Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 21 - 30


21

  Lúc chạng vạng tối, tiệc rượu được cử hành sau hôn lễ, trong nhà thờ. Hơn chục bóng đèn treo dưới xà nhà, gian đại sảnh sáng như ban ngày.

Trong khu vườn nhỏ của mặt trước giáo đường, máy nổ đang chạy xình xịch, dòng điện bí ẩn phát ra từ cỗ máy chảy qua dây điện tới bóng đèn, phát ra ánh sáng dụ dỗ bọn thiêu thân. Những con thiêu thân chạm phải bóng đèn là bị chết cháy, rơi xuống đầu các sĩ quan của Chi đội Tư Mã và các nhân sĩ hương nhân của thị trấn. Tư Mã Khố mặc quân phục, mặt bóng loáng, từ ghế chủ tọa đứng dậy, đăng hắng mấy tiếng, nói to:

- Thưa anh em, thưa các vị hương thân. Hôm nay tổ chức bữa tiệc rượu này mừng lễ thành hôn của ông bạn tôn quí Bác-bit kết duyên cùng cô em Niệm Đệ của tôi. Đây là niềm vui lớn, đề nghị mọi người vỗ tay hoan nghênh.

Đám đông nhiệt liệt vỗ tay. Ngồi bên cạnh Tư Mã Khố là anh chàng thanh niên Mỹ Bác-bit mặc lễ phục trắng, túi ngực cài hoa đỏ, mặt tươi cười. Tóc hắn được thoa một lớp đầu lạc, bóng lộn như có con chó vừa thè lưỡi liếm vào đấy. Bên cạnh Bác-bit là chị Niệm Đệ. Chị mặc bộ váy màu trắng, hở cổ để lộ quá nửa cặp vú. Nước bọt tứa ra trong miệng tôi. Nhưng tôi phát hiện môi chị Tám khô như vỏ củ hành. Lúc ban ngày, lúc cử hành hôn lễ, tôi và Tư Mã Lương nâng gấu váy sau của chị Niệm Đệ như nâng cái đuôi của con gà rừng. Trên đầu chị cài hai bông nguyệt quế, mặt thoa phấn. Phấn son cũng không giấu được vẻ đắc ý và niềm vui trên mặt chị. Chị chẳng ra sao cả, Tiên Chim chết chưa nguội thây, chị đã cưới ngay người Mỹ.

Tôi rất buồn, mặc dù Bác-bit tặng tôi con dao nhọn có chuôi nhựa, nhưng tôi buồn. Đèn điện là đồ tồi, ánh sáng xuyên qua váy, nhìn rõ hai núm vú hồng hồng của chị, trở thành mục tiêu của mọi người. Tôi biết, cánh đàn ông đều nhìn vào đấy, vậy mà chúng không biết, cứ rung rinh hoài. Tôi muốn chửi, nhưng chửi ai bậy giờ? Chửi thằng khốn Bác-bit? Đêm nay chúng sẽ bị thằng khốn chiếm làm của riêng. Bàn tay nhơm nhớp mồ hôi của tôi mân mê con dao nhọn trong túi. Giả dụ tôi xông lên rạch phăng váy, cắt lấy hai bầu vú thì sự thể sẽ ra sao nhỉ? Tư Mã Khố còn mải diễn thuyết nữa không? Bác-bit còn tỏ ra xúc động nữa không? Chị Niệm Đệ còn cảm thấy hạnh phúc nữa không? Tôi sẽ giấu hai bầu vú đi, nhưng giấu ở đâu? Không ổn, lũ chuột sẽ ăn mất. Giấu ở hốc tường, lũ chuột sẽ tha đi, giấu trên chạc cây, lũ cú vọ sẽ mổ mất...

Có người khẽ chọc vào sườn tôi. Đó là Tư Mã Lương. Hắn mặc lễ phục màu trắng, tay nâng bó hoa dại rất to, tặng chị Niệm Đệ. Hắn ăn mặc y hệt tôi. Hắn bảo:

- Cậu ngồi xuống đi, chỉ mỗi cậu là đứng!

Tôi nặng nề ngồi xuống ghế băng, nhớ lại mình đứng dậy từ lúc nào và vì sao mà đứng dậy. Sa Tảo Hoa cũng mặc rất đẹp. Nó tặng chị Niệm Đệ một bó hoa dại rất to. Nhân lúc mọi người đang lắng nghe Tư Mã Khố diễn thuyết, lúc mọi người đang chú mục vào ngực chị Niệm Đệ, lúc mọi người đang ngửi mùi rượu thịt, Sa Tảo Hoa liền giơ tay nhón lấy một miếng thịt rồi giả vờ lau nước mũi, nó đút vội miếng thịt vào miệng.

Tư Mã Khố tiếp tục diễn thuyết. Anh ta nâng cốc rượu, thứ rượu vang mua tận Đại Trạch đem về, màu hồng lên trong cốc pha lê, nâng hồi lâu mà không cảm thấy mỏi. Anh ta nói:

- Ông Bác-bit là từ trên trời rơi xuống, trời rơi xuống một ông Bác-bit? Về thuật phi hành của ông, các vị đều đã được mục kích. Ông làm cho đèn phát sáng, như trên đầu chúng ta đây...

Anh ta chỉ các bóng đèn điện trên xà nhà, đám đông tạm thời rời mắt khỏi cặp vú tròn trặn đầy ma lực của chị Niệm Đệ, nhìn bóng điện sáng chói:

- Đây là diện, lấy cắp từ chỗ ông Thiên Lôi. Chi đội du kích của chúng tôi từ khi có Bác-bit, có thể nói thuận buồm xuôi gió. Bác-bit có phúc tướng, nhiều tài nghệ tuyệt vời, lát nữa ông sẽ mở rộng tầm mắt cho các vị...

Anh ta quay lại chỉ lên cái bục, xưa kia là bục giảng của mục sư Malôa, sau đó là bục giảng của cô Đường những khi lên lớp cho các nữ du kích chống Nhật, phía sau cái bục là bức tường có căng một tấm phông bằng vải trắng. Chúng tôi cảm thấy lóa mắt, không dám nhìn lâu.

- Với vị thiên tài này, chúng tôi quyết không nhả. Sau khi kháng chiến thắng lợi, chúng tôi hết sức nhiệt tình giữ Bác-bit ở lại, đây cũng là lý do vì sao tôi chủ trương gả cô em vợ đẹp hơn Tiên cho Bác-bit. Giờ đây, tôi đề nghị, để chúc mừng hạnh phúc của ông Bác-bit và cô Niệm Đệ, mọi người hãy cạn chén!...

Mọi người ào ào đứng dậy chạm cốc, ngửa cổ uống cạn.

Niệm Đệ giơ bàn tay đeo nhẫn cầm cốc rượu lên, chạm cốc với Bác-bit, rồi với Tư Mã Khố, với Chiêu Đệ. Chiêu Đệ vừa sinh con, chưa lại người, mặt nhợt nhạt, hai bên má nổi quầng đỏ. Tư Mã Khố nói:

- Cô đâu chú rể phải uống cho ra trò, đề nghị giao bôi!

Rồi hướng dẫn Bác-bit và Niệm Đệ ngoắc tay nhau mà uống hết chén rượu. Mọi người vỗ tay vui vẻ. Tiếp đó là cười nói ầm ĩ, những đôi đũa múa may, những cái miệng nhai ngấu nghiến, những giọng lè nhè, mỡ bóng nhẫy trên môi trên má. Bàn chúng tôi có tôi, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa, chị Tám và mấy tiểu yêu không rõ từ đâu tới. Ngoại trừ tôi, tất cả đều ăn. Tôi không ăn, chỉ quan sát. Sa Tảo Hoa là người đầu tiên bỏ đũa, tay trái vớ lấy cái đùi gà, tay phải nhón luôn cái móng lợn, ngoạm một miếng đùi gà lại một miếng móng lợn. Tôi phát hiện ra rằng, để tập trung tinh lực, lúc nhai chúng nhắm mắt lại như chị Tám. Chị Tám hai má đỏ hây, môi mọng, còn đẹp hơn cô đâu. Nhưng tôi thấy buồn khi thấy lũ trẻ tranh nhau ăn thịt, tức là ăn xác động vật.

Chị Sáu lấy Bác-bit, mẹ không tán thành. Chị Sáu nói:

- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội, con giữ bí mật cho mẹ chuyện ấy đấy nhé!

Mẹ lập tức nhũn như con chi chi, không nói gì nữa. Thái độ im lặng khiến mẹ như tàu lá héo, mẹ không hỏi gì đến chuyện hôn nhân của chị Sáu, khiến chị phấp phỏng mất mấy hôm.

Lúc này tiệc rượu chuyển sang trạng thái tự nhiên, không còn chuyện bắt mối làm quen giữa bàn nọ với bàn kia, mà bàn nào biết bàn ấy, mỗi bàn là một trung tâm, rượu chảy như suối, thức ăn hết món nọ tiếp món kia, những người phục vụ mặc áo trắng chạy gằn từ bàn này sang bàn khác, cao giọng xướng tên món ăn: Đầu sư tử xào đây, chim câu rán đây, gà tần đây...

Mâm chúng tôi toàn những kiện tướng ăn bốc.

- Chân giò đây!

Một đĩa thịt giò vừa đặt xuống bàn, những bàn tay đẫy mỡ nhất tề vươn tới. Bỏng thì thổi phù phù như rắn hổ mang, nhưng không ai chịu bỏ cuộc, lại nhón tiếp. Miếng thịt rơi ra bàn, lập tức có người nhặt lên bỏ vào miệng nuốt đánh ực không chậm trễ, ứa cả nước mắt. Trong khoảnh khắc, da hết đằng da, thịt hết đằng thịt, trên đĩa chỉ còn lại vài cái xương. Cũng lại giành nhau xương để gặm sụn. Người không giành được thì ngẩn ngơ mút ngón tay. Bụng chúng căng như quả bóng, hai chân lẻo khoẻo buông thõng dưới ghế một cách thảm hại. Chúng ợ hơi, bụng lục ục như mèo gừ. Món cá quế đây, một người phục vụ bụng to chân ngắn, mặc áo đuôi tôm trắng bong, bê chiếc mâm gỗ, trên mâm là một đĩa sứ, trong đĩa sứ là một con cá lớn rán vàng. Hàng chục người phục vụ cao bằng nhau, cùng mặt áo đuôi tôm, cùng bê mâm gỗ, cùng những đĩa sứ, cùng những con cá to rán vàng, trông chẳng khác một dãy cột điện. Người phục vụ đặt đĩa cá lên bàn của chúng tôi, nháy mắt với tôi. Tôi cảm thấy người này hơi quen. Cái miệng méo, một mắt nhắm một mắt mở, mũi đầy những nếp nhăn. Cái kiểu nháy mắt này mình đã thấy ở đâu nhỉ? Phải chăng trong tiệc cưới của Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ ở đại đội bộc phá.

Con cá quế trong đĩa với những nhát khía đầy mình, rưới đầy nước sốt màu da cam, con mắt mờ đục ẩn dưới đám lá hành xanh mơn mởn, cái đuôi hình tam giác thò ra ngoài đĩa một cách thảm hại như đang run rẩy. Những ngón tay nhờn mỡ lại thò ra. Tôi không đành lòng nhìn cảnh xâu xé con cá quế, quay mặt đi.

Bác-bit và chị Niệm Đệ từ bàn chủ tọa đứng dậy, trong tay mỗi người là một cái ly chân cao đầy rượu vang đỏ, tay không cầm ly thì khoác vào nhau. Họ trông thật trang nhã, dịu dàng tiến lại bàn chúng tôi. Những ánh mắt đều dán vào con cá quế, khổ thân con cá, nó đã bị xâu xé hết một bên, lộ ra những xương dăm màu xanh nhạt. Nửa còn lại của con cá bị xâu xé chỉ trong chớp mắt. Trước mặt mỗi đứa là một mảng thịt của con cá, chẳng ra hình thù gì, bốc hơi nghi ngút. Bọn trẻ tham lam như những con cá nhỏ, lùa hết vào miệng rồi mới bắt đầu nhai. Trên đĩa chỉ còn lại cái đầu cá to sụ, một cái đuôi thanh tú, mỏng tanh, khoảng giữa là bộ xương vẫn dính liền các đốt. Chiếc khăn bàn trắng tinh đầy vết bẩn, chỉ có góc của tôi là còn sạch, một cốc rượu vang vẫn đặt ngay ngắn ở chính giữa.

- Các bạn nhỏ thân mến - Bác-bit chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, thái độ thân mật - Cùng cạn chén nào!

Vợ anh ta cũng chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, bàn tay chị ngón cong ngón thẳng như một đóa hoa lan, chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên đóa hoa đó. Phần vú lộ ra có màu men sứ. Tim tôi đập thình thịch.

Bọn trẻ ngồi cùng bàn với tôi miệng nhét đầy cá, rối rít đứng lên. Má, mũi, thậm chí trên trán nhoe nhoét mỡ. Tư Mã Lương ngồi bên tôi vội vàng nuốt chủng miếng cá, kéo góc khăn bàn lên lau miệng. Hai bàn tay tôi trắng và thon, bộ lễ phục của tôi không một vết bẩn, mái tóc tôi vàng rực. Dạ dày tôi chưa bao giờ tiêu hóa xác chết, răng tôi chưa bao giờ nhai rau cỏ. Những ngón tay nhờn mỡ lóng ngóng câm cốc rượu chạm vào cốc rượu của Bác-bit. Chỉ có tôi đứng bên bàn mê mẩn nhìn cặp vú của chị Niêm Đệ. Hai tay tôi bám chặt mép bàn, cố gắng kìm chế để từ bỏ ý nghĩ - sờ vú chị.

Bác-bit ngạc nhiên nhìn tôi:

- Sao cậu không ăn không uống gì cả?

Chị Niệm Đệ tạm thời không làm bộ làm tịch, trở về với thái độ chị Sáu hàng ngày. Chị đưa bàn tay rảnh rỗi xoa gáy tôi, nói với anh chồng mới toanh:

- Em trai của em một nửa là thần tiên, nó không ăn mặn!

Mùi nước hoa sực nức trên người chị Sáu khiến tôi tâm thần rối loạn, tay tôi đã phản lại ý chí của tôi. Tôi chộp vào ngực chị. Cái áo lụa của chị sao mà trơn thế!

Chị Sáu kinh hoảng kêu lên, hắt ly rượu vào mặt tôi. Chị Sáu mặt đỏ như gấc. Chị vuốt lại chỗ áo bị tôi làm nhàu, khẽ mắng:

- Đồ khốn!

Rượu vang chảy trên mặt tôi, trước mắt tôi là một màu hồng trong suốt. Cặp vú chị Sáu như hai quả khí cầu màu hồng ngay trước mắt tôi, chính xác hơn là hiện ra trong óc tôi.

Tôi né tránh bàn tay hộ pháp của Bác-bit, căm hờn nhìn khuôn mặt vừa hài hước vừa xấu xa của hắn. Nỗi đau khổ trong lòng tôi không thể nói bằng lời. Cặp vú của chị Sáu, trắng mịn, được chế tác bằng ngọc thạch, bảo bối bậc nhất của thế gian, đêm nay sẽ rơi vào tay tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn sờ nắn, mặc cho hắn vầy vò. Bầu vú của chị Sáu, trắng như cục bột, chứa đầy mật ngọt, đi khắp chân trời góc biển không tìm đâu ra của quí như thế, đêm nay sẽ rơi vào miệng tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn ngậm, mặc cho hắn mút, hắn sẽ ti cạn sữa, bầu vú chị chỉ còn là cái túi da lép kẹp. Hơn nữa, điều mà tôi không thể nén giận được, là chị Sáu lại rất tự nguyện. Này, chị Niệm Đệ, tôi lấy cọng cỏ chọc chị một cái, chị đét tôi hai cái; tôi sờ vú chị một cái, chị hắt rượu đầy mặt tôi! Vậy mà Bác-bit sờ chị, cắn chị thì chị lại tiếp nhận một cách vui vẻ! Vậy còn gì là công bằng trên đời này! Các vị là đồ bần tiện, sao không hiểu nỗi khổ tâm của tôi? Trên đời này, không ai hiểu bầu vú, yêu bầu vú, biết bảo vệ bầu vú như tôi! Vậy mà các người coi nó như một thứ giẻ rách. Tôi khóc vì tủi thân.

Bác-bit nhún vai, làm xấu trên mặt một cái, khoác tay chị Niệm Đệ sang bàn khác. Người phục vụ bê đến một tô canh nổi lềnh bềnh trứng rán thái chỉ, còn có thứ gì đó mảnh như sợi tóc. Bọn trẻ cùng mâm học tập bàn bên, dùng thìa múc canh. Chúng ra sức múc phần đặc, làm canh bắn tung tóe. Chúng đưa thìa canh lên miệng, vừa thổi vừa húp từng tí một. Tư Mã Lương huých tôi một cái, bảo:

- Cậu ăn một chút đi, ngon lắm, không kém gì sữa dê!

- Không - tôi nói - tao không ăn!

- Vậy cậu ngồi xuống đi, họ đang nhìn cậu đấy! Nó lại nói.

Tôi nhìn ra xung quanh như khiêu khích, chẳng có ai nhìn tôi, Tư Mã Lương thông báo sai. Tôi trông thấy giữa các bàn đều có hơi nước bốc lên, đến gần bóng đèn thì biến thành sương mù và tan đi, bóng người mờ ảo, mùi rượu khiến tôi choáng váng. Vợ chồng Bác-bit đã trở về bàn chủ tọa. Tôi trông thấy chị Niệm Đệ ghé sát tai chị Chiêu Đệ nói gì đó. Nói gì nhỉ? Liệu có liên quan đến tôi không? Chiêu Đệ gật đầu, Niệm Đệ không ghé sát Chiêu Đệ nữa, trở lại trạng thái nghiêm trang như cũ. Chị múc một thìa canh đưa lên miệng nếm thử, rồi khoan khoái húp tiếp. Niệm Đệ mới kết bạn với Bác-bit chưa đầy một tháng mà đã như một người khác, ra vẻ dài các. Cách đây một tháng, chị còn húp cháo oàm oạp, vậy mà thay đổi nhanh thế!

Tôi nghĩ mãi mà chưa có câu trả lời. Người phục vụ đem món ăn chính đến, có sủi cảo có mì sợi loằng ngoằng như con giun đã làm tan biến cái thú ẩm thực của tôi, còn có bánh mì trắng điểm những chấm xanh đỏ. Tôi đã ngán khi phải miêu tả mọi người ăn uống ra sao, cảm thấy buồn buồn, bụng đói. Chắc là mẹ sốt ruột lắm, lại còn con dê của tôi nữa. Hỏi vì sao tôi không bỏ về, tôi định về thì không ai ngăn được, vì chỗ tôi ngồi rất gần cổng chính của nhà thờ. Nhưng vì Tư Mã Khố đã tuyên bố, tiệc xong, Bác-bit sẽ giới thiệu để mọi người biết thế nào là văn minh vật chất và văn hóa của phương Tây. Tôi biết anh ta định chiếu phim, nghe nói là những hình người biết nói, biết cử động. Đó là lời chị Hai khi mời mẹ đến dự tiệc cưới. Mẹ lại nói rằng, cách đây hai mươi năm, mẹ đã từng xem người Đức đem nó đến chiếu để quảng cáo cho phân hóa học, một loại bột trắng dựng trong bao tải xác rắn, nghe nói bón ruộng có thể tăng sản lượng lương thực nhưng không ai tin. Mùa màng là phải nhờ vào phân chuồng. Người Đức cho không phân hóa học, nhân dân đem nó đổ xuống hồ ao. Mùa hè năm ấy, sen trong hồ mọc như điên, vừa mập vừa dày đặc, nhưng hoa thì lại không có, hoặc rất ít. Rất may là dân chúng không bị lừa, người Đức đến đây định hại ta, phân hóa học chẳng qua chỉ là thứ thuốc độc, chỉ tốt lá, không ra hoa, tất nhiên làm gì có hạt.

Tiệc cưới rồi cũng kết thúc. Những người phục vụ khênh những cái sọt tới, nhặt nhạnh ào ào bát đũa mâm chén cho vào sọt. Bưng đổ đi là những mảnh vỡ. Hơn chục binh sĩ nhanh nhẹn cũng phụ giúp cuộn tròn các khăn bàn rồi đem đi. Những người phục vụ trải khăn bàn mới, bày lên rượu vang và dưa hấu, dưa chuột, lê. Lại có cà phê Braxin thơm một mùi thơm kỳ lạ mà màu sắc thì như nước nâu, hết hồ nọ đến bình kia, đếm không xuể; hết cốc nọ đến cốc kia, tính không hết. Khách khứa đã ăn no, lại ngồi xuống, dẩu môi ra mà nếm, mà thử, do dự một thoáng, rồi uống cà phê như uống thuốc bắc, nhíu mày nhăn mặt, từng người từng người, từng cốc từng cốc. Các binh sĩ khiêng đến một chiếc bàn, trên đặt cỗ máy phủ vuông vải đỏ.

Tư Mã Khố vỗ tay nói:

- Buổi chiếu phim sắp bắt đầu, anh em, hãy hoan nghênh ông Bác-bit cho chúng ta xem một môn tuyệt kỹ.

Bác-bit đứng dậy trong tiếng vỗ tay, cúi chào cử tọa rồi bước đến bên chiếc bàn kéo vuông vải ra: một cỗ máy kỳ lạ, gớm ghiếc lồ lộ trước mặt mọi người. Những ngón tay của Bác-bit thoăn thoắt trên những bánh răng lớn, bánh răng con. Bụng cỗ máy phát ra những tiếng rào rào, một luồng ánh sáng sắc như dao đột nhiên rọi thẳng lên mặt tường phía tây của nhà thờ. Mọi người vỗ tay rào rào, tiếp theo là tiếng dịch ghế ầm ầm. luồng ánh sáng trắng ấy như gắn chặt trên khuôn mặt Chúa Giêsu tạc bằng gỗ táo, khiến bức tượng thiêng liêng không còn rõ mặt mũi, chỗ hốc mắt mọc cây cỏ linh chi nhỏ xíu. Bác-bit là tín đồ trung thành đạo Cơ đốc, đòi bằng được làm lễ cưới ở nhà thờ. Ban ngày, cỏ linh chi mọc trên hốc mắt Chúa chúng kiến cuộc nhân duyên giữa Bác-bit và Niệm Đệ, ban đêm dùng linh quang của dòng điện soi mắt Chúa, khiến cỏ linh chi bốc khói trắng. Luồng ánh sáng đi chuyển xuống dưới, từ mặt xuống ngực, từ ngực xuống bụng, từ bụng xuống chỗ kín mà người Trung Quốc tạc thành một cái lá sen, cho xuống đến các đầu ngón chân. Cuối cùng, luồng sáng rọi vào chiếc phông trắng hình chữ nhật có viền đen, chui vào trong viền, dán ra một chút rồi đứng yên. Lúc này, tôi nghe tiếng máy chạy như tiếng giọt gianh khi trời mưa. Tắt đèn! Bác-bit nói to.

Một tiếng tách, các bóng đèn tắt phụt, chúng tôi đột nhiên chìm trong bóng tối, nhưng luồng sáng phát ra từ cỗ máy của Bác-bit càng sáng hơn, càng trắng hơn. Từng đám côn trùng bay trong luồng sáng đó. Một con thiêu thân bay chập choạng, trên màn ảnh, hình ảnh của nó lập tức được phóng to lên nhiều lần. Thấy đám đông hoan hô, tôi cũng buột miệng hùa theo. Đúng là tôi được xem diện ảnh rồi. Lúc này, một cái đầu nhô lên trong cột ánh sáng, đó là đầu của Tư Mã Khố. Hai vành tai anh ta trông rõ từng tia máu. Anh ta quay mặt về phía nguồn sáng nên mặt như bẹt lại, trắng nhợt như tờ giây nến. Trên màn ảnh hiện lên cái đầu mỏng dính của anh ta. Lại một trận vỗ tay, tôi cũng vỗ theo.

- Ngồi xuống, ngồi xuống! Bác-bit bực bội quát. Lúc đó, một bàn tay ló ra trong luồng sáng, cái đầu Tư Mã Khố chìm xuống. Trên tường có những tiếng lụp búp, màn ảnh nhấp nhoáng những chấm đen như là đang nổ súng. Âm nhạc vọt ra từ hai cái hộp hai bên màn ảnh, hơi giống tiếng nhị, tiếng sáo; không phải, âm thanh này bèn bẹt, dài lê thê, chẳng khác những sợi miến tòi ra từ khung vắt miến sợi.

Từng hàng chữ, to có, nhỏ có, chạy trên màn ảnh từ trên xuống dưới. Chúng tôi vỗ tay. Người ta có câu: Nước chảy về chỗ thấp. Nhưng những chữ Tây này thì ngược lại từ thấp chảy lên cao, chúng chảy ra ngoài màn hình, lên tường rồi mất hút trong bóng tối. Ngày mai, nếu phá bức trong của nhà thờ, liệu có thể moi được những chữ ấy ra không nhỉ? Tôi đang nghĩ vớ vẩn như vậy thì trên màn ảnh xuất hiện một dòng sông nước chảy ào ào, bờ sông có cây, trên cây có chim, những con chim đang nhảy nhót, kêu chiêm chiếp. Tôi há hốc miệng, ngây như phỗng quên cả vỗ tay. Sau đó xuất hiện một người đeo súng, áo mở phanh để lộ bộ ngực vạm vỡ mọc đầy lông.

Anh ta ngậm điếu thuốc ở miệng, điếu thuốc đang tỏa khói, tất nhiên mũi anh ta phà khói thuốc ra, trời ạ, kỳ lạ thật! Một con gấu chó từ trong rừng chui ra, chạy tới vồ anh ta. Trong nhà thờ vang lên tiếng kêu thét của phụ nữ và tiếng lên cò súng rôm rốp. Một người xuất hiện trong cột ánh sáng, lại là Tư Mã Khố. Anh ta rút súng bắn con gấu chó. Nó rách nát phía trên lưng người trên màn ảnh.

- Ngồi xuống, ngồi xuống! Đồ ngu, đây là phim? Bác-bit thét to.

Sau khi Tư Mã Khố ngồi xuống, con gấu chó đã chết trên màn ảnh, máu chảy đỏ lòm trên ngực, người đi săn ngồi bên cạnh con gấu, đang nạp đạn vào súng.

- Mẹ kiếp, bắn giỏi thật! - Tư Mã Khố kêu to.

Người đi săn trên màn ảnh ngẩng đầu lên, nói một câu gì đó mà tôi nghe không hiểu, rồi anh ta cười một tiếng tỏ vẻ khinh miệt. Anh ta hất súng lên vai, đút ngón tay vào miệng huýt lên một tiếng chói tai, tiếng huýt đội lại từ các bức tường nhà thờ. Một cỗ xe ngựa men theo con đường đất dọc bờ sông chạy tới, người đánh xe rất ngổ ngáo nhưng hơi đần. Cái tay vịn trông quen quá, hình như đã trông thấy ở đâu. Một người đàn bà đứng trên thùng xe, tóc dài bay bay nhưng không rõ màu tóc, khuôn mặt rộng, lưỡng quyền cao, cặp mắt tuyệt đẹp, lông mi cong cong và cứng như râu mèo, miệng rất rộng, môi mọng. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này rất phóng đãng. Hai bầu vú nhảy tưng tung như hai con thỏ bị tóm đuôi. Chị ta phóng thẳng xe về phía tôi. Tôi bàng hoàng, môi tê tê, hai bàn tay đầy mồ hôi. Tôi đứng vụt dậy, nhưng lập tức có một bàn tay ấn đầu tôi xuống buộc tôi ngồi xuống ghế. Ngoảnh nhìn lại, đó là một người lạ, miệng mở to. Sau lưng anh ta chật ních những người là người, bịt kín cả cổng chính. Có vài người gần như đánh đu trên khung cửa. Ngoài đường tiếng người ồn ào, có rất nhiều người đang lách vào trong.

Người phụ nữ dùng xe, bám dóng xe nhảy xuống. Chị ta vén váy, để lộ bắp chân tường ngần, gọi to, chắc chắn là gọi người đàn ông kia. Gọi, chạy. Quả nhiên là gọi người đàn ông. Anh ta bỏ mặc con gấu, vứt súng, chạy về phía người phụ nữ. Mặt, mắt, miệng, răng trắng, ngực phập phồng của người phụ nữ. Mặt, lông mày rậm, mắt diều hâu, râu quai nón xanh biếc, vết sẹo bóng loáng cắt đôi lông mày và trán người đàn ông. Lại khuôn mặt người phụ nữ, lại khuôn mặt người đàn ông. Bàn chân đã đá tung giày đi của người phụ nữ. Sau đó, người phụ nữ nhào vào lòng người đàn ông. Vú chị ta bị ép bẹp. Miệng người đàn ông bịt chặt miệng người phu nữ. Rồi, miệng chị ở ngoài, miệng anh ở trong, rồi lại đôi chỗ. Hừ hừ, đó là tiếng rên của người phụ nữ. Lại còn tay của chị ta, ôm cổ ôm eo thì không nói làm gì, lại còn sờ soạng lẫn nhau, cuối cùng, hai người lăn lông lốc trên thảm cỏ xanh, lúc thì nam ở trên, lúc thì nữ ở trên, cứ thế mà lăn, được một dặm thì không lăn nữa. Bàn tay lông lá của người đàn ông thọc vào ngực áo của người đàn bà, chụp lấy một bên vú. Tôi thấy trong lòng đau nhói, những giọt nước cay xè ứa ra khỏi mắt tôi. Một tia sáng trắng, trên màn ảnh không thấy gì nữa. Tách một cái, đèn điện bật sáng, mọi người thở hồng hộc. Trong nhà thờ đầy ắp người, ngay cả trên cái bàn trước mặt tôi, cũng ngồi đầy những trẻ con cởi truồng. Bác-bit đứng bên cỗ máy như một vị thần. Bánh xe vẫn còn chạy, cuối cùng, xạch một tiếng, dùng hẳn. Tư Mã Khố nhảy dựng lên, cười lớn:

- Đ. bà nó, chưa đã, chưa đã, chiếu lại! 

 

22

  Tối ngày thứ tư, địa điểm chiếu phim chuyển đến chỗ sân phơi rộng lớn của nhà Tư Mã. Toàn thể sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã và gia quyến của Tư lệnh đều ngồi ở vị trí danh dự, vị trí vàng. Những nhân vật tai mắt của thị trấn ở vị trí bạc, dân chúng thì đứng ở vị trí đồng hoặc sắt. Phía bên kia của màn ảnh dựng rất cao là đầm sen. Sau đầm sen, những người già yếu hoặc tàn tật đứng ngồi lố nhố. Họ xem phim trên mặt sau của màn hình, xem luôn cả những người xem phim.

Đây là một ngày lịch sử của Cao Mật. Nhớ lại, đó là một ngày không bình thường. Buổi trưa, không khí ngột ngạt, mặt trời đen lại, cá trên sông ngửa bụng lên, chim trên trời rơi thẳng đứng. Chú lính dựng cột chiếu phim bị trúng thử, ôm bụng lăn lộn dưới đất, nôn mật xanh mật vàng, đó là điều không bình thường. Hơn chục con rắn cạp nia rồng rắn kéo qua phố, đó là điều không bình thường. Những con giang trong đầm bay lên đậu trên cây đầu thôn, hết đàn nọ đến đàn kia, gãy cả cành, những đôi cánh vỗ, những cái cổ như cổ rắn, những cặp chân dài thẳng đuỗn, đó là điều không bình thường. Người khỏe nhất trong thôn là Trung Đại Đởm bê mười mấy cái trục lúa bằng đá quẳng xuống đầm, đó là điều không bình thường. Khoảng giữa chiều, một toán người lấm lem từ nơi khác tới. Họ ngồi trên đê Thuồng Luồng ăn một thứ bánh mỏng như giấy cùng với củ cải. Hỏi họ đến đây để làm gì, họ nói họ đến xem phim, hỏi họ làm sao biết có chiếu phim, họ nói tiếng lành đồn xa, đó là điều không bình thường! Mẹ phá bỏ thường lệ, kể một chuyện cười về chàng rể ngốc cho chúng tôi nghe, đó là điều không bình thường! Nước sông Thuồng Luồng đỏ như máu, đó là điều không bình thường! Lúc hoàng hôn, muỗi tập trung thành đàn như một đám mây trên sân đập lúa, đó là điều không bình thường. Lúc chạng vạng tối, ráng chiều đỏ như lửa, biến ảo thiên hình vạn trạng, đó là điều không bình thường? Những đóa hoa sen nở muộn trong đầm hiện lên như những linh vật trên trời, đó là điều không bình thường! Sữa của con dê của tôi có mùi tanh, đó là điều không bình thường!

Buổi chiều, ăn sữa xong, tôi cùng Tư Mã Lương chạy như bay đến sân phơi. Phim đã choán hết tâm trí tôi. Chúng tôi chạy ngược nắng chiều, mặt nhuốm đỏ. Những phụ nữ tay xách ghế, tay bế con, những ông già chống gậy, đều là những mục tiêu để chúng tôi vượt. Ông mù Từ Tiên Nhi có giọng hát rè rè vô cùng cảm động, sinh sống bằng nghề hát rong, tay chống cây gậy dài, lệch người mà đi rất nhanh. Bà chủ hiệu dầu ăn, người đàn bà chỉ có một vú, hỏi ông ta:

- Ông mù, đi đâu mà tất bật thế!

Ông mù đáp:

- Tôi mù, chị cũng mù sao?

Ông già Đỗ Bạch Kiểm làm nghề đánh cá, quanh năm mặc áo tơi, tay xách chiếc đôn bện bằng cỏ bồ, nói xen vào:

- Ông mù, ông thì xem phim gì?

Ông mù cả giận, chửi:

- Lão mặt trắng kia, sao dám bảo ta mù, ta nhắm mắt nhìn nhân tình thế thái đấy chứ!

Ông vung gậy quật đánh vút một cái, suýt nện gãy cẳng chân khẳng khiu của ông lão đánh cá. Ông Đỗ định quật lại một đòn, nhưng Phương-Nửa-Mặt - bị gấu liếm mất nửa mặt khi đào sâm ở núi Trường Bạch, can:

- Ông Đỗ, ông đánh nhau với ông mù chẳng hóa ra quên mất mình là ai hay sao? Là hàng xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, bỏ qua cho nhau những chuyện vặt ở núi Trường Bạch, chưa nói đến gặp một người cùng làng, ngay cả cùng huyện cũng đã sướng lắm rồi!

Đủ các loại người kéo về sân phơi nhà Tư Mã. Hãy nghe, bên bàn ăn của các gia đình đều nói về sự nghiệp của Tư Mã Khố, trong câu chuyện của các bà các cô đều nói đến chị em nhà Thượng Quan. Chúng tôi phơi phới như cánh én, tinh thần lâng lâng, chỉ muốn phim cứ chiếu mãi.

Phía trước cỗ máy của Bác-bit là chỗ của tôi và Tư Mã Lương. Khi chúng tôi ngồi vào chỗ của mình, ráng chiều đỏ rực vẫn chưa tắt hẳn, gió đêm lành lạnh đem tới mùi tanh. Trước mặt chúng tôi còn một khoảng trống đã được khoanh lại bằng vạch vôi. Anh chàng đánh thuê Lung Hán Quốc, tay cầm cây gậy bằng gỗ ngô đồng, đuổi những người dân tràn vào vạch vôi. Miệng sặc sụa hơi rượu, kẽ răng còn dính thức ăn, mắt giương như mắt bọ ngựa, thẳng tay vụt bay chiếc nơ đỏ trên đầu cô mắt hiếng từng có quan hệ xác thịt với tay phó quan quản trị của Chi đội. Cô mặc chiếc áo lót bằng lụa của viên phó quan tặng, miệng vẫn còn mùi khói thuốc lá của viên phó quan. Cô ta vừa phủi vừa cúi nhặt chiếc nơ, thuận tay bốc một nắm cát ném giữa mặt Lưng Hán Quốc. Hán Quốc quẳng cây gậy, nhổ đất cát trong miệng ra, vừa lấy tay dụi mắt vừa chửi:

- Con hiếng, đồ giẻ rách! Tao thì đ. con gái của mẹ mày! Tao thì đ. em gái của thằng anh mày?

Triệu Giáp làm nghề bán vỏ bếp lò vốn nhanh miệng, nói khẽ:

- Lung Hán Quốc, sao anh cứ quanh co thế! Anh đ. thẳng cô hiếng không được sao?

Triệu Giáp nói chưa dứt lời, một chiếc ghế đẩu bằng gỗ hòe đã quật vào vai anh ta. Triệu Giáp kêu ối một tiếng, quay lại. Người đánh anh ta là thằng Gật, anh trai của cô hiếng. Anh ta mặt mày vàng võ, tóc rẽ giữa, đường ngôi thẳng tắp, bóng như một vết sẹo. Anh ta mặc chiếc áo ngoài màu tàn thuốc, rộng thùng thình. Tóc chải đầu bóng, mắt lươn.

- Anh ta tằng tịu với cô em ruột- Tư Mã Lương khẽ bảo tôi như vậy.

Tù đâu mà Tư Mã Lương biết được điều bí mật ấy?

- Cậu ạ bố cháu bảo ngày mai tử hình viên phó quan quản trị tài vụ - Tư Mã Lương nói khẽ.

- Vậy thằng Gật có bị bắn không? - Tôi hỏi khẽ.

Thằng Gật từng chửi tôi là đồ con lai, tôi thù anh ta. Tư Mã Lương nói:

- Để cháu nói với bố cháu, bắn bỏ cái đồ ấy đi!

- Phải, bắn bỏ cái đồ ấy đi - tôi nói cho hả giận.

Lung Hán Quốc hai mắt ướt nhèm, vung gậy loạn xạ vì không trông thấy gì. Triệu Giáp giằng lấy chiếc ghế đẩu trong tay thằng Gật quẳng ra xa.

- Đ. em gái mày! - Anh ta chửi thẳng.

Thằng Gật giơ những móng tay như vuốt chim ưng chộp lấy cổ họng Triệu Giáp. Triệu Giáp túm lấy tóc thằng Gật. Hai người quần nhau dịch dần ra chỗ trống mà Chi đội Tư Mã để chừa ra, không ai khuyên giải được. Cô hiếng nhảy ra, định xông vào giúp anh trai, nhưng mấy lần đều đấm nhầm vào lưng thằng Gật. Cô hiếng chộp đúng thời cơ, như một con dơi lướt tới sau lưng Triệu Giáp, luồn tay dưới háng túm lấy hạ bộ của anh ta. Quan Lưu Tinh, một tay biết võ, lớn tiếng khen:

- Giỏi! Đó là miếng trẩy đào dưới lá.

Triệu Giáp rú lên, gập người lại như con tôm, chân tay mềm nhũn, mặt vàng ệnh trong cảnh nhập nhoạng tối. Cô hiếng dùng sức vặn một cái, hùng hổ:

- Định đ. kia mà, bà đang đợi mày đấy?

Triệu Giáp mềm nhũn, ngã lăn ra. Lung Hán Quốc vớ lấy cây gậy, rồi như một tướng tiên phong mở đường, bất kể trắng đen, bất kể hoàng thân quốc thích, vụt tất, rủi ai người ấy bị. Gậy vung tới tấp, già khóc trẻ kêu, người ở vòng ngoài thì len vào trong để xem, người ở trong thì chạy thoát thân ra ngoài, nhất thời người như nước lũ, dồn thành đống, vón thành cục, anh dẫm lên tôi, tôi thúc vào anh. Tôi đặc biệt chú ý khi cô hiếng bị một gậy vào mông, cô ta vội rúc vào đám đông, liền bị những người đánh hôi, những người ngứa mắt nện cho một trận tơi bời, kêu oai oái.

Đoàng, một tiếng súng nổ. Người nổ súng là Tư Mã Khố. Anh ta mặc áo choàng đen, một vệ sĩ theo sau, nối tiếp là Bác-bit và Chiêu Đệ, Niệm Đệ, giận dữ bước vào.

- Yên lặng - Một vệ sĩ hét lên - Mất trật tự thì không chiếu nữa?

Mọi người nháo nhác rồi im. Tư Mã Khố dẫn người của anh ta vào chỗ ngồi. Bầu trời chuyển sang màu tím, sắp tối mịt. Vầng trăng như lưỡi liềm, ánh sáng ảm đạm, phía tây nam có một ngôi sao rất sáng nằm trong chỗ khuyết của vầng trăng. Trung đội kỵ mã, trung đội lừa, trung đội tiện y đều đến đủ, xếp hàng đôi, ôm súng hoặc khoác súng, ngó nghiêng đám phụ nữ. Một đàn lang sói rồng rắn kéo vào. Mây đen nuốt chửng trăng sao, bóng tối trùm lên mặt đất. Côn trùng kêu thê thảm trên cây, nước cuồn cuộn trên sông.

- Phát điện! - Tư Mã Khố ở phía trúc bên trái tôi, ra lệnh. Anh ta bật lửa châm thuốc. Châm xong, vẩy một cái thật mạnh, tắt ngọn lửa.

Máy phát đặt ở ngôi nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi. Vài bóng đen lay dông. Một ánh đèn pin. Cuối cùng, máy nổ. Thoạt đầu, nổ to rồi nổ nhỏ, sau nổ đều. Một bóng điện phía sau đầu tôi phát sáng. Chà chà, quần chúng xúc động kêu lên. Tôi trông thấy những người phía trước đều ngoái lại nhìn ánh điện, những cặp mắt lóe sáng.

Cũng như đêm thứ nhất, một luồng ánh sáng tìm màn hình, những con thiêu thân va dập vào nhau trong cột sáng, bóng chúng to lên rất nhiều trên màn hình, các binh sĩ và dân chúng ngạc nhiên thán phục. Chỗ khác nhau so với đêm thứ nhất rất nhiều: Tư Mã Khố không nhảy dựng lên để ánh sáng xuyên qua vành tai trong suốt. Bốn bên bóng tối càng dày đặc thì ánh sáng càng chói lọi. Không khí ẩm ướt, hơi nước từ cánh đồng pha vào mặt. Gió rì rào trên ngọn cây. Tiếng chim ăn đêm lia ngang trên bầu Trời. Tiếng cá búng nước lóc bóc. Còn nữa, tiếng hắt hơi của những con lừa dưới chân đê, đó là những người ở rất xa đến. Tiếng chó sủa trong ngõ sâu. Chớp màu xanh lục ở phương nam như một tấm rèm, tiếng sấm nặng nề vọng tới sau khi tia chớp đã tắt. Chuyến tàu hỏa chở đầy pháo đạn chạy ầm ầm qua cầu Thuồng Luồng, tiếng bánh sắt đập vào đường ray hòa quyện với tiếng máy chiếu phim. Điều khác biệt lớn nhất là tôi không còn hứng thú với những hình ảnh trên màn hình. Buổi chiều, Tư Mã Lương nói nhỏ với tôi:

- Cậu này, bố cháu vừa mua một phim mói từ Thanh Đảo về, toàn là phụ nữ trần truồng.

- Bịa? - tôi nói.

- Thật mà, chú Đỗ nói vậy, đội trưởng đội Tiện y cưỡi mô tô đi lấy, lát nữa là đem về.

Kết quả là bịp, Tư Mã Lương nói không đúng. Tôi véo đùi hắn.

- Cháu không bịp cậu đâu, có lẽ chiếu phim cũ trước phim mới sau. Ta hãy đợi xem!

Tôi đã biết con gấu bị đạn như thế nào, cũng đã biết người đi săn và cô gái lăn lộn như thế nào, chỉ cần nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung ra tất cả. Thế là tôi đưa mắt dò xét tình hình phía trước và những người xung quanh.

Chiêu Đệ sau khi đẻ xong còn yếu, chị mặc chiếc áo khoác bằng dạ xanh hoa trắng, ngồi ghế thái sư màu tía dành riêng eho chị. Bên trái là Tư lệnh Tư Mã Khố, anh ta cũng ngồi ghế thái sư, áo khoác ngoài vắt trên thành ghế. Bên trái anh ta là Niệm Đệ, ngồi trên chiếc ghế mây. Chị mặc váy trắng không phải chiếc váy có đuôi dài. Chiếc này này cổ cao, dán chặt vào người. Thoạt tiên chị ngồi thẳng, cổ cũng duỗi thẳng. Cái đầu to của Tư Mã Khố ngoảnh sang bên phải làm như ngẫu nhiên, nói thầm gì đó vào tai Chiêu Đệ. Khi người đi săn trên màn hình hút thuốc, chị Chiêu Đệ đã mỏi cổ, lưng cũng mỏi, người chị lún sâu trong ghế, tôi thoáng thấy viên ngọc phỉ thúy long lanh trên đầu chị, thoáng ngửi thấy mùi long não trên quần áo chị, nghe rõ tiếng thở đều đều của chị.

Chị Niệm Đệ vẫn ngồi thẳng, cánh tay trái Tư Mã Khố động dậy, từ từ đưa tay sang, mờ mờ, như một nhánh cỏ đuôi chó. Tôi đã trông thấy tay anh ta đặt trên đùi chị Niệm Đệ. Chị vẫn ngồi ngay thẳng, làm như không biết chuyện gì. Tôi trong lòng không vui, giận không phải giận, sợ cũng không phải sợ. Cổ họng tôi khô bỏng, muốn ho. Một ánh chớp xé rách tầng mây trên đầm, cái tay của Tư Mã Khố vội rụt lại nhanh hơn chớp. Anh ta ho lên một tiếng như tiếng dế kêu, người lắc lư, nghiêng đầu nhìn cỗ máy chiếu phim. Tôi cũng nhìn sang, Bác-bit đang ngẩn tò te dòm vào cái lỗ trên máy chiếu.

Người đàn ông và người đàn bà trên màn hình ôm nhau, hôn nhau. Bọn lính của Tư Mã Khố thở phì phò. Bàn tay Tư Mã Khố thọc một cách thô bạo vào giữa hai đùi chị Niệm Đệ. Chị từ từ giơ tay trái lên sau gáy làm như sửa lại tóc, nhưng tôi trông thấy chị không sửa lại tóc, mà rút trâm cài đầu đâm thẳng xuống, dáng ngồi vẫn thẳng, như vẫn đang mê mải xem phim. Tư Mã Khố giật vai một cái, hít một hơi, không hiểu hơi lạnh hay hơi nóng. Anh ta từ từ rút tay trái về, lại ho một tiếng như tiếng dê. Anh ta giả vờ ho đấy thôi! Tôi thở ra như cất được gánh nặng, mắt vẫn nhìn lên màn ảnh nhưng không nhìn rõ những gì trên đó. Hai bàn tay tôi nhơm nhớp mồ hôi. Có nên cho mẹ biết điều bí mật kia không nhỉ? Không, không nên cho mẹ biết. Nhưng điều bí mật ấy mẹ đã đoán ra.

Những tia chớp sáng trắng, loằng ngoằn như thép chảy, soi sáng Bãi-Cát-Dài, nơi mà Hàn Chim và đồng đội của anh đã chiếm cứ, những cây, những nhà tranh vách đất. Dòng thép tung tóe, đội xuống những cây cối đen sẫm và những ngôi nhà màu vàng. Sấm động ầm ầm như gõ chiếc thùng sắt rỉ. Người đàn ông và người đàn bà lăn lộn trên bãi cỏ bên sông, khiến tôi nhớ lại câu chuyện đêm qua.

Đêm qua, Tư Mã Khố và chị Hai đã thuyết phục được mẹ đến xem phim ở nhà thờ: Cũng đến đoạn lăn lộn trên bãi cỏ, Tư Mã Khố lặng lẽ rút khỏi nơi chiếu phim. Tôi bám theo anh ta. Anh ta đi dọc theo bờ tường như một tên trộm, không giống viên Tư lệnh chút nào. Chắc hẳn xưa kia anh ta là tên trộm vặt. Anh ta nhảy vào vườn nhà tôi, từ bức tường thấp phía nam. Tôn Bất Ngôn cũng vào nhà tôi bằng con đường này, tiên Chim cũng rất quen thuộc. Tôi không nhảy tường. Tôi có cách vào của tôi. Mẹ để chiếc chìa khóa ở kẽ gạch bên cổng, tôi nhắm mắt là có thể sờ thấy. Nhưng tôi không vào bằng cổng. Phía dưới cánh cổng có một cái lỗ để chó chui ra chui vào, đó là khi bà nội còn sống. Chó không còn nữa nhưng lỗ thì vẫn còn. Tôi có thể chui qua. Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa cũng có thể chui qua. Xong rồi, tôi đã ở bên sau cổng. Đây là phòng xép, một bộ phận của dãy chái phía tây. Bước hai bước là vào chái. Gian chái vẫn ngổn ngang như cũ, cối xay bột, máng cỏ, đệm cỏ của Lai Đệ Chị phát bệnh cuồng dâm ngoài bãi cỏ. Để dề phòng chị phá lễ cưới của Bác-bit, Tư Mã Khố đã lấy thùng buộc một tay chị lên khung cửa sổ. Ba hôm rồi, chưa cởi. Tôi cho rằng em rể định cởi trói cho chị đi xem phim. Nhưng sau đó thì thế nào?

Thân hình hộ pháp của Tư Mã Khố càng tỏ ra đồ sộ dưới ánh sao. Anh ta đã mò đến nơi. Anh ta không phát hiện ra tôi. Tôi nấp sau cánh cổng. Anh ta bước vào gian chái, vấp phải chiếc thùng sắt tây. Đó là chiếc thùng để chị Lai Đệ đi tiểu. Lai Đệ cười khanh khách trong bóng tối. Một đốm lửa lóe lên, rất sáng, soi rõ chị Lai Đệ nằm trên đệm cỏ, đầu tóc rối bù, rằng trắng nhởn, chiếc áo ngoài che không kín da thịt. Sợ quá, như một con quỉ. Tư Mã Khố giơ tay vuốt má chị, chị không hề sợ. Bật lửa tắt, dê ở chuồng bên gõ móng. Tiếng cười của Tư Mã Khố.

- Chị vơ ơi! - Tư Mã Khố nói- Chị chẳng cuồng lên rồi đó sao? Có tôi đây...

Lai Đệ gào lên, như điên như cuồng, vẫn những điều tục tĩu như hôm ngoài bãi cỏ, chết khát thôi, chết thèm thôi...

Tư Mã Khố nói:

- Chị ơi, chị khát thì tôi thừa nước, chị là sóng thì tôi là thuyền, chị khô hạn thì tôi là mưa, tôi là cứu tinh của chị đây!

Hai người cuộn lấy nhau. Tiếng kêu của Lai Đệ còn lảnh lót hơn cả tiếng kêu của Tiên Chim trước kia...

Tôi lặng lẽ chui qua lỗ cổng ra ngõ, mồ hôi ướt đầm...

Khi phim sắp chiếu xong, Tư Mã Khố lẳng lặng trở về chỗ ngồi. Mọi người trông thấy Tư lệnh, bèn nhường lối. Khi anh ta đi qua chỗ tôi, tiện tay xoa đầu tôi một cái tôi ngửi thấy mùi vú của chị Lai Đệ trên tay anh ta. Anh ta ngồi xuống, ghé tai chị Hai nói câu gì đó, hình như chị Hai cười. Lúc này đèn điện bật sáng. Mọi người ngẩn ra một thoáng hình như chưa biết nên làm gì. Tư Mã Khố đứng lên nói to:

- Đêm mai chiếu ở ngoài, tôi muốn mọi người cùng hưởng phúc, biết thế nào là văn minh phương Tây! Mọi người như bừng tỉnh, tiếng ồn ào át cả tiếng máy chạy.

Sau đó, khi những người khác đã về hết, Tư Mã Khố hỏi mẹ:

- Thế nào, cụ? Không uổng đã đến xem chứ? Rồi đây tôi sẽ xây rạp chiếu phim ở Cao Mật. Thằng cha Bác-bit quả là giỏi. Có một chàng rể như thế, cụ nên cảm ơn tôi mới phải?

Chị Hai nói:

- Thôi, đưa mẹ về nhà.

Mẹ nói:

- Hãy cụp đuôi lại, chàng rể hiền của tôi, người vui chuyện gở, chó vui tranh phân, chưa hẳn đã tốt đâu!

Tôi không đoán ra từ đâu mẹ biết bí mật từ hồi đêm.

Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố và chị Hai đem lương thục đến cho, mẹ bảo:

- Rể Hai này, anh nán lại một lúc, tôi có chuyện muốn nói với anh!

Chị Hai nói:

- Chuyện gì mà sợ người khác nghe thấy?

Mẹ nói:

- Mày đi đi!

Mẹ dẫn Tư Mã Khố vào trong buồng nói:

- Anh tính như thế nào về nó?

Tư Mã Khổ nói:

- Ai cơ?

Mẹ nói: - Anh đừng giả vờ nữa!

Tư Mã Khố nói:

- Tôi không giả vờ!

Mẹ bảo:

- Hai con đường, anh hãy chọn lấy một.

Tư Mã Khố hỏi:

- Hai con đường nào?

Mẹ nói: Nghe đây! Một là anh lấy nó, vợ lớn hay vợ bé, hoặc không phân lớn bé, anh bàn với con Hai. Hai là anh giết nó đi!

Tư Mã Khố hai tay xoa ống quần, nhưng lần này khác hẳn cái hôm ở bãi cỏ. Mẹ nói:

- Sau ba hôm, anh phải chọn lấy một Anh về đi!

Chị Sáu ngồi im, như không có chuyện gì xảy ra. Tôi nghe tiếng ho như tiếng dê của Tư Mã Khố, vừa phấn khởi lại vừa buồn. Trên màn ảnh trước mặt, người đàn ông và người đàn bà nằm sát bên nhau dưới gốc cây, người nữ gối đầu trên cánh tay người nam. Người nữ ngước nhìn những quả lúc lỉu trên cây. Người đàn ông hình như có tâm sự gì đó, cắn cắn một nhánh cỏ. Người đàn bà chống tay ngồi dậy, nghiêng người nhìn thẳng vào mặt người đàn ông, nửa bầu vú lộ ra từ cổ áo, giữa hai vú là một rãnh sâu như đường đi của con lươn ở chỗ nước nông gần bờ. Tôi đã bốn lần trông thấy loại đường đó. Tôi khao khát được ngó vào trong rãnh. Nhưng người đàn bà đã dịch người sang một bên, cái rãnh biến mất. Chị ta lắc lắc người đàn ông, gào toáng lên. Người đàn ông nhắm mắt, miệng tiếp tục nhai cọng cỏ. Rồi người đàn bà tát vào mặt người đàn ông, ngoác cái miệng rộng ra khóc, tiếng khóc không khác là bao với tiếng khóc của phụ nữ Trung Quốc. Người đàn ông mở mắt, nhổ cọng cỏ vào mặt người đàn bà. Gió lắc dữ dội cây trên màn ảnh, những quả đập vào nhau, lá xào xạc từ bờ đê vọng lại. Không hiểu tiếng gió trên màn ảnh hay là tiếng gió từ ngoài sông ào tới, một ánh chóp xanh, tiếp theo là tiếng sấm nặng nề. Gió ào ào, mọi người có vẻ nhốn nháo, những phẩy trắng xuyên qua luồng ánh sáng. Mưa rồi, có người kêu lên. Người đàn ông đi về phía cỗ xe, người đàn bà chân trần, quần áo nhàu nát, vịn vào tay người đàn ông.

- Không chiếu nữa, hỏng mất máy chiếu!

Tư Mã Khố đứng chặn luồng ánh sáng. Mọi người hét lên, anh ta lại ngồi xuống. Trên màn ảnh, nước bắn tung lên, người đàn ông và người đàn bà nhảy xuống sông. Lại những tia chớp kéo dài, ánh đèn chiếu bị mờ hẳn đi. Mười mấy vật đen sì bay tới như những cục phân vãi ra từ tia chớp, một loạt tiếng nổ dữ dội trong đám đông, chủ yếu là nổ giữa Chì đội Tư Mã Khố. Tiếng nổ oàng oàng, chớp xanh chớp vàng, mùi thuốc súng nồng nặc xảy ra cùng một lúc. Không rõ từ lúc nào, tôi ngồi trên bụng một người. Tôi cảm thấy nhớp nháp trên đầu. Tôi sờ má, má dính nhơm nhớp, ngủi thấy mùi tanh của máu. Lập tức những tiếng kêu thất thanh, những người sợ đến mất trí chạy tán loạn, thấp thoáng những cái lưng, những cái đầu dẫm máu!

Những bộ mặt hoảng sợ trong luồng ánh sáng. Đôi nam nữ đang đùa rỡn trong nước trên màn ảnh bị xé ra từng mảnh vụn. Chớp. Sấm. Máu tươi, xương thịt tung tóe. Phim Mỹ. Lựu đạn. Đầu nòng súng phụt ra những con rắn lửa.

- Anh em, không được mất trật tự!

Lại một loạt tiếng nổ.

- ối mẹ ơi! ối con ơi!

Một cánh tay giãy đành đạch. Chân vướng ruột người. Những hạt mưa to như đồng bạc trắng. Những ánh chớp chói mắt. Một đêm đầy bí ẩn.

- Bà con, không được động đậy! Sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã không được động đậy! Nộp súng đầu hàng thì không giết! Hàng thì sống, chống thì chết?

Tiếng gọi từ bốn phía dồn tới, dồn tới... 

23

  Tiếng nổ chưa dứt hẳn, vô số ngọn đuốc sáng rực đã từ tứ phía ập tới. Trung đoàn 17 thuộc trung đội 8 áo mưa màu đen, lưỡi lê lắp trên đầu súng, đi đều bước miệng hô khẩu hiệu, hùng dũng tiến vào. Cầm đuốc là những người dân quấn khăn mặt trắng trên đầu trong đó quá nửa là phụ nữ tóc cắt ngắn. Họ giơ cao ngọn đuốc, soi đường cho các binh sĩ trung đoàn 17. Đuốc làm bằng giẻ rách tẩm đầu, cháy như đình liệu. Chi đội Tư Mã nổ một loạt súng, các binh sĩ trung đoàn 17 đổ như ngã rạ, nhưng lập tức những người phía sau dồn lên lấp chỗ trống. Lại mấy chục quả lựu đạn ném tới, đất trời như vỡ tung. Tư Mã Khố kêu to:

- Đầu hàng thôi, anh em! Đừng làm hại đến dân!

Thế là súng vút ngổn ngang dưới đất, chỗ những ngọn đuốc chiếu sáng. Hai bàn tay đầy máu, Tư Mã Khố bế chị Chiêu Đệ lên, gọi to:

- Chiêu Đệ, Chiêu Đệ, tỉnh lại đi!

Một bàn tay run run nắm lấy cánh tay tôi. Tôi ngẩng lên, qua ánh lửa tôi nhìn thấy chị Niệm Đệ mặt trắng nhợt nằm dưới đất, trên người là mấy xác chết cụt chân cụt tay.

- Kim Đồng, Kim Đồng!... Chị gọi tôi một cách khó khăn - Em còn sống đấy chứ?

Chị vươn hai tay về phía tôi, cầu khẩn:

- Em yêu, kéo giúp chị ra!

Tay tôi toàn máu là máu. Tay chị cũng đầy máu, nắm lấy như nắm con lươn, mạnh một tí là tuột. Lúc này mọi người đều nằm bẹp dưới đất không ai dám đứng dậy. Luồng ánh sáng trên máy chiếu vẫn rọi trên màn bạc, cảnh ân oán của đôi nam nữ người Mỹ đã đến hồi cao trào, người đàn bà giơ thật cao thanh đao trước mặt người đàn ông đang ngủ. Bác-bit đứng bên máy chiếu sốt ruột gọi:

- Niệm Đệ Niệm Đệ, em ở đâu?

- Em ở đây, Bác-bit, em ở đây!

Chị Sáu giơ một tay về phía Bác-bit của chị. Chị thều.. thào trong miệng, nước mắt nước mũi đầy mặt. Bác-bit. gắng gượng đi về phía chị Niệm Đệ, anh ta đi rất khó khăn, y hệt con ngựa bị lún trong bùn lầy.

- Đứng lại - Một tiếng gầm vang lên. Đoàng, một tiếng súng bắn chỉ thiên. Không được mất trật tự! Bác-bit như bị chém ngang lưng, đổ gục trên mặt đất.

Tư Mã Lương không biết từ đâu bò tới, tay trái rách thành một cái lỗ, máu me đầy mặt, tóc và cổ. Nó kéo tôi dậy, dùng bàn tay rắn rỏi sờ nắn khắp người tôi.

- Cậu còn nguyên vẹn cả, tay còn, chân còn - nó nói.

Nó cúi xuống lôi những cái xác nằm đè lên chị Sáu, đỡ chị dậy. Bộ quần áo chị Sáu dính đầy máu.

Dưới trời mưa nặng hạt như những mũi tên, chúng tôi bị dồn vào căn nhà để cối xay gió. Đây là công trình kiến trúc to nhất của thôn trấn. Giờ đây, nó bị biến thành trại tạm giam. Giờ nghĩ lại, khi đó chúng tôi có nhiều cơ hội trốn thoát, vì rằng mưa rào dập tắt nhanh chóng những cây đuốc trong tay dân phu của trung đoàn 17, các binh sĩ trong trung đoàn bị mưa quất không mở được mắt, chúng loạng choạng, lo thân còn chưa xong. ở đầu hàng quân chỉ có ánh sáng của hai cây đèn pin. Vậy mà không một ai chạy trốn. Kẻ bắt người và người bị bắt cùng lúng túng như nhau. Khi đến gần cánh cổng nhà xay, các binh sĩ của trung đoàn 17 tranh nhau vào trước, vượt cả chúng tôi.

Nhà xay rung lên dưới mưa. Qua ánh chớp, tôi nhìn thấy nước đổ như trút qua kẽ hở của những tấm tôn lợp. Nhìn ra ngoài hiên, dòng nước chảy cuồn cuộn, từ rãnh thoát nước trước cửa đến ngoài đường, trắng xóa một màu. Trong quãng đồng từ sân phơi đến nhà xay, tôi bị lạc chị Sáu và Tư Mã Lương. Trước mặt tôi là tên lính của trung đoàn 17, anh ta lộ xỉ, môi không che kín lợi, răng trắng nhởn như răng thỏ lộ hết ra ngoài. Cặp mắt màu xám của anh ta bị phủ một lớp hơi nước. Tôi cảm thấy nỗi tuyệt vọng và sợ hãi khiến tim anh ta như bị sâu bọ gậm nhấm. Sau một ánh chớp, anh ta hắt hơi một cái rõ kêu trong bóng tối, phả vào mặt tôi mùi thuốc lá lẫn mùi củ cải. Mũi tôi vừa cay vừa ngứa. Tiếng hắt hơi râm ran trong bóng tôi. Tôi muốn tìm chị Sáu và Tư Mã Lương, nhưng tôi không dám gọi, chỉ dựa vào tia chớp lóe lên trong khoảnh khắc để tìm trong tiếng sấm như bắt lấy hồn phách người ta và mũi thì ngửi toàn mùi lưu huỳnh. Tôi trông thấy sau lưng một tên lính bé nhỏ, là bộ mặt gầy guộc của thằng Gật. Hắn trông như quỉ nhập tràng vừa chui ra từ trong mộ, sắc mặt tím tái, tóc bết lại như hai cái bàn chải, quần áo dán chặt vào người, cổ dài ngoẵng, yết hầu như một quả trứng gà, xương ngực lồi lên, mặt hắn như đốm lửa lân tinh.

Khi trời gần sáng thì ngớt mưa, những tiếng ầm ầm trên mái tôn đã chuyển sang tiếng tí tách của giọt nước lọt qua kẽ hở. Sấm chớp giảm, màu sắc từ xanh lét đáng sợ chuyển sang màu vàng trắng ấm áp. Tiếng sấm xa dần, gió thổi theo hướng đông bắc, lạnh thấu xương, mọi người áp sát nhau, bất kể ai. Phụ nữ và trẻ con khóc trong bóng tối. Tôi cảm thấy như kiến bò ngược từ dưới chân lên, bụng dưới đau quặn, rồi toàn thân như một tảng băng. Giả dụ khi ấy có ai muốn ra khỏi nhà xay, chắc chắn không bị ngăn trở. Nhưng không có người nào bỏ trốn.

Sau đó, ngoài cổng có người đi tới. Trong trạng thái tê dại, tôi dựa vào cái mông đít của ai đó, người ấy cũng dựa vào tôi. Tiếng lội nước oàm oạp bên ngoài, tiếp đó mấy luồng ánh sáng vàng vọt rọi vào. Vài người trùm áo mưa chỉ hở hai con mắt hiện ra trước cổng, gợi vào trong:

- Các binh sĩ trung đoàn 17 ra hết bên ngoài chấn chỉnh đội ngũ.

Tiếng gọi khàn khàn, không phải giọng của anh ta. Giọng anh ta vốn oang oang, đầy kích động. Tôi nhận ra ngay một trong những người mặc áo mưa đó chính là Lỗ Lập Nhân, đại đội trướng kiêm chính ủy đại đội bộc phá. Cái tin anh ta thăng cấp, gia nhập trung đoàn 17, tôi đã có nghe hồi mùa xuân, bây giờ thì đã rõ ràng.

- Mau lên! - Lỗ Lập Nhân nói - Các đại đội đã nhận xong phòng ở, các đồng chí về ngay để ngâm chân, uống nước gừng!

Các binh sĩ trung đoàn 17 chen nhau ra khỏi nhà xay. Họ xếp hàng ngoài đường, vài người có vẻ cán bộ, tay cầm đèn bão, tranh nhau hô:

- Đại đội ba theo tôi! Đại đội bảy theo tôi! Bộ phận trục thuộc trung đoàn theo tôi!

Các binh sĩ lội bì bõm đi theo những chiếc đèn bão. Mười mấy binh sĩ mặc áo mưa, bồng súng bước tới, người trực ban báo cáo:

- Báo cáo trung đoàn trưởng, trung đội một, đại đội cảnh vệ đến canh gác tù binh.

Lỗ Lập Nhân giơ tay chào lại, nói:

- Canh gác cẩn mật, không cho đứa nào trốn thoát. Sẽ điểm danh khi trời sáng. Nếu tôi không lầm thì... - Hắn ngó vào trong nhà xay - Ông bạn Tư Mã Khố cũng trong đó.

- Tiên sư nhà mày! - Tư Mã Khố từ sau chiếc cối xay lớn chửi vọng ra - Thằng Tưởng Lập Nhân ti tiện kia, ông ở đây!

Lỗ Lập Nhân cười:

- Hẹn gặp lại khi trời sáng!

Lỗ Lập Nhân vội vã bỏ đi. Tay trung đội trưởng cảnh vệ to như hộ pháp đứng dưới ánh đèn, nói vào trong:

- Tôi biết có người có súng lục. Tôi ở chỗ sáng, các người ở trong tối, có thể bắn trúng tôi? Nhưng tôi khuyên các người hãy bỏ ý nghĩ đó đi, vì nếu có bắn thì chỉ bắn ngã một mình tôi, nhưng... - Anh ta quay lại chỉ đám binh sĩ - mười mấy băng tiểu liên này xả vào thì ngã xuống không chỉ có một. Chúng tôi ưu đãi tù binh, trời sáng sẽ phân loại không có tội và nếu tự nguyện tham gia đội ngũ, chúng tôi hoan nghênh. Người nào không muốn tham gia, chúng tôi cấp tiền lộ phí, cho về với gia đình.

Trong nhà xay không ai nói gì, chỉ có tiếng nước chảy ào ào. Đại đội trưởng chỉ huy đám lính kéo cánh cổng đã biến dạng, đóng cổng lại. ánh sáng vàng vọt của cây đèn bão lọt qua khe cửa, chiếu vào trong.

Các binh sĩ của trung đoàn 17 rút hết đi, trong nhà xay dễ thở hơn. Tôi mò mẫm lần đến chỗ có tiếng nói của Tư Mã Khố, vấp phải những cẳng chân nóng như lửa, nghe thấy những tiếng rên hừ hừ. Khu nhà xay này là kiệt tác của anh em Tư Mã Khố. Sau khi khánh thành, nhà xay không xay được một bao bột nào. Những cánh quạt chỉ một đêm giông bão đã gãy sạch, còn trơ lại cái trụ với những cánh nứt gãy, bốn mùa kêu kèn kẹt. Khu nhà xay rộng đến mức có thể làm nơi đua ngựa, mười hai chiếc cối xay như mười hai quả núi nhỏ ngồi chồm hổm trên bệ. Chiều qua tôi cùng Tư Mã Lương vừa đến quan sát nơi này. Tư Mã Lương nói nó sẽ đề nghị bố nó sửa chữa nhà xay thành rạp chiếu bóng. Khi bước chân vào trong nhà xay, tôi bất chợt rừng mình. Trong khu nhà rộng thênh thang có một đàn chuột hung tợn xông thẳng vào chúng tôi. Khi chỉ còn khoảng hai bước chân, chúng dùng lại. Một con chuột già lông trắng mắt đỏ, giơ những vuốt chân đẹp như điêu khắc băng ngọc thạch, vuốt râu. Cặp mắt ti hí của nó đảo như chớp. Sau lưng nó, mươi mấy con chuột xếp thành hình cánh cung, mắt vằn lên, chuẩn bị xông lên cắn xé. Tôi hoảng sợ lùi lại, đầu như muốn vỡ ra, lưng toát mồ hôi lạnh. Tư Mã Lương đứng chắn trước mặt tôi, nó chỉ đứng đến cằm tôi. Nó cúi xuống, rồi sau đó nó ngồi xổm, chiếu tướng con chuột già. Con chuột cũng không chịu lép, nó không vuốt râu nữa, ngồi chồm hổm như chó, cặp râu rung rung. Con chuột già nghĩ gì? Tư Mã Lương, thằng nhỏ tôi vốn không ưa rồi dấn dà trở thành thân cận của tôi, nghĩ gì? Chỉ đơn thuần là cuộc đấu giữa hai cặp mắt hay sao? Nó và con chuột đang tiến hành một cuộc đọ sức về tinh thần, chĩa mũi nhọn vào nhau xem ai nhụt trước. Tôi hình như nghe thấy con chuột nói rằng, đây là địa bàn của chúng tôi, các ông không nên thâm nhập. Tôi nghe Tư Mã Lương nói: Đây là nhà của ta, do bác ta và cha ta xây dựng nên. Ta về đây tức là về nhà, ta là chủ của ngôi nhà này. Chuột già nói: Được làm vua, thua làm giặc! Tư Mã Lương nói: Yếu trâu còn hơn khỏe bò. Chuột già nói: Ông là người chứ không phải trâu. Tư Mã Lương nói: Kiếp trước ta là mèo, nặng tám ký, mèo đực. Chuột già nói: Ông làm sao cho tôi tin kiếp trước của ông là mèo? Tư Mã Lương chống hai tay xuống đất, trợn mắt há miệng kêu meo meo. Tiếng dội lại meo meo. Chuột già kinh hoàng hạ hai chân trước xuống định bỏ chạy. Tư Mã Lương nhanh nhẹn vồ lấy con chuột quật chết tươi trong khi nó chưa kịp cắn. Những con còn lại chạy tán loạn. Tôi bắt chước Tư Mã Lương, vừa kêu meo meo, vừa đuổi đánh lũ chuột. Trong chớp mắt, lũ chuột chạy mất dạng. Tư Mã Lương cười, ngoảnh lại nhìn tôi. Trời ơi, mắt nó giống hệt mắt mèo, lóe lên những tia dữ dằn trong ánh hoàng hôn. Nó quẳng con chuột già vào lỗ cối xay. Hai chúng tôi mỗi thằng bám một tai cối, hết sức bình sinh mà đẩy nhưng cái cối không nhúc nhích, đành bỏ cuộc. Chúng tôi đi vòng một lượt các cối, cái nào cũng tốt. Tư Mã Lương nói:

- Cậu Kim Đồng, ta chung nhau mở nhà xay, cậu thấy thế nào?

Tôi không biết trả lời nó ra sao. Ngoại trừ vú và sữa, tôi chẳng thấy cái gì có ích cho tôi.

Buổi chiều hôm đó thật huy hoàng, ánh nắng xuyên qua khe hở và các ô cửa sổ, chiếu trên gạch lát nền men xanh. Trên nền có cứt chuột. Trong cứt chuột chắc chắn là có cứt dơi, vì rằng trên xà nhà treo lủng cẳng những con dơi cánh dỏ. Một con dơi quá to bằng chiếc đấu đang bò trên vì kèo. Tiếng kêu của nó tương xứng với cơ thể nó, lảnh lót và kéo dài, khiến tôi sởn gai ốc. Chính giữa cối đều đục một lỗ tròn bằng miệng bát, là đoạn gỗ sam chọc thẳng qua nóc chĩa lên trời, đầu đoạn gỗ lắp bánh xe gió. Tư Mã Khố và Tư Mã Đình cho rằng, chỉ cần có gió là những cánh trên bánh xe chuyển động, bánh xe sẽ chuyển theo, khúc gỗ sam tất nhiên cũng chuyển động. Nhưng thực tế đã nghiền nát ảo tưởng của anh em nhà Tư Mã. Tôi đi vòng quanh cối để tìm Tư Mã Lương, trông thấy mấy con chuột trèo lên trèo xuống thoăn thoắt chỗ cột gỗ sam. Trên thớt trên của cối có người đang ngồi. Đó là Tư Mã Lương, ánh mắt sáng rực. Nó thò bàn tay lạnh ngắt xuống năm lấy tay tôi. Được nó giúp sức, tôi đặt chân lên tai cối, trèo lên đỉnh thớt trên. Mặt thớt trên ẩm ướt, nước đầy lỗ.

- Cậu Kim Đồng, cậu còn nhớ con chuột già không

Nó hỏi tôi, vẻ thần bí. Tôi gật đầu trong bóng tối.

- Nó ở đây - Tư Mã Lương nói nhỏ - Cháu định lột da nó để bà ngoại may cái chụp tai chống lạnh!

Một tia chớp yếu ớt lóe lên từ phương nam xa xôi, trong nhà xay rạng lên một thoáng. Tôi trông thấy con chuột trong tay Tư Mã Lương ướt đẫm nước, cái đuôi nhỏ và dài buông thõng một cách đáng ghét.

- Vứt nó đi! - tôi bảo.

- Sao lại vứt? - nó hỏi lại, giọng bất mãn.

- Kinh khủng, lẽ nào mày không thấy lợm giọng hay sao? - tôi nói.

Nó im lặng, trầm ngâm. Tôi nghe thấy tiếng con chuột rơi xuống lỗ cối.

- Cậu Kim Đồng này, họ sẽ làm gì bọn mình? - nó hỏi, vẻ lo ngại.

Đúng vậy, họ sẽ làm gì chúng tôi? Ngoài cửa, bọn lính đang đổi gác. Nước chảy ào ào trên đường. Tên lính thay gác hắt hơi như ngựa. Một tên nói.

- Lạnh thật, đâu phải là thời tiết tháng Tám, hay là sắp đóng băng?

- Nói nhảm - một tên khác nói.

- Cậu nhớ nhà không? - Tư Mã Lương hỏi tôi.

Một luồng hơi cay xộc lên sống mũi. Chiếc giường ấm sục, vòng tay ấm áp của mẹ, giấc mộng du của Câm-anh Câm- em, con dế sau bếp lò, sữa dê ngọt lịm, xương cốt mẹ kêu răng rắc và tiếng ho nặng nề, tiếng cười điên loạn của chị Cả, bộ lông mượt của con cú vọ, rắn ráo bắt chuột trong nhà kho... Tôi không nhớ nhà sao được! Tôi cố khịt cho thông lỗ mũi bị tắc.

- Cậu Kim Đồng, ta trốn đi! - Nó rủ tôi.

- Có lính ngoài cửa, trốn sao được? - tôi khẽ hỏi.

Nó nắm cánh tay tôi, bảo:

- Cậu xem cái cột gỗ sam này - Nó đặt tay tôi vào cái cột gỗ sam chọc thẳng lên mái nhà. Cái cột đẫm nước. Nó bảo: - Ta theo cái cột này mà lên, dỡ mái tôn chui ra!

Tôi do dự, nói:

- Lên rồi thì sao?

Nó bảo:

- Nhảy xuống là có thể về nhà.

Tôi tưởng tượng cái cảnh đứng trên mái tôn han rỉ phát ra những tiếng như tiếng trống mà rủn cả hai chân.

- Cao như thế...- tôi thì thào - nhảy xuống thì gãy cẳng!

Nó bảo:

- Không sao đâu, cháu đảm bảo vô sự. Mùa xuân vừa rồi cháu đã có lần nhảy xuống. Dưới hiên là những bụi đinh hương co dãn như lò xo!

Tôi nhìn lên chỗ tiếp giáp giữa cột và mái, nơi đó có một khoảng ánh sáng, nước mưa từ đó chảy xuống theo cái cột.

- Cậu ơi, trời sắp sáng, lên đi!

Nó sốt ruột giục tôi. Tôi gật đầu vì chẳng còn cách nào khác.

- Cháu lên trước, đội mái tôn lên - Nó tỏ vẻ thành thạo, vỗ vỗ vai tôi, nói: - Cho cháu đứng lên vai cậu?

Rồi hai tay ôm cột gỗ sam, hai chân đặt trên vai tôi, giục:

- Đứng dậy!

Tôi vịn cột lẩy bẩy đứng lên. Mấy con chuột tụ tập quanh chân cột ngã lăn ra. Tôi cảm thấy Tư Mã Lương dùng sức nhún trên vai tôi một cái, ôm cột trèo lên như một con thạch sùng. Cột rất trơn, lên rồi lại tụt, nhưng cuối cùng nó cũng lên được tới nóc nhà. Nó dùng tay đấm tấm tôn lợp, nước đọng chảy qua kẽ hở, trút xuống dưới nhà. Mặt tôi, miệng tôi đầy nước có mùi tanh của gỉ sắt và cả những gỉ vụn. Tư Mã Lương thở nặng nhọc trong bóng tối, mái tôn cạch lên một tiếng, nước đổ xuống như thác, tôi phải ôm chặt lấy cây cột mới không bị ngã. Tư Mã Lương dùng đầu đội tấm tôn lên để mở rộng lỗ hổng. Tấm tôn cong dần rồi bật ra, một mảng trời hình tam giác méo mó hiện ra trên đỉnh đầu ánh sáng màu trắng đục soi qua kẽ hở, tôi trông thấy mấy ngôi sao mờ mờ trên nền trời.

- Cậu Kim Đồng! Nó đứng trên xà nhà gọi với xuống - để cháu lên trước thăm dò rồi quay xuống cứu cậu lên! Nó dướn mình lên, thò đầu ra khỏi cái lỗ hình tam giác.

- Có người trên nóc nhà! - Các binh sĩ ngoài cửa kêu lên. Tiếp đó là những luồng lửa sáng rực, đạn bắn bôm bốp vào mái tôn. Tư Mã Lương ôm cột tụt vội xuống, suýt đè gãy cổ tôi. Nó vuốt nước trên mặt, nhổ gỉ sắt khỏi miệng, hàm răng va vào nhau lập cập, nói:

- Lạnh quá, lạnh quá?

Giờ phút tối lại để sáng đã qua, trong nhà xay sáng dần lên. Tôi và Tư Mã Lương ôm chặt lấy nhau, tôi cảm thấy trái tim của nó áp sát ngực tôi, đập thình thịch như chim sẻ. Tôi khóc vì tuyệt vọng. Nó đụng khẽ cái đầu trọc vào cằm tôi, nói:

- Cậu đừng khóc! Chúng nó không dám hại cậu đâu. Chồng dì Năm là quan to của chúng!

Giờ đây đã nhìn rõ quang cảnh trong nhà xay. Mười hai thớt cối xay màu xanh xám dáng vẻ uy nghi. Tôi và Tư Mã Lương chiếm một thớt. Chóp mũi nó có một giọt nước, lung linh trước mặt chúng tôi. Trên tất cả những cối xay còn lại đều có chuột. Chúng co cụm lại một chỗ, những cặp mắt ti hí đen láy, đuôi như những con giun. Chúng vừa đáng thương vừa đáng ghét. Mặt đất lõm bõm những nước. Nước trên mái nhà vẫn tiếp tục rỏ giọt. Các sĩ quan và binh lính Chi đội Tư Mã Khố đứng tựa vào nhau, quân phục màu xanh trên người biến thành màu đen. ánh mắt và sắc mặt của họ giống lũ chuột trên cối đến kinh người. Những người dân bị kẹt, phần lớn tụm lại một chỗ, chỉ một số ít trà trộn trong đám binh sĩ của Tư Mã Khố chẳng khác kê mọc lẫn ngô ở ngoài đồng. Đàn ông xen lẫn đàn bà, nam nhiều hơn nữ, mấy đứa trẻ nằm trong lòng mẹ, rên hừ hừ như con mèo hen. Đám phụ nữ đều ngồi dưới đất, đám đàn ông có người ngồi xổm, người đứng tựa vào tường. Tường trong nhà xay đều quét vôi, vôi ẩm dính đầy lưng áo đám đàn ông, khiến những chỗ đó biến thành màu khác. Tôi phát hiện ra cô mắt hiếng trong đám đông. Cô ngồi duỗi hai chân trong vũng nước, lưng tựa vào lưng một phụ nữ khác. Cô ngoẹo đầu như cổ đã bị gãy. Cô Kim Một Vú thì ngồi trên mông một người đàn ông. Người đàn ông ấy là ai? Anh ta phủ phục trên mặt đất, áp má trong vũng nước, bộ râu bạc phơ phất, xung quanh chòm râu có những cục máu rung rinh như bọ gậy. Cô Kim chỉ có một bên vú phải, ngực bên trái phẳng lì, khiến vú phải càng đồ sộ, chẳng khác quả núi mọc giữa đồng băng. Núm vú cô vừa to vừa cứng, đội căng làn áo mỏng, lúc hưng phấn có thể treo một lọ nước hoa mà không rơi, nên cô Kim mới có biệt hiệu Lọ-nước-hoa. Mấy chục năm sau, khi tôi phủ trên tấm thân không một mảnh vải của cô, mới phát hiện ra vú trái cô thoái hóa tới mức không để lại mọt vết tích, đầu vú chỉ như một nốt ruồi để chứng tỏ cái vú đã từng tồn tại. Cô ngồi trên cái mông người chết, hai tay vuốt mặt như người bị tâm thần, cứ vuốt một cái trên mặt lại chùi hai cái trên đầu gối, làm như cô vừa chui ra khỏi mạng nhện, mặt vướng đầy tơ. Những người khác thì mỗi người một vẻ, người khóc người cười, người nhắm mắt nói lảm nhảm, người lắc cổ không lúc nào ngừng như con rắn dưới nước, như chim hạc trên bờ. Người có thân hình thanh mảnh kia là vợ anh bán mắm tôm Cảnh Đại Lạc, quê Bắc Hải. Người phụ nữ đầu nhỏ cổ cao, cái đầu nhỏ đến nỗi hoàn toàn không tương xứng với thân thể. Có người bảo chị ta là rắn hóa thành người. Cái đầu và cổ của chị qua thật giống rắn, ló hẳn lên trên đầu đám phụ nữ, trong ánh sáng mờ mờ, cái đầu lắc lư chúng tỏ chị ta đúng là rắn. Chị lại rụt cố xuống. Tôi không dám đến xem thân hình chị ta, mắt trợn tròn vì sợ, hình ảnh chị cứ lởn vởn trong đầu tôi.

Một con rắn to màu xanh vỏ chanh từ trên cột gỗ sam bò xuống. Đầu nó dẹt như cái muỗng xúc cơm, lưỡi đỏ chót không ngừng bắn ra khỏi miệng. Khi đầu nó vừa chạm thớt trên của cối, liền trườn ra một cách mềm mại thành một góc vuông rồi nhẹ nhàng bò đến gần lũ chuột ở giữa cối. Lũ chuột giơ chân trước lên kêu chí chí. Khi cái đầu con rắn trườn đi, phần thân của nó quấn quanh cột vẫn tiếp tục chuyển động, trông như không phải con rắn mà là cái cột chuyển động xoay tròn. Cái đầu con rắn đến giữa thớt cối thì ngóc lên cao đúng một thước, bạnh cổ bằng hai bàn tay chập lại, những hoa văn trên cổ dồn đuổi nhau không ngừng bạnh ra thu vào, cái lưỡi phóng ra càng nhanh, càng đáng sợ, rít lên thành tiếng. Lũ chuột chôn chân tại chỗ, rúm người lại chỉ còn một nửa. Một con đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước vươn ra như cầm sách để đọc, rồi đột nhiên nhảy vào miệng rắn khi ấy há to như cái phễu. Sau đó, con rắn ngậm miệng lại, một nửa con chuột thò ra ngoài, cái đuôi dài ve vảy một cách tức cười.

Tư Mã Khố ngồi trên một khúc gỗ sam đầu cúi gằm, tóc tai rối bù. Chị Hai nằm dài vắt qua gối đầu ngả vào nách anh ta. Da cổ chị nhăn thành nhiều nếp, mặt trắng bệch, miệng há hốc. Chị đã chết. Bác-bít ngồi kề bên Tư Mã Khố, những nét già nua hằn trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Nửa người trên của chị Sáu nằm đè lên đầu gối Bác-bít, run lên từng cơn. Bác-bít dùng bàn tay hộ pháp nhăn nhúm vì nước mưa, ve vuốt bờ vai chị Sáu. Sau cánh cổng mục, một người gầy guộc đang tính chuyện tự vẫn, chiếc quần dài tụt dưới mông, quần lót màu cháo lòng lấm đầy bùn. Ông ta định buộc đầu thắt lưng bằng vải lên khung cổng, nhưng vì khung quá cao, ông ta cứ kiễng mãi mà không tới. Nhìn sau gáy, tôi biết ông ta. Đó là Tư Mã Đình, bác của Tư Mã Lương. Cuối cùng, ông ta mệt, xốc quần lên, thắt lại thắt lưng, quay lại nhìn chúng tôi cuối, tỏ vẻ xấu hổ, ngồi phệt xuống bùn mà khóc tướng lên.

Gió sớm mai từ ngoài đồng thổi vào như con mèo đen ẩm ướt. Con mèo đen miệng ngậm chú cá giếc long lanh vẩy bạc, ung dung đi trên mái tôn. Mặt trời đỏ như máu nhô lên từ đầm lầy mênh mông những nước là nước, vẻ mệt mỏi. Lũ tràn lên, sông Thuồng Luồng réo ào ào, phá tan bầu không khí tĩnh mịch của ban mai. Chúng tôi ngồi trên thớt cối, bắt gặp ánh nắng màu hồng mờ mờ sương. Sau một đêm mưa xối xả, những ô kính cửa sổ sạch bong, cánh đồng tháng Tám không bị cây che khuất hiện rõ mồn một. Bụi bậm trên đường trôi sạch, lộ ra nền đất cứng. Mặt đường trơn bóng, hai con cá chép bị mắc cạn nằm ườn ra trên đường, chưa chết hẳn, cái đuôi thỉnh thoảng lại quẫy một cái. Hai người đàn ông mặc quân phục màu xám, một cao một thấp, người cao gầy người thấp béo, khênh sọt loạng choạng đi tới, trong sọt có mười mấy con cá to, toàn là cá chép và trắm cỏ ngoài ra còn có một con lươn to màu kim nhũ. Họ sung sướng khi phát hiện hai con cá chép trên đường phố, vội khênh sọt chạy tới, dáng chạy vất vả, y như con vịt buộc vào con hạc.

- Cá chép? Người béo và lùn kêu lên.

Khi họ cúi nhặt cá, tôi trông thoáng khuôn mặt họ. Đúng là hai người phục vụ hôm tiệc cưới. Họ là hai tên nội ứng của trung đoàn 17. Bọn lính gác đứng nhìn những người nhặt cá. Người trung đội trưởng phụ trách canh gác ngáp dài, bước tới bảo:

- Lưu béo, Hầu gầy này, các anh đúng là lấy trứng trong đũng quần, bắt cá trên cạn.

Hầu gầy nói:

- Trung đội trưởng Mã, anh vất vả quá?

Trung đội trưởng Mã nói:

- Vất vả thì kể gì, đói mềm người ra đây!

Lưu béo nói:

- Phải khao quân một bữa canh cá mới được, thắng to thế kia mà?

Trung đội trưởng Mã nói:

- Vài con cá thì ăn nhằm gì, chỉ béo bọn nhà bếp!

Hầu gầy nói:

- Anh to nhỏ gì cũng là cán bộ, cán bộ thì phải nói có sách mách có chứng, phê bình phải chú ý khía cạnh chính trị, không nên nói bừa!

- Đùa thôi mà, sao lại cho là thật? - Trung đội trưởng Mã nói - Hầu gầy này, mới có mấy tháng không gặp nhau mà cậu mồm mép khác hẳn!

Trong khi bọn lính đang cãi vã, mẹ chậm rãi đi tới, dáng đi nặng nề nhưng vững vàng dưới ánh nắng ban mai.

- Mẹ ơi! - Tôi vừa khóc vừa nhảy xuống, muốn bay tới sà vào lòng mẹ, nhưng tôi đã bị ngã sóng soài trên vũng bùn.

Khi tôi tỉnh lại, đầu tiên tôi trông thấy là khuôn mặt xúc động của chị Sáu, Tư Mã Khố, Tư Mã Đình, Bácbít, Tư Mã Lương.

- Mẹ đến đấy? - tôi bảo chị Sáu - chính mắt em trông thấy!

Tôi nhoài khỏi cánh tay chị Sáu chạy ra cửa, loạng choạng va phải một người, chạy tiếp, lại va phải vai một người nữa, lại chạy, cố sức rẽ đám đông. Cánh cổng chặn đường ra của tôi. Tôi đấm cửa thình thình, gào to:

- Mẹ ơi, mẹ!

Một tên lính gác thò đầu súng tiểu liên qua lỗ hổng, quát to:

- Không được ồn, sau bữa sáng sẽ thả các ngươi. Mẹ nghe thấy tiếng gào khóc của tôi, nhịp bước nhanh hơn. Mẹ nhảy qua cái rãnh bên đường, nhăm cổng nhà xay đi tới. Trung đội trưởng Mã ngăn mẹ lại:

- Đề nghị bác dùng lại!

Mẹ giơ tay gạt trung đội trưởng ra, không nói một lời tiếp tục tiến lên. Mặt mẹ đỏ rực như bôi lên một lớp máu, miệng méo xệch vì giận dữ.

Bọn lính gác vội vàng nhích lại gần nhau dàn thành một hàng ngang như bức tường sơn đen.

- Đứng lại, các bà đứng lại!

Trung đội trưởng Mã túm vai mẹ. Mẹ dưới lên cố giằng khỏi tay anh ta.

- Bà là ai! Bà muốn gì? - Trung đội trung Mã giận dữ hỏi, đẩy ngược mẹ một cái, mẹ lùi lại mấy bước, suýt ngã.

- Mẹ ơi! - Tôi gào lên sau cánh cổng.

Mẹ đứng thẳng lên, miệng mở to, tiếng gừ gừ trong họng. Mẹ bất chấp tất cả, lao tới.

Trung đội trung Mã đẩy một cái thật mạnh, mẹ ngã lăn xuống rãnh. Nước bắn tung tóe. Mẹ lộn một vòng trong rãnh rồi ngồi dậy, nước lút đến bụng. Mẹ trườn lên bờ rãnh, ướt như chuột lột, tóc bết bùn và nước bẩn. Một chiếc giày của mẹ đã mất, bàn chân tàn phế để trần, mẹ cà nhắc xông tới.

- Đứng lại? - Trung đội trưởng Mã lên cò súng, chĩa tiểu liên vào giữa ngực mẹ, hầm hầm: - Mụ định cướp tù hay sao?

Mẹ nhìn hắn bằng con mắt hằn học, nói:

- Tránh ra!

- Vậy mụ muốn gì? - Trung đội trưởng hỏi.

Mẹ gào lên:

- Tôi tìm con trai tôi!

Tôi càng gào to hơn, Tư Mã Lương đứng bên tôi cũng gọi:

- Bà ngoại ơi!

Chị Sáu cũng gọi:

- Mẹ ơi!

Bị lây tiếng khóc của chúng tôi, tất cả phụ nữ trong nhà xay đều khóc ầm lên. Tiếng khóc của phụ nữ xen

lẫn tiếng hỉ mũi của đàn ông và tiếng chửi của những tên lính.

Các binh sĩ vội vàng đằng sau quay, chĩa súng vào cánh cổng.

- Không được ồn! - Trung đội trưởng Mã quát - lát nữa sẽ thả các người?

- Bác ơi - Trung đội trưởng Mã ôn tồn bảo mẹ - Bác cứ về trước, chỉ cần con trai bác không tầm bậy là chúng tôi thả.

- Con tôi! - Mẹ chạy vòng qua trung đội trưởng Mã, gào to.

Trung đội trưởng Mã nhảy một bước đứng chặn trước mặt mẹ, nghiêm giọng nói:

- Tôi cảnh cáo bác, nếu bác tiến lên một bước là tôi không khách khí đâu đấy?

Mẹ nhìn thẳng vào mặt trung đội trưởng, hỏi khẽ:

- Ông có mẹ không? Ai đẻ ra ông?

Mẹ giơ thẳng cánh, cho trung đội trưởng Mã một bạt tai, rồi bỏ đi. Bọn lính gác rẽ sang hai bên nhường đòng cho mẹ.

Trung đội trưởng ôm mặt ra lệnh:

- Chặn mụ lại! Bọn lính gác bất động, làm như không nghe tiếng. Mẹ đứng trước cổng, tôi thò tay qua kẽ hở vừa gọi vừa vẫy rối rít.

Mẹ rút cái then cổng bằng sắt, tôi nghe thấy tiếng thở nặng nhọc của mẹ. Chiếc then cửa rung lên, một tràng đạn bắn vào phía trên cánh cổng, tiếng súng chói chang, những mảnh gỗ rơi xuống đầu tôi.

- Mụ kia, đứng im, cử động là ta bắn! - Trung đội trưởng Mã gầm lên, lại bắn chỉ thiên một tràng nữa.

Mẹ rút bỏ then sắt, đẩy cổng ra. Tôi mất đà, chúi vào lòng mẹ. Tư Mã Lương và chị Sáu cũng nhào tới. Lúc này, trong nhà xay có tiếng người hô:

- Anh em ơi xông ra, lát nữa là chết tất?

Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã ùa ra như nước lũ. Chúng tôi bị những người đàn ông khỏe mạnh hất bắn sang bên. Tôi ngã, mẹ nằm đè lên tôi.

Trong nhà xay nhốn nháo, tiếng khóc, tiếng gầm, tiếng rú thê thảm hòa làm một. Bọn lính gác của trung đoàn 17 bị xô ngã dúi dụi, các binh sĩ của Chi đội Tư Mã tước lấy súng. Tiếng nổ làm cửa kính rung lên lanh canh. Trung đội trưởng Mã ngã xuống rãnh. Hắn đứng trong nước quét một vòng, hơn chục binh sĩ trong Chi đội Tư Mã đổ gục như ngả rạ. Các binh sĩ Chi đội Tư Mã chồm lên người trung đội trưởng Mã, đè hắn xuống rãnh đấm đá loạn xạ.

Binh mã của trung đoàn 17 chạy tới, vừa chạy vừa lên cò súng bắn vung vãi. Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã chạy tán loạn, những viên đạn vô tình đuổi theo họ. Chúng tôi áp sát lưng vào tường nhà xay, dùng tay đẩy lui những người lấn tới.

Một người lính của trung đoàn 17 quì bắn dưới gốc cây bạch dương, tay giương súng, mắt nhằm bắn, cứ mỗi lần cây súng nẩy lên là một binh sĩ của Chi đội Tư Mã ngã xuống. Súng nổ đoàng đoàng, những vỏ đạn nóng bỏng rơi xuống nước bốc khói. Người lính lại nhằm một người thân hình cao lớn, đen nhẻm. Người đó đã chạy được mấy trăm thước. Anh ta nhảy trên ruộng đậu như con chuột túi. Đến chỗ ruộng dâu tiếp giáp với ruộng cao lương, người lính già từ tốn lẩy cò, một tiếng đoàng, người đang chạy cắm đầu xuống đất. Người lính già kéo cơ bẩm, một vỏ đạn văng ra.

Trong đám người nhốn nháo, Bác-bít nổi lên như một con la giữa đàn dê, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Đàn dê kêu be be, xô đẩy nhau mà chạy. Bác-bít cất đôi chân dài ngoẵng với những bước nặng nề, chạy theo đám người, chân dẫm bùn nhem nhép. Anh chàng câm Tôn Bất Ngôn hung hãn như một con hổ đen, cùng với hơn chục đội viên cảm tử hò hét, múa đao chặn đàn dê. Đàn dê không kịp tránh bị chém bể đầu mấy con, tiếng kêu thê thảm vang vọng khắp cánh đồng. Đàn dê mất phương hướng, tiện đâu rúc đó. Bác-bít sợ tái người, nhìn tứ phía trong khoảnh khắc. Tôn Bất Ngôn xông tới. Bác-bít chợt tỉnh, bèn bỏ chạy thục mạng, mép sùi bọt, thở hồng hộc. Người lính già dưới gốc cây bạch dương nhằm bắn Bác-bít.

- Lão Tào, đừng bắn? - Lỗ Lập Nhân từ trong đám đông nhảy vọt ra, quát - Các đồng chí, không bắn người Mỹ đó!

Các binh sĩ khép dần vòng vây như người ta kéo lưới, các tù binh vẫn chạy nháo nhào trong khoảng hẹp đó chẳng khác đàn cá trong lưới, dần dà dồn cục lại ở quãng đường trước cổng nhà xay.

Thằng Câm nhảy xổ vào đám tù binh, đấm Bác-bít một quả. Bác-bít bị xoay một vòng, lại đối diện với Thằng Câm. Bác-bít xổ ra một tràng toàn tiếng tây, không hiểu anh ta chửi hay phản kháng. Thằng Câm giơ đao lên, ánh thép lấp lóa. Bác-bít giơ cánh tay lên làm như che ánh sáng lạnh của thanh đao.

- Bác-bít? - Chị Sáu từ chỗ mẹ loạng choạng chạy ra, nhưng chỉ được mấy bước liền ngã vật xuống, bàn chân trái của chị ló ra phía bên chân phải, người ngã nghiêng xuống đống bùn.

- Chặn Tôn Bất Ngôn lại - Lỗ Lập Nhân ra lệnh.

Mấy đội viên cảm tử đứng sau thằng câm níu lấy cánh tay thằng câm. Hắn gào thét điên cuồng, hất văng các đội viên cảm tử như những bó rạ. Lỗ Lập Nhân nhảy qua rãnh nước sang đứng bên đường, giơ một tay lên rất cao, gọi:

- Tôn Bất Ngôn, chú ý chính sách đối với tù binh!

Trông thấy Lỗ Lập Nhân, Tôn Bất Ngôn không vùng vẫy nữa. Các đội viên cảm tử bỏ tay hắn ra. Hắn giắt đao vào thắt lưng, giơ những ngón tay như gọng kìm túm lấy áo Bác-bít lôi đến trước mặt Lỗ Lập Nhân. Bác-bít nói mấy câu tiếng tây với Lỗ Lập Nhân. Lỗ Lập Nhân cũng nói lại vài câu ngắn gọn và giơ bàn tay chém vào không khí. Bác-bít im lặng. Chị Sáu giơ hai tay về phía Bác-bít tỏ vẻ cầu cứu miệng rên rỉ:

- Bác-bít!....

Bác-bít nhảy qua rãnh nước, xốc chị Sáu dậy. Cái chân trái của chị như đã chết. Bác-bít ôm eo chị, cố súc xốc chị dậy, chiếc váy lấm bê bết tụt xuống hở cái mông thâm tím. Chị ôm cổ Bác-bít. Bác-bít đỡ hai bên nách chị, rồi cả hai đứng lên. Bác-bít nhìn thấy mẹ, anh ta dìu chị Sáu nhích về phía mẹ, nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Mẹ ơi! - môi anh ta run run, những giọt nước mắt lăn trên má.

Nước trong rãnh bắn tung tóe. Trung đội trưởng Mã gạt mấy cái xác đè trên người, lồm cồm bò dậy như một con cóc khổng lồ, bùn nước và máu dính trên áo mưa như những đốm trên thân con cóc, hai chân khuỳnh ra, run rẩy đứng lên, trông vừa đáng thương vừa tội nghiệp, thoạt trông như một con gấu, trông kỹ giống người anh hùng. Một mắt anh ta bị đánh lòi ra ngoài, con ngươi trong như thủy tinh lủng lẳng trên sống mũi. Anh ta gãy hai răng cửa, cằm rắn như thép rỉ máu.

Một nữ binh đeo túi chạy tới đỡ trưởng đội trưởng Mã đang ngật ngưỡng.

- Thưa đội trưởng, ở đây có thương binh nặng! - Người nữ binh gọi, thân hình mảnh dẻ của cô ta oằn xuống dưới sức nặng của trung đội trưởng Mã.

Lúc này, Phán Đệ to béo dẫn hai dân phu vác cáng chạy tới. Chiếc mũ lính bé tí đội trên đầu, dưới vành mũ là khuôn mặt rộng, béo núc ních, chỉ có hai vành tai lộ ra dưới mái tóc ngắn là giữ được vẻ thanh tú của phụ nữ nhà Thượng Quan.

Không do dự, chị dứt bỏ con ngươi lòi ra của trung đội trưởng Mã, tiện tay vứt ngay bên cạnh. Con mắt đảo một cái rồi nằm yên, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt căm thù.

- Đội trưởng ơi, nói với Lỗ đoàn trưởng là...- Trung đội trưởng Mã chỉ mẹ nói - chính mụ ta mở cổng?

Chị Phán Đệ băng quanh đầu cho trung đội trưởng Mã hết vòng nọ đến vòng kia, cho đến khi không thể há miệng.

Chị Phán Đệ đứng trước mặt chúng tôi, lúng búng gọi mẹ.

Mẹ nói:

- Tôi không phải là mẹ của bà!

Chị Phán Đệ nói:

- Con đã nói rồi, mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây, phải xem lại mình đã chứ?

Mẹ nói:

- Tôi xem rồi, tôi đã thấy tất cả?

Chị Phán Đệ nói:

- Nhà có chuyện gì con đều biết. Mẹ không đối xử tệ với con gái của con, con sẽ giải thoát cho mẹ?

Mẹ nói:

- Chị không cần giải thoát cho tôi, tôi sống quá đủ rồi!

Chị Phán Đệ nói:

- Chúng con đã lấy lại được thiên hạ rồi!

Mẹ nhìn lên bầu trời đầy mây, lẩm bẩm...

- Chúa ơi, Người hãy nhìn kỹ đi, nhìn kỹ cái thế giới này đi!

Chị Phán Đệ bước tới, lạnh lùng xoa đầu tôi. Tôi ngửi thấy trên tay chị cái mùi thuốc mà tôi không ưa. Chị không xoa đầu Tư Mã Lương, tôi đoán chắc Tư Mã Lương không cho chị xoa đầu nó. Hàm răng như răng thú nhỏ của nó nghiến ken két, chắc chắn sẽ cắn đứt ngón tay chị khi chị xoa đầu nó. Chị Phán Đệ mỉm cười châm biếm, bảo chị Sáu:

- Đẹp mặt, đế quốc Mỹ đang cung cấp máy bay đại bác cho kẻ thù của chúng ta tàn sát nhân dân vùng giải phóng!

Chị Sáu ôm Bác-bít, nói:

- Chị Năm tha cho chúng em! Các người đã giết chết chị Hai, chẳng lẽ định giết hết chúng tôi hay sao?

Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra. Nhân lúc binh sĩ của anh ta ùa ra cổng, anh ta lẳng lặng ở lại trong nhà. Con người xưa nay vẫn ăn mặc tươm tất, đánh bóng từng cái cúc áo vậy mà chỉ qua một đêm đã khác hẳn, mặt hằn những vết nhăn, mắt thâm quầng, tóc đốm bạc. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu.

Miệng mẹ càng méo xệch đi, miệng run lên không nói được một câu cho trọn nghĩa, nước mắt đầm đìa. Mẹ giơ tay sờ trán chị Hai, tay kia đõ lấy cằm nói:

- Chiêu Đệ, con của mẹ! Người là do con chọn, con đi đường của con, mẹ không ngăn được con, cũng không cứu nổi con, các con đều... thôi thì phó mặc cho trời!

Tư Mã Khố đặt thi thể chị Hai xuống đất, tiến về phía Lỗ Lập Nhân đang đi tới, xung quanh là mười mấy vệ binh. Hai người còn cách nhau vài bước chân thì dừng lại, bốn mắt nhìn nhau tóe lửa, hồi lâu mà vẫn không bên nào chịu thua bên nào. Lỗ Lập Nhân cười khan ba tiếng:

- Ha ha, ha ha, ha ha ha!

Tư Mã Khố cũng cười nhạt ba tiếng: - Hà hà, hà hà, hà hà hà?

- Tư Mã huynh, xin chớ trách? Chưa đầy một năm kể từ khi huynh đuổi ta ra khỏi vùng này, không ngờ hôm nay số phận đó lại rơi trên đầu huynh!

Tư Mã Khố nói:

- Vay nóng trả vội thôi, có điều, huynh phải trả một giá quá đắt đấy!

Lỗ Lập Nhân nói:

- Về chuyện quí phu nhân bất hạnh qua đời, ta cũng rất đau xót, nhưng biết làm thế nào! Cách mạng như mổ cái ung nhọt, tránh sao cắt bỏ ít da thịt! Nhưng ta không thể vì sợ phương hại đến da thịt mà không cắt bỏ cái ung, huynh nên hiểu điều đó!

Tư Mã Khố nói:

- Đừng nhiều lời nữa, cho ta chết quách cho rồi!

Lỗ Lập Nhân nói:

- Chúng tôi không thể xử tử huynh một cách đơn giản như vậy.

Tư Mã Khố nói:

- Vậy thì xin lỗi, ta tự giải quyết vậy. Anh ta móc khẩu súng mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói:

- Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! - Rồi đưa súng lên thái dương.

Lỗ Lập Nhân cười lớn:

- Rốt cuộc cũng chỉ là thằng hủ nho? Tự sát hả, đồ hèn?

Tay cầm súng của Tư Mã Khố run bắn lên.

Tư Mã Lương gào to: - Bố ơi!

Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói:

- Cầm lấy!

Lỗ Lập Nhân giơ tay bắt lấy khẩu súng tung trong tay, nói

- Đây là đồ chơi của phụ nữ - Hắn ném khẩu súng cho người ở phía sau một cách khinh miệt, rồi dận đôi giày da sưng phồng vì nước mưa và bùn, nói: - Quả thực khi đã nộp súng, ta không có quyển bắn chết huynh nữa. Cấp trên của ta sẽ chọn cho huynh một con đường, hoặc lên trời, hoặc xuống địa ngục!

Tư Mã Khố lắc đầu, nói:

- Ngươi nói không đúng rồi, thiên đường hay địa ngục đều không dành cho chúng ta. Chỗ của ta là khoảng giữa thiên đường và địa ngục. Rồi thì ngươi cũng như ta thôi!

Lỗ Lập Nhân bảo người đứng bên:

- Giải hắn đi!

Vệ binh bước tới, chĩa súng vào Tư Mã Khố và Bác-bít, nói:

- Đi!

Tư Mã Khố gọi Bác-bít:

- Đi thôi! Chúng có thể giết tôi một trăm lần, nhưng không dám đụng đến cái lông chân của anh đâu?

Bác-bít dìu chị Sáu đến bên Tư Mã Khố. Lỗ Lập Nhân nói:

- Phu nhân Bác-bít có thể ở lại.

Chị Sáu nói:

- Đoàn trưởng Lỗ, ông hãy thể tình mẹ tôi đã nuôi nấng Lỗ Thắng Lợi mà tha cho vợ chồng tôi!

Lỗ Lập Nhân lấy tay đẩy cái kính gãy gọng trên mũi, nói với mẹ:

- Mẹ nên khuyên cô ấy?

Mẹ kiên quyết lắc đầu, ngồi xuống, bảo tôi và Tư Mã Lương:

- Đặt lên lưng giúp ta?

Tôi và Tư Mã Lương khênh thi thể chị Chiêu Đệ đặt lên lưng mẹ.

Mẹ cõng chị Hai trên lưng, chân trần bước đi trong bùn trở về nhà. Tôi và Tư Mã Lương, đứa bên trái đứa bên phải đỡ lấy hai chân lạnh cúng của chị Hai để cho mẹ đỡ nặng.


24

  Nước sông Thuồng Luồng dâng cao. Từ trên giường nhà tôi nhìn qua cửa sổ sau nhà, có thể nhìn thấy nước lũ ngang mặt đê, cuồn cuộn chảy về đồng. Các binh sĩ của trung đoàn 17 thuộc Trung đội 8 đứng quay mặt ra sông đang bàn tán về chuyện gì đó. Trong sân, mẹ đang chuẩn bị nướng bánh. Sa Tảo Hoa giúp mẹ nhóm lò. Củi bị ẩm, ngọn lửa vàng vọt, khói nồng nặc, che khuất cả ánh nắng.

Tư Mã Lương cùng với mùi hăng hắc của cây hòe bước vào nhà. Mùi hắc của cây hòe khiến chúng tôi phấn chấn lên. Nó nói:

- Chúng định giải bố cháu và dì Sáu lên quân khu. Chồng dì Ba và bọn lính đang kết bè, chuẩn bị vượt sông.

- Lương này. - Mẹ từ ngoài sân nói vào - Cháu dẫn cậu và dì út lên đê, bảo họ đừng sang vội, để bà ra tiễn.

Nước sông đục ngầu, cuốn theo rơm rạ, rác rưởi, dây khoai lang, xác súc vật, giữa dòng còn có cả một cây lớn. Cây cầu bị Tư Mã Khố đốt cháy ba khúc đã bị cuốn, chỉ còn dòng nước cuồn cuộn với tiếng réo ào ào chứng minh nó đã từng tồn tại. Những lùm cây trên thân đê đã bị nhận chìm đôi chỗ, chỉ còn vài cành ló lên mặt nước.

Mặt sông rộng mênh mông, từng dàn hải âu màu xám đuổi theo bọt sóng, chốc chốc lại bắt được một con cá nhỏ. Bên kia bờ sông chỉ còn như một sợi chí, bập bềnh trên sóng nước lóa mắt. Nước chỉ còn cách mặt đê vài đốt ngón tay, đôi chỗ cái lưỡi màu vàng của nó đã liếm mặt đê thành rãnh nhỏ, róc rách chảy vào trong đồng.

Khi chúng tôi lên tới mặt đê, thằng câm Tôn Bất Ngôn đang đái xuống sông, bộ máy sinh dục của hắn to quá cỡ, nước đái vàng khè, chảy tong tỏng xuống mặt nước. Trông thấy chúng tôi, hắn mỉm cười thân mật, móc túi lấy ra chiếc còi làm bằng vỏ đạn, thổi lên ríu rít những tiếng chim, tiếng trầm của họa mi, tiếng líu ríu của vàng anh, tiếng nức nở của bách linh. Tiếng chim quyến rũ, khuôn mặt có vết bớt của hắn tỏ ra đôi chút dịu dàng. Thổi đã rồi, hắn vẩy cho hết nước bọt trong còi, đưa cho tôi, miệng ú ớ ý tứ rất rõ, hắn tặng tôi chiếc còi. Tôi lùi lại, khiếp đảm nhìn hắn. Chị Tám nấp sau Tư Mã Lương, bàn tay trắng nhợt túm chặt cánh tay của nó. Bộ mặt nhà ngươi khi vung đao chém người, ta không bao giờ quên? Đồ quỉ? Hắn lại đưa chiếc còi cho tôi, miệng ú ớ tỏ ra bồn chồn không yên. Tôi lùi thì hắn tiến. Tư Mã Lương nói nhỏ sau lưng tôi:

- Đừng lấy cậu ạ, cái còi của thằng câm là để gọi ma, khi nào chiêu hồn ngoài nghĩa trang thì người ta thổi?

- Âu, âu! - Thằng câm giận dữ nhét chiếc còi vào tay tôi rồi đi tới chỗ những người đang kết bè.

Tư Mã Lương giằng lấy cái còi, xem rất kỹ dưới nắng xem có gì bí mật không. Nó bảo tôi:

- Cậu ạ, cháu là linh miêu, không thuộc con nào trong mười hai con giáp, chẳng ma nào hại nổi cháu! Để cháu giữ cái còi này hộ cậu!

Nói xong, nó bỏ cái còi vào túi quần. Nó mặc chiếc quần xanh chỉ ngắn đến đầu gối, phía trên cạp may thêm rất nhiều túi, to có nhỏ có, kín có hở có. Trong túi nó đụng rất nhiều thứ kỳ quặc, viên đá đổi màu dưới ánh trăng, lưỡi cưa nhỏ có thể cưa đứt mẩu gạch, hạt hạnh các cỡ, lại còn có đôi chân chim sẻ, xương đầu một con ếch. Lại có cả răng người, có cái là của nó rụng, có cái là của chị Tám, có cái là của tôi. Mẹ thường ném răng rụng của tôi qua mái nhà, nhưng nó vẫn đi nhặt về. Răng chị Tám thì chị để trên bậu cửa sổ, nó đến nhặt bỏ túi. Tìm một cái răng trong đám cỏ um tùm và đầy rác rưởi sau nhà đâu phải dễ? Nhưng Tư Mã Lương bảo tôi:

- Nếu mình có ý định tìm kiếm vật gì đó thì nó sẽ nhảy ra trước mặt.

Bây giờ trong túi của nó có thêm một chiếc còi gọi ma cho bộ sưu tập. Tôi đi đôi guốc mộc - mẹ nói nó là quà tặng của mục sư Malôa cho Thọ Hỉ. Chị Tám không có giày. Tư Mã Lương đi chân đất. Chúng tôi đến gần những người đang làm bè.

Hơn mười binh sĩ của trung đoàn 17 như lũ kiến khuân mồi, khênh cây gỗ thông nặng đi trong ngõ. Trên phố có tiếng lắc rắc, tháp canh của Tư Mã Đình đang bị dỡ. Tôn Bất Ngôn là thủ lĩnh cả đám binh sĩ, hắn chỉ huy họ ghép các cây gỗ thông lại với nhau, rồi dùng dây thép liên kết lại. Ông già Tôn Long là thợ mộc nổi tiếng trong vùng, đảm nhiệm cố vấn kỹ thuật. Tôn Bất Ngôn đang nổi cáu với ông già, nhảy chồm chồm như con hắc tinh tinh, miệng sùi bọt. Ông già Long đứng nghiêm, tay buông thõng một cách chịu đựng, tay trái cầm đanh móc, tay phải cầm búa. Hai đầu gội đầy những vết sẹo của ông chụm lại, bóng gân xanh nổei lên to tướng ở bắp chân. Ông đi guốc, đôi guốc ông tự làm lấy khi tạc tượng Chúa Giêsu còn thừa một đoạn gỗ táo, theo lời khuyên của mục sư Malôa.

Lúc này, một vệ binh cưỡi xe đạp, khoác tiểu liên trên lưng, từ phía ngõ đi tới. Đến chân đê, anh ta dựa xe, khom người đi lên. Anh ta bị thụt một chân xuống lỗ chuột đồng, khi rút chân lên, cái lỗ đùn lên toàn là nước đục. Tư Mã Lương bảo:

- Xem kìa, đê sắp vỡ rồi!

Anh vệ binh cũng kêu lên:

- Nguy rồi, ở đây có một lỗ hổng?

Các binh sĩ trung đoàn 17 nhốn nháo cả lên, bỏ dở công việc đang làm, chạy xuống xem cái lổ hổng đùn nước. Trên mặt Tôn Bất Ngôn lộ vẻ kinh hoàng ít khi thấy ở hắn. Hắn nhìn dòng sông cuồn cuộn, cao hơn nóc nhà cao nhất trong thôn. Hắn cởi yên đao quẳng xuống mặt đê, cởi vội áo, quần dài, chỉ mặc chiếc quần đùi, rồi hắn ú ớ với bọn lính. Đám lính ngẩn người ra nhìn hắn như gà nuôi lấy thịt. Một tên lông mày rậm hỏi Tôn Bất Ngôn:

- Anh bảo sao, bảo chúng tôi xuống nước hả?

Thằng Câm nhảy tới trước mặt anh lính túm lấy ngực áo anh ta xoắn đứt các cúc áo. Trong lúc khẩn cấp ấy, Thằng Câm buột miệng nói ra được một tiếng:

- Cởi!

Ông già Tôn Long nhìn cái lỗ hổng rồi lại nhìn cái xoáy nước phía ngoài đê, nói:

- Thưa các ông, đây là cái hang chuột, bên trong còn to hơn cái chum, vị thủ lĩnh bảo các ông cởi quần áo phụ với ông ta lấp lỗ hổng, vậy các ông cứ cởi ra, chùng chình là vô phương cứu chữa. Ông già cởi chiếc áo vá chằng vá đụp ra quẳng xuống trước mặt Thằng Câm. Các binh sĩ vội vàng cởi quần áo.

Một chú lính trẻ chỉ cởi áo khoác ngoài, không cởi quần dài. Thằng Câm nổi giận, lại gầm lên cái từ ban nãy: - Cởi!

Chó cùng dứt giậu, mèo cùng trèo cây, thỏ cùng cắn người, Thằng Câm cùng thì nói thành tiếng 'Cởi, cởi, cởi!, cứ thế mà gầm lên.

Chú lính trẻ run rẩy:

- Thưa tiểu đội trưởng, em không mặc quần đùi!

Thằng Câm nhặt thanh đao lên kề vào gáy chú lính, quay ngược sống đao gõ hai cái. Tên lính mặt vàng như nghệ, lắp bắp nói:

- Ông câm ơi, em xin cởi, xin cởi mà!

Chú lính cúi xuống tháo xà cạp, cởi quần, phơi ra cái bụng trắng hếu và con chim bé tí mới mọc lông. Chú lính xấu hổ lấy tay che nó lại. Thằng Câm tiến đến định bắt tên lính cưỡi xe đạp cởi quần áo, tên này nhảy vội lên xe, chỉ hai cái ấn là phóng như bay xuống chân đê, hắn vừa đạp vừa kêu to:

- Vỡ đê rồi! Vỡ đê rồi!

Thằng Câm xếp quần áo thành đống, lấy xà cạp buộc lại. Ông già Long kéo đổ dàn biển đậu dưới chân đê, bó cọc dàn cùng với dây biển đậu thành từng bó. Các binh sĩ giúp ông vác lên mặt đê. Thằng Câm ôm bọc quần áo định nhảy xuống nước. Ông già chỉ cái xoáy nước rồi lục lọi trong hòm đồ nghề của ông, lấy ra cái chai mật lợn màu xanh, mở nút, mùi rượu xộc lên. Ông già đưa chai rượu cho Thằng Câm, hắn ngửa cổ uống cạn rồi giơ ngón tay cái biểu dương ông già, hét to:

- Cởi!

Hắn nói Cởi trường hợp này có nghĩa là tốt, những người có mặt ai cũng hiểu như thế. Thằng Câm ôm bọc quần áo nhảy xuống nước. Mặt nước dãn ra. Cái lỗ hổng bên ngoài đê giờ đây đã to bằng cái cổ con ngựa, dòng nước hung hãn chui vào trong lỗ, rồi vọt ra phía ngõ trong đê, chảy thành một dòng sông nhỏ nước đục ngầu đã tràn tới cổng nhà tôi. So với con đê Thuồng Luồng cao ngất đằng sau, nhà cửa trong thôn chỉ như đồ chơi của trẻ con. Thằng Câm vừa xuống nước đã biến mất. Chỗ hắn lặn xuống là cái xoáy đầy bọt và rơm rác. Những con hải âu láu cá bay lượn trên cao. Cặp mắt tinh tường bằng hạt đậu đen của chúng chú mục vào chỗ Thằng Câm lặn xuống như chờ đợi điều gì đó. Tôi trông rõ cái miệng đỏ lòm và cặp chân đen sì dưới cái bụng trắng của chúng.

Chúng tôi sốt ruột nhìn mặt nước. Một vật như quả dưa hấu đen sì đảo một cái trên mặt nước rồi lại chìm nghỉm nhưng lại xuất hiện rất nhanh ở phía trước. Một vật như con ếch khô khổng lồ đạp chân đúng kiểu bơi của ếch, bơi chéo vào bờ. Khi đến chỗ nước tương đối lặng sát thân đê, hai chân lại đạp tạo nên những ngấn nước rất đẹp. Các binh sĩ trung đoàn 17 căng mắt để nhìn, cổ vươn ra. Do tất cả đều cởi trần, nên trông giống những phạm nhân đang chờ hành quyết. Quần lót của họ chẳng khác quần lót của Thằng Câm vải cứng như tôn lá. Chú lính cởi truồng hai tay ôm lấy bộ tam sự, cũng vươn cổ nhìn xuống nước. Ông già Tôn Long thì nhìn lỗ hổng trong đê. Nhân dịp này Tư Mã Lương lén gại thử vào lưỡi dao của Thằng Câm, sắc như nước, chém đầu như bổ dưa.

- Tốt rồi, bịt được rồi - Ông già Tôn Long kêu to.

Nước chảy chậm dần qua cái lỗ hổng, sức nước giảm đi nhiều, từ chỗ chảy ồ ồ chỉ còn róc rách. Thằng Câm vọt lên khỏi mặt nước như một con cá quả khổng lồ, đám hải âu hoảng sợ vọt lên cao. Hắn dùng bàn tay hộ pháp vuốt nước trên mặt, nhổ phì phì đất cát trong miệng ra. Ông già Tôn gọi binh lính quẳng các bó biển đậu xuống sông. Thằng Câm túm lấy từng bó dìm xuống rồi nhô người lên một cái, quẫy hai chân lặn theo. Lần này thì thời gian dưới nước tương đối ngắn, hắn đã ngoi lên lấy hơi. Ông già Tôn Long đưa xuống một cành cây dài định kéo hắn lên, nhưng hắn xua tay, lại lặn xuống. Tiếng thanh la dồn dập trong thôn. Tiếng thanh la chưa dứt đã vang lên tiếng hô khẩu lệnh, từng đội vác súng từ các ngõ chạy lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân và đội bảo vệ của anh ta chạy từ ngõ nhà tôi lên. Vừa lên đến nơi, anh ta hỏi:

- Vỡ chỗ nào?

Ông già Long nói với Lỗ Lập Nhân:

- Thưa trưởng quan, may mà có ông Tôn, nếu không, làm mồi cho ba ba!

Lỗ Lập Nhân nói:

- Nhân dân làm mồi cho ba ba thì chúng tôi cũng làm mồi cho cua cái!

Anh ta bước tới chỗ Thằng Câm, giơ ngón tay cái biểu dương hắn. Thằng Câm toàn thân nổi da gà, môi dính bùn, nhìn Lỗ Lập Nhân cười hềnh hệch.

Lỗ Lập Nhân ra lệnh cho các binh sĩ đào đất gia cố thân đê. Công việc ghép bè tiếp tục tiến hành, nhất định đến trưa phải đưa được tù binh sang sông. Đội áp giải của quân khu sẽ tiếp ứng ở bờ sông bên kia. Những binh sĩ không có quần áo thay thì về chỗ trú quân nghỉ ngơi. Những binh sĩ được biểu dương càng hăng hái, thề chết hoàn thành nhiệm vụ. Lỗ Lập Nhân lệnh cho cần vụ chạy về đoàn bộ lấy một cái quần cho chú lính trẻ thay. Lỗ Lập Nhân cười hì hì, nói với chú lính trẻ:

- Chỉ toàn lông tơ, chứ đã đủ lông đâu mà xấu hổ?

Trong khi liên tiếp ra hàng loạt mệnh lệnh, Lỗ Lập Nhân còn tranh thủ hỏi tôi:

- Mẹ có khỏe không? Thắng Lợi có ngoan không?

Tư Mã Lương kéo tay tôi, tôi không hiểu ý của nó, nó bảo Lỗ Lập Nhân:

- Bà ngoại yêu cầu được tiễn bố cháu, bác đợi bà ngoại ra hãy sang sông!

Ông già Tôn Long tinh thần phấn chấn, chỉ trong nửa tiếng đồng hồ đã ghép xong chiếc bè rộng mười mấy mét vuông. Không có bơi chèo, ông già đề nghị thay thế bằng xẻng, dùng những chiếc mai gỗ càng tốt. Thế là Lỗ Lập Nhân lại ra lệnh đi lấy xẻng.

- Cháu về bảo với bà ngoại - Lỗ Lập Nhân nói với Tư Mã Lương - Ta chấp thuận yêu cầu của bà!

Anh ta giơ tay xem đồng hồ, nói:

- Các cháu có thể về được rồi!

Nhưng chúng tôi không về vì đã trông thấy mẹ khoác trên tay một cái làn trên phủ vuông vải trắng, tay xách bình nước trà, bước ra khỏi cổng. Sau lưng mẹ là Sa Tảo Hoa. Nó ôm trong tay một bó hành sống. Đi sau bó hành là chị em sinh đôi Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng; sau Phượng và Hoàng là hai con trai của Thằng Câm, anh em sinh đôi: Câm-lớn, Câm-bé; sau Câm-lớn, Câm-bé là Lỗ Thắng Lợi vừa lẫm chẫm biết đi; sau Lỗ Thắng Lợi là chị Lai Đệ trát bự son phấn. Cái đội ngũ ấy đi rất chậm.

Hai đứa con gái sinh đôi thì chăm chú nhìn các dàn biển đậu xen kẽ với hoa khiên ngưu, chúng đang tìm bắt chuồn chuồn, bươm bướm và những cái xác ve sầu. Hai đứa con trai sinh đôi thì mắt như dán vào các cây hai bên ngõ, những cây hòe, cây liễu và những cây dâu thân có màu vàng nhạt, chúng tìm những con sên, thức ăn rất ngon mà chúng ưa thích. Lỗ Thắng Lợi thì tìm những chỗ có nước mà bước vào. Nó dẫm trên nước lép nhép, những tiếng cười ngây thơ vang lên khắp ngõ. Dáng đi đoan trang của chị Lai Đệ cho tôi biết rằng thái độ của chị rất trịnh trọng, mặc dù ở trên đê, chúng tôi không thể nhìn rõ nét mặt chị, mà chỉ nhìn thấy xanh đỏ lòe loẹt trên mặt chị.

Lỗ Lập Nhân cầm lấy chiếc ống nhòm trên cổ một vệ binh, nhìn sang bờ bên kia, một cán bộ dưới quyền đứng bên anh ta sốt ruột hỏi:

- Đã đến chưa?

Lỗ Lập Nhân tiếp tục quan sát, nói:

- Chưa, chẳng có ma nào cả, chỉ có mỗi con quạ đang mổ phân!

- Liệu có chuyện gì chăng? - Người cán bộ lo lắng.

- Không có chuyện gì đâu - Lỗ nói - Đội áp giải của quân khu toàn là những tay súng cừ khôi, bán đảo Sơn Đông không có ai là đối thủ?

Cán bộ kia nói:

- Quả có vậy. Khi tôi tập huấn trên quân khu, đội áp giải tù binh có biểu diễn cho xem. Tôi phục nhất là cái môn chọc thủng gạch của họ. Anh nghĩ coi, viên gạch rắn là thế mà họ chỉ dùng một ngón tay khoan ngay một lỗ xuyên qua, ngay cả mũi khoan cũng không nhanh bằng. Họ định giết ai thì chỉ một ngón tay là chọc thủng một lỗ, không cần đến vũ khí. Đoàn trưởng, nghe tin một số cán bộ sẽ chuyển ngành sang tổ chúc chính quyền...

- Đến rồi! - Lỗ Lập Nhân nói - Báo cho tiểu đội thông tin, phát tín hiệu cho bên kia!

Một binh sĩ tầm vóc nhỏ bé nhanh nhẹn giơ khẩu súng lục nòng to kỳ lạ chĩa lên khoảng không trên sông bắn một phát. Một quả cầu lửa màu vàng bay vọt lên không trung, đứng lại một thoáng rồi xì ra một làn khói trắng, kéo theo một tiếng nổ, rơi xuống giữa lòng sông. Khi quả cầu lửa rơi xuống, một con hải âu đảo cánh định đớp, nhưng nó kêu lên một tiếng lảnh lói, lảng ra xa. Bờ bên kia, một đám người nhỏ li ti đang đứng, sóng nước rập rờn khiến tôi nghĩ rằng họ đang đứng trên mặt nước chứ không phải trên mặt đê.

- Đổi tín hiệu! - Lỗ Lập Nhân nói.

Chú lính lấy ngọn cờ đỏ giắt bên người, buộc vào cành liễu mà ông già Long quẳng dưới đất. Chú ta phất ngọn cờ đỏ với bờ bên kia, bờ bên kia vọng lại tiếng hoan hô.

- Tốt rồi! - Lỗ Lập Nhân đeo ống nhòm vào cổ, quay sang lệnh cho người cán bộ dưới quyền: - Tham mưu Tiền, chạy về bảo Tham mưu trưởng Đỗ giải tù binh ra!

Người cán bộ chạy đi.

Lỗ Lập Nhân nhảy lên bè, ra sức dẫm mạnh để thử độ bền. Anh ta hỏi ông già Tôn Long:

- Ra đến giữa sông, bè không vỡ chứ?

Ông già Tôn Long nói:

- Xin thượng quan yên tâm, năm Dân quốc thứ mười, cái bè đưa dân biểu Triệu qua sông, chính là do tôi ghép.

Lỗ Lập Nhân nói:

- Hôm nay ta phải đưa một tên phạm nhân do thượng cấp chỉ đích danh, không thể để xảy ra bất cứ sơ suất nào.

- Thủ trưởng yên tâm, nếu bè vỡ thì cứ chặt chín ngón tay của tôi đi!

Lỗ Lập Nhân nói:

- Không nhất thiết phải như thế, nếu bè vỡ thì có chặt cả mười ngón tay của tôi cũng vô dụng.

Mẹ dẫn đội ngũ của mẹ trèo lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân chạy tới đón, rất khách sáo:

- Bà ơi, bà đợi một lát, họ ra ngay bây giờ!

Anh ta cúi xuống làm thân với Lỗ Thắng Lợi, nhưng nó sợ, khóc toáng lên. Lỗ Lập Nhân lúng túng sửa lại dây kính thay cho gọng, nói:

- Con bế này, ngay cả bố đẻ nó cũng không nhận ra!

Mẹ thở dài:

- Rể! Năm nay, các anh cứ quần nhau như vậy biết khi nào mới thôi?

Lỗ Lập Nhân đã có chủ ý, nói:

- Bà mẹ yên tâm, lâu là ba năm, chóng là hai năm, mẹ có thể sống trong hòa bình rồi!

Mẹ nói:

- Tôi là đàn bà, lẽ ra không nên nhiều lời, liệu anh có tha cho họ không? Nói gì thì nói, các anh là anh em cọc chèo với nhau.

Lỗ Lập Nhân cười:

- Nhạc mẫu ơi, tôi không có quyền, ai bảo mẹ chiêu mộ những chàng rể không yên phận ấy làm gì?

Nói xong, anh ta lại cười. Tiếng cười của Lỗ Lập Nhân làm dịu bớt không khí trang nghiêm trên đê.

Mẹ bảo:

- Anh nói với quan trên của anh, tha cho họ.

Lỗ Lập Nhân nói:

- Gieo gió gặt bão, trồng tật lê thì đừng sợ gai đâm vào tay. Mẹ vợ ơi xin mẹ đừng bận tâm làm gì!

Các vệ binh áp giải Tư Mã Khố, Bác-bít và Niệm Đệ từ ngõ lên đê. Tư Mã Khố bị trói giật cánh khuỷu bằng thừng. Bác-bít thì hai tay bị trói ra phía trước bằng một đoạn xà cạp. Niệm Đệ không bị trói. Một vệ binh bước tới ngáng đường bị Tư Mã Khố nhổ nước bọt vào mặt, quát:

- Tránh ra, để ta từ biệt người nhà của ta!

Lỗ Lập Nhân bắt tay làm loa nói to về phía ngõ:

- Tư lệnh Tư Mã, đừng vào đấy nữa. Họ ở cả đây rồi?

Tư Mã Khố làm như không nghe tiếng cứ ưỡn ngực bước vào nhà tôi, theo sau là Bác-bít và Niệm Đệ. Họ loay hoay trong sân nhà tôi rất lâu. Lỗ Lập Nhân chốc chốc lại xem đồng hồ. Bờ bên kia đội áp giải liên tục phất cờ hồng, đánh tín hiệu sang bên này. Thông tin viên bên này cũng phất cờ, đánh tín hiệu trả lời. Động tác của họ luôn thay đổi, chúng tỏ nghiệp vụ rất thành thạo.

Bọn Tư Mã Khố rồi cũng ra khỏi nhà tôi, trèo rất nhanh lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân hạ lệnh:

- Cho bè hạ thủy! Mười mấy tên lính hè nhau bẩy chiếc bè xuống nước. Mặt nước chấn động mạnh, chiếc bè chìm xuống rồi từ từ nổi lên. Nước ven bờ chảy chậm, chỉ làm cho bè dập dềnh. Mấy binh sĩ níu chặt dây neo bè bằng vải xà cạp phòng chiếc bè bị nước cuốn đi. Lỗ Lập Nhân nói:

- Tư lệnh Tư Mã, ông Bác-bít, quân đội chúng tôi chí nhân chí nghĩa, thể tất tình người nên mới cho phép các ông chia tay với người nhà, mong các ông gặp phiên phiến thôi!

Tư Mã Khố, Bác-bít, chị Niệm Đệ đi tới trước mặt chúng tôi. Tư Mã Khố mặt mày vui vẻ, Bác-bít đầy vẻ lo âu. Chị Niệm Đệ nét mặt nặng nề và trang nghiêm như một kẻ tử vì đạo. Lỗ Lập Nhân nói khẽ:

- Dì Sáu, dì có thể ở lại. Chị Niệm Đệ lắc đầu tỏ ý nhất quyết đi cùng chồng.

Mẹ bỏ vuông vải dậy làn ra. Sa Tảo Hoa đưa tới một củ hành đã lột vỏ. Mẹ bẻ củ hành làm hai, gói trong một miếng bánh bột mì trắng, sau đó lấy từ trong làn một bát tương ớt, đưa cho Tư Mã Lương, bảo:

- Lương, bê cái bát này! Tư Mã Lương đón cái bát, ngẩn nhìn mẹ. Mẹ nói:

- Đừng nhìn bà, hãy nhìn cha cháu đi!

ánh mắt của Tư Mã Lương chuyến sang Tư Mã Khố. Tư Mã Khố cúi nhìn đứa con trai khỏe mạnh, đen như củ súng, một thoáng buồn lướt trên khuôn mặt chữ điền xưa nay chưa hề biết thế nào là buồn tủi. Anh ta nhích vai một cái có lẽ định giơ tay xoa đầu đứa con. Tư Mã Lương mở miệng gọi khẽ:

- Bố ơi!

Tư Mã Khố chớp chớp cặp mắt có con ngươi vàng, đẩy nước mắt xuống khoang mũi và họng. Anh ta đá nhẹ vào mông Tư Mã Lương, nói:

- Con yêu, hãy nhớ rằng, dòng họ nhà Tư Mã chúng ta không ai chết trên giường, con cũng phải như thế.

Tư Mã Lương hỏi:

- Bố ơi, liệu họ có bắn bố không?

Tư Mã Khố liếc nhìn dòng sông đục ngầu, nói:

- Bố thua thiệt vì bố giữ chữ nhân. Con nên nhớ rằng muốn làm kẻ ác thì phải lòng lim dạ sứa, giết người không ghê tay? Muốn làm người thiện thì đi đường cũng tránh dẫm phải kiến. Tuyệt đối không nên làm con dơi, chim không ra chim, thú không phải thú. Con nhớ chưa?

Tư Mã Lương cắn môi, nghiêm trang gật đầu.

Mẹ đưa chiếc bánh đã cuốn hành cho chị Lai Đệ. Chị cầm lấy, ngẩn người nhìn mẹ. Mẹ bảo:

- Con đút cho anh ấy ăn! Chị ngượng, chị chưa quên cái đêm hai người cuồng hoan cách đây ba hôm, chắc hẳn thế, vì cái ngượng của chị là ngượng trong hạnh phúc. Mẹ nhìn chị, lại nhìn Tư Mã Khố, ánh mắt mẹ như con thoi, móc hai người lại với nhau. Sự giao lưu băng ánh mắt giữa hai người còn nhiều hơn nói ngàn vạn lời! Chị Lai Đệ cởi bỏ áo khoác màu đen, bên trong chị mặc áo chẽn màu hồng, quần hồng viền đăng ten, đôi giày thêu hoa cũng màu hồng, thân hình yểu điệu, khuôn mặt thanh tú. Tư Mã Khố chữa khỏi cho chị chứng khùng, nhưng chị lại rơi vào bệnh tương tư. Chị vẫn đẹp, một phụ nữ góa chồng đầy quyến rũ. Tư Mã Khố đắm đuối nhìn chị, nói:

- Chị cố gắng giữ gìn nhé!

Chị Lai Đệ nói một câu chẳng ăn nhập vào đâu:

- Anh là mũi khoan kim cương, hắn là cây gỗ mục! Chị đến trước mặt Tư Mã Khố, chấm miếng bánh vào bát tương ớt trong tay Tư Mã Lương, để tiếng khỏi rớt, chị múa cổ tay hai ba vòng rồi đưa đến trước miệng Tư Mã Khố. Như một con ngựa, Tư Mã Khố hất đầu lên một cái, rồi cúi xuống há miệng cắn một miếng. Anh ta nhai một cách khó nhọc, phồng hai má vì đầy thức ăn, hai giọt nước mắt to tướng lăn trên má. Anh ta vươn cổ ra nuốt đánh ục, miệng hít hà:

- Hành cay đến là cay!

Mẹ đưa cho tôi một chiếc bánh, đưa cho chị Tám một chiếc, lại đưa cho chị Sáu một chiếc, tất cả đã quấn hành. Mẹ bảo:

- Kim Đồng, con đút cho chồng chị Sáu. Ngọc Nữ, con đút cho chị Sáu.

Tôi bắt chước chị Lai Đệ, chấm bánh trong bát tương ớt của Tư Mã Lương, rồi đưa đến trước miệng Bác-bít. Bác-bít trễ môi trông rất khó coi, ghé răng cắn một tí bánh, những giọt nước mắt long lanh rơi lã chã. anh ta cúi xuống, ghé miệng còn dính tương ớt lên trán tôi hôn một cái rõ kêu. Rồi anh đi tới bên mẹ, tôi đoán là anh định ôm hôn mẹ, nhưng tay bị trói, đành phải cúi xuống hôn vào trán mẹ, môi dẩu ra như con dê bứt lá cây. Anh nói:

- Mẹ ơi, con không bao giờ quên mẹ!

Chị Tám mò mẫm đến trước mặt Tư Mã Lương để chấm bánh. Tư Mã Lương giúp chị. Chị cầm bánh băng hai tay, trán bóng như mai cua, mắt sâu thăm thẳm, mũi cao miệng rộng, đôi môi chúm chím như nụ hoa hồng. Chị Tám mà xưa nay vẫn bị tôi rẻ rúng thật đáng thương. Chị thì thào:

- Chị Sáu ăn đi!...

Chị Sáu nước mắt như suối, ôm chị Tám nức nở:

- Cô em tội nghiệp của chị...

Tư Mã Khố đã ăn hết một cái bánh. Lỗ Lập Nhân trước sau vẫn đứng bên, quay mặt ra ngoài sông nhìn sang bờ bên kia. Lúc này, anh ta quay lại nói:

- Thôi, xin mời lên bè!

Tư Mã Khố nói:

- Không được, tôi chưa ăn xong. Xưa kia mỗi khi quan phủ chém phạm nhân đều cho ăn no rồi mới chém. Trung đoàn 17 các anh là trung đoàn nhân nghĩa, chắc hẳn phải cho tôi ăn một bữa no chứ? Huống hồ đây là bữa bánh do mẹ vợ chúng ta làm.

Lỗ Lập Nhân nhìn đồng hồ nói:

- Thôi được, ông cứ ăn cho căng bụng. Tôi cho ngài Bác-bít sang trước.

Thằng Câm và sáu binh sĩ tay cầm xẻng gỗ làm bơi chèo, thận trọng bước lên bè. Chiếc bè dập dềnh, chao đảo choán nước rất nhiều, nước tràn trên mặt bè. Hai binh sĩ giữ dây neo, ngửa người ra sau để ghìm chiếc bè lại.

Lỗ Lập Nhân lo lắng, hỏi ông già Tôn:

- Cụ ơi, thêm hai người nữa được không?

Ông già đáp:

- Hầy, theo lão thì nên bớt đi hai người chèo. Lỗ Lập Ngôn ra lệnh:

- Hàn hói, Phan Vĩnh Vượng, hai người lên bờ!

Hàn và Phan chống xẻng nhảy ra khỏi bè. Chiếc bè chòng chành, người trên bè đứng không vững, suýt ngã xuống nước. Thằng Câm cởi trần, chỉ mặc mỗi quần đùi cứng như mo nang, gầm lên:

- Cởi, cởi, cởi!

Từ hôm ấy trở đi, hắn không à uôm nữa.

- Được chưa? Lỗ Lập Nhân hỏi ông già Tôn.

Ông già đáp:

- Được rồi!

Ông cầm lấy chiếc xẻng trong tay một binh sĩ, nói:

- Quí quân nhân nghĩa khiến lão rất phục! Năm Dân quốc thứ Mười, lão đã từng đưa một vị nghị sĩ qua sông. Nếu trưởng quan không chê thì lão đem thân trâu ngựa ra giúp!

Lỗ Lập Nhân xúc động nói:

- Cụ ơi, đây là điều tôi muốn nhờ nhưng ngại chưa dám mở miệng. Cụ mà điều khiển thì coi như yên tâm. Ai có rượu đấy không?

Lính cần vụ chạy tới, đưa cho Lỗ Lập Nhân chiếc bi đông bẹp dúm. Anh ta xoay nút mở ra, ghé mũi ngửi, nói:

- Rượu cao Lương chính hiệu! Cụ ơi, tôi đại diện cho thủ trưởng quân khu mời cụ một chén.

Anh ta hai tay cầm bi đông đưa cho ông già Tôn. Ông già cũng xúc động, phủi bụi trên cánh tay đón lấy bi đông rượu, òng ọc một hơi mười mấy ngụm rồi đưa trả bi đông cho Lỗ Lập Nhân. Ông quệt mép bằng mu bàn tay, từ mặt đỏ đến cổ, từ cổ đỏ đến ngực.

- Thưa trưởng quan, uống rượu này của trưởng quan, trái tim tôi đã gắn với trưởng quan rồi!

Lỗ Lập Nhân vừa cười vừa nói:

- Đâu chỉ có trái tim? Mà là gan liền gan, phổi liền phổi, ruột liền ruột.

Ông già ứa nước mắt, nhảy vọt lên cuối bè một cách vững vàng. Chiếc bè khẽ chòng chành. Lỗ Lập Nhân gật đầu tán thưởng.

Lỗ Lập Nhân đến trước mặt Bác-bít nhìn hai tay bị trói của anh ta, cười gượng:

- Tội cho ông quá, ông Bác-bít, ông được Chủ nhiệm Hòa Trọng thuộc Tư lệnh quân khu chỉ đích danh, chắc chắn ông sẽ được đối xử đúng nghi lễ.

Bác-bít giơ hai tay lên:

- Có nghi lễ này không?

Lỗ Lập Nhân thản nhiên nói:

- Đây cũng là một nghi lễ, mong ông bỏ quá cho. Xin mời, ông Bác-bít!

Bác-bít nhìn chúng tôi một thoáng, dùng ánh mắt để từ biệt. Rồi anh bước những bước dài, leo lên bè. Chiếc bè chòng chành rất dữ khiến anh ta loạng choạng đứng không vững. Ông già Tôn dùng chiếc mai gỗ chống đít anh ta cho khỏi ngã.

Chị Niệm Đệ cũng bắt chước Bác-bít, vụng về hôn trán tôi rồi hôn trán chị Tám. Chị giơ những ngón tay thanh mảnh gỡ những lọn tóc rối như búi sợi của chị Tám, than thở:

- Em yêu, trời sẽ phù hộ em!

Rồi chị gật đầu với mẹ và lũ trẻ lau nhau đứng sau lưng mẹ, quay lại bước lên bè. Lỗ Lập Nhân lại khuyên:

- Dì Sáu, dì không nhất thiết phải đi!

Niệm Đệ ôn tồn nói:

- Anh rể, tục ngữ có câu cán cân đâu quả cân đấy, chồng không thể rời vợ, anh và chị Năm chẳng phải như hình với bóng đó sao?

Lỗ Lập Nhân nói:

- Tôi là tôi muốn điều tốt cho dì. Thôi, để cho dì được toại nguyện, mời lên bè!

Tư Mã Khố làm bộ đã no, nói: - No rồi! Xin cảm ơn mẹ? Cảm ơn chị Cả, cảm ơn các em Kim Đồng Ngọc Nữ? Cảm ơn con, con đã bê bát tương ớt cho bố? Phượng ơi, Hoàng ơi, hãy nghe lời bà ngoại và bác Cả. Có gì khó khăn thì đi gặp dì Năm. Dì đang gặp vận đỏ, còn bố các con thì đang trong vận đen. Cậu Kim Đồng, hay ăn chóng lớn nhá. Khi còn sống, chị Hai rất yêu em, chị thường nói với anh rằng, em sẽ nên người! Em đừng phụ lòng chị Hai nhá?

Tôi thấy sống mũi cay cay trước những lời của anh. Chiếc bè đã cặp bờ, ngồi giữa bè là một tiểu đầu mục gân bắp cuồn cuộn. Anh ta nhẹ nhàng nhảy xuống, giơ tay chào Lỗ Lập Nhân theo điều lệnh. Lỗ Lập Nhân cũng chào lại rất khách sáo, rồi hai người nhiệt liệt bắt tay nhau, xem ra họ là bạn cũ. Người kia nói:

- Lão Lỗ, trận này thắng ròn rã, tư lệnh Phùng rất vui, chính ủy Lệ cũng biết tin rồi!

Anh ta lấy từ xắc cốt đeo bên người một phong thư đưa cho Lỗ Lập Nhân. Lỗ cầm lấy bức thư, nhét khẩu súng lục mạ bạc vào xắc cốt của anh ta, nói:

- Chiến lợi phẩm đấy, đem về cho con Vu nó chơi!

- Tôi thay mặt con nhỏ cảm ơn anh. - Tiểu đầu mục nói.

Lỗ Lập Nhân chìa tay nói với người kia:

- Đưa đây!

Người kia ngẩn ra, hỏi:

- Đưa gì cơ?

Lỗ Lập Nhân nói:

- Giải tù binh của tôi đi thì phải cho tôi cái giấy biên nhận chứ!

Người kia lấy giấy bút trong xà cột ra, viết vội mấy dòng rồi đưa cho Lỗ Lập Nhân:

- Huynh anh chắc lép quá!

Lỗ Lập Nhân cười:

- Con khỉ Tôn Ngộ Không có ranh mãnh đến mấy cũng không qua được bàn tay Đức Phật Như Lai!

Người kia nói:

- Vậy thì tôi là con khỉ Tôn Ngộ Không hay sao?

Lỗ Lập Nhân nói:

- Chính tôi là con khỉ!

Hai người thụi nhau một cái rồi cười ha hả. Người kia nói nhỏ:

- Lão Lỗ, nghe nói anh thu được một bộ máy chiếu phim? Quân khu đã biết rồi!

Lỗ Lập Nhân nói:

- Tai các anh dài thật. Về thưa lại với thủ trưởng quân khu là đợi nước rút, tôi sẽ cho người đưa lên!

Tư Mã Khố rủa thầm: - Mẹ nó, ki cóp cho cọp nó xơi!

Người kia tỏ vẻ khó chịu, hỏi:

- Anh nói gì vậy?

Tư Mã Khố nói:

- Chẳng nói gì cả!

Người kia nói:

- Nếu tôi đoán không lầm, thì anh chính là Tư Mã Khố khét tiếng gần xa, là Tư lệnh Chi đội Tư Mã.

Tư Mã Khố nói: - Chính tôi!

Người kia nói:

- Ông Tư lệnh này, dọc đường chúng tôi sẽ chăm sóc ông chu đáo, mong ông phối hợp với chúng tôi cho tốt, chúng tôi rất không muốn khiêng xác ông về quân khu!

Tư Mã Khố cười:

- Không dám, đội áp giải các ông toàn là những tay súng cừ khôi, tôi không muốn làm tấm bia sống cho các ông!

Người kia nói:

- Đúng là hảo hán! Vậy nhé, đoàn trưởng Lỗ. Nào, mời Tư lệnh lên bè!

Tư Mã Khố thận trọng bước lên bè, thận trọng ngồi xuống giữa. Tiểu đầu mục trong đội áp giải bắt tay Lỗ Lập Nhân rồi lên bè. Anh ta ngồi phía cuối, đối diện với Tư Mã Khố, tay đặt trên báng súng ở thắt lưng. Tư Mã Khố nói:

- Ông không cần phải cẩn thận đến như thế, tôi hai tay bị trói, nhảy xuống sông chỉ có mà chết đuối! Ông ngồi gần tôi một tí, khi bè chòng chành giữ tôi khỏi lăn xuống nước.

Người kia không làm theo lời Tư Mã Khố, chỉ giục đám lính:

- Chèo mau lên?

Cả nhà tôi đứng tụm lại một chỗ, giấu kín một điều bí mật, nóng lòng chờ đợi kết cục.

Chiếc bè rời bờ, nước lên rất thuận. Hai binh sĩ kéo bè chạy ngược theo bờ sông, vừa chạy vừa thả từng vòng dây neo trên cánh tay.

Bè ra đến giữa sông, nước chảy rất mạnh, mép bè sóng ngầu bọt. Ông già Tôn hô nhịp cho các binh sĩ gò lưng mà chèo, những con hải âu bay rất thấp trên đầu họ. Đến đoạn nước xiết, chiếc bè chòng chành dữ đội, ông già Tôn bật ngửa văng xuống nước. Tiểu đầu mục lóng ngóng đứng lên định rút súng ra thì Tư Mã Khố cựa đứt tung dây trói, chồm lên anh ta như hổ vồ mồi. Hai người lăn xuống dòng nước chảy xiết giữa lòng sông. Thằng Câm và những binh sĩ trên bè cuống cả lên, lần lượt nhảy xuống nước. Chiếc bè như một con cá khống lồ, vùn vụt lao về phía hạ lưu.

Tất cả những chuyện đó gần như xảy ra cùng một lúc.

Đến khi Lỗ Lập Nhân và các binh sĩ trên bờ có phản ứng thì trên bè đã không còn ai.

- Bắn chết hắn đi! - Lỗ Lập Nhân ra lệnh dứt khoát. Giữa dòng nước đục ngầu, thỉnh thoảng một cái đầu nhô lên, nhưng các binh sĩ không thể nhận ra đầu nào là của Tư Mã Khố nên không dám nổ súng. Tất cả có chín người rớt xuống nước, mỗi lần có đầu nhô lên, khả năng đó là đầu Tư Mã Khố chỉ là một phần chín, chưa nói gì đến nước chảy xiết như thế, bắn trúng là rất khó. Tư Mã Khố đã trốn thoát, đó là điều chắc chắn? Anh ta sinh ra và lớn lên bên sông Thuồng Luồng, bơi lội như rái cá, lặn dưới nước mười phút mới cần ló đầu lên lấy hơi. Huống hồ anh ta vừa đánh một bữa căng bụng. Lỗ Lập Nhân tái mặt, mắt tối sầm, nhìn từng người chúng tôi. Tư Mã Lương vẫn bê bát tương ớt trên tay, làm bộ khiếp hãi, nép vào chân mẹ.

Mẹ không nói câu nào, bế Thắng Lợi trên tay đi xuống chân đê, chúng tôi líu ríu đi theo.

Mấy hôm sau chúng tôi nghe tin chỉ có ông già Tôn và Thằng Câm là bơi được vào bờ, những người khác mất tích, nếu còn sống thì không thấy người, nếu đã chết thì không thấy xác, nhưng tất cả mọi người đều hiểu rằng Tư Mã Khố đã trốn thoát, dứt khoát anh ta không chết đuối, những người khác hiển nhiên là chết cả, trong đó có anh chàng tiểu đầu mục áp giải tù binh. 

25 

 Mùa thu rục rỡ của vùng Cao Mật, nước lũ mênh mông cuối cùng rút đi. Những vạt cao lương đỏ một màu đỏ-đen, những vạt hoa lau trắng một màu trắng-vàng. Nắng sớm trải trên cánh đồng mênh mông lởn vởn làn sương nhẹ. Toàn bộ binh mã của trung đoàn 17 lặng lẽ chuyển quân. Họ dắt lừa dắt ngựa nhón bước qua cây cầu mục nát trên sông Thuồng Luồng rồi khuất sau con đê ngoại vi Hà Bắc, không bao giờ còn thấy bóng dáng của họ nữa.


Đại đội binh mã của trung đoàn 17 rút đi, nguyên trung đoàn trưởng của nó là Lỗ Lập Nhân thì chuyển ngành, giữ chức vụ huyện trưởng kiêm đại đội trưởng dại đội của huyện Cao Mật mới thành lập. Thượng Quan Phán Đệ được bổ nhiệm làm khu trưởng khu Đại Lan, Thằng Câm được đề bạt làm tiểu đội trưởng tiểu đội của khu. Thằng Câm dẫn tiểu đội đến nhà Tư Mã Khố, khuân hết bàn ghế giường tủ của nhà Tư Mã chia cho các nhà trong thôn, nhưng ban ngày chia cho thì ban đêm họ lại đem trả ở cổng nhà Tư Mã. Thằng Câm sai người khênh đến nhà tôi một cái giường chạm trổ rất đẹp.

Mẹ bảo:

- Tôi không cần, khiêng về đi!

Thằng Câm bảo: - Cởi, cởi, cởi!

Mẹ quay sang bảo chị Phán Đệ:

- Con đem cái giường đi cho mẹ?

Trưởng khu Phán Đệ nói:

- Mẹ ơi, đây là phong trào, mẹ không nên từ chối?

Mẹ nói:

- Phán Đệ, Tư Mã Khố là chồng của chị Hai, mẹ đang nuôi con trai và con gái chúng nó ở đây. Rồi đây khi trở về nó sẽ nghĩ thế nào!

Những lời của mẹ khiến chị Phán Đệ suy nghĩ. Chị bỏ cái tất đang mạng dở xuống, dắt theo khẩu súng lục, vội vã đi ra cổng. Tư Mã Lương lén đi theo, trở về nói:

- Dì Năm lên huyện!

Tư Mã Lương còn nói, có một cỗ kiệu hai người khiêng, ngồi kiệu là một nhân vật cỡ bự, mười tám lính cầm súng đi bảo vệ. Huyện trưởng Lỗ trông thấy ông ta run cầm cập như chuột thấy mèo, cung kính như Tôn Tử gặp ông nội. Nghe nói ông này là chuyên gia nổi tiếng về cải cách ruộng đất.

Thằng Câm dẫn một số người đến khiêng cái giường đi.

Mẹ thở dài cất được gánh nặng. Tư Mã Lương nói:

- Ngoại ơi, ta chạy thôi! Cháu cảm thấy có chuyện lớn sắp xảy ra!

Mẹ nói:

- Phúc hay họa, là họa thì có chạy cũng không thoát! Lương này, con cứ yên tâm đi, dù thiên binh thiên tướng xuống trần thì cũng chẳng làm gì mẹ góa con côi nhà mình!

Nhân vật cỡ bự chưa thấy ló mặt. Trước cổng nhà Tư Mã có hai lính bồng súng đứng gác, các cán bộ huyện, khu ra vào như mắc cửi.

Một hôm, khi chúng tôi đi chăn dê về, gặp tiểu đội của khu và mấy cán bộ huyện, khu áp giải ông bán quan tài Hoàng Thiên Phúc, thợ đắp lò Triệu Giáp, chủ hiệu dầu Hứa Bảo, chủ hiệu dầu thơm Kim- Một-Vú, giáo viên tư thục Tần Nhị, đi trên đường. Những người bị bắt mặt mày ủ rũ. Triệu Giáp vươn cổ cãi

- Anh em ơi, thế này là thế nào? Nợ tôi cả bao tiền mà lại sổ toẹt là thế nào!

Một người nói giọng vùng Ngũ Liên, răng đồng vàng chóe, giang thẳng cánh tát Triệu Giáp một cái tát nảy lửa, chửi:

- Đ. mẹ mày! Ai nợ mày cả bao tiền? Tiền của mày từ đâu mà có?

Những người bị áp giải không dám hé răng, lùi lùi bước đi, đầu cúi gằm. Đêm, mưa lạnh rả rích. Một bóng người vượt qua tường, mẹ trầm giọng hỏi:

- Ai đấy!

Người đó bước nhanh mấy bước, quì xuống lối đi, nói:

- Thím ơi, cứu tôi mấy!

Mẹ hỏi:

- Có phải ông Cả đấy không?

Tư Mã Đình nói:

- Chính tôi, thím ơi, thím cứu tôi mấy! Ngày mai họ họp mít tinh xử bắn tôi? Chỗ dân làng với nhau, thím cứu cái mạng chó của tôi mấy?

Mẹ rên lên, mở cửa buồng, Tư Mã Đình lẻn vào. Ông ta run cầm cập trong bóng tối, nói:

- Thím ơi, cho tôi ăn chút gì đi, tôi đói chết mất!

Mẹ đưa cho ông ta cái bánh, ông ta vồ lấy nhai ngấu nghiến. Mẹ thở dài. Tư Mã Đình nói:

- Hừ, chỉ trách thằng Hai nhà tôi gây thù chuốc oán với Lỗ Lập Nhân. Thực ra họ còn là thân thích với nhau nữa đấy!

Mẹ nói: - Đừng nói nữa, đừng nói gì nữa, ông trốn vào trong này đi, hay dở gì thì tôi cũng là mẹ vợ của anh ấy!

Nhân vật bí ẩn, cuối cùng đã xuất hiện. Ông ta ngồi chính giữa mái che, tay trái nghịch chiếc nghiên mực màu chu sa, tay phải nghịch cây bút lông. Trên cái bàn trước mặt ông ta có bày một nghiên mực cỡ đại, chạm trổ rồng phượng. Nhân vật bự đeo kính gọng đen, hai má gần như không có thịt, cằm nhọn hoắt, mũi gầy nhọn, cặp mắt ti hí lấp lánh sau cặp kính. Ngón tay vờn trên nghiên vừa mảnh vừa dài, trắng như bột.

Hôm ấy, đại biểu của những người nghèo nhất ở mười tám thôn trấn vùng Cao Mật chen chúc trên một nửa sân phơi nhà Tư Mã. Xung quanh đoàn người, ba bước một trạm gác, năm bước một trạm tuần tra, đều do đại đội trên huyện và tiểu đội trên khu đảm nhiệm. Mươi tám vệ sĩ đứng trên bục đất, người nào cũng mặt lạnh như tiền, đằng đằng sát khí, y hệt mười tám La hán trong truyền thuyết. Phía dưới im phăng phắc, những đứa trẻ đã biết sợ thì không dám khóc, những đứa chưa biết sợ thì vừa oe lên là mẹ chúng nhét vú vào miệng.

Chúng tôi ngồi vây quanh mẹ. Khác với những người nhớn nhác xung quanh, mẹ bình tĩnh đến kinh người, chăm chú xe chỉ để khâu đế giày. Những tơ gai trắng lăn tròn trên bắp dùi mẹ, săn vào nhau đều đặn dài ra mãi. Hôm ấy trời lạnh, gió đông bắc như cắt vào da thịt, hơi nước từ ngoài sông Thuồng Luồng tràn vào, những người trên sân phơi run lập cập.

Trước khi đại hội chính thức khai mạc, có sự lộn xộn phía ngoài sân. Thằng Câm và mấy đội viên của tiểu đội khu áp giải Hoàng Thiên Phúc, Triệu Giáp... cộng mười tám người đợi phía ngoài sân phơi. Những người bị giải đều bị trói theo kiểu trọng tội, sau gáy cắm lá chỉ bài, gạch chéo đỏ trên chữ đen. Trông thấy những người này, dân chúng vội cúi đầu xuống, không ai dám bàn tán nửa câu.

Nhân vật bự ngồi bệ vệ trên ghế, đưa mắt nhìn một lượt những người trên sân. Mọi người rụt cổ lại, chỉ sợ ông ta nhìn thấy mặt mình. Trước sự uy hiếp của nhân vật bự, mẹ vẫn thản nhiên xe chỉ, làm như dồn hết tâm trí vào đó. Tôi cảm thấy rất rõ rằng: ánh mắt của nhân vật bự dừng lại trên khuôn mặt mẹ tôi khá lâu.

Lỗ Lập Nhân buộc chiếc khăn đen trên đầu, diễn thuyết một hồi trước đám đông, nước bọt bắn tung tóe. Anh ta bị chứng đầu thống, mặt luôn đỏ quạch ánh lên sau cặp kính như nụ hoa hồng. Nói xong, anh ta đến bên nhân vật bự xin chỉ thị. Nhân vật bự chậm rãi đứng lên. Lỗ Lập Nhân nói:

- Hoan nghênh đồng chí Trương Sinh chỉ thị cho chúng ta.

Anh ta vỗ tay trước, dân chúng ngơ ngác nhìn lên bục, không hiểu ý tứ ra sao.

Nhân vật bự đằng hắng một tiếng, chậm rãi, mỗi tiếng đều kéo dài ra y như những sợi mì kéo của mục sư Malôa năm xưa. Giọng ông ta lê thê như lá cờ phướn bay lượn trong gió đông bắc. Trong suốt mấy chục năm, mỗi khi nhìn thấy lá cờ phướn bằng giấy trắng viết tên tuổi người chết trong buổi lễ cầu hồn, tôi lại nhớ lần nói chuyện của nhân vật bự. Những lời của ông ta bay lượn trong gió như lá cờ phướn. Ông ta ngồi xuống đã lâu mà lá cờ ấy vẫn bay lượn, thậm chí còn nghe thấy tiếng nghiến răng kèn kẹt trong đó.

Tiếp theo, Lỗ Lập Nhân ra lệnh, Thằng Câm và những đội viên của tiểu khu và mấy cán bộ súng pạc-hoọc đeo trễ đít, giải những người bị trói lên bục. Họ đứng chật cả cái bục, che khuất tầm nhìn lên khán đài của những người dưới sân. Lỗ Lập Nhân ra lệnh:

- Quì xuống!

Trong số họ, người hiểu thì quì ngay, người còn đứng lớ ngớ thì bị đá vào khoeo chân, khuỵu xuống.

Những người đứng dưới sân đều cúi đầu, đưa mắt nhìn sang hai bên. Người nào dám mạnh dạn nhìn lên thì lại vội cúi đầu xuống khi trông thấy những giọt nước mũi chảy dài từ chóp mũi những người đang quì. Mẹ không xe chỉ nữa, kéo ống quần xuống che bắp đùi lạnh tím, thở dài. Lúc này, một người gầy gò rụt rè đứng lên, cất giọng khàn khàn run rẩy nói:

- Thưa bà trưởng khu, tôi có chuyện oan ức muốn tố cáo...

- Tốt! - Chị Phán Đệ phấn khởi kêu lên: - Đừng sợ, có chuyện oan ức thì nói, chúng tôi sẽ giải oan cho anh!

Quần chúng đều nhìn về phía người gầy. Đó là Thằng Gật. Chiếc áo ngoài của anh ta đã rách như tổ đỉa, thậm chí một ống tay áo gần như mất hẳn, bờ vai đen đủi lộ hẳn ra ngoài. Đường ngôi vốn thẳng như kẻ chỉ, bây giờ rối như tổ quạ. Anh ta run lẩy bầy trước gió lạnh, cặp mắt mờ đục lo ngại nhìn ra xung quanh.

- Lên trên này mà nói - Lỗ Lập Nhân nói.

- Chuyện thì không lớn - Thằng Gật nói - tôi đứng dưới này nói cũng được!

- Lên đi - Phán Đệ giục - Anh tên là Trương Đức Thành phải không? Tôi nhớ là mẹ anh từng xách làn đi ăn xin, khổ lớn thù sâu mà, lên kể đi!

Trương Đức Thành hai chân ríu vào nhau, lẩy bẩy ra khỏi đám người đang chú mục nhìn anh ta. Cái bục đất cao một thước, anh ta nhảy lên nhưng bị trượt, đất bám đầy ngực. Một vệ sĩ đứng trên bục cúi xuống thò tay lôi anh ta lên. Hai chân anh ta như đứng trên lò xo, lắc lư một hồi mới dừng lại. Anh ta nhìn xuống dưới thấy bao nhiêu ánh mắt phức tạp đang nhìn mình thì bủn rủn cả tay chân, mặt nổi lên từng đám màu xám nhạt, lắp bắp hồi lâu không nói được câu nào. Anh ta định chạy xuống thì Phán Đệ với thân hình to béo, khỏe không kém đàn ông, túm lấy vai đẩy ngược lại khiến anh ta loạng choạng suýt ngã. Anh ta trông rất thảm hại, van xin:

- Bà trưởng khu tha cho tôi, tôi chỉ là một cái rắm, bà hãy tha cho tôi?

Phán Đệ nói:

- Trương Đức Thành, anh sợ gì cơ chứ?

Trương Đúc Thành nói:

- Tôi sống độc thân, quanh ra quanh vào chỉ có một mình, chẳng sợ cái gì hết?

Phán Đệ nói:

- Chẳng có gì làm anh sợ, vậy tại sao anh không nói?

Trương Đức Thành nói:

- Chuyện chẳng to tát gì, thôi không nói nữa.

Phán Đệ nói:

- Anh tưởng đây là chuyện đùa hay sao?

Trương Đức Thành nói:

- Xin bà đừng nổi nóng để tôi nói. Hôm nay tôi coi như không có cái mạng tôi được chưa?

Trương Đức Thành đi đến trước mặt thầy giáo Tần, nói:

- Thầy Nhị, ông cũng coi là có học, cái hồi tôi học ông, đã có lần tôi ngủ gật, đúng không? Ông đã dùng thước kẻ đánh dập bàn tay tôi, còn đặt biệt hiệu cho tôi, khi ấy ông nói những gì, ông còn nhớ không?

- Hãy trả lời đi! - Phán Đệ nói to.

Thầy giáo Tần ngẩng lên, bộ râu vểnh ra phía trước như râu dê, lẩm bẩm:

- Lâu quá rồi, không nhớ

- Tất nhiên là ông không nhớ, nhưng tôi thì nhớ cho đến lúc chết - Thằng Gật hăng lên, lời lẽ bắt đầu trôi chảy. - Ông già, khi ấy ông nói như vầy: Trương Đức Thành cái gì anh, tôi gọi anh là Thằng Gật. Chỉ một câu ấy của ông mà suốt đời tôi mang cái tên Thằng Gật. Ông già gọi tôi là Thằng Gật, bà lão gọi tôi là Thằng Gật. Ngay cả những đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch cũng gọi tôi là Thằng Gật? Vì gánh trên lưng cái biệt hiệu ấy mà đến nay ba mươi tám tuổi tôi vẫn chưa vợ! Ông nghĩ coi, ai đời lại gả con gái cho Thằng Gật! Khốn nạn thân tôi, rủi ro suốt đời vì cái biệt hiệu này?

Cơn xúc động dâng lên, Thằng Gật nước mắt nước mũi ràn rụa. Tay cán bộ huyện có hàm răng đồng túm tóc hoa râm của thầy giáo Tần giật ngược để thầy ngửa mặt lên, bộ râu dê rung rung.

- Nói? - Tay cán bộ huyện nghiêm giọng hỏi - Trương Đức Thành tố cáo có đúng không?

- Đúng, đúng ạ! - Thầy giáo Tần vâng dạ luôn miệng.

Tay cán bộ huyện dúi tay một cái, ấn đầu thầy xuống, miệng thầy đầy đất.

- Tiếp tục tố cáo - Cán bộ huyện nói.

Thằng Gật dùng mu bàn tay dụi mắt, vắt mũi bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ rồi vẩy một cái, mũi dãi như một bãi cứt chim bay vèo tới nóc rạp. Nhân vật bự cau mày ngán ngẩm, rút khăn tay lau kính. Ông ta lạnh lùng như một hòn đá tảng. Thằng Gật nói:

- Tần Nhị, ông còn nhớ khi Tư Mã Khố học ông, hắn bắt cóc bỏ vào lọ của ông, đặt vè chửi ông rồi trèo lên dầm nhà mà đọc, ông có đánh hắn roi nào không? Có chửi hắn câu nào không có đặt biệt hiệu cho hắn không?

- Không, không, hoàn toàn không!

- Hay lắm! - Phán Đệ phấn khởi nói - Trương Đức Thành đã tố ra một vấn đề sâu sắc. Vì sao Tần Nhị không phạt Tư Mã Khố? Vì Tư Mã Khố nhiều tiền! Tiền của gia đình Tư Mã Khố do đâu mà có? Hắn không trồng mạch nhưng ăn bánh mì, không nuôi tằm nhưng mặc đồ tơ lụa, không nấu rượu nhưng ngày nào cũng say, thưa bà con, chính là mồ hôi xương máu của chúng ta đã nuôi sống bọn địa chủ. Chúng ta phân chia đất đai của chúng, của cải trong nhà chúng, thực tế là chúng ta thu hồi những gì của chúng ta!

Nhân vật bự vỗ tay khẽ tỏ ý tán thưởng lời lẽ khảng khái của Phán Đệ. Trên bục, các cán bộ huyện, khu và các đội viên vũ trang vỗ tay theo.

Thằng Gật nói tiếp:

- Chỉ riêng thằng Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ, còn tôi thì một vợ cũng không. Như vậy có công bằng không?

Nhân vật bự cau mày, lắc đầu.

Lỗ Lập Nhân nói:

- Trương Đức Thành, không nói những chuyện này?

- Không, đây mới là nguồn gốc nỗi khổ của tôi! Thằng Gật tôi cũng là thằng đàn ông, phải vậy không? Giữa hai đùi cũng lủng lẳng cái của ấy...

Lỗ Lập Nhân đứng chắn trước mặt Thằng Gật, không cho nói nữa. Anh ta cất cao giọng, át cả tiếng gào của Thằng Gật, nói:

- Thưa bà con, Trương Đức Thành tuy nói năng có đôi chút thô lỗ, nhưng đã nêu lên một lý lẽ, vì sao có người lấy đến bốn vợ, thậm chí nhiều hơn, còn những người như Trương Đúc Thành một vợ cũng không.

Dưới sân bàn tán sôi nổi, rất nhiều ánh mắt nhìn về phía mẹ. Mặt mẹ xanh mét, con mắt vô cảm, không thù không oán, phẳng lặng như nước hồ thu.

Phán Đệ đẩy nhẹ Thằng Gật một cái, nói:

- Anh có thể xuống được rồi!

Thằng Gật tiến lên hai bước định bước xuống, nhưng lại chợt nhớ ra điều gì, quay lại xách tai Triệu Giáp đánh một bạt tai, chửi:

- Đ. mẹ mày! Mày cũng có ngày hôm nay, mày còn nhớ những khi theo đóm ăn tàn, dựa vào thế lục Tư Mã Khố khinh rẻ người khác chứ!

Triệu Giáp dùng đầu húc Thằng Gật một cú vào bụng dưới. Thằng Gật kêu thét lên, ngã lăn mấy vòng xuống sân phơi..

Thằng Câm xông tới đá Triệu Giáp ngã lăn ra rồi dùng chân chặn cổ Triệu Giáp. Khuôn mặt Triệu Giáp co rúm lại một cách đáng sợ. Anh ta thở phì phò gào thét như điên: - Tôi không phục, tôi không phục. Các người là đồ vô lương tâm, trời hại các người?...

Lỗ Lập Nhân cúi xuống hỏi nhân vật bự. Nhân vật bự cầm nghiên mực gõ xuống bàn đánh chát một tiếng. Lỗ Lập Nhân lôi ra một mảnh giấy, đọc:

- Xét phú nông Triệu Giáp, sống bằng bóc lột, thời kỳ Nhật ngụy hắn đã cung cấp cho ngụy quân khối lượng lớn lương thực. Thời Tư Mã Khố thống trị, hắn đã nhiều lần tiếp tế bánh bao cho bọn phỉ. Từ cải cách ruộng đất đến nay, hắn tung ra bao nhiêu lời đồn nhảm, công khai chống lại chính quyền nhân dân. Với phần tử ngoan cố như vậy không triệt đi thì không xoa dịu được sự căm phẫn của dân. Tôi thay mặt Chính phủ nhân dân huyện Cạo Mật tuyên bố tử hình Triệu Giáp, lập tức thi hành!

Hai đội viên khu đội lôi Triệu Giáp như lôi một con chó chết đến mép đầm đầy rác rưởi và cỏ mục. Hai đội viên tránh sang hai bên, Thằng Câm nhằm gáy Triệu Giáp nổ một phát súng. Nhanh như chớp, Triệu Giáp lộn đầu xuống đầm. Thằng Câm cầm khẩu pạc-hoọc miệng súng vẫn còn nhả khói, trở lại chỗ bục đất.

Những người quỳ trên bục dập đầu lạy như tế sao, sợ vãi cứt đái ra quần. Mùi hôi thối xông lên, những người trên bục và những người ở gần dưới sân đều bịt mũi.

- Tha cho tôi, tha cho tôi? - Chủ hiệu dầu thơm Kim-Một-Vú lết hai đầu gối đến trước mặt Lỗ Lập Nhân, hai tay ôm chặt lấy chân anh ta, vừa nói vừa khóc - Ông huyện trưởng tha cho tôi, tôi nguyện đem toàn bộ đầu thơm, toàn bộ số vàng, toàn bộ gia sản, ngay cả cái máng cho gà ăn cũng không để lại, chia hết cho bà con, chỉ cần tha cho mạng sống nhỏ nhoi của tôi. Tôi không bao giờ buôn bán để bóc lột mọi người nữa!...

Lỗ Lập Nhân muốn rút chân ra khỏi vòng tay của Kim-Một-Vú, nhưng chị ta cứ ôm riết lấy chân anh ta. Mấy cán bộ huyện ùa tới gỡ các ngón tay Kim-Một-Vú đan vào nhau như gọng kìm, giải phóng cho huyện trưởng Lỗ. Kim-Một-Vú lại lết đến bên nhân vật bự. Lỗ Lập Nhân kiên quyết:

- Lôi nó đi!

Thằng Câm quay ngược khẩu pạc-hoọc gõ một phát vào thái dương Kim-Một-Vú, chỉ một cái gõ chị ta đã ngã lăn ra, mắt trợn ngược, bầu vú duy nhất chĩa thẳng lên bầu trời u ám.

- Ai còn nỗi khổ nào không? - Phán Đệ hỏi to.

Dưới sân một người cất tiếng khóc. Đó là ông già Từ Tiên Nhi, tay chống cây gậy trúc vàng óng.

- Đỡ ông già lên bục! - Phán Đệ nói to.

Không ai đến dìu ông ta. Ông mù khóc, dùng gậy dò đường, mò mẫm bước lên bục. Cây gậy của ông ta dò đến đâu mọi người tranh nhau dãn ra đến đó. Hai cán bộ bước xuống kéo ông ta lên.

Từ Tiên Nhi cầm gậy bằng hai tay, vì uất hận, ông ta chọc gậy liên hồi xuống mặt đất. Mặt đất lỗ chỗ những vết gậy.

- Nói đi, bác Từ! - Phán Đệ nói.

Từ Tiên Nhi nói:

- Thưa trưởng quan, quả thực các ông báo thù cho lão chứ?

Chị Phán Đệ nói: - Cụ cứ yên tâm. Vừa nãy chẳng phải chúng tôi đã báo thù cho Trương Đức Thành rồi đấy sao?

Từ Tiên Nhi nói:

- Để tôi nói. Cái thằng khốn kiếp Tư Mã Khố đã bức tử vợ tôi, khiến mẹ tôi uất mà chết, hắn nợ tôi hai mạng người?...

Nước mắt ứa ra từ cặp mắt ông già mù.

- Bác cứ nói. - Lỗ Lập Nhân nói.

- Năm Dân quốc thứ mười lăm, mẹ tôi đã bỏ ra ba mươi đồng bạc trắng cưới vợ cho tôi, đó là con gái của bà ăn xin ở thôn tây. Mẹ tôi bán bò, lợn, hai tạ lúa mạch, đổi lấy ba mươi đồng bạc trắng đưa cho bà ăn mày. Ai cũng bảo vợ tôi xinh xắn, nhưng chính cái đẹp đã gây tai họa! Khi ấy Tư Mã Khố cũng khoảng mười sáu mười bảy chứ mấy. Hắn không chịu học, ỷ vào quyền thế của gia đình, cứ đến nhà tôi xoành xoạch, hát xướng, chơi hồ cầm, rồi đưa vợ tôi đi xem hát, trên đường trở về hắn cưỡng đoạt vợ tôi... Sau đó vợ tôi nuốt thuốc phiện tự tử, mẹ tôi uất quá thắt cổ chết.. Tư Mã Khố nợ tôi hai mạng người, xin Chính phủ phân xử việc này cho tôi?...

Ông mù quì trên bục.

Một cán bộ khu kéo ông ta đứng dậy. Ông ta nói:

- Không trả thù cho tôi thì tôi cứ quì ở đây!

- Bác ơi - Lỗ Lập Nhân nói - Tư Mã Khố chạy đâu cho thoát bắt được nó chúng tôi sẽ giải oan cho bác!

Ông mù nói:

- Tư Mã Khố như con chim diêu bay cùng trời cuối đất, các ông không bắt được nó đâu? Tôi yêu cầu Chính phủ cứ là mạng đổi mạng, bắn bỏ con trai và con gái nó. Thưa ông huyện trưởng, lão biết ông và Tư Mã Khố có hơi hướng gia đình, nếu ông là Bao Thanh Thiên thì xin ông chuẩn y lời đề nghị của tôi. Nếu ông còn tình nghĩa riêng tư thì tôi xin về nhà treo cổ tự vẫn, để Tư Mã Khố khỏi hành hạ tôi khi hắn trở lại!

Lỗ Lập Nhân đắng họng, cố phân bua:

- Bác ơi, nợ có đầu oan có chủ, ai làm người ấy chịu. Tư Mã Khố hại người thì chỉ có thể là Tư Mã Khố phải đền mạng, trẻ con không có tội!

Ông mù chọc gậy xuống đất nói:

- Bà con đã nghe rõ chưa? Đừng bao giờ bị mắc lừa, Tư Mã Khố chạy rồi, Tư Mã Đình trốn rồi, con cái của chúng chả mấy chốc mà lớn lên, huyện trưởng Lỗ với hắn là anh em cọc chèo, phải thân với nhau chứ! Bà con ơi, lão Từ này sống với một cây gậy, chết thành thức ăn cho chó, bà con không bì được với tôi đâu. Bà con, đừng mắc lừa..

Phán Đệ giận dữ quát:

- Thằng mù ăn nói bậy bạ cái gì thế?

Từ mù nói:

- Cô nương Phán Đệ, họ Thượng Quan nhà cô quả là giỏi! Thời Nhật thì có chàng rể Sa Nguyệt Lương đắc thế, thời Quốc dân đảng có rể thứ hai Tư Mã Khố đắc thế, bây giờ có cô và Lỗ Lập Nhân đắc thế. Gia đình cô không bao giờ bị mất ngọn cờ, không bao giờ bị lật thuyền. Rồi đây người Mỹ chiếm Trung Quốc, gia đình cô còn có chàng rể tây...

Tư Mã Lương mặt trắng nhợt, túm chặt tay mẹ. Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng rúc vào nách mẹ. Sa Tảo Hoa khóc, Lỗ Thắng Lợi cũng khóc. Chị tám Ngọc Nữ là người khóc cuối cùng.

Tiếng khóc của chúng khiến người trên bục và dưới sân để ý. Nhân vật bự cũng nhìn chúng chằm chằm. Từ Tiên Nhi tuy mù nhưng rất chuẩn xác quì trước mặt nhân vật bự, gào khóc:

- Thưa trưởng quan, hãy phân xử cho lão mù này?

Lão vừa khóc vừa dập đầu lia lịa, trán lão dính đầy đất.

Lỗ Lập Nhân nhìn nhân vật bự bằng con mắt cầu cứu. Nhân vật bự lạnh lùng nhìn anh ta, cái nhìn sắc như dao. Lỗ Lập Nhân mồ hôi chảy đầy mặt, mất hẳn cái vẻ ung dung thanh thoát, khi thì cúi nhìn cái đầu ngón chân, chốc lại ngẩng nhìn những người dưới sân phơi anh ta không đủ dũng khí nhìn thẳng vào mặt nhân vật bự.

Thượng Quan Phán Đệ cũng mất đi vẻ oai vệ của một trưởng khu, mặt đỏ như gấc, môi dưới run bần bật như lên cơn sốt. Chị chửi bới như một mụ nhà quê đanh đá:

- Lão Từ kia, lão định làm loạn phỏng? Gia đình ta có chỗ nào đắc tội với lão? Con vợ thối thây của lão đã mồi chài Tư Mã Khố, bậy bạ với nhau trong ruộng lúa mạch bị người ta tóm được không còn mặt mũi nhìn mọi người, nên mới uống thuốc phiện mà chết! Ta còn nghe nói lão cắn xé cô ta suốt đêm như một con chó. Vợ lão đã cho biết bao nhiêu người xem những vết cắn thâm tím ở ngực, lão có biết không. Bức hại vợ lão chính là lão. Tư Mã Khố có tội nhưng thủ phạm là lão. Nếu tử hình, trước tiên đem lão ra bắn bỏ!

- Thưa trưởng quan! - Từ mù nói - Ông nghe thấy chưa, cháy nhà ra mặt chuột.

Lỗ Lập Nhân vội đỡ đòn cho Phán Đệ. Anh ta định kéo Từ Tiên Nhi xuống nhưng Từ Tiên Nhi như cục kẹo kéo, lôi dậy người dài ra, buông tay người vón cục. Lỗ Lập Nhân nói:

- Bác ơi, bác đề nghị bắn bỏ Tư Mã Khố là đúng, nhưng đòi bắn bỏ con cái của Tư Mã Khố là sai, trẻ con không có tội!

Từ Tiên Nhi cãi:

- Triệu Giáp làm gì có tội? Triệu Giáp chẳng qua chỉ là anh thợ bếp lò? Chẳng phải Triệu Giáp có chút tư thù với Trương Đức Thành đấy sao? Chẳng phải là các người nói bắn là lôi ra bắn đó sao? Thưa ông huyện trưởng, không bắn chết con cháu Tư Mã Khố thì lão không chịu!

Những người dưới sân bảo nhau:

- Bà cô của Triệu Giáp là mẹ đẻ Từ Tiên Nhi, hai người là anh em họ.

Lỗ Lập Nhân cười ngượng, dè dặt tới bên nhân vật bự, lúng búng điều gì đó với ông ta. Nhân vật bự xoay xoay cái nghiên mục, không nói nửa câu, nhưng hai vết hằn bên khóe miệng kéo dài xuống tận dưới cằm và cái bĩu môi của ông ta thì đầy sát khí. Lỗ Lập Nhân lại lúng túng trình bày gì đó. Lúc này cặp mắt trắng đã của ông ta ngước lên nhìn Lỗ Lập Nhân, cất giọng rè rè nói rất to:

- Cái chuyện vặt này mà phải làm hộ anh sao?

Lỗ Lập Nhân rút khăn tay lau mồ hôi trên trán, hai tay quài ra sau thắt chặt dải vải đen, mặt vàng bệch, ra phía trước bục, lớn tiếng tuyên bố.

- Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, thực hiện ý nguyện của nhân dân. Bây giờ tôi xin trưng cầu ý kiến của các vị, ai đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay lên?

Phán Đệ giận dữ chất vấn Lỗ Lập Nhân:

- Anh điên hay sao?

Phía dưới, mọi người cúi gằm, không ai giơ tay, cũng không ai nói gì.

Lỗ Lập Nhân đưa mắt hỏi ý kiến nhân vật bự.

Nhân vật bự thoáng nét cười nhạt trên khuôn mặt, bảo Lỗ Lập Nhân:

- Anh hỏi lại lần nữa, ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố?

Lỗ Lập Nhân hỏi: - Ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay?

Quần chúng vẫn im lặng, đầu cúi gằm, không giơ tay, không ai nói câu gì.

Mẹ chậm rãi đứng lên, nói:

- Từ Tiên Nhi, nếu dứt khoát phải đền mạng thì xin bắn chết tôi! Mẹ ông không thắt cổ chết, mà chết vì băng huyết. Nguồn gốc bệnh của bà là từ thời loạn thổ phỉ để lại.

Nhân vật bự đứng dậy đi vào phía trong.

Lỗ Lập Nhân vội vã đuổi theo.

Trên một khoảnh đất trống phía sau bục, nhân vật bự lúc nói chậm lúc nói nhanh, cánh tay khẳng khiu mềm oặt của ông ta lúc giơ lên lúc hạ xuống, như một lưỡi dao chém vào không khí.

Các vệ sĩ xúm xít xung quanh, hộ tống ông ta bỏ đi. Lỗ Lập Nhân đứng như trời trồng, đầu cúi gằm. Anh ta đứng rất lâu rồi như sực tỉnh, lê những bước nặng nề, đờ dẫn trở về vị trí huyện trưởng của anh ta. Anh ta nhìn chúng tôi bằng ánh mắt điên dại, nhìn rất lâu, trông thật đáng thương. Lâu lắm, anh ta mới mở được miệng, ánh mắt thì như con bạc khát nước, nói:

- Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập tức thi hành; tử hình hai con gái Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập tức chấp hành!

Người mẹ chúi một cái, nhưng mẹ vẫn đứng vững. Mẹ nói:

- Để ta xem mày có dám không?

Mẹ ôm chặt Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng. Tư Mã Lương nhanh nhẹn nằm rạp xuống đất rồi bò lùi. Mọi người lắc lư làm như không để ý, che khuất cho Tư Mã Lương bỏ trốn.

- Tôn Bất Ngôn? - Lỗ Lập Nhân quát to - Sao không chấp hành mệnh lệnh của tôi?

Phán Đệ chửi: - Anh lú lẫn rồi, lệnh gì mà như thế!

Lỗ Lập Nhân nói:

- Tôi không lú lẫn, tôi rất tỉnh? - Anh ta vừa nói vừa đấm vào đầu.

Thằng Câm ngần ngại buộc xuống bục, theo sau là hai đội viên của tiểu khu.

Tư Mã Lương bò ra khỏi đám đông, lách giữa hai trạm gác rồi chạy vụt lên đê.

- Chạy rồi, chạy rồi. - Các đội viên trên bục kêu lên. Các lính gác hạ súng trên vai xuống, kéo cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng, rồi bắn mấy phát chỉ thiên. Tư Mã Lương mất hút trong những lùm cây lúp xúp trên đê.

Thằng Câm dẫn các đội viên, gạt những tấm lưng đen đủi ken nhau, đến trước mặt chúng tôi. Hai đứa con câm của hắn - Câm Anh, Câm Em - giương đôi mắt cô độc và ngạo mạn nhìn hắn. Hắn giơ vuốt trước như thép nguội ra, mẹ nhổ vào mặt hắn một bãi nước bọt. Hắn rụt tay lại chùi nước bọt trên mặt, chùi xong lại chìa tay ra, mẹ lại nhổ bãi nữa nhưng lần này súc yếu hơn, nước bọt chỉ đến ngực hắn. Hắn ngoảnh lại nhìn những người đứng trên bục. Lỗ Lập Nhân hai tay chắp sau lưng, đi đi lại lại. Phán Đệ thì ngồi xổm, hai tay bưng mặt. Các cán bộ huyện và khu thì nét mặt vô cảm như tuồng đất. Cái cằm dưới rắn như thép của Thằng Câm lập bập như thường ngày, miệng quát:

- Cởi, cởi, cởi?

Mẹ ưỡn ngực, thét lên chói tai:

- Thằng súc sinh, giết tao trước đi!

Mẹ xông tới trước mặt Thằng Câm cào vào mặt hắn. Mặt hắn xuất hiện bốn rãnh màu trắng, sau đó máu từ trong rãnh tứa ra.

Thằng Câm vuốt mặt một cái rồi đưa ngón tay ra trước mặt ngây ra mà nhìn, hình như để xem cái gì dính trên ngón tay. Xem xong, hắn lại đưa ngón tay lên mũi - cái mũi sư tử - để ngửi, hình như để biết trên ngón tay có mùi gì. Ngửi xong, hắn thè lại liếm đầu ngón tay như để xem mùi vị nó ra sao. Lát sau, hắn ầu ầu lên mấy tiếng, đấm mẹ một quả, mẹ ngã bay về phía chúng tôi.

Chúng tôi vừa khóc vừa phủ phục trên mình mẹ.

Thằng Câm xách từng đứa chúng tôi quẳng sang một bên. Tôi rơi trên lưng một phụ nữ, Sa Tào Hoa rơi trên bụng tôi. Lỗ Thắng Lợi rơi trên lưng một ông già. Chị Tám rơi trên vai một bà lão. Câm anh đeo dưới cánh tay của bố nó, bố nó vẩy rất mạnh cũng không rơi, nó bám chặt cổ tay không nhả. Câm em thì ôm chặt chân Thằng Câm Bố, cắn vào gối của bố. Bố nó hất chân, Câm em bay vào đầu một ông trung niên. Thằng Câm Bố giằng mạnh tay, Câm Anh văng ra, kéo theo trong miệng một miếng thịt của Câm Bố, rơi đánh bộp vào lòng một bà lão

Thằng Câm tay trái xách Tư Mã Phượng, tay phải xách Tư Mã Hoàng đi như đi trong bùn lầy, chân giơ cao rồi mới đặt xuống. Hắn đi đến trước cái bục, giơ tay trái quẳng Tư Mã Phượng lên, giơ tay phải quẳng Tư Mã Hoàng lên. Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng gào khóc, miệng gọi bà ngoại. Hai đứa muốn trườn xuống nhưng bị thăng Cầm chặn lại. Mẹ lồm cồm bò dậy loạng choạng chạy tới nhưng vừa được hai bước, mẹ ngã lăn ra.

Lỗ Lập Nhân dừnglại, giọng thê thảm:

- Các ông các bà nghèo khổ ơi, các vị nói đi, Lỗ Lập Nhân tôi có còn là con người hay không Bắn chết hai đứa trẻ này, trong lòng tôi như thế nào? Tôi đau lắm, xót xa lắm! Chúng nó là trẻ con, huống hồ lại là thân thích với tôi! Nhưng chính bởi vì chúng là họ hàng, tôi buộc phải rớt nước mắt mà tử hình chúng! Các ông các bà ơi, hãy tỉnh lại, tử hình con cái Tư Mã Khố là chúng ta không còn đường lui nữa. Thoạt nhìn, chúng ta bắn hai đứa trẻ, kỳ thực không phải là đứa trẻ, mà là chế độ lạc hậu cũ kỹ, chúng ta bắn là bắn cái chế độ đó, bắn hai dấu hiệu đó? Các ông các bà ơi, hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản cách mạng, không có còn đường thứ ba!

Anh ta nói to quá nên ho sặc sụa, mặt đỏ gay, nước mắt ràn rụa. Một cán bộ huyện bước tới định đấm lưng cho anh ta, nhưng anh ta khoát tay từ chối. Rồi anh ta cũng điều khiển được nhịp thở, nhổ nước bọt, hổn hển như mắc bệnh lao, nói:

- Chấp hành đi!

Thằng Câm nhảy lên bục, hai tay kẹp hai đứa trẻ rảo bước đến bờ đầm. Hắn đặt hai đứa xuống rồi lùi lại hơn chục bước. Hai đứa trẻ ôm lấy nhau, khuôn mặt hẹp và dài như bôi lên lớp phấn vàng, bốn con mắt nhỏ xíu kinh hoàng nhìn Thằng Câm. Thằng Câm rút khẩu pạc-hoọc ra từ từ giơ lên, bàn tay hắn đầy máu run run như khẩu súng nặng đến hai mươi cân, vất vả mới giơ được lên. Pằng, hắn bắn một phát, cổ tay cầm súng nẩy lên một cái đầu nòng bốc khói, cánh tay hắn lập tức nhũn ra, viên đạn bay trên đầu hai đứa trẻ, làm bắn tung một chỗ bùn trên đầm.

Một phụ nữ với hai bàn chân không bị bó, người hơi nghiêng như thuyền buồm ăn gió, chạy như bay theo con đường mòn kẹp giữa hai vạt cỏ rậm, vừa chạy vừa gào thét như con gà mái chạy đến bảo vệ cho đàn con. Tôi nhận ra đó là chị Cả, vì chị từ chân đê chạy tới. Chị được coi là tâm thần không bình thường nên không dự đại hội đấu tranh. Là vợ chưa chết của Hán gian Sa Nguyệt Lượng, chị đáng bị đem xử bắn. Nếu mọi người biết chị đã từng nhất dạ phong lưu với Tư Mã Khố, chị đáng bị bắn hai lần. Tôi lo thay cho chị. Chị đang đâm đầu vào lưới. Chị chạy thẳng đến ven đầm, đứng chặn trước mặt hai đứa trẻ:

- Bắn tôi đi, giết tôi đi! - Chị gào thét điên cuồng - Tôi đã từng qua đêm với Tư Mã Khố, tôi chính là mẹ của chúng.

Cái hàm dưới của Thằng Câm lại lập cập dữ dội, chứng tỏ sóng gió đang nổi lên trong lòng hắn. Hắn chĩa súng, quát bằng giọng khàn khàn:

- Cởi, cởi, cởi!

Không chút do dự, chị Cả cởi nút áo để lộ cặp vú tuyệt mỹ của chị, Thằng Câm giương to mắt, cằm dưới của hắn như rơi xuống đất vỡ thành từng mảnh, to như cục gạch, nhỏ như mầu gạch. Hàm dưới mà mất, Thằng Câm trông thật dáng sợ. Hắn lấy tay nâng hàm dưới, chỉ sợ nó rơi xuống, nói mà không phải nghĩa như thế:

- Cởi, cởi, cởi?

Chị Cả ngoan ngoãn cởi bỏ áo, mình trần. Mặt chị đen nhưng mình thì trắng, trắng như ngà. Trong bầu không khí u ám, chị thi gan với Thằng Câm. Thằng Câm ngập ngừng đi tới, đi tới ngay trước mặt chị, một thằng đàn ông như đúc bằng thép phút chốc tan ra nước như người tuyết dưới ánh nắng mặt trời, chân một nơi tay một ngả, ruột lòng thòng như những con rắn, chỉ còn mỗi trái tim đỏ rực được nâng bằng hai tay là đang đập. Gắng gượng lắm những bộ phận đó mới trở về vị trí cũ thành hình người nguyên vẹn. Thằng Câm quỳ trước mặt chị Cả, hai tay ôm vòng mông của chị, hôn lấy hôn để cái rốn của chị.

Trước tình huống bất ngờ đó, bọn Lỗ Lập Nhân giương mắt nhìn nhau, miệng như bị bỏng, tay như chạm phải gai nhím. Dân chúng nhìn trộm về phía đầm, không hiểu tâm trạng của họ ra sao.

- Tôn Bất Ngôn! - Lỗ Lập Nhân ngán ngẩm cất tiếng gọi, nhưng Thằng Câm không thèm để ý.

Phán Đệ nhảy xuống bục chạy tới ven đầm nhặt chiếc áo cánh khoác lên người chị Cả. Chị định lôi chị Cả đi, nhưng nửa người dưới của chị Cả đã gắn chặt vào Thằng Câm, Phán Đệ gỡ ra sao được? Phán Đệ quay ngược báng súng đập vào vai Thằng Câm. Thằng Câm ngẩng mặt lên, nét mặt dịu dàng, nước mắt lưng tròng.

Sự việc xảy ra sau đó cho đến nay vẫn còn là một ẩn số có đến mười mấy nghiệm, không ai biết đích xác thật giả như thế nào. Giữa lúc chị Phán Đệ ngẩn người trước cặp mắt đầy lệ của Thằng Câm; giữa lúc chị em con Phượng líu ríu ôm nhau đứng dậy tìm bà ngoại, giữa lúc mẹ tỉnh lại - vừa kêu vừa chạy tới ven đầm; giữa lúc Từ Tiên Nhi nói: Ông huyện trưởng, đừng giết chúng, mẹ tôi không thắt cổ chết, vợ tôi chết không phải hoàn toàn do Tư Mã Khố, giữa lúc hai con chó hoang đang cắn nhau trong căn nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi; giữa lúc tôi đang nhớ lại khung cảnh ngọt ngào mà ấm ức bên máng cỏ, miệng tôi mặn mùi bụi đất ở đầu vú chị Cả và cái đầu vú nẩy như cao su của chị, thì có hai người cưỡi ngựa lướt tới như một cơn lốc. Hai con ngựa, một con trắng như tuyết, một con đen như mun. Người cưỡi ngựa trắng mặc áo đen, che nửa mặt dưới bằng vuông vải đen, đầu đội mũ đen. Người cưỡi ngựa đen mặc áo trắng, che nửa mặt dưới bằng vuông vải trắng, đầu đội mũ trắng. Mỗi người hai tay hai súng, tài cưỡi ngựa thì tuyệt diệu, hai chân thẳng băng trên mình ngựa, người hơi ngả về phía trước. Khi gần đến ven đầm, họ bắn một băng lên trời, các cán bộ huyện khu hoảng sợ đến nỗi nằm rạp dưới đất. Họ điều khiển dây cương cho ngựa lượn một vòng, thân ngựa hơi nghiêng vẽ thành một vòng cung đẹp mắt. Mỗi người trong họ nổ một phát súng rồi bỏ đi, đuôi ngựa bay bay, như sương như mù, chỉ chớp mắt đã biến mất, quả là đến như gió xuân, đi như gió thu, hư hư thực thực y như một giấc mộng! Họ đi rồi, mọi người mới dần dần định thần lại. Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi.


26

  Ngày đầu tiên khi rút lui, dân chúng mười tám thôn trấn vùng Cao Mật dắt ngựa ôm gà, dìu già dắt trẻ, tập trung ở bãi đất phèn ở bờ bắc sông Thuồng Luồng. Mặt đất phủ một lớp vảy như những mảnh băng chưa tan. Những loại cây cỏ chịu được mặn như cỏ lác, cỏ mao, cây sậy thì cành lá khô héo, lắc lư trong gió lạnh. Những con quạ thích ồn ào sà thấp trên đầu mọi người mà nhòm ngó, thậm chí còn kêu vang quạ quạ như những thi sĩ lãng mạn.

Bị giáng chúc làm phó huyện trưởng, Lỗ Lập Nhân đứng trên bệ tế ở đầu nấm mộ của vị cử nhân Đan Đình đời Tiền Thanh, gân cổ ra mà gào bài phát biểu có tính động viên cho cuộc rút lui. Chủ đề diễn thuyết của anh ta là: Mùa đông năm nay đã bắt đầu, vùng Cao Mật trở thành chiến trường, không sơ tán đi nơi khác thì cầm chắc cái chết? Lũ quạ đậu kín những cây tùng, đậu trên các mộ, trên người đá ngựa đá. Chúng quà, chúng quạ ầm ĩ, phá đám cuộc diễn thuyết của Lỗ Lập Nhân, khiến dân chúng càng kinh hoảng, góp phần tăng thêm quyết tâm cùng chính quyền huyện, khu rút chạy.

Một tiếng súng nổ vang, cuộc rút chạy bắt đầu. Đám người đông như kiến ồn ào tản ra. Thế là lừa kêu ngựa hí, gà bay chó chạy, bà già khóc mếu, trẻ con kêu gào: Một thanh niên nhanh nhẹn tay cầm cờ đỏ, cưỡi ngựa trắng, chạy ngược chạy xuôi trên con đường đất phèn kéo dài vô tận về phía dông bắc, chốc chốc lại phất ngọn cờ chỉ hướng cho dòng người tiến lên. Đi đầu là đơn vị gồm hơn chục con la chở hồ sơ giấy má của huyện phủ, dưới sự điều khiển của hơn chục chú lính, uể oải cất bước. Cuối đoàn la là những con lạc đà còn lại từ thời Tư Mã Khố, với bộ lông dài bẩn thỉu màu vàng xỉn, thồ hai hòm sắt tây. ở vùng Cao Mật đã lâu, nó đang từ lạc đà biến thành trâu. Đi liền sau lạc đà, là đội dân phu khênh cỗ máy in của huyện và một số máy móc của xưởng sửa chữa cơ khí huyện. Hơn chục dân phu, đều là đàn ông, quần áo đều mỏng, trên vai mỗi người đều có tấm đệm vai hình lá sen. Qua bước chân loạng choạng và cái dáng mắm môi mắm lợi của họ, thì biết máy móc rất nặng.

Sau đội dân công, là đội ngũ tạp nham của dân chúng. Đám cán bộ huyện, khu như Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ thì cưỡi lừa hoặc ngựa chạy lên chạy xuống trên những vạt đất phèn, cố duy trì tình trạng có trật tự. Nhưng mặt đường quá hẹp, quá chật chội, mà hai bên đường thì lại rộng rãi bằng phẳng, dân chúng bèn bỏ con đường, mở rộng đội hình theo hàng ngang dẫm lép bép trên những vảy đất đi về hướng đông bắc. Ban đầu là một cuộc rút lui, nhưng nhanh chóng biến thành một cuộc tháo chạy vô cùng lộn xộn.

Cả nhà tôi bị kẹt trong dòng người đông đặc, lúc thì đi trên đường, về sau cùng không rõ là đang đi trên đường hay đi dưới ruộng. Mẹ đeo bao đay trước ngực, đẩy chiếc xe cút kít bánh gỗ hai càng cách nhau khá xa, mẹ phải đang rộng tay hết cỡ. Hai chiếc sọt hình hộp buộc hai bên xe, sọt bên trái là Lỗ Thắng Lợi và chăn gối, quần áo của cả nhà, sọt bên phải là Câm anh và Câm em. Tôi và Sa Tảo Hoa mỗi người một bên, vịn vào sọt mà đi cùng xe. Chị Tám mù thì bám vạt áo mẹ, lếch thếch đi cuối cùng. Chị Lai Đệ lúc tỉnh lúc lú thì đi trước xe, vai khoác dây, lưng gập lại, cổ ươn ra như kiếp trâu kéo. Chiếc xe rít kin kít chói tai, mẹ và chị Cả thở như kéo bễ, bàn chân nhỏ khiến chị và mẹ cực kỳ vất vả. Ba đứa trẻ trên xe đầu ngất ngưỡng, quay hết bên nọ đến bên kia xem cảnh huyên náo. Chúng tôi dẫm chân lên đất phèn lạo xạo, mũi ngửi mùi mặn của muối, lúc đầu rất thú, nhưng đi được vài dặm thì đầu váng mắt hoa, chân tay bủn rún, mồ hôi ướt đầm trong nách. Con dê trắng khỏe mạnh như lừa của tôi ngoan ngoãn theo sau, nó rất hiểu ý người, không cần dùng đến thừng chạc. Hôm ấy có gió bấc nhẹ nhưng buốt như cắt tai. Trên cánh đồng mênh mông cuộn lên những làn bụi trắng. Đó là hỗn hợp của muối, phèn và kiềm. Vào mắt, mắt chảy nước, vào da, da đau rát, ăn vào miệng thì chẳng ngon lành gì? Mọi người ngược gió mà đi, mắt nhíu lại. Những dân phu khiêng máy người ướt đẫm quần áo, nhất loạt biến thành người trắng. Mẹ cũng đã thành người trắng, lông mi lông mày trắng toát, tóc cũng trắng.

Khi tiến vào vùng trũng và ẩm ướt, bánh xe chuyển động khó khăn. Chị Cả phía trước đánh vật với con đường, sợi dây kéo hằn sâu vào thịt. Không trông thấy mặt chị, chỉ nhìn thấy lưng áo mồ hôi từng mảng. Tiếng thở của chị khiến người ta phát hoảng. Còn mẹ thì sao? Nói rằng đẩy xe, thực ra mẹ chẳng khác Chúa Giêsu chịu cực hình.

Cặp mắt u buồn của mẹ đẫm nước mắt. Nước mắt trộn mồ hôi chảy từng vệt dài trên mặt mẹ. Chị Tám đeo sau mẹ như một cái bị. Chúng tôi để lại phía sau vết hằn rất sâu của bánh xe, nhưng nó lại bị xóa hoặc mờ đi bởi những bánh xe, chân người và gia súc của những toán đi sau. Phía trước, phía sau, bên phải, bên trái chúng tôi đều là những người tị nạn. Những khuôn mặt quen và không quen đều trở nên mơ hồ. Tất cả đều vất vả, người vất vả ngựa vất vả, lừa vất vả. Tương đối dễ chịu là con gà mái trong bọc bà lão, và con dê của tôi. Nó nhanh nhẹn, trên đường đi nó tranh thủ ăn được một ít lá khô.

Mặt trời rọi những tia nắng xuống mặt đất nhiễm phèn, ánh phản quang làm lóa mắt, làn sáng trắng đi động trên mặt đất từng mảng màu bạc. Cánh đồng hoang mênh mông làm cho phía trước giống như biển bắc trong truyền thuyết.

Đến trưa, y như bệnh hay lây, mọi người không ai bảo ai mà cũng chẳng hiệu lệnh nào cả, nhất loạt ngồi xuống nghỉ. Không có nước, cổ họng khô bỏng, lưỡi rát như bị dao cứa, đưa đẩy trong miệng rất khó khăn. Mũi phả hơi nóng nhưng lưng và bụng thì lạnh toát, gió thổi khô mồ hôi, quấn áo cứng như tôn lá. Mẹ ngồi trên một càng xe, lấy trong sọt một cái bánh bột ngô, bẻ đôi chia cho chúng tôi. Chị Cả cắn một miếng, đôi môi khô nẻ của chị tóe máu, vài giọt thấm vào bánh. Ba sinh vật nhỏ trên xe mặt mày xanh tái chẳng khác lũ quỉ trong đền, chẳng còn ra hình người. Chúng không chịu ăn, cau có. Chị Tám nhe hàm răng trắng, đều dặn, nhấm từng tí một chiếc bánh khô cứng.

Mẹ thở dài, nói:

- Đây là những chủ trương tốt đẹp của các ông bố bà mẹ yêu quí của các cháu?

Sa Tảo Hoa sụt sịt:

- Ngoại ơi, mình về nhà đi! Mẹ nhìn đoàn người đông như kiến cỏ mà thở dài, không nói gì. Mẹ bảo tôi:

- Kim Đồng, từ nay phải thay đổi cách ăn.

Mẹ lấy trong bọc ra chiếc bình gốm có in ngôi sao năm cánh đi đến phía sau con dê, dùng tay phủi sạch cát bụi trên vú nó. Con dê không chịu, mẹ bảo tôi ôm lấy đầu nó. Tôi ôm lấy cái đầu lạnh như đá của nó, xem mẹ vắt sữa. Sữa rỏ tưng giọt vào bình. Con dê chắc là không thoải mái, nó đã quen với việc cho tôi nằm ngửa dưới bầu vú nó mà bú. Cái đầu nó lắc lắc trong tay tôi, lưng nó cong lên, cựa quậy như con rắn. Mẹ nhắc lại câu nói mà tôi rất sợ:

- Kim Đồng, khi nào thì con có thể ăn cơm?

Những năm tháng qua tôi đã từng ăn thử, nhưng dù tôi ăn những thức ngon đến mấy, dạ dày tôi vẫn không chịu, ăn vào là nôn ọe, nôn ra mật xanh mật vàng. Tôi xấu hổ nhìn mẹ, tự kiểm điểm nghiêm khắc bản thân, vì cái tật này mà thêm biết bao phiền toái cho mẹ, đồng thời cho tôi. Tư Mã Lương đã từng hứa chữa khỏi tật này cho tôi, nhưng từ khi nó bỏ trốn, tôi không gặp lại nó. Bộ mặt láu cá và đáng yêu của nó ẩn hiện trước mặt tôi. Lổ đạn có vết gỉ đồng xanh trên trán Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng phát ra những tia đáng sợ. Tôi nhớ lại khung cảnh hai đứa nằm chung trong một quan tài nhỏ bằng gỗ liễu. Mẹ lấy miếng giấy hồng điều dán vào lỗ đạn, biến vết đạn thành nốt ruồi trang điểm của người.

Mẹ đã vắt được nửa bình sữa, đứng dậy tìm cái chai mà ngày trước cô Đường cho Sa Tảo Hoa bú, mở nút, đổ sữa vào chai. Mẹ đưa chai sữa cho tôi. Để khỏi phụ lòng mong mỏi của mẹ, vì tự do và hạnh phúc của tôi, tôi kiên quyết nhét đầu vú cao su màu vàng nhạt vào miệng. Chiếc đầu vú cao su không súc sống làm sao sánh được bầu vú màu phấn hồng đẹp tuyệt của mẹ tôi, đó là sự yêu thương, là thơ ca, là bầu trời cao vời vợi, là mảnh đất thuần hậu dập dềnh sóng lúa; cũng không sánh được bầu vú to tướng, căng phồng, đầy những vết tàn nhang của con dê. Bầu vú cao su là một vật chết, tuy bóng loáng nhưng không mịn màng. Cái đáng sợ nhất là nó là không mùi vị. Một cảm giác lạnh tanh và lờm lợm trong miệng. Vì mẹ và vì bản thân, tôi cố nén cảm giác ngán ngẩm, cắn nó một cái, nó hăng hái rít lên một tiếng khe khẽ, một ít sữa mằn mặn rỉ ra một cách khó khăn thấm trên khoang miệng và đầu lưỡi tôi. Tôi lại ti một ngụm nữa. Tôi nhủ thầm: ngụm này cho mẹ, ngụm này cho Kim Đồng. Tôi tiếp tục ti, vì Lai Đệ này, vì Lãnh Đệ này, vì Tưởng Đệ này, vì tất cả những người trong nhà Thượng Quan đã yêu tôi, đã thương tôi, đã giúp đỡ tôi vì Tư Mã Lương, thằng nhỏ thông minh nhanh này, cũng có quan hệ máu mủ gì với nhà Thượng Quan chúng tôi. Tôi nín thở, dùng công cụ đưa chất nuôi sống vào cơ thể. Khi tôi đưa trả mẹ cái chai, nước mắt ràn rụa trên mặt mẹ. Chị Lai Đệ cười sung sướng. Sa Tảo Hoa nói:

- Cậu lớn rồi!

Tôi cố gắng kiềm chế cảm giác buồn nôn và cái đau âm ỉ ở dạ dày, coi như không có chuyện gì xảy ra, tiến lên vài bước như một trang tu mi nam tử và đứng đái theo chiều gió, và hứng lên, tôi bơm chất nước màu vàng đó đi thật xa. Tôi trông thấy con đê: trên sông Thuồng Luồng nằm vắt ngang, cái nóc nhọn của nhà thờ và cây bạch dương chọc trời của nhà Tư Phạm. Chúng tôi vất vả cả một buổi sáng, vậy mà chỉ mới đi được một đoạn đường ngắn đến thảm hại.

Bị giáng xuống làm Chủ nhiệm Hội phụ nữ cứu quốc khu, chị Phán Đệ cưỡi con ngựa chột mắt trái, trên mông phải có đóng đấu bằng chữ số ả rập, từ phía tây đi đến. Con ngựa của chị vẹo cổ một cách quái gở, vụng về cất bước với những bộ vó lóng ngóng phát ra những tiếng lạch cạch, khập khiễng đi lại chỗ chúng tôi. Nó là con ngựa ô đực, sau khi bị thiến, nó trở thành con ngựa thái giám, giọng the thé, tính tình quái đản. Bốn chân và cái bụng của nó dính một lớp đất phèn màu trắng, yên cương thấm đẫm mồ hôi bốc lên mùi chua loét. Trong một thời gian dài, con ngựa rất nhu mì, nhu mì đến nỗi bọn trẻ tinh nghịch có thể vặt lông đuôi của nó. Nhưng một khi nó đã nổi máu thì có thể làm những chuyện động trời.

Mùa hè năm ngoái, khi ấy là thời đại của Tư Mã Khố, nó cắn một miếng vào đầu Phùng Lan Chi, con gái ông lái ngựa Phùng Quí, cô bé đã tưởng không sống được, trán và sau gáy để lại những vết sẹo khủng khiếp. Loại ngựa như vậy lẽ ra phải giết quách, nhưng nghe nói nó từng lập chiến công nên ân xá. Nó đứng trước cỗ xe nhà tôi, giương con mắt độc nhỡn nhìn con dê của tôi. Con dê của tôi cảnh giác lùi lại chỗ có đất phèn dày nhất, liếm những phấn trắng trên mặt đất. Chị Phán Đệ vẫn tỏ ra nhanh nhẹn dù rằng cái bụng của chị đã lùm lùm. Chị xuống ngựa. Tôi nhìn bụng chị, đoán thử hình dáng đứa trẻ trong đó, nhưng không đoán nổi, chỉ nhìn thấy những vết ố trên bộ quân phục màu xám của chị.

- Không nên dừng lại ở đây. Mẹ ơi, chúng con đã chuẩn bị nước nóng, cơm trưa ở thôn trước mặt, ta phải đến đó - Phán Đệ nói.

Mẹ nói:

- Phán Đệ, mẹ bảo này, mẹ không muốn rút với các con nữa!

Phán Đệ cuống quít lên:

- Mẹ, dứt khoát không được, quân địch trở lại lần này hoàn toàn khác với những lần trước, một ngày giết bảy ngàn người ở khu vực Bột Hải. Bọn Hoàn Hương Đoàn hiếu sát, giết cả mẹ đẻ.

Mẹ nói:

- Tao không tin lại có người giết cả mẹ đẻ.

Chị Phán Đệ nói:

- Mẹ, dù thế nào chăng nữa cũng không thể để mẹ quay lại, quay lại là tự đâm đầu vào lưới, chắc chắn là chết! Mẹ không lo cho mẹ thì thôi, nhưng phải nghĩ đến những đứa này chứ?

Chị lấy trong xắc cốt cái lọ nhỏ mở nút đổ ra mấy viên thuốc màu trắng đưa cho mẹ, nói:

- Đây là vitamin, một viên bằng một cây cải bẹ và hai quả trứng, mẹ, khi nào mệt mỏi chịu không nổi thì mẹ uống một viên, chia cho bọn trẻ một viên. Ra khỏi vùng đất phèn là đường dễ đi, bà con Bắc Hải sẽ nhiệt tình đón tiếp chúng ta. Mẹ, đi ngay đi, đừng ngồi ở đây nữa!

Chị túm lấy bờm ngựa, lồng chân vào bàn đạp nhảy lên yên vội vã chạy đi, vừa chạy vừa nói to:

- Bà con ơi, dậy mà đi, trước mặt là Vương Gia Khưu, có nước nóng có dầu mỡ, có củ cải có hành tây, chuẩn bị sẵn cả rồi!...

Được khuyến khích, mọi người đứng dậy, tiếp tục cuộc hành trình.

Mẹ lấy khăn tay gói mấy viên thuốc chị Phán Đệ cho, bỏ vào túi, rồi vớ lấy hai càng xe:

- Nào, ta đi các con.

Đội quân rút lui ngày càng dài ra, nhìn trước không thấy đầu, nhìn sau không thấy cuối. Chúng tôi đã tới Vương Gia Khưu. Vương Gia Khưu không có nước nóng cũng không có dầu, càng không có củ cải hành tây! Đội la của huyện đã rời đây trước khi chúng tôi đến, cỏ khô và phân la vung vãi là vết tích của họ để lại. Dân chúng đốt đống lửa ở giữa sân để nướng lương khô. Mấy đứa con trai dùng cành cây đào hành dại ở ngoài đồng. Khi chúng tôi rời Vương Gia Khưu thì bắt gặp Thằng Câm dẫn hơn chục đội viên đi vào. Hắn không xuống ngựa, móc trong túi hai củ khoai lang chín dở và một củ cải đỏ ném vào sọt trên xe, suýt bươu đầu Thằng Câm em.

Tôi đặc biệt chú ý cái cười nhe cả lợi của hắn với chị Cả, cái cười của sài lang hổ báo? Gì thì chị Cả từng đính hôn với hắn. Những người có mặt không bao giờ quên màn trình diễn kinh hồn giữa hắn với chị bên bờ đầm. Các đội viên đều đeo súng tiểu liên, Thằng Câm đeo lủng lẳng trước ngực bốn quả địa lôi đen bóng.

Khi mặt trời gác núi, chúng tôi kéo theo cái bóng dài lê thê, lần tới một thôn nhỏ. Trong sân tiếng người ồn ào tất cả các ống khói của các gia đình đều tuôn khói trắng. Nhân dân nằm đầy đương, ngổn ngang như củi. Một số cán bộ mặc quần áo xám len lỏi giữa đám đông. Bên giếng nước đầu thôn, người xếp hàng dài chờ lấy nước, người len vào đã đành, súc vật cũng len vào. Mùi nước giếng trong lành khiến mọi người phấn chấn, con dê của tôi cũng hếch mũi lên, hắt hơi rõ to. Chị Lai Đệ cầm cái bát rạn vừng men xanh, nghe nói cái bát này là đồ cổ có giá len vào lấy nước. Mấy bận đã tưởng chị len vào được lại bị người ta dẩy bật ra. Một dân phu làm cấp dưỡng cho huyện nhận ra chúng tôi, bèn xách đến một thùng nước. Sa Tảo Hoa và chị Cả là những người đầu tiên chạy tới quì xuống vục đầu vào trong thùng uống nước, vội đến nỗi cụng đầu vào nhau. Mẹ không bằng lòng, trách chị Cả:

- Cho bọn nhỏ uống trước chứ!

Chị Cả sững lại, Sa Tảo Hoa đã uống ừng ực như con bê, chỉ khác con bê ở chỗ hai tay bám lấy mép thùng.

- Thôi cháu, uống ít thôi kẻo đau bụng - Mẹ khuyên, nắm vai nó đẩy ra.

Nó liếm môi như vẫn còn thèm, nước reo ùng ục trong bụng nó. Chị Cả uống một trận, lúc đứng lên, bụng chị lớn hơn nhiều. Mẹ múc nước bằng bát cho Câm anh, Câm em và Sa Tảo Hoa uống. Sau đó là chị Tám, chị đánh hơi lần đến chỗ thùng nước, quì xuống, vục đầu mà uống. Mẹ hỏi:

- Kim Đồng, con có uống không?

Tôi lắc đầu. Mẹ múc một bát nước. Tôi thả con dê, nó rất muốn xông tới, nhưng bị tôi ôm chặt cổ. Con dê của tôi khát nước là đúng vì nó ăn rất nhiều đất phèn, nó cắm đầu uống, nước trong thùng cạn rất nhanh, bụng nó thì phình dần lên. Ông già cấp dưỡng vô cùng cảm khái, nhưng ông chỉ thở dài không nói gì. Mẹ cảm ơn ông ta, ông thở dài càng dữ.

- Mẹ, sao mẹ đến muộn thế? Chị Phán Đệ phê bình mẹ.

Mẹ không giải thích. Chúng tôi đẩy xe, dắt dê đi theo chị, quanh co luồn lách giữa đám đông, nghe đủ những lời nguyền rủa và oán trách, cuối cùng vào trong một cái sân có tường vây bằng đất, cổng gỗ. Phán Đệ giúp mẹ bế mấy đứa trẻ ra khỏi sọt. Chị định đưa cái xe và con dê ra ngoài, nơi có mười mấy con lừa và ngựa, rơm cỏ chẳng có, thức ăn thì không, lũ lừa ngựa đành gặm vỏ cây. Chúng tôi để xe trong ngõ, con dê theo tôi vào trong sân. Phán Đệ nhìn tôi không nói gì, chị biết con dê là nguồn sống của tôi.

Gian giữa ánh đèn sáng trưng, một bóng người to lớn dưới ánh đèn. Các cán bộ huyện đang tranh cãi điều gì đó, trong đó có tiếng khàn khàn của Lỗ Lập Nhân. Ngoài sân, mấy chú lính bồng súng đứng gác, không chú nào đứng thẳng vì chân bị đau. Trời đầy sao, màn đêm nặng trĩu. Phán Đệ dẫn chúng tôi vào một gian chái, trên tường treo ngọn đèn leo lét. Một bà già nằm ngay ngắn trong chiếc quan tài mở nắp, thấy chúng tôi vào, bà mở mắt bảo:

- Làm ơn đậy nắp lại hộ tôi, tôi phải chiếm cái nhà này của tôi!

Mẹ nói:

- Bà ơi, sao bà lại làm vậy?

Bà già nói:

- Hôm nay là ngày lành tháng tốt của tôi, làm ơn đậy cái nắp lên hộ tôi một tí.

Phán Đệ nói:

- Phiên phiến thôi mẹ, so với ngủ ngoài đường còn tốt chán!

Đêm ấy chúng tôi ngủ không ngon giấc. Cuộc tranh cãi ngoài gian giữa đến nửa đêm mới chấm dứt. Tranh cãi vừa dứt thì ngoài đường có tiếng súng nổ, cảnh nhốn nháo vừa tạm yên thì giữa thôn có đám cháy, ngọn lửa phần phật như những dải lụa đỏ, soi rõ mặt mọi người, soi rõ cả khuôn mặt bà già nằm trong quan tài. Lúc trời sáng, bà già không động cựa gì cả, mẹ gọi, bà không mở mắt, bắt mạch thì thấy bà lão đã chết. Mẹ nói:

- Số như vậy là số tiên!

Mẹ và chị Cả đậy nắp quan tài cho bà lão.

Mấy ngày tiếp theo lại càng gian khổ. Khi tới chân núi Đại Trạch, mẹ và chị Cả đã phồng rộp cả hai bàn chân. Câm anh và Câm em đều bị ho. Lỗ Thắng Lợi bị sốt và đi ỉa chảy. Mẹ nhớ tới mấy viên thuốc của chị Năm, liền nhét một viên vào miệng nó. Chỉ có chị Tám tội nghiệp là chẳng ốm đau gì. Đã hai ngày nay chúng tôi không trông thấy bóng dáng của chị Phán Đệ. Cán bộ huyện, khu cũng không thấy một ai. Một bận trông thấy Thằng Câm, hắn cõng một đội viên bị thương từ phía sau chạy lên. Người đó gãy cả hai chân, máu rỏ giọt xuống đường qua hai ống quần rỗng, khóc mếu nài nỉ Thằng Câm:

- Đội trưởng giúp tôi một tí cho thanh thản, đau chết mất, mẹ ơi!

Khoảng ngày thứ năm kể từ khi chạy nạn, chúng tôi trông thấy dãy núi lớn phía bắc, trên núi có những lùm cây, đỉnh núi hình như có một cái miếu nhỏ. Từ con đê Thuồng Luồng sau nhà, vào những hôm đẹp trời, tôi có thể nhìn thấy quả núi này, nhưng khi đó nó có màu xanh đen. Ngọn núi đã ở trước mặt, hình thế của núi, khí hậu mát mẻ của núi khiến chúng tôi hiểu rằng mình đã rời quê rất xa. Chúng tôi đi trên con đường rải đá rất rộng, trúc mặt có một chi đội người ngựa đi ngược chiều, các binh sĩ ăn mặc như binh sĩ của trung đoàn 17. Bộ đội đi ngược chiều chứng tỏ ở quê chúng tôi đã trở thành chiến trường. Sau đội kỵ mã là bộ binh, sau bộ binh là những con la kéo pháo, đầu nòng cắm một bó hoa, các pháo thủ vênh váo ngồi trên nòng pháo. Sau pháo là đội cứu thương. Sau đội cứu thương là những xe nhỏ xếp hàng hai, trên xe là những bao bột mì hoặc bao gạo, ngoài ra còn có một số bao cỏ.

Những người dân tị nạn vùng Cao Mật sợ hãi đứng nép hai bên nhường đường cho đại quân. Trong đoàn bộ binh, có mấy người đeo súng pạc-hoọc tách ra khỏi đội ngũ, đến hỏi thăm tình hình trong đám dân tị nạn. Anh thợ cắt tóc Vương Siêu đẩy cỗ xe bánh cao su rất thời thượng, dọc đường đã trải qua ung dung, nhưng đến đoạn đường này thì anh ta gặp vận xui. Một chiếc xe trong đội vận chuyển Lương thảo bị gãy trục, người đàn ông đẩy xe tuổi trung niên lật nghiêng xe, tháo cái trục ra ngắm nghía mãi, hai bàn tay đen sì dầu mỡ. Làm bò kéo xe là một thiếu niên khoảng mười lăm tuổi trên đầu có cái nhọt mạch lươn, hai khóe mép lở loét, mình mặc chiếc áo cộc không có cúc, thắt lưng băng sợi dây thừng.

Chú hỏi:

- Sao vậy, bố?

Thì ra đó là hai bố con. Người bố mặt mày rầu rĩ, nói:

- Trục gãy rồi, con ạ!

Hai cha con hè nhau lôi cái bánh xe nặng chịch ra.

- Bố ơi làm thế nào bây giờ - chú hỏi.

Người bố ra chỗ cây bạch dương bên đường, chùi tay vào vỏ cây:

- Chẳng còn cách nào? Lúc này, một người đeo tiểu liên, cụt một tay, mặc quân phục mỏng đã cũ nhưng trên đầu lại đội một chiếc mũ da chó, người nghiêng nghiêng đi tới.

- Vương Kim, Vương Kim! - Người cụt tay giận dữ quát - sao tụt lại đằng sau hả? Có phải anh định làm mất mặt đại đội gang thép của chúng tôi?

- Thưa chỉ đạo viên - Vương Kim nhăn nhó - Xe tôi gãy trục rồi?...

Chỉ đạo viên cụt tay giận điên lên:

- Đ. mẹ, không gãy vào lúc khác mà lại nhằm vào lúc ra mặt trận? Đã bảo anh phải kiểm tra xe cho kỹ?

Chỉ đạo viên cụt tay càng nói càng cáu, khuôn mặt xám ngoét của anh ta khiến tôi lại nhớ tới Sạ nguyệt Lượng. Anh ta giơ cánh tay đặc biệt phát triển đánh Vương Kim một bạt tai. Vương Kim ối lên một tiếng, gục đầu xuống, máu chảy ra từ hai lỗ mũi.

- Ông là ai mà đánh bố tôi? - Chú bé chất vấn chỉ đạo viên. Chỉ đạo viên nói.

- Sao, không chịu hả? Giao Lương không đúng kỳ hạn thì tao bắn chết cả hai bố con!

Chú thiếu niên nói:

- Ai muốn gãy trục xe làm gì? Nhà cháu nghèo, chiếc xe này cháu mượn của cô cháu.

Vương Kim moi một ít bông trong tay áo đứt nút lỗ mũi, lầu bầu:

- Chỉ đạo viên, ông bất chấp cả lẽ phải!

- Lẽ phải nào? - chỉ đạo viên nghiêm mặt hỏi - đưa được lương thực ra mặt trận là lẽ phải, không đưa được lương thực ra mặt trận là không có lẽ phải. Các người đừng có ca cẩm nữa, dù phải cõng phải vác, cũng phải đưa hai trăm bốn mươi cân kê này tới trấn Đào Quan trong ngày hôm nay!

Vương Kim nói:

- Chỉ đạo viên, ông thường hay nói phải thực tế hai trăm bốn mươi cân... cháu lại nhỏ... tôi van ông đấy

Chỉ đạo viên ngẩng lên nhìn mặt trời, cúi xuống xem đồng hồ, ngoảnh nhìn ra tứ phía, bất chợt trông thấy cỗ xe nhà tôi, nhìn tiếp thấy cỗ xe bánh cao su của Vương Siêu. Vương Siêu có nghề cắt tóc kiếm tiền cũng khá, lại độc thân, có tiền mua thịt mua cá, dinh dưỡng tốt nên mặt mũi đầy đặn, nước da hồng hào chẳng ra dáng người làm ruộng. Chiếc xe nhỏ bánh cao su của anh ta, một bên là cái hòm đựng đồ nghề cắt tóc, bên kia là chiếc chăn hoa, bên ngoài chiếc chăn còn được bọc một tấm da chó. Chiếc xe được đóng bằng gỗ hòe gai; đánh một lớp véc ni, gỗ hòe nhẵn bóng, không những đẹp mắt mà còn rất thơm. Trước khi lên đường, anh ta còn bơm bánh xe thật căng đi trên đường rải đá, chiếc xe nhảy tâng tâng, xe nhẹ người khỏe, trong bọc giắt bình rượu, đi vài dặm lại gác càng xe mở nút làm vài ngụm, chân nhẹ tênh, miệng nghêu ngao dăm câu hát, anh ta là quí tộc trong đám dân tị nạn. Cặp mắt đen của chỉ đạo viên đảo như chớp, vừa mỉm cười vừa bước tới tỏ vẻ thân thiện:

- Các vị từ đâu tới?

Không ai trả lời anh ta, vì rằng khi hỏi câu ấy, anh ta nhìn vào cây bạch dương, thân cây có vết dầu mỡ mà anh dân phu vừa bôi lên. Những cây bạch dương màu xám, cây nọ tiếp cây kia, các cành vươn lên cao trong tư thế chọc trời. Nhưng ánh mắt anh ta nhanh chóng chuyển sang Vương Siêu, nét thân thiện trên mặt biến mất, thay vào đó là thái dộ nghiêm nghị như tượng trong đền.

- Anh thành phần gì? - Anh ta nhìn khuôn mặt bóng nhẫy của Vương Siêu hỏi.

Vương Siêu choáng váng, không hiểu đầu đuôi ra sao.

- Trông bộ anh - Anh cụt tay nói như đinh đóng cột - không địa chủ thì cũng là phú nông, không phú nông thì tiểu chủ, nghĩa là cái loại người ngồi mát ăn bát vàng chứ không sống bằng sức lao động của mình.

- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Oan cho tôi, tôi là thợ cắt tóc, sống bằng tay nghề, nhà chỉ có hai gian, ruộng không có, vợ con cũng không, một người ăn, no cả nhà, ăn hôm nay không biết có ngày mai. Nơi tôi vừa vạch xong thành phần, trên khu qui tôi là thợ thủ công, tương đương trung nông lớp dưới, thành phần cơ bản mà!

- Nói láo - Anh cụt tay nói - anh bẻm mép như vẹt cũng không qua được mắt tôi. Chúng tôi trưng dụng cái xe của anh!

Anh ta quay lại gọi cha con Vương Kim:

- Mau dỡ hàng xuống, chất lên xe này!

- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Chiếc xe này tôi tích cóp nửa đời người mới có, ông không được tước đoạt người nghèo.

Anh cụt tay nổi giận nói:

- Vì thắng lợi, ông đã hiến cả cánh tay. Cái xe rách của anh đáng mấy đồng? Các chiến sĩ ngoài tiền tuyến đang chờ lương thực mà anh dám chống lệnh hả?

- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Ông với tôi không cùng khu, cũng không cùng huyện, ông quyền gì mà trung dụng xe của tôi?

Anh cụt tay nói:

- Huyện nào khu nào cũng phải phục vụ tiền tuyến!

Vương Siêu nói:

- Không được, tôi không đồng ý!

Anh cụt tay quì một chân xuống đất, rút bút máy ra, dùng miệng mở nắp bút, lại lấy ra một mảnh giấy bằng bàn tay đặt lên đùi, nguệch ngoạc viết mấy chữ, hỏi:

- Anh tên gì? Huyện nào, khu nào?

Vuông Siêu trả lời từng điểm một.

Anh cụt tay nói:

- Tôi với Huyện trưởng Lỗ Lập Nhân là chiến hữu. Thế này nhé, xong trận này anh đưa giấy này cho ông ta, ông ta sẽ đền cho anh một chiếc xe.

Vương Siêu chỉ vào chúng tôi, nói:

- Thưa ông, đây là mẹ vợ Lỗ huyện trưởng, đây là cả gia đình!

Anh cụt nói:

- Bác ơi, nhờ bác làm chúng hộ, nói rằng tình hình khẩn cấp, chỉ đạo viên Quách Mạt Phúc của Đoàn dân công chi viện tiền tuyến khu Bột Hải có trưng dụng một chiếc xe của Vương Siêu, đề nghị anh Lỗ giải quyết chuyện đền bù cho thỏa đáng!

- Tốt rồi - Anh cụt nhét mảnh giấy vào tay Vương Siêu rồi giận dữ quát cha con Vương Kim - Còn chần chừ gì nữa? Mẹ kiếp! Giao lương không đúng hẹn, cha con anh thì ăn roi, còn tôi thì ăn đạn!

Quách Mạt Phúc chỉ vào mũi của Vương Siêu, nói:

- Mau dỡ đồ đạc của anh xuống!

Vương Siêu nói: - Thưa ông, ông bảo tôi làm thế nào bây giờ?

Quách Mạt Phúc vỗ tay vào báng súng lục, sầm mặt lại nói:

- Cứ phải lẩy cho anh một phát vào đầu mới xong phải không? Dỡ xuống! Mẹ kiếp, sao mà giác ngộ thấp thế! Tôi từng uống rượu tiết gà, kết bạn sinh tử với huyện trưởng nhà anh, anh xấu hay tốt tôi chỉ cần đá lưỡi một cái là xong!

Vương Siêu nhăn nhó nhìn mẹ:

- Bác ơi, bác làm chứng cho tôi nhé?

Mẹ gật đầu.

Cha con Vương Kim đẩy chiếc xe của Vương Siêu, vui như mở cờ trong bụng.

Anh cụt lịch sự gật đầu chào mẹ, không thèm ngó Vương Siêu - người đã hiến chiếc xe, rảo bước chạy theo đội ngũ.

Vương Siêu ngồi phịch xuống bó chăn, mặt dài như mặt khỉ, lẩm bẩm một mình: Sao mà mình xui thế không biết? Người khác chẳng sao, lại rơi đúng vào đầu mình? Mình có chơi xấu ai đâu mà đến nông nỗi này! Nước mắt chảy dài theo cặp má phúng phính, anh ta khóc như đứa trẻ lên ba.

Chúng tôi đã tới dưới chân quả núi lớn, con đường rải đá tẽ thành hơn chục con đường nhỏ ngoằn ngoèo bò lên núi. Buổi tối, những người tị nạn tụm năm tụm ba bàn luận những tin tức trái ngược nhau bằng đủ các giọng. Đêm ấy, mọi người ngủ qua đêm trong các bụi quán mộc. Từ mạn nam và mạn bắc vọng tới những tiếng nổ nặng nề, những tia chớp đầu nòng xé rách màn đêm. Vào lúc nửa đêm, không khí quánh lại và ẩm ướt, gần như có thé quơ tay mà nắm như nắm những sợi bông. Gió như những con rắn, luồn theo khe núi trơn tới, rung những lá vàng còn dính trên cây xào xạc. Tiếng cáo kêu thê tham trong hang. Tiếng hú của những con sói trong khe núi. Những đứa trẻ sắp chết rên như tiếng mèo hen. Ông già ho như gõ thanh la. Đúng là một đêm kinh khủng. Lúc trời sáng đã thấy mấy xác chết vứt trong khe núi, trẻ con có, người già có có cả trung niên. Cả nhà tôi sống sót là do chúng tôi đã chiếm được một bụi cây khá đặc biệt: những cây khác rụng hết lá, riêng nó thì còn nguyên, lại còn có một đống cỏ khô rất dày. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau, chiếc chăn duy nhất trùm lên dấu, con dê nằm sát sau lưng thành một bức tường che gió cho tôi. Cơ cục nhất là lúc nửa đêm về sáng, pháo nổ đùng đoàng phía nam càng tăng thêm cảnh tĩnh mịch trong những bụi cây, tiếng rên như cứa vào tim, khiến người nổi gai ốc, tai ong ong như có tiếng hát bội trong đó. Thực ra, đó là tiếng khóc ti tỉ của một phụ nữ.

Sương mù bám lấy chiếc chăn lạnh giá trên đầu. Trời mưa, mưa đông, những hạt mưa rơi trên chăn, mưa rơi loạt soạt trên những lá vàng khô của bụi quán mộc, rơi trên sườn núi, trên đầu dân tị nạn, rơi trên bộ lông vàng rộm và dày của những con sói đang hú. Hạt mưa rơi giữa chừng biến thành bột xốp, đến mặt đất lập tức đóng thành băng, hạt mưa tí tách, bóng đêm chứa ẩn bao điều huyền bí. Tôi chợt nhớ lại cái đêm ông ba Phàn giơ cao ngọn đuốc dẫn đắt chúng tôi ra khỏi cõi chết. Ngọn đuốc như con ngựa hồng nhảy nhót trong đêm tối. Đêm ấy tôi chìm trong hơi ấm của sữa, ôm bầu vú vĩ đại mà tưởng mình bay lên thiên đàng. Giờ đây ảo mộng đáng sợ lại bắt đầu. Luồng sáng màu vàng xuyên qua màn đêm như luồng ánh sáng trên máy chiếu phim của. Bác-bít, côn trùng bay trong luồng sáng như những chám trắng, một phụ nữ tóc dài tha thướt, áo màu mây hồng đính hàng ngàn vạn viên ngọc lấp lánh, lúc thì giống chị Lai Đệ, lúc giống Tiên Chim, lúc lại gíông Kim-Một-Vú, đột nhiên lại biến thành bà người Mỹ. Bà ta mỉm cười dịu dàng, ánh mắt sao mà đẹp, duyên dáng, mê hoặc, như đớp lấy hồn người ta, những giọt nước mắt lấp ló bên bờ mi, hàng lông mày cong vút, hàm răng trắng bóng cắn nhẹ môi dưới, đôi môi đỏ hồng. Sau đó bà lần lượt cắn nhẹ các ngón tay tôi, cắn nhẹ các ngón chân tôi. Thấp thoáng cái eo nhỏ, cái rốn xinh xinh như hạt anh đào. Tôi nhìn ngọc lên và bất giác nước mắt đâm đìa, nức nở thành tiếng: Hai bầu vú như đúc bằng vàng khối nạm hai viên ngọc thấp thoáng sau làn áo mỏng. Tiếng nói của người dẹp từ trên cao dội xuống, lạy đi, thằng nhỏ nhà Thượng Quan, đây là Thượng đế của nhà ngươi. Thì ra Thượng đế là hai bầu vú. Thượng đế có thể biến hóa, biến hóa đến vô cùng, anh mê say cái gì, Thượng đế sẽ biến thành nó để anh xem, nếu không, sao gọi là Thượng đế? Tôi không vươn tới được Người, Người cao quá!

Thế là bà ta sà thấp xuống, vén làn áo mỏng trước mặt tôi, mỏng như nước, vấn vương quanh núi. Thân hình bà chập chờn bất định, cặp vú Thượng đế của tôi có lúc chạm vào trán tôi, có lúc quệt ngang má tôi, nhưng không bao giờ chạm vào môi tôi. Tôi máy lần dưới lên như con cá vọt lên mặt nước, miệng há to nhưng toàn đớp hụt. Tôi giận dỗi, tôi sốt ruột, nhưng là giận dỗi trong hạnh phúc, sốt ruột trong hy vọng tràn trề. Bà mỉm cười, nụ cười ranh mãnh và đầy quyến rũ. Tôi không ghét sự ranh mãnh đó, vì sự ranh mãnh đó là mật ong, là búp sen hình bầu vú, là quả thảo mai ngậm sương có hình búp sen, là bầu vú có hình quả thảo mai bôi mật ong. Cái lúm đồng tiền của bà làm tôi mê mấn, chỉ một tiếng cười khiến tôi cảm động tới mức quì xuống ăn phân chó. Vì bà, tôi có thể ăn phân chó, dù rằng tôi là thằng con trai sống toàn bằng sữa. Bà không nên dập dờn như thế, tôi xin bà cho tôi cắn vào bà, tôi nguyện cùng bà bay lên chín tầng mây xem những con Ô Thước bắc cầu. Vì bà tôi có thể nắn miệng thành mỏ, khuôn mặt trở nên gớm ghiếc, trên người mọc lông tơ, hai vai mọc đôi cánh, hai chân mọc thêm vuốt, bọn trẻ nhà Thượng Quan chúng tôi, ai cũng có cảm tình với loài chim. Vậy thì người hãy mọc lông mọc cánh đi! Thế là toàn thân tôi đau đớn một cách kỳ lạ và sốt cao vì mọc lông mọc cánh.

- Kim Đồng, Kim Đồng!

Mẹ đang gọi tôi. Mẹ kéo tôi ra khỏi ảo giác. Mẹ và chị Cả xoa bóp chân tay tôi trong bóng tối, kéo tôi trở về từ chỗ ranh giới giữa cái sống và cái chết.

Trời mờ sáng. Tiếng khóc vang lên trong các bụi cây. Mọi người dùng tiếng khóc để biểu thị sự xót thương đối với người chết. Dưới tán lá khô vàng của bụi quán mộc và cái chăn có phủ lớp vải dầu, trái tim của bảy người trong gia dình tôi đang đập. Số thuốc của chị Phán Đệ cho, mẹ chia cho mỗi người một viên. Tôi không uống, mẹ nhét viên thuốc vào miệng con dê. Nó nuốt viên thuốc rồi ăn những lá khô trên bụi quán mộc. Băng bám đầy trên lá, trên cành cây, phủ một lớp trong suốt lên những hòn đá quạ dưới khe núi, tất cả đều phủ một lớp băng mỏng. Không có gió, mưa lạnh tiếp tục rơi, cành cây loạt soạt đường trên núi bóng loáng có thể soi gương.

Một người tị nạn dắt con lừa, trên lưng con lừa là cái xác của một phụ nữ, định men theo một lối mòn lên núi. Con lừa của anh ta ngã lên ngã xuống vì trượt chân.

Anh ta giúp con lừa, nhưng dùng súc quá mạnh nên ngã theo. Người và lừa trở nên lóng ngóng, cái xác của người phụ nữ lăn xuống khe. Trong thung lũng, một con báo gấm đang ngậm một cái xác trẻ con, đầu nặng đít nhẹ nên con báo ngất ngưỡng nhảy trên những tảng đá, nó nhảy liên tiếp cho khỏi ngã xuống nước. Người phụ nữ tóc xõa vừa gào khóc vừa đuổi theo con báo. Chị vừa lăn vừa bò trên tảng đá đóng băng, cằm rách, răng cửa gãy, gáy rỉ máu, móng tay gãy, cổ chân bị trẹo gân, tay trật khớp, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, nhưng chị không cho con báo được thở, đuổi đến cùng cuối cùng, chị tóm được đuôi con báo.

Mọi người rơi vào cảnh khó khăn, cử động là ngã, không cử động thì chết cóng. Không ai muốn chết, vậy là cái ngã đã làm mất mục tiêu của cuộc rút chạy. Ngôi miếu nhỏ trên đỉnh núi đã biến thành một đốm trắng lấp lánh, cây cối trên sườn núi cũng biến thành màu trắng. Trên độ cao ấy, mưa lạnh đã biến thành tuyết. Mọi người không dám trèo lên, chỉ loay hoay dưới chân núi. Chúng tôi nhìn thấy thi thể anh thợ cắt tóc Vương Siêu dưới gốc cây tượng thụ, anh ta dùng thắt lưng treo cổ dưới cành thấp nhất, cành cây cong như cánh cung, có thể gãy bất cứ lúc nào. Ngón chân anh ta chớm mặt đất chiếc quần dài tụt xuống đầu gối, chiếc áo khoác ngoài phủ kín mông nên không đến nỗi khó coi. Tôi chỉ nhìn thoáng qua khuôn mặt to bè tím ngắt và cái lưỡi lè ra như một mẩu vải rách rồi vội quay mặt đi. Vậy mà những hình ảnh ấy cứ ám ảnh tôi trong giấc ngủ. Không ai để ý đến anh ta. Mấy người có vẻ hiền lành đang tranh nhau cái chăn và tấm da chó của anh ta. Giằng đi kéo lại cuối cùng cắn xé nhau. Người to con đột nhiên hét tướng lên, cái tai vểnh của anh ta đã bị người bé nhỏ cắn đứt. Người bé nhỏ nhổ cái vành tai vào lòng bàn tay, cầm lên ngắm nghía, quăng trả người to con, rồi anh ta ôm bọc chăn và tấm da chó bỏ chạy, khéo léo tìm chỗ đặt anh sao cho khỏi ngã. Anh ta chạy đến bên một ông già, ông già giơ cây chống càng xe vụt cho anh ta một cái vào đầu. Anh ta ngã lăn ra như một bao tải gạo. Ông già tựa lưng vào thân cây, tay cầm cây gậy ba chạc bảo vệ cái chăn. Mấy kẻ liều mạng định đến cướp nhưng bị ông già chọc nhẹ một cái là ngã chổng bốn vó. Ông già mặc chiếc áo bông dài, thắt quanh người sợi thừng to bự, đầu thừng lủng lẳng cái tẩu và túi đựng thuốc hút. Ông có chòm râu bạc trắng bám đầy băng.

- Không sợ chết thì cứ xông vào!

Ông già thét chói tai, mặt dài ra, mắt đổi màu xanh lục. Mọi người hoang mang dãn ra.

Mẹ quyết định dứt khoát:

- Quay về, về nhà! Mẹ dựng xe lên rồi chập choạng đẩy đi. Trục xe sau khi bị nước mưa rít lên chói tai khi lăn bánh. Chúng tôi ra những người đầu têu. Nhiều người, cứ lặng lẽ đi theo chúng tôi, có người nhanh chóng vượt cả chúng tôi, lại rong ruổi trên con đường trở về quê cũ.

Băng vỡ dưới bánh xe, băng bắn sang hai bên, trời bổ sung bằng mưa lất phất, rồi đột nhiên trong mưa có những cục đá đánh rát vành tai và da mặt, cuối cùng là mưa đá. Cánh đồng hoang mênh mông rào rào như xay lúa. Chúng tôi giữ nguyên cung cách như khi đi, mẹ đẩy xe, chị Cả làm bò, gót chân chị nút nẻ gần như trông thấy xương. Chị kéo xe mà như múa ương ca. Mỗi khi xe bị chao nghiêng, chị cũng chao nghiêng, lần nào cũng như lần nào. Lục phản hồi của sợi thừng kéo căng làm chị ngã liền mấy bận. Chị vừa kéo vừa khóc hu hu. Tôi và Sa Tảo Hoa cũng khóc. Mẹ không khóc, hai mắt thâm quầng, mẹ mắm môi mắm lợi dồn hết tinh lục, vừa thận trọng vừa kiên quyết biến hai bàn chân tí xíu như hai bàn xẻng nhỏ tí bám mặt đất tiến lên từng bước chắc chắn. Chị Tám lặng lẽ đi sau mẹ, tay túm vạt áo, lon ton như một quả cà ủng trôi theo dòng nước.

Con dê của tôi là một con dê sáng giá. Nó theo tôi không rời nửa bước. Nó cũng ngã xoành xoạch, nhưng mỗi lần ngã lại bật dậy ngay lập tức. Để bảo vệ bầu vú cho nó, mẹ lấy miếng vải trắng trùm ngược vú, thắt hai nút trên lưng, lại còn lồng vào giữa hai miếng da thỏ để giữ hơi ấm. Tấm da thỏ khiến người ta nhớ lại thời kỳ yêu như điên như cuồng của Sa Nguyệt Lượng. Con dê ứa nước mắt, mũi phát ra những tiếng rên rỉ, đó là ngôn ngữ của nó. Hai tai nó nứt nẻ vì băng giá, bốn chân màu phấn hồng. Từ khi bầu vú được che ấm, nó trở thành con dê hạnh phúc nhất. Miếng vải và tấm da thỏ, ngoài tác~ dụng giữ hơi ấm, còn là vật để đỡ vú. Đó là một sáng tạo. Sau này, khi tôi là chuyên gia về nịt vú, tôi đã thiết kế kiểu nịt vú da thỏ cho phụ nữ vùng cao rét buốt.

Chúng tôi trở về với những bước chân vội vã, dự kiến giữa trưa thì về tới chỗ đường rải đá có ca bạch dương. ánh nắng chưa chọc thủng mây, nhưng đất trời đã hửng sáng. Con đường rải đá long lanh như ngọc lưu ly. Sau đó, băng mỏng bị những bông tuyết thay thế. Mặt đường, ngọn cây, đồng ruộng hai bên đường, rất nhanh chuyển sang màu trắng. Thường xuyên gặp những xác chết trên đường, xác người và xác súc vật, đôi khi có cả xác chim sẻ, chim thước, gà rừng. Chỉ có chim quạ là không chết, trên nền tuyết trắng, bộ lông con quạ càng đen nhánh. Chúng mổ xác chết, mỏ bị đau nên cất tiếng kêu than thở.

Vận may đã đến. Đầu tiên là tôi nhặt được nửa bao thức ăn gia súc, bã đậu trộn với cám mạch. Con dê ăn một bữa căng bụng, chỗ còn thừa để trên chân Câm anh, Câm em, che gió và tuyết cho chúng. Con dê ăn xong, liếm tuyết, nhìn tôi gật đầu. Tôi hiểu nó định nói gì.

- Tiếp tục tiến lên?

Sa Tảo Hoa nói nó ngửi thấy mùi lúa mạch cháy. Mẹ động viên nó lần theo mùi đó mà tìm, trong một căn nhà nhỏ dùng để trông phần mộ, chúng tôi lượm được hai bao lương khô trên người một binh sĩ đã chết. Thấy người chết nhiều nên không còn cảm giác sợ. Chúng tôi quyết định ngủ lại trong căn nhà đó. Mẹ và chị Cả kéo cái xác anh lính trẻ ra ngoài. Anh ta tự sát. Anh ta ôm súng trong lòng, miệng ngậm đầu nòng, dùng ngón chân cái lòi ra ngoài bít tất đẩy cò cho súng nổ. Viên đạn phá vỡ xương chẩm phía sau gáy. Chuột gặm hết tai của anh ta, gặm cả mũi, xương ngón tay trắng hếu như cành liễu bị bóc vỏ. Khi mẹ và chị Cả kéo cái xác ra ngoài, lũ chuột vằn mắt chạy theo. Để cảm ơn anh lính đã cho lương khô, mẹ dùng lưỡi lê của anh ta đào một cái huyệt nông choèn trên mặt đất băng giá chôn phần đầu của anh ta xuống đấy. Nấm đất nhỏ đối với vua đào hang là lũ chuột chỉ là trò đùa, nhưng lòng mẹ cũng đôi phần thanh thản.

Căn nhà chỉ chứa nổi cả nhà tôi và con dê. Chúng tôi dùng xe chặn cửa. Mẹ ôm khẩu súng trường dính óc của anh lính ngồi ngoài cùng. Lúc trời sắp tối, từng tốp dân tị nạn định chen vào trong đó không ít người có máu đạo tặc nhưng nhìn thây cây súng lăm lăm trong tay mẹ, họ đều sợ hãi bỏ đi. Một người đàn ông miệng rộng, mắt gườm gườm nhìn mẹ vẻ khinh miệt, hỏi:

- Biết bắn không? - Anh ta vừa hỏi vừa xông vào nhà. Mẹ giơ súng cản lại, mẹ không biết bắn. Chị Lai Đệ giăng lấy khẩu súng trong tay mẹ, giật cơ bẩm, cái vỏ đạn văng ra; đẩy cơ bẩm một viên đạn lên nòng, bẻ gập qui lát xuống, chĩa súng phía trên đầu hói đàn ông nổ một phát. Viên đạn cùng với tia lửa vút lên trời. Động tác thành thạo khiến tôi nhớ lại trang sử vẻ vang của chị trong những năm tháng cùng Sa Nguyệt Lượng nam chinh bắc chiến. Người đàn ông miệng rộng bỏ chạy như chó ăn đòn. Mẹ nhìn chị Lai Đệ băng ánh mắt cảm kích rồi nhích vào phía trong, nhường vị trí canh gác cho chị.

Đêm ấy tôi ngủ rất ngon, mãi khi mặt tròi tỏa nắng trên đại lục tuyết mới tỉnh dậy. Tôi muốn quì xuống van nài mẹ không nên rời căn nhà này, căn nhà mà phía trước có ngôi mộ sùng sững, không nên rời rừng tùng đen đội mũ bằng tuyết trắng. Đây là nơi đất lành, là phúc địa. Nhưng mẹ đã lên đường, khẩu súng có nước thép xanh dựng bên Lỗ Thắng Lợi, dưới tấm chăn rách. Trên đường, tuyết đầy đến nửa thước, lạo xạo dưới mỗi bước chân của chúng tôi và dưới bánh xe. Vấp ngã giảm hẳn, chúng tôi đi nhanh hơn. Tuyết chói mắt dưới nắng, người trông càng đen hơn, bất luận mặc quần áo màu gì cũng trở thành đen. Có thể, vì khẩu súng trong sọt và tài bắn súng của chị Lai Đệ khiến mẹ trở nên cứng cổ.

Buổi trưa, bọn tàn quân bỏ chạy từ hướng nam định lục soát xe của chúng tôi, mẹ dang thẳng cánh cho tên lính giả vờ cụt tay một cái tát nẩy lửa, bay cả mũ xuống đất. Tên lính bỏ chạy, không kịp nhặt mũ. Mẹ tiện tay nhặt cái mũ còn mới, chụp lên đầu con dê của toi. Nó chạy nhảy tung tăng với chiếc mũ lính trên đầu. Dân tị nạn đứng xung quanh mặc dù đói rét mụ cả người, cũng há cái miệng đen ngòm ra mà cười, tiếng cười thê thảm như tiếng khóc.

Lúc trời rạng sáng tôi uống no sữa dê, tinh thần sảng khoái, trí tuệ minh mẫn. Tôi phát hiện ra máy in và hòm công văn giấy tờ của huyện bỏ lại bên đường. Những người phu đi đâu cả rồi? Không rõ. Đội la đi đâu? Không rõ.

Mặt đường bắt đầu nhộn nhịp. Từng đội cứu thương từ phía nam rút về, trên cáng là những thương binh luôn miệng rên rỉ. Những dân công tải thương mồ hôi đầm đìa trên mặt, thở như kéo bễ, bước đi loạng choạng trên tuyết

Một số nhân viên áo bơ lu trắng, mũ trắng chạy theo đội tải thương. Một phu khiêng ngã bệt xuống đất, cái cáng lật sang bên, người bị thương ngã lăn ra. Người này băng kín mặt, chỉ hở hai con mắt và cái miệng tê tái. Anh ta vừa khóc vừa chửi:

- Đ. mẹ chúng mày, chết tao rồi?...

Anh ta khóc rồi chửi, chửi rồi khóc. Một nữ quân nhân có khuôn mặt trái xoan đeo túi cứu thương chạy tới. Thoạt nhìn tôi đã nhận ra đó là cô Đường, bạn chiến đấu của chị Phán Đệ. Cô chửi bới người phu khiêng thậm tệ, dịu dàng khuyên nhủ người thương binh. Những nếp nhăn đã xuất hiện rất nhiều trên trán, trên khóe mắt, cô nữ binh tươi tắn xưa kia, giờ đây đã trở thành một bà già khô héo. Cô hoàn toàn không nhận ra chúng tôi, mẹ cũng không nhận ra cô.

Những đội cứu thương kéo đi nườm nượp như không bao giờ hết. Chúng tôi đứng nép bên vệ đường để khỏi làm vướng họ. Cuối cùng, họ cũng đi hết, mặt đường phủ tuyết trắng tinh khiết giờ đây bẩn tới mức khó mà hình dung nổi, toàn là bùn và nước bẩn. Những chỗ tuyết còn nguyên trông chẳng khác làn da bị bỏng vì có những giọt máu rơi vào. Mũi chỉ ngửi thấy mùi tuyết tan và mùi máu, mùi mồ hôi chua loét. Chúng tôi đi tiếp, cứ phấp phỏng trong bụng, ngay cả con dê của tôi khi nãy nhảy tâng tâng vì được đội mũ lính, giờ đây cũng lấm lét chẳng khác lính mới lần đầu ra trận. Những người tị nạn tỏ ra do dự, tiến thoái lưỡng nan. Không nghi ngờ gì nữa, trước mặt là chiến trường, đi về phía nam có nghĩa là ra mặt trận, vào nơi rừng tên mũi đạn, mà đạn thì không có mắt, nó không nể gì anh, còn lính tráng thì như một lũ hổ, có kiêng dè ai. Mọi người đưa mắt nhìn nhau, không ai muốn cho người khác biết ý tứ của mình. Mẹ không nhìn ai, kiên quyết đẩy xe theo hướng về nhà. Tôi nhìn lại, thấy dân tị nạn có người đi ngược lên hướng đông bắc, có người đi theo chúng tôi. 

27 

  Trận tuyết đầu tiên của những năm hòa bình đã che lấp những xác chết. Những con bồ câu đói đi lại vụng về trên tuyết, tiếng kêu buồn bã của chúng chẳng khác tiếng núc nở của người đàn bà góa. Buổi sáng có tuyết, bầu trời trong suốt như nhìn qua lớp băng, trông vừa cao nhã vừa mới mẻ. Phương đông đỏ rục, mặt trời lên, bầu trời như ngọc lưu ly cao vạn trượng. Tuyết phủ kín mặt đất. Người ra khỏi nhà, hơi thở ra màu phấn hồng, đi trên tuyết lạo xạo, tay dắt bò dê, lưng địu hàng hóa, men theo cánh đồng phía đông của thôn đi về hướng nam, vượt con sông Mục đầy cua ốc và ếch nhái, đến khoảnh đất cao không có tên rộng chừng năm mươi mẫu để họp chợ, phiên chợ kỳ lạ của vùng Cao Mật: Chợ Tuyết, chợ họp trên tuyết, giao dịch mua bán trên tuyết và cử hành những lễ nghi trên tuyết. Đây là một nghi thức im lặng tuyệt đối, bất kể tình huống nào cũng không được nói, mở miệng nói là chuốc lấy tai họa. ở chợ tuyết, mọi người chỉ được nhìn thấy, được ngủi, được sờ mó, cảm thụ bằng trái tim, mà không được phép nói thành lời. Còn như nếu lỡ miệng nói một câu thì hậu quả như thế nào? Không ai hỏi, cũng không ai giải thích, làm như ai cũng biết, ai cũng hiểu, có điều không nói ra miệng đấy thôi.

Những người Cao Mật còn sống sót, phần lớn là phụ nữ và trẻ con, đều mặc quần áo ngày tết, lội tuyết đến chợ. Mùi tuyết lạnh xộc vào mũi như kim châm, phụ nữ đều lấy tay áo rộng che mũi và miệng, tuồng như để che hơi lạnh của tuyết, nhưng tôi thì cho rằng để không cho lời buột ra khỏi miệng. Trên đồng tuyết mênh mông chỉ có tiếng lạo xạo, người không nói nhưng súc vật thì không ai cấm đoán. Dê be be, bò ẩm bò, những con lừa ngựa sống sót sau chiến tranh hí hí, Những con chó điên cào bới xác chết, ngửa nhìn mặt trời tru lên như chó sói.

Trong thôn chỉ còn mỗi con chó mù của lão đạo sĩ Môn Thánh Vũ là không điên, chệnh choạng đi theo chủ. Trên khu đất cao có một ngọn tháp xây bằng gạch xanh, phía trước có ngôi nhà tranh ba gian, người chủ ngôi nhà là Môn Thánh Vũ, năm nay một trăm hai mươi tuổi. Ông cụ luyện phép tịch cốc, không ăn lương thực đã hai mươi năm nay. Người gầy như con ve sầu, ông cụ chỉ sống bằng những hạt sương. Sau này đi học, được biết con ve sống bằng nhựa cây, tôi suy ra rằng ông cụ không thể sống bằng những hạt suông. Một mình sống trên đồi cao, trước mặt là hàng vạn mẫu hoa màu, sau lưng là dòng sông đầy tôm cá và cái đầm mùa xuân và mùa hạ có bao nhiêu trứng chim, ông cụ thích ăn cái gì thì ăn. Nghiên cứu sự thần kỳ đã biến thành trần tục như thế nào thì có ý nghĩa gì? Thêm một ông thánh không ăn lương thực thì có gì xấu? Chiến tranh đã làm tổn thương ghê gớm trí tưởng tượng của người dân Cao Mật. Giờ đây đã hòa bình, là lúc nên khôi phục lại trí tưởng tượng đó. Nhóm lại Chợ Tuyết là một việc được mọi người hoan nghênh.

Trong con mắt người dân, lão đạo sĩ là một cao sĩ nửa người nửa tiên. Hành tung bí ẩn, bước đi nhẹ nhàng, đầu trọc như bóng đèn, chòm râu bạc rậm như bụi tơ hồng, đôi môi dày như môi la con mới đẻ, răng có màu như mặt trong của vỏ sò, mặt đỏ mũi đỏ, lông mày trắng và dài như cánh chim, mỗi năm đạo sĩ xuống thôn một lần, vào ngày đông chí. Cụ có một nhiệm vụ đặc biệt: Chọn Công tử Tuyết cho phiên chợ Tuyết, mỗi năm họp một lần. Nói được chọn là Công tử Tuyết có một chức trách thiêng liêng và được thù lao vật chất, vì vậy thôn dân ai cũng mong con trai mình được chọn. Công tử Tuyết năm nay là tôi, Thượng Quan Kim Đồng. Lão đạo sĩ đi khắp mười tám thôn vùng Cao Mật, cuối cùng chọn tôi. Điều này chứng tỏ tôi không giống mọi người. Mẹ tôi khóc vì sung sướng! Đôi khi ra phố, đám phụ nữ nhìn tôi bằng con mắt kính nể. Họ ngọt ngào hỏi:

- Công tử Tuyết ơi, khi nào thì có tuyết?

- Tôi cũng không rõ, không biết khi nào thì tuyết rơi!

- Công tử Tuyết mà không biết khi nào thì có tuyết?

- Hừm, không thể tiết lộ thiên cơ!

Mọi người mong có tuyết, riêng tôi lại càng mong. Chiều tối hôm trước mây hồng dầy đặc, chiều hôm qua tuyết bắt đầu rơi, lúc đầu nhỏ, về sau thì to, như những chiếc lông ngỗng, như những quả cầu nhưng. Tuyết bay đầy trời, che lấp tất cả. Vì có tuyết nên trời tối rất sớm. Cáo kêu ngoài đầm, những oan hồn đi vật vờ trên đường to ngõ hẻm, kêu khóc ầm ĩ. Tuyết rơi trên cửa sổ hồ giấy. Những đã thú trắng toát ngồi chục dưới bậu cửa, cái đuôi to tướng quật vào khung cửa bồm bộp. Đêm hôm ấy bụng tôi cứ phấp phỏng không yên, tôi trông thấy nhiều cảnh tượng kỳ lạ không hiểu thực hư ra sao. Nói ra thì thấy nó thường quá, chẳng thà không nói là hơn.

Trời chưa sáng hẳn mẹ đã đun nước cho tôi rửa mặt, rửa tay. Mẹ rửa rất kỹ hai bàn tay tôi, nói rằng rửa sạch tay cho con cún của mẹ. Mẹ còn lấy kéo sửa móng tay cho tôi. Cuối cùng, in vân tay màu đỏ lên trán tôi như cái nhãn hàng hóa. Mẹ mở cổng, thấy lão đạo sĩ đang đứng đợi. Cụ đem đến một chiếc áo dài màu trắng, một chiếc mũ màu trắng, đều may bằng lụa trơn bóng, sờ mát tay. Cụ còn đem cho tôi một chiếc phất trần bằng lông đuôi ngựa trắng. Cụ đích thân mặc quần áo cho tôi, bảo tôi đi vài bước trong sân

- Thiện tai - Cụ nói - Thế mới là Công tử Tuyết đích thực!

Tôi rất vênh váo, mẹ và chị Cả cũng rất vui. Sa Tảo Hoa nhìn tôi bằng con mắt ngưỡng mộ. Chị Tám nở một nụ cười mê hồn. Tư Mã Lương cười nhạt.

Hai người đàn ông khiêng chiếc kiệu bên trái vẽ rồng, bên phải vẽ phượng đến kiệu tôi đi. Người đi trước là phu kiệu chuyên nghiệp Vương Thái Bình, người đi sau là anh trai Vương Công Bình. Hai anh em đều có tật nói lắp. Mấy năm trước, để trốn quân dịch, Vương Thái Bình chặt đứt ngón tay trỏ, Vương Công Bình lấy bã đậu bôi vào dái, giả vờ bị bệnh sa dì. Trò bịp bị bóc trần, chủ nhiệm thôn Đỗ Bảo Thuyền chĩa súng trường vào mặt, cho hai anh em chọn lấy một trong hai con đường: một là bị xử bắn, hai là làm dân công thường trực, ra mặt trận cáng thương, vận tải đạn được. Hai người lắp bắp, không bao giờ nói được một câu hoàn chỉnh. Ông bố là Vương Đại Hải bị thọt chân vì ngã thang khi xây dựng nhà thờ, chọn giúp hai con trai con đường thứ hai. Phu kiệu chuyên nghiệp mà cáng thương thì còn phải nói, êm và nhanh, ai cũng ca ngợi. Hai anh em đều lập công. Khi phục viên, đoàn trưởng đoàn cứu thương Lục Thiên Lý tự tay viết giấy chúng nhận công lao của hai anh em. Cùng đi dân công với anh em Vương Thái Bình, có em trai của Đỗ Bảo Thuyền là Đỗ Kim Thuyền bị bạo bệnh mà chết. Hai anh em không quản đường xa ngàn dặm, khiêng thi thể Đỗ Kim Thuyền về quê, dọc đường trải qua bao gian khổ mới về tới nhà Đỗ Bảo Thuyền. Hai anh em vì nói lắp nên không nói rõ được đầu đuôi câu chuyện, mỗi người ăn hai cái tát của Đỗ Bảo Thuyền. Đỗ Bảo Thuyền cho rằng hai anh em mưu sát Đỗ Kim Thuyền. Hai anh em chìa giấy xác nhận của đoàn trưởng ra, Đỗ Bảo Thuyền giật lấy xé tan ra từng mảnh, khoát tay:

- Đào ngũ thì lúc nào cũng là đào ngũ!

Hai anh em oan ức quá mà không thể nói cho người khác hiểu nỗi khổ tâm của mình. Đôi vai được rèn luyện rắn như thép, chân bước rất có bài bản, ngồi trên cáng của họ êm như ngồi trên con thuyền trôi xuôi dòng nước. Cánh đồng tuyết trắng vang lên tiếng chó sủa xen kẽ tiếng thanh la.

Trên sông Mục cũng có một cây cầu đá, dầm cầu bằng gỗ thông. Chủ nhiệm phụ nữ thôn Sa Lương là Cao Trường Anh đang đứng trên cầu. Chị ta để tóc ngắn, cặp tóc dính con bướm nhựa, môi cong hở lợi màu tím. Chị ta có khuôn mặt thô như đẽo bằng rìu, cằm có râu. Chị ta nhìn tôi bằng ánh mắt nóng bỏng. Tôi biết chị đang ở góa, chồng chị bị xe tăng nghiền nát. Cây cầu rung rinh, những phiến đá lát cầu chạm vào nhau lạch cạch. Tôi qua cầu, ngoảnh lại nhìn, thấy từng hàng dọc dấu chân trên cánh đồng tuyết. Rất nhiều người vẫn cố đi về phía bên này. Tôi trông thấy mẹ và chị Cả cùng lũ trẻ nhà tôi, và cả con dê nữa. Mẹ không quên che bầu vú cho nó. Quên thì nó sẽ khổ. Tuyết dầy lút gối, chắc chắn bầu vú nó lết trên tuyết. Từ nhà tôi đến chợ Tuyết gần mười dặm, nó chịu sao nổi?

Anh em phu kiệu khênh kiệu lên đồi. Những người đến sớm mắt sáng lên chào đón tôi. Đàn ông, đàn bà, trẻ con mím chặt miệng để không nói, người lớn tỏ vẻ trang nghiêm, trẻ con nhăn nhó như khỉ.

Dưới sự hướng dẫn của lão đạo sĩ, họ khiêng tôi đến chỗ bệ đất hình vuông ở chính giữa cao điểm, trên bệ kê hai chiếc ghế băng, phía trước hai ghế băng là một cái lư trong có ba thẻ hương. Họ gác đòn kiệu lên ghế, tôi vẫn ngồi trong tư thế lơ lửng dưới đòn kiệu. Cái rét lặng lẽ cắn các ngón chân tôi như mèo đen, cắn tai tôi như mèo trắng. Hương cháy phát ra những tiếng động mơ hồ nghe như tiếng giun, từng đám tàn rơi xuống như nhà bi cháy sập. Khói hương chui vào lỗ mũi trái, chui ra lô mũi phải. Phía dưới bệ có chiếc lò đốt vàng mã, lão đạo sĩ đang đốt một thếp tiền giấy, ngọn lửa như những con bướm vàng, tàn giấy như những con bướm đen nhẹ nhàng bay lên, bay mệt thì rơi xuống tuyết và chết. Lão đạo sĩ cúi lạy trước đàn rồi đưa mắt ra hiệu cho hai người phu kiệu. Họ khiêng tôi lên, lão đạo sĩ trao cho tôi một cái gậy bọc giấy trang kim, đầu gậy treo chiếc bát bằng thiếc. Đây là quyền trượng của công tử Tuyết. Tôi vung cây gậy này là có tuyết rơi hay sao? Chỉ định tôi là Công tử Tuyết xong, lão đạo sĩ giới thiệu với tôi về người đã sáng lập ra chợ Tuyết. Đó là lão đạo sĩ Trần, sư phụ của lão đạo sĩ. Theo chỉ thị của Thái Thượng Lão Quân, lão đạo sĩ Trần sáng lập ra Chợ Tuyết, công đức viên mãn rồi, cụ hóa thành tiên, cư ngụ trên ngọn núi chọc trời, ăn quả thông, uống nước suối, từ cây tùng bay sang cây bách, từ cây bách bay vào trong động. Lão đạo sĩ giảng giải cặn kẽ cho tôi về nhiệm vụ của Công tử Tuyết. Bước thứ nhất là lập đàn thụ phong, việc này vừa làm xong; bước thứ hai là tuần du trong chợ, bước này đang tiến hành.

Đây là giờ phút oai vệ nhất của Công tử Tuyết, mười mấy tiểu hiệu mặc quần áo xanh đỏ, trong tay không cầm vật gì, nhưng giữ tay ở tư thế cầm loa, kèn, trống, thanh la, phùng mang trợn mắt như đang tấu nhạc, tay trái giơ cao ngang tầm vai, tay phải giơ chiếc dùi tưởng tượng, cứ ba bước lại gõ một tiếng y như thật. Anh em họ Vương chân như lò xo, mỗi bước lại nhún nhảy. Những người đi chợ tạm ngùng công việc giao dịch thầm lặng, trố mắt mà ngắm Công tử Tuyết. Những khuôn mặt quen và những khuôn mặt không quen trên nền tuyết trắng, đỏ như táo chín, đen như than củi, vàng như sáp ong, xanh như lá rau. Tôi khua quyền trượng trước mặt mọi người. Họ có vẻ hốt hoảng, giơ tay lên như để che chắn, miệng há to như chực kêu lên, nhưng không một ai dám kêu lên một tiếng. Một trong những nhiệm vụ thiêng liêng mà lão đạo sĩ yêu cầu ở tôi là, nêu có kẻ nào dám kêu lên một tiếng thì dùng cái bát bằng thiếc treo ở đầu quyền trượng úp vào miệng hoặc vào cằm của kẻ vi phạm bẩy ra một cái là người đó đứt lưỡi.

Tôi nhìn thấy mẹ, chị Cả, chị Tám, Sa Tảo Hoa, Tư Mã Lương trong đám đông câm lặng. Con dê của tôi không chỉ đeo nịt vú mà còn đeo khẩu trang hình chóp nón chụp kín cả miệng của nó, có hai dây bằng vải buộc lên sau tai. Những người nhà của Công tử Tuyết tuân thủ lệnh cấm nói đã đành, ngay cả con dê cũng im hơi lặng tiếng như người. Tôi huơ gậy về phía những người thân của tôi, họ cũng giơ tay lên chào lại. Thằng quỉ Tư Mã Lương khum bàn tay làm thành ống nhòm, nhìn về phía tôi. Sa Tảo Hoa mặt mũi tươi tắn như con cá biển vừa lên khỏi mặt nước.

Hàng hóa trong Chợ Tuyết có đủ các loại, chia theo nhóm hàng. Theo sự hướng dẫn ngầm của đội nghi trượng, tôi bước vào gian hàng giày dép. Gian này toàn là dép bện bằng cỏ bồ, nhân dân vùng Cao Mật đi giày này suốt mùa đông. Ông Hoàng Thiên Quí có năm con trai thì bốn người bị xử bắn, một người bị khổ sai. Lão chống cây gậy bằng cành liễu, râu bám đầy tuyết, trùm đầu bằng vuông vải trắng, chiếc bao tải rách khoác trên người. Lão cúi xuống giơ hai ngón tay để mặc cả với chủ quầy Cầu Hoàng Tản một đôi dép cỏ bồ. Lão Cầu giơ ba ngón tay đè hai ngón tay của lão Quí. Lão Quí khăng khăng giữ ý, lật hai ngón tay lên đè trên ba ngón tay của lão Cầu, lão Cầu lại lật ba ngón tay đè lên hai ngón tay của lão Quí. Bốn năm lần như vậy, lão Cầu tỏ vẻ bất lực, chọn trong xâu dép lấy ra một đôi đã mốc xanh. Hoàng Thiên Quí nghiến răng lại để biểu thị sự tức giận. Lão vỗ ngực chỉ lên trời, chỉ xuống đất, không hiểu nghĩa là gì hoặc không có nghĩa gì cả. Lão giơ gậy chỉ vào một đôi thật tốt, bện bằng phần gốc cỏ bồ. Lão Cầu gạt chiếc gậy của lão Quí, giơ bốn ngón tay kiên quyết đòi đúng giá. Lão Quí chỉ trời, vạch đất, lộn trái chiếc túi gai đeo bên mình. Lão cúi xuống tháo lấy đôi dép mà lão ưng ý, tụt chân khỏi đôi giày da há mõm, rồi lập cập xỏ chân vào dép. Sau đó, lão moi trong chiếc túi may thêm vào quần lấy ra một tờ giấy bạc nhàu nát ném xuống trước mặt lão Cầu. Lão Cầu mặt giận bừng bừng, chửi nhưng không dám chửi thành tiếng, chỉ giẫm bành bạch. Nhưng rồi lão cũng nhặt tờ giấy bạc lên, vuốt mép cho phẳng giơ cho mọi người xem. Những người xung quanh, kẻ đồng tình thì lắc đầu, kẻ hồ đồ thì cười mỉm. Lão Quí chống gậy đi ra, bước chân lệt sệt, chỉ cách nhau một tấc, hai chân lão cứng đờ như que củi. Tôi không có cảm tình với lão Cầu. Lão ta đã nói là miệng cứ như tép nhảy. Tôi thầm mong lão trong cơn tức giận buột miệng nói thành lời là tôi dùng cái bát thiếc kẹp lưỡi lão. Nhưng lão rất tinh, hình như đoán ra ý đồ của tôi. Lão nhét tờ giấy bạc vào chiếc dép rõ ràng là đã chuẩn bị từ trước, treo ở đầu đòn gánh. Hắn lấy cả đôi dép xuống, chỉ tay vào từng người thợ bện dép xung quanh đang trố mắt ra nhìn tôi, rồi lại chỉ vào những đồng tiền lẻ trong dép, rồi bằng một thái độ cung kính, lão lẳng đôi dép về phía tôi. Đôi dép rơi trúng bụng, lăn xuống chân tôi, mấy tờ giấy bạc lẻ văng ra, trên mỗi tờ đều có những con cừu béo tốt, đứng ngơ ngẩn như đang đợi cắt lông hoặc đem giết thịt. Tiếp tục tiến lên, lại có mấy đôi dép ném tới, trong dép có tiền lẻ.

Đến gian hàng bán cơm, người vợ góa của Triệu Giáp là Phương Mai Hoa đang rán bột mì trong một cái chảo đáy bằng. Hai đứa con của chị ta, một trai một gái ngồi trên chiếu, quấn quanh người bằng một chiếc chăn. Bốn con mắt mở thao láo. Bên cạnh bếp bày mấy chiếc bàn long chân, sáu người đàn ông bán chiếu đang ngồi ăn nhồm nhoàm. Bánh bột mì hai mặt rán vàng, ăn với súp rau, cắn một miếng bánh lại húp một miếng súp. Súp nóng, những người đàn ông miệng nhờn mỡ. Những gian hàng bên cạnh không có khách, chủ hàng đứng suông, gõ xoong nồi cho đõ buồn, nhìn sang gian hàng chị góa bằng ánh mắt ghen tỵ.

Khi chiếc cáng của tôi đi qua, chị góa Phương Mai dán đồng tiền vào chiếc bánh bao, nhẹ nhàng liệng về phía tôi. Tôi vội cúi đầu xuống, chiếc bánh rơi trúng ngực Vương Công Bình. Chị góa tỏ vẻ xin lỗi, lau tay bằng mảnh khăn đầy mỡ. Trên khuôn mặt tái xanh của chị là đôi mắt hõm sâu, xung quanh có quầng đen. Một người đàn ông cao và gầy đi tắt qua quầy bán gà, bước tới. Những con gà mái hoảng hốt kêu cục cục, bà bán gà nhìn ông ta gật đầu. Dáng đi của ông ta rất lạ, người thẳng đuỗn, cứ mỗi bước đi lại rướn lên một cái. Tôi nhận ra ông ta. Ông ta là Trương Thiên Tứ, môn đồ của đạo Hoạt nạn. Mọi người đặt cho ông ta cái biệt hiệu là Ông trời. Ông ta theo đuổi một nghề kỳ quặc: dẫn độ người chết về quê. Ông ta dùng tà thuật khiến người chết đi lại được. Vùng Cao Mật có rất nhiều người chết nơi đất khách quê người, nhờ ông ta dẫn về. Rất nhiều người nơi khác chết ở Cao Mật, nhờ ông ta dẫn về quê cũ của họ. Ai mà không kính nể một con người có khả năng dẫn người chết vượt trăm núi nghìn sông. Trên người ông ta lúc nào cũng phảng phất mùi tử khí. Những con chó dữ nhất trông thấy ông ta cũng cụp đuôi lỉnh mất. Ông ta ngồi xuống ghế băng trong gian hàng của chị góa, giơ hai ngón tay lên, chị góa cũng ra hiệu đáp lại, chị hiểu rằng ông ta định ăn hai mẻ năm mươi cái, chứ không phải hai hoặc hai mươi cái. Chị góa vội vàng chuẩn bị bánh bao cho ông ta vì ông thực khách to bụng này khiến chị mừng rơn, mắt sáng lên, còn những gian hàng bên cạnh thì mắt tối sầm. Tôi rất mong họ mở miệng, nhưng ghen tức mấy thì ghen tức, họ không chịu hé răng. Trương Thiên Tứ im lặng ngồi nhìn chị góa chuẩn bị, hai tay đặt trên đầu gối, một cái túi bằng vải đen lủng lẳng ở thắt lưng.

Không ai biết rằng, hồi cuối thu ông ta vừa có chuyện làm ăn lớn, dẫn độ một vong hồn khách thương Quan Đông làm nghề buôn bán tranh niên họa chết ở thôn Ngải Khưu vùng Cao Mật. Con trai người khách thương sau khi ngã giá với ông ta liền về trước để chuẩn bị. Đường đi trăm núi ngàn sông, ai cũng nghĩ ông ta không về được. Vậy mà ông ta đã trở về, xem ra thì mới về, cái túi vải kia chắc là túi tiền. Ông ta đi đôi giày cỏ rách tả tơi, để lộ những ngón chân sưng tấy bằng quả bí đỏ mới rụng rốn, gót chân to như khuỷu chân trâu. Em gái thằng Gật ôm một cây cải bẹ lớn đi ngang qua cáng, cặp mắt đa tình của cô ta liếc xéo tôi. Cánh tay ôm cây cái đỏ tía lên vì lạnh. Khi cô ta đi qua chỗ bếp của chị góa, tôi thấy tay chị góa run bắn. Kẻ thù gặp nhau. Nhưng cái thù giết chồng cũng không làm chị góa vi phạm qui ước của Chợ Tuyết, chị không nói thành lời nhưng tôi trông thấy máu đang sôi lên trong huyết quản chị. Căm thù nhưng không để lỡ chuyện kinh doanh, đó là cái giỏi của chị góa. Chị hốt trọn cả mẻ bánh vào cái liễn sứ, bê đến trước mặt Trương Thiên Tứ. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, chị góa hơi ngạc nhiên nhưng lập tức chị hiểu ra. Chị vỗ vỗ trán tự trách mình sơ ý. Chị dốc trong lọ lấy ra hai củ dưa hành vỏ tím đưa tận tay Trương Thiên Tứ và lấy cái bát nhỏ đổ đầy tương ớt coi như ưu đãi đặc biệt, đặt trước mặt Trương Thiên Tứ. Những người đàn ông bán chiếu bất mãn nhìn chị góa, lườm nguýt chị về thái độ ưu ái này. Trương Thiên Tứ thoải mái ngồi nhấm nháp một cách chậm rãi củ dưa hành, đợi bánh nguội. Ông ta kiên nhẫn tách từng nhánh hành, xếp chúng lên bàn ăn thành một hàng dọc theo thứ tự lớn nhỏ, thỉnh thoảng lại đổi vị trí của các nhánh cho phù hợp với trình tự đã định. Sau đó, lúc tôi đi sang gian hàng rau, từ xa tôi trông thấy Trương Thiên Tứ bắt đầu ăn bánh bao, ăn nhanh kinh khủng, không phải là ăn mà y như bỏ bánh vào chum!

Về chuyện Trương Thiên Tứ gọi hồn, đối với tôi, nó như một cái xương cá mắc trong họng, chừng nào chưa lấy ra thì tôi còn khó chịu. Đó là một buổi trưa gió rét căm căm, con trai của người khách thương Quan Đông thuê một cỗ xe ngựa và bốn người khỏe mạnh, chở thi thể bố anh ta từ thôn Ngải Khưu đến thôn tôi, hỏi thăm nhà Trương Thiên Tứ. Lúc đó, tôi cùng Tư Mã Lương đang chơi đùa trên phố. Tư Mã Lương dẫn đường cho họ. Ngôi nhà của Trương Thiên Tứ tọa lạc ở góc tây nam của thôn, tách hắn với những nhà khác. Tường vây rất cao, cổng đóng im ỉm, cánh cổng dán hai đạo bùa vẽ trên giấy vàng. Tư Mã Lương trỏ cái cổng cho con trai người khách thương rồi né sang một bên. Con trai người khách thương móc túi lấy ra một tờ giấy bạc nhét vào tay Tư Mã Lương rồi bước tới trước cổng, chần chừ một thoáng, cuối cùng cầm lấy cái vòng đập vào cánh cổng. Đập lần thứ hai, cánh cổng hé mở, ló ra khuôn mặt Trương Thiên Tứ bôi đầy chu sa.

- Đến rồi hả? - Ông ta hỏi.

Con trai người khách thương mặc chiếc áo dài cổ lông chồn, hất đầu về phía cỗ xe ngựa, không trả lời. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, nói:

- Đưa đây!

Con trai người khách thương lôi trong bọc ra một gói giấy, nói:

- Đây là tiền đặt cọc. Nếu ông đưa đến ngày mồng Bốn tháng Chạp thì tôi thưởng cho ông thêm một khoản nữa, khoản này là...

Trương Thiên Tứ nói:

- Không phải khoan kim cương thì khoan sao nổi vật rắn! Ông yên tâm đi, chuẩn bị ngày mồng Bốn tháng Chạp đón hỉ thần!

Con trai người khách thương nói:

- Nếu lỡ hẹn...

Trương Thiên Tứ nói:

- Lỡ hẹn thì tôi không lấy một xu.

Con trai người khách thương nói:

- Nếu như thiếu chân thiếu tay thì...

Trương Thiên Tứ nói:

- Thiếu gì trên người ông già thì cứ xẻo lấy trên người tôi mà bù vào?

Con trai người khách thương nói:

- Tôi vẫn cứ phấp phỏng thế nào ấy, từ đây đến quê tôi chí ít cũng nghìn dặm, trèo đèo vượt suối, qua sông qua đò...

Trương Thiên Tứ nói:

- Ông có gọi hồn hay không thì bảo? Không gọi nữa thì cuốn xéo! Đạo Hoạt nạn chúng tôi ba nghìn thầy trò, gọi hồn khắp cái đất nước Trung Quốc này chưa hề sai sót điều gì?

Con trai người khách thương nói:

- Xin ông đừng nóng, sao tôi lại không tin ông. Không tin ông thì tôi chở đến đây làm gì?

- Thôi được, thỏa thuận như vậy nhé, ngày mồng Bốn tháng Chạp tôi bày cơm rượu đón hỉ thần, anh em, khênh vào đi!

Bốn người đàn ông mặc áo chẽn, thận trọng chuyển cái xác sang một cái cáng tạm bợ. Xác chết to bằng con trâu, bụng bằng cái chum đựng nước, đầu hói quá nửa, trên mặt đậy tờ giấy vàng. Ông ta dễ nặng đến hai tạ, khi còn sống chắc là đi đứng khá vất vả, nay chết rồi thì làm sao vượt hàng nghìn dặm để về quê ở Quan Đông? Nhân tiện xin nói thêm, vùng đông bắc Cao Mật, kề một bên thôn lớn thuộc châu Bình Độ, đó là thôn Ngải Khưu. Bắt đầu từ đời Minh, họ sáng tác tranh niên họa vẽ trên giấy điệp, bán khắp ba tỉnh Quan Đông.

Hàng năm cứ vào đầu mùa đông, các lái tranh vùng đông bắc đều về đây trong khi đợi lấy hàng thì uống rượu chơi gái vì họ rất nhiều tiền. Thôi, không nói dông dài nữa. Cái xác của ông chủ thương nặng trĩu bên phải, hai người khiêng bên phải mồ hôi đầm đìa, hai người khiêng bên trái thì lại tương đối nhẹ nhàng. Đây chính là hiện tượng người chết nặng một bên. Bốn trai tráng khênh cáng vào trong cổng liền đặt xuống theo lệnh của Trương Thiên Tứ, đặt trên một chiếc chiếu cói đã chuẩn bị sẵn. Trương Thiên Tứ không lịch sự gì cả, nói luôn:

- Các vị ra ngay để tôi tiếp linh khí.

Con trai người khách thương còn định nói gì nữa, nhưng Trương Thiên Tứ đẩy tất cả ra ngoài cổng rồi đóng sập cổng lại. Bốn trai tráng như bị trúng tà khí, đứng ngây ra như phỗng. Con trai người khách thương rút tiền trả bốn người. Anh ta lại bước tới bên cổng ghé mắt nhìn vào trong. Không nhìn thấy gì, vì cổng nhà Trương Thiên Tứ không một kẽ hở. Lại áp tai vào cánh cổng nghe động tĩnh, nhưng bên trong im ắng như nghĩa địa. Tường vây xây bằng gạch cao hơn mái nhà, trên tường chăng dây thép gai, ngôi nhà của Trương Thiên Tứ khiến người ta kính nể, ngay cả Lỗ Lập Nhân và chị Phán Đệ khi phát động phong trào Bần Nông Đoàn cũng không dám vào nhà, mặc dù rất biết mức sinh hoạt của Trương Thiên Tứ hơn hẳn trung nông. Nhân vật bự thích nghịch nghiên mực từng tặng Bần Nông Đoàn một câu như sau: Đấu một trung nông hơn đập chết mười con thỏ đồng. Con trai người khách thương không biết làm thế nào, đành phải ra về cùng với bốn trai tráng. Mười mấy đứa trẻ chúng tôi nhìn những phù chú quái gở trên cánh cổng mà rợn tóc gáy, lặng lẽ rút lui. Không biết ai đã kêu lên: Ma đấy? Thế là chúng tôi co giò chạy, để đối phó với quỉ nhập tràng, chúng tôi chạy thẳng vào gốc cây cổ thụ, sắp chạm gốc thì rẽ đột ngột. Chạy ngay sau lưng tôi là Tư Mã Lương né không kịp, vêu cả môi lên khi dập vào gốc cây liễu.

Cái hôm Trương Thiên Tứ dẫn người chết ra đi, người trong thôn đã đến đợi sẵn ngoài cổng. Trời chưa sáng hẳn, vầng trăng tròn vành vạnh vẫn chưa lặn, chân trời phía đông lảng vảng mấy đám mây mỏng màu hồng, mặt trời chua mọc. Chúng tôi đứng im, cố nén cả tiếng hắt hơi. Không có gió, chỉ có hơi lạnh thấu quang, người khác thì tôi không rõ, riêng tôi run cầm cập. Phía đầm xa xa là màu kim nhũ. Mấy con ngỗng trời vươn cổ cong cong trên băng mỏng rúc mỏ vào trong cánh. Khói trắng cuồn cuộn trên ống khói nhà Trương Thiên Tứ, từng đám tàn giấy theo khói bay lên cao, một mùi lạ khiến người lộn mửa tỏa ra khắp nơi. Rồi lửa tắt, khói trắng cũng không bốc lên nữa, trong sân sáng mờ mờ, không một tiếng động, có thể nghe rõ tiếng đánh rắm của con ngỗng trời ngoài đầm. Cái mùi lạ càng đậm đặc khiến người ta phải lấy tay áo bịt mũi. Đợi rất lâu, cuối cùng cánh cổng mở ra, kẹt lên một tiếng như tiếng xé vải. Trương Thiên Tứ mình mặc áo chẽn màu đen, phía dưới mặc quần hẹp ống cũng màu đen, chân đi giày gai, đầu đội mũ dạ đen giống như cái nón, bước ra cổng. Ông ta khoác trên tay trái một chiếc làn, tay phải xách chiếc đèn lồng phết bằng giấy bồi. Trong đèn có ánh sáng leo lét ông ta đứng nghiêng bên cổng, nói nhỏ vào trong bằng một giọng cực kỳ nghiêm trang:

- Xin mời hỉ thần đi ra?

Dưới ánh trăng, cái xác chết to béo đứng trước bức tường ngăn làm bình phong, mặc chiếc áo dài đen rộng thùng thình không tay, cái đầu hói tròn xoay được quấn bằng một chiếc khăn đen, chụp lên khăn là một chiếc mũ cói. Phần dưới của áo choàng quét đất, do vậy không nhìn thấy chân. Các xác như một cây tháp biết đi. Chúng tôi không tin vào mắt mình. Cái xác cứng đơ nhưng rõ ràng là biết đi. Nó đi động theo ánh trăng, ra đến cổng thì dừng lại, thân hình to lớn chao đi một cái như sắp ngã. Nó có vẻ đầu nặng chân nhẹ, cái mùi rất gắt là từ trong áo choàng tỏa ra. Trương Thiên Tứ khóa cổng lại bằng một chiếc khóa to tướng bằng đồng. Ông ta đến trước mặt hỉ thần, ngồi xuống đốt một thếp tiền giấy. Chiếc áo dài của người chết phất phơ trong ánh lửa. Đốt vàng mã xong, Trương Thiên Tứ cúi lạy một lạy rồi đứng lên niệm thần chú. Niệm chú xong, ông ta đi trước, mặt xoay nghiêng, nói nhỏ: Hỉ thần, hỉ thần, xin hãy lên đường, trở về cố hương, chôn cùng tổ tiên. Con hiền cháu thảo, đêm ngày ngóng trông. Hỉ thần, hỉ thần, lên đường may mắn?. Đọc xong, ông ta rắc nắm tiền giấy rồi chậm rãi đi trước. ánh sáng leo lét của chiếc đèn lồng chấp chới như ma trơi. Cái xác hưởng ứng lời kêu gọi của Trương Thiên Tứ một cách miễn cưỡng, chậm rãi đi theo ông ta.

Cho phép tôi trở lại Chợ Tuyết. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, kiếm được một món tiền lớn trở về, Trương Thiên Tứ liền đi với cô hiếng trong tay ôm cây cải bẹ. Ông ta rửa sạch bụi đường trong ánh mắt tình tứ của cô ta. Nhiệm vụ tuần du Chợ Tuyết của tôi đã xong, dàn nhạc câm lại đưa tôi về trước cây tháp. Anh em họ Vương gác cáng vào chỗ cũ. Tôi cảm thấy hai chân tê dại, bàn chân buốt đến nỗi không dám chạm đất. Trong võng có mười mấy đôi giày cỏ và những tờ giấy bạc nhàu bẩn. Những tiền này là tiền dâng lên Công tử Tuyết, là của tôi vì đây là tiền thù lao cho tôi sắm vai Công tử Tuyết. Bây giờ nhớ lại, Chợ Tuyết đúng là ngày Tết của phụ nữ. Tuyết như một tấm chăn trùm lên mặt đất, tưới cho đất, khiến đất đai sinh sôi nảy nở. Tuyết là thứ nước của sinh nở, là tượng trưng của mùa đông, càng là báo hiệu của mùa xuân. Tuyết rơi, nghĩa là mùa xuân đầy sức sống đã nhảy lên lưng con tuấn mã, tới gần.

Dưới chân tháp có một tịnh thất nho nhỏ. Trong tịnh thất không thờ cúng thần tiên nào cả, thực tế là cúng vái ở ngoài tháp. Trong tịnh thất thắp hương vòng mùi thơm nhẹ nhàng, trước lư hương có một chậu gỗ to đầy tuyết trắng tinh, không một vết bẩn. Phía sau cái chậu là một chiếc ghế đẩu, đây là chỗ ngồi của Công tử Tuyết.

Tôi ngồi xuống ghế, nghĩ ngay đến nhiệm vụ cuối cùng khiến tôi vô cùng xúc động. Lão đạo sĩ vén tấm ri đô ngăn tịnh thất với bên ngoài, bước vào. Lão trùm lên đầu tôi chiếc khăn sa mỏng màu trắng. Theo lời dặn của lão, tôi hiểu trong khi thực hành chức trách, tôi không được vén chiếc khăn sa lên. Tôi nghe thấy tiếng chân lão đạo sĩ nhẹ nhàng đi ra. Trong tịnh thất chỉ có tiếng thở, tiếng tim dập của tôi. Bên ngoài, vọng tới tiếng chân dẫm lên tuyết lạo xạo của mọi người.

Một phụ nữ nhẹ nhàng tiến lại phía tôi. Qua tấm sa mỏng, tôi lờ mờ nhìn thấy người này có thân hình thanh mảnh, trên người toát ra cái mùi lông lợn cháy. Người này chắc không phải là dân trấn Đại Lan, rất có thể là người thôn Sa Lương. Thôn này có một cơ sở sản xuất bàn chải bằng lông lợn. Bất kể là người ở đâu, Công tử Tuyết đều coi như nhau. Tôi lập tức thọc hai bàn tay vào chậu tuyết để tuyết thiêng rửa sạch những gì ô uế trên tay tôi, rồi tôi giơ hai tay ra phía trước. Theo qui định, những phụ nữ đến cầu tự, đến xin được có nhiều sữa, đều vén áo lên, đưa vú đến tận tay Công tử Tuyết. Quả nhiên, hai khối thịt ấm và mềm mại đã chạm vào bàn tay lạnh giá của tôi. Tôi cảm thấy chóng mặt, qua hai bàn tay, luồng hơi ấm hạnh phúc lan khắp cơ thể tôi. Tôi nghe thấy tiếng thở khó kìm hãm của người phụ nữ. Hai bầu vú mềm mại như đôi chim bồ câu chững lại một thoáng rồi tuột khỏi tay tôi.

Cặp vú thứ nhất tôi sờ chưa đã, thì đã bay mất. Tôi hơi thất vọng nhưng càng hy vọng nhiều hơn, nhúng hai tay vào chậu tuyết để lấy lại sự tinh khiết thiêng liêng. Tôi hơi sốt ruột chờ đợi cặp vú thứ hai. Cặp vú thứ hai đã tới, lần này tôi không để chúng bay đi một cách dễ dàng! Tôi giơ bàn tay rắn chắc chộp lấy chúng. Chúng xinh xắn và rất dàn hồi, không mềm cũng không rắn, như chiếc màn thầu mới ra lò, không nhìn rõ chúng nhưng tôi biết chúng rất trắng, rất mịn, núm vú rất nhỏ, chỉ như hai cái nấm tí hon. Tôi nắm lấy chúng, thầm chúc cho chúng những lời tốt đẹp nhất. Bóp một cái, chúc chị đẻ sinh ba - ba đứa con bụ bẫm; bóp hai cái, chúc sữa chị tuôn trào như suối, bóp ba cái, chúc sữa chị vừa ngọt vừa thơm. Chị rên lên khe khẽ rồi giật mạnh ra. Tôi sững sờ vì bị giáng một đòn vào tình cảm, trong lòng rất đỗi hổ thẹn. Để tự trừng phạt, tôi thọc hai tay thật sâu vào chậu tuyết. Ngón tay tôi chạm vào đáy chậu trơn tuột cho đến khi hai tay tôi tê dại hẳn đi, tôi mới rút chúng ra. Công tử Tuyết giơ cao hai tay chúc phúc cho tất cả phụ nữ vùng đông bắc Cao Mật. Tình cảm của tôi bị tổn thương, hai bầu vú lõng thõng như hai cái bị chạm vào tay tôi. Tôi sờ chúng, chúng không chịu, kêu trong họng như con gà mái, mặt da nhăn lại. Tôi dùng hai ngón tay kẹp lấy cái đầu vú to tướng rồi nhả ra luôn. Người đàn bà phả vào mặt tôi hơi thở sặc mùi gỉ sắt. Công tử Tuyết coi ai cũng như ai, chúc bà thực hiện được nguyện vọng, thích sinh con trai thì sinh con trai, thích sinh con gái thì sinh con gái, muốn có bao nhiêu sữa thì có bấy nhiêu sữa? Bầu vú của bà sẽ luôn luôn khỏe mạnh, nhưng nếu muốn trở lại thời thanh xuân thì Công tử Tuyết bất lực!

Cặp vú thứ tư tính tình bạo liệt như con điều hâu, lông cánh màu nâu, mỏ cứng, cổ ngắn và khỏe. Cái mỏ cưng của chúng cứ mổ mổ vào lòng bàn tay tôi. Bên trong cặp vú thứ năm hình như có cả một tổ ong vò vẽ. Tay tôi vừa sờ vào, bên trong hến nổi lên những tiếng vù vù. Do va đập của lũ ong, nên bề mặt của vú nóng hôi hổi. Tay tôi rân rân như kiến bò, tôi gửi tới chúng những lời chúc mừng tốt đẹp!

Ngày hôm đó tôi sờ khoảng một trăm hai mươi cặp vú những ấn tượng về một số cặp tiếp nối nhau như một quyển sách, có thể giở từng trang. Nhưng tất cả những ấn tượng rõ nét ấy bị một chiếc vú cuối cùng làm đảo lộn tất cả. Nó như một con tê giác húc lung tung, tạo nên một trận động đất trong kho ký ức của tôi, hay như một con trâu rừng xông vào vườn rau, đẫm bẹp tất cả.

Khi đó hai bàn tay tôi đờ đẫn ra vì những cảm giác nóng bỏng, chờ đợi cặp vú sau để thực hiện chức trách của Công tử Tuyết. Vú chưa tới mà tôi đã nghe tiếng cười rúc rích quen thuộc. Má hồng môi thắm, mắt đen láy khuôn mặt ăn chơi của người phụ nữ trẻ có biệt hiệu là Kim Một Vú bỗng hiện ra trong đầu tôi. Tay trái tôi sờ trúng vú phải đồ sộ của chị, còn tay phải thì sờ vào khoảng không. Vậy là tôi biết chắc chắn Kim-Một-Vú đây rồi. Người phụ nữ phong lưu góa chồng buôn bán dầu thơm này suýt bị tử hình trong đại hội đấu tranh. Sau đó, chị lấy một người nghèo nhất trong thôn, nhà không một gian, đất không một tấc cắm dùi, một hành khất, tên là Nhỡn Phương Kim, trở thành vợ của cố nông đỏ. Chồng chỉ có một mắt, vợ chỉ có một vú, thật là một cặp trời sinh. Kim-Một-Vú được gọi là mụ Kim, mụ nhưng không già, về cách chơi độc đáo của chị ta vẫn được lưu truyền trong giới đàn ông trong thôn, tôi đã được nghe nhiều lần, hiểu mà không hiểu. Tay trái tôi nắm vú chị, chị dùng tay trái dẫn tay tôi sang bên phải. Hai tay tôi nâng bầu vú nặng chịch, to quá cỡ, cảm thấy hết sức nặng của nó. Chị hướng dẫn tôi sờ nắn từng phần da trên vú chị. Nó như một quả núi đơn côi, nghễu nghện trên ngực trái, nửa trên là bờ dốc thoai thoải, nửa dưới là nửa quả cầu hơi chúc xuống. Nó là chiếc vú ấm nhất trong những cái vú mà tôi đã sờ, nóng bỏng như da con gà trống bị bệnh đậu. Nó thật mịn màng, nếu không quá nóng, nó sẽ mịn hơn nữa. ở đầu mút của bán cầu dưới, trước hết là bộ phận nhô ra như một cái chén úp ngược, và phần cong ngược lên chính là núm vú. Nó khi mềm khi cứng như viên đạn bọc cao su, vài giọt sữa lành lạnh bám trên đầu ngón tay tôi. Tôi bỗng nhớ lại câu nói của Thạch Tân, anh chàng từng đi buôn lụa mãi tận miền nam xa xôi, nói với tôi trong lò sấy cỏ. ánh ta nói rằng, Kim Một Vú dâm như quả đu đủ xanh, hễ động tới là chảy nhựa trắng ra. Quả đu đủ giống Kim Một Vú ư? Tôi chưa trông thấy quả đu đủ, nhưng bằng vào cảm giác tôi hiểu rằng đu đủ là xấu, là mê hoặc người ra. Nhiệm vụ thiêng liêng của Công tử Tuyết đã bị Kim Một Vú lái trệch sang một lối khác. Bàn tay tôi như miếng bọt biển thấm lấy sức nóng trên vú chị, còn chị hình như thỏa mãn đến mức cao nhất qua những ve vuốt của tôi. Chị rên rỉ như lợn con, ghì nhặt đầu tôi vào ngực chị, ấp bầu vú nóng bỏng lên mặt tôi. Tôi nghe thấy chị lẩm bẩm:

- Bạn thân yêu, bạn thân yêu của tôi...

Qui ước của Chợ Tuyết đã bị phá.

Một câu nói là một tai họa.

Một chiếc xe Jeep màu xanh lá cây dừng lại trên bãi trống trước cửa nhà lão đạo sĩ, từ trên xe nhảy xuống bốn nhân viên công an mặc quân phục màu vàng, huy hiệu trắng đeo trước ngực. Họ nhanh nhẹn như những con báo, xông vào nhà lão đạo sĩ. Vài phút sau, lão đạo sĩ tay bị còng sấp ngửa chui ra. Lão đạo sĩ buồn bã nhìn tôi không nói gì, nhẫn nhục chui vào xe. Ba tháng sau, lão đạo sĩ Môn Thánh Vũ, tên đầu sỏ của một đạo phản động, tên gián điệp nằm vùng thường xuyên bắn pháo hiệu trên định dốc, bị bắn dưới cầu Đoạn Hồn ở huyện. Con chó mù của đạo sĩ bị bắn bể sọ khi nó rượt theo chiếc xe Jeep. 

28 

  Tôi hắt hơi một cái rõ kêu rồi tỉnh ngủ. ánh đèn dầu vàng vọt chiếu trên tường. Mẹ ngồi dưới đèn, tay mân mê tấm lông chồn, chiếc kéo lớn để trên đầu gối, cái đuôi con chồn rập rình trên tay mẹ. Tôi nhảy xuống giường, lập tức nước chảy như xối vào bô tiểu. Một người đàn ông mặc quân phục màu vàng, mặt mũi lấm lem, dáng như khỉ đột ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cạnh giường. Ông ta gãi bộ tóc hoa râm bằng những ngón tay co quắp, nét mặt nhăn nhó khó sở.

- Kim Đồng phải không? - Ông ta thận trọng hỏi tôi, cặp mắt đen tỏ vẻ thân thiện.

Mẹ bảo:

- Kim Đồng, đây là anh Tư Mã của con!...

Thì ra là Tư Mã Đình. Mấy năm không gặp, không ngờ ông ta thay đổi đến nông nỗi này. Còn đâu một Tư Mã Đình oai phong lẫm liệt khi làm trưởng trấn cầm súng quan sát trên chòi canh? Những ngón tay mũm mĩm như quả dưa chuột đâu rồi?

Khi hai người bí ẩn bắn vỡ đầu Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng thì Tư Mã Đình đang nấp sau máng cỏ trong chái hiên nhà tôi, nhảy dựng lên như con cá chép vọt lên khỏi mặt nước. Tiếng súng chát chúa như dùi nhọn đâm vào màng nhĩ. Ông ta sốt ruột đi vòng quanh cối xay như con lừa, hết vòng này đến vòng khác. Tiếng vó ngựa râm ran trong ngõ rồi xa dần như sóng thủy triều. Ông ta nghĩ, bỏ bà rồi, phải trốn thôi, không thể ở đây chờ chết? Sau đó ông ta may mắn chạy thoát. Sau khi được tin Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng đều bị bắn chết, ông ta cứ xuýt xoa mãi về sự may mắn của mình. Rơi vào tay họ, Tư Mã Đình này chắc chết! Khoan hãy nhắc đến chuyện là trưởng trấn, trưởng ban an ninh, chỉ riêng chuyện là anh trai Tư Mã Khố cũng đủ để họ băm vằm mình ra! Ngụy trang trên đầu bằng một nắm rơm, ông ta trèo qua mặt tường vây phía nam là nơi thấp nhất, rơi đúng một đống phân chó, ngã như trời giáng. Lúc này, nghe thấy tiếng ồn ào đầu ngõ, ông ta vội rúc vào một đống rơm, nằm đè lên một con gà mái và ổ trúng của nó. Ngay sau đó là tiếng đập cửa rất mạnh, rất thô bạo. Rồi có mấy người cao to, mặt bịt khăn đen, vòng ra chân tường, những cụm cỏ khô bị nghiền nát dưới những bàn chân hộ pháp. Người nào cũng tiểu liên trong tay, hùng hùng hổ hổ, vọt qua tường nhanh như én liệng, trông rất giống những vệ sĩ của nhân vật bự. Ông ta không hiểu bọn này vì sao lại che mặt. Sau khi được tin Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng đầu bị bắn chết, cái đầu rối tinh của ông ta chợt lóe lên, hình như ông ta đã rõ chuyện. Những người kia nhảy vào trong sân. Tư Mã Đình cố sống cố chết rúc sâu hơn nữa, chờ đợi tình hình ngã ngũ ra sao.

- Chú Hai là chú Hai, tôi là tôi! - Tư Mã Đình bảo mẹ - chuyện ai người ấy bàn!

Mẹ bảo:

- Vậy thì gọi là bác vậy. Kim Đồng, đây là bác Tư Mã!

Tôi gật đầu nhìn những ngón tay co quắp của ông ta rồi lại lồm cồm bò lên giường chui vào trong chăn. Trong lúc mơ màng để đi vào giấc ngủ, tôi nhìn thấy ông ta lấy ra một tấm huân chương đưa cho mẹ, giọng ề à có vẻ ngượng:

- Thím này, tôi đã lập công chuộc tội rồi đấy?

Tư Mã Đình lợi dụng bóng đêm chạy ra khỏi thôn. Nửa tháng sau, ông ta bị đưa vào đội tải thương, cặp đôi với một thanh niên mặt đen, khiêng một cáng. Tôi nghe ông ta thì thào kể lại những điều kỳ lạ mà ông ta đã trải qua như một thiếu niên dựng chuyện để biện bạch cho những sai lầm của mình. Cái đầu nặng trĩu tóc của mẹ lắc lư dưới ánh đèn, da mặt như dát vàng, đôi môi đường nét phân minh hơi cong lên, mẹ mỉm cười tỏ vẻ châm biếm.

- Những chuyện tôi kể đều rất thật - Tư Mã Đình phân bua - Tôi biết thím không tin, nhưng cái huân chương này thì chắc chắn không phải tôi làm ra, mà phải đổi bằng cái đầu của tôi đấy?

Có tiếng kéo cắt tấm lông chồn, mẹ nói:

- Anh Tư Mã, có ai bảo anh bịa chuyện đâu?

Tư Mã Đình và chàng thanh niên mặt đen cáng ông trung đoàn trưởng bị trúng đạn ở ngực, sấp ngửa chạy qua cánh đồng. Máy bay lượn trên trời, sáng lóa màu xanh của thép. Đạn pháo và các cỡ đạn kéo theo những đuôi lửa dài vạch dọc vạch ngang bầu trời, đan thành một lưới lửa dày đặc và biến hóa muôn màu muôn vẻ. ánh chớp của đạn pháo và tiếng nổ rền như sấm, soi rõ những bờ ruộng ngoằn ngoèo và mặt ruộng mấp mô đầy cuống rạ rắn đanh sau khi gặt hái. Các dân công tải thương chạy tán loạn trên cánh đồng, nháo nhào không còn biết chạy theo huống nào. Tiếng kêu thê thảm của thương binh râm ran trong đêm tối.

- ối mẹ ơi, đau chết mất?... Tiểu đội trưởng ơi, làm ơn cho tôi một phát, tôi không chịu nổi nữa!...

Chỉ huy dân công là một phụ nữ tóc cắt ngắn, tay cầm đen pin có tua lụa đỏ, đứng trên bờ ruộng thét to:

- Không được chạy lung tung, phải bảo vệ thương binh!...

Giọng chị ta rất rè, như miết gót giày trên cát khô. Những ánh chớp xanh soi rõ khuôn mặt chị ta. Chị quàng chiếc khăn mặt trắng quanh cổ, thắt lưng da cài hai quả lựu đạn chày và chiếc ca sứ. Đây là một phụ nữ cực kỳ tháo vát. Ban ngày, chị mặc chiếc áo màu đỏ ớt dẫn đội cáng thương chạy như sóc trên hỏa tuyến. Chị như một con bướm màu không ăn nhập với cảnh trận mạc chút nào.. Hàng vạn phát đại bác cày xới cánh đồng, biến mặt đất đông cứng thành tơi xốp như trong vụ xuân. Lúc trời còn sáng, Tư Mã Đình trông thấy một đóa hoa bồ công anh nở bên cạnh đám tuyết bị máu nóng làm tan thành nước. Dưới chiến hào ngột ngạt, các binh sĩ đang xúm lại ăn cơm, nhưng bánh màn thầu trắng tinh, những củ hành muối màu trắng ngà, miệng nhai rau ráu, ăn như vũ bão. Mùi thức ăn khiến Tư Mã Đình rỏ nước miếng. Những phu tải thương lôi những nắm cao lương khô cứng ra để gặm, nét mặt nhăn nhó khổ sở. Họ trông thấy chiến hào trước mặt, vị nữ đại đội trưởng nhởn nhơ như con bướm đang cười đùa với một cán bộ thắt lưng giắt khẩu súng lục, vừa cười vừa đi theo chiến hào tới chỗ họ.

Nữ đại đội trưởng nói:

- Thưa các đồng chí, trung đoàn trưởng Lã đến thăm các đồng chí!

Đám dân công gượng đứng dậy. Tư Mã Đình nhìn đôi lông mày rậm trên khuôn mặt đỏ như táo chín của trung đoàn trưởng, nghĩ mãi không ra lai lịch của người này.

Trung đoàn trưởng tỏ vẻ khách sáo:

- Mời các đồng chí ngồi xuống!

Đám dân công ngồi xuống, tiếp tục ăn. Trung đoàn trưởng nói:

- Cảm ơn bà con, các vị vất vả quá?

Đám dân công phần lớn im lặng, chỉ có mấy người hô to:

- Thủ trưởng khỏe!

Tư Mã Đình vẫn không nhớ ra đã gặp người này ở đâu.

Trung đoàn trưởng tỏ vẻ quan tâm bữa ăn đạm bạc và những đôi giày rách nát của đám dân công. Trên khuôn mặt như tạc bằng gỗ đàn hương của ông ta, thoáng một chút thương hại. Ông ta gọi to:

- Liên lạc đâu? Một chiến sĩ thân hình nhỏ bé, men theo chiến hào chạy tới.

- Bảo lão Điền đem tất cả bánh bao còn lại đến đây. Chú liên lạc chạy đi như bay.

Trung đoàn trưởng nói:

- Bà con cố chịu đựng một chút. Cách mạng thắng lợi, chúng ta sẽ có màn thầu ăn hàng ngày.

Trung đoàn trưởng đích thân chia bánh, mỗi người một chiếc kèm theo nửa củ hành. Khi trung đoàn trưởng đưa cho Tư Mã Đình chiếc bánh màn thầu còn bốc hơi, bốn mắt gặp nhau, Tư Mã Đình liền nhớ ra người trung đoàn trưởng mặt như táo chín này chính là Lã Thất, trung đội phó trung đội lừa thuộc Chi đội Tư Mã Khố mấy năm về trước. Lã Thất cũng nhận ra Tư Mã Đình. Anh ta nắm vai Tư Mã Đình bóp mạnh một cái, nói nhỏ:

- Ông Cả, ông cũng ra mặt trận à?

Tư Mã Đình thấy cay nơi sống mũi, định nói câu gì đó với Lã Thất, nhưng Lã Thất đã quay sang nói với đám dân công:

- Thưa bà con, xin cảm ơn, không có sự ủng hộ của bà con thì cách mạng không thể thắng lợi!

Khi cuộc tổng công kích bắt đầu, Tư Mã Đình và người bạn khiêng cáng của ông ta phục trong chiến hào thứ hai nghe tiếng rít của pháo bầy bay qua đầu và tiếng nọ long trời chuyển đất xa xa. Kèn hiệu vang lên, các binh sĩ hò hét xông lên. Nữ đại đội trưởng đứng thẳng dậy hét to:

- Xông lên cứu thương binh

Chị ta vọt khỏi chiến hào, tay giơ cao quả lựu đạn. Đạn vãi như trấu xung quanh, cắm phầm phập xuống đất. Sắc mặt chị trắng nhợt nhưng không phải vì sợ. Đám dân công dè đặt đứng lên trong hào sâu đến ngang ngực, khom người theo bản năng. Một dân công nhỏ con vụng về trèo lên mép chiến hào, tràng đạn nổ xung quanh khiến anh ta lại lăn xuống vừa khóc vừa gọi:

- Đại đội trưởng, tôi bị thương rồi?

Nữ đại đội trưởng nhảy xuống hào hỏi:

- Bị thương ở chỗ nào?

Anh dân công nói:

- Đũng quần tôi nóng ran lên.

Nữ đại đội trưởng kéo anh ta đứng dậy. Chị nhíu cặp lông mày tuyệt đẹp, nhăn mũi đánh hơi, giọng khinh bỉ:

- Đồ thỏ đế, ỉa đùn ra quần rồi!

Chị ta đập nhẹ quả lựu đạn vào vai anh dân công, nói to: -

Các đồng chí, các vị đều là bậc tu mi nam tử, chẳng lẽ không bằng một phụ nữ như tôi?

Lời khích của nữ đội trưởng quả nhiên có tác dụng, đám dân công ào ào xông lên.

Tư Mã Đình đứng lên, trông thấy người khiêng cáng với mình nằm run như cầy sấy dưới chiến hào.

- Anh bạn, anh làm sao thế? - Ông ta hỏi nhưng người kia không trả lời.

Tư Mã Đình cúi xuống lật ngửa anh ta lên, chỉ thấy anh ta mặt tái nhợt, răng nghiến chặt, hàm răng đánh cầm cập, nước bọt sùi ra hai bên mép.

- Tư Mã Đình, ông còn đợi gì nữa? Sợ chết hả? - Nữ đại đội trưởng trợn mắt hỏi.

- Đại đội trưởng,... - Tư Mã Đình lúng túng - Có lẽ anh ta trúng gió độc?

- Mẹ kiếp, lúc nào chẳng trúng, lại trúng ngay lúc này! - Nữ đại đội trưởng vừa chửi vừa nhảy xuống hào, đá vào người anh kia. Anh ta nằm yên. Chị ta lấy lựu đạn gõ vào đầu gối, anh kia vẫn không cựa quậy. Chị ta lồng lên, y hệt con báo gấm trong chuồng. Chị ta vặt một nắm cỏ ở mép chiến hào nhét vào miệng anh bị trúng gió, dỗ dành: ăn đi, ăn đi, trúng gió ăn cỏ là tỉnh, ăn đi nào! Chị ta dùng chuôi lựu đạn đẩy cỏ vào trong miệng anh kia, Anh kia rên lên một tiếng rồi ngước cặp mắt trắng đã lên. Cách này hóa ra hiệu nghiệm. Nữ đại đội trưởng nói, vẻ đắc ý:

- Hứa Bảo, Hứa Bảo, lên đi, thương binh đã chuyển xuống rồi?

Anh thanh niên có tên là Hứa Bảo này rên rỉ vịn mép hào đứng lên. Chân tay anh ta hãy còn run, các bắp thịt trên mặt co giật, khi trèo lên mép hào, chân tay anh ta mềm nhũn. Tư Mã Đình lôi chiếc cáng lên, kéo anh thanh niên chạy theo. Hứa Bảo mỉm cười nhìn Tư Mã Đình tỏ vẻ cảm kích. Nhìn nụ cười quái dị của Hứa Bảo, Tư Mã Đình thấy trong lòng đau nhói. Ông ta không bao giờ quên được nụ cười đó.

Họ xách cáng, loạng choạng chạy theo nữ đại đội trưởng. Tuyết bị dẫm nát trộn lẫn với bùn, từng đống vỏ đạn va vào nhau lạo xạo. Đạn bay chíu chíu, đạn pháo dựng lên từng cột khói, những tiếng nổ lớn rung chuyển cả đất dưới chân. Theo sau ngọn cờ hồng, các binh sĩ ùa lên như nước vỡ bờ. Phía trước, khẩu liên thanh đặt sau bức tường đất cao, rống lên ông ổng như chó dại, những tia lửa xòe ra như nan quạt, các binh sĩ xung phong bị đốn gục từng mảng. Khẩu súng phun lửa từ sau bức tường phụt lửa cuồn cuộn như rồng lộn, các binh sĩ xung phong như nhảy múa trong vầng lửa, la hét khiến người nghe sởn gai ốc. Có binh sĩ thoát được ra ngoài, lăn lộn dưới đất để dập lửa trên người. Có binh sĩ bị rồng lửa trùm lên, nhảy nhót như điên, mặt méo xệch vì đau rát và vì sợ hãi, rồi chỉ trong chớp mắt là gục xuống, mùi khét của thịt người cháy xộc vào mũi và lan rộng ra, khiến đám binh lính và dân công lộn mửa. Trong tầm nhìn hạn hẹp của Tư Mã Đình, đã thấy đám binh sĩ đổ rạp như những cây gỗ mục. Hứa Bảo bỗng ngã lăn ra, kéo Tư Mã Đình ngã theo. Miệng ông ta vừa chạm đất thì một loạt đạn nóng bỏng quật ngã mấy người dân công phía sau. Súng phun lửa réo ù ù, những quả thủ pháo xì khói, lăn lông lốc, phát nổ đùng đoàng, những mảnh đạn bằng hạt đậu xé rách không khí.

- Mẹ ơi, hôm nay không thoát chết, mẹ ơi!

Hứa Bảo hai tay ôm đầu, chổng mông lên, chiếc quần bông thủng lỗ chỗ, lòi cả bông bẩn ra. Những binh sĩ xung phong đều là những tay cừ khôi. Họ hò hét vừa cúi xuống thấp vừa nhả đạn, dẫm lên thi thể chiến hữu của mình và băng tuyết nhuốm đầy máu, xông lên chỗ bức tường vây theo hiệu kèn và ngọn cờ hồng rách tơi tả bất kể sống chết leo lên tường, trèo bằng thang, bằng dây thừng. Những thân hình từ trên cao rơi xuống cùng với tiếng rú thê thảm. Những thân người rơi xuống dưới chiến hào đóng băng, co quắp, lăn lộn, lết đi bất kể đi đâu.

Nữ đại đội trưởng nằm cách Tư Mã Đình một khoảng không xa, hai tay thọc sâu vào bùn, mông chị bốc khói trắng. Quần chị bén lửa. Chị lăn tròn trên tuyết, bốc đất nhét vào lỗ thủng trên quần. Các chiến binh trèo lên bức tường vây, tiếng reo đinh tai nhức óc, súng bắn như vãi đạn. Nữ đại đội trưởng chạy lên được mấy bước bỗng gục xuống như bị trúng đạn, chắc là rất đau. Chị bật dậy chạy tiếp, chị khom người mà chạy như cây cao lương đã thành thực. Chị lôi ra một người từ đống xác chết rồi kéo trở lui. Chị kéo một cách vất vả như con kiến tha mồi, đến trước mặt Tư Mã Đình và Hứa Bảo. Đó là trung đoàn trưởng Lã Thất. Anh bị mấy vết thương ở ngực, máu chảy, bọt máu đùn ra, vết thương rộng đến nỗi trông thấy phổi đang phập phồng.

- Cáng về tuyến sau, mau lên! - Nữ đại đội trưởng ra lệnh.

Hứa Bảo cứ đứng ngẩn ra mà nhìn nữ đại đội trưởng. Nữ đại đội trưởng giận điên lên, quát to:

- Đồ khốn!

Tư Mã Đình vội vàng mở cáng ra đặt trung đoàn trưởng Lã lên. Cặp mắt nâu của trung đoàn trưởng Lã nhìn Tư Mã Đình một thoáng tỏ vẻ áy náy rồi nhắm lại.

Họ khiêng cáng chạy trở lui, đạn đuổi theo chíu chíu như tiếng chim. Tư Mã Đình khom người xuống mà chạy, nhưng chạy như vậy rất khó, ông ta liền đứng thẳng lên mà chạy, sống chết có số, ông ta nghĩ. Vậy là bạo dạn hẳn lên, chân bước thanh thoát hơn.

Tại trạm cứu thương, các y tá băng tạm cho trung đoàn trưởng rồi cho cáng tiếp về phía sau để đưa vào bệnh viện. Lúc này mặt trời đã ngả về tây, nơi đường chân trời có vầng mây hồng, dày và đặc quánh. Cây dâu cổ thụ đứng trơ trọi giữa đồng không mông quạnh, cành lá vấy đầy máu, thân cây ướt mèm như đổ mồ hôi. Dưới sự chỉ huy của nữ đại đội trưởng, các cáng tải thương dần dần tập trung ở một ruộng lúa. Máy bay đã bay đi. Trên nền trời màu tím, những ngôi sao nhấp nháy trong ánh chớp của đạn pháo. Cuộc chiến vẫn tiếp tục Các dân công vừa đói vừa mệt. Tư Mã Đình dù sao thì tuổi đã cao, lại cặp đôi với một anh vừa bị trúng gió, nên càng mệt đứt hơi. Ông đứng mà ông không cảm thấy mình có chân hay không, mồ hôi trong người đã chảy hết từ ban ngày, giờ đây tại ruộng lúa, trên người ông chỉ còn rỉ ra một chất nước dính và sau đó ông cảm thấy lục phủ ngũ tạng khô héo đi như quả mướp khô. Trung đoàn trưởng Lã là con người thép, anh cắn răng chịu đau không rên một tiếng. Tư Mã Đình luôn cảm thấy mình khiêng trên vai một xác chết, mùi tử khí thi thoảng lại tạt vào mũi ông.

Nữ đại đội trưởng chỉnh đốn lại đội ngũ rồi ra lệnh xuất phát về tuyến sau. Chị ta khuyên mọi người không nên dừng lại để nghỉ, vì dừng lại là không dậy nổi nữa. Họ theo nữ đội trưởng qua sông. Mặt băng rạn vỡ vì đạn pháo. Hứa Bảo bước hụt, ngã xuống nước. Tư Mã Đình cũng ngã theo. Chàng thanh niên này như cố ý tự tử hay sao mà cởi luôn dây cáng trên người, chui luôn xuống lỗ băng mất hút. Trung đoàn trưởng Lã đau quá chịu không nổi, bật ra những tiếng rên rỉ. Nữ đại đội trưởng túm lấy một đầu cáng, cùng khiêng với Tư Mã Đình, thất thểu về đến bệnh viện hậu phương. Chuyển thương binh xong, đám dân công liền nằm lăn ra đất. Nữ đại đội trưởng nói:

- Đừng nằm, các đồng chí ơi!

Nhưng chửa nói hết câu, chính chị cũng nằm lăn ra.

Trong một chiến dịch sau đó, Tư Mã Đình bị mảnh đạn tiện đứt ba ngón tay phải. Ông ta cắn răng chịu đau, cõng một trung đội trưởng bị gãy chân về tuyến sau.

Sáng sớm, lúc ngủ dậy, trước tiên tôi ngửi thấy mùi thuốc lá, rồi trông thấy mẹ ngồi ngủ trong ghế dựa kê sát tường, một dòng nước bọt trong suốt chảy ra từ khóe mép. Tư Mã Đình ngồi ngủ gật trên chiếc ghế bên giường như con điều hâu đậu trên chạc cây. Mặt đất vương vãi những mẩu thuốc.

Cô Kỷ Quỳnh Chi mà sau này là cô giáo chủ nhiệm lớp tôi, từ huyện về trấn Đại Lan phát động phong trào cải giá cho phụ nữ. Cô đem theo một số cán bộ nữ hung hăng như ngựa hoang, tập trung tất cả phụ nữ lại để giảng giải ý nghĩa của chuyện cải giá. Sau đó, như phân phối gà mái, họ ghép đôi những phụ nữ góa chồng với những người đàn ông độc thân. Ngay cả ông Đỗ thọt cũng được chia một chị góa trẻ măng, da trắng nõn, mắt có nhài quạt. Khi chị góa này trông thấy cái chân đầy mủ hôi thối của ông Đỗ, chị khóc như mưa như gió, xin chị cán bộ cho phép không lấy ông ta. Chị cán bộ sốt ruột nói:

- Khóc cái gì? Chân rỉ ra mủ thì có gì đáng sợ? Chỉ cần chim không chảy mủ là được rồi?

Trong cuộc vận động này, những phụ nữ góa chồng nhà Thượng Quan trở thành vật cản. Chị Cả Lai Đệ không ai lấy, vì các vị biết rằng chị đã từng có quan hệ với Tư Mã Khố, cũng là người đã hứa hôn với Tôn Bất Ngôn, mà hai người này đều không hiền lành chút nào. Mẹ ở trong độ tuổi mà Kỷ Quỳnh Chi qui định phải tái giá nhưng mẹ kiên quyết không chịu. Cô cán bộ La Hồng Hà vừa bước vào nhà liền bị mẹ chửi cho một trận, đuổi ra.

Mẹ mắng:

- Cút, tôi còn lớn tuổi hơn mẹ cô!

Điều kỳ lạ là khi Kỷ Quỳnh Chi đến khuyên nhủ thì mẹ lại nhẹ nhàng hỏi: - Cô định gả tôi cho ai? Thái độ của mẹ đối với Kỷ Quỳnh Chi so với La Hồng Hà khác nhau một trời một vực, chỉ xảy ra cách nhau vài tiếng đồng hồ.

Kỷ Quỳnh Chi nói:

- Bác ạ, người trẻ thì không xứng đôi người lớn tuổi một tí thì chỉ có Tư Mã Đình. Lý lịch ông ta tuy có vết, nhưng sau đó ông ta đã lập công, lấy công bù tội. Hơn nữa, quan hệ của hai nhà không xa lạ như những gia đình khác.

Mẹ cười buồn:

- Cô này, em trai ông ta là rể của tôi?

Kỷ Quỳnh Chi nói:

- Thế thì đã sao?

Lễ cưới tập thể của bốn mươi lăm phụ nữ góa chồng được tổ chức trong nhà thờ dột nát. Tôi căm lắm, nhưng tôi vẫn đến dự. Mẹ ngồi trong đám các bà góa, một thoáng đỏ mặt trên sắc da tái xanh của mẹ. Tư Mã Đình đứng trong đám đàn ông, luôn vuốt tóc bằng những ngón tay cụt không hiểu là để khoe mẽ hay để che giấu sự bối rối.

Kỷ Quỳnh Chi thay mặt Chính phủ tặng khăn mặt và xà phòng cho các cặp vợ chồng mới cưới. Trưởng trấn phát cho họ giấy đăng ký kết hôn. Mẹ cầm khăn mặt, giấy đăng ký kết hôn mà mặt đỏ như gấc, như một cô gái cả thẹn.

Trong lòng tôi bùng lên ngọn lửa căm ghét. Mặt tôi nóng bừng, xấu hổ thay cho mẹ. Trên tường nhà thờ, nơi xưa kia treo tượng chúa Giêsu thì nay toàn là bụi. Trên cái bục mà xưa kia mục sư Malôa làm lễ rửa tội cho tôi thì nay chen chúc một lũ đàn ông đàn bà không biết xấu hổ. Họ co ro cúm rúm, lấm la lấm lét như kẻ cắp. Mẹ tóc đã hoa râm mà phải kết hôn cùng anh trai con rể. Không, ý nghĩa thật sự của kết hôn là Tư Mã Đình ngủ cùng giường với mẹ một cách công khai. Bầu vú to bự của mẹ sẽ bị Tư Mã Đình chiếm hữu, giống như Tư Mã Khố, Bác-bít, Sa Nguyệt Lương, Tôn Bất Ngôn đã chiếm hữu bầu vú của các chị tôi. Nghĩ đến đây, nỗi đau như khoan vào tim, những giọt lệ căm phẫn ứa ra khỏi mắt tôi. Một nữ cán bộ rắc những cánh hoa nguyệt quế lên đầu các cô dâu, những cánh hoa khô héo rơi lả tả như một trận mưa bẩn thỉu, như những lông chim rơi xuống đầu mẹ, mái đầu hoa râm nhưng trơn bóng vì mẹ chải bằng dầu vỏ cây du.

Tôi chạy ra khỏi nhà thờ như một con chó dại. Trên đường phố già cỗi, tôi trông thấy rất rõ mục sư Malôa với chiếc áo chùng đen đang thủng thẳng bước đi, mặt đầy bùn đất, mái tóc đầy những mầm lúa mạch. Hai con mắt ông như hai quả nho tím, lạnh băng, ánh mắt đau xót.

Tôi lớn tiếng thông báo cho ông về việc Tư Mã Đình đã kết hôn với mẹ, nhìn thấy những thớ thịt co giật trên khuôn mặt đau khổ của ông, thân hình ông và cả chiếc áo choàng đen trong khoảnh khắc tan ra từng mảnh rồi biến thành một cụm khói đen, bay đi.

Trong sân, chị Cả đang vươn cái cổ trắng nõn để gội mái tóc dày của chị. Khi chị cúi xuống, hai bầu vú trắng hồng tuyệt đẹp của chị khoan khoái cất giọng du dương như chim vàng anh. Khi chị đứng thẳng lên, những giọt nước nối đuôi nhau chảy giữa khe vú. Chị đưa hai tay ra sau gáy vấn tóc, nheo mắt nhìn tôi rồi cười nhạt.

- Biết chưa? Mẹ lấy Tư Mã Đình - Tôi bảo chị.

Chị không nói gì, chỉ cười nhạt một tiếng. Mẹ dắt chị Ngọc Nữ, trên tóc còn vương những cánh hoa nhục nhã, bước vào trong nhà. Tư Mã Đình len lén theo sau. Chị Cả bưng chậu nước gội đầu hắt mạnh ra sân, nước bay thành vòng cung, trắng xóa. Mẹ thở dài, không nói gì. Tư Mã Đình móc trong túi ra tấm huân chương đưa cho tôi, không hiểu là để lấy lòng hay để khoe. Tôi nghiêm nghị nhìn vào mặt ông ta, trên mặt ông là một nụ cười giả dối. Mắt ông né tránh cái nhìn của tôi, ông giả vờ ho khẽ để che giấu sự lúng túng. Tôi ném chiếc huân chương đi, nó bay như con chim qua nóc nhà.

Mẹ giận dữ nói:

- Đi nhặt về đây!

Tôi vùng vằng, nói:

- Không nhặt!

Tư Mã Đình nói:

- Thôi, để cũng chẳng làm gì!

Mẹ đánh tôi một bạt tai.

Tôi nằm lăn xuống đất, lăn lộn như con lừa tắm khan. Mẹ dùng chân đá tôi, tôi chửi cay độc:

- Đồ mặt dày, đồ mặt dày!

Mẹ sững người, đầu gục xuống ngực rồi đột nhiên gào khóc ầm ĩ, vừa khóc vừa đi vào trong nhà. Tư Mã Đình thở dài, ngồi xổm hút thuốc dưới gốc cây lê. Hút xong mấy điếu thuốc, Tư Mã Đình đứng dậy bảo tôi:

- Cháu khuyên mẹ đừng khóc nữa!

Ông móc túi lấy tờ đăng ký kết hôn xé vụn, quẳng xuống đất rồi bỏ đi. Nhìn từ sau lưng, ông đã già thật sự. 

29 

  Chiếc kính lão mà mắt kính bằng đá thạch anh là quà của Tư Mã Khố thời hoàng kim tặng thầy dạy vỡ lòng Tần Nhị nhân dịp sinh nhật của thầy. Giờ đây thầy đeo món quà phản cách mạng đó ngồi trên bục giảng xây bằng gạch, hai tay cầm quyển sách giáo khoa dạy chữ quốc ngữ, kéo dài cái giọng run rẩy yếu ớt như đôi chân của thầy, giảng cho lớp Một chúng tôi - lớp Một đầu tiên của vùng Cao Mật, gồm những học sinh cao thấp không đều, tuổi tác chênh nhau khá xa. Chiếc kính nặng, trễ xuống giữa sống mũi cong queo của thầy, một giọt nước trong vắt treo lủng lẳng ở chóp mũi và cứ ở đấy không chịu rơi. Con dê to to..., thầy ngân nga. Mặc dù đang là tháng Sáu nóng nực, thầy vẫn đội chiếc mũ lông, mặc chiếc áo chùng màu đen. Con dê to to..., chúng tôi nhại giọng thầy đọc theo, hai tay cầm sách nhưng mắt không nhìn vào sách. Con dê bé bé..., thầy dẫn đọc bằng một giọng buồn thảm. Nóng ngột ngạt, trong nhà thờ vừa tối vừa ẩm, chúng tôi cởi trần, chân đất, mồ hôi mồ kê đầm đìa, nhưng thầy vẫn khăn áo chỉnh tề, mặt tái nhợt, đôi môi thâm tím như đang bị rét cóng. Con dê bé bé... chúng tôi đọc rõ to. Mùi khai nồng nặc, nhà thờ chẳng khác cái chuồng dê. Dê to dê bé chạy trên núi... Dê to chạy, dê bé kêu... Tôi hơi nghi ngờ sách giáo khoa. Căn cứ vào kinh nghiệm phong phú của tôi về loài dê thì con dê nào bầu vú quết đất thì không thể chạy, nó đi còn khó, nói gì đến chạy? Dê bé kêu thì có thể, chạy cũng có thể. Trên những vạt cỏ hoang, dê lớn ung dung gặm cỏ, dê nhỏ vừa chạy vừa kêu. Tôi rất muốn giơ tay hỏi thầy nhưng không dám. Trước mặt thầy là một cái thước kẻ, chuyên để đánh vào lòng bàn tay. Dê to ăn nhiều... dê bé ăn ít... Câu này thì đúng, dê to tất nhiên ăn nhiều hơn dê bé, dê bé tất nhiên ăn ít hơn dê to. Dê to to, dê bé bé, dê ăn no cỏ, dê quay đầu về.

Thầy vẫn đọc không mệt mỏi, nhưng trong lớp thì dần dần trở nên mất trật tự. Vu Vân Vũ mười tám tuổi, con trai một cố nông, to cao khỏe mạnh như con ngựa choai. Anh ta đã lấy Lam Thủy Liên, vợ góa một ông bán đậu phụ làm vợ. Lam Thủy Liên lớn hơn anh ta mười tuổi, bụng đã mang trống. Anh ta sắp làm bố. Anh chàng sắp sửa làm bố Vu Vân Vũ rút khẩu súng lục đã han gỉ giắt ở thắt lưng, giơ lên nhắm vào cái ngù đỏ trên mũ thầy. Dê to chạy... dê to... pằng!, ha ha ha. Thầy ngẩng lên, nhìn qua phần trên của mắt kính nên thầy chăng nhìn thấy gì cả. Thầy lại đọc tiếp. Dê to... pằng! Vu Vân Vũ bắn một phát súng miệng, chiếc ngù đỏ trên mũ thầy lắc lư. Cả lớp cười ầm, thầy vớ lấy cái thước đập đánh chát xuống bàn, quát to như quan tòa:

- Yên lặng!

Lại tiếp tục đọc.

Quách Thu Sinh mười bảy tuổi con trai một bần nông rời chỗ ngồi, lom khom trèo lên bục ra phía sau lưng thầy, hai chiếc răng cửa dài như răng thỏ cắn môi dưới, hai tay làm bộ ôm lấy đầu thầy giơ lên hạ xuống như thả đạn súng cối mà đầu thầy thì như nòng pháo, bắn liên hồi. Cả lớp hỗn loạn, học sinh cười nghiêng ngả, thằng Từ Liên Hợp to bự đấm xuống bàn rầm rầm, thằng Phương Thư Trai béo quay thì xé nát sách vở tung lên trời, những mẩu giấy bay như bươm bướm.

Thầy giáo đập thước liên hồi xuống mặt bàn cũng không làm sao hết cảnh nhốn nháo. Thầy nhìn xuống dưới lớp để tìm nguyên nhân. Quách Thu Sinh như một thằng điên, liên tục làm những động tác nhục mạ thầy trên đầu thầy. Những đứa trên mười lăm tuổi gào thét như điên cuồng.

Bàn tay Quách Thu Sinh chạm vào vành tai thầy. Thầy ngoảnh lại túm ngay được.

- Đọc thuộc lòng đi! - Thầy nghiêm giọng bảo.

Quách Thu Sinh đứng thõng hai tay trên bục làm ra vẻ hiền lành, nhưng khuôn mặt thì làm ngáo ộp. Nó chụm miệng cho môi dẩu ra như một cái rốn, nhắm một mắt lại cho miệng méo xệch sang một bên, nghiến chặt răng để hai tay vẫy vẫy.

- Đọc thuộc lòng đi! - Thầy gầm lên.

Quách Thu Sinh đọc: Bà to to, bà bé bé, bà to rượt đuổi bà bé té...

Trong tiếng cười như điên của bọn học trò, thầy Tần cầm thước, chụp lấy tay Quách Thu Sinh để lên bàn.

- Thằng ranh con này, bốp!

Cái thước vụt mạnh vào lòng bàn tay Quách Thu Sinh. Nó chỉ kêu lên một tiếng cộc lốc. Thầy nhìn nó một cái rồi lại giơ thước lên, nhưng tay thầy dừng lại giữa chừng vì trông thấy nét mặt hung hãn của tên lưu manh, cặp mắt đen rầm, những tia mắt hằn học đầy vẻ khiêu khích. Cặp mắt gà của thầy Tần đột nhiên dịu lại, cái tay cầm thước rũ xuống. Thầy lẩm bẩm điều gì đó, gỡ kính bỏ vào chiếc hộp kính bằng sắt, đậy chiếc giẻ lau kính lên trên, đậy nắp lại rồi bỏ vào túi. Thầy cũng cho luôn vào túi cái thước đã từng đánh Tư Mã Khố, rồi thầy bỏ mũ vái Quách Thu Sinh một vái, quay xuống lớp vái một vái nữa, nói với lớp bằng một giọng chua loét, nghe vừa khó chịu vừa thương hại:

- Thưa các ông lớn, Tần Nhị tôi chậm hiểu ngu lâu, không lượng súc mình, dám châu chấu đá xe, đánh chết mà không chết, mà không chết thì là đạo tặc. Tôi biết tội đã nhiều, rất mong các vị lượng thứ!

Nói xong thầy chắp tay trước bụng vái mấy vái rồi khom lưng tôm, nhón gót nhẹ nhàng đi ra khỏi nhà thờ. Từ bên ngoài vẳng lại tiếng ho đầy nước mắt của thầy. Bài học đầu tiên kết thúc là như vậy. Bài thứ hai là âm nhạc.

Âm nhạc. Cô giáo Kỷ Quỳnh Chi trên huyện cử về, dùng chiếc thước chỉ vào hai chữ viết bằng phấn trắng trên bảng đen, giọng lanh lảnh:

- Tiết này chúng ta học âm nhạc. Không có sách giáo khoa, sách giáo khoa ở đây ở đây ở đây! - Cô chỉ vào đầu, ngực và bụng mình. Cô quay mặt lại bảng đen, vừa viết vừa nói. - Âm nhạc bao gồm nhiều thứ, thổi sáo này, kéo nhị này, ca hát này, diễn kịch này... đều là âm nhạc, bây giờ các em chưa hiểu thì sau này sẽ hiểu. Ca hát là hát nhưng không hoàn toàn là hát, ca hát là một hoạt động âm nhạc quan trọng, và cũng có thể nói là một nội dung quan trọng của môn nhạc ở một trường tiểu học hẻo lánh như trường chúng ta. Hôm nay ta học một bài hát. Cô viết cành cạch trên bảng. Qua cửa sổ nhìn ra cánh đồng, tôi trông thấy Tư Mã Lương bị tước quyền đến trường vì là con phần tử phản cách mạng, thấy Sa Tảo Hoa, con gái Hán gian đang chăn dê, ngẩn ngơ nhìn vào lớp học. Chúng đứng trong vạt cỏ cao lút đầu gối, sau lưng là mười mấy cây hướng dương thân mập, lá to bản, hoa vàng rực. Cái bản mặt hoa hướng dương sao mà buồn, lòng tôi càng buồn hơn. Tôi liếc nhìn những cặp mắt long lanh trong cảnh u ám mà ứa nước mắt. Tôi ngắm nghía chiếc khung cửa sổ bằng gỗ liễu, thầm mong mình biến thành con chim họa mi, tắm mình trong ánh nắng rực rỡ của một chiều tháng Sáu, đậu trên dài hoa hướng dương đầy những con sâu nhỏ. Bài hát hôm nay chúng tôi học là bài Phụ nữ giải phóng ca. Cô giáo cúi viết nốt những lời cuối cùng của bài hát. Bờ vai của cô tròn lẳn như mông ngựa. Một mũi tên bằng gỗ, phần đuôi cắm lông gà, phần mũi gắn cục nhựa đào, bay vụt bên tôi, trúng vào mông cô giáo. Lớp học nổ ra một trận cười khả ố. Thằng Đinh Kim Câu ngồi sau lưng tôi là thằng bắn phát tên đó. Nó giơ cây cung lên để khoe, rồi giấu vội đi. Cô giáo dạy nhạc rút cái tên ở mông ngắm nghía, cười một tiếng rồi phóng xuống mặt bàn, cái tên rung lên rồi đứng yên.

- Bắn giỏi đấy! - Cô bình tĩnh nói.

Cô bỏ roi xuống, cởi áo quân phục đã bạc màu để lên bục giảng, một cô giáo hoàn toàn khác trước với chiếc áo sơ mi trắng bỏ trong quần, thắt lưng da to bản, vì dùng lâu ngày nên lên nước đen bóng. Vòng eo nhỏ, ngực nhô cao, mông nở, chiếc quần bộ đội ống rộng, giặt nhiều đến nỗi biến thành màu trắng, chân đi đôi giày thể thao hợp thời trang. Cô ăn mặc sao mà thanh thoát, sao mà gọn ghẽ. Để càng thanh mảnh hơn, cô còn thít thêm một nấc dây lưng. Miệng mỉm cười, cô đẹp như con hồ ly trắng. Nụ cười vụt tắt cô tàn nhẫn như con cáo trắng.

- Các em vừa làm cho thầy Tần tức giận bỏ đi, anh hùng nhỉ?

Cô nói mỉa, rút cái tên ở bàn lên, dùng ba ngón tay nắn nắn, nói:

- Một cung thủ đáng gờm đây, Lý Quảng hay Hoa Vinh đây? Có dám đứng dậy xưng tên xưng họ không? Cặp mắt đẹp của cô lướt trên đầu chúng tôi. Không ai đứng lên. Cô cầm chiếc roi quật đánh bốp lên bục giảng. Tôi cảnh cáo các em, cô nói, cái trò lưu manh mà các em thi thố ở lớp tôi thì hãy gói ghém lại cho kỹ rồi đưa cho mẹ các em cất đi!...

- Thưa cô, mẹ em chết rồi ạ! - Vu Vân Vũ nói to.

- Mẹ của ai chết rồi? Cô giáo hỏi, đứng dậy!

Vu Vân Vũ đứng lên, thái độ tỏ ra bất cần.

- Đi lên trên này- Cô nói - Lên đây, để tôi nhìn kỹ em một tí.

Vu Vân Vũ đội một chiếc mũ đơn bóng nhẫy như da trăn để che những cái sẹo trên đầu, nghe nói bốn mùa trong năm, chiếc mũ này không bao giờ bỏ ra, ngay cả khi ngủ, khi tắm dưới sông. Với chiếc mũ đó, Vu Vân Vũ nghênh ngang bước lên bục giảng.

- Em tên là gì? - Cô cười giọng ôn tồn hỏi.

Vu Vân Vũ xưng tên như một anh hùng.

- Các em, cô nói, tôi họ Kỷ, tên là Quỳnh Cái, từ nhỏ đã không cha không mẹ, lớn lên bên bãi rác, đến năm lên bảy tuổi thì theo một gánh xiếc rong phiêu bạt giang hồ, từng thấy lưu manh đủ loại. Học lái mô tô bay, đi trên dây, nuốt kiếm, phun ra lửa, rồi sau chuyển sang dạy thú, lúc đầu dạy chó, rồi dạy khỉ, rồi dạy gấu, cuối cùng là dạy hổ. Tôi có thể bắt chó nhảy tròng, bắt khỉ trèo cây, gấu cưỡi xe, hổ nhào lộn. Năm mười bảy tuổi tôi tham gia cách mạng, từng quần nhau với kẻ thù, đâm vào dao trắng, rút ra dao đỏ. Năm hai mươi tuổi tôi học trường đại học quân chính Hoa Đông, học đánh bóng, vẽ tranh, nhảy múa ca hát. Năm hai mươi lăm tuổi, tôi kết hôn cùng trưởng phòng trinh sát cục Công an Mã Thắng Lợi, anh tinh thông nghiệp vụ, khả năng chiến đấu không kém gì tôi.

Cô nói tất cả mọi chuyện, chỉ trừ chuyện về trấn Đại Lan phát động phong trào cải giá là không nói.

- Hừ, các em cho rằng tôi nói khoác phải không?

Cô giơ tay sửa lại mải tóc ngắn trên đầu. Nước da cô nâu bóng, khỏe mạnh, bầu vú tràn trề sức sống đẩy ngực áo sơ mi căng phồng. Mũi thanh tú, đôi môi đường nét rõ ràng, răng trắng bóng. Kỷ Quỳnh Chi này hổ còn không sợ - cô khinh bỉ nhìn Vu Vân Vũ, giọng anh chị - Chẳng lẽ sợ em?

Trong khi nói vậy, cô giơ cái roi dài luôn rất khéo vào viền mũ của Vu Vân Vũ rồi lắc cổ tay một cái hất chiếc mũ ra khỏi đầu như một bánh rán trong chảo. Tất cả chỉ diễn ra trong một giây. Vu Vân Vũ vội ôm lấy cái đầu đầy những sẹo, vẻ ngang tàng biến mất, mặt thộn ra. Nó nước mắt tìm cái mũ. Cô giơ cao cái oi rung rung cho cái mũ quay tít trên đầu roi một cách tài tình, khiến hồn vía Vu Vân Vũ bay đi đâu mất. Cô hất roi một cái, chiếc mũ bay lên không trung, rồi lại rơi một cách chính xác xuống đầu roi, tiếp tục quay tít. Tôi thấy hoa cả mắt. Cô lại hất cái mũ lên cao, đợi khi nó rơi xuống nửa chừng, khẽ vụt một cái khiến nó rơi dưới chân Vu Vân Vũ.

- Đội mũ vào, cút về chỗ của em! - Cô ngán ngẩm bảo nó - lượng muối tôi ăn còn nhiều hơn số bột mì em đã ăn, những cây cầu tôi đã đi qua còn nhiều hơn những con đường mà em đã đi. Rồi cô nhổ mũi tên cắm trên bàn, nói:

- Em, chính là em! Đem cái cung lên đây!

Đinh Kim Câu hốt hoảng đứng dậy, ngoan ngoãn cầm cái cung lên để trên bục giảng của cô giáo.

- Về chỗ! - cô nói.

Cô cầm cây cung lên giọng thử, nói:

- Cánh cung mềm quá, dây cũng không đủ căng. Dây cung phải dùng gân bò mới tốt. Cô lắp tên trên sợi dây cung kết bằng lông đuôi ngựa, kéo khẽ, nhằm thẳng vào đầu Đinh Kim Câu, nó vội vàng rúc xuống gầm bàn. Một con nhặng xanh đang bay trong tia nắng từ cửa sổ lọt vào. Kỷ Quỳnh Chi ngắm chuẩn con nhặng, dây cung bật đánh tách một tiếng, con nhặng bị bắn rơi xuống đất.

- Còn ai không phục nữa thôi? - Cô hỏi.

Lớp học im như thóc. Cô mỉm cười ngọt ngào, cái lúm đồng tiền trên má đầy quyến rũ. Cô nói:

- Bây giờ ta chính thức lên lớp, tôi đọc một lượt lời của bài hát: Xã hội cũ, như giếng sâu vạn trượng, nằm dưới đáy là các tầng lớp nhân dân, đáy của đáy là chị em phụ nữ? Xã hội mới, như mặt trời chói lọi, nắng trùm lên người làm ruộng chúng ta, vươn mình là phụ nữ chúng ta

30

  Trong môn nhạc của cô Kỷ Quỳnh Chi, tôi đã tỏ ra có một trí nhớ xuất chúng và tố chất âm nhạc rất tốt. Mặc dù khi mới hát đến câu đáy của đáy là chị em phụ nữ trong bài Phụ nữ giải phóng ca, mẹ bê bình sữa bọc trong chiếc khăn mặt trắng đến dưới cửa sổ bằng gỗ liễu, luôn miệng gọi khẽ:

- Kim Đồng, Kim Đồng, uống sữa đi này?

Tiếng gọi của mẹ và mùi sữa đã phân tán ghê gớm sức chú ý của tôi, nhưng đến cuối tiết học, tôi là người duy nhất hát trọn vẹn bài Phụ nữ giải phóng ca một cách chuẩn xác. Cô Kỷ Quỳnh Chi biểu dương tôi trước lớp học bốn mươi học sinh. Cô hỏi tên tôi, bảo tôi đứng lên hát lại lần nữa. Cô vừa tuyên bố hết giờ thì mẹ đã đưa bình sữa vào bên trong cửa sổ. Tôi do dự, mẹ bảo:

- Con uống đi! Con giỏi giang như vậy, mẹ mừng lắm!

Trong lớp có tiếng cười rúc rích.

- Cầm lấy đi con, có gì mà ngượng kia chứ? - Mẹ nói.

Cô Quỳnh Chi thơm mùi kem đánh răng đi tới, chiếc roi chống trên nền nhà rất điệu nghệ, nói ra ngoài cửa sổ:

- Bác đấy ạ, khi đang lên lớp bác đừng đến làm mất trật tự nữa nhé!

Nghe giọng nói của cô, mẹ sững người, cố dướn lên ngó vào trong, lễ phép nói:

- Thưa cô, đây là thằng con một của tôi, đợt sữa đầu sáng này ít quá, nó ăn không đủ no, sợ nó không cầm cự được đến chiều!...

Cô Quỳnh Chi nhìn tôi cười, nói:

- Em cầm lấy đi, kẻo mẹ mỏi tay.

Tôi đỏ bừng mặt đón lấy bình sữa. Cô Quỳnh Chi nói với mẹ:

- Thế này mãi sao được? Phải cho em nó ăn cơm. Lớn lên đi học trung học, học dại học, chẳng lẽ vẫn phải dắt theo một con dê?

Cô tưởng tượng cái cảnh một sinh viên đại học dắt theo một con dê vào lớp mà bật cười không chút ác ý.

- Em nó bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Cô hỏi.

- Mươi ba tuổi rồi, tuổi Tý - Mẹ nói - Tôi cũng buồn lắm cô ạ, nhưng mà nó ăn vào thứ gì là nôn ra thứ ấy, bụng lại còn đau nữa, đau đến nỗi toát mồ hôi hột, sợ phát khiếp!...

Tôi bảo mẹ, giọng không vui:

- Thôi mà mẹ, mẹ dùng nói nữa, con không uống đâu!

Tôi đưa trả cái bình. Cô Quỳnh Chi búng búng tai tôi, nói:

- Trò Kim Đồng, đừng làm thế, thói quen sẽ sửa dần, uống đi!

Tôi nhìn cặp mắt long lanh của cô trong ánh sáng mờ mờ, trong lòng cảm thấy vô cùng xấu hổ. Cô Quỳnh Chi nói:

- Các em nhớ nhé, không được giễu cợt nhược điểm của người khác!

Nói xong, cô bỏ đi.

Tôi quay mặt vào tường, uống thật nhanh hết sạch bình sữa rồ tôi trả cái bình cho mẹ, nói:

- Lần sau mẹ đừng đến nữa!

Giờ nghỉ giữa hai tiết học, Vu Vân Vũ và Đinh Kim Câu vốn dĩ càn quấy, bây giờ trở nên nghiêm chỉnh, ngồi như phỗng trên ghế. Thằng Phương Thư Trai béo ị cởi dây lưng trèo lên bàn, buộc một đầu dây lên xà nhà, còn đầu kia làm thành cái thòng lọng, biểu diễn trò thắt cổ. Nó nhại giọng the thé của bà góa, khóc lảnh lót, kể lể: Anh ơi là anh, anh nhắm mắt xuôi tay về Tây phương cực lạc bỏ lại thân em vò võ một mình, trong lòng như có con trùng ngọ nguậy, chẳng thà em xuống suối vàng cho xong.

Khóc lóc, kể lể, hai má nó bạnh ra như hai má lợn, rồi thì nó khóc thật, hai dòng nước mắt chảy ròng ròng, nước mũi cũng chảy tràn qua môi.

- Tôi chẳng thiết sống nữa!

Nó gào lên, nhón gót chui đầu vào thòng lọng. Hai tay nắm hai bên thòng lọng, nó nhảy dựng lên, mỗi lần nhảy một lần kêu lên:

- Tôi chẳng thiết sống nữa!

Lớp học ồ lên tiếng cười quái dị. Thằng Vu Vân Vũ vẫn chưa hết bực, nó ấn tay xuống bàn, rồi như ngựa đá hậu, nó giơ chân đạp lại đằng sau một cái, chiếc bàn đổ kềnh. Thân hình to béo của thằng Phương Thư Trai treo lủng lẳng dưới xà nhà. Nó rú lên, hai tay cố ghì lấy dây thừng, hai chân ngắn ngủn quẫy lia lịa, rồi chậm dần lại, mặt tím ngắt, miệng sùi bọt, phát ra tiếng òng ọc của người đang giẫy chết.

- Treo cổ chết rồi! - mấy đứa nhỏ hốt hoảng kêu lên, vừa kêu vừa chạy ra ngoài sân, dẫm bành bạch mà gào:

- Treo cổ chết rồi! Phương Thư Trai treo cổ chết rồi!

Hai tay thằng Phương Thư Trai buông thõng, hai chân không quẫy đạp nữa, mình nó như dài ra, một tiếng rắm rất kêu vọt ra khỏi dũng quần. Ngoài sân, bọn học sinh chạy tán loạn, không biết làm gì. Cô giáo Kỷ Quỳnh Chi và mấy giáo viên không biết tên, càng không biết các thầy dạy môn gì, từ phòng giáo viên chạy ra.

- Ai chết? Ai treo cổ chết? - Họ vừa hỏi to vừa chạy về phía lớp học, những đống rác trên sân níu chân họ.

Kỷ Quỳnh Chi nhảy tâng tâng như con hươu cái, chỉ trong vài giây cô đã vào đến lớp học. Đang từ ngoài nắng chạy vào chỗ tối, cô thoáng vẻ ngỡ ngàng, hỏi to:

- ở đâu?

Thân hình nặng nề của Phương Thư Trai rơi bịch xuống đất dải thắt lưng đen đứt tung vì không chịu nổi sức nặng của nó.

Cô Kỷ Quỳnh Chi ngồi xổm bên cạnh thằng Phương Thư Trai, luồn tay vào nách lật nó nằm ngửa. Tôi trông thấy cô chau mày, môi trên dẩu ra che lấy mũi. Người Phương Thư Trai thối hoắc. Cô đưa tay trước mũi xem nó còn thở hay không, rồi ấn huyệt nhân trung, nét mặt cô tỏ ra vô cùng bực bội. Phương Thư Trai giơ tay gạt tay cô ra. Cô chau mày đứng dậy, đá cho nó một cái, nói:

- Đứng dậy?

- Ai đá đổ chiếc bàn? - cô Quỳnh Chi đứng trên bục, nghiêm giọng hỏi.

- Em không biết, em không biết, em không biết!

- Vậy thì ai trông thấy? Hoặc ai đã đá đổ? Thử dũng cảm một lần xem nào?

Mọi người cúi gằm, Phương Thư Trai khóc òa.

- Có câm miệng lại không - cô Quỳnh Chi đập bàn quát - muốn chết thì quá dễ, lát nữa tôi sẽ cho em biết vài kiểu chết. Tôi không tin là không ai trông thấy kẻ đã đá đổ chiếc bàn. Kim Đồng, em là một học sinh thực thà, em nói đi!

Tôi cúi đầu.

- Em hãy ngửng lên nhìn cô đây này - cô nói - Cô biết là em sợ, cô chịu trách nhiệm về chuyện này, em đừng sợ?

Tôi ngẩng nhìn đôi mắt rất dẹp của người chiến sĩ cách mạng, nhớ lại mùi kem đánh răng tỏa ra từ miệng cô, trong lòng dễ chịu như đứng trước luồng gió mát.

- Cô tin rằng em có đủ can đảm tố cáo người xấu việc xấu, vậy mới là phẩm chất của thanh thiếu niên của nước Trung Quốc mới.

Cô nói rất hào hùng. Tôi liếc ngang, bắt gặp ánh mắt uy hiếp của Vu Vân Vũ. Tôi lại gục đầu xuống ngực.

- Vu Vân Vũ, đứng dậy? - cô bình tĩnh gọi

- Không phải em! - Vu Vân Vũ kêu to.

Cô mỉm cười hỏi:

- Sao em cuống lên thế? Sao em lại gào lên?

- Dù sao cũng không phải là em! - Vu Vân Vũ xiết móng tay xuống mặt bàn, nói khẽ.

Cô Quỳnh Chi nói:

- Vu Vân Vũ, có gan ăn cắp có gan chịu đòn!

Vu Vân Vũ đứng dậy, từ từ ngẩng đầu lên, nét mặt trở nên dữ dằn. Nó quăng sách vở xuống đất cho bảng đả và phấn viết vào chiếc cặp màu xanh kẹp dưới nách, giọng khinh miệt:

- Tôi đá đổ cái bàn đấy làm gì tôi nào? Tôi đ. vào học nữa! Ông có thích học đâu tại các người cứ vận động ông đấy chứ!

Hắn nghênh ngang bước ra cổng, người nó mới cao làm sao, xương cốt nó mới to làm sao, nó hoàn toàn có dáng vóc của một thằng đàn ông ngạo mạn và ngỗ ngược. Cô Quỳnh Chi đứng chặn lối ra cổng, nó quát:

- Tránh ra! Nhà người dám làm gì ông?

Cô Kỷ Quỳnh Chi cười mát:

- Ta phải cho cái thằng hèn này biết tay! Rồi phóng chân đá trúng đầu gối Vu Vân Vũ. Nó ối lên một tiếng quị xuống.

- Kẻ ác thì phải bị trừng phạt - cô Quỳnh Chi nói.

Vu Vân Vũ móc cái bảng đá trong túi xách liệng trúng ngực cô Quỳnh Chi, cô rên lên một tiếng, ôm lấy bầu vú bị thương.

Vu Vân Vũ nói:

- Mày tưởng tao sợ mày hả? Nhà tao ba đời cố nông, cô dì bà ngoại tao đầu là bần nông, mẹ tao đẻ ra tao trên đường đi ăn xin.

Cô Quỳnh Chi xoa xoa bầu vú, nói:

- Ta thật tình không muốn nhà ngươi làm bẩn tay ta - Hai bàn tay cô đan vào nhau, những đốt ngón tay kêu răng rắc - Đừng nói nhà mi ba đời cố nông mà ba mươi đời cố nông thì ta cũng phải cho mi một bài học!

Cô vừa nói vừa tung một quả đấm như chớp trúng cằm Vu Vân Vũ. Hắn rú lên một tiếng, lảo đảo. Quả đấm thứ hai mạnh hơn, trúng giữa ngực, tiếp theo là một cú đá trúng mắt cá chân. Hắn ngã lăn ra, khóc hu hu như một đứa trẻ. Cô Quỳnh Chi túm cổ áo dựng hắn dậy, xoay hắn lại rồi thúc gối vào bụng dưới của hắn, đồng thời phóng tay ra. Vu Vân Vũ ngã ngửa trên một đống gạch vụn. Cô Quỳnh Chi tuyên bố:

- Mi đã bị đuổi học! 

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: