bao 19.4
Tuần giao dịch kỷ lục của chứng khoán Việt Nam
Điểm nhấn nổi bật nhất trong tuần nằm ở sự gia tăng đột biến cả khối lượng và giá trị giao dịch. Kỷ lục về thanh khoản sàn TP HCM vừa mới xác lập (ngày 15/4) đã nhanh chóng bị phá vỡ trong phiên cuối tuần. > Hơn 2.500 tỷ đồng đổ vào chứng khoán chỉ trong một phiên
Trong tuần, nhiều nhà đầu tư đã có hành động chốt lời, sau khi đạt được lợi nhuận kỳ vọng và lo ngại thị trường có thể đang tăng quá nóng. Song song đó, một bộ phận nhà đầu tư nhân cơ hội này tiếp tục mua vào, chờ những con sóng mới. Chính vì vậy thanh khoản tăng dần qua từng phiên, phá vỡ các kỷ lục trước đó.
So với tuần trước, khối lượng giao dịch tăng 21% (bình quân trong tuần đạt 51,5 triệu chứng khoán), giá trị giao dịch cũng được kéo lên 1.282 tỷ đồng ở mỗi phiên, tăng 29,3%. Đây là tuần thanh khoản nhất trong lịch sử thị trường chứng khoán.
Vn-Index nỗ lực tái chinh phục mốc 350 của Vn-Index. Song, lực cầu vẫn chưa hội đủ, nên chỉ có thể giúp Vn-Index tiến đến 347,07 điểm (mức cao nhất trong tuần). Tổng cộng, chỉ số chứng khoán sàn TP HCM đã tích lũy 9,09 điểm với 3 phiên tăng. Thị trường sôi động, các sàn chứng khoán đón thêm nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là các bác hưu trí. Ảnh: Hoàng Hà
Blue-chip góp công lớn vào những phiên giao dịch sôi động sàn TP HCM với tâm điểm là STB, tổng cộng 45,3 triệu cổ phiếu chuyển nhượng, bình quân mỗi phiên có đến 9,06 triệu STB sang tay.
Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài tuần qua cũng tăng cả về khối lượng và giá trị. Khối ngoại mua tổng cộng 16,2 triệu cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, tập trung vào những mã DPM, PPC, STB, HPG, PPC. Trong khi đó, lượng bán ra của khối này lên đến 20,4 triệu, hướng vào RAL, STB, BCI.
Phòng phân tích Công ty chứng khoán Quốc Tế Việt Nam (VIS), cho rằng Vn-Index luôn nằm trên đường trung bình 9 ngày. Do đó, chỉ số nhiều khả năng sẽ dao động trong khoảng 320-375 vào tuần tới. Theo VIS, dòng tiền hiện đang rót mạnh vào chứng khoán, nhà đầu tư lạc quan hơn với thị trường nên khả năng giảm sâu của Vn-Index khó xảy ra trong tuần tới.
Theo ông Nguyễn Thế Cường, Giám đốc khối nghiên cứu thị trường Công ty Chứng khoán Sacombank (SBS), thị trường đang chuyển sang giai đoạn mới - chu kỳ tăng điểm với sự hỗ trợ rất mạnh của nhà đầu tư nội, các tín hiệu tích cực từ gói kích cầu, lãi suất... Tuy nhiên, theo ông Cường, Vn-Index vẫn sẽ chịu tác động mạnh từ diễn biến kinh tế và chứng khoán thế giới vốn dĩ đang trong giai đoạn khủng hoảng và biến động. Do vậy, theo khuyến cáo của SBS, nhà đầu tư nên thận trọng, tránh trường hợp đẩy Vn-Index quá xa so với tốc độ phục hồi của nền kinh tế trong nước cũng như thế giới.
Diễn biến tương tự với Vn-Index, HaSTC-Index sàn Hà Nội cũng trải qua tuần siêu thanh khoản, với tổng mức trao tay bình quân 24,7 triệu chứng khoán, tăng 6,4% so tuần trước, giá trị tương ứng 670,6 tỷ đồng. Chỉ số tăng 3,98 điểm và sẽ bắt đầu tuần mới tại 122,56 điểm.
.............. George Soros - kẻ khuynh đảo thị trường tài chính thế giới
Chỉ vài tháng trước khi kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, tỷ phú Soros nhận định, hệ thống tài chính đang ở trong tình trạng "siêu bong bong" và chỉ chờ ngày vỡ.
Trong cuốn sách mang tên "Mô hình mới của thị trường tài chính" (tạm dịch từ The new paradigm for financial markets), Soros mô tả hiện tượng "siêu bong bong" trên thị trường tài chính đã hình thành trong suốt 25 năm qua và chỉ ngày vỡ. Đây là cuốn thứ ba trong một series sách của Soros đề cập đến thảm họa đối với thị trường tài chính. Trong đó, tỷ phú đầu cơ viết một cách ẩn dụ: "Tôi đã đếm số lần sói tru. Lần đầu tiên là trong cuốn 'Thuật giả kim của thị trường tài chính', lần thứ hai là cuốn 'Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu' và lần thứ ba là trong cuốn sách này. Sau 3 lần sói tru, con sói thực sự sẽ đến".
Tỷ phú cũng nhận định, hiện chưa có triển vọng về việc tìm ra giải pháp trong ngắn hạn cho cuộc khủng hoảng tài chính. Soros cũng là người công khai phản đối mạnh mẽ nhất kế hoạch của cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Henry Paulson dùng 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các định chế tài chính. Những nhận định của George Soros giờ vẫn được nhiều người tin theo. Ảnh: AP
Sự nghiệp của Soros có nhiều mảng tối, trong đó có những lần bị phạt vì đầu cơ tiền tệ hoặc bị cáo buộc về giao dịch nội gián. Năm 1988, Soros nhận được lời đề nghị tham gia nắm giữ ngân hàng khổng lồ của Pháp Société Générale. Soros từ chối, nhưng sau đó mua một lượng cổ phần của ngân hàng này trước khi thông tin về việc chuyển nhượng ngân hàng được công bố rộng rãi. Một năm sau, giới chức Pháp bắt đầu điều tra về vụ việc và đến năm 2002, một tòa án nước này kết luận hành vi của Soros là giao dịch nội gián và tuyên phạt vị tỷ phú 2,3 triệu USD, bằng đúng số tiền Soros kiếm được từ vụ mua cổ phần của Société Générale. Soros phủ nhận và nói rằng thông tin về vụ chuyển nhượng đã được công bố rộng rãi.
Mới đây, quỹ đầu tư Soros Management Fund bị cơ quan quản lý Hungary, nơi Soros sinnh trưởng, phạt 2 triệu USD vì thực hiện kế hoạch đầu cơ tấn công đồng nội tệ của nước này.
Song tên tuổi của Soros được biết đến nhiều nhất trên thị trường tài chính thế giới qua vụ đầu cơ đồng bảng Anh vào năm 1992. Vào ngày Thứ tư Đen tối 16/9/1992, Soros đột nhiên trở nên nổi tiếng khi bán khống lượng bảng Anh có giá trị tương đương trên 10 tỷ USD, và kiếm lợi từ việc Ngân hàng Trung ương Anh do dự lựa chọn hoặc nâng lãi suất nội tệ lên ngang bằng với lãi suất tại các nền kinh tế khác trong Tổ chức sử dụng chung cơ chế tỷ giá châu Âu, hoặc thả nổi đồng nội tệ.
Cuối cùng, Ngân hàng Trung ương Anh buộc phải rút đồng bảng Anh ra khỏi cơ chế tỷ giá hối đoái châu Âu và phá giá đồng bảng. Soros kiếm được khoảng 1,1 tỷ USD trong phi vụ này và được biết đến với biệt danh "kẻ phá hoại ngân hàng trung ương Anh". Những người thân cận của Soros có lần tiết lộ, khi thấy những điểm yếu của đồng bảng trong thời điểm đó, Soros đã hối thúc những người dưới quyền tận dụng lợi thế của mình chuẩn bị cho cuộc "tấn công" vào đồng tiền này. Chân dung biếm họa của Soros trên trang bìa tạp chí danh tiếng Time.
Năm 1997, trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Soros một lần nữa "đánh" đồng tiền của các quốc gia, trong đó khu vực Đông Nam Á rơi vào tầm ngắm. Quỹ đầu cơ của Soros bị cáo buộc đã gây áp lực lên các đồng tiền để hưởng lợi trực tiếp từ chiến lược đầu cơ vào đồng tiền đó. Soros phản bác các cáo buộc và nói rằng quỹ của ông đơn thuần kiếm lợi từ chính những yếu kém của hệ thống tài chính thế giới mà ai cũng biết. Chiến lược đầu tư của quỹ này được dựa trên phân tích về các xu hướng kinh tế vĩ mô đang diễn ra hoặc được nhận định sớm diễn ra tại một số nước.
Cách nhìn của giới đầu tư quốc tế cũng như lãnh đạo các nền kinh tế về Soros không đồng nhất, bởi với nhiều người, Soros như một tội đồ vì đã "đánh" các đồng tiền để kiếm lợi. Song người ta đều nhìn nhận Soros là một nhà đầu tư huyền thoại, với những nhận định xác đáng về sức khỏe nền tài chính thế giới. Cựu chủ tịch Cục Dữ trữ liên bang Mỹ (FED) Paul Volcker từng nói: "George Soros đã tạo nên dấu ấn trên thị trường tài chính với tư cách một nhà đầu cơ đại tài, đủ khôn ngoan để rút lui ngay cả khi trò chơi vẫn ở phía trước. Lợi nhuận khổng lồ ông kiếm được hiện được sử dụng để thúc đẩy thay đổi tại những nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi".
Sinh trưởng trong một gia đình người Hungary gốc Do Thái, George Soros di cư sang Mỹ từ những năm 1950. Cha của ông, Tivadar Soros, là một nhà văn có tiếng tại Hungary. Trước khi sang Mỹ, Soros từng sống tại nhiều nước châu Âu và học Triết học.
Đặt chân tới Mỹ năm 1956, Soros khởi nghiệp từ vị trí nhân viên môi giới tại hãng tài chính F.M. Mayer và là nhà phân tích cho Wertheim and Company cho tới giữa những năm 1960. Trong thời gian này, Soros nghiên cứu một triết lý đầu tư của riêng mình có tên "reflexibity" (tạm dịch: cơ chế phản xạ), với quan điểm cách định giá thị trường của chính những người tham gia thị trường sẽ tác động tới giá trị đã được xác định trên cơ sở sổ sách. Đây về sau trở thành nguyên lý cơ bản của hoạt động của các quỹ đầu cơ do Soros điều hành.
Năm 1973, Soros từ bỏ vị trí phó chủ tịch một tập đoàn đầu tư tại New York và lập hãng đầu tư riêng,về sau hãng này chuyển đổi thành Quỹ Quantum. Ông tuyên bố muốn kiếm đủ tiền từ thị trường tài chính để hỗ trợ sự nghiệp viết sách và nghiên cứu triết học của mình, và dự kiến mỗi năm kiếm được 500.000 USD là chấp nhận được. Nhưng hoạt động đầu tư của Soros sau này chủ yếu được gắn liền với Soros Fund Management.
Với lượng tài sản trị giá khoảng 11 tỷ USD, Soros hiện là người giàu thứ 29 tại Mỹ theo bảng xếp hạng của Forbes, với hoạt động trong nhiều lĩnh vực, từ đầu tư chứng khoán, đầu cơ ngoại hối, kinh doanh. Vị tỷ phú này cũng là một nhà hoạt động xã hội và nhà hoạt động chính trị.
Hiện tỷ phú 79 tuổi này nắm giữ Soros Management Fund, Viện xã hội mở, và từng là một thành viên của Ban lãnh đạo của Hội đồng quan hệ quốc tế của Mỹ. Với 2 người vợ, và cả 2 đều đã ly dị, Soros có 5 người con.
Ông cũng là người tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Từ những năm 1970 đến nay, Soros liên tục đóng góp cho các quỹ hỗ trợ sinh viên người da màu học đại học, đặc biệt tại Nam Phi. Tạp chí Time ước tính, tổng số tiền Soros đã chi cho các chương trình xã hội tại Mỹ, châu Phi và Nga vào khoảng 6 tỷ USD.
George Soros cũng được biết đến với những phát ngôn gây chấn động, đặc biệt đối với chính quyền của cựu tổng thống Mỹ Georrge Bush. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Washington Post năm 2003, Soros tuyên bố việc đánh bật ông Bush ra khỏi vị trí tổng thống là "tâm điểm của cuộc đời tôi" và đây là một "vấn đề sinh tử". Vị tỷ phú này còn nói sẽ sẵn sàng đánh đổi cả gia sản của mình cho mục tiêu này.
Soros đã thực hiện đúng như tuyên bố này, khi năm 2004, ông là một trong những người đóng góp lớn nhất cho các đối thủ của ông Bush trong cuộc đua vào Nhà Trắng. Thống kê của Trung tâm phản ứng chính trị Mỹ cho thấy, Soros đã đóng góp tổng cộng 23,5 triệu USD cho trên 500 tổ chức nhằm vận động cho việc đánh bại ông Bush. Song ông Bush vẫn tái đắc cử và có nhiệm kỳ thứ hai. .................... Đã cho vay được gần 237.000 tỷ đồng từ gói kích cầu
Theo báo cáo nhanh của các ngân hàng thương mại, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến ngày 17/4 đạt 236.820 tỷ đồng. Như vậy, so với ngày 10/4, dư nợ cho vay của chương trình này đã tăng 18.396 tỷ đồng, tương đương tăng 8,42%.
Trong đó dư nợ cho vay của nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 175.934 tỷ đồng, tăng 13.678 tỷ đồng. Nhóm ngân hàng thương mại cổ phần là 50.316 tỷ đồng, tăng 4.188 tỷ đồng, khoảng 9,07%. Nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 10.096 tỷ đồng, tăng 427 tỷ đồng. Các công ty tài chính là 474 tỷ đồng, tăng 103 tỷ đồng.
Theo đánh giá của giới chuyên gia, việc hỗ trợ lãi suất là giải pháp kích cầu phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và được triển khai kịp thời, có tác động thiết thực để khắc phục khó khăn, giảm giá thành sản phẩm, duy trì được sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động.
Còn phía các ngân hàng thương mại thì cho rằng, cơ chế hỗ trợ lãi suất đã giúp các ngân hàng khắc phục khó khăn về giải ngân vốn, mở rộng tín dụng, đặc biệt duy trì lãi suất tiền gửi ở mức hợp lý, không gây xáo trộn thị trường tiền tệ.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước mới đây cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng, công ty tài chính cần tiếp tục triển khai việc cho vay vốn hỗ trợ theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, hướng dẫn thủ tục cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất đến các đối tượng khách hàng; đồng thời đánh giá sơ kết việc thực hiện cho vay hỗ trợ lãi suất; tăng cường kiểm tra để ngăn ngừa sai phạm, phát hiện khó khăn, vướng mắc, kịp thời báo cáo cấp trên để tìm hướng giải quyết...
................ Thị trường bán lẻ hết năm 2009 mới khốc liệt
Chỉ còn vài ngày nữa Việt Nam sẽ mở cửa cho các tập đoàn bán lẻ 100% vốn nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp bán lẻ trong nước lo lắng, song các chuyên gia đến từ Bộ Công Thương nhận định thị trường sẽ không sôi động đến hết năm sau. > Chạy đua mở rộng mạng lưới bán lẻ "Nhà bán lẻ trong nước nên tận dụng thời gian còn lại để có những cái cách phù hợp". Ảnh: Hoàng Hà
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú nhấn mạnh 1/1/2009 không phải là "giờ G" hay thời điểm "mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ". Thực ra Việt Nam đã mở cửa thị trường dịch vụ và phân phối sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO (1/2007). Từ đầu năm 2009 thị trường bán lẻ tiếp tục mở cửa cho các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài tham gia. Theo Thứ trưởng, đây chỉ là một bước tiếp theo trong lộ trình tự do hóa thương mại đã cam kết với WTO. Từ đầu năm sau các doanh nghiệp nước ngoài được phép kinh doanh một số mặt hàng hiện bị hạn chế.
Thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô không lớn (55 tỷ USD trong năm 2008), nhưng rất hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài do mức lưu chuyển hàng hóa liên tục tăng trong những năm gần đây. Việt Nam có tiềm năng lớn về sức mua với tốc độ tăng trưởng cao và dân số trẻ. Đặc biệt, năm 2007 Việt Nam được hãng tư vấn Mỹ A.T. Kearney xếp hạng 4 trên 7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới. Do đó, Việt Nam luôn là một mảnh đất màu mỡ với các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới.
Tuy nhiên, Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) Hoàng Thọ Xuân cho rằng thị trường bán lẻ năm 2009 sẽ không sôi động và khốc liệt như một số dự báo. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế cũng như thị trường nội địa. Nhu cầu mua sắm, tiêu dùng bị tiết giảm. Trước tình hình đó, nhà đầu tư nước ngoài ít nhiều đắn đo mặc dù cánh cửa thị trường đang mở rộng.
Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch đầu tư Bộ Công Thương, bà Hoàng Thị Tuyết Hoa cho biết từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa từ cách đây 2 năm, không có một doanh nghiệp bán lẻ mới nào xin cấp quyền kinh doanh. Chỉ có một số tập đoàn đã kinh doanh tại Việt Nam từ trước như Metro, Big C xin mở thêm các địa điểm bán lẻ. Hiện có hai doanh nghiệp nước ngoài xin cấp phép theo hình thức nhượng quyền thương mại. Bà Hoa dự đoán năm 2009 hầu như sẽ không có doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nào xin vào kinh doanh tại Việt Nam.
Tuy vậy, việc các tập đoàn bán lẻ đổ bộ vào Việt Nam trong tương lai không xa là điều chắc chắn. Các chuyên gia kêu gọi doanh nghiệp nội xác định rõ mặt mạnh và yếu của mình cũng như của các tập đoàn nước ngoài để có chiến lược cạnh tranh phù hợp.
Các doanh nghiệp nước ngoài có quy mô lớn và cách làm việc chuyên nghiệp. Nhưng chính quy mô vừa phải của các doanh nghiệp nội địa phù hợp hơn với cách tiêu dùng truyền thống, vốn chiếm 85% lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong nước. Hơn nữa những tập đoàn đến từ nước ngoài không thể am hiểu văn hóa, tập quán mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam bằng chính các nhà bán lẻ Việt Nam. Tuy nhiên, ông Hoàng Thọ Xuân cũng thừa nhận rằng có một số bộ phận người Việt chuộng dùng hàng ngoại, thích mua sắm ở các trung tâm mua sắm hiện đại. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải có những kế hoạch phù hợp để khai thác tối đa mặt mạnh và loại bỏ mặt yếu của mình. Điều này các doanh nghiệp bán lẻ nội địa ở Nhật Bản và Hàn Quốc đã làm rất tốt.
Theo ông Hoàng Thọ Xuân, việc thị trường bán lẻ năm 2009 rơi vào tình trạng trầm lắng là điều không mong muốn. Tình trạng này sẽ gây ảnh hưởng đến kế hoạch kích cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước của Chính phủ.
Ông Xuân khuyến cáo doanh nghiệp nội nên tận dụng lúc các tập đoàn lớn chưa đổ bộ vào thị trường để thay đổi, sắp xếp lại hoạt động, vừa để kích cầu thị trường, vừa giành lại lợi thế trên chính sân nhà.
Hiện có năm tập đoàn bán lẻ nước ngoài quy mô lớn đang hoạt động tại Việt Nam. Trong đó, tập đoàn Metro đăng ký kinh doanh theo hình thức bán buôn nhưng thực ra hoạt động phần lớn là bán lẻ (bán cho người mua cuối cùng). Big C hoạt động theo hình thức bách hóa tổng hợp. Parkson có mô hình bán hàng bách hóa chuyên về hàng công nghiệp. Lotte kinh doanh cả siêu thị lẫn gian hàng. Còn Louis Vuiton chỉ bán sản phẩm mang thương hiệu của họ.
............ Chạy đua mở rộng mạng lưới bán lẻ
Hầu hết các tập đoàn bán lẻ trong nước như Co.op Mart, City Mart, Maxi Mark đều chạy đôn đáo tìm mặt bằng mở rộng mạng lưới kinh doanh trước giờ G, khi thị trường bán lẻ phải mở cửa hoàn toàn theo cam kết WTO. Thị trường địa ốc suy giảm khiến mục tiêu này dễ thực hiện hơn trước.
Kể từ ngày 1/1/2009, mọi hạn chế đối với các công ty phân phối, bán lẻ 100% vốn nước ngoài sẽ được dỡ bỏ. Trong bối cảnh hệ thống phân phối Việt Nam còn nhiều hạn chế, sự xuất hiện của các đối thủ đến từ nước ngoài sẽ giúp thị trường phong phú hơn, chuyên nghiệp hơn và người tiêu dùng có thêm nhiều cơ hội lựa chọn. Nhưng với các nhà bán lẻ nội địa, sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn.
Thuê địa điểm kinh doanh là một điểm yếu của các nhà bán lẻ nước ngoài. Họ không có nhiều lợi thế để lựa chọn mặt bằng có vị trí đẹp, diện tích phù hợp và giá cả hợp lý. Đây chính là cơ hội để các tập đoàn bán lẻ có thể khẳng định vị trí của mình.
Là một trong những đơn vị có sự chuẩn bị "dài hơi" cho cuộc chiến giành thị phần bán lẻ trước thềm mở cửa thị trường bán lẻ, Liên hiệp hợp tác xã thương mại TP HCM (Sài Gòn Co.op) chuẩn bị mở thêm 4 siêu thị Co.op Mart trong tháng 12 tới, nâng tổng số siêu thị trong hệ thống lên 33. Trước Tết Nguyên Đán, Sài Gòn Co.op dự kiến mở thêm 2 siêu thị tại quận 12 và Thủ Đức.
Tổng giám đốc Sài Gòn Co.op, bà Nguyễn Thị Hạnh tiết lộ: "Từ nay đến năm 2015 hệ thống Co.op Mart sẽ đạt số lượng 100 siêu thị bán lẻ. Ngay từ 5 năm trước chúng tôi đã chuẩn bị cho kế hoạch này".
Bà Hạnh cho biết, hiện nay Sài Gòn Co.op đang tích cực đàm phán để chuẩn bị mặt bằng, vì thị trường địa ốc suy giảm, việc thỏa thuận trở nên "dễ thở" hơn. Lãnh đạo Sài Gòn Co.op còn nhận định, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng lớn đến sức mua trên thị trường, làm đảo lộn kế hoạch bành trướng của các tập đoàn bán lẻ hùng mạnh trên toàn cầu. Vì vậy, đây là thời điểm thuận lợi cho các tập đoàn bán lẻ trong nước có tài chính ổn định muốn mở rộng mạng lưới. Mặt tiền siêu thị Co.op Mart Cống Quỳnh, quận 1, TP HCM. Ảnh: Kiên Cường.
Cũng đang gấp rút tìm mặt bằng, Giám đốc điều hành hệ thống siêu thị Maximark Cộng Hòa, bà Nguyễn Ánh Hồng nói với VnExpress.net: "Trước đây do giá cả quá cao nên chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc đàm phán, thương thảo hợp đồng thuê mặt bằng. Tuy nhiên ngay cả khi thị trường địa ốc suy giảm thì thủ tục rườm rà cũng là một trở ngại rất lớn".
Là doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ tư nhân, Maxi Mark gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng để mở rộng mạng lưới. Hiện nay Maxi Mark chỉ có hai siêu thị tại TP HCM, đó là con số còn rất khiêm tốn và cần mở rộng thêm. Lãnh đạo siêu thị này nhận định hiện nay giá bất động sản đang giảm, là thời điểm thuận lợi để tăng cường thương lượng thuê, mua đất.
"Nếu tìm được mặt bằng bán lẻ có vị trí gần khu dân cư thì chúng tôi sẽ tiến hành xây dựng siêu thị ngay tức khắc vì sắp tới đây sức cạnh tranh của thị trường bán lẻ tại TP HCM sẽ có phần gay gắt hơn trước", bà Hồng nói.
Trong khi đó, tuy đã phát triển 20 chi nhánh thuộc hệ thống siêu thị City Mart, Tổng giám đốc siêu thị City Mart, bà Nguyễn Thị Ánh Hoa vẫn lo ngại hiện tượng phá giá mặt bằng khi có nhiều đối thủ mới nhảy vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Bà Hoa dè dặt cho biết, khi các tập đoàn bán lẻ mới xuất hiện, điều họ cần trước tiên là đất. Vì vậy, cuộc chạy đua giành mặt bằng là rất khó tránh khỏi. "Chừng nào nắm giấy phép trong tay thì mới vững lòng công bố khai trương chi nhánh mới", bà Hoa cho hay.
Tuy nhiên, lãnh đạo siêu thị City Mart phân tích rằng, khó khăn chung của giới kinh doanh bán lẻ hiện nay không chỉ có chuyện lo mặt bằng mà còn phải cân đối thu chi sao cho hiệu quả. Bởi lẽ, trong bối cảnh chi phí đầu vào cao, phải tăng chất lượng dịch vụ nhưng cạnh tranh về giá rất khốc liệt thì mỗi doanh nghiệp phải đối đầu với việc khó tăng lợi nhuận. Bà Hoa cho rằng, cuộc đọ sức khi mở cửa thị trường bán lẻ là chặng đua đòi hỏi sức bền chứ không thể "ăn sổi ở thì" mà bách chiến bách thắng.
Phó giám đốc bộ phận dịch vụ tư vấn và thẩm định giá Công ty CB Richard Ellis (CBRE) Việt Nam , ông Jeremy King dự đoán rằng, giá thuê mặt bằng bán lẻ sẽ tỷ lệ thuận với khả năng chi tiêu của khách hàng. Nếu chi tiêu giảm thì giá thuê sẽ giảm theo. Ngược lại, nếu sức mua khởi sắc dần thì giá thuê sẽ nhích lên.
Dự báo ít nhất đầu năm 2010 thị trường địa ốc mới có những tín hiệu lạc quan, ông Jeremy cho rằng, những tháng cuối năm 2008, khi giá thuê - mua bất động sản có chiều hướng suy giảm, là thời điểm nước rút tìm kiếm mặt bằng của nhiều tập đoàn bán lẻ trong và ngoài nước.
Thống kê của CBRE, thị trường văn phòng cho thuê đã giảm giá 14-22% so với quý 1 năm 2008. Trong đó giá thuê các khu trung tâm thương mại, mặt bằng bán lẻ cũng sụt giảm. Hiện nay khu thương mại có vị trí đắc địa ngay trung tâm giá thuê cao nhất là 250 USD mỗi m2 một tháng. Các vị trí từ khu trung tâm đổ ra xa hơn có giá thuê trung bình 85 - 40 USD mỗi m2 một tháng. TP HCM có 15 trung tâm thương mại cung cấp cho thị trường 150.000 m2 sàn, hiệu suất cho thuê trung bình 94%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11/2008 ước tính đạt 89,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% so với tháng trước. Tính chung 11 tháng của năm 2008, con số này là 872,6 nghìn tỷ đồng, tăng 30,9% so với cùng kỳ năm 2007.
Tuy nhiên, nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 11 tháng năm nay chỉ tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay giá cả nhiều mặt hàng đã giảm nhưng nhu cầu tiêu dùng của dân cư có xu hướng tăng chậm.
....................
'WTO là bệ phóng đặt VN vào quỹ đạo phát triển'
"Nói rằng gia nhập WTO là điểm mấu chốt cho thành công thì hơi quá đáng, nhưng đó chính là bệ phóng quan trọng đặt Việt Nam vào đúng quỹ đạo phát triển bền vững trong nhiều thập kỷ tới", Giáo sư Hà Tôn Vinh, Giám đốc Chương trình Cao học Quản trị kinh doanh của Đại học Hawaii tại TP HCM nhận định.
> 'Doanh nghiệp trong nước bắt tay nhau là đáng mừng'/ Chính phủ kỷ niệm một năm gia nhập WTO/ VN chính thức là thành viên thứ 150 của WTO
Dưới đây là bài viết của Giáo sư Hà Tôn Vinh nhận định về Việt Nam sau một năm gia nhập WTO. Giáo sư Việt kiều Mỹ Hà Tôn Vinh từng là thành viên của Hội đồng Quản trị, Phòng Thương mại Việt - Mỹ, người tham gia nối kết nhiều mối quan hệ kinh tế chính trị giữa Chính phủ Việt Nam với Mỹ.
Một năm là khoảng thời gian khá ngắn ngủi trong cả quá trình phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia - nhiều khi quá trình này thường kéo dài cả vài thập kỷ để có thể đạt được những thành tựu như của Việt Nam.
Nếu nói rằng WTO là điểm mấu chốt cho sự thành công của Việt Nam trên chính trường quốc tế cũng như trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, hay cải tổ hành chính thì hơi quá đáng. Nhìn chung tôi cho rằng WTO là một bệ phóng quan trọng giúp đặt Việt Nam vào đúng quỹ đạo phát triển bền vững trong nhiều thập kỷ tới.
Sự thành công trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam trong năm qua là điều không thể phủ nhận. Sự thành công này được nhiều tổ chức và báo chí thế giới ghi nhận và đánh giá cao.
Gần đây nhất, Tổ chức Tư vấn nổi tiếng thế giới AT Kearney và Tập san Ngoại giao (Foreign Policy Magazine) của Mỹ công bố Chỉ số toàn cầu hóa (Globalisation Index 2007). Việt Nam xếp hạng thứ 48 trong số 72 nước trong danh sách đang được xét đến, trên cả các nước láng giềng như Thái Lan, hạng 53 và Indonesia, thứ 69.
Trong lĩnh vực thương mại, Việt Nam đứng thứ 10, lượng kiều hối ở bậc 15, tốc độ phát triển kinh tế và hội nhập hạng19, đầu tư trực tiếp nước ngoài xếp thứ 33. Thứ hạng này chắc chắn sẽ cao hơn khi hai tổ chức nghiên cứu trên thêm nhiều quốc gia khác vào trong danh sách.
Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư Việt Nam bước sang giai đoạn tăng tốc chiếm lĩnh thị trường trong thời kỳ hội nhập. Ảnh: P.A.
Trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Tổ chức Phát triển và Thương mại Liên hiệp quốc (UNCTAD) trong báo cáo cuối năm 2007 đã xếp Việt Nam trong top 10 nước được các công ty đa quốc gia vào đầu tư giai đoạn 2007-2009. Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Nga và Brazil.
Trong lĩnh vực hấp dẫn đầu tư vào ngành sản xuất, Tổ chức Tư vấn và Kiểm toán thế giới PriceWaterHouseCoopers xếp Việt Nam thứ nhất trong số 20 nền kinh tế đang lên. Ngân hàng Thế giới cũng đưa Việt Nam lên nhiều bậc trong báo cáo về môi trường thương mại và kinh doanh.
Năm nay (2008), thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ dự báo sẽ trên 12 tỷ USD, một con số ấn tượng, chỉ vài năm sau khi Việt Nam và Mỹ ký Hiệp định Thương mại song phương năm 2001. Một phái đoàn cao cấp của Chính phủ vừa sang Mỹ cuối năm 2007 để thảo luận thêm về các cam kết và thực thi các điều khoản WTO. Việc này cho thấy Chính phủ Việt Nam không những muốn đẩy nhanh tiến trình hội nhập mà còn chủ động tìm sự hỗ trợ kỹ thuật từ các quốc gia thành viên quan trọng của WTO.
Rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài, quỹ đầu tư, ngân hàng và tín dụng quốc tế, công ty đa quốc gia đều thành công khá rực rỡ trong năm vừa qua, cả về tài chính cũng như củng cố địa vị tại Việt Nam. Nhiều nhà đầu tư đã có dấu hiệu di chuyển trung tâm điều hành đầu não từ các nước như Singapore, Thái Lan... sang Việt Nam.
Tờ Thời báo Doanh nghiệp Singapore Business Time đã xếp Việt Nam đứng thứ 2 trong việc thu hút đầu tư của Singapore ra nước ngoài. Năm vừa qua ngoài 35 ngân hàng nước ngoài hiện đang hoạt động còn có thêm 20 ngân hàng nước ngoài nộp đơn xin mở chi nhánh tại Việt Nam - một trong những dấu hiệu cho thấy tình hình chính trị ổn định và nền kinh tế trên đà phát triển.
Theo quy trình của WTO, từ tháng 4 năm 2007, Việt Nam đã cho phép các ngân hàng nước ngoài được quyền mở chi nhánh và sở hữu 100%, có quyền nhận tiết kiệm, tài sản ký gửi, và cấp thẻ tín dụng.
Thành công bước đầu là thế, song con đường phát triển phía trước của Việt Nam không kém gian nan, khó khăn.
Việc gia nhập WTO không phải cột mốc cuối cùng trong chu trình phát triển xã hội và kinh tế; cũng không phải là chuyến tàu chót. WTO chỉ là một quá trình hiểu theo nghĩa một tổ chức với nhiều đòi hỏi, bắt các thành viên luôn làm việc cật lực với nhau và cùng thay đổi môi trường kinh doanh, các thể chế thương mại để bảo đảm sự phát triển bền vững, công bằng.
Sự thành công của Việt Nam, dưới áp lực toàn cầu hóa, WTO... do đó sẽ được đánh giá theo tốc độ thay đổi và mức phù hợp của các thể chế chính trị, tổ chức kinh tế thương mại và kết quả tích cực mà Việt Nam mong muốn hay cần đạt được.
Các đại sứ thành viên, đại diện WTO cùng phái đoàn ngoại giao Việt Nam tại Geneva trong bữa tiệc kỷ niệm một năm thành viên 150 Tổ chức thương mại thế giới, tối 10/1. Ảnh do Phái đoàn ngoại giao Việt Nam tại Liên hiệp quốc cung cấp.
Lạm phát hiện tại của Việt Nam là một nguy cơ cho việc phát triển kinh tế và sự ổn định xã hội, thể chính trị hiện tại. Bài học về lạm phát và bất ổn kinh tế đi kèm với các biến động chính trị ở các nước như Brazil, Argentina, Indonesia trong thập niên vừa qua phải là bài học chung.
Đã có nhiều giải pháp bình ổn thị trường được Chính phủ thực hiện nhưng hiệu quả vẫn chưa cao. Đại đa số người dân và công chức lao động sống bằng lương cố định thấy rõ giá sinh hoạt tăng lên chóng mặt từng ngày, sức mua đồng tiền cố định của họ giảm xuống rất nhanh. Với một nền kinh tế khiêm tốn dựa nhiều vào đồng đô la đang xuống giá, tình trạng của người dân như bị đổ thêm dầu vào lửa.
Việt Nam cần tự hỏi đâu là giá trị của việc chạy theo phát triển kinh tế bằng bất cứ giá nào khi phấn đấu đạt được tốc độ tăng trưởng ở mức 8,5% nhưng lại mất đi hơn 10% cho lạm phát. Giá cả tăng nhanh không thấy điểm dừng, mãi lực đồng tiền xuống thấp, tiết kiệm ở ngân hàng ngày càng mất giá so với đầu tư hay đầu cơ vào chứng khoán, địa ốc, vàng bạc. Những yếu tố này càng làm cho nền kinh tế bị lệch và nguy cơ khủng hoảng, nhất là khả năng bong bóng địa ốc bị vỡ, kinh tế gia đình của đại đa số người dân không có lối thoát.
Giáo dục không còn là vấn đề của phụ huynh hay sinh viên học sinh nữa. Dạy và học theo chiều hướng hiện tại bây giờ là nút thắt cổ chai. 50% sinh viên ra truờng phải được đào tạo lại để có thể làm việc, là một minh chứng giáo dục Việt Nam chưa hay không theo kịp được nhu cầu và đòi hỏi của đất nước phát triển.
Chính phủ có nhiều quyết tâm trong việc đổi mới giáo trình, nâng cao chất lượng sinh viên và cơ sở hạ tầng, đào tạo thêm đội ngũ giảng dạy cho tương lai. Rất tiếc, đội ngũ quản lý đại học và giảng dạy hiện tại chưa được nói nhiều tới, chưa được tái đào tạo hoặc hỗ trợ để có thể theo kịp nhu cầu của thị trường, của thời đại và của thế hệ sinh viên hiện tại.
Theo tôi sự thay đổi phải từ gốc. Tức là thay hay đổi con người, phương pháp giảng dạy, giáo trình từ các thầy cô, giảng viên, giáo sư; thay đổi cách đối xử và hậu đãi họ theo đúng tinh thần tôn sư trọng đạo, không thầy đố mày làm nên.
Môi trường sinh thái và phát triển đô thị là nỗi khổ tâm nữa của Chính phủ, cũng như người dân từ thành thị đến nông thôn. Xe cộ lưu thông tràn lan, xây dựng đô thị trái phép bừa bãi, ô nhiễm môi trường đang tràn về nông thôn, nông dân mất đất về tay các chủ đầu tư và đầu cơ địa ốc... Tất cả là những nguy cơ tiềm ẩn của nhu cầu tăng trưởng tốc độ kinh tế hiện tại Việt Nam đang theo đuổi. Chất lượng cuộc sống đang bị đẩy lùi nhường cho nhu cầu phát triển bằng mọi giá.
Tôi thành tâm cho rằng Việt Nam không nên tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, không nên đặt một mục tiêu phát triển kinh tế quá cao gây thiệt hại lâu dài cho khu vực phi kinh tế như giáo dục, môi trường, an sinh xã hội, văn hóa, trẻ em và người lớn tuổi.
Tôi mong lãnh đạo Việt Nam có thêm quyết tâm làm cân bằng "bình thông nhau" giữa việc phát triển khu vực kinh tế và phi kinh tế; duy trì sự cân bằng giữa nền kinh tế thị trường và "phi thị trường" cho đúng với mong muốn là một nền "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
.................
Những mánh khóe môi giới chứng khoán
Linda Dedini, cô con gái 30 tuổi của một trong những CEO có mức lương cao nhất ở Mỹ, không muốn nói nhiều về bố mình. Cô gắn bó với ông về tình cảm nhưng hoàn toàn độc lập về tài chính. Cô yêu quý ông nhưng không hề muốn nhận một chút tiền nào của ông.
Vợ chồng cô là những người có tính độc lập, muốn chứng minh rằng họ có thể tự làm giàu mà không cần sự giúp đỡ của bố. Khác với hầu hết những người bạn, cô tránh không nói với ai rằng bố cô là một CEO nổi tiếng. Cô là giáo viên dạy vật lý tại một trường cấp ba ở Arlington, Virginia và cô bằng lòng với cuộc sống hiện tại của .
Cô thậm chí không muốn nhận những lời khuyên đầu tư của bố. Thay vào đó, hầu hết mọi quyết định tài chính của cô đều dựa vào lời khuyên của một trong những hãng môi giới chứng khoán lớn nhất nước Mỹ: Công ty Harris & Jones. Công ty này có trên 5 triệu khách hàng và là một trong những công ty có danh tiếng nhất ở phố Wall. Cô cảm thấy mình có thể tin tưởng ở họ.
Người nhân viên trực tiếp phụ trách tài khoản của cô, James Dubois, đã thực hiện tốt nhiệm vụ trong suốt những năm 1990. Vì thế, cô cũng rất tin tưởng anh.
Một buổi sáng thứ hai, cô gọi điện cho anh xin lời khuyên. Cô mới có một khoản tiền 160.000 đôla và cô muốn dùng để đầu tư. Đây là khoản tiền cô kiếm được từ việc bán căn hộ thứ hai và cô hy vọng sẽ biến số tiền này thành một ngân quỹ lớn đủ để trang trải chi tiêu khi nghỉ hưu và tiền học phí cho lũ trẻ.
"Tôi có một loại cổ phiếu rất thú vị dành cho cô," nhân viên chứng khoán tuyên bố đầy phấn khích. "Giá ban đầu của nó là 64 đôla, nhưng giờ thì giá đã giảm xuống chỉ còn 40 đôla. Tin tốt lành là loại cổ phiếu này có thể đem lại lợi nhuận 2 đôla cho một cổ phiếu trong năm nay. Với mức giá 40 đôla, như vậy, giá bán ra của nó chỉ gấp 20 lần so với lợi nhuận mà nó thu được".
"Như vậy là tốt ư?" cô hỏi.
"Tốt? Cô không đùa đấy chứ? Đó là một món hời! Hầu hết các công ty trong ngành này đều bán cổ phiếu ở mức giá gấp 30 hay 40 lần so với lợi nhuận nó kiếm được. Vì thế, cổ phiếu của công ty này có giá trị thật gấp 30 hay 40 lần so với khoản lợi nhuận 2 đôla cho mỗi cổ phiếu. Nhân chúng lên và cô có gì nào?".
"60 hay 80 đôla một cổ phiếu?".
"Chính xác. Và có khả năng nhiều là 80 đôla. Nhưng cô sẽ chỉ phải trả có 40 đôla! Đó là lý do chính tại sao các chuyên gia phân tích của chúng tôi đánh giá cổ phiếu này là "nên mua". Cô có xem chương trình CNBC sáng nay không? Không sao? Thật đáng tiếc. Chỉ vài tiếng trước, chuyên gia phân tích của chúng tôi đã nói về nó".
"Cổ phiếu đó tên là gì?"
"United Comminications and Business Systems-UCBS. Tôi chắc rằng cô đã từng nghe cái tên đó".
Cô gật đầu chậm rãi. Sau khi gạt bỏ những lo ngại, cô quyết định đầu tư 80.000 đôla vào công ty này. Nhân viên môi giới mua cho cô 2.000 cổ phiếu với giá 40 đôla và cô chỉ phải đợi những cổ phiếu này lên giá.
Tình hình đã diễn biến theo chiều ngược lại. Có tin đồn rằng UCBS đã phóng đại lợi nhuận. Chi tiết thì không rõ lắm, nhưng theo một vài nguồn tin (trong đó có những nguồn tin đáng tin cậy) thì thay vì kiếm được 2 đôla cho mỗi cổ phiếu thì công ty thực tế chỉ kiếm được 1 đôla.
Bởi vì hầu hết các nhà đầu tư vẫn đánh giá giá cổ phiếu của công ty ở mức 20 lần lợi nhuận, cho nên nếu như những tin đồn đó là sự thật, thì cổ phiếu này sẽ chỉ có giá 20 x 1 đôla, hay 20 đôla. Gần như ngay lập tức, các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo cổ phiếu của họ khi giá rơi về mức 20 đôla. Trong vòng vài ngày, cô đã mất gần nửa số tiền đầu tư.
Như cứa thêm vào nỗi đau, vài tháng sau, người ta còn phát hiện ra rằng một số những nhận xét tốt đẹp mà phố Wall đánh giá về cổ phiếu này thật ra là do công ty đó mua và trả tiền. Những nhà phân tích đã được trả những khoản tiền lớn để đẩy giá cổ phiếu lên và họ đã đánh bóng triển vọng vốn đã được phóng đại của công ty. Khi tin này được đưa ra, một số nhà phân tích đã giáng cấp cổ phiếu của công ty xuống mức "giữ", mà thực ra đó là ký hiệu của phố Wall thay cho "bán". Một lần nữa, giá cổ phiếu này lại giảm xuống còn một nửa, tức là còn 10 đôla. Từ khoản đầu tư 80.000 đôla, giờ đây cô chỉ còn vỏn vẹn có 20.000 đôla.
Khi cô đang suy ngẫm về tình trạng khó khăn của mình, thì vào một buổi chiều, tiếng chuông điện thoại reo cắt ngang dòng suy nghĩ của cô. Lại là Dubois. Trong khi cô còn đang bất ngờ, anh ta lại gợi ý cô nên mua thêm 2.000 cổ phiếu nữa của chính công ty này, loại cổ phiếu đang làm cho danh mục đầu tư của cô rơi tự do.
"Hãy xem này," anh nói. "Tất cả những tin đồn xấu mà cô đã nghe về công ty này chính là cái may trong cái rủi. Chúng làm cho giá cổ phiếu giảm xuống dưới giá trị thực của công ty. Điều cô cần làm lúc này là bỏ ra thêm một chút tiền nữa và cô có thể cắt giảm chi phí bình quân một cách ngoạn mục. Thay vì mua 2.000 cổ phiếu với mức giá 40 đôla, thì giờ đây cô có thể có 2.000 cổ phiếu với mức giá chỉ còn 10 đôla và như vậy, tổng cộng cô sẽ có 4.000 cổ phiếu với mức giá trung bình là 25 đôla. Đó chính là mức giá trung bình".
Cô cảm thấy do dự. Cô nói với anh ta rằng thật ra cô đang nghĩ đến chuyện bán lượng cổ phiếu mình đang có. "Ồ không!" anh ta đáp lại trong hơi thở gấp gáp. "Giờ chính là thời điểm tồi nhất để làm việc đó. Thay vì thế, cô nên mua thêm! Và nếu như cô không có đủ can đảm để mua thêm, thì cũng hãy giữ lại cổ phiếu".
Dubois ngừng lại đôi chút để thăm dò phản ứng của cô. Nhưng cô vẫn im lặng. "Hãy nhớ một quy luật vàng để thắng trên thị trường chứng khoán", anh nói với giọng điệu chuyên nghiệp. "Đó là luôn đầu tư dài hạn. Thị trường sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn cho các kế hoạch đầu tư dài hạn. Mọi thứ luôn quay vòng".
Trước đây, cô đã nghe điều này nhiều lần từ hầu hết mọi người - bạn bè, các chuyên gia hoạch định tài chính, chương trình ti vi và các nhà bình luận. Điều đó dường như đã trở thành một chân lý với những bằng chứng lịch sử trong hàng thập kỷ. Cô chưa từng nghe ai nói điều ngược lại và vì thế, cô dễ dàng chấp nhận nó mà không hề thắc mắc.
Trong những ngày sau đó, trong cô luôn giằng co về quyết định này và mỗi lần cô nói chuyện với Dubois, anh đều đưa ra một câu châm ngôn về đầu tư mới để thuyết phục cô hãy kiên nhẫn và chờ đợi.
Nhân viên môi giới này có một mục đích đó là: anh ta muốn giữ khách hàng này và kinh nghiệm cho anh ta biết rằng một khi khách hàng đã bán tháo cổ phiếu, họ thường từ bỏ luôn thị trường chứng khoán và tệ hơn nữa là đóng luôn tài khoản của họ. Suy nghĩ như vậy nên anh ta quyết tâm ngăn cản cô bán cổ phiếu bằng mọi cách.
Thủ thuật đầu tiên anh ta vận dụng là luận điệu "thua lỗ trên giấy tờ" (paper-loss). "Đừng lo về khoản thua lỗ đó," anh ta tuyên bố. "Chúng chỉ là những khoản thua lỗ trên giấy tờ mà thôi. Nếu cô bán chúng, cô sẽ biến nó thành sự thật." Anh ta không hề nói rằng thực ra chẳng có gì khác biệt giữa một khoản thua lỗ trên giấy tờ và khoản thua lỗ hiện thực. Anh ta cũng không tiết lộ với cô rằng Ủy ban chứng khoán (SEC) thậm chí còn yêu cầu những nhà môi giới phải định giá cổ phiếu mà họ nắm giữ trong danh mục đầu tư theo giá hiện tại để xác định khoản lỗ thật dù các cổ phiếu đã được bán hay chưa. Anh ta thừa hiểu rằng, dù thế nào lỗ vẫn là lỗ. Đó là một sự thật.
Khi luận điệu "thua lỗ trên giấy tờ" không còn tỏ ra hiệu quả, anh ta cố gắng lập luận theo kiểu: "Đừng có ngốc mà bán đi khi giá đang ở đáy." Anh ta thậm chí còn sử dụng câu nói mà ông giám đốc kinh doanh cũ đã nói với anh ta: "Chúng ta đã ở gần, rất gần với đáy. Thậm chí có thể chúng ta đang ở đáy rồi. Nếu cô bán bây giờ, thì chỉ ba tháng sau thôi cô sẽ phải trả giá. Đừng hành động ngu ngốc như thế chứ".
Sự thật thì nhà môi giới hay bất kỳ ai cũng đều không hề biết đáy nằm ở đâu. Cùng lúc đó, với kinh nghiệm cá nhân, anh ta hiểu rằng cổ phiếu sẽ không chạm đáy nếu chỉ đơn giản vì nó rẻ đi. Trên thực tế, với danh mục đầu tư cá nhân của mình, nhà môi giới đã quyết định rằng anh ta không nên là người đưa ra mức đáy cho đến khi những người môi giới khác làm việc đó.
Như thường lệ, vào giữa tuần, thị trường đột nhiên hồi phục mạnh mẽ và Linda Dedini cho rằng đây chính là cơ hội để cô thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Cô gọi điện cho Dubois để kết thúc mọi thứ nhưng anh ta lập tức phản bác lại với lập luận về một sự "hồi phục lớn hơn". "Thị trường đang hồi phục!" anh ta nói và miêu tả chi tiết những diễn biến của chỉ số Dow Jones. "Cổ phiếu UCBS của cô đang bắt đầu trở lại. Cô không phải đang muốn rút ra đấy chứ? Cô muốn rút lui? Tôi không tin! Sau khi chờ đợi kiên trì như thế, cô lại muốn bỏ chạy bây giờ ư, khi mà mọi thứ đang bắt đầu thay đổi theo chiều hướng có lợi cho cô?".
Nhà môi giới giở con bài cuối cùng trong những thủ thuật của mình là kích động vào lòng yêu nước. Anh ta hỏi: "Cô có biết điều gì sẽ xảy ra nếu ai cũng làm như cô không? Điều đó sẽ làm cho thị trường tài chính khủng hoảng. Nhưng nếu như cô và hàng triệu nhà đầu tư khác chỉ cần có thêm một chút niềm tin vào nền kinh tế của chúng ta, vào đất nước chúng ta - thì thị trường sẽ hồi phục và mọi người sẽ đều kiếm được lợi".
Những tháng sau đó, cô sẽ nhận ra rằng có nhiều khoản đầu tư khác mà cô có thể kiếm được lợi khi thị trường đi xuống và sau một vài thất bại ban đầu, cô sẽ mài dũa được kỹ năng để kiếm lợi lớn khi thị trường suy sụp. Tuy nhiên, hiện tại cô chỉ biết có ba lựa chọn: mua, bán hoặc giữ lại. Và cô quyết định giữ lại.
Nhà môi giới không hề biết rằng cô có những lý do riêng khi làm việc đó: cha cô chính là CEO của công ty này.
.................
Tiền mệnh giá 1 triệu USD trong kho báu 'Hội Hoa mai' là giả
Ngày 17/4, cơ quan chức năng công bố kết quả giám định, những tờ tiền mang mệnh giá 1 triệu USD và những miếng vàng thuộc kho báu của "Hội Hoa mai" đều là giả.
Thiếu tướng Hoàng Kông Tư (Tổng cục phó Tổng cục I, Thủ trưởng Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an) cho biết, làm việc với cơ quan an ninh, ông Thái Xuân Kiên (phóng viên báo Văn hóa) báo cáo: ông Vũ Đức Thư và ông Lê Nam Tiến (thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) đang cất giữ 2 hộp tài sản thuộc "Kho báu Hội Hoa mai", trong đó có nhiều tiền USD mệnh giá 1 triệu, nhiều tờ ngân phiếu trị giá hàng tỷ đô la và nhiều cổ vật có giá trị.
Ngày 21/3, ông Lê Nam Tiến đã giao nộp cho Cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) 2 hộp "tài sản" và các tờ đô la mệnh giá 1 triệu do ông cất giữ.
Ngày 24/3/2009, Cơ quan ANĐT đã trưng cầu giám định toàn bộ đồ vật trên đến Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, có sự chứng kiến của ông Vũ Đức Thư, ông Lê Nam Tiến và đại diện các cơ quan chức năng.
Tiến sỹ Nguyễn Văn Hò (Phó viện trưởng Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an) công bố kết quả giám định cho thấy, 48 tờ giấy có in chữ "One million dollars" có số seri từ "B70875702 B" đến "B70875749B" và 49 tờ giấy có in chữ "One million dollars" có số seri từ "B70875751B" đến "B70875799B" được làm giả bằng phương pháp tẩy cơ học, sửa chữa và in thêm bằng phương pháp in typo từ những tờ đô la Mỹ thật có mệnh giá 1 USD.
Ba tờ đô la Mỹ ghi mệnh giá 1 triệu USD có cùng mã hiệu bên trái: "B70875800B" và cùng mã số hiệu bên phải "B70875701B" là đô la giả được in bằng phương pháp lase màu...
7 mảnh giấy nhỏ màu vàng, trên mỗi miếng giấy có in số 500 triệu trong phong bì nhỏ có in chữ "AK13579" và "AK13888" được in bằng phương pháp in phun màu.
15 miếng kim loại màu vàng gồm 1 miếng có kích thước 15,5 cm x 6,5 cm và 14 miếng kim loại trong 2 hộp kích thước 7 x 3,2 cm trong 2 hộp gỗ gửi giám định đều là hợp kim đồng (Cu) và kẽm (Zn).
Hai đồ vật hình khẩu súng, 10 đồ vật hình viên đạn bằng kim loại màu vàng, hai hộp kim loại màu vàng và 8 mẫu vật hình con dấu gửi giám định đều là hợp kim đồng (Cu) và kẽm (Zn)...
Kết luận giám định của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an khẳng định toàn bộ USD và kim loại màu vàng nêu trên đều là USD giả, kim loại đều là đồng và kẽm không phải là vàng.
Tại buổi công bố này, ông Nguyễn Tấn Huynh, Phó cục trưởng Cục phát hành kho quỹ thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định, nước Mỹ không có đồng tiền nào lớn hơn 100 USD. Từ trước đến nay, Bộ Tài chính Mỹ và Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ ( Ngân hàng Trung ương Mỹ) không sản xuất và không phát hành tờ bạc mệnh giá 1 triệu USD.
Ông Lê Nam Tiến cho biết đã viết đơn trình báo và tự nguyện giao nộp cho Cơ quan ANĐT số hiện vật được giám định nói trên để góp phần làm sáng tỏ vụ việc này. Nếu là những hiện vật có giá trị thì góp phần xây dựng đất nước, nếu là giả thì đây là vụ lừa đảo.
Theo ông Tiến, số tiền USD và tài liệu, đồ vật trên, ông nhận từ Trung Quốc do bà Lý Quế Hoa (quốc tịch Trung Quốc) chuyển giao. Bà Hoa cho ông Tiến biết đây là một phần tài sản của Hội Hoa mai có từ những năm đầu thế kỷ 20, số tài sản còn lại của hội hiện được cất giấu ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam mà bà Lý Quế Hoa đang giữ sơ đồ vị trí cất giấu tài sản.
Thiếu tướng Hoàng Kông Tư đề nghị các ông Lê Nam Tiến, Vũ Đức Thư, Thái Xuân Kiên tiếp tục hợp tác với Cơ quan ANĐT như đã hứa để làm rõ nguồn gốc vụ việc và hiện vật liên quan đến vụ "Kho báu Hội Hoa mai".
.............
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro