Bát chánh đạo con đường đến hạnh phúc3
như nó thực là. Bạn cũng nhìn thấy sự đoạn diệt khổ đúng như nó là. Và con
đường giải thoát khổ mà bạn đã tiến bước cho đến bây giờ -con đường đó,
bạn cũng thấy đúng như nó thực là.
Bất cứ khi nào một yếu tố giải thoát không phát sinh, ta ý thức về điều đó.
Bất cứ khi nào chúng phát sinh, ta cũng ý thức về điều đó và dung dưỡng
chúng, cho đến khi ta đạt đến mức độ hoàn hảo. Khi tất cả mọi chi phần của
thất giác chi đã được viên mãn, là bạn đạt đến niết bàn, hạnh phúc tuyệt đối,
an tịnh tuyệt đối. Chúng ta có thể đạt được mục đích này ngay trong cuộc
đời này. Khi được như thế, tất cả khổ đau chấm dứt. Tất cả mọi câu hỏi đều
kết thúc. Tất cả mọi lo âu, sợ hãi, căng thẳng, bất an đều biến mất, không
bao giờ trở lại nữa. Không còn có sự ham muốn, bám víu vào bất cứ điều gì.
Chúng ta sống trong một sự hòa hợp toàn vẹn, hoàn toàn thăng bằng. Tất cả
mọi giác quan của chúng ta đã được rèn luyện, mài dũa. Chúng ta vẫn ăn,
uống, nói, đi, và sử dụng thân tâm, nhưng với tâm đầy chánh niệm, đầy ý
thức. Giới hạnh của chúng ta không khiến ta nghĩ mình hơn kẻ khác. Thiền
định của chúng ta không khiến ta tự khen mình và chê bai người khác. Tuệ
giác tạo cho chúng ta tình thương yêu, lòng bi mẫn, và tâm hoan hỷ vẹn
toàn. Hãy tận hưởng sự hoàn toàn xả ly, chúng ta không bao giờ còn bị
những thăng trầm của cuộc đời làm ta xao động nữa.
Tóm Lược Về Sự Thực Hành Chánh Niệm
• Chánh niệm là sự chú ý trong từng giây phút đến việc gì đang xảy ra. Tâm
chánh niệm rất chính xác, thâm sâu, vững chãi, không tán loạn. Nó giống
như một tấm gương phản chiếu trung thực bất cứ vật gì ở phía trước nó.
• Chánh niệm cho ta có được tri giác thể nhập vào ba đặc tính của tất cả mọi
hiện hữu: vô thường, khổ, và vô ngã.
• Ta có thể sử dụng bất cứ đối tượng nào để phát triển tâm chánh niệm,
miễn là nó sẽ giúp ta đạt được tuệ giác đối với ba đặc tính (tam tướng) trên.
• Mục đích sâu xa của chánh niệm là để khai mở con mắt tuệ, vì tuệ giác về
bản chất thực sự của thực tại là bí mật cuối cùng của hạnh phúc và hòa bình
vĩnh cửu. • Tứ niệm xứ là phương pháp quán niệm về thân, thọ, tâm, và đối tượng
của tâm.
• Ba cách thực hành chánh niệm căn bản nơi thân là quán niệm về hơi thở,
về tư thế, và về các bộ phận của thân.
• Quán niệm về hơi thở có thể giúp ta rèn luyện sự chú tâm, vì ta dễ quán
sát hơi thở và lúc nào nó cũng có mặt.
• Hòa hợp tâm với hơi thở là đặt tâm vào giây phút hiện tại. Hơi thở cũng
hoạt động như một căn cứ địa để tâm có thể quay về sau khi quán sát các
hiện tượng khác.
• Kinh hành, đi từng bước rất chậm rãi và đầy chánh niệm có thể là một
phương pháp hành thiền hoàn chỉnh, chứng minh cho ta thấy các tính chất:
vô thường, khổ, và vô ngã có mặt trong từng giây phút như thế nào. Phương
pháp thiền này cũng có thể được dùng cho các tư thế khác, như là nằm,
ngồi, đứng.
• Duy trì chánh niệm về tư thế suốt ngày rèn cho tâm có thể thấy rõ ràng
những đặc tính của năm uẩn.
• Quán niệm về thân như là một tập hợp của bốn mươi hai bộ phận và quy
trình luôn thay đổi cho ta thấy rằng không có gì thường hằng về cái thân mà
ta quá bám víu.
• Lạc thọ hay khổ thọ là do thái độ của bản thân ta, do đó chúng ta có thể
dừng lại việc trách móc người khác đối với việc ta cảm thấy thế nào.
• Cả quá trình của khổ đau được dung dưỡng bằng các phản ứng vô minh
của tâm đối với ba loại cảm thọ -bám víu vào lạc thọ, tránh né khổ thọ, và
trải qua ảo giác về "ngã" trong trạng thái trung tính.
• Các "cảm thọ thế tục" sinh khởi từ việc ta theo đuổi những mục đích tầm
thường, chứa đựng các khuynh hướng tiềm ẩn đối với tham, sân, hay si. Các
"cảm thọ xuất thế" phát sinh từ tuệ giác, không chứa đựng bất cứ khuynh
hướng tiềm ẩn nào. • Quán niệm về thọ là một phần của sự thực hành thiền minh sát. Thấy
được sự vô thường của các cảm thọ, chúng ta tập buông bỏ các trạng thái
tiềm ẩn của tham, sân, và si và vun trồng các cảm thọ xuất thế.
• Đức Phật không hề dạy chúng ta "thụ hưởng một cách chánh niệm" các
dục lạc. Ngài dạy chúng ta chánh niệm buông xả những ham muốn đối với
các dục lạc thế tục và tận hưởng các lạc thọ xuất thế được tạo ra bởi sự
buông xả này.
• Khi ta vun trồng chánh niệm về tâm, ta ghi nhận sự phát sinh và qua đi
của các trạng thái của tâm như là tham, vô tham, trạng thái tâm hẹp hòi hay
cởi mở, vân vân.
• Quán niệm về đối tượng của tâm nghĩa là ghi nhận sự phát khởi và qua đi
của năm chướng ngại, mười kiết sử, năm uẩn, tứ diệu đế, và các yếu tố giác
ngộ.
• Ta có thể xem các yếu tố giác ngộ như là quả của sự thực hành chánh
niệm. Khi chánh niệm của ta sâu sắc, chúng phát khởi theo thứ tự sau đây:
niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, và xả.
• Khi tất cả các yếu tố giác ngộ đã được viên mãn, ta đạt được niết bàn,
hạnh phúc tuyệt đối, thanh tịnh tuyệt đối. Chúng ta có thể đạt được mục
đích này ngay trong kiếp sống này. CHÁNH ĐỊNH (BƯỚC 8)
Chánh định là bước quan trọng cuối cùng trên con đường đưa đến hạnh
phúc (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật. Khi tâm đã khinh an, định tĩnh, thì
những chướng ngại cản trở hạnh phúc không thể phát khởi. Hơn thế nữa,
khi ngồi thiền, chúng ta có thể trụ tâm định tĩnh trên đối tượng tâm phát
sinh cùng với thức. Định giúp chúng ta phá vỡ được vẻ bề ngoài giả tạo của
các đối tượng này để có cái thấy rõ ràng về tính vô thường, khổ và vô ngã
của chúng. Với chánh định, ta càng tinh tấn hành thiền, và chúng ta đạt
được nhiều tiến bộ trên đạo lộ.
Thông thường khi chúng ta nói rằng ai đó đang "định tâm", ta muốn chỉ
đến bất cứ điều gì từ việc đắm chìm trong một chương trình truyền hình,
đến đăm chiêu trong một ván cờ, đến hoạch định một tội ác. Nhưng loại
định mà Đức Phật dạy như là một chi phần của Bát Chánh Đạo có ba đặc
tính đặc biệt: thiện, nhất tâm và sử dụng chánh niệm để phát triển trí tuệ.
Loại định này không dễ có được. Cũng giống như các khả năng khác, ta
phải tu tập từng bước mới có được. Tâm phải được rèn luyện. Có thể phải
mất từ vài thời tọa thiền đến vài năm tinh tấn nỗ lực để phát triển loại định
có tính thiện, nhất tâm, và chánh niệm này. Một khi đã đạt được thiền định
này, thiền giả phải tiếp tục tu tập các bước cho đến khi thiền giả có thể đạt
được định dễ dàng, theo ý muốn.
Từ lúc đầu, chúng ta đã nói đến sự quan trọng của việc tìm được một vị
thầy tốt để hướng dẫn ta tu tập. Một vị thầy có thể dành cho ta nhiều sự
giúp đỡ lớn lao khi ta tu tập để phát triển thiền định. Khi ta cố gắng để hoàn
thiện khả năng của mình, nhiều câu hỏi có thể phát sinh. Nếu không có thầy
tốt, thì nguồn hỗ trợ kế tiếp là những quyển sách thuần về chủ đề này. Hơn
thế nữa, rất khó cho tâm an định đủ để đạt được thiền định nếu như ta tiếp
tục phải đối mặt với những vấn đề của cuộc sống đời thường mỗi ngày.
Chúng tôi khuyên quý vị hãy dành một khoảng thời gian nào đó để thực
hành thiền định, ví dụ như là suốt một tuần khi quý vị không bị các bổn
phận làm gián đoạn. Dự một khóa tu chuyên sâu về thiền có thể là cách tốt
nhất để bắt đầu. Thiền Định
Không phải tất cả các định đều thiện. Thí dụ một chú mèo đang chờ đợi để
bắt mồi, đặt tất cả chú tâm vào con mồi. Chú mèo có sự chú tâm rất mãnh
liệt, nhưng nó hoàn toàn không thiện. Tâm định thiện thì không có tham,
sân, hay si.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta có thể sử dụng sự chú tâm cao độ để
giải một bài toán, để sửa một chiếc xe, hay để chuẩn bị cho một món ăn cầu
kỳ. Loại chú tâm này có thể là thiện pháp nếu nó được kích thích bởi những
ý nghĩ thiện như là từ bi, tình thương, hay bi mẫn. Nó sẽ bất thiện nếu xuất
phát từ những trạng thái bất thiện như tham, sân, hay ác độc.Các trạng thái
bất thiện, kể cả năm chướng ngại, đều có mặt trong sự chú tâm hằng ngày
của chúng ta, nhiều hơn chính ta có thể ý thức được. Thí dụ, khi bạn cố gắng
để giải bài toán đố, có thể do bạn bị bám víu vào việc muốn có điểm cao
trong kỳ thi; khi sửa xe, bạn có thể ngại công việc dơ bẩn; lúc nấu bữa ăn cầu
kỳ đó, bạn có thể suy nghĩ một cách đầy bực tức về một thành viên trong gia
đình, người sẽ được hưởng thụ món ăn đó. Loại thiền định do Đức Phật dạy
không có mặt của các chướng ngại này.
Khi ngồi thiền cũng thế, nếu ta đạt định khi có mặt của bất cứ chướng ngại
nào, thì đó cũng là bất thiện. Thí dụ, bạn có thể phần nào được định khi trải
qua chướng ngại của hôn trầm, thụy miên. Bạn có thể ở trong trạng thái nửa
mê, nửa tĩnh, mơ màng nghĩ đến những điều dễ chịu. Sau đó bạn có thể ảo
tưởng rằng mình đã ngộ được điều gì lúc tọa thiền. Đó là si, không phải là
thiện định.
Hành thiền khi tâm đang hờn giận cũng là bất thiện. Bạn có thể biết việc
hành thiền của mình lúc đó đã sai vì bạn sẽ cảm thấy căng thẳng, lo lắng,
kiệt lực. Có thiền giả còn bị nhức đầu vì đã cố ép tâm trụ vào đối tượng
thiền quán, mặc dầu tâm đang sân hận hay bực bội. Những lúc như thế, bạn
cần thực hành chánh tinh tấn để chế ngự các chướng ngại đó và để tạo nên
một trạng thái tâm thiện trước khi bắt đầu. Lỗi lầm tệ nhất mà một thiền giả
có thể làm là bỏ thì giờ thiền để nghiền ngẫm về một nỗi mất mát hay những
tâm bất thiện khác. Dĩ nhiên, đem ý thức chánh niệm đến với các trạng thái
này là thiền minh sát tuệ. Do đó bước đầu tiên trong việc thiết lập chánh định là phải chắc chắn rằng
sự thực hành của ta là thiện bằng cách ngăn chặn các chướng ngại tấn công
tâm. Sau đây là những điều cần thực hiện thêm nếu bạn muốn đạt được
định khi tọa thiền.
• Trong thời gian ngồi thiền, hãy buông xả tất cả mọi ý nghĩ bám víu vào
hoàn cảnh, tư tưởng, con người, và các thói quen. Đừng nghĩ đến gia đình,
bạn bè, quyến thuộc, nghề nghiệp, lương bổng, thuế má, sở hữu, hay trách
nhiệm. Hãy tự nhủ: "Ta muốn dành thời gian đặc biệt này để hoàn thiện bản
thân. Ta không muốn ngồi trên gối thiền này để suy nghĩ về tất cả những
điều bình thường ta vẫn nghĩ. Ta sẽ sử dụng thời gian này thật tốt."
• Đừng lo lắng về những điều gì bạn làm còn dang dở, về những thứ mà
bạn đã làm sai, hay về những lỗi mà bạn có thể phạm với người khác. Hãy
nhớ rằng quá khứ đã qua, và điều gì đã làm, không thể làm lại được.
• Hãy dành đôi phút để phát triển những ý nghĩ về tình thương yêu để
khiến tâm cảm thấy dễ chịu, sảng khoái để có thể chú tâm hành thiền. Sau
đó hít vào ba hơi thở sâu.
• Trụ tâm trên đối tượng thiền quán mà bạn đã chọn như là hơi thở.
• Hãy giữ tâm ở giây phút hiện tại.
• Luôn kiên trì nỗ lực để giữ tâm không tán loạn.
• Nếu một trong năm chướng ngại có mặt, chế ngự nó bằng cách sử dụng
những phương pháp ta đã học. Vun trồng tâm thiện đối nghịch với bất cứ
chướng ngại nào đang có mặt. Thí dụ, nếu tham có mặt, thì hãy vun trồng
tâm xả. Hãy để tâm trở nên nhẹ nhàng và trong sáng.
• Một khi chướng ngại đã được chế ngự, hãy hướng tâm trở về với đối
tượng thiền quán đã được chọn như là hơi thở.
• Hãy nhớ, mục đích của thời khóa này là để thực hành phương pháp thiền.
Ở thời điểm này bạn không nên đi vào chi tiết của những gì bạn đã trải
nghiệm, mà chỉ giữ tâm trụ trên đối tượng thiền quán một cách đầy chánh
niệm.
• Sau mỗi lần đạt được thiện định, bạn sẽ cảm thấy dễ dàng hơn và hăng hái
lên. Không cần biết tâm định thiện đó ngắn ngủi hay mong manh, yếu ớt
254
dường nào, chính yếu là bạn đã đạt được một điều gì đó bằng cách vượt
thắng được những thói quen cũ và chuyển đổi được tâm.
Trong lúc đang tu tập thiền quán để rèn luyện tâm, ta nên bằng lòng với bất
cứ tầng thiện định nào mà ta có thể đạt được. Khi ngồi thiền, tâm định tĩnh
nạp thêm cho ta năng lượng, khiến ta cảm thấy thăng bằng và bắt đầu có
niềm tin trong việc hành thiền. Hỷ phát sinh vì tâm định chế ngự các
chướng ngại.
Ngay chính trong cuộc sống hằng ngày, ta cũng phần nào cần đến tâm thiện
định để có thể sống một cách đạo đức. Tâm thiện định giúp ta trụ vào
những ý nghĩ, lời nói, và hành động thiện và tránh xa điều bất thiện. Tâm
thiện định giúp ta giải quyết những vấn đề hằng ngày một cách công bằng,
với một trạng thái tâm xả. Điều ngược lại cũng đúng. Ta có thành công
trong việc phát triển tâm định hay không, tùy thuộc vào một nền đạo đức
vững chắc. Khi cảm nhận của ta về đạo đức tiến bộ hơn, thì tâm định của ta
cũng thế.
Loại thiền định mà chúng ta đã nhắc đến từ trước cho đến giờ, có thể gọi
"thiện định bình thường." Loại thiền định này thì tương đối dễ đạt được.
Tuy nhiên, tuệ giác phát sinh từ thiện định bình thường này cũng có thể
chuyển hóa cuộc sống. Nó giúp bạn tránh xa những ý nghĩ, lời nói, và hành
động bất thiện. Bạn không muốn làm việc gì có thể cản trở sự giải phóng
tâm. Đó là lý do tại sao Đức Phật nói rằng tâm thiện định bao trùm tất cả các
trạng thái tâm thiện.
Khi Đức Phật còn là thái tử Siddhattha Gotama, thân phụ của Ngài, nhà vua,
ngăn cản không cho Thái tử thấy bất cứ điều gì khiến Ngài đi theo con
đường tâm linh. Cuối cùng khi Thái tử nhìn thấy bốn hình ảnh -một người
già, một người bệnh, một xác chết, và một tu sĩ - đó là một bước ngoặc cho
Thái tử. Quán tưởng trên bốn thứ này, Thái tử Siddhattha đạt đến một trạng
thái định. Tuệ tri phát khởi đối với sự thật về khổ. Vì thế Ngài quyết định
không trở về với cuộc sống đầy dục lạc nơi cung điện của vua cha mà đi tìm
một giải pháp để giải thoát chúng sanh khỏi đau khổ. Điều đó cũng có thể đúng đối với chúng ta. Khi ta quán sát sự vật với tâm
thiện định, thì những thứ bình thường trong đời sống hằng ngày cũng có
thể kích động tâm suy nghĩ sâu xa hơn. Tuệ tri xuất phát từ tâm định tĩnh
này có thể thuyết phục ta rằng ta đã trôi lăn trong vòng khổ đau đủ lâu rồi
và đây là lúc bắt đầu một trang mới của cuộc đời ta. Ta đã có một cái nhìn
và tri giác mới về khổ trong cuộc đời. Ta thấy được sự mù quáng trong việc
chạy đuổi theo hạnh phúc qua dục lạc; ta thấy những sự thỏa mãn vật chất
phải trả bằng khổ đau, lo lắng. Ta không còn cố gắng để biện giải cho sự
khổ sở của mình như là hạnh phúc.
Con đường thoát ra khỏi khổ đau cũng trở nên rõ ràng. Vì tâm định giúp ta
nhận ra chân lý trong lời dạy của Đức Phật, ta cảm thấy có thêm động lực để
phát triển các trạng thái định sâu sắc hơn để ta có thể đạt được tuệ giác thâm
sâu hơn.
Các Tầng Thiền Định
Tâm định sâu xa có thể dẫn đến những sự chứng ngộ sâu sắc nhất được gọi
là "thiền định" hay jhana. Thiền định thì luôn thiện và nhất tâm. Tuy nhiên
hãy nhớ rằng tâm định này vẫn chưa phải là chánh định nếu chánh niệm
không có mặt. Với tâm định viên mãn, mức tiến triển đến giác ngộ của ta
được tăng tốc.
Ở đây chúng ta nói về định với một ý nghĩa rất đặc biệt. Mỗi khi tâm trụ
trên bất cứ đối tượng nào, dầu không quan trọng, định cũng phát sinh.
Nhưng thường ta chỉ nhìn thấy bức tranh toàn cảnh, chứ không để ý đến
từng chi tiết làm nên cảnh ấy. Thí dụ, khi đọc sách, mắt nhìn vào một chữ
rồi chữ kế tiếp, hay từng câu, rồi câu kế tiếp, sau đó những thông tin này
được chuyển lên não. Chúng ta không đọc từng chữ cái một. Tâm quá
nhanh và khả năng chú tâm quá mãnh liệt đến nỗi chúng ta nhìn được cả
câu hay cả dòng một lúc.
Nếu làm chậm quy trình đó lại, chúng ta có thể ý thức về từng sát na của
định. Mục đích của công phu tu thiền là để duy trì sự tĩnh thức để tâm định
256
nhiên mức độ tĩnh giác này rất khó. Từng sát na tâm quá nhỏ đến nỗi gần
như ta không thể tưởng tượng ra.
Có người xin Đức Phật cho một thí dụ về sát na của tâm. Ngài trả lời rằng
Ngài không thể cho một thí dụ nào. Ngài nói rằng không thể diễn tả được sự
nhanh chóng, thoáng chốc của từng sát na. Tuy nhiên, giả sử có một màng
nhện rất nhỏ, rất mong manh, và bạn muốn mang cây nến đến đốt. Bạn cần
bao lâu để đốt màng nhện đó? Gần như cây đèn vừa được đưa đến gần,
màng nhện đã cháy. Đức Phật dạy rằng trong chỉ một khoảng thời gian ngắn
như thế, hàng ngàn sát na tâm có thể phát khởi, tăng trưởng, rồi qua đi. Với
thí dụ này, Đức Phật muốn diễn tả rằng sự nhanh nhạy của tâm thì gần như
không thể nghĩ bàn.
Mỗi sát na tâm thoáng qua này bao gồm ba sát na còn ngắn ngủi hơn nữa:
giây phút phát khởi, giây phút viên mãn, và giây phút hoại diệt. Ngay sau
giây phút hoại diệt, một sát na tâm khác lại phát khởi, theo cùng một quy
trình như thế. Ba tích tắc sát na ngắn này tạo nên một sát na tâm toàn vẹn.
Tâm định phát sinh với chỉ một số sát na tâm - có thể là một trong cả tỷ sát
na. Tâm định viên mãn có thể nhìn xuyên suốt đến tận mức độ khi mỗi sát
na tâm phát khởi, viên mãn, rồi hoại diệt. Một khi ta đã quán sát trực tiếp
được sự phát khởi và qua đi của từng sát na tâm, chúng ta không còn nghi
ngờ sự thật về tính vô thường của vạn pháp, và chúng ta phải buông xả thôi.
Đó là lý do tại sao chúng ta cần một tâm định viên mãn để có thể nhìn thấy
thực tại rõ ràng để đạt được giác ngộ.
Thiền định viên mãn gồm có một số giai đoạn hay tầng lớp. Đúng ra, có tám
tầng thiền định (bát định) hay jhana mà người chưa giác ngộ có thể đạt
được, và bất cứ tầng thiền định nào cũng có thể được sử dụng để đạt được
giác ngộ. Tuy nhiên để đơn giản hóa, chúng ta sẽ chỉ nói về bốn tầng thiền
định đầu tiên.
Ít nhất phải đạt được tầng thiền định thứ nhất mới có thể phát triển tâm lực
cần thiết để tuệ giác mọi thứ như chúng thật sự là. Với sự chứng đạt được
từng bậc của ba tầng định kế tiếp, ta sẽ dễ dàng nhận ra chân lý hơn. Ở tầng
thứ hai, tâm định được cải thiện hơn do sự vắng mặt của quá trình suy
tưởng. Ở tầng thứ ba mức độ chánh niệm trở nên mãnh liệt hơn, và ở tầng
có thể chuyển vào từng sát na tâm kế tiếp, liên tục không gián đoạn. Tuythứ tư càng nhiều hơn nữa, tâm trở nên hoàn toàn thanh tịnh với sự có mặt
của xả.
Tầng Thiền Thứ Nhất
Để đạt được sơ thiền, tâm phải không còn chướng ngại và thiết lập được
thiện định. Sau đó năm yếu tố tâm thức (thiền chi) phải cùng có mặt: 'tầm",
"tứ", hỷ, lạc và định.
Bất cứ một trong năm thiền chi này có thể phát khởi, đơn độc hay cùng với
nhau, tùy theo những điều kiện khác nhau. Thí dụ, lạc phát khởi khi vắng
mặt sân. Khi hôn trầm qua đi, "tầm" có thể phát sinh. Khi trạo hối không
có mặt, ta có hỷ. Bất cứ khi nào ta có được giây phút của thiện định, hỷ sẽ
phát sinh do sự vắng mặt của năm chướng ngại, và một vài thiền chi khác
cũng có thế xuất hiện.
Thật là một cảm giác tuyệt vời với sự có mặt của một trong năm thiền chi
này. Bạn có thể tưởng rằng mình đang ở cực lạc. Nhưng cảm giác tuyệt vời
này không phải là thiền chứng, ngay cả khi tình cờ các yếu tố này cùng phát
khởi, từng cái một. Phải tuân theo một hệ thống nhất định mới có thể chứng
được sơ thiền.
Phương pháp này bắt đầu bằng thiện định bình thường. Niềm vui bạn tìm
được trong trạng thái này sẽ đưa đến lạc. Hỷ và lạc là hai tình cảm khác
nhau. Hý phát khởi trong sự chờ đón đầy hy vọng về lạc. Lạc phát sinh từ
sự hài lòng là niềm hy vọng của mình đã thành sự thật. Đây là một ẩn dụ có
thể giúp ta phân biệt giữa hỷ và lạc.
Bạn đang đi trên một sa mạc. Không có nước hay bóng cây -chỉ có cát. Bạn
bước tới, mệt mỏi và khát. Bỗng thấy một người đang đi tới tóc tai ướt đầm
nước. Quá vui mừng, bạn hỏi, "Nước ở đâu vậy?"
"Có một ốc đảo ngay phía trên kia."
Bạn tiến về ốc đảo. Đầu tiên khi nhìn thấy nước từ xa, bạn cảm thấy rất
mừng (hỷ). Càng đến gần hơn, niềm vui (hỷ) của bạn tăng trưởng. Rồi bạn
nhảy vào nước. Bạn uống nước. Bạn nhảy nhót dọc theo bờ nước, cảm thấy
thật mát mẻ, sảng khoái. "Ôi thiệt là lạc thú! Lạc chính là đây."
258
Người ta thường đồng hóa lạc (happiness) với sự hưng phấn (excitement).
Thí dụ, ai đó vừa trúng số độc đắc. Người đó sẽ biểu lộ sự phấn khởi bằng
cách la hét, nhảy lên nhảy xuống, ôm nhau, khóc, cười. Người đó nghĩ "Ta
cảm thấy thật (hỷ) lạc!" Nhưng cảm giác đó không phải là lạc thật sự. Đó là
sự phấn khích. Khi an lạc thật sự phát sinh, niềm hưng phấn sẽ biến mất và
bạn cảm thấy thư giãn, bình an.
An lạc thật sự dẫn đến định tĩnh. Khi tâm đã trầm lắng, dĩ nhiên nó trở nên
định tĩnh hơn. Khi tâm định của bạn sâu lắng hơn bạn có thể tiến tới việc rèn
luyện để tâm đạt đến an chỉ định với những bước sau đây:
• Giữ tâm luôn trụ nơi hơi thở hay bất cứ đối tượng thiền quán nào. Không
nên, ở thời điểm này, quay ra quán sát các đối tượng khác khi chúng phát
sinh như là âm thanh hay tư tưởng. Hãy buông bỏ bất cứ thứ gì phát sinh,
và trở lại với hơi thở. Hãy lặp đi lặp lại điều này, cho đến khi tâm không còn
quan tâm đến thứ gì khác và trụ nơi đối tượng thiền quán.
• Dần dần hơi thở hay một đối tượng thiền quán nào khác mà ta đã chọn có
vẻ qua đi và được thay bằng một bản sao của nó. Hình ảnh tâm linh hay
cảm thọ đó - được gọi là "định tướng" (sign of concentration)-, trở thành
một đối tượng thiền quán mới của bạn, và bạn trụ vào đó.
• Khi hình ảnh tâm linh đó cũng qua đi và tâm trú vào chính nó, là bạn đã
đạt được đến tầng thiền định thứ nhất (sơ thiền).
Điều này xảy ra như thế nào? Khi thiện định sâu lắng hơn, tâm dần dần
không còn quan tâm tới gì khác, mà chỉ trụ vào đối tượng thiền quán, như là
hơi thở. Khi ta tiếp tục chú tâm vào đối tượng này, nó trở nên quá vi tế đến
nỗi ta không còn để ý đến nó chút nào. Nhưng ở điểm của sự chú tâm, như
là đầu mũi, sự ghi nhớ về hơi thở hay đối tượng thiền quán khác vẫn tiếp
tục. Sự ghi nhớ này trở nên là một cảm thọ rất dễ chịu được gọi là "định
tướng". Tướng này có thể xuất hiện như là một hình ảnh, ánh sáng, hay như
một sự xúc chạm nhẹ nhàng. Hình ảnh tâm linh này xuất hiện như thế nào
tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
Dầu tướng đó hiện ra như thế nào, hãy trụ vào đó. Hãy sử dụng cùng một
tướng mỗi khi bạn thiền quán. Đừng chia sẻ với ai về tướng đó. Tướng củamỗi người đều khác, và ta có thể khiến người khác hoang mang. Lúc bắt đầu
hành thiền, hơi thở vào, hơi thở ra của bạn là đối tượng thiền quán. Giờ bạn
sử dụng tướng kia như là đối tượng thiền quán. Đức Phật đã khuyến khích
đệ tử của Ngài "thực hành, phát triển, và sửa đổi," tướng. (A IV (9) IV.4)
Thực hành để đạt được định tướng nhiều lần, cho đến khi bạn hoàn toàn có
thể kiểm soát nó, để bất cứ khi nào bạn muốn chứng nghiệm nó, thì tướng
đó sẽ xuất hiện và bạn có thể hòa hợp tâm bạn vào đó.
Khi định tướng lần đầu tiên xuất hiện trong lúc ta đang hành thiền, thì nó có
vẻ tĩnh tại. Do đó định có thể phát sinh dựa trên đó. Nhưng khi đặt tất cả sự
chú tâm vào tướng đó, ta bắt đầu thấy rằng tướng đó tự nó thay đổi từng
phút giây. Dần dần, giống như tất cả mọi hiện tượng tùy duyên khác, tướng
tự nó sẽ hoại diệt. Khi tướng cũng biến mất, tâm không còn đối tượng nào
khác ngoài chính nó để trụ vào, vì thế tâm trú định trong chính nó. Vào giây
phút đó, "tầm" xuất hiện một cách ngắn ngủi. Đó là sự bắt đầu của sự nhất
tâm thiện.
Khi tầm được duy trì khoảng vài giây, "tứ" có thể phát khởi. Giờ thì tâm trụ
vững chãi vào đối tượng. Vì tâm không còn lang thang đây đó, một trạng
thái hỷ vi tế hơn xuất hiện, và tiếp ngay sau đó bởi một trạng thái lạc vi tế
hơn. Bốn thiền chi này khởi động thiền định. Giờ năm thiền chi của sơ thiền
-tầm, tứ, hỷ, lạc, và định- cùng vận hành với nhau như một.
Người ta thường hỏi tôi, "Làm sao tôi biết là tôi đã đạt được sơ thiền?" Câu
trả lời rất đơn giản: như chúng ta đã nói trước đó, chỉ khi nào tất cả năm
thiền chi cùng vận hành nhịp nhàng với nhau thì lúc đó ta mới có thể nói
rằng ta đã chứng được tầng thiền thứ nhất hay Jhana. Hãy tưởng tượng rằng
bạn đang tìm kiếm một cầu vòng. Trước khi tìm được cầu vòng, bạn có thể
thấy màu đỏ ở đây, màu xanh đằng kia, hay một màu hỗn hợp. Chúng có
thể là những gam màu đẹp tuyệt vời. Nhưng đó không phải là hiện tượng
của một cầu vòng. Chỉ đến khi đúng lúc ánh sáng mặt trời phản chiếu vào
mây, tạo nên một vòng cung xuất hiện với tất cả các màu sắc xếp đặt theo
một cách mà chúng phải là, thì bạn mới có một cầu vòng. Tương tự, chỉ đến
khi ta có đủ duyên, và tất cả năm thiền chi đều xuất hiện, nếu không ta chưa
chứng được thiền. Một số người có ý nghĩ rằng tâm định phải trống rỗng. Họ tưởng tượng tâm
của thiền giả phải không có cảm giác -giống như một hòn đá. Không có gì
sai sự thật hơn thế. Tâm chứng thiền không ngưng động mà sôi động. Trong
sơ thiền, tâm có được đặc tính mãnh liệt sau đây:
• Xả, một cảm giác cân bằng, không khó chịu mà cũng không dễ chịu.
• Thanh tịnh, không quan tâm với bất cứ điều gì trên thế giới, như là chính
trị hay tình yêu.
• Nhất tâm.
• Các trạng thái tâm của xúc, thọ, tưởng, hành và thức.
• Tinh tấn, quyết định, năng lực và chú tâm.
Tâm định trú trong chính nó tạo ra một nội lực mạnh mẽ. Giống như một
hồ nước xoáy, tạo ra một cột nước mạnh hơn bao giờ hết bằng cách vận
hành trên chính nó. Nội lực mạnh mẽ này được gọi là "định lực". Hãy nghĩ
đến, thí dụ, nguồn năng lượng của thủy điện. Khi một lượng lớn nước chảy
qua một lỗ thoát nhỏ, lực nước bị dồn nén rất mãnh liệt đến nỗi nó có thể
làm chuyển động trục quay để tạo ra đủ năng lượng thắp sáng một thành
phố. Đó là do dòng nước đó không chảy lan tõa đến các đối tượng bên
ngoài, thì năng lượng của nó được tích tụ bên trong. Tương tự, khi tâm
không bị chi phối bởi một đối tượng ở bên ngoài hay bên trong, tâm sẽ thâu
tụ năng lực vào chính nó. Sau đó tâm cũng giống như nước bị đẩy ra một lỗ
thoát nhỏ. Lực định của tâm lớn đến nỗi nó có thể quán sát trực tiếp tính vô
thường ở mức độ cơ bản nhất, chi tiết nhất, vi tế nhất, của thân và tâm. Tâm
chứng thiền là một trạng thái thiện của sự nhất tâm như thế.
Tâm định mãnh liệt này không giống như khi tâm bị "dính" vào đối tượng
thiền quán. Đó sẽ là bám víu, sẽ khiến tâm dao động. Tâm định đó không
phải là tâm hòa hợp với đối tượng; đó là tâm hòa hợp với chính nó. Đối
tượng chỉ được dùng như là một đòn bẩy để vào tâm. Nếu tâm chấp vào
một đối tượng, đó không phải là thiện; đó là tâm định với sự bám víu. Tiếc
261
thay, đó là loại thiền mà một số thiền giả thực hành, nhưng nó không thể
mang đến sự giải thoát.
Lần đầu tiên khi bạn chứng được sơ thiền, bạn sẽ tràn đầy niềm hỷ lạc đến
nỗi các trạng thái tích cực này có vẻ như là một bộ phận không thể tách rời
của thân. Giống như muối hòa tan hoàn toàn vào nước đến nỗi ta không còn
có thể phân biệt muối và nước. Tương tự, khi toàn thân ta tràn đầy hỷ lạc, ta
không thể tách biệt các cảm giác này và cảm giác nơi thân. Cảm giác an tĩnh
thật tuyệt vời đến nỗi bạn muốn ở trong trạng thái định này mãi mãi!
Tầng Thiền Thứ Hai
Sau khi đạt được tầng thiền định thứ nhất (sơ thiền), tôi khuyên bạn không
nên cố gắng đạt được tầng thiền định thứ hai (nhị thiền) ngay lập tức. Đó là
một việc làm khá dại dột, là một tham vọng tâm linh vô ích. Trước khi đạt
được nhị thiền, bạn phải hoàn thiện sơ thiền. Nếu quá nôn nóng thì chắc
rằng bạn sẽ không đạt được nhị thiền mà còn có thể đánh mất khả năng
chứng sơ thiền trở lại.
Đức Phật đã so sánh một thiền giả quá nôn nóng như thế với một con bò khi
vẫn còn chưa quen thuộc với cánh đồng cỏ này, đã đi sang các cánh đồng
khác. Vì thế, con bò dại khờ này bị lạc trong các hang núi, không có đồ ăn,
nước uống và không thể tìm đường trở về nhà. Đây không phải là lúc đi tìm
niềm hưng phấn mới. Đây là lúc phải kiên nhẫn rèn luyện tâm.
Do đó, khi bạn chứng được tầng thiền thứ nhất, bạn cần nhớ lại mình đã
làm gì để đến được đó. Đây là nơi bạn cần đến tâm chánh niệm của mình.
Chánh niệm giúp bạn nhớ lại những bước bạn đã thực hành. Nếu tâm định
ấy xảy ra cho bạn một cách bất ngờ, bạn không nhớ mình đã tu tập, thực
hành như thế nào, thì đó thực sự không phải là thiền chứng. Có thể một vị
thầy nào đó cho là bạn đã chứng được một trong các tầng thiền. Hãy tự
mình thử nghiệm lại điều này. Đừng dễ dãi nghe theo những ý kiến mà
người khác có thể tự do tuyên bố.
Sau khi đã quán xét lại các bước tu tập, sau đó bạn quyết định với tâm
chánh niệm chứng sơ thiền lần nữa, quyết định duy trì trạng thái tâm định
262
này lâu hơn, và quyết định khi nào trạng thái này sẽ chấm dứt. Sau khi đã
lập ra ba quyết định này, bạn sẽ thực hành theo các bước cần thiết để chứng
được sơ thiền nhiều lần.
Khi lặp đi lặp lại quá trình này nhiều lần, ta sẽ không còn quan tâm đến tầm
và tứ nữa. Sự thay đổi này có thể xảy ra trong một hay nhiều thời khóa
thiền. Thí dụ, bạn đã chứng được sơ thiền năm chục lần, mà mỗi lần chứng
thiền bạn lại thấy bớt quan tâm đến tầm và tứ. Rồi, trong lần chứng thiền
thứ năm mươi mốt, bạn hoàn toàn bỏ qua hai yếu tố này, không chú tâm gì
đến chúng vì bạn đã hoàn toàn đánh mất sự hứng thú đối với chúng. Ngay
giây phút điều này xảy ra, hai chi thiền đó biến mất, có nghĩa là bạn đã
chứng tầng thiền thứ hai (nhị thiền).
Trong nhị thiền, không còn có những suy nghĩ khiến tâm bị quấy nhiễu và
cản trở sự nhất tâm. Các thiền chi còn lại là nhất tâm, hỷ và lạc mạnh mẽ
hơn. Hỷ và lạc trong nhị thiền ít hào nhoáng và nhiều vi tế hơn, vì nó không
còn dựa vào việc tâm cảm thấy tự tại vì đã loại trừ được các chướng ngại.
Giờ hỷ và lạc được dựa trên định. Một cảm giác tự tin mới mẻ cũng có mặt
do thành quả mà bạn đã đạt được cho tới giây phút ấy -tự tin vào khả năng
có thể tiến bộ của mình, tự tin vào phương pháp, và tự tin vào giáo lý của
Đức Phật. Định cũng được tăng thêm sức mạnh.Hãy tưởng tượng một hồ
nước mát mẻ do nước từ một mạch suối ngầm trong lòng đất trào lên. Dòng
nước trong lành từ mạch suối hòa lẫn với dòng nước mát lạnh của hồ, làm
nước hồ luôn sạch mà không bị xáo trộn. Tương tự, trong nhị thiền, niềm hỷ
lạc thanh cao do định mang tới tiếp tục dâng trào trong tâm. Tâm được tưới
tẩm và thân hoàn toàn ngập tràn trong hỷ lạc.
Tầng Thiền Thứ Ba
Sử dụng cùng một quy trình như trên, hành giả tái lập tầng thiền định thứ
hai nhiều lần. Lần đầu tiên khi đạt được nhị thiền, niềm hoan hỷ mà ta cảm
nhận được thật tuyệt vời và mới mẻ. Tuy nhiên sự lặp đi lặp lại khiến niềm
vui trở thành đơn điệu. Dần dần, ta bắt đầu lơ là với nó. Vì thế chi thiền hỷ
cũng dần qua đi. Ngay giây phút hỷ rời khỏi tâm ta, ta chứng tam thiền. Xả và định trở nên mạnh mẽ hơn. Điều này khiến tâm chánh niệm của ta trở
nên vững chãi, mạnh mẽ hơn. Tâm ta tràn ngập lạc ở một mức độ sâu xa và
vi tế hơn. Thí dụ hãy nghĩ đến một hồ đầy hoa lục bình nở trong nước.
Những bông hoa này sinh ra trong nước, sống dưới nước và được nuôi
dưỡng bởi độ sâu của nước. Chúng hoàn toàn thấm đẫm nước, bên trong
cũng như bên ngoài, mọi tế bào của chúng chứa đầy nước. Tương tự, ở tầng
thiền thứ ba, thân ta hoàn toàn thấm đẫm và tràn ngập lạc. Trong nhị thiền,
phần nào có sự hoạt động, sự phấn khích, giống như sự di chuyển của dòng
nước suối tươi mát đổ vào hồ. Nhưng ở tầng thứ ba này, ta không cảm thấy
có nhu cầu phải được tưới tẩm bởi lạc đến từ bên ngoài. Tâm lạc vi tế có đặc
tính của tĩnh lặng vì lạc đã hoàn toàn tràn ngập thân tâm.
Tầng Thiền Thứ Tư
Giống như các lần trước, hành giả lập lại tầng thiền định thứ ba nhiều lần,
cho đến khi hành giả cũng không còn quan tâm đến lạc nữa. Khi lạc đã qua
đi, tâm chánh niệm trở nên càng trong sáng hơn do sự có mặt của xả -cảm
giác không khổ cũng không lạc của một sự cân bằng tình cảm hoàn hảo.
Hành giả sẽ nhận thấy rằng chánh niệm và xả còn thanh tịnh hơn là lạc. Và
khi đã hoàn toàn buông bỏ lạc, hành giả bước vào tầng thiền định thứ tư (tứ
thiền), nơi chánh niệm được thanh lọc bởi năng lực của xả. Ta nhớ lại rằng
trong tam thiền cũng có mặt của xả, nhưng vì ta chưa buông bỏ được lạc,
nên xả chưa đủ mạnh để thanh lọc chánh niệm.
Ở tầng thiền định thứ tư (tứ thiền), tâm hoàn toàn lắng đọng, an định và
vững chãi. Vì tất cả các trạng thái tâm tiêu cực đã được chế ngự, tâm không
còn bị lay động. Tâm trong sáng, rõ ràng bao phủ toàn thân ta như một tấm
vải trắng, sạch, mềm mại quấn quanh thân. Tấm vải sạch ấy mềm mại đến
độ ta gần như không cảm nhận được nó; nhưng nó che chở ta khỏi nóng,
lạnh, gió, côn trùng. Tương tự khi tâm trong sạch, rõ ràng, thì không có gì
có thể khiến nó trở nên bám víu hay sân hận. Tâm duy trì được trạng thái
xả ly. Ngay nếu như thân có bị côn trùng cắn rứt, bị nóng, hay bị lạnh, tâm
vần không bị ảnh hưởng. Ngay cả khi có ai đó kéo áo ta, bắt chuyện, tâm
vẫn không quan tâm đến sự phá rối này, vẫn giữ được định và không lay
động.
264
Vào thời điểm này, hành giả đã biết được sức mạnh thực sự của định. Tâm
đã được củng cố, trở nên trong sạch, rỡ ràng, thoát khỏi chướng ngại và
vững chãi. Tâm nhu nhuyến nhưng bình tĩnh, mạnh mẽ và sắc bén trong
nhiệm vụ quan trọng nhất của nó. Khi hành giả chú tâm định đó vào một
đối tượng, hành giả sẽ nhín thấy nó như nó thực là. Nói một cách khác, tâm
an định viên mãn đó có thể nhìn xuyên suốt vào bản chất thực sự của thực
tại.
____________________
Bốn tầng thiền định quá tuyệt vời đến nỗi ta có thể muốn đắm chìm trong
đó để tận hưởng an lạc, mà không màng đến việc hướng tâm đến tuệ giác.
Tuy nhiên, nếu hành giả chỉ lo 'an lạc' mà không phát triển các phương cách
để sử dụng tâm định, thì hành giả đã hạn chế sức mạnh của định. Tâm định
của hành giả vẫn là thiện, và không có gì sai trái với điều đó. Nhưng nếu
hành giả không sử dụng tốt tâm định của mình thì cũng giống như được
tặng một con ngựa đua nhanh nhất thế giới đã được huấn luyện chu toàn,
mà chỉ dùng nó để đi dạo quanh khu phố. Tâm thiền chứng cũng là một
công cụ quá quý giá, không nên uổng phí. Nếu trong định, hành giả sử
dụng chánh niệm để quán sát thực tại, định lực ấy có thể giúp hành giả đạt
được giải thoát.
Chánh Niệm Về Chánh Định
Có ba thái độ tốt nhất khi hành thiền. Đầu tiên là bắt đầu thời thiền bằng nỗ
lực để chứng thiền. Một khi đã đạt được điều đó, hành giả sử dụng định để
hành minh sát. Đó là hành giả sử dụng định để quán sát về tính vô thường,
khổ và vô ngã (tam tướng) của sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Phương cách thứ hai là bắt đầu thời khóa thiền với minh sát quán. Khi hành
giả hành thiền minh sát thì bất cứ khi nào một đối tượng phát khởi, hành giả
sẽ quán sát cho đến khi nó qua đi, quán sát tính vô thường, khổ và vô ngã
của nó. Sau đó hành giả thư giãn rồi trở về với đối tượng thiền quán ban
đầu, như là hơi thở. Mỗi lần trở về với hơi thở, thì tâm lắng sâu hơn. Nếu
chướng ngại có sinh khởi, hành giả chế ngự nó, điều đó cũng giúp tâm lắng
sâu. Khi tâm loạn động dần yên tĩnh, hành giả sẽ không còn quan tâm đếnnhững đối tượng mà trước đây vẫn lôi kéo tâm chạy theo chúng. Các đối
tượng này nhẹ nhàng qua đi trong tâm thức. Dần dần tướng định xuất hiện,
theo sau bởi tầm và tứ, rồi cuối cùng định xuất hiện theo như đã diễn tả ở
trên. Trong trạng thái định đó, hành giả tiếp tục minh sát, quán sát tính vô
thường, khổ và vô ngã của sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Phương cách thứ ba là bắt đầu hoặc bằng thiền minh sát hoặc nỗ lực đạt
định, và chuyển qua, chuyển lại giữa hai cách này. Thí dụ, ta bắt đầu bằng
cách chú tâm vào hơi thở, không quan tâm đến các đối tượng khác trong nỗ
lực đạt định. Nếu không thành công, tâm trở nên bực bội, và ta sử dụng
thiền minh sát để quán sát những chuyển đổi trong cảm xúc bực bội. Khi
cảm giác này qua đi, ta xét xem có chướng ngại nào khác xuất hiện. Khi tâm
đã vừng chãi, ta trở về quán sát hơi thở sâu lắng hơn, không quan tâm đến
các đối tượng nếu chúng phát khởi, và lại nỗ lực để đạt định. Do đó trong
phương cách thứ ba này, sự chú tâm và chánh niệm kết hợp nhuần nhuyễn
với nhau để dần mang đến định sâu lắng và khiến tuệ giác thêm sắc bén.
Rồi có một ngày, khi tuệ giác hầu như đã hoàn thiện khả năng thấy biết, và
định gần như đã viên mãn, cả hai sẽ hòa nhập.
Do đó dầu bạn hành thiền bằng phương cách nào, niệm và định, được sử
dụng một cách thiện xảo, rồi cũng hòa hợp, vận hành cùng nhau. Nếu khi
ngồi xuống chiếu thiền, bạn thấy rằng các chướng ngại có thể dễ dàng được
điều phục và tâm không tán loạn, thì bắt đầu bằng thiền chỉ tốt hơn. Trái
lại, nếu tâm loạn động, không thể bắt nó yên ngay lúc đầu, thì bạn không
nên cố gắng phát triển định mà nên bắt đầu bằng thiền minh sát. Hay
chuyển đổi hai phương cách này qua lại. Bắt đầu bằng phương cách nào tùy
thuộc vào trạng thái tâm của bạn lúc đó.
Dầu bạn bắt đầu bằng phương cách nào, một khi niệm và định đã kết hợp
với nhau, bạn cần sử dụng chúng để diệt trừ ba kiết sử đầu tiên. Đã biết
được mọi vật đều không có tự ngã, bạn không còn tin vào một cái ngã
thường hằng, bất biến. Bạn sẽ thấy giới cấm thủ thật vô nghĩa lý. Nhận
chân được Tứ Diệu Đế rõ ràng hơn bao giờ hết và không còn nghi ngờ gì vế
con đường đến giác ngộ của Đức Phật.
265
Hãy sử dụng tâm định giống như tia laser để đốt cháy một vật cứng. Để
nhắm tia laser chính xác, bạn phải dùng đến mắt nhìn. Nếu chỉ lo nhìn
266
quanh quất, bạn không thể nhắm chính xác, cuối cùng thì vật không cần đốt
bị đốt, hoặc là không có gì bị đốt cả. Và dĩ nhiên là nếu bạn không bật nút
laser lên, thì dầu bạn có ngồi cả ngày cũng không đốt được vật gì!
Trong ẩn dụ này, đôi mắt giống như tuệ giác. Tia laser là tâm định. Tuệ và
định vận hành cùng nhau. Không có tuệ, thì tia sáng của định cũng sẽ
vương vải, hoặc nhắm sai đối tượng. Không có tia sáng của định, thì con
mắt tuệ dầu có nhìn thấy đối tượng cũng không thể đốt cháy nó được.
Chúng ta muốn đốt cái gì? Uế nhiễm. Tâm bất thiện. Chúng ta cần phải
nhìn thấy chúng bằng con mắt tuệ và hủy diệt chúng bằng tâm định.
Như thế, một khi bạn đã đạt được chánh định, bạn sẽ nhắm vào đối tượng
nào? Bạn nhắm nhất tâm thiện vào sự biến đổi không dừng của các thành
phần cấu tạo nên thân và tâm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Bạn chú tâm
đến tính vô thường, khổ và vô ngã của các thành phần này. Khi bạn chú
tâm đến một trong các thành phần này, bạn nhận ra rằng tất cả đều biến
đổi. Bạn thấy được sự liên hệ giữa vô thường và khổ do sự bám víu của bạn
vào các dục lạc chóng qua.
Nhận ra được tính vô thường, khổ và vô ngã của sắc, thọ, tưởng, hành và
thức là nhiệm vụ chính yếu của thiền minh sát. Khi nhiệm vụ đó hoàn
thành, bạn sẽ được giải thoát khỏi việc bám víu vào các uẩn hợp thành thân
và tâm. Không còn gì để bám víu vào, bạn được giải thoát.
Khi các thiền giả vun trồng đủ định và niệm. Họ có thể lần trở lại trong tâm
những hình ảnh của các sự kiện, thời gian, suy nghĩ, và hành động trong
quá khứ cho đến khi họ nhận ra được sự kết nối giữa dòng chảy không
dừng dứt trong hiện tại và các sự kiện, suy nghĩ, và hành động trong quá
khứ. Sợi dây nối kết này là tham ái và vô minh. Họ tự nhận ra sự liên hệ
giữa vô thường, lòng tham ái đối với vật chất vô thường, và khổ. Tuệ giác
thậm sâu của vị thiền giả cũng nhận biết được tất cả mọi tiêu cực trong mọi
khía cạnh và chúng phát sinh thế nào và tại sao. Tuệ giác nhận thức được
rằng tất cả mọi tiêu cực đều đến từ sự bám víu; và sự bám víu này có thể
chấm dứt, bằng cách chấm dứt chính tâm tham của mình.
Qua tuệ kiến này, thiền giả hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp nơi bản
thân rằng mọi thứ đều vô thường, rằng bám víu vào bất cứ thứ gì vô thường
đều mang đến khổ, và rằng tất cả vạn pháp hiện hữu đều không có một bản
thể thường hằng. Hiểu được như thế là chúng ta thấy được cánh cửa đi vào
giác ngộ.
Ứng Dụng Tâm Định
Vào đêm giác ngộ, Đức Phật phát triển thiền định mạnh mẽ không phải để
rồi thôi mà Ngài mang nó ra ứng dụng. Trong một sát na mãnh liệt, đầy uy
lực, ba chứng ngộ về vô thường, khổ, và vô ngã, tất cả đã cùng bùng vỡ và
Đức Phật đã đạt được mục đích của mình.
Mang sự chứng thiền ra để sử dụng là chìa khóa. Alarakarama và Uddaka
Ramaputta, hai vị thầy trước kia của thái tử Sidhattha Gotama (Đức Phật
trước khi Ngài giác ngộ), đã đạt được định. Tuy nhiên họ đã không tự rèn
luyện để hướng sự chú tâm của họ vào sắc, thọ, tưởng, hành, và thức để có
thể nhìn thấy được bản chất thực sự của chúng. Thay vào đó họ trở nên bám
víu vào sự an lạc của định và nghĩ rằng cảm giác an lạc đó là giác ngộ.
Thái tử Siddhattha Gotama bảo rằng các vị thầy trước đó của Ngài, giống
như Ngài, cũng có lòng tin, tinh tấn, chánh niệm, định, và tuệ. Giống như
Ngài, tuệ giác đã giúp họ hiểu được sự nguy hiểm của các chướng ngại, và
sự cần thiết phải chế ngự chúng. Nhưng không giống như thái tử
Siddhattha Gotama, các vị thầy này không biết rằng họ chỉ sử dụng tâm
định để đè nén chướng ngại, không phải để hủy diệt chúng. Họ không
khám phá ra các kiết sử tiềm ẩn -nguồn lực trói buộc chúng sanh vào vòng
sinh tử không dừng dứt. Chỉ riêng thái tử Siddhattha Gotama đã sử dụng
thiền định của mình để thấy rõ ràng rằng các chướng ngại và kiết sử trói
buộc chúng ta như thế nào.
Đức Phật đã đạt được sự hiểu biết gì? Như chúng ta đã biết, năm chướng
ngại - tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, và nghi- cản trở thiền giả
được chứng thiền. Do đó, lúc tu tập để phát triển định, thiền giả cố gắng gạt
chúng qua một bên. Tuy nhiên các kiết sử, mà từ đó các chướng ngại nẩy
sinh, tiếp tục hiện hữu trong tiềm thức của ta. Mười kiết sử là: tin rằng có
một cái ngã hay linh hồn thường hằng (thân kiến), nghi, tin vào sự hữu hiệu
của các nghi lễ (giới cấm thủ), tham, sân, ước muốn được tái sinh trong cõi
sắc giới, ước muốn được tái sinh trong cõi vô sắc giới, ngã mạn, trạo hối và
vô minh. Những huân tập bất thiện của tâm vẫn ngủ yên đó trong lúc ta tọathiền. Vì các kiết sử tiềm ẩn này vẫn ngủ ngầm trong tâm thức, khi ta xả
thiền, các chướng ngại trở lại. Lúc ta muốn chứng đạt trở lại một tầng thiền
định, ta lại phải gạt các chướng ngại qua một bên, do đó dầu ta rèn luyện
tâm, ta cũng gạt bỏ được các chướng ngại dễ dàng hơn.
Giống như khi chúng ta quét bụi trên mặt sàn bằng đất. Mặc dầu ta vừa quét
xong, không lâu sau, bụi lại xuất hiện. Mặt sàn tiếp tục nứt, tường nứt, thế là
ta lại có một đống bụi. Để thoát khỏi bụi ta có thể quét cả nhà, vẫy nước trên
mặt sàn, hay đổ vài thùng nước để biến mặt đất thành bùn. Tuy nhiên, rồi
bụi cũng sẽ trở lại. Nhưng nếu ta đào sâu xuống tận lớp đá, đổ bỏ tất cả cát
bụi, rồi đổ cement vào đó thì bụi đất không còn là một vấn đề. Đào tất cả cát
đất lên thì giống như thiền minh sát chế ngự các chướng ngại và kiết sử. Đổ
cement tượng trưng cho việc bước vào giác ngộ -khiến cho tâm được cứng
rắn, không thể lay chuyển bởi những cám dỗ thế gian. Một khi đã làm được
điều đó, không có gì có thể lay chuyển tâm ta.
Các vị thầy của thái tử Siddhattha Gotama, Alarakarama và Uddaka
Ramaputta, cũng có trí tuệ. Họ biết được sự nguy hiểm của dục lạc và ích lợi
của thiền định, vì thế họ tạm thời xua đuổi được tất cả mọi chướng ngại và
được chứng thiền. Tuy nhiên, các chứng ngộ này không đủ để giải thoát họ
ra khỏi những kiết sử trói buộc họ với luân hồi sinh tử không dừng dứt. Chỉ
thuần có định không thể hủy diệt các kiết sử. Để có thể hủy diệt chúng, ta
phải kết hợp định, niệm và sự chú tâm. Nếu không, ta sẽ bám víu niềm hỷ
lạc của định, giống như các vị thầy của thái tử Siddhattha Gotama, và không
đi đến đâu cả.
Tuệ giác của Đức Phật rất đặc biệt. Với tuệ giác này Ngài không những thấy
được sự nguy hiểm của dục lạc, ích lợi của thiền định, mà Ngài còn sử dụng
tuệ giác này để vượt xa hơn thiền định. Ngài sử dụng trí tuệ của mình để
khám phá rằng các chướng ngại mà Ngài đã chuyển hóa được trong trạng
thái định chỉ là dấu hiệu của một vấn đề sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn: các kiết
sử. Ngài thấy các kiết sử đã quấy nhiễu tâm như thế nào, tạo các ảo tưởng
về thực tại, đưa đến cảm giác khổ về ngã. Với tâm chánh niệm thanh tịnh
269
Đừng Tự Lừa Dối Mình!
Khi chúng ta cố gắng đem giáo lý của Đức Phật ra thực hành, chúng ta phải
cẩn thận đừng tự lừa dối mình. Một số người bảo rằng khi họ vào sâu trong
định, họ không cảm thấy gì, không nghe gì hay không có bất cứ suy nghĩ
nào. Họ nói rằng họ chìm sâu trong định đến nỗi họ không còn nhớ tới thời
gian đã qua. Ở các khóa tu thiền do chúng tôi tổ chức, tôi đã được gặp các vị
ấy lắc lư giống như những thân cây mong manh trước gió. Sự bất thình lình
rơi vào trạng thái vô thức không được gọi là định. Nó được gọi là ngủ! Một
số vị còn ngáy nữa. Ngay khi chúng tôi đánh chuông để chấm dứt thời khóa
thiền, thì các vị thiền giả này ra khỏi "định sâu xa" của họ và nói, "Tôi đã có
một buổi tọa thiền tuyệt vời. Hôm nay tôi đã có thể đạt được tầng thiền thứ
tư."
Đừng tự lừa dối mình! Đó chỉ là một ảo tưởng. Nếu thiền giả thực sự đạt
được bất cứ tầng thiền định nào, thì hôn trầm buồn ngủ biến mất, tâm sẽ có
tất cả những tính chất tích cực như đã được nhắc tới ở trên. Thiền định chỉ
có thể đạt được với chủ tâm. Ta sẽ thấy biết rõ ràng các bước mà ta đã trải
qua để đạt được thiền chứng. Do đó ta có thể lặp lại các bước đó sau này khi
ta muốn. Thiền định xuất hiện qua nhiều giai đoạn, và chỉ khi tâm định đó
kết hợp với chánh niệm mới có thể giúp ta tiến trên con đường đến giác ngộ.
Ngoài ra, cũng đừng tự dối gạt mình với suy nghĩ rằng định cũng giống như
là giác ngộ. Sự giác ngộ không quá dễ dàng và nhanh chóng như thế. Hành
giả phải trải qua các quá trình chế ngự các chướng ngại, phải đạt được định
và kết hợp tâm định tĩnh đó với tuệ để hủy diệt các chướng ngại và kiết sử.
Không cần biết bạn đã ngồi thiền bao lâu - ngay cả khi bạn ở trong tầng
thiền cao cả nhất - mà không hủy diệt được các kiết sử thì bạn cũng không
thể đạt được giác ngộ, dù chỉ là giai đoạn đầu của giác ngộ.
Cuối cùng, đừng tự lừa dối mình với suy nghĩ rằng chỉ có tâm chánh niệm
thôi cũng đủ để đưa ta đến giác ngộ. Chúng ta không thể nói, "Ta không
quan tâm đến định hay giới. Tôi chỉ cần thực hành chánh niệm." Không thể
tách chánh niệm ra khỏi các bước khác trên đạo lộ. Những người không
thực hành các bước khác trong Bát Chánh Đạo thường nhận ra là họ khôngthể tận diệt được tham, sân, si, do đó không thành công trong sự thực hành
chánh niệm của họ.
Hãy Kiên Nhẫn
Những người cố gắng đạt được an chỉ định để giúp họ thực hành thiền
minh sát đôi khi lo lắng rằng họ không thể làm được điều đó. Đừng nản
chí! Đôi khi phải mất hàng năm mới có thể đạt được định. Nếu hành thiền
với sự dẫn dắt của chánh niệm, thì hành giả sẽ cảm thấy tự tại dầu hành giả
có chứng thiền hay không. Đừng cố gắng để cố tạo ra định. Mỗi khi ta hành
thiền, là ta tiến gần đến định hơn. Phải mất bao lâu tùy theo ta có hành
thiền thường xuyên không và ta thực hành các ngành khác của Bát Chánh
Đạo như thế nào.
Có ngày bạn chú tâm tốt, và có ngày thì chánh niệm tốt hơn. Nếu bạn đã
từng đạt được định trong quá khứ nhưng không hành thiền mỗi ngày và
không thực sự làm chủ được tâm định đó, thì khi cố gắng chứng thiền trở
lại, bạn có thể gặp khó khăn. Tệ hơn nữa, nếu bạn để các chướng ngại tưởng
đã ngủ yên, hoạt động trở lại, hoặc bạn đã làm điều bất thiện, thì việc đó
gần như bất khả thi. Vào những ngày khi việc chú tâm hành thiền có khó
khăn, bạn chỉ cần chánh niệm đến tâm đang hoạt động của mình chứ đừng
tỏ ra quá lo lắng hay nói lên rằng bạn không thể hành thiền. Sự quán sát
một cách đầy chánh niệm những gì đang xảy ra làm tăng thêm sự sắc bén
của minh trí sâu sắc của bạn đối với thực tại mà bạn đang trải nghiệm. Khi
nào bạn còn tiếp tục thực hành tất cả các bước trên đạo lộ (Bát Chánh Đạo)
và tiếp tục cố gắng -mà không cố chấp- để đạt được định, thì bạn có thể tin
rằng Chánh định sẽ dần xuất hiện, và bằng cách sử dụng công cụ đa năng
này, bạn sẽ đạt được hạnh phúc tuyệt đối.
Tóm Lược Về Chánh Định
Những điểm chánh yếu để đạt được hạnh phúc qua Chánh Định là:
• Chánh định có ba đặc tính: thiện, nhất tâm, và nó vận hành với chánh
niệm.
271
• Đức Phật đã truyền dạy cho chúng ta một phương pháp tu tập dần dần,
từng bước, để đạt được chánh định.
• Thiện định là loại định giải thoát ta khỏi tham, sân, si. Không còn có năm
chướng ngại.
• Để phát triển được chánh định, trước hết phải thực hành thiện định bằng
cách chế ngự các chướng ngại. Chú tâm vào hơi thở hay các đối tượng thiền
quán đã chọn khác và không để tâm đến các đối tượng vừa mới phát sinh.
• Sau khi bạn đã thực hành thiện định một thời gian, hơi thở của bạn trở
nên rất vi tế, gần như là biến mất. Sự ghi nhớ về hơi thở ở nơi ta đặt chú
tâm, như là ở chóp mũi, sẽ được chuyển sang một cảm giác dễ chịu gọi là
"định tướng" (sign of concentration).
• "Nhất tâm" ám chỉ tâm trụ vào chính nó sau khi định tướng đã biến mất.
Nhất tâm là một yếu tố của thiền định hay jhana.
• Tầng thiền định thứ nhất (sơ thiền) được đánh dấu bằng tầm, tứ, hỷ, lạc,
và định vận hành với nhau.
• Ít nhất phải đạt được sơ thiền thì mới đạt được giác ngộ.
• Một khi bạn đã biết cách để đạt được sơ thiền, hãy quyết tâm để đạt được
thiền chứng này lần nữa, quyết định xem bạn sẽ ở trong tầng thiền này
trong bao lâu, và khi nào bạn muốn xuất định.
• Thực hành đạt được sơ thiền nhiều lần cho đến khi bạn hoàn toàn làm chủ
nó.
• Nhị thiền (tầng thiền định thứ hai) phát khởi khi bạn đã đạt được sơ thiền
quá nhiều lần đến nỗi bạn không còn quan tâm đến tầm và tứ nữa, khiến
cho các chi thiền này biến mất.
• Tam thiền (tầng thiền định thứ ba) xuất hiện khi sự lặp lại thường xuyên
của nhị thiền khiến tâm không còn quan tâm đến hỷ. Khi hỷ qua đi, lạc trở
nên vi tế, lắng đọng và xả niệm trở nên rõ ràng hơn.
• Tứ thiền (tầng thiền thứ tư) phát khởi khi bạn không còn quan tâm đến lạc
và tâm niệm của bạn trở nên thanh tịnh bằng sự buông xả sâu lắng.
• Trong trạng thái định, tâm đầy ấp các tính chất thiện, mạnh mẽ, quyết liệt, • Thiền định tạo ra chất lượng và sức mạnh cần thiết để thực hành thiền
minh sát.
• Không cần biết bạn đã ở trong tầng định mạnh mẽ nhất trong bao lâu,
nhưng nếu chỉ có thế, sẽ không mang đến giác ngộ cho bạn. Để đạt được
giác ngộ, bạn phải hủy diệt được các kiết sử.
• Bạn có thể bắt đầu một thời khóa tọa thiền bằng phương pháp thiền chỉ,
vun trồng an chỉ định hay bằng sự thực hành chánh niệm, tùy thuộc vào sự
ổn định của tâm bạn ngày đó. Hay bạn có thể chuyển qua chuyển lại giữa
hai phương pháp này.
• Không cần biết bạn đã bắt đầu một thời khóa thiền như thế nào, định và
niệm phải đi với nhau để tạo thành một trí tuệ viên mãn.
• Bạn cần có một tri giác sắc bén để nhận ra được tính vô thường, khổ và vô
ngã của tất cả mọi hiện hữu. Tuệ giác cho phép ta thấy được vai trò của
tham trong việc mang đến khổ, để ta có thể buông bỏ nó.
• Chỉ có định hay chỉ có niệm không thể đưa ta đến giác ngộ. Giác ngộ chỉ
có thể xảy ra khi định kết hợp với niệm để hủy diệt các kiết sử qua tuệ giác.
• Có thể chỉ cần vài ngày hay rất nhiều năm mới đạt được thiền định. Đừng
nản chí nếu nó chậm đến và cũng đừng cố gắng để áp đặt nó.
không trơ ra như đá hay giống như ai đó đang ngủ. LỜI KẾT
Lời Hứa Khả Của Đức Phật
Sự phân chia con đường đạo của Đức Phật ra tám bước không có nghĩa là ta
phải bước từng bậc. Không cần phải làm chủ được bước này trước khi tiến
đến bước khác. Đạo lộ đó giống như một vòng xoắn ốc. Khi đã bắt đầu bước
trên đường, là bạn đã có một số hiểu biết về tất cả tám bước. Khi bạn tiếp tục
thực hành, các bước này ngày càng trở nên rõ ràng hơn trong tâm bạn, và
bạn có thể tiến lên giai đoạn kế tiếp.
Tuy nhiên, có một số phương cách có thể giúp ta nghĩ về đạo lộ đó như là
một tổng thể. Rõ ràng là tham, sân, và si, là ba pháp bất thiện độc hại nhất
và là nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau. Đối nghịch với chúng là ba ngành
quan trọng nhất của đạo lộ: Chánh Kiến về giáo lý của Đức Phật; Chánh
Tinh Tấn để chế ngự tham, sân, si; và sự thực hành Chánh Niệm như là
phương tiện để chế ngự các pháp bất thiện này. Ba ngành này -Chánh Kiến,
Chánh tinh tấn và Chánh niệm- hỗ trợ lẫn nhau, vận hành cùng nhau để
giúp ta tiến bước trên đạo lộ.
Muốn thấu hiểu được giáo lý của Đức Phật, hành giả cần có nhiều nỗ lực.
Chắc chắn sẽ dễ dàng hơn nếu ta không phải cố gắng, không cần thay đổi,
cứ sống dễ dãi và tiếp tục suy nghĩ, hành động theo như các thói quen mà ta
đã huân tập. Tuy nhiên Đức Phật đã dạy rằng một khi chúng sanh không
nhận biết chân lý, họ sẽ nghĩ rằng họ không có vấn đề gì hoặc vấn đề của họ
không thể giải quyết được.
Tuy nhiên, nếu bạn có nỗ lực, bạn sẽ hiểu nhiều hơn. Chánh niệm có thể hỗ
trợ bạn. Thật ra, nếu không có chánh niệm, bạn sẽ không bao giờ hiểu gì hết!
Bạn có thể nỗ lực; bạn có thể tranh đấu; nhưng nếu không có chánh niệm,
bạn sẽ không bao giờ tiến bộ trong sự hiểu biết của mình. Với chánh niệm,
bạn có thể nhận biết chân lý về khổ, nguồn gốc của nó, sự tận diệt của nó và
con đường dẫn đến sự tận diệt đó. Hơn thế nữa khi thực hành chánh niệm,
bạn sẽ nỗ lực để giải thoát tâm khỏi tham, sân, và si. Do đó thực hành chánh
274
niệm đòi hỏi phải có nỗ lực, và sự kết hợp của chánh niệm và nỗ lực giải
thoát tâm khỏi tà kiến.
Các chi ngành khác trong Bát Chánh Đạo cũng dựa trên ba yếu tố này.
Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh định chỉ có
thể được vun trồng với sự hỗ trợ của chánh kiến, chánh tinh tấn và chánh
niệm. Không có chánh kiến, bạn sẽ không thể hiểu tại sao việc tu tập để
chuyển hóa cuộc đời bạn là quan trọng. Không có chánh tinh tấn, bạn sẽ
không thể nào tiến đến mục đích chuyển đổi tích cực. Và chánh niệm là công
cụ hoàn hảo bậc nhất của ý thức và chú tâm để giúp bạn chế ngự tâm bất
thiện, và phấn đấu đến giải thoát.
Một cái nhìn khác về cách mà tám bước của Bát Chánh Đạo vận hành với
nhau như thế nào là chia chúng thành ba nhóm: giới, định, và tuệ. Mỗi
nhóm thúc đẩy bạn tiến đến việc thực hành nhóm kế tiếp tới và tiến đến sự
thông suốt hơn về Bát Chánh Đạo như là một tổng thể. Làm thế nào để
được như thế?
Nhóm đầu tiên bắt đầu với một số hiểu biết nào đó. Thí dụ, ta hiểu rằng
tham khiến ta thất vọng như thế nào, vì thế ta bắt đầu thực tập xả. Ta cũng
hiểu sân hận mang đến đau khổ cho ta và người khác như thế nào, vì thế ta
quyết định thực hành thương yêu và bi mẫn. Ba tư duy này - xả, tình
thương, và lòng bi mẫn- là chánh tư duy. Muốn vun trồng những tư duy
tích cực này, ta phải có trí tuệ. Trí tuệ này phát xuất từ chánh kiến. Do đó,
chánh kiến và chánh tư duy kết hợp với nhau như là một khía cạnh trí tuệ
của Bát Chánh Đạo.
Nhóm thứ hai phát sinh từ nhóm thứ nhất. Khi quán sát cuộc đời mình với
con mắt trí tuệ, ta sẽ thấy hạnh phúc và an bình biết bao khi ta biết suy nghĩ
và hành động thiện. Trí tuệ cũng giúp ta hiểu rằng những đau khổ mà ta
phải hứng chịu là do tham ái, bám víu mà ra, và rằng khi ta hủy diệt được
những nguyên nhân này thì khổ sẽ chấm dứt. Sự hiểu biết này thúc đẩy ta
sửa đổi hành động của mình. Vì ta thấy rằng nói dối, nói lời ác độc, nói lời
thô tục và nói xấu đem lại đau khổ, ta tránh các loại ác ngữ và quyết định
chỉ nói những lời lễ phép và đầy ý nghĩa. Vì ta thấy rằng đau đớn và thương
tâm là do các hành động giết, trộm cắp, sử dụng các chất gây mê, và tà dâm,
ta tránh những hành động tiêu cực này. Thay vào đó, ta tôn trọng sự sống
275
của những chúng sinh khác và cố gắng để cứu họ; ta tôn trọng tài sản của
người khác; ta tránh sử dụng những chất gây mê và không quan hệ tình dục
bừa bãi. Vì ta hiểu có những khổ đau, tai họa gây ra do các phương tiện
kiếm sống không lành mạnh, ta cố gắng kiếm sống một cách lương thiện để
hỗ trợ cho sự tu tập tâm linh của mình. Những sự thay đổi bên ngoài do ảnh
hưởng của chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng được nhóm lại với
nhau như là một khía cạnh đạo đức (giới) của đạo lộ.
Nhóm thứ ba dựa trên sự hiểu biết rằng nếu chỉ có những sự thay đổi bên
ngoài thôi, ta sẽ không thể chấm dứt được khổ. Ta cũng biết rằng hành
động bắt đầu bằng ý nghĩ và những ý nghĩ bất thiện tự chúng sẽ đem đến
cho ta rất nhiều khổ đau. Do đó ta cố gắng để rèn luyện, kỷ luật tâm. Khi
bắt đầu quán sát tâm mình, ta thấy rằng dầu ta có ý hướng thiện, nhưng các
bất thiện pháp như tham, sân, si, và nghi vẫn khởi lên trong tâm thức ta. Ta
cũng nhìn thấy xa hơn nữa rằng phương cách duy nhất để chống lại các cạm
bẫy của tâm là áp dụng sự tinh tấn miên mật và thành khẩn để tránh các
thói quen suy nghĩ tiêu cực, để chế ngự chúng khi chúng phát khởi, và để
gieo trồng, duy trì các thiện pháp. Hơn thế nữa, ta thấy rằng chánh niệm rất
cần thiết cho sự chuyển hóa tích cực, ở ngoại tại cũng như nội tâm. Nếu
không có định, ta khó phát triển được tâm chánh niệm, vì chính định giúp ta
nhìn thấy sự việc như chúng thật sự là. Ba yếu tố này - chánh tinh tấn,
chánh niệm, và chánh định - kết hợp lại với nhau như là khía cạnh định Bát
Chánh Đạo.
Vì thế, hết lần này tới lần khác, chúng ta luôn thực hành tám bước của con
đường đạo này. Với mỗi lần thực hành, lòng tham, sân, và si của ta lại giảm
bớt. Với mỗi lần thực hành, sự hiểu biết của ta về sự thật của khổ, nguyên
do của khổ và cách để tận diệt khổ sẽ thâm sâu hơn. Không cần biết lúc bắt
đầu, trình độ hiểu biết của bạn ra sao, kết quả của con đường đạo vẫn không
khác - chấm dứt khổ đau, và cuối cùng, là mức độ cao nhất của hạnh phúc
và bình an.
Giác Ngộ
Nhiều người không tin có giác ngộ. Trên các diễn đàn trong internet (chat
room) thảo luận về Phật pháp, tôi nhận thấy có một số người dùng lời lẽ mạ
lỵ -những lời thô tục, giận dữ- để nói về giác ngộ. Có thể họ đã hiểu sai về
276
giác ngộ. Giác ngộ không gì hơn là sự đoạn diệt niềm đau cháy bỏng do
tham, sân, si tạo nên. Giác Ngộ dập tắt đi một lần và mãi mãi ngọn lửa của
sinh, già, bệnh, chết, buồn, khổ, đớn đau, và thất vọng.
Có thể người ta chế diễu sự giác ngộ vì sợ rằng khi họ dập tắt ngọn lửa đó,
họ sẽ không còn gì để sống tiếp trong bóng tối lạnh lẽo của thất vọng. Có thể
họ đã lẫn lộn ngọn lửa nội tâm đau đớn với ngọn lửa đã khơi dậy nền văn
minh, hay với ngọn lửa của điện lực. Nhưng khi ngọn lửa khổ đau của ảo
tưởng được dập tắt, những gì hiện ra sau đó không phải là không khí lạnh
lẽo của một đêm đông đen tối. Đó không phải là một trạng thái u ám, thiếu
sinh khí. Không như thế chút nào. Khi ngọn lửa của tham, sân, si, sinh, già,
bệnh, chết, đau đớn, khóc than, phiền não . . . đã được dập tắt, kết quả là sự
an bình trọn vẹn, thanh tịnh trọn vẹn, và hạnh phúc không thể diễn tả, trong
khi tâm và các giác quan, cùng lúc, một trăm phần trăm trong sáng, thanh
cao, đầy sinh lực. Giác ngộ là ánh sáng của nội tâm, sự chiếu sáng, sự ấm áp
của nội tâm.
Khi đã đặt xuống gánh nặng của tất cả mọi phiền não trong tâm - tham, sân,
si - thân và tâm sẽ cảm thấy thật khỏe khoắn. Chúng ta không quen với cảm
giác nhẹ nhàng này. Chúng ta đã quen có một cái đầu đông cứng, một trái
tim trĩu nặng, một thân thể phục phịch. Viễn ảnh có được một trái tim thanh
thoát như thế khiến chúng ta e dè. Chúng ta sợ rằng sự nhẹ nhàng thanh
thoát đó sẽ khiến đầu ta lơ lửng. Sự nặng nề, sự đau khổ đã quá quen thuộc
đến nỗi chúng ta sợ rằng mình sẽ cảm thấy mất phương hướng nếu ta
buông bỏ chúng.
Điều này đã xảy ra cho một người bạn của tôi. Do công việc anh ta phải
chuyển nhiệm sở và dọn đến một căn hộ cạnh một ga xe lửa ồn ào. Lúc đầu,
anh không thể ngủ được vì sự ồn ào nơi nhà ga. Một vài năm sau anh lại
phải dọn nhà lần nữa. Căn hộ mới của anh rất yên tĩnh. Lần nữa, trong
nhiều đêm, anh ta không thể ngủ. Anh đã trở nên quá quen thuộc với tiếng
động, với sự ồn ào mà anh thực sự cần để thư giãn và đi vào giấc ngủ!
Tương tự, chúng ta cũng đã quá quen thuộc với tâm phiền não, khổ đau đến
nỗi chúng ta sợ sự thay đổi.
Điều này cũng khiến tôi nhớ đến câu chuyện về một người mà tôi đã đọc
được trong báo khi tôi sống ở Washington D.C. Người này phải chịu ánchung thân vì tội giết người. Nhờ chấp hành kỷ luật nghiêm túc, sau mười
năm, anh ta được ân xá. Một phóng viên phỏng vấn anh. "Chắc ông rất
hạnh phúc khi biết mình được ân xá?"
"Không. Đừng nói với tôi về việc ân xá," người đàn ông trả lời một cách
bực bội. Anh nói rằng anh đã cảm thấy rất thoải mái với cuộc sống trong
tù. Anh ta tận hưởng những quyền lợi như được coi ti vi, và cuộc sống
trong tù không có những sự bất an như bên ngoài. Nhưng, tôi tự hỏi, có phải
anh đã thực sự trở nên quá quen thuộc với sự bạo động trong tù, sự hà khắc,
sự tàn nhẫn của những người cai tù? Có phải anh đã quên niềm vui được
sống bên ngoài bức tường tù tội, cảm giác của không khí mát mẻ, không
gian rộng mở thông thoáng, những món ăn ngon, sự tự do được gặp gỡ
những người tự do khác, có phải anh đã trở nên quá bám víu vào những
điều kiện bên trong tù đến nỗi được tự do có vẻ xa lạ và không hấp dẫn?
Những người chế diễu, mạ lỵ giác ngộ hẳn cũng giống như người đàn ông
trong tù kia. Họ bám víu vào những gì họ đang có. Họ không muốn xa rời
sự quen thuộc dễ chịu của khổ đau. Nhưng họ không biết họ thiếu sót, mất
mát điều gì.
Giác ngộ không phải là một điều gì đó ta muốn là có được. Đó là một trạng
thái mà bạn có được khi tất cả mọi ham muốn đã không còn. Như Đức Phật
đã dạy,
Nếu nước ở khắp nơi,
ta cần gì đào giếng?
Nếu đã bứng sạch rễ tham,
ta còn tìm kiếm gì?
(Ud VII.9 [Do Ireland dịch])
Khi biết mình còn thiếu thốn điều gì đó, ta sẽ luôn đi tìm. Trái lại, khi đã
có tất cả mọi thứ mình mong muốn, ta sẽ thôi không tìm kiếm. Vì đã đạt
được hạnh phúc tuyệt đối, sự hòa hợp hoàn toàn, bạn cảm thấy bằng lòng để cho mọi người khác cũng được sống trong hạnh phúc và hòa hợp.
278
Ở cuối bài kinh Đại Niệm Xứ (Maha Satipatthana Sutta), Đức Phật đã đảm
bảo rằng bất cứ ai thực hành thiền chánh niệm theo lời chỉ dạy của Đức Phật
thì người đó chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ ngay trong kiếp sống này. Nếu
không được hoàn toàn giác ngộ vì còn một số kiết sử vi tế cản trở, thì người
đó ít nhất cũng trở thành một vị Bất lai (non-returner), đạt được tam thiền.
(D 22)
Đức Phật không hàm ý rằng vị hành giả chỉ thực hành một phần giới hạn
của đạo lộ mà có thể đạt được Giác Ngộ. Muốn được giác ngộ bạn phải phát
triển toàn vẹn mọi khía cạnh của giới, định, và tuệ. Hơn thế nữa, trong lời
hứa khả đáng ngạc nhiên này, Đức Phật không chủ ý nói rằng một sự tu tập
dễ dãi, không thường xuyên -lúc có lúc không - là đủ. Trái lại, Ngài có ý
dạy rằng để đạt được giác ngộ, ta phải tu tập một cách tinh tấn, kiên trì và
tự nguyện. Để đạt được định, sự nỗ lực của bạn phải được hỗ trợ bằng giới
đức hoàn toàn trong sáng. Thiền chứng của bạn phải thiện và nhất tâm. Tâm
định mãnh liệt này phải được vun trồng bởi tâm chánh niệm cũng mãnh liệt
không kém. Rồi thì trí tuệ giải thoát sẽ xuất hiện với sự hỗ trợ của giới luật
thanh tịnh và chánh định.
Tuy nhiên, một số người vẫn còn nghĩ rằng những lời của Đức Phật là
những lời hứa không thực tế. Tôi không biết họ dựa vào đâu để nghi ngờ
nó. Họ có giống như người ghét xuống nước lại nghi ngờ rằng làm gì có ai
lội nhanh như các vận động viên Olympic? Hay giống như người chưa bao
giờ chạy một bước lại nghi ngờ rằng làm sao có ai chạy được hai mươi sáu
dặm marathon? Dĩ nhiên lời hứa khả của Đức Phật có vẻ không thực tế đối
với những kẻ chưa từng ngồi trên gối thiền hay cố gắng quán sát hơi thở
mình trong một phút! Và lời hứa đó cũng không chắc chắn đối với những ai
đã ngồi thiền nhiều năm nhưng chẳng bao giờ thực hành cả tám bước của
Bát Chánh Đạo bao gồm giới, định, và tuệ.
Thực hành thiền quán đòi hỏi những giới luật khắt khe. Bạn chấp nhận các
giới luật này không phải để gây ấn tượng đối với ai, mà là để giải thoát tâm
khỏi những đau khổ gây ra bởi chính những sự bất thiện của bạn. Nếu bạn
đến với đạo lộ như một thú tiêu khiển, hay một sự sưu tầm, thì bạn sẽ
không bao giờ thành công. Tám ngành của Bát Chánh Đạo không phải là
279
những điều mà bạn chỉ nghiên cứu, tìm hiểu, rồi chỉ đem ra thực hành khi
cần. Đúng là bạn chỉ thực hành Bát Chánh Đạo khi cần - nhưng bạn cần đến
chúng mỗi giây phút trong cuộc đời bạn!
Tuy nhiên, sự chánh niệm của bạn về tám bước trên con đường của Phật,
không cần phải hoàn thiện trước khi bạn có thể bắt đầu thực tập. Nếu sự
chánh niệm của bạn về Bát Chánh Đạo có thể bị suy giảm, đừng lo lắng. Chỉ
cần chánh niệm về sự không chánh niệm đó ngay khi bạn có thể. Sự thành
công trên bước đường tu tập của bạn tùy thuộc vào việc bạn có giữ được ý
chí mạnh mẽ để luôn chánh niệm, chứ không phải là việc bạn thực sự có khả
năng làm được như thế hay không. Khi bạn tiếp tục nhắc nhở bản thân phải
chánh niệm, thì sự xao lãng càng ngày càng ít hơn, cho tới một ngày, sự
chánh niệm về con đường đạo trở nên tự động. Nếu bạn có được sự nỗ lực
như thế, bạn sẽ tiến bộ rất nhanh. Lúc đó bạn sẽ là loại đệ tử mà Đức Phật
đã nghĩ đến trong tâm khi Ngài lập lời hứa khả này.
Hãy Đến Để Thấy
Quyển sách này chỉ đưa ra những lời hướng dẫn căn bản để giúp bạn đi
theo con đường đạo. Khi đã tiến bộ trong việc thực hành, nếu bạn thỉnh
thoảng xem lại, bạn có thể thấy là nó vẫn còn hữu ích cho bất kỳ trình độ
hiểu biết nào. Nhưng quyển sách này không thể giải thích tất cả những điều
bạn muốn biết về Phật pháp, về sự tu tập, về kinh nghiệm của bạn và về
những gì bạn sẽ đạt được. Mỗi cá nhân sẽ có căn bản giáo dục, ý thức, sự
hiểu biết về Pháp, và những trình độ tiến bộ tâm linh khác nhau. Hơn thế
nữa, ngày mai các câu hỏi của bạn sẽ rất khác với những câu hỏi của ngày
hôm nay.
Ngay chính Đức Phật cũng không thể trong một bài kinh có thể nói hết về
mọi khía cạnh cho mọi người. Đó là lý do tại sao Ngài đã có hàng ngàn bài
pháp. Quyển sách này chỉ là một bảng tóm tắt của những điều này và một
vài giải thích về những điểm quan trọng nhất của chúng. Những gì còn lại
bạn sẽ phải thêm vào qua sự thực tập của mình. Giây phút hiện tại là thầy
của bạn. Hãy biến nó thành một phòng thí nghiệm cho chính cá nhân bạn.
Hãy chú tâm. Hãy quán sát. Chỉ có bạn mới có thể mang lại trí tuệ cho bản
thân. Bạn thực hiện được điều đó bằng cách theo đuổi các thiện pháp.
280
Những thính giả có lòng nghi hoặc đã có lần hỏi Đức Phật rằng tại sao họ
cần phải tin Ngài, khi họ đã nghe quá nhiều những vị đạo sĩ khác, ai cũng tự
nhận mình nắm được chân lý. Đức Phật trả lời rằng họ không nên tin bất cứ
điều gì chỉ vì một ai đó, ở đâu đó, đã nói rằng đó là chân lý. Những nguồn
tin được nghe qua, được báo cáo, những niềm tin lưu truyền qua nhiều thế
hệ, kinh sách được coi là thánh điển, lời của một vị thầy được kính tin, và
giáo huấn từ một ai đó mà bạn nghĩ là rất thông thái -tất cả đều không có sự
bảo đảm của chân lý. Đức Phật đã dạy rằng tất cả những điều này không
nên được chấp nhận chỉ dựa trên lòng tin.
Đức Phật cũng dạy rằng ta không thể chỉ dùng lý trí để khám phá ra chân lý.
Ngài thuyết rằng không nên tin một điều gì đó chỉ vì nó có vẻ logic, hoặc
dường như mang ta đến gần với mục đích của mình hơn, hoặc thích hợp với
chí hướng của ta hay có vẻ đúng sau khi ta đã suy nghĩ về nó. Tại sao? Vì
Pháp vẫn còn một khía cạnh mà không có gì, ngay cả sự suy luận quán
chiếu, có thể nắm bắt được: sự trải nghiệm của bản thân ta.
Đức Phật đưa ra một quy luật tổng quát đối với những gì chúng ta nên chấp
nhận. Quy luật này không dựa trên bất cứ loại lòng tin hay lý luận nào.
Đúng hơn, Đức Phật dạy, khi quán chiếu một hành động, hãy tự hỏi, dựa
vào kinh nghiệm bản thân, rằng một hành động như thế có tổn hại cho ai
không, kể cả bản thân ta. Nếu nó tổn hại, bất thiện, thì hành động đó không
nên làm. Nếu nó hữu ích cho mọi người, kể cả bản thân ta, và nếu người trí
cũng chấp nhận thì nó là thiện. và hành động đó nên làm. (A I (Ba) VII.65)
Sau đó Đức Phật dạy thêm rằng ta cần phải quán sát lại sau mỗi hành động
đã thực hiện. Ta nên tự hỏi, "Hành động đó thực sự xảy ra như thế nào? Nó
có thiện xảo không?" Nếu không, và ta "phải nhận lãnh hậu quả với nước
mắt," thì hành động đó cần phải được tránh trong tương lai. Trái lại, nếu
hành động đó thiện xảo, và ta "gặt được kết quả với niềm vui trong mắt,"
thì hành động đó cần phải được làm lặp lại. (Dh 67-68) Nếu ta chú tâm đủ
và thành thật với bản thân về những gì ta biết là đúng, thì -không cần phải
tin vào bất cứ điều gì người khác nói- ta có thể chọn lựa hành động để phát
triển tâm thanh tịnh và trí tuệ, và điều đó mang đến nhiều hạnh phúc cho
ta. Chỉ có ta là người giữ chìa khóa đi vào cửa giải thoát của mình. Chìa
khóa đó là lòng quyết tâm để quán chiếu nội tâm và quyết định hành động
nào là thiện, mang đến cho ta những kết quả tốt đẹp. Bạn có muốn được thấy Pháp không? Hãy quán chiếu những trải nghiệm
của mình. Hãy sử dụng kinh nghiệm bản thân như là một tấm gương phản
chiếu Pháp. Tất cả bản tánh của mọi chúng sanh cũng phản chiếu qua đó.
Trong cuộc sống hằng ngày và trong từng giây phút hiện hữu, ta có thể thấy
tất cả những gì ta cần thấy ở bất cứ nơi đâu: nhân quả, vô thường được biểu
hiện qua dòng chuyển đổi không dừng ở mọi mức độ, đau khổ có mặt ở bất
cứ nơi nào có tham ái, chấp ngã, và sự thật rằng dầu ta có cố gắng để tìm
kiếm tự ngã một cách khổ sở như thế nào, ta cũng không thể tìm thấy gì.
Bạn có muốn biết về kinh nghiệm của mình không? Hãy quán tưởng Pháp.
Qua đó bạn sẽ thấy tất cả các thành phần và mẫu mực chung, không của
riêng ai để tạo ra "con người bạn." Ở đó bạn cũng thấy rằng những gì bạn
đã trải qua, trên căn bản, cũng giống như những gì mà mọi chúng sanh khác
đã trải qua. Pháp có mặt ở khắp mọi nơi. Thí dụ, ngay cả khi quán sát một
con bọ đang vẫy vùng trong tô nước, có thể cũng bừng lên trong tâm trí bạn
về thực tại của sự sợ chết mà bạn cũng như tất cả mọi chúng sanh khác đều
cảm thấy. Vạn pháp đều hiển lộ trong tất cả mọi mặt của cuộc sống, trong
từng giây phút, từng ngày. Nó có mặt ngay đó để ta nhận dạng, không cần
có một niềm tin mù quáng hay một lý thuyết luận giải nào. Từ việc quán sát
rốt ráo này, ta có được tự tin trong việc tu tập và tiến bước trên con đường
đạo.
Nếu ta không trở nên quen thuộc, thành thạo với đạo lộ và nhận ra được
chân Pháp từ chính kinh nghiệm bản thân, thì tri thức ta thu thập được từ
quyển sách này sẽ chỉ là lý thuyết suông. Nếu tôi chỉ về hướng sao Bắc Đẫu,
bạn có thể trố mắt nhìn tôi và tự hỏi, "Tại sao ông ta chỉ về hướng đó? Lý ra
ông phải chỉ về hướng kia mà?" Làm sao ta có thể giải thích một ngôi sao
với người chẳng bao giờ ngước mắt nhìn lên trời vào ban đêm? Cho đến khi
bạn có thể ngửa đầu để nhìn các ngôi sao và theo dõi các phương hướng để
quán sát bầu trời, hay cho đến khi bạn có thể chỉ ra sao Bắc Đẫu, thì nghi
hoặc vẫn còn trong tâm bạn. Tâm nghi hoặc sẽ dẫn đến đủ loại câu hỏi.
Nhưng khi bạn đã nhìn ra được sao Bắc Đẫu và tự quán sát cách mà mọi thứ
khác vận hành quanh nó, thì bạn không còn nghi ngờ gì nữa cả.
Tương tự, trước khi đến đích của con đường, bạn sẽ còn nhiều câu hỏi về
đạo lộ, về giáo lý, về sự thực hành của bạn, và về lý do tại sao tôi đã nói một
số điều như thế trong quyển sách này. Làm sao có thể dùng từ ngữ để diễn giải được Niết bàn là như thế nào, khi Niết bàn không phải là điều có thể
thử nghiệm được? Kinh nghiệm ta có được qua các giác quan, mà khi dùng
bất cứ tên gọi nào để diễn tả những trạng thái không thể trải nghiệm được,
cũng đều sai lạc, vì chúng dựa vào kinh nghiệm giác quan. Chúng ta đành
phải bước theo các bước của Bát Chánh Đạo đến tận cùng, để tự mình được
thấy.
Bạn đã từng thử chỉ cho con mèo thấy một vật gì từ xa chưa? Bạn càng cố
đưa tay chỉ, con mèo càng muốn gậm ngón tay bạn, và không bao giờ muốn
nhìn xa hơn ngón tay chỉ. Nếu bạn đọc xong quyển sách này và nói, "Chỉ có
vậy thôi sao? Còn chân lý tuyệt đối thì ở đâu? Quyển sách này không giúp
được gì cho tôi", thì bạn cũng đã làm giống như chú mèo rồi. Hãy nhìn xa
hơn những gì đã được nói trong sách. Hãy hành động theo lời Đức Phật
dạy để tìm ra một cách để hiểu khác. Hãy tự mình bước trên đạo lộ. Đạo lộ
này trải dài xuyên suốt mọi kinh nghiệm sống của bạn khi bạn gieo trồng sự
thiện xảo ngày càng nhiều hơn trong ý nghĩ, lời nói và hành động.
Khi bạn đã bước những bước vững chãi, khéo léo trên đạo lộ để thanh tịnh
hóa tâm, cuối cùng bạn sẽ nắm bắt được chân lý về tính vô thường của vạn
pháp, về khổ do tâm bám víu vào các pháp vô thường, và về sự thiếu vắng
một tự ngã trong tất cả những gì vô thường và khổ. Bạn sẽ thấy tham ái sâu
kết mọi khổ đau như thế nào. Lúc đó bạn sẽ tự mình thấy, và tất cả mọi
nghi hoặc đều chấm dứt.
Nếu bạn không tin vào những mục đích lớn hơn được nói đến trong sách,
cũng chẳng sao; quyển sách vẫn có thể ích lợi cho bạn. Hãy sử dụng quyển
sách này để nó có thể giúp bạn tự vấn về những trải nghiệm trong đời
mình. Bất cứ điều gì xảy ra cho bạn cũng đem lại một bài học. Đức Phật
thường dạy, "Hãy đến để thấy!" Qua đó, Ngài muốn khuyên ta hãy tự quán
sát thân và tâm để tìm ra chân lý, đó là Pháp. Bạn sẽ không thể tìm được ở
bất cứ nơi nào khác. HIỆU ĐÍNH & TÀI LIỆU THAM KHẢO
- A Anguttara Nikaya, Gradual Sayings, Kinh Tăng Chi Bộ, Chương 7, Số 65.
Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
- D Dighta Nikaya The Long Discourses of the Buddha, Trường Bộ Kinh
Thí dụ D 22 ý chỉ Kinh số 22)
Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
- Dh Dhammapada, hay Word of the Doctrine, Kinh Pháp Cú
(Thí dụ: Dh 5 ám chỉ Kệ số 5)
Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
- DhA Dhammapada Atthakatha, hay Dhammapada Commentary, Chú Giải
Pháp Cú (Thí dụ: DhA 124 ý chỉ phần 124 của Chú Giải, giải thích Kệ số 124)
- J Jataka, hay Jataka Story, Chuyện Tiền Thân Đức Phật.
( Thí dụ: J 26 ý chỉ chuyện số 26)
- M Majjhima Nikaya, hay The Middle Length Discourses of the Buddha,
Kinh Trung Bộ ( Thí dụ: M 80 ý chỉ Kinh số 80)
Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
- MA Majjhima Nikaya Atthakatha, hay Commentary to the Middle Length
Discourses Buddha, Chú Giải Tăng Chi Bộ Kinh (Thí dụ: MA i 225 ý chỉ Bộ 1,
trang 225 Bản Kinh Pali.)
- Mhsv Mahavamsa, hay the Great Chronicle of Ceylon (Bộ Ký của Ceylon).
(Thí dụ: Mhvs V ý chỉ Chương 5.)
- Miln Milindapanho, hay The Questions of King Milinda, Kinh Na Tiên Vấn
Đáp.
(Thí dụ: Miln 33 [V], ý chỉ trang số 33; Chương 5 được thêm vào để giúp tìm ra
câu kệ.) - S Samyutta Nikaya, hay The Connected Discourses of the Buddha (Tương
Ưng Bộ Kinh). Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo
- Sn Sutta Nipata, hay the Group of Discourses II. ( Thí dụ: Sn 657 ý chỉ câu số
657)
- Thag Theragatha, hay Poems of Early Buddhist Monks, (Các Bài Kệ Của Các
Trưởng Lão Tăng). (Thí dụ: Thag 303 ý chỉ câu số 303)
- Thig Thergatha, hay Poems of Early Buddha Nuns, (Các Bài Kệ Của Các
Trưởng Lão Ni). (Thí dụ: Thig 213 ý chỉ câu số 213)
- Ud Udana, hay Verses of Uplift. (Thí dụ: Ud VI.2 ý chỉ Chương 6, chuyện số 2.)
V Vinaya, hay Book of the Discipline (Luật Tạng).
(Thí dụ: V ii 292 ý chỉ Bộ số 2, trang 292, bản kinh tiếng Pali)
- Vsm Visuddhimagga, hay The Path of Purification, Thanh Tịnh Đạo.
(Thí dụ Vsm I [55] ý chỉ chương 1, đoạn số 55.)
(1) Mindfulness In Plain English (Chánh Niệm - Thực Tập Thiền Quán, dịch giả
Nguyễn Duy Nhiên).
(2) Kinh Pháp Cú, Ni Trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên chuyển dịch. (Lưu hành nội
bộ)
(3) Con Đường Thiền Chỉ và Thiền Quán (Path Of Serenity & Insight, Thiền Sư
Henepola Gunaratana), Tỳ Kheo Pháp Thông dịch, NXB Văn Hóa Sài Gòn 2002.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro