bat chanh dao con duong den hanh phuc2
CHÁNH NGHIỆP (BƯỚC 4)
Có người cần một bảng liệt kê các giới luật để đảm bảo rằng mình hành
động một cách đạo đức, chân thật. Người khác thì cần giới luật để cảm thấy
chắc chắn rằng họ đã đạt được mục đích tâm linh, ở cõi trời hay được giác
ngộ. Đức Phật cũng đã chỉ bày cho ta những cách hành xử để tránh khỏi đau
khổ, nhưng hành động đạo đức chân chính không chỉ nằm trong các bảng
điều lệ giới luật nào. Đúng hơn, đó là các quy luật liên quan đến hành động
của ta, để cho ta biết chúng gây ra đau khổ cho bản thân và tha nhân như
thế nào -sự lựa chọn hành động đạo đức của mỗi người sẽ ảnh hưởng đến
tất cả như thế nào.
Năm Giới
Giới luật Phật giáo bắt đầu với năm quy luật mà ta cần tuân giữ cẩn thận
nếu muốn đạt được sự tiến bộ tâm linh. Đó là:
- Không sát sanh
- Không trộm cướp
- Không nói dối
- Không tà dâm
- Không dùng rượu hay các chất say khác
Các đệ tử của Đức Phật phải phát lời nguyện để giữ các giới luật này, gọi là
năm giới. Tuy nhiên, các quy luật đạo đức này không phải do Đức Phật chế
đặt ra; mà chúng là những đạo đức cơ bản, có mặt ở khắp mọi nơi và không
có giới hạn thời gian.
Bốn trong số năm giới luật này đã được đề cập đến trong Bát Chánh Đạo.
Chánh ngữ bao gồm việc không nói dối. Chánh nghiệp được xem như là
không giết hại, trộm cắp, và tà dâm. Giới cuối cùng trong năm giới: không
sử dụng các chất gây nghiện, cũng nằm trong chánh nghiệp. Vì một người
say sưa không thể kiềm giữ không phạm vào tà ngữ hay hành động sai trái.
128
Ở giai đoạn đầu của việc phát triển đạo đ
luật này, cũng như một đứa trẻ cần được c
dạy như là "Đừng sờ vào lửa nóng." Khi
cha mẹ dạy là để tránh cho mình khỏi bị n
đã hoàn thiện sự hiểu biết về hành động đ
tự động. Chúng ta không thể nào muốn ph
không cần phải dựa vào chúng mới đi đún
Đạo Đức Trong Hành Động
Theo truyền thống chúng ta nói rằng Ch
giết hại, không trộm cắp, và không tà d
thuật ngữ tương tự trong ngũ giới và tro
trong Bát Chánh Đạo, nhưng ý nghĩa của
giới, ý nghĩa của các giới này rất đơn giả
việc này. Giết hại, trộm cắp và tà dâm là
thể phạm phải, và nếu phạm các giới này
an. Vì thế, chúng ta lập thệ nguyện mạnh
một cách triệt để.
Tuy nhiên, khi Đức Phật nói đến Chánh N
ý nghĩa của việc tránh giết hại, trộm cắp,
thí dụ đơn giản nhất mà người ta có thể vi
chế này phải được hiểu không chỉ một cá
giới, mà còn là những phương hướng mở
cao hơn. Thí dụ, trong một bài thuyết phá
người phải hành động đầy lòng từ bi đố
những lời dạy sau:
Ai cũng sợ gươm đao,
Ai cũng sợ sự chết.
Suy ta ra lòng người,
Chớ giết, chớ bảo giết. (2)
129
(Dh 129)
Đức Phật giải thích rằng bất cứ hành động nào gây tổn hại cho người khác -
như là đập phá nhà cửa, gây hỏa hoạn, hăm doạ bằng vũ khí- là sai, ngay
nếu như không có ai thiệt mạng. Có lần tôi được nghe về một thanh niên
không thích những người bạn học cùng chỗ trọ của mình. Để trả thù, anh ta
khủng bố họ bằng cách bí mật phá hoại đồ dùng cá nhân của họ như là vứt
quần áo họ vào cầu tiêu hay phá hỏng máy vi tính của họ! Sự tị hiềm nhỏ
mọn và những kiểu đùa dai làm tổn thương người cũng là những hành
động thiếu đạo đức.
Ngoài ra còn có các hành động đạo đức ở mức độ vi tế hơn. Thí dụ giới
không sát sanh sẽ đạt đến ý nghĩa cao đẹp nhất khi ta phát triển được một
thái độ hoàn toàn vô hại và lòng luôn mong ước mọi điều tốt lành cho
những chúng sinh khác.
Chúng ta thực hành Chánh Nghiệp không chỉ vì ta muốn tránh phạm các
giới hay vì ta sợ ai đó sẽ trừng phạt nếu ta phạm lỗi. Ta tránh những hành
động tàn nhẫn, ác độc vì ta thấy được hậu quả của những hành động như
thế -chúng sẽ mang sự bất hạnh khôn lường đến cho ta và cho mọi người
quanh ta, ở hiện tại cũng như tương lai. Chúng ta thực hành Chánh Nghiệp
vì muốn cuộc sống của mình có ích và hòa hợp, không phải để phá hoại hay
chống đối, và vì ta muốn tâm được thanh tịnh, an lạc, không bị phiền não vì
hối hận, ăn năn.
Khi nói đến việc tuân giữ các giới luật, tâm có rất nhiều trò. Có người tự nhủ
rằng giới luật không dành cho người trẻ tuổi. Họ nói, "Hiện tại tôi có quyền
được hưởng thụ và làm bất cứ điều gì tôi muốn. Khi lớn tuổi hơn tôi sẽ tu
sửa lại." Tiếc thay, biết giữ gìn quy luật đạo đức lúc cuối đời thì cũng giống
như trúng số khi bạn sắp từ giã cõi đời. Nếu chờ đợi quá lâu, ta sẽ không thể
hưởng thụ được lợi ích mà một đời sống đạo đức có thể mang đến -không
bị nghiện ngập, có những mối liên hệ lành mạnh, một lương tâm trong sáng,
và một tâm bình lặng. Tốt nhất là được hưởng những thành quả tốt đẹp của
một đời sống đạo đức khi bạn còn trẻ, có sức khỏe và mạnh mẽ. Lúc tuổi già,
ta không còn cần các giới luật đạo đức để kiềm chế ta khỏi hành động sai
trái!
130
Một ngụy biện khác mà chúng ta thường sử dụng là tự nhủ, "Các quy luật
đạo đức này có ích lợi gì cho tôi? Cuộc đời tôi như thế này cũng tốt đẹp rồi."
Nếu đó là thái độ của bạn, thì tốt nhất là bạn cần phải xét lại tư duy đó một
cách kỹ lưỡng. Nếu cuộc đời bạn tốt đẹp, thì tại sao bạn phải nói dối, ăn cắp,
rượu chè, hay giết hại? Việc phạm giới nhanh chóng trở thành một thói quen
khó bỏ. Hơn thế nữa, những hành động này không thể tránh khỏi đưa đến
những hậu quả tiêu cực. Không có chuyện chạy trốn khỏi luật nhân quả.
Phạm vào các nguyên tắc đạo đức, thì bạn có thể bị mất mát tài sản, suy kiệt
sức khoẻ, giảm thiểu lòng thương yêu của người thân, và nhiều thứ khác
nữa mà bạn hằng coi trọng. Hơn thế nữa, bạn sẽ phải đối mặt với lo âu, mặc
cảm tội lỗi và ngay cả việc đau khổ hơn. Hãy nhớ rằng chúng ta gìn giữ các
nguyên tắc đạo đức là để cho mình được hạnh phúc, không phải đau khổ.
Ngay cả những hành động thiếu đạo đức có vẻ nhỏ mọn, tầm thường cũng
có thể gây ảnh hưởng tai hại. Tôi được nghe có một người đã phải mất
quyền đấu thầu trong một công ty cổ phần hàng triệu đồng -chỉ vì đã giết
một con bọ. Anh ta là một nhà kinh doanh rất tài giỏi, am tường. Anh đã có
hẹn để gặp đối tác có thể hùn vốn để thảo luận về việc đó. Khi họ đang
chuyện trò, một con bọ rớt xuống đậu trên miệng ly nước giải khát của nhà
kinh doanh. Anh ta dùng chiếc muỗng đang quậy để nhấn con bọ xuống
đáy ly. Khi con bọ bò trở lên miệng ly, anh ta lại đẩy nó trở xuống. Trong
khi đang thảo luận công việc đáng hàng triệu đô la mà anh ta vẫn đùa giỡn
với con bọ, cứ đẩy nó xuống cho đến khi nó kiệt sức chết dưới đáy ly.
Người đối tác của anh sau này cho tôi biết rằng, khi nhìn thấy những việc
như vậy, anh ta tự nghĩ, "Người này quá ác độc. Có thể anh ta sẽ làm bất cứ
điều ác độc gì để được có tiền. Tôi không muốn hợp tác kinh doanh với
người như thế." Vì thế người đó rút lui khỏi cổ phần.
Bạn có thể tự hỏi tại sao các điều luật trong Chánh Nghiệp được diễn tả
bằng những từ ngữ tiêu cực -không giết, không trộm cắp, vân vân. Lý do
rất đơn giản. Chúng ta không thể tìm thấy niềm vui của các hành động thiện
cho đến khi ta buông bỏ được cái sai trái. Chúng ta có khuynh hướng hành
động với một tâm đầy tham ái, dẫn đến đủ loại khổ đau. Trước tiên chúng
ta phải biết cưỡng lại khuynh hướng bản năng này. Sau đó ta mới có thể
131
thấy được là ta sẽ cảm thấy dễ chịu, bình tĩnh, tự tại, và hạnh phúc biết bao
khi ta hành động một cách có đạo đức. Không thể nấu một bữa ăn ngon
trong một cái nồi đầy bụi, hay tạo dựng được một khu vườn đẹp trên mảnh
đất đầy cỏ dại. Kiềm chế không hành động bất thiện, tức là chúng ta đã tạo
ra môi trường thích hợp cho thiện pháp được nở hoa. Thí dụ, tránh không
giết hại hay sân hận tạo ra môi trường thích hợp cho tình thương yêu và
lòng bi mẫn được phát khởi khi giao tiếp với người. Tương tự, tránh không
trộm cắp -không lấy của không cho, dầu đó là của cải vật chất hay công sức,
tư tưởng, sáng kiến của người khác- sẽ khiến điều ngược lại được phát sinh
- đó là tâm xả.
Hành động đạo đức tách sự chú tâm của ta khỏi những lợi ích cá nhân, vị kỷ
để hướng đến những ích lợi cho người và cho ta. Khi đắm chìm trong dục
vọng của bản thân, chúng ta bị lòng tham, sân, si, và những tâm lý ích kỷ
khác chế ngự. Do đó, ta sẽ không thể tự kiềm chế hay có đủ tuệ giác để
hành động đúng đắn. Nhưng khi chúng ta kiềm chế được các pháp bất
thiện, thì những màn sương u ám trong tâm ta sẽ tan đi một ít và ta bắt đầu
nhận thấy rằng chính tình thương yêu, lòng bi mẫn và độ lượng thật sự mới
mang đến cho ta hạnh phúc. Tâm sáng suốt này giúp chúng ta hành động
đạo đức và tiến bước trên con đường theo dấu chân Phật.
Không Giết Hại
Khuynh hướng muốn làm tổn hại, gây đau đớn cho chúng sanh khác
thường xuất phát từ lòng sân hận hay sợ hãi. Khi chúng ta cố ý giết một sinh
vật, dầu là nhỏ nhoi như là sâu bọ, là ta đã làm giảm thiểu lòng tôn trọng
đối với tất cả mọi sự sống -trong đó có bản thân chúng ta. Chánh niệm giúp
ta nhận biết được các hành động sai trái của bản thân và chịu trách nhiệm về
chúng. Khi quán sát các trạng thái tâm của mình, chúng ta nhận thấy rằng
sân hận và sợ hãi dẫn ta luân chuyển trong vòng xoay của bạo lực và sự
nhẫn tâm, khiến ta có những hành động hại người và hủy diệt tâm thanh
tịnh của bản thân ta. Tránh không giết hại giúp tâm ta được bình an và giải
thoát khỏi sân hận. Tuệ giác này giúp chúng ta biết kiềm chế, không hành
động sai trái và sẵn lòng đón nhận những hành động xuất phát từ lòng bi
mẫn và tâm độ lượng. Một đệ tử của tôi bảo rằng cô thường cảm thấy sợ và phản ứng mạnh mẽ đối
với một số sinh vật nhỏ giống như là chuột, chí, hay đỉa. Vì những cảm giác
này, cô sẵn sàng giết chúng. Khi sự tu tập chánh niệm giúp cô trở nên hiền
hòa hơn, cô nguyện không giết những sinh vật này nữa. Kết quả là các cảm
giác sợ hãi, xa lánh chúng cũng giảm thiểu trong lòng cô. Gần đây, cô còn
thu hết can đảm để cầm một con gián trong tay, mang thả ra ngoài cửa chứ
không giết nó.
Khi chúng ta kiềm chế không giết hại, lòng tôn trọng cuộc sống được tăng
trưởng và ta bắt đầu hành động đầy lòng bi mẫn đối với tất cả mọi chúng
sanh. Cũng người đệ tử này kể với tôi về việc đi thăm một người bạn đang
sống ở một trung tâm thiền nào đó. Khi đến, cô nhận thấy trước cửa nhà các
nhân viên trong trung tâm, có treo các bẫy sâu bọ. Có cả chục con ong vàng
đã bị rơi vào bẫy bởi mùi thơm ngọt ngào của dĩa nước táo. Một khi đã chui
vào cái lỗ nhỏ của bẫy, chúng không thể ra. Cuối cùng, khi đã mệt mỏi vì
phải bay trong một không gian nhỏ bé, chúng rơi xuống đáy dĩa nước táo,
rồi chết đuối trong đó. Cô hỏi bạn mình về cái bẫy. Anh ta đồng ý rằng một
công cụ như thế thật không nên có ở một trung tâm thiền, nhưng anh nói
rằng mọi người đã đặt những cái bẫy này ở đây lâu rồi và anh không thể
làm gì được hơn.
Mặc dầu cô gái cố gắng không để ý đến tiếng những con ong kêu trong bẫy,
cô không thể nào tách hình ảnh chúng đang đau khổ ra khỏi tâm trí. Cô cảm
thấy mình phải làm điều gì đó để giúp một vài con có cơ hội trốn thoát. Cô
lấy con dao, khoét một lỗ nhỏ ở phía trên bẫy, và cắm dao ở đó. Một vài con
ong vàng đã bò lên theo cán dao và bay thoát ra ngoài. Sau đó cô khoét cái
lỗ bự hơn, và thêm một số con nữa cũng chạy thoát. Cuối cùng, cô nhận ra
rằng cô không thể nào chịu đựng được cho dù chỉ một con phải chết trong
bẫy. Mặc dầu lo lắng về hành động của mình, nhưng cuối cùng cô đã đem cả
mấy cái bẫy đến một khu vườn bên cạnh, tháo chúng ra, giải thoát tất cả
những con còn sống. Khi làm như vậy, cô thầm nhủ, "Nguyện cho tôi được
giải thoát khỏi các tâm và hành động bất thiện giống như những con vật này
được giải thoát khỏi các bẫy rập." Cô gái nói rằng từ đó trở đi, cô không còn sợ các con ong nữa. Mùa xuân
năm rồi, một tổ ong vàng đã xuất hiện dưới cổng vào của Hội Bhavana.
Nhiều người đi qua cửa đó bị chúng chích, và khu vực đó bị rào lại. Tuy
nhiên, cô đệ tử vẫn tiếp tục đi qua lối đó, mà không làm hại sinh vật nào.
"Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu còn bị con ong vàng nào chích nữa," cô nói.
"Nhưng nếu có đi nữa, tôi vẫn lo chúng đã bị sợ hãi hay có thể đã bị thương
khi đốt tôi."
Như bạn đã thấy từ kinh nghiệm của người đệ tử này, kiềm chế không giết
hại tạo ra một môi trường thích hợp để các hành động bi mẫn có thể tăng
trưởng trong cuộc sống. Đó là điều thật tuyệt vời và là một phương cách
hữu hiệu giúp ta tiến bộ trên con đường tu tập. Nhưng chúng ta cũng
không nên quá cứng rắn trong việc ủng hộ cho sự không giết hại! Chánh
niệm đòi hỏi ta phải tự quyết định về hành động đạo đức của mình, không
phải để khăng khăng buộc tất cả mọi người khác đều phải theo gương của
ta.
Thí dụ vấn đề ăn mặn. Dầu bản thân tôi không ăn mặn, tôi không bắt mọi
người phải ăn chay. Vì nhìn một cách toàn diện hơn, tôi thấy ngay chính
những người ăn chay cũng góp tay một cách gián tiếp vào việc giết hại. Thí
dụ ở một làng có khoảng một ngàn người ăn chay, và ở làng kế bên, có
những người nông dân trồng rau cải, trái cây, và lúa mạch để nuôi một ngàn
dân làng kia. Khi họ đào xới đất hay giữ cho côn trùng không phá hoại mùa
màng, thì họ cũng phải giết nhiều sinh vật nhỏ bé. Rồi nhiều sinh vật và côn
trùng khác nữa lại bị giết bởi các loại máy móc trong mùa thu hoạch. Những
người ăn chay ở làng kế bên cảm thấy rất thoải mái. Mặc dầu nhiều sinh vật
đã bị giết hại, họ không bị lương tâm cắn rứt, vì họ không cố ý muốn giết
hại. Bạn có thể thấy từ thí dụ này rằng việc ăn rau củ và việc giết hại côn
trùng trong quá trình trồng trọt rau củ là hai vấn đề khác nhau. Tương tự, lý
luận đó cũng có thể áp dụng cho việc ăn mặn. Vì ăn thịt và giết hại chúng
sanh để có thịt là hai điều hoàn toàn khác nhau. Ngay chính Đức Phật đôi
khi cũng ăn thịt khi được cúng dường. Những người chỉ ăn thịt cũng không
có ý muốn giết hại. Vì mục đích giữ giới không giết hại, Đức Phật đã định nghĩa việc giết hại rất
rõ ràng rằng đó là hành động cố ý muốn cướp đoạt mạng sống. Trong các
giới luật dành cho tăng ni, Đức Phật nói rõ ràng hơn về những điều kiện cần
có trong một hành động giết hại:
- Phải có một sinh vật.
- Ta biết rằng có sinh vật đó.
- Ta có ý muốn giết hại.
- Ta dự tính phương cách giết hại.
- Ta thực hiện hành vi giết hại với phương cách đã dự tính.
Người ăn mặn không phạm vào bất cứ trường hợp nào kể trên. Họ biết
những gì họ ăn là thịt và thịt đó là của thú vật. Tuy nhiên họ không có ý
muốn giết thú vật đó, mà họ cũng không tham gia vào việc giết thú vật.
Nếu không có sẵn thịt, ta không nên đi tìm kiếm, săn bắn hay giết mỗ cầm
thú để ăn mà nên ăn cái gì khác. Nhưng ta cũng không nên đặt nặng vấn đề
tránh tất cả mọi thứ góp phần vào việc giết hại một cách gián tiếp. Trong
cuộc sống hiện đại, có rất nhiều thứ có thể góp phần một cách gián tiếp vào
việc giết hại. Thí dụ, khi lái xe hay đi qua vườn cỏ, ta cũng có thể giết hại
côn trùng. Một số loại thuốc ta dùng để trị bệnh đã được thí nghiệm trên thú
vật -bằng cách giết chúng, hủy hoại chúng, hay làm cho chúng bệnh. Sử
dụng các loại thuốc này không phải là hành động giết hại. Đức Phật đã dạy
rõ ràng rằng chính là ý muốn, là chủ tâm làm điều gì đó mới là đáng kể.
Còn nói về sự phát triển tâm linh, thì không có gì khác biệt giữa một người
ăn chay và ăn mặn. Khi một người ăn chay nỗi lòng tham, lòng nghi, họ
cũng hành động giống như người ăn thịt vậy. Nếu bạn muốn trở thành một
người ăn trường chay, thì bằng mọi cách hãy thực hiện đi. Những bữa ăn
chay lạt rất tốt cho sức khoẻ. Cá nhân tôi là người ăn chay vì lòng bi mẫn đối
với thú vật. Tuy nhiên, đừng cảm thấy bó buộc phải tránh ăn thịt mới có thể
đạt được hạnh phúc tuyệt vời nhất.
Nhiều vị cư sĩ hỏi tôi phải làm thế nào đối với những côn trùng trong nhà
hay ngoài vườn của họ. Họ muốn làm người Phật tử tốt, không giết hại,
nhưng bông của họ sẽ bị tàn úa hay nhà họ trở nên dơ bẩn vì họ không dám đụng đến các côn trùng. Tôi bảo họ rằng việc giết sâu bọ côn trùng, dầu là vì mục đích tốt, cũng vẫn là giết hại. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi sự giết
hại đều có cùng một nghiệp quả. Thông thường việc giết một côn trùng
không cản trở sự tiến bộ tâm linh của ta giống như khi ta giết một con vật,
như là con chó. Tương tự, giết một con chó sẽ không khiến tâm bất an như
giết một con người. Không có hành động giết hại nào đem đến nhiều tai họa
cho bản thân hơn là giết cha mẹ mình hay giết một bậc giác ngộ. Loại giết
hại này sẽ cản trở kẻ sát nhân không thể đạt được giác ngộ trong kiếp này và
sẽ đưa đến một sự tái sinh tồi tệ nhất. So với sự giết hại này, giết côn trùng
không phải là một vấn đề lớn lao. Nên hiểu rằng có nhiều loại nghiệp quả,
chúng ta tự chọn lựa hành động và chấp nhận hậu quả của chúng. chúng ta tự chọn lựa hành động và chấp nhận hậu quả của chúng.
Không Lấy Của Người
Trộm cắp là một biểu hiện của lòng tham hay ganh tỵ. Lấy của không thuộc
về mình là một thói quen xấu khó bỏ. Nhiều người không có chút kiềm chế
nào trong lãnh vực này đến nỗi ngay khi họ đi dự khóa tu thiền để cố gắng
đạt được chút hạnh phúc và thanh tịnh, họ vẫn duy trì thói quen ăn cắp. Ở
Hội Bhavana, chúng tôi biết có nhiều trường hợp người ta lấy cắp tọa cụ. Tôi
không biết có ai đã đạt được giác ngộ khi thực hành thiền trên một chiếc tọa
cụ được ăn cắp! Thư viện của chúng tôi cũng gặp phải những vấn đề tương
tự. Vì Hội Bhavana nằm trong một khu rừng, không có đường đến các tiệm
sách lớn dễ dàng, nên chúng tôi lưu giữ các bộ sưu tập kinh điển của Hội.
Qua thời gian, một số sách đã biến mất. Thật là buồn cười khi người ta đến
trung tâm này để thiền và học hỏi về những điều Phật dạy, vậy mà họ
không thể thấy rằng lấy những thứ không phải của mình không thể nào
giúp tâm họ đạt được an bình.
Thực tập Chánh nghiệp trong việc không lấy cắp có nghĩa là nỗ lực để sống
chân thật và tỏ lòng tôn trọng tài sản của người khác. Điều đó có nghĩa là
nhắc cho cô thu ngân biết rằng cô đã quên tính tiền một món đồ mà bạn đã
mua hay cô đã thối lại cho bạn quá nhiều tiền. Điều đó có nghĩa là bằng mọi
cách phải trả lại cho người những gì không phải của bạn, mà không mong
đợi sự khen thưởng nào cho hành động của mình. Dĩ nhiên, đôi khi sự chân thật cũng đưa đến những phần thưởng vật chất.
Tôi nhớ về một câu chuyện được đưa lên báo về hai đứa bé nhặt được một
túi tiền trong nhà vệ sinh của tiệm Sears. Chúng mang túi về nhà và khám
phá ra trong đó có hơn ba mươi sáu ngàn đô! Với sự hỗ trợ của cha mẹ
chúng, những đứa trẻ này quyết định đem tiền giao lại cho cảnh sát.
Người ta khám phá ra là số tiền đó thuộc về một khách hàng trên đường
đến ngân hàng đã ghé qua Sears, và bỏ quên túi tiền trong nhà vệ sinh.
Hẳn là vị khách đó đã đau khổ xiết bao khi bị mất tiền và sung sướng
dường nào khi có người trả lại tiền. Lòng tin vào chân lý và vào bản tánh
thiện của con người hẳn phải phát khởi trong lòng anh. Anh đã bày tỏ lòng
biết ơn bằng cách tặng cho hai đứa trẻ một phần thưởng xứng đáng, và cộng
đồng cũng khen ngợi chúng có lòng chân thật.
Xâm chiếm tài sản hay tiền bạc của người là ăn cắp, điều đó ai cũng biết.
Nhưng ta thường chứng kiến những hiện tượng ăn cắp vi tế hơn. Thí dụ
việc tự coi ý kiến của người là của mình cũng là ăn cắp. Cũng như lấy
những vật nhỏ mọn ở sở làm, như là viết, giấy, hay đĩa vi tính, và đem về
nhà để dùng cho cá nhân mình. Chúng ta thường ngụy biện cho những
hành động như thế bằng cách tự nhủ, "Tôi cũng có thể nghĩ ra điều đó," hay
"Công ty phải trang bị cho tôi những thứ này. Họ đã trả lương ít quá." Gian
dối trong việc khai thuế, viết ngân phiếu không tiền bảo chứng, hối lộ, hay
tham gia vào các công việc kinh doanh nhằm mục đích lừa dối cũng là ăn
cắp. Ngay như lấy đồ trong siêu thị ăn khi bạn đói cũng bị coi là ăn cắp. Hãy
nhớ, không bao giờ nên phục vụ cho thân bằng chi phí của tâm.
Mục đích của chúng ta trong việc tuân giữ các giới luật đạo đức trong
Chánh nghiệp là để cuộc sống của ta được hạnh phúc. Nếu ta phạm giới,
đau khổ chắc chắn sẽ theo sau, trong kiếp sống này hay trong tương lai.
Muốn được hạnh phúc, tâm phải bình an và lương tâm trong sạch. Đừng
nghĩ rằng bạn kiềm chế không ăn cắp là để làm vừa lòng thế giới. Bạn làm
thế là vì sự tự tại của bản thân, ngay ở hiện tại và trong tương lai.
Khi đã vượt lên mức độ thô thiển của việc đấu tranh chống lại bất cứ hình
thức nào của việc lấy của không cho, chúng ta mới có thể xem xét lại sự
quan tâm của ta đối với nhu cầu của người khác và trở nên bớt chấp vào vật
137
chất hơn. Dùng giới luật không trộm cắp như là một người chỉ đường,
chúng ta sẽ trở nên bớt ganh tỵ với những sở hữu hay các sự may mắn của
người khác. Thay vào đó chúng ta khám phá ra được niềm vui của sự thông
cảm và tâm hoan hỷ cho hạnh phúc của người khác.
Không Tà Dâm
Giới luật này của Đức Phật thường được diễn giải như là sự kiềm chế không
"phạm vào hành động tình dục sai trái", nhưng thực ra giới này được áp
dụng cho nhiều hành động hơn là chỉ trong phạm vi tình dục. Đức Phật thực
sự muốn khuyên chúng ta phải kiềm chế không "sử dụng các giác quan bừa
bãi" -tất cả các giác quan. Tà dâm là một hình thức sai phạm đặc biệt tai hại
của sự lạm dụng đó.
Vì giới luật này, người ta thường nghĩ rằng khi nói đến "lạm dụng các giác
quan," Đức Phật chỉ muốn nói đến việc kiềm chế các hành động sai trái
trong tình dục. Các hành động này bao gồm hiếp dâm, buộc người khác
phải quan hệ tình dục mà không có sự đồng ý của họ. Ngoài ra, giới này
cũng ám chỉ việc lạm dụng tình dục với trẻ em, thú vật, vợ/chồng hay người
tình của kẻ khác hoặc người không thể tự bảo vệ. Nếu một người bạn tình,
dầu không cưới nhau, nhưng đã chung sống mà phản bội người kia, thì
cũng bị coi là hành động tà dâm. Quan hệ tình dục với người đã trưởng
thành, thích hợp và có sự đồng ý thì không bị coi là sai phạm.
Ngoài những điều đã nêu ra, người ta thường gặp nhiều vấn đề vì lòng ham
muốn dục vọng. Oái oăm là dục vọng không bao giờ có thể hoàn toàn được
thỏa mãn. Dầu phải trải qua bao rủi may, bao phiền não, khổ đau khi cố
gắng thỏa mãn dục vọng của mình, nhưng ước vọng muốn thỏa mãn ái dục
không bao giờ mất. Một số người hướng đến thiền vì sự khổ đau dằn vặt do
các ham muốn tình dục của họ mang đến. Tiếc thay là thường ngay trong
lúc họ nỗ lực để đạt được thiền định và tâm bình an, lòng ham muốn nhục
dục vẫn quấy phá họ.
Giải pháp duy nhất cho vấn đề này là bắt đầu bằng việc kiềm chế các hoạt
động tình dục của bạn. Nếu bạn không thể kiềm chế chút nào, thì con đường đến hạnh phúc sẽ mãi mãi xa vời. Một số thiền sinh tinh tấn đã có thể tiến
những bước dài trong việc từ bỏ các tánh xấu như là rượu chè hay nói dối,
vậy mà họ không nhận ra được tại sao họ phải kiềm chế các hoạt động tình
dục của họ. Họ nói, "Tôi không thấy gì là sai khi chỉ muốn vui vẻ một
chút." Theo sự phân loại từ trước tới nay về những điều không nên phạm
trong phạm vi hoạt động tình dục thì hình như vẫn còn thiếu sót. Nhiều
người biện luận rằng giới luật không nói gì đến việc liên hệ với nhiều người
tình miễn là họ độc thân, phù hợp; giới luật cũng không chống đối lại việc
tìm kiếm những khoái lạc tầm thường. Nhưng những khoái lạc tầm thường
làm hạ nhân phẩm của bạn, làm hèn mọn con người bạn. Sự quan hệ tình
dục bừa bãi mang lại tai hại cho bạn và cho cả người khác.
Vậy thì mục đích của loại vui vẻ này là gì? Để mang đến cho bạn khoái lạc?
Để thỏa mãn ham muốn của bạn? Tuy nhiên, chúng ta đã nói từ trước tới
giờ rằng dục vọng -lòng ham muốn- chính là gốc rễ của khổ đau. Diệu đế
thứ hai của Đức Phật dạy rằng tất cả mọi khổ đau đều xuất phát từ lòng
tham ái. Hoạt động tình dục bừa bãi là một trong những cách dễ nhất để
tâm ta rơi vào trong vòng xoáy của tham và sân. Dục lạc thì chóng qua,
nhưng cái giá phải trả -sự nhục nhã, ê chề, lo lắng, ghen tuông, ăn năn, sợ
hãi, cô đơn, và mong muốn được dục lạc nhiều hơn- thì không thể kể xiết
đến nỗi ta phải đuổi theo nó không ngừng nghĩ.
Vấn đề là dục vọng không thể được thỏa mãn bằng phương tiện vật chất.
Làm như thế cũng giống như gãi vào chỗ ngứa bằng những ngón tay tẩm
thuốc ngứa. Mặc dầu khi gãi có thể mang đến cho ta một cảm giác giải thoát
ngắn ngủi, nhưng hành động đó lại làm chất độc lan rộng thêm, khiến cho
sự ngứa ngái càng trở nên tệ hại hơn. Cách chữa trị cho căn bệnh đó đòi hỏi
bạn phải biết kiềm chế, không làm những gì chỉ để tăng thêm phiền não cho
bạn sau này.
Đức Phật đã dùng một ảnh dụ mạnh mẽ để diễn tả những sai phạm mà
người ta thường mắc phải trong vấn đề tình dục. Vào thời Đức Phật, những
người bệnh phong thường ngồi quanh đống lửa, đốt vết thương của họ.
Bệnh phong khiến họ bị ngứa ngái không thể chịu nổi. Bằng cách dí ngọn
lửa vào vết thương đem đến cho họ cảm giác giải thoát tạm thời. Nhưng ngọn lửa không làm họ hoàn toàn hết ngứa hay chữa lành bệnh họ. Thay
vào đó là họ tự làm phỏng mình. Một khi cảm giác dễ chịu tạm thời qua đi,
vết thương sẽ sưng lên và bưng mủ vì phỏng. Những kẻ khốn khổ này cuối
cùng phải chịu nhiều khổ sở và ngứa ngái hơn trước đó nữa. Vì thế, những
người bệnh phong này lại ra đống lửa và đốt mình nữa.
Đức Phật bảo rằng chúng ta cũng như thế khi tìm cách thỏa mãn dục vọng
của mình. Khi ta tìm đến đống lửa của thú vui thể xác, ta có thể tìm được
cảm giác giải thoát tạm thời khỏi những đau khổ và thất vọng của dục vọng.
Nhưng đắm chìm trong đó không chữa lành được ta, trái lại ta chỉ làm
phỏng mình. Như thế thì lòng ham muốn, sự ngứa ngái còn tăng lên đến
mức độ nào nữa?
Đức Phật giảng tiếp, nếu có một vị y sư đến, mang theo thuốc chữa cho
người bị bệnh phong. Người bệnh xức thuốc và hoàn toàn được chữa khỏi.
Giờ thì anh ta nghĩ gì về đống lửa? Không có quyền lực gì trên trái đất này
có thể khiến anh muốn tự đốt mình nữa. Những người bạn cũ có thể gọi anh
đến bên đống lửa. Nhưng anh nhớ lại những gì đã xảy ra -sự điên cuồng của
lòng ham muốn và sự giải thoát ngắn ngủi của ngọn lửa. Không có gì có thể
khiến anh quay trở lại đó. Anh cảm thấy lòng đầy trắc ẩn đối với những
người bạn cũ và đối với những đau khổ của bản thân anh trước đó. (M 75)
Đức Phật thường nói về mình như là một bậc y sư và về giáo lý của Ngài,
Pháp, như là thuốc chữa.
Đối với tất cả các thuốc trên thế gian,
Đa dạng và đa loại,
Nhưng không có thứ nào giống thuốc của Pháp.
Do đó, này hỡi các tỳ kheo, hãy uống thuốc này.
Đã uống thuốc Pháp này,
Ta sẽ không còn già, và chết.
140
Đã tu tập và đã thấy được chân lý,
Ta sẽ dập tắt, giải thoát khỏi ái dục.
(Miln 335 [5] [Hòa Thượng S. Dhammika)
Nghe như thế, có thể bạn tự hỏi "Vậy thì tôi phải chọn giữa người tình và
con đường đạo sao?" Ý nghĩ sai lầm này đã khiến nhiều người lo ngại. Hoạt
động tình dục giữa hai người trưởng thành, có trách nhiệm thì không cản
trở gì đến việc tu hành của họ. Thật ra, mối liên hệ hỗ trợ này có thể là một
tài sản quý báu để tiến bước theo tám bước đến hạnh phúc (Bát Chánh Đạo)
của Đức Phật.
Giới không phạm tà dâm có thể được giữ bằng những phương cách vi tế
hơn, vượt xa sự kiềm chế giới luật một cách máy móc. Ở mức độ cao nhất,
chúng ta coi tất cả mọi phụ nữ như là chị, em gái của mình và tất cả mọi
người nam như là em, anh trai, những người lớn tuổi như cha mẹ mình, và
những người nhỏ tuổi như con cái mình. Được thế thì lòng ham muốn sẽ
biến mất. Vì đơn giản là ta không còn nhìn người khác phái như một đối
tượng của ham muốn tình dục. Tất cả những thái độ trước kia đều biến mất,
ngay cả những ham muốn vi tế cũng tan vào trong lòng bi mẫn bao la và sự
quan tâm cho an toàn của người khác.
Hơn thế nữa, để hoàn thiện Chánh nghiệp trong Bát Chánh Đạo, Đức Phật
khuyên chúng ta không nên lạm dụng bất cứ giác quan nào của mình. Bên
cạnh việc phạm giới tà dâm, thì điều đó còn có nghĩa gì? Đó là khi ta thỏa
mãn lòng ham muốn bằng cách kích thích bất cứ giác quan nào đó đến độ
nó rã rời, đó là lạm dụng các giác quan.
Lãnh vực nào chúng ta còn bỏ qua, chưa xét đến trong các hành động của
mình, những hoạt động nào mà qua đó ta thúc đẩy thân và tâm mình vượt
quá mức hợp lý vì mục đích khoái lạc hay trốn tránh, lãng quên? Hãy tự hỏi
mình: "Tôi có cho phép mình xem truyền hình hằng giờ liền không? Hay bỏ
thì giờ làm những công việc giấy tờ không cần thiết mãi đến tận khuya? Ăn
nhiều hơn những gì cần thiết để duy trì cuộc sống? Có đến các tụ điểm mà
âm nhạc quá ồn ào đến nỗi dường như tai ta muốn vỡ tung ra? Có tìm cách thỏa mãn dục lạc đến độ thân thể mệt mỏi, rã rời, không còn sức để lao động
ngày hôm sau? Có sử dụng internet để đem lại lợi ích cho cuộc sống và cộng
đồng hay tôi chỉ lo giải trí cho đến lúc mắt mờ đi và tâm đông cứng lại?"
Các hoạt động này không thích hợp cho thân, không thích hợp cho con
đường tâm linh. Nhưng buông bỏ chúng thì ta sẽ cảm thấy thế nào? Thì thay
vào đó, lòng tự trọng sẽ được tăng trưởng. Ngã chấp xuất phát từ các hoạt
động này có thể được phá bỏ, nhường chỗ cho một trái tim rộng lượng,
hướng về tâm linh, không còn là nô lệ cho tiếng gọi của dục vọng.
Không Sử Dụng Chất Gây Nghiện
Giới luật cuối cùng trong năm giới dạy ta phải tránh dùng rượu, ma tuý, hay
những chất gây nghiện khác và giới luật này cũng được hàm chứa trong
Chánh Nghiệp. Khi đưa ra giới luật này, Đức Phật dùng các thuật ngữ có
điều kiện. Ngài không khuyên các cư sĩ phải tránh tất cả mọi chất làm say,
mà chỉ nói những thứ có thể khiến ta "cuồng dại, vô tâm và bất cần." Nói
cách khác, việc sử dụng chừng mực các loại thuốc giảm đau có chất gây
nghiện (narcotic) được bác sĩ cho toa không vi phạm giới luật này. Việc
thỉnh thoảng dùng ít rượu nhẹ, cũng không thành vấn đề. Tóm lại chúng ta
phải sử dụng trí thông minh của mình.
Dầu được phép uống ít rượu, ta cũng không nên làm. Vì ly này thường dẫn
đến ly kia. Có người chỉ sau một ly, cũng bị say, và không thể kiềm chế
được mình. Do đó, lúc tốt nhất để thực hành việc tự kiềm chế là trước ly
rượu đầu tiên, không phải sau đó. Người thì qua thời gian mới trở nên
nghiện ngập, mỗi lần uống tửu lượng của họ lại tăng thêm một ít, nên họ
không biết rằng việc uống rượu thường xuyên đã trở thành một vấn đề
nghiêm trọng. Hơn thế nữa, việc trữ rượu trong nhà cũng dễ khiến người ta
mượn rượu để giải sầu hay giảm căng thẳng. Chúng ta có thể sống hoàn
toàn khỏe mạnh mà không cần đến rượu, nên tốt hơn hết là đừng tạo cơ hội
để rượu có thể hủy hoại cuộc đời ta.
Với thời gian tôi đã được nghe nhiều câu chuyện thương tâm do rượu mang
đến cho con người như thế nào. Thí dụ một thiền sinh ở Hội Bhavana kể rằng, nhiều năm trước cô không thích thú gì việc uống rượu và chỉ uống
một ít khi bị mời ép. Ở các bữa tiệc có rượu, cô không bao giờ uống hết một
chai bia. Cô chỉ cầm chai bia suốt buổi tối để hòa đồng với những người
uống rượu. Sau khi ra trường, cô dọn đến một cộng đồng khác. Những
người bạn mới ở nơi này thường xuyên uống rượu và cô nhiễm thói quen
thỉnh thoảng uống rượu cho vui, một thói quen thành hình một cách chậm
chạp. Cô kể rằng một đêm kia, khi có chuyện phiền muộn, cô đã uống một
loại rượu mạnh hết ly này đến ly khác. Khi bạn bè tỏ vẻ lo ngại, ngăn cản thì
cô nguyền rủa họ, bảo họ hãy lo chuyện của họ. Bỗng nhiên, một cảm giác
rất lạ xuyên qua cơ thể. Sau này cô mới biết đó là một sự biến đổi hóa chất.
Từ lúc đó trở đi, cô trở thành nghiện rượu. Suốt hai năm, mỗi ngày cô đều
uống rượu và mỗi tuần say xỉn ít nhất vài lần. Cá tính của cô thay đổi theo
hướng tiêu cực, khiến cô rất đau khổ. Cuối cùng, cô tìm đến các trung tâm
cai nghiện rượu để nhờ giúp đỡ và giờ cô đã bỏ được rượu nhiều năm rồi.
Có nhiều lý do khiến người ta tìm đến các chất gây nghiện. Các bạn trẻ thì
muốn làm người lớn hơn hay tỏ vẻ trí thức; người nhút nhát, hoặc thiếu
bình tĩnh, muốn thư giãn hay được người chung quanh chấp nhận hơn;
những kẻ có vấn đề thì muốn tìm quên lãng. Tất cả mọi động lực đều phát
khởi từ khổ -từ việc muốn thoát khỏi thực tại của những gì đang xảy ra
trong giờ phút hiện tại.
Tuy nhiên, khi quán tưởng về vấn đề này, ta thấy rằng việc chạy trốn không
bao giờ có thể giải quyết bất cứ vấn đề gì hay làm giảm bớt bất cứ khổ đau
nào. Nghiện rượu hay nghiện các chất ma túy chỉ khiến cho ta càng thêm
đau khổ. Nó khiến ta đánh mất lòng tự trọng, căn bản đạo đức của mình,
sống thiếu kiềm chế. Ta có thể dễ dàng nói dối, phạm vào tà dâm, trộm cắp
hay những điều tệ hơn thế nữa. Ta còn có thể hủy hoại sức khoẻ, tài sản, hôn
nhân, gia đình, công việc, kinh doanh của mình. Ta có thể đánh mất sự kính
nể của người khác và lòng tự trong của mình. Cuối cùng ta sẽ bị bỏ rơi, ngập
ngụa trong khổ đau để tự hỏi tại sao những việc ghê gớm này có thể xảy đến
cho ta. Tóm lại, thuốc chữa tốt nhất cho việc nghiện ngập là trước hết hãy
đừng sử dụng các chất gây nghiện! Để có thể thực hành Bát Chánh Đạo tốt hơn, chúng ta có thể xét rộng hơn ý
nghĩa của giới luật thứ năm này ở mức độ cao hơn trong việc kiềm chế
không sử dụng các chất gây nghiện. Chúng ta tự sử dụng thuốc trong
những trường hợp nào khác và tại sao? Sử dụng khía cạnh này của Chánh
Nghiệp như là một hướng dẫn tổng quát, hãy chất vấn động lực của bạn, tự
hỏi có phải bạn đang cố gắng để không phải chánh niệm. Bạn trốn tránh vấn
đề của mình như thế nào? Bằng cách đọc báo? Hay tham gia vào các cuộc
nói chuyện phù phiếm? Chánh niệm có thể giúp ta xác định được những thứ
ta bày ra để tránh phải luôn đối mặt với thực tại.
Những Giới Luật Cao Hơn Dành Cho Cư Sĩ
Hằng ngày chúng ta cần tuân giữ năm giới. Tuy nhiên nếu muốn tiến
nhanh hơn trên đường tu, ta có thể tự nguyện tuân theo một số điều luật
trong một thời gian nào đó. Các giới luật này bao gồm năm giới căn bản và
một vài giới khắt khe hơn. Một số thiền sinh nguyện tuân giữ các giới này
vào những dịp đặc biệt, như là khi họ dự một khóa tu thiền hay khi họ đến
sống ở các trung tâm thiền, các tu viện.
Có tám giới luật:
- Không giết hại
- Không trộm cắp
- Không tà dâm
- Không nói dối
- Không dùng các chất gây nghiện
- Không ăn sau ngọ
- Không nhảy múa, hát ca, nghe nhạc hay xem hát, và không dùng nữ trang,
mỹ phẩm hay hương thơm
- Không dùng giường nệm hay chỗ ngồi cao và rộng -(những thứ xa xỉ)
Thỉnh thoảng tuân giữ tám giới này có thể giúp cho sự hành thiền của ta
được tốt hơn. Khi lương tâm trong sáng, ta không có lý do gì để ăn năn hối
hận, thì tâm định của ta sẽ phát triển mạnh mẽ hơn.
144
Vào thời xa xưa, người dân ở các quốc gia theo Phật giáo tuân giữ tám giới
luật cả ngày, một tháng bốn lần. Những ngày ấy, họ đến chùa hay thiền
viện ở trọn cả ngày, hành thiền, đọc tụng kinh sách, nghe thuyết pháp và
tham vấn giáo lý. Đôi khi họ hành hương từ chùa hay thánh địa này đến nơi
khác. Bất cứ ở đâu khi tụ họp lại, họ đều hành thiền, nghe pháp do các vị cư
sĩ hay tu sĩ thông thái thuyết giảng. Hôm sau, họ lại trở về với những hoạt
động thường nhật.
Ngày nay rất ít người thực hành nghi lễ tôn giáo (Bát quan trai) này. Phần
đông chúng ta khi không phải kiếm sống hay chăm sóc con cái, thì làm công
việc nhà, coi truyền hình, dự tiệc tùng, xem hát, đi ăn hay đến các quán bar.
Khi đã chán tất cả các hoạt động này thì ta đi du lịch. Thông thường là
chúng ta phải làm việc rất cực nhọc để có tiền đi du lịch, nhưng nó lại bao
gồm một cuộc chạy đuổi khác theo các hoạt động hầu mang đến khoái lạc.
Khi trở về nhà, đôi khi ta cảm thấy cần một kỳ nghỉ khác để lấy lại sức từ kỳ
nghỉ trước! Rồi ta lại phải tiếp tục làm việc vì nếu không có tiền thì sẽ không
có kỳ nghỉ nào nữa, mà nếu không làm việc cật lực thì cũng không có tiền.
Có lẽ bạn cũng đã nhận ra cái vòng lẩn quẩn của khổ đau này.
Tuy nhiên, việc tu Bát quan trai để tuân giữ tám giới luật này giúp ta có một
chọn lựa khác. Việc tu Bát quan trai trong một ngày, một cuối tuần, hay lâu
hơn có thể mang đến cho chúng ta một sự nghỉ ngơi thật sự khỏi những
công việc thường nhật và khiến ta được tươi mát hơn, đầu óc trong sáng
hơn, không mệt mỏi, cáu kỉnh. Ta không cần phải đến chùa mới trì được
tám giới luật này, mà có thể thực hành ngay tại nhà. Khi nhà có trẻ nít, cơ
hội để có được những giờ phút yên tĩnh và tự do có thể rất hiếm. Vì thế mà
để có thể sử dụng những thời gian quý báu này vào việc giúp ta vun trồng
được nội tĩnh, là điều rất quan trọng. Ích lợi ngay trước mắt của việc tu tập
này là cảm giác bình an, tự tại, thư giãn, cải thiện sức khoẻ, cũng như giúp ta
có một cái nhìn đúng đắn hơn về cái chết. Sự kỷ luật không thường xuyên
này có thể xoa dịu, mang lại thoải mái cho cả thân và tâm.
Thí dụ, những người thường ăn ba hay bốn bữa một ngày có thể thấy rằng
việc nhịn ăn một ngày một tuần là một việc làm tốt. Rồi họ có thể bắt đầu
một ngày chỉ ăn hai bữa và nhịn sau đó. Hai bữa ăn này phải là một bữa
điểm tâm thật đầy đủ và một bữa ăn trưa nhẹ. Họ nên bỏ qua bữa tối. Vì
nếu không có nhiều hoạt động sau một bữa ăn nặng vào buổi tối, tiến trình tiêu hóa rất chậm, và đồ ăn sẽ ở trong bao tử cho đến sáng hôm sau. Khi ta
không ăn gì buổi tối, ta sẽ cảm thấy khá đói sáng hôm sau. Vậy thì ta có thể
ăn một bữa điểm tâm thật đầy đủ. Có thể hầu hết các ngày, do nhu cầu của
gia đình và công việc không cho phép ta ăn bữa điểm tâm đầy đủ và ăn nhẹ
(hay không ăn gì) vào buổi tối. Vì thế nếu chúng ta có một ngày đặc biệt để
tu theo Bát quan trai, thì nó sẽ giúp ta có cơ hội để thử phương cách ăn uống
này.
Thời gian mà ta tiết kiệm được vào buổi tối khi ta không phải chuẩn bị bữa
ăn, ăn uống, rồi dọn dẹp từ một bữa ăn nặng nề có thể dùng để làm nhiều
việc ích lợi khác, như là hành thiền hay đọc kinh sách Phật. Dầu việc thực
hành này lúc đầu không phải dễ, nhưng nó là một thói quen tuyệt vời cần
được huân tập. Hãy nhớ rằng, không có gì dễ lúc ban đầu. Sau khi đã quen
không ăn nhiều, bạn có thể cố gắng không ăn trọn một ngày. Đừng ăn bất cứ
thực phẩm gì, nhưng uống thật nhiều nước và nước trái cây. Hãy dành ngày
đó cho riêng mình, đọc sách và hành thiền. Một ngày như thế là một kỳ nghỉ
ngắn tuyệt vời cho thân và tâm.
Thọ Bát quan trai một cách chính thức giúp ta giữ tâm chánh niệm. Khi ta
bắt đầu làm điều gì phạm một trong các giới luật đó, tâm ta sẽ nói, "Chờ
một chút, hãy nhớ ...!" và ta sẽ nhớ lại, "Ồ, tôi không được ..." Giới luật
cũng giống như ngọn roi mà người đánh xe dùng để nhẹ nhàng nhắc nhở
con ngựa chạy đúng hướng, hay là tiếng kèn xe để nhắc nhở bác tài không
sai lệch đường.
Người cư sĩ cũng có thể nguyện thọ suốt đời một số các giới luật gọi là bát
giới. Các giới này bao gồm năm giới căn bản cộng với ba giới phụ thêm về
Chánh Ngữ: không nói lời ác độc, không nói lời cộc cằn, và không nói xấu.
Năm 1998, khi làm lễ kỷ niệm mười năm ngày thành lập Hội Bhavana, các
thành viên trong Hội được mời tham dự trong buổi lễ thọ nhận bát giới suốt
đời. Việc này do một trong những thành viên ban chấp hành đề nghị, vì
chính bà cũng muốn thọ bát giới. Những người tham gia được yêu cầu dự
một khóa tu hai ngày trước buổi lễ để chú tâm vào ý nghĩa của việc thọ
nguyện. Lời mời này được đón nhận rất nhiệt tình. Ba mươi sáu người đã
tham dự khóa tu, nguyện suốt đời nương tựa Phật và thọ nhận tám giới luật
suốt đời. Từ đó hằng năm chúng tôi đều thực hiện nghi lễ này. Chuẩn bị tinh thần để thọ nguyện bát giới đối với một số thiền sinh không
phải dễ. Một số tỏ vẻ lo sợ, số khác lại cảm thấy khó tuân giữ. Đúng là thật
khó khi ta phải phát lời thệ nguyện! Buổi lễ thọ giới chính ra rất đơn giản.
Người thọ giới đọc lại thọ nguyện trong kinh, chung cả nhóm. Rồi mỗi
người nhận một pháp danh mới theo ngôn ngữ cổ truyền Pali. Nghi lễ đơn
giản này để lại ấn tượng tốt đẹp trong đời của người thọ giới, ảnh hưởng
nhiều đến cách họ nói năng. Sau khi thọ nguyện, khi tuôn ra những lời cộc
cằn, cay độc, họ sẽ ngay lập tức nhận ra lỗi lầm của mình. Giới luật như một
lời nhắc nhở của lương tâm, khiến họ dừng lại. Cứ thế, dần dần họ sẽ không
còn sử dụng tà ngữ nữa. Sự chuyển hóa đơn giản này giúp họ có thể thấy
giới luật vận hành như thế nào để tạo ra hạnh phúc.
Nhiều người sau khi thọ bát giới đã viết thư cảm ơn tôi. Họ nói rằng đó là
một bước ngoặt trong đời họ. Nhưng tại sao họ phải cám ơn tôi? Tôi đâu có
yêu cầu họ phát lời thọ nguyện. Chính họ tự nguyện. Họ phát lời thọ
nguyện không phải cho tôi, cho người thân của họ, hay cho ai khác, mà cũng
không phải vì luật pháp đòi hỏi hay vì ích lợi toàn cầu. Họ tự nguyện thọ trì
các giới luật này cho bản thân, cho cuộc sống riêng của họ, cho hạnh phúc ở
hiện tại và trong tương lai của họ.
Bạn không nên sợ phải phát nguyện thực hành theo Chánh Nghiệp hay tu
Bát quan trai, hay thọ trì bát giới suốt đời. Trái lại, bạn phải vui mừng rằng
mình đã quyết định hành động để sống tốt đẹp hơn. Những người nghiện
rượu, ma túy, cờ bạc, hay có một số những hành vi bất thiện khác rất khó
quyết định dừng lại. Họ trì hoãn và luôn có nhiều lý do để thoái thác.
Nhưng một khi đã quyết định chuyển đổi và tuân giữ giới luật được một
thời gian, họ nhận thấy tâm trí họ trở nên trong sáng hơn, ăn ngủ tốt hơn,
dành dụm được tiền bạc, và những mối liên hệ với gia đình, với xã hội phát
triển tốt đẹp hơn. Vì thế, họ đầy lòng mang ơn và tự hào về bản thân, vì đã
chọn đi đúng hướng.
Tương tự, chúng ta có thể cũng đã gặp khó khăn khi phát nguyện từ bỏ các
bất thiện pháp. Nhưng một khi ta đã thọ nguyện và kiên trì tu tập, thực
hành, ta sẽ được hạnh phúc, tự tại, và hoan hỷ rằng mình đã có một quyết
định mang đến sự chuyển hóa tốt đẹp cho cuộc đời mình. Chánh Niệm Về Chánh Nghiệp
Đức Phật dạy rằng, "Tất cả mọi lời nói, hành động, và ý nghĩ thiện đều xuất
phát từ tâm chánh niệm." Nói cách khác, Chánh Nghiệp phát xuất một cách
tự nhiên từ tâm chánh niệm.
Hãy quán sát kỹ hơn tại sao là như thế. Mọi hành động có chủ tâm của thân,
khẩu và ý, đều có tác động mạnh mẽ đối với chúng ta. Khi gây thương tổn
cho ai hay hành động sai trái, ta thường trải qua những bức xúc vật lý (nơi
thân), đưa đến trạng thái tâm bối rối, đau khổ. Chánh niệm giúp chúng ta
thấy được những ảnh hưởng tai hại này một cách rõ ràng. Ta thấy rằng một
hành động bất thiện dẫn đến cảm giác ăn năn, cảm giác này lại dẫn đến lo
âu, phiền muộn khiến tâm không được thanh thản. Khi tâm bứt rứt, chúng
ta không còn khả năng định tĩnh. Hành động càng tiêu cực, thì tâm càng bấn
loạn, lo âu. Vòng ác nghiệp đã thành hình, qua đó các hành vi bất thiện này
lại ảnh hưởng, sai khiến ta phạm thêm các tội lỗi khác nữa.
Ngược lại cũng thế. Với tâm chánh niệm, chúng ta thấy rằng khi ta hành
động với tình thương yêu, tâm ta trở nên nhẹ nhàng, an tĩnh. Tâm thanh
tịnh sẽ giúp ta thêm hoan hỷ và giúp ta chú tâm định tĩnh sâu lắng hơn. Biết
được điều này, ta sẽ cảm thấy hăng hái theo đuổi các thiện pháp. Thân và
tâm ta trở nên mạnh khỏe, trong sáng hơn. Kết quả tích cực này giúp ta tiến
bước trên con đường đạo.
Tôi còn muốn nói rộng hơn, là chánh niệm trong việc trì giới -dầu đó là năm,
tám hay nhiều giới hơn nữa- cũng đều khiến ta thêm vẻ trang nghiêm, đẹp
đẽ! Khi ta nói hay hành động với tâm chánh niệm về các giới luật, ta sẽ cảm
thấy tự tại, bình an. Và khi tâm không vướng bận, vẻ mặt bạn sẽ sáng láng,
vui tươi. Khi nghĩ về những việc thiện đã làm, ta sẽ cảm thấy rất hoan hỷ.
Tâm an lạc này tỏa sáng trong mắt và trên vẻ mặt của bạn. Người ta sẽ cảm
thấy dễ gần gũi với những người như thế.
Khi ta chánh niệm về Chánh Nghiệp, tâm không vướng bận cũng giúp ta
chú tâm vào mỗi giây phút qua đi, nhưng không phải trong tâm trạng buồn
nản, thụ động. Ta dồn hết mọi khả năng và trí lực vào nhiệm vụ vừa ý thức
148
được những gì đang diễn ra trong tâm và vừa giao tiếp khéo léo với thế giới
quanh ta. Bằng cách đó chúng ta phát triển được sự tĩnh giác về các hành
động của mình.
Tâm chánh niệm như thế càng trở nên thiết yếu hơn khi sức chịu đựng của
chúng ta bị thử thách. Khi không bị ai thách thức, quấy rầy thì cũng dễ giữ
gìn giới luật và hành động một cách hòa nhã. Nhưng khi có ai đó nói điều
gì làm tổn thương hay chọc giận bạn, thì tâm bạn có thể bị xáo trộn ngay
trong giây phút đó. Tuy nhiên nếu có chánh niệm, tâm sẽ xuất hiện đúng
lúc để nói, "Hãy dừng lại trong giây lát để tâm bình tĩnh trở lại. Tốt hơn hết
không nên nói hay làm điều gì khiến ta ân hận."
Nếu ta giữ được ý thức chánh niệm trong mọi hoạt động, thì khi bị khiêu
khích, ta cũng sẽ nhớ để giữ bình tĩnh. Thí dụ, khi đang đau khổ vì mất
người thân hay một tài sản quí giá, thì chỉ một kích động nhỏ cũng có thể
khiến ta trở nên giận dữ. Lúc đó, ta phải cẩn thận gấp bội khi giao tiếp với
người, giống như người không có giày đi nhẹ nhàng, cẩn trọng tránh miểng
vỡ. Khi ta bệnh hoạn, mệt mỏi, đói khát, cô đơn, đau khổ, bực bội, cũng
quan trọng như thế. Những lúc ấy, giữ được chánh niệm trong từng giây
phút giúp ta nhớ đến trạng thái yếu đuối, dễ phản ứng hiện tại để tránh
những hành động có thể khiến ta hối hận.
Một trường hợp khác khi bạn phải hết sức chánh niệm là khi bạn cảm thấy
mình đang ở trong một môi trường mà những thói quen trong quá khứ có
thể lôi cuốn bạn vào việc phạm giới luật đạo đức. Một người đã từng ăn cắp
dễ dàng phải lập tức trở nên chánh niệm khi thấy cái bóp của ai đó nằm
trong tầm tay. Một người từng nghiện rượu phải lập tức chánh niệm trước
những ly bia miễn phí được trao tận tay. Một người đàn ông đã có gia đình
từng phải đấu tranh với dục vọng, bị một phụ nữ quyến rũ bằng cách trao
cho anh tấm danh thiếp, anh ta phải tự nhủ, "Nếu tôi cầm lấy số điện thoại
này, nó sẽ khiến tôi muốn phạm tội. Tâm tôi sẽ không còn được bình an. Tôi
yêu vợ con và không muốn làm tổn hại gia đình. Tốt hơn hết là tôi không
nhận hay vứt nó đi ngay lập tức."
Trước khi ta đạt được giác ngộ và tâm đã được trui rèn kỹ lưỡng, ta sẽ còn
có thể phạm nhiều điều bất thiện khác nữa. Trước khi làm điều gì mà ta biết là sai, ta nên dừng lại và quán tưởng một cách đầy chánh niệm về việc hành
động này có thể gây tai hại cho ta như thế nào. Thí dụ, nếu ta cảm thấy bị
cám dỗ muốn ăn cắp tiền của chủ, ta cần phải quán sát về hậu quả của hành
động ăn cắp: ta sẽ phải sống trong sự sợ hãi bị bắt. Nếu bị bắt gặp, chắc chắn
rằng ta sẽ mất việc, mất danh dự và ngay cả sự tự do. Ngay nếu như ta
không bị luật pháp trừng trị, thì lương tâm ta cũng sẽ trừng trị ta ngay lập
tức. Ngay chính ý nghĩ muốn thực hiện một hành động như thế cũng khiến
tâm không được an, thì tâm ta sẽ còn bị xáo trộn biết bao nếu ta thực hiện
hành động đó? Khi một ý nghĩ bất thiện vẫn còn chỉ là một tư tưởng thoáng
qua, ta còn có thể sống với nó. Nhưng một khi đã thành ra hành động, chắc
chắn ta sẽ chẳng bao giờ được sống trong bình an.
Ta cũng phải cân nhắc hạnh phúc ngắn ngủi mà một hành vi bất thiện có thể
đem đến, so với sự đau khổ dài lâu mà nó gây ra. Thí dụ bạn có cảm giác
muốn đánh ai đó. Ý nghĩ này có thể xuất hiện vì bạn tin rằng bạn sẽ được hả
dạ sau đó: "Tôi đã trả được thù, tên này lần sau sẽ không dám làm vậy
nữa!" Nhưng bạn không thể đoán được kết quả một cách chính xác. Người
kia có thể cũng trở nên giận dữ và đánh trả lại bạn mạnh hơn. Anh ta cũng
có thể đem lòng oán hận và âm thầm dự định tấn công bạn. Một phản ứng
không khôn ngoan có thể dẫn đến những cuộc tranh cãi lâu dài và đắng cay.
Tôi biết một người ở Tích Lan có hiềm khích lâu đời với hàng xóm. Để trả
thù họ, anh ta xây một căn chòi cạnh bên giếng nước của nhà hàng xóm.
Người hàng xóm than phiền, yêu cầu anh dỡ bỏ căn chòi, nhưng anh ta từ
chối. Sau đó, những người trong nhà hàng xóm đều ngã bệnh. Việc tranh
chấp giữa hai gia đình trở nên nghiêm trọng cho đến khi một người phạm
tội sát nhân. Pháp luật điều tra và người đàn ông kia cuối cùng phải vào tù.
Cả hai gia đình đều đau khổ. Nhưng họ sẽ còn tiếp tục thù hằn nhau qua
nhiều thế hệ nữa! Sự tranh cãi giữa hàng xóm ở đâu cũng có. Có hàng tỷ
những cuộc tranh cãi như vậy. Nếu có những sự tranh cãi như thế xảy ra
cho ta, ta phải ngưng ngay lập tức và cố gắng làm dịu tình hình. Những
cuộc tranh cãi không kiềm chế sẽ làm tổn hại tất cả mọi người liên quan. Chánh nghiệp không phải do Đức Phật chế ra. Mà sự thật luôn là các hành
vi bất thiện sẽ mang đến khổ đau và gây ra hận thù. Như Đức Phật đã diễn
tả ý tưởng này như sau:
Hận thù không thể xóa bỏ hận thù.
Chỉ có tình thương mới xóa được hận thù.
Đó là luật thường hằng.
(Dh 5)
Đức Phật không nói luật đó do Người chế. Nó không chỉ áp dụng cho người
Phật tử mà cho tất cả mọi người. Với tâm giác ngộ, Đức Phật có thể thấy rõ
ràng các hậu quả xấu ác là do các hành vi sai trái gây ra. Ngài đã dạy,
Nếu hành động hay nói với tâm uế nhiễm,
đau khổ sẽ theo sau ta,
như bánh xe theo dấu chân con bò.
Nếu hành động hay nói với tâm trong sáng,
hạnh phúc sẽ theo ta
như bóng theo hình.
(Dh1-2)
Chánh Nghiệp không chỉ giúp tâm ta được thanh tịnh mà nó cũng ảnh
hưởng tích cực đến mọi người quanh ta. Có lần tôi được nghe một câu
chuyện về một vị tăng đã thể hiện cho người khác thấy sự chánh niệm về
chánh nghiệp có thể giúp người khác như thế nào. Ngôi chùa nơi vị tăng ấy
sống có một cây mít đang ra trái. Mít rất ích lợi cho cuộc sống ở tu viện. Mỗi
trái mít lớn, với những hạt to đầy chất protein và những múi mít dầy có thể
dùng để nấu ra nhiều món. Những gia đình nghèo khó không đủ khả năng
mua thực phẩm, có thể sống nhờ vào cây mít. Mặc dù mít không phải là loại
151
trái cây có giá, nhưng việc hái trộm mít trong những khu vực nghèo khó đôi
khi khiến kẻ trộm phải mất mạng.
Một đêm kia vị sư nhận biết có kẻ trộm đang hái mít trong chùa. Kẻ trộm
đang ở tít trên cành cây cao, và thả từng trái xuống bằng một sợi dây thừng
để nó không rơi xuống đất gây ra tiếng động, và gây sự chú ý. Kẻ trộm có
cách thắt sợi dây quanh trái mít sao cho khi nó vừa chạm đất, thì sợi dây
giãn ra. Sau đó, kẻ trộm sẽ kéo sợi dây lên để buộc trái kế tiếp. Vị sư ra đứng
im lặng dưới gốc cây mít. Khi mỗi trái mít chạm mặt đất, ông giúp tháo dây
ra.
Cuối cùng kẻ hái mít trộm cũng leo xuống đất. Anh ta gần té xỉu khi thấy
một vị sư vui vẻ đứng chờ. Vị sư nói với anh một cách dịu dàng, không
giống như là một nạn nhân của kẻ trộm, mà giống như một bậc cha mẹ lo
lắng, hỏi han ân cần, "Con đã hái đủ mít chưa? Con có cần thêm không?"
Không cần phải làm ồn ào la lối, khiến cho kẻ trộm có thể bị những người
khác trong chùa gây khó khăn. Thái độ ôn tồn và rộng lượng của vị sư khiến
kẻ trộm quá xấu hổ đến nỗi anh ta lủi đi nhanh chóng và không bao giờ còn
trở lại để trộm cắp trong chùa nữa.
Bạn sẽ làm gì nếu bạn phạm một trong những giới luật đạo đức của chánh
nghiệp? Câu trả lời rất đơn giản: Hãy thực tập chánh niệm. Trước hết, hãy ý
thức ta đã làm gì. Sau đó, nếu có thể thì sửa đổi. Cuối cùng, quyết chí giữ
giới về chánh nghiệp trong tương lai. Nếu bạn đã phạm giới nào, thì phải
lập lại lời thọ nguyện. Sau đó hãy buông xả hành vi sai trái đi. Ăn năn, hối
hận hay lo âu về những hậu quả vượt quá tầm kiểm soát của ta, cũng không
giúp được gì cho ta. Hãy chấp nhận những sai trái trong quá khứ với thái độ
rộng lượng và từ bi như vị sư đã làm đối với cho kẻ trộm mít ấy. Hành động
như thế sẽ giúp ta tăng thêm tinh tấn tu tập chánh nghiệp.
Tóm Lược Về Chánh Nghiệp
• Bất cứ ai quan tâm đến sự phát triển tâm linh cần phải tuân giữ năm giới:
không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, và không sử
dụng ma túy hay rượu.
• Việc ăn thịt theo định nghĩa không phải là sát sanh. • Sự giết hại hay sát sanh đòi hỏi phải có chủ đích, có ý thức, có kế hoạch, và
hành động theo kế hoạch.
• Khi chúng ta không sát hại, là ta thực hành tâm từ bi và ta không đe dọa
mạng sống của chúng sanh nào.
• Trộm cắp nghĩa là lấy của không cho, kể cả tư tưởng, sáng kiến của người
khác.
• Khi chúng ta không trộm cắp, chúng ta phát triển lòng tôn trọng đối với
nhu cầu của người khác và thực hành tâm hoan hỷ.
• Giới không tà dâm bao gồm cả việc không hãm hiếp, không bắt buộc
người khác phải giao hợp khi họ không đồng ý, không lạm dụng tình dục
với trẻ em, thú vật, vợ/chồng người khác hay với người không thể tự bảo vệ;
kể cả việc gian dối trong một mối liên hệ.
• Khi chúng ta không phạm tà dâm, thì những dục vọng thấp hèn có thể
được tiêu diệt. Sự liên hệ tình dục với người phối ngẫu hay bạn tình không
bị coi là tà dâm.
• Chúng ta cần tránh tất cả mọi sự cố ý lạm dụng các giác quan. Làm được
thế sẽ giúp ta buông xả được lòng tham ái, và qua đó, phát triển được tâm
rộng lượng đối với người.
• Nghiện rượu hay ma túy, có thể nhanh chóng xảy mà cũng có thể do tập
dần trở thành thói quen; nghiện ngập rất tai hại, tốt nhất là đừng thử sử
dụng các chất gây nghiện.
• Khi chúng ta tránh sử dụng các chất gây nghiện, ta có thể duy trì được
tâm sáng suốt và tu tập để đoạn diệt các vọng tưởng. Chúng ta có thể phát
triển tâm chánh niệm và rèn luyện để hành động đúng theo thực tại.
• Thọ thêm các giới luật khác, hoặc là bát quan trai luật hay tám giới luật
trọn đời, có thể là một công cụ hữu hiệu giúp ta thiền định và tiến hơn nữa
trên con đường đạo.
Chánh niệm có thể giúp chúng ta chế ngự được cám dỗ, tránh tranh cãi, và
hành động đầy từ bi với những sự vô đạo đức của người cũng như của bản
thân ta.
153
CHÁNH MẠNG (BƯỚC 5)
Một đệ tử của tôi kể rằng có một nữ doanh nhân thành đạt rất quan tâm
đến các giới luật đạo đức theo Phật giáo. Một lần bà tìm được một mối kinh
doanh mới, có một số tiệm rượu đang rao bán. Bà biết nếu nhân cơ hội này
mua các tiệm ấy, thì bà có thể được nhiều lợi lộc. Tuy nhiên có điều gì đó đã
ngăn cản bà lại. Khi bà quán xét về việc kinh doanh bán rượu, bà nhận thấy
rằng một số khách hàng của tiệm rượu có thể bị tổn hại. Họ có thể uống
rượu rồi làm những điều tai hại! Họ có thể trở thành những kẻ rượu chè trác
táng, hoặc tệ hơn nữa là những kẻ nghiện ngập. Để bảo vệ sự phát triển tâm
linh của mình, bà từ chối không mua, bỏ qua mối kinh doanh đó.
Câu chuyện này đã nói lên được một chân lý rất minh bạch: phương cách
kiếm sống không nên ảnh hưởng đến sự phát triển tâm linh. Chúng ta
không thể liệt kê ra một danh sách đầy đủ những nghề nghiệp hay công việc
được coi là Chánh Mạng, nhưng Đức Phật đã cho chúng ta một hướng dẫn
căn bản: bất cứ công việc/nghề nghiệp nào cũng có thể được coi là chánh
mạng nếu nó không đem lại tai hại cho bản thân người làm công việc đó hay
cho bất cứ ai khác. Dĩ nhiên, không có việc gì là hoàn hảo. Phương cách
kiếm sống hoàn hảo duy nhất là công việc được làm bởi một người hoàn hảo
-người đã hoàn toàn đoạn diệt được tất cả tham, sân, và si. Nhưng những
người như chúng ta, còn đang trên đường tiến đến sự hoàn hảo đó, vẫn có
thể làm được nhiều thứ để hòa hợp công việc làm với cuộc sống tâm linh.
Như với hầu hết những câu hỏi về đạo đức Phật giáo, lý do tại sao ta phải
quan tâm đến Chánh Mạng có hai mặt. Việc làm mà tổn hại đến người khác
thì tự nó đã sai vì nó vi phạm căn bản đạo đức. Nhưng nó cũng sai vì nó gây
tổn hại cho bản thân người làm công việc đó. Lý do là vì chưa giác ngộ,
chúng ta không thể hoàn toàn tránh việc bị kích động trở nên giận dữ hay
đau khổ. Trong khi đó công việc phải làm khiến ta phải tranh đấu với lòng
tham và sân. Tuy nhiên chúng ta có quyền lựa chọn để tránh những công
việc có thể cản trở sự tiến bộ tâm linh của ta. Nếu nghề nghiệp của ta gây ra
quá nhiều sân hận, thì tâm không thể an tịnh để hành thiền. Hãy lấy một thí dụ rất hiển nhiên. Thí dụ công việc của một người đòi hỏi
anh ta phải giết thú vật. Anh ta có thể là nhà nghiên cứu phải thí nghiệm
một loại thuốc mới trên những con chuột trong phòng thí nghiệm. Hay anh
ta có thể là người bán cá hay bán thịt heo. Khi người đó hành thiền, tâm anh
ta có thể bị xáo trộn. Hằng ngày anh phải chứng kiến các thú vật đau khổ
dưới tay anh. Anh nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt chúng và sự cố gắng vùng
vẫy để thoát khỏi hiểm nguy của chúng; anh nghe được tiếng kêu rên và
cảm nhận được nỗi đau của chúng. Những hình ảnh này luôn ám ảnh anh
khi trở về nhà. Để làm được công việc này, anh phải tự lừa dối mình rằng
thú vật không có cảm giác, chúng không thực sự là những sinh vật biết đau
đớn như anh. Trong tâm, anh biết rằng suy nghĩ này là không đúng, nhưng
anh tiếp tục giết hại vì đó là công việc của anh. Sự dằn xé nội tâm khiến tâm
anh bấn loạn và các hình ảnh ghê rợn lại hiện ra trong lúc anh hành thiền.
Anh không thể thực hành tâm từ bi; anh cũng không thể thư giãn. Rõ ràng
công việc của người này không thể là Chánh Mạng.
Đối với một số công việc, như là giết súc vật, ta có thể dễ dàng biết là xấu.
Còn lại, đôi khi việc đánh giá thế nào là một việc làm/nghề nghiệp được coi
là Chánh Mạng thì phức tạp hơn nhiều. Một số công việc có thể được chấp
nhận ở một số nơi nhưng lại không được chấp nhận ở chỗ khác tùy vào
hoàn cảnh, thí dụ như là người chủ có đòi hỏi nhân viên hành động một
cách vô đạo đức hay không. Sự quán sát ở ba mức độ sau đây sẽ giúp chúng
ta quyết định rằng một công việc có được coi là Chánh Mạng hay không.
Các Câu Hỏi Để Đáng Giá Chánh Mạng
Chúng ta có thể quyết định xem một công việc có được coi là Chánh Mạng
hay không bằng cách tự hỏi ba câu hỏi tương quan nhau.
Trước hết, công việc của tôi tự nó có xấu không?
Đó là, qua định nghĩa, công việc đó có xấu không? Nó có liên quan đến việc
sản xuất, mua bán, quảng cáo, hay sử dụng súng hoặc các loại vũ khí khác
không? Nó có liên quan đến chất độc hay chất gây nghiện không? Nó có gây
tai hại hay giết sinh vật không? Chính Đức Phật đã dạy rằng những nghề nghiệp liên quan đến vũ khí, chất độc, hay giết hại thì rõ ràng không phải là
Chánh Mạng.
Có nhiều nghề nghiệp rõ ràng rơi vào loại này. Thí dụ, việc nghiên cứu, phát
triển những vũ khí hóa học, hạt nhân, sản xuất hay buôn bán thuốc trừ sâu,
thiết lập những hệ thống mạng hướng dẫn việc phóng tên lửa, hay bốc lột
lao động rẻ tiền thì rõ ràng là sai. Tôi cũng có thể thêm rằng viết lách cho
những tờ báo rẻ tiền làm hại đến danh dự của những người nổi tiếng hay
làm việc cho những chương trình trực tuyến để rao truyền những lời nói
đầy sân hận cần bị coi là một loại "thuốc độc" mà Đức Phật đã nhắc đến như
là một cách kiếm sống sai trái.
Lời dạy của Đức Phật cũng có thể áp dụng rộng rãi hơn để bao gồm những
nghề không truyền thống. Kiếm sống từ những trò chơi thể thao bạo lực
khiến người ta bị thương tổn, như là đánh võ đài, là một cách kiếm sống sai
trái. Làm chủ hay làm việc ở những casino hay những chỗ cờ bạc cũng thế.
Giống như rượu, cờ bạc cũng khiến người ta nghiện ngập. Nó xuất phát từ
lòng tham, thường dẫn đến việc phạm tội hay làm tổn hại người vô tội.
Không cần phải nói, những hoạt động tội phạm dưới bất cứ hình thức nào
cũng là một cách kiếm sống sai trái, kể cả việc đầu cơ, những loại giao dịch
bất hợp pháp, lừa đảo, gian dối, và các loại tội phạm trong các công ty.
Nghề nghiệp gây nguy hiểm cho sức khỏe của bản thân cũng là một cách
kiếm sống sai trái.
Buôn bán ma túy thì rơi vào loại buôn bán các "chất độc". Những người
buôn bán ma tuý nổi tiếng về các hành vi bạo lực và hối lộ để bảo vệ lãnh
địa, mua bán mà không bị bắt. Chắc chắn là việc làm của họ đem lại tai họa
cho những người yếu đuối sa ngã vào việc mua và sử dụng ma tuý. Người
sử dụng ma tuý cũng gây ra tội ác để có được tiền mua thuốc. Các thành
viên vô tội trong gia đình cũng phải đau khổ: từ bạo lực trong gia đình, từ
việc thiếu thốn, đói nghèo, và từ nỗi mất mát khi người thân bị tù đày, bị
hãm hại.
Tuy nhiên, vì chế độ kinh tế của chúng ta đã trở nên quá phức tạp, nên đôi
khi việc xét đoán xem những nghề nghiệp nào bị coi là cách kiếm sống sai có phải luôn là xấu? Điều đó còn tùy. Nếu công việc đặt người đó vào vị trí
phải sử dụng vũ khí, kể cả dùng máy vi tính để phóng tên lửa, thì có thể đó
là cách kiếm sống sai trái. Nhưng là một bác sĩ hay một người đầu bếp thì
bản chất công việc không có gì là sai. Tôi khó tin rằng có người đầu bếp nào,
dầu ở trong quân đội, lại nghĩ, "Tôi nấu cho những người lính này ăn để họ
có thể đi giết giặc!"
Nhiều hoàn cảnh công việc khác cũng phải được xét lại. Thí dụ, việc chế tạo
những đầu đạn hạt nhân rõ ràng là một trong những công việc bị cấm đoán
theo sự liệt kê của Đức Phật, nhưng việc đào mỏ uranium để dùng trong vũ
khí hạt nhân thì sao? Hoặc làm việc trong những cửa hàng tạp hóa, bản chất
của công việc đó có sai không, nếu như doanh thu của các cửa hàng đó phần
lớn nhờ vào việc bán súng? Hoặc làm việc với số lương ít ỏi trong các tiệm
bán thức ăn nhanh thì sao? Ta có thể nghĩ đến nhiều hoàn cảnh công việc
đem lại tai hại một cách gián tiếp cho người khác. Một vị giáo sư đại học có
thể cảm thấy không an lòng khi kết quả các công trình nghiên cứu khoa học
của ông có thể được sử dụng cho mục đích quân sự. Sản phẩm của một công
nhân ngành thép cũng có thể được sử dụng để làm súng săn.
Trong những trường hợp như thế, ta cần phải tự hỏi, "Công việc của tôi có
liên quan trực tiếp đến vũ khí, chất độc, hay giết hại không? Tôi có cố ý
đem lại tai họa cho người khác hay cho bản thân?" Tóm lại, ta có thể sử
dụng quy luật chung sau đây: Nếu sự tách biệt giữa công việc ta làm và
những nguy cơ mà nó có thể xảy ra cho người khác càng lớn, thì nó càng
khó có thể là một công việc không phù hợp với Chánh mạng.
Thứ hai, công việc của tôi có khiến tôi phải phạm năm giới?
Nếu một nghề nghiệp đã qua được bước khảo sát thứ nhất thì hãy xét xem
công việc làm đó có khiến ta dễ phạm bất cứ giới nào trong năm giới của
chánh nghiệp không. Nguyên tắc đạo đức ở nơi ta làm việc cũng có thể biến
một công việc bình thường thành một cách kiếm sống sai trái. Thí dụ, trong
một công ty luật, luật sư có thể được khuyến khích duy trì những mẫu mực
đạo đức cao nhất trong nghề nghiệp. Trái lại, ở một công ty luật khác, đồng
nghiệp của họ có thể bị áp lực phải ngụy tạo các chứng cứ, gian dối bồi thẫm
đoàn, hay tính giá cao đối với khách hàng. Phạm vào những hành động vô
157
đạo đức như thế khi làm việc khiến cho tâm ta trở nên xáo trộn, cản trở con
đường tiến bộ tâm linh của ta. Tôi nhớ về một vị luật sư thường đến Hội
Bhavana. Trong quá trình hành thiền, ông cứ khóc mãi. Tôi tự hỏi không
biết ông bị đau khổ như thế có phải vì ông đã làm điều gì sai trái để thắng
kiện ở tòa án.
Tương tự, cũng có trường hợp mà công việc thì tốt nhưng người làm công
việc đó biến nó thành xấu. Thí dụ, một viên chức làm nhiệm vụ thẩm định
trước khi cho bằng lái xe có thể làm việc với lương tâm, nghiêm khắc, chu
đáo, từ chối không nhận hối lộ. Nhưng một người khác cũng công việc đó,
trong cùng một văn phòng, có thể trở nên tham nhũng, hối lộ. Một cán bộ
tham nhũng thì không thể có Chánh Mạng, nhưng người chân thật thì có
thể. Bất cứ công việc hay nghề nghiệp nào, dầu tốt cũng có thể bị biến chất
thành xấu. Tôi biết một bác sĩ ở Malaysia chuyên làm những tờ chứng nhận
bệnh giả cho công nhân để họ đưa cho chủ; ông tính khoảng năm đô la cho
một ngày được nghỉ việc. Việc làm này đã thành thói quen đến nỗi khi một
bệnh nhân bước vào phòng khám, câu đầu tiên ông hỏi sẽ là, "Bao nhiêu
ngày?"
Một câu chuyện tiền thân rất nổi tiếng về Đức Phật và người anh bà con có
tâm địa xấu, Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), nói về hai người trong cùng một
ngành nghề nhưng chỉ có một người là tuân theo Chánh Mạng:
Theo truyện kể, vị sẽ thành Đề Bà Đạt Đa đầu tiên có chuyện hiềm khích với
Đức Phật trong một kiếp quá khứ, khi sự kinh doanh chân thật của Bồ Tát -
vị Phật tương lai- đã khiến cho Đề Bà Đạt Đa bị mất một chuyến làm ăn.
Trong kiếp sống quá khứ đó, vị Đề Bà Đạt Đa tương lai và Bồ Tát là hai
người buôn bán phế liệu rong cạnh tranh nhau, cùng đi buôn bán nồi niêu.
Ở mỗi thành phố, họ sẽ chia tuyến đường, rồi quyết định ai sẽ đi đến đâu
trước. Sau đó, hai người tách ra đi riêng, rao lên, "Ai bán nồi! bán niêu!" Lần
nọ, ở một thành phố có một quả phụ sống với con gái, trước kia họ giàu có
nhưng giờ rất nghèo. Họ có một cái tô lớn bằng vàng, bên ngoài mạ đồng
xám xỉn. Hai người phụ nữ này không hề biết được giá trị thực của cái tô.
Khi Đề Bà Đạt Đa xuất hiện ở cửa nhà họ, người con gái bảo mẹ hãy đổi cái
tô lấy một món đồ khác. Đề Bà Đạt Đa tham lam nhận ngay ra được cái tô
158
đáng giá cả một gia tài, nhưng quyết định lừa dối hai mẹ con người đàn bà
khốn khổ kia. Anh ta vứt cái tô xuống đất, bảo nó chả có giá trị gì, và bỏ đi
với ý định sẽ quay trở lại để mua với giá chẳng đáng gì.
Không lâu sau, Bồ Tát cũng ghé đến nhà đó, hai người phụ nữ e dè ngã giá
cái tô để lấy một món đồ khác. Bồ Tát chân thật bảo cho họ biết về giá trị
thực của cái tô và nói rằng ông không đủ sức để trả họ tiền dù chỉ là một
phần nhỏ giá trị của cái tô ấy. Hai người phụ nữ rất vui mừng và hết lòng
kính trọng Bồ Tát vì lòng chân thật của ông. Họ bảo ông đưa cho họ bất cứ
gì mà ông có thể đưa. Bồ Tát đã đưa cho họ tất cả tiền và tất cả nồi niêu. Đổi
được chiếc tô vàng, Bồ Tát vội vã qua sông vì ngài đoán được ý đồ của Đề
Bà Đạt Đa.
Sau khi Bồ Tát ra đi, Đề Bà Đạt Đa quay trở lại căn nhà kia. Bà quả phụ chạy
ra trách mắng ông đã có ý muốn lừa dối họ. Bà báo cho ông biết rằng có một
người buôn bán phế liệu khác, rất thật thà, đã mua chiếc tô và đã trả tiền cho
họ rất hậu hĩnh. Biết mình đã thất bại, Đề Bà Đạt Đa kêu than và trở thành
giống như người mất trí. Ông ta xé áo quần, vứt đồ đạc qua một bên và
chạy đuổi theo Bồ Tát, la mắng rằng Bồ Tát đã cướp chiếc tô vàng của ông.
Khi đến bờ sông, ông thấy Bồ Tát đã được người chèo đò đưa qua được nửa
sông. Ông lớn tiếng gọi người chèo đò dừng lại, nhưng Bồ Tát lặng lẽ bảo
người chèo đò cứ đi tới. Khi hình bóng Bồ Tát khuất dần, hận thù trong
lòng Đề Bà Đạt Đa trào dâng. Máu nóng tuôn tràn ra cửa miệng. Tim ông bể
làm đôi và ông ngã xuống chết. Như thế là Đề Bà Đạt Đa đã bị hủy diệt bởi
chính sự kinh doanh không chân thật của mình. Bồ Tát trở nên giàu có từ
việc bán được chiếc tô vàng mà người đã mua một cách chân thật. Ngài sống
cuộc đời còn lại làm các việc thiện và luôn bố thí giúp người. Khi mất đi, sự
trung thực của Bồ Tát đã giúp ngài có được những kiếp sống tương lai tốt
đẹp, dần dần ngài đạt được quả vị Phật. Trái lại, những hành động bất thiện
của Đề Bà Đạt Đa cũng đưa ông ta đến những cuộc sống tương lai tương
ưng. Đề Bà Đạt Đa tiếp tục là kẻ kình chống, tranh chấp với Đức Phật. Trong
kiếp sống cuối cùng của Đức Phật, sau khi Ngài đã giác ngộ, Đề Bà Đạt Đa
còn cố gắng âm mưu giết Phật. Có lời kể rằng khi đó mặt đất mở ra và ông
rơi xuống địa ngục. (J 3)
159
Câu hỏi cuối cùng là, có khía cạnh nào của công việc khiến tôi không cảm
thấy thoải mái, và tâm tôi không an tĩnh?
Nếu một nghề nghiệp đã không phạm vào hai điều đầu tiên vừa nêu trên,
thì ta cần xét đến những khía cạnh khác có thể ảnh hưởng đến sự tiến bộ
tâm linh của ta. Việc này không đơn giản. Vì không có công việc nào là
hoàn hảo, mỗi chúng ta phải tự quyết định xem yếu tố nào là không thể
khắc phục được. Đồng nghiệp bất chánh? Khách hàng thô lỗ? Hóa chất hại
phổi? Sản phẩm làm ô nhiễm môi trường? Có liên hệ gián tiếp với những
công ty bóc lột nhân công?
Theo ý tôi, cách tốt nhất để xét xem một nghề nghiệp có được coi là chánh
mạng hay không là đo lường mức ảnh hưởng của nó đối với tâm. Thí dụ
một công ty đổ các chất độc hại xuống sông, làm ảnh hưởng đến cá tôm và
các sinh vật hoang dã khác. Sau đó công nhân trong công ty mới được biết
về việc trút đổ bừa bãi này. Hai trong số những công nhân này rất quan tâm
đến việc thực hành chánh mạng. Vậy họ có phải bỏ việc làm ở công ty này
không?
Một công nhân tràn đầy lòng ghê tởm với những gì đã xảy ra. Tâm anh cứ
nhớ đi nhớ lại những hình ảnh từ bản tin trên truyền hình về sự kiện này.
Anh nghĩ đến tính cách bất thiện của những người đã quyết định làm thế và
tâm anh tràn ngập những lời buộc tội theo cách nhìn của anh. Người công
nhân thứ hai vẫn tiếp tục làm việc với lòng đầy trắc ẩn đối với những ai bị
ảnh hưởng, kể cả những người chịu trách nhiệm cho quyết định đó. Cô vẫn
hy vọng rằng những người có quyền trong công ty sẽ nhận thức được hành
động sai trái của họ và có biện pháp để sửa đổi và ngăn chặn những vấn đề
tương tự như thế có thể xảy ra trong tương lai. Suy nghĩ như thế khiến tâm
cô yên ổn. Có người cho rằng cả hai công nhân này nên nghỉ việc vì họ làm
cho một công ty không có lương tâm. Kẻ khác thì nói chỉ có người công
nhân với lòng bất mãn công ty nên nghỉ việc, vì công việc này đem đến
những ảnh hưởng không tốt cho tâm anh.
Chúng ta cần sử dụng trí tuệ và sự hiểu biết Phật pháp để suy ra điều gì là
đúng. Các căn bản đạo đức cũng góp phần giúp ta biết điều phải trái. Ta
không muốn tham gia hay ủng hộ những hành động thiếu đạo đức. Hơn
160
nữa, phớt lờ tiếng nói của lương tâm cũng là thiếu đạo đức. Nếu chúng ta tự
nhủ, "Tôi không thể thay đổi được gì, hơn nữa, những gì xảy ra thực sự
không ảnh hưởng đến cá nhân tôi." Suy nghĩ như thế là chúng ta tự tách
mình ra khỏi cộng đồng thế giới. Giáo lý của Đức Phật về tình thương yêu
khuyên chúng ta phải quan tâm không chỉ đến bản thân, người thân thích,
mà còn cả đến bà con hàng xóm, cộng đồng -tất cả mọi người! Mỗi chúng ta
chỉ là một tế bào riêng lẻ nhỏ bé, nhưng tụ họp lại với hàng tỷ tế bào khác,
chúng ta trở thành là một bộ phận của thế giới. Vì thế chúng ta có bổn phận
phải bảo vệ cho công lý. Nhưng -và đây là một điều rất quan trọng- khi
làm thế, chúng ta phải cẩn thận để không ác cảm với người khác hay kết tội
họ một cách đầy hận thù. Bất cứ hành động gì mà chúng ta có chủ tâm, ngay
cả hành động cố ý để sửa đổi một điều sai trái, cũng phải bắt nguồn từ lòng
thương yêu, bi mẫn đối với người cũng như đối với tất cả mọi chúng sanh.
Với tâm niệm này và với lòng tràn đầy bi mẫn, lúc đó chúng ta hãy hành
động.
Trở lại câu hỏi rằng hai công nhân của công ty gây ô nhiễm đó có nên nghỉ
việc không, chúng ta không thể đưa ra một kết luận vội vàng. Tùy thuộc vào
trình độ tâm linh của chúng ta, mà việc bỏ làm có thể là đúng hay sai.
Nhưng có một điều chắc chắn: việc cần làm là luôn bảo vệ, nuôi dưỡng thiện
tâm của mình. Thái độ bàng quan đối với cái ác không phải là thiện. Tuy
nhiên sự bực tức, giận dữ hay hận thù cũng không phải là thiện. Ngay nếu
như ta quyết định bỏ việc để duy trì Chánh Mạng, nhưng bỏ việc trong tâm
trạng sân hận cũng không ích lợi gì cho con đường tu của mình. Ta phải giữ
tâm bình tĩnh, không oán hận và đầy chánh niệm. Phải luôn nhớ rằng mục
đích tối thượng của ta là để giải thoát tâm khỏi tất cả mọi tham, mọi sân và
mọi si. Ảnh hưởng sâu sắc nhất mà ta có thể tạo ra trên thế giới này là đối
mặt với mọi hoàn cảnh bằng tâm trong sáng, bi mẫn, và thương yêu. Với
trạng thái tâm tĩnh lặng và buông xả, chúng ta có thể hành động hay từ chối
hành động, hay làm bất cứ điều gì để có thể vun trồng và biểu hiện được
tình thương yêu và lòng bi mẫn của chúng ta một cách tốt nhất.
Dựa vào những điều vừa nói trên, tốt nhất là các công nhân của công ty ô
nhiễm đó nên tu tập để tâm mình được bình an. Rồi với trạng thái tâm trong
sáng, bình lặng, họ xét đến những điều kiện của cá nhân và xã hội, rồi quyết định có nên tiếp tục liên hệ với công ty đó hay không. Đó là hành động đầy
tình thương và bi mẫn nhất mà các công nhân này có thể làm. Họ có thể xét
xem sự kiện đó quan trọng thế nào, nó có tính cách cá biệt hay là chủ trương
chung của công ty, cá nhân họ có liên quan trực tiếp đến việc đó hay không,
họ có thể tiếp tục làm việc ở công ty đó mà không cảm thấy quá áy náy hay
không. Một công nhân nhạy cảm dầu không liên hệ gì đến việc quản lý công
ty, cũng có thể cảm thấy bức xúc hơn là một vị quan chức vô tâm. Nếu hành
vi thiếu đạo đức của công ty gây khó chịu cho người công nhân, khiến tâm
lý họ bất an, không thể chú tâm làm việc thì chắc chắn là họ phải có thái độ
quyết định.
Nghỉ việc chỉ là một lựa chọn, còn có nhiều phương cách khác nữa. Thí dụ
công nhân có thể kiến nghị với công ty để ngăn chặn việc làm sai trái đó hay
báo với các cơ quan có thẩm quyền về hoạt động này của công ty, hoặc giúp
đỡ các nạn nhân, viết bài gợi ý với công ty về những việc cần làm để tránh
phạm thêm lỗi lầm hay chuyển đến một bộ phận khác trong công ty. Nếu
người công nhân trên quyết định bỏ việc, thì cũng không cần vội vã. Người
đó có thể bắt đầu bằng cách thăm dò kín đáo về khả năng tìm được việc làm
khác. Ở mỗi giai đoạn, anh ta phải tự hỏi, "Tôi có thể làm gì để thể hiện tâm
buông xả, tình thương, từ bi và sự quan tâm đến mọi chúng sanh? Những
hành động nào có thể hỗ trợ cho tánh bổn thiện của tâm?"
Ngoài việc quan tâm đến khía cạnh đạo đức của công ty, nếu ta còn phải lo
lắng đến những vấn đề khác nữa thì nghề nghiệp đó khó thể là chánh
mạng. Thí dụ, một nghề nghiệp bình thường có thể là rất lý tưởng nhưng ta
không thể chấp nhận khi ông chủ ở đó có thói quen sàm sỡ, hay lúc nào
cũng nóng giận, hoặc nhiều đồng nghiệp ở chỗ làm có thói quen uống rượu
lúc ăn trưa, có những "bữa tiệc sau cánh cửa đóng," sử dụng ma túy trong
phòng làm việc.
Dầu rằng bạn có thể duy trì được sự độc lập của mình trong các môi trường
như thế. Bạn phải tự quyết định xem những đồng nghiệp như thế có ảnh
hưởng đến tâm hay cản trở sự phát triển tâm linh của bạn không. Đánh giá
được một công việc có là Chánh Mạng hay không tùy thuộc vào mỗi cá
nhân. Cùng một hoàn cảnh mà có thể khiến người này sa vào các bất thiện
162
pháp, còn người khác thì coi đó là một cơ hội để thực hành lòng kiên nhẫn
và bi mẫn.
Tuân Giữ Chánh Mạng
Đến lúc này, có thể một số người cảm thấy buồn lòng khi nhận ra công việc
họ đang làm không phải là chánh mạng. Có thể họ tự hỏi, "Tôi phải làm gì
bây giờ?" Câu trả lời là có rất nhiều chọn lựa, kể cả những phương cách để
thay đổi hoàn cảnh mà không phải bỏ công việc làm. Như tôi đã nói phía
trên, có thể trước hết, ta phải cố gắng nhắc nhở công ty sửa đổi sai trái.
Nếu ta cảm thấy không thoải mái với công việc làm là do hành vi của các
bạn đồng nghiệp, thì đừng quên áp dụng lời Phật dạy về từ bi (metta). Tình
thương, lòng từ bi có thể chinh phục cả những trái tim cứng rắn nhất. Người
ta thường nói không có gì có thể làm hại một người tràn đầy lòng từ bi -kể
cả súng đạn hay lửa, nói gì đến việc bị phiền hà ở sở làm! Nếu mỗi ngày
trước khi bắt đầu làm việc, ta dành đôi phút để quán tưởng về tình thương
yêu, thì biết đâu sẽ có nhiều đổi thay? Ngay chính những kẻ thường làm
điều bất thiện, đôi khi cũng thay đổi nếu như có ai đó, ở nơi nào đó, mỗi
ngày đều hướng tâm từ, tình thương trong sạch, mạnh mẽ đến cho họ.
Trước khi đầu hàng trước một công việc khó khăn, có thể ta cũng nên thử áp
dụng phương pháp này. Ngay nếu như các đồng nghiệp của ta không thay
đổi, thì tâm ta chắc cũng sẽ được thanh tịnh hơn. Có thể ta sẽ bắt đầu cảm
thấy có lòng tử tế và bi mẫn đối với những người mà trước đây họ thường
khiến ta khó chịu, bực bội.
Tuy nhiên có một số công việc hay hoàn cảnh không thể sửa đổi được và
chúng ta đành phải bỏ việc. Đôi khi ta phải chấp nhận hy sinh để đi theo con
đường của Đức Phật. Ngài đã dạy rằng ta không nên tìm lợi nhuận bằng
những phương tiện sai trái:
Khi, không phải vì lợi lộc cho ta hay cho người,
không phải cho con cái, tài sản, ngôi vị,
hay cho lợi nhuận bằng những phương tiện sai trái,
Chỉ khi đó thì người ta mới có đạo đức, trí tuệ và chân chánh.
(Dh 84)
Đối với người có khả năng đặc biệt hay quen biết nhiều, việc nghỉ làm hay
thay đổi nghề nghiệp có thể là một quyết định dễ dàng, không phải hy sinh
nhiều. Nhưng đối với người không có nhiều chọn lựa, họ có thể cảm thấy rất
sợ hãi khi nghĩ đến việc mất đi đồng lương cố định, nhất là khi họ còn phải
lo cho con cái. Tuy nhiên, khi đó là một vấn đề liên quan đến phẩm cách
con người, chúng ta bắt buộc phải hành động. Ở đây tôi không nói đến
những hành động theo bản năng, thiếu chín chắn, mà trước hết phải tính
toán hết sức cẩn thận, với tất cả khả năng của mình. Kế tiếp, sau khi đã
hoạch định mọi thứ, thì hãy hành động với niềm tin. Đã có lời nói rằng,
"Những người bảo vệ chánh pháp, sẽ được chánh pháp bảo vệ." (Thag 303)
Điều đó có nghĩa là khi ta dựa vào những gì ta tự biết trong tâm là chân thật,
thì mọi việc đều có kết quả tốt, mang đến nhiều hạnh phúc cho ta. Tôi đã
thử nghiệm điều này trong cuộc đời mình và luôn thấy rằng nó rất đúng.
Đây là câu chuyện của bản thân tôi về việc tuân theo Chánh mạng với đầy
tín tâm.
Trước khi thành lập Hội Bhavana, tôi trụ trì một ngôi chùa nhỏ nhưng khá
nổi tiếng ở Washington D.C trong hai mươi năm. Tôi đã có vị trí trong cộng
đồng, với một địa vị vững vàng, có một ban chấp hành năng nổ, có bạn bè
và gia đình ở bên cạnh. Tuy nhiên trong lòng tôi vẫn mơ đến việc thiết lập
một trung tâm thiền, nơi mọi người có thể đến để học hỏi Phật pháp và
hành thiền. Đức Phật luôn nhắc nhở đến việc học Pháp và hành thiền như là
những điều quan trọng nhất, tuy nhiên tôi thấy nhiều người không có chỗ
nào để đến khi họ muốn hành thiền một khoảng thời gian. Ý định của tôi là
tốt và niềm tin của tôi mãnh liệt.
Bạn bè và gia đình can ngăn tôi, "Sư đang giữ một vị trí cao ở ngôi chùa
Nguyên Thủy đầu tiên ở Mỹ, ngay tại trung tâm thủ đô. Sư không nên rời
bỏ nơi này." Ở một mức độ nào đó dĩ nhiên là họ đúng. Rời bỏ Washington
D.C để thiết lập một trung tâm tu thiền ở vùng quê là nhảy từ một vị trí
được nhiều người ngưỡng mộ xuống một nơi đầy bất trắc.
164
Miếng đất mà bạn tôi, Matthew Flickstein và tôi tìm được để xây trung tâm
thiền nằm sâu trong những cánh rừng của miền tây Virginia. Cánh rừng biệt
lập, yên tĩnh và thanh vắng, có vẻ là một môi trường lý tưởng để truyền dạy
Phật pháp và hành thiền. Mảnh đất rất đẹp, rất xa sự náo nhiệt của
Washington, nhưng nằm trong một vùng của người Kitô giáo bảo thủ mà lại
xa các thí chủ của chúng tôi. Vùng đất đó hoàn toàn xa lạ đối với tôi và
chúng tôi bắt đầu tạo dựng trung tâm ở nơi đó mà không quen biết một ai.
Hội mới của chúng tôi chưa có thành viên. Chúng tôi không biết làm thế nào
để trường tồn. Gia đình và bạn bè lo lắng về việc ăn uống của tôi. Người
khác thì lại lo về sự an toàn của tôi, nhưng tôi nghĩ rằng với thiện tâm của
mình, thì dầu cho người trong vùng này bảo thủ đến đâu, họ cũng biết là
chúng tôi không làm hại họ, cũng không chống lại tôn giáo họ, thì họ không
thể hại chúng tôi. Ngay sau khi mua được đất, chúng tôi hăng hái dựng lên
một tấm biển gần đường đề "Làng (Phật) Pháp (Dhamma)." Không lâu sau
thì ai đó đã xóa một số chữ để đọc thành, "Làng Bị Nguyền Rủa (Dam)".
Sau nữa thì tấm biển báo đó đã bị tháo xuống.Không màng những sự
nguyền rủa và các chướng ngại , chúng tôi bắt tay vào dự án của mình. Gần
như tất cả bạn bè đều khuyên tôi đừng làm nữa, còn khuyến khích thì chưa
đến năm người. Nếu có gì xảy ra trong trường hợp khẩn cấp, chúng tôi sẽ
không có ai đến giúp. Người thân và bạn bè tôi ở Washington, cách nơi này
cả trăm cây số.
Tôi không thể kể cho bạn nghe hết những khó khăn buổi ban đầu. Trong
khoảng thời gian đó, ngay chính người bạn đã giúp tôi khởi đầu trung tâm
cũng có vẻ hoang mang. Nhưng chính là niềm tin ở Phật pháp đã bảo vệ tôi.
Ước muốn của tôi là truyền bá Phật pháp qua việc hoằng pháp và viết sách,
hoàn toàn miễn phí cho mọi người. Ngay khi còn là một chú sadi, tôi cũng
không nhận sự cúng dường để được nghe pháp của các cư sĩ. Khi lớn lên,
tôi được biết là Đức Phật cấm việc buôn bán Pháp. Ngài khuyên: "Đừng
làm một kẻ buôn bán Pháp." (Ud VI.2) Qua thời gian, mọi việc từ từ ổn
định và chúng tôi đã tạo ra được một trung tâm thiền từ trong rừng. Rất
nhiều việc lạ kỳ đã xảy ra -nhiều sự hỗ trợ đến từ những nguồn không đoán
trước được, vào khi chúng tôi cần được giúp đỡ nhất, và những liên hệ bất
ngờ cũng mang đến kết quả. Bằng cách nào đó chúng tôi đã phát triển, lớn
mạnh. Kinh nghiệm bản thân đã dạy tôi rằng khi tôi đi theo tiếng gọi an bình và
hạnh phúc của trái tim, chấp nhận hy sinh để giữ phẩm cách, và hết lòng vì
chân lý, thì phần thưởng của chánh mạng sẽ tiếp nối theo sau.
Tuy nhiên, tôi cũng biết rằng các điều kiện kinh tế có thể khiến cho sự chọn
lựa của ta thêm khó khăn, nhất là đối với những người mà học vấn và khả
năng hạn chế hay quá chuyên môn. Phải làm gì đây nếu chỉ có một loại công
nghiệp trong vùng? Nếu bạn đông con, lại có cha mẹ ốm đau, hay một đứa
con luôn bệnh hoạn cần được chăm sóc mà công việc tiện lợi duy nhất là làm
việc ở tiệm bán rượu gần nhà, thì phải làm sao? Hoặc bạn sống ở một vùng
mà chỉ có săn bắn và câu cá để sinh tồn thì sao? Chánh mạng có nghĩa gì đối
với những người sống trong những điều kiện kinh tế quá khó khăn hay bị
những người có quyền lực ép buộc phải tham gia vào những hoạt động bất
hợp pháp, như là trồng các loại cây để sản xuất ma túy một cách bất hợp
pháp? Nếu bạn ở trong những hoàn cảnh như thế, hãy tự an ủi với ý thức
rằng khi bạn không cốt ý để hại ai, thì bạn không phải chịu trách nhiệm cho
những hậu quả tai hại mà bạn không phải là nguyên nhân trực tiếp. Một
câu chuyện từ thời Đức Phật sẽ làm rõ hơn điểm này.
Con gái của một nhà kinh doanh giàu có đã được nghe pháp và đã đạt được
đến giai đoạn đầu của giác ngộ. Một ngày kia, một người thợ săn đẹp trai
buôn bán ngà voi, đi ngang qua làng, và cô gái đem lòng yêu người đó.
Không một lời từ giã gia đình, cô đi theo người thợ săn về nhà và họ trở
thành vợ chồng. Là vợ của người thợ săn, cô phải lau chùi và chuẩn bị cung
tên, lưới bẫy mà anh ta dùng để săn. Cô làm những bổn phận này một cách
cam chịu. Họ có với nhau bảy người con và cũng đến lúc con cái đều lập gia
đình.
Một ngày kia khi Đức Phật quan sát thế giới với tâm nhãn thông, Ngài thấy
rằng cả gia đình này có thể được giác ngộ, vì thế Ngài đến thăm họ. Đức
Phật đầu tiên đến bên cái bẫy trống được người thợ săn gài. Ngài để lại dấu
chân cạnh bên cái bẫy rồi đợi bên bụi cây. Khi người thợ săn đến và nhìn
thấy cái bẫy trống trơn, với những dấu chân bên cạnh, anh ta nghĩ rằng ai
đó đã đánh cắp con mồi trong bẫy của anh. Nhìn thấy Đức Phật bên bụi cây,
anh ta nhắm cung và chĩa mũi tên vào Đức Phật và rồi trở nên bất động
166
trong tư thế đó. Bảy đứa con đến tìm cha, và nhìn thấy cha đứng đó, cung
tên đã giương ra, nhưng không chuyển động được. Họ cũng nhắm cung tên
vào Đức Phật và cũng trở nên bất động. Cuối cùng người vợ đi tìm cả gia
đình. Cô thấy tất cả mọi người đều chỉa mũi tên vào Đức Phật. Cô la lên,
dang hai tay ra, "Đừng giết cha ta!" Khi gia đình cô nghe những lời này, họ
nghĩ rằng người đó phải là cha của bà, người mà họ chưa bao giờ gặp.
Người chồng nghĩ, "Đây là cha vợ tôi!" Những đứa con nghĩ, "Đây là ông
ngoại của chúng tôi!" Trong tim họ tràn đầy tình thương yêu dành cho
người đó và vì thế họ bỏ vũ khí xuống và chào hỏi. Sau đó Đức Phật ban cho
họ một bài pháp, và tất cả đều đạt được sơ thiền.
Sau đó, khi Đức Phật trở về tu viện, các vị đệ tử của Ngài rất ngạc nhiên, họ
hỏi Đức Phật, "Làm sao có thể như thế? Làm sao người đàn bà này có thể
chuẩn bị cung tên và bẫy để giúp giết các con thú khi bà đã thông hiểu Phật
pháp?" Đức Phật giải thích rằng người phụ nữ kia không tham gia vào việc
giết hại thú vật. Hơn thế nữa cô cũng không muốn làm hại thú vật. Cô chỉ
làm bổn phận của mình như là vợ của người thợ săn. (DhA124)
Sau đó Đức Phật giải thích rộng hơn:
Bàn tay không thương tích
Có thể tiếp xúc với chất độc mà vẫn an toàn;
Không có thương tích, chất độc không thể thấm vào,
Cũng thế, uế nhiễm không thể thấm vào
Tâm trong sạch.
(Dh1 24)
Khi tay không bị thương thì ta có thể tiếp xúc với chất độc mà không sợ
nguy hiểm. Cũng thế, những hành động sai trái không thể ảnh hưởng đến
ta, nếu ta không chủ ý thực hiện các hành động đó. Mặc dầu vợ người thợ
săn chuẩn bị các dụng cụ để săn thú, nhưng bà làm do phải vâng lời chồng,
vì trong nền văn hóa đó, ở vào thời ấy, người vợ không có nhiều lựa chọn về
bất cứ điều gì. Nhưng sự không có chủ ý muốn sát hại của người vợ đã che
chở tâm bà khỏi những hậu quả tiêu cực. Vì bà không muốn làm hại đến thú
vật, hành động của bà là vô tội.
Nếu bạn cảm thấy cách kiếm sống của mình không tốt, nhưng không có
cách gì khác hơn để giúp bạn và gia đình sinh sống, bạn có thể vẫn giữ công
việc cũ, nhưng dần dần cố gắng tìm việc làm tốt hơn. Trong thời gian hiện
tại, hãy quán từ bi, gửi tình thương đến tất cả những ai có thể bị ảnh hưởng
bởi công việc của bạn, và hãy giữ tâm thanh tịnh bằng cách duy trì chủ tâm
vào các thiện pháp.
Nếu chúng ta chấp nhận Chánh Mạng là mục đích của mình, thì ta có thể
dần dần tiến đến đó khi sự thực hành tâm linh của ta đã tiến bộ. Cuối cùng
là công việc của ta phải mang đến sự thoải mái tinh thần cho tất cả những
người liên quan, vì hành động của ta ảnh hưởng đến người khác. Tôi biết
một đôi vợ chồng kinh doanh trong gia đình bằng cách làm những món đồ
chơi bằng gỗ rất đẹp, đặc biệt rất an toàn cho trẻ em. Sau đó, họ phát triển
kinh doanh đến những cộng đồng khó khăn, tạo công ăn việc làm cho nhiều
người. Thay vì đòi hỏi người công nhân phải làm việc tại xưởng, họ cung
cấp vật liệu, huấn luyện tay nghề và cho phép công nhân được làm đồ chơi
tại nhà, trả công theo sản phẩm. Phương cách này cho phép người thợ có thể
tập trung cuộc sống quanh gia đình, và có thể làm việc hay nghỉ ngơi tùy ý.
Đôi khi người ta hỏi tôi, "Làm sao có thể tìm được nghề nghiệp theo chánh
mạng?" Vì từ mười hai tuổi đến giờ, tôi chỉ làm có một công việc là tu, tôi
không phải là người có thể giúp bạn chọn nghề hay cách tìm việc. Tuy nhiên
tôi có thể khẳng định như thế này: Phương cách để tìm Chánh Mạng cũng
giống như khi bạn bắt đầu một nhiệm vụ to lớn, mới mẻ nào. Đừng quan
trọng thái quá. Chỉ thực hiện từng bước cho đúng.
Chánh Niệm Về Chánh Mạng
Chấp nhận rằng công việc ta làm là một khía cạnh của việc thực hành tâm
linh thì không dễ dàng. Nhiều người tách bạch công việc họ làm ra khỏi đời
sống tâm linh của họ. Tuy nhiên, khi ngồi xuống gối thiền, quán sát những hành động trong quá khứ, chúng ta phải thừa nhận rằng công việc ta làm
chính là hành động của ta, ngay cả khi đó là theo lệnh chủ hay do công việc
đòi hỏi. Nói dối thì vẫn là nói dối, dầu ta được trả tiền để làm điều đó.
Chúng ta phải chịu trách nhiệm về những gì ta nói hay làm ngay trong kiếp
sống này hay trong tương lai. Vì thế chúng ta phải tuân giữ đạo đức trong
công việc làm cũng như đối với các hành động khác. Như với Chánh Ngữ
và Chánh Nghiệp, Chánh Mạng cũng đòi hỏi chúng ta phải luôn thanh lọc
hành động của mình, dầu là ở nhà hay ở sở làm.
Ngay cả khi công việc của chúng ta được coi như là Chánh Mạng, mỗi ngày
làm việc, ta cũng cần luôn quan tâm đến những vấn đề đạo đức khi chúng
phát sinh. Ta phải ý thức rõ ràng về năm giới và cẩn thận gìn giữ để đừng
bao giờ phạm giới. Những vấn đề đạo đức không nằm trong năm giới, đòi
hỏi chúng ta phải suy xét xem ta có thể chịu đựng được hậu quả hành động
của chúng không.
Khi sự thực hành thiền chánh niệm của ta đã tiến bộ nhiều, ta có thể trở nên
kiên nhẫn và bình tĩnh hơn đối với những hoàn cảnh mà trước đây ta không
thể chấp nhận, và ta có thể bằng lòng đối với bất cứ công việc chân chính
nào. Điều quan trọng nhất cần ghi nhớ là công việc làm không được ảnh
hưởng đến khả năng tiến bộ tâm linh của chúng ta. Khi chúng ta không gây
não hại cho bản thân bằng cách phạm giới hay tham gia vào những hoạt
động ảnh hưởng đến đạo đức, thì tâm ta sẽ được bình an, tự tại. Với tâm
bình an, tự tại, dĩ nhiên là ta có thể tiến bộ trên đường đạo. Khi đã dẹp được
các chướng ngại, ta chỉ cần bước tới.
Điều này có thể được so sánh với cách chúng ta sinh tồn. Khi đói, ta ăn. Khi
khát, ta uống. Ta mặc áo ấm khi trời lạnh. Ta phòng ngừa bệnh hoạn. Ta
tránh những hành động và hoàn cảnh đem lại nguy hiểm cho thân. Nhưng
chúng ta không rêu rao: "Tôi phải sống, tôi phải sống!" Nếu ta đã cung cấp
đủ các nhu cầu căn bản, thì thân tự động sẽ duy trì được cuộc sống. Tương
tự, trong Chánh Mạng, trách nhiệm duy nhất của chúng ta là tránh làm hại
cho bản thân và cho người, để ta có thể giữ được tâm bình an, thanh tịnh.
Với tâm tự tại, chúng ta có thể hành thiền và tiến bước trên con đường đến
hạnh phúc, theo dấu chân Phật.
169
Nếu muốn tiến nhanh hơn nữa, ta có thể tìm những việc làm hay nghề
nghiệp có thể vun trồng, giúp ích thêm cho sự tu tập của ta, và thúc đẩy ta
thêm tinh tấn. Một công việc như thế sẽ tạo ra những hoàn cảnh để thử
thách các khuyết điểm của ta, qua đó ta có thể tu sửa nhưng không tạo ra
quá nhiều áp lực và tránh đặt ra những vấn đề mà trước mắt chúng ta
không chuẩn bị để đối phó. Thí dụ, một người đang cố gắng để vun trồng
các trạng thái tâm định vi tế hơn, thì công việc thích hợp nhất là làm những
việc cố định, dễ dàng, không phải động não nhiều. Trái lại, người muốn
vun trồng kiên nhẫn có thể phát triển trong một công việc đòi hỏi phải đối
đầu với người khó tính hay hoàn cảnh khó khăn.
Trong lúc tọa thiền, hãy dành chút thời gian áp dụng phương pháp tự vấn
ba bậc như đã nói ở trên để đánh giá xem công việc hiện tại của ta góp phần
như thế nào vào Chánh Mạng. Từ đó, ta có thể quyết định xem công việc ấy
có cần sửa đổi gì thêm cho tốt hơn. Hãy tự hỏi xem hiện tại ta có thể làm gì
để công việc của ta trở nên ích lợi hơn cho bản thân và cho người.
Tóm Lược Về Chánh Mạng
Đây là những điểm chánh yếu cần ghi nhớ về Chánh Mạng:
• Phương tiện kiếm sống của chúng ta không được ảnh hưởng xấu đến sự
phát triển tâm linh của ta.
• Chúng ta có thể đánh giá xem một nghề nghiệp có được coi là chánh mạng
không bằng phương pháp khảo sát ba cấp bậc.
• Ở bậc đầu tiên, ta xét xem nghề nghiệp đó tự nó có tai hại cho người hay
cho bản thân không.
• Ở bậc thứ hai, ta xét xem công việc đó có khiến ta phải phạm vào một
trong năm giới luật không.
• Cuối cùng, ta xét xem các yếu tố khác liên quan đến công việc có làm cho
tâm khó an tịnh không.
• Tâm từ bi có thể đem lại ảnh hưởng tốt cho một hoàn cảnh công việc khó
khăn. • Nếu ta không chủ tâm làm hại ai, tâm ta sẽ không bị uế nhiễm bởi những
hậu quả tiêu cực của công việc.
• Chánh Mạng là mục tiêu tối hậu phải đạt được khi công phu tu tập của ta
đã tiến triển. CHÁNH TINH TẤN (BƯỚC 6)
Chúng ta chọn lựa giữa cái thiện và cái ác trong từng giây phút sống. Chúng
ta không phải là những nạn nhân khốn khổ, thúc thủ trước số mệnh. Chúng
ta không phải là những con rối được điều khiển bởi những quyền lực nào
đó, và những gì xảy ra cho chúng ta cũng không phải do tiền định. Ngay
giây phút này chúng ta chọn lựa hành động, rồi giây phút kế tiếp ta phải
nhận lãnh kết quả của sự lựa chọn đó, cùng với bất cứ ảnh hưởng nào còn
lại của những sự chọn lựa trong quá khứ. Một sự khéo chọn trong giây phút
này sẽ tạo nên một môi trường tâm linh tốt đẹp cho hỷ lạc trong giây phút
kế tiếp. Nếu sự chọn lựa trong giây phút vừa qua khá trong sạch và thanh
tịnh, thì giây phút hiện tại cũng sẽ được như thế. Với hàng tỷ của những
giây phút khá trong sạch, chúng ta sẽ có được những giây phút của hỷ lạc.
Với sự phát triển của những thói quen tâm linh cao thượng, từ giây phút
này qua giây phút khác, những giây phút này sẽ tích lũy để tạo nên những
giây phút hỷ lạc dài lâu hơn. Cuộc sống của chúng ta được tạo dựng từ
những sự chọn lựa nhỏ nhặt này, hằng tỷ sự chọn lựa như thế xảy ra trong
giây phút.
Nhưng những tinh tế này của tâm không phải là nơi để ta bắt đầu thực tập.
Ta phải bắt đầu ở nơi ta có thể thấy rõ ràng, qua các hành động bên ngoài.
Trước hết, hãy giữ năm giới và dừng lại những hành động nguy hại đến sự
tiến bộ tâm linh. Một khi tâm không còn bị xáo trộn bởi ảnh hưởng của các
bất thiện pháp, ta sẽ có thể dễ dàng thấy được những gì đang xảy ra trong
tâm. Lúc đó ta có thể đủ thong dong để nhìn thấy được dòng tư tưởng của
mình. Sau này, khi ta rèn luyện được khả năng có thể nhìn thấy tâm chuyển
động như thế nào, ta có thể thấy những giây phút tâm phát sinh, dâng trào,
và rồi tàn lụi. Tuy nhiên để bắt đầu, chỉ cần chánh niệm về khuynh hướng
chung của các dòng tư tưởng khi chúng phát sinh là đủ.
Với ý thức đó, chúng ta có thể sử dụng Chánh Tinh Tấn để tạo ra những lựa
chọn mới. Đức Phật khuyên tất cả chúng ta nên chọn các tâm thiện để thay
cho các tâm bất thiện và vun trồng các tâm thiện trong từng giây phút, cho
đến khi các tâm bất thiện không còn xuất hiện nữa. Theo như Đức Phật dạy,
172
chúng ta thực hiện điều đó bằng cách luôn tự thúc giục, "tinh tấn, tạo ra
năng lực, và khơi dậy tâm." (D 22)
Trong bước thứ sáu của Bát Chánh Đạo, Chánh Tinh Tấn, Đức Phật đã giải
thích một cách cụ thể làm thế nào để điều khiển nỗ lực của chúng ta, phân
chia quy trình đó thành ra bốn phần. Đầu tiên, với sự quyết tâm và năng lực
mạnh mẽ, chúng ta làm bất cứ điều gì có thể để ngăn chặn sự phát khởi của
các tâm bất thiện, như là hờn giận, ghen tỵ, hay tham. Tuy nhiên vì ta chưa
giác ngộ, một số các tâm tiêu cực vẫn sẽ len lỏi vào, không kể ta cố gắng đến
mức nào. Sau đó ta sẽ nỗ lực lần thứ hai, thúc giục bản thân phải chế ngự
bất cứ tâm bất thiện nào đã phát sinh. Ba là, chúng ta thay thế các tâm bất
thiện với các tâm thiện, như là những tư tưởng thương yêu, độ lượng, hay
những tình cảm của lòng bi mẫn. Cuối cùng, chúng ta khơi dậy lòng tinh tấn
để vun trồng sâu xa hơn nữa các tâm thiện. Ta càng tinh tấn, thì kết quả tất
nhiên là tâm ta càng trở nên trong sáng, bớt khổ đau, và ta càng cảm thấy an
lạc, tự tại hơn.
Muốn thành tựu được bất cứ điều gì cũng đòi hỏi sự nỗ lực. Điều này đúng
đối với những sinh hoạt đời thường như là sơn nhà, kinh doanh buôn bán;
đời sống tâm linh còn đòi hỏi ta nhiều nỗ lực tinh tấn hơn nữa. Ở từng bước
của Bát Chánh Đạo luôn tiềm ẩn sự có mặt của Chánh Tinh Tấn. Khi chúng
ta thực hành lời dạy của Đức Phật về bốn loại tinh tấn, khiến tâm thiện toàn,
trong sáng và có khả năng hiểu biết, là ta đã đạt được Chánh Kiến về con
đường đạo. Rồi khi ta áp dụng bốn tinh tấn này vào ý nghĩ, lời nói, và hành
động, ta sẽ đạt được kết quả trong Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, và Chánh
Nghiệp. Và khi ta đem bốn tinh tấn này ứng dụng vào các quy luật đạo đức
trong công việc, là ta đạt được Chánh Mạng. Cuối cùng khi ta tinh tấn trong
việc thực hành thiền, là ta có được Chánh Niệm và Chánh Định. Chúng ta có
thể kết luận một cách chính xác rằng Chánh Tinh Tấn là năng lượng cần có
để thúc đẩy sự thành công của chúng ta trên từng bước của Bát Chánh Đạo.
Thật ra, có được một sự nỗ lực mạnh mẽ để tự kìm chế bản thân là đã thắng
được nửa chiến trận. Không có sự nỗ lực mạnh mẽ này để đạt được trạng
thái tâm thiện toàn, chúng ta sẽ khó thể tiến xa trên con đường đi đến hạnh
phúc tối thượng.
Chúng ta rất muốn tin rằng chỉ cần chú tâm là có thể đi trọn con đường đạo.
Chắc chắn là sự chú tâm nghe có vẻ dễ thực hiện hơn là phải nỗ lực tinh tấn. Tiếc thay chỉ có sự chú tâm bình thường, đơn giản thì không đủ. Chúng ta
cần phải rèn luyện sự chú tâm đầy chánh niệm -cả trong khi ta tọa thiền hay
tham gia vào các sự thực hành tâm linh khác và khi ta sinh hoạt trong cuộc
sống hằng ngày. Đức Phật đã biết rằng chúng ta cần có sự nỗ lực đầy chánh
niệm để diệt bỏ các tâm tiêu cực và vun trồng tâm tích cực trong mọi khía
cạnh của đời sống, nếu không tâm ta sẽ chẳng bao giờ được an tịnh để ta có
thể tiến xa hơn trên con đường đạo.
Đến lúc này, bạn có thể nghĩ, "Tôi biết là không dễ mà. Sao nghe khó khăn
quá!" Dĩ nhiên, bạn nói đúng. Chắc chắn là việc để các tâm tiêu cực nằm yên
trong tâm thức ta còn dễ hơn là buông bỏ chúng. Tham, sân, si, dễ duôi, cao
ngạo, hãnh tiến, cay độc, cố chấp, sợ hãi, có thể đã trở thành những thói
quen hằng ngày của chúng ta. Chúng ta không muốn nỗ lực buông bỏ
chúng. Tuy nhiên, ta vẫn muốn được an nhiên, tự tại và đạt được mục đích
tâm linh của mình.
Chánh Tinh Tấn là lòng kiên trì để khiến cho cuộc hành trình trên con
đường đạo có thể khả thi. Đó là sự can đảm để nói: "Phải dứt bỏ những thói
xấu của ý nghĩ và hành động, ngay bây giờ!". Đó là trí tuệ để thấy rằng phải
vun trồng ý nghĩ, lời nói và hành động tích cực, thiện toàn, thì ta mới có thể
hy vọng đạt được hỷ lạc, hạnh phúc.
Mười Kiết Sử
Để buông bỏ được những thói quen của tâm uế nhiễm, chúng ta cần phải
nhận diện được chúng. Nói chung, những gì chúng ta muốn trừ diệt là bất
cứ tâm sở nào ngăn cản tâm được tự tại, an nhiên. Nếu muốn nhổ cỏ dại
trong một khu vườn, ta phải biết phân biệt giữa cỏ dại và bông hoa. Với tâm
cũng thế. Lúc đầu, chúng ta sẽ cảm thấy khu vườn tâm đầy cỏ dại. Chúng ta
nhận diện và nhổ bỏ các tâm sở bất thiện như là sân hận, và thay thế chúng
với các tâm sở thiện toàn, hữu ích, như là tình thương yêu.
Nếu dành chút thời gian để suy nghĩ về vấn đề này, ta có thể liệt kê một
danh sách của các loại cỏ dại tâm linh. Ta cũng biết khi đang trong trạng thái
giận dữ, sân hận, ganh tỵ, hay ham muốn, ta không thể cùng lúc cảm thấy
hạnh phúc. Bên dưới các tâm sở tiêu cực này, dầu chúng biểu hiện ở bên ngoài như thế nào, tất cả đều đến từ các cội rễ căn bản: tham, sân (mặt khác
của tham), và si (hay vô minh).
Tham, cùng với vô minh, là gốc của mọi loại cỏ dại tâm linh. Tham thể hiện
trong mười uế nhiễm tâm linh sâu xa mãnh liệt được gọi là "kiết sử."
Chúng khiến ta có tri kiến lệch lạc, ảnh hưởng đến sự suy nghĩ của ta, cũng
giống như dòng kênh ảnh hưởng đến lưu lượng nước chảy. Các kiết sử
thường mang đến cho ta khổ đau. Không phải một thời thơ ấu khó nhọc
hay quá khứ đau buồn nào tạo ra các kiết sử, mà chúng đã theo ta từ rất
nhiều kiếp quá khứ. Chúng là nhân của mỗi kiếp sống và những khổ đau
trong kiếp sống đó. Sự có mặt của các kiết sử bảo đảm ta còn phải luân hồi
nhiều kiếp nữa, và ngăn cản ta được giác ngộ. Kiếp sống này cũng do các
kiết sử tạo nên.
Chúng tôi thường liệt kê mười kiết sử để phản ảnh những giai đoạn ở đó
chúng phải được chế ngự trên con đường đến giác ngộ.
Các kiết sử cần được chế ngự để đạt được giai đoạn đầu của giác ngộ:
• tin vào sự hiện hữu của một cái ngã hay linh hồn thường hằng (thân kiến)
• nghi ngờ giáo lý của Đức Phật (nghi)
• tin tưởng rằng ta có thể chấm dứt khổ đau bằng cách chỉ tuân theo các luật
lệ và nghi lễ (giới cấm thủ)
Các kiết sử cần được chế ngự để đạt đến giai đoạn thứ hai và thứ ba của giác
ngộ:
• lòng ham muốn dục lạc (tham dục)
• sân
Các kiết sử cần được chế ngự để đạt đến giai đoạn thứ tư của giác ngộ:
• dục tham vi tế muốn được hiện hữu trong sắc giới (sắc ái) • dục tham vi tế muốn hiện hữu trong vô sắc giới (vô sắc ái)
• tự phụ, hay nhận thức tiềm ẩn về ngã (mạn)
• trạo hối
• vô minh
Tâm người chưa giác ngộ luôn tràn đầy các kiết sử này, ít nhất là trong trạng
thái ngủ ngầm. Thỉnh thoảng một trong các kiết sử này sẽ phát khởi trong
tâm, khiến cho ta có cái nhìn rất sai lạc về thực tại, và phải khổ đau. Mỗi sát
na tâm đều hàm chứa ít nhất kiết sử của dục tham và vô minh vi tế, nhưng
các kiết sử khác đôi khi cũng xuất hiện chung với chúng.
Khi công phu tu hành của ta dần tiến bộ, ta có thể làm suy yếu các kiết sử
này, để rồi cuối cùng chế ngự và hủy diệt được chúng ở từng giai đoạn thiền
định. Sau mỗi giai đoạn chúng ta đạt đến một tầng cao hơn của giác ngộ.
Khi chế ngự được ba kiết sử đầu tiên, hành giả đạt được sơ thiền. Làm suy
yếu được hai kiết sử kế tiếp, hành giả đạt đến nhị thiền. Tuy nhiên dư phần
của dục tham và sân vi tế hơn tất cả những gì đã được diệt bỏ. Khi hành giả
cuối cùng vượt qua được các dư phần này, thì đạt đến tam thiền. Năm kiết
sử cuối cùng rất vi tế. Khi diệt trừ được chúng, hành giả đạt đến tầng thiền
thứ tư và là tầng cuối cùng của giác ngộ (final stage of enlightenment).
Thân Kiến
Kiết sử đầu tiên, thân kiến là tin vào một cái ngã hay linh hồn thường hằng,
khiến ta tin rằng các uẩn phần nào có liên hệ đến một cái ngã hay linh hồn.
Kiết sử này có thể biểu hiện qua lòng tin rằng thân, thọ, tưởng, hành, và
thức là một và cũng là linh hồn, và rằng chúng giống nhau. Cũng có khi kiết
sử này tạo ra niềm tin rằng các uẫn có linh hồn (hay linh hồn sở hữu các uẫn
này.) Chúng ta có thể cũng tin rằng linh hồn tạo ra sự kết hợp của các uẫn
(hay các uẫn đã tạo ra linh hồn). Cuối cùng, kiết sử này cũng có thể biểu
hiện qua lòng tin rằng linh hồn hay ngã là một, và thân, thọ, tưởng, hành, và
thức là một cái gì hoàn toàn tách biệt, không liên quan gì đến linh hồn.
176
Nhưng kiết sử này thể hiện thông thường nhất là qua niềm tin rằng chúng ta
có một linh hồn trong kiếp sống trước, và linh hồn đó đã đến kiếp sống này,
đang sở hữu các uẫn, và nó sẽ rời bỏ thân này để đi đến một sự hiện hữu
khác sau khi ta chết. Nói tóm lại, niềm tin này dựa vào ý nghĩ rằng có một
linh hồn thường hằng, bất biến, và bất diệt.
Nghi
Kiết sử thứ hai, nghi, đặc biệt muốn nói đến lòng nghi hoặc rằng sự thực
hành giới, định, và tuệ theo giáo lý của Đức Phật sẽ mang đến hạnh phúc
lâu dài. Kiết sử nghi sẽ phát khởi khi ta lạc bước khỏi những gì ta thực sự
biết trong giờ phút hiện tại và dại dột nghĩ tưởng đến những vấn đề có
khuynh hướng khơi động tâm nghi hoặc. Ai cũng biết đến khả năng khơi
động và củng cố thêm kiết sử nghi của một số "vấn đề không thể nghĩ bàn".
Đó là những câu hỏi suy đoán về vũ trụ xuất hiện như thế nào, tại sao và
những vấn đề đại loại như thế.
Một số các đề tài đem lại lòng hoài nghi là những câu hỏi về quá khứ và
tương lai: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt trong thời
quá khứ? Những kiếp quá khứ của ta như thế nào? Có đời sống sau khi chết
hay không? Ta có bị đoạn diệt không? Có thiên đàng hay địa ngục không?
Ta có tái sinh không? Đời sống mới sẽ như thế nào?"
Hiện tại cũng có thể đem đến cho chúng ta nhiều nghi hoặc: "Ta có hiện
hữu? Hay ta không hiện hữu? Ta có bình thường không? Ta là ai? Ta từ đâu
đến?"
Một số những suy tư tương tự cũng thường phát khởi trong tâm, khiến ta
sinh lòng nghi hoặc: "Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã" hay "Do tự
mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã? Chính tự ngã của ta nói, cảm giác,
hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã
ấy của ta là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ
vĩnh viễn tồn tại." (M 2)
Tất cả các câu hỏi và suy tư này thường đưa chúng ta đi sâu vào những ngõ
tối, sâu dầy lòng nghi hoặc, hoang mang. Chìm đắm trong đó sẽ ngăn trở
177
chúng ta chú tâm chánh niệm đến những gì thực sự quan trọng. Những loại
câu hỏi này không bao giờ có thể được trả lời một cách thỏa đáng mà chỉ
làm chúng ta phân tâm. Nhưng cho đến khi chúng ta đạt được sơ thiền,
chúng vẫn còn lảng vảng trong tâm. Đức Phật khuyên chúng ta chỉ nên
quán sát những câu hỏi này khi chúng phát sinh và hoại diệt. Đừng lo lắng
hay chạy đuổi theo chúng. Ngay trong hiện tại, cứ tiếp tục với những cố
gắng tìm hiểu, dựa trên những gì ta có thể biết được qua kinh nghiệm bản
thân, chứ không chỉ bằng lý luận.
Hãy có lòng tin vào con đường đưa đến hạnh phúc của Phật giáo, vì đã có
bao người tin theo và đạt được giác ngộ. Tín tâm, theo thuật ngữ Phật giáo,
có nghĩa là lòng tin -dựa trên những gì ta đã chứng kiến và những gì ta nghĩ
là đúng dựa trên kinh nghiệm đó. Thí dụ, ta có thể tự quan sát rằng bất cứ
khi nào tâm ta đầy các tâm sở bất thiện, thì ta cảm thấy đau khổ. Ngược lại,
khi nào tâm ta tràn đầy các tâm sở thiện, thì ta cảm thấy hạnh phúc. Khi tất
cả các tâm sở này thay đổi, ta nhận ra được trạng thái vô thường của chúng.
Đây là sự thật. Ta có thể tin tưởng như thế. Lòng tin này giúp ta tiến bước
cho đến khi ta đạt được nhận thức sâu xa về chân lý khiến tâm ta không còn
chỗ cho kiết sử nghi.
Giới Cấm Thủ
Kiết sử thứ ba là một động thái đầy bản năng của tâm để tìm các nguồn hỗ
trợ từ bên ngoài, hơn là từ sự thanh lọc nội tâm. Điều đó thể hiện qua sự tin
chấp vào hiệu lực của những luật lệ, nghi lễ sẽ đem đến giác ngộ. Từ đó, ta
nghĩ rằng hạnh phúc tuyệt đối có thể đạt được bằng cách thực hành các nghi
lễ, tham gia vào các sự tế tụng, thiết lập các đàn tràng, cúng dường cho Phật
hay cho các vị thần thánh, tụng kinh, cầu nguyện, và niệm chú, hơn là hành
thiền và áp dụng những lời dạy của Đức Phật vào cuộc sống hằng ngày. Sự
tin chấp này làm tổn phí thời gian và cản trở khả năng nhận biết chân lý của
ta. Do đó ta tự làm trì trệ sự tiến bộ của mình trên con đường tâm linh.
Dục Tham
Dục tham kiết sử là lòng ham muốn các dục lạc. Nó bao gồm lòng ham
muốn đối với bất cứ cảnh tượng, âm thanh, mùi vị, và sự xúc chạm dễ chịu nào, kể cả thân xác này. Nó cũng bao gồm tất cả những tư tưởng, ý nghĩ,
quan niệm, và ý kiến mà mình ưa thích.
Sân
Kiết sử sân là sự ghét, ác cảm đối với bất cứ những gì khó chịu, bất cứ
những gì mà ta không thích.
Ước Muốn Được Hiện Hữu
Ước muốn vi tế để được hiện hữu trong sắc giới hay vô sắc, lòng tự cao, và
những kiết sử của trạo hối và vô minh là những hình thức vi tế nhất của
lòng tham dục. Năm kiết sử này hợp thành những chướng ngại cuối cùng
của sự giác ngộ viên mãn. Lòng ham muốn vi tế để được hiện hữu trong sắc
giới hay vô sắc ám chỉ đến ý muốn được sống, được hiện hữu dưới hình
thức nào đó, bất cứ hình thức nào.
Ước muốn được hiện hữu "trong" thân xác vật lý này biến mất khi ta đoạn
trừ được lòng tham dục ở mức độ thô lậu hơn. Tuy nhiên, ước muốn được
hiện hữu trong một hình thức tốt đẹp hơn, "siêu trần" hơn vẫn còn đó, như
là ước muốn được hiện hữu trong những thân xác như thần tiên. Người ta
coi đó là hình tướng của các vị trời trên cao. Ngay cả khi không được có
thân, ta vẫn ước muốn được hiện hữu. Người ta tin đó là sự hiện hữu vị lai
của các bậc đã đạt các quả vị thiền định cao nhất; họ đã trở thành các vị trời
cao cả nhất.
Mạn
Mạn kiết sử ám chỉ đến đặc tính coi mình hiện hữu như là một ai đó. Kiết
sử này là sự cảm nhận từng giây phút về "cái tôi" để từ đó sinh ra quá nhiều
hiểu lầm, hoang mang. Tâm luôn nghĩ "Ta..., Ta..., Ta...," mà không hiểu
rằng sự cảm nhận về "cái tôi" cũng chỉ là một trạng thái tâm vô thường và
vô ngã trong quá trình tư duy. Thí dụ, tâm có thể nói, "Tôi nghe âm thanh,"
nhưng với trí tuệ là chân lý, là sự hiểu biết rằng chỉ có âm thanh.
179
Trạo Hối
Kiết sử trạo hối (trạo cử và lo lắng) rất vi tế, không giống như chướng ngại
có cùng tên. Lo lắng là tâm trạng bức rứt do tác động của các lậu hoặc vi tế
nhất còn sót lại trong tâm. Lo lắng đưa đến trạo cử, khiến tâm không thể an
trụ vào điều gì. Kiết sử trạo hối khiến tâm lay động giống như một tấm biển
treo trước gió, vì thế nó không thể dừng lại để nhận biết sự thật về tính vô
thường của bản thân. Tâm dường như luôn lo lắng vì sợ không được hiện
hữu. Kiết sử này sẽ không bao giờ hoàn toàn mất đi cho đến khi hành giả
đạt được Giác Ngộ viên mãn.
Vô Minh
Kiết sử vô minh ám chỉ sự mù quáng triền miên đối với bản chất của khổ,
nguồn gốc của khổ, khả năng có thể đoạn diệt của khổ và phương cách để
đoạn diệt khổ. Nói cách khác là vô minh về Tứ Diệu Đế.
Mười kiết sử này mạnh mẽ không thể tưởng được. Khi ta cảm nhận được sự
có mặt của chúng, thì chúng đã sùng sục nóng như một nồi nước sôi, lúc đó
ta cần nhiều nỗ lực để làm chúng nguội đi. Tại sao chúng được gọi là kiết
sử? Vì giống như những sợi dây xích sắt cứng rắn chúng trói buộc ta vào
khổ đau trong kiếp sống này và vào những sự tái sinh luân hồi không dừng
dứt trong tương lai.
Chức năng của các sợi dây xích này rất vi tế, lắc léo, nhưng với tâm chánh
niệm, chúng ta có thể biết nó vận hành như thế nào. Hãy thử quán sát kiết
sử thứ tư: dục tham. Ta biết mình có các giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và tâm. Chúng ta cũng biết các căn này tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Vì sự
tiếp xúc không dừng giữa các căn và các trần, dục lạc có thể phát sinh, rồi
lòng ham muốn hưởng thụ các dục lạc này phát khởi trong ta. Với tâm
chánh niệm, ta có thể cảm nhận được sự phát khởi của ái dục. Nếu, vì lý do
gì đó, ái dục không phát sinh, thì ta cũng nhận biết được sự thiếu vắng lòng
ái dục.
Ái dục khiến ta muốn thứ này hay thứ kia, thích lúc này hay lúc khác, yêu
người này hay người kia - hay môi trường, cảnh vật, âm thanh, mùi hương,
vị nếm, xúc chạm, ý nghĩ. Vì tất cả những sự thích hay không thích này, tâm
180
ta luôn hoặc là bám víu hoặc là ghét bỏ. Đáng nói hơn cả là chúng khiến ta
luyến ái cuộc sống này, bám víu vào đó hay chán ghét nó. Do đó, lòng ham
muốn đối với các dục lạc làm tăng thêm sức mạnh cho sợi dây xích trói buộc
ta vào vòng luân hồi không dừng dứt.
Bất cứ kiết sử nào cũng có thể phát khởi ngay khi có sự tiếp xúc. Hãy xét về
kiết sử thân kiến. Khi có sự tiếp xúc, một cảm thọ phát sinh mà có thể là dễ
chịu, khó chịu, hay trung tính. Ngay lúc đó, ý thức về một cái ngã thường
hằng phát sinh: Đó là 'cái tôi' khiến cho 'tự ngã' cảm nhận. Và 'cái tôi' này ở
trong 'tự ngã' một cách thường hằng, bất biến và bền chắc. Thân kiến kiết
sử trói buộc ta vào việc tìm kiếm các đối tượng dễ chịu và chống đối các đối
tượng khó chịu. "Cái tôi" không hạnh phúc. Nó không thể chỉ tiếp xúc với
các đối tượng dễ chịu, theo như ý nó muốn. Cảnh trần bao bọc quanh ta, và
không phải tất cả chúng đều dễ chịu.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể thực sự thấy rằng một cảm thọ phát sinh là
vô thường -nếu ta có thể ý thức về sự phát khởi và hoại diệt của nó- ta sẽ
không bám víu vào đó. Ta sẽ bước tới. Nếu ta có thể nhận thức được rằng
bản chất của sự vật là vô thường, để buông xả khi chúng hoại diệt, thì tâm ta
sẽ thoát được khỏi sự căng thẳng của việc phải luôn tìm kiếm các đối tượng
đem lại sự dễ chịu. Nếu ta có thể duy trì chánh niệm vế tất cả các pháp sinh
khởi, biết rằng chúng sẽ qua đi, thì thân kiến kiết sử sẽ không có mặt.
Hãy xét về một kiết sử khác: giới cấm thủ. Có lẽ bạn có một nghi lễ là mỗi
sáng phải đốt đèn cầy và cầu nguyện để được thoát khổ. Mỗi sáng thức dậy,
bạn nghĩ, "A, tôi phải thực hiện nghi lễ của mình." Nhưng bạn không cố
gắng để giảm thiểu tâm uế nhiễm bằng cách vun trồng trí tuệ, thiền định,
hay các thiện pháp như là tình thương yêu. Thay vào đó, bạn bám víu vào
niềm tin rằng thực hiện nghi lễ này mỗi buổi sáng chắc chắn sẽ mang đến
hạnh phúc. Làm thế thì bao năm sau, dầu bạn chẳng bao giờ bỏ qua một
ngày thiếu 'nghi lễ', thì bạn cũng không đến gần hơn với Giác Ngộ.
Khi quán sát tâm với chánh niệm, ta có thể thấy các kiết sử phát sinh khi các
giác quan tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cho đến khi ta đạt được giác ngộ,
mỗi lần một trong sáu giác quan này tiếp xúc với đối tượng của chúng, các
kiết sử sẽ phát khởi. Chánh niệm có thể giúp ta phân biệt giữa các giác quan, đối tượng của giác quan, và các kiết sử khi chúng phát khởi. Khi các kiết sử
xuất hiện, ta cần sử dụng sự tinh tấn đầy chánh niệm để chế ngự chúng. Khi
chúng hoại diệt, ta cũng cần chánh niệm về trạng thái này, và khi chúng
không có mặt, ta cũng phải nhận thức về trạng thái đó nữa.
Năm Triền Cái
Từ mười kiết sử đó sinh ra một số các trạng thái tâm vô cùng bất thiện, cản
trở ta tiến bộ trong việc hành thiền hay làm được điều gì tốt đẹp trong cuộc
đời. Chúng ta gọi các trạng thái tâm đó là các chướng ngại (triền cái). Nếu
kiết sử giống như là ngọn gió, thì chướng ngại là trận cuồng phong. Chướng
ngại thật sự gây khó khăn cho các hành giả mới bắt đầu tu thiền.
Năm chướng ngại đó là tham, sân, hôn trầm thùy miên, trạo hối và nghi.
Chúng phát sinh từ các kiết sử trên tùy theo điều kiện, bùng phát lên giống
như những ngọn lửa từ các đống than rực nóng. Nhưng, cũng giống như các
ngọn lửa, chướng ngại có thể được dập tắt với Chánh Tinh Tấn, nếu áp
dụng đúng cách.
Các chướng ngại có thể được ngăn chặn bằng thiền định hay bằng sự kiên
trì chánh niệm. Chánh niệm hay định tĩnh sẽ làm hạ nhiệt các chướng ngại
và chế ngự chúng khi chúng phát khởi. Khi tâm không chất chứa bất kỳ
chướng ngại nào, tâm tự động sẽ trở nên sáng suốt, thanh tịnh. Nhờ đó, tâm
dễ nẩy sinh các trạng thái tâm thiện, đưa đến thiền định, đến khả năng nhận
biết rõ ràng bản chất vô thường của vạn pháp. Bất cứ ai trong chúng ta cũng
có thể loại trừ các chướng ngại này, ít nhất là một cách tạm thời. Bao giờ mà
mười kiết sử cốt yếu vẫn còn hiện hữu thì các chướng ngại vẫn còn có thể
quay trở lại để quấy nhiễu tâm, không lúc này thì lúc khác. Nhưng với sự
thực hành bốn loại Chánh Tinh Tấn (tứ chánh cần), ta có thể giảm bớt và
làm ngắn đi những sự xuất hiện của chúng. Khi ta trở nên nhuần nhuyễn
hơn trong việc áp dụng Chánh Tinh Tấn, các chướng ngại không thể gây
nhiều khó khăn cho việc hành thiền hay trong cuộc sống hằng ngày của ta.
Tham
Chướng ngại tham hay ái dục là ước muốn được chiếm hữu. Khi hành thiền,
chướng ngại này xuất hiện như những ham muốn về đồ ăn hay vật chất mà
ta muốn sở hữu, hay dục vọng. Những tư tưởng đó làm mất rất nhiều thời
gian hành thiền của ta, và nếu ta để bị lôi cuốn theo chúng, thì điều đó có
thể trở thành một thói quen khó bỏ.
Cái bẫy của lòng tham này thì không khác lắm với phương cách bẫy khỉ ở
một số nước. Người đặt bẫy sẽ vạt một khoảng nhỏ ngang đầu trái dừa và
đổ nước dừa ra. Sau đó anh ta cắt một ít thịt dừa và đặt chúng dưới đáy trái
dừa, rồi cột chặt trái dừa vào cây. Con mồi, ở đây là các chú khỉ, sẽ thò tay
vào trong cái lỗ nhỏ trên đầu trái dừa để lấy mấy miếng dừa. Nhưng bàn tay
nắm đầy dừa sẽ không thể đi lọt qua được cái lỗ nhỏ này. Khi người đặt bẫy
trở lại, anh ta sẽ dễ dàng bắt được chú khỉ tham ăn, quá bám víu vào mấy
miếng dừa trong tay đến nỗi không thể buông chúng ra để thoát thân.
Chúng ta cảm thấy thương hại cho chú khỉ. Nhưng tất cả chúng ta đều đã
từng bị mắc bẫy của lòng tham như thế.
Sân
Sân chướng ngại, bao gồm cả sự hằn thù, giận dữ, và hờn trách, đều bắt
nguồn từ lòng muốn trốn tránh những gì mà ta không ưa thích. Sân được so
sánh với nước sôi. Khi nước đang sôi, chúng ta không thể nhìn thấy đáy nồi,
và nếu chạm tay vào thì không khỏi bị phỏng. Nói cách khác, sân sẽ đốt
cháy bản thân chúng ta chứ không phải người khiến ta sân, và ta cũng sẽ
khó tìm được nguyên nhân đích thực ('thấy được đáy nồi') của cảm giác
nóng nảy khi sân hận đang sôi sục bên trong ta. Do sân, nhận định của ta
cũng méo mó và tâm an lạc bị hủy diệt. Nó giống như một loại bệnh khiến
cho các món ăn ngon cũng trở thành vô vị để ta không thể hưởng thụ được.
Tương tự, khi tâm tràn đầy lòng thù hằn, ta không thể cảm nhận được các
đức tính cao đẹp của những người ở quanh ta.
183
Hôn Trầm Thụy Miên
Trong lúc tọa thiền, hành giả thường phải tranh đấu với tâm tham, sân. Khi
các chướng ngại này đã được chế ngự, hành giả vừa được có đôi giây phút
bình an, thì sau đó lại cảm thấy uể oải, buồn ngủ (thụy miên, hôn trầm).
Chướng ngại này phát sinh từ kiết sử vô minh. Thụy miên là trạng thái tâm
ù lì, đờ đẫn, trong khi hôn trầm là một trạng thái thân vật lý uể oải, buồn
ngủ. Khi cảm thấy uể oải, buồn ngủ, ta không thể chú tâm hay làm được
công việc gì. Cũng không thể thực hành chánh niệm hay tham thiền.
Chướng ngại hôn trầm thụy miên được so sánh với tình trạng bị tù tội. Khi
bị giam giữ, ta không thể biết việc gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài. Cũng
thế, khi ta để thân tâm uể oải, muốn ngủ, ta không biết điều gì đang xảy ra
chung quanh hay bên trong ta.
Trạo Hối
Lo lắng khiến ta không thể yên ổn (trạo cử), vì thế hai trạng thái tâm này đi
chung với nhau. Cả hai (lo lắng và trạo cử) đều khiến tâm không có sự suy
nghĩ sáng suốt hay sự hiểu biết, trí tuệ sáng suốt. Chướng ngại này được so
sánh với sự bị nô lệ. Kẻ nô lệ làm việc vất vả để phục vụ người chủ độc ác
của mình, luôn phải lo lắng, căng thẳng vì sợ bị hành phạt. Càng căng
thẳng, bức rứt, thì họ càng khổ sở. Họ chẳng bao giờ được hưởng tâm an lạc.
Nghi Hoặc
Chướng ngại nghi hoặc khiến hành giả bấn loạn, không biết phương hướng
hay ngã rẽ nào để theo. Tâm nghi phát sinh do suy nghĩ về những điều
khác hơn là những gì mà ta có thể quan sát xảy ra ngay trong giây phút hiện
tại. Nghi được so sánh với người đi trong sa mạc mà không có bản đồ hay
phương hướng gì. Khi đi qua sa mạc, ta dễ bị lúng túng vì rất khó phân biệt
các cảnh quang. Bất cứ phương hướng nào cũng có thể là sai hay đúng.
Cũng thế, khi khởi tâm nghi ngờ về chân lý trong những điều Phật dạy,
hành giả sẽ trở nên hoang mang, khó thể quyết định phải làm gì.
Người đó sẽ suy nghĩ, "Người ta có thực sự được giác ngộ? Không biết
phương cách tu này có thực sự hữu ích? Ta tu hành có đúng không? Người
khác hình như tu tốt hơn. Có thể ta phải làm cái gì đó khác đi, hay thử tìm một vị thầy khác, hay khám phá điều gì đó hoàn toàn khác hẳn." Những
mối nghi này làm tàn lụi nhiệt tâm, khiến ta hoang mang, không thể phán
xét điều gì rõ ràng.
Tứ Chánh Cần
Giờ chúng ta có thể xét xem phải đối phó với những thứ cỏ dại triền cái và
kiết sử trong tâm như thế nào, để vun trồng các trạng thái tâm tích cực hơn.
Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta một phương cách để rèn luyện tâm được như
thế. Ta cần áp dụng Chánh Tinh Tấn để:
• ngăn chặn các trạng thái tâm tiêu cực
• chế ngự các trạng thái tâm tiêu cực
• vun trồng các trạng thái tâm tích cực
• duy trì các trạng thái tâm tích cực
Ngăn Chặn Các Trạng Thái Tâm Tiêu Cực
Cách đề phòng đầu tiên là ngăn chặn các trạng thái tâm tiêu cực hay các bất
thiện pháp không để chúng phát sinh. Bằng cách nào? Bằng cách duy trì tâm
chánh niệm không ngừng nghỉ. Chỉ có vậy.
Chánh niệm đòi hỏi sự thực hành, và sự thực hành đòi hỏi nỗ lực. Có năm
điểm trong việc rèn luyện tâm chánh niệm: giới, chánh niệm, trí tuệ, lòng
kiên nhẫn, và tinh tấn. Tinh tấn được áp dụng với từng điểm nêu trên. Ta
bắt đầu với giới luật (đạo đức tốt), và việc này đòi hỏi phải có sự nỗ lực, như
ta đã biết trong các chương trước về các bước trong Bát Chánh Đạo. Với giới
luật làm nền tảng vững chắc, ta phải nỗ lực để thực hành bất cứ chánh niệm
nào mà ta có thể nhớ. Một khía cạnh của chánh niệm là "nhớ," và điều này
cần phải được duy trì luôn luôn. Lần này đến lần khác, ta cần luôn nhớ
hướng tâm đến giờ phút hiện tại. Dần dần ta sẽ tích lũy được nhiều giây
phút chánh niệm. Không có giây phút chánh niệm nào là giây phút bị lãng
phí. Sau đó ta sử dụng tri kiến của mình, đem sự hiểu biết ngày càng sâu sắc vào
các nỗ lực của mình. Ta dừng lại và suy nghĩ, "Vấn đề này lần trước đã xảy
ra như thế nào?" Cảm nhận được hậu quả của những sai lầm trong quá khứ
khiến ta có nhiều động lực hơn để tránh chúng xảy ra trong tương lai. Quán
tưởng đến những trải nghiệm của mình để không lặp lại các sai lầm đó.
Bằng cách đó, ta nhanh chóng sửa đổi được cách cư xử của mình. Khi đã có
thể nhìn thực tại sâu sắc hơn, ta sẽ luôn tự nhắc nhở mình về những gì là
mục đích trước mắt và không để một giây phút nào qua đi một cách không
chánh niệm, sáng suốt. Nếu thất bại, ta sử dụng lòng kiên nhẫn: chấp nhận
hậu quả và rồi kiên trì nỗ lực lập lại tâm chánh niệm.
Phát triển tâm chánh niệm vững chãi có thể là một quá trình lâu dài, vì thế
Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta các phương cách để bảo vệ tâm. Đức Phật
khuyên chúng ta thực hành "như lý tác ý" ('wise attention') và để tránh "phi
lý tác ý" ('unwise attention') (M 2). Ngài dạy rằng ta cần phải trụ vào
những gì ta biết là đúng, qua năm uẩn, ngay hiện tại. Đó là lãnh địa của
riêng ta, ngôi nhà thực sự của ta. Tư duy có thể dẫn dắt ta xa rời nơi an toàn
đó. Thí dụ, trong lúc đang tọa thiền, nếu nghe một tiếng động, chỉ cần biết
đó là "tiếng động," thay vì thắc mắc ai gây ra tiếng động và tiếng động đó
có ý nghĩa gì. Khi đang làm việc, cảm thấy lạnh, chỉ cần quán sát cảm giác
này, không suy nghĩ, có ý kiến về hệ thống máy điều hòa trong tòa nhà. Hãy
xem dòng suy tưởng của ta giống như những chuyến xe buýt đi qua trạm
đỗ, không dừng lại, đừng leo lên xe đi theo chúng.
Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài chịu đựng những điều bất như ý nhỏ
mọn trong cuộc sống mà không lập tức cố gắng sửa đổi chúng. Nếu ta luôn
muốn thay đổi mọi thứ theo ý mình, thì tâm luôn bực bội, khiến cho các bất
thiện pháp có thể dễ dàng phát sinh. Thí dụ bạn nhận thấy thiền đường quá
nóng, nhưng thay vì đứng dậy để điều chỉnh nhiệt kế hay mở cửa sổ, chỉ ý
thức cảm giác nóng. Quán sát sự thay đổi vật lý bên ngoài và các phản ứng
thay đổi của tâm. Rèn luyện chịu đựng những việc nhỏ mọn. Tuy nhiên, có
một số người tuân theo lời khuyên này một cách cứng nhắc. Dĩ nhiên, trong
trường hợp khẩn cấp, ta phải lập tức lo giải quyết chúng một cách có chánh
niệm!
186
Đức Phật cũng khuyên chúng ta tránh xa những kẻ ngu khờ, không có
chánh niệm, dại dột, vì tất cả chúng ta thường có thói bắt chước theo người
khác. Hãy giao tiếp với những người có các đức tính mà bạn muốn học tập.
Hãy tìm một thiện hữu tri thức, có tánh thẳng thắn, kỷ luật biết kiềm chế, có
chánh niệm, và cư xử điều độ. Hãy gần gũi và nghe theo lời khuyên của
người này khi cần thiết.
Đức Phật cũng nhắc nhở thêm cho các đệ tử của Ngài là đừng để ý đến "dấu
hiệu và đặc điểm" của bất cứ các tác động ngoại tại nào mà có thể khiến các
bất thiện pháp phát sinh. "Dấu hiệu" ám chỉ đến cạm bẫy, những thứ bắt
mắt chúng ta khiến chúng ta muốn quán sát chúng kỹ càng hơn để khơi dậy
bất thiện pháp. "Đặc điểm" ám chỉ những tính chất cá biệt của đối tượng
chú ý của ta mà chúng có thể khuấy động tâm bất thiện. Thí dụ, một người
đàn ông đã có gia đình có thể được khuyên đừng để ý hay vấn vương hành
động quyến rũ hay nét đặc biệt hấp dẫn nào đó của người đàn bà mà anh ta
có thể say đắm. Tương tự, người phụ nữ đã có gia đình cũng được khuyên
là không nên để ý xem người đàn ông đẹp trai trước mắt mình có đeo nhẫn
không hay dừng lại ngắm nụ cười của anh ta. Một câu chuyện từ thời Đức
Phật có thể minh họa rõ hơn điều này.
Có một vị tu sĩ mà lời nguyền sống độc thân của ông bị đe dọa bởi những
ám ảnh về tình dục. Vị tu sĩ này quán chiếu thân như là một bộ xương để tự
giải thoát mình khỏi những ý nghĩ xấu xa. Một ngày kia ông đi trên một con
đường qua cánh rừng. Một phụ nữ đẹp cũng đi cùng đường, ngược hướng
về nhà cha mẹ cô sau khi gây gổ với chồng. Khi thấy vị tu sĩ, bà mỉm cười
chào ông.
Sau đó, người chồng trên đường đi tìm vợ mình, gặp vị tu sĩ. Anh ta bèn
hỏi, "Thưa sư, sư có thấy một người phụ nữ trẻ đẹp đi ngang đường này
không?"
"Tôi không biết đó là đàn ông hay đàn bà," vị tu sĩ trả lời, "nhưng tôi có
thấy một bộ xương đi ngang qua." (Vsm 1[55])
187
Vị tu sĩ đã ngăn chặn dục vọng của mình phát sinh bằng cách áp dụng
Chánh Tinh Tấn trong việc hành thiền của mình. Do đó ông đã bảo vệ được
tâm khỏi các uế nhiễm.
Nếu ta có thể duy trì tâm chánh niệm liên tục, không có gì có thể kích động
ta. Ta sẽ không giận dữ hay bực tức. Ta có thể kiên nhẫn dầu ai đó nói gì
hay làm gì. Ta có thể vẫn giữ được sự bình tĩnh và hạnh phúc. Một trạng
thái tâm bất thiện, uế nhiễm không thể phát sinh cùng lúc với giây phút của
chánh niệm.
Có thể bạn cũng thấy rằng việc kiềm chế các trạng thái tâm tiêu cực khá dễ
dàng khi bạn không gặp phải người khó chịu hay hoàn cảnh khó xử. Khi
mọi thứ đều xuôi buồm thuận gió, thì rất dễ giữ tâm chánh niệm không bị
lung lay. Bạn còn có thể tự khen mình đã giữ được bình tĩnh và đón nhận lời
khen về sự tự kiềm chế, kiên nhẫn của bạn, từ gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp. Nhưng khi sự việc xảy ra không như ý muốn, thì lòng kiên nhẫn và
chánh niệm của ta có thể bắt đầu đổ vở. Một câu chuyện được Đức Phật kể
lại để minh chứng điều này có thể xảy ra một cách dễ dàng như thế nào.
Xưa có một phụ nữ rất giàu, có một người đầy tớ rất giỏi giang và biết vâng
lời. Người đầy tớ luôn dậy sớm và bắt đầu công việc trước khi bất cứ ai
trong nhà thức dậy. Cô ta làm việc cả ngày cho đến tận khuya. Mỗi đêm cô
chỉ ngủ một vài tiếng.
Cô thường nghe hàng xóm ca tụng về người chủ của mình. Họ nói, "Vị
mệnh phụ kia rất tử tế với người giúp việc. Bà rất kiên nhẫn. Chúng tôi chưa
bao giờ thấy bà giận dữ. Chúng tôi không biết làm thế nào mà bà có thể trở
nên là một người tuyệt vời như thế."
Người đầy tớ nghĩ ngợi, "Những người này ca tụng chủ ta hết lời. Họ không
biết ta đã làm việc cực nhọc thế nào để gìn giữ ngôi nhà này. Ta phải tự
kiểm chứng xem chủ ta tử tế và kiên nhẫn đến đâu."
Hôm sau, người đầy tớ thức giấc trễ hơn mọi khi. Khi người chủ thức dậy
thấy người giúp việc cho mình vẫn còn ngủ. Bà la rầy cô, "Đồ hư! Mày ngủ
cho tới khi mặt trời lên sao? Thức dậy đi làm việc ngay!" Người đầy tớ thức
188
dậy. Cô không có ngủ. Cô chỉ giả bộ ngủ. Cô ngồi dậy, xin lỗi bà chủ và bắt
đầu làm việc.
Hôm sau nữa, người đầy tớ cố tình thức dậy trễ hơn ngày hôm trước. Bà chủ
giận dữ. Bà rầy la người đầy tớ, dùng những lời thô tục, và đe dọa rằng nếu
người đầy tớ dậy trễ lần nữa bà sẽ đánh cô.
Ngày thứ ba, người đầy tớ vẫn còn ngủ dậy trễ. Bà chủ quá giận đến nỗi bà
lấy cây chổi và đánh người đầy tớ cho đến khi đầu cô ta chảy máu ra. Người
đầy tớ chạy ra khỏi nhà với cái đầu đầy máu và la khóc lớn lên, "Ôi, bà con
hãy nhìn đi! Bà chủ đánh tôi vì hôm nay tôi ngủ dậy hơi trễ. Đêm hôm qua
tôi phải làm việc tới tận nửa đêm, nên tôi bị nhức đầu. Vì thế, bữa nay tôi
dậy hơi trễ."
Những người hàng xóm đã khen tặng bà chủ có lòng kiên nhẫn và thương
người, nhanh chóng thay đổi ý kiến. (M 21)
Có thể bạn cũng đã trải qua một sự thay đổi nhanh chóng như thế sau một
kỳ nghỉ dường dài hay khi bạn vừa trở về từ một khóa an cư. Trong thời
gian đó, sân hận, bực dọc, ganh tỵ hay sợ hãi dường như đang ngủ yên, nên
bạn cảm thấy rất bình an và hạnh phúc. Nhưng ngay khi về đến nhà, bạn
nhận được một tin nhắn trên điện thoại với lời lẽ cộc lốc, hay một hóa đơn
phạt tiền vì bạn quên trả bảo hiểm, hay ai đó dẫm lên chân bạn; thì ngay lập
tức tâm sân hận lại trổi lên, tâm bình an biến mất. Lúc đó bạn tự hỏi, "Làm
sao để tôi có thể duy trì cảm giác như đang nghỉ hè hay cảm giác như đang
tu thiền trong đời sống hằng ngày?"
Câu trả lời là phải luôn chánh niệm. Ta cần nhớ rằng không phải là tha nhân
hay hoàn cảnh bên ngoài đem lại phiền não cho ta, mà chính là những
duyên nghiệp trong quá khứ. Ngoài việc cố gắng để luôn duy trì chánh
niệm, việc rèn luyện để nhận ra các khuyết điểm của thói quen tâm lý cũng
có thể giúp ta ngăn chặn những phản ứng tiêu cực phát sinh.
Thí dụ, bạn đi mua một đôi bao tay trong một cửa hàng sang trọng, và
người bán hàng rất cộc cằn. Dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ, bạn biết
rằng mình sẽ nỗi giận khi người bán hàng thiếu lịch sự. Vì thế bạn cố gắng
189
giữ chánh niệm thật kỹ, xua đuổi bất cứ ý nghĩ sân hận nào nỗi lên. Bạn tự
lý giải với mình bằng cách suy nghĩ: "Thì người bán hàng này cũng là con
người. Có lẽ đêm qua anh ta không ngủ được. Hay anh ta có những lo lắng
về tiền bạc hay vấn đề gì đó trong gia đình. Có thể anh ta cảm thấy bất an
đối với những người khác màu da hay quốc tịch. Hay hôm nay anh không
được khỏe. Đó có thể là lý do khiến anh ta thiếu kiên nhẫn đối với khách
hàng."
Phương cách này nghe có vẻ dễ, nhưng không dễ thực hành. Tâm chúng ta
chưa được rèn luyện để ngăn chặn các thói quen suy nghĩ tiêu cực. Nổi giận
thì rất dễ, phê bình người khác cũng rất dễ, lo lắng về tương lai cũng dễ,
ham muốn vật chất cũng rất dễ. Những thói quen này của tâm cũng giống
như là các loại thức ăn vặt. Một khi ta đã bắt đầu mở một gói khoai tây sấy
để ăn, thì ta rất khó dừng lại nửa chừng. Kiềm chế không cho các tư tưởng
tiêu cực khởi lên cũng rất khó. Một khi ta đã dính vào đó, thì rất khó buông
bỏ. Như Đức Phật đã dạy:
Người tốt dễ làm tốt,
Người xấu khó làm tốt,
Người xấu dễ làm xấu,
Người tốt khó làm việc xấu.
(Ud V.8)
Rất dễ làm những việc tự hại (cho) mình.
Rất khó làm những việc lợi cho mình.
(Dh 163)
Tuy nhiên, ta cần ý thức rõ ràng rằng phòng bệnh luôn tốt hơn chữa bệnh.
Chánh niệm đi đôi với chánh tinh tấn có thể ngăn chặn những suy nghĩ và
hành động tiêu cực phát khởi trong tương lai. Việc phòng hộ các thói quen
xấu nơi thân, khẩu và ý không phải là khó, nếu ta có thể tự rèn bản thân
luôn chánh niệm. Tuy nhiên, nếu bạn đã cố gắng hết sức mà vẫn không
ngăn chặn được các tư tưởng và hành động bất thiện thì cũng không nên thất vọng hay nản lòng. Không có nghĩa rằng bạn là người xấu, chỉ có nghĩa
là bạn cần phải tu tập thêm. Hãy vui mừng trong ý thức rằng ta luôn có
người phụ tá bên mình: sự nỗ lực để chế ngự các trạng thái tâm tiêu cực.
Chế Ngự Các Trạng Thái Tâm Tiêu Cực
Trước khi đạt được giác ngộ viên mãn, chúng ta không thể chọn lựa tư
tưởng nào sẽ phát khởi, vì thế không cần phải xấu hổ hay phản ứng chống
lại những gì đã xảy ra. Tuy nhiên, chúng ta có thể chọn lựa để tư tưởng nào
được phép phát triển. Các tư tưởng tích cực và thiện hỗ trợ tâm. Chúng cần
được vun trồng. Các tư tưởng tiêu cực và bất thiện, như là năm chướng ngại
(triền cái) và mười kiết sử, chỉ làm hại tâm. Chúng cần phải được tấn công
và chế ngự ngay bằng Chánh Tinh Tấn. Đó là lời khuyên của Đức Phật.
Chế Ngự Các Chướng Ngại
Chúng ta phản ứng như thế nào đối với một chướng ngại tùy thuộc vào
mức độ chấp thủ của ta. Khi vừa phát khởi, chướng ngại còn yếu ớt. Chúng
bắt đầu bằng một sát na tâm tiêu cực lẻ loi, rồi dần tăng trưởng. Ta càng ý
thức được dòng chảy này càng sớm, thì càng dễ ngăn chặn nó. Bất cứ khi
nào chướng ngại có mặt, ta không thể có tiến bộ trong chánh niệm hay thiền
định.
Bước đầu rất đơn giản. Khi một chướng ngại phát sinh, ta chỉ cần ý thức
được sự có mặt của nó. Thí dụ ta ý thức rằng tâm tham, sân, hay nghi đang
khởi lên; hoặc tâm ta đang bị rơi vào trạng thái bất an, trạo cữ, hay trầm
cảm, chán chường. Ở giai đoạn khởi đầu, các chướng ngại này rất yếu, vì thế
phương pháp để chế ngự chúng cũng nhẹ nhàng thôi. Ta chỉ cần nhận biết
sự có mặt của chúng. Chỉ ý thức không thôi, triền cái vừa phát khởi, sẽ tàn
lụi, khiến ta ý thức được sự vắng mặt của nó và sự vắng mặt này cho phép
các thiện pháp như từ bi, lòng thương yêu, và tri kiến có thể phát khởi như
thế nào.
Nếu một chướng ngại đã phát triển vượt khỏi giai đoạn khởi đầu, ta cần sử
dụng những biện pháp mạnh hơn. Trước tiên, hãy quán sát chướng ngại đó
với tâm hoàn toàn chánh niệm. Dồn tất cả chú tâm vào đó. Nhận biết ảnh hưởng của triền cái đó trên thân và tâm, biết rằng nó cản trở sự phát triển
tâm linh của ta như thế nào. Nhận biết tính chất vô thường của nó. Sự vô
thường của hoàn cảnh, hình tướng, mùi vị, cảm giác và nhiều những điều
kiện khác nữa đã khiến cho chướng ngại này phát sinh. Quán chiếu về
những tai hại mà ta có thể mang đến cho bản thân nếu ta dung dưỡng bất
thiện pháp này, và nguy hiểm hơn nữa nếu ta hành động, phản ứng theo sự
điều khiển của triền cái đó.
Bây giờ, hãy lý giải với bản thân. Hãy tự nhắc nhở rằng tất cả mọi thứ đều
vô thường và hoàn cảnh làm phát sinh chướng ngại này hay trạng thái tâm
phát sinh chắc chắn sẽ không kéo dài. Thí dụ, nếu ai đó đã nói điều gì khiến
ta nổi giận, hãy nghĩ đến những vấn đề mà ta phải đối mặt trong cuộc sống
- lo lắng về tiền bạc, sức khỏe, ưu tư về công việc hay gia đình. Có thể người
đó cũng đang phải đối phó với những vấn đề giống như ta. Ta thực sự
không thể biết điều gì đang diễn biến trong tâm người khác. Đúng hơn, ta
còn chưa biết điều gì đang xảy ra trong tâm mình vào bất cứ lúc nào. Trạng
thái tâm của ta tùy thuộc vào rất nhiều điều kiện. Thật ra, bất cứ điều gì xảy
ra cũng tùy thuộc vào nhiều nhân duyên. Quán chiếu theo cách đó có thể
khiến cho trạng thái tâm tiêu cực của ta qua đi.
Thí dụ, một buổi sáng kia bạn thức dậy với tâm trạng không vui. Bạn không
biết lý do tại sao bạn cảm thấy buồn bực, trầm cảm, căng thẳng, hay quạu
quọ. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ lại, bạn có thể nhớ rằng buổi tối hôm trước bạn
đã ăn nhiều chất cay hay xem truyền hình hàng giờ trước khi đi ngủ. Nhưng
chúng không phải là lý do khiến bạn bực bội như thế sáng nay. Chính chúng
là kết quả của những nguyên do khác. Có thể ngày hôm trước đó bạn đã cãi
vã với chồng, không vừa lòng với con cái, hay lo lắng điều gì đó, khiến bạn
xem truyền hình lâu hơn hay ăn nhiều hơn. Rồi bạn lại nhớ bạn cãi vã với
chồng là do bạn bực mình với người bạn đồng nghiệp ở sở làm, mà chuyện
bực mình này, tự nó lại là kết quả của những nguyên nhân và điều kiện
khác. Tóm lại, tất cả mọi thứ mà chúng ta trải nghiệm đều có nguyên nhân,
hoàn cảnh đằng sau đó - nhiều hơn những điều mà ta có thể suy đoán hay
biết đến. Tất cả các nhân duyên liên hệ chồng chéo lên nhau. Không có một
lý do duy nhất nào có thể khiến bất cứ điều gì xảy ra. Do đó không cần phải
192
làm cho tâm thêm não phiền bằng cách tự trách mình - hay đổ lỗi cho người
khác!
Hơn nữa, chúng ta nên nhớ rằng, may mắn thay, tất cả mọi hoàn cảnh, mọi
tâm trạng đều thay đổi. Không có gì mãi mãi trường tồn. Khi đang ở trong
một hoàn cảnh tuyệt vọng hay hạnh phúc quá sức, ta có thể nghĩ rằng sẽ
không có gì thay đổi. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ thấu đáo, ta có thể thấy rằng
niềm tin này là sai lệch. Con người thay đổi. Hoàn cảnh thay đổi. Bản thân
ta thay đổi. Không có gì là không thay đổi. Do đó, với thời gian, trạng thái
trầm cảm hay tâm sân hận gì cũng không còn. Cảm nhận về một người hay
một hoàn cảnh bất như ý cũng thay đổi. Thái độ của ta, của người cũng thay
đổi. Khi đã nhận thức được như thế, ta sẽ cảm thấy thư giãn hơn, và các tư
tưởng tiêu cực của ta bắt đầu qua đi.
Loại tư tưởng tiêu cực khó chế ngự nhất là loại mà ta không ý thức được cho
đến khi gốc rễ của nó đã ăn sâu trong tâm. Các vọng tưởng này che mờ tâm
trí và ngăn cản nó phát triển. Bạn có thể nhận biết sự có mặt của chúng khi
bạn ngồi thiền, rèn luyện tâm chánh niệm hay thiền định. Khi vọng tưởng
luôn khởi lên trong tâm, ta không thể chú tâm vào hơi thở. Trong những
trường hợp như thế, ta cần phải nỗ lực mạnh mẽ hơn.
Đây có thể là cơ hội để ta phát triển tri giác bằng cách quán sát các vọng
tưởng đó. Nếu thế, tạm thời ta sẽ để qua một bên dự định chú tâm hành
thiền hay quán sát sự phát khởi, tăng trưởng và hoại diệt của các trạng thái,
cảm giác nơi thân và tâm, mà để tâm quán sát thật thấu đáo những gì đang
xảy ra. Phương pháp cần sử dụng cho sự quán sát này được nêu ra ở bước
thứ hai trong phần về chánh niệm của Chánh Tư Duy. Tuy nhiên, nếu ta
thích tiếp tục với sự thực hành như đã định, có vài phương cách ta có thể sử
dụng. Chúng được liệt kê dưới đây theo thứ tự của cường độ nỗ lực. Nếu
một phương cách thất bại, hãy thử cái kế tiếp.
- Đừng chấp theo vọng tưởng.
- Hãy hướng tâm đến điều gì khác.
- Hãy thay thế chướng ngại đó bằng đối lực của nó.
193
- Hãy quán chiếu về sự thật rằng tất cả mọi chướng ngại phát sinh từ rất
nhiều nguyên nhân, điều kiện và chúng luôn thay đổi.
- Cắn răng lại và ép sát lưỡi vào vòm trên, dùng tất cả sức lực để chế ngự
chướng ngại đó.
Thí dụ, bạn cứ tức giận không nguôi sau khi tranh cãi với một người bạn.
Bạn quán chiếu về sân triền cái không kết quả. Tự lý giải cũng thất bại. Bạn
cũng đã cố gắng không chấp theo chướng ngại đó. (Như Đức Phật đã dạy:
"Tất cả mọi thứ chỉ phát khởi trong tâm khi bạn chú tâm đến nó." (A IV
(Tám) IX.3) Khi bạn không để ý đến bất cứ tư tưởng nào, thì nó sẽ qua đi.)
Tuy nhiên, nếu phương cách này cũng không thể giúp bạn chế ngự tâm sân
của mình. Lúc hành thiền, cuộc tranh cãi lại lởn vởn trong đầu, khiến bạn
thêm tức giận và tâm bạn không thể nào an.
Ta có thể làm gì trong trường hợp đó? Ta có thể cố gắng hướng tâm đến
một điều gì hoàn toàn khác. Thí dụ về những công việc hữu ích mà ta sắp
thực hiện ngày mai. Nếu thất bại, hãy hướng tâm đến tình cảm đối nghịch
với sân hận là tình thương yêu. Hãy nghĩ đến những tình cảm thân thiết mà
ta và bạn đã chia sẻ. Hãy để những kỷ niệm tốt đẹp này tràn đầy tâm ta.
Sau đó cố gắng hướng những tư tưởng thương yêu đến người bạn đó. Nếu
điều này có vẻ quá khó, hãy hướng tình cảm thương yêu đến con của ta hay
một vị thầy nào mà ta kính ngưỡng. Khi trái tim tràn đầy những tình cảm
thương yêu, thì không còn có chỗ cho sân hận.
Tuy nhiên, nếu sân hận vẫn chưa qua đi, thì hãy quán sát nó thật thấu đáo.
Nhận biết những chuyển biến của nó: phát khởi, tăng trưởng hoại diệt, có
mặt, rồi biến mất như thế nào. Hãy nghĩ đến những tổn hại ta tự gây cho
tâm và sự tiến bộ tâm linh, khi ta tiếp tục dung dưỡng trạng thái tâm tiêu
cực này.
Nếu tất cả đều thất bại, ta phải dồn hết sức lực của mình để hủy diệt chướng
ngại đó - nói theo lời Đức Phật, "như là một kẻ mạnh có thể đàn áp người
yếu hơn." Tóm lại, ta không bao giờ để các chướng ngại (triền cái) có thể
thắng. Bạn có thể nghĩ rằng phương pháp cắn răng lại, gồng mình lên, để
diệt sát một trạng thái tâm tiêu cực có vẻ quá thô bạo, quá khác với những lời dạy mà bạn đã được nghe qua. Bạn cũng có thể nghĩ rằng phương cách
này có vẻ không thích hợp với bản chất hiền hòa của Phật giáo.
Nhưng sự nỗ lực mạnh mẽ này hoàn toàn phù hợp với giáo lý của Đức
Phật. Ngài luôn dạy chúng ta phải tinh tấn. Chánh Tinh Tấn chính là
nguồn năng lượng dung nạp để giúp ta hoàn tất các bước trên con đường
đến hạnh phúc. Với Chánh Tinh Tấn chúng ta cẩn trọng, tránh các ý nghĩ,
lời nói, và hành động bất thiện. Với Chánh Tinh Tấn chúng ta chế ngự lo âu,
căng thẳng, sợ hãi, và oán hận. Với Chánh Tinh Tấn chúng ta thực hành
chánh niệm để vun trồng những đặc tính tuyệt vời bên trong ta mà ta có thể
chưa từng biết đến.
Hãy đánh thức các đặc tính tuyệt vời đó và làm chúng hiển lộ trong tâm.
Với Chánh Tinh Tấn, duy trì và không xao lãng chúng, luôn thực hành
chúng. Như Đức Phật đã tuyên thuyết: "Dầu cho máu ta có khô đi! Dầu cho
da thịt ta có tan rã! Dầu cho thân ta có trở thành một bộ xương khô! Ta cũng
không đứng lên khỏi chỗ ngồi thiền nếu không đạt được giác ngộ." (M 70)
Kể từ lúc chứng đắc cho đến khi nhập diệt, Đức Phật luôn nhắc nhở chúng
ta cũng phải tinh tấn như thế trong nỗ lực tâm linh.
Trái với những lời dạy này, đôi khi người ta nói sự phát triển tâm linh chỉ
cần "sự tinh tấn không gắng sức" (effortless effort). Tôi rất tiếc phải làm các
bạn thất vọng, nhưng không có sự tinh tấn nào mà không cần nỗ lực. Sự tinh
tấn cần phải cân bằng, điều độ. Quá nhiều nỗ lực hay nỗ lực không đúng
chỗ có thể khiến tâm căng thẳng hơn và dẫn đến sự thôi chuyển vào các bất
thiện pháp. Tuy nhiên nếu lơ là tinh tấn, ta sẽ trở nên chán nản, mệt mỏi
hay mất hứng thú. Lúc đó ta phải có những nỗ lực mạnh mẽ để cân bằng
tinh tấn trở lại với các thiện pháp khác.
Sự thật là ta không bao giờ có thể đạt được bất cứ điều gì đáng kể mà không
cần có sự nỗ lực. Tất cả mọi phát minh vĩ đại đều cần đến sự nỗ lực. Bóng
đèn điện, xe hơi, và máy vi tính không thể có nếu người ta chỉ lo nghỉ ngơi,
thư giãn. Các nhà phát minh đã phải nỗ lực mạnh mẽ trong công trình
nghiên cứu, tìm tòi của họ. Nếu bạn muốn thọ lãnh một đại nguyện như là
tu thiền, thì bạn phải có ý muốn nỗ lực mạnh mẽ để đạt được mục đích của mình, cũng như một sự tự kỷ luật cao, nếu cần. Có câu chuyện kể về Đức
Phật có thể làm rõ hơn điểm này.
Một người nài ngựa thưa hỏi Đức Phật, "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn huấn luyện
các đệ tử của Ngài như thế nào?"
Đức Phật hỏi lại anh ta, "Thế người huấn luyện ngựa như thế nào?"
Người nài ngựa trả lời, "Con áp dụng những phương cách nhẹ nhàng. Nếu
không kết quả, con sử dụng biện pháp cứng rắn. Nếu cũng không kết quả,
con sẽ giết lấy thịt mấy con ngựa đó."
Đức Phật đáp, "Ta cũng làm như thế. Ta dùng một phương pháp nhẹ
nhàng. Nếu không kết quả, ta cũng sẽ dùng biện pháp cứng rắn. Nếu ta
không thể rèn luyện họ bằng các phương pháp cứng rắn, ta giết họ."
Lúc đó người nài ngựa nói, "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thường dạy những sự
bất bạo động! Sao Ngài có thể giết hại?"
Lúc đó Đức Phật giải thích phương cách "giết" của Ngài. Ngài "giết" một
người có lỗi bằng cách tảng lờ hay hoàn toàn không để ý đến người đó, sau
cùng thì người đó sẽ bị loại khỏi cộng đồng tăng già. (A II (Bốn) XII.1)
Các kinh kể về một sự kiện rất nổi tiếng trong đó Đức Phật đã sử dụng
phương pháp này:
Đức Phật có một người hầu tên là Channa. Ông là người đánh xe trong
cung và từng chơi đùa với Đức Phật khi họ còn là những đứa trẻ. Ông
chính là người đánh xe đưa thái tử Siddhattha rời khỏi kinh thành để sống
cuộc đời của một vị sa môn. Khi luống tuổi, ông cũng trở thành một sa
môn. Vì vai trò của ông trong cuộc đời Đức Phật, Channa coi tất cả những
sự thành tựu của Đức Phật như là do công sức của ông và trở nên rất cao
ngạo. Sau khi xuất gia, ông thường tỏ thái độ bất kính đối với tăng đoàn. Thí
dụ, khi các vị trưởng lão tăng thăm viếng, ông không tuân thủ các nghi lễ
như là đứng dậy chào hỏi, mời họ ngồi hay đem nước rửa mặt, rửa chân cho
họ. Đức Phật quở rằng thái độ của Channa rất ngạo mạn. Ngài đã khuyên,
"Ông phải kính trọng các vị tỳ kheo này." Nhưng Channa chẳng bao giờ
tuân lời Đức Phật.
Cuối cùng, khi Đức Phật sắp nhập diệt, đại đức Ananda hỏi Đức Phật ông
phải đối xử thế nào với Channa. Đức Phật bảo tăng đoàn hãy đừng để ý
đến Channa nữa, và đạo đức Ananda được giao nhiệm vụ tuyên bố điều
này với tăng đoàn.
Khi Đức Phật nhập diệt, Channa quá đỗi sốc và đau đớn đến nỗi ông bắt
đầu suy nghĩ, "Tất cả tiếng tăm, quyền lực, và can đảm của ta đều dựa vào
Đức Phật. Giờ Ngài đã ra đi, ta không còn ai che chở nữa. Giờ cả thế giới
đều trống vắng. Ta đã xúc phạm bao vị sa môn, và họ không còn là bạn ta
nữa."
Khi đại đức Ananda thông báo việc Channa bị tẩy chay, Channa lại bị sốc
lần thứ hai và ông ngất xỉu. Khi tĩnh lại, ông trở nên rất khiêm tốn. Đức Phật
biết rằng Channa sẽ phản ứng như thế. Channa đã hành thiền miên mật và
rất vâng lời tăng đoàn. Dần dần, ông được giác ngộ. Đôi khi phương pháp
cứng rắn cũng cần thiết. Đôi khi sự cứng rắn đem lại kết quả. (D 16; V ii
292)
Ta cũng có thể dùng phương pháp này để đối trị với các triền cái (chướng
ngại). Bắt đầu bằng một phương pháp nhẹ nhàng, nhưng cũng phải biết sử
dụng phương pháp cứng rắn hơn, nếu cần.
Thí dụ, khi ta bị cám dỗ muốn mua một cái áo ấm đẹp, mặc dầu trong tủ còn
đầy áo ấm, hãy chế ngự tâm theo các phương cách mà chúng ta đã học
được. Không theo đuổi ý muốn đó; hướng tâm đến điều gì khác; thay thế
tâm tham bằng tâm xả; quán chiếu với chánh niệm về tính vô thường của cái
áo, cũng như của tất cả các vật chất khác. Nếu tâm vẫn kiên trì kêu gào đòi
chiếc áo đó, ta cần phải cứng rắn với bản thân hơn. Hãy nhắc nhở tâm phải
dừng lại ngay, nếu không, mùa đông này, hay cả năm này, sẽ không được
có chiếc áo mới nào. Giải pháp cuối cùng là đe dọa trong năm năm tới sẽ chỉ
mua áo sida để mặc. Sau đó phải thực sự thực hiện lời đe dọa đó. Tâm dần
dần sẽ được rèn luyện để biết buông bỏ.
197
Trong trường hợp đặc biệt cần phải áp dụng biện pháp thực sự cứng rắn.
Thỉnh thoảng khi ta ngồi thiền, tâm hoàn toàn điên đảo. Có thể do một việc
gì đó đã xảy ra trước thời khóa thiền, như là trong ngày đó ta quá phấn
khích hay có việc gì khiến ta quá lo lắng. Tâm bị kích động dữ dội với
những hình ảnh và xúc cảm dồn dập phát khởi, đến nỗi ta khó lòng ứng phó
với tư tưởng tiêu cực này thì tư tưởng khác đã tiếp nối. Có thể lúc đó bạn
đang trải nghiệm một hiện tượng mà tôi nghe các thiền sinh gọi là "cuộc tấn
công của đa triền cái". Đó là khi một số chướng ngại cùng phát khởi, cái
này tiếp nối cái kia, để chế ngự tâm. Nếu ta chấp nhận để tâm chạy rong
như thế đó, thì nó sẽ trở nên một thói quen khó bỏ. Tốt hơn hết là dồn tất cả
nội lực để kiềm chế tâm.
Trong trường hợp này nếu tất cả các phương pháp thông thường đều thất
bại, thì có một phương pháp khác: đếm hơi thở. Đây là một cách để giữ tâm
trụ trên một đối tượng. Trước hết đếm hơi thở từ một đến mười rồi từ đếm
ngược lại mười đến một. Kế tiếp, đếm từ một đến chín, rồi từ chín đến một.
Tiếp tục đếm đến số tám, số bảy, và cứ thế, cho đến khi ta đạt đến từ một tới
hai và từ hai tới một. Cái khó là nếu tâm thất niệm đếm sai dầu chỉ một lần
trong lúc đang đếm, ta cũng phải bắt đầu trở lại. Cứ tiếp tục cách đếm này
cho tới khi ta có thể hoàn tất trọn vẹn quy trình đếm mà không một phút lơ
là; sau đó ta có thể trở về phương cách hành thiền bình thường. Đây là một
thử thách cho tâm. Phải bắt đầu trở lại với mỗi sự lo ra khiến tâm trở nên
mỏi mệt với việc phóng tâm, trở nên biết kiềm chế.
Dầu phương pháp này khá khắt khe, đối với một số người, tâm họ quá điên
đảo đến độ không thể nào tập trung để đếm. Trong trường hợp đó, hãy lấy
ngay sự điên đảo, lăng xăng làm đối tượng thiền quán. Quán sát các trạng
thái tâm lăng xăng đó.
Chế Ngự Các Kiết Sử
Sử dụng các phương pháp trên, chúng ta có thể tự rèn luyện để nhận diện
các kiết sử khi chúng phát sinh và có biện pháp để chế ngự chúng. Với sự
chú tâm đầy chánh niệm và các biện pháp tích cực, các kiết sử đang quấy
nhiễu tâm bạn - tham, sân, nghi, trạo hối- sẽ dần dần yếu đi và phai mờ
198
khỏi tâm trí. Một kiết sử nào đó khi đã qua đi, có thể không phát sinh trở lại
trong một thời gian. Tâm đã được giải thoát khỏi kiết sử đó. Nhưng rồi, tùy
thuộc vào tính chất và điều kiện sống của bạn, một kiết sử khác lại có thể
xuất hiện.
Khi ta quán sát chu trình của các kiết sử: phát sinh, hoại diệt, rồi xuất hiện
trở lại dưới trạng thái khác, ta bắt đầu nhận ra các kiết sử này mạnh mẽ đến
thế nào, chúng trói buộc ta vào khốn khổ, đau thương chặt chẽ đến thế nào.
Không kể rằng bạn đã thường xuyên chế ngự các kiết sử này một cách tạm
thời bao nhiêu lần, chúng vẫn tiếp tục hiện hữu trong bạn, để luôn trói buộc,
bẫy rập bạn. Như thể bạn đang mang một nhà tù bên trong bạn. Khi chánh
niệm đã được phát triển, ta sẽ nhận thấy rằng các trạng thái tâm tiêu cực này
- như là tham, sân, si - không chỉ bóp méo cái nhìn của ta mà chúng còn
khiến cho mọi khía cạnh của cuộc sống trở nên khổ sở hơn, đau đớn hơn.
Tâm luôn quay về với những tiêu cực đã được huân tập. Ta cảm thấy như
mình bị bẫy rập - trói buộc - vào vòng sinh tử luân hồi chẳng dừng dứt.
Sự thật là chánh niệm chỉ có thể giúp ta chế ngự các kiết sử này một cách
tạm thời. Chỉ khi ta đạt đến mức độ cao hơn trên đạo lộ, ta mới có thể hủy
diệt được chúng, qua bốn giai đoạn. Bằng cách nào? Bạn buông bỏ chúng
qua năm ứng dụng của tinh tấn, được biết đến như là đè nén, thay thế, hủy
diệt, tàn lụi, và giải thoát.
"Đè nén" nghĩa là đẩy lùi tất cả các trạng thái tâm bất thiện lại phía sau, giữ
chúng nằm yên bằng chánh niệm hay định. Bất cứ khi nào ta có thể giữ
chánh niệm, hay đi sâu vào thiền định, thì các kiết sử ngủ yên. Khi ta đã tạo
được thói quen đẩy lùi các kiết sử này xuống, thì chúng sẽ yếu đi. Chúng
không còn tạo ra nhiều vấn đề, và bớt ảnh hưởng đến quá trình tư duy của
ta. Các chướng ngại cũng sẽ trầm lắng xuống chút ít, do đó tạo ra nhiều cơ
hội cho tri kiến có thể nảy sinh, mà khi đã có tri kiến thì ta có cơ hội để hủy
diệt một số kiết sử.
"Thay thế" là nỗ lực chống lại một bất thiện pháp nào đó bằng cách vun
trồng điều ngược lại. Ta thay thế lòng sân hận bằng cách vun trồng lòng
thương yêu. Niềm tin rằng vạn vật bất biến được thay thế bằng cách quán
chiếu về vô thường. Bạn đối nghịch lại với niềm tin bản năng vào một cái
199
ngã bằng cách quán sát những yếu tố luôn biến chuyển, tạo thành thân và
tâm của bạn.
Khi sự đè nén và thay thế đã phát triển tốt đẹp, thì ta có thể chế ngự một số
kiết sử đã bị suy yếu. "Hủy diệt" là giây phút khi bất cứ kiết sử nào cũng
phải chào thua, giống như một thân cây đã bị sét đánh tét cành. "Tàn lụi" ý
chỉ sự biến mất của các kiết sử ngay sau khi chúng bị hủy diệt. "Giải thoát"
ý chỉ đến sự nhẹ nhõm của tâm tiếp theo sau sự hủy diệt của bất kỳ nhóm
kiết sử nào. Sự giải thoát ấn tượng nhất xảy ra ở giai đoạn đầu trong bốn
giai đoạn giác ngộ khi ta chuyển hóa từ cuộc sống bình thường và trở nên
phần nào giác ngộ.
Giả sử bạn đã nhắm đến ba kiết sử đầu tiên - thân kiến, nghi và giới cấm
thủ- và đã quán tưởng sâu sắc về các pháp đối nghịch. Khi ngồi thiền, bạn
theo dõi hơi thở với sự chú tâm mạnh mẽ thì tuệ giác có thể phát sinh. Sự
quán sát của bạn về tính chất vô thường, khổ, và vô ngã của hơi thở cho
phép bạn, trong một giây phút đại ngộ, thấm thía thêm sự thật rằng tất cả
vạn pháp đều mang ba tính chất này. Nhìn thấy được tính vô thường một
cách rõ ràng nơi vạn vật, bạn sẽ với trực giác nhận biết rằng không thể có
một thứ thường hằng, bất biến gọi là "ngã" hay "linh hồn". Do đó bạn phá
vỡ được kiết sử thứ nhất. Bạn cũng nhận thức rằng phải có bậc Giác Ngộ
nào đó đã chứng giác được tất cả những điều này khi tu tập trên con đường
đạo, do đó đạo lộ này nhất định sẽ giúp bạn bứng rễ được tất cả các tâm cấu
uế. Như thế là bạn đã trừ được kiết sử thứ hai, tâm nghi. Giờ thì bạn biết
rằng không có gì có thể giải thoát tâm bạn trừ việc vun trồng tuệ giác qua
con đường của giới, định và tuệ. Biết thế thì bạn không còn tin rằng chỉ có
các nghi lễ cúng bái (giới cấm thủ) mới có quyền lực cứu bạn, có nghĩa là
bạn đã rũ bỏ được kiết sử thứ ba.
Một khi đã chế ngự được ba kiết sử này, là bạn đã đạt đến giai đoạn đầu
tiên của giác ngộ. Giờ không có chuyện bạn sẽ thôi chuyển trở lại trạng thái
cũ. Bạn không còn nghi ngờ khả năng đạt được giác ngộ của mình nữa hoặc
lo lắng không biết làm sao để đạt được giải thoát. Đảm bảo là bạn sẽ đạt
được mục đích của mình. Bạn sẽ trở thành một "dự lưu," vì sức hút của
dòng chảy tâm linh sẽ đưa bạn đến giác ngộ, giống như một nhánh cây được
cuốn chảy theo dòng nước.
Từ lúc này trở đi, tâm trở nên phấn khởi lạ, ta có cảm giác rằng, dầu bề
ngoài cuộc sống có khó khăn thế nào, bên trong nó tất cả mọi thứ đều bình
an. Ta biết, một cách chắc chắn rằng, tất cả vạn pháp đều vô thường, và điều
đó mang lại niềm an ủi trong lòng ta. Ta không còn có thể phạm vào bất cứ
hành động bất thiện nghiêm trọng nào, vì ta hiểu rõ luật nhân quả. Với thái
độ đạo đức như thế, ta không có gì phải ăn năn hối hận; do đó ta được giải
thoát khỏi gánh nặng đó. Thí dụ nếu ta phạm một lỗi nhỏ, như là nói dối, ta
sẽ không thể nào an lòng cho đến khi ta nhận lỗi. Ta vẫn còn có thể rơi vào
những cơn bùng nổ của giận dữ, khổ đau, hay tham đắm, nhưng tất cả
những tình huống đó không thể khiến ta gục ngã như trước đây, và chúng
sẽ qua đi nhanh chóng. Ta biết rõ ràng con đường phải đi và ta tràn đầy tin
tưởng vào sự tu tập của mình. Nói chung ta trở nên tự tin hơn, bớt ngã chấp,
và tử tế rộng lượng hơn, có thể hành thiền tốt hơn, và có nhiều khả năng
hơn đối với bất cứ điều gì ta làm. Các đồng nghiệp và thân hữu của ta sẽ
nhận ra được những sự thay đổi nơi ta, họ sẽ thấy ta trở nên dịu dàng hơn,
cởi mở hơn, và thư giãn hơn. Ánh mắt lấp lánh của ta sẽ mở cửa trái tim của
tha nhân, và họ bắt đầu hỏi về suối nguồn của sự tự tại của ta.
Để diễn tả mức quan trọng của việc đạt được tầng dự lưu, Đức Phật đã
nhúm ít đất cát lên tay và nói, "Này các tỷ kheo, nhúm đất cát này hay tất cả
đất cát trên thế gian, cái nào nhiều hơn?" Dĩ nhiên các vị tỷ kheo trả lời rằng
đất cát trên thế gian thì nhiều, rất nhiều lần hơn một nhúm cát đất trên tay
Phật. Sau đó Đức Phật tuyên thuyết, "Cũng thế, này các vị tỷ kheo, số lượng
cấu uế, nhiễm ô mà một người đã đạt đến quả dự lưu có thể hủy diệt thì
cũng nhiều như cát đất trên thế gian. Và những cấu uế còn lại mà người đã
đạt được quả dự lưu phải hủy diệt thì cũng ít như đất cát trên tay ta." (S
V.56.6 [1]) Vì lý do đó, Đức Phật nói, đạt được quả dự lưu thì còn vĩ đại hơn
trở thành "vị chúa tể" thống lãnh mọi vương quốc khác. Điều đó còn vĩ đại
hơn là được lên cõi trời làm một chư thiên; vĩ đại hơn cả việc trở thành một
vị trời. Sau khi đã vượt qua được chặng đường này, ta bắt đầu đối phó với chướng
ngại kế tiếp: kiết sử của tham và sân. Khi đã vượt qua được ba kiết sử đầu
tiên, ta cũng đã làm nhẹ đi sức nặng của các kiết sử còn lại. Do đó, tham và
sân mà giờ ta phải đối mặt đã bớt nặng nề hơn nhiều so với những gì ta đã
trải qua khi là một chúng sanh bình thường.
Ta phòng hộ tham sân và sử dụng Chánh Tinh Tấn để tiếp tục đối trị lại với
hai kẻ thù này. Ta phát triển tâm độ lượng và tình thương yêu. Ta trở nên
hoàn toàn nhàm chán với sự bám víu, đòi hỏi, than vãn của tâm. Khi ta phát
triển chánh niệm về vô thường một cách sâu sắc, nhìn thấy rõ ràng hơn bản
chất đổi thay của tất cả những điều dễ chịu, khó chịu, và trung tính, ta sẽ
thấy sự vô ích của việc cố gắng khiến mọi việc phải theo ý mình. Ta sẽ
buông xả ngày càng nhiều hơn.
Cuối cùng sẽ có một ngày khi tâm tham sân thô lậu được giảm đi một cách
đáng kể. Một số tâm tham sân vi tế, khó nhận biết hơn vẫn còn, khiến cho cá
tính của ta dường như không thay đổi, nhưng thực ra ta đã thành tựu được
rất nhiều. Khi bạn trở thành một "nhất lai," có nghĩa là bạn có thể phải tái
sanh trở lại thế tục này một lần nữa trước khi đạt được hoàn toàn giác ngộ.
Khó thể diễn tả được sự thanh tịnh mà tâm có được lúc ấy. Tất cả những âu
lo, bổn phận, phiền muộn đều được buông bỏ, mãi mãi. Không có sự sỉ nhục
hay bất hạnh nào có thể làm bạn xao động. Bạn đã vượt lên trên mọi phiền
não. Những người quanh bạn có thể nhận thấy được sự thanh thoát, lòng từ
ái bao la của bạn và bắt đầu nghĩ đến bạn như là một vị thánh. Vậy mà lúc
khởi đầu bạn cũng không tốt hơn ai. Đó là một quá trình không dành cho
riêng ai, một sự chuyển hóa tự nhiên trong tâm, mà ta có thể đạt được khi
miệt mài đi theo con đường Đức Phật đã hướng dẫn. Dầu ta không còn
nuối tiếc hay khổ đau đối với những mất mát của bản thân, nhưng vì trái
tim ta đầy từ ái và vẫn chưa hoàn toàn dứt sạch mọi bám víu, ta vẫn còn có
thể quan tâm một cách thái quá và đau buồn vì những bất hạnh của người
khác. Vẫn còn phải tu tập, rèn luyện thêm nữa. Những gì còn lại của sân
tham cần phải được quét sạch.
202
"bất lai," chẳng bao giờ phải sanh trở lại trong thế giới này, nhưng có thể tái
sinh trong cõi vô sắc.
Một khi công việc tháo gỡ tâm tham và sân thô lậu đã hoàn tất, thì nhóm
kiết sử cuối cùng, những kích thích tâm lý vi tế nhất - năm kiết sử cuối
cùng- phải được đối phó. Các tâm uế nhiễm này quá vi tế đến nỗi không có
chúng sanh bình thường nào có thể nhận ra chúng, nói gì đến việc cảm thấy
muốn hủy diệt chúng. Bậc nhất lai tiếp tục cảm nhận, thí dụ, tâm trạo cử bởi
lòng lo lắng về một sự tái sinh trong tương lai. Tuy nhiên đối với một vị đã
đạt được đến mức độ vi tế này, các kiết sử còn lại giống như những mẫu đồ
ăn lấm tấm trên một chiếc áo hoàn toàn trắng sạch.
Tiếp tục tu tập, vị bất lai tháo gỡ mọi ham muốn vi tế còn lại đối với bất cứ
loại hiện hữu nào. Vị ấy diệt trừ được "mạn," đặc tính cố hữu của niềm tin
dường như có một cái ngã. Trạo cử được tháo gỡ, như là một mảng cuối
cùng còn lại của vô minh. Trong một sát na đại ngộ, tất cả các kiết sử cuối
cùng này bị diệt trừ, và tại đó xuất hiện một vị hoàn toàn giác ngộ -một vị A
La Hán. Vị này không bao giờ có thể thực hiện bất cứ hành động nào dựa
trên tham, sân, hay si, vì tất cả những uế nhiễm này đã mãi mãi bị bứng khỏi
tâm. Như Đức Phật đã nói nhiều lần, một bậc A La Hán là người đã "bỏ
xuống gánh nặng."
Ta có thể nghĩ rằng một bậc A La Hán cũng có thể rơi xuống một tầng thấp
hơn và bị cám dỗ bởi tà dâm, trộm cắp, hay một vài hành vi thế tục nào
khác. Nhưng nếu ta nhớ lại bản chất của các kiết sử -chúng dẫn dắt hành
động của chúng ta sai lạc như thế nào và chúng đã bị đánh bại như thế nào -
thì ta sẽ không có những suy nghĩ như thế về các bậc đã hoàn toàn giác ngộ.
Bậc A La Hán biết rằng ngay việc thụ hưởng các dục lạc đã là điều không
thể nghĩ đến - nói gì đến những hành động vô đạo đức. Bậc A La Hán
không bao giờ có thể làm điều gì sai trái nữa. Họ tiếp tục thụ hưởng niềm
hạnh phúc tối thượng, và giữ được tâm họ luôn thanh tịnh.
Khi đã giác ngộ, hành giả sẽ thấy rõ ràng rằng tất cả những gì họ cần liễu tri
đã được chứa đựng trong Tứ Diệu Đế. Hành giả được giải thoát khỏi bất cứ
các suy đoán, lý luận hay lý thuyết về thực tại, về quá khứ, hiện tại, và
tương lai, về sự hiện hữu của ngã và về vũ trụ. Hành giả biết thân vật chất là gì, phát sinh và hoại diệt như thế nào. Hành giả biết thọ là gì, phát sinh và
hoại diệt như thế nào. Với tưởng, hành và thức cũng như thế.
Hành giả hoàn toàn thoát khỏi mọi ý kiến và suy luận, tất cả các xu hướng
muốn chứng tỏ hay cảm nhận các yếu tố cá biệt của "cái tôi" và "cái của tôi".
Tất cả những lý thuyết, quan điểm, và niềm tin dựa trên ngã chấp đã biến
mất. Được hoàn toàn giải thoát khỏi tất cả mười kiết sử này là trạng thái của
sự giác ngộ viên mãn.
Vun Trồng Các Thiện Pháp
Hầu hết chúng sanh đều phải khổ công tu luyện mới có thể hy vọng đạt
được giác ngộ. Chế ngự được các chướng ngại và đè nén được các kiết sử là
điều tiên quyết. Nhưng ngay cả khi việc ta cố gắng chế ngự chúng có tạm
thời thành công, thì tâm ta vẫn còn đầy lậu hoặc. Nó có thể lại thối chuyển
trở vào các trạng thái đau đớn, chướng ngại, giống như một chiếc máy bay
hạ cánh xuống các tầng mây. Vì thế, một khi ta đã tạm thời giải thoát tâm
khỏi các bất thiện pháp này, ta phải sử dụng Chánh Tinh Tấn để phấn khích,
làm hoan hỷ và nạp năng lượng cho tâm để ta có thể tiến bộ hơn nữa.
Khi một trạng thái tâm bất thiện đã được chế ngự, tâm sẽ chuyển sang trạng
thái trung tính. Nhưng nó không ở trạng thái đó lâu. Nó rất giống như một
hộp số xe, có số de (chạy thụt lùi), số chạy tới và số dừng (trung tính). Ta
không thể từ số de thẳng sang số chạy tới mà không đi qua số dừng (trung
tính). Từ vị thế trung tính, ta có thể gài số xe chạy tới hay chạy lùi. Tương
tự, tâm không thể chuyển thẳng từ thiện sang bất thiện hay ngược lại; nó
phải đi qua một trạng thái trung tính ở giữa hai thái cực này.
Hành giả có thể sử dụng giai đoạn trung tính này để vun trồng các thiện
pháp. Thí dụ ta đang ngồi thiền thì một trạng thái tâm tiêu cực phát khởi.
Chánh niệm được kích hoạt, và ta nhận ra trạng thái tâm bất thiện đó. Ta cố
gắng chế ngự nó, có thể do thấy được tác hại của nó, và trở về với hơi thở.
Vì hơi thở là một đối tượng trung tính, tâm ta giữ được sự trung hòa khi ta
theo dõi hơi thở. Nhưng chẳng lâu sau, khi ta buông lơi chánh niệm, thì một
204
trạng thái tâm cấu uế khác lại phát sinh. Và quy trình trên lại tái diễn, hết
lần này đến lần khác.
Nếu cứ tiếp tục như thế, ta sẽ cảm thấy rất mệt mỏi. Chánh niệm khiến ta ý
thức rằng ta cần dừng quy trình tiêu cực đó lại. Khi chú tâm, ta có thể nhận
biết được tiến trình của tâm hành. Ta thấy rằng thay vì để cửa mở cho tiêu
cực len lỏi vào chế ngự tâm, ta cần lợi dụng thời điểm khi tâm ở trạng thái
trung tính để phát khởi một trạng thái tâm thiện. Rồi trở về với hơi thở và
thư giãn. Hít một vài hơi thở sâu, rồi bắt đầu vun trồng trạng thái tâm tích
cực khác nữa.
Có rất nhiều cách để phát khởi các trạng thái tâm tích cực. Một trong những
cách hữu hiệu nhất có thể sử dụng trong lúc tọa thiền là quán tưởng đến bất
cứ hành động thiện nào mà ta đã làm trong quá khứ và trạng thái tâm hạnh
phúc, dễ chịu do hành động đó mang lại. Thí dụ có thể bạn đã có lần giúp
một người già qua đường. Bà lão phải mang nặng mà xe cộ lướt qua rất
nhanh khiến bà sợ, không dám qua đường. Bạn không biết bà ấy, mà cũng
không có ý muốn được khen thưởng hay ngay cả lời cám ơn nào. Với tâm
hoàn toàn không vụ lợi về bất cứ điều gì, không chấp thủ, bạn bước xuống
đường và cẩn thận ra hiệu cho xe dừng lại, giúp bà lão qua đường an toàn.
Lúc đó tâm bạn cảm thấy nhẹ nhàng, thư thái, và sung sướng. Giờ khi hồi
tưởng lại chuyện đó, bạn cảm thấy thế nào? Lần nữa bạn lại cảm thấy nhẹ
nhàng, thư thái, và hạnh phúc. Từ đó, bạn nghĩ, "Đây là trạng thái tâm ta
cần vun trồng." Vì thế bạn dùng ký ức này để khơi dậy và làm tăng trưởng
các thiện pháp.
Ta có thể sử dụng ký ức của bất cứ hành động thiện nào mà ta đã thực hiện
trong quá khứ, miễn là ta không đem lòng chấp vào đó. Những hành động
thiện này đã mang đến cho ta cảm giác hạnh phúc khi ta thực hiện chúng, và
khi hồi tưởng lại, tâm ta vẫn tràn đầy niềm vui. Có thể bạn đã giúp một em
bé đi lạc tìm được mẹ ở một siêu thị, hay bạn đã giúp băng bó cho một con
vật bị thương trên đường. Có thể bạn thấy hai người đang tranh cãi quyết
liệt về một vấn đề nhỏ mọn nào đó, và bạn giúp họ giải quyết được vấn đề.
Có thể trong công việc, bạn đã khiến cho các đồng nghiệp trẻ cảm thấy
muốn học theo gương bạn, vân vân. Một phương cách khác nữa là hồi
205
tưởng lại với lòng biết ơn đối với những điều tốt đẹp mà người khác đã làm
cho ta, hay quán tưởng đến những việc thiện của người khác mà ta được
biết đến. Ta làm những điều này với tâm tràn đầy hoan hỷ, thiện hạnh, thì ta
cũng thấy thư thái, tự tại và hạnh phúc.
Ta cũng có thể vun trồng các thiện pháp bằng cách quán tưởng đến những
lúc ta đã có thể chế ngự được tham, sân, hay si. Thí dụ bạn nhớ đến một thời
điểm khi con trai bạn hư quấy, khiến bạn cảm thấy muốn đánh phạt nó.
Nhưng tâm chánh niệm kịp thời xuất hiện, bạn nhớ lại rằng biểu hiện sự
giận dữ ra ngoài không phải là điều nên làm. Do đó, cơn giận của bạn dịu
xuống, bạn bình tĩnh lại và tâm bạn lắng đọng hơn. Hãy nhớ đến sự thay
đổi lớn lao từ việc phát khởi tâm giận dữ đến trạng thái bình tĩnh dễ chịu
khi bạn kiềm chế được cơn giận và bạn quán chiếu rằng cảm giác đó dễ chịu
như thế nào. Bạn tự nhủ, "Trạng thái tâm này là điều mà ta muốn vun
trồng." Sự hồi tưởng này giúp ta thư giãn, mang đến cho tâm ta một niềm
vui thầm lặng.
Ta có thể tự góp nhặt các hoàn cảnh thích hợp để vun trồng các thiện pháp.
Thí dụ, khi nhìn con chập chững những bước đi đầu đời, lòng ta tràn đầy
tình cảm yêu thương. Hãy lưu giữ ký ức đó vào một góc tâm hồn. Trong
tương lai ta có thể sử dụng cảm xúc đó làm chất xúc tác để vun trồng cho
các trạng thái tâm thiện.
Phương pháp của sự tinh tấn chánh niệm để vun trồng các trạng thái tâm
tích cực không chỉ lợi ích trong lúc hành thiền. Ta còn có thể sử dụng nó
trong khi ăn, đi, đứng, làm việc, chuyện trò.
Ta không còn phải dựa vào hy vọng rằng cuộc sống sẽ mang đến cho ta lý
do để cảm thấy hạnh phúc. Phải có kế hoạch sử dụng tâm để xét xem những
hành động nào tạo nên các trạng thái tâm khiến cuộc đời ta dễ chịu hơn.
Hãy hồi tưởng lại những thành công và thất bại trong quá khứ. Khám phá ra
nguyên nhân và hậu quả của những quá trình tâm linh đơn giản này. Sau đó
vun trồng các thiện pháp trong tất cả mọi việc ta làm.
Thí dụ, trong khi rửa chén, ta có thể hướng tâm từ đến cho những ai sẽ sử
dụng các chén đĩa này. Trước khi trao đổi, trò chuyện, ta có thể giữ gìn bằng
206
cách chánh niệm về những hậu quả có thể xảy ra của lời nói tiêu cực hay tích
cực. Đó sẽ là một cuộc trò chuyện "có khởi đầu tốt đẹp." Bằng thái độ bình
tĩnh và cố gắng mang từng tế bào của lòng kiên nhẫn, thương yêu, bi mẫn,
và trí tuệ vào trong một cuộc trao đổi, ta sẽ khiến nó trở nên trôi chảy hơn,
đem lại lợi lộc cho bản thân ta cũng như người khác.
Lường trước những vấn đề có thể xảy bằng cách tự nhận biết các thiếu sót
của mình là một phần của quá trình này. Thí dụ, nếu bạn nóng tính, và bạn
biết điều đó, thì nhận thức đó cũng là thiện pháp. Sau đó bạn có thể vun
trồng tâm từ ái để kiềm chế tánh nóng của bạn không phát khởi. Khi một
tình huống khó xử xảy ra, như là sự viếng thăm bất ngờ của một vị lãnh đạo
khó tính đến công ty, bạn có thể tự nhắc nhở về hậu quả tốt hay xấu từ hành
động của mình. Rồi bạn lập quyết tâm sẽ giữ bình tĩnh, và vun trồng tâm từ
đối với vị ấy. Do đó khi vị lãnh đạo nói hay làm điều gì khó chịu, thay vì
biểu lộ thái độ giận dữ, khó chịu, bạn tận hưởng trạng thái tâm dễ chịu mà
mình đã tạo lập.
Cũng thế, nếu bạn biết mình thường hay lo lắng, thì hãy tự chuẩn bị. Thí dụ,
trước khi cháu cưng của bạn đáp chuyến phi cơ đầu tiên đi xa nhà, hãy làm
bất cứ điều gì bạn đã làm trong quá khứ để chế ngự sự lo âu và mang lại
những cảm giác dễ chịu. Rồi bạn không cần phải khổ đau vì chuyến bay của
cháu bạn. Thay vào đó bạn có thể hưởng thụ trạng thái tâm dễ chịu.
Đó là một kỹ năng có thể tự rèn luyện. Chúng ta càng có chủ tâm phát khởi
các trạng thái tâm thiện, thì tâm càng trở nên dễ thích ứng và ta càng hiểu
nó nhiều hơn. Chúng ta có thể vun trồng tâm thương yêu không giới hạn,
tâm hoan hỷ, lòng bi mẫn sâu xa, và tâm buông xả rộng lớn trong từng
ngày, từng giây phút. Bốn tâm vô lượng này đưa tâm đến các trạng thái lâng
lâng, tuyệt diệu đến nỗi chúng được gọi là "thiên trú." Những ai biết làm
thế nào để chúng phát sinh có thể thọ hưởng thiên đàng trên trái đất này bất
cứ lúc nào.
207
Duy Trì Trạng Thái Tâm Thiện
Một khi trạng thái tâm thiện đã phát khởi, ta sẽ cố gắng duy trì, không để
tâm đó qua đi. Ta biết rằng nếu để trạng thái đó qua đi, tâm ta sẽ trở về
trạng thái trung tính và rồi nó có thể rơi vào trạng thái bất thiện. Vì thế bằng
mọi giá, ta phải giữ trạng thái tâm tốt đẹp luôn có mặt. Tâm thiện của giây
phút này phải là trạng thái thiện của giây phút kế tiếp, và giờ, ngày, tuần kế
tiếp. Chúng ta cố gắng để luôn duy trì trạng thái tâm tích cực, giống như
người ta cố gắng để giữ một ngọn đèn đặc biệt nào đó không bao giờ tắt.
Điều Đó Không Dễ Thực Hiện.
Đã bao lần bạn tự hứa với bản thân những điều tốt đẹp? Hãy nhớ đến
những lời cam kết mỗi đầu năm hay những lời thệ nguyện ở đám cưới của
bạn trước vị thầy tâm linh hay trước bạn bè? Bạn đã có bao ước nguyện đầy
ấp hy vọng vào những lần sinh nhật? Nhưng bạn đã giữ được bao nhiêu lời
hứa đó? Có thể bạn đã tự hứa với mình: "Tôi sẽ không bao giờ đụng đến
điếu thuốc nào nữa, không bao giờ uống thêm ly rượu nào nữa, không bao
giờ nói dối, nói lời cộc cằn hay sỉ nhục bất cứ ai. Tôi sẽ không bao giờ đánh
bạc nữa, không bao giờ trộm cắp, không bao giờ giết hại bất cứ sinh vật
nào." Hoặc sau một thời khóa thiền hay một khóa tu đầy kết quả, có thể bạn
đã nghĩ, "Khóa tu này thật tuyệt vời. Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng việc hành
thiền lại có thể dễ đến vậy. Tôi đã được bình an và hạnh phúc biết chừng
nào trong suốt khóa tu này! Tôi quyết phải luôn hành thiền trong tương lai."
Tất cả đều là những tư tưởng tích cực. Nhưng có bao nhiêu lời hứa này vẫn
được bạn tiếp tục thực hiện mỗi ngày? Những tư tưởng này phát khởi lên
trong tâm bạn giống như bọt nước trong một ly sô đa. Sau một vài giờ,
chúng lặn tăm. Bạn đánh mất lòng sốt sắng và trở về với thói quen cũ của
mình. Để duy trì sự tinh tấn ban đầu, bạn phải phát triển tâm chánh niệm
mạnh mẽ.
Hãy nhớ rằng không có việc quan trọng gì có thể được thực hiện một cách
hoàn hảo với chỉ một lần thử nghiệm. Ta phải lặp đi lặp lại một ý nghĩ hay
hành động tích cực cho đến khi chúng trở thành một thói quen. Chúng ta
tán thán những khả năng thiện xảo của các vận động viên Olympic - nhưng
họ đâu có hoàn thiện các khả năng này trong chỉ vài lần tập? Khi mới tập đi
xe đạp, ta đã phải té ngã biết bao lần? Muốn hoàn thiện tâm ý cũng phải
như thế. Chúng ta phải thực hành rất tinh tấn. Bất cứ khi nào sự tinh tấn của
ta hơi chùn xuống, hãy nghĩ đến những trường hợp khi ta đã nỗ lực không
ngừng cho đến khi ta đạt được mục đích của mình.
Dĩ nhiên, có những việc ta có thể thực hiện để hỗ trợ cho sự thực tập Chánh
Tinh Tấn. Ta có thể kết bạn với thiện tri thức và tránh xa những kẻ ngu si. Ta
có thể sống ở những nơi thích hợp, đọc các sách hướng thiện, giữ mối liên
lạc với các đạo tràng. Ta cũng có thể thực hành chánh niệm một cách siêng
năng. Những hành động này có thể giúp duy trì các thiện pháp. Tôi sẽ kể
cho bạn nghe một câu chuyện về một vị sư đã lập thệ nguyện lớn và nỗ lực
vĩ đại.
Ở Ấn Độ thời xa xưa, có một vị tỷ kheo lớn tuổi là một bậc đại sư. Một vị tỷ
kheo trẻ phạm lỗi không làm tròn bổn phận. Vì thế, vị đại sư phạt người này
bằng cách yêu cầu ông đến khất thực ở một gia đình kia, để tạo một mối liên
hệ tốt với gia đình đó. Vì vợ chồng nhà ấy vừa sinh được một em bé mà các
vị thầy tiên đoán sẽ trở thành một nhà lãnh đạo Phật giáo tài giỏi. Chủ nhà
này nổi tiếng là người keo kiệt và thường tỏ thái độ hằn hộc khi có người
đến khất thực. Lần đầu tiên, khi vị tỷ kheo trẻ xuất hiện, người chủ nhà rất
tức bực. Anh ta ra lệnh cho vợ con, và đầy tớ của mình không được cho vị tu
sĩ kia bất cứ điều gì - và không được nói chuyện hay ngay cả nhìn vị tu sĩ
đó. Vị tỷ kheo trẻ trở về chùa và không nhận được đồ khất thực gì từ nhà
đó.
Lần thứ hai, khi vị tu sĩ trở lại gia đình đó cũng thế. Không ai cúng dường
cho ông. Không ai nói chuyện hay ngay cả nhìn ông, nhưng vị tu sĩ này
không hề nản chí. Ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng
này qua tháng khác, và năm này qua năm khác trong suốt bảy năm dài như
thế, vị tỷ kheo trẻ vẫn trở lại ngôi nhà đó.
Sau đó người chủ nhà mướn một người giúp việc mới. Cô ta không biết gì
về quy định không cúng dường cho vị tu sĩ đó. Một ngày trong năm thứ bảy
209
đó, khi vị tỷ kheo trẻ đến nhà, cô giúp việc mới nói với ông rằng, "Hãy đi
chỗ khác đi. Chúng tôi không có gì để cúng dường thầy cả."
Vị tỷ kheo trẻ rất hoan hỷ vì cuối cùng người ta cũng biết đến sự có mặt của
ông. Trên đường trở về chùa, ông đi ngang qua chỗ người chủ nhà hạ tiện
đang cưỡi ngựa về nhà. Bằng giọng kiêu hãnh, người chủ nhà hỏi, "Này,
thầy có nhận được gì từ nhà tôi không?"
"Thưa có, cám ơn ông," vị tu sĩ trả lời. "Hôm nay tôi đã nhận được một
thứ."
Người chủ nhà keo kiệt kia rất tức giận. Ông ta hối hả trở về nhà, nhảy
xuống ngựa, chạy vào nhà, và hét lớn, "Ai đã cho gì cho kẻ trọc đầu kia? Có
ai cho hắn thứ gì không?"
Mọi người trong nhà đều trả lời không, nhưng người chủ nhà vẫn không
vừa lòng. Ông tra hỏi từng người. Khi đến lượt cô giúp việc mới, ông hỏi cô,
"Cô có cho người ấy thứ gì không?"
"Không có, thưa ông," cô ta trả lời.
"Cô có nói chuyện với người đó không?"
"Dạ có."
"Cô đã nói gì với hắn?"
"Dạ, tôi nói, 'Đi chỗ khác. Chúng tôi không có gì để cúng dường cho thầy
cả.'"
Người đàn ông keo kiệt nghĩ rằng vị tu sĩ đã lừa dối ông. Suy nghĩ này càng
khiến ông giận dữ hơn. Ông nói, "Hãy để kẻ lừa dối đó đến đây ngày mai,
ta sẽ trách mắng hắn vì đã lừa dối ta."
Ngày hôm sau, vị tỷ kheo lại xuất hiện ở ngôi nhà đó như thường lệ. Người
chủ nhà keo kiệt đi ra và nói với vị ấy một cách giận dữ, "Hôm qua thầy bảo
rằng đã nhận được một thứ gì đó từ nhà tôi. Tôi đã tra hỏi mọi người. Tôi
biết rõ không có ai cho thầy một thứ gì cả. Thầy đã nói dối với tôi. Thầy cho
tôi biết đã nhận được gì nào."
"Thưa ngài, trong bảy năm qua, mỗi ngày tôi đều ghé qua ngôi nhà đẹp đẽ
của ngài mà không nhận được thứ gì. Nhưng hôm qua, một phụ nữ tử tế đã
bước ra và nói, 'Hãy đi đi. Chúng tôi không có gì để cúng dường cả.' Đó là
những gì tôi đã nhận được từ ngôi nhà của ngài."
Người đàn ông keo kiệt cảm thấy quá xấu hổ. Trong giây phút đó, ông thấy
trong ông bùng lên tia sáng của tình thương và tâm bố thí. Vị tu sĩ này chắc
là một vị thánh, ông suy nghĩ. Vị tu sĩ này đầy lòng biết ơn khi chỉ nhận
được những lời từ chối của người hầu của ta. Ông ta sẽ biết ơn đến chừng
nào nếu ông ta nhận được một ít đồ ăn từ nhà của ta?
Người chủ nhà lập tức thay đổi quy định, và bảo mọi người trong gia đình
ông phải cúng dường thực phẩm cho vị tu sĩ. Sau đó, vị tỷ kheo vẫn tiếp tục
nhận được sự cúng dường từ gia đình đó. Lòng quyết tâm, sự Chánh Tinh
Tấn của ông để duy trì tâm kiên nhẫn và tâm tích cực cuối cùng đã được đền
bù. Đứa trẻ sơ sinh trong gia đình đó sau này trở thành một vị A La Hán và
là một trong những người lãnh đạo Phật giáo quan trọng nhất vào thời đó.
(Mhvs V)
Có thể bạn tự hỏi tại sao chúng ta phải bỏ nhiều công sức tu tập và lo liệu
cho cuộc sống, khi mọi thứ dầu gì cũng là vô thường và ngay cả các trạng
thái tâm cao thượng nhất cũng dần qua đi. Dĩ nhiên là bạn nói rất đúng. Vạn
pháp đều vô thường. Hơn thế nữa, không có một "cái tôi' nào luôn hiện hữu
để trải nghiệm mọi thứ. Tuy nhiên đau khổ và hạnh phúc vẫn có mặt. Nếu
bạn đụng đến một chú ong và bị chích, bạn không nghĩ, "tôi" đang đau. Chỉ
có tiếng kêu ui! Mặc dù trong giây phút đó, không có sự nhận thức về 'cái
tôi", sự đau đớn vẫn có mặt.
Một số người cảm thấy khó hiểu khi họ nghe về thuyết vô ngã. Họ thường
nghĩ rằng để đau khổ có thể xảy ra thì phải có "một ai đó" chịu khổ đau.
Tuy nhiên cách hiểu như thế là sai lầm. Một khi còn có những chướng ngại
nơi thân và tâm, thì không thể tránh được việc đau khổ có mặt - cho đến khi
đạt được giác ngộ. Có lời nói rằng,
211
Chỉ có đau khổ phát sinh,
Đau khổ kéo dài, và đau khổ qua đi.
Không có gì ngoài sự đau khổ có mặt,
Và không có gì ngoài sự đau khổ chấm dứt.
(S I.5.10)
Một tà kiến khác nữa là có ý nghĩ rằng, vì không có ai để cảm nhận đau khổ,
thì đau khổ không quan trọng. Sự thật là dầu ngã có hiện hữu hay không,
ta vẫn khổ đau. Có ai thích khổ đau không? Đó có phải là mục đích sống
không? Dầu có một cái ngã hay không, bạn vẫn không muốn phải đau khổ!
Do đó, việc bạn có đau khổ hay không, là một vấn đề rất quan trọng. Chính
đau khổ là lý do tại sao, sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã dành trọn
cuộc đời còn lại để truyền dạy cho các chúng sanh khác phương cách thoát
khỏi khổ đau. Vì lòng từ bi vô hạn, Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta những
phương cách rèn luyện tâm để thoát khỏi khổ đau.
Các trạng thái tâm cao thượng, thanh tịnh và vi tế hơn, tới một lúc nào đó
cũng phải qua đi; điều đó cũng đúng. Đó là lý do tại sao ta cần phải sử dụng
tâm thiện mà ta đã vun trồng được ngay khi chúng còn có mặt trong ta.
Tâm thiện là phương tiện cần thiết để bứng rễ khổ đau, và duy trì được các
trạng thái tâm thiện này mang lại lợi ích dài lâu hơn bất cứ những niềm vui
hay giải thoát tạm thời nào. Những trạng thái tâm thiện hảo, sáng suốt, là
nền tảng cho việc phát triển tuệ giác đối với vô thường, để chúng ta có thể
bứng rễ tham, và vô minh một lần và mãi mãi.
Cái Nhìn Toàn Diện
Dùng Chánh Tinh Tấn để đem tâm ra khỏi các bất thiện pháp và để vun
trồng các thiện pháp là một phần quan trọng trong Bát Chánh Đạo - không
kém quan trọng hơn chánh niệm. Tuy nhiên, ít ai quan tâm đến điều này.
Họ thường quên cái nhìn toàn diện, để chỉ bám vào một số chi tiết hấp dẫn
trong Phật giáo. Những người như thế chỉ hiểu được một phần nào đó của con đường đạo. Họ chỉ lấy đôi ý tưởng họ nghe được và chấp chặt vào đó,
đôi khi đến độ thái quá, để rồi tự thực hiện những việc không thiện xảo, tự
hại mình. Do đó, thay vì trở nên hạnh phúc hơn, họ lại đau khổ hơn.
Tôi biết một phụ nữ trẻ, ý thức được tâm tham ẩn chứa trong mọi hành
động của mình, nhất là trong việc ăn uống. Nhưng thay vì trở nên chánh
niệm, cô cố gắng đè nén các cảm xúc của mình. Ở các bữa ăn, cô kiềm chế để
không cảm thấy tham ăn. Cô còn cố gắng để ăn ít hơn nhu cầu và bù đắp
bằng các thức uống có chứa protein. Vì thế thay vào tâm tham bình thường,
cô phát triển một sự dị ứng thần kinh và trở nên trầm cảm. May thay cô
được một thiện hữu nhắc nhở cô nên có một cái nhìn toàn diện và vun trồng
các trạng thái tâm thiện. Người bạn hướng dẫn những phương cách để thoát
khỏi sự trầm cảm: đọc sách, đi dã ngoại, làm điều thiện, hay bận rộn với
công việc. Nhưng cô phản ứng quyết liệt, "Tôi không muốn trốn tránh thực
tại!" Làm những gì cần thiết để thoát khỏi gọng kìm của bất thiện pháp
không phải là trốn tránh thực tại. Đó là trốn tránh một nỗi đau lớn hơn.
Nếu cuối cùng bạn còn tạo thêm nhiều phiền não, khổ đau hơn, thì liệu tất
cả mọi cố gắng của bạn để đi theo con đường của Phật có ý nghĩa gì? Bạn
phải luôn quán chiếu về hành động và hậu quả của những hành đông đó.
Bạn phải không ngừng tự vấn, "Ngay giây phút này tôi đang vun trồng điều
gì?"
Một lần kia người dì của Đức Phật, tỳ kheo ni Maha Pajapati Gotami, xin
Đức Phật cho bà những lời khuyên ngắn để hướng dẫn sự tu tập của bà.
Đức Phật dạy bà hãy làm bất cứ gì bà biết từ kinh nghiệm bản thân, từ sự
hiểu biết thông thường, từ những đức tính nơi bà. Đức Phật dạy những việc
cần làm phải đưa đến:
• không tham ái
• không vướng mắc
• buông bỏ (các nhân của khổ đau), không chấp chứa
• thiểu dục, không ham muốn nhiều
• tự tại, không bất mãn
• độc cư an tịnh, không tụ họp, đàn đúm
• tinh tấn, không lười nhác
• dễ được hỗ trợ, không đòi hỏi, lựa chọn
(A IV (Tám) VI.3)
Những điều kể trên là một bảng hướng dẫn tiện ích để đảm bảo rằng các nỗ
lực của ta phù hợp với giáo lý nói chung.
Đây là một nguyên tắc khác mà ta có thể dùng để đánh giá sự nỗ lực của
mình. Như Đức Phật đã tuyên thuyết, lời dạy cốt yếu của tất cả chư Phật
luôn là, "Làm điều thiện, không làm điều ác, và thanh tịnh tâm." (Dh 183)
Chánh Niệm Về Chánh Tinh Tấn
Khi tâm bị uế nhiễm bởi các bất thiện pháp, thì việc hành thiền rất khó khăn.
Một số hành giả khi ngồi tọa thiền, không thể nào giữ được yên tĩnh. Họ
cựa quậy, ho, gãi, xoay trở, quay bên này, bên kia, theo dõi các thiền sinh
khác, hay thường thay đổi thế ngồi. Số khác thì lại hay ngáp và họ cảm thấy
không thể nào tĩnh thức. Những người có thói hay sân giận, có thể cảm thấy
bất mãn, phàn nàn trong tâm khi họ cố gắng để thiền. Người khác nữa lại có
thể bị chế ngự bởi ái dục, hay nghi hoặc.
Qua bao năm tu tập, thiền giả đã phát triển được những phương cách được
coi như là có năng lực đặc biệt để chế ngự các chướng ngại cản trở việc thực
hành thiền chánh niệm.
• Khi ái dục quấy nhiễu tâm ta, hãy mổ sẻ đối tượng của ái dục trong tâm.
Thí dụ nếu bạn đang thèm một miếng bánh chocolate. Hãy nhắc nhở bản
thân rằng miếng bánh đó được tạo nên bởi nhiều yếu tố và nó sẽ bị hư hoại.
Sau khi ăn, nó sẽ trở thành gì. Hãy cứ quán tưởng những điều này cho đến
khi lòng ham muốn của bạn không còn nữa. Phương thức này cũng hữu hiệu nếu đối tượng của lòng ham muốn của bạn là một con người. Hãy
tưởng đến những thành phần cấu tạo của thân - xương, ruột và các nội tạng
khác, máu mủ và các chất lỏng khác trong thân. Hãy cứ quán tưởng những
điều này, hay thử hình dung xem người đó sẽ như thế nào nếu là một bộ
xương khô, cho đến khi lòng ham muốn của bạn qua đi. Nhưng nếu phương
pháp này lại làm tăng thêm lòng ham muốn của bạn, thì phải dừng ngay lập
tức và chú tâm vào hơi thở.
• Khi sân nổi lên, ứng dụng những cách đối trị mà chúng ta đã bàn qua, như
là ý thức về tâm sân của ta, nhận biết tính chất vô thường của mọi cảm thọ,
quán chiếu về những lợi ích của lòng kiên nhẫn, hãy tự lý giải để có một cái
nhìn khác, và vun trồng tình cảm thương yêu.
• Khi hôn trầm hay buồn ngủ kéo đến, hãy hình dung ra một nguồn ánh
sáng chói lọi. Nếu không thành công, hãy thử những cách sau đây: kéo lỗ
tai, mở to mắt ra, đảo mắt trong vài giây, và nhắm mắt trở lại. Hãy hít vào
thật sâu và giữ lại càng lâu càng tốt, sau đó thở ra chậm rãi; nếu cần, lặp lại
hành động này vài lần, cho đến khi mạch tim đập mạnh, và bạn có thể đổ
mồ hôi. Không nhắm kín mắt. Đứng dậy và thực hành thiền đứng, hay
thiền hành. Rửa mặt với nước lạnh. Nếu không có điều gì hữu hiệu, thì hãy
đi ngủ.
• Khi trạo cử hay lo âu phát khởi, quán chiếu về trạng thái tĩnh lặng, thanh
tịnh, hay bình an. Đem tâm trở về với hơi thở và trụ vào đó. Hít thở sâu và
cảm nhận hơi thở ở mũi, vào trong thân. Hãy thở một hơi thở nữa. Hướng
sự chú tâm đến phần mông hay lòng bàn chân và cảm nhận sức nặng của
thân.
• Khi nghi phát khởi, hãy quán chiếu về sự giác ngộ của Đức Phật, về tính
chất vô thời hạn của Phật pháp và sự đạt được giác ngộ của các đệ tử của
Đức Phật. Nếu bạn đắm chìm trong một suy tưởng nào đó, hãy buông bỏ Khi tâm ái dục đã qua đi, bạn cảm thấy như mình đã trả được một món nợ.
Khi sân hận đã tàn lụi, bạn cảm thấy như vừa thoát khỏi một căn bệnh. Khi
cơn buồn ngủ không còn, bạn cảm thấy như được giải thoát khỏi ngục tù.
Khi trạo hối hoại diệt, bạn cảm thấy như được giải thoát khỏi kiếp nô lệ. Và
khi tâm nghi hoặc không còn nữa, bạn cảm thấy như đã đến được một nơi
an toàn, chắc chắn, không còn lạc lối giữa sa mạc.
Không những bạn cảm thấy hạnh phúc ngay giây phút tâm bất thiện biến
mất, mà cả sau này khi bạn nghĩ đến sự vắng mặt của chúng. Khi nhớ đến
bao khổ đau mà các chướng ngại và kiết sử đã mang đến cho bạn trong quá
khứ, bạn sẽ cảm thấy thật hạnh phúc khi nhận ra rằng chúng không phiền
nhiễu bạn nữa. Tâm bạn thư thái, thanh tịnh. Bạn đã đi tìm trạng thái tâm
này. Giờ bạn đã đạt được, và bạn rất hạnh phúc.
Khi các tâm hành ác đã mờ nhạt, tâm sẵn sàng để vun trồng các tư tưởng
tích cực. Khi tâm hành thiện phát sinh trong lúc tọa thiền, hãy quán sát
chúng một cách đầy chánh niệm mà không bám víu vào chúng. Những tâm
thiện cần được vun trồng, tưới tắm trong thiền quán bao gồm tình thương
yêu, bi mẫn, hỷ, xả, sự thông cảm, chịu đựng, hòa nhã, kiên nhẫn và phục
vụ đối với tất cả mọi chúng sanh. Khi các tâm hành thiện này qua đi, hãy nỗ
lực để vun trồng chúng trở lại, hãy nhớ lý do trước hết tại sao chúng có
mặt. Nguồn gốc của mọi thiện pháp đều ở trong tâm ta. Chỉ là chúng
thường bị các hoàn cảnh tiêu cực che lấp.
Dùng Chánh Tinh Tấn để ngăn cản, chế ngự các tâm hành bất thiện, và để
vun trồng, duy trì tâm hành thiện thì cũng giống như ta đang leo núi. Trước
khi bắt đầu vào cuộc, ta phải cẩn thận để tránh những vấn đề phát sinh trên
đường. Ta phải chắc rằng cơ thể và tâm lý ta thích hợp cho hành động này.
Ta cần mang theo một ít thuốc phòng trường hợp bị bệnh bất thình lình. Ta
phải mang giày thể thao, mang theo dây, gậy, thức ăn, nước uống, và y phục
thích hợp. Những phương tiện này thì cũng giống như Chánh Tinh Tấn để
ngăn trở các trạng thái tâm tiêu cực không phát sinh.
Mặc dầu đã chuẩn bị chu đáo như thế, vẫn sẽ có vấn đề xảy ra. Khi đói khát,
ta dừng lại để ăn uống; khi cần đi nhà vệ sinh, ta cũng làm thế. Khi mỏi mệt,
ta nghỉ ngơi. Khi bị sốt cao, ta phải uống thuốc đã mang theo người. Những
216
hành động này thì giống như là cách ta chế ngự các tâm hành bất thiện khi
chúng phát sinh.
Ta duy trì năng lượng bằng cách nghỉ ngơi, ăn uống điều độ, uống nhiều
nước, và tránh làm việc gì quá độ. Các hoạt động tích cực này cũng giống
như là vun trồng các thiện pháp.
Sau muôn vàn khó khăn, ta cũng lên đến đỉnh, ta cảm thấy thật sự giải thoát,
vui mừng, hài lòng. Ta vui mừng vì đã đạt được mục đích của mình, với
nhiều nỗ lực. Ta có thể nói, " Tôi rất mừng là mọi việc đã qua rồi" hay "Tôi
rất mừng là tôi đã có thể chiến thắng được mọi chướng ngại." Tương tự, khi
bạn vun trồng thiện pháp và duy trì được chúng, bạn vui mừng vì cuộc
chiến đấu của mình đã kết thúc và bạn sẽ không bao giờ phải chiến đấu với
bất thiện pháp nữa. Chánh Tinh Tấn có thể mang đến niềm vui như thế đó.
Khi ta nỗ lực để đạt được hạnh phúc, là nó đã có mặt. Hãy nhớ đến mục
đích của mình, và đừng bao giờ lơ là tinh tấn cho đến khi ta đạt được hạnh
phúc tuyệt đối. Hãy tự nhủ:
Hạnh phúc thay ta được sống an ổn giữa những oán thù.
Giữa những kẻ hung ác, ta không có oán thù.
Hạnh phúc thay ta được sống (với tâm) không bệnh giữa những bệnh tật.
Giữa những người đau yếu, ta thoát khỏi bệnh hoạn.
Hạnh phúc thay ta sống không tham đắm giữa bao ham muốn.
Giữa những kẻ san tham, chúng ta thoát khỏi san tham.
(Dh 197-199) [Tỳ kheo Bhikkhu Buddharakkhita])
Tóm Lược Về Chánh Tinh Tấn
• Chánh Tinh Tấn rất quan trọng trong việc phát triển tâm linh, dầu ít được
nhấn mạnh đến.
217
• Chánh Tinh Tấn có bốn (Tứ chánh cần) : Ngăn cản tâm bất thiện sanh
khởi, chế ngự tâm bất thiện nếu đã sanh khởi, vun trồng tâm thiện, và duy
trì tâm thiện.
• Kiết sử là những khuynh hướng bất thiện đã hằn sâu trong tâm, sanh khởi
do tham và khiến những người bị uế nhiễm sống trong đau khổ. Mười kiết
sử là thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân, ước muốn được tái sinh trong
cõi sắc giới, ước muốn được tái sinh trong cõi vô sắc giới, kiêu mạn, trạo
hối, và vô minh.
• Chướng ngại là biểu hiện của kiết sử dưới dạng thô tháo, cao độ. Ta cần
sử dụng Chánh Tinh Tấn để kiềm chế và điều phục năm chướng ngại là:
tham, sân, thùy miên hôn trầm, trạo cử lo âu và nghi.
• Các phương cách để chế ngự một chướng ngại là: đừng chủ ý đến nó,
hướng sự chú tâm đến chỗ khác, thay thế chướng ngại bằng một đặc tính
trái ngược với nó, tự lý giải, và cuối cùng, nếu tất cả mọi các cách đều thất
bại, thì phải hủy diệt nó với tất cả sức lực của mình.
• Ta chỉ có thể đè nén được các kiết sử, nếu không thể hủy diệt chúng. Các
kiết sử có thể bị làm yếu đi bằng tâm chánh niệm và định; hay sự phát triển
của các đặc tính đối nghịch với chúng cũng sẽ làm chúng yếu hơn nhiều.
Khi các kiết sử cuối cùng bị phá vỡ, là ta đạt được giác ngộ.
• Duy trì chánh niệm để ngăn cản tâm bất thiện phát sinh. Chánh niệm
được phát triển qua giới luật, sự thực hành chánh niệm, tri giác, kiên nhẫn,
và nỗ lực.
• Để chế ngự tâm bất thiện đã sanh khởi, chỉ nhận biết chúng.
• Nếu ta không thể nhận diện được tâm bất thiện một cách nhanh chóng, thì
chúng sẽ tích lũy thêm sức mạnh; lúc đó, ta phải buông bỏ tất cả, để dồn mọi
sự chú tâm vào chúng. Cố gắng quán chiếu về sự nguy hại mà chúng có thể
mang đến và tính vô thường của bất cứ nhân duyên gì đã phát sinh ra
chúng, hay thay thế chúng với các tâm thiện.
• Khi tâm bất thiện đã qua đi, hãy vun trồng tâm thiện bằng cách hồi tưởng
lại các tâm thiện này hữu ích như thế nào và bằng cách chủ tâm tạo ra các
tâm về tình thương, kiên định, bi mẫn, vân vân. Hãy sử dụng bất cứ
phương pháp nào ta biết để phát triển tâm thiện. • Đừng lạc vào trong các chi tiết của việc thực hành mà quên đi cái nhìn
toàn diện. Phải luôn đảm bảo rằng sự nỗ lực của ta thực sự mang lại nhiều
thiện pháp hơn.
• Hãy điều chỉnh cách sống để hỗ trợ cho việc duy trì thiện pháp, nên làm
những việc như là kết bạn với thiện hữu tri thức, học hỏi, tham khảo kinh
sách Phật.
Không có chánh niệm mạnh mẽ, tâm ta sẽ nhanh chóng trở về với những
thói quen cũ; do đó ta phải luôn nỗ lực duy trì tâm thiện hầu giúp ta được
hạnh phúc.
219
CHÁNH NIỆM (BƯỚC 7)
Chánh niệm là sự ý thức, chú tâm từng giây từng phút đến những gì đang
xảy ra quanh và trong ta. Một cách vô thức, chúng ta cảm nhận bản thân và
thế giới chung quanh qua những định kiến hẹp hòi, theo thói quen, tạo ra
bởi vọng tưởng, do đó tư duy, ý thức tâm linh của ta đối với thực tại rất tản
mạn, rối rắm. Chánh niệm giúp chúng ta tạm thời dừng lại mọi suy tưởng,
hình ảnh, phán đoán giá trị, nhận xét nội tâm, ý kiến, và suy diễn. Tâm
chánh niệm chính xác, sâu lắng, cân đối, và không rối rắm. Tâm đó giống
như một tấm gương phản chiếu mà không làm sai lệch bất cứ gì ở trước
gương.
Đức Phật thường khuyên đệ tử "Hãy giữ tâm chánh niệm trước mặt."
"Trước mặt" có nghĩa là ngay giây phút hiện tại. Điều này không chỉ có
nghĩa là phải biết rõ tâm đang làm khi ta hành thiền; mà có nghĩa là ta phải
biết rõ ràng mọi chuyển động vật lý và tâm lý mà chúng ta thực hiện trong
suốt những giờ phút thức tĩnh trong ngày. Nói cách khác, nó có nghĩa là có
mặt ở đây, ngay bây giờ.
Giây phút hiện tại thay đổi quá nhanh đến nỗi chúng ta thường không để ý
đến sự có mặt của nó chút nào. Mỗi sát na tâm giống như một chuỗi hình
ảnh chiếu trên màn hình. Một số hình ảnh đến từ ấn tượng giác quan. Số
khác đến từ ký ức của quá khứ hay viễn ảnh của tương lai. Chánh niệm giúp
chúng ta giữ màn hình đứng yên để chúng ta có thể trở nên ý thức về các
cảm xúc và kinh nghiệm như chúng thật là, không có sự tô vẽ méo mó của
các phản ứng do các điều kiện xã hội hay thói quen tạo ra.
Một khi chúng ta đã tập nhận biết mà không phán xét những gì đang thực
sự xảy ra, là ta có thể quán sát cảm xúc, tư tưởng của mình mà không vướng
mắc, mà không bị lôi cuốn theo các phản ứng của thói quen. Do đó chánh
niệm cho chúng ta thời gian cần thiết để ngăn chặn và chế ngự những thói
quen suy nghĩ và hành động tiêu cực, để vun trồng và duy trì các thói quen
tốt. Chánh niệm giúp ta thoát khỏi sự bộc phát tự động, giúp ta kiểm soát
được tư tưởng, hành động, và lời nói của mình. Hơn thế nữa, chánh niệm đưa đến tri giác, "cái thấy nội tâm" rõ ràng đối với
bản chất của sự vật như chúng thực sự là, không lệch lạc. Với sự thực hành
thường xuyên, trong các thời khóa hành thiền chính thức, cũng như trong
sinh hoạt hằng ngày, chánh niệm giúp chúng ta nhìn thế giới bên ngoài và
bản thân với con mắt của trí tuệ nội tâm. Tri giác là vương miện của tuệ. Mở
được con mắt tuệ là mục đích cốt yếu của chánh niệm, vì tuệ tri về bản chất
thực sự của thực tại là bí mật tối thượng của thanh tịnh và hạnh phúc vững
bền. Chúng ta không cần phải tìm kiếm nó ở bên ngoài; mỗi chúng ta đều có
khả năng nội tại để vun trồng giác tri. Một câu chuyện cổ xưa sẽ làm rõ hơn
điểm này.
Thuở xưa có một vị thiên nhân muốn giấu kín một bí mật quan trọng - bí
mật của hạnh phúc. Đầu tiên ông nghĩ đến việc giấu bí mật đó ở dưới đáy
biển. Nhưng rồi ông tự nhủ, "Không, ta không thể giấu bí mật của ta ở đó.
Con người rất thông minh. Một ngày kia họ sẽ tìm ra nó."
Kế tiếp, vị ấy nghĩ đến việc giấu bí mật trong một hang động. Nhưng rồi
ông cũng từ bỏ ý định đó. "Có nhiều người thăm viếng các hang động này,
họ sẽ tìm ra bí mật ở đó." Sau đó ông nghĩ đến việc giấu bí mật trên đỉnh núi
cao nhất. Nhưng rồi ông cũng nghĩ, "Ngày nay con người rất tò mò. Một
ngày kia sẽ có người leo lên đỉnh núi và khám phá ra nó."
Cuối cùng vị thiên nhân tìm ra được một giải pháp hoàn hảo nhất. "À! Ta
biết một nơi mà không có ai đến đó để tìm kiếm. Ta sẽ chôn giấu bí mật này
trong tâm của chúng sanh."
Vị thiên nhân này đã giấu sự thật trong tâm con người. Giờ hãy để chúng
ta đi tìm nó! Chánh niệm không nhằm mục đích tìm hiểu điều gì ở bên
ngoài. Mục đích của nó là để tìm ra sự thật ẩn chứa bên trong chúng ta -ở
ngay tâm trí này.
Theo Đức Phật tâm ta sáng láng tự nhiên. Trong mỗi sát na, khi thức đầu
tiên phát khởi, nó chói lòa ánh sáng. Tuy nhiên, đối với tâm chưa giác ngộ,
221
Nhưng chúng ta không thể nói rằng tâm đã sẵn thanh tịnh thì ta không cần
phải làm gì cả. Chúng ta phải tu tập để khiến nó luôn được như thế. Chúng
ta phải chùi rửa tâm trong sáng này để ánh sáng tự nhiên đó không bị bất cứ
nhiễm ô nào làm mờ đục. Trí tuệ được vun trồng với chánh niệm sẽ thiêu
đốt chướng ngại của tham, sân, và si. Chúng ta càng tháo gỡ được nhiều
chướng ngại, thì tâm càng trở nên tự tại, hạnh phúc, và chiếu sáng. Chánh
niệm cũng ngăn trở không để cho các lậu hoặc lại phát khởi. Do đó, bí mật
thâm sâu của hạnh phúc được giấu kín là chân lý này đây: hạnh phúc đến từ
bên trong bản tâm của ta qua việc sử dụng chánh niệm để dẹp bỏ tham, sân,
và si. Bí mật của hạnh phúc được hiển lộ khi các lớp vỏ của nhiễm ô được lột
bỏ bởi trí tuệ.
Chánh niệm đưa đến giác tri như thế nào, và giác tri giúp ta buông bỏ các
chướng ngại như thế nào? Khi hành giả quay vào quán sát nội tâm, cố gắng
để hiểu sự thật về hạnh phúc, hành giả ý thức và quán sát năm uẩn của thân
tâm. Khi hành giả quán sát một cách có chánh niệm, hành giả bắt đầu thấy
mỗi uẩn phát sinh, tăng trưởng, sung mãn, suy yếu, rồi hoại diệt đi như thế
nào.
Thí dụ, tấm thân đẹp đẽ này mà ta luôn cẩn thận gìn giữ sức khỏe cho nó
đang thay đổi từng giây phút. Khi ta đang đọc những dòng này, mỗi tế bào,
mỗi mô và những phần nhỏ nhất của thân vật lý đang thay đổi - tăng
trưởng, hư hoại. Trái tim đang đập, phổi, thận, gan, óc, vân vân đang hoạt
động. Trong khi các bộ phận vật lý này đang thay đổi, thì thọ, tưởng, thức
và các đối tượng tâm linh cũng phát sinh rồi qua đi. Chánh niệm trong giây
phút hiện tại tạo cho ta tri giác về những sự thay đổi này - vào tính chất vô
thường không thể tránh được của tất cả vạn pháp.
Nhận thức được tính chất vô thường của vạn pháp sẽ cho ta cơ hội để nhận
biết khổ do vô thường tạo ra. Thí dụ, hãy hồi tưởng lại những cảm thọ tuyệt
vời mà bạn đã trải qua trong quá khứ. Giờ đây các cảm thọ đó có hoàn toàn
giống như trước không, dầu bạn có thể tạo dựng lại hoàn cảnh, môi trường
như xưa? Biết được rằng những gì thuộc về quá khứ đã qua đi mãi mãi
khiến ta cảm thấy buồn. Khi chúng ta có thể thấy mọi thứ đều qua đi như
thế nào - thân, thọ, con người và vật chất mà ta thương yêu, trân quý -
không chỉ trong từng giây phút mà rất nhiều lần trong những giây phút đó,
là ta thấy được nguyên nhân của khổ: tâm bám víu vào các pháp luôn biến
chuyển không dừng dứt.
Cuối cùng, chánh niệm tạo cho chúng ta tri giác về sự hiện hữu thực sự của
vạn pháp, kể cả con người. Tri giác về vô thường và khổ giúp ta thấy rằng
thực tại không phải là cái gì "ở bên ngoài", tách biệt khỏi chúng ta. Đúng ra,
thực tại là sự trải nghiệm luôn thay đổi của chúng ta đối với thế giới không
ngừng biến chuyển -thế giới nội tại và thế giới mà ta cảm nhận được qua các
giác quan.
Tu tập chánh niệm giúp ta thấy việc không chấp nhận, chống đối lại với
những gì xảy ra trong cuộc đời là vô ích. Chúng ta không chặt tay mình khi
nó làm điều gì xấu. Tương tự, nếu ta xa lánh những người hành xử khác ta,
thì thật dại khờ, vì tất cả chúng ta đều là một phần của thế giới luôn biến
chuyển, luôn khổ đau này. Tranh chấp với thế giới thì cũng giống như bàn
tay này đánh đấm với bàn tay kia, hay con mắt bên phải đối nghịch với con
mắt trái.
Chúng ta khám phá ra cuộc đời không phải là một cái gì bất biến. Nó là một
dòng chảy mãnh liệt của những biến đổi không dừng. Khi đi tìm kiếm ý
nghĩa của cuộc đời, tất cả những gì ta có thể tìm thấy là sự thay đổi này. Khi
chúng ta tiếp tục quán tưởng về khía cạnh nổi bật này, ta sẽ không thấy bản
chất vững bền hay thường hằng trong đó - không có cái ngã hay linh hồn
bền vững, thường hằng nào ở bên trong để ta có thể bám víu vào, và cũng
không có cái ngã hay linh hồn bền vững, thường hằng nào ở tha nhân để ta
tranh cãi với.
Do đó, chánh niệm mang đến cho ta tri kiến về ba tính chất của vạn pháp: vô
thường, khổ, và vô ngã. Quay vào nội tâm, tự quán sát mình, ta sẽ thấy thân
vật chất này biến đổi nhanh chóng đến dường nào, và những sự thay đổi
này khiến ta đau khổ biết bao. Ta đã ước muốn mãnh liệt đến thế nào để
không còn phải tái sinh, không phải già, bệnh, không phải trải qua những
khổ đau, thất vọng, hay sầu não nữa. Ta biết khổ khi bám víu vào người
hay vật mà ta ưa thích, hoặc tránh né người hay vật mà ta không ưa thích.
Ta ý thức rằng bất cứ ham muốn nào, dầu vi tế hay cao cả đến đâu, cũng
223
mang đến khổ đau. Ngay chính lòng ham muốn chế ngự dục tham -dầu là
thiện và cần thiết cho sự tiến bộ- cũng là khổ. Cuối cùng, chúng ta thấy rằng
cảm nhận về cái ngã, sự xác tín cá nhân (personal identification) mà ta bảo
vệ một cách mãnh liệt, cũng chỉ là ảo tưởng, vì chúng ta là một quá trình,
một dòng chảy không ngừng của vật chất, tình cảm, và những biến động
tâm linh mới mẻ trong từng phút giây.
Ấn Độ giáo đã diễn tả chân lý này một cách sống động khi họ nói đến ba vị
thần -vị thần sáng tạo Brahma, vị thần bảo vệ Vishnu và vị thần hủy diệt
Shiva. Vị sáng tạo là giai đoạn phát khởi; vị bảo vệ là giai đoạn sung mãn;
và vị hủy diệt là giai đoạn hoại diệt. Mỗi giây phút một pháp nào đó phát
khởi; mỗi giây phút một pháp nào đó sung mãn; và mỗi giây phút một pháp
nào đó bị hoại diệt. Không có giây phút nào ngưng đọng, vì không có gì,
ngay chỉ trong một tích tắc thời gian, là còn nguyên vẹn. Quá trình này tiếp
diễn không ngừng nghỉ.
Khi đã đạt được tri kiến này, ta có thể để cho các xúc cảm, cảm thọ, suy
tưởng đi qua tâm mà không níu giữ lại bất cứ thứ gì, dầu rằng chúng dễ
chịu, thoải mái thế nào. Trái lại, khi các trạng thái khó chịu, đau đớn, hay
không thể chịu đựng xuất hiện, ta cũng để chúng qua đi mà không trở nên
bực bội. Chúng ta chỉ để sự việc xảy ra mà không cố gắng ngăn chặn chúng,
không bám víu chúng mà cũng không tránh né chúng. Chúng ta chỉ nhận
biết sự vật như chúng là.
Chúng ta thấy, không chỉ với con mắt của trí tuệ mà ngay cả với sự tĩnh thức
hằng ngày, rằng tất cả mọi vật, mọi chúng sanh hiện hữu dựa vào những
nhân duyên luôn biến đổi. Vì không có gì thường hằng để bám víu vào và
không có gì thường hằng để xua đẩy đi, chúng ta tự tại với một tâm hoàn
toàn an tĩnh, hoàn toàn hạnh phúc.
Bốn Lãnh Vực Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ)
Chánh niệm là sự ứng dụng thiền trong cuộc sống. Những phương pháp
thực hành chánh niệm được nói đến sau đây dựa vào bài pháp do Đức Phật
giảng với các đệ tử của Ngài về bốn nền tảng của chánh niệm, (Maha-Satipatthana Sutta, Kinh Đại Niệm Xứ, D 22). Trong bản kinh đó, Đức Phật
dạy nhiều phương pháp thiền định. Ngài bắt đầu với sự giải thích mỗi
phương pháp bằng những lời, "Lại nữa, này các tỳ kheo ...". Với những lời
này Đức Phật muốn truyền dạy rằng cần đem các phương pháp này ra thực
hành. Ngài tuyên thuyết rõ ràng rằng bất cứ ai thực hành chánh niệm theo
các phương pháp này chắc chắn sẽ đạt được hạnh phúc lâu bền trong giác
ngộ. Tuy nhiên với nhiều phương pháp như thế, làm sao chúng ta có thể
thực hành tất cả?
Sự khác biệt trong các phương pháp mà Đức Phật đã dạy chỉ gây khó khăn
cho những ai chưa quen với giáo pháp. Thực ra, các phương cách thực hành
đều dựa trên các sinh hoạt hằng ngày của chúng ta. Hơn nữa, các phương
pháp của Đức Phật đều dựa trên trí tuệ siêu việt của Ngài về cách mà tâm
chúng sanh vận hành.
Lấy thí dụ một em bé. Bé rất dễ thương và tuyệt vời nhưng cũng rất đòi hỏi.
Em bé đòi ăn, đòi tả sạch, đòi không khí trong lành, đòi ngủ, và nhiều thứ
khác nữa, trong khi sự chú tâm em bé rất ngắn. Bậc làm cha mẹ có bổn phận
giữ cho em bé bận rộn và khuyến khích bé bằng cách chắc chắn rằng bé có
một số đồ chơi hữu ích và những hoạt động khác nhau. Tâm chúng ta cũng
đòi hỏi tương tự như thế, và sự chú tâm của chúng ta đôi khi cũng ngắn
ngủi như của một em bé. Đức Phật hiểu điều này. Ngài liệt kê cho chúng ta
cả một danh sách những việc cần làm. Chúng ta có thể bắt đầu với bất cứ
đối tượng nào của thiền quán. Hơi thở, cảm thọ, một trạng thái tâm, một
trong những chướng ngại hay kiết sử - không quan trọng là gì- vì bất cứ cái
gì chúng ta chú tâm vào, không lâu sau sẽ thay đổi. Khi tâm hướng đến điều
gì đó bất thiện, ta lập tức thay nó với điều gì đó tốt hơn, giống như khi cha
mẹ đưa cho em bé một quả bóng để lấy cất cái kéo mà bé vừa cầm được. Khi
tâm hướng đến điều thiện, ta sẽ khuyến khích nó.
Bất cứ điều gì phát khởi trong tâm sẽ trở thành đối tượng của thiền chánh
niệm. Chúng ta có thể dùng bất cứ đối tượng nào để phát triển thêm trí tuệ
của chúng ta về ba tính chất của mọi hiện hữu: vô thường, khổ, và vô ngã.
Khi một tư tưởng nào đó hoại diệt đi một cách tự nhiên, chúng ta chuyển
tâm trở lại với đối tượng thiền quán ban đầu. Có thể bạn sẽ tự hỏi, "Nếu tâm tôi không trụ vào đối tượng thiền quán đầu
tiên thì sao? Nếu tôi chọn quán chiếu trên ba mươi hai phần của thân,
nhưng trong một tiếng đồng hồ tôi chỉ mới quán được năm phần đầu tiên
thì sao?" Nếu các đối tượng thiền quán khác sinh khởi nơi tâm và bạn sử
dụng chúng để quán chiếu về ba đặc tính của thực tại, thì đâu có vấn đề gì?
Bất cứ phương pháp thiền nào mà có thể giúp bạn nhận ra được chân lý, thì
đó là một phương cách hữu hiệu. Đừng hy vọng rằng tâm sẽ trụ trên đối
tượng này hay đối tượng kia. Bản chất tự nhiên của tâm là biến đổi. Nó đi
từ đối tượng này đến đối tượng khác.
Nhưng không nên cố ý nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác. Bắt đầu
với sự chú tâm vào một đối tượng thiền quán, như là thân, và chỉ chuyển
đến đối tượng khác khi nó tự nhiên sinh khởi. Thí dụ ta đang chú tâm vào
hơi thở, bỗng nhiên một tư tưởng phát khởi khiến ta nghĩ về bệnh da của
mình. Khi tư tưởng đó qua đi, tâm sẽ trở về với hơi thở kế tiếp. Nếu không
thể dứt chú tâm về da, ta nên quán tưởng về sự vô thường của da - nó mong
manh như thế nào, luôn chuyển đổi như thế nào, và sẽ trở nên nhăn nheo
như thế nào. Ta cũng nên quán về việc chấp vào da sẽ vô ích và phiền não
như thế nào, vì dầu ta cố gắng thế nào, nó cũng sẽ phải thay đổi, mà ta càng
bám víu vào nó, ta càng khổ đau. Ta cũng nên nghĩ đến tính vô ngã của da -
không có "cái ta" nào trong đó để làm chủ nó. Sau đó ta quán sát khi các tư
tưởng này qua đi. Ta cũng nhận thấy rằng hành động quán sát là sự nhận
thức đầy chánh niệm về các luồng tư tưởng, chính nó cũng vô thường. Khi
tất cả mọi tư tưởng đã lắng dịu, ta hãy để tâm trở về với hơi thở. Rồi khi bất
cứ tư tưởng mới nào phát sinh, ta cũng quán sát chúng theo cách như thế.
Thực hành theo phương cách này, dần dần các tư tưởng sẽ dừng bặt và tâm
đạt được định.
Các phương pháp thiền quán của Đức Phật giống như một tủ đựng đầy
thuốc. Bạn không thể uống tất cả các loại thuốc cùng lúc, cũng như bạn
không thể thực hành mọi thứ trong bốn lãnh vực chánh niệm (Tứ niệm xứ)
cùng một lúc. Hãy bắt đầu với bất cứ lãnh vực nào bạn cảm thấy thoải mái.
Rồi trong quá trình thiền quán, bạn có thể quán về một lãnh vực khác, tùy
thuộc vào đối tượng thiền quán phát sinh. Hiện tại tâm của ta có vẻ lăng
xăng, lộn xộn, nhưng nó sẽ dần lắng xuống. Khi tâm chánh niệm đã trở nên
226
mạnh mẽ, sắc bén, tự nhiên tâm sẽ bắt đầu quán xét các khía cạnh sâu sắc
hơn trong giáo lý của Đức Phật.
Bốn lãnh vực của Chánh Niệm là:
• Chánh niệm về thân
• Chánh niệm về thọ
• Chánh niệm về tâm
• Chánh niệm về đối tượng của tâm
Chúng ta bắt đầu với sự chánh niệm về thân, đặc biệt là về hơi thở. Thiền
quán dựa trên hơi thở tạo cho tâm và thân thời gian để lắng xuống. Sau đó,
khi các lãnh vực chánh niệm khác phát sinh, ta có thể ý thức về chúng. Dầu
đối tượng nào phát khởi, dầu cho đó là sắc pháp hay tâm pháp, ta cũng phải
quán về tính chất vô thường, khổ, và vô ngã của nó.
Quán Thân
Cho đến giờ, chúng ta chỉ nói đến hơi thở như là một đối tượng của thiền
quán - và thật thế nó có thể đưa ta đi trọn con đường đến hoàn toàn giải
thoát. Nhưng ta cũng có thể sử dụng các đối tượng khác. Theo truyền thống
chúng ta có thể kể đến bốn mươi loại đối tượng thiền quán chánh yếu, kể cả
thân và các bộ phận của thân. Ba trong các phương cách hữu hiệu nhất để
vun trồng chánh niệm về thân là: chánh niệm về hơi thở, chánh niệm về các
tư thế và chánh niệm về các bộ phận cơ thể.
Chánh Niệm Về Hơi Thở
Đức Phật khuyên chúng ta nên bắt đầu hành thiền minh sát với chánh niệm
dựa trên hơi thở. Hơi thở là một đối tượng vừa luôn có mặt, vừa luôn biến
đổi theo một cách mà tự nhiên sẽ khiến ta phải chú tâm. Khi tâm hòa hợp
theo hơi thở vào ra, ta có thể chú tâm vào giây phút hiện tại một cách tự
nhiên. Ta có thể nhận biết cảm giác phát khởi từ sự tiếp xúc của hơi thở ở bờ mũi. Ta có thể nhận biết hơi thở vào dài hay hơi thở ra dài. Ta cũng có
thể nhận biết khi độ dài của hơi thở thay đổi, và hơi thở vào ra nhanh chậm
hơn trước đó. Ta cũng có thể nhận biết khi một dọc hơi thở ngắn bị gián
đoạn bởi một hơi thở dài sâu. Ta cũng có thể nhận biết sự căng phồng hay
xẹp xuống nơi lồng ngực, bụng, và bụng dưới. Quán sát được các trạng thái
này của hơi thở khiến tâm luôn có mặt trong giây phút hiện tại.
Quán sát hơi thở với chánh niệm có thể giúp ta biết nhiều điều về việc tâm
vận hành như thế nào. Khi hít vào, ta cảm nhận được sự an tĩnh ở một mức
độ thấp. Khi thở ra, ta cảm nhận được sự an tĩnh ở một mức độ thấp. Sự an
tĩnh mà ta có được do kết quả của việc hít vào bị gián đoạn bởi sự thở ra, và
ngược lại. Tuy nhiên, nếu ta giữ hơi thở vào lâu hơn bình thường một chút
để kéo dài cảm giác an tĩnh, ta sẽ cảm thấy căng; tương tự, nếu ta đợi một
lúc lâu hơn bình thường trước khi hít vào lại để kéo dài cảm giác an tĩnh, ta
cũng cảm thấy căng thẳng. Nếu giữ hơi thở vào hay ra lâu thái quá còn có
thể tạo ra cảm giác đau đớn.
Qua sự quán sát này, ta thấy rằng mình muốn được an tĩnh, giải tỏa căng
thẳng và muốn tránh sự khó chịu của việc chờ đợi quá lâu trước khi hít vào
hay thở ra. Ta thấy rằng ta muốn sự an tĩnh do quy trình hít thở tạo ra, sẽ
kéo dài hơn và sự căng thẳng sẽ sớm qua đi. Vì cảm giác căng thẳng không
qua đi nhanh như ta muốn, cũng như sự an tĩnh không kéo dài như ta
mong, ta trở nên bực bội. Do đó chỉ với việc quán sát hơi thở, ta cũng thấy
rằng ngay chính với một ước muốn nhỏ về sự thường hằng trong một thế
giới vô thường, cũng có thể đưa đến khổ. Hơn thế nữa, vì không có một bản
ngã nào để làm chủ tình thế, ước muốn được an tĩnh và giải tỏa căng thẳng
sẽ luôn khiến ta cảm thấy bất lực. Tuy nhiên, nếu ta thư giãn tâm để quán
sát hơi thở mà không mong cầu sự an tĩnh hay tránh né căng thẳng đã phát
sinh, chỉ trải nghiệm sự vô thường, khổ, và vô ngã của hơi thở, tâm sẽ trở
nên bình an, thanh tịnh.
Trong khi ta đang thực hành chánh niệm về hơi thở, tâm không trụ hẳn vào
hơi thở vào, ra. Tâm còn đi đến các đối tượng giác quan như là âm thanh,
hay đối tượng tâm thức như là ký ức, tình cảm hay tưởng. Khi điều đó xảy
ra, ta cần phải quên hơi thở một lúc và chủ tâm vào các đối tượng này -từng
đối tượng một. Khi các đối tượng qua đi, hãy để tâm trở về với hơi thở, là
'căn cứ' của tâm sau những chuyến du hành dài, ngắn đến các trạng thái
khác nhau của thân và tâm.
Mỗi khi tâm trở về lại với hơi thở, nó trở về với một tri giác sâu lắng hơn về
vô thường, khổ và vô ngã. Như thế, qua sự quán sát không phân biệt, không
chấp vào các sự kiện này, tâm đã nhận thức được rằng các uẩn này - sắc,
thọ, tưởng, hành, và thức - chỉ hiện hữu vì mục đích để đạt được tuệ giác
sâu xa vào trong thực tại của thân và tâm. Chúng không phải có mặt ở đây
để ta bám víu vào chúng.
Chánh Niệm Về Các Tư Thế
Chánh niệm về các tư thế có nghĩa là đi, đứng, nằm, ngồi với sự chú tâm
đầy chánh niệm. Có lẽ bạn sẽ hỏi, "Có gì trong các hoạt động này để ta phải
chánh niệm đến? Khi đi, ta đi. Khi ngồi, ta ngồi. Khi nằm xuống, ta nằm
xuống. Ta biết ta đang làm gì. Vậy, ta có thể đạt được tri kiến hay tuệ giác
đặc biệt gì khi chú tâm vào các hành động này?" Khi chánh niệm về các oai
nghi của thân, ta sẽ nhận thấy rằng các chuyển động vật lý luôn biến đổi
ngay nếu như ta đang cố giữ thân yên. Tim vẫn đập, nhiệt tỏa đi khắp cơ
thể, phổi phình lên, xẹp xuống. Hãy chánh niệm về sự vô thường của
chúng. Ta có thể nhận thấy rằng, đối với các chuyển động bên ngoài thân, ta
còn có chút ít kiểm soát, nhưng hoàn toàn không thể làm gì đối với các
chuyển động vi tế bên trong thân. Sự bất lực này khiến ta bức xúc. Nhận
thức được như thế, ta vun trồng tuệ giác về bản chất khổ và vô ngã của các
chuyển động nơi thân.
Ta cũng cần quán sát các yếu tố vật lý cấu tạo nên thân và những vật chất
mà ta tiếp xúc - thí dụ, sự nặng nề, cứng chắc của yếu tố đất. Quán sát xem
tất cả các yếu tố vật lý này luôn biến đổi như thế nào. Quán sát xem tất cả
những trải nghiệm vật lý của ta vô thường ra làm sao. Tuy nhiên, cũng
giống như khi ta chánh niệm về hơi thở, không nên chỉ chú tâm vào những
thay đổi vật lý. Khi bất cứ yếu tố tâm linh nào trở thành nổi bật, hãy hướng
sự chú tâm đến chúng. Thọ và tưởng tạo ra bởi những chuyển động vật lý
luôn thay đổi; hãy nhận biết tính vô thường của chúng. Nếu trong khi ngồi, đứng, đi hay nằm, ta nhận biết có những tư tưởng về tham, sân, hay nghi -
hay về tâm bi mẫn, thương yêu, hoan hỷ- hãy quán sát khi chúng sinh khởi
và hoại diệt. Ta không thể tạo dựng hay cản trở được những sự sinh khởi,
hoại diệt tự động nơi thân, thọ, tưởng, hành và thức. Hãy nhớ những điều
này khi ta đi, đứng, nằm ngồi, hãy quán sát tính vô thường, khổ, và vô ngã
của tất cả các pháp. Trong mọi tư thế và trong mọi hoạt động, như là khi ta
đưa tay mở cửa, đi trong siêu thị, hay nằm xuống để ngủ, tiếp tục vun trồng
tuệ giác đối với các tính chất này của năm uẩn.
Hành giả có thể hoàn thiện khả năng nhận biết các tính chất này của các uẩn
bằng cách thực hành thiền bằng những chuyển động thật chậm chạp. Hãy
nghĩ đến một cuộn video quay chậm trở lại của một trò chơi thể thao. Khi
chuyển động ở mức độ bình thường, chúng ta không thấy những chi tiết vi
tế, nhưng khi quay chậm trở lại, ta có thể thấy những tiểu xảo, những lối
chơi xấu nhau của các vận động viên. Cũng thế khi chúng ta di chuyển một
cách chậm chạp, như khi thiền hành, chúng ta có thể nhận biết được những
sự thay đổi của tư thế để tạo nên một hành động -giở gót, đưa tới, đặt chân,
và chạm mặt sàn nhà.
Nếu bạn đã thực hành việc ngồi thiền chú tâm vào hơi thở được một thời
gian và quyết định thực hành chánh niệm về thiền hành một cách chậm rãi,
thì đây là điều bạn phải làm:
Từ từ đứng dậy, tiếp tục chú tâm vào hơi thở vào, ra. Khi bạn đang đứng,
hãy ý thức đến những sự thay đổi trong các cảm giác vật lý và các tưởng.
Hãy biết rằng mọi bộ phận trên cơ thể phải liên kết với nhau để bạn có thể
đứng được. Trong lúc đứng, tiếp tục quán sát hơi thở.
Giờ, trong lúc hít vào, hãy nhón một gót chân lên, và trong lúc thở ra, hãy
đặt chân xuống trên mấy đầu ngón chân. Kế tiếp, trong lúc hít vào, hãy đưa
cả bàn chân lên và bước tới, và trong khi thở ra, từ từ hạ nó xuống và đặt
bàn chân xuống sàn nhà. Lập lại quy trình đó với bàn chân bên kia. Khi bạn
đi một cách có chánh niệm như thế, chú tâm vào hơi thở, bạn sẽ bắt đầu thấy
tất cả mọi phần của thân từ đầu đến chân đều chuyển đổi, liên kết, ăn nhịp
với nhau như thế nào, trong quá trình đi. Thí dụ, ta thấy rằng các cử động
vật lý tạo ra bước đi bắt đầu với những chủ đích nơi tâm. Ta thấy chủ đích
230
để giở bàn chân lên, chủ đích đưa nó ra phía trước, và chủ đích đặt nó
xuống, chạm sàn nhà. Cùng lúc với các chủ đích này, các cử động được
thành hình. Ý và hành xảy ra cùng lúc với nhau rất nhanh đến nỗi ta không
còn kịp thấy sự liên kết của chúng.
Dĩ nhiên, không ai nghĩ đến tất cả những bước này trong quy trình thiền
hành. Họ chỉ đi tới! Tất cả mọi thứ xảy ra trong tíc tắc của giây. Tuy nhiên,
khi bạn làm chậm lại tiến trình và quán sát từng cử động một cách chánh
niệm, bạn sẽ thấy rằng nhiều cử động khác nhau phải cùng kết hợp lại để
việc bước đi tới có thể xảy ra. Khi ý muốn đi tới phát khởi trong tâm, thì
năng lực được tạo thành, lan tỏa khắp thân qua hệ thần kinh. Rất nhiều tế
bào thần kinh khác nhau kết hợp để chuyển tải thông điệp đó, và nhiều bộ
phận khác của thân tạo ra những cử động cần thiết. Các cơ co duỗi, các
khớp đàn hồi, và sự cân bằng lại được đảm nhiệm bởi nhiều cơ cấu phức tạp
khác nữa.
Thực hành theo như trên, ta có thể thấy rất rõ về tính vô thường. Thí dụ, bạn
có ý giở chân mặt, nhưng khi bạn vừa giở nó lên, ý thức đó đã qua đi và cảm
giác mà bạn có trước khi bàn chân được giở lên cũng đã qua đi. Khi tỳ trên
các ngón chân, bạn có một cảm giác, và khi bước tới, cảm giác đó cũng mất
đi, và một cảm giác mới lại phát sinh.
Tương tự, tâm cũng luôn thay đổi. Khi trọng lượng thân được chia đều
thăng bằng, tâm ta sẽ có cảm giác dễ chịu, thăng bằng. Nhưng khi trọng
lượng thân di chuyển (bước tới), thì cảm giác đó cũng thay đổi. Do đó tâm
chờ đợi một giây phút dễ chịu khác phát sinh. Nhưng khi giây phút dễ chịu,
thăng bằng kế tiếp phát sinh, nó cũng qua đi. Mỗi lần từ một giây phút dễ
chịu chuyển sang khó chịu, tâm cảm thấy thất vọng. Sự lặp đi lặp lại của
những giây phút dễ chịu, rồi khó chịu, khiến ta mệt mỏi. Mệt mỏi là một
trạng thái thất vọng kéo dài bị dồn nén tích lũy qua những lần thay đổi lặp
đi lặp lại.
Trong khi chú tâm đến những chuyển động của đi, ta cũng nhận biết được
các dòng tư tưởng thay đổi không dừng. Khi đang đi, ta có thể cảm thấy sợ
hãi, lo lắng, căng thẳng, ham muốn, giận dữ, ghen tức, hay tham đắm.
Trong đầu ta có thể phát khởi ý nghĩ, "Ta đang kinh hành rất chánh niệm.
231
Ta mong là mọi người đều nhận thấy ta đang tiến bộ thế nào." Những suy
nghĩ như thế phát xuất từ lòng tự hào hay lòng ham muốn được chấp nhận.
Ta cũng đã học cách đối phó với chúng. Trước tiên ta phải trở nên chánh
niệm đối với chúng. Nếu chúng không qua đi, ta áp dụng những phương
pháp dùng để chế ngự các trạng thái tâm bất thiện mà ta đã thực hành trong
lúc ngồi thiền. Sau đó ta tiến tới việc làm tăng trưởng các hoạt động tâm linh
thiện bằng cách buông bỏ lòng tham và sân và bằng cách vun trồng tình
thương, lòng hoan hỷ và xả.
Điều quan trọng là ta phải có biện pháp để ngăn chặn các trạng thái tâm tiêu
cực phát sinh. Có một thiền sinh trẻ đã thú nhận với tôi về những gì đã xảy
ra trong tâm, khi anh đi kinh hành ở phía sau một phụ nữ trẻ đẹp. Anh buồn
bã nói, "Thưa Sư, có một cô gái đi trước mặt con. Và suốt thời gian kinh
hành, con không thể dứt tâm ra khỏi cô ấy". Vài năm sau, tôi đã gặp lại
người thiền sinh ấy. Tiếc thay, tâm anh ta vẫn còn loạn động, không thể
kiềm chế. Đó là vì anh ta không thể áp dụng các phương pháp chế ngự tâm
bất thiện. Chúng trở ngại sự tu tập của anh, khiến anh không thể tiến bộ.
Đi một cách có chánh niệm còn có thể giúp ta nhận thức rằng các hoạt động
phức tạp của thân-tâm này, không có một chủ thể thường hằng nào ở phía
sau đó để điều hành chúng. Không có một thứ gì mà ta có thể gọi là "ngã"
hay "cái tôi" điều khiển những dòng tư tưởng và hành động phức tạp trong
tất cả mọi thứ ta làm.
Làm thế nào mà thiền hành có thể đưa đến tuệ giác này? Trong khi đi, bạn
quán sát một cách đầy chánh niệm về tư thế và sự chuyển động của thân.
Bạn cũng ý thức về các cảm thọ, tưởng và các trạng thái tâm thức khác nhau
khi chúng phát khởi. Bất cứ khi nào ý nghĩ "Tôi đang đi" khởi lên, hãy tự
hỏi, "Gì là 'cái tôi' này? Có phải là thân này? Nó có giống hay khác với thân?
Nó ở trong hay ở ngoài thân? Thân có ở trong 'tôi' hay 'tôi' ở trong thân?"
(Đây là những câu hỏi không có chủ thể để tìm hiểu thực tại, không giống
như những câu hỏi từ tâm nghi như là "Tôi là ai?", hàm ý rằng ngã hiện
hữu.)
Ta sẽ không thể nào trả lời thỏa đáng cho các câu hỏi này. Tâm sẽ nói rằng
"tôi" là người đang giở chân lên, đưa nó ra trước, và đặt nó xuống sàn.
232
Nhưng cũng chính "tôi" đang đứng, thở, nhìn, nghe, nghĩ, hồi tưởng, cảm
nhận, và tham dự vào nhiều hoạt động khác nhau trong từng giây phút.
Những chuyển động và hoạt động này biến đổi quá nhanh đến nỗi ta không
thể để ý đến tất cả. "Tôi thở vào" thì khác với "Tôi đi," mà cũng khác với
"Tôi thấy," "Tôi hồi tưởng" hay "Tôi cảm thấy buồn". Ta không thể tìm
được một "cái tôi" nào không tùy thuộc vào những việc ta đang làm, trong
bất cứ hoạt động nào.
Bạn sẽ bắt đầu thấy rằng "tôi" chỉ là một khái niệm chúng ta sử dụng cho
tiện lợi để chỉ cho một dòng trải nghiệm không dừng đổi thay. Không có
một chủ thể độc lập duy nhất nào hiện hữu trong thân hay tâm. Ý niệm về
"cái tôi" thay đổi nhiều lần trong ngày tùy thuộc vào hoạt động mà "tôi"
đang tham dự. Nó không có một sự hiện hữu độc lập nào dầu chỉ trong phút
giây. "Cái tôi" chỉ hiện hữu khi bạn nghĩ đến nó. Do đó sự có mặt của "tôi"
cũng do duyên hợp như mọi thứ khác.
Do đó bước chậm rãi và đầy chánh niệm là một cách hành thiền hoàn toàn
có thể biểu lộ cho ta thấy tự tính vô thường, khổ và vô ngã có mặt trong
từng phút giây như thế nào. Phương pháp này cũng có thể áp dụng cho các
tư thế ngồi, đứng và nằm. Dĩ nhiên đây không phải là cách ta cử động bình
thường, mà là một phương cách đặc biệt chúng ta dùng để rèn luyện tâm.
Chủ yếu không phải chỉ để đặt thân vào các chuyển động chậm rãi mà là để
phân tích cách mà thân và tâm kết hợp với nhau để tạo ra một tư thế, và để
thấy sự vô thường, khổ và vô ngã của thân và tâm.
Trong khi theo dõi các tư thế của thân, ta có cơ hội tốt để quán sát những gì
đang xảy ra trong tâm, để xem các trạng thái như tham, sân, ganh tỵ, hay sợ
hãi có phát sinh không. Khi tâm không tán loạn, ta dễ nhận biết sự sinh
khởi của chúng. Một khi bạn đã tự rèn luyện để quán sát các trạng thái tiêu
cực này trong khi hành thiền chánh niệm về các oai nghi khác nhau - đi,
đứng, nằm, ngồi- thì bạn cũng có thể đem tâm tinh tấn đó áp dụng cho tất cả
mọi hoạt động khác trong đời sống hằng ngày.
Chánh Niệm Về Các Bộ Phận Của Thân
Quán sát các bộ phận của thân giúp ta chấm dứt mọi quan niệm sai lầm về
thân. Khi ta phân chia thân thành nhiều bộ phận trong tâm, ta sẽ thấy thân
và các bộ phận của thân đúng như chúng thật là.
Thường chúng ta không nhìn thân với cái nhìn phân tích như thế. Chúng ta
ít khi nghĩ đến các bộ phận của thân trừ khi có điều gì trục trặc hay khi
chúng ta bị đau nhức. Đức Phật đã nói đến phương pháp thiền này bằng
một từ Pali có nghĩa "đi ngược dòng." Nói như thế Đức Phật muốn ám chỉ
rằng khi thực hành phương pháp thiền này, chúng ta đi ngược lại với cách
mà ta thông thường nghĩ về thân.
Người ta thường có cảm giác ghê tởm khi nghĩ về một số bộ phận trong
thân. Họ không nề hà mang các bộ phận này trong thân và coi chúng rất
quý báu. Nhưng khi nghĩ về chúng, họ cảm thấy tởm nhởm. Người khác thì
lại chấp vào các bộ phận nào đó của thân, coi chúng như là đẹp đẽ, thường
hằng, hoặc họ cảm thấy kiêu hãnh về vẻ ưa nhìn của mình, về sức khỏe tốt
hay về sức lực của họ. Phương pháp thiền này có thể giúp ta bỏ được
những ảo tưởng đó. Nó giúp ta xem thân như nó là mà không gớm ghiếc
hay bám víu vào đó.
Đức Phật khuyên thiền giả hãy chia thân ra làm ba mươi hai phần trong
tâm. Trong đó, hai mươi là chất rắn hay là những bộ phận thuộc về đất và
mười hai là nước. Hai mươi bộ phận rắn chắc là tóc trên đầu, lông trên thân,
móng tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, lá lách, lồng ngực,
ngực, ruột già, ruột non, thực phẩm chưa tiêu hóa, phân, và óc. Mười hai bộ
phận chất lỏng là mật, đờm, dãi, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước
miếng, nước nhầy, nước nhờn ở các khớp, và nước tiểu.
Ngoài ra, Đức Phật liệt kê mười quy trình (process) thuộc về thân liên quan
đến lửa và gió. Bốn quy trình thân liên quan với lửa là nhiệt do sự tiêu hóa
thực phẩm, nhiệt do lão hóa, nhiệt do lòng sân hận, và thân nhiệt. Sáu quy
trình liên quan đến gió là ợ, xì hơi, khí trong bộ máy tiêu hóa, gió trong lỗ
chân lông, hơi thở vào và hơi thở ra.
234
Có thể nói phương pháp thiền này rất giống với cách một nhà sinh vật học
quán sát thân. Nhà sinh vật học sau khi mổ xẻ một con vật không bỏ chạy
khi ruột gan con vật phơi bày ra. Trái lại, người ấy muốn nhìn xem các bộ
phận ấy là gì, hoạt động ra sao. Sự khách quan khoa học này giúp cho nhà
sinh vật học nhìn các bộ phận này như chúng là, mà không thêm vào đó bất
cứ ý niệm tình cảm hay sự lãng mạn nào. Chúng ta cần vun trồng tình cảm
buông xả này khi chúng ta hành thiền.
Để thực hành phương pháp thiền này, hãy chú tâm vào từng bộ phận của
thân, bắt đầu với những phần dễ thấy nhất. Thí dụ khi nghĩ đến tóc trên
đầu, hãy tự hỏi, "Lúc năm tuổi, tóc ta có như thế này không?" Dĩ nhiên câu
trả lời là không. Sau đó tự hỏi điều gì đã xảy ra. Ta sẽ nhận ra ngay rằng,
tóc đã đổi thay, cũng giống như các bộ phận thân khác như là móng tay, da,
răng, vân vân. Thiền quán này đưa ta đến kết luận rằng không có gì bền
vững về thân và các bộ phận của thân. Tất cả mọi thứ đều vô thường. Đó là
thực tại.
Thiền quán về thân như là một tập hợp của những bộ phận luôn thay đổi
cũng giúp ta chế ngự được kiết sử tham hay sự chấp thân. Không có nghĩa
rằng bạn muốn vứt bỏ thân này trước khi chết! Ta vẫn muốn duy trì thân,
tắm rửa, trang phục, và chăm sóc, bảo vệ nó. Nhưng ta có thể làm những
việc này mà không hoang tưởng, không có sự bám víu quá sức. Khi ta đã ý
thức về sự phân hủy của thân -sức mạnh của nó trở nên lung lay, vẻ đẹp của
nó trở nên suy giảm, xa, sức khỏe của nó trở nên sa sút - ta thấy rằng những
sự thay đổi này xảy ra cho tất cả mọi thân người. Ta sẽ thấy rằng không có
gì thường hằng, bền vững về cái thân mà ta lâu nay vẫn hằng bám víu.
Thay vì thất vọng, bực tức, ta trở nên khiêm hạ khi đối diện với thực tại này.
Sự thật về tính vô thường của thân quá mãnh liệt, quá đau đớn, quá dữ dội
đến nỗi ta phải tự động đầu hàng. Ta còn có thể làm được gì chứ? Ta có thể
chạy trốn sự thật này được không? Không. Bạn không có lựa chọn nào khác
ngoài việc phải chấp nhận nó. Do đó phương pháp thiền này cũng giúp ta
chế ngự kiết sử thân kiến, khiến ta tin rằng có sự hiện hữu của một cái ngã
thường hằng. Hơn thế nữa, ta nhận ra rằng tất cả mọi chúng sanh đều phải
đối mặt với cùng một nỗi sợ hãi về tuổi già, bệnh hoạn, và cái chết. Nhận ra
235
được tính chất phổ quát của điều này giúp ta chế ngự được những nỗi sợ hãi
riêng tư và phát triển được lòng bi mẫn đối với những đau khổ của tha
nhân.
Từ đó, ta có thể suy ra rằng nếu bất cứ bộ phận nào của thân bị hư hoại, bị
cắt bỏ, hay không còn hoạt động nhịp nhàng với các bộ phận khác thì thân
ta sẽ vận hành khác đi. Nhận thức này cho ta tri giác về tính tùy thuộc,
duyên hợp của tất cả mọi hiện hữu.
Khi so sánh thân mình với thân của người, ta thấy tất cả thân đều giống
nhau. Thân ta sẽ già đi, bệnh hoạn, và trở nên yếu đuối. Thân của tất cả
đều như thế. Những gì xảy ra cho thân bạn do sự thay đổi hormon, tai nạn,
hay lý do gì đó, thì chúng cũng xảy ra cho thân của mọi người khác. Do đó,
không quan trọng là thân bạn nhìn bên ngoài đẹp hay xấu, mập hay ốm, có
tóc hay hói đầu như thế nào, tất cả mọi thân đều vận hành, phát triển, già đi,
trở bệnh, hoại diệt, chết, và tan rã trong những cách rất giống nhau. Về khía
cạnh này, bạn và tha nhân hoàn toàn không khác nhau. Tuệ giác này giúp
bạn vun trồng tâm xả và đối xử với tất cả mọi chúng sanh bằng lòng bi mẫn
và thương yêu.
Chánh Niệm Về Thọ
Chúng ta thường nói, "Tôi cảm thấy," mà không ý thức rằng cảm thọ là một
hiện tượng không có tự tính. Chúng đến và đi tùy theo duyên khiến chúng
phát sinh. Khi ta biết về các loại cảm thọ khác nhau và cách chúng vận hành,
thì ta có thể ngăn chặn các yếu tố dẫn đến những trạng thái tâm đau khổ,
phiền muộn chỉ bằng cách thư giãn và thay đổi thái độ của chúng ta. Như
thế, tâm ta sẽ giữ được sự dễ chịu và trong sáng. Nhưng đó chỉ là bước khởi
đầu. Ngoài ra, do nhìn thấy được bản chất thật của cảm thọ, ta trở nên
buông xả hơn và ít phản ứng lại với bất cứ cảm thọ gì có thể sinh khởi. Đó là
cách thực tập buông bỏ tham và sân. Khi đã biết buông xả, chúng ta có thể
đào tận gốc rễ của khổ đau để tiến đến hoàn toàn Giác Ngộ.
Chúng ta thường đổ cho ngoại cảnh hay tha nhân khiến ta cảm thọ thế này
hay thế kia. Tuy nhiên, nếu chúng ta quán sát các cảm thọ dễ chịu hay khó
236
chịu của mình một cách đầy chánh niệm, ta sẽ thấy rằng chúng không đế
từ đối tượng mà ta cảm nhận nhưng đến từ chính trạng thái tâm hay qua
điểm, thái độ của chúng ta. Một thí dụ điển hình: Nhiều người cùng xem
một cuốn phim, nhưng mỗi người lại có một số cảm giác, phản ứng khá
nhau về cuốn phim. Do đó, chúng ta có thể dừng sự trách móc người khá
về những nỗi buồn khổ của mình để bắt đầu nhìn vào bên trong - nơi chún
ta thực sự có quyền lực để thay đổi sự việc. Đó là ý Đức Phật muốn khuyê
nhủ chúng ta khi nói "Hãy đến để thấy".
Khi đã trở nên quen thuộc với các cảm thọ của bản thân, bạn có thể dễ dàn
so sánh cảm thọ của mình với cảm thọ của người khác. Bạn nhận thấy rằn
khi bạn phát khởi các loại cảm thọ khác nhau tùy theo hoàn cảnh, thì ngườ
khác cũng thế. Rồi khi cảm xúc của bạn qua đi, thì cảm xúc của người khá
cũng thế. Tri thức mà bạn có được từ việc chánh niệm về chính các cảm xú
của mình được gọi là "trực giác" (direct insight). Tri thức bạn có được t
việc so sánh kinh nghiệm của mình với của người khác được gọi là "tri giá
do suy diễn" (inferential understanding). Mặc dầu không có cách gì để c
thể biết chắc chắn người khác nghĩ thế nào, nhưng sự hiểu biết do suy diễ
có thể giúp bạn đạt được nhiều tri kiến về thực tại.
Khi ta biết rằng tất cả mọi chúng sanh đều có cảm thọ, rằng tất cả đều tr
qua những đau đớn thể xác và tinh thần, khổ vì đói lạnh, buồn bã khi c
đơn, chúng ta trở nên bớt ích kỷ và bớt có khuynh hướng bảo vệ cho rằn
cảm xúc của mình luôn đúng. Chúng ta có thể lắng nghe một cách bình tĩn
sự than thở của người khác mà không thấy khó chịu. Khi chúng ta chán
niệm rằng tất cả mọi chúng sanh đều có cảm xúc như nhau, thì làm sao ta c
thể nói hay làm điều gì đó để gây thương tổn cho người khác?
Từng giây, từng phút quy trình khổ đau lại được tăng thêm sức mạnh bở
những phản ứng vô minh của tâm đối với các cảm thọ. Tất cả chúng sanh
không có ngoại lệ, đều có cảm xúc và tất cả các chúng sanh chưa giác ng
đều khổ đau từ phản ứng của họ đối với các cảm xúc của bản thân. Cảm th
phát sinh ở ngoại vi thân từ sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài và cũng từ sâ
thẳm trong tâm do sự tiếp xúc với các sự kiện tâm linh. Do đó khi nói v
cảm xúc trong phạm vi của Tứ Niệm Xứ, chúng ta không phân biệt giữa cácảm xúc vật lý ("Tôi cảm thấy trời nóng") và tình cảm ("Tôi cảm thấy
buồn").
Từ lúc tế bào thần kinh bắt đầu phát triển, chúng ta đã kinh nghiệm được
các cảm xúc. Cảm xúc có mặt ngay khi đứa trẻ còn trong bụng mẹ. Khi
người mẹ di chuyển, đứa trẻ trong bụng cũng cảm nhận được sự chuyển
động. Khi người mẹ hát, đứa bé cũng nghe được và được ru ngủ. Khi bà tức
giận, đứa bé cũng cảm nhận được sự căng thẳng và giận dữ của bà. Khi bà
cười, đứa bé cảm nhận được sự vui vẻ của bà. Trong khi chúng ta có thể
không nhớ được những cảm giác này, chúng ta đã kinh qua chúng.
Hơn thế nữa, mọi khía cạnh của cuộc đời ta - sự tranh đấu, thành đạt, tư
duy, sáng kiến, công việc, và ngay cả sinh tồn - đều tùy thuộc vào việc
chúng ta cảm thấy như thế nào. Nhu cầu được có thực phẩm, quần áo, thuốc
men, chốn nương thân, tình dục, và sự thoải mái vật chất cũng tùy thuộc
vào cảm xúc. Con người đã khám phá, sản xuất, hay phát triển nhiều thứ
nhờ vào cảm xúc. Khi cảm thấy lạnh, chúng ta tìm cái ấm. Khi cảm thấy đói,
ta tìm thực phẩm. Chúng ta sản sinh cũng tùy theo các cảm xúc của mình.
Ngay cả sự suy nghĩ của ta, thường cũng bắt đầu bằng một cảm xúc. Chúng
ta lý giải phản ứng tình cảm đối với một hoàn cảnh bằng cách nói, "Tôi có
đủ mọi lý do để cảm thấy bất bình về những gì đã xảy ra."
Khi có một cảm thọ dễ chịu, tâm tham phát khởi; ta muốn thêm nữa. Khi có
một cảm thọ khó chịu, ta phản ứng bằng sự giận dữ, chống đối nó. Khi cảm
thọ trung tính, ta có khuynh hướng lờ nó đi. Như ta đã biết tham, sân, và si
là nguồn gốc của mọi khổ đau. Chánh niệm về cảm thọ là một cơ hội để ta
quán sát nguồn gốc này, nơi ta có thể buông bỏ mọi khổ đau.
Thí dụ bạn ngồi với ý định quán sát sự ra, vào của hơi thở -cùng với thọ,
tưởng, hành, hay thức - trong vòng bốn mươi lăm phút. Nhưng sau khoảng
hai mươi lăm phút, lưng bắt đầu đau, và tâm chuyển sang quán sát cái đau.
Đôi khi các cơn đau nhẹ này nhanh chóng qua, nhưng có trường hợp cơn
đau tăng gấp bội.
Nếu ta tiếp tục ngồi yên, quán sát cơn đau, nó dần dần bộc phát đến tột đỉnh
và rồi vỡ tan. Khi đó, một cảm giác dễ chịu sẽ hiện ra. Ta có thể quán sát
238
cách tâm bám víu vào cảm thọ dễ chịu đó, muốn được có nhiều hơn. Rồi
một vài loại cảm thọ khác thay thế cảm giác dễ chịu đó. Khi các cảm thọ
phát sinh và qua đi, ta có thể nhận ra rằng chúng mong manh đến thế nào.
Một cảm giác dễ chịu chỉ dễ chịu trong chốc lát, rồi qua đi, và được thay thế
bằng cảm giác khó chịu, ngược lại cũng thế.
Khi tâm không còn chú ý đến các cảm giác này nữa, thì ta lại trở về với hơi
thở.
Bạn có thể thấy rằng ta không cần một phương pháp tọa thiền đặc biệt nào
để quán niệm cảm thọ. Đúng hơn, ta vẫn sử dụng thiền chánh niệm bình
thường để quán sát sự sinh khởi và hoại diệt của cảm thọ giống như cách ta
quán sát dòng tư tưởng qua đi trong đầu. Chúng ta tiếp tục thực hành như
thế trong cuộc sống đời thường. Dầu khi ngồi thiền hay tham gia vào các
hoạt động thường ngày, bất cứ khi nào một cảm thọ phát sinh đủ mạnh để
tâm phải hướng đến, thì ta quán sát nó.
Khi chúng ta trở nên chánh niệm về các cảm thọ của mình, thì chúng ta
không còn phản ứng một cách thiếu chánh niệm đối với chúng. Chúng ta
trở nên khéo léo hơn. Nếu một lạc thọ phát sinh, chúng ta có thể kiềm chế
yếu tố tiềm ẩn của lạc thọ - tham. Khi một khổ thọ phát sinh, chúng ta cũng
có thể kiềm chế yếu tố tiềm ẩn của loại cảm thọ đó -sân hay sự chống đối.
Nếu một cảm thọ trung tính, chúng ta có thể ghi nhận điều đó và không cho
phép yếu tố tiềm ẩn của cảm thọ trung tính -si- xuất hiện.
Đức Phật diễn tả hai loại cảm thọ chính: "thế tục" và "xuất thế". Các cảm
thọ thế tục là những cảm thọ với các yếu tố tiềm ẩn của lòng tham, sân, hay
si tác động ở một mức độ nào đó. Những cảm thọ này đưa ta thẳng đến
tham, sân, hay si. Các cảm thọ thế tục phát khởi một cách tự nhiên khi ta
theo đuổi cuộc sống tầm thường, thế tục như là thụ hưởng dục lạc, chạy
theo tiền bạc, địa vị, người yêu, tạo ra quyền lực, danh tiếng. Cảm thọ phát
sinh từ các hoạt động này luôn khơi dậy phần nào tham, sân, hay si.
Đức Phật luôn cảnh báo đệ tử của Ngài rằng những cuộc chạy đuổi theo thế
tục và các cảm thọ thế tục là nguy hiểm do các yếu tố tiềm ẩn của chúng.
Ngài khuyên chúng ta nên ý thức về sự nguy hiểm này để buông bỏ chúng. Với chánh niệm chúng ta tự kiềm chế bản thân không để tham, sân, hay si
cuốn hút. Chúng ta cố gắng giảm thiểu các yếu tố này -bằng cách quán sát
chúng. Chúng ta chú tâm đến chúng với một tâm thư giãn, không cố gắng
để áp đặt bất cứ điều gì, ngoại trừ buông xả.
Ngay giây phút ta làm điều đó, ta trải nghiệm được các cảm thọ xuất thế.
Các cảm thọ xuất thế phát sinh khi ta theo đuổi con đường giải thoát tâm
linh. Những cảm thọ này đi kèm với các yếu tố tiềm ẩn đã hoàn toàn được
điều phục hay trong trường hợp của vị giác ngộ - hủy diệt. Bất cứ khi nào
chúng ta chuyển hóa được một cảm thọ thế tục, là ta có được một cảm thọ
xuất thế.
Giờ hãy xét đến các khía cạnh dễ chịu, khó chịu, và trung tính của cả hai
cảm thọ thế tục và xuất thế. Các lạc thọ thế tục rất quen thuộc với chúng ta.
Dục lạc đem đến cho chúng ta bao nguồn lạc thọ thế tục. Thí dụ, một bữa an
ngon, một chương trình TV hấp dẫn, một chiếc xe hơi đời mới bóng lộn,
thường dễ kích hoạt các lạc thọ thế tục. Trừ khi ta có thể giữ tâm chánh niệm
mạnh mẽ, nếu không các cảm giác dễ chịu nơi thân và tâm sẽ thuộc về thế
tục, vì chúng ta thích những thứ này và muốn được tận hưởng chúng nhiều
và nhiều hơn nữa.
Các lạc thọ xuất thế có thể ít quen thuộc hơn. Chúng sinh khởi khi nào ta
làm được điều gì có thể giúp ta tiến bước trên con đường giải thoát. Thí dụ,
cảm giác bình yên và hạnh phúc mà chúng ta có được từ thiền định sâu xa.
Cảm giác an bình, dễ chịu, mà ta có được khi sự thực hành thiền chánh niệm
phát triển tốt cũng là những cảm giác xuất thế.
Khi chúng ta thực hành chánh niệm để buông xả các cảm thọ thế tục như là
lạc thọ đến từ việc thưởng thức những đồ ăn ngon miệng, thì các cảm thọ
xuất thế sẽ phát khởi. Tuy nhiên, hãy cảnh giác đối với những ai nói rằng
bạn có thể tận hưởng dục lạc một cách có chánh niệm. Đó không phải là
Pháp của Đức Phật. Trái lại, Đức Phật dạy chúng ta chánh niệm để buông
bỏ dục lạc và thụ hưởng các cảm thọ xuất thế đến từ hạnh xả ly. Khi buông
xả, chúng ta vẫn giữ được chánh niệm về tính vô thường của các dục lạc Bất cứ khi nào chúng ta buông xả được phần nào tâm tham, sân, hay si, thì
các cảm thọ xuất thế dễ chịu sẽ phát sinh. Thực ra, mọi hành động dựa trên
Bát Chánh Đạo đều có thể khiến cho các lạc thọ xuất thế sinh khởi. Khi
chánh niệm phát triển, ta cảm nhận được các lạc thọ xuất thế thường xuyên
hơn.
Giả thử rằng bạn bám víu vào vật gì đó, có thể là vật kỷ niệm của một người
bạn đã mất. Bất cứ khi nào nhìn thấy đồ vật ấy, cảm giác tiếc nuối hay buồn
bã sẽ phát sinh, khiến bạn đau khổ. Khi đã có thể buông xả sự bám víu, thì
đó thật là một giải thoát lớn, vì các khổ thọ sẽ dừng lại, không sinh khởi
nữa. Bạn cảm thấy thư giãn và một cảm giác dễ chịu phát sinh. Điều đó
giống như khi bạn đang nắm chặt một vật gì mà càng nắm chặt thì tay càng
bị đau. Rồi khi mở tay ra bạn sẽ cảm thấy thật dễ chịu. Tương tự, các lạc thọ
xuất thế phát khởi vì bạn đã buông xả sự bám víu.
Khổ thọ có thể là xuất thế hay thế tục. Khổ thọ thế tục dễ đưa ta đến sự phản
kháng. Thí dụ cảm giác đau đớn của sân hận có thể phát khởi khi tham
vọng của ta bị cản trở, như khi ta không được tăng lương, hay thăng chức.
Ta có thể thực hành các phương pháp chế ngự sân hận khi các khổ thọ thế
tục này xuất hiện.
Các khổ thọ xuất thế cũng có thể phát khởi khi chúng ta thực hành theo con
đường của Phật. Thí dụ bạn đã thực sự hiểu những lời dạy của Đức Phật và
rất muốn giải thoát tâm khỏi tham, sân, và si. Do đó, bạn đã hành thiền,
tuân giữ tất cả các giới luật, và thực hành theo mọi lời chỉ dẫn. Tuy nhiên,
bạn cảm thấy mình không thể tiến bộ trên con đường tiến tới mục đích. Cảm
giác đau đớn và thất vọng mà bạn trải nghiệm là có tính chất xuất thế.
Tuy nhiên, không giống như các loại khổ thọ khác, khổ thọ xuất thế là thiện.
Nó không phát sinh từ tham, sân, hay si. Thí dụ, bạn có thể tự hỏi, "Ta đã
làm gì sai? Tại sao ta không đạt được mục đích mong đợi như người khác?
Có thể ta đã thiếu sót điều gì; ta phải bắt đầu lại từ đầu." Khổ thọ xuất thế
thôi thúc ta tiếp tục tu hành, tiếp tục thử nghiệm. Khổ thọ xuất thế không
dẫn ta đến sân hận mà tạo thêm động lực thúc đẩy ta thêm tinh tấn, thúc
đẩy ta tiến bước đến giải thoát.
241
Các cảm thọ trung tính cũng có thể được chia làm hai loại thế tục hay xuất
thế. Đối với những mục đích thế tục, khi không có mặt của khổ thọ hay lạc
thọ, một cảm giác ù lỳ, thờ ơ sẽ có mặt. Tuy nhiên, tâm si có thể phát triển
trong các cảm thọ trung tính thế tục này. Thí dụ, khi một cảm giác trung tính
phát khởi, ta có thể nghĩ, "À! Đây là linh hồn; linh hồn sẽ cảm thấy như thế
này trong trạng thái trung tính, khi nó không bị chi phối bởi những thứ gì
khác."
Khi chánh niệm đưa ta đến chỗ nhận thức được rằng những gì ta gọi là
"ngã" hay "linh hồn" luôn biến đổi, luôn chịu ảnh hưởng của vô thường thì
cảm giác mà ta có được là trung tính và xuất thế. Cảm giác đó toàn vẹn,
không phân biệt và không si mê. Ta cảm thấy tĩnh giác, quan tâm muốn biết
điều gì sẽ xảy ra kế tiếp. Ta sẽ không rơi vào trong cái bẫy của tình cảm như
thế này hay như thế nọ -không ham muốn cũng không ghét bỏ- mà duy trì
chánh niệm và tâm xả. Bạn càng có thể duy trì trạng thái đó lâu, thì tâm
chánh niệm càng trở nên mạnh hơn.
Hãy trở lại với thí dụ về cái lưng đau khi ta đang hành thiền. Đầu tiên ta
cảm thấy khó chịu với cái đau, tiếp theo là cảm giác dễ chịu khi cái đau qua
đi, và sự bám víu vào cảm giác dễ chịu. Nếu ta tiếp tục quán sát các cảm thọ
này, ta sẽ thấy chúng thay đổi luôn. Dần dần, khi thấy được tính vô thường
của chúng, ta buông bỏ sự phản ứng bám víu hay ghét bỏ. Sau đó tâm xả đối
với các cảm thọ này sẽ phát sinh. Trạng thái tâm xả này là một trạng thái
trung tính xuất thế.
Để thực tập chánh niệm về các cảm thọ, khi một cảm thọ phát khởi, trước
hết ta xét xem nó thuộc thế tục hay xuất thế, để ta quyết định có nên buông
bỏ hay theo đuổi nó.
Nếu chúng ta đang trải qua một cảm thọ xuất thế, hãy nỗ lực để vun trồng
cảm thọ này. Chúng ta ghi nhận nguyên nhân tạo nên cảm thọ đó để có thể
lập lại chúng trong tương lai. Rồi ta cố gắng để tái tạo những điều kiện thích
hợp. Chúng ta tiếp tục tìm tòi những điều kiện và hành động khác nhau, để
tạo nên cảm thọ xuất thế này. Chúng ta chú tâm phát triển thói quen làm
phát sinh loại cảm thọ này. Trái lại, nếu ta thấy rằng mình có một cảm thọ thế tục ẩn chứa trong yếu tố
tiềm ẩn của tham, sân, hay si, ta phải nỗ lực mạnh mẽ để chế ngự các yếu tố
tiềm ẩn của cảm thọ này. Chúng ta phải rất chánh niệm để không bị lôi cuốn
theo trạng thái bất thiện phát sinh từ cảm thọ này. Chúng ta quán sát một
cách đầy chánh niệm cảm thọ thế tục này mà không phản ứng, cho đến khi
nó dần dần qua đi. Trong quá trình chúng ta có thể thấy tính vô thường của
tất cả mọi thứ liên quan: sự vô thường của các đối tượng được ham muốn
(hay bị ghét bỏ), của ý kiến cá nhân đối với hoàn cảnh đó, của bản thân ta,
và của khả năng thụ hưởng các dục lạc liên quan, và trạng thái chóng qua
của chính các cảm thọ này. Bằng cách quán sát vô thường như thế, chúng ta
có thể buông xả.
Khi chúng ta buông xả, cảm thọ thế tục được thay thế bằng một lạc thọ xuất
thế, và chúng ta trở nên đầy chánh niệm về sự vắng mặt của tham, sân, và si
ngay lúc đó. Sau đó tâm có thể trở về với hơi thở, hay tiếp tục quan sát sự
thay đổi không dừng của các cảm thọ xuất thế. An lạc sinh khởi. Tâm lắng
đọng, trở nên thanh tịnh, bình an và hạnh phúc. Niềm an lạc, hạnh phúc
đưa ta đến một tầng sâu hơn của định.
Giả dụ một buổi sáng thức dậy, bạn cảm thấy rất buồn. Thay vì trở nên bực
bội, bạn hãy ngồi xuống một nơi yên tĩnh, nhắm mắt lại, và bỏ ra một ít thì
giờ quán sát nỗi buồn của bạn mà không phán xét hay lo âu gì, chỉ dồn tất cả
sự chú tâm vào khổ thọ thế tục này. Nếu bạn cho phép mình bám víu vào
nguyên nhân của nỗi buồn của bạn, thì khổ thọ sẽ kéo dài hơn. Nhưng nếu
bạn quán sát cảm thọ của mình, bạn sẽ nhận ra sự thật về nỗi buồn đó. Từ
đó bạn tu tập để giảm bớt tham, sân, và si. Khi bạn chấp nhận thực tế về sự
biến đổi không dừng dứt của cảm thọ trong từng giây phút, bạn được nhắc
nhở rằng may mắn thay, ngay cả những khổ thọ cũng vô thường. Nhờ đó
lạc thọ xuất thế phát sinh. Trạng thái tâm bạn chuyển đổi từ buồn bã sang
tĩnh lặng, hạnh phúc, bình an. Giờ thì tâm đã trong sáng và có thể dễ dàng
đạt được định.
Giả sử vào một ngày khác, bạn lại cảm thấy thảnh thơi, vui vẻ. Bạn quán sát
lạc thọ xuất thế này như nó là, dốc tất cả sự chú tâm vào nó khi nó còn có
mặt. Nhưng bạn không mong mỏi cảm giác đó sẽ kéo dài mãi. Khi nào tâm
243
bám víu không phát sinh, cảm giác này sẽ tiếp tục làm chủ, đôi khi vài
ngày. Khi nó bắt đầu phai đi, bạn sẽ để nó qua. Khi tiếp tục chánh niệm về
các cảm thọ của mình, bạn sẽ nhận thấy rằng bạn không thể kéo dài lạc thọ
theo ý mình muốn. Ngược lại, bạn càng cố gắng để duy trì một lạc thọ, thì
nó càng nhanh chóng qua đi. Nếu bạn chỉ quán sát các cảm thọ khi chúng
đến và đi, thì tâm bạn thư giãn và trở nên dễ chịu hơn. Bạn cũng duy trì
được sự thăng bằng tình cảm dễ dàng hơn.
Khi ta quán sát một cách có chánh niệm bất cứ cảm xúc gì, thì nó sẽ tăng
trưởng, rồi hoại diệt. Cảm thọ này thay thế cảm thọ kia, cùng một quy trình
như thế. Có thể bắt đầu là một lạc thọ, kế tiếp là khổ thọ hay trung tính, hay
một khổ thọ khác nữa. Các loại cảm thọ ta trải nghiệm thay đổi liên tục,
trong từng giây phút. Các khuynh hướng cảm thọ thay đổi từ giờ này qua
giờ khác, ngày này qua ngày khác, vân vân. Quán sát bất kỳ một trong
những sự thay đổi này sẽ đem cho chúng ta tuệ giác về bản chất thực sự của
bản thân.
Chánh Niệm Về Tâm
Chánh niệm về tâm ý chỉ sự quán sát những trạng thái tâm khác nhau phát
khởi và qua đi - tâm tham hay không tham, tâm sân hay không sân, tâm vô
minh hay sáng suốt, hẹp hòi hay cởi mở, tâm vọng tưởng hay chánh niệm,
tán loạn hay định tĩnh, tâm phát triển hay ù lỳ, ràng buộc hay giải thoát. Ta
quán sát các trạng thái này khi chúng xuất hiện và qua đi cùng với thức xuất
hiện, và qua đi.
Không thể tách thức ra khỏi các trạng thái tâm và đối tượng tâm vì chúng
phát sinh và qua đi cùng với nhau. Tuy nhiên, bạn có thể ghi nhận khi thức
bị chi phối bởi các trạng thái tâm tiêu cực như là tham, sân, si, hôn trầm, trạo
cử, hay các trạng thái tích cực như là bi mẫn, kiên nhẫn, hay từ ái.
Bạn dành cho mỗi trạng thái sự chú tâm toàn vẹn khi nó phát khởi, mà
không làm bất cứ điều gì đặc biệt về nó và không để bạn bị vướng mắc hay
bám đuổi theo dòng tư tưởng hay cảm xúc. Bạn chỉ đơn giản quán sát khi
mỗi trạng thái phát sinh và qua đi. Sự sinh khởi, rồi hoại diệt là bản chất của
tâm. Mỗi giây phút -thật sự, nhiều lần trong mỗi giây phút- trạng thái tâm
sinh khởi, viên mãn, rồi hoại diệt. Tâm chúng sanh ở khắp mọi nơi đều
giống nhau. Bạn càng quán sát sự sinh khởi và hoại diệt của tất cả mọi trạng
thái tâm, bạn càng biết chúng mong manh, biến chuyển thế nào. Nhận ra
được sự chuyển biến này là bạn đạt được tuệ giác về một pháp vô thường
gọi là "tâm."
Do đó, càng chú ý đến tâm bao nhiêu, thì ta càng thấy nó ít bền vững bấy
nhiêu. Giống như vạn pháp, tâm luôn biến đổi. Hơn thế nữa, ta sẽ khám
phá ra rằng không có một tự tính thường hằng nào; không có ai đang điều
hành bộ máy cả. Tất cả đều chuyển biến, tất cả đều như dòng chảy, tất cả
đều ở trong một quy trình. Trong thực tế, bạn chỉ là dòng chảy không dừng
của từng sát na tâm thức biến chuyển. Vì không thể kiểm soát quy trình
này, ta không có chọn lựa nào hơn ngoài việc buông xả. Khi buông xả, ta
trải nghiệm được niềm vui, và có thể trong một giây phút thoáng qua nào
đó ta sẽ nếm trải được sự giải thoát và hạnh phúc là mục đích của con
đường đạo. Lúc đó ta sẽ biết rằng tâm này cũng có thể dùng để đạt được
tuệ.
Chánh Niệm Về Đối Tượng Tâm
Chánh niệm về đối tượng của tâm có thể nghe giống như một phương pháp
hành thiền khác, nhưng đó chỉ là một cách diễn tả khác của thiền minh sát
mà bạn đã thực hành qua. "Đối tượng tâm" ý chỉ tư tưởng -ở đây có nghĩa
là tất cả các hoạt động tâm thức. Có nhiều loại tâm thức: kiết sử, chướng
ngại, ngũ uẩn, những yếu tố của sự giác ngộ, và Tứ Diệu đế. Chúng có thể
sinh khởi theo bất cứ trật tự nào.
Khi ngồi thiền, trong lúc hướng đến một đối tượng thiền, như là hơi thở, ta
nhanh chóng trở nên chánh niệm đối với bất cứ tư tưởng nào phát sinh, như
là chướng ngại về nghi hay một khía cạnh của một trong các uẩn. Đối tượng
tâm - ý nghĩ- trở thành một đối tượng thiền quán mới, tạm thời. Ta ghi nhận
đối tượng tâm đó và quán sát cho đến lúc nó qua đi. Nếu như nó là tâm bất
thiện và cứ lẩn quẩn trong đầu, ta phải làm bất cứ điều gì cần thiết để loại
trừ nó. Khi nó qua đi, ta ghi nhận tính vô thường, khổ, và vô ngã của nó. Rồi ta lại trở về với hơi thở hay đối tượng thiền quán đã chọn. Khi ý nghĩ khác
phát sinh, ta lặp lại quy trình trên.
Hãy nhớ rằng ta không tiên đoán được loại đối tượng tâm nào sẽ sinh khởi
trong khi hành thiền. Mà cũng không cần phải đặt tên cho điều gì đã phát
khởi như, "Ta đang quán sát một kiết sử." Khi quán sát các đối tượng tâm
thiện như là hỷ, ta sẽ làm bất cứ điều gì có thể để khuyến khích đối tượng
đó tiếp tục xảy ra, dầu ta vẫn tiếp tục ghi nhận tính vô thường, khổ, và vô
ngã của nó.
Như ta đã biết, sự thực hành thiền chánh niệm không chỉ giới hạn trong lúc
ta tọa thiền. Dầu đang làm gì, bạn cũng có thể ý thức về bất cứ hoạt động
tâm linh nào khi nó phát khởi. Khi bạn cố gắng để duy trì chánh niệm liên
tục trong ngày, các hoạt động tâm linh bất thiện dần dần ít xảy ra hơn, và
các trạng thái tâm thiện thường xảy ra hơn. Vì bạn không phải mất nhiều
thời gian đắm chìm trong những suy nghĩ tiêu cực, bạn càng dễ nhận biết
mọi hoạt động của tâm.
Khi đã có thể tự rèn luyện mình trở nên chánh niệm trong hầu hết các hoạt
động trong ngày, dần dần ta sẽ thấy tâm chánh niệm của mình trở nên mạnh
mẽ và vững chãi hơn. Với tâm trong sáng, ta có thể nhận thấy rằng tất cả
những gì ta đã trải nghiệm tương ưng với Tứ Diệu đế như thế nào. Khi điều
này xảy ra, Tứ Diệu đế trở thành đối tượng chánh niệm của ta. Một thí dụ về
việc quán sát Tứ Diệu đế đã được nói đến trong bước 2, trong phần "Chánh
niệm về chánh tri kiến".
Khi tâm chánh niệm đã tiến bộ, ta bắt đầu quán sát các yếu tố của giác ngộ -
đặc tính tâm cần thiết để đạt được mục đích trên đạo lộ. Đức Phật đã trải
qua nhiều kiếp tu chứng trước khi đạt được sự hoàn hảo tuyệt đối của các
yếu tố Giác Ngộ để trở thành một vị Phật. Bảy yếu tố giác ngộ (Thất giác chi)
là niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả. Ta đã vun trồng các
yếu tố này từ lúc bắt đầu. Khi tâm chánh niệm của ta phát triển, các yếu tố
này tiến lên một trình độ cao hơn. Theo truyền thống, thất giác chi được
trình bày theo thứ tự mà các chi phần phát khởi, vì sự phát triển của chi
phần này đưa đến một chi phần khác.
246
Khi tâm chánh niệm trở nên mạnh mẽ, vững chãi, ta ghi nhận sức mạnh của
nó, và nó trở thành đối tượng thiền quán của ta. Ta biết rằng mình có chánh
niệm. Do đó chánh niệm trở thành một đối tượng tâm của chánh niệm. Sự ý
thức của tâm chánh niệm soi rọi các trải nghiệm của ta về sắc, thọ, tưởng,
hành, và thức, do đó ta có thể thấy chúng rõ ràng hơn. Ý thức này giúp ta
tiếp tục rèn luyện tâm chánh niệm. Từ khi bước theo con đường của Phật, ta
đã thực hành tâm chánh niệm. Chánh Niệm là một trong bảy yếu tố Giác
Ngộ. Dần dần, sau rất nhiều công phu tu tập, ta sẽ đạt đến một mức độ ở
đó tâm chánh niệm trở nên sâu sắc hơn, rõ ràng hơn, mạnh mẽ hơn và ta
biết rằng tâm chánh niệm của ta đã viên mãn. Lúc đó, tâm chánh niệm đã
được phát triển tới mức độ của một chi của giác ngộ.
Với tâm chánh niệm ta đã phân biệt được các pháp thiện và bất thiện. Ta đã
quán sát được các đặc tính của những đối tượng mà ta tiếp xúc, đó là vô
thường, khổ, và vô ngã. Qua các nỗ lực này, ta đã phát triển được thói quen
luôn tìm kiếm sự thật. Với tâm chánh niệm mạnh mẽ, ý hướng thiện sinh
khởi để quán xét trọn vẹn từng kinh nghiệm mà ta đã trải qua. Ta ý thức
được điều này. Rồi đối tượng tâm của ta quán xét tất cả mọi sự kiện trong
cuộc sống. Tâm chánh niệm đã được nâng cao, hoạt động như một ánh đèn
soi sáng đồ vật trong bóng đêm.
Với ánh sáng của tâm chánh niệm mạnh mẽ chiếu rọi vào sự trải nghiệm của
bạn đối với một đối tượng, bạn xét thấy rằng tự tính của đối tượng đó là vô
thường. Khi đối tượng đó biến mất, một đối tượng khác lại hiện ra, phơi bày
cùng một sự thật về vô thường, khổ, và vô ngã. Khi bạn tiếp tục đi tìm chân
lý và tiếp tục nhận ra rằng mọi kinh nghiệm đều chia sẻ ba đặc tính này, thì
sự quán sát của bạn (trạch pháp) trở thành một chi của giác ngộ.
Khi tất cả mọi đối tượng quán sát tiếp tục phơi bày chân lý này, thì nhiệt
tâm muốn khám phá thêm nữa phát sinh. Tâm tràn đầy năng lượng. Lúc đó
tâm chánh niệm mạnh mẽ, như thể nó đã hóa đá kim cương. Xuyên suốt
quá trình tu tập, ta nỗ lực nhiều -để phát triển chánh niệm, để tháo gỡ các
trạng thái bất thiện, để khuyến khích thiện pháp, và để công phu tu tập tất
cả chi trong Bát Chánh Đạo. Giờ thì sự nhiệt tâm nỗ lực của bạn đã kết quả:
đó là yếu tố giác ngộ của tinh tấn.
247
Ta cảm nhận được sự tràn đầy tinh tấn của tâm để đảm nhận bất cứ trách
nhiệm gì và tinh tấn trở thành đối tượng tâm thức của chánh niệm. Tâm vẫn
hoạt động nhưng rất thư giãn. Thiện ý phát khởi để tâm đầy nhiệt huyết
luôn nẩy sinh. Bạn càng đầy nhiệt huyết để khám phá sự thật, bạn càng cảm
thấy tự tại, gần như là hỷ lạc. Bạn cảm thấy tự tại vì bạn không còn chống
đối thực tại nữa. Do đó yếu tố hỷ của giác ngộ trở thành đối tượng chánh
niệm mới.
Hỷ mang đến sự tự tại, rồi tự tại đưa đến hạnh phúc. Hạnh phúc mang lại
khinh an. Do đó khinh an phát sinh như là một yếu tố của giác ngộ. Tiếp tục
nhận ra được cùng một chân lý, ở mọi cấp độ, trong mọi kinh nghiệm mà
bạn có thể trải qua, bạn trở nên thư giãn. Cái tâm đã từng luôn ở trong dòng
chuyển động xung đối giống như lá cờ trên đỉnh núi. Giờ sự xao động đã
lắng xuống. Thanh tịnh đã có mặt. Định mạnh mẽ và sâu lắng phát khởi.
Trước đó có thể bạn cũng đã đạt định sâu xa, mãnh liệt; ở đây cũng vậy.
Nhưng giờ thì tâm đã chín muồi, và bạn có thề sử dụng định này để đạt đến
các tầng giải thoát. Do đó định trở thành một yếu tố của giác ngộ.
Tất cả các yếu tố đều hoàn toàn hòa hợp - niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ,
khinh an, định và xả. Ở giai đoạn này, yếu tố xả của giác ngộ chiếm ưu thế.
Nhìn bất cứ điều gì phát sinh trong một trạng thái tâm không phân biệt, ổn
định, xả, sẽ thanh tịnh hóa từng chi phần. Trước đây, lúc nào trong ta cũng
có một vài ước muốn vi tế rằng sự vật phải khác hơn chúng là. Thí dụ, bạn
nghĩ, "Tôi muốn điều tốt đẹp này sẽ kéo dài." Ước muốn vi tế đó chấm dứt
khi tâm ở trong trạng thái xả ly.
Khi tự tính vô thường của vạn pháp đã trở nên rất rõ ràng, ta không còn hy
vọng rằng giây phút kế tiếp sẽ khác đi. Khi bản chất không như ý, khổ của
pháp bắt đầu trở nên rõ ràng, ta không còn ước muốn rằng giây phút kế tiếp
sẽ được như ý. Khi bản chất vô ngã, không thể kiềm chế, không có cá thể của
vạn pháp trở nên rõ ràng, ta không mong đợi rằng giây phút kế tiếp có thể
khác. Do biết xả ly, tâm không còn dấu vết nào của lòng ham muốn, muốn
nhìn mọi vật bằng cách nào khác hơn như chúng là. Tâm hoàn toàn thể nhập
với chân lý. Đó là cách Tứ Diệu đế và thất giác chi vận hành cùng nhau. Bạn
nhìn thấy khổ như nó thực sự là. Bạn nhìn thấy nguồn gốc của khổ đúng hệt
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro