Bát chánh đạo con đường đến hạnh phúc1
Bát chánh đạo con đường đến hạnh phúc
________________________________________
Lời Cảm Tạ Của Tác Giả
Quyển sách này sẽ không thành hình nếu không có sự tác động cuả bạn tôi, Douglas Durham, người đã ghi lại các bài giảng của tôi, để tạo ra bản thảo đầu tiên. Tôi cảm tạ ông về những công sức đã đóng góp.
Tôi cũng hàm ơn đệ tử Samaneri Sudhamma (có nghĩa là "Pháp Lành" ) đã duyệt lại bản thảo để làm rõ hơn Pháp chân thật của quyển sách.
Tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn đến các nhà biên tập, Brenda Rosen và John LeRoy, và người sắp mục lục, Carol Roehr.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn tất cả những thiền sinh có mặt tại Hội Bhavana, những người đã kiên nhẫn chịu đựng sự vắng mặt lâu ngày của tôi khi tôi bận viết quyển sách này. Nguyện cho tất cả đều được phần công đức của quyển sách nhỏ khi nó đến được với bao người đang đi tìm hạnh phúc.
Bhante Gunaratana
Lời Người Dịch
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
Bát Chánh Đạo, một phần giáo lý cơ bản của Đức Phật mà gần như Phật tử nào dầu vừa bước chân đến với Đạo cũng phải biết qua. Vậy thì Bát Chánh Đạo dưới cái nhìn của một thiền sư tu chứng như Sư Bhante H. Gunaratana, sẽ thế nào? Ta có thể học được gì thêm? Đó có lẽ cũng là ý nghĩ mạo muội của tôi khi bắt tay dịch quyển Eight Mindful Steps to Happiness.
Nhưng từng trang, từng trang, từng bước, từng ngành của Bát Chánh Đạo đã được Thiền sư giảng giải cặn kẻ đến từng chi tiết, thấu đáo với bao thí dụ, mà lại giản đơn gần gủi biết bao. Ngồi đọc mà tôi như hình dung thấy khuôn mặt hiền từ của Thiền sư đang ở trước mặt, nhẹ nhàng hỏi: "Con đã hiểu chưa? Con đã hiểu chưa?". Thiền sư như không hề mệt mỏi khi phải nhắc đi nhắc lại cho độc giả giáo lý phải nắm, những việc phải làm để đạt được giải thoát. Phải thực hành! Phải áp dụng những giáo lý đã học! Phải đến để mà thấy! Những lời nhắc nhở không bao giờ thừa đối với tôi, một Phật tử còn nhiều giải đãi. Quyển sách đã đem lại nhiều ích lợi cho tôi. Mong rằng nó cũng giúp ích cho bạn.
Con xin đảnh lễ để tạ ơn Thiền sư Bhante H. Gunaratana đã viết quyển sách công phu này. Xin cảm ơn Tim McNeill và Deje Zhoga ở nhà xuất bản Wisdom Publications luôn tạo cơ hội để chúng tôi được phép dịch các sách về Phật giáo. Cảm ơn em Trần Kim Mẫn đã chăm chỉ đánh máy bản dịch nháp. Và xin cảm ơn tất cả những người tử tế trong gia đình, cũng như ngoài xã hội đã giúp tôi một cách trực tiếp hay gián tiếp để hoàn thành bản dịch. Bản dịch này vẫn còn nhiều sai sót, dĩ nhiên là từ sự yếu kém của bản thân người dịch, mong các bậc tôn sư, quý thầy cô, đạo hữu, độc giả chỉ bày thêm.
Nhân mùa Vu Lan, nguyện đem công đức này hồi hướng cho Ngoại, cho cha mẹ, cho chị Từ An Lý Thu Cúc, những thân quyến, bằng hữu đã mất, đệ tử và tất cả chúng sanh. Nguyện đời đời, kiếp kiếp được đi theo dấu chân Phật.
Diệu Liên Lý Thu Linh
Lời Nói Đầu
Ngay sau khi quyển Mindfulness In Plain English (Căn Bản Chánh Niệm) (1) được phát hành, một số bạn bè và đệ tử của tôi đã yêu cầu tôi viết thêm một quyển sách nữa về con đường đi đến hạnh phúc của Đức Phật một cách thật đơn giản. Quyển sách này là kết quả của lời yêu cầu đó.
Quyển Căn Bản Chánh Niệm (Mindfulness In Plain English) là một quyển sách hướng dẫn thiền, một cẩm nang cho những ai thực hành thiền chánh niệm. Tuy nhiên chánh niệm chỉ là một phần trong giáo lý của Đức Phật. Chánh niệm có thể làm cho cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn, nhưng Đức Phật còn ban cho ta nhiều hơn thế nữa. Ngài trao cho chúng ta một cẩm nang, mà Ngài đã tóm tắt trong Bát Chánh Đạo, để ta được hạnh phúc trọn vẹn. Chỉ cần những cố gắng nhỏ để áp dụng tám bước này vào đời sống cũng sẽ mang đến cho ta hạnh phúc. Những cố gắng quyết liệt hơn sẽ chuyển hóa được ta và đưa ta đến những trạng thái hạnh phúc nhất, sảng khoái nhất mà ta có thể đạt được. Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật. Ngay chính với những người đã biết qua Bát Chánh Đạo cũng có thể không nhận ra nó quan trọng như thế nào đối với tổng thể những lời dạy của Đức Phật, hay họ có thể ứng dụng chúng như thế nào trong việc tu tập. Giống như trong quyển Căn Bản Chánh Niệm (Mindfulness In Plain English), tôi đã cố gắng để trình bày giáo lý này một cách đơn giản để bất cứ ai cũng có thể thực hành tám bước này trong đời sống hằng ngày của họ.
Tôi khuyên là bạn không nên đọc quyển sách này như một quyển tiểu thuyết hay như một tờ báo. Tốt hơn hết là trong lúc đọc, bạn hãy luôn tự hỏi mình, "Tôi có hạnh phúc không?" và tìm hiểu về những gì bạn đã khám phá được. Đức Phật khuyên chúng ta hãy đến để thấy. Ngài khuyên tất cả chúng ta hãy quán sát bản thân, hãy trở về nhà, hãy làm quen, hãy đến gần hơn với thân và tâm, và quán sát chúng. Đừng để mình lạc vào trong các quan điểm, giả định về cuộc đời, hãy cố gắng khám phá xem điều gì đang thực sự xảy ra.
Chúng ta rất thích thu thập tài liệu, cất giữ thông tin. Có lẽ bạn đã chọn quyển sách này để có thêm thông tin. Nếu bạn đã đọc qua các quyển sách Phật giáo phổ thông, hãy dừng lại và tự hỏi bạn mong đạt được điều gì từ quyển sách này. Có phải bạn chỉ muốn chứng tỏ với người khác về sự thông thái của mình trong lãnh vực Phật giáo? Hay bạn hy vọng có thể đạt được hạnh phúc qua tri thức về giáo lý của Đức Phật? Chỉ có tri thức sẽ không giúp bạn tìm được hạnh phúc.
Nếu bạn đọc những gì tiếp theo đây với lòng mong muốn đem những lời dạy của Đức Phật về con đường đưa đến hạnh phúc vào thực hành -để thực sự thể nghiệm những lời dạy của Ngài, hơn là một sự hiểu biết tri thức- thì lúc đó những lời dạy rất đơn giản nhưng thâm sâu của Đức Phật sẽ trở nên rõ ràng. Dần dần, sự thật tuyệt đối về tất cả các pháp sẽ hiển bày ra cho bạn. Và dần dần bạn sẽ khám phá ra hạnh phúc lâu dài mà sự hiểu biết toàn vẹn về chân lý có thể mang đến cho bạn.
Nếu bạn cảm thấy khó chịu hay khổ đau về những gì bạn đọc trong quyển sách này thì phải tìm hiểu tại sao. Hãy nhìn vào bên trong. Hãy tự hỏi điều gì đang xảy ra trong tâm bạn. Hãy tự hỏi tại sao. Đôi khi chúng ta cảm thấy khó chịu khi ai đó cho ta biết rằng chúng ta vụng về như thế nào. Bạn có thể có rất nhiều thói quen xấu và những chướng ngại khác khiến bạn không được hạnh phúc. Bạn có muốn tìm hiểu về chúng và thay đổi chúng không?
Thông thường chúng ta có thể bực bội về những điều rất nhỏ mọn rồi đổ thừa cho một việc gì đó hay ai đó -một người bạn, thư ký, ông xếp, hàng xóm, con cái, anh chị em, cha mẹ hay chính phủ. Ta thất vọng khi không có được điều mình muốn hay đánh mất cái mà ta trân quý. Chúng ta mang trong tâm một loại "tâm lý bực dọc" -nguồn gốc của phiền não- dễ bị hoàn cảnh hay suy nghĩ của ta kích động. Rồi ta khổ đau, và tìm cách ngăn chặn khổ đau bằng cách cố gắng đổi thay cả thế giới. Có một câu chuyện cổ xưa về người đàn ông muốn phủ cả thế giới với thuộc da để ông có thể đi trên mặt đất một cách êm ái. Ông ta không biết rằng làm một đôi giày da để mang, sẽ dễ hơn biết bao. Tương tự, thay vì tìm cách chế ngự cả thế giới để được hạnh phúc, thì hãy cố gắng tu sửa để giảm bớt các tâm lý bực dọc của chúng ta.
Nhưng bạn phải thật sự tu sửa mình, không chỉ đọc hay suy tư về điều đó. Ngay cả việc hành thiền cũng không ích lợi chi nhiều nếu bạn không hành trì suốt trọn con đường -nhất là những yếu tố quan trọng trong việc phát triển chánh kiến, tạo ra những cố gắng mạnh mẽ, sáng suốt và thực hành chánh niệm liên tục. Nhiều người ngồi trên gối thiền hàng giờ với tâm trí đầy đau khổ, sân hận, lo âu hay vọng tưởng. Rồi họ lại nói, "Tôi không thể thiền, tôi không thể chú tâm". Đó là vì bạn vẫn mang cả thế giới trên vai khi tọa thiền, và bạn không muốn đặt nó xuống.
Tôi nghe rằng một đệ tử của tôi đang vừa đi vừa đọc quyển Căn Bản Chánh Niệm (Mindfulness in Plain English). Anh ta không chánh niệm mình đang ở đâu và đã bị xe tông! Lời gọi mời của Đức Phật rằng chúng ta hãy đến để thấy, đòi hỏi ta phải thực hiện những gì ta đã đọc ở đây. Hãy thực hành Bát Chánh Đạo của Đức Phật ngay cả khi bạn đang đọc chúng. Đừng để những khổ đau làm bạn tăm tối.
Nếu như bạn có đọc quyển sách này hàng trăm lần, nó cũng không giúp được gì cho bạn trừ khi bạn ứng dụng những điều được viết ra đây. Chắc chắn rằng quyển sách này sẽ thật hữu ích nếu bạn hết lòng thực hành, quán sát thấu đáo những khổ đau và tự nguyện làm bất cứ điều gì để đạt đến được hạnh phúc lâu dài.
Sự Khám Phá của Đức Phật
Những tiến bộ kỹ thuật ào ạt. Vật chất tăng trưởng. Sự căng thẳng. Cuộc sống và công việc chịu nhiều áp lực vì những đổi thay chóng mặt. Có phải đó là ở thế kỷ hai mươi mốt? Không, đó là thế kỷ thứ sáu trước công nguyên -khoảng thời gian của những cuộc chiến tranh tàn sát, kinh tế hỗn loạn và sự xáo trộn những nếp sống đã được hình thành, giống như ngày nay. Trong những điều kiện tương tự như của chúng ta, Đức Phật đã khám phá ra con đường đưa đến hạnh phúc dài lâu. Khám phá này của Ngài -một phương pháp rèn luyện tâm từng bước từng bước để đạt được sự tự tại - là điều quan trọng hôm nay cũng như ở bất cứ lúc nào.
Nhưng đem ứng dụng những khám phá của Đức Phật không phải là điều dễ dàng. Nó có thể kéo dài hàng năm. Yếu tố quan trọng nhất lúc bắt đầu là một ý chí mãnh liệt muốn thay đổi cuộc đời của bạn bằng cách chấp nhận những thói quen mới và tập nhìn thế giới một cách khác.
Mỗi bước trên con đường đến hạnh phúc của Đức Phật đòi hỏi ta phải thực hành chánh niệm cho đến khi nó trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của ta. Chánh niệm là cách bạn tập cho mình trở nên ý thức về sự việc như chúng thực sự là. Với tâm luôn chánh niệm, bạn tiến lên qua tám bước đã được Đức Phật đặt ra hơn hai ngàn năm trăm năm trước -một sự rèn luyện nhẹ nhàng, từng bước để tận diệt khổ đau.
Ai là người muốn rèn luyện như thế? Câu trả lời là bất cứ ai đã quá mỏi mệt với những khổ đau trong đời. "Cuộc sống của tôi như thế này là tốt rồi. Tôi thấy đủ hạnh phúc rồi," bạn có thể nghĩ như thế". Bất cứ cuộc đời nào cũng có những phút giây tự tại, những phút giây của hỷ lạc. Nhưng về mặt khác thì sao, phần mà bạn không muốn nghĩ đến khi mọi thứ không diễn ra một cách tốt đẹp? Những thảm hoạ, sự nuối tiếc, thất vọng, những đau đớn thể xác, sự buồn chán, cô đơn, hối hận, những cảm giác ray rức khi nghĩ rằng có thể có một cái gì đó tốt hơn thế. Những điều này cũng xảy ra, có phải không? Hạnh phúc mong manh của chúng ta tùy thuộc vào sự việc xảy ra theo một cách nào đó. Nhưng cũng có một điều khác nữa: một thứ hạnh phúc không tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện. Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường đi đến sự hạnh phúc toàn vẹn đó.
Nếu bạn sẵn lòng làm bất cứ điều gì để tìm được con đường thoát khỏi khổ đau -và điều đó có nghĩa là phải đối mặt với những cội rễ của tham, sân ngay tại đây, ngay giây phút này- thì bạn có thể đạt được ý nguyện. Ngay nếu như bạn chỉ là một người đọc tình cờ, thì những lời dạy này cũng có thể hữu ích cho bạn, nếu như bạn sẵn lòng thực hành những gì bạn thấy có ý nghĩa. Nếu bạn nhận thấy điều gì đó đúng, thì đừng bỏ qua. Hãy hành động!
Điều này nói thì dễ, nhưng thật ra không có gì khó hơn. Khi bạn tự nhủ rằng, "Tôi phải chuyển hóa để được hạnh phúc hơn" -không phải vì Đức Phật đã nói thế, mà vì trái tim bạn nhận ra được một chân lý thâm sâu- thì bạn phải dốc hết sức lực để chuyển đổi. Bạn cần có quyết tâm mạnh mẽ để chế ngự những thói quen xấu.
Và phần thưởng dành cho bạn là hạnh phúc -không chỉ cho hôm nay mà còn là mãi mãi.
Hãy bắt đầu. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách xét xem hạnh phúc là gì, tại sao nó quá khó nắm bắt, và ta phải làm thế nào để bắt đầu cuộc hành trình trên con đường tiến đến hạnh phúc của Đức Phật.
Ý Nghĩa Của Hạnh Phúc
Ước muốn được hạnh phúc không xa lạ với chúng ta, nhưng nó vẫn luôn xa rời chúng ta. Được hạnh phúc có nghĩa là gì? Chúng ta thường tìm cách hưởng thụ dục lạc như ăn ngon hay giải trí, vì chúng đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Nhưng có thứ hạnh phúc nào vượt lên trên những giây phút khóai lạc chóng qua đó không?
Nhiều người cố gắng xâu chuỗi lại thật nhiều những phút giây sung sướng, dễ chịu để họ có thể gọi đó là một cuộc sống hạnh phúc. Lại có người cảm nhận được sự giới hạn của dục lạc tầm thường, đã đi tìm một thứ hạnh phúc lâu dài hơn với những tiện nghi vật chất, đời sống gia đình yên ổn. Tuy nhiên các nguồn hạnh phúc đó cũng có những giới hạn của chúng. Khắp thế giới nhiều người sống trong sự đau khổ vì đói; những nhu cầu căn bản như được mặc, được ở của họ không được đáp ứng; họ phải chịu đựng mối đe dọa thường xuyên của bạo lực. Cũng dễ hiểu thôi khi những người này tin rằng sự thoải mái vật chất sẽ mang đến cho họ hạnh phúc. Ở Mỹ, sự phân chia của cải vật chất không đồng đều có thể khiến nhiều người sống trong nghèo khó, nhưng sự đói khổ hay thiếu thốn như ở các quốc gia khác trên thế giới thì ít thấy. Mức sống của phần lớn công dân Mỹ rất cao. Vì thế người dân ở các quốc gia khác thường nghĩ rằng người Mỹ phải là những người hạnh phúc nhất trên thế gian.
Nhưng nếu đến được Mỹ, họ sẽ nhìn thấy gì? Họ sẽ nhận thấy rằng người Mỹ luôn bận rộn -vội vã đến điểm hẹn, luôn nói chuyện trên di động, bận rộn mua sắm thực phẩm, áo quần, làm việc rất nhiều giờ trong văn phòng hay các xưởng thợ. Tại sao họ phải vội vã điên cuồng như thế?
Câu trả lời rất đơn giản. Đó là dầu người Mỹ dường như có tất cả, họ vẫn rất khổ đau. Và chính họ cũng cảm thấy hoang mang vì điều này. Tại sao khi đã có cuộc sống gia đình ấm êm, công việc đảm bảo, nhà cửa khang trang, đời sống nhiều chọn lựa, tiền bạc đầy đủ- mà họ vẫn không cảm thấy hạnh phúc? Họ nghĩ rằng chỉ có thiếu thốn những thứ trên mới khiến người ta đau khổ. Trái lại, được sở hữu, được xã hội công nhận, có tình thương của bạn bè, gia đình, và những sự thoải mái, thì ắt phải được hạnh phúc. Vậy thì tại sao, người Mỹ cũng như bao người khác ở khắp mọi nơi, thường cảm thấy đau khổ?
Hình như ngay chính những điều mà ta nghĩ sẽ mang hạnh phúc đến cho ta, thực ra lại là nguồn gốc của khổ đau. Tại sao? Vì chúng không trường tồn. Các mối liên hệ rồi sẽ tan vỡ, đầu tư có thể thất bại, người ta mất việc, con cái lớn lên rồi rời xa gia đình, và các cảm giác bằng lòng, thỏa mãn có được từ việc sở hữu những thứ vật chất xa hoa cũng như những giây phút khóai lạc, sung sướng, tốt lắm thì cũng chỉ là thoáng chốc. Vô thường có mặt ở khắp nơi quanh ta, đe doạ ngay chính những thứ mà ta nghĩ rằng ta cần để có được hạnh phúc.
Một điều nghịch lý là chúng ta càng có nhiều, thì ta càng có thể đau khổ nhiều hơn.
Ngày nay con người càng có nhiều đòi hỏi tinh tế hơn, điều đó đúng, nhưng dầu họ có bao nhiêu thứ vật chất của cải đẹp đẽ, đắt tiền, họ vẫn muốn hơn thế nữa. Và nền văn hóa tân tiến càng củng cố thêm lòng tham muốn này. Những gì bạn thật sự cần để được hạnh phúc, theo như các quảng cáo trên truyền hình hay trên những tấm biển quảng cáo nói, là phải có chiếc xe hơi mới sáng chói này, phải có chiếc máy vi tính siêu nhanh này, một chuyến nghĩ hè ở Hawaii đầy nắng. Và những thứ đó cũng có vẻ được như thế thật, nhưng một cách ngắn ngủi. Người ta thường lầm tưởng cảm giác phấn chấn, hào hứng, có được từ việc sở hữu một món đồ mới này hay những giây phút khóai lạc, là hạnh phúc. Nhưng sau đó những ham muốn khác lại trỗi dậy. Khi màu da rám nắng đã phai, khi chiếc xe mới đã bị trầy thì họ lại nghĩ đến những cuộc mua sắm khác. Việc họ không ngừng kéo nhau đến các khu thương xá mua sắm khiến họ không thể khám phá ra suối nguồn của hạnh phúc thật sự.
Nguồn Hạnh Phúc.
Đức Phật đã miêu tả một số loại hạnh phúc, xếp chúng theo thứ tự từ cái tầm thường nhất cho đến cái cao thượng nhất
Hạnh Phúc Thấp Kém Của Sự Bám Víu
Đức Phật xếp gần như tất cả những gì mà phần đông chúng ta gọi là hạnh phúc vào loại thấp nhất. Ngài gọi đó là " hạnh phúc của dục lạc." Chúng ta cũng có thể gọi nó là "hạnh phúc của những điều kiện dễ chịu" hay "hạnh phúc của sự bám víu." Nó bao gồm tất cả những thứ hạnh phúc thế tục chóng qua có được từ sự đắm chìm trong dục lạc, những sự thỏa mãn thân xác và vật chất: hạnh phúc được sở hữu của cải, áo quần thời trang, xe mới, nhà sang; sự hưởng thụ từ việc được nhìn cảnh đẹp, thưởng thức âm nhạc, món ăn đồ ngon, và những cuộc chuyện trò thú vị; sự thỏa mãn vì có tài hội hoạ, chơi đàn, hay những thứ đại loại như thế; và hạnh phúc đến từ việc chia sẻ một cuộc sống gia đình đầm ấm.
Chúng ta hãy nhìn thấu đáo hơn về hạnh phúc của dục lạc. Trạng thái thấp kém nhất của nó là sự hoàn toàn đắm chìm trong ngũ dục. Tệ nhất là khi quá đắm chìm trong trạng thái này có thể đưa đến sự trụy lạc, đồi bại và lệ thuộc. Có thể dễ dàng nhận ra rằng sự đắm chìm trong ngũ dục không phải là hạnh phúc, vì trạng thái khóai lạc nhanh chóng qua đi, và còn có thể để lại cho người ta một cảm giác chán chường, hối tiếc.
Đức Phật đã dạy rằng khi con người trưởng thành về mặt tâm linh, họ sẽ hiểu rằng trên đời có nhiều thứ cao quý hơn là ngũ dục. Ngài dùng hình ảnh của một đứa bé yếu đuối bị trói buộc bởi những sợi dây mong manh ở năm điểm: hai cùm tay, hai cẳng chân, và cổ họng. Cũng giống như năm sợi dây này -ngũ dục- có thể trói buộc một đứa bé nhưng không thể làm gì đối với người trưởng thành, vì họ có thể dễ dàng bức thoát ra, vì thế một người có chánh niệm sẽ không bị dính mắc vào ý nghĩ muốn chìm đắm trong ngũ dục, để họ có thể sống một cuộc đời có ý nghĩa và hạnh phúc. (TBK 80)
Tuy nhiên, có những hạnh phúc thế tục vượt trên các dục lạc tầm thường. Như là thú đọc sách, xem phim, hay những hình thức giải trí khác nhằm làm phấn chấn tinh thần. Hay những niềm vui thế tục cao cả như là giúp đỡ người, duy trì một gia đình hạnh phúc, nuôi dưỡng con cái, cũng như kiếm sống một cách lương thiện.
Đức Phật cũng nhắc đến một vài loại hạnh phúc được chấp nhận hơn. Đó là cảm giác hạnh phúc, tự tại bạn có được khi sở hữu những vật chất, của cải đã được tạo ra bằng chính sức lao động lương thiện, khó nhọc của mình. Bạn sẽ tận hưởng tài sản của mình với một lương tâm trong sáng, không sợ bị trả thù hay xâm hại. Tốt hơn thế nữa là hạnh phúc của việc vừa hưởng thụ của cải bạn đã kiếm được một cách lương thiện, đồng thời chia sẻ nó với người khác. Một loại hạnh phúc tự tại đặc biệt khác nữa đến từ việc nhận ra rằng ta hoàn toàn không nợ bất cứ gì, đối với bất cứ ai. (A II (4) VII.2)
Phần đông chúng ta, ngay cả những người có ý thức nhất cũng coi những điều này như là cốt lõi của một cuộc sống đạo đức. Thế thì tại sao Đức Phật coi chúng như thuộc về loại hạnh phúc thấp kém nhất? Vì chúng phụ thuộc vào những điều kiện lý tưởng. Mặc dầu không thoáng qua như những khóai lạc nhất thời của ngũ dục, và ít tổn hại nặng nề đến hạnh phúc dài lâu, chúng không bền vững. Chúng ta càng dựa vào chúng, càng chạy đuổi theo chúng, và cố gắng bám víu vào chúng thì chúng ta càng thêm khổ đau. Nỗ lực của chúng ta sẽ tạo nên tâm lý bực dọc đau khổ và cuối cùng chứng tỏ rằng chúng vô ích; không thể tránh được sự thay đổi của hoàn cảnh. Dầu ta có làm gì đi nữa, ta cũng bị tổn thương. Còn có những nguồn hạnh phúc cao cả hơn, vững bền hơn.
Nguồn Hạnh Phúc Cao Thượng
Một trong những nguồn hạnh phúc này là "hạnh phúc của sự xả ly," một loại hạnh phúc tâm linh đến từ việc theo đuổi một điều gì đó vượt lên trên những niềm vui thế tục. Một thí dụ quen thuộc là niềm vui đến từ việc buông bỏ tất cả mọi lo lắng trong đời sống thế tục và theo đuổi đời sống độc cư ở những nơi thanh tịnh để theo đuổi việc phát triển tâm linh. Nguồn hạnh phúc đến từ sự nguyện cầu, các nghi lễ tôn giáo và sự phát sinh tín tâm trong tôn giáo cũng thuộc về loại hạnh phúc này.
Tâm rộng rãi là một hình thức xả ly mạnh mẽ. Chia sẻ một cách rộng rãi những gì ta có, và nhiều hình thức khác của xả ly, đem lại cho chúng ta hạnh phúc. Mỗi khi biết buông bỏ, ta cảm thấy nhẹ nhàng, dễ chịu. Từ đó suy ra nếu ta có thể buông bỏ hoàn toàn sự bám víu vào bất cứ điều gì trên thế gian, thì sự buông bỏ rộng lớn này sẽ mang đến nhiều hạnh phúc hơn là những hành động xả ly không thường xuyên.
Cao thượng hơn sự buông bỏ vật chất là "hạnh phúc của việc buông bỏ các tâm lý bực bội." Loại hạnh phúc này phát sinh một cách tự nhiên khi ta rèn tâm buông bỏ một cách nhanh chóng những sân hận, ham muốn, bám víu, ghen tỵ, kiêu hãnh, nghi hoặc và các tâm lý bực bội khác mỗi khi chúng phát sinh. Dập tắt ngay khi chúng vừa phát sinh giúp tâm không vướng mắc, đầy hỷ lạc, trong sáng. Tuy nhiên không có gì bảo đảm rằng các uế nhiễm này sẽ không xuất hiện trở lại và không quấy nhiễu tâm ta.
Tốt hơn nữa là những niềm vui và hạnh phúc vi tế trong các trạng thái thiền định sâu lắng. Trong những trạng thái này sầu não không thể phát sinh. Tuy những trạng thái định này có thể siêu việt và mạnh mẽ, chúng vẫn có một yếu điểm lớn: cuối cùng thì hành giả cũng phải xả thiền. Vì vạn pháp là vô thường, nên ngay chính các trạng thái thiền định sâu lắng cũng phải chấm dứt.
Nguồn Hạnh Phúc Cao Thượng Nhất
Hạnh phúc cao thượng nhất là niềm hỷ lạc đạt được qua các mức độ giác ngộ. Ở mỗi mức độ, gánh nặng cuộc đời được giảm nhẹ đi, và chúng ta sẽ cảm nhận được sự giải thoát, hạnh phúc to lớn hơn. Giai đoạn cuối cùng của giác ngộ, sự giải thoát hoàn toàn khỏi tất cả các trạng thái tâm tiêu cực, mang đến cho ta nguồn hạnh phúc tuyệt vời, không gián đoạn. Đức Phật khuyên chúng ta phải tập buông bỏ những bám víu vào các loại hạnh phúc thấp kém và tập trung tất cả nỗ lực của chúng ta vào việc tìm ra chính cái hạnh phúc cao nhất, đó là sự giác ngộ.
Nhưng Đức Phật cũng khuyến khích chúng sanh hãy phát huy đến cao độ hạnh phúc của họ ở bất cứ mức độ giác ngộ nào mà họ có thể đạt đến. Đối với những ai không thể nhìn thấy gì hơn là hạnh phúc dựa trên dục lạc, ngài đưa ra những khuyên nghiêm chỉnh để họ tránh xa các phiền não thế tục và để họ tìm được nguồn hạnh phúc thế tục tối ưu nhất, thí dụ, bằng cách vun trồng những đức tính đưa đến sự thành công vật chất hay đời sống gia đình yên ấm. Đối với người có ý hướng cao hơn muốn được tái sinh vào những cõi thanh tịnh, ngài chỉ cho họ phương cách để đạt được mục đích đó. Đối với những vị muốn đạt được mục đích cao nhất của sự giác ngộ viên mãn, ngài dạy họ làm thế nào để thành tựu điều đó. Nhưng dầu theo đuổi bất cứ loại hạnh phúc nào, chúng ta cũng phải thực hành theo con đường của bát chánh đạo.
Cái Bẫy Của Khổ Đau
Đức Phật biết rằng sự chạy đuổi không mỏi mệt theo hạnh phúc trong dục lạc thế gian khiến chúng ta bị trói buộc vào cái vòng không cùng tận của nhân và quả, của yêu và ghét. Mỗi ý nghĩ, lời nói hay hành động là nhân đưa đến quả, rồi quả ấy lại trở thành một nhân khác. Để chỉ cho chúng ta thấy cái vòng khổ đau đó vận hành như thế nào, Đức Phật đã giải thích:
Do duyên thọ, ái sanh; do duyên ái, tìm cầu sanh; do duyên tìm cầu, lợi sanh; do duyên lợi, quyết định sanh; do duyên quyết định, tham dục sanh; do duyên tham dục, đam trước sanh; do duyên đam trước, chấp thủ sanh; do duyên chấp thủ, hà tiện sanh; do duyên hà tiện, thủ hộ sanh; do duyên thủ hộ, phát sanh một số ác, bất thiện pháp như tranh đấu, tranh luận, đầu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ. (Kinh Trường Bộ, Hòa Thượng Thích Minh Châu NXB Tôn Giáo-2005, trang 517)
Mỗi chúng ta đều trải qua những giai đoạn của vòng luân chuyển này trong đời sống hàng ngày. Thí dụ đang ở trong siêu thị, bạn nhìn thấy một chiếc bánh trông rất ngon với nhân màu đỏ, kem trắng điểm lên trên. Đó là chiếc bánh duy nhất còn lại. Dầu chỉ ít phút trước đó, tâm bạn thanh tịnh, tự tại, thì khi nhìn thấy cảnh này, mà Đức Phật gọi là "sự tiếp xúc giữa các căn và các trần," tâm khởi lên những suy tưởng và cảm thọ khóai lạc.
Rồi tham muốn phát sinh từ lạc thọ. "Hừm. . . bánh dâu," bạn tự nhủ, "với kem trứng đánh nổi phía trên." Tâm sẽ chạy đuổi theo và khai triển những ý nghĩ khóai lạc. Bánh dâu ngon lắm! Thơm biết chừng nào! Kem trứng kia tan trong miệng hẳn là rất tuyệt vời! Một quyết định tiếp theo sau: "Tôi muốn ăn chiếc bánh đó." Rồi sự bám víu (tham đắm) phát sinh: "Chiếc bánh đó là của tôi." Có thể bạn sẽ nhận ra một sự bất ổn khi tâm bạn do dự trong chốc lát, khi nó nghĩ đến những hậu quả tiêu cực của cái bánh đối với túi tiền hay vòng eo của bạn.
Bỗng nhiên bạn nhận ra có ai đó cũng ngưng lại ở quầy bánh và đang ngắm nghía chiếc bánh. Cái bánh của bạn! Bị chế ngự bởi lòng hẹp hòi, bạn chộp ngay chiếc bánh, tiến ra quầy thanh toán trong khi người khách kia trừng mắt phản đối. Một diễn tiến tiếp theo, dầu thông thường khó xảy ra, là vị khách hàng kia đuổi theo bạn đến tận chỗ đậu xe, cố gắng giật cái bánh lại, hãy tưởng tượng biết bao hành vi bất thiện có thể xảy ra -có thể là chửi rủa nhau hay đánh nhau. Nhưng ngay cả khi không có một sự đối đầu trực tiếp nào, hành động của bạn cũng khiến người kia phát sinh tâm bất thiện và đánh giá bạn là một người tham ăn. Như thế là tâm bình an của bạn đã bị hủy diệt.
Một khi tham ái đã phát khởi trong tâm, thì không thể tránh khỏi có những hành động ích kỷ, hẹp hòi theo sau. Trong khi chạy đuổi theo bất cứ hạnh phúc nhỏ mọn nào -một miếng bánh dâu- chúng ta cũng có thể hành động thô bạo và xém nữa tạo ra kẻ thù. Khi lòng tham ái là đối với một điều gì đó quan trọng hơn, như của cải, tài sản của người hay hành động tà dâm thì hậu quả còn tai hại hơn, bạo lực càng nghiêm trọng hơn và những đau khổ triền miên có thể xảy ra.
Nếu có thể đảo ngược lại vòng quay, bắt đầu từ những hành động tiêu cực của chúng ta, rồi đi ngược trở lại từng bước từng bước đến các nguyên nhân tâm và sinh lý, thì ta có thể đoạn trừ khổ đau tận gốc ngọn của nó. Khi lòng ham muốn, sự bám víu đã được đoạn trừ -hoàn toàn bị xoá bỏ- thì hạnh phúc mới được đảm bảo. Có thể chúng ta chưa biết phương cách để đạt được một điều như thế, nhưng khi đã nhận ra việc phải làm, là chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình của mình.
Từng Bước Tu Tập
Giờ thì bạn có thể hiểu tại sao chúng tôi nói rằng hạnh phúc thật sự chỉ đến khi tham ái đã được đoạn diệt. Ngay nếu như ta có nghĩ rằng việc đạt được hạnh phúc cao thượng nhất là không thực tế, thì việc giảm thiểu tham ái cũng đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta. Càng có thể buông bỏ được lòng tham ái, thì ta càng dễ dàng cảm nhận được hạnh phúc hơn. Nhưng làm thế nào để giảm bớt lòng tham ái? Chỉ ý nghĩ làm giảm thiểu lòng ham muốn -nói chi đến việc đoạn diệt nó- cũng đã có thể khiến bạn thối chí. Nếu bạn biết rằng chỉ dùng ý chí để đẩy lùi ham muốn là hoài công, thì bạn rất đúng. Đức Phật đã đưa ra một giải pháp tốt đẹp hơn: đó là từng bước tu tập theo Bát Chánh Đạo.
Phương cách phát triển từng bước theo con đường của Đức Phật ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống. Tiến trình này có thể bắt đầu bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu. Bạn có thể bắt đầu từ chỗ của bạn và tiến tới, từng bước một. Mỗi sự thay đổi mới tốt đẹp hơn trong hành vi hay hiểu biết đều dựa trên các bước đã qua.
Trong số những người đã được nghe Đức Phật thuyết pháp, có những vị với tâm dễ dàng tiếp thu đến nỗi họ có thể đạt được hạnh phúc viên mãn ngay sau khi nghe những lời hướng dẫn tu theo từng bước của Đức Phật lần đầu tiên. Một số ít đã quá sẵn sàng đến nỗi tuy vừa nghe qua giáo lý siêu việt -Tứ Thánh đế- thì tâm họ đã hoàn toàn được giải thoát. Nhưng phần đông các đệ tử Phật phải cố gắng thực hành các lời dạy, thấu triệt từng bước trước khi chuyển sang bước tiếp theo. Nhiều vị phải mất hàng năm để vượt qua những chướng ngại trong sự hiểu biết trước khi họ có thể tiến lên một bậc cao hơn của sự hiểu biết.
Phần đông chúng ta phải mất rất nhiều công sức để tự tháo gỡ mình ra khỏi những hành vi hay thái độ tự hại mình và hại người đã được hình thành qua bao năm tháng. Chúng ta phải chậm rãi bước theo con đường tu tập từng bước của Đức Phật với rất nhiều kiên nhẫn và khích lệ. Không phải ai cũng có thể thấu triệt mọi thứ ngay lập tức. Đến với sự phát triển tâm linh, tất cả chúng ta đều mang theo những kinh nghiệm quá khứ riêng và mức độ dốc tâm khác nhau.
Đức Phật là một vị thầy tinh tế tuyệt vời. Ngài biết rằng chúng ta cần có những hiểu biết căn bản rõ ràng trước khi có thể tiếp thu những giáo lý cao siêu hơn. Thuyết Bát Chánh Đạo đưa đến hạnh phúc của Đức Phật gồm có ba giai đoạn được xây dựng dựa lên nhau: giới, định và tuệ.
Giai đoạn đầu tiên, giới luật, bao gồm việc chấp nhận một số giá trị cơ bản và sống dựa theo chúng. Đức Phật hiểu rằng sự suy nghĩ, nói năng và hành động đúng theo giới luật là những bước căn bản cần phải có trước khi tiến đến sự phát triển tâm linh cao hơn. Nhưng dĩ nhiên là chúng ta phải có một ít trí tuệ để biết rõ đạo đức là gì. Vì thế Đức Phật bắt đầu bằng cách giúp chúng ta vun trồng cấp bậc cơ bản của chánh kiến (bước thứ nhất) và chánh tư duy (bước thứ hai). Những khả năng tâm linh này giúp chúng ta phân biệt giữa ý nghĩ và hành động đạo đức hay vô đạo đức, giữa những hành động thiện với những hành động làm hại mình và hại người chung quanh.
Khi chánh kiến đã phát triển, chúng ta có thể bắt đầu đem sự hiểu biết mới mẻ của mình ra áp dụng bằng cách thực hành chánh ngữ (bước thứ ba), chánh nghiệp (bước thứ tư), và chánh mạng (bước thứ năm). Những giai đoạn thực hành các hành động đạo đức tốt đẹp giúp tâm ta cởi mở, giải thoát khỏi các chướng ngại, hoan hỷ và tự tin. Khi các chướng ngại từ những hành động tiêu cực bắt đầu phai mờ đi thì định mới có thể phát sinh.
Định có ba giai đoạn. Đầu tiên là chánh tinh tấn (bước thứ sáu), giúp tâm tập trung vào từng bước trên con đường đạo. Những sự cố gắng như thế đặc biệt cần thiết khi nhiều tư tưởng bất thiện khởi lên trong tâm khi chúng ta ngồi thiền. Tiếp theo là chánh niệm (bước thứ bảy). Muốn có tâm chánh niệm đòi hỏi ta phải có sự chú tâm toàn vẹn từng phút, để ta có thể kiểm soát được sự biến đổi của tâm pháp. Chánh định (bước thứ tám) cho phép chúng ta trụ tâm không gián đoạn trên một đối tượng hay một ý nghĩ nào đó. Vì đó là một trạng thái tâm tích cực, không sân hận hay tham luyến, định mang đến cho ta một sức mạnh tâm linh mà ta cần để có thể nhìn thấu đáo hoàn cảnh thật sự của mình.
Với giới luật làm nền tảng, định sẽ phát sinh. Do có định, giai đoạn thứ ba trên con đường của Đức Phật -trí tuệ- sẽ phát triển. Điều này mang chúng ta trở lại với hai bước đầu tiên trên con đường: chánh kiến và chánh tư duy. Chúng ta bắt đầu cảm nghiệm trí tuệ bùng vỡ trong các hành động của mình. Chúng ta nhận ra mình đã tự tạo đau khổ cho bản thân như thế nào. Chúng ta nhận ra bằng ý nghĩ, lời nói, và hành động của mình, ta có thể tự làm tổn thương bản thân và người khác như thế nào. Chúng ta nhận ra những sự giả dối của mình và đối diện với cuộc đời như nó thực sự là. Trí tuệ là ngọn đèn sáng soi cho chúng ta con đường thoát khỏi vòng trói buộc của khổ đau.
Dầu tôi đã trình bày con đường của Đức Phật như là một chuỗi của những giai đoạn liên tục nhau, thực ra nó vận hành theo một vòng tròn. Giới, định, và tuệ hỗ trợ, phát triển lẫn nhau. Mỗi bước trong bát chánh đạo cũng củng cố, phát huy các bước còn lại. Khi bạn bắt đầu thực hành cả quá trình, mỗi bước sẽ lần lượt mở ra và mỗi hành động thiện hay tuệ giác sẽ là động lực đưa ta đến bước kế tiếp. Trên bước đường tu tập đó, bạn sẽ có nhiều chuyển đổi, nhất là khuynh hướng đổ lỗi cho người khác về sự bất hạnh của mình. Với từng bước rẽ, bạn sẵn sàng để chấp nhận trách nhiệm đối với ý nghĩ, lời nói và hành động có chú ý của mình nhiều hơn.
Thí dụ, khi bạn áp dụng trí tuệ ngày càng phát triển của mình để thấu hiểu các hành động đạo đức, bạn sẽ nhận thấy giá trị của tư tưởng và các hành động đạo đức này một cách sâu sắc, dẫn đến những sự thay đổi trong cung cách hành động của bạn càng nhanh chóng hơn. Tương tự, khi bạn có thể nhìn thấy rõ ràng hơn trạng thái tâm nào là hữu ích và trạng thái tâm nào bạn cần buông bỏ, thì bạn sẽ đem sự tinh tấn của mình áp dụng đúng chỗ hơn, và kết quả là tâm định của bạn trở nên sâu lắng hơn và tuệ giác được phát triển
Hỗ Trợ Cho Sự Thực Tập
Khi bắt đầu đi theo con đường Phật dạy, dĩ nhiên là chúng ta sẽ muốn thay đổi cách sống, cách ứng xử để hỗ trợ cho việc tu tập của mình. Đây là một số những chuyển đổi mà chúng ta sẽ thấy rất lợi ích khi tiến bước trên con đường đạo; chúng sẽ giúp ta chế ngự được những trở ngại trong công phu tu tập mà ta phải thực hiện theo các chương tiếp theo. Đừng nản chí; một số những lời khuyên này có thể là những thử thách lớn mà chúng ta phải vượt qua trong một thời gian dài.
ĐƠN GIẢN HÓA CUỘC SỐNG
Tốt nhất là chúng ta hãy bắt đầu bằng cách đánh giá một cách trung thực về những hoạt động quen thuộc hàng ngày. Xét xem chúng ta sử dụng thời gian của mình như thế nào. Hãy tạo ra thói quen thường tự hỏi mình, "Công việc hay hoạt động này có thực sự cần thiết không hay nó chỉ là một cách để chúng ta tỏ ra bận rộn?" Nếu ta có thể giảm bớt hay loại bỏ một số hoạt động, ta sẽ được thanh tịnh, yên tĩnh, là những yếu tố cơ bản để tiến lên trên đường tu tập.
Hiện tại có thể bạn đang có rất nhiều trách nhiệm đối với gia đình hay những người đang cần đến bạn. Thế cũng tốt, nhưng hãy cẩn thận đừng để phải hy sinh những cơ hội thanh tịnh tâm và phát triển tuệ giác. Giúp người khác là điều quan trọng, nhưng như Đức Phật đã dạy rất rõ ràng, chăm lo cho sự phát triển của chính mình là ưu tiên hơn cả.
Hãy tập thói quen mỗi ngày dành ít thời gian cho riêng mình trong tĩnh lặng, hơn là lúc nào cũng có mặt bên người khác. Nếu tất cả thời gian của bạn đều ở bên người khác, bạn dễ bị vướng vào các hoạt động và những câu chuyện phù phiếm. Điều đó khiến ta khó duy trì sự hành thiền chánh niệm. Dù đang sống trong môi trường nào, nếu bạn muốn phát triển sâu xa hơn sự hiểu biết và trí tuệ của mình, thỉnh thỏang bạn phải tạm dừng các bổn phận để có thời gian cho riêng mình.
Dĩ nhiên, sự yên tĩnh bên ngoài không phải lúc nào cũng đủ. Ngay khi ở nơi yên tĩnh, chỉ có một mình, đôi khi chúng ta cũng tự thấy mình bị chế ngự bởi lòng sân hận, ganh ghét, sợ hãi, lo âu, căng thẳng, tham đắm và hoài nghi. Và cũng có những lúc tâm ta hoàn toàn tự tại, thanh tịnh dầu quanh ta náo nhiệt, ồn ào.
Đức Phật đã giải thích nghịch lý này như sau. Ngài dạy rằng nếu ít có lòng chấp thủ hay tham đắm, ta có thể sống yên tĩnh giữa đám đông. Ta có thể buông bỏ các ý niệm về sở hữu hay chiếm hữu. Những người ta yêu thương, của cải, công việc, các mối liên hệ ràng buộc, quan điểm và ý kiến -ta bám víu vào tất cả những thứ này. Khi giảm thiểu được sự bám víu này, ta tiến gần hơn đến sự giải thoát nội tại, là bản chất của thanh tịnh. Thanh tịnh thật sự chỉ có trong tâm ta. Một người với tâm giải thoát khỏi những ràng buộc của bám víu và sở hữu, theo Đức Phật, là người "độc cư". Và người mà tâm luôn chứa đầy ham muốn, sân hận và si mê là người "sống có bầu bạn" -ngay cả khi họ sống một mình. Như thế, sự hỗ trợ tốt nhất cho việc tu tập của chúng ta, là một tâm đã được rèn luyện.
Có người tin rằng các nghi lễ truyền thống giúp tâm họ được thanh tịnh, đồng thời nhắc nhở họ đến điều gì thật sự là quan trọng. Bạn và gia đình có thể cùng cầu nguyện, đốt hương, trầm, đèn cầy, hay dâng hoa lên hình tượng Đức Phật mỗi ngày. Dầu những nghi thức đơn giản, trân trọng này sẽ không đem lại giác ngộ cho bạn, nhưng chúng có thể là những dụng cụ hữu ích để chuẩn bị tâm cho sự thực hành chánh niệm hằng ngày.
RÈN LUYỆN SỰ TỰ KIỀM CHẾ
Một cuộc sống nề nếp, kỷ luật cũng có thể là một nguồn hạnh phúc. Hãy quan sát kỹ môi trường quanh bạn. Nếu phòng ngủ của bạn đầy quần áo dơ, nếu trên bàn làm việc của bạn ngổn ngang sách vở, giấy tờ, đĩa vi tính, báo cũ, và nếu chén dĩa từ tuần trước vẫn còn đầy trong bếp, thì làm sao tâm bạn có ngăn nắp? Sự tu tập phát triển từ ngoài vào trong. Hãy dọn dẹp nhà cửa cho sạch trước, rồi mới hướng vào trong để quét sạch bụi bặm của tham, sân và si.
Có được một cơ thể khỏe mạnh cũng đem lại lợi ích cho sự tu tập. Yoga hay các hình thức thể dục khác cũng góp phần làm cho tâm khỏe mạnh. Mỗi ngày hãy đi bộ ít nhất một lần. Đi bộ vừa là một môn thể thao tốt, vừa là một cơ hội để thực tập chánh niệm một mình trong im lặng.
Một nguồn dinh dưỡng đầy đủ và điều độ cũng hỗ trợ cho sự tu tập tâm linh. Hãy ăn sáng thật đầy đủ, bữa trưa vừa đủ, và bữa tối nhẹ sẽ khiến bạn dễ chịu hơn sáng hôm sau. Có câu cổ ngữ rằng, "Hãy ăn sáng như một hoàng đế, chia sẻ bữa trưa với bạn bè, và tặng bữa tối cho kẻ thù." (Tuy nhiên tôi phải nói thêm rằng, bạn không nên làm gì để có hại cho kẻ thù của bạn.) Các loại thức ăn nhanh, rượu, cà phê và những chất kích thích khác sẽ khiến ta khó chú tâm. Hãy ăn để sống, đừng sống để ăn. Đừng biến việc ăn uống thành một thói quen không chánh niệm. Nhiều hành giả tham gia thực hành việc thỉnh thỏang bỏ bữa không ăn, đã nhanh chóng chứng minh được rằng khi ta nghĩ là mình đói, thật ra chỉ là thói quen.
Cuối cùng, hãy tự rèn luyện để hành thiền mỗi ngày. Hành thiền mỗi buổi sáng ngay sau khi bạn vừa thức dậy hoặc buổi tối trước khi bạn đi ngủ sẽ giúp bạn tiến bộ. Nếu không thể duy trì sự hành thiền đều đặn, hãy tự hỏi mình tại sao. Có thể vì bạn còn nghi ngờ tầm quan trọng của thiền, hay sợ rằng nó sẽ không giúp bạn giải quyết được các vấn đề của mình. Hãy quán sát sự sợ hãi và hoài nghi của bạn một cách thấu triệt. Hãy đọc những câu chuyện đời của Đức Phật và những người đã tu thiền để đạt được hạnh phúc vĩnh hằng. Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người. Sau đó hãy tập tự kiềm chế một ít, nhất là lúc ban đầu, để duy trì kỷ luật của việc mỗi ngày thường xuyên hành thiền.
VUN TRỒNG TÂM THIỆN
Vun trồng tâm thiện -bố thí, kiên nhẫn, tín tâm và các đức tính khác- là bước khởi đầu trong sự đánh thức tâm linh.
Bố thí được tất cả mọi truyến thống tôn giáo truyền dạy, nhưng đó là một trạng thái tâm mà tất cả mọi chúng sanh đều sẵn có từ vô thủy. Ngay cả thú vật cũng chia sẻ đồ ăn cho nhau. Khi biết chia sẻ, bạn cảm thấy vui sướng, và rất hoan hỷ mỗi khi nhớ lại niềm vui của người nhận.
Ngoài ra cần rèn luyện tánh nhẫn nại. Nhẫn nại chịu đựng không có nghĩa là để cho người khác được tự do lạm dụng bạn. Nó có nghĩa là hãy bình tĩnh để diễn đạt mình một cách hữu hiệu đúng thời, đúng nơi, đúng lời, và đúng việc. Nếu bạn vội vã tuôn ra điều gì đó, bạn có thể sẽ phải hối hận về những gì bạn đã nói, hoặc làm thương tổn cho người khác.
Nhẫn nại cũng có nghĩa là cố gắng để hiểu người khác với tất cả khả năng của mình. Hiểu lầm, nghĩ sai và hoài nghi gây tổn thương và bất mãn. Hãy nhớ rằng người khác cũng có nhiều vấn đề như bạn -có thể còn hơn nữa. Người tốt đôi khi ở trongíu hoàn cảnh bất lợi, cũng có thể nói hay làm những điều thiếu chánh niệm. Nếu bạn có thể giữ bình tĩnh mặc dù bị khiêu khích, bạn có thể tránh được sự bực tức, và bạn sẽ thông cảm sâu sắc hơn với những hoàn cảnh của đồng loại.
Cố gắng đừng đổ lỗi cho người khác về sự bất hạnh của mình, hay hy vọng người khác sẽ mang đến cho bạn hạnh phúc. Hãy nhìn vào bên trong, khám phá ra tại sao bạn đau khổ, và tìm cách để khắc phục. Người bất hạnh thường khiến người khác cũng đau khổ. Nhưng nếu quanh bạn là những người không hạnh phúc, bạn vẫn có thể duy trì tâm bình an bằng cách giữ tâm càng trong sáng càng tốt - và sự nhẫn nại cũng như sự hiểu biết của bạn có thể làm họ được vui hơn.
Cuối cùng hãy tin tưởng vào khả năng tìm được hạnh phúc lâu dài của bạn. Điều này bao gồm lòng tin vào giáo lý của tôn giáo của bạn, vào bản thân, vào công việc, vào bạn bè, và vào tương lai. Tín tâm giúp ta có một thái độ sống lạc quan. Bạn có thể phát triển tín tâm qua việc quán sát những kinh nghiệm của bản thân. Bạn đã có tự tin về nhiều khả năng của mình. Hãy tin vào những khả năng bạn chưa có được.
TÌM MINH SƯ VÀ HỌC HỎI GIÁO LÝ
Một trung tâm dạy thiền uy tín và một vị thiền sư thật lòng muốn giúp bạn là những sự hỗ trợ rất quan trọng. Bạn không cần một vị thầy đòi hỏi sự phục tùng hay hứa hẹn các quyền lực thần thánh. Bạn nên tìm người có hiểu biết hơn bạn, người mà cuộc đời họ là một tấm gương cho bạn và bạn có thể phát triển một mối liên hệ lâu dài tốt đẹp với người đó. Có thể bạn phải trải qua nhiều năm để đi theo con đường đạo của Đức Phật -trong một số trường hợp, vài kiếp sống. Hãy chọn người dẫn đường cho bạn một cách khôn ngoan.
Đức Phật đã mô tả một vị thầy lý tưởng như là "một người bạn tốt." Một người như thế sẽ ăn nói nhỏ nhẹ, dịu dàng, từ bi, thật sự quan tâm và mến trọng bạn. Một người bạn tốt không bao giờ yêu cầu bạn phải làm điều gì sai trái, mà lúc nào cũng khuyến khích bạn làm việc phải và sẵn sàng giúp đỡ bạn khi cần. Một người bạn tốt là người có học và hiểu biết, sẵn sàng chia sẻ sự hiểu biết với bạn không chút ngại ngùng.
Hãy quan sát một vị có thể là thầy của bạn một cách cẩn thận. Hành động quan trọng hơn lời nói. Tiếp xúc thường xuyên với người đã đi theo con đường của Phật ít nhất là hơn mười năm, là một cách tốt để bạn tự đánh giá xem giáo lý đó có hữu hiệu.
Giống như một nghệ nhân truyền nghề cho đệ tử, không chỉ các kỹ thuật về nghề, mà cả những đức tính cần có để hành nghề; một vị thầy tốt cũng thế, vừa hướng dẫn bạn tu tập, vừa giúp bạn những sự thay đổi cần thiết trong cách sống để hỗ trợ cho sự tu tập của bạn. Nếu bạn thực sự muốn tìm hạnh phúc, hãy kiên nhẫn và tinh tấn để theo học một vị thầy như thế.
Sau đó, hãy tuân theo phương cách tu tập từng bước mà Đức Phật đã mô tả. Căn bản sự tu tập từng bước gồm có việc rèn luyện thế nào để lắng dịu tâm, quan sát tư tưởng và hành động của mình, rồi biến chúng thành công cụ giúp ta thiền quán và chánh niệm. Đó là một quá trình cần có thời gian, không thể hấp tấp. Một lý do tại sao nhiều người bỏ dở việc tu thiền, đó là vì họ không dành thời gian để tạo dựng nền móng cho sự tu tập hữu hiệu.
Cuối cùng, hãy dành thời gian để đọc và thảo luận về giáo lý của Đức Phật. Sách vở rất nhiều, cũng như là các nhóm thảo luận hay các lớp giáo lý. Bạn cũng có thể trao đổi về giáo lý của Đức Phật trực tuyến hay qua thư điện tử. Đọc về hay thảo luận về giáo lý của Đức Phật không bao giờ là sự lãng phí thời gian.
Có thể những điều kiện để tiến bộ này có vẻ quá tầm thường, nhưng rất ít người trong chúng ta biết sống một cách bình lặng, ăn uống độ lượng, thể dục thường xuyên và sống một cách đơn giản. Càng ít hơn nữa những người biết tìm đến học hỏi với một vị thầy có khả năng, thường xuyên tìm hiểu, trao đổi về những điều Phật dạy và hành thiền mỗi ngày. Dầu ở đây, việc sống đơn giản, biết đủ được đề cao, nhưng không có nghĩa là bạn không thể bắt đầu đi theo con đường của Phật ngay bây giờ, bất kể phong cách sống của bạn như thế nào. Chúng chỉ đơn giản cảnh báo cho bạn những gì bạn cần phải thực hiện qua năm tháng -hay đôi khi cả những kiếp người- để tiến lên hạnh phúc cao cả nhất.Khởi Đầu Của Sự Thực Hành Chánh Niệm
Những sự thay đổi trong cách sống được bàn đến trong những trang trước
đây chỉ nhằm một mục đích: giúp bạn biến chánh niệm thành một phần
trong đời sống. Chánh niệm là phương pháp duy nhất để vun trồng sự tĩnh
thức trong từng giây phút về bản chất thật sự của vạn pháp, qua sự tiếp xúc
với thân tâm. Có thể bạn đã biết đó là "thiền minh sát." Là một kỹ năng
bạn cần phát triển và sử dụng xuyên suốt mọi giai đoạn trên con đường đưa
đến hạnh phúc của Đức Phật. Sau đây là một số lời khuyên để bắt đầu sự tu
tập thiền minh sát.
Tọa thiền
Thời điểm tốt nhất để hành thiền là vào sáng sớm, trước khi bạn bắt đầu
công việc trong ngày. Một nơi yên tĩnh là lý tưởng nhất, nhưng trên thế giới
này khó có nơi đâu không có tiếng ồn, vì thế chỉ cần một nơi thích hợp cho
việc hành thiền và một chiếc gối thiền êm ái.
Tiếp đến, chọn một thế ngồi hành thiền. Tốt nhất nhưng khó nhất là thế
ngồi hoa sen (kiết già). Tréo hai chân, đặt bàn chân phải lên trên đùi trái và
ngược lại, lòng bàn chân hướng lên trên. Hai bàn tay chồng lên nhau, đặt dưới rốn, tựa trên đùi, nâng đỡ thân trên. Sống lưng thẳng, đốt sống này
chồng lên đốt kia như những xâu đồng xu. Cằm ngẩng lên.
Nếu không thể ngồi theo thế hoa sen, thì ngồi bán già. Đặt bàn chân phải
qua đùi trái (hay ngược lại), đầu gối chạm sàn. Rồi cúi người về phía trước,
đẩy gối vào phía sau. Nếu đầu gối khó chạm sàn thì đặt một đùi lên chỗ
gập đầu gối của chân kia.
Bạn cũng có thể ngồi đặt chân này trước chân kia. Hay, ngồi trên một ghế
đẩu nhỏ, giống như những cái ghế bạn thường thấy trong các thiền đường.
Nếu tất cả đều quá khó, bạn có thể ngồi trên ghế bình thường.
Sau khi đã chọn một trong những thế ngồi này, hãy thẳng lưng lên, để giúp
ngực căng dễ dàng khi bạn hít thở. Tư thế của bạn phải tự nhiên, mềm dẻo,
không gồng cứng.
Hãy chọn vị thế cẩn thận, vì quan trọng là bạn không được sửa thế ngồi cho
đến cuối buổi tọa thiền. Tại sao quan trọng vậy? Giả thử bạn chuyển đổi
thế ngồi vì không được thoải mái. Sau một lúc, thế ngồi mới cũng trở nên
khó chịu. Thế là bạn cứ chuyển đi, đổi lại từ vị thế này sang vị thế khác suốt
buổi tọa thiền, thay vì cố gắng đạt được một mức định sâu xa hơn. Hãy rèn
luyện sự tự kiềm chế và giữ nguyên thế ngồi ban đầu.
Hãy quyết định từ lúc đầu là bạn sẽ ngồi thiền trong bao lâu. Nếu bạn chưa
bao giờ hành thiền thì hãy bắt đầu với khoảng hai mươi phút. Khi bạn đã
tiếp tục thực hành thêm, dần dần bạn có thể tăng thêm thời lượng ngồi
thiền. Điều đó tùy thuộc vào việc bạn có bao nhiêu thời gian và bạn có thể
ngồi trong bao lâu mà không thấy đau đớn.
Khi ngồi, bạn nên nhắm mắt lại; như thế sẽ giúp bạn chú tâm hơn. Tâm
trước lúc hành thiền giống như một ly nước bùn. Nếu bạn giữ cho cái ly
đứng yên, bùn sẽ lắng xuống và nước trở nên trong. Tương tự, nếu bạn có
thể yên lặng, giữ thân không chuyển động và chú tâm vào đề mục thiền
quán, thì tâm bạn sẽ lắng đọng và bạn sẽ bắt đầu chứng nghiệm được niềm
vui của việc hành thiền. Đối phó với cái đau
Giả thử rằng bạn đã tuân theo những lời hướng dẫn về các tư thế và đang
ngồi tọa thiền trong một tư thế dễ chịu nhất. Nhưng không lâu sau, bạn sẽ
nhận ra rằng sự thoải mái đã biến mất. Rồi cái đau kéo đến, và bạn đánh
mất quyết tâm ban đầu, sự kiên nhẫn, và lòng nhiệt thành để ngồi thiền.
Điều này có thể làm bạn nản chí. Nhưng hãy an tâm rằng sự đau đớn khó
chịu phần lớn là do ta thiếu thực hành. Nó sẽ giảm bớt theo thời gian thực
hành, và bạn sẽ thấy là bạn có thể chịu đựng nó dễ dàng hơn. Vì thế hãy để
sự đau đớn khó chịu trở thành một dấu hiệu để bạn hâm nóng lòng quyết
tâm thực hành của mình.
Nếu sự đau đớn xảy ra do bệnh nơi thân giống như lệch đĩa đệm hay một
thương tật cũ; thì bạn nên thay đổi thế ngồi -có thể chuyển đến ngồi ghế.
Tuy nhiên, nếu bạn cảm thấy đau đớn tại một nơi thân thể bình thường,
khỏe mạnh, thì tôi khuyên bạn hãy làm như sau.
Cách hữu hiệu nhất mà cũng khó khăn nhất để đối phó với sự đau đớn là
quán sát nó. Hãy hòa mình với cơn đau, hãy có mặt với cơn đau. Cảm nhận
nó mà không nghĩ đến nó như là cái đau của tôi, cái đầu gối của tôi, cổ của
tôi. Chỉ quán sát cái đau thật sát sao để xem điều gì xảy ra cho nó.
Lúc đầu sự đau đớn có thể gia tăng, khiến chúng ta sợ hãi. Thí dụ, đầu gối
của bạn có thể bắt đầu đau đến nỗi bạn sợ rằng chân bạn sẽ bị hoại tử, phải
cắt bỏ đi, khiến bạn tự hỏi làm sao bạn có thể sinh sống với chỉ một chân.
Đừng lo sợ. Tôi chưa bao giờ thấy ai phải bị cưa chân vì hành thiền! Khi sự
đau đớn mà bạn quán sát đạt đến tột đỉnh, nếu bạn kiên nhẫn chịu đựng
thêm, thí dụ năm phút nữa, bạn sẽ thấy sự đau đớn khủng khiếp, có thể
nguy hiểm tới tánh mạng này bắt đầu tan biến. Cảm giác đau đớn sẽ
chuyển thành trung tính, và bạn sẽ khám phá rằng ngay cảm giác đau đớn
cũng là vô thường.
Bạn có thể dùng một phương pháp tương tự như thế với những nỗi đau tâm
lý, có thể là mặc cảm tội lỗi hay một ký ức kinh hoàng nào đó. Đừng cố
gắng đẩy lùi nỗi đau đi. Hãy đón nhận nó. Có mặt với nó, với ngay cả
những cảnh tượng hãi hùng tái diễn trong tâm bạn. Đừng để bị cuốn hút theo vọng tưởng, chỉ tiếp tục quán sát nỗi đau tinh thần đó, để nhìn thấy nó
dần dần vỡ ra, giống như nỗi đau thể xác.
Khi sự vỡ oà xảy ra, nỗi đau biến mất, bạn có thể cảm thấy nhẹ nhõm rất
nhiều, một sự bình an và thư giãn xuất hiện. Dĩ nhiên, nỗi đau thể xác hay
những ký ức đau đớn có thể lại phát khởi. Nhưng một khi bạn đã phá vỡ
được cái đau vật lý hay tâm lý đó, thì nó sẽ không bao giờ trở lại với cùng
mức độ như trước. Và lần sau khi bạn tọa thiền, bạn sẽ có thể ngồi lâu hơn
trước khi cái đau xuất hiện.
Phương pháp thứ hai đối phó với cái đau là so sánh nó với những nỗi đau
mà bạn đã trải qua trong cuộc đời. Cái đau hiện tại, mặc dầu ngay bây giờ
nó có vẻ quá to lớn, nhưng nó chỉ là một phần nhỏ của những cái đau mà
bạn đã trải qua, và bạn đã chịu đựng nhiều cái còn tệ hại hơn. Và cũng đừng
quên cảm giác khổ đau vi tế ẩn sâu luôn ám ảnh bạn ngày và đêm. Khi so
sánh với những nỗi đau khác, cái đau nhỏ trong chân bạn không lớn lao gì.
Cũng đáng công chịu đựng, vì nó sẽ giúp ta chế ngự những nỗi đau to lớn
hơn trong cuộc đời. Cái đau này khác chi một cái gai nhỏ găm vào tay. Khi
lấy cái gai ra, nó làm ta đau nhiều hơn, tuy nhiên bạn phải chấp nhận để
tránh cái đau lớn hơn sau đó. Cũng thế, bạn có thể chịu đựng cái đau ngồi
thiền để giúp bạn thoát khỏi những phiền não lớn lao hơn trong tương lai.
Một phương pháp khác nữa là nghĩ đến nỗi đau mà người khác đang phải
hứng chịu. Hiện tại, rất nhiều người đang đau khổ với những nỗi đau thể
xác hay tinh thần do bệnh hoạn, đói khát, dãi dầu, chia ly với người thân
yêu và những vấn đề nghiêm trọng khác. Hãy tự nhắc nhở rằng so sánh với
những khổ đau đó thì cái đau của bạn không đến nỗi nào.
Cách thứ tư là không để ý đến cái đau. Bạn chủ tâm hướng đến hơi thở. Để
32
giúp bạn trú trong hơi thở, bạn có thể thở nhanh vài cái.
Đề nghị cuối cùng của tôi, khi tất cả mọi thứ khác đều thất bại, là chuyển
động -một cách rất chánh niệm. Từ từ di chuyển những bắp thịt để xem cái
đau có được giảm bớt với sự chuyển đổi tư thế nhỏ nhất. Nếu bạn đau ở
phía sau, hãy nhớ rằng lưng sẽ bị đau nếu bạn chồm về phía trước. Nếu bạn
thấy căng thẳng ở lưng, trước hết hãy dùng tâm quán sát về tư thế của bạn,
hãy thư giãn, rồi nhẹ nhàng thẳng lưng lên. Đau ở đầu gối hay mắt cá cần một phương cách đặc biệt, vì bạn không
muốn làm tổn hại đến các dây chằng. Nếu bạn nghĩ đau là do dây chằng,
thì trước hết hãy cố gắng co duỗi một cách có chánh niệm những cơ ở trên
và dưới của khớp mà không di chuyển hay thay đổi thế ngồi. Nếu làm thế
cũng không thấy đỡ, thì hãy cử động chân một cách nhẹ nhàng chỉ vừa đủ
để giảm căng thẳng trên các dây chằng.
Có thể bạn tự hỏi không biết chịu đựng đau đớn như thế để được gì. "Tôi
hành thiền để đoạn diệt khổ đau. Tại sao tôi phải chịu khổ nhiều hơn khi tọa
thiền?" Hãy nhớ rằng đây là loại đau khổ có thể dẫn đến sự đoạn diệt của
tất cả mọi khổ đau khác. Khi bạn quán sát một cách chánh niệm cái đau khi
nó phát sinh, rồi qua đi, và cảm nhận được cảm giác sung sướng tiếp theo
sau khi nó biến mất, thì bạn đạt được sự tự tin về khả năng chịu đựng đau
đớn của mình. Quan trọng hơn nữa, vì sự trải nghiệm đau đớn này là tự
nguyện và chủ tâm, nó là một phương cách hữu hiệu để tự rèn luyện. Bạn sẽ
đủ sức chịu đựng những nỗi đau lớn hơn trong cuộc đời.
Hãy kiên nhẫn. Có thể trước đây bạn chưa bao giờ ngồi thiền, hay chỉ thỉnh
thoảng thực hành. Có thể bạn đã quen ngồi trên ghế hay sofa. Dĩ nhiên bạn
sẽ cảm thấy đau khi lần đầu ngồi thiền trên sàn nhà. Bạn đã từng leo núi hay
cưỡi ngựa chưa? Bạn có nhớ cơ thể mình cảm thấy thế nào trong lần đầu
tiên, và ngày hôm sau, thân thể đau đớn thế nào không? Tuy nhiên, nếu bạn
leo núi hay cưỡi ngựa mỗi ngày, không lâu sau bạn sẽ thành thục và không
còn đau đớn nữa. Hành thiền cũng thế: bạn chỉ phải thực hành liên tục mỗi
ngày và không thay đổi thế ngồi.
Hãy chú tâm
Một phương cách tốt để an tịnh tâm là chú tâm vào hơi thở. Hơi thở lúc nào
cũng có mặt. Bạn không cần phải khó khăn tìm kiếm hơi thở, vì nó luôn vào
ra nơi mũi. Hơi thở cũng không phụ thuộc vào cảm xúc, suy nghĩ hay sự
chọn lựa nào. Trú tâm vào hơi thở là một phương cách hữu hiệu để vun
33
trồng trạng thái tâm trung tính.
Bạn nên bắt đầu mỗi thời khóa tọa thiền với tâm từ bi. Một số người có thể
dễ dàng phát khởi tâm từ bi đến tất cả mọi chúng sanh. Nhưng thông
thường, bạn cần một phương pháp để làm được như thế. Hãy bắt đầu với chính bản thân rồi sau đó dần phát triển tâm từ bi lớn rộng lớn để bao gồm
tất cả chúng sanh. Tôi khuyên các bạn hãy đọc lời nguyện sau đây (một cách
thầm lặng trong tâm hay ra tiếng):
Nguyện cho tôi được mạnh khoẻ, hạnh phúc và bình an. Nguyện cho tôi
không gặp chướng ngại; không bị tổn hại; không gặp khó khăn gì; luôn
được thành công. Nguyện cho tôi có lòng nhẫn nại, can đảm, hiểu biết, và
quyết tâm để đối đầu và chế ngự những khó khăn, trở ngại, và thất bại
không thể tránh trong cuộc đời.
Sau đó, hãy lặp lại, và thay những chữ "tôi" với những từ khác, bắt đầu với
cha mẹ của bạn: "Nguyện cho cha mẹ tôi được sức khoẻ, hạnh phúc, và bình
an. Nguyện cho họ không bị tổn hại ..." vân vân. Sau đó lặp lại đoạn kinh
trên cho các sư trưởng của mình: " Nguyện cho các vị thầy của tôi được
khỏe mạnh ..." Rồi đến thân quyến, bạn bè của bạn; đến "những người
không liên hệ" (những người mà bạn không thương hay ghét); đến kẻ thù
của bạn; và cuối cùng là đến tất cả mọi chúng sanh. Cách thực hành đơn
giản này sẽ giúp bạn dễ dàng chú tâm khi hành thiền và cũng giúp bạn chế
ngự bất cứ sân hận nào có thể phát khởi khi bạn đang ngồi thiền.
Sau đó hãy hít ba hơi thở sâu. Khi bạn hít vào và thở ra, hãy ghi nhận sự
căng lên và xẹp xuống nơi bụng (trên, dưới) và ngực. Hãy hít vào thật sâu
để căng phồng cả ba vị trí này trên cơ thể. Sau đó, thở bình thường, để hơi
thở vào ra một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không gắng sức, chú tâm vào cảm
giác nơi mũi khi hơi thở vào ra. Phần đông ghi nhận hơi thở ở mũi dễ hơn;
tuy nhiên, có người lại thích chú tâm vào cảm giác khi hơi thở phả ra trên
môi hay trong mũi, hay trong hốc mũi, tùy thuộc vào cấu trúc của mặt. Sau
khi đã chọn một nơi để chú tâm, thì chỉ ghi nhận cảm giác hơi thở vào ra ở
nơi đó.
Khi chú tâm vào hơi thở, bạn sẽ cảm nhận được sự bắt đầu, ở giữa và đoạn
cuối của mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra. Bạn không cần phải cố gắng
nhiều để nhận ra ba giai đoạn của hơi thở. Khi một hơi thở vào đã hoàn tất
và trước khi thở ra, có một điểm dừng ngắn. Hãy ghi nhận nó, và ghi nhận
sự bắt đầu của hơi thở ra. Khi hơi thở ra hoàn tất, cũng có một sự nghỉ ngắn
trước khi hơi thở vào bắt đầu. Hãy ghi nhận điều này. Hai khoảng ngưng
35
này xảy ra rất nhanh chóng đến nỗi có thể bạn không để ý đến chúng.
Nhưng khi bạn chánh niệm, bạn sẽ nhận ra được.
Lúc bắt đầu, có thể cả hơi thở vào và hơi thở ra đều dài. Hãy ghi nhận điều
đó, mà đừng suy nghĩ hay nói "hơi thở vào dài, hơi thở ra dài." Khi bạn ghi
nhận được cảm giác của hơi thở vào ra dài, thân bạn trở nên khá an tĩnh. Rồi
có thể hơi thở của bạn trở nên ngắn. Hãy ghi nhận hơi thở ngắn cảm giác thế
nào, lần nữa không nói "hơi thở ngắn". Rồi ghi nhận cả quá trình của hơi
thở từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt. Có thể, giờ hơi thở đã trở nên
nhuần nhuyễn. Thân và tâm trở nên tĩnh lặng hơn trước đó. Hãy ghi nhận
cảm giác tĩnh lặng và bình an này.
Mặc dầu cố gắng chú tâm vào hơi thở, tâm bạn vẫn có thể đi lang thang. Bạn
có thể nhận ra mình đang nhớ lại những nơi mình đã đến, những người
mình đã gặp, bạn bè lâu không gặp, một cuốn sách đã đọc lâu rồi, vị của
một món ăn bạn đã dùng hôm qua. Ngay khi bạn vừa nhận ra tâm mình
không còn trụ nơi hơi thở, hãy đem nó trở lại và buộc chặt nó ở đó một cách
chánh nhiệm.
Có người dùng phương pháp đặt tên cho những sự kiện xảy ra trong đầu
khi đang thiền quán. Thí dụ, thiền sinh có thể ghi nhận việc suy tưởng và
nói trong đầu, "Suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ." Khi nghe một tiếng động,
thiền sinh nghĩ, "Nghe, nghe, nghe."
Tôi không khuyên bạn dùng phương pháp này. Những sự việc mà bạn
muốn đặt tên có thể xảy ra quá nhanh chóng đến nỗi bạn không có thì giờ để
đặt tên chúng. Việc đặt tên phải mất thì giờ -thì giờ để tư tưởng phát sinh
hay cảm giác xảy ra, thì giờ để nghĩ ra từ để diễn tả những gì bạn nhận biết.
Bạn không thể đặt tên một điều gì đó khi nó đang xảy ra. Bạn chỉ có thể đặt
tên sau khi nó đã xảy ra. Chỉ nhìn chúng khi chúng xảy ra và ghi nhận
chúng, vậy cũng đủ rồi.
Chánh niệm rèn luyện cho bạn sự ý thức trực tiếp. Nó giúp bạn loại trừ các
trung gian như từ ngữ hay khái niệm. Khái niệm và từ ngữ xuất hiện sau sự
ý thức để giúp bạn diễn đạt ý nghĩ và cảm giác. Tuy nhiên, trong thiền, bạn
không cần phải diễn tả bất cứ điều gì cho bất cứ ai. Bạn chỉ cần biết rằng khi
thấy chỉ là thấy, khi nghe chỉ là nghe, xúc chạm chỉ là xúc chạm, biết chỉ là
biết. Như thế cũng đủ rồi. Một phút chánh niệm
Khi rời khỏi chiếu thiền, hãy quyết tâm suốt ngày sẽ để dành một phút
trong mỗi giờ hành thiền. Bạn có thể tự hỏi mình có thể làm gì trong một
phút -không đủ để tìm tọa cụ ngồi thiền. Đừng lo lắng về việc đi tìm tọa cụ.
Cứ ở ngay nơi đó, dầu bạn đang ngồi, đứng, hay nằm -điều đó không quan
trọng. Hãy dành năm mươi chín phút của mỗi giờ để làm bất cứ điều gì bạn
làm trong ngày. Nhưng trong một phút của mỗi giờ đó, hãy ngưng bất cứ gì
bạn đang làm và thiền quán. Bạn có thể vặn đồng hồ đeo tay hay cài vi tính
để nó kêu mỗi giờ như là một cách nhắc nhở.
Khi bạn nghe tiếng báo hiệu, hãy dừng công việc đang làm lại, gạt bỏ bất cứ
gì bạn đang suy nghĩ trong tâm và nhắm mắt lại. Chú tâm vào hơi thở của
bạn. Nếu bạn không biết một phút dài bao lâu, thì hít vào và thở ra mười
lăm lần và dành tất cả sự chú tâm vào hơi thở. Nếu phải lâu hơn một phút,
cũng đừng quan tâm về điều đó. Bạn đâu mất mát gì.
Khi một phút đã qua, trước khi mở mắt, hãy quyết tâm trong một giờ tới sẽ
hành thiền trong một phút nữa và cứ thế cho đến hết ngày. Hãy hướng về
giây phút đó và tạo ra sự nôn nóng cho nó. Và nên tự hỏi mình, "Khi nào tôi
mới lại được ngồi thiền nữa?"
Nếu bạn duy trì được phương pháp đơn giản này, thì cuối ngày bạn đã có
thêm mười hay mười lăm phút hành thiền. Hơn nữa lúc cuối ngày, ước
muốn được ngồi thiền -đã tăng trưởng vì được bạn nghĩ đến nó mỗi giờ- sẽ
giúp bạn tìm được nguồn cảm hứng để hành thiền trước khi ngủ.
Hãy kết thúc một ngày với khoảng nửa giờ ngồi thiền. Khi bạn lên giường,
hãy trú tâm vào hơi thở cho đến khi bạn thiếp đi. Nếu bạn thức giấc giữa
đêm, hãy đem tâm trở lại với hơi thở. Khi bạn thức dậy sáng hôm sau, tâm
bạn vẫn còn trụ nơi hơi thở, hãy nhắc nhở mình bắt đầu một ngày bằng việc
ngồi thiền.
CHÁNH KIẾN (BƯỚC 1)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng
ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để
bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con
đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác
ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã
đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai,
lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường
đi đến hạnh phúc toàn vẹn.
Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc. Một cuộc sống đắm say
trong dục lạc hoặc quá khổ hạnh đều không thể có được hạnh phúc. Chỉ có
con đường trung đạo, tránh hai trạng thái cực đoan đó, mới có thể giúp ta
đạt được tâm bình an, tuệ giác và sự giải thoát hoàn toàn khỏi những phiền
não trong cuộc đời.
Theo truyền thống, những lời dạy đó của Đức Phật được gọi là Tứ Diệu Đế.
Diệu đế cuối cùng trong bốn diệu đế kia đã đề ra giáo lý tám ngành (Bát
Chánh Đạo) để giúp ta đạt được hạnh phúc. Ngài dạy chúng ta phải phát
triển sự thiện xảo trong suy nghĩ, hiểu biết, lời nói, hành động, cách sống,
tinh tấn, chánh niệm và định.
Trong chương này và các chương tiếp theo chúng ta sẽ khảo sát các ngành
(bước) này một cách chi tiết. Bạn sẽ thấy ba ngành -chánh kiến, chánh tinh
tấn và chánh niệm -có mặt trong tất cả tám ngành. Đây là những điều cốt
yếu trong con đường đạo. Tất cả các ngành đều tương quan lẫn nhau
nhưng không có ngành nào có thể vận hành mà không có sự ứng dụng triệt
để của chánh kiến, chánh tinh tấn và chánh niệm.
Bạn thực hành theo con đường này bằng cách mang sự chú tâm chánh niệm
đến với tất cả mọi khía cạnh trong cuộc sống hằng ngày, tiếp tục tu sửa để
tiến tới sự hoàn thiện và ứng dụng trí tuệ một cách khôn ngoan hơn. Khi
tâm đã ổn định, tuệ giác sẽ bắt đầu phát sinh.
Có loại trí tuệ tựa như một sự bừng tĩnh nhẹ nhàng khi một phần nào đó của
cuộc sống hay của vũ trụ bỗng trở nên rõ ràng, khúc chiết. Lại có những sự
38
liễu ngộ sâu sắc hơn, như thể cả vũ trụ chuyển động bởi sự khám phá này
của bạn. Đó có thể là một cảm giác giải tỏa, tiếp theo sau bởi một cảm giác tự
tại, an nhiên mạnh mẽ, có thể kéo dài hàng giờ hay đôi khi nhiều ngày.
Những chứng nghiệm tuyệt vời này không phải là sự giác ngộ. Chúng chỉ là
những dấu hiệu cho ta thấy sự giác ngộ hoàn toàn có thể sẽ như thế nào.
Nhưng có thể có một giây phút nào đó khi tất cả các chi của tám ngành đều
có mặt cùng một lúc. Giới luật hoàn hảo; thiền định sâu xa và mạnh mẽ;
tâm trong sáng rõ ràng không có mặt của bất cứ chướng ngại nào. Lúc đó có
thể bạn đã có được tuệ giác sâu xa nhất - rằng tất cả pháp đều vô ngã và vô
thường, rằng không có gì đáng để chúng ta bám víu vào. Ngay lúc đó, tất cả
mọi hoài nghi của bạn đều tan biến, và bạn sẽ nhìn cuộc đời bằng con mắt
khác.
Từ đó, bạn bước lên một cấp bậc hoàn toàn mới trên con đường đạo. Nhưng
trước thời điểm đó, bạn phải có sự hiểu biết rõ ràng thông suốt về cách tất cả
các ngành của con đường hòa hợp, ăn khớp với nhau. Sau sự liễu ngộ đó, trí
tuệ của bạn sẽ đạt đến một trình độ cao hơn, gọi là cấp bậc "vượt trên thế
tục", và bạn sẽ bước tới với một sự tự tin tuyệt đối. Bạn biết rằng bất chấp
tất cả, bạn sẽ đạt đến mục đích của mình.
_____________________________
Khi làm bất cứ điều gì, đầu tiên là phải biết tại sao chúng ta hành động như
thế. Đó là lý do tại sao Đức Phật đã chọn chánh kiến làm bước đầu tiên trên
con đường tiến tới hạnh phúc. Ngài muốn chúng ta hiểu rằng con đường
Phật giáo không phải là một điều gì mơ hồ của "lời hứa sống tốt" để được
ban thưởng, cũng không phải là những giới luật kỳ quặc nào đó mà ta phải
tuân giữ như trong một hội kín.Trái lại, con đường của Đức Phật được đặt
nền tảng trên sự hiểu biết thông thường và trong sự quán sát thực tại rốt
ráo. Ngài biết rằng nếu chúng ta chịu mở mắt ra, nhìn lại cuộc đời mình một
cách cặn kẻ, ta sẽ hiểu rằng chính những lựa chọn của ta, sẽ dẫn ta đến hạnh
phúc hay bất hạnh. Một khi đã hiểu quy luật này một cách thấu đáo, chúng
ta sẽ có những lựa chọn khôn ngoan, vì chúng ta thực sự muốn được hạnh
phúc.
39
Như Đức Phật đã giải thích, chánh kiến có hai phần: hiểu được lý nhân quả,
và hiểu được Tứ Diệu Đế.
Lý Nhân Quả
Đức Phật có thể diễn tả các hành động như là tốt xấu, đúng sai, đạo đức hay
không đạo đức, nhưng chúng có một ý nghĩa phần nào khác với những gì
mà các từ này thường biểu hiện. Có lẽ "thiện xảo hay không thiện xảo" giải
thích ý nghĩa này tốt nhất. Căn bản đạo đức trong Phật giáo là nếu hành
động một cách bất thiện xảo sẽ dẫn đến hậu quả khổ đau, và nếu hành xử
một cách thiện xảo, khéo léo sẽ đưa đến những kết quả tốt đẹp. Quy luật
nhân quả đơn giản này là một khía cạnh của những gì mà người Phật tử
chúng ta thường gọi là nghiệp (karma hay kamma).
Mặc dù một số hành động bất thiện xảo có thể đem lại hạnh phúc tạm bợ -
thí dụ, người buôn bán ma tuý có thể hài lòng với chiếc xe hơi mới tinh bóng
lộng của mình, hoặc ai đó có cảm giác hài lòng, thoã mãn khi có thể đem lại
đau đớn cho người đã hãm hại mình- nhưng Đức Phật đã chỉ rõ rằng những
hành động bất thiện lúc nào cũng đưa đến khổ đau. Chúng ta tự quan sát
cũng xác tín được sự thật này. Một số hậu quả có thể không thấy được, như
là sự đau khổ tinh thần lúc ăn năn hối hận. Có những hậu quả xấu không
xuất hiện ngay lập tức. Đức Phật giải thích rằng hậu quả của những hành
động thiện và bất thiện, có thể xảy ra mãi sau này xa, rất xa trong tương lai,
đôi khi mãi đến các kiếp sau.
Bạn có thể nghĩ "Tôi không quan tâm đến kiếp sống tương lai, tôi chỉ muốn
những gì tôi có thể có được ngay trong kiếp sống này." Đức Phật khuyên
chúng ta hãy nghĩ đến những tình huống sau đây: Ngay nếu như không có
đời sống tương lai, làm việc thiện vẫn đem đến cho chúng ta hạnh phúc và
một lương tâm trong sáng ngay trong kiếp sống này. Ngược lại nếu có cuộc
sống tiếp nối sau khi chết, ta sẽ được thưởng đến hai lần -hiện tại và sau
này. Mặt khác, dầu không có một đời sống trong tương lai, hành động bất
thiện vẫn khiến ta cảm thấy ăn năn, hối hận ngay trong kiếp sống này. Và
nếu thật sự có một cuộc sống sau khi chết thì ta sẽ phải chịu khổ lần nữa. Do
đó, dầu có một đời sống ở kiếp sau hay không, hãy buông xả những ác
nghiệp và phát triển thiện nghiệp để đảm bảo được hạnh phúc.
Một khi ta hiểu được rằng tất cả mọi suy nghĩ, hành động hay lời nói của ta
là nguyên nhân dẫn đến những hậu quả không thể tránh, trong hiện tại và
tương lai, dĩ nhiên là ta sẽ muốn tư duy, nói năng và hành động để đưa đến
những kết quả tích cực và tránh những ý nghĩ, hành động, và lời nói đưa
đến những kết quả tiêu cực. Nhận thức được rằng nhân luôn dẫn đến quả
giúp chúng ta chấp nhận hậu quả của các hành động trong quá khứ của
chúng ta. Điều đó cũng giúp ta thận trọng trong các quyết định đưa đến một
tương lai hạnh phúc hơn.
Chánh nghiệp là những hành động tạo nên nhân cho hạnh phúc, như là
những hành động phát xuất từ lòng từ bi. Bất cứ hành động nào xuất phát
từ một tâm không đang bị sân, si, hay tham chế ngự đều sẽ mang hạnh phúc
đến cho người hành động cũng như người thọ nhận. Do đó, một hành động
như thế được coi là thiện xảo hay đạo đức.
Giả sử rằng bạn luôn vun trồng tâm bố thí và từ bi đến cho tất cả mọi người.
Hành động thiện này là nhân. Thì quả sẽ được gì? Bạn sẽ có rất nhiều bạn
bè, nhiều người yêu mến, và bạn sẽ cảm thấy tự tại, tràn đầy hạnh phúc.
Người chung quanh bạn có thể sân hận, khổ đau, nhưng bạn thì không.
Hành động tích cực của bạn làm phát sinh hai loại kết quả tức thời. Kết quả
đầu tiên thuộc nội tại -bạn cảm giác thế nào. Vì bạn luôn có tâm độ lượng,
thương yêu và tâm đó đã phản ảnh qua hành động của bạn, thì tâm bạn tràn
đầy bình an, hạnh phúc. Kết quả thứ hai ở bên ngoài: người khác sẽ mang
ơn, và quan tâm đến bạn. Mặc dầu sự quan tâm này chắc chắn sẽ làm ta hài
lòng, thỏa mãn, tuy nhiên nó không quan trọng bằng việc ta cảm thấy thế
nào. Vì các kết quả ở bên ngoài tùy thuộc vào phản ứng của người khác,
chúng không đáng tin cậy lắm.
Khi chúng ta đã hiểu được quy luật này, thì điều trái ngược lại cũng trở nên
rõ ràng. Đức Phật đã liệt kê mười hành vi bất thiện vì chúng luôn mang đến
khổ đau. Ba hành vi là thuộc về thân: giết hại, trộm cắp, và tà dâm. Bốn
41
hành vi thuộc về lời nói: nói dối, nói lời độc ác, lời thô lỗ và nói chuyện phù
phiếm. Ba hành vi còn lại thuộc về tâm: tham, sân và si.
Mỗi hành vi này nghĩa là gì và ta làm thế nào để tránh phạm chúng sẽ được
giải thích chi tiết trong những bước sau của con đường đạo. Tuy nhiên,
trước khi có thể bắt đầu thực hành theo con đường đạo của Đức Phật, chúng
ta cần có đủ những tri thức căn bản để nhận thức rằng mười hành vi này là
bất thiện vì chúng chắc chắn sẽ mang đến cho người hành động lẫn nạn
nhân sự khổ đau vô cùng tận.
Để kiềm chế khỏi phạm vào mười hành vi này không phải là một danh sách
các lời răn cấm mà là một số những điều luật ta tự nguyện tuân theo do có
lòng tin như thế. Không ai có thể ép buộc bạn tuân theo chúng. Bạn phải tự
mình khám phá ra, từ chính kinh nghiệm bản thân và từ việc quan sát học
hỏi kinh nghiệm của người khác, xem những hành động như thế sẽ mang lại
kết quả tích cực hay tiêu cực. Kinh nghiệm cho bạn biết rằng các hành vi bất
thiện sẽ mang đến những nỗi đau nơi thân cũng như tâm cho chính bản
thân bạn và người khác.
Hơn thế nữa, người ta chỉ tạo ra các hành vi bất thiện khi họ không hiểu biết
hay khi tâm họ bị vẩn đục bởi tham, sân, si. Thật ra, bất cứ hành động nào
xuất phát từ một tâm chứa đầy tham, sân, hay si đều đưa đến khổ đau và do
đó là hành động sai trái hay bất thiện.
Đạo đức theo Phật giáo là những hành động có lý trí dựa trên nguyên lý
nhân quả. Bạn phải tự dối mình về lý nhân quả mới có thể hành động sai
trái. Hành động càng xấu ác, thì sự lừa dối càng phải lớn lao. Nếu bạn cố
tình dung dưỡng sự giả trá này với những hành động đi ngược lại với chân
lý cơ bản rằng hành động sẽ mang lại hậu quả, thì bạn làm sao có được tuệ
giác sâu xa hay sự giải thoát nào? Nếu phạm vào các hành động tội lỗi
nghiêm trọng, bạn sẽ không có được sự sáng suốt để theo con đường đạo
của Đức Phật -nói gì đến việc có trí tuệ giải thoát. Bạn phải tôn trọng đạo
đức này. Điều đó rất quan trọng.
Minh sát thiền làm tăng trưởng ý thức về những hậu quả tai hại của một
hành động vô lương. Hành giả sẽ trải nghiệm một cách sinh động các hậu quả đớn đau của những hành động, ý nghĩ, và lời nói bất thiện và cảm thấy
cần phải buông xả chúng một cách nhanh chóng.
Tương lai là do bạn tự tạo dựng -kinh nghiệm dạy bạn điều đó. Hành vi của
bạn không phải là một định luật thiên nhiên bất biến. Mỗi giây phút, bạn
đều có cơ hội để chuyển hóa -để thay đổi cách suy nghĩ, lời nói và hành
động. Nếu bạn tự rèn luyện để trở nên chánh niệm về hành vi của mình, và
tự quán sát xem một hành động nào đó sẽ dẫn đến hậu quả tích cực hay tiêu
cực, là bạn đã tự dẫn dắt mình đi đúng hướng.
Các thiện ý qua nhiều huân tập có thể tạo ra một tiếng nói nội tại mạnh mẽ
để giúp bạn vững bước đi tới. Nó sẽ nhắc nhở bạn -bất cứ khi nào bạn tự
trói buộc mình vào vòng xoáy của khổ đau -để bạn có thể thoát ra cạm bẫy
đó. Thi thoảng bạn có thể thoáng nhận được thế nào là giải thoát. Bạn sẽ
biến cảm giác này thành hiện thực bằng cách hành động theo những hướng
tích cực và buông xả khổ đau.
Do đó đạo đức -được định nghĩa như những hành động tuân theo thực tại-
là nền tảng của mọi phát triển tâm linh. Không có nó, không có điều gì trên
con đường đạo sẽ hiệu ứng để giảm khổ đau.
Biết được rằng một hành động sẽ có các kết quả tương ứng là sự khởi đầu
cho chánh kiến. Giờ bạn phải thêm vào đó một sự hiểu biết thấu đáo về Tứ
Diệu Đế.
Tứ Diệu Đế
Chính Đức Phật đã nói rằng Ngài chỉ dạy bốn điều: khổ, nguồn gốc của khổ,
sự chấm dứt khổ, và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ. "Khổ" ám chỉ
những bất hạnh mà ta cảm nhận trong cuộc đời mình. "Nguồn gốc" là nhân
cho sự đau khổ này: là tâm không rèn luyện, tham đắm của chúng ta.
"Chấm dứt" là lời hứa khả của Đức Phật rằng chúng ta có thể chấm dứt khổ
đau bằng cách tận diệt ái dục. "Con đường (đạo)" là tám bước (ngành)
chúng ta phải theo để đạt đến mục đích này.
Trong bốn mươi lăm năm thuyết pháp, từ bài thuyết pháp đầu tiên của Ngài
trong vườn Nai cho đến lúc nhập diệt, Đức Phật đã giảng giải về bốn điều
này hàng trăm lần. Ngài muốn chắc chắn rằng những điều cơ bản này phải
được nhiều người ở những hoàn cảnh khác nhau, ở những giai đoạn phát
triển tâm linh khác nhau, thấu đáo.
Có lần, Đức Phật đã dạy rằng không chấp nhận những bất hạnh trong cuộc
đời là một gánh nặng. Chúng ta tạo ra đau khổ cho mình bằng cách nhận
lãnh gánh nặng đó. Ta chấm dứt khổ bằng cách đặt gánh nặng xuống. Con
đường đạo chỉ cho ta phương cách để giảm bớt gánh nặng cho bản thân.
Đức Phật cũng dạy rằng khổ là một căn bệnh. Giống như một người thầy
thuốc, Ngài đã chẩn đoán nguồn gốc của bệnh. Sự chấm dứt căn bệnh là
cách chữa trị của dược sư Như Lai và con đường là thuốc chữa mà Ngài đã
kê toa cho chúng ta.
Diệu Đế Thứ Nhất: Khổ
Chân lý đầu tiên mà Đức Phật thuyết cho chúng ta là khổ là điều không thể
tránh khỏi. Có thể bạn tự hỏi, "Giáo lý về khổ này có áp dụng được trong
thế giới hiện đại với rất nhiều những phát minh để giúp cho cuộc sống của
chúng ta thoải mái hơn? Vào thời của Đức Phật, con người hẳn phải khổ vì
các nhu cầu thiết yếu, bệnh tật, và thiên tai. Chẳng phải là các kiến thức về
kỹ thuật hiện đại đã giúp chúng ta có thể làm bất cứ điều gì ta muốn, đi đến
bất cứ nơi nào ta ao ước và sản xuất ra bất cứ sản phẩm nào ta cần sao?"
Tuy nhiên, dầu cuộc sống hiện đại của chúng ta có dễ dàng và an toàn đến
thế nào, thì chân lý về khổ cũng không thay đổi. Nó vẫn có mặt như đã từng
có mặt ở thời Đức Phật. Con người vào những thời đại đó đã đau khổ, và
chúng ta hiện nay cũng thế.
Chúng ta có thể gọi diệu đế thứ nhất của Đức Phật với bằng nhiều tên tùy
thuộc vào hoàn cảnh: khổ đau, căng thẳng, sợ hãi, lo âu, bồn chồn, trầm uất,
thất vọng, sân hận, ghen tuông, ruồng bỏ, thần kinh hay đau đớn. Tất cả mọi
chúng sanh, không cần biết họ sống ở đâu, khi nào, đều có thể đối mặt với
những vấn đề này. Chúng ta có thể bị bệnh bất cứ lúc nào. Cũng có thể bị chia ly với người thân
yêu. Có thể đánh mất những gì đang có hay bị đẩy vào những hoàn cảnh
phải chấp nhận những điều mà ta ghê tởm. Cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh
chị em, hàng xóm, bè bạn, các cộng đồng và các quốc gia -tất cả đều xung
đột tranh đấu vì tiền bạc, địa vị, quyền lực và biên giới. Một số những vấn
đề này là do tham, sân, và si tạo ra. Tất cả đều liên quan đến những điều
kiện ở bên ngoài -như xã hội, chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường- và cả
bên trong ta.
Nhận ra rằng những điều này là không thể tránh khỏi khiến tâm ta đau khổ
vô ngần. Hãy nhận mặt và chấp nhận chúng như chúng thật sự là, mà
không trách móc, đổ lỗi cho người, là trọng tâm của diệu đế thứ nhất của
Đức Phật. Ngài dạy rằng để bắt đầu tiến đến hạnh phúc, chúng ta cần phải
đối mặt với khổ đau -bằng tâm vững chãi và tình cảm ổn định- mà không
oán trách hay cảm thấy buồn nản, bi quan. Chúng ta cần phải nhìn thẳng
vào các vấn đề của mình: bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống cũng mang
đến một mức độ khổ đau nào đó cho bất cứ những ai chưa hoàn toàn giác
ngộ.
Nỗi khổ có thể rất vi tế, có thể chỉ là một trăn trở tiềm ẩn. Hay rất rõ ràng,
như sự chấp chặt vào người, của cải, hay quan điểm. Tất cả tùy thuộc vào
lòng tham, sân và si của chúng ta sâu dầy bao nhiêu, và tùy thuộc vào cá
tính cũng như kinh nghiệm của chúng ta trong quá khứ.
Thí dụ, có hai người cùng chứng kiến một sự kiện nhưng họ có những phản
ứng hoàn toàn khác nhau. Một người có thể cảm thấy bình thản và chấp
nhận; người kia có thể hoảng sợ và lo âu. Hạnh phúc cũng như khổ đau đều
do tâm tạo. Tâm của chúng ta tạo ra những kinh nghiệm sống cho ta, và tâm
đó chấp nhận hay phản kháng sự tạo dựng này. Đó là lý do tại sao Đức Phật
nói chính chúng ta tạo ra thiên đàng hay địa ngục ngay trong cuộc sống
này.
Cho đến khi chúng ta đạt được giác ngộ, sẽ còn có nhiều hoàn cảnh mang
đến bao thất vọng cho tất cả chúng ta. Hãy thử nhìn chỉ ba vấn đề: kiếp
nhân sinh, sự đổi thay, và sự không thể làm chủ cuộc sống của mình.
Kiếp Nhân Sinh
Vòng xoay chuyển không thể tránh được của kiếp người -sinh, già, bệnh,
chết- mang đến bao khổ đau.
Người ta được sinh ra trong cõi đời không phải với những nụ cười rạng rỡ
trên gương mặt. Nhưng càng lớn, tiếng khóc thuở ban đầu càng bớt ồn ào
hơn. Có thể nói rằng nó đã được đổi thành tiếng khóc trong lòng cho suốt
cuộc đời còn lại của chúng ta. Chúng ta đã khóc vì bao lít sữa; bao tấn thực
phẩm; bao mét vải; bao mét vuông đất để xây nhà, xây trường học, bao cây
cối để làm sách vở, bàn ghế; bao thuốc men cho đủ các loại bệnh; bao người
để họ yêu thương chúng ta; bao phương cách để thỏa mãn nhu cầu của
chúng ta. Nếu chúng ta không sinh vào thế giới đầy bất ổn này, thì tất cả
khổ đau đã không có mặt. Mỗi đứa trẻ được sinh ra đời, thì hình như sự bất
hạnh cũng đã được sinh ra theo nó.
Quá trình lão hóa cũng mang đến khổ đau. Có lẽ chúng ta không còn nhớ
đến những khó khăn khi phải thích ứng với một môi trường mới hay một vị
thầy mới, nhưng ta có thể nhớ rất rõ những khó khăn khi phải thích ứng với
sự thay đổi về cơ thể và tâm lý ở tuổi dậy thì. Khi trưởng thành ta lại phải
thay đổi để thích ứng với công việc mới, những tương quan mới, kỹ thuật
hiện đại, các căn bệnh lạ, những điều kiện xã hội mới. Những điều này lại
thường xảy ra trước khi ta hoàn toàn thích ứng với những cái đang có. Các
biến chuyển không dễ chịu này hình như rất phổ biến ở mỗi bước ngoặt của
cuộc đời.
Ở tuổi già, việc thích ứng với những sự thay đổi càng trở nên khó khăn hơn.
Thật đau khổ khi không còn có sức khoẻ, thân thể không còn cường tráng
như lúc trẻ. Ta biết rằng không thể chạy trốn tuổi già, nhưng vẫn mong nó
đừng đến. Do đó ta đau khổ.
Khi Đức Phật thuyết rằng tuổi già mang lại đau khổ. Ngài thực sự đang nói
về sự già nua và hoại diệt nói chung. Chúng ta biết rằng mỗi tế bào trong cơ
thể ta đang bị hủy hoại hay chết đi, và các tế bào mới tiếp tục sinh sản. Mọi trạng thái tâm cũng biến mất và được thay thế bằng cái mới hơn. Lâu dần,
quá trình hoại diệt và chuyển đổi này làm suy yếu thân tâm ta, đưa đến cái
chết.
Chắc chắn bệnh tật cũng là nguồn gốc của khổ đau. Ai cũng biết bệnh tật
đau đớn thế nào. Bệnh tật thật ra mang đến hai cái đau: sự sợ hãi căn bệnh
và chính căn bệnh. Do đó bệnh tật là nỗi ám ảnh triền miên, khiến ta khổ
đau khi bị bệnh và lo âu, sợ hãi khi ta còn mạnh khỏe.
Thông thường người ta nghĩ rằng sự đau đớn và khổ đau là đồng nghĩa,
nhưng không phải thế. Dầu bạn khó thể tránh được đau đớn vì bệnh hoạn,
thương tật, nhưng bạn có thể tránh được khổ đau vì bệnh tật. Khi bạn giảm
bớt được sự bám víu vào thân thọ một cách thái quá, bạn sẽ bớt khổ đau khi
nó đổi thay. Thí dụ, khi Devadatta (Bồ Đề Đạt Đa) chọi hòn đá và làm chân
Phật bị thương, Đức Phật cảm nhận được cái đau. Nhưng vì Ngài đã hiểu
được bản chất của đau, Ngài không đau đớn như một người bình thường.
Cảm giác đau đớn thường có thể chế ngự được. Nhưng khổ vì "một trạng
thái nào đó" thì sâu xa hơn và khó chế ngự hơn.
Cái khổ kế tiếp trong kiếp người là tử -không chỉ giây phút trước khi chết
mà tất cả mọi thứ đưa đến cái chết. Tất cả chúng ta đều sợ chết và lo lắng
không biết khi nào hay bằng cách nào chúng ta sẽ chết. Ta cũng biết rằng khi
chết, ta phải để tất cả mọi thứ lại phía sau. Chúng ta có thể chịu đựng được
điều đó không? Khi người thân ra đi, chúng ta cảm thấy sốc, đau đớn, và
mất mát hàng năm trời nếu không nói là mãi mãi.
Nhưng những khổ đau trong kiếp người không chấm dứt với cái chết. Đức
Phật dạy rằng cái chết không đoạn tận được vòng luân hồi khổ đau. Một
người đã từng trải qua nhiều đau khổ có thể nói, khi gần chết, "Tôi không
muốn sinh trở lại nữa." Nhưng chỉ ước nguyện như thế không thể chấm dứt
vòng luân hồi tái sinh. Khi nào chúng ta còn vô minh về bản chất thật sự của
thực tại, thì kiếp sống này sẽ nối tiếp kiếp kia. Khi nào tham, sân và si vẫn
còn trong tâm thức chúng ta, thì vòng tái sinh vô cùng tận -vòng luân
chuyển của những kiếp sống trong quá khứ, hiện tại, và tương lai - sẽ tiếp
tục. Trong vòng luân hồi đó, những khổ đau mà chúng ta đã kể trên sẽ lại tái
diễn không dừng. Năng lượng của tất cả những trải nghiệm này giống như
một gánh nặng mà chúng ta phải mang trên lưng từ kiếp sống này sang kiếp
sống khác trải qua bao lần tái sinh không thể kể xiết. Trong mỗi kiếp sống
mới, hành lý bên trong đó lại được chuyển sang một cái túi mới. Khi chết, ta
không đem theo được vật chất gì. Tuy nhiên cái túi chứa năng lượng đó -
dấu vết của tất cả các tâm hành và tất cả những lời nói, hành động cố ý
trong kiếp sống này và những kiếp trước đó- không chỉ đi theo chúng ta mà
thực ra còn tác động đến kiếp sống mới.
Cho đến khi chúng ta có thể trút sạch những gì chứa đựng trong túi xách đó
-cho đến khi chúng ta có thể hủy diệt tất cả những hậu quả mà ta đã tạo nên
vì tham, sân, hay si qua bao kiếp sống - chúng ta không thể trốn thoát cái
chết và sự luân hồi tái sinh. Chúng ta có thể sử dụng sự suy nghĩ này để
thúc đẩy ta hành động thế nào trong cuộc đời này để đạt đến hạnh phúc giải
thoát dài lâu.
Chúng ta đã biết tham và sân là các động lực mạnh mẽ cho hành động,
nhưng Đức Phật muốn nói si (vô minh) là gì? Tại sao vô minh lại đóng vai
trò quan trọng đối với những khổ đau mà ta phải nếm trải?
Vô minh (si) trong thuật ngữ Phật giáo có hai ý nghĩa: "không biết" -như là
không biết Đức Phật hàm ý gì khi nói đến Tứ Diệu Đế- và "biết sai" - như là
tin rằng chúng ta hiểu thế giới vận hành như thế nào trong khi chúng ta thật
sự không biết.
Không hiểu biết sự thật về khổ, chúng ta nghĩ rằng có một việc làm mới, một
ngôi nhà mới, hay một bạn tình mới sẽ mang đến cho ta hạnh phúc thực sự.
Không biết năng lượng của lời nói, hành động sẽ đi theo chúng ta như thế
nào từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, chúng ta để cho tâm tham, sân,
nghi và ganh tỵ sai khiển. Không biết rằng một cuộc sống đơn giản, có kỷ
luật, có bạn tốt, hành thiền, và quán sát đầy chánh niệm về bản chất thực sự
của các trải nghiệm sẽ mang hạnh phúc đến cho chúng ta trong kiếp sống
này và nhiều kiếp kế tiếp, chúng ta đã viện ra hàng triệu lý do để không
tham dự vào những hoạt động tích cực này.
Chúng ta còn không biết ngay cả sự vô minh của mình. Sau một bài thuyết
pháp đặc biệt sâu sắc về bản chất của thực tại, ngài Ananda, thị giả của Đức
Phật, thưa với Ngài, "Bạch Thế tôn, giáo lý này có vẻ rất thâm sâu, nhưng
đối với con, nó rõ ràng đúng như bản chất của sự rõ ràng."
Đức Phật trả lời, "Không, không, đừng nói thế! Nó không chỉ có vẻ thâm
sâu, mà nó thực sự thâm sâu." (D 15)
Vì vô minh, sự hiểu biết của ngài Ananda đối với lời dạy của Đức Phật chưa
được thấu đáo, vì thế ông đã không đạt được giải thoát ngay lúc đó. Giống
như Ananda, vô minh khiến chúng ta trôi lăn theo bao khổ đau trong luân
hồi.
Đổi thay
Sự đổi thay cũng khiến chúng ta khổ. Dầu chúng ta có làm gì, sự đổi thay
cũng chia cách ta khỏi những gì ta ưa thích và mang đến cho ta những gì ta
ghét bỏ. Cái chết và chia ly khiến ta phải cách biệt người ta thương yêu. Bạn
bè đi xa. Người tình rời bỏ ta. Những sự chia ly đó làm ta đau đớn khôn
cùng. Đánh mất thứ gì mà ta yêu thích khiến ta buồn bã, tức bực. Ngay cả
những thứ tầm thường cũng có thể khiến ta phiền não khi chúng bị bể hay
biến mất.
Hồi đó, khi lên bốn, có lần ngồi trên cát, tôi dùng đầu ngón tay vẽ một vòng
thật tròn trĩnh quanh tôi. Tôi thích lắm! Chị tôi, lúc ấy khoảng bảy tuổi, đi
ngang qua và dùng chân xoá vòng tròn của tôi. Tôi giận dữ đến nỗi tôi rượt
theo chị, rồi lượm một cái ghế nhỏ nhưng nặng và ném chị. Giờ chị vẫn còn
một vết thẹo trên ngón chân. Tất cả bao bực tức, giận dữ, tất cả những giọt
nước mắt và đau đớn, gây ra bởi một thứ thật tầm thường và mong manh
như là một vòng tròn trên cát!
Không chỉ là việc đánh mất những gì ta yêu thích, mà ta còn phải luôn đối
mặt với những người hay những hoàn cảnh mà ta không muốn chúng hiện
hữu -ít nhất là không phải ở đây, không phải ngay bây giờ. Phải chung sống
hay làm việc ngày này qua ngày khác với những kẻ ta không thích tạo ra
nhiều đau khổ. Ngay cả với những thứ ta không thể làm chủ, như là thời
49
tiết, cũng làm ta tức bực. Ở hội Bhavana miền tây Virginia nơi tôi giảng dạy,
người ta than phiền khi trời nóng và ẩm. Nhưng rồi họ cũng than phiền khi
trời mưa lạnh. Khi trời nóng, họ than da và xoang mũi họ bị ảnh hưởng. Khi
trời lạnh, họ than phiền vì sợ té trên tuyết. Và khi thời tiết thật tuyệt vời, họ
than không có thì giờ để tận hưởng!
Khi nhìn lại quanh mình, ta thấy rõ ràng là tất cả mọi thứ hiện hữu đều tạo
ra khổ. Tại sao như thế? Thực ra tất cả mọi thứ trên thế gian có mặt là do kết
quả của một nhân nào đó. Sự thay đổi trong áp lực không khí, gió, và nhiệt
độ là nguyên nhân của mưa. Một cội cây là kết quả của hạt giống chúng ta
trồng và ánh nắng mặt trời, đất, và nước đã nuôi dưỡng nó. Cũng thế, sự
hiện hữu của chúng ta là sản phẩm của các nhân và duyên -nhân vật lý trực
tiếp của sự tạo giống của cha mẹ chúng ta và nhân của những dấu ấn sâu
hằn mà ta đã tích lũy trong nhiều kiếp sống quá khứ.
Đức Phật gọi những thứ này và tất cả những thứ khác phát sinh từ các nhân
là "pháp hữu vi." Ngài giải thích rằng tất cả các pháp hữu vi có ba đặc tính.
Trước hết, chúng vô thường. Với thời gian, tất cả -núi non, sâu bọ, cây cỏ,
máy móc- đều hư hoại, đổi thay, hay chết. Thứ hai, do những sự thay đổi
này, tất cả các pháp hữu vi đều khổ. Như chúng ta đã thấy, tất cả mọi đổi
thay đều có thể gây ra đau khổ. Thứ ba, tất cả các pháp hữu vi đều vô ngã.
Đặc tính cuối cùng này là cái khó hiểu nhất, vì thế tạm thời hãy để nó qua
một bên.
Vô thường không khó hiểu. Vấn đề không phải ở chỗ sự thật là vạn vật đều
tạm bợ. Mà chính là sự bám víu của chúng ta đối với người hay vật gì đó -
giống như vòng tròn trên cát của tôi- khiến chúng ta đau khổ. Thí dụ ta vừa
mua được một cái áo khoác rất vừa ý. Sau khi mặc chỉ vài lần, nó bị dính
sơn, vướng rách, hay bị bỏ quên đâu đó, ta cảm thấy rất bực tức.
Dĩ nhiên, một cái áo khoác bị rách hay bị mất không phải là một đại bi kịch,
ta có thể dễ dàng mua cái khác. Nhưng nếu đó là món quà của người yêu ta
tặng thì sao? Nếu ta mua nó để kỷ niệm một sinh nhật, một lễ lộc hay một
chuyến đi đặc biệt nào đó? Thì ta rất nâng niu nó và khi nó bị đánh mất hay
làm hư, ta sẽ rất đau buồn. Nói về những điều này đôi khi khiến người nghe rất khó chịu. "Còn hạnh
phúc thì sao?" họ hỏi. "Tại sao không nói về những điều ấy? Tại sao chúng
ta không nói về niềm vui, hạnh phúc, sự sung sướng thay vì khổ?"
Câu trả lời, thưa bạn, chính là sự đổi thay. Do vô thường, bất cứ thứ gì dễ
chịu, hạnh phúc, hay sung sướng, cũng không duy trì được lâu. Là những
người trưởng thành, thông minh, chúng ta phải dám nói về những gì thực
sự xảy ra mà không cảm thấy phiền não. Chúng ta phải nhìn tận mặt, sự đau
khổ do vô thường tạo ra, và chấp nhận nó. Tại sao phải che giấu nó và giả
bộ như tất cả mọi thứ đều màu hồng.
Khi trực diện với vô thường, chúng ta có thể nhận thấy nó cũng có những
khía cạnh tích cực. Ta có thể tin chắc rằng bất cứ hoàn cảnh nào đang hiện
hữu trong cuộc đời ta rồi cũng sẽ thay đổi. Có thể xấu hơn. Nhưng cũng có
thể tốt hơn. Do vô thường, ta có cơ hội học hỏi, phát triển, trưởng thành, dạy
dỗ, ghi nhớ và tạo ra những sự thay đổi tích cực khác, kể cả việc tu tập theo
Phật giáo. Nếu tất cả vạn pháp đều bất di bất dịch thì không có sự chuyển
đổi nào có thể xảy ra. Kẻ vô học sẽ mãi mãi là người vô học. Người nghèo
đói sẽ vẫn nghèo đói. Chúng ta cũng sẽ không có cơ hội để đoạn diệt, tham,
sân, si và những hậu quả tiêu cực của chúng.
Vậy thì chúng ta đã hiểu về vô thường và những khổ đau mà nó đã tạo ra.
Giờ nói về vô ngã thì sao? Nó có liên quan gì đến vô thường? Đức Phật đã
dạy rằng vạn vật trên thế gian đều vô ngã hay không có thực thể vì chúng
luôn chuyển đổi. Chúng ta và tất cả mọi vật chung quanh đều không bền
chặt, bất biến. Chúng ta không thể dán cái nhãn hiệu "Tôi" hay "Của tôi"
lên bất cứ vật gì trên thế gian này. Tất cả đều thay đổi quá nhanh chóng.
Với thân, thọ, tưởng, hành, thức, và chủ tâm luôn biến đổi, thì làm sao
chúng ta có thể chỉ vào một vật gì đó và nói, "Đây là cái của tôi" hay "Đây là
tôi"? Ngay chính ý nghĩ hay niềm tin "đây là tôi" cũng biến đổi nhanh
chóng. Do phương tiện, chúng ta có thể nói "tôi có mặt ở đây" hay "cái này
của tôi," nhưng chúng ta phải nói những lời này bằng tâm trí sáng suốt,
không để bị dẫn dắt vào sự suy nghĩ rằng chúng ám chỉ sự hiện hữu của
một thực thể bất biến, là "tôi" hay "cái của tôi." Các đối tượng vật chất cũng
thay đổi không ngừng. Chúng ta có thể dùng những cách đặt tên thông dụng và nói "đây là cái ghế" hay "đây là con vượn," nhưng các tên gọi này
khó mà phù hợp với thực tại luôn biến đổi như ta đã biết.
Đúng hơn, chúng ta và tất cả vạn pháp đang trong một tiến trình, một dòng
chảy không dừng của tăng trưởng và hoại diệt, cấu thành rồi tan rã. Không
có gì trên thế giới này hay trong bản thân của chúng ta là khác biệt hay
trường tồn. Hãy quán sát tâm bạn trong một phút và bạn sẽ biết tôi muốn
nói gì. Ký ức, tình cảm, suy nghĩ, cảm xúc lướt qua bức màn tâm thức quá
nhanh đến nỗi ta khó bắt kịp chúng. Vì vậy, thật là vô vọng khi tâm muốn
bám víu hay xô đuổi những chiếc bóng thoáng qua này. Khi tâm chánh
niệm của ta trở nên nhạy bén, như trong trạng thái thiền định sâu xa, thì
chúng ta có thể thấy rất rõ trạng thái vô thường -quá rõ ràng đến nỗi không
còn gì để tin tưởng vào một cái ngã.
Có người cảm thấy bi quan, thất vọng khi nghe về lý thuyết vô ngã. Có kẻ
còn nổi giận. Họ kết luận một cách lầm lẫn rằng như thế có nghĩa là cuộc đời
không có ý nghĩa gì. Họ không hiểu rằng một cuộc sống không có ý niệm về
ngã là một cuộc sống dễ chịu và ý nghĩa nhất.
Có lần tôi đưa bản thảo một bài viết cho một người bạn biên tập. Anh là một
biên tập viên chuyên nghiệp, nên tôi đoán anh chỉ mất một giờ là xong việc.
Vậy mà sáu tháng sau, tôi cũng chẳng được tin tức gì. Cuối cùng anh đến
thăm và chúng tôi cùng nhau tản bộ. Khi anh không nói gì về bài viết của
tôi, tôi linh cảm rằng đó là một đề tài tế nhị. Tôi gợi đến vấn đề một cách e
dè, cẩn trọng. Tôi hỏi, "Anh đã có thời gian xem qua bài viết của tôi chưa?"
Anh im lặng một hồi lâu rồi trả lời, "Thưa đại đức, tôi đã xem qua. Đến
đoạn về thuyết vô ngã, tôi bực tức quá đến nỗi đã vứt đi cả bản thảo!" Tôi
ngạc nhiên, nhưng không giận anh. Thay vào đó tôi buông xả sự bám víu
vào bài viết của tôi. Anh ta đã vứt bản thảo của tôi vì vô ngã, nên tôi cũng
vứt cái ngã liên quan đến bản thảo đó. Tôi đã có thể giữ thái độ thân thiện,
từ tốn và nhã nhặn. Tuy nhiên, người bạn ấy lại trở nên lạnh lùng, khép kín,
và khổ sở, vì sự chấp ngã của bản thân.
Vì thế có thể bạn cũng thấy rất khó chấp nhận ý niệm về vô ngã. Tuy nhiên
khi bạn còn duy trì ý niệm về ngã, cuộc sống của bạn sẽ không thoải mái, cố
chấp và khép kín, còn người chung quanh sẽ cho bạn là một kẻ ngã mạn, rất khó chịu. Bạn dễ bực bội hay tức giận khi có ai đó không đồng ý hay trách
móc bạn, khi sự việc xảy ra không theo ý bạn hoặc làm bạn thất vọng và
ngay cả khi người ta góp ý với bạn một cách xây dựng. Hiểu đúng ý nghĩa
của vô ngã, bạn sẽ cảm thấy cởi mở, thoải mái hơn. Bạn sẽ dễ dàng hòa
đồng với tất cả mọi người, kể cả người khác quốc tịch, vì bạn không cảm
thấy mình quan trọng hơn hay kém quan trọng hơn người khác, bạn sẽ dễ
dàng thích nghi với bất cứ hoàn cảnh nào, và mọi người sẽ cảm thấy dễ chịu
khi ở gần bạn.
Với sự hiểu biết chân chính về vô ngã, bạn có thể cảm thấy hạnh phúc và tự
tại dầu ở đâu, dầu bạn được tiếp đãi ân cần hay không. Đừng để ý niệm về
vô ngã làm bạn bi quan và cũng đừng để nó làm bạn bực tức.
Giờ chúng ta tạm chấp nhận ý niệm này như một tri thức. Tuy nhiên, với
lòng kiên trì tu tập chánh niệm, một ngày nào đó bạn sẽ nhận ra được tính
chất vô ngã, không có thực thể của vạn pháp một cách trực tiếp. Lúc đó,
chúng ta sẽ mãi mãi chấm dứt được những đau khổ do vô thường mang
đến.
Phật và các vị đạo sư đã đạt được giác ngộ hoàn toàn là bằng chứng cho
điều đó. Đức Phật đã hoàn toàn giải thoát khỏi ý niệm về "ngã." Tuy nhiên,
Ngài vẫn tiếp tục sống trong cộng đồng xã hội sau khi giác ngộ. Vì những
quy ước chung và để việc giao tiếp được dễ dàng, Ngài tiếp tục dùng các từ
quen thuộc, như là "tôi", hay "của tôi." Bạn cũng thể. Cái tên trên bằng lái
xe của bạn có thể không phải là một tên gọi tuyệt đối đúng, bảo đảm cho
một nhân dạng cố định, nhưng nó là một phương tiện thích hợp theo đúng
quy ước của xã hội.
Nhưng khi chánh niệm giúp bạn nhận thức ra rằng "cái tôi" mà bạn đã từng
bảo vệ một cách quyết liệt, thật ra, chỉ là một ảo giác -một dòng chảy của
những cảm giác, tình cảm và trạng thái vật lý không ngừng biến đổi, mà
không có một thực thể cố định hay thường hằng nào- lúc đó sẽ không còn
có "bạn" để gắn kết với những thứ vô thường trên thế gian này, do đó
không có lý do gì để bạn phải buồn phiền hay đau khổ.
Không kiểm soát được
Nếu có thể thực sự làm chủ cuộc đời mình, chúng ta đã không có lý do gì để
đau khổ. Nhưng chúng ta không có quyền lực đó. Trái lại, ta thường không
được cái mình muốn, mà lại được cái mình không muốn.
Chúng ta muốn có một việc làm thích hợp, văn phòng tiện nghi, ông chủ tốt
bụng, mức lương cao này kéo dài mãi, nhưng chúng thay đổi, mà chúng ta
không thể biết tại sao hay khi nào nó xảy ra. Chúng ta muốn người thân yêu
ở mãi bên mình, nhưng dầu ta giữ họ chặt đến đâu, một ngày kia rồi ta và
họ cũng phải chia lìa. Để giữ sức khoẻ, chúng ta uống thuốc bổ, thể dục, ăn
uống điều độ, nhưng chúng ta vẫn bệnh. Chúng ta muốn được trẻ mãi, và
luôn mạnh khoẻ, với tin tưởng rằng tuổi già chỉ đến với người khác, nhưng
thời gian qua đi, rồi ta khám phá ra rằng cơ thể ta không còn như trước. Bất
cứ hoàn cảnh lý tưởng nào mà chúng ta đang có, dĩ nhiên là ta muốn giữ nó
mãi. Nhưng ta không có quyền lực gì đối với luật vô thường. Tất cả mọi
hiện hữu đều tuân theo quy luật đó, và ta không thể làm gì khác hơn.Đôi khi
có những việc bất ngờ xảy ra cũng khiến cho chúng ta phiền não. Thí dụ bị
ong đốt. Chương trình TV mà bạn mong đợi bị hủy bỏ. Xe bạn bị trộm. Bạn
bị mất việc. Người thân bị ung thư. Ảnh kỷ niệm bị cháy mất. Con bạn bị tai
nạn xe hay dính vào ma tuý. Tai tiếng, đổ lỗi, sự nhục nhã, thất bại, đói khổ,
mất của cải, mất tình yêu, cơ thể không còn được như xưa -quá nhiều
những thứ bất hạnh, không mong cầu xảy đến cho ta và cho những người ta
muốn bảo vệ. Nhưng chúng ta không thể làm bất cứ điều gì.Có thể bạn sẽ
nói: "Thôi đủ rồi!" Nhưng tôi vẫn còn muốn nói thêm vài điều. Nếu quán
sát thấu đáo, chúng ta có thể thấy rằng ngay nếu như các ước muốn của
mình có thành hiện thực, thì điều đó cũng mang lại khổ đau. Thí dụ bạn
muốn có một căn nhà đẹp. Vì thế bạn đã mua nhà, sau đó có bao nhiêu
phiền phức bạn phải trải qua. Bạn phải trả góp tiền nhà, tiền thuế, gìn giữ
nó, bảo hiểm nó, sửa sang, trang hoàng và duy trì nó. Nhưng bạn đâu có ở
nhà nhiều. Sáng sớm bạn đã phải đi làm việc. Buổi chiều, có thể bạn đi dự
tiệc hay xem phim, về nhà chỉ để ngủ năm hay sáu tiếng, rồi lại đi nữa.
Chắc chắn là nhà bạn rất to, rất đẹp. Nhưng bạn phải tiếp tục trả các món nợ, rồi cắt cỏ, sửa mái nhà, dọn dẹp garage. Bạn đã được thỏa nguyện ước,
nhưng bạn có hạnh phúc không?
Lấy một thí dụ khác. Một thanh niên thích một cô gái, và cô ta cũng thích
anh. Mỗi người đều cố gắng để lôi cuốn người kia. Nhưng ngay từ lúc bắt
đầu mối quan hệ, họ đã phải sống trong sợ hãi. Chàng thanh niên sợ người
bạn gái sẽ thương một người khác đẹp trai hơn, còn cô gái thì sợ một người
đàn bà khác quyến rũ hơn sẽ cướp mất anh. Họ tràn đầy lòng ghen tuông,
nghi ngờ, lo lắng. Đó có phải là hạnh phúc? Còn bao nhiêu thí dụ khác nữa.
Chỉ cần mở báo ra. Đọc về người may mắn đã trúng số độc đắc, rồi từ đó
phải sống một cuộc đời khổ sở đến thế nào! Đó là lý do tại sao người ta nói
chỉ có hai bi kịch trong đời: không được điều mình muốn, và được điều
mình muốn.
Cái nhìn thực tế
Đức Phật đã cố gắng chỉ rõ cho chúng ta thấy tất cả các pháp hữu vi đều
mang đến đau khổ cho người chưa giác ngộ. Ngài liệt kê "năm uẩn" có mặt
trong tất cả mọi khía cạnh của thực tại: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. "Sắc"
chỉ tất cả những hiện hữu vật chất -kể cả thân và tất cả những thứ ta tiếp xúc
qua các giác quan. Bốn uẩn khác thuộc về tâm. Ở cuối bản liệt kê của tất cả
các pháp mang đến đau khổ, Đức Phật nói, "Tóm lại, sự bám víu vào năm
uẩn mang đến khổ đau." (D 22)
Điều này có nghĩa là gì? Tại sao khổ bao trùm mọi khía cạnh của cuộc đời?
Nhưng theo lời Phật dạy, khổ hay không là do ta cảm nhận và suy nghĩ thế
nào về mọi sự vật. Điều này xảy ra như thế nào thì rất vi tế. Ai cũng biết
rằng họ cảm nhận thế giới qua các giác quan. Chúng ta thường nói về năm
giác quan, qua đó chúng ta nghe, thấy, ngửi, nếm và xúc chạm. Đức Phật
cũng nói đến một giác quan thứ sáu, đó là tâm, vì tâm chúng ta cũng cảm
nhận được ý nghĩ, tư tưởng, hình ảnh trong tâm trí và xúc cảm.
Những gì các giác quan thực sự tiếp nhận là các dữ liệu thô của kinh nghiệm
hay, trong trường hợp của tâm, đó là các tâm ảnh của kinh nghiệm -màu
sắc, hình dáng, kích cỡ, đậm nhạt, cứng, thô, hay mịn màng. Dĩ nhiên, chúng
54
ta cũng biết mỗi người có những cảm nhận khác nhau tùy thuộc vào trạng thái tâm và các giác quan của người cảm nhận. Một người bị cảm có thể
không ngửi được mùi hay nếm được vị. Người khiếm thính có thể không
nghe được những âm thanh trầm. Vì thế tưởng có tính chất chủ quan tùy
thuộc vào các căn của người cảm nhận.
Chúng ta ý thức được sự khác biệt này, nhưng tâm vẫn lừa dối được ta. Nó
khiến ta tin sự cảm nhận của mình là chính xác, đáng tin cậy. Nó đưa ta đến
việc xem những tính chất mà ta cảm nhận được đương nhiên thuộc về đối
tượng mà ta đang quán sát, hơn là kết quả của các duyên hợp, kể cả các giác
quan của ta.
Không chỉ có vậy. Sau khi cảm nhận một điều gì đó, tâm ta lập tức phân loại
hay phán đoán, rồi xếp vật đó hay kinh nghiệm đó vào một trong ba chiếc
hộp. Chiếc hộp đầu tiên được dán nhãn là các cảm thọ dễ chịu -như là
hương vị của bánh mì mới nướng, một bản nhạc hòa tấu, một buổi hoàng
hôn rực rỡ. Chiếc hộp thứ hai chứa đựng các cảm thọ khó chịu -ký ức về cái
chết của người cha, một cơn nhức đầu, tiếng còi xe cảnh sát hụ. Và chiếc hộp
thứ ba chứa đựng các cảm thọ trung tính -tất cả các pháp, các kinh nghiệm
mà chúng ta phản ứng một cách trung tính đối với chúng.
Dĩ nhiên là sau đó tâm ta, vì chưa hoàn toàn giải thoát khỏi bám víu, đã cố
chấp chặt lấy những điều dễ chịu. Vì ghét bỏ, ta xô đẩy những thứ khó chịu.
Vì vô minh (si), ta phớt lờ những thứ trung tính, và chúng ta coi tất cả các
pháp -dễ chịu, khó chịu, hay trung tính- là thường hằng, là có một cái ngã
hay linh hồn, là có khả năng đem đến cho ta hạnh phúc dài lâu hay khiến ta
khổ triền miên.
Đức Phật đã giải thích về ảnh hưởng của sự cảm nhận sai lầm hay thiên lệch
này như sau:
Do nhân con mắt và các sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba
pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có
tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thì có hý
luận. Do hý luận ấy làm nhân, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một
người, đối với các sắc pháp do con mắt nhận thức, quá khứ, tương lai và hiện tại. (cũng thế đối với tai, mũi, lưỡi, thân, và ý). (M 18 [do tỳ kheo Bodhi
chuyển sang Anh ngữ; Hòa Thượng Thích Minh Châu, Việt ngữ])
Trái lại, với sự nhận thức (tưởng) thực tế, chân chính, thì không có sự bám
víu hay phản kháng nào. Nó sẽ chấp nhận vô thường, khổ, và vô ngã như
chúng thực sự là. Khi chúng ta cảm nhận thế giới với cái nhìn thiện mỹ, là
ta đã vun trồng các thiện ý. Cái nhìn thực tế là một phương cách chữa trị tốt
nhất. Nếu chúng ta có thể nhìn vạn pháp (sự vật và con người) như chúng
thực sự là -với tính chất vô thường, khổ, vô ngã -thì không có cảm nhận gì
có thể khiến ta đau khổ.
Cái nhìn thực tế là mục đích của thiền quán chánh niệm. Thực tế có nghĩa là
không trốn tránh những điều không tốt đẹp về bản thân cũng như về thế
giới.
Qua sự ý thức một cách chánh niệm, chúng ta tập nhìn sự hiện hữu một
cách thực tế nghĩa là không phải luôn tốt đẹp, dễ chịu hay hạnh phúc. Mà
cuộc sống là một hỗn hợp của đau khổ lẫn niềm vui. Chúng ta ghi nhận
được những khổ đau về thể xác hay tâm hồn lúc nó vừa chớm xuất hiện và
theo dõi xem nó phát triển như thế nào. Ta cũng quán sát xem tình trạng đó
kéo dài bao lâu, rồi hoại diệt như thế nào. Thiền chánh niệm hoạt động
giống như bộ phận giảm sốc trong xe hơi. Nếu bạn đã quen đối đầu với
những thất vọng khổ đau trong cuộc sống hằng ngày và biết rằng đó là
những sự kiện xảy ra một cách tự nhiên, thì khi một hoàn cảnh khó khăn
hay đau khổ xảy đến, bạn sẽ đối mặt với nó một cách can đảm và bình tĩnh.
Khi ta có thể nhìn tận mặt khổ đau mà không nao núng, thì ta cũng có thể
nhận diện được hạnh phúc chân thật.
Diệu Đế Thứ Hai: Nguồn Gốc Của Khổ Đau
Diệu Đế thứ hai của Đức Phật cho chúng ta biết nguồn gốc của khổ đau là ái
dục, mà chúng ta cũng có thể gọi là bám víu, tham luyến hay chấp. Không
quan trọng đối tượng là gì -có thể là một bữa ăn ngon, một người bạn thân,
hay một mục đích tâm linh cao quý- nhưng nếu bám víu vào đó, bạn sẽ cảm
thấy thất vọng, khổ đau. Bạn có thể hỏi ái dục từ đâu đến? Nguồn gốc rõ ràng nhất là bản năng -lòng
ham muốn được sinh tồn, ham muốn được có thực phẩm, quần áo, chỗ trú
ngụ, sự ấm áp, sự phong phú, sự thỏa mãn. Lòng ham muốn dường như đã
được cài đặt trong con người, cũng như súc vật. Ngay chính cỏ cây hình như
cũng có một số ham muốn, vì chúng luôn hướng về phía mặt trời để có ánh
sáng và sự ấm áp. Một nguồn gốc khác của ái dục là những điều kiện xã hội
-tất cả những quan điểm và giá trị mà chúng ta học được từ cha mẹ, gia
đình, bạn bè, học đường, quảng cáo, và sách vở, điều kiện hóa ta khiến ta tin
rằng điều này tốt, điều kia xấu.
Lòng ham muốn mạnh mẽ nhất dựa trên các lạc thọ. Cuộc sống mang lại
cho chúng ta biết bao sung sướng khoái lạc qua từng giác quan. Thí dụ,
nhãn quan: mắt của bạn thì khả ý và khả lạc. Nhãn thức cũng khả ý và khả
lạc, cũng như nhãn căn, nhãn trần, cảm thọ về cái thấy, sự nhận biết hình
ảnh, lòng ham muốn đối với những đối tượng của mắt, những hình ảnh
tưởng tượng, những tư duy có chủ ý, vân vân. Tương tự tai, mũi, thân và ý
cũng mang đến các lạc thọ. Mỗi ngày ta đều có cơ hội để tận hưởng những
đối tượng khả ý và khả lạc qua các giác quan. Tuy nhiên ta vẫn không hạnh
phúc.
Trong diệu đế thứ hai này, Đức Phật khuyên ta nên nhận biết rằng sự bám
víu vào dục lạc rất nguy hại cho hạnh phúc. Ngài đã so sánh dục lạc với
một mẩu xương không còn thịt được vứt cho một con chó đói. Dầu chú chó
gặm cục xương rất lâu, nhưng cục xương chẳng bao giờ có thể thỏa mãn
được cơn đói của nó. Suy gẫm lại ta có thể thấy mình cũng giống như thế.
Dầu có hưởng bao nhiêu dục lạc, ta vẫn không thỏa mãn, vẫn còn muốn hơn
thế nữa.
Bao nhiêu bánh, bao nhiêu kẹo thì đủ? Bao nhiêu trò chơi trực tuyến bạn cần
tham gia? Bao nhiêu quyển tiểu thuyết bạn cần đọc để thỏa mãn lòng ham
muốn hưởng thụ của bạn? Bao nhiêu hoạt động tình dục ta cần có để thỏa
mãn sự khao khát tình dục? Bao nhiêu rượu hay bao nhiêu ma tuý? Đôi khi
người ta thức thâu đêm suốt sáng để ăn chơi cho đến khi gục ngã. Vậy họ đã
hưởng đủ chưa? Hay bao giờ cũng có những trò chơi khoái lạc khác mà họ
chưa nếm qua. Đức Phật đã so sánh dục lạc với một lưỡi gươm bén thấm đầy mật ngọt trên
lưỡi dao. Để nếm được mật, ta có thể phải chịu nhiều đớn đau. Có biết bao
câu chuyện về những người tự làm tổn thương bản thân, đôi khi cả tánh
mạng, để tìm được khoái lạc. Vài năm trước đây có một chuyện đăng báo
về người công nhân đang sửa mái nhà, khi nhìn xuống qua cửa kính trời,
anh ta bắt gặp người đàn bà khỏa thân đang đi lại trong nhà. Để nhìn kỹ
hơn, anh chòm người tới cửa kính, chẳng may trợt té khỏi mái nhà và bị
thương nặng.
Rượu chè, ma túy, những cuộc du lịch thám hiểm, các trò thể thao nguy
hiểm -chưa kể đến những hành động tình dục bừa bãi- đã khiến nhiều
người phải khổ.
Hơn thế nữa, ta không thể kéo dài dục lạc. Giống như một giấc mơ, dục lạc
thoảng qua đi. Chúng nhanh chóng vuột khỏi tầm tay, khiến bạn không còn
gì để giữ lại ngoại trừ cảm giác và ký ức. Giống như những món đồ vay
mượn, ta không thể giữ chúng lâu. Vì thế bạn càng tham đắm vào loại dục
lạc nào, thì nó càng mang đến thương tổn cho bạn khi thời gian, sự đổi thay,
hay hoàn cảnh không thể tránh được, tước đoạt nó đi.
Ái dục phát sinh từ cảm giác của khoái lạc và đau đớn. Khi được hưởng thụ
khoái lạc, thì ta sinh lòng ham muốn nắm giữ, duy trì nó. Khi bị phiền não,
đau khổ, thì ta có lòng muốn đuổi xô hay trốn tránh nó. Vì sự tham đắm của
ta đối với các lạc thọ, và sự phản kháng của ta đối với các khổ thọ, ta sẽ
không ngừng tìm kiếm các trải nghiệm mang đến nhiều khoái lạc hay trốn
tránh được khổ đau. Một khi đã tìm được điều gì đó có thể thỏa mãn được
mục đích này, ta sẽ trở nên thành kiến và phân biệt. Trạng thái tâm này
khiến ta trở nên chấp thủ. Để bảo vệ và gìn giữ được những gì đang có,
người ta sẵn sàng nói dối, làm hại, sỉ nhục người khác, hay ngay cả sử dụng
vũ khí để bảo vệ những gì họ nghĩ là sở hữu của họ.
Lòng ham muốn cũng đưa đến sự dằn vặt tâm lý. Vì các cảm thọ phát khởi
từ việc xúc chạm với những gì mang đến dễ chịu -qua mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý- con người suy tư và lý luận, lập giả thuyết, triết lý hóa, phỏng
đoán và tưởng tượng. Họ trở nên bám víu vào tà kiến và những niềm tin bất
chính. Hồi tưởng lại những dục lạc trong quá khứ, họ còn dựng nên các tư
duy, niềm tin và lý thuyết đầy dục vọng.
Có người quá chìm đắm trong ham muốn đến nỗi họ nguyện sẽ tái sinh để
được hưởng tất cả các dục lạc đó nữa. Người khác, trái lại, vì những kinh
nghiệm khổ đau mà họ đã trải qua, không muốn tái sinh: "Vậy là đủ rồi," họ
nói. "Một kiếp là đủ rồi. Tôi không muốn những thứ này nữa."
Tóm lại, lòng ham muốn phát xuất từ vô minh -không biết rằng không có gì
trường tồn và không biết rằng dục vọng mang đến khổ đau. Khi các giác
quan tiếp xúc với những trần cảnh mang đến sự dễ chịu, tâm si mê phát
khởi ý muốn nắm bắt và giữ chặt nó lại. Ngược lại cũng thế. Khi các giác
quan xúc chạm với điều gì khó chịu, tâm si mê phát khởi ý muốn chạy trốn
hay xa lánh nó. Vì sự tác ý này, con người có những hành động bất thiện nơi
thân, khẩu, và ý, bất chấp hậu quả. Vì lòng ham muốn, người ta bóp méo sự
thật và trốn tránh trách nhiệm cá nhân đối với các hành động của họ.
Chịu trách nhiệm cho hành động của mình
Giáo lý về nhân quả của Đức Phật đã nói rõ rằng việc chấp nhận trách
nhiệm cho hành động của mình là nền tảng cho sự tự tại vẹn toàn của mỗi cá
nhân. Không chấp nhận sự thiếu sót của mình rồi đổ lỗi cho thế giới về sự
bất hạnh của mình, sẽ khiến ta phải đắm chìm trong đau khổ. Ai cũng có
những điều không vừa ý. Nhưng khi bạn còn trách móc, đổ lỗi cho cha mẹ
hay xã hội về những vấn đề của mình, thì bạn đã tự cho mình một lý do để
không sửa đổi. Ngay giây phút bạn biết nhận trách nhiệm cho hoàn cảnh
của mình, dầu người khác cũng có góp phần vào đó, là bạn đã bắt đầu
hướng đến con đường tích cực hơn.
Theo tôi, chúng ta bóp méo sự thật và trốn tránh việc nhận lãnh trách nhiệm
cá nhân bằng ít nhất ba phương cách. Thứ nhất, ta cho rằng thế giới bên
ngoài mang đến đau khổ cho chúng ta. Kết quả là, ta hướng tất cả mọi nỗ
lực và khả năng tinh thần ra bên ngoài. Ta dồn hết công sức, và đôi khi còn
trở nên mù quáng, trong việc cố gắng sửa đổi người xung quanh, như thể là
sự hoàn toàn của họ sẽ đem lại giải thoát cho ta. Hoặc chúng ta cố gắng thay
đổi xã hội, tưởng rằng việc sửa đổi những cái ác trong xã hội sẽ giải quyết vấn đề của bản thân ta: "Khi đói khổ, chiến tranh, và ô nhiễm môi trường
được dẹp bỏ, thì tôi mới được hạnh phúc."
Dĩ nhiên, ước muốn hoàn thiện xã hội cũng là điều đáng khuyến khích.
Chúng ta thấy đồng loại đau khổ như thế nào, ta cảm thông với họ, và ta
hành động để xoá bỏ khổ đau cho họ. Nhưng thường ta không nhận ra rằng
trong khi cố gắng để giải quyết vấn đề cho người khác, ta quên hay đè nén
vấn đề của chính mình. Lý do của chúng ta là: có quá nhiều những tệ nạn xã
hội cần được sửa đổi, ta không có thời gian để lo cho mình.
Thực ra, chúng ta thiếu sự chân thật và can đảm để quán xét chủ đích thực
sự của mình. Những người tham gia các hoạt động xã hội có thể rất từ bi và
có tâm phục vụ, nhưng cũng có người không nhìn ra mục đích thực sự của
họ. Chúng ta ai cũng biết rằng giúp đỡ người khó khăn hơn mình mang đến
cho ta một cảm giác đầy quyền lực mà ta không thể có được đối với những
người không phụ thuộc vào ta. Ước muốn được có quyền lực là một bản
năng cơ bản. Cần phải có nhiều lòng chân thật để nhận ra bao nhiêu phần
trong những gì ta làm cho người khác phát xuất từ động lực này. Nhận ra
được chủ đích thực sự phía sau các hành động của chúng ta có thể giúp ta
chú tâm vào công việc quan trọng hơn tất cả là xếp đặt việc nhà của mình
yên ổn trước khi cố gắng cứu giúp người khác.
Lý do thứ hai mà chúng ta dùng để tránh nhận lãnh trách nhiệm cho hành
động của mình là nhất quyết cho rằng chúng ta không có vấn đề gì. Chúng
ta chỉ quan tâm đến hạnh phúc và mục đích của riêng mình mà không để ý
gì đến việc hành động của ta có thể ảnh hưởng đến người khác như thế nào.
Trong tiềm thức, ta có thể nghĩ rằng thế giới bên ngoài không quan trọng,
hay không có thực. Nếu có thể lắng nghe sự suy nghĩ của chính mình, có lẽ
ta sẽ nghe mình tự nhủ, "Chỉ có tôi là hiện hữu, và chỉ có những gì tôi quan
tâm đến là quan trọng -ngoài ra không có gì nữa."
Có thể tất cả chúng ta đều biết đến những nhân vật tuyên bố coi trọng giá trị
này, giá trị nọ, nhưng âm thầm hành động ngược lại với những điều đó.
Những người này chỉ quan tâm đến bản thân họ. Có người cũng thành thật
nhận rằng họ bị lôi cuốn theo sự ham muốn được thành công về tài chánh, quyền lực, hay sự nổi tiếng. Tuy nhiên, họ cũng tìm cách để tránh chịu trách
nhiệm cho các hành động của mình. Họ tự dối bằng cách tư duy rằng những
mục đích cá nhân mà họ theo đuổi quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác. Họ tự
lừa dối bằng cách tin rằng nếu đạt được mục đích họ sẽ hạnh phúc, mà
không cần biết là ai sẽ bị tổn thương trên đường đi của họ.
Cách thứ ba để chúng ta trốn tránh các vấn đề cá nhân đơn giản là chạy trốn
chúng. Tất cả chúng ta đều làm như thế. Xem TV hay lục tủ lạnh kiếm đồ ăn
là cách ta thường làm để tránh khỏi phải tự nhìn lại mình một cách chân
thật. Bạn ru ngủ thân tâm bằng sự êm ái, dễ chịu rồi chìm vào giấc ngủ. Thời
gian sẽ qua đi. Trừ việc trở nên già đi và mập thêm, thì không có sự thay đổi
nào xảy ra cho ta. Thử thách ở đây là có can đảm để hỏi tại sao.
Tất cả chúng ta, không ít thì nhiều, đều đã từng sử dụng các phương cách
này để trốn tránh trách nhiệm, và chúng cũng tạm thời mang đến cho ta sự
an ủi, hạnh phúc ngắn ngủi. Nhưng không có gì mang đến một giải pháp
lâu dài, đích thực cho các vấn đề của ta. Dầu ta có cố gắng để thay đổi thế
giới, phớt lờ thế giới, hay tách mình ra khỏi thế giới, ta cũng không thể trốn
tránh trách nhiệm cuối cùng cho hành động của mình. Cuộc sống có lúc lên,
lúc xuống, và chính chúng ta tạo ra chúng. Chính phương tiện này của
chúng ta -sự kết hợp của thân và tâm- phải chịu muôn vàn khó khăn. Điều
duy nhất ta có thể làm, theo giáo lý của Đức Phật, là tìm cách để hoàn thiện
hơn công cụ duy nhất có quyền năng mang đến hạnh phúc cho bản thân ta
và thế giới. Công cụ đó chính là tâm của chúng ta.
Diệu Đế Thứ Ba: Đoạn Diệt Khổ Đau
Sự thật thứ ba là lời hứa khả của Đức Phật rằng khổ đau có thể được đoạn
trừ. Sự chấm dứt đó xuất phát từ việc hoàn toàn diệt bỏ mọi chấp thủ, mọi
ái dục của chúng ta. Giờ thì ta đã bắt đầu hiểu về nhân quả của hành động
cá nhân của mình và chấp nhận trách nhiệm cho lời nói, hành động và ý
nghĩ của mình. Ta có thể thấy rằng chính ta đóng một vai trò rất quan trọng
trong việc chấm dứt sự đau khổ của bản thân. Tuy nhiên ở thời điểm này
thật khó để ta có thể cảm nhận được cảm giác hạnh phúc trọn vẹn ra sao.
Cuộc sống sẽ như thế nào nếu không còn có sân hận hay tham muốn nữa?
Các đệ tử của Đức Phật cũng đã có những thắc mắc như thế. Một lần, ngài
Xá Lợi Phất, một trong hai vị đại đệ tử của Đức Phật, và chính ông cũng là
một vị thầy đã giác ngộ, đang có cuộc thảo luận với một nhóm các vị tu sĩ.
Họ hỏi rằng: "Thưa Đại đức, trạng thái hạnh phúc toàn vẹn, mà Đức Phật
gọi là niết bàn, không phải là thứ hạnh phúc dựa trên kinh nghiệm cá nhân.
Làm sao có thể có một cái gì đó không được trải nghiệm mà được gọi là
hạnh phúc?"
Ngài Xá Lợi Phất trả lời, "Đó là lý do tại sao nó được gọi là hạnh phúc." (A
IV (9) IV 3)
Nói cách khác, hạnh phúc bao gồm những gì không phải trải qua. Diệu đế
thứ ba dạy rằng hạnh phúc xóa sạch tất cả mọi trạng thái tâm tiêu cực -tất cả
tham, sân, si. Cuối cùng khi chúng ta đã thành công trong việc dập tắt các
ngọn lửa nội tâm làm cháy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm, thì lúc đó ta sẽ
chứng nghiệm được hạnh phúc toàn vẹn, thanh tịnh tuyệt đối. Có thể khó
tưởng tượng ra trạng thái đó cảm giác như thế nào, nhưng cách duy nhất để
tự khám phá ra điều đó là bước theo con đường đạo dẫn đến mục đích đó.
Giống như phần đông chúng ta, các vị tu sĩ tham vấn với Ngài Xá Lợi Phất
muốn biết ngay từ khi mới bắt đầu con đường đoạn cuối của nó ra sao. Điều
này cũng giống như khi ta hỏi một bé gái, "Cháu cảm thấy thế nào khi sanh
em bé?" Cô bé đó chưa hề sanh nở. Em phải lớn lên và trưởng thành để có
được kinh nghiệm đó. Cô bé có thể nói đôi chút về sự sanh nở từ những
điều em được đọc hay đã nghe qua, nhưng em không thể diễn tả hoàn toàn
tất cả kinh nghiệm đó.
Ngay chính mẹ em có thể cũng không có khả năng để nhớ lại lúc sanh nở ra
sao. Bà có thể nói về kinh nghiệm của bản thân, nhưng khi người nghe chưa
bao giờ có kinh nghiệm sanh nở thì cũng không thể hiểu người mẹ ấy cảm
giác thế nào.
Hạnh phúc thường hằng của giác ngộ cũng giống như thế. Chỉ có những
người đã qua các giai đoạn tu tập và đã tự mình trải qua chứng nghiệm đó
mới có thể hiểu được. Thí dụ cô bé đó đến hỏi cha mình, "Ba ơi, liên hệ của ba với mẹ là như thế
nào?"
Người cha có thể trả lời, "Con ơi, hãy ra ngoài chơi đi. Cha sẽ nói cho con
biết sau này." Có lẽ, khi cô bé đã trưởng thành, đến tuổi lập gia đình, người
cha mới nói với con gái, "Lâu rồi con đã hỏi cha về sự liên hệ giữa cha với
mẹ con là gì. Giờ con có muốn nghe câu trả lời không?"
Người con gái trả lời, "Không, thưa ba, con đã biết câu trả lời."
Người con gái đã trưởng thành trong hiểu biết. Cô đã tự biết câu trả lời. Nếu
một kinh nghiệm thế tục như là sự liên hệ giữa một người nam và một
người nữ đã khó trả lời như thế, hãy tưởng tượng xem để hiểu được hạnh
phúc toàn vẹn của sự giải thoát khỏi khổ đau còn khó đến ngần nào!
Hiện tại, tâm ta tràn đầy bao suy tưởng, quan niệm, thiên kiến, mà đa số
xuất phát từ lòng tham, sân, và si. Cố hiểu cho được sự nhiệm mầu của hạnh
phúc toàn vẹn trước khi ta diệt bỏ được các tâm tiêu cực là điều không
tưởng. Ta không thể làm gì hơn là dựa vào các ẩn dụ, ngụ ngôn, kinh sách
do các bậc chứng ngộ kể lại và cố gắng suy luận để có được chút hiểu biết
nào đó. Thí dụ:
Thời xa xưa có một chú rùa sống giữa một đàn cá và những sinh vật biển
khác, bỗng nhiên rùa biến mất. Khi rùa trở về, bọn cá hỏi nó đã đi đâu.
"Tôi lên mặt đất," con rùa trả lời chúng.
Chúng lại hỏi, "Nước trên mặt đất ra sao?"
Rùa trả lời, "Mặt đất không có nước."
"Vậy sao anh bơi được?"
"Tôi không bơi. Tôi đi."
"Đi? Anh nói 'đi' là sao? Và anh có thấy nhiều cá trên đó không?" Khi rùa cố gắng giải thích, đàn cá nói một cách nghi ngờ, "Không có nước;
không có cá; anh không lội được; và anh nói rằng anh 'đi'. Làm sao có thể
như thế được?"
Rùa trả lời, "Các bạn muốn hiểu sao cũng được. Còn tôi, tôi sẽ trở lên đất
liền." Nói xong, rùa bỏ đi.
Cũng giống như đàn cá không thể hình dung về ý nghĩa của đất liền, người
còn đầy phiền não do tham, sân, si, không thể hiểu được niết bàn. Để có thể
tuệ tri được điều đó, ta phải chuyển hóa tất cả các trạng thái tâm tiêu cực và
tự mình chứng nghiệm giác ngộ.
Hiện tại thì kinh nghiệm gần gủi nhất đối với hạnh phúc của giác ngộ là
trạng thái tâm thanh tịnh mà thỉnh thoảng chúng ta có thể đạt được khi
buông xả được các gánh nặng của mình trong một giây phút nào đó, khi tâm
chỉ là "tâm" chứ không có gì trong đó nữa. Sự hiểu biết do suy luận mà ta
có được ở những lúc như thế, có thể so sánh với việc ta đang đi trên sa mạc
và cảm thấy mệt mỏi, đói khát. Rồi ta tìm được một chiếc giếng sâu với ít
nước ở dưới đáy nhưng chung quanh không có gào múc hay dây kéo.
Nhưng ta đã quá suy nhược, không còn sức lực để bện một cái gào múc
nước. Vì thế dầu là ta có thể nhìn thấy nước, ta vẫn không thể chạm đến
được, nói gì đến chuyện uống. Tương tự, khi tâm tạm thời được giải thoát
khỏi tham, sân, si, ta có thể cảm nhận được sự thanh tịnh của niết bàn,
nhưng không nhất thiết là ta có phương tiện để đạt đến đó. Đoạn diệt được
lòng tham ái thì cũng giống như tìm được sợi dây của tâm từ bi. Giải thoát
được tâm khỏi sân hận thì cũng giống như gắn được sợi dây đó vào cái gàu
của tình thương yêu. Sức mạnh trong đôi tay thì tựa như trí tuệ, sự giải
thoát khỏi vô minh. Khi ta có thể kết hợp ba phẩm chất này lại với nhau, thì
ta có phương tiện để cuối cùng được nếm hạnh phúc toàn vẹn của niết bàn.
Trạng thái hạnh phúc này không thể diễn tả được bằng lời. Đặc tính duy
nhất của nó là sự thanh tịnh. Nó không sinh, không được cấu thành, và
không có điều kiện. Vì thế, điều duy nhất ta có thể làm là nói về những gì
mà trạng thái này không có. Ở đó không có lòng tham, sự bám víu, chấp
chặt vào sự vật, con người, hay quá khứ. Ở đó cũng không có sân, xung đối, thù hằn hay tham luyến. Ở đó không có sự lầm lạc nhìn mọi sự vật như là
thường hằng, tự tại hoặc là có một linh hồn hay một cái ngã bên trong.
Những người còn sống trong ảo tưởng rằng họ đang hưởng thụ cuộc sống
như nó là trong một thế giới khổ đau, khi nghe sự diễn tả này có thể sẽ nói,
"Như vậy giác ngộ đâu có gì là tốt đẹp. Không chắc gì tôi đã muốn đạt được
trạng thái đó. Ở đó có nhà cửa không? Rồi còn gia đình, trường học, bảo
hiểm y tế, bệnh viện, đường xá, vân vân?" Những câu hỏi này đã được đặt
ra với tôi.
Câu trả lời phải là không. Những người còn bám víu vào cuộc sống, vào sự
luân hồi vô cùng tận này, sẽ không có tâm sáng suốt để muốn đạt được
trạng thái của sự thanh tịnh toàn vẹn. Họ không hiểu diệu đế thứ nhất của
Đức Phật, rằng khổ là điều không thể tránh được, hay diệu đế thứ hai của
Ngài, rằng càng ham muốn, thì ta càng khổ đau. Không có chánh kiến về
những điều căn bản này, thì họ khó mà hiểu được diệu đế thứ ba của Đức
Phật -rằng khổ sẽ chấm dứt khi ta đoạn diệt được tất cả mọi tham ái, mọi
bám víu.
Có thể sẽ có thắc mắc không biết việc ta muốn đạt được giác ngộ và thoát
khỏi vòng luân hồi vô cùng tận có được chấp nhận không. Câu trả lời là
được, đây là một ước muốn thiện -được gọi là "ước muốn được không còn
ham muốn."
Diệu Đế Thứ Tư: Con Đường Đạo
Diệu đế thứ tư của Đức Phật là con đường đạo dẫn đến sự chấm dứt khổ.
Con đường tám ngành (Bát Chánh Đạo) mang lại hạnh phúc và an bình cho
những ai thực hành chúng. Sau này chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ từng bước một,
nhưng giờ hãy điểm sơ qua:
• Bước 1: Chánh Kiến trong giáo lý của Đức Phật đòi hỏi chúng ta phải liễu
tri các hành động thiện dựa trên nhân quả và Tứ Diệu Đế và xét xem chúng
có phù hợp đối với giáo lý của Đức Phật nói chung. • Bước 2: Chánh Tư Duy hướng ta đến ba tư duy tích cực -sự rộng lượng
hay xả, tình thương yêu và lòng bi mẫn.
• Bước 3: Chánh Ngữ dạy chúng ta làm thế nào để nói sự thật và tránh nói
lời ác độc, cộc cằn, phù phiếm để giúp ta tiến trên con đường đạo.
• Bước 4: Chánh Nghiệp đưa ra những nguyên tắc giúp ta sống có đạo đức
-nhất là tránh giết hại, trộm cắp, tà dâm và các chất gây nghiện.
• Bước 5: Chánh Mạng giải thích tại sao việc ta chọn một công việc hay
nghề nghiệp thích đáng là điều quan trọng đối với sự thực hành tâm linh và
đối với những câu hỏi về đạo đức trong kinh doanh, thái độ của chúng ta
phải thế nào.
• Bước 6: Chánh Tinh Tấn đề ra bốn bước mà ta có thể theo để thúc đẩy
công phu tu tập -ngăn ngừa các trạng thái tâm tiêu cực, chế ngự các trạng
thái tâm tiêu cực, vun trồng các trạng thái tâm tích cực và duy trì các trạng
thái tâm tích cực.
• Bước 7: Chánh Niệm nói đến sự thực hành thiền chánh niệm -nhất là vun
trồng chánh niệm nơi thân, thọ, tâm, và pháp.
• Bước 8: Chánh Định nói đến bốn giai đoạn của thiền định sâu xa mà
chúng ta có thể đạt được trong thiền quán.
Tám bước này (Bát Chánh Đạo) không chỉ là một bảng liệt kê thú vị về các
tư tưởng đã được Đức Phật dạy. Mà chúng là nguồn hy vọng tốt đẹp nhất
của chúng ta để đạt được giác ngộ. Nếu tám bước này là những điều mà bạn
sẽ đọc lướt qua một cách nhanh chóng rồi để qua một bên, là bạn đã không
nắm được sự quan trọng của chúng. Không có lời dạy nào trong giáo lý của
Đức Phật sâu sắc hơn và quan trọng hơn. Đúng ra tám bước này chính là
Phật pháp.
Tám bước này thường được diễn tả như một bánh xe -bánh xe của trí tuệ,
ngược lại với bánh xe của luân hồi sanh tử không dừng dứt. Trí tuệ sẽ chặn
đứng lại vòng xoay của sanh tử luân hồi. Các nấc trên bánh xe trí tuệ là tám
bước trên con đường đạo của Phật. Trục bánh xe là sự kết hợp của tâm từ bi
và trí tuệ. Ngược lại, những nấc trên bánh xe của sanh tử luân hồi là bao
kiếp sống mà chúng ta đã phải trải qua và rồi chúng còn sẽ đưa ta đến các
cõi khổ đau. Trục của bánh xe đó là sự kết hợp của tham, sân, và si. Cả hai bánh xe đều luôn chuyển động. Chúng ta đã nhìn thấy tất cả quanh
ta là những vòng bánh xe không dừng dứt của sanh và tử. Cây cỏ, thú vật,
và con người luôn được sinh ra rồi chết đi. Nhưng sẽ khó nhận ra sự chuyển
động của bánh xe trí tuệ, tuy nó vẫn có mặt. Quanh ta, bao người vẫn đang
tu tập theo con đường đến hạnh phúc của Đức Phật. Bánh xe này chuyển
động vì sự thực hành tâm linh rất mạnh mẽ, luôn hoạt động và luân chuyển.
Dáng hình tròn của cả hai bánh xe đều là biểu tượng của sự toàn vẹn. Bánh
xe của sanh tử cũng là một quy trình khép kín tuyệt đối. Đó là một hệ thống
toàn hảo để luân chuyển trong khổ đau. Trong khi dáng hình tròn của bánh
xe trí tuệ biểu tượng rằng Bát Chánh Đạo là đầy đủ, vẹn toàn.
Để tự giải thoát khỏi khổ đau, bạn cần thực hành mọi khía cạnh của bánh xe
trí tuệ. Chỉ đọc về tám bước của bánh xe (Bát Chánh Đạo) sẽ không giúp bạn
được hạnh phúc. Nếu bạn cố gắng để giữ một bánh xe đạp đứng thẳng, nó
sẽ ngã xuống. Tuy nhiên nếu bạn giữ cho bánh xe quay bằng cách đạp xe đi
tới, thì bánh xe sẽ đứng thẳng cho đến khi nào sự chuyển động dừng lại. Để
mang đến ích lợi cho bạn, bánh xe của trí tuệ cũng cần phải được lăn đi
trong sự thực tập hằng ngày.
Chánh Niệm Về Chánh Kiến
Để bạn biết làm thế nào thực hành bước thứ nhất -Chánh Kiến về Tứ Diệu
Đế- thí dụ, một buổi sáng kia khi ngồi trên gối thiền bạn cảm thấy đau ở
chân. Thay vì chỉ ghi nhận sự phát sinh và hoại diệt của cảm giác đó, thì bạn
trong trường hợp này lại cảm thấy khổ vì cái đau, và sự khó chịu của bạn
càng làm nó đau thêm. Nếu tâm chánh niệm của bạn đã thuần thục, thì vấn
đề này đã không xảy ra, nhưng giờ bạn đã sa lầy. Bạn có thể làm được gì bây
giờ?
Bạn có thể chế ngự được sự phiền não do cái đau mang đến bằng cách thực
hành bát chánh đạo của Đức Phật. Đây là cơ hội để quán sát tứ diệu đế trong
thực hành.
Mặc dầu tám bước (Bát Chánh Đạo) đã được mô tả theo một thứ tự đặc biệt,
nhưng chúng ta không cần phải thực hành chúng theo thứ tự đó. Không đơn
giản và rõ ràng như thế. Thí dụ như ta đang nấu ăn trong nhà bếp nơi tất cả
68
các dụng cụ đều được treo theo kích cỡ và được xếp đặt gọn gàng theo một
thứ tự lô gích nào đó, thì ta cũng không dùng các dụng cụ này theo thứ tự
mà chúng đã được xếp đặt. Thay vào đó ta sẽ lấy bất cứ cái chảo hay cái nồi
nào mà ta đang cần lúc đó. Cũng thế, khi áp dụng Bát Chánh Đạo vào cuộc
sống hằng ngày đòi hỏi ta phải chọn lựa và sử dụng bất cứ bước nào mà ta
cần.
Do đó, trước hết ta chánh niệm về cái đau và sự phản kháng của ta đối với
nó. Như thế là ta đã sử dụng chánh niệm, là bước thứ bảy của Bát Chánh
Đạo. Với chánh niệm, ta bắt đầu nhận thức rằng "Đây là khổ." Khi nhìn ra
sự thật của khổ, là ta đã nhận ra diệu đế thứ nhất. Nó trở thành là một thực
tại đối với ta và ta bắt đầu thực hành chánh kiến, là bước đầu tiên của Bát
Chánh Đạo.
Với sự chú tâm chánh niệm, ta sẽ dễ dàng nhận thấy rằng càng phản kháng
cái đau, thì ta càng cảm thấy tệ hại hơn. Vì thế ta cố gắng để chế ngự, buông
xả sự phản kháng. Hành động đó liên quan đến chánh tinh tấn, là bước thứ
sáu. Ta buông xả sự phản kháng bằng cách thư giãn và thiết lập một thái độ
thân thiện hơn. Ta có thể, thí dụ, suy luận rằng cái đau trong chân cũng
đáng được chấp nhận, thương yêu như bất cứ những cảm giác nào khác của
thân. Bằng cách đó, ta tu tập một khía cạnh của chánh tư duy, là bước thứ
hai.
Sau đó ta có thể quán sát rằng nỗi khổ phát sinh không chỉ vì sự phản kháng
mà còn vì ta mong muốn được cảm thấy dễ chịu hơn. Thí dụ, ta có thể nghĩ,
"Giá mà tôi có thể ngồi một cách yên tĩnh, không bị đau đớn!" Thấy được sự
liên hệ giữa lòng ham muốn và sự khổ đau sẽ đưa chúng ta thẳng đến trí tuệ
trong diệu đế thứ hai, sự thật rằng chính lòng tham ái đem lại khổ. Giờ thì
chánh kiến của ta đã được phát triển sâu xa hơn.
Khi ngồi với ý thức về diệu đế thứ hai, ta trở nên rất rõ ràng về sự liên hệ
giữa lòng tham ái và khổ, do đó chánh niệm cũng được phát triển sâu hơn.
Vì thấy quá rõ lòng tham ái đưa đến khổ đau như thế nào, nên ta phát khởi
quyết tâm phải làm điều gì đó đối với lòng tham ái. Phát khởi quyết tâm, là
ta đã lại thực hành chánh tinh tấn, nhưng lần này, là để buông bỏ tâm tham ái, bám víu vào những cảm giác dễ chịu. Tư tưởng buông xả, còn được biết
đến như là xả ly, là một khía cạnh khác của chánh tư duy.
Có thể lúc đầu chúng ta đã phản ứng lại cái đau với cảm giác thất vọng, bực
tức. Nếu sự tự trách hay các ác ý khác nhắm đến bản thân đã phát sinh, thì
giờ ta phải thực hành chánh tinh tấn để buông bỏ chúng. Làm được thế, là ta
một lần nữa thực hành chánh tư duy. Hãy nhớ rằng nếu ta cố gắng quá sức,
thì ta tạo ra nhiều đau đớn và căng thẳng hơn. Tuy nhiên, với chánh niệm, ta
sẽ nhìn thấy được vấn đề đó. Rồi chánh tư duy một lần nữa lại trở nên hữu
dụng, lần này là để giải nhiệt cho tâm với tư duy về tình thương yêu dành
cho bản thân.
Những sự thành công như thế trong việc vun trồng chánh kiến, chánh tư
duy, chánh tinh tấn, và chánh niệm sẽ giúp tâm lắng đọng. Tâm trở nên
định tĩnh hơn; đây là một biểu hiện của bước thứ tám trên con đường đạo:
Chánh Định. Khi đạt được định sâu lắng, thì sự đau đớn tinh thần cũng
như thể xác sẽ qua đi. Khi sự đau đớn đã tan biến ta sẽ cảm thấy đầy an
bình, tĩnh lặng và hạnh phúc. Các trạng thái này, ngược lại, sẽ đưa ta vào
tầng định cao sâu hơn.
Định sâu lắng hơn sẽ giúp tâm chánh niệm được củng cố và ta tiếp tục quán
sát các chứng nghiệm của mình. Ta thấy rằng cái đau biến mất vì ta buông
xả lòng tham muốn đối với dục lạc. Sau đó chánh kiến sẽ tăng trưởng khi ý
nghĩa và hiệu lực của diệu đế thứ ba trở nên tách bạch: khi chấm dứt tham
ái thì khổ được đoạn diệt.
Có thể nhận thấy rằng trong thí dụ vừa rồi chúng ta đã không nói đến khía
cạnh "đạo đức" của Bát Chánh Đạo: đó là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và
Chánh Mạng (bước thứ ba, tư, và năm). Nhưng chúng cũng có mặt, vì chúng
đóng vai trò quan trọng trong một cuộc sống tốt đẹp. Sống thiếu đạo đức sẽ
khiến tâm không an, khiến cho việc hành thiền trở nên khó khăn ngay cả
trong những hoàn cảnh thuận tiện. Ta cần có một nền tảng đạo đức vững
chãi trước khi có thể duy trì được định và giữ được quyết tâm mạnh mẽ khi
đối diện với những đau đớn của thân tâm. Do đó khi đã thực hành không
sai lệch các bước trên con đường đạo (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật, ta sẽ
tìm thấy trong đó phương cách để buông xả khổ đau. Khi làm được thế, ta
70
sẽ chánh kiến được diệu đế cuối cùng trong Tứ Diệu Đế, sự thật rằng
phương cách để chấm dứt khổ là đi theo con đường Bát Chánh Đạo. Đến
đây chúng ta đã điểm qua tất cả bốn khía cạnh căn bản của Chánh Kiến.
Khi đã tự mình thấy được Tứ Diệu Đế diễn biến như thế nào trong trường
hợp này, chúng ta cũng đoán được chúng sẽ vận hành ra sao trong cuộc đời
nói chung. Do đó bánh xe trí tuệ sẽ được tiếp tục quay vòng.
Tóm Lược Về Chánh Kiến
Những điều sau đây nhằm giúp ta đạt được hạnh phúc thông qua Chánh
Kiến:
• Chánh Kiến giúp ta hành động trong sự hiểu biết về nhân quả và Tứ Diệu
Đế.
• Tuân theo luật nhân quả, hành động một cách khôn khéo sẽ đem đến
những kết quả tốt đẹp và hành động bất thiện sẽ đưa đến những kết quả
xấu.
• Bất cứ hành động nào phát xuất từ tâm tham, sân, hay si đều đưa đến đau
khổ, do đó là các hành động bất thiện hay sai trái.
• Bất cứ hành động nào không bị ảnh hưởng của tâm tham, sân, hay si, sẽ
đem đến hạnh phúc, do đó là hành động thiện hay đạo đức.
• Tứ Diệu Đế giải thích về khổ, nguồn gốc của khổ, sự chấm dứt của khổ và
Bát Chánh Đạo, con đường đưa đến sự chấm dứt của khổ.
• Chấp nhận sự thật về khổ giúp ta nhận ra được chân hạnh phúc.
• Sinh, già, bệnh, chết; phải rời xa những gì ta yêu và phải ở cạnh điều ta
ghét; muốn cái ta không được và được cái ta không muốn -tất cả đều là khổ.
• Khổ phát sinh khi ta không chấp nhận vô thường, bản chất khổ, và tính
chất vô ngã của vạn pháp.
• Ái dục là nguồn gốc sâu xa của khổ. Ta càng tham ái bao nhiêu, thì càng
khổ bấy nhiêu.
• Ta phải chịu trách nhiệm cho lòng tham ái và những hành động có chủ
đích của mình. • Khi biết chấp nhận trách nhiệm đối với hậu quả của các hành động có chủ
tâm, thì ta sẽ có thể chuyển đổi hành động của mình.
• Khổ có thể được đoạn trừ.
• Tám bước trên con đường đưa đến hạnh phúc của Đức Phật (Bát Chánh
Đạo) chỉ bày cho ta các phương cách để đoạn diệt khổ và đạt được hạnh
phúc toàn vẹn.
Chánh Niệm có thể giúp chúng ta liễu tri Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, con
đường đưa đến hạnh phúc.
72
CHÁNH TƯ DUY (BƯỚC 2)
Tư duy có thể khiến ta đau khổ hay hạnh phúc, điều đó ai cũng biết. Thí dụ
bạn đang ngồi dưới gốc cây vào một ngày mùa xuân êm đẹp. Không có gì
đặc biệt xảy ra, trừ làn gió nhẹ đang vờn trên mái tóc, tuy nhiên tâm bạn
đang ở một nơi thật xa vời. Có thể bạn đang nhớ đến một ngày mùa xuân
của vài năm trước đó khi bạn đang khổ. Bạn vừa mất việc, thi rớt, hay chú
chó cưng của bạn đi lạc mất. Ký ức đó khiến bạn trở nên lo lắng. "Nếu tôi lại
mất việc thì làm sao đây? Tại sao tôi lại có thể nói như vậy với người đó?
Chắc chắn là tôi phải nghe đầy lỗ tai vì chuyện này. Giờ thì tôi thực sự khổ
rồi! Làm sao tôi có tiền để trả các món nợ?"
Lo lắng này kéo theo lo lắng khác, rồi chuyện kia lây sang chuyện nọ. Chẳng
bao lâu bạn sẽ cảm thấy cuộc đời bạn đang rối tung lên, nhưng tất cả những
điều này xảy ra khi bạn đang ngồi dưới gốc cây!
Sự hoang tưởng, lòng sợ hãi và các loại suy nghĩ bám víu khác là một vấn đề
lớn đối với chúng ta. Ai cũng thường có khuynh hướng trói buộc mình vào
những cách suy nghĩ không lành mạnh -những thói quen đã ăn sâu trong
tiềm thức, khiến ta phải lăn theo các dấu mòn xưa cũ dẫn đến khổ đau.
Bước thứ hai trên con đường đạo của Đức Phật chỉ bày cho chúng ta một lối
thoát khỏi các thói quen này, một phương cách để hướng tư tưởng của ta
theo chiều tích cực và ích lợi. Khi chúng ta bắt đầu hiểu sự vật một cách
đúng đắn -với chánh niệm về các điểm quan trọng trong bước một (Chánh
kiến) của Bát thánh đạo- thì dĩ nhiên tâm ta sẽ chảy một cách tự nhiên theo
chánh tư duy. Tư duy ở đây không chỉ là các tư tưởng mà bất cứ trạng thái
tâm có chủ đích nào. Khi đã hiểu tham ái là cội nguồn của khổ đau, thì ta
cũng biết rằng các tư tưởng kết nối với tham, sân luôn đưa đến đau khổ.
Chánh tư duy bao gồm việc buông bỏ các tư tưởng tiêu cực, như là bám víu,
sân hận, tàn nhẫn, và thay thế chúng bằng các tư tưởng thiện, như là buông
xả, từ bi, và thương yêu. Các tư tưởng thiện này vận hành để đối trị tâm
bám víu, lo âu, và giúp ta tiến bước trên con đường đưa đến hạnh phúc dài
lâu.
73
Buông xả
Đối nghịch với tâm tham hay bám víu là buông xả. Hãy nghĩ đến điều đó
như sự bố thí trong ý nghĩ cao thượng nhất. Trên đường tu theo Đức Phật, ta
sẽ có cơ hội để bố thí hay buông bỏ tất cả mọi thứ đã níu giữ ta lại, đã ngăn
trở ta đạt được mục đích của hạnh phúc tối thượng -sự sở hữu, con người,
niềm tin, quan điểm, và ngay cả sự bám víu vào chính thân và tâm.
Khi nghe những điều này, người ta bắt đầu lo ngại. Họ sợ rằng khi tuân
theo giáo lý của Đức Phật, họ phải từ bỏ tất cả để gia nhập tăng đoàn. Dầu
việc trở thành một tỳ kheo hay tỳ kheo ni thật sự là một cách để thực hành
bố thí, tuy nhiên đa số chúng ta vẫn có thể thực hành hạnh bố thí, buông xả
ngay trong cuộc sống gia đình đầy bận rộn. Những gì chúng ta cần xả bỏ
không phải là của cải vật chất hay gia đình, bè bạn của chúng ta, mà đúng
hơn là cảm nhận sai lầm rằng những thứ đó thuộc sở hữu của ta. Chúng ta
cần xả bỏ thói quen bám víu vào người và của cải vật chất cũng như các
quan niệm, ý kiến, niềm tin trong cuộc đời ta.
Bố Thí Vật Chất
Buông xả là một quá trình tiệm tiến. Trước khi có thể thực sự xả bỏ bất cứ
thứ gì, chúng ta phải vun trồng tâm bố thí. Ta thực hiện điều đó bằng cách
suy nghĩ thật thấu đáo về ý nghĩa của hạnh bố thí, tâm buông xả, và bằng
cách nhìn nhận những ưu và khuyết điểm của việc thực hành này. Hãy bắt
đầu với việc bố thí dễ nhất, đó là bố thí của cải vật chất.
Trước hết hãy xem tâm có thể xua khiến ta không thực hiện hành bố thí như
thế nào. Ta thường tự nhủ rằng để có thể bố thí, trước hết ta phải thật dư
giả. "Hãy đợi đến khi tôi giàu có, rồi tôi sẽ xây nhà cho kẻ không nơi nương
tựa, xây bệnh viện và xây các trung tâm thiền hoành tráng. Lúc đó, tôi sẽ
giúp được biết bao người!" Kết quả là chúng ta thu thập, tích lũy, và đầu tư
chỗ này, chỗ kia. Khi đồng vốn tăng trưởng, chúng ta lại càng bận rộn lo
lắng và càng bám víu hơn vào những gì ta có. Dường như ta không còn thì
giờ để thực hành hạnh bố thí nữa.
Một cái bẫy khác của tâm là đính kèm thêm một động lực bên ngoài trong
việc bố thí. Tặng cho ai một món quà, chúng ta khám phá ra, điều đó khiến
ta vui hơn. Đôi khi việc tặng quà còn khiến ta vui hơn là người được nhận
74
quà. Hành động bố thí khiến ta cảm thấy rất tự hào. Bản ngã ta được đề cao
khi món quà đắt giá hay đẹp đẽ thế nào, khi món quà thể hiện được sự khéo
chọn lựa hay khiếu thẫm mỹ của ta ra làm sao. Hơn thế nữa, ta còn có thể
âm thầm nghĩ rằng người được quà giờ phải mang nợ ta. Chúng ta còn có
thể sử dụng sự rộng lượng thái hóa của mình để hạ thấp người nhận. Khi bố
thí cho ai một thứ gì, yếu tố của việc tìm kiếm niềm vui cũng thường có
mặt. Bố thí để ta cảm thấy hài lòng, để cho ai đó nghĩ tốt về ta hay mang ơn
ta, làm hỏng đi hạnh bố thí của ta.
Một hình thức bố thí kém thiện xảo hơn nữa xảy ra khi chúng ta bố thí để
xoa dịu cảm giác đau đớn. Thí dụ một gia đình có thể đóng góp tiền bạc để
xây công viên hay nhà cho cộng đồng được đặt theo tên một người thương
yêu đã mất của gia đình. Món quà này có thể là một cách để chuyển sự bám
víu của họ đối với người thân thành ý tưởng xây dựng một công trình lâu
bền. Tâm bố thí chân thật buông xả không chỉ của cải, vật sở hữu mà cả sự
bám víu vào người đã chết và vào cảm giác của khổ đau hay sân hận. Tôi
biết có một cặp vợ chồng giàu có đã bố thí hết tất cả tài sản mà họ có sau cái
chết của đứa con trai độc nhất của họ. Dầu biểu hiện ra ngoài là họ đóng
góp tiền cho các cơ sở từ thiện, nhưng thực sự là họ đã bố thí với lòng sân
hận. Họ muốn dập tắt cảm giác đau đớn vì mất con bằng cách tự hành phạt
mình. Các tu viện và cơ sở từ thiện có thể được nhiều lợi lộc từ các món quà
này nhưng người bố thí thì không hoàn toàn được ích lợi. Mặc khác, cũng có
người bố thí như thế để chuyển hóa nỗi đau khổ của họ thành lòng từ bi,
thương yêu. Sự bố thí này thì thiện xảo và sẽ làm lành được những vết
thương.
Cách bố thí tốt nhất là khi chúng ta không mong đợi sự đáp trả nào, ngay cả
một lời cám ơn. Chúng ta bố thí khi tâm đã tự tại, đã có tất cả để được hạnh
phúc. Những sự bố thí như vậy được thúc đẩy bởi một cảm giác viên mãn,
đầy đủ, chứ không phải vì đau khổ, mất mát. Bố thí một cách ẩn danh,
không cần biết người nhận là một cách bố thí tuyệt vời. Âm thầm bố thí,
không làm đình làm đám, sẽ giảm thiểu lòng tham dục và tâm bám víu của
ta đối với những của cải mà ta sở hữu.
Hình thức cao thượng nhất của việc bố thí vật chất xảy ra khi chúng ta giúp
đỡ người khác dầu phải nguy hiểm đến tánh mạng của mình. Xem tin tức
truyền hình có lần tôi thấy một người đàn ông đã làm việc này sau khi có
75
một tai nạn khủng khiếp xảy ra. Đó là vào một ngày mùa đông lạnh lẽo của
năm 1983 khi chiếc máy bay rời Washington D.C. để đi Florida đã không
bay lên được, vì tuyết phủ trên cánh máy bay. Nó va vào cầu số 14. Hầu hết
mọi người trên máy bay đều tử nạn. Một số nạn nhân bị rơi xuống dòng
sông Potomac phủ đầy băng, nước lạnh cóng.
Ở điểm nơi các nạn nhân đang cố trèo ra khỏi nước, lên các tảng băng, một
chiếc máy bay cứu hộ tiến đến và thả dây cáp xuống trong tầm với của một
người đàn ông. Nhưng thay vì nắm sợi dây để được cứu sống, anh ta đã
giúp một phụ nữ nắm lấy sợi dây. Bà ta được kéo lên an toàn. Khi chiếc máy
bay vòng trở lại, dầu người đàn ông đang lạnh cóng, ông ta lại chuyền dây
cáp đến cho một phụ nữ khác nữa, và người này cũng được cứu. Khi chiếc
trực thăng vòng trở lại lần thứ ba, người đàn ông đó đã chết vì lạnh giá.
Ta không cần một hoàn cảnh như vậy để hành động một cách anh hùng, mà
ta cũng không cần sở hữu một gia tài mới có thể thực hành hạnh bố thí. Tất
cả những gì ta cần là ý muốn được cống hiến, dầu chỉ là những việc nhỏ.
Với suy nghĩ đó, ta có thể, thí dụ, dành thời gian cho người khác, giúp họ
vượt qua sự cô đơn. Tốt hơn nữa, ta có thể giúp họ chế ngự đau khổ bằng
cách chia sẻ với họ những gì ta đã học được trên con đường đạo của Đức
Phật và những gì ta biết về sự thực hành chánh niệm và thiền quán. Sự chia
sẻ này quý báu hơn tất cả mọi quà tặng khác.
Bám Víu Vào Người, Quá Khứ, Và Quan Điểm
Giờ chúng ta đã biết, phiền não, khổ đau phát sinh từ sự bám víu vào bất cứ
điều gì - sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Buông bỏ được khuynh hướng bám
víu vào người, kinh nghiệm, và quan điểm thì còn khó hơn việc bố thí
những của cải vật chất nhiều, nhưng làm được điều này sẽ mang lại hạnh
phúc tối thượng cho ta.
Bám víu vào thân sắc có hai khía cạnh. Dễ nhận thấy nhất là việc chúng ta
bám víu vào người khác trong cuộc đời mình. Bám víu không phải là
thương yêu. Nó không giống như khi bạn quan tâm đến ai và muốn cho
người đó được hạnh phúc. Đúng hơn, đó là lòng ghen tỵ hay sự chiếm hữu
mù quáng muốn sở hữu người khác. Thí dụ người chồng hay vợ muốn sở
hữu người phối ngẫu của mình, hay những người bạn độc đoán, muốn kiểm
76
soát tất cả đến nỗi họ làm chết cả tình bằng hữu. Thực hành tâm bố thí
trong liên hệ giữa con người với nhau có nghĩa là tin tưởng vào người khác
và để cho họ được có không gian, tự do và tự trọng.
Tuy nhiên, ngay trong những sự liên hệ tốt đẹp có thể cũng có yếu tố của
bám víu. Tất cả mọi cặp vợ chồng hạnh phúc đều hy vọng rằng hôn nhân
của họ sẽ trường tồn. Dầu vậy, yếu tố của sự sợ hãi luôn có mặt: "Anh ấy sẽ
bỏ đi." "Vợ mình có thể lìa đời trước mình." Nghĩ đến những điều này có
thể khiến ta rất đau đớn, nhưng ta phải nhớ rằng mọi cuộc hôn nhân, dầu
hạnh phúc tới đâu, cuối cùng cũng chia xa. Ngay nếu như một cặp vợ chồng
sống với nhau năm mươi năm và cùng ra đi với nhau trong sự bình an, thì ở
thời điểm của cái chết, họ cũng phải chia xa và đi theo con đường riêng của
họ tùy theo các hành động trong quá khứ của họ.
Một hình thức bám víu vi tế hơn đối với thân là sự chấp thân và nghĩ rằng ta
làm chủ nó. Dầu hiện giờ cơ thể ta khỏe khoắn, lành mạnh tới đâu, ta cũng
biết rằng với thời gian, tuổi tác nó sẽ trở nên yếu đuối, bệnh hoạn và hoại
diệt. Hơn nữa, ta không thể kiểm soát điều gì sẽ xảy đến cho thân. Ta không
thể biết giây phút kế tiếp ta sẽ vui hay buồn. Mà ta cũng không thể kiểm
soát dòng tư tưởng nào sẽ đi qua đầu ta. Thí dụ, khi nghe đến từ 'chó', ta cố
gắng không nghĩ đến hình ảnh của một con chó có được không? Chỉ có thế
mà ta đã không kiểm soát được.
Chúng ta cố gắng tự bảo vệ chống lại sự tấn công ào ạt của những đổi thay
không ngừng bằng cách dựng nên các khái niệm, hình ảnh và chấp chặt vào
đó - vào nhà của tôi, xe của tôi, công việc của tôi, người tình của tôi, thân
của tôi- như thể tất cả những thứ này có một bản thể mà ta có thể nương tựa
vào. Nguyên nhân sâu xa của sự bám víu này là lòng sợ hãi. Nhưng dầu ta
có nắm giữ chúng chặt tới đâu, với thời gian, tất cả mọi thứ trên thế gian này
đều biến chuyển, đổi thay. Tất cả rồi sẽ vỡ tan như kiếng. Lúc đó ta sẽ đau
khổ dường bao!
Sự sở hữu, bám víu, hay chấp chặt vào bất cứ gì điều gì cũng khiến cuộc
sống của ta thêm phiền não. Sử dụng một sở hữu vật chất mà không bám
víu vào nó giúp ta tránh được đau khổ khi nó bị mất, bể, hay bị đánh cắp.
Cũng thế, bám víu vào gia đình, bạn bè hay cảm nhận về ngã sở của ta -chức
vị hay nghề nghiệp, nguồn gốc gia đình, vị trí trong xã hội- sẽ khiến ta khổ
77
đau khi các khái niệm này vỡ tan một cách không thể tránh được. Khi không
bám víu, tâm ta luôn được tự tại. Tâm trạng thoải mái này bao bọc, che chở
ta, và làm giảm bớt sự căng thẳng, bồn chồn, lo âu, và sợ hãi của ta.
Muốn phát triển thái độ không bám víu, trước hết, ta phải dành một số thời
gian đơn độc một mình. Đa số chúng ta bám víu vào việc được ở bên người
khác vì sợ cô đơn. Nhưng một mình không có nghĩa là cô đơn. Đúng hơn,
chính sự đơn độc tạo ra không gian cho chúng ta suy nghĩ, quán tưởng,
thiền định và giải thoát tâm khỏi sự ồn ào và bám víu. Khi lòng tham, sân,
và si của ta giảm thiểu qua sự thực tập chánh niệm và thiền quán, thì khả
năng có mặt với người mà không bám víu vào họ được tăng thêm sức mạnh.
Khi tâm tự tại, thì dầu giao tiếp hay có mặt bên bao người, ta vẫn không
bám víu, do đó tránh được sự khổ đau do tâm bám víu mang đến.
Mỗi ngày Đức Phật đi bộ nhiều dặm đường với hàng ngàn tăng, ni và cư sĩ
chung quanh người. Một số sinh sống trong tăng đoàn với Đức Phật. Số
khác đến tham vấn với Ngài. Số nữa đến thưa hỏi về những vấn đề của họ.
Hay để tranh luận với Đức Phật, hoặc đơn thuần chỉ đến để nghe Pháp.
Dầu ở giữa đám đông, Đức Phật vẫn giữ hạnh đơn độc riêng mình. Thái độ
không bám víu của Ngài thật toàn vẹn. Thỉnh thoảng, một số các tăng ni hay
cư sĩ, đệ tử của Phật, trải qua thời gian sống độc cư trong rừng, hầu vẹn toàn
sự thực hành tâm buông xả của họ. Nhưng họ không sống mãi trong rừng.
Khi họ đã buông bỏ được tâm bám víu, họ tập sống với người khác trong lúc
vẫn duy trì một trạng thái tâm vững vàng, tự tại.
Trạng thái tâm đó được gọi là xả ly. Hạnh xả ly không chỉ được áp dụng cho
tăng ni mà còn cho tất cả những ai yêu thích cuộc sống đơn độc hay người
muốn sống không có những sự ràng buộc. Tất cả những người thực hành
hạnh xả ly, ngay chính các vị tăng ni, cũng phải sống với ai đó một khoảng
thời gian nào đó. Chánh tư duy giúp chúng ta có được một trạng thái tâm lý
vững chãi để ta không bị những sự thay đổi của hoàn cảnh sống hay con
người phiền nhiễu ta. Theo gương Đức Phật, ta tu tập để trong tâm luôn
duy trì hạnh xả ly.
Buông xả cũng đòi hỏi chúng ta phải buông bỏ sự bám víu đối với niềm tin,
quan niệm hay tư tưởng của chúng ta. Điều đó rất khó. Ta có khuynh hướng
đánh đồng sự cảm nhận về những gì chúng ta suy nghĩ đối với nhiều vấn đề khác nhau, với một cá thể riêng biệt -để tự xác định mình. Rồi ta lại bị kẹt
vào trong sự xác định này đến nỗi ta cảm thấy cá nhân mình bị tấn công, khi
có ai đó chỉ trích vị ứng cử viên chính trị mà ta ủng hộ, hoặc phê bình ý kiến
của chúng ta về một số vấn đề của các chính sách cộng đồng. Tuy nhiên lý
tưởng, ý kiến, hay quan điểm của ta cũng tuân theo luật vô thường. Hãy
nhớ lại những điều bạn đã tin tưởng ở tuổi mười sáu hay ba mươi, và bạn sẽ
thấy rằng các quan niệm cá nhân của bạn đã thay đổi như thế nào.
Trên một bình diện rộng hơn, xuyên suốt lịch sử nhân loại trên khắp thế
giới, chiến tranh đã xảy ra dưới danh nghĩa của các ý kiến hay quan điểm
mà người ta tôn thờ. Sự sát hại mà nhân loại chúng ta làm để bảo vệ các sở
hữu vật chất thì không đáng kể nếu so sánh với những sự giết chóc mà ta
làm để bảo vệ những quan điểm không chánh đáng, như là sự phân biệt
chủng tộc hay chủ nghĩa tôn giáo mù quáng. Hãy thử xét xem những niềm
tin được tôn thờ đã dẫn đến chiến tranh, chúng có xứng đáng được bảo vệ
bằng những chi phí khủng khiếp của chiến tranh.
Buông xả các ý nghĩ, lời nói, và hành động bất thiện tạo ra không gian cho
chúng ta vun trồng các thiện pháp như là từ bi, hỷ, bất bạo động, và xả ly.
Ngay đối với các thiện pháp, ta cũng không nên quá bám víu vào chúng.
Tâm buông xả đòi hỏi chúng ta phải vượt lên trên sự phân biệt tốt, xấu. Đức
Phật đã dạy, cuối cùng rồi ngay cả giáo lý của Ngài, chúng ta cũng phải để
qua một bên: "Giáo lý này giống như chiếc bè, phải được để lại một khi bạn
đã qua sông. Nếu như ta phải buông xả cả những trạng thái tâm thanh tịnh
do giáo lý này mang đến, thì đối với các trạng thái tâm bất thiện, ta còn phải
buông bỏ nhiều hơn thế nữa!" (M 22)
Tôi không có ý nói rằng bạn sẽ có thể buông bỏ tất cả mọi bám víu ngay lập
tức hay sẽ được giải thoát chỉ trong một thời gian ngắn. Tìm kiếm "một sự
giác ngộ ngay tức khắc" có thể chỉ là một sự phô trương bản ngã. Khi tôi đi
hoằng pháp, thỉnh thoảng cũng có người đến gặp, thưa trình rằng họ đã đạt
được giác ngộ rất nhanh chóng. Tôi trả lời bằng cách lặp lại lời diễn tả của
Đức Phật về những đặc tính của một người đã đạt đến các giai đoạn của giác
ngộ. Vì những người này không có những đặc tính đó, họ trở nên rất thất
vọng, đôi khi nổi sân cả với tôi vì phản ứng của tôi không làm đẹp lòng họ.
Sự bám víu đã tiềm ẩn trong tâm thức chúng ta và tăng trưởng qua nhiều
đời, nhiều kiếp. Không thể buông bỏ nó một cách nhanh chóng, dễ dàng
như thế. Tuy nhiên, chúng ta không phải đợi qua nhiều kiếp sống mới có thể
bắt đầu. Có sự hiểu biết đúng đắn, lòng kiên nhẫn, tinh tấn, và chánh niệm,
là chúng ta có thể bắt đầu tự giải thoát khỏi những ràng buộc, kể cả việc có
thể đạt được sự giác ngộ viên mãn ngay trong kiếp sống này. Để đạt được
hạnh phúc, ngay bây giờ ta phải bắt đầu phát triển chánh tư duy để buông
xả các bám víu và thay thế chúng bằng tâm từ bi rộng mở, nhu nhuyễn, và
buông xả.
Đối Trị Lòng Sợ Hãi
Khi bắt đầu thực hành chánh niệm về tâm buông xả, chúng ta thường rơi
vào trạng thái sợ hãi. Sợ hãi phát sinh vì sự thiếu tự tin, quá tình cảm hay
quá tham đắm vào sự suy nghĩ, quan điểm, cảm thọ, hay các đối tượng vật
lý, kể cả thân này. Cũng có thể là do chúng ta tiếp cận với một điều gì đó
mà ta không hiểu hay không biết kết quả cụ thể của nó.
Thí dụ, bạn vừa được biết mình bị ung thư. Bạn đã lên lịch để mổ, để sau đó
bác sĩ sẽ quyết định là bạn có cần thêm phương pháp chữa trị gì khác không.
Giờ bạn đang cố gắng hành thiền. Nhưng có quá nhiều tư tưởng lộn xộn
trong tâm bạn. Các ý nghĩ và cảm xúc đan xen nhau, khiến bạn trở nên bực
bội, buồn bã, và rất sợ hãi. Bạn sẽ làm gì bây giờ?
Khi ngồi thiền, bạn hãy quán sát mỗi trạng thái tâm phát khởi. Nếu có quá
nhiều tư tưởng và cảm xúc dâng trào cùng lúc, hãy cố gắng phân loại chúng:
"Điều gì sẽ xảy ra cho tôi?" -đó là tâm sợ hãi. "Cô y tá đó sao dám nói với
tôi như thế!" - tâm sân hận. "Gia đình đang phụ thuộc vào tôi! Tôi không
thể bệnh! Tôi không thể chết!" -tâm bám víu. "Bạn tôi cũng bệnh thế này.
Vợ anh ấy vẫn còn khóc khi nhắc đến anh ấy" -tâm phiền não. "Tôi ghét
những mũi kim chích!" -tâm chống đối. "Ai sẽ đưa tôi đi tái khám đây? -
tâm bồn chồn, lo lắng. "Đã có bao nhiêu người sống sót từ căn bệnh này?" -
tâm sợ hãi.
Khi bạn bắt đầu phân loại chúng, tư tưởng và cảm xúc của bạn dễ quản lý
hơn. Bạn không còn bị vướng mắc vào những sự sợ hãi mà tâm bạn đã vẽ
vời ra, và bạn có thể bắt đầu suy nghĩ một cách có lý hơn. Bạn có thể trấn an
80
tâm bằng những ý nghĩ như -khả năng và lòng tận tụy của các vị bác sĩ và y
tá, những tiến bộ mới nhất trong việc chữa trị căn bệnh này, nhiều người bị
chẩn đoán bệnh giống như bạn, vẫn sống cuộc sống bình thường.
Khi bạn phản công lại với những tư tưởng khiến bạn lo âu sợ hãi như thế, là
bạn đang thực hành chánh niệm bằng hành động. Bạn có thể thấy tâm có
nhiều trò đến đâu, sử dụng ý nghĩ để tạo ra sợ hãi và sợ hãi để tạo ra thêm
nhiều ý nghĩ nữa. Đây có thể cũng là một cơ hội tốt để bạn tự quán chiếu.
Bạn có thể quán xét lại những hành động trong quá khứ, những lúc do sợ
hãi bạn đã hành động thiếu khôn khéo như thế nào. Từ đó bạn quyết giữ
gìn chánh niệm, không để cho sự sợ hãi khiến bạn hành động như thế nữa
trong tương lai.
Khi tâm đã an tĩnh, sáng suốt, bạn có thể trở về quán sát hơi thở hay một đối
tượng thiền nào đó. Tuy nhiên phải biết rằng các tư tưởng, ý nghĩ sợ hãi sẽ
lại phát sinh trong các thời khóa bạn tọa thiền. Với kinh nghiệm đã có được,
bạn có thể bỏ qua nội dung cụ thể của các suy nghĩ này, mà chỉ quán sát
những gì xảy ra cho tất cả các ý nghĩ và cảm thọ của bạn. Bạn sẽ nhận thấy
rằng mọi tâm pháp phát sinh rồi đạt đến đỉnh điểm. Không cần biết nó
mãnh liệt đến thế nào, nhưng nếu bạn trụ vào đó -như thể nó là người bạn
muốn cầm tay để dẫn dắt bạn đi qua lúc khó khăn- bạn cũng sẽ thấy mọi
tâm pháp đều qua đi. Giờ thì bạn đã ý thức được tiến trình tư duy, bạn đạt
được sự tự tin rằng không cần biết một dòng tư tưởng đáng sợ hãi như thế
nào có thể xuất hiện, rồi nó cũng phải qua đi.
Một khi bạn đã hoàn toàn có thể đối phó với nỗi sợ hãi cùng cực, thì bạn sẽ
không còn nhìn sợ hãi giống như trước nữa. Bạn biết rằng sợ hãi cũng chỉ là
một trạng thái tâm bình thường đến rồi đi. Nó không có bản thể và không
thể làm tổn hại bạn. Như thế thì thái độ của bạn đối với sợ hãi cũng bắt đầu
nhẹ đi. Bạn biết rằng bạn có thể quán sát và buông bỏ bất cứ tâm pháp nào
có thể phát sinh. Khi bạn buông bỏ được lòng sợ hãi về sự sợ hãi, là bạn đạt
được một cảm giác giải thoát.
Phương pháp đó có thể áp dụng cho các trạng thái tâm tiêu cực khác, kể cả
ký ức, sự tưởng tượng, mơ mộng hay lo lắng về những vấn đề bạn phải đối
mặt. Đôi khi bạn có thể sợ hãi về những ký ức đau đớn vì bạn nghĩ rằng bạn
81
không thể đối mặt với chúng. Nhưng giờ bạn biết rằng mình có thể đối phó
với bất cứ trạng thái tâm nào mà trước đây bạn muốn chế ngự.
Công phu tu tập chánh niệm giúp bạn biết rằng không phải tự các trạng thái
tâm khiến bạn phiền não, mà chính là thái độ của bạn đối với chúng. Có thể
bạn nghĩ rằng các trạng thái tâm tạo nên cá tính của bạn, là một phần của sự
hiện hữu của bạn. Rồi bạn cố gắng xua đẩy những thứ không dễ chịu như
thể chúng là những bộ phận xa lạ. Nhưng thực sự bạn không thể xua đuổi
bất cứ thứ gì, vì trước hết, chúng không phải là của bạn. Phản ứng tốt nhất
là thường xuyên thực hành quán sát tâm một cách rốt ráo, không phản ứng
bằng sự bám víu hay ghét bỏ đối với bất cứ tâm pháp nào, mà tinh tấn tu tập
để giải thoát tâm khỏi tất cả mọi bất thiện pháp.
Tình thương yêu
Khi buông bỏ được các trạng thái tâm tiêu cực, bạn sẽ tạo ra được không
gian trong tâm để vun trồng những tư tưởng tích cực. Chánh tư duy có
nghĩa là chúng ta thay thế những tư tưởng sân hận, thù ghét bằng tư tưởng
của lòng thương yêu. Lòng thương yêu, hay từ bi (metta), là một khả năng
bẩm sinh. Đó là một cảm giác ấm cúng thấm đẫm tình đồng loại, một cảm
giác tương quan với tất cả mọi chúng sanh. Vì chúng ta mong cầu hòa bình,
hạnh phúc, niềm vui cho bản thân, chúng ta biết rằng tất cả mọi chúng sanh
khác cũng đều mong muốn những thứ này. Tình thương yêu tỏa sáng cả thế
giới với ước muốn rằng tất cả mọi chúng sanh đều được hưởng một cuộc
sống thỏa mái trong sự hòa hợp, tôn trọng lẫn nhau, và đầy đủ vật chất.
Dầu tất cả chúng ta đều có hạt giống từ bi bên trong, nhưng ta phải cố gắng
để vun trồng nó. Khi tâm ta tràn đầy lo lắng, gúc mắc, căng thẳng, và sợ hãi,
thì khả năng thương yêu bẩm sinh khó thể thăng hoa. Để dung dưỡng hạt
giống thương yêu, ta phải tập thư giãn. Trong trạng thái tâm an tịnh, như
khi ta thực hành thiền chánh niệm, ta có thể quên đi những bất đồng trong
quá khứ với người và tha thứ lỗi lầm, sự yếu đuối, xúc phạm của họ đối với
ta. Lúc đó tình thương yêu tự nhiên sẽ tăng trưởng trong ta.
Cũng giống như trường hợp của tâm xả, từ bi cũng bắt đầu bằng một ý
nghĩ. Thông thường, tâm ta tràn đầy quan điểm, ý kiến, niềm tin, suy nghĩ.
Chúng ta đã được điều kiện hóa như thế bởi văn hóa, truyền thống, giáo
82
dục, tương quan và quá khứ của chúng ta. Từ những điều kiện tư tưởng đó
chúng ta tạo dựng nên các thành kiến và phán đoán. Những suy nghĩ hạn
hẹp này bóp nghẹt tình thương yêu sẵn có trong ta. Tuy nhiên, trong khuôn
khổ của sự suy nghĩ sai lầm này, ý nghĩ về sự tương quan thân thiện với
người đôi khi cũng xuất hiện. Chúng ta thoáng nhìn thấy nó như khi ta
thoáng nhận ra cảnh vật qua tia chớp của sấm sét. Khi ta tu tập buông thư,
xả bỏ mọi tiêu cực, ta bắt đầu nhận ra được các thành kiến phân biệt của
chúng ta và không để chúng làm chủ tâm mình. Khi đó tâm từ bi, thương
yêu mới bắt đầu tỏa sáng, hiển lộ sức mạnh và vẻ đẹp thực sự của nó.
Tình thương yêu mà chúng ta muốn vun trồng không phải là thứ tình yêu
mà ta thường biết đến. Khi nói thương yêu ai, trong tâm tưởng chúng ta
thường xuất hiện một tình cảm bị điều kiện hóa bởi các hành động hay đức
tính của người đó. Có thể là ta ngưỡng mộ vẻ bề ngoài, cách cư xử, sự suy
nghĩ, giọng nói hay thái độ của người đó. Nếu các điều kiện này thay đổi,
những gì ta gọi là tình thương yêu có thể cũng thay đổi theo. Trong những
trường hợp cực đoan, tình thương yêu đó còn có thể biến thành hận thù.
Tính yêu-ghét này trùm phủ mọi tình cảm bình thường của ta. Ta yêu người
này và ghét kẻ kia. Hay giờ thì yêu, sau lại ghét. Hoặc khi muốn yêu thì
yêu, lúc muốn ghét thì ghét. Hay ta yêu khi mọi thứ đều diễn tiến tốt đẹp,
nhưng khi có sự cố gì thì lại ghét.
Nếu tình thương yêu của chúng ta thay đổi theo thời gian, không gian, và
hoàn cảnh như thế, thì cái mà ta gọi là tình yêu không phải là tình thương
yêu chân chánh. Đó có thể là nhục dục, lòng ham muốn được đảm bảo về
vật chất, ước muốn được thương yêu, hay một số hình thức ngụy tạo khác
của lòng tham ái. Tình thương yêu chân chính không có một động lực ngoại
tại nào. Nó chẳng bao giờ đổi thành ghét khi hoàn cảnh thay đổi. Nó chẳng
bao giờ khiến ta trở nên hận thù nếu tình yêu của ta không được đáp trả.
Tình thương yêu chân chánh thúc đẩy chúng ta luôn đối xử tử tế với tất cả
mọi người, và nói những điều tốt lành về người, dầu họ có mặt hay vắng
mặt.
Khi đã thực sự giác ngộ, bạn sẽ yêu thương tất cả vạn vật trong vũ trụ
không phân biệt. Tình thương yêu đó không giới hạn, không biên giới. Bao
gồm không chỉ tất cả mọi chúng sanh có mặt trong hiện tại, mà ta còn mong
83
cho tất cả, không có sự phân biệt hay thiên vị nào, được hạnh phúc trong
tương lai vô cùng tận.
Hãy để tôi chia sẻ với bạn câu chuyện về một hành động từ bi có ảnh hưởng
sâu rộng đến nhiều người.
Có một bà lão và con gái sống trong một ngôi nhà nhỏ ở Ấn Độ. Gần đó có
một vị thiền sư sống trong một túp lều nhỏ. Do lòng mến mộ, bà lão coi vị
tu sĩ như là con trai của mình và dạy con gái phải đối xử với vị ấy như là
anh ruột của mình. Mỗi sáng vị tu sĩ đều xuống làng để khất thực. Ông
không bao giờ quên dừng lại ở ngôi nhà nhỏ đó để thọ lãnh thực phẩm mà
bà lão và con gái cúng dường cho ông với tất cả lòng ngưỡng mộ và thành
kính. Mỗi chiều ông lại xuống làng để thăm viếng các vị thí chủ, khuyến
khích họ tu thiền và sống một cuộc sống an bình.
Một buổi chiều trên đường xuống làng, vị tu sĩ nghe được câu chuyện giữa
bà lão và con gái. Bà lão bảo con gái, "Con ơi, ngày mai anh con sẽ đến nhà
chúng ta khất thực. Đây là bơ sữa; đây là mật; đây là gạo, đây là gia vị; đây
là rau cải. Hãy chuẩn bị một bữa ăn thiệt ngon cho anh con."
Người con gái hỏi mẹ, "Thưa, ngày mai mẹ sẽ đi đâu?"
"Mẹ định vào rừng để tọa thiền cả ngày."
"Nhưng mẹ sẽ ăn gì?"
"Hôm nay còn lại một ít cơm, mẹ sẽ dùng để nấu cháo. Thế cũng đủ cho
mẹ rồi. Nhưng con phải nhớ làm một bữa ăn thật ngon cho anh con và cúng
dường khi anh đi ngang qua nhà."
Nghe được cuộc đối thoại này, vị tu sĩ nghĩ, "Bà lão này yêu thương và kính
trọng ta đến nỗi bà dạy con gái sửa soạn một bữa ăn thật ngon cho ta trong
khi bản thân bà chỉ ăn một ít cháo nấu từ phần cơm thừa còn lại. Ta không
xứng đáng nhận được bữa cơm ngon đó nếu ta không tu chứng được gì. Ta
phải tu tập sao cho xứng đáng với món quà đầy tình thương của bà lão. Đây
là lúc ta phải cố gắng không ngừng nghỉ để giải thoát bản thân khỏi những
trạng thái tâm bất thiện."
Vị tu sĩ trở về cất y áo lại. Ông quyết không xuống làng khất thực cho đến
khi đã tu chứng, đạt được tâm giải thoát. Ông ngồi xuống chiếu thiền với
những lời tự nguyện như sau: "Dầu cho máu tôi có khô đi. Dầu cho da thịt tôi có tan rã. Dầu cho thân này chỉ còn là bộ xương. Tôi sẽ không đứng dậy
cho đến khi đạt được giác ngộ hoàn toàn."
Với lời nguyện đó, vị tu sĩ tọa thiền suốt cả buổi chiều, cả đêm, và một phần
của buổi sáng hôm sau. Chỉ trước khi đến thời gian để ông đi khất thực, ông
đạt được mục đích của mình. Sau đó vị tu sĩ lại đấp y và đi xuống làng để
khất thực. Khi đến trước ngôi nhà nhỏ, người con gái đã cúng dường ông
một bữa ăn thịnh soạn.
Cô gái sốt ruột đợi mẹ về sau một ngày tọa thiền. Buổi chiều đó, ngay khi
người mẹ về đến nhà, người con gái đã chạy ra đón và bảo, "Mẹ ơi, con chưa
bao giờ thấy vị tu sĩ của chúng ta nghiêm trang, đỉnh đạt, rạng rỡ, thanh
tịnh, đẹp đẽ đến thế!"
"Con ơi, có lẽ vị ấy đã đạt được sự giải thoát, tự do thật sự khỏi tâm tiêu
cực. Chúng ta thật may mắn có được một vị tu sĩ như thế ở cạnh nhà.
Nhưng nếu thực sự kính trọng người, chúng ta phải đi theo con đường của
người. Từ bây giờ, chúng ta phải hành thiền một cách tinh tấn để chúng ta
cũng có thể đạt được cùng trạng thái đó."
Từ đó cả hai mẹ con đều tinh tấn hành thiền cho đến lúc họ cũng chứng
được các tầng thiền định. Nhiều dân làng noi theo gương họ và cũng chứng
đạt các tầng định. Đó là ảnh hưởng sâu rộng của lòng từ bi của bà lão. (MA
I 225)
Lòng Từ Bi Đối Với Kẻ Thù
Có người sẽ tự hỏi làm sao mà họ có thể từ bi đối với kẻ thù. Làm sao mà
họ có thể nói một cách chân thật, "Cầu cho kẻ thù của tôi được hạnh phúc,
bình an, sức khỏe. Cầu cho họ không bị những khó khăn hay hoạn nạn."
Câu hỏi này phát khởi từ sự suy nghĩ sai lầm. Người với tâm đầy phiền não
có thể cư xử, hành động xúc phạm hay làm hại đến ta. Do đó, ta coi họ là kẻ
thù. Nhưng thực sự ra không có ai là kẻ thù của ta cả. Chỉ có trạng thái tâm
tiêu cực của người đó gây ra vấn đề cho ta. Chánh niệm giúp chúng ta thấy
rằng các trạng thái tâm không thường hằng. Chúng chỉ tạm bợ, có thể sửa
đổi, có thể biến chuyển.
85
Cách tốt nhất để ta được an vui, hạnh phúc là giúp kẻ thù của mình giải
quyết các vấn đề của họ. Nếu tất cả các kẻ thù của ta đều được giải thoát
khỏi khổ đau, bất mãn, sân hận, nghi ngờ, căng thẳng, bực tức, thì họ không
có lý do gì để làm kẻ thù của ta cả. Một khi đã không còn những khổ đau,
thì kẻ thù cũng giống như bao người khác -một chúng sinh tuyệt vời.
Chúng ta có thể thực hành tâm từ bi đối với tất cả mọi người -cha mẹ, thầy
cô, thân quyến, bạn bè, người không thân thiện, người lạnh lùng, người gây
khó khăn cho ta. Không cần phải quen biết hay thân thiết với ai mới có thể
trải tâm từ bi đến với họ. Thật ra, đôi khi không biết rõ về họ lại dễ dàng
hơn. Tại sao? Vì nếu không biết họ, chúng ta có thể đối xử với tất cả mọi
người giống như nhau. Chúng ta có thể xem bao chúng sinh trong vũ trụ
như là những đốm sáng trong không gian và ước nguyện cho tất cả họ được
hạnh phúc, bình an. Mặc dù chỉ có ước muốn của chúng ta thì khó thể thành
sự thật, nhưng gieo trồng được ước nguyện rằng tha nhân có thể hưởng thụ
được tình thương yêu là một thiện ý có thể mang lại hỷ lạc cho tâm ta.
Nếu mọi người đều ước muốn cho người khác được hạnh phúc, được
thương yêu, thì chúng ta sẽ có được hòa bình trên thế giới. Giả sử có sáu tỷ
người trên thế giới, và mỗi người đều vun trồng ước nguyện này. Thì đâu
còn có ai để gieo hận thù? Sẽ không còn tranh đấu, không còn đánh nhau.
Mọi hành động đều đến từ tâm. Nếu tâm không trong sạch, thì hành động
theo sau tâm ý đó sẽ không trong sạch và tai hại. Điều ngược lại cũng đúng.
Như Đức Phật đã dạy chúng ta, ý nghĩ trong sạch về từ bi, tình thương thì
mạnh mẽ hơn hận thù, mãnh liệt hơn vũ khí. Vũ khí tàn phá. Nhưng tình
thương giúp con người sống trong hòa bình và hòa hợp. Vậy bạn thử nghĩ
điều gì sẽ mạnh mẽ hơn và sẽ tồn tại lâu hơn?
Đối Trị Sân Hận
Rào cản lớn nhất đối với lòng từ bi là sân hận. Khi lòng ta tràn đầy sân hận,
thì tâm không còn chỗ cho tình cảm thương yêu đối với bản thân hay đối với
người khác, không còn chỗ cho hòa bình hay tự tại. Mỗi người phản ứng với
sân hận theo cách riêng của mình. Người thì cố gắng để bào chữa cho các
cơn giận của mình bằng cách tự nhủ, "Tôi có quyền được giận." Người khác
thì chấp vào sự giận hờn của họ một thời gian dài, đôi khi hàng tháng hay
hàng năm. Họ cảm thấy rằng sự sân hận đó khiến họ rất đặc biệt, rất nguyên
86
tắc. Cũng có người lại biểu lộ lòng hận thù ra ngoài bằng những hành động
chống báng lại kẻ mà họ giận ghét. Không cần biết cách bạn thể hiện lòng
sân hận như thế nào, bạn có thể chắc chắn về một điều: tâm sân hận rút lại
làm hại bạn nhiều hơn là nó hại người bạn giận.
Bạn có để ý mình cảm thấy thế nào khi giận dữ không? Bạn có cảm nhận
được sự căng thẳng, khó chịu trong lồng ngực, bụng nóng bừng, mắt mờ đi
không? Có phải là đầu óc bạn trở nên tối tăm, lời nói trở nên cộc cằn, khó
nghe hơn không? Các bác sĩ bảo rằng thường xuyên biểu lộ sân hận mang
đến những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe của chúng ta -máu cao, ác
mộng, mất ngủ, đau dạ dày, hay ngay cả đau tim. Lòng sân hận cũng nguy
hại cho tâm không kém. Nói một cách thẳng thắng là sân hận khiến thân
tâm ta rất khổ sở.
Sân hận cũng làm rạn nứt các mối liên hệ tương quan với người. Bạn thường
tránh gặp người bạn đang giận, có đúng không? Ngược lại cũng thế, khi biết
bạn giận, người kia cũng tránh bạn. Không ai muốn quan hệ với người đang
trong cơn nóng giận. Người tràn đầy sân hận có thể rất vô lý, nhiều khi còn
nguy hiểm nữa.
Hơn thế nữa, sân hận thường không tác hại nhiều đến người bị giận. Trong
nhiều trường hợp, ta nóng giận với người đã xúc phạm ta, nhưng họ không
hề hay biết, nên không ảnh hưởng gì đến họ cả. Ngược lại, chính ta là người
phải đỏ mặt, phải lớn tiếng và tạo ra một cảnh tượng khó coi, khiến ta cảm
thấy rất khổ sở. Kẻ kình địch còn có thể diễu cợt sự giận dữ của ta. Có thái
độ quen giận hờn, oán trách có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, các mối
liên hệ, cách sống, và tương lai của chúng ta. Chính ta cũng có thể phải hứng
chịu những tai họa mà ta mong muốn xảy đến cho kẻ thù của ta.
Rõ ràng là sân hận có thể làm hại bản thân ta, vậy ta phải đối phó với nó
như thế nào? Làm sao ta có thể buông bỏ sân hận và thay thế nó bằng tâm
từ bi, tình thương yêu?
Để đối phó với sân hận, trước hết chúng ta phải quyết định tự kiềm chế
không hành động theo bản năng sân hận. Bất cứ khi nào tôi nghĩ về sự kiềm
chế, tôi lại nhớ đến con voi của cậu tôi. Khi tôi còn nhỏ, cậu tôi có một con
voi rất to và rất đẹp. Bạn bè và tôi thường thích chọc phá con vật này.
Chúng tôi thường chọi đá vào voi cho đến khi nó nổi xung lên. Con voi rất
87
to lớn, nó có thể giẫm nát chúng tôi nếu nó muốn. Nhưng thay vào đó, nó đã
làm một điều rất đáng ngưỡng mộ.
Một lần kia khi chúng tôi chọi đá, con voi dùng vòi để bẻ một cành cây nhỏ
khoảng cỡ độ một cây viết chì và đánh chúng tôi với cành cây nhỏ đó. Nó đã
bày tỏ một sự kiềm chế không lường được, chỉ làm những gì cần thiết để
khiến chúng tôi phải nể sợ nó. Vài ngày sau đó con voi còn hận chúng tôi,
nên không để chúng tôi cưỡi nó. Cậu tôi bảo chúng tôi dẫn nó ra một dòng
suối lớn, lấy vỏ dừa chà da cho nó, trong khi nó thư giãn và tận hưởng
nguồn nước mát. Sau đó, nó hoàn toàn buông xả sự giận hờn đối với chúng
tôi. Khi bạn cảm thấy mình hoàn toàn đúng khi phản ứng một cách mạnh
mẽ trong cơn giận, tôi khuyên bạn, hãy nhớ đến phản ứng đầy kiềm chế của
con voi to mà hiền lành của cậu tôi.
Một phương cách khác để đối trị với sân hận là quán sát kết quả của nó.
Chúng ta biết rất rõ rằng khi giận dữ, ta không thể thấy sự thật một cách rõ
ràng. Do đó, chúng ta có thể phạm vào những hành vi bất thiện. Như chúng
ta đã biết, các hành động có chủ tâm trong quá khứ là thứ duy nhất thật sự
là của chúng ta. Cuộc sống tương lai còn tùy thuộc vào những hành động cố
ý của ngày hôm nay, giống như là cuộc sống hiện tại là kết quả của những
hành động có chủ tâm trong quá khứ. Những hành động có chủ tâm được
thực hiện dưới ảnh hưởng của tâm sân hận không thể dẫn ta đến một tương
lai hạnh phúc.
Cách đối trị tốt nhất đối với sân hận là lòng kiên nhẫn. Kiên nhẫn không có
nghĩa là để cho người khác lấn lướt ta. Kiên nhẫn có nghĩa là dùng chánh
niệm để kéo dài thời gian, để ta có thể hành động một cách đúng đắn. Khi
phản ứng lại với sự khiêu khích bằng lòng kiên nhẫn, chúng ta sẽ nói lên
được chân lý vào đúng thời điểm và dùng ngôn từ chính xác. Ta dùng
những lời nhẹ nhàng, tử tế, và chính xác như thể ta đang nói với một em bé
hay một người bạn thân để ngăn cản họ không làm những gì có hại cho họ
hay người khác. Dầu bạn có thể lên giọng, điều đó không có nghĩa là bạn
đang giận dữ. Mà thật ra là bạn đang bảo vệ một cách khéo léo một người
mà bạn quan tâm đến.
Có một câu chuyện rất nổi tiếng miêu tả sự kiên nhẫn và thông thái của Đức
Phật khi đối mặt với một người sân hận:
88
Có một người Bà la môn giàu có và quyền lực. Người này có thói quen dễ
nổi giận, đôi khi không vì lý do gì. Ông ta thường gây gổ với tất cả mọi
người. Nếu có ai đó bị xúc phạm mà không nổi giận, ông cũng sẽ tức giận vì
điều đó.
Người Bà la môn này đã nghe rằng Đức Phật chẳng bao giờ nổi giận. Một
ngày kia ông ta đến gặp Đức Phật và dùng lời lẽ thóa mạ Ngài. Đức Phật
lắng nghe một cách kiên nhẫn và từ bi. Sau đó Ngài hỏi người Bà la môn:
"Ông có gia đình hay bạn bè người thân gì không?"
"Vâng, tôi có rất nhiều bạn bè và người thân," người Bà la môn trả lời.
"Ông có đi thăm họ thường không?" Đức Phật hỏi.
"Dĩ nhiên. Tôi thăm họ rất thường."
"Ông có mang quà tặng cho họ khi ông thăm viếng họ không?"
"Chắc chắn rồi. Tôi chẳng bao giờ đến gặp họ mà không mang quà," người
Bà la môn trả lời.
Đức Phật lại hỏi, "Khi ông tặng quà, giả sử rằng họ không nhận. Ông sẽ làm
gì với những món quà đó?"
"Tôi sẽ mang chúng về và chia sẻ với gia đình tôi," người Bà la môn trả lời.
Lúc đó Đức Phật nói, "Cũng thế, ông đã cho tôi một món quà. Tôi không
muốn nhận. Nó là của ông. Hãy mang nó về nhà và chia sẻ với gia đình."
Người Bà la môn rất xấu hổ khi ông hiểu và ngưỡng mộ lời khuyên từ bi của
Đức Phật. (S I.7.1 [2])
Sau cùng, để đối trị sân hận chúng ta có thể nghĩ đến những lợi ích của tâm
từ bi. Theo Đức Phật, khi ta thực hành tâm từ bi, ta sẽ "ngủ yên, thức dậy
thoải mái, và có những giấc mơ đẹp. Được thân cận với chúng sanh và các
loài khác. Chư thiên sẽ độ trì ta. [Nếu ta đầy lòng từ bi, thì ngay lúc đó] khói
lửa, thuốc độc và vũ khí không thể làm hại ta. Ta thiền định dễ dàng. Nét
thanh tịnh hiện trên gương mặt ta. Ta ra đi nhẹ nhàng và được tái sinh vào
cõi giới cao nhất." (A V (11) II.5). Những viễn ảnh này không phải là dễ
chấp nhận hơn là sự khổ sở, sức khỏe kém, và ác nghiệp mà tâm sân hận có
thể mang đến cho ta sao?
89
Khi sự chánh niệm về các trạng thái tâm của ta tăng trưởng, ta sẽ càng lúc
càng nhanh chóng nhận ra lúc nào ta bắt đầu nổi giận. Lúc đó, ngay khi tư
tưởng sân hận khởi lên, ta có thể bắt đầu áp dụng các phương pháp đối trị
sân hận bằng lòng kiên nhẫn và chánh niệm. Chúng ta cũng cần tìm mọi cơ
hội để sửa đổi các hành động nóng nảy của mình. Nếu ta đã nói hay làm gì
đó với ai khi nóng giận, ngay sau khi giây phút đó qua đi, ta nên nghĩ đến
việc xin lỗi người đó, dầu rằng ta nghĩ người kia sai quấy hay hành động tệ
hại còn hơn ta. Một vài phút bỏ ra để xin lỗi người mà ta đã xúc phạm sẽ
mang đến sự giải tỏa tức thì và tuyệt vời cho cả hai người.
Cũng trong tinh thần đó, nếu thấy ai sân hận với mình, chúng ta có thể đến
với người đó và trao đổi trong sự bình tĩnh để cố gắng tìm ra nguyên nhân
của sự giận hờn. Ta có thể nói: "Xin lỗi đã làm bạn giận tôi. Tôi không giận
gì bạn cả. Có thể chúng ta nên giải quyết vấn đề này như là bạn bè với
nhau." Ta cũng có thể mang một món quà đến cho người mà ta nghĩ là
đang giận mình. Một món quà sẽ xoa dịu người đang chống đối ta và khiến
kẻ thù trở thành bạn. Một món quà có thể chuyển hóa những lời giận dữ
thành từ ái và sự cộc cằn thô lỗ thành nhẹ nhàng, êm thắm.
Sau đây là một số phương cách thực dụng bạn có thể sử dụng để chế ngự
cơn giận của mình:
• Hãy ý thức về cơn giận của mình ngay lập tức.
• Hãy chánh niệm về cơn giận của mình và cảm nhận được sức mạnh của
nó.
• Hãy nhớ rằng tánh nóng nảy là vô cùng nguy hại.
• Hãy nghĩ đến những hậu quả tai hại của tâm sân hận.
• Hãy thực hành sự kiềm chế.
• Hãy nhận thức rằng sân hận và nguyên nhân của nó đều vô thường.
• Hãy nhớ đến câu chuyện về lòng kiên nhẫn của Đức Phật với người Bà la
môn.
• Hãy thay đổi thái độ bằng cách trở nên tử tế và hữu dụng.
• Hãy thay đổi tình trạng căng thẳng giữa ta và người mà ta đang giận bằng
cách tặng quà hay làm một điều gì tốt cho họ.
90
• Hãy nhớ đến những ích lợi của việc thực hành tâm từ bi.
• Hãy nhớ rằng tất cả chúng ta một ngày kia sẽ ra đi và chúng ta không
muốn ra đi với tâm sân hận.
Tâm Từ Bi
Từ bi là tư tưởng thiện xảo thứ ba mà Đức Phật khuyến khích chúng ta vun
trồng. Từ bi là khi nghĩ đến sự đau khổ của người khác, ta cũng thấy xót xa.
Đó là một phản ứng thiện, tự phát, đi cùng với ước muốn làm giảm bớt sự
đau khổ của người khác.
Tâm từ bi đòi hỏi phải có một đối tượng. Để vun trồng được tâm từ bi,
chúng ta cần quán tưởng lại những đau khổ mà cá nhân chúng ta đã trải
qua, cảm nhận sự khổ đau của người khác, và tạo được mối tương quan trực
giác giữa các kinh nghiệm đau khổ của ta và của người. Thí dụ, chúng ta
nghe một đứa trẻ bị đánh hay bị lạm dụng. Ta sẽ hướng tâm mình đến nỗi
đau của đứa trẻ kia có thể bằng cách nhớ lại những cảm giác đau đớn trong
lòng khi ta bị đối xử tệ. Rồi chúng ta phát lời ước nguyện, "Nguyện cho
những sự đau đớn như thế không xảy ra cho bất cứ ai trên thế giới này. Cầu
mong rằng không có đứa trẻ nào bị ngược đãi như tôi đã từng bị ngược
đãi." Hay khi có ai đó bị đau bệnh, ta hồi tưởng lại cảm giác khó chịu và đau
đớn như thế nào khi bệnh hoạn, và chúng ta mong rằng không có ai nữa
phải chịu những sự đau đớn và lo lắng tương tự. Hoặc chúng ta nhớ đến sự
đau khổ khi phải chia lìa người mà ta thương yêu. Ký ức này sẽ dẫn đến tâm
từ bi đối với bất cứ ai phải bị chia lìa với người thương yêu vì tử biệt, chia
ly, hay bị ruồng bỏ, và ta ước muốn rằng không ai phải trải qua những sự
đau khổ như thế.
Từ bi và tình thương yêu hỗ trợ lẫn nhau. Khi tâm chúng ta đầy lòng thương
yêu, thì lòng ta rộng mở và tâm ta trong sáng đủ để nhìn nhận ra nỗi khổ
của người khác. Thí dụ có ai đó đã đối xử với ta bằng thái độ khinh bỉ hay
cao ngạo. Bằng tình thương, ta nhận ra rằng thái độ thô lỗ này ắt phải xuất
phát từ một người đang có nội tâm đau khổ, vướng mắc. Vì chúng ta cũng
đã trải qua nhiều vấn đề trong đời mình, lòng từ bi của ta sẽ phát khởi, và ta
tự nhủ, "Người này chắc hẳn đang đau khổ. Làm sao tôi có thể giúp họ?
Nếu tôi giận dữ hay bực tức, tôi sẽ không thể nào giúp họ được. Mà tôi còn
91
có thể làm cho vấn đề của họ thêm nghiêm trọng." Chúng ta tự tin rằng nếu
ta tiếp tục hành động một cách thân thiện, khiêm hạ, thì người này có thể
dần dần, hay ngay lập tức, được lợi lộc. Có thể một lúc nào đó sau này,
người đó sẽ ngưỡng mộ việc chúng ta làm thế nào mà vẫn duy trì được sự
tử tế, hòa nhã, thân thiện dầu bị khiêu khích, xúc phạm và họ bắt đầu bắt
chước cách đối xử tử tế khi giao tiếp với người khác.
Là đệ tử của Phật thì lòng từ bi của ta càng rộng lớn, như trong một câu
chuyện kể của Kinh Đại thừa:
Xưa có một vị tăng tu thiền tâm từ, muốn có đủ công đức để được gặp
Phật Di Lạc, Đức Phật của lòng thương yêu. Sự tu tập của vị tăng này đã
làm tâm ông trở nên hiền dịu đến nỗi ông không làm hại đến bất cứ sinh vật
nào.
Một ngày kia, ông gặp một con chó nằm bên vệ đường rên la đau đớn. Một
vết thương hở miệng trên thân con vật khốn khổ này với đầy những dòi bọ.
Vị tu sĩ quỳ gối xuống trước con chó. Ý nghĩ đầu tiên của ông là phủi những
con dòi bọ khỏi vết thương của con chó. Nhưng rồi ông suy nghĩ, "Nếu ta
dùng một cái cây để phủi những con dòi bọ này, ta có thể làm chúng đau
đớn. Nếu dùng tay, ta có thể làm chúng chết vì chúng là những sinh vật rất
nhỏ nhoi. Và nếu ta bỏ chúng xuống đất, sẽ có người đạp chúng."
Rồi ông nghĩ ra điều ông phải làm. Ông cắt thịt đùi của mình, đặt xuống đất.
Rồi ông quỳ xuống và lè lưỡi ra để đỡ những con dòi bọ khỏi vết thương của
con chó và đặt chúng trên miếng thịt của mình.
Khi ông làm thế, con chó biến mất. Và thay vào chỗ nó là đức Di Lạc, vị Phật
của tình thương yêu.
Chúng ta có thể tự coi mình là những người từ bi, nhưng mức độ từ bi của
chúng ta không thể nào so sánh với vị thánh tăng đó! Chung quanh ta có
bao nhiêu đau khổ. Mỗi ngày chúng ta có nhiều cơ hội để thực hành tâm từ
bi, tuy nhiên ta thường thấy việc đó khó làm. Tại sao? Câu trả lời là đứng
trước khổ đau -dầu là nỗi đau của người- ta cũng khó chịu đựng nổi. Để
tránh né, chúng ta lãng ra chỗ khác, nhắm mắt lại, hay gồng mình chịu trận.
Thực tập chánh niệm giúp chúng ta thư giãn và nhu nhuyến trước bất cứ
hoàn cảnh nào mà cuộc đời trao cho ta. Khi ta để tâm mình nhẹ nhàng và
trái tim rộng mở, thì suối nguồn của tâm từ bi có thể tự do tuôn tràn.
92
Thực hành tâm từ bi đối với người thân, chắc chắn là một thử thách, nhưng
nó rất cần thiết cho hạnh phúc của chúng ta ngay hiện tại và trong tương lai.
Cha mẹ, người hôn phối, và con cái rất cần đến lòng bi mẫn của chúng ta.
Chúng ta cũng cần có lòng bi mẫn đối với bản thân.
Từ Bi Đối Với Bản Thân
Có thể một số bạn đọc sẽ tự hỏi tại sao bạn phải thực hành tâm từ bi đối với
bản thân. Bạn có thể nói rằng "Lo cho bản thân là ích kỷ." "Nhu cầu của tôi
không quan trọng. Người tu chân chánh là phải có lòng bi mẫn đối với
người khác." Nói vậy nghe cũng hay nhưng có thể là bạn đang tự lừa dối
bản thân. Khi quán sát tâm mình thấu đáo, bạn sẽ khám phá ra rằng không
có ai trên cả vũ trụ này khiến bạn quan tâm đến hơn là chính bản thân.
Không có gì sai với điều đó. Thật ra, có lòng bi mẫn đối với bản thân là nền
tảng cho sự thực hành tâm từ bi đối với người. Như Đức Phật đã nói: "Dùng
tâm để quán sát cả vũ trụ này, ta không thấy gì thân thiết với mình hơn là
chính bản thân. Vì bản thân là thân thiết hơn những người khác, người tự
biết thương yêu bản thân sẽ không bao giờ làm hại đến người khác." (Ud
V.1).
Thật là sai lầm khi nghĩ rằng nếu chúng ta khắt khe với bản thân hay tự coi
mình là không xứng đáng thì tốt hơn, hay như thế là hướng về tâm linh hơn.
Đức Phật đã nhận ra qua kinh nghiệm bản thân rằng sự tự hành xác không
đưa đến giác ngộ. Dĩ nhiên chúng ta cần phải tập tự kiềm chế, nhưng ta làm
thế là do quyết tâm hành động vì lợi ích tốt nhất cho chúng ta mà thôi. Nếu
quán sát một cách rốt ráo, sự tự kỷ luật một cách vừa phải, đúng ra là một
biểu hiện của sự thực hành tâm từ bi đối với bản thân của chúng ta.
Hơn nữa, ta không thể thực hành tâm từ bi chân thật đối với người khác nếu
không có lòng từ bi đối với bản thân. Nếu chúng ta cố gắng để hành động
một cách bi mẫn với cảm giác bản thân không xứng đáng hay nghĩ rằng
người khác quan trọng hơn ta, thì nguyên nhân thực sự của những hành
động của chúng ta là tự làm khổ mình, chứ không phải do lòng bi mẫn đối
với người. Tương tự, nếu chúng ta hành động với sự tự tôn lạnh lùng đối
với những người ta giúp đỡ, thì hành động của chúng ta thực sự có thể khởi
nguồn từ lòng tự đại. Tâm từ bi chân chính phát sinh từ trái tim rung cảm vì
93
những đau khổ của bản thân, qua đó phản ảnh sự khổ đau của người. Lòng
bi mẫn dành cho bản thân, đặt nền tảng trên tình thương yêu bản thân một
cách thiện hảo, thúc giục ta vươn tay để giúp người khác một cách thành
khẩn.
Những người lính cứu hỏa là một ví dụ thích hợp cho nguyện vọng này. Họ
được biết đến vì lòng can đảm vĩ đại khi đánh đổi bản thân họ để cứu
những người đang bị kẹt lại trong những tòa nhà đang bốc cháy. Tuy nhiên,
không phải là họ cố ý hy sinh bản thân. Họ không lao đại vào ngọn lửa mà
không có sự chuẩn bị để đối phó với hoàn cảnh nguy hiểm. Trái lại, họ cẩn
thận đội mũ bảo hiểm, mặc đồ bảo vệ an toàn, và đưa ra những tính toán
cẩn thận, dựa vào sự phán đoán và tay nghề của họ để quyết định những
phương cách tốt nhất để có thể cứu người khác mà không nguy hại đến bản
thân. Cũng thế, chúng ta tự trang phục bằng tâm từ bi và tình thương yêu
đối với bản thân, thanh lọc mọi động lực hành động với hết khả năng của
mình và để tâm được trở nên trong sáng rõ ràng. Từ trạng thái trong sáng rõ
ràng đó, chúng ta có thể giúp đỡ người khác một cách hiệu quả và cũng
khuyến khích sự tiến bộ tâm linh của chính mình.
Thật ra, trong tâm ta sự phân biệt giữa bản thân và người không rõ ràng
như ta thường nghĩ. Bất cứ thái độ nào chúng ta quen sử dụng đối với bản
thân, ta sẽ sử dụng đối với người khác, và bất cứ thái độ nào ta thường sử
dụng với người khác, ta sẽ sử dụng trên bản thân. Như thế cũng giống như
chúng ta ăn và đãi người khác trong cùng một cái tô. Cuối cùng thì mọi
người đều dùng chung một loại thực phẩm. Vì thế chúng ta phải cẩn trọng
với những gì ta sắp dọn lên bàn ăn.
Khi ngồi thiền, chúng ta cần phải quán tưởng về những phản ứng của ta đối
với bản thân cũng như với người khác như thế nào khi có điều bất như ý
hay lầm lỗi gì xảy ra. Chúng ta phản ứng bằng cách đổ lỗi hay tha thứ? Lo
lắng hay buông xả? Cứng rắn hay nhẹ nhàng? Kiên nhẫn hay nổi trận lôi
đình?
Dầu nhận biết được lỗi lầm của mình, cảm nhận được hậu quả của chúng,
và nguyện phải sửa đổi, là quan trọng, nhưng sự tự trách và các hình thức
dằn vặt, khắt khe sẽ không đem lại ích lợi gì. Không ai cảm thấy hạnh phúc
sau khi bị la rầy, trách mắng. Người ta thường phản ứng lại bằng sự xa lánh, trở nên giận dữ, bào chữa lỗi hay ngoan cố. Thí dụ trường hợp một người
đang tập thể dục để giảm cân. Nếu có ngày ông ta bỏ qua buổi tập thể dục
thường xuyên của mình và nhân lên sự thất bại đó bằng cách nghĩ: "Đồ béo,
đồ lười biếng, nhà ngươi sẽ chẳng bao giờ thay đổi được!". Như thế thì việc
ông ta sẽ tập lại ngày mai có thể xảy ra không?
Tâm chưa giác ngộ là tâm chưa được rèn luyện. Tâm đó rất vô minh. Tâm
đó rất đau khổ. Đó là lý do tại sao chúng ta làm những điều đáng trách. Khi
nhớ rằng chúng ta lầm lỗi chính là do chúng ta đau khổ, sẽ giúp ta rãi tâm từ
bi đến với bản thân, hơn là những phán xét nghiêm khắc, tự hành phạt
mình.
Điều quan trọng là chúng ta phải quán sát những nỗ lực của bản thân để
hành thiền và đi theo con đường của Đức Phật với một thái độ bi mẫn.
Chúng ta thực hành Bát chánh đạo của Đức Phật là để giải thoát khổ đau.
Nếu ta lại làm tăng thêm nỗi khổ của mình bằng cách có thái độ phán đoán,
gượng ép sự thực hành của mình, thì chẳng bao lâu ta sẽ nghĩ ta khó thoát
khỏi khổ đau! Do đó có thể ta sẽ cảm thấy muốn bỏ việc hành thiền.
Đặc biệt các thiền sinh Tây phương hay rơi vào cái bẫy tâm linh này. Theo
quan điểm phương Đông của tôi, họ thường có vẻ đầy tham vọng, chịu
nhiều áp lực, chạy theo mục đích, và không tự tin khi họ bắt đầu hành thiền
và khi khám phá ra trạng thái tâm lăng xăng, họ cố gắng kiềm chế nó ngay
lập tức. Họ đóng chặt tâm lại và cố gắng buộc nó hành xử theo ý mình bằng
sức mạnh của ý chí. Nhưng tâm không nghe theo lời sai khiến của ai cả. Kết
quả là họ thường trở nên bức xúc, tự phán đoán bản thân một cách nghiêm
khắc. Điều tương tự cũng có thể xảy ra cho các thiền sinh đã có kinh
nghiệm tu tập, nhưng vẫn chưa thể đạt được mục đích tâm linh, khiến họ
trở nên thất vọng. Điều quan trọng cần nhớ đối với bất cứ thiền sinh nào đi
theo con đường của Đức Phật là quán sát tâm và làm chủ tâm, là hai điều
khác biệt. Quán sát tâm với một thái độ cởi mở, nhẹ nhàng sẽ giúp tâm lắng
đọng, an tĩnh. Nhưng cố gắng làm chủ tâm, hoặc cố gắng để hướng kết quả
của sự thực hành tâm linh tới một cái gì đó, chỉ khuấy động thêm đau khổ
và phiền não.
Chúng ta có thể cởi mở, làm tâm nhẹ nhàng, thư thái. Không có gì phát sinh
trong lúc hành thiền là không phải là dấu hiệu của thất bại. Chỉ có thất bại
95
khi ta không quán sát tâm. Nếu các pháp bất thiện phát khởi, mà ta không
thể buông bỏ chúng, cũng đừng cố gắng chống cự lại chúng hay trách móc
bản thân. Thay vào đó ta cần bình tĩnh áp dụng Chánh Tinh Tấn với tâm từ
bi để chế ngự chúng và phấn khích tâm.
Không ai đặc biệt xấu. Tất cả chúng ta đều có những uế nhiễm giống nhau.
Mọi chúng sanh chưa giác ngộ đều có các uế nhiễm: Tham, sân, ganh tỵ, cao
ngạo, âu sầu, thất vọng, thiếu kiên nhẫn, vân vân. Khi chúng ta tập được
thói quen đối mặt với các trạng thái vô thường của tâm bằng lòng bi mẫn,
thì tâm có thể dần lắng đọng. Lúc đó, chúng ta có thể nhìn sự vật rõ ràng
hơn, và trí tuệ ta sẽ tiếp tục phát triển.
Từ Bi Đối Với Cha Mẹ
Đa số chúng ta có những tình cảm cứng rắn, hằn hộc đối với cha mẹ mình.
Có người cảm thấy rất khó tha thứ cho những việc mà cha mẹ họ đã làm khi
họ còn nhỏ. Sự lạm dụng trẻ em và những hành vi sai trái khác có thể đã
khiến chúng ta đau đớn, khổ sở vô cùng. Những hành động xấu xa này
không thể tha thứ được; mà cũng không thể quên dễ dàng. Những gì cha mẹ
ta đã làm không thể thay đổi nữa. Nhưng những gì chúng ta đang làm ngay
giây phút này có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc trong hiện tại hay tương lai
của chúng ta.
Một phương cách để phát triển tâm từ bi là nghĩ về việc cha mẹ đã phải khổ
nhọc biết bao nhiêu khi sinh chúng ta ra đời và nuôi dưỡng chúng ta. Đức
Phật đã dạy rằng nếu bạn đặt cha mẹ, mỗi người trên một vai, suốt đời
chăm sóc cho họ đủ điều, bạn vẫn không thể đền trả những gì họ đã làm cho
bạn. Cha mẹ đã hy sinh giấc ngủ, sự êm ấm thoải mái, lương thực, thời gian,
và năng lực trong bao ngày, bao tháng, bao năm. Hãy nghĩ đến sự bất lực
hoàn toàn của một em bé, thì thấy các nhu cầu của nó là nhiều biết bao. Hãy
nghĩ đến những nỗi sợ hãi mà cha mẹ bạn đã phải trải qua khi cố gắng bảo
vệ bạn. Họ đã chăm sóc để bạn vượt qua bệnh tật như thế nào; lo lắng đến
thế nào khi bạn gặp khó khăn, trắc trở. Do đó, thay vì trách móc những
hành động vô minh của họ, hãy nghĩ đến những đau khổ và phiền não mà
tâm uế nhiễm đã tạo ra cho họ khi họ phải tranh đấu với những thử thách
của việc chăm sóc một đứa trẻ. Thử tưởng tượng xem họ đã phải đấu tranh
96
quyết liệt như thế nào để thoát khỏi những bám víu và các hành động tai hại
khác do tham, sân, và si tạo ra.
Sau đó hãy nhớ rằng cha mẹ người đã nuôi dưỡng bạn không giống như bậc
cha mẹ mà bạn biết ngày hôm nay. Thời gian đã trôi qua và vô thường biến
đổi tất cả mọi người. Khi cha mẹ bạn đã già hơn, có thể họ đã chín chắn hơn
hay có nhiều trí tuệ hơn. Bạn cũng có thể đã trưởng thành. Đừng đeo bám
vào những mối liên hệ trong thời thơ ấu. Khi cha mẹ đã nhiều tuổi, có thể
bạn còn phải cần hoán chuyển vai trò và phải hỗ trợ họ đầy đủ vật chất, tình
cảm, và tâm linh. Quan tâm đến các nhu cầu của cha mẹ có thể khơi mở trái
tim bi mẫn của bạn. Ngay nếu như cha mẹ đã chẳng tạo dựng được gì cho
bạn ngoại trừ cuộc sống này và sự đau khổ triền miên, thì ít nhất bạn cũng
phải thương xót họ và cầu mong cho họ được hạnh phúc: "Tôi nguyện rằng
tôi có thể giúp cha mẹ được có tâm bình an." Tâm từ bi không có giới hạn,
không có ranh giới.
Từ Bi Đối Với Con Cái
Duy trì được một cuộc sống thăng bằng dường như khó gấp bội khi bạn
phải nuôi dưỡng con cái. Giáo dục con cái với phong cách dung hòa, không
thái quá, có thể ví như đi trên một sợi dây mong manh, treo cách mặt đất
khoảng năm thước. Ngược lại, nếu đối đãi với chúng bằng thái độ độc
đoán, cứng nhắc có thể khiến bạn trở thành kẻ thù của con cái mình. Mặt
khác, nếu không dạy bảo chúng những điều cơ bản, có hiểu biết về đạo đức,
thì con cái sẽ không biết về những giới hạn hay hậu quả của việc chúng làm.
Nếu con cái được thương yêu, dạy dỗ, rèn luyện và chăm sóc bằng sự tôn
trọng mà chúng đáng được có như là một con người, thì chúng sẽ trưởng
thành nên một người lớn có trách nhiệm, đầy lòng thương yêu, và tử tế. Con
cái của chúng ta sẽ gánh vác trách nhiệm trong cuộc sống sau khi chúng ta
đã ra đi. Chúng có thể mang hòa bình, hạnh phúc đến cho bạn, cho các
thành viên khác trong gia đình, cho xã hội, và cho cả thế giới.
Nhưng như bất cứ cha mẹ nào cũng biết, con cái có thể khiến cho người giỏi
chịu đựng nhất cũng phải mất bình tĩnh. Khi bạn cảm thấy mình phải đối
đầu với chúng, hãy tự nhắc mình nhớ đến một nơi không còn có cái ngã
trong trái tim. Hãy buông bỏ ý muốn mọi thứ phải xảy ra đúng theo ý
97
mình. Hãy cố gắng cảm thông với quan điểm, nhu cầu, sự sợ hãi hay quan
tâm của con bạn và khi bạn đã hiểu rõ hơn về những điều con bạn đang
phải đối mặt, thì tim bạn dường như mềm đi với lòng thương cảm dành cho
chúng. Với một tâm thức tràn đầy bi mẫn, thì hành động của bạn luôn
mang dáng dấp của sự tử tế, dịu dàng, là thứ rất cần thiết để chế ngự xung
đột đối với bất cứ ai, dầu là người lớn hay trẻ em.
Nếu bạn thiếu lòng bi mẫn đối với con cái, may mắn thay, bạn vẫn có thể
vun trồng nó; chỉ cần nhiều thực hành. Không ai sinh ra đã biết cách nuôi
dưỡng một đứa trẻ như thế nào để nó trở thành một người lớn có sức khỏe,
đầy trách nhiệm và thương yêu. Khả năng này cần phải được tập luyện.
Nếu bạn là bậc cha mẹ, thì trách nhiệm của bạn là phải học hỏi càng nhiều
càng tốt về cách nuôi dạy con có đạo đức, chứ không dạy chúng tham, sân,
và si. Các thói xấu này đã có quá nhiều trên thế giới. Quan trọng hơn cả là
bạn có thể biểu lộ lòng bi mẫn đối với con bạn khi bạn dạy chúng buông xả,
thương yêu, và từ bi.
Từ Bi Đối Với Người Bạn Đời
Thực hành lòng bi mẫn đối với người bạn đời đòi hỏi tâm rộng lượng và
kiên nhẫn. Mỗi người chúng ta đều có cách sống khác nhau. Có người rất dễ
biểu lộ tình cảm; họ thường cười và khóc dễ dàng. Người khác thì thấy khó
nói lên những gì họ cảm nhận bên trong và không bao giờ khóc. Có người
rất hạnh phúc khi được làm việc và thích làm thêm nhiều giờ. Người khác
lại làm cho xong việc nhanh chóng và thích dùng thời gian rảnh rỗi để đọc
sách, hành thiền, hay thăm viếng bạn bè. Không có cung cách nào là đúng
hay sai. Người thích làm việc cũng tận hưởng cuộc đời nhiều như người
thích du lịch. Cả hai đều cố gắng để tránh khổ đau và để được hạnh phúc
càng nhiều càng tốt. Cả hai đều có thể là những người tốt và tử tế. Hãy chú
trọng đến những cá tính tốt của người bạn đời của bạn.
Đôi khi sau một sự tranh chấp, bạn cảm thấy khắc khe hơn đối với người
bạn đời. Tình cảm sân hận vẫn tràn đầy tâm, khiến bạn càng bảo vệ mình
và xét nét những thiếu sót của người bạn đời . Lúc đó, có thể bạn phải cần
nhiều công phu tu tập nội tâm trước khi tâm từ bi của bạn có thể phát sinh.
Khi hành thiền, bạn có thể quán tưởng về những hành động bất thiện nơi
thân, khẩu và ý, nhận biết thấu đáo trong những trường hợp nào bạn đã
98
tham lam, ích kỷ, sân hận, tỵ hiềm, hay cao ngạo. Sau đó, với tâm cởi mở,
bạn có thể xét xem những hành động này có thể ảnh hưởng đến người bạn
đời của mình như thế nào. Nếu bạn là người hay nổi giận thì đó là khuyết
điểm của bạn, bất kể người bạn đời của bạn đã làm gì. Bạn có cố chấp
không? Sự bám víu và tình yêu chân thật rất khác xa nhau.
Nếu những xung khắc giữa bạn với người bạn đời không thể sửa đổi,
không thể chịu đựng nữa, thì bạn cần phải chấm dứt tình trạng đó. Nhưng
hãy ra đi trong hòa bình, chấp nhận các khuyết điểm của bản thân và chúc
lành cho người kia. Tại sao phải làm người kia đau đớn thêm với sự sân hận
và trách móc?
Điều quan trọng là bạn không nên so sánh hành động của mình với hành
động của người bạn đời, hay phán xét hành động của người kia như là bất
thiện. Tốt hơn, hãy quan tâm đến hành động của bản thân, chịu trách nhiệm
vì chúng. Hãy nhớ đến những lúc khi bạn nhìn vào mắt của người kia và
nhận ra được nỗi đau mà bạn đã gây. Hãy tự nhắc nhở rằng chính mình đã
đem đến khổ đau cho người mình thương yêu. Nếu bạn có thể nhận lỗi
mình, nếu bạn có thể nhìn thấy hành động của mình đã gây đau khổ thế nào
cho người và quan tâm đến hạnh phúc của người kia, thì lòng bi mẫn và
thương yêu sẽ tuôn tràn trong bạn.
Thí dụ sáng đó bạn gây gổ với người phối ngẫu. Sau đó người kia về nhà,
với vẻ lạnh lùng, giận dữ, và liếc chừng xem bạn có còn giận không. Nhưng
bạn đã quán sát lỗi mình, đã mở suối nguồn thương yêu và tâm từ bi, vì thế
bạn có thể nhìn trả lại người kia với sự ấm áp, dịu dàng. Do lòng từ bi của
bạn, mối liên hệ giữa hai người đã được hàn gắn.
Chánh Niệm Về Chánh Tư Duy
Khi ngồi thiền, có rất nhiều thứ khởi lên trong tâm ta. Chúng ta có thể nghe
tiếng động, cảm thấy ngứa ngáy và suy nghĩ về rất nhiều việc. Chúng ta còn
có thể quên trong chốc lát rằng mình đang hành thiền và rằng mình đang cố
gắng trụ tâm vào hơi thở. Chuyện đó cũng tự nhiên thôi; nó xảy ra cho tất
cả mọi người. Khi đánh mất sự chú tâm vào hơi thở, ta cần nhanh chóng
nhận ra điều đó, nhận biết sự vô thường của nó -nó đã phát khởi, tăng
trưởng, rồi hoại diệt như thế nào. Sau đó chúng ta quay trở về với hơi thở.
99
Tuy nhiên có một số tư tưởng hay trạng thái tâm rất lắc léo, đòi hỏi một sự
quan tâm đặc biệt: đó là các tâm pháp bất thiện phát khởi từ tham, sân, si,
bất cứ khi nào chúng ta thiếu chánh niệm. Trí tuệ không thể phát triển khi
tâm chìm đắm trong các pháp bất thiện. Không chỉ là chúng ta đã lãng phí
thời gian, lại làm cho thân đau đớn, mà ta còn làm mạnh thêm các tâm hành
là nhân tạo ra mọi khổ đau. Chúng ta phải chế ngự các tư tưởng bất thiện
ngay lập tức, nhanh chóng đẩy chúng ra khỏi tâm với chánh niệm trước khi
chúng chế ngự ta, phát triển, và chiếm trọn thời gian hành thiền của ta.
Đôi khi những tư tưởng như thế sẽ qua đi chỉ bằng một hành động đơn giản
là nhanh chóng nhận ra sự vô thường của chúng. Lại có khi ta phải phát
khởi tinh tấn mạnh mẽ để chế ngự chúng. Chúng ta sẽ bàn đến một vài
phương cách để thực hiện điều này trong chương về Chánh Tinh Tấn. Một
khi tư tưởng bất thiện đã bị chế ngự, ta trở lại với hơi thở với một mức độ
chú tâm sâu lắng hơn. Nếu một tư tưởng tiêu cực khác phát khởi, ta lặp lại
những nỗ lực này. Mỗi lần một tâm pháp bất thiện bị chế ngự, là ta lại tiến
sâu hơn trong định.
Dần dần, ta nhận ra rằng sự chú tâm của mình đã vững chãi đến nỗi mọi
tâm pháp khác đều không xuất hiện nữa. Có thể phải cần rất nhiều công
phu hành thiền trước khi đạt được trạng thái định tĩnh này, hay nó cũng có
thể xảy ra một cách nhanh chóng. Một khi đã đạt được thiền định sâu lắng,
chúng ta dùng trạng thái tâm mạnh mẽ này để quay trở lại với sự thực hành
chánh niệm, lại quán sát các đối tượng khi chúng khiến ta chú tâm đến. Vì
các suy nghĩ đã lắng đọng, ta quán sát các đối tượng khác, như là thân thọ
hay các đặc tính tâm tích cực như hỷ hay xả. Chúng ta chú tâm vào tính chất
vô thường và các đặc tính liên quan của những đối tượng này, giống như
trước đó, nhưng với tâm định mạnh mẽ, tuệ giác sẽ phát triển một cách
nhanh chóng. Khi nào mà trạng thái định sâu lắng còn kéo dài thì không có
tư tưởng bất thiện nào phát sinh để ngăn trở sự hành thiền của ta.
Tuy nhiên, cho đến khi đạt được mức độ định tĩnh đó, chúng ta phải đối
phó một cách khôn khéo với các tâm pháp bất thiện khi chúng phát sinh. Ta
phải đương đầu giải quyết các tâm pháp này bất cứ khi nào chúng phát
sinh, ngay cả những lúc không tọa thiền. Chánh niệm về chánh tư duy
muốn ám chỉ đến tất cả những nỗ lực này.
100
Một trong những phương pháp để đối trị một tư tưởng bất thiện là phân
tích các hậu quả tai hại của tư tưởng đó. Bạn có thể thấy là nó bại hoại tâm
bạn như thế nào. Bạn có thể thấy thói quen suy nghĩ tiêu cực khiến cuộc
sống bạn khó khăn như thế nào. Rồi thì bạn mới có thể vun trồng điều
ngược lại, một tư tưởng thiện, như là cảm giác của lòng bi mẫn. Đây là cơ
hội tốt để bạn nhìn lại mình và thay đổi cuộc đời bạn bằng cách thay đổi
cách suy nghĩ.
Người ta thường hỏi tôi: "Làm sao chúng tôi có thể kết hợp việc hành thiền
vào cuộc sống hằng ngày?" Tôi thường trả lời bằng những câu hỏi tôi đặt
cho chính mình: "Ta đã làm gì khi ngồi trên chiếu thiền? Ta chỉ chú tâm vào
hơi thở thôi sao?" Nếu đó là tất cả những gì bạn làm, thì bạn đang sống hai
cuộc sống khác nhau: Cuộc sống trên gối thiền và cuộc sống bình thường
hằng ngày.
Có rất nhiều việc phải làm khi bạn hành thiền. Cũng những trạng thái tâm
uế nhiễm tạo ra bao vấn đề trong cuộc sống đời thường của ta -tham lam,
sợ hãi, sân hận, ganh tỵ, tự trách- chúng cũng có mặt khi ta hành thiền.
Chúng có thể xuất hiện dưới dạng của tư tưởng bất thiện bất cứ khi nào ta
để sự chú tâm hay chánh niệm lơ lỏng.
Đầu tiên chúng ta phải cố gắng để buông bỏ các tâm pháp này. Ta làm thế
vừa để thanh tịnh tâm ngay giây phút đó vừa để luyện tâm có thói quen tự
thanh tịnh hóa. Khi có tâm pháp nào quá mạnh đến nỗi dầu ta nỗ lực đến
bao nhiêu, nó vẫn không lui bước, thì đó là dấu hiệu cho ta biết ta còn phải
tích cực nhiều hơn nữa. Ta phải quán sát thật thấu đáo các tâm pháp này và
mang chúng ra thực hành để phát triển tuệ giác trong cuộc sống.
Thí dụ khi đang hành thiền chúng ta bị chìm đắm trong những tư tưởng sân
hận về việc bị một người lạ xúc phạm. Ta đã thử nhiều cách để chế ngự các
tư tưởng này, nhưng chúng không qua đi. Vì thế ta quán sát chúng. Đầu
tiên, ta xét xem tâm pháp này ảnh hưởng đến việc hành thiền của chúng ta
như thế nào, nó đã tạo ra sự căng thẳng nơi thân và ảnh hưởng đến huyết áp
của ta như thế nào, nó đã khiến ta vẫn còn ác cảm với người kia như thế nào.
Ta nhận thấy rằng những tư tưởng sân hận đó không tốt, vì chúng tổn hại
ta, ảnh hưởng xấu đến tâm ta đến nỗi ta có thể làm hại người khác. Kế tiếp,
có thể ta sẽ nghĩ về việc nếu người khác biết ta đang suy nghĩ gì thì thật
101
đáng xấu hổ làm sao, và ta phát khởi một cảm giác xấu hổ vì đã để những tư
tưởng như thế làm chủ tâm ta. Phương cách quán sát này thường tạo ra đủ
không gian để giải thoát tâm khỏi các trạng thái tiêu cực.
Một khi tâm đã lắng đọng, ta có thể quán sát ý nghĩ của mình một cách sâu
lắng hơn, quán tưởng về nguyên nhân tạo ra chúng. Tại sao ta vẫn còn bực
bội sau khi đã bị xúc phạm? Ta tự hỏi: "Tôi bám víu vào điều gì khiến sự
xúc phạm đó cứ hằn trong tâm trí?" Chúng ta có thể khám phá ra rằng
nguyên nhân chính là một điều gì đó đã xảy ra trong quá khứ, không liên
quan gì đến sự xúc phạm trong hiện tại.Kế tiếp ta nghĩ: Thôi được, đúng là
người đó đã xúc phạm ta nhưng ta đã làm gì khiến anh ta nổi giận? Có phải
là ta quá vội vả hay quá tham lam? Quá cao ngạo? Có thể ta không có ác ý,
nhưng ta biết trước đây ta đã từng làm người khác bực mình như thế. Lần
sau ta sẽ cư xử tốt hơn. Như vậy do quán tưởng về các động lực và hành
động bất thiện của mình, chúng ta quyết tâm sửa đổi. Một khi đã thấy được
phần lỗi của mình trong sự xung đột này, ta có thể phát khởi tâm từ bi đối
với người đã rất đau khổ đến nỗi anh ta cần phải trả đũa lại bằng cách xúc
phạm ta.
Phương cách tự quán sát này là một phần rất quan trọng trong việc hành
thiền. Trước khi đạt đến giác ngộ, chính Đức Phật cũng đã thực hành bằng
cách này, sử dụng các tâm pháp uế nhiễm như là một phương tiện để nhìn
vào nội tâm và sửa đổi lỗi lầm. Khi tọa thiền trong rừng trước khi giác ngộ,
Đức Phật đã tự nhủ, "Tôi có khuyết điểm này. Tôi đã làm điều kia trong
quá khứ. Từ nay trở đi, hành động của tôi phải khác đi."
Bạn cũng có thể làm như thế. Nếu bạn nhớ lại một trường hợp nào đó khi
bạn nói lời cộc cằn với một em bé và nhận thấy trong đôi mắt em sự tổn
thương, hoang mang, bạn có thể sửa đổi bằng cách xin lỗi và trong tương lai
cố gắng nói năng dịu dàng hơn. Hoặc bạn có thể nhớ lại một cuộc trao đổi
khi bạn cố bám giữ lấy quan điểm sai lầm của mình một cách ngoan cố, thì
lần sau, hãy quyết tâm buông bỏ sự bám víu một cách nhẹ nhàng.
Nếu một ham muốn phát sinh dai dẳng, như là muốn ăn kem hay muốn
mua một đĩa CD mới, bạn cũng có thể dùng cơ hội này để vun trồng điều
ngược lại, đó là tâm bố thí. Bạn có thể nghĩ, "Thật sự tôi chưa cần ngay bây
giờ. Tôi có thể buông xả ham muốn này." Nếu bạn là người có tấm lòng
102
rộng rãi, cởi mở, thì dần dần sự ham muốn dục lạc đó sẽ giảm dần. Lúc đó
bạn có thể nhận ra những ham muốn của mình nhỏ mọn hay đầy chấp ngã
như thế nào. Thực hành như thế, bạn sẽ hiểu về bản chất của tham ái hơn.
Sau khi dùng sự hiểu biết mới mẻ này để sửa đổi cách suy nghĩ của bạn, hãy
trở về với hơi thở.
Một phương cách hữu hiệu khác nữa là khi tư tưởng của bạn quay cuồng
không kiểm soát được và tâm bạn đầy đau khổ, bồn chồn, lo âu, là dùng
chính cái khổ của bạn để vun trồng các tâm pháp thiện của tâm từ bi. Thấy
được cái khổ trong tâm, bạn quán tưởng xem nỗi khổ này ảnh hưởng đến
người khác như thế nào: "Hoàn cảnh này không chỉ có tôi là phải chịu. Mọi
người cũng đã trải qua và hiện giờ còn có nhiều người đang khổ hơn tôi
nữa."
Một thiền sinh đã kể rằng có lần anh cảm thấy rất đỗi buồn nản. Một ngày
kia đang đi một mình trong công viên, anh nhìn thấy một mảnh giấy báo.
Anh lượm lên và đọc về câu chuyện của một người đang bước đi trong vô
vàn đau đớn vì anh ta chỉ có một chiếc giày. Khi anh lê bước, bàn chân trần
của anh lạnh cóng, nứt nẻ. Người đàn ông chỉ có một chiếc giày đi ngang
qua một người chỉ có một chân. Lòng biết ơn tràn ngập trái tim anh. "Ít nhất
tôi cũng còn cả hai chân!" Người đàn ông tự nhủ, và nỗi khổ của anh biến
mất. Đọc câu chuyện này, người thiền sinh đó cảm thấy một làn sóng của
lòng bi mẫn dâng tràn cho những người đang đau khổ hơn anh, và mọi
buồn nản biến mất.
Bạn cũng có thể sử dụng một phương cách tương tự bất cứ khi nào những
tư tưởng khổ đau, sân hận, khổ não tràn đầy trong tâm bạn. Chỉ cần dừng
lại và tự hỏi mình: "Tại sao tôi phải than van? Đầu óc tôi vẫn còn hoạt động.
Tôi vẫn còn tất cả các giác quan. Tôi được biết đến giáo lý, và có thời gian
cũng như một nơi chốn để hành thiền. So với nhiều người trên thế giới, tôi
sống một cách đầy đủ. Hàng triệu người không có nhà, không thực phẩm,
không hy vọng. Thay vì cảm thấy đau khổ, hãy để tôi vun trồng tâm từ bi
cho những người này." Tâm từ bi làm lắng dịu sự suy nghĩ của ta, để ta có
thể trở về với hơi thở với một tâm an định và vững chãi hơn.
Phương cách tu tập này không chỉ dành cho những thời khóa ngồi thiền
nghiêm túc. Khi tọa thiền chúng ta làm gì, thì ta cũng phải làm như thế
103
trong từng giây phút khác. Ta mang sự rèn luyện về chánh niệm vào cuộc
sống hằng ngày và ứng dụng nó trong mọi trường hợp: trên xe buýt, ở sở
làm, lúc bệnh tật, khi khỏe mạnh. Nếu không, thì ngồi trên gối thiền hằng
giờ liệu có ích lợi gì? Phải dùng mọi nỗ lực để tránh hay buông bỏ những
trạng thái tâm bất thiện và khuyến khích tâm pháp thiện, giống như khi bạn
đang hành thiền. Thực hành bằng cách này ngoài những lúc tọa thiền là một
thử thách mạnh mẽ, vì mỗi ngày mang đến cho chúng ta không biết bao
nhiêu cơ hội để lãng quên do những hành động tham, sân, si đối với những
điều mắt thấy tai nghe.
Thí dụ bạn đang đi mua sắm ở một thương xá và thấy vài món hàng rất đẹp
mắt trong các cửa tiệm. Do tâm chưa được rèn luyện, bạn không thể rời mắt
đi chỗ khác. Bạn bước vào tiệm và ngắm nghía món đồ. Bạn cảm thấy bạn
không thể bước trở ra khỏi tiệm mà không mua một hay hai món đồ. Có thể
bạn không mang theo tiền, nhưng bạn có thẻ tín dụng nên bạn vẫn mua
hàng.
Để thực hành Chánh Tư Duy, bạn phải tự dừng lại trong quá trình này,
giống như bạn vẫn làm khi nhận ra một tư tưởng bất thiện lúc tọa thiền.
Trước hết, hãy kiểm soát và xác định tư tưởng, cảm giác của bạn. Hãy tự hỏi
có phải do lòng tham, sợ hãi hay sự thiếu tự tin khiến bạn phải mua sắm
một cách không cần thiết. Rồi hãy lý luận với bản thân: "Tôi dùng thẻ để trả
tiền. Tôi có thực sự muốn mang thêm nợ không?"
Ngay nếu như bạn có rất nhiều tiền, cũng rất quan trọng để thanh lọc sự
tham đắm khỏi quá trình tư duy của bạn. Hãy tự hỏi, "Món đồ này có cần
thiết không, hay tôi mua nó vì lý do gì khác? Có phải tôi chỉ muốn gây ấn
tượng với người khác? Không phải là tôi đã có một vài thứ tương tự đang
nằm đóng bụi trong hộc tủ sao?" Bạn cũng có thể hỏi, "Có cách nào sử dụng
tiền này tốt hơn, để giúp người khác được không?"
Nếu bạn không chắc chắn về động lực của mình, có lẽ vì lòng tham và nhu
cầu trộn lẫn vào nhau, hay vì lòng ham muốn quá thôi thúc, hãy tự hỏi bạn:
"Có cần phải mua ngay không? Tôi có thể bỏ qua bây giờ và trở lại tuần tới
không? Tôi có thể nhờ cô bán hàng giữ món đồ đó trong khi tôi suy nghĩ lại
không?" Cách lý luận này áp dụng một cách khéo léo những thói quen tốt
mà chúng ta đã rèn luyện được trên chiếu thiền.
104
Những sự rèn luyện như thế chắc chắn sẽ rất hữu ích khi ta phải đối đầu với
những thử thách khó khăn hơn. Có lần tôi đã phải sử dụng sự rèn luyện về
Chánh Tư Duy để chế ngự sự sợ hãi trong một hoàn cảnh nguy hiểm thật
sự.
Đó là khi tôi nhận được tin mẹ tôi bị bệnh nặng. Trên đường từ Washington
D.C đi Tích Lan, tôi đổi máy bay sang một chiếc phản lực lớn ở Hawaii. Một
hay hai giờ sau khi máy bay rời khỏi Hawaii, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và
nhận thấy lửa bốc ra từ đầu máy bay. Lúc đó người phi công loan báo trên
loa rằng đầu máy bay bị cháy và chúng tôi phải quay lui. Ông bảo các cô
tiếp viên hàng không hướng dẫn chúng tôi làm thế nào ra khỏi máy bay nếu
chúng tôi quay trở về Hawaii được.
Người tiếp viên hàng không bảo chúng tôi ngồi im lặng với dây an toàn
được cài chặt. Khi máy bay dừng lại, đèn dưới sàn máy bay dẫn chúng tôi ra
tám cánh cửa khẩn cấp. Cửa tự động mở và những cầu thang cứu cấp phụt
ra. Chúng tôi phải chạy ngay đến chỗ cửa thoát hiểm, không được chần chứ
giây phút nào, tuột xuống cầu thang và chạy xa khỏi máy bay.
Tôi nghĩ rằng ít người hiểu hết những lời hướng dẫn này. Ngay giây phút
người phi công thông báo rằng đầu máy bay bị cháy, tất cả mọi người trong
cabin đều có vẻ hoảng hốt vì sợ chết. Người thì làm dấu thánh giá, các đôi
vợ chồng ôm chặt nhau, người thì khóc, người thì nhìn rất căng thẳng và lo
âu.
Tôi đã nghĩ, "Nếu đây là lúc tôi phải chết, thì cách gì tôi cũng chết, dầu tôi
có sợ hay không. Vì thế tôi phải giữ cho tâm thật an tĩnh." Trước hết tôi hồi
tưởng đến những tri thức về cái chết là gì. Tôi coi cái chết là điều không thể
tránh, và đây là thời điểm tốt để tôi chết, vì tôi đã làm những việc tốt và tôi
không có gì để ân hận. Sau đó tôi nghĩ đến những cảnh tượng có thể xảy ra.
"Nếu máy bay rơi nhanh từ độ cao khoảng hơn mười ngàn mét thì chúng tôi
sẽ bất tĩnh trước khi máy bay rớt xuống biển." Tôi không biết theo khoa học
điều này có đúng không, nhưng lúc đó tôi nghĩ như thế. Tôi tự nhủ mình,
"Ta phải giữ tâm thật trong sáng, thật thanh tịnh trước bất tĩnh. Đây là lúc ta
phải dùng chánh niệm để chấp nhận cái chết không thể tránh. Nếu ta chết
một cách nhẹ nhàng với trạng thái tâm thức trong sạch, thanh tịnh, thì kiếp
sống trong tương lai sẽ tốt hơn. Có thể ta sẽ đạt được trạng thái giác ngộ qua
105
việc thấy được chân lý của vô thường. Ta không nên để sợ hãi hay hoảng
hốt làm bấn loạn tâm. Dầu sự bám víu vào cuộc sống của ta có mạnh mẽ tới
đâu, ta cũng phải buông xả sự bám víu đó ngay bây giờ." Như vậy là tôi đã
nỗ lực để cản trở bất cứ trạng thái tâm bất thiện nào có thể phát sinh khi đối
diện với cái chết và khuyến khích những trạng thái tâm tích cực phát sinh.
Có thể tôi quá kinh ngạc để cảm thấy sợ hãi, nên tôi không cảm thấy sợ. Tôi
thật sự thích thú ngắm nhìn ngọn lửa bốc lên từ đầu máy bay ở độ cao hơn
mười một ngàn mét! Ngọn lửa có màu xanh, vàng và đỏ. Rất ít khi bạn thấy
được một ngọn lửa xanh như vậy. Đôi khi chúng bùng phát; đôi khi chúng
lụi tàn. Trong chúng giống như pháo hoa. Trong khi tôi tận hưởng sự kiện
này, khoảng ba trăm người khác trên máy bay đang vô cùng đau khổ. Thỉnh
thoảng tôi quan sát các vị hành khách khác và có thể thấy những khổ đau
mà họ phải chịu khi nghĩ đến cái chết. Họ có vẻ như đã chết trước khi thực
sự tắt thở. Tuy nhiên, tôi để ý rằng các em nhỏ hình như không bị ảnh
hưởng. Chúng vẫn cười giỡn như trước khi có cuộc hỗn loạn xảy ra. Tôi
nghĩ, "Hãy thử đặt mình vào chỗ của chúng, với tâm như trẻ con."
Chúng tôi đến được Hawaii và máy bay đáp xuống trong tình trạng khẩn
cấp. Chúng tôi ra bằng cửa khẩn cấp như đã được hướng dẫn, tuột xuống
cầu phao. Đó là một kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với tôi. Có thể mọi
người khác trên máy bay đều ít nhất có lần chơi cầu tuột khi còn nhỏ, nhưng
tôi chẳng bao giờ có được điều đó ở trong ngôi làng nghèo khó nơi tôi lớn
lên. Do đó cho tới lúc cuối tai nạn, tôi vẫn còn hào hứng.
Tóm Lược Về Chánh Tư Duy
Như chúng ta đã nhận biết, hành trình trên con đường đưa đến hạnh phúc
của Đức Phật đòi hỏi ta phải áp dụng vào cuộc sống thực tại mọi bước
trong Bát Chánh Đạo. Chúng ta cần có đối tượng để nhận lãnh những món
quà hào phóng của ta. Chúng ta cần có bạn cũng như kẻ thù để khơi động
tình bằng hữu. Chúng ta cần những con người đau khổ để phát triển lòng
nhân ái của ta. Xã hội loài người cung cấp cho ta một môi trường hoàn hảo
để thử nghiệm những điểm chính yếu của Chánh Tư Duy:
• Khi Chánh Kiến đã được phát triển, Chánh Tư Duy sẽ tự nhiên tiếp nối
theo sau. • Tư duy có thể khiến chúng ta hạnh phúc hay đau khổ.
• Đức Phật đã hướng chúng ta đến ba tư tưởng thiện xảo: buông xả hay bố
thí trong ý nghĩa cao thượng nhất, tình thương yêu và tâm từ bi.
• Hãy bắt đầu thực hành bố thí bằng cách cho đi những của cải vật chất.
• Bám víu vào bất cứ điều gì -sắc, thọ, tưởng, hành, hay thức- đều đem lại
đau khổ.
• Khi tâm sợ hãi phát sinh, hãy quán sát nó phát triển, rồi qua đi như thế
nào.
• Tình thương yêu, là cảm giác của sự tương quan với tất cả mọi chúng sanh
và là ước muốn chân thành mong tất cả được hạnh phúc, tạo ra những ảnh
hưởng rất sâu đậm.
• Sân hận cuối cùng sẽ gây tổn hại cho ta nhiều hơn người khiến ta nổi sân;
hãy rèn luyện để chế ngự cơn giận của mình.
• Chánh niệm có thể giúp chúng ta giảm thiểu và dần dần đoạn diệt sân
hận.
• Lòng bi mẫn (tâm từ bi) là một cảm giác rung động trong lòng khi thấy
người khác đau khổ, cộng với ước muốn giải thoát nỗi khổ cho họ.
• Phát khởi tâm từ bi đối với bản thân, với cha mẹ, con cái và người phối
ngẫu sẽ giúp bạn an tĩnh và làm êm dịu trái tim bạn.
• Trong lúc tọa thiền nếu có những tâm pháp bất thiện phát sinh, thì chúng
sẽ nhanh chóng qua đi, nếu bạn chỉ chú tâm đến tính chất vô thường của
chúng.
• Nếu dòng tư tưởng tiêu cực vẫn lảng vảng trong tâm, dầu chúng ta đã cố
gắng hết sức, thì đó là dấu hiệu để chúng ta quán sát nó thấu đáo hơn -để
phát triển tuệ giác đối với các thói quen hằng ngày.
• Quán tưởng về những tâm pháp bất thiện là một phần quan trọng trong
sự hành thiền.
• Thực hành Chánh Tư Duy khi ngồi thiền có thể giúp chúng ta kiểm soát
được sự sợ hãi, sân hận, và tham luyến trong cuộc sống đời thường.
107
CHÁNH NGỮ (BƯỚC 3)
Hãy thử nghĩ xem bạn đã bao lần tự nhủ như thế này, "Phải chi tôi đừng nói
những lời như thế," hay "Nhìn nét mặt, tôi biết những lời tôi nói đã xúc
phạm đến bạn." Những lời nói không khéo, những lời nói quá đáng mang
đến cho ta bao phiền não. Khi nói dối, chúng ta bị lộ tẩy. Nói xấu bạn, ta
gây bao phiền phức cho bạn; nói năng thiếu nghĩ suy, ta làm phật lòng
khách hàng hay bè bạn; nói chuyện phù phiếm, ta mất thời gian và không
làm được việc gì.
Những thói xấu trong lời nói không phải là điều mới lạ gì. Đức Phật đã coi
việc rèn luyện chánh ngữ rất quan trọng đến sự phát triển cá tính và tâm
linh đến nỗi Ngài đã tạo ra một ngành riêng biệt cho nó trong Bát Chánh
đạo, con đường đưa đến hạnh phúc. Đức Phật dạy rằng, Chánh Ngữ có bốn
đặc tính: Chúng là những lời chân thật, Chúng khiến người ta phấn khởi,
không phải là những lời ác độc hay cay đắng mà đem lại niềm vui. Chúng
nhẹ nhàng, không thô lỗ hay cộc cằn. Chúng khiêm cung, không vô ích hay
vô nghĩa.
Đức Phật dạy rằng, người thường nói lời dịu dàng, tử tế, sẽ nhanh chóng
được tin cậy và tôn trọng. Người như thế sẽ được hưởng một trạng thái tâm
bình lặng và thanh tịnh và có thể giao tiếp với người khác một cách thân
thiện. Thí dụ, bạn có để ý rằng người ta thường nói với bạn bằng cung cách
mà họ nghe bạn nói không? Nếu ta thường phóng đại hay nói dối, người
khác cũng thấy dễ nói dối lại với chúng ta. Nếu ta có thói quen nói xiên xỏ,
người khác cũng thấy dễ nói cộc cằn trở lại. Ngược lại cũng thế. Nếu chúng
ta thường nói lời chân thật, thì lời nói của ta được người tin hơn. Nếu ta
thường kín miệng, người khác cũng khó nói xấu về ta. Nếu lời nói của ta
luôn tử tế, dịu dàng, người khác cũng thấy xấu hổ khi dùng lời thô tục hay
cộc cằn trước mặt ta.
Rõ ràng là lời nói tạo ra một môi trường để chúng ta vun vén cho hạnh phúc
hay phá hoại nó. Chúng ta biết như thế vì chính kinh nghiệm bản thân cho
108
ta thấy rằng ta hành động hay nghĩ suy như thế nào là do ảnh hưởng nặng
nề của những lời nói ở quanh ta. Một trong những vị tỳ kheo ni đầu tiên của
Đức Phật đã có nhận xét bằng thơ văn như sau:
Nếu kết thân với thiện tri thức,
Thì kẻ ngu cũng thành khôn.
(Thig 213)
Nếu muốn được trở nên khôn ngoan, chúng ta không những phải tìm thiện
hữu tri thức, mà còn phải là thiện tri thức đối với người khác. Để làm được
như thế đòi hỏi chúng ta phải có sự nỗ lực đầy chánh niệm trong việc thực
hành Chánh Ngữ. Một câu chuyện dân gian Phật giáo đã minh họa lời nói
có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành động của chúng ta như thế nào:
Một vị tu sĩ trong tăng đoàn của Đức Phật có thói quen dự những bữa ăn
thịnh soạn với một nhóm người do tu sĩ đầy ác hạnh, Bồ Đề Đạt Đa dẫn dắt.
Bị cám dỗ trước những món ăn ngon mà những người này cúng dường, vị
tu sĩ kia thường dành nhiều thời gian giao du với đám bạn bất thiện này.
Đức Phật đã quở trách vị tỳ kheo vì đã chọn những người bạn như thế và
cảnh cáo ông về những hậu quả của hành động đó. Để thuyết phục vị tỳ
kheo đó thay đổi thái độ, Đức Phật đã kể cho ông nghe câu chuyện về một
sự kiện đã xảy ra trong kiếp trước, trong đó vị tỳ kheo đã bị đi lầm lạc bởi
những lời bất thiện, cộc cằn của những người ở quanh ông.
Đức Phật nói, trong một tiền kiếp, vị tỳ kheo là một con voi to lớn thuộc
dưới quyền nhà vua. Con voi này được biết đến vì dáng vẻ khoan thai, dịu
dàng của nó. Rồi một nhóm đạo tặc có thói quen tụ tập gần chuồng voi mỗi
đêm để bàn thảo về những âm mưu đen tối của họ. Họ nói với nhau một
cách cộc cằn và khuyến khích nhau phạm tội sát nhân cũng như các những
hành động độc ác khác. Con voi bắt đầu tin rằng những lời thô tục kia cốt ý
là để dạy nó rằng nó phải hành động một cách tương tự như thế. Kết quả là
con voi dịu hiền trước đây trở thành một con voi dữ, giết hại bất cứ ai muốn
đến gần nó.
109
Nhà vua là người chủ voi gửi một vị đại thần - là vị Phật tương lai- đến để
xét xem điều gì đã làm hư con voi hiền kia. Vị đại thần đã nghe được những
lời nói ác độc của bọn cướp và nhận thấy chúng đã ảnh hưởng đến con voi
như thế nào. Ông khuyên nhà vua hãy gởi những vị thánh hiền học cao hiểu
rộng, có tiếng vì những lời nói dịu dàng của họ, đến để nói chuyện gần
chuồng voi mỗi đêm. Những lời nói thân thiện và tốt đẹp chẳng bao lâu ảnh
hưởng đến con voi khiến nó trở về với bản chất hiền lành và nó chẳng bao
giờ ác độc nữa. (J 26)
Chánh ngữ có thể cải thiện cuộc sống của ta về nhiều phương diện. Giá như
ta chẳng bao giờ phải hối hận về bất cứ điều gì ta đã nói! Chúng ta sẽ trút
được bao gánh nặng.
Hãy phân tích thấu đáo hơn về bốn đặc tính của Chánh Ngữ, xét xem chúng
có thể giúp ta như thế nào trên con đường đi đến hạnh phúc.
Nói Sự Thật
Đặc tính đầu tiên của Chánh Ngữ là luôn nói sự thật. Đức Phật dạy chúng
ta, đừng bao giờ nói dối dầu vì lợi ích của bản thân, hay lợi ích của ai đó,
hay vì bất cứ sự lợi ích gì. Đức Phật đã tóm tắt những lời hướng dẫn cho
việc nói sự thật như sau:
Khi (ai đó) được hỏi làm nhân chứng, "Này bạn, hãy nói những gì bạn
biết": khi biết, thì nói, "tôi biết"; không biết, thì nói, "Tôi không biết";
không thấy, thì nói, "Tôi không thấy"; nếu thấy, thì nói, "Tôi thấy"; không
cố ý nói sai sự thật vì ích lợi của mình hay của ai đó, hay cho những lợi ích
tầm thường trong thế gian. (M 41)
Cũng có khi chúng ta được hỏi một câu hỏi mà thái độ im lặng cũng hàm ý
một sự trả lời gì đó. Nếu sự im lặng của chúng ta sẽ phản ảnh một điều sai
sự thật, thì chúng ta phải lên tiếng. Thí dụ, một người cảnh sát điều tra ở
một nơi vừa xảy ra án mạng hỏi đám đông đứng quanh là họ có nhìn thấy gì
không. Nếu mọi người đều giữ im lặng, vị cảnh sát sẽ kết luận rằng không
có ai chứng kiến sự việc xảy ra. Nếu có ai đó trong đám đông là nhân chứng,
thì họ đã nói dối bằng cách giữ yên lặng. Họ có thể cảm thấy rằng mình có
110
đầy đủ lý do để không nói gì như là sợ bị trả thù, nhưng sự im lặng của họ
dầu gì cũng là một sự dối trá. Chúng ta cũng có thể nói dối bằng ngôn ngữ
của thân. Đôi khi một cái nhún vai hay nhíu mày có thể bị lầm hiểu là "Tôi
không biết", nhưng nếu bạn thực sự biết, thì cái nhún vai của bạn là một sự
lừa dối.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp, khi sự thật cần phải được giữ kín vì
nếu nói ra có thể làm hại người khác. Trong những trường hợp như thế,
chúng ta phải đợi đến lúc thích hợp để nói lời thích hợp cho người thích
hợp. Chính Đức Phật cũng thường giữ yên lặng khi câu trả lời của Ngài có
thể làm tổn hại đến ai đó. Có lần một người đã tham vấn với Đức Phật rằng
có đời sống sau khi chết không. Đức Phật chỉ ngồi giữ im lặng cho đến khi
người kia bỏ cuộc và đi nơi khác. Sau đó, Ananda, thị giả của Ngài, thưa hỏi
vì sao Phật không trả lời. Đức Phật giải thích rằng bất cứ câu trả lời nào
cũng sẽ khiến người kia đau khổ. Nếu Ngài trả lời rằng có một đời sống sau
khi chết, Đức Phật biết rằng người đó sẽ suy luận rằng có một bản ngã hiện
hữu bất diệt, là một tri thức sai lầm đưa đến khổ đau. Nhưng nếu Ngài trả
lời rằng không, người kia cũng sẽ phát triển một sự hiểu lầm khác, khi nghĩ
rằng, "Nếu thế thì tôi sẽ không còn tái sinh nữa!" và sẽ đau khổ vô cùng vì
điều đó. Để tránh làm người đó đau khổ, Đức Phật quyết định giữ im lặng.
Đức Phật đã đặt ra những quy ước theo đó mà Ngài quyết định là sẽ trả lời
hay giữ yên lặng. Nếu Ngài biết điều gì đó không đúng, sai sự thật, hay
không ích lợi, thì Ngài sẽ không nói điều đó. "Những lời như thế [Đức Phật]
không nói". Nếu Ngài biết một điều gì đó là đúng, là có thật, là ích lợi, thì
"[Đức Phật] biết lúc để sử dụng lời nói." Nếu lời nói của Ngài là đúng, là sự
thật, có ích lợi, và đúng thời điểm, thì Đức Phật sẽ nói dầu rằng những lời
của Ngài sẽ "bị người khác chống đối hay không đồng ý," hay "được người
khác tiếp nhận và đồng ý." (M 58) Với lòng bi mẫn sâu xa và chú tâm hoàn
toàn đến lợi ích của người, Đức Phật chẳng bao giờ nói để "làm vừa lòng
người khác." Chúng ta có thể học rất nhiều từ đức hạnh của Ngài.
Khi tôi định nói những lời không đúng theo quy ước của Đức Phật, tôi tự
nhắc nhở rằng nếu mở lời, tôi không được ích lợi gì, mà cũng không ai được
gì, hay mất gì bởi sự im lặng của tôi. Thí dụ, tôi đang trao đổi với bạn bè,
111
một trong những người đó làm chủ câu chuyện. Tôi cũng có điều để nói và
cảm thấy mất kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng tôi quán tưởng những điều tôi
muốn nói và biết rằng chúng đúng đối với các sự kiện đã qua, đúng đối với
các dữ liệu đang có và chúng sẽ ích lợi cho người nghe. Tuy nhiên, nếu tôi
nói ra ngay lập tức, tôi sẽ xúc phạm người đang nói. Như thế là không đúng
thời điểm, nên tôi lại tự nhủ rằng tôi sẽ không được lợi ích gì nếu nói không
đúng thời điểm, mà cũng không có ai được ích lợi, hay mất mát gì bởi sự im
lặng của tôi. Tôi có thể nói những gì cần nói ở lúc khác.
Lời Nói Không Phải Là Vũ Khí
Tính chất thứ hai của Chánh Ngữ là tránh nói thâm độc (tà ngữ). Như một
câu nói dân gian đã dạy rằng: "Lưỡi là một vũ khí không có xương bị dính
giữa hai hàm răng." Khi chúng ta nói lời cay độc, lưỡi tuôn ra những gươm
đao. Những lời đó sẽ khiến người ta mất danh dự, mất uy tín. Dầu điều mà
chúng ta nói về ai đó đúng sự thật, nhưng nếu mục đích nói là để gây tổn
hại cho người đó, thì là thâm độc.
Đức Phật định nghĩa tà ngữ là những lời nói sẽ cắt đứt tình bằng hữu giữa
hai người. Đây là một thí dụ: Giả dụ trong một chuyến đi tôi gặp một người
quen của bạn tôi, đang sống ở xa. Tôi nhớ rằng vài tháng trước đó, bạn tôi
đã kể một câu chuyện chẳng hay ho gì về người này. Tôi có thể không nhớ
hoàn toàn câu chuyện, nên đã thêm thắt một ít khi lặp lại câu chuyện. Tôi
còn làm cho nó có vẻ như tôi đang giúp người đó biết rằng bạn tôi đã nói
sau lưng anh ta. Người nghe đó phản ứng một cách nóng nảy. Khi về, tôi lặp
lại những lời nói của người đó với bạn tôi, lại thêm thắt một chút để câu
chuyện hấp dẫn hơn. Vì việc làm đó gây ra sự bất đồng và đổ vỡ một tình
bạn, thì những lời nói như thế là tà ngữ.
Đôi khi chúng ta ngụy trang tà ngữ như là sự lo lắng, quan tâm về hành
động của người khác. Hay chúng ta tiết lộ một bí mật mà ai đó đã tin tưởng
nói cho ta nghe, tin rằng ta làm như thế "là vì lợi ích của họ." Thí dụ, nói với
một phụ nữ rằng chồng bà không trung thành vì "bạn không muốn bà ấy là
người cuối cùng khám phá ra", có thể gây ra nhiều đau khổ hơn cho tất cả
mọi người liên quan. Khi bạn định nói trong cách đó, hãy tự hỏi xem mục
112
đích của bạn là gì. Nếu là để tỏ ra hơn người khác, để được ai đó mang ơ
cảm kích, thì lời nói của bạn là để thỏa mãn tự ngã và thâm độc hơn là đ
đức.
Lời nói ở nơi công cộng cũng có thể thâm độc như thế. Những tờ báo lá c
các chương trình truyền thanh trực tuyến hay các phòng chat (nói chuyệ
trên internet, và ngay cả một số những phương tiện truyền thông đáng t
cậy dường như đều kiếm sống bằng cách sử dụng lời nói, ngôn ngữ như
một vũ khí. Thí dụ những tin tức nóng hổi về những điều mới xảy ra tro
tuần là nhắm đến việc làm tăng thêm số lượng độc giả và số tiền quảng cá
Những lời thâm độc sẽ hạ người này xuống để tâng bốc người kia lê
Chúng khiến người nói này có vẻ bản lĩnh, thông minh, hay chịu chơi khô
kể gì đến quyền lợi của người khác.
Không phải tất cả các tà ngữ đều thô tục. Đôi khi người ta sử dụng nhữ
lời có vẻ dịu dàng, êm ái nhưng mà ý thì thâm độc. Những lời nói gươ
giáo nguỵ trang như thế thì còn nguy hiểm hơn là những lời ác độc bộc tr
vì chúng dễ đi sâu vào tâm trí người nghe. Trong ngôn ngữ hiện đại, chú
ta gọi cách nói đó là "lời khen đâm sau lưng." Thí dụ như khi chúng ta n
với ai đó, "Bạn thiệt là khôn ngoan khi sửa lại nhà cũ thay vì dọn đến m
khu dân cư sang trọng hơn," hay "Tóc bạn bạc trông đẹp quá. Vẻ già d
thật thích hợp với nghề nghiệp của bạn." Chánh Ngữ không chỉ có nghĩa
ta phải quan tâm đến những lời nói, giọng nói mà còn đòi hỏi rằng lời n
của ta phản ảnh lòng bi mẫn và sự quan tâm đối với người khác và rằ
chúng hỗ trợ, chữa lành hơn là gây thương tích và hủy diệt.
Lời Nói Hòa Nhã
Loại tà ngữ thứ ba là lời cộc cằn, thô lỗ. Xúc phạm bằng lời nói, nói cay độ
xiên xỏ, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời hay chửi rủa thậm tệ, tất cả đ
là thí dụ của lời nói cộc cằn, thô lỗ.
Lời nói là một công cụ đầy quyền lực có thể được dùng cho việc tốt hay vi
xấu. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa:
Mỗi người sinh ra đời
113
được sinh ra với cái búa trong miệng.
Kẻ ngu dùng những lời thô tục
là tự làm mình và người khác bị thương
bằng cái búa đó.
(Sn 657)
Có lẽ chúng ta chỉ nghĩ đến cái búa như một dụng cụ để chặt củi đốt. Nhưng
trong thời Đức Phật, cái búa là một dụng cụ sắc bén, và hiểm nguy. Nó được
dùng để xẻ các thân gỗ dài, để chạm khắc, đục gỗ rất chính xác. Nó có thể
đốn hạ cây cao. Và nó là một vũ khí nguy hiểm, một phương tiện ghê gớm
có thể làm thương tật hay sát hại người. Có thể so sánh tương tự với chiếc
máy vi tính ở thời hiện đại. Máy vi tính có thể dùng để làm nhiều việc hữu
ích -để trao đổi xuyên lục địa, tạo ra âm nhạc, hay phóng hỏa tiển lên hành
tinh Mars. Nhưng chúng cũng được sử dụng cho mục đích phá hoại. Người
ta dùng vi tính để bắn tên lửa và điều khiển các loại vũ khí khác trong chiến
tranh.
Giống như khi phải chọn lựa sử dụng khả năng của chiếc búa hay máy vi
tính như thế nào, chúng ta cũng phải chọn lựa sẽ sử dụng lời nói như thế
nào. Ta có dùng lời nói để cảnh tĩnh, an ủi, khuyến khích người khác không?
Hay là ta sẽ dùng lời nói để hạ gục họ, và làm thương tổn bản thân trong
quá trình đó? Lời nói xiên xỏ, đồn đại ác ý, nói dối, hay những câu nói đùa
thô tục, vô tâm không chỉ xúc phạm người khác mà cũng khiến cho bản thân
ta giống như những kẻ ngu không thể sử dụng cái búa trong miệng mà
không tự làm chảy máu bản thân.
Chúng ta cũng là kẻ khờ nếu nghĩ rằng lời nói cộc cằn, thô lỗ có thể làm
được việc gì một cách tích cực. Dầu ta có thể cảm thấy rất hài lòng khi hạ
được người nào -cho họ biết tay ta- nhưng đó không phải là một chiến
thắng tốt đẹp gì. Như Đức Phật đã dạy:
Kẻ ngu nghĩ rằng mình đã thắng
114
với những lời nói cộc cằn thô lỗ.
Nhưng biết làm thế nào để tự kiềm chế
Chỉ việc đó đã là chiến thắng.
(SI.7.1 [3])
Dùng lời thô lỗ, xúc phạm để khiến người khác phải im lặng là việc dễ dàng.
Một người đối đầu khôn ngoan thường sẽ rút lui khỏi một sự chạm trán như
thế và phản ứng lại bằng sự im lặng lạnh lùng. Ta có thể tự khen mình và
nghĩ, tôi đã thực sự dạy chó hắn một bài học -hắn ta im ngay khi nghe nói.
Nhưng sự chiến thắng bên ngoài đó của ta rất nông cạn. Người đối đầu với
ta có thể đã thề chẳng bao giờ giao tiếp với ta nữa, hay thề sẽ bí mật trả thù
ta một lúc nào đó trong tương lai. Ác tâm và những khổ thọ mà ta tạo ra cho
người, sẽ dội trở lại và ta sẽ hứng chịu hậu quả lúc không ngờ nhất.
Không khó tìm ra các thí dụ khác về những ảnh hưởng tiêu cực của lời nói
thô lỗ. Thí dụ bạn có một đồng nghiệp rất giỏi, rất thông minh về kỹ thuật,
nhưng cách ăn nói của anh ta có nhiều vấn đề. Anh ta gây hiềm khích với
các bạn đồng nghiệp vì những lời thô lỗ, cộc cằn, cao ngạo, cay độc, và miệt
thị. Vì thế, dầu công việc anh ta làm rất tốt, không ai có thể chịu đựng nổi
anh, kết quả là anh không có đường tiến thân.
Một thí dụ khác đáng buồn hơn là ảnh hưởng tiêu cực của lời nói thô lỗ, cộc
cằn đối với trẻ em. Chúng ta ai chẳng từng nghe các bậc cha mẹ nói với con
cái mình, "Mày thiệt là nhục," "Mày không thể làm gì đúng," "Mày sẽ
không làm nên tích sự gì." Có thể chúng ta cũng nhớ đã từng bị nói như thế
khi còn nhỏ. Sự xúc phạm bằng lời nói có thể để lại những vết thương không
bao giờ lành trong tâm hồn đứa trẻ. Dĩ nhiên, đôi khi cha mẹ cũng phải
dùng lời lẽ cứng rắn với con cái để chúng không làm những chuyện nguy
hiểm, như là chơi với diêm quẹt hay chạy chơi ngoài đường. Nhưng những
lời nói cứng rắn đó phát xuất từ tình thương, lòng lo lắng, chứ không phải
bằng chủ ý muốn hạ nhục hay hăm doạ.
115
Ngay chính thú vật cũng bị ảnh hưởng bởi những lời cộc cằn. Cháu trai tôi
có một con chó Alaska, tên là Taurus. Taurus rất tò mò về những con thú nò
thấy trên ti vi. Nó còn định cắn chúng nữa. Vì quá bự, nên khi Taurus bị
cuốn hút bởi cái gì nó thấy trên màn hình, là nó đứng che khuất tầm nhìn
của người ngồi sau nó. Bữa nọ, một người la lên, bảo Taurus tránh qua một
bên. Giọng nói của người đó rất bực dọc, nghiêm khắc. Taurus phản ứng lại
bằng cách bỏ đi xuống tầng hầm dưới nhà. Nó ở đó suốt tuần, không chịu
ra, ngay cả để ăn. Thỉnh thoảng nó chạy ra ngoài để giải quyết các vấn đề
khác, rồi chạy ngay xuống đó. Cuối cùng, gia đình phải năn nỉ nó, dùng
những lời nhẹ nhàng, êm ái thì Taurus mới trở lên với họ.
Những lời nhẹ nhàng của gia đình cháu tôi đã giúp họ tìm lại được sự thân
thiện của con chó mà họ yêu quí. Lời tử tế, như Đức Phật đã dạy, luôn thích
hợp và được hoan nghênh:
Hãy nói lời tử tế
những lời làm người ta vui vẻ đón nhận,
những lời không ác ý với ai;
hãy luôn nói lời từ ái với người khác.
(Sn 452 [do Thượng Tọa S. Dhammika dịch])
Nói với ai đó, "Tôi thực sự cảm kích những việc bạn làm," "Bạn đã giải
quyết vấn đề đó thật tốt đẹp," hay "Thật vui được gặp anh". Những lời nói
đó sẽ làm ấm lòng người nói cũng như người nghe. Lời nói dịu dàng là mật
ngọt trên môi. Bày tỏ sự thán phục hay biết ơn sẽ khiến mọi người cảm thấy
hạnh phúc hơn. Chúng giúp ta tạo ra và giữ được tình bằng hữu, vì ai cũng
muốn liên hệ với người mà lời nói nhẹ nhàng, dịu dàng khiến người nghe
cảm thấy thư thái, dễ chịu. Lời nhẹ nhàng, dịu dàng giúp trẻ em trưởng
thành với cảm giác tự tin về giá trị bản thân. Những lời nói như thế cũng
giúp ta dễ học hỏi và tri ân giáo lý của Đức Phật.
Nếu ta nói lời tử tế, khôn ngoan, thì hạnh phúc mà ta có thể ban trải cho
người chung quanh trở nên vô hạn.
Nhưng hãy cẩn trọng: lời dịu dàng, tử tế phải thành thật và phát xuất từ một
mục đích cao thượng. Nói lời nhẹ nhàng, êm ái trong khi suy nghĩ hay làm
điều ngược lại là giả dối, không phải là một đức hạnh. Tất cả chúng ta đều
biết có những vị lãnh đạo tôn giáo dùng lời ngọt bùi để truyền bá sự sợ hãi
hay kêu dụ người ta gởi tiền đến cho tổ chức của họ. Tôi còn nhớ có một
người Tích Lan đã đi khắp xứ tuyên truyền chống lại sự độc hại của rượu.
Nhờ vào tài ăn nói đó, người này đã được nổi tiếng, có quyền lực và được
nhiều người biết đến, lôi kéo được nhiều đám đông tin theo. Ông ta hô hào
chiến dịch để đóng cửa các quán bar, hủy bỏ các quán rượu, và cấm bán
rượu. Vào một ngày hè nóng nực, trong lúc đang diễn thuyết một cách hùng
hồn, người kia cởi áo vest ra một cách vội vả. Một chai rượu nhỏ từ trong túi
áo của ông rớt ra và rơi xuống sàn sân khấu. Thế là chấm dứt chương trình
kêu gọi cấm uống rượu, và cũng chấm dứt luôn sự nghiệp chính trị của ông.
Mặc dầu những gì người đó nói về sự độc hại của rượu là đúng, nhưng một
khi người nghe thấy được sự giả dối của ông, họ không còn muốn nghe ông
nữa.
Tránh Nói Chuyện Phù Phiếm
Loại tà ngữ thứ tư là nói chuyện phù phiếm, mà Đức Phật gọi là những lời
nói vô nghĩa hay u mê.
Nói sau lưng người (gossip) là tà ngữ, không cần biết những gì chúng ta nói
về người đó có đúng hay không. Suy cho cùng nếu ba người kể một câu
chuyện với một người thứ tư, thì mỗi câu chuyện lại khác nhau. Bản tánh
con người thường tin vào bất cứ điều gì chúng ta nghe trước, dầu đó có thể
chỉ phản ảnh quan điểm của một người. Những điều nói đó có thể dựa trên
sự thật, nhưng lời nói sau lưng thường được phóng đại, thêm thắt.
Nói sau lưng thường dẫn đến tranh cãi và hiểu lầm. Nó có thể làm tan vỡ
những mối liên hệ. Trong những trường hợp nghiêm trọng, nó có thể đưa đến khiếu kiện vì đã mạ lỵ hay làm mất danh tiếng người khác. Vào thời
Đức Phật, hành động này còn có thể lật đổ cả một liên bang:
Dân tộc Licchavi là một bộ tộc độc lập, kiêu hãnh, một trong những thành
viên có quyền lực và quan trọng nhất của một liên bang hùng cường của
tám dòng tộc. Thủ đô của họ là thủ đô của liên bang. Vua Ajatasattu, một vị
đế vương đầy tham vọng, người ủng hộ của vị tà sư Bồ Đề Đạt Đa, dự định
sẽ xâm chiếm và đánh bại dân tộc Licchavi. Tuy nhiên, vị vua này cũng
tham khảo ý kiến của Đức Phật về dự định xâm chiếm này. Đức Phật nói
dân tộc Licchavi sống rất hòa hợp, và khuyên nhà vua, "Ngài không thể
xâm lấn, chế ngự họ khi họ còn biết đoàn kết và hòa hợp với nhau." Nhà
vua hoãn lại việc xâm lăng và suy nghĩ về lời của Phật.
Sau đó vua Ajatasattu nghĩ ra một kế đơn giản nhưng ác độc. Nhà vua
truyền cho vị thủ tướng của mình nói nhỏ điều gì đó vào tai của một người
Licchavi. Vị quan này đến gặp một người Licchavi và nói nhỏ một cách bí
mật, "Có lúa trên ruộng đồng." Đó chỉ là một câu nói vô nghĩa, tầm thường.
Ai cũng biết lúa có thể được tìm thấy ngoài đồng ruộng.
Nhưng khi thấy hai người thầm thì, một người Licchavi khác bắt đầu suy
đoán không biết thủ tướng của vua Ajatasattu đã nói gì với bạn mình. Nên
anh ta đến hỏi, thì người kia lặp lại câu nói là có lúa ngoài ruộng. Nghe vậy,
người Licchavi thứ hai đã nghĩ, "Anh ta đang giấu sự thật. Anh ta không tin
tôi. Anh ta tự đặt ra câu nói xuẫn ngốc về ruộng lúa để lừa dối ta." Mang
đầy nghi ngờ trong lòng, người này lại đến nói với một người Licchavi khác
nữa rằng có người đã thầm thì với vị thủ tướng của vua Ajatasattu. Người
đó lại kể cho người khác nữa nghe, và cứ thế, cho đến khi mọi người tin
rằng người đàn ông kia là gián điệp và đã có một hội kín được bí mật thành
lập trong cộng đồng của họ.
Vậy là hòa bình tan vỡ. Người Licchavi kết tội lẫn nhau, rồi sinh ra tranh
cãi, và chiến tranh bùng nổ giữa các gia đình lãnh đạo trong liên bang. Nhận
thấy kẻ thù của mình đang mất đoàn kết, vua Ajatasattu khởi quân xâm lấn
dân tộc Licchavi, và đã thắng trận dễ dàng. Sau đó, nhà vua lại tiếp tục xâm
chiếm những bộ tộc còn lại.
118
Tôi không cần nghe những câu chuyện như thế mới biết rằng lời nói sau
lưng người nguy hiểm thế nào. Chính bản thân tôi đã kinh nghiệm được
điều đó. Hình như bất cứ khi nào có ai đó cố gắng làm điều gì tốt cho xã
hội, thì là có người cảm thấy phải chống lại sự nỗ lực đó. Có thể họ cảm thấy
bất an hay ganh tỵ với sự thành công của người khác. Loan tin đồn là vũ khí
của họ. Họ không phải ra mặt và đưa ra bằng chứng gì. Họ chỉ cần thầm thì
những điều tai hại, rồi dựa vào sự sẵn lòng tham gia của người khác vào
những câu chuyện vô ý thức để hoàn thành việc làm xấu xa của họ.
Lần đầu tiên khi chúng tôi cố gắng gây quỹ để xây dựng trung tâm thiền, có
người đã loan tin đồn về hội Bhavana. Họ nói rằng tôi lợi dụng các ân nhân,
dự định sử dụng nguồn kinh phí mà chúng tôi đã kêu gọi được để bắt đầu
một cuộc kinh doanh mờ ám kiếm lợi. Những lá thư nặc danh được gởi đến
những người có vai trò quan trọng, bảo họ đừng nên đóng góp. Những tin
đồn đó được tạo dựng với ác ý, nhưng chúng lại được loan truyền bởi
những người không biết sự thật. Cộng đồng Phật giáo nơi tôi sống, lúc ban
đầu đã tỏ ra rất sốt sắng, sau đó trở nên lung lay chia rẽ. May mắn thay
những người chống đối sự xây dựng của hội Bhavana không tìm được bằng
chứng thực sự nào để phóng đại lên, nếu không họ đã hoàn toàn phá hoại
được nỗ lực của chúng tôi.
Khi nào người ta còn sẵn lòng tin vào những gì người khác nói và lặp lại
những điều đó một cách vô tâm, thì tin đồn sẽ còn loan truyền. Một lần kia
một thành viên người Mỹ trong Ban điều hành của hội Bhavana đến Tích
Lan. Khi ở đó, ông đã gia nhập một nhóm những người hành thiền đến từ
nhiều xứ sở khác nhau, họ đã nói về các trung tâm thiền ở khắp nơi. Có
người nhắc đến Hội Bhavana trong buổi họp mặt đó, và một phụ nữ đã
tuyên bố, "Ồ! Đó là trung tâm mỗi tối đều có tiệc trà!" Khi vị thành viên
trong Ban điều hành của chúng tôi phản đối, thì bà ta nhất quyết là bà đã
nói sự thật. Cuối cùng, vị thành viên phải nói, "Tôi đã biết Sư Gunaratana
từ 1971, và đã tham gia vào việc thành lập Hội Bhavana từ những ngày bắt
đầu. Tôi biết chắc không hề có tiệc trà gì ở đó cả." Nếu không có người biết
chuyện có mặt, thì đã không có ai có thể phải bác lại lời tuyên bố của người
phụ nữ kia. có thể người khác lại còn thêm thắt nhiều điều không đúng sự
thật và tai hại hơn nữa. Đó là cách mà tin đồn được tạo ra và nócó thể làm
119
tổn hại đến cá nhân cũng như các tổ chức như thế nào. Nếu chúng ta nghe
ai đó tung tin đồn hay thông tin tai hại, ta có hai chọn lựa: hoặc là ta chấm
dứt câu chuyện hay là ta không tán đồng với tin đồn thất thiệt, như vị thành
viên trong ban diều hành của chúng tôi đã làm.
Nhưng trong lời dạy của Đức Phật khuyên ta nên kiềm chế việc nói xấu, còn
có khía cạnh sâu xa, mới mẻ hơn. Phần đông chúng ta bỏ nhiều thì giờ nói
về những món ta đã ăn mấy ngày hay mấy tháng trước đó, hay nhớ đến
những chi tiết trong một bộ phim hay một chương trình truyền hình nhảm
nhí nào đó mà ta đã xem. Chúng ta còn hoang phí thời gian để nói những
câu chuyện chọc cười thiên hạ. Những câu chuyện này chẳng ích lợi gì cho
sự phát triển trí tuệ của ta. Khi ta nghĩ đến cuộc sống ngắn ngủi thế nào và
chúng bị cướp mất đi do tai nạn, bệnh hoạn, thì ta có thực sự muốn lãng phí
thời gian quí báu bằng những cuộc chuyện trò phù phiếm không?
Cũng đúng là có những câu chuyện dường như không quan trọng hay vô bỗ
nhưng thực ra chúng được nói với một mục đích quan trọng. Đôi khi chúng
ta phải dùng những lời nhẹ nhàng vô nghĩa để an ủi ai đó hay để nối kết
tình thâm với con cái. Tất cả những lời nói chánh niệm xuất phát từ tình
thương yêu và lòng bi mẫn đều là một phần được chấp nhận của Chánh
Ngữ. Phương cách để xét đoán là dừng lại và tự hỏi mình trước khi nói:
"Điều tôi sắp nói có đúng sự thật không? Có tử tế không? Có ích lợi không?
Có hại cho ai không? Đây có phải là thời điểm để nói ra điều ấy không?"
Chánh Niệm Về Chánh Ngữ
Chánh Ngữ không phải là điều mà bạn có thể thực hành trên gối thiền. Nó
xảy ra trong khi trò chuyện, không phải lúc lặng thinh. Tuy nhiên trong lúc
ngồi thiền, ta có thể quán tưởng đến thói quen ăn nói của mình và cố gắng
chuyển hóa các tâm pháp bất thiện thành các tâm pháp thiện -xuất phát từ
tâm xả, tình thương yêu và lòng bi mẫn. Ta có thể phân tích những hành
động trong quá khứ và tự hỏi: "Những điều tôi nói hôm qua có đúng
không? Tôi có dùng lời tử tế, dịu dàng, chân thật và có ý nghĩa không?" Nếu
nhận thấy rằng mình đã sai trên một khía cạnh nào đó, ta phải nguyện hoàn
thiện tâm chánh niệm về Chánh ngữ.
120
Cách tốt nhất là suy nghĩ trước khi nói. Người ta thường nói, "Hãy giữ
miệng!" Nhưng đúng hơn là phải giữ tâm bạn. Miệng lưỡi không thể tự
động làm được gì. Chính là tâm điều khiển nó. Trước khi mở miệng, hãy
quán sát lại tâm xem động lực hành động có thiện không. Ta sẽ phải ăn năn
hối hận nếu có lời nào xuất phát từ tâm tham, sân, hay si.
Ngoài ra cũng phải quyết tâm mạnh mẽ là không nói bất cứ điều gì để có thể
tổn thương người khác. Chắc chắn rằng tâm nguyện này sẽ giúp ta suy nghĩ
cẩn thận trước khi nói. Khi nói với tâm chánh niệm, tự động ta sẽ nói lời
chân thật, dịu dàng, êm ái. Chánh niệm sẽ giúp ta kiềm chế không sử dụng
những lời nói như gươm đao có thể làm người ta đau đến tận xương tủy.
Nếu tác ý muốn nói lời ác độc khởi lên, thì lập tức dùng chánh niệm và
Chánh Tinh Tấn để ngăn cản các tư tưởng đó không kéo dài.
Lời nguyện không làm tổn thương người khác bằng lời nói trở nên đặc biệt
quan trọng khi phải nói với người mà bạn ác cảm, hay khi tranh luận về
những vấn đề mà bạn ủng hộ mạnh mẽ. Hãy cẩn thận! Chỉ sử dụng những
lời dịu dàng, được chọn lựa kỹ càng. Trong những trường hợp đó, lời nói
nhẹ nhàng, êm dịu giúp ta giữ được hòa khí và giúp cho sự trao đổi, thảo
luận được tiếp tục trong bầu không khí thân thiện, mang lại ích lợi cho mọi
người.
Nếu có ai đến bên bạn với thái độ giận dữ -cằn nhằn hay nói xấu về một
trong những người bạn của mình, thí dụ như thế- khiến bạn cảm thấy bực
tức, thì tốt nhất là đừng nói gì. Hãy tự thầm nhắc nhở, "Ta không được có
phản ứng. Ta không nên đánh mất chánh niệm như người kia. Tranh cãi
chẳng ích lợi gì. Tôi quyết chỉ tham gia vào những câu chuyện có ích."
Người kia sẽ phản ứng lại sự im lặng của bạn bằng cách ngưng nói những
điều làm bạn bực mình. Bạn có thể nhân đó, hướng câu chuyện đến một đề
tài tốt hơn.
Thật ra, là người Phật tử thì ngay giây phút ta biết câu chuyện bế tắt, không
đi đến đâu, ta phải có trách nhiệm để chuyển hướng nó. Thật dễ bị quá đà
với những cuộc tranh cãi chuyện tình cảm, đưa đến la hét. Những cuộc cãi
vã, la lối đều khiến mọi người trong cuộc đau khổ. Với tâm chánh niệm hãy
hồi tưởng lại bạn đã cảm thấy đau đớn thế nào khi mất tự chủ. Hãy nhớ
121
rằng sau đó có thể phải mất nhiều giờ hay nhiều ngày trước khi ta đủ bình
tĩnh trở lại để nói chuyện với người kia. Rất nhiều tình cảm tốt đẹp sẽ bị
đánh mất, có thể là vĩnh viễn.
Tuy nhiên, nhiều khi dầu ta đã cố gắng hết sức, ta vẫn phải nỗi giận. Nếu
người kia tiếp tục khiêu khích bạn, tấn công bạn bằng những lời nói gươm
đao, bạn có thể trở nên hoàn toàn mất tự chủ. Lúc đó thật dễ nỗi giận. Khi
bạn nhận thấy sự bực tức của mình đang tăng trưởng, hãy nói "Đợi đã!" với
người kia, với hy vọng sẽ tìm được một giây phút để lắng lòng. Nhưng nếu
người kia trả lời rằng "Không, anh mới phải đợi đã!" và tiếp tục tấn công -
thì phải làm sao?
Trong những trường hợp này, khi cuộc đối thoại đã vượt ra ngoài vòng
kiểm soát, nhiệm vụ của ta là phải nhanh chóng đem chánh niệm trở lại và
sử dụng Chánh Tinh Tấn để chế ngự cơn giận. Ngay nếu như cảm giác giận
dữ khiến tim ta đập nhanh, thân xuất mồ hôi, và tay chân run rẩy, sự chánh
niệm về lời nguyện tránh nói lời thô lỗ, cũng có thể giúp ta kiềm chế được
mình. Chỉ cần không để cơn giận khiến ta phải nói gì. Chú tâm vào hơi thở
để tái lập chánh niệm cho tới khi cơn giận của ta hạ xuống.
Sự tự kiếm chế giúp cả hai, ta và người kia, một cơ hội để mở lòng thân
thiện. Khi lòng ta đã lắng dịu, ta có thể nhìn thấy người kia rõ ràng hơn và
sẽ hiểu tại sao cả hai đều bực tức. Lúc ấy ta cũng đã biết một trạng thái tâm
giận dữ khiến ta khó chịu đến chừng nào. Khi sự quan tâm và tôn trọng đối
với người tăng lên, ta có thể quyết định sử dụng giây phút đó để bắt đầu
một quan hệ mới trong sự tôn trọng, thương mến nhau hơn, để củng cố tình
bằng hữu giữa ta và người. Đó là những gì ta nên luôn mong muốn làm
được.
Khi nhận thấy rằng ta đã rèn được tâm và kiềm chế được lời nói để chuyển
tình thế thành hòa hợp hơn, hãy vui mừng về điều đó! Hãy tự nhủ, "Đây là
điều tôi muốn. Tôi luôn muốn hành động thế nào để đem đến những điều
tốt đẹp." Hãy luôn giữ trong tâm những suy nghĩ đó.
Tôi sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện khi bản thân tôi phải sử dụng chánh
niệm để thực hành Chánh Ngữ. Có thể kinh nghiệm của tôi sẽ giúp bạn biết
122
phải làm thế nào để áp dụng tâm chánh niệm vào những hoàn cảnh trong
cuộc đời bạn -ở sở làm, ở nhà, và trong những mối liên hệ cá nhân.
Nhiều năm về trước, khi tôi đang điều hành một ngôi chùa, một số người đã
kêu gọi một buổi họp các vị ân nhân hỗ trợ chùa lại. Họ chống đối một số
công trình tôi đã khởi xướng và muốn dùng diễn đàn này để bày tỏ sự bực
tức của họ. Một số trong những người này phản ứng rất mạnh về các vấn đề
được thảo luận. Họ đã được sanh vào những gia đình Phật giáo, nhưng họ
không quan tâm đến thiền. Thực ra họ coi việc hành thiền là một điều điên
rồ. Vì thế họ không thể hiểu việc làm của tôi. Tôi cũng biết trong buổi họp
này mình sẽ là người được chỉa mũi dùi đến, nhưng những gì xảy ra còn tệ
hơn bất cứ điều gì người ta có thể tưởng tượng đến.
Có khoảng bốn mươi người dự buổi họp, bao gồm nhiều thân quyến, bạn bè
của tôi và những Phật tử khác đến để bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với các
Phật sự của tôi. Trước khi cuộc họp có thể được chính thức bắt đầu, ngay cả
trước khi có sự giới thiệu nào, một người đàn ông cục mịt đứng dậy và bắt
đầu nói. Người này ít học, không khéo léo, lại có khuynh hướng sử dụng lời
thô lỗ. Anh ta không nói gì nhiều về những vấn đề trong chùa đang được
thảo luận, nhưng nói rất nhiều thứ về cá nhân tôi. Với những lời nói thiếu
lịch sự, và lễ độ, ông ta kết tội rằng tôi đã không làm gì cho chùa bao năm
nay, rằng tôi khiến người ta không còn hỗ trợ cho chùa, vân vân. Ông ta
dùng những ngôn từ xúc phạm, khó được chấp nhận trong xã hội để tấn
công tôi trong suốt hai mươi phút.
Trong suốt cuộc tấn công bằng những lời lẽ gây sốc đó, tôi phải đấu tranh
với chính mình. Tôi phải tự lý giải với bản thân để cản ngăn sự tức giận có
thể phát khởi. Tôi có thể thấy rằng người đàn ông này đang ở trong trạng
thái tâm bấn loạn, và tôi đã tự nhủ, "Tôi biết người này có bản chất hiền
lành. Chúng tôi đã từng có những liên hệ tốt đẹp. Chắc chắn là ông ta đã bị
những người chống đối tôi đầu độc để nói năng như thế." Tôi cũng quán
chiếu rằng tôi đã có nhiều cơ hội để phát triển tâm linh và văn hóa mà người
kia thiếu sót. Tôi nhớ lại rằng ông ta chỉ có học vấn tiểu học, rất ít khả năng
và cũng ít quan tâm đến sự rèn luyện tâm linh. Bằng cách đó, tôi đã cố gắng trải tâm từ bi đến cho ông và cũng đầy lòng biết ơn rằng nhờ công phu tu
tập khiến tôi khó lòng nói năng hay hành động giống như ông ta đang làm.
Tôi cũng quán chiếu về nội dung của vấn đề đang xảy ra. Tôi nghĩ rằng nếu
tôi mở lời chống đối lại ông, thì những người ủng hộ tôi sẽ đứng lên bênh
vực tôi, và buổi họp có thể sẽ biến thành một cuộc ấu đả lẫn nhau. Tôi thấy
nhiều người trợn mắt lên, cau có nhìn người kia và nhấp nhỏm trên ghế
ngồi. Tôi cảm nhận được sự đau lòng của họ, đặc biệt là thân quyến tôi. Tôi
là bậc trưởng bối trong gia đình -là người anh, cậu, ông chú, và ông cố - và
tôi được tiếng là một vị tu sĩ hiền từ. Dĩ nhiên, gia đình tôi rất thương xót và
cảm thấy phải bảo vệ tôi. Tôi biết rằng nếu tôi tỏ vẻ bị tổn thương hay bực
tức bởi những gì người này nói, người thân của tôi sẽ khởi tâm sân hận cũng
như những trạng thái tâm bất thiện khác. Họ còn có thể tấn công người đàn
ông này. Vì thế tôi tự nhủ: "Giờ tôi phải thực hành chánh niệm, kiên nhẫn
và hiểu biết để mang hòa bình đến cho buổi họp này."
Tôi thiết lập chánh niệm bằng cách chú tâm vào hơi thở. Khi những sự đối
đầu như thế này xảy ra, điều quan trọng là ta cần dừng lại và hít thở sâu
trước khi phản ứng -có lẽ hai phút hít thở sâu, hoặc là ba mươi cái hít vào và
ba mươi cái thở ra. Sự dừng lại này cho ta thời gian để bình tĩnh lại và thanh
tịnh tâm, để ta có thể nói một cách từ tốn, thay vì nỗi nóng.
Cuối cùng, người đàn ông hình như đã dốc hết nỗi long nên ngưng nói. Mọi
người đều căng thẳng. Tất cả đều hướng về tôi. Bằng một giọng nhẹ nhàng
tôi nói, "Người này đã từng là bạn của tôi. Ông là một thí chủ luôn hỗ trợ
cho chùa, đã làm được nhiều việc tốt và ích lợi. Ông ấy cũng biết tôi đã làm
gì suốt bao năm nay cho chùa. Tuy nhiên hôm nay, ông ấy hình như thất
vọng, bực tức, và có thể không cảm thấy bình tĩnh. Do đó tôi cảm thấy cần
cầu an cho ông và cho tất cả mọi người."
Tôi yêu cầu tất cả chấp tay cầu nguyện để tỏ lòng kính trọng Đức Phật bằng
cách nói ba lần, "Chúng con đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc chánh đẳng chánh
giác, bậc hoàn toàn giác ngộ." Đó là cách chúng tôi thường làm khi bắt đầu
các nghi lễ nghiêm trang. Từ lúc đó, do uy lực của truyền thống, không ai
124
còn có thể mở lời tranh cãi hay bày tỏ bất cứ ý kiến chống đối nào nữa, vì
không muốn tỏ ra bất kính đối với Đức Phật. Rồi tôi hướng dẫn cả nhóm thọ
năm giới, để phấn khích tinh thần họ lên và để chắc rằng mọi người đều nhớ
đến những lời Phật dạy về hành động không tổn hại, chân thật. Cuối cùng,
tôi tụng một bài kinh cầu an dài, và khi chấm dứt, tôi nói, "Giờ thì các bạn
có thể về nhà. Cuộc họp đã chấm dứt." Và đó là kết thúc của câu chuyện.
Nhiều năm sau, người đàn ông đó vẫn giữ thái độ lạnh lùng đối với tôi,
nhưng sau này tôi có cơ hội giúp đỡ ông khi ông trải qua nhiều giai đoạn
khó khăn trong đời. Từ đó đến nay, ông ta vẫn thân thiện với tôi và luôn bày
tỏ lòng biết ơn và kính trọng.
Chánh niệm chính là chìa khóa giúp tôi đối phó một cách êm thấm với hoàn
cảnh khó khăn đó. Bạn cũng có thể dùng phương pháp này. Đôi khi tôi nghe
người ta biện minh rằng sự việc xảy ra quá nhanh đến nỗi "ngay với tâm
chánh niệm", họ cũng không thể kiểm soát được hành động hay lời nói của
họ. Nói rằng "ngay với tâm chánh niệm" mà vẫn hành động như thế là
không đúng. Có lẽ tâm chánh niệm của họ quá yếu hay đã bị chế ngự bởi
lòng tham, sân, hay si. Vì theo định nghĩa, chánh niệm giúp ta kiểm soát
những gì ta nghĩ, hành động như thế nào và nói những gì. Bạn không thể
chưởi mắng ai một cách đầy chánh niệm, lạm dụng rượu chè một cách đầy
chánh niệm, hay phạm những tội tà dâm một cách đầy chánh niệm. Nếu
thực sự có chánh niệm, ta không thể nào làm những việc như thế!
Vì thói quen đã huân tập của chúng ta quá mạnh, bất cứ khi nào ta mở
miệng, lời nói dường như đã tuôn trào. Có thể bạn không ý thức rằng khi
nói ta đã tổn hao biết bao năng lượng. Với tâm chánh niệm, ta có thể dừng
lại sự tổn hao này và tích trữ năng lượng. Và chúng ta có thể sử dụng năng
lượng được tích lũy này để phát triển tuệ tri vào trong bản chất của các thói
quen của ta. Sử dụng năng lượng này như là một nguồn nguyên liệu, chúng
ta có thể tự soi lại mình trong lúc hành thiền, xem xét lại các hành vi của
mình, và nỗ lực rèn luyện tâm thêm nữa.
Tuy nhiên khi chúng ta để năng lượng bị dồn nén này phát ra mà không có
chánh niệm, thì chúng thường nổ tung, giống như cái nút đậy bình. Tôi thấy
những điều này thường hay xảy ra ở cuối các khóa tu thiền. Chỉ vài phút
125
trước đó thôi, mọi thiền sinh đều hoàn toàn im lặng, ngồi yên tĩnh hay di
chuyển nhẹ nhàng, chậm rãi. Rồi ngay giây phút giới giữ im lặng của khóa
tu được chấm dứt, thì bùng nổ bao tiếng nói. Trận lũ chuyện trò, đối thoại
tiếp tục hàng giờ hay hơn nữa, cho đến khi tất cả mọi năng lượng tích trữ
được đã tiêu hao hết. Khóa tu càng dài thì người ta càng trở nên ồn ào, càng
dễ dãi, trừ khi họ nỗ lực để duy trì sự chánh niệm trong lời nói.
Đối trị duy nhất cho tà ngữ phải là một liều thuốc chánh niệm cực mạnh -
không chỉ trong các khóa tu, hay khi bạn đang ở trong một hoàn cảnh thử
thách đầy khó khăn, nhưng phải là suốt đời bạn. Chánh niệm về Chánh Ngữ
sẽ mang lại hạnh phúc cho bạn. Tôi bảo đảm điều đó.
Tóm Lược Về Chánh Ngữ
Đây là những điều tóm lược để ngăn cản khổ đau bằng phương cách của
Chánh Ngữ:
- Chánh ngữ có nghĩa là không được nói dối, không nói lời thô lỗ, cộc cằn
và phù phiếm.
- Nói dối bằng cách im lặng thì vẫn là nói dối.
- Nói lời thâm độc là loại ngôn ngữ phá hoại tình bằng hữu của người khác
hay làm tổn hại đến thanh danh họ.
- Tấn công bằng lời nói, nói mỉa mai, thô tục, giả dối, chỉ trích hạ nhục quá
đáng, tất cả đều thuộc loại lời nói thô lỗ, cộc cằn.
- Lời nói thô lỗ, cộc cằn làm tổn thương người khác và hạ thấp phẩm giá của
người nói.
- Nói chuyện người khác, nói chuyện phù phiếm thường dẫn đến tranh cãi,
hiểu lầm, làm mất thời gian và khiến tâm bấn loạn.
- Tất cả mọi lời nói không xuất phát từ tâm xả, với tình thương, và lòng bi
mẫn đều tai hại.
- Một cách để xét xem bạn có sử dụng Chánh Ngữ hay không, là dừng lại và
tự hỏi trước khi nói: "Điều này nói có đúng không? Điều này nói có tử tế
không? Điều này nói có ích lợi không? Có làm hại ai không? Có đúng lúc để
nói điều đó không?". - Sử dụng chánh niệm để củng cố thêm quyết tâm không nói điều gì gây tổn
hại và chỉ nói những lời nhẹ nhàng, đã được chọn lọc có thể mang lại sự hòa
hợp cho mọi người trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro