chị ta xoa xoa tay rồi vỗ đánh bốp một tiếng:
- Tinh ngựa, tinh ngựa đâu?
Nhân viên thụ tinh ngựa bước lên một bước nói:
- Tinh ngựa đây?
Mã Thụy Liên chỉ vào con trâu nói:
- Anh bơm tinh dịch ngựa cho con trâu này! Anh nhân viên chần chừ nhìn Mã Thụy Liên rồi lại nhìn bốn đồng nghiệp, như dò hỏi. Mã Thuỵ Liên nói:
- Còn đợi gì nữa? Công việc này phải làm tắp lự mới kết quả!
Anh nhân viên nháy mắt một cái, nói to:
- Xin tuân lệnh đội trưởng Mã!
Rồi anh ta nhanh nhẹn chạy tới chỗ con trâu cái luồn ống thụ tinh vào âm đạo con trâu. Mã Thụy Liên đứng nhìn, miệng hé mở, hơi thở gấp, làm như không phải đang thụ tinh cho con trâu mà là thụ tinh cho chị ta. Tiếp theo, chị ta ra một loạt mệnh lệnh thụ tinh trâu cho cừu, thụ tinh cừu cho thỏ nhà. Theo lệnh chị ta, tinh dịch của lừa được đưa vào tử cung của lợn, tinh dịch của lợn thì lại được đưa vào bộ máy sinh sản của lừa.
Ông Chủ bút báo Nông trường mặt xám như màu đất, môi dưới trễ ra, không hiểu ông định khóc hay định cười. Cô nhân viên phụ trách tinh dịch cừu có cặp lông mày cánh cung, mắt đen láy, dứt khoát không chấp hành lệnh của Mã Thụy Liên. Cô quẳng ống thụ tinh xuống khay tráng men, tháo găng tay, bỏ khẩu trang, để lộ môi trên đầy lông tơ, mũi thẳng và chiếc cằm đường nét thanh tú
- Đúng là một trò đùa! - cô phát âm tiếng phổ thông rất chuẩn, giọng thánh thót như chim.
- Đồ khốn! - Mã Thụy Liên vỗ tay đánh bộp một tiếng, phóng những tia mắt tóe lửa về phía cô nhân viên, dằn giọng nói - Nếu ta nhớ không lầm thì cô không phải là phái hữu có thời hạn, mà cái mũ phái hữu của cô là suốt đời là vĩnh viễn, đúng không nào?
Cô nhân viên cúi mặt, trả lời:
- Bà nói đúng, tôi là phần tử cực hữu. Nhưng tôi nghĩ rằng, khoa học và chính trị là hai vấn đề khác nhau. Chính trị có thể đảo lộn trắng đen, sớm Tần tối Sở, nhưng khoa học thì không thể như vậy!
- Câm mồm! - Mã Thụy Liên nhảy như con choi choi, gầm lên - Ta không cho phép mi tiếp tục phun nọc độc ở nông trường này. Mi mà cũng bàn về chính trị à? Mi thì biết gì chính trị? Mi biết chính trị ăn bằng gì không? Chính trị là thống soái, là linh hồn, chính trị là mạng sống của tất cả mọi việc. Khoa học tách khỏi chính trị thì không còn là khoa học, trong từ điển của giai cấp vô sản, không có khoa học siêu giai cấp. Giai cấp vô sản có khoa học của giai cấp vô sản, giai cấp tư sản có khoa học của giai cấp tư sản.
Cô nhân viên cắt ngang lời Mã Thụy Liên:
- Nếu như khoa học của giai cấp vô sản chờ đợi một loại giống mới qua việc bắt cừu giao phối với thỏ, thì khoa học của giai cấp vô sản chỉ là một bãi cứt chó?
- Kiều Kỳ Sa, người ngông cuồng quá đấy? - Mã Thụy Liên nghiến răng nói - Người hãy nhìn trời nhìn đất để biết thế nào là trời cao đất dày! Người dám bảo khoa học của giai cấp vô sản chỉ là bãi cứt chó. Phản động đến cùng cực! Chỉ một câu này đã đủ tống người vào tù, thậm chí bắn bỏ!... Người trẻ như thế, đẹp như thế... Mã Thụy Liên hạ giọng - Ta tha cho người lần này, nhưng dứt khoát phải thụ tinh cho xong! Nếu không thì dù người có là hoa khôi của Viện Y học, hoặc cỏ đẹp của Viện Nông học, thì ta cũng đưa người vào khuôn phép của ta! Những con ngựa đực vó to bằng chậu rửa mặt mà ta còn trị được, nữa là ngươi!
Ông chủ bút khuyên:
- Cô Kiều nên nghe lời đội trưởng Mã, đây là thực nghiệm khoa học! ở Thiên Tân, người ta lai cây bông với cây ngô đồng, ghép cây lúa nước với cây lau, đều đã thành công, giấy trắng mực đen trên báo Nhân Dân hẳn hoi. Đây là thời đại bài trừ mê tín, giải phóng tư tưởng, sáng tạo những kỳ tích trong thiên hạ, đã phối được ngựa với lừa để đẻ ra con la, thì không ai dám đoán chắc cừu phối hợp với thỏ sẽ không cho một giống mới! Làm đi cô?
Kiều Kỳ Sa, cô hoa khôi Học viện Y khoa, một phần tử cực hữu nước mắt vòng quanh, kiên quyết không chịu:
- Không, không, tôi không thể làm trái với kiến thức cơ bản?
Ông chủ bút nói:
- Cô Kiều, cô lú lẫn quá? Có lú lẫn như thế mới là phái cực hữu chứ?
Sự quan tâm của ông chủ bút đối với Kiều Kỳ Sa khiến Mã Thụy Liên bục mình, chị ta chêm vào một câu. Ông chủ bút đầu cúi gằm, không nói gì nữa.
Một nhân viên nam bước tới, nói:
- Đội trưởng để tôi làm thay cô ấy. Nói gì bơm tinh dịch cừu vào tử cung thỏ, ngay cả bơm tinh dịch của Giám đốc Lý Đỗ vào tử cung lợn nái, tôi cũng không mảy may băn khoăn!
Các nhân viên cười ré lên. Ông chủ bút giả vờ ho để khỏi bật cười. Mã Thụy Liên thẹn quá hóa giận, chửi:
- Đồ khốn, Đặng Gia Vinh! Quá trớn đấy!
Đặng Gia Vinh kéo khẩu trang xuống, để lộ khuôn mặt ngựa bất cần đời, nói:
- Đội trưởng Mã, như tôi đây không phái hữu tạm thời, cũng không phái hữu vĩnh viễn, bốn nhân ba đời công nhân mỏ, đỏ từ đầu đến chân, nhà chị đừng có giơ cái giọng dọa cô Kiều ra dọa tôi?
Đặng Gia Vinh nói xong, ngạo nghễ bỏ đi. Mã Thụy Liên trút giận lên đầu Kiều Kỳ Sa:
- Mi có làm hay không thì bảo? Không làm, ta sẽ không phát phiếu lương thực tháng này, cắt toàn bộ!
Kiều Kỳ Sa cố nhịn mà không được, hai hàng nước mắt rơi lã chã, bật khóc thành tiếng. Cô cầm lấy ống thụ tinh, loạng choạng chạy tới bên con thỏ cái đang động đực đè nó ra. Con thỏ cái giẫy giụa như điên cuồng. Lúc này, Thượng Quan Phán Đệ đội lốt Mã Thuỵ Liên mới nhìn thấy tôi - tôi đoán rằng chị ta đã nhìn thấy tôi từ lâu - hỏi tôi, vẻ lạnh nhạt:
- Cậu đến đây làm gì?
Tôi đưa mảnh giấy, chị ta xem xong, nói:
- Đến trại gà, ở đó đang cần một người làm việc nặng!
Chị ta không thèm nhìn tôi, bảo ông chủ bút:
- Ông Vu về viết bài đi nhé, nhớ viết sao còn có chỗ lui tới đấy?
Ông chủ bút cúi rạp người:
- Bà sẽ đọc bản dập thử trước khi lên khuôn.
Chị ta lại nói với Kiều Kỳ Sa:
- Kiều Kỳ Sa, thể theo đề nghị của chị, cho chị rút khỏi đội phối giống, đến nhận việc tại trại gà.
Cuối cùng, chị ta hỏi tôi:
- Sao vẫn chưa đi!
Tôi nói: - Tôi không biết đường đến trại gà.
Chị ta giơ tay nhìn đồng hồ, nói:
- Đi, tôi cũng có việc đến trại gà, nhân thể dẫn cậu đi!
Khi nhìn thấy từ xa bức tường quét vôi trắng xóa của trại gà, chị ta dừng lại. Chỗ này kề bên bãi pháo, men theo con đường nhỏ lầy lội là đến trại gà, bên đường là rãnh nước bẩn đầy váng đỏ. Bãi pháo được rào bằng dây thép gai, những bụi thanh hao dại mọc trùm lên xích sắt nòng pháo gỉ lốm đốm chĩa lên bầu trời lạnh giá. Dây khiên ngưu quấn quanh một nòng pháo cao xạ gãy một nửa. Một con chuồn chuồn đậu trên đầu nòng khẩu trọng liên trên xe tăng. Lũ chuột chạy lăng xăng trong tháp pháo. Chim sẻ làm tổ, sinh con đẻ cái trong nòng pháo. Chúng chui ra chui vào, miệng ngậm những con sâu xanh. Một bé gái đầu buộc nơ bằng lụa đỏ tết hình con bướm ngồi trên bánh cao su đã lão hóa đen như than, chăm chú nhìn hai đứa con trai dùng đá cuội gõ côm cốp vào buồng lái...
Phán Đệ rời mắt khỏi bãi pháo, lúc này chị khác hẳn với chị ở trại phối giống. Chị hỏi:
- Nhà mình... khỏe cả chứ?
Tôi quay mặt đi, trong lòng trào lên một nỗi căm giận. Ngay cả tên họ, chị cũng đã đổi, chị còn hỏi thăm làm gì
Tôi thầm nghĩ.
- Lẽ ra tương lai của em rất sáng sủa - Chị nói - Anh chị đã. rất mừng cho em. Nhưng Lai Đệ đã làm hỏng hết cả. Tất nhiên không nên chỉ trách Lai Đệ, mẹ cũng lẩm cẩm...
- Nếu chị không còn điều gì chỉ bảo - tôi nói - thì để tôi đi trại gà!
- Hừm, mới có mấy năm không gặp, tính nết thay đổi rồi! - Chị nói - Vậy là chị cũng mừng, Kim Đồng đã hai mươi tuổi rồi, không mặc quần thủng đít nữa, rời vú mẹ được rồi!
Tôi khoác cái bọc lên vai, đi về hướng trại gà.
- Dừng lại đã - Chị nói - em đừng hiểu lầm anh chị. Mấy năm nay anh chị cũng không thuận, quát tháo đến như vậy mà người ta còn cho anh chị là hữu khuynh. Chị cũng chẳng còn cách nào khác, túng thì phải tính thôi.
Chị vận dụng thành thạo câu nói cửa miệng của dân vùng Cao Mật. Chị lấy ra một mảnh giấy, móc chiếc bút máy cài trong nịt vú, viết nguệch ngoạc mấy chữ rồi dúi vào tay tôi, nói:
- Gặp trại trưởng Long, đưa giấy này cho chị ấy?
Tôi cầm mảnh giấy, hỏi:
- Chị còn gì nữa thì nói hết đi!
Chị do dự một thoáng, nói:
- Em nên biết rằng, chị và anh Lỗ có được vị trí như hiện nay không dễ dàng chút nào. Vì vậy, em đừng làm gì phiền đến anh chị. Chị sẽ ngầm giúp em, trường hợp công khai thì...
- Chị không cần nói nữa - Tôi nói - chị đổi tên đổi họ, vậy là không còn dính dáng gì đến nhà Thượng Quan. Tôi hoàn toàn không quen biết chị, vì vậy xin chị đừng giúp ngầm tôi?
- Vậy thì tốt! - Chị nói - Khi nào có dịp, em nói với mẹ là Thắng Lợi rất khỏe!
Tôi không nói gì thêm, rảo bước về phía trại gà theo hàng rào dây thép gai mọc đầy những dây khiên ngưu, nhiều chỗ trâu bò chui lọt, rào một cách tượng trung đống vũ khí phế thải sau chiến tranh. Tôi rất bằng lòng về cách ứng xử của mình vừa rồi, tự cảm thấy xử sự như vậy là đúng, như vừa thắng một trận giòn giã. Quên đi những Mã Thụy Liên và Lý Đỗ, quên đi những bàn đế súng moóc-chiê, những lá chắn trọng liên, những cánh máy bay ném bom. Xéo đi cho khuất mắt? Từ một chỗ cỏ cao lút đầu, tôi rẽ ngang và trông thấy hàng ngàn con gà chen chúc trên bãi đất trống, phía trên được chắn bởi lưới đánh cá, hai bên là hai dãy nhà gạch. Một con gà trống mào đỏ tía đậu trên chạc cây cao uy nghi như bậc quân vương trước đám thê thiếp của mình, cất tiếng kêu cục cục. Đám gà mái cục ta cục tác ầm ĩ, nghe nẫu cả ruột.
Tôi đưa mảnh giấy của Mã Thụy Liên cho chị trại trưởng cụt một tay tên là Long. Qua nét mặt khô khan của chị, tôi đoán đây không phải người phụ nữ bình thường. Chị xem xong, bảo:
- Cậu đến thật đúng lúc. Công việc hàng ngày của cậu như sau: Buổi sáng, chở phân gà lên trại lợn, rồi lấy thức ăn thô từ tổ chế biến đem về. Buổi chiều, cậu cùng Kiều Kỳ Sa - cô ấy sắp đến bây giờ đấy - chở trứng gà đẻ trong ngày lên nông trường bộ rồi đến kho lương thực lĩnh thức ăn tinh của ngày hôm sau đem về. Nghe rõ chưa?
- Nghe rõ rồi! - Tôi nhìn chiếc tay áo rỗng của chị, trả lời.
Chị phát hiện ra điều mà tôi chú ý, giọng lạnh nhạt:
- ở đây chúng tôi làm việc trên hai nguyên tắc, một là không lười nhác, hai là không đưa chuyện đơm đặt!
Đêm ấy trăng sáng vằng vặc. Tôi nằm trên đống hộp giấy cũ trong nhà kho của trại gà, mãi không sao ngủ được vì những tiếng rên rỉ của lũ gà mái. Cách một bức tường là buồng ngủ của mười mấy nữ công nhân. Tiếng ngáy của họ vọng sang chỗ tôi nằm, đôi khi xen lẫn tiếng nói mơ. ánh trăng dọi qua cửa kính và khe cửa ra vào, soi rõ những dòng chữ trên hộp: Vắc xin phòng dịch, chống ẩm chống nắng, dụng cụ thủy tinh, cẩn thận nhẹ tay, không lật sấp. ánh trăng lặng lẽ chuyển dịch. Tôi nghe thấy tiếng máy cày vọng lại. Đó là tổ máy Đông phương hồng làm ca đêm trên cánh đồng hoang.
... Hôm qua, mẹ bế thằng con của Hàn Chim và Lai Đệ, tiễn tôi đến đầu thôn. Mẹ nói:
- Kim Đồng, mẹ nhắc lại một câu rất cũ: Càng khổ lại càng phải sống. Mục sư Malôa nói rằng, lật đi lật lại quyển kinh thánh dày cộp cũng chỉ nói mỗi điều này! Con đừng lo cho mẹ, mẹ cầm tinh con giun, nơi nào có đất là sống được.
Tôi nói:
- Con sẽ để dành lương thực gửi về cho mẹ!
Mẹ nói:
- Nhất thiết không được làm thế? Chỉ cần con no bụng là mẹ cũng no!
Khi đi trên đê Thuồng Luồng, tôi bảo mẹ:
- Con Hoa nó nhiễm cái thói...
Mẹ tỏ ra bất lực, nói:
- Kim Đồng, mấy chục năm trở lại đây, bọn con gái nhà Thượng Quan có nghe lời khuyên của ai đâu...
Quá nửa đêm, đàn gà nháo nhác, kêu ầm ĩ. Tôi bật dậy, dán mũi trên cửa kính nhìn ra ngoài: đàn gà trong sân nhấp nhô như sóng biển, dài ánh trăng vằng vặc, tôi trông thấy một con cáo to lớn màu đen mốc, nhảy nhót giữa đàn gà, trông như một mảnh lụa lúc thu ngắn lại lúc run dài ra. Phòng bên, các nữ công nhân la chí chóe, cứ ăn mặc nửa kín nửa hở như vậy chạy ra ngoài, đi đầu là trại trưởng Long tay cầm khẩu súng lục. Con cáo ngoạm một con gà mái bự, nhảy từng bước dọc theo bức tường, chân con gà kéo lê trên mặt đất. Trại trưởng Long nhằm con cáo nổ một phát súng, lửa tóe ra từ đầu nòng. Con cáo dừng lại, nhả con gà xuống đất.
- Trúng rồi! - một nữ công nhân kêu lên. Con cáo quay đầu nhìn đám nữ công nhân, ánh trăng soi rõ trên khuôn mặt choắt của nó thoáng một nụ cười mỉa mai. Các nữ công nhân lạnh xương sống trước nụ cười ấy. Cánh tay cầm súng của trại trưởng Long buông thõng, nhưng vẫn gắng gượng giơ lên nổ một phát nữa. Viên đạn bắn tung đất ở một nơi rất gần đám nữ công nhân, cách rất xa con cáo. Con cáo ngoạm lấy con gà, thủng thẳng đến chỗ cửa chuồng, chui ra ngoài. Các nữ công nhân đứng ngẩn ra nhìn theo. Con cáo như một làn khói, biến mất trong bãi sắt thép phế thải. Nơi này cỏ mọc um tùm, dom đóm lập lòe trong bụi cỏ, là vương quốc của lũ cáo.
Sáng hôm sau, tôi cảm thấy mi mắt nặng chĩu, kéo chiếc xe chất đầy phân gà lên trai lợn. Vừa đến đầu con đường nhỏ bên cạnh bãi sắt thép phế thải, tôi nghe có người gọi, ngoảnh nhìn thì ra là Kiều Kỳ Sa. Chị nhanh nhẹn chạy tới, giọng lạnh nhạt:
- Trại trưởng bảo tôi đẩy xe giúp cậu?
Tôi nói:
- Chị đẩy để tôi kéo?
Đường chật, bánh xe chốc chốc lại thụt sâu trong bùn. Mỗi lần như vậy, tôi lại đảo tay đi giật lùi để lôi chiếc xe lên khỏi ổ gà Kiều Kỳ Sa cũng vô cùng vất vả. Mỗi khi chiếc xe thoát hiểm, tôi đảo tay để quay mặt đi, chị ta lại nhìn tôi. Mắt chị đen đến lạ lùng, mũi dọc dừa trắng mịn, hàng lông tơ ở trên môi, chiếc cằm xinh xăn, và thái độ úp mở, khiến tôi buộc phải liên tưởng đến con cáo đêm qua, đầu óc tôi như được gợi mở điều gì đó.
Từ trại gà đến trại lợn dài năm cây số, phải đi qua hố chế biến phân của đội chuyên trách trồng rau. Cô giáo Hoắc gánh hai thùng phân đi tới, thân hình mảnh mai của cô oằn xuống, có cảm giác như lưng cô sắp bị gãy đôi. Tại trại lợn, cô giáo dạy tôi âm nhạc Kỷ Quỳnh Chi tiếp nhận phân gà tươi do chúng tôi chở tới. Cô trộn phân gà vào thức ăn cho lợn, mùi chua loét và thối khắm xộc mũi. Trong tổ chế biến thức ăn gia súc, có một kiện tướng nhảy cao. Anh nhảy qua xà một mét tám kiểu úp bụng, kiểu nhảy tiên tiến đương thời. Tất nhiên, anh cũng là phái hữu. Anh tỏ ra quan tâm đặc biệt đến Kiều Kỳ Sa, đối xử với tôi cũng rất tốt. Đây là một con người lạc quan, lúc nào cũng cười cợt, khác hẳn với bộ mặt đưa đám của những người cũng là phái hữu. Chiếc khăn mặt quàng trên cổ, mặt đeo kính râm, anh bận rộn suốt ngày bên chiếc máy nghiền thức ăn gia súc. Tổ trưởng tổ chế biến cũng là một con người đáng quí. Anh tên là Quách Văn Hào nhưng một chữ bẻ làm đôi cũng không biết. Mù chữ, nhưng anh có tài xuất khẩu thành chương, những bài vè do anh sáng tác lưu truyền khắp nông trường Thuồng Luồng. Hôm đầu tiên chúng tôi đến chở dây khoai lang nghiền nhỏ, được nghe anh ứng khẩu đọc một đoạn: Giờ xin nói về đội trưởng Mã Thụy Liên, đầu óc chị ta thật phi thường, dám làm thí nghiệm ở trại giống, cho cừu cùng thỏ kết nhân duyên! Cô Kiều nhà ta tức lộn ruột, nhằm bụng bà Mã thoi một quyền? Ngựa ngủ với lừa sinh ra la, cừu ngủ với thỏ, úm ba la? Nàng thỏ kết duyên cùng cừu đực. Lợn đực có thể lấy Thụy Liên! Thụy Liên ức quá tìm Lý Đỗ, Lý Đỗ lựa lời khuyên bảo vợ, thôi thôi phái hữu chớ coi thường! Con Kiều tốt nghiệp đại học Y, Vu Chính chủ bút tờ báo tỉnh, Mã Minh lưu học Mêricơn, người ta làm được bom nguyên tử, ngay cả Vương Mai Tán đâu phải xoàng, có ngu cũng là vận động viên!...
Quách Văn Hào gọi: - Phái hữu!
Vương Mai Tán đứng nghiêm:
- Phái hữu có mặt!
Quách Văn Hào nói:
- Xúc thức ăn gia súc lên xe cho cô Kiều!
Vương Mai Tán nói:
- Xin tổ trưởng yên tâm!
Vương Mai Tán xúc thức ăn gia súc lên xe cho chúng tôi Trong tiếng chảy ầm ầm của máy nghiền, Quách Văn Hào hỏi tôi:
- Cậu thuộc gia đình Thượng Quan phải không? Tôi đáp:
- Vâng, tôi là thằng con lai của nhà Thượng Quan?
Quách Văn Hào nói:
- Lai tạp thành hảo hán! Gia đình Thượng Quan nhà cậu cũng kinh thật, Sa Nguyệt Lượng này, Tư Mã Khố này, Hàn Chim này, Tôn Bất Ngôn này, Bác-bít này, hơi bị nể đấy!
Trên đường trở về trại gà, Kiều Kỳ Sa bỗng hỏi tôi:
- Cậu tên là gì?
Tôi đáp:
- Thượng Quan Kim Đồng! Chị hỏi tên tôi làm gì?
Kiều Kỳ Sa nói:
- Thuận miệng hỏi thế thôi, lúc lao động thế nào cũng có lúc gọi nhau. Cậu có mấy chị gái?
- Tám, không phải, bảy chị tất cả.
- Thế bà Mã không phải là chị à?
- Bà ấy là quân phản bội - tôi buồn bã trả lời - Chị đừng hỏi nữa!
Kim Đồng bắt đầu cuộc sống tự lập, có qui củ, trở thành nhân viên vận tải chuyên trách của trại, có một cô gái rất xinh giúp việc. Buổi sáng chở phân gà đi, chở thức ăn gia súc về;. buổi chiều chở trúng gà đi, chở thức ăn tinh về. Dọc đường, cậu bắt đầu trò chuyện với Kiều Kỳ Sa, vì chị ta muốn biết rất chi tiết về thân thế của cậu. Cậu hỏi:
- Chị là người của Cục Công an hay của Đội điều tra?
Kiều Kỳ Sa nói: - Tôi chẳng của ai cả, tôi có cái tật là thích tìm hiểu mọi chuyện, nếu không đã không thành phái hữu!
Kim Đồng nói:
- Chị gầy đi vì đói đấy?
Chị nói:
- Đói đến mức không thể gầy hơn nữa. Ba lạng lương thực một ngày, không đủ sống.
Một hôm, trong khi thận trọng chở hai sọt trứng gà lên nông trường bộ, chị hỏi:
- Kim Đồng, cậu có biết những ai được ăn trứng này không?
Kim Đồng nói:
- Chị hỏi tôi, vậy tôi hỏi ai? Chắc chắn không phải tôi và cũng không phải chị được ăn.
Chị mân mê quả trứng trong tay, nói:
- Tôi rất muốn...
Kim Đồng hỏi:
- Chị muốn gì?
Chị nói:
- Tôi rất muốn ăn sạch số trúng này! Cậu biết không, theo đông y thì trứng sống bổ hơn trúng chín.
Kim Đồng nói: Chị bỏ cái ý nghĩ ấy đi! Trại trưởng Long đích thân cầm cân, chính xác tới ba số lẻ, thiếu một quả là bà ấy phát hiện ra ngay
- Tôi không để bà ta biết đâu! - Chị nói.
Kim Đồng nói:
- Tôi không dám làm chuyện này, kiếm được công việc như hiện nay đối với tôi đâu có dễ?
Con cáo đực đêm nào cũng quấy nhiễu trại gà, hơn nữa cứ cách một đêm lại tha đi một con gà mái. Cái đêm nó không bắt, không phải vì không bắt được, mà vì nó không muốn bắt. Như vậy, hoạt động của nó có hai khía cạnh; đêm bắt gà là để ăn, đêm không bắt gà là để quấy nhiễu. Nó làm cho đám nữ công nhân của trại gà bấn tinh lên, không đêm nào được yên ổn. Trại trưởng Long đã bắn hai mươi phát đạn mà không đụng được một sợi lông chân của nó. Các nữ công nhàn nói:
- Con cáo này đã thành tinh, biết niệm thần chú tránh đạn!
- Cứt! Cô gái có biệt hiệu là Ngựa hoang chửi một câu rất tục.
Cô là em gái Quách Văn Hào, tổ trưởng tổ chế biến thức ăn gia súc. Cô nói:
- Cái đồ vét đĩa ấy thì thành tinh thế nào được?
- Nếu nó không là hồ ly tinh, thì tại sao với tài thiện xạ như trại trưởng Long từng nổi tiếng trong đội biệt động, lại bắn không trúng - cô nữ công nhân bắt bẻ.
- Theo tớ thì trại trưởng Long có chuyện nới tay, vì con cáo này là con cáo đực! Ngựa hoang cười dâm đãng, biết đâu cứ đến đêm khuya lại chả có một chàng trai đẹp mã rúc vào chăn trại trưởng?
Trại trưởng Long đứng bên hàng rào, lắng nghe đám nữ công nhân bàn tán, tay nghịch khẩu súng lục, nét mặt đăm chiêu. Tiếng cười như phá của đám nữ công nhân làm chị ta sực tỉnh, dùng nòng súng hất ngực vành mũ đã đổi màu, bước những bước dài vào trong chuồng gà, đến trước mặt Ngựa hoang đang đếm trứng. Chị ta trợn mắt nhìn Ngựa hoang, hỏi dồn:
- Cô vừa nói gì?
Ngựa hoang cầm quả trứng gà lên soi, thản nhiên:
- Tôi chẳng nói gì cả?
- Tôi nghe thấy cô nói mà lại - chi ta giận dữ nói, gõ gõ báng súng lục vào lồng gà.
Ngựa hoang khiêu khích:
- Chị nghe thấy tôi nói gì nào?
Trại trưởng Long mặt đỏ như gấc, gầm lên:
- Tôi quyết không tha cho cô? - Rồi giận dữ bỏ đi.
Ngựa hoang nói với theo:
- Có tật giật mình! Cáo với cầy gì? Chỉ ra vẻ ta đây đứng đắn? Tối hôm nọ... tưởng tôi không nhìn thấy hay sao?
- Ngựa hoang này - Một nữ công nhân có vẻ hiền lành nói - nói in ít thôi, ngày ba lạng bột, hơi sức đâu mà nói khỏe thế!
- Ba lạng, ba lạng, tớ đ. mẹ cái ba lạng ấy?
Ngựa hoang rút kẹp tóc, rất thành thạo thọc hai lỗ ở hai đầu quả trứng rồi đưa lên miệng, mút một hơi, quả trứng chỉ còn cái vỏ. Cô ngắm nghía cái vỏ trứng nhìn bề ngoài tuồng như cò nguyên vẹn, đặt trả lại vào đống trứng, nói:
- Ai muốn tố cáo thì cứ đi mà tố! Dù sao thì một tháng nữa tớ tời bỏ chỗ này, bố tớ đã nhắm cho tớ một chàng quê tận đông bắc, nơi mà đậu tương chất cao như núi! Này anh chàng, anh có đi tố tôi không? - Cô hỏi Kim Đồng khi lấy đang quét phân gà bên ngoài cửa sổ - Anh tố cáo tôi là người ta tin ngay, anh là con gà choai thơm như múi mít thế kia chắc là bà cụt tay thích lắm! Bà ta là bò già khuyết răng chỉ thích xơi cỏ non?
Kim Đồng bị Ngựa hoang chửi tối tăm mặt mũi, anh xúc một xẻng phân gà, dọa:
- Cô định ăn cứt gà thì bảo!
Buổi chiều, khi chở bốn khay lớn trứng gà lên nông trường bộ, đến quãng giữa trại gà và hố ủ phân của đội trồng rau, Kiêu Kỳ Sa nói:
- Kim Đồng, dừng lại đã!
Kim Đồng thận trọng dừng bước, hạ càng xe xuống, quay lại nhìn. Kiều Kỳ Sa nói:
- Cậu thấy rồi đấy. Bọn họ đều ăn vụng trứng, kể cả trại trưởng Long. Cậu có thấy Ngựa hoang đỏ phây phây không? Đám nữ ở trại gà đều thừa dinh dưỡng!
Kim Đồng nói:
- Nhưng số trứng này đã qua cân!
Kiều Kỳ Sa nói:
- Nhưng chúng ta không thể ôm một đống trứng mà bụng đói meo. Tôi đói đến phát điên rồi!
Chị cầm lên hai quả trứng lẻn vào sau hàng rào dây thép gai, mất hút sau chiếc xe tăng hỏng. Một lát sau, chị cầm ra hai quả trứng bề ngoài nguyên vẹn như cũ, vùi sâu giữa đống trứng. Kim Đồng lo ngại hỏi:
- Kiều Kỳ Sa, chị làm thế này khác gì mèo giấu cứt, kho nông trường bộ cân lại là lộ hết.
Chị vừa cười vừa nói:
- Cậu tưởng tôi ngốc lắm hả? - rồi cầm lên hai quả khác, bảo Theo tôi!
Kim Đồng theo Kiều Kỳ Sa chui qua hàng rào dây thép gai, những cây thanh hao nở hoa trắng, mùi thơm hắc đến váng đầu.. Chị ngồi xổm bên xe tăng, lấy gói giấy dầu giấu chỗ khuất sau xích xe, trong gói có một chiếc khoan nhỏ, một chiếc bơm tiêm to đừng, một cuộn băng dính có màu như vỏ trứng và một chiếc kéo nhỏ. Chị khoan thủng một đầu quả trứng, chọn kim tiêm vào rút hết lòng trắng lòng đỏ vào bơm tiêm rồi chúc mũi kim tiêm xuống, bảo Kim Đồng: Há miệng ra! Kiều Kỳ Sa bơm lòng trứng vào họng Kim Đồng. Vậy là dù muốn hay không, Kim Đồng trở thành đồng phạm. Sau đó, chị hút nước đọng trong mũ sắt bơm đầy hai quả trứng, dùng kéo cắt một mẩu băng dính dán vào lỗ kim trên vỏ. Kiều Kỳ Sa làm tất cả những động tác ấy với một sự khéo léo và chính xác. Kim Đồng hỏi:
- Chị học kiểu này ở Học viện Y khoa à?
Kiều Kỳ Sa mỉm cười:
- Phải, ăn vụng chuyên nghiệp! Khi cân lại ở nông trường bộ, số trứng không bị giảm trọng lượng, trái lại còn dôi ra một lạng.
Trò ăn vụng trứng của họ kéo dài được nửa tháng thì bị phát giác. Khi đó là giữa mùa hạ, mưa dầm liên miên, gà mái sang thời kỳ thay lông, lượng trứng giảm hẳn. Xe chở một khay rồi trứng đến địa điểm cũ thì dừng lại, hai người chui qua rào dây thép gai. Những chùm thanh hao chín mọng. Trên bãi sắt thép phế thải hơi nước bay vật vờ như mây. Mùi thép gỉ tanh lợm. Một con nhái ngồi chồm hổm trên bánh chuyền động của xe tăng, màu da xanh biếc của nó khiến Kim Đồng cảm thấy có điều chẳng lành. Khi Kiều Kỳ Sa bơm lòng trứng vào miệng Kim Đồng, cậu cảm thấy buồn nôn. Cậu vuốt họng, nói:
- Trứng hôm nay vừa tanh vừa lạnh?
Kiêu Kỳ Sa nói:
- Chỉ vài hôm nữa, những quả trứng vừa tanh vừa lạnh cũng không còn, trò ăn vụng của chúng ta đã đến lúc kết thúc.
Kim Đồng nói:
- Đúng vậy, gà đến mùa thay lông rồi!
- Cậu ngốc thật đấy hay là cậu có dự cảm gì về tôi?
- Về chị? - Kim Đồng lắc đấu - tôi chẳng có dự cảm gì về chị cả!
- Thôi, gia đình cậu cũng đủ ầm ĩ rồi, tôi chẳng muốn làm nó rối tinh thêm!
Kim Đồng hỏi:
- Chị nói gì mà cứ úp úp mở mở!
Chị nói: - Sao cậu không hỏi tôi một câu về hoàn cảnh của tôi?
Kim Đồng nói:
- Tôi không định lấy chị, vậy tìm hiểu hoàn cảnh của chị để làm gì?
Chị ngẩn người, cười:
- Đúng là đàn ông nhà Thượng Quan, mở miệng là nói ngang! Chẳng lẽ lấy tôi thì mới hỏi hoàn cảnh của tôi hay sao?
Kim Đồng nói:
- Đúng thế, tôi nghĩ nên như vậy. Tôi nghe cô Hoắc nói rằng, hỏi về hoàn cảnh người phụ nữ một cách tùy tiện là rất không lịch sự!
- Cậu nói cái cô gánh phân bắc ấy à?
Kim Đồng nói:
- Cô ấy rất giỏi tiếng Nga.
Kiều Kỳ Sa cười nhạt:
- Nghe nói cậu là học trò cưng của cô ấy?
Kim Đồng nói:
- Cứ cho là như thế đi!
Kiều Kỳ Sa liền dùng thứ tiếng Nga chính hiệu nói một thôi một hồi, rồi chăm chú nhìn Kim Đồng hỏi: - Cậu hiểu không? Kim Đồng nói:
- Hình như chị kể về số phận bi thảm của một bé gái...
Kiều Kỳ Sa nói:
- Trò cưng của Hoắc Lệ Na trình độ cũng chỉ đến vậy, mèo ba chân, hổ nhồi bông, đèn lồng giấy không hơn không kém! Chị tỏ vẻ thất vọng, cầm lấy bốn cái trứng đi ra.
Kim Đồng không phục, nói:
- Tôi học cô ấy mới được một năm rưỡi, chị yêu cầu ở tôi cao quá đấy!
- Tôi thèm vào yêu cầu cậu!
Chị chui ra khỏi bụi thanh hao, quần áo ướt đẫm, cặp vú thây lẩy được nuôi dưỡng bằng sáu mươi tám quả trứng gà, cặp vú không cân xứng chút nào với thân hình gầy guộc của chị. Một cảm giác bàng hoàng say đắm chạy rân rân lên đỉnh đầu, cậu bất giác giơ hai tay về phía chị, nhưng chị đã né tránh, chui qua hàng rào dây thép gai, ra ngoài, ném lại một tràng cười khô khốc.
Trại trưởng Long cầm một quả trứng lên ngắm nghía. Kim Đồng chân run bắn, nhìn không chớp quả trứng trên tay chị ta. Kiều Kỳ Sa tỏ vẻ bất cần, đưa mắt nhìn những nòng sơn pháo, đã pháo và pháo cao xạ im lìm chĩa lên bầu trời u ám. Những giọt mưa phùn đọng trên trán chị, chảy thành dòng qua hai cánh mũi, long lanh như những giọt ngọc. Từ ánh mắt của Kiều Kỳ Sa, Kim Đồng nhận ra cái vẻ phớt đời trước cảnh khốn cùng của tất cả các cô gái nhà Thượng Quan. Và thế là cậu hiểu về cơ bản lai lịch của người thanh nữ này, hiểu được nguyên nhân vì sao suốt mấy tháng qua chị cứ căn vặn mãi về hoàn cảnh của cậu. Trại trưởng Long mỉa mai:
- Quả là thiên tài! Không hổ danh là một cao thủ!
Đột nhiên chị ta dúi quả trứng vào giữa trán Kiều Kỳ Sa. Quả trứng bẹp dí, nước bẩn trong trứng chảy đầy mặt chị. Trại trưởng Long nói:
- Lên nông trường bộ, các người sẽ bị trừng phạt đích đáng!
Kiều Kỳ Sa nói:
- Chuyện này không liên quan đến Kim Đồng. Cậu ta chẳng qua là chưa kịp thời tố cáo tôi đấy thôi? Cũng như tôi chưa kịp tố giác kẻ không những ăn vụng trứng gà, mà còn ăn vụng cả gà mái?
Hai ngày sau, Kiều Kỳ Sa bị cắt phiếu lương thực của nửa tháng, điều đến tổ trồng rau, chuyên chở phân bắc cùng với Hoắc Lệ Na. Hai cô gái rất giỏi tiếng Nga này thường là vô duyên vô cớ vung gáo múc phân lên, chửi nhau bằng tiếng Nga. Kim Đồng vẫn được ở lại trại gà. Gà mái của trại đã chết quá nửa, hơn chục nữ công nhân bị điều đi làm ruộng. Trại gà trước đây náo nhiệt là thế, nay chỉ còn lại trại trưởng Long và Kim Đồng trông nom vài trăm con gà mái trụi lông, phao câu tím ngắt. Con cáo đực tiếp tục quậy phá, chiến đấu với cáo là nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của hai người.
Một đêm hè, mây đen chốc chốc lại nuốt chửng vầng trăng, con cáo đực lại đến. Nó ngang nhiên cắn chết một con gà mái, vẫn theo lối đi cũ, tha con gà ra ngoài. Trại trưởng Long bắn chiếu lệ hai phát súng như một nghi thức đưa tiễn con cáo. Mùi thuốc súng khét lẹt. Kim Đồng đứng lặng bên cạnh trại trưởng Long. ếch nhái kêu từng đợt từ ngoài đồng vọng vào. ánh trăng lọt qua kẽ mây, tắm lên hai người một lớp mỡ. Cậu nghe thấy trại trưởng Long hự lên một tiếng, ngoảnh lại nhìn thì thấy khuôn mặt chị ta dài ra một cách đáng sợ, răng trắng nhởn. Thậm chí cậu còn trông thấy một cái đuôi to tướng đội đũng quần chị ta lên. Trại trưởng Long là cáo? Cậu chợt hiểu tất cả. Chị ta là một con cáo cái, đồng lõa với con cáo đực kia. Đây là lý do vì sao chị ta không bao giờ bắn trúng con cáo đực. Ngựa hoang nói rằng, đêm đêm có một chàng trai bóng nhẫy chui vào buồng chị ta, chính là con cáo này hóa thành người! Cậu ngửi thấy mùi hôi của cáo, nhìn khẩu súng trong tay chị ta còn vương khói ở đầu nòng chĩa thẳng vào cậu, liền quẳng gậy vừa kêu vừa chạy vào buồng của mình, dùng vai chèn chặt cửa buồng. Cậu nghe thấy chị ta trở lại buồng ngủ của nữ công nhân mà giờ đây chỉ còn mỗi mình chị ta, chỉ cách buồng cậu một bức tường ghép bằng những mảnh thùng gỗ. Bên kia tường, chị ta cào vào gỗ bằng những móng tay sắc nhọn cùng với những tiếng rên rỉ khẽ. Đột nhiên, bức tường bị bục một mảng, chị ta chui sang, trên người không một mảnh vải. Giờ đây chị ta mang hình người chỗ cánh tay cụt sát nách trông dễ sợ, da nhăn nhúm như miệng túi. Cặp vú như hai quả cân bằng gang nhô ra phía trước. Chị ta phủ phục trước mặt Kim Đồng rồi dùng cánh tay còn lại ôm chặt hai chân Kim Đồng, nước mắt ràn rụa, chị ta rên rỉ như một bà già:
- Kim Đồng... Kim Đồng... xin hãy thương tôi, tôi là một người đàn bà bất hạnh!...
Kim Đồng cố sức rút được chân ra, nhưng bàn tay rắn chắc của chị ta lại tóm lấy thắt lưng cậu, giật đứt và tụt quần cậu xuống một cách thô bạo. Cậu cúi xuống định kéo quần lên, liền bị chị ta vít cổ xuống, ngã đè lên chị ta. Chị ta xoắn chặt lấy Kim Đồng, lần lượt xé bỏ quần áo trên người cậu, đấm nhẹ một quả vào thái dương khiến cậu mắt trợn ngược, nằm thẳng cẳng như một con cá chết. Trại trưởng Long gặm từng tấc da trên người Kim Đồng vẫn không giúp cậu thoát khỏi cơn sợ hãi. Thẹn quá hóa giận, chị ta xồng xộc chạy về buồng mình lấy khẩu súng lục sang, và trước mặt cậu, chị ta kẹp súng giữa hai chân, nhét hai viên đạn vàng chóe vào kẹp đạn. Rồi chị ta chĩa súng vào bụng Kim Đồng, nói: Một là cương lên, hai là để tôi bắn bỏ nó! Cặp mắt chị ta hung hãn, thái độ tỏ ra không chút e dè, cặp vú rắn như thép nguội nhảy tâng tâng một cách giận dữ trên bộ ngực. Kim Đồng một lần nữa lại trông thấy mặt chị ta dài ra, từ giữa cặp mông mọc ra một cái đuôi dài như chiếc chổi, dài mãi, dài mãi cho tới chấm đất. Kim Đồng ngã sóng soài, người mềm nhũn, mồ hôi thấm ướt cả chăn.
Trong những ngày mưa dầm liên miên ấy, trại trưởng Long không kể ngày đêm, dùng thủ đoạn hết cương đến nhu, hy vọng thức dậy người đàn ông trong Kim Đồng, cho đến khi chị ta bị thổ huyết mà vẫn không đạt mục đích. Mấy phút trước khi tự sát, chị lấy cánh tay chùi máu trên khóe miệng, than thở:
- Long Thanh Bình, mi ba mươi chín tuổi đầu mà vẫn là gái trinh, người ta chỉ biết mi là một anh hùng mà không biết mi là đàn bà. Mi đã uổng phí cả một đời.
Chị ho lên mấy tiếng dữ dội, hai vai nhô lên, mặt trắng nhợt, rồi nôn ra một bụm máu. Kim Đồng tựa lưng vào cánh cửa, sợ đến nỗi hồn xiêu phách lạc. Nước mắt chảy tràn khuôn mặt, trại trưởng Long nhìn Kim Đồng đầy vẻ oán trách, lết bằng đầu gối đến bên giường, cầm khẩu súng lục lên, tì đầu nòng vào huyệt thái dương. Chính trong giờ phút chót ấy Kim Đồng nhận ra tư thế hấp dẫn của người đàn bà. Cánh tay duy nhất giơ lên để lộ một mảng lông nách, eo thon và lẳn, cặp mông xẻ đôi tì trên hai gót chân. Một cụm lửa vàng bùng lên trước mắt cậu, bụng dưới lạnh như băng bỗng nóng ran vì máu dồn về. Chính lúc đó, vì tuyệt vọng đến cục điểm, Long Thanh Bình bóp cò - nếu như trước đó chỉ một thoáng chị nhìn Kim Đồng, thì sẽ không xảy ra bi kịch - Kim Đồng trông thấy một cụm khói vàng ở chỗ tóc mai trại trưởng Long cùng với một tiếng nổ trầm dục. Chị rùng mình một cái rồi đồ vật ra. Kim Đồng chồm tới lật ngửa cái xác, cậu nhìn thấy một lỗ đen ngòm ở thái dương, viền lỗ rách bươm dính đầy thuốc súng, máu rỉ ra ở tai dính nhơm nhớp trên tay cậu. Đôi mắt chị vẫn mở, ánh mắt đầy vẻ ai oán, làn da trên ngực vẫn rung rung như mặt hồ trước cơn gió nhẹ...
Với một nỗi xót xa cùng cực, Kim Đồng ôm chầm lấy chị và thỏa mãn nguyện vọng của chị trước khi cơ thể chị mất cảm giác. Khi cậu mệt mỏi rời khỏi cơ thể chị, mắt chị sáng rục lên rồi tắt ngấm, mi mắt từ từ khép lại. Kim Đồng nhìn cái xác của trại trưởng Long, cảm thấy trong đầu hoàn toàn trống rỗng. Bên ngoài mưa như trút nước, cậu trông thấy những làn nước trắng đục, đợt nọ kế tiếp đợt kia ùa vào trong buồng, nhận chìm thi thể chị và từ từ nhận chìm cơ thể mình.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro