
Bàn về bản ngã (K)
J. KRISHNAMURTI
Bàn về bản ngã
Người dịch: Huỳnh Ngọc Hương (Dịch từ tiếng Pháp)
Mục lục
Nói chuyện ở New York ................................................ 1
Nói chuyện ở Eddington .............................................. 15
Nói chuyện ở trại Ommen ........................................... 41
Nói chuyện ở Madras ................................................ 113
Nói chuyện ở New York
Trong thế giới ngày nay, có những người quả quyết
rằng con người là một thực thể xã hội, nó chỉ là sản phẩm
của môi trường với những mâu thuẫn của nó; lại có những
người khác tuyên bố rằng con người là thiêng liêng; ý kiến
này được phát biểu và giải thích khác nhau tuỳ theo tôn
giáo.
Quan điểm cho con người là một thực thế xã hội bao
hàm những lập luận có vẻ logic. Nếu bạn chấp nhận hoàn
toàn quan điểm con người chủ yếu là sản phẩm xã hội, bạn
sẽ có xu hướng tập hợp ý tưởng và lời nói theo khuôn khổ
qui định, trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nếu bạn khẳng
định con người là sản phẩm của môi trường thì tự nhiên hệ
thống trở thành cực kì quan trọng và người ta phải dồn mọi
cố gắng vào đó, bởi vì những cái khuôn để đúc nên những
con người phải có một giá trị rất lớn. Lúc ấy người ta sẽ
thiết lập kỉ luật, cưỡng bức và cuối cùng với hình dạng một
chính phủ, xã hội hay một vài nhóm người, một vài chủ
nghĩa, sẽ áp đặt quyền uy tối cao của họ. Theo quan điểm
này, luân lí xã hội rất là thuận tiện và cuộc đời chúng ta chỉ
là một khoảnh khắc ngắn ngủi. Kết thúc bằng sự tàn lụi.
Tôi không cần phải đi sâu vào các lập luận của quan
điểm coi con người đơn giản chỉ là một thực thể xã hội.
Nếu bạn quan tâm tới vấn đề này, bạn có thể tự mình tìm
hỉeu ý nghĩa của nó, và nếu bạn chấp nhận coi con người
chỉ là sản phẩm của môi trường, nhất thiết bạn phải thay
đổi hoàn toàn các quan niệm của mình về đạo lí, xã hội và
tôn giáo.
Nhưng, nếu bạn chấp nhận quan điểm tôn giáo về một
quyền năng thiêng liêng vô hình, ngự trị trên số mệnh của
bạn, nó đòi hỏi sự vâng lời, kính trọng và tôn sùng, thì bạn
cũng phải hiểu những lập luận của quan điểm này. Kết quả
tất yếu của việc chấp nhận sâu sắc quyền năng thiêng liêng
là sự cải tạo hoàn toàn về mặt xã hội và đạo lí. Quan điểm
này dựa trên đức tin, nó phát sinh ra sự sợ hãi, mặc dù bạn
che đậy sự sợ hãi đó bằng cách khẳng định nó là tình yêu.
Bạn chấp nhận quan điểm tôn giáo đó, vì nó chứa đựng lời
hứa hẹn sẽ cho bạn sự trường tồn cá nhân. Đạo lí của nó vi
tế, dựa trên sự trường tồn của bản ngã, dựa trên sự thưởng,
phạt. TRong quan điểm này còn có một ý tưởng hoàn
thành, theo đuổi mục đích vị kỉ và thành đạt. Nếu bạn chấp
nhận nó, bạn phải tìm kiếm những người hướng dẫn, những
minh sư, những con đường đạo, những đệ tử, và duy trì
nhiều hình thức tinh vi của quyền uy.
Có hai phạm trù tư tưởng như trên và nhất thiết chúng
phải xung đột nhau. Vậy mỗi người chúng ta phải tự mình
phát hiện xem trong hai quan điểm có vẻ trái ngược ấy, cái
nào là chân chính; con người có phải đơn giản chỉ là sản
phẩm do các ảnh hưởng của môi trường và tính di truyền,
tạo nên một số tính cách đặc trưng; hay là có một quyền
năng vô hình nào đó dẫn dắt, kiểm soát, chỉ đạo việc thực
hiện số mệnh con người. Hoặc là bạn chấp nhận cả hai
quan điểm mặc dù chúng trái ngược nhau, hoặc bạn phải
chọn lựa giữa việc qui định tư tưởng và lời nói của con
người, và quan điểm tôn giáo cho rằng có một trí tuệ vô
hình sáng tạo, dẫn dắt và quyết định tương lai, hạnh phúc
của con người, quan điểm này dựa trên đức tin và lòng
khao khát được trường tồn, nó ngăn cản trí phán đoán chân
chính. Hoặc là bạn thờ ơ với toàn bộ vấn đề, mà sự thờ ơ
chỉ là dấu hiệu của sự thiếu suy nghĩ, của định kiến, nó
ngăn trở sự hiểu biết chân chính.
Việc lựa chọn dựa trên những xu hướng và cảm tình,
những định kiến và ác cảm, do đó chẳng có giá trị. Thay vì
theo nhóm này, nhóm kia hay buộc phải lựa chọn, tôi xin
nói rằng có một cách khác để hiểu biết cá thể, hiểu biết con
người. Đó là trí phán đoán trực tiếp được thử thách bằng
hành động, mà không bắt buộc vi phạm lẽ phải của trí
thông minh.
Với tư cách một cá thể, bạn làm thế nào mà biết được
rằng con người là một tia sáng thiêng liêng thu nhỏ, hay là
một món đồ chơi của các sự kiện xã hội? Vấn đề này mất
tính chất trừu tượng của nó và trở thành sinh động khủng
khiếp khi bạn đối mặt với nó trong ngọn lửa của hành
động. Vậy người ta phải hành động ra sao? Người ta phải
sống thế nào?
Nếu bạn chấp nhận quan điểm cho bạn là một thực thể
xã hội, thì hành động có vẻ đơn giản: bạn được huấn luyện
bởi nền giáo dục, một sự gò ép tế nhị, và sự tiêm nhiễm
thường xuyên một số tư tưởng để bạn thích hợp với một số
khuôn mẫu ứng xử xã hội và hạnh kiểm. Mặt khác nếu bạn
thực sự chấp nhận quan điểm tôn giáo về một quyền năng
vô hình kiểm soát và dẫn dắt cuộc đời chúng ta, thì hành
động của bạn sẽ có ý nghĩa khác hẳng những gì bạn đang
làm hiện nay. Với các cá thể khác, với xã hội, bạn sẽ có
những mối quan hệ khác - đó chính là đạo lí - dẫn tới chấm
dứt chiến tranh, chấm dứt phân biệt giai cấp và bóc lột.
Nhưng vì hiện nay trên thế giới chưa có những mối
quan hệ chân chính như vậy, rõ ràng là bạn hoàn toàn phân
vân về ý nghĩa đích thực của cá thể và của hành động. Vì
rằng, nếu giả sử bạn chấp nhận thực sự quan điểm tôn giáo
về một thực thể tối cao hướng dẫn bạn, thì có thể hoạt động
đạo đức và xã hội của bạn sẽ trong sáng, quân bình và
thông minh; nhưng vì hiện nay nó không phải như vậy, nên
rõ ràng bạn không chấp nhận quan điểm này, mặc dù bạn
thuyết giảng chấp nhận nó. Do đó mà nhiều Nhà Thờ tồn
tại với nhiều dạng bóc lột khác nhau. Nếu bạn khẳng định
mình chỉ là một thực thể xã hội, thì vẫn phải có sự thay đổi
hoàn toàn trong thái độ và hành động của bạn. Nhưng sự
thay đổi đó đã không xảy ra. Tất cả cái đó chứng tỏ bạn
đang ở trong trạng thái ngủ mê và chỉ tiếp tục theo đuổi
những xu hướng của riêng mình.
Cần phải hoàn toàn đắm mình trong sự phân vân mới
hiểu được quá trình của cá thể, mới phát hiện được cái
thường còn, cái chân lí. Bạn phải tự khám phá xem có phải
bạn đang ở trong trạng thái hoàn toàn bất định (incertitude),
không chấp nhậncác thể như một thực thể xã hội, cũng
không chấp nhận con người được dẫn dắt bởi thiêng liêng,
với tất cả những gì bao hàm trong hai quan niệm ấy. Chỉ
lúc đó may ra mới có một khả năng phán đoán và hiểu biết.
Nếu bạn ở trong trạng thái ấy, cũng giống như nhiều
người suy tưởng, nếu bạn không theo một giáo điều nào,
một tín ngưỡng hay lí tưởng nào, bạn sẽ thấy rằng muốn
hiểu được sự hiện hữu phải biết mình là gì. Bạn không thể
hiểu được bất kì một quá trình nào khác (thế giới với tư
cách xã hội là một loại quá trình đang phát sinh, đang trở
thành) hơn là các quá trình trụ trong cá thể, gọi là ý thức.
Nếu bạn có thể hiểu được quá trình của ý thức, của cá thể,
chỉ lúc ấy bạn mới có khả năng hiểu được thế giới vứoi các
sự kiện của nó. Thực tại chỉ được phán đoán khi đã biết và
hiểu quá trình chuyển tiếp của cái ngã. Nếu tôi tiến tới hiểu
được bản thân, hiểu được tôi là gì, vì sao tôi sinh ra, rằng
cái tôi là một thực thể tự thân nó, bản chất của nó ra sao,
lúc ấy có chăng một khả năng hiểu được thực tại, chân lí.
Tôi sẽ giải thích quá trình của bản ngã, của cá thể. Có
một nguồn năng lượng duy nhất cho từng cá thể và nó
không có khởi thuỷ. Năng lượng ấy (xin quí bạn chớ gán
cho nó bất kì một tính thiêng liêng nào, bất kì một phẩm
chất đặc biệt nào), trong quá trình phát triển tự động của
nó, tự tạo ra bản chất của nó, đó là cảm giác, trí phán đoán
và ý thức; tôi nói về sự trừu tượng như là ý thức: thực tại là
hành động. Tất nhiên, không có sự phân chia tuyệt đối như
vậy. Hành động xuất phát từ vô minh và trong vô minh có
tồn tại những định kiến, những xu hướng, sự tham lam,
chúng chỉ gây nên phiền não. Khi ấy cuộc sống trở thành
cuộc xung đột, chà xát. Ý thức vừa là trí phán đoán vừa là
hành động. Do sự tương tác không ngừng của những tính
tham, những định kiến, những xu hướng và những giới hạn
do hàn hđộng ấy tạo nên, nảy sinh ra sự ma sát, đó là quá
trình của bản ngã.
Nếu bạn xem xét nó sâu hơn, bạn sẽ thấy rằng cá thể
(cá nhân) chỉ là một loạt những hạn chế, những hành động
tíhc luỹ, những chướng ngại, chúng tạo ra cho ý thức một
nhân dạng gọi là bản ngã. Bản ngã chỉ là một loạt những
hồi ức, những xu hướng sinh ra bởi hàn hđộng, lòng tham
và đối tượng của nó. Nếu như hành động là kết quả của
những định kiến, của sự sợ hãi, của tín ngưỡng, thì nó sẽ
sinh ra một hạn chế mới. Nếu bạn được nuôi dưỡng trong
một tín ngưỡng đặc biệt, thì điều này nhất định tạo ra một
sự đối kháng vận động của đời sống. Những sự đối kháng,
những bức tường vị kỉ, tự vệ và an toàn ấy tạo nên quá
trình của bản ngã, nó được lưu truyền bằng những hoạt
động của chính nó.
Muốn tự hiểu được con người mình, bạn phải dần dần
ý thức được về cái quá trình xây dựng bản ngã. Khi ấy bạn
sẽ thấy quá trình đó không có khởi đầu, nhưng nếu quan sát
một cách sáng suốt liên tục và cố gắng chỉ đạo cho đúng thì
nó có thể đi đến kết thúc. Đó là một nghệ thuật, nó đòi hỏi
một trí phán đoán vĩ đại và một sự cố gắng có định hướng
tốt. Chúng ta chẳng thể hiểu được một quá trình nào khác,
ngoại trừ quá trình này, nó là ý thức và nó kiểm soát cá
nhân. Bằng một cố gắng khôn ngoan, ta có thể phân biệt
được cái cách phát sinh của quá trình bản ngã, và ta dẫn nó
đến chỗ chấm dứt. Khi ấy bắt đầu niềm phúc lạc của thực
tại, vẻ đẹp của cuộc sống như một chuyển động miên viễn.
Những gì tôi nói đây, bạn có thể tự chứng nghiệm lấy
mình, không cần phải có đức tin gì hết, cái này không phụ
thuộc vào bất kì một hệ tư tưởng hay một tín ngưỡng nào.
Nhưng nó đòi hỏi một trí huệ nguyên vẹn và một nỗ lực
đúng hướng, chúng sẽ xoá tan các ảo tưởng và các hạn chế
do chúng ta tạo ra cho chính mình, và chúng làm xuất hiện
niềm phúc lạc của thực tại.
*******************************
Hỏi: Lòng mong muốn ban rải hạnh phúc xung quanh
mình, và góp phần biến đổi thế giới này thành một nơi mà
mỗi người đều có thể sống một cách cao quí hơn, nó dẫn
dắt tôi trong cuộc sốngvà chỉ đạo các hành động của tôi.
Thái độ đó khiến tôi đem gia sản và uy tín của mình, không
phải để tôn vinh cá nhân tôi, mà coi như một sự cúng
dường thiêng liêng, và đó là một động lực cho mình sống.
Thái độ ấy có cái gì là cơ bản giả tạo chăng, và tôi có lỗi
gì không, chẳng hạn như bóc lột các bạn tôi và bóc lột con
người nói chung?
Krishnamurti: Việc bạn có bóc lột hay không, phụ
thuộc vào nhận thức của bạn về giúp đỡ và ban rải hạnh
phúc. Bạn có thể giúp một người nào đó tự hiểu lấy họ để
sống hoàn hảo hơn, hay bạn có thể giúp một người để biến
nó thành nô lệ. Bạn có thể ban rải hạnh phúc bằng cách
khuyến khích ảo tưởng khi bạn an ủi và cho một sự an toàn
bề ngoài có vẻ lâu dài, nhưng bạn cũng có thể giúp người
nào đó nhận rõ được nhiều ảo tưởng trói buộc họ. Nếu bạn
có thể làm được việc này, thì bạn không bóc lột. Nhưng
muốn không bóc lột, bạn cũng phải tự mình thoát khỏi
những ảo tưởng và những lời an ủi nó trói buộc bạn hay
những kẻ khác. Bạn phải nhận rõ những hạn chế của mình
trước khi có khả năng giúp đỡ kẻ khác. Trên thế gian này
có nhiều người thực lòng muốn giúp đỡ người khác, nhưng
sự giúp đỡ ấy thường trùng với việc hoán cải những người
khác theo tín ngưỡng riêng của mình, theo hệ thống và tôn
giáo của mình. Cái đó chẳng qua là thay thế nhà tù này
bằng trại giam khác. Sự thay thế đó không làm nảy sinh sự
hiểu biết, mà chỉ tạo ra một sự hỗn loạn lớn hơn. Niềm
phúc lạc mà mỗi người phấn đấu cật lực vươn tới, nó nằm
trong sự hiểu biết sâu sắc bản thân mình.
*******************************
Hỏi: Ngài có cho rằng cần phải thông qua kinh nghiệm
bóc lột để học được cách không bóc lột, kinh nghiệm thâu
đạt để tiến tới chỗ không muốn thây đạt nữa,v.v..?
Krishnamurti: Quả là một ý vô cùng hấp dẫn, rằng bạn
phải trước hết chiếm hữu rồi sau đó học cách không thâu
đạt!
Sự thâu đạt là một dạng thú vui, và trong quá trình đó,
nghĩa là trong khi người ta thâu đạt, tích chứa, thì phiền
não xuất hiện và muốn tránh phiền não bạn lại tự nhủ rằng
"Tôi không nên thâu đạt." Sự không thâu đạt trở thành một
đạo đức mới. Nhưng nếu bạn quan sát cái ý muốn nó thúc
đẩy bạn đừng thâu đạt, bạn sẽ thấy nó dựa trên một ý muốn
sâu sắc hơn, nhằm làm cho bạn khỏi phiền não. Như vậy
thực ra cái mà bạn tìm kiếm, chính là cái thích thú, cả trong
sự thâu đạt và không thâu đạt. Về bản chất, sự thâu đạt và
không thâu đạt hoàn toàn giống nhau vì cả hai đều xuất
phát từ ý muốn không dính đến phiền não. Phát triển một
phẩm chất đặc biệt chỉ tạo thêm một bức tường tự bảo vệ
mình, chống lại sự vận đọong của cuộc sống. Trong sự đề
kháng đó, ngay bên trong các nhà tù tự bảo vệ đó ngự trị
phiền não và hỗn loạn.
Tuy nhiên, có một cách khác để giải quyết vấn đề đối
kháng ấy. Bạn phải nhận chân trực tiếp, thấu hiểu toàn vẹn
rằng tất cả mọi xu hướng và đức tính đều chứa đựng trong
bản thân chúng những mặt đối lập, cho nên vun bồi các đối
lập có khác nào trốn chạy khỏi thực tại?
Có đúng chăng, khi ta bảo rằng cần phải căm thù để
yêu thương? Trên thực tế, điều này không bao giờ xảy ra.
*******************************
Bạn yêu, và chính vì trong tình yêu của bạn có một ý nghĩa
chiếm hữu, nên xuất hiện cảm giác bị mất mát, ghen tuông
và sợ hãi. Quá trình này khơi dậy lòng căm thù. Các mặt
đối lập bắt đầu chống nhau. Nếu như ý thức thâu đạt bản
thân nó là xấu, tại sao bạn vun bồi cái đối lập với nó? Bởi
vì bạn không biết nó thật sự là xấu, bạn chỉ muốn giản đơn
là tránh sự phiền não do nó đem đến. Tất cả các mặt đối lập
đều phải chống lại nhau, vì căn bản chúng là vô minh. Một
người nhát gan thích vun bồi lòng dũng cảm. Thực ra anh
ta chỉ trốn chạy nỗi sợ hãi. Nhưng nếu anh ta nhận chân
được nguyên nhân sự sợ hãi, thì nó sẽ chấm dứt rất tự
nhiên. Tại sao anh ta không có khả năng phán đoán trực
tiếp? Vì một khi đã có phán đoán trực tiếp, nhất định có
hành động. Đằng này muốn tránh hành động, người ta vun
bồi những mặt đối lập nhau, và tạo ra những sự giải thoát tế
nhị.
*******************************
Hỏi: Người ta bảo rằng làm gương hơn là giảng dạy.
Vậy một tấm gương cá nhân như của ngài có thể mang một
ý nghĩa to lớn chăng?
Krishnamurti: Động cơ nào ẩn giấu sau câu hỏi này?
Người hỏi câu này phải chăng muốn noi gương ai đó mà
nghĩ rằng nó có thể dẫn đến sự hoàn thiện? Theo một người
nào đó chẳng bao giờ dẫn tới sự hoàn thiện. Một bông hoa
violet không thể trở thành hoa hồng, nhưng một bông violet
tự nó có thể trở thành một bông hoa hoàn hảo. Vì không
cảm thấychắc chắn, nên người ta thường đi tìm sự chắc
chắn bằng cách bắt chước kẻ khác. Điều này sinh ra sự sợ
hãi, rồi từ đó sinh ra ảo tưởng về nơi trú ẩn và niềm an ủi
mà ta có thể tìm thấy nơi người khác, cũng như nhiều ý
niệm sai lầm về các pháp môn, về thiền định và việc phục
tùng một lí tưởng. Tất cả điều này chỉ bộc lộ sự thiếu hiểu
biết về bản thân mình, và kéo dài tình trạng vô minh. Đó
chính là nguồn gốc của phiền não, nhưng thay vì nhận biết
nguyên nhân của nó, bạn lại cho rằng mình có thể tự hiểu
mình nhờ một kẻ khác. Cái kiểu cách đi tìm một tấm gương
để noi theo chỉ dẫn đến ảo tưởng và đau khổ.
Chừng nào còn chưa tự hiểu biết chính mình, thì không
thể có khai ngộ. Sự khai ngộ không phải là một quá trình
hợp lí hoá, cũng không phải là một sự tích chứa thông tin
đơn giản, cũng không phải là một cái gì ta có thể tìm thấy ở
người khác, dù người đó vĩ đại đến đâu cũng vậy, mà nó
chính là thành quả của sự thấu hiểu sâu sắc cuộc đời của
chính ta và các hành động của ta.
*******************************
Hỏi: Nếu tái sinh là một sự kiện của tự nhiên, cũng như
sự hoàn hảo mà bản ngã cuối cùng đạt được, thì việc đạt
tới sự hoàn hảo, hay chân lí có bao hàm ý nghĩa thời gian
chăng?
Krishnamurti: Chúng ta thường hỏi rằng tái sinh phải
chăng là một thực tại, bởi vì chúng ta không thể tìm thấy
một niềm phúc lạc trí huệ nào, một sự khai ngộ nào của cá
nhân trong hiện tại. Nếu chúng ta sống trong xung đột và
khốn khổ, nếu chúng ta chẳng có cơ may cũng chẳng có hi
vọng trong cuộc đời này, thì chúng ta khao khát một cuộc
sống tương lai hoàn hảo, không còn đấu tranh và đau khổ.
Trạng thái phúc lạc tương lai, chúng ta thích gọi nó là sự
viên mãn.
Muốn thấu hiểu vấn đề này, chúng ta cần hiểu thế nào
là bản ngã. Bản ngã không phải là một cái gì có thực tự nó,
giống như con sâu bò từ cái lá này sang lá khác, lang thang
hết kiếp này qua kiếp khác, thu lượm và học hỏi nền minh
triết, cho đến khi đạt tới một điểm tối cao, mà chúng ta
tưởng là sự viên mãn. Quan điểm đó sai lầm, nó chỉ là một
ý niệm, không phải là một sự kiện. Quá trình thực của bản
ngã có thể được phát hiện khi ta thấy rõ rằng do vô minh,
do các xu hướng và tham vọng bản ngã, lại hình thành và
xác lập liên tục từng sát na. Lòng tham tự duy trì bằng các
hoạt động ý chí của mình. Thông qua hành động vô minh
và thông qua quá trình tự duy trì, sự giới hạn với tính cách
là ý thức, tạo nên sự giới hạn mới và đau khổ. Cả cuộc
sống bị nhốt trong cái vòng lẩn quẩn ấy.
Sự hạn hẹp ấy, sự chà xát, chống đối lại vận động của
cuộc sống, được biết dưới cái tên bản nãg ấy có bao giờ trở
thành viên mãn được không? Lòng tham có thể trở thành
hoàn hảo chăng? Lòng vị kỉ chắc chắn không thể trở thành
cao quí hay trong sạch hơn; vì nó vẫn là lòng vị kỉ. Quan
niệm cho rằng bản ngã trải qua thời gian sẽ trở nên hoàn
thiện hơn là hoàn toàn sai lầm.
Thời gian là kết quả của những hoạt động ý chí ấy do
lòng tham dẫn dắt nối tiếp nhau và tạo một cảm giác liên
tục cho cuộc sống, trong khi ngược lại, cuộc sống luôn luôn
sinh sôi không ngừng, luôn luôn trong tình trạng không bao
giờ có quá khứ và vị lai, luôn luôn mới mẻ, luôn luôn vận
động không ngừng.
Điều quan trọng sống còn đối với từng người chúng ta
là phát hiện xem có phải chăng quá trình của bản ngã tự
duy trì nhờ vô minh và các hoạt động ý chí? Chừng nào
quá trình này còn tiếp diễn, còn tự nuôi dưỡng, thì không
thể có thực tại, chân lí. Chỉ khi nào chấm dứt ý chí của lòng
tham (với những kinh nghiệm ham muốn của nó), lúc ấy
mới có thực tại. Quá trình vô thuỷ của bản ngã với những
giới hạn tự hoạt động của nó không thể được chứng minh.
Nó phải được cảm nhận. Đây không phải là một vấn đề đức
tin, mà là sự thấu hiểu sâu sắc, sự sáng suốt toàn vẹn, cố
gắng đúng mức để nhận rõ xem lòng tham tạo ra sự hạn chế
của chính nó ra sao, và hành động do lòng tham dẫn dắt
nhất thiết phải tạo ra những xô xát mới, những sự chống
đối và đau khổ.
*******************************
Hỏi: Ngài nghĩ thế nào về kĩ thuật phân tâm học để
điều trị các bệnh ám ảnh, nhập tâm và mặc cảm? Và ngài
sẽ giải quyết các bệnh ấy ra sao?
Krishnamurti: Có thể nào giải phóng quí bạn khỏi
những sự hạn chế ấy chăng, hay đó chỉ là một quá trình
thay thế? Việc đeo đuổi các nhà phân tâm học đã trở thành
sự thích thú của những người giàu có (có những tiếng
cười). Xin quí bạn đừng cười. Bạn có thể không tìm đến
nhà phân tâm học, nhưng bạn vẫn trải qua quá trình đó,
bằng một cách khác, khi bạn yêu cầu một tổ chức tôn giáo
hay một môn phái nào đó giải cho bạn khỏi những ám ảnh,
nhập tâm và mặc cảm. Những phương pháp ấy có thể dẫn
đến hiệu quả bề ngoài nhưng chắc chắn chúng sẽ tạo ra
những chống đối mới với vận động của cuộc sống.
Chẳng một ai, chẳng một kĩ thuật nào có thể thực sự
giải phóng bạn khỏi những hạn chế nói trên. Muốn chứng
nghiệm tự do này, ta phải thấu hiểu sâu sắc cuộc sống và tự
mình nhận biết quá trình thành tạo và duy trì vô minh và ảo
tưởng. Cần phải có sự nhanh nhẹn nhạy bén và khả năng
cảm nhận sắc bén, chứ không đơn thuần là chấp nhận một
kĩ thuật. Nhưng vì lười biếng ta thường ỉ lại vào kẻ khác để
hiểu biết, do đó ta làm tăng thêm phiền não và hỗn loạn.
Việc thấu hiểu quá trình vô minh, những hoạt động tự nuôi
dưỡng của nó, và cái ý thức có trọng điểm, trọng tâm ngay
trong mỗi con người và chỉ con người mới cảm nhận được
nó, chỉ sự thấu hiểu ấy mới có thể tạo nên cho con người
niềm phúc lạc sâu xa và bền vững.
Ngày 4/6/1936
****************************************************************************************************
Nói chuyện ở Eddington (Pennsylavnia)
Điều quan trọng là quí bạn phải tự hỏi mình đến các
cuộc họp mặt này để làm gì, và quí bạn tìm kiếm gì ở đấy.
Nếu tự quí bạn không biết được điều ấy, quí bạn có nguy
cơ rơi vào sự hỗ nloạn khi toan giải quyết nhiều vấn đề
được đặt ra cho tất cả chúng ta.
Muốn thấu hiểu động cơ và đối tượng tìm kiếm - nếu
bạn tìm kiếm bất kì cái gì - cần phải biết rằng nếu bạn quan
niệm cuộc sống theo cách nhìn máy móc hay theo cách
nhìn tôn giáo, tin tưởng có thế giới bên kia. Nhiều người
bảo với bạn rằng họ làm việc để xây dựng một thế giới
không có người bóc lột người, không có những sự tàn ác,
chiến tranh, đói khổ. Trong khi họ nhất trí về mục tiêu
chung, một số người chấp nhận quan điểm máy móc về
cuộc sống, một số khác lại theo quan điểm tôn giáo.
Theo quan điểm máy móc, con người chỉ là sản phẩm
của môi trường và của những phản ứng khác nhau chỉ có
thể nhận biết bằng giác quan, và do đó mô ỉtường cũng như
các phản ứng cần phải được kiểm soát bởi một hệ thống
hợp lí hoá, nó chỉ cho phép con người hoạt động trong
những khuôn khổ nhất định. Tôi đề nghị các bạn thấu hiểu
ý nghĩa đầy đủ của quan điểm máy móc này về cuộc sống.
Nó không chấp nhận một thực thể tiên thiên tối cao nào,
không chấp nhận bất cứ cái gì có tính liên tục; quan điểm
này không chấp nhận bất kì một sự tồn tại nào sau khi chết;
cuộc sống chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi kết thúc bằng
gư vô. Vì con người là kết quả của những phản ứng đáp lại
môi trường, chăm chú theo đuổi sự an toàn vị kỉ của mình
nên con người góp phần tạo ra một chế độ bóc lột, tàn ác và
chiến tranh. Vì vậy các hoạt động của con người cần phải
được đào tạo và hướng dẫn bằng cách cải tạo và kiểm soát
môi trường.
Quan điểm máy móc về cuộc sống tước đoạt mất khả
năng của con người tiếp cận với thực tại. Kinh nghiệm về
thực tại không phải là li kì và tưởng tượng, nhưng nó bắt
đầu phát lộ khi tâm trí được giải phóng khỏi những vướng
mắc của sợ hãi, của các giáo điều, các tín ngưỡng, khỏi các
thứ bệnh tâm lí xuất phát từ những ức chế và giới hạn mà
chúng ta chấp nhận trong cuộc tìm kiếm sự che chở, an
toàn và tiện nghi.
Quan điểm thứ hai cho rằng con người có bản chất
thiêng liêng; số mệnh của nó được kiểm soát và dẫn dắt bởi
một đấng minh triết tối cao. Họ đi tìm Thượng đế, sự hoàn
hảo, tự do, hạnh phúc, một trạng thái tồn tại trong đó mọi
xung đột chủ quan đã chấm dứt. Họ tin vào một đấng tối
cao dẫn dắt số phận loài người, và đó là nền tảng tín
ngưỡng của họ. Họ cho rằng đấng tối cao đã tạo nên thế
giới, còn phàm ngã hay cá nhân con người là một thể
trường tồn có tính chất vĩnh viễn.
Nếu bạn suy nghĩ về điều trên đây với một đầu óc phê
phán, bạn sẽ thấy rằng quan điểm này dựa trên tín ngưỡng,
đã đưa con người ra khỏi thế gian này, để đến một thế giới
giả tưởng, hi vọng và duy tâm, nó giúp con người thoát
khỏi những xung đột và hỗn loạn. Thái độ thoát li thế gian
đó, dựa trên tín ngưỡng, tức là sự sợ hãi, đã sinh ra những
đức tin, những tín điều, giáo điều, sùng bái, và khuyến
khích một nền đạo lí của an toàn cá nhân, hướng tới một hệ
thống giải thoát khỏi thế giới đau khổ và xung đột này; nó
đã chia cắt thực tại với lí tưởng, thế giới này và thế giới
bên kia, đất và trời, nội tâm và ngoại cảnh. Quan điểm này
tạo nên một nền luân lí dựa trên sự sợ hãi, sự thâu đoạt, an
toàn cá nhân, tiện nghi ở cõi này và cõi bên kia, và trên một
loạt nữhng giá trị phi luân lí, giả đạo đức và không lành
mạnh, nó hoàn toàn không phù hợp với cuộc sống. Quan
niệm về cuộc sống như vậy, với sự thoát li dựa trên tín
ngưỡng, tước đoạt của con người kinh nghiệm chân thật về
thực tại.
Vậy hoặc ta khép mình vào một tôn giáo, với những sự
sợ hãi, những tín điều được hợp lí hoá với tư duy và cách
ứng xử rập khuôn.
Đại đa số người thuộc về một trong hai nhóm trên, đối
lập nhau. Đã đối lập nhau thì không bao giờ có chân lí, nếu
cả hai đều không có chân lí thì chúng ta làm sao hiểu được
cuộc sống, những giá trị của nó, đạo lí của nó và cái ý
nghĩa sâu sắc mà chúng ta cảm nhận nơi nó?
Có một cách khác để xem xét cuộc sống, không đứng
trên quan điểm đối lập, tôn giao hay khoa học, sợ hãi hay
máy móc, nhưng thấu hiểu cuộc sống, không phải như nó
biểu hiện trong vĩ trụ, mà là quá trình ở trong tâm của mỗi
người. Tôi muốn nói rằng mỗi người phải nhận rõ quá trình
phát triển và sự chấm dứt tồn tại bề ngoài, quá trình sinh và
tử. Đây là quá trình suy nhất với tính chất ý thức, nó hoàn
toàn có thể cảm nhận được bởi từng người. Tôi đề nghị
thấy rõ điều này. Quá trình sống diễn ra trong vũ trụ hay
nơi một người khác, chỉ có thể được nhận rõ nơi tâm của
bạn với tư cách một cá nhân.
Nếu ta có xu hướng chấp nhận quan điểm máy móc về
cuộc sống, hay lựa chọn sự an toàn và tiện nghi của đức tin,
ta sẽ không đi tới được một khả năng phán đoán chân chính
về cái đang tồn tại. Thực tại chỉ có thể được thấu hiểu
thông qua quá trình của bản ngã, với tư cách ý thức, từ đó
xuất phát cá nhân. Nói cách khác, ta phải thấu hiểu quá
trình trở thành của chính mình, điều này đòi hỏi phải có trí
tuệ, một tự phán đoán sắc bén, một sự sáng suốt thường
trực. Bằng cách thấu hiểu toàn vẹn chính mình, ta có khả
năng nắm bắt được những giá trị chân chính của cuộc sống,
những mối quan hệ chân chính giữa các cá nhân với xã hội.
Gia nhập một trong hai nhóm đối lập về tư tưởng mà
tôi vừa kể trên, cuối cùng chỉ dẫn đến hỗn loạn và khốn
khổ hơn. Tất cả những mặt đối lập ấy ngăn trở trí phán
đoán. Muốn nhận rõ được cái đang tồn tại, ta phải thấu hiểu
bản thân ta, và muốn tự hiểu mình, ta phải soi thấu suốt qua
tất cả những vướng mắc, những hạn hẹp của quan điểm
máy móc và tín ngưỡng; chỉ lúc ấy mới có thể phán đoán
một cách lành mạnh, không bạo hành, cái quá trình bản ngã
với tính cách là ý thức, nơi phát khởi cá thể.
Mọi vật sinh ra bởi nguồn năng lượng mà quá trình là
duy nhất ở mỗi cá thể. Bạn và tôi đều là kết quả của năng
lượng ấy; trong khi phát triển nó tạo ra những thiên kiến,
những xu hướng, và lòng tham lam cho mỗi cá thể trở
thành duy nhất. Quá trình này (không có khởi thuỷ), trong
vận động của nó, trong hành động của nó, trở thành ý thức
thông qua cảm giác, cảm nhận, trí phán đoán. Ý thức này
được nhận biết bởi các giác quan, như là cá thể. Hành động
của nó sinh ra bởi vô minh là sự xung đột. Năng lượng duy
nhất ở mỗi con người chẳng có gì đáng tôn vinh cả.
Chúng ta cần nhận biết quá trình duy trì vô minh với tư
cách ý thức, cảm nhận được bởi giác quan như một cá thể,
để nó trở thành một thực tế đối với chúng ta chứ không
phải chỉ là lí thuyết. Chỉ lúc ấy mới có chăng một thay đổi
căn bản các giá trị, chỉ có nó mới xác lập được các quan hệ
chân chính giữa con người và môi trường của nó: xã hội.
Nếu quí bạn có thể nhận rõ được quá trình vô minh này, nó
không có khởi đầu, và hiểu rằng có thể đưa nó đến kết thúc
bằng cách chấm dứt hoạt động ham muốn của mình, khi ấy
bạn sẽ thấy mình làm chủ hoàn toàn vận mệnh của mình,
làm chủ hoàn toàn bản thân mình, và bạn không phụ thuộc
hoàn cảnh nào, tín ngưỡng nào trong ứng xử và các quan
hệ nhân bản của bạn.
Để đưa đến sự biến đổi sâu sắc ấy của các giá trị, và để
xác lập những quan hệ chân chính và lành mạnh giữa cá
nhân và xã hội, thì bạn - cá nhân - nên có ý thức tự giải
phóng mình khỏi cách nhìn máy móc về cuộc sống, với
nhiều sự dính líu và cơ cấu điều chỉnh hời hợt. Bạn cũng
nên thoát khỏi những ràng buộc của tín ngưỡng với những
nỗi lo sợ, những tín điều và những cuộc xưng tội.
Đôi khi bạn tưởng cuộc đời là máy móc, rồi trong
những lúc phiền não và hỗn loạn, bạn lại quay về với tín
ngưỡng, và cầu xin một đấng tối cao hướng dẫn, giúp đỡ
bạn. Bạn dao động giữa hai quan điểm đối lập ấy, vậy mà
chỉ cần thấu hiểu tính huyễn của các mặt đối lập là bạn có
thể thoát ra khỏi sự hạn hẹp và lúng túng của chúng. Bạn
không bao giờ thiếu hiểu được thực tại, cái đang hiện hữu,
chừng nào mà qua trình vô thuỷ ấy còn tiếp nối. Quá trình
này tự duy trì bằng chính những hoạt động ham muốn và
tham lam của nó, khi nó dừng lại, sẽ xuất hiện cái chúng ta
có thể gọi là thực tại, chân lí, phúc lạc.
Muốn thấu hiểu cuộc sống và muốn có những giá trị
đích thực, bạn phải thấy được mình bị giam hãm bởi những
mặt đối lập ra sao, và trước khi vứt bỏ chúng, bạn phải
nhận rõ ý nghĩa sâu sắc của chúng. Và ngay trong hành
động thoát ra khỏi chúng, nảy ra sự hiểu biết về màng vô
minh từ vô thuỷ, nó tạo nên những giá trị giả và do đó xác
lập những quan hệ giữa con người và môi trường, gây nên
hỗn loạn, sợ hãi và đau khổ.
Muốn thấu hiểu sự hỗn loạn và sợ hãi, bạn - cá nhân -
cần nhận rõ quá trình trở thành của chính bạn, nhờ một
cường độ tư duy lớn và sự sáng suốt toàn vẹn. Điều này
không có nghĩa là bạn phải rời bỏ thế gian: ngược lại, điều
đó có nghĩa bạn thấu hiểu vô số các giá trị giả của thế gian
và bạn thoát khỏi chúng. Chính quí bạn đã tạo ra những giá
trị ấy, và chỉ có dùng tinh thần cảnh giác cùng trí phán
đoán thường trực mới có thể chấm dứt quá trình vô minh
ấy.
*******************************
Hỏi: Có thể nảo sự chú ý cảnh giác nói trên, nhất thiết
thu hút những ý nghĩ và tình cảm của chúng ta, sẽ tạo ra
một sự thờ ơ với kẻ khác? Có thể nào nó dạy cho chúng ta
sự đồng cảm, sự nhạy cảm với những đau khổ của kẻ khác?
Krishnamurti: Sự sáng suốt không phải là htu mình vào
trong tư tưởng và tình cảm. Hoạt động này gọi là quan sát
nội tâm, nó khách quan hoá các hành độngcủa chúng ta và
tính toán các kết quả hành động của chúng ta. Nó không
làm chúng ta trở nên tốt bụng hơn và không giúp chúng ta
tìm thấy sự viên mãn. Mỗi người quá bận rộn với bản thân
mình, với những nhu cầu tâm lí của mình, với sự an toàn
của bản thân, đến mức không còn khả năng đồng cảm với
kẻ khác.
Sự sáng suốt không phải như vậy. Sự sáng suốt là trí
phán đoán, không phê phán, nhận rõ cái quá trình xây nên
những bức tường bảo vệ và giới hạn mình, bên trong đó
tâm trí tìm kiếm nơi trú ẩn và tiện nghi. Hãy lấy một thí dụ,
như vấn đề tín ngưỡng, với sự sợ hãi và niềm hi vọng của
nó. Tín ngưỡng an ủi bạn, làm vơi bớt sự bất hạnh và phiền
não. Nấp sau bức tường bảo vệ của tín ngưỡng, bạn trú ẩn,
và bức tường ấy ngăn chặn tình thương, sự đồng cảm, lòng
tốt; như vậy đấy, bởi vì bạn đã bị thu hút bởi bản thân
mình; bởi sự cứu rỗi bản thân, bởi tiện nghi dễ chịu của
chính mình, ở thế giới này và cõi bên kia.
Nếu bạn bắt đầu ý thức, thấy được bạn đã tạo ra quá
trình ấy bằng sự sợ hãi ra sao, rồi bạn thường ẩn nấp phía
sau các lí tưởng, các khái niệm và giá trị ấy ra sao, mỗi khi
có một phản ứng nào đó, bạn liền nhận rõ là sự sáng suốt
không phải là tự thu mình vào cái tư duy và tình cảm của
mình, mà nó là sự thấu hiểu sâu sắc rằng thật điên rồ khi
tạo nên những giá trị để cho trí tuệ ẩn náu sau đó.
Phần đông chúng ta không ý thức rằng mình đang theo
một mẫu mực, một lí tưởng, nó dẫn dắt chúng ta qua cuộc
đời. Chúng ta chấp nhận và đi theo một lí tưởng vì chúng ta
tin nó sẽ giúp chúng ta vạch một con đường xuyên qua sự
hỗn loạn của cuộc sống. Chính điều đó hấp dẫn chúng ta,
chứ không phải sự thấu hiểu cuộc sống. Vì vậy chúng ta vô
ý thức với sự thích ứng thường xuyên theo một lí tưởng,
mà thậm chí chúng ta cũng không tự hỏi tại sao nó tồn tại.
Nhưng nếu chúng ta xem xét vấn đề với đầu óc phê phán,
chúng ta sẽ thấy rằng lí tưởng chỉ là sự trốn chạy khỏi thực
tại. Và khi chúng ta tuân theo một lí tưởng, càng ngày
chúng ta càng trở nên hẹp hòi, cuối cùng rơi vào hỗn loạn
và đau khổ. Khi thấu hiểu thực tại, với những đau khổ, lòng
tham chiếm hữu, sự tàn ác và xoá bỏ tất cả những thứ đó,
chúng ta thức tỉnh với sự đồng cảm và tình thương chân
thật. Đây không phải là sự sáng suốt tập trung vào những
suy nghĩ và tình cảm của bản thân mình, mà nó là nhận biết
thường trực, thoát khỏi mọi lựa chọn, nhận biết cái chân
thật. Bất kì sự chọn lựa nào cũng dựa trên những xu hướng,
lòng tham, tín ngưỡng, gây trở ngại cho trí phán đoán chân
chính. Nếu còn có sự lựa chọn thì không thể có sáng suốt.
*******************************
Hỏi: Bằng quan sát một cách thông tuệ cuộc sống của
kẻ khác, ta có thể đi đến những kết luận quí báu cho bản
thân mình. Theo ngài thì kinh nghiệm rút ra từ kẻ khác có
giá trị gì?
Krishnamurti: Kinh nghiệm qua phản ánh không thể có
một giá trị căn bản toàn vẹn. Ở trung tâm của mỗi thứ đều
có một quá trình duy trì vô minh, và chỉ có cách thấu hiểu
quá trình đó ta mới thấu hiểu cuộc sống, chứ không thể
bằng con đường bên cạnh, bằng kinh nghiệm của người
khác.
*******************************
Hỏi: Nếu cho rằng chúng ta thường hành động do thúc
đẩy bởi một biến dạng trí tuệ hay áp lực tình cảm nào đó,
vậy có chang một kĩ thuật qua đó chúng ta có thể trở nên
có ý thức về sự biến dạng hay áp lực ấy ngay lúc hành
động, tức là trước khi hoàn tất hành động ấy?
Krishnamurti: Nói cách khác, bạn tìm một phương
pháp, một ệ thống khả dĩ giúp bạn tỉnh táo khi hành động.
Hệ thống và hành động không thể cùng tồn tại, chúng giết
chết nhau. Bạn hỏi tôi: có thể uống một viên an thần đồng
thời lại tỉnh táo khi hành động chăng? Làm sao một hệ
thống có thể giúp bạn tỉnh táo, hay một cái gì khác ngoại
trừ cường độ vì lợi ích của chính bạn, vì sự cần thiết phải
thức tỉnh? Tôi đề nghị bạn nhận rõ ý nghĩa câu hỏi này.
Nếu bạn nhận biết rằng tâm trí bạn bị méo mó, thì bạn
chẳng cần gì pháp môn, hệ thống hay mẫu mực nào. Chỉ
riêng việc nhận biết một định kiến cũng xoá tan được nó và
bạn sẽ đạt được khả năng hành động lành mạnh và sáng
suốt. Nhưng vì bạn không thấy được sự méo mó gây nên
đau khổ, nên bạn hi vọng vứt bỏ đau khổ bằng cách đi theo
một hệ thống, cuối cùng lại tạo nên một sự biến dạng mới;
sự méo mó này bạn gọi nó là quá trình tỉnh táo, hay trở nên
có ý thức. Việc tìm kiếm một hệ thống chỉ chứng tỏ một
tâm trí biếng nhác; việc đi theo một hệ thống khuyến khích
bạn hành động máy móc, và phá hoại trí tuệ. Những người
gọi là truyền giáo hay huấn luyện viên tôn giáo đã cung cấp
cho bạn những hệ thống. Bạn tưởng rằng đi theo một hệ
thống mới là tập luyện tâm trí để phán đoán và chấp nhận
những giá trị mới. Nếu bạn làm được như vậy, thì điều bạn
thực sự làm được sẽ là mài mòn trí tuệ, ru ngủ nó, và bạn
cho đó là hạnh phúc, hoà bình.
Ta lắng nghe tất cả mọi điều ấy, vậy mà vẫn cứ tồn tại
một cái hố ngăn cách giữa cuộc sống ngày thường với việc
theo đuổi thực tại. Cái hố ấy tồn tại bởi vì sự thay đổi bao
hàm chẳng những sự khó chịu về thể xác, mà còn có sự bất
định về tâm linh, mà chúng ta thì không thích cái gì bất
định. Bởi vì tình trạng bất định ấy tạo nên sự xáo trộn, nên
chúng ta trì hoãn sự thay đổi và như vậy càng tăng thêm hố
ngăn cách. Vậy là chúng ta tiếp tục gây nên xung đột và
khốn khổ, để rồi lại muốn thoát khỏi chúng. Khi ấy chúng
ta chấp nhận hoặc quan điểm máy móc về cuộc sống, hoặc
quan điểm về đức tin, để thoát khỏi thực tại. Cái hố ngăn
cách chúng ta với thực tại chỉ được lấp đầy khi nào chúng
ta thấy cần thiết phải chấm dứt tất cả những sự trốn chạy,
tức là cần thiết phải có hành động trọn vẹn, từ đó có thể
nảy sinh ra những quan hệ thực sự nhân bản với những con
người, và với xã hội.
12/06/1936
*******************************
II
Hỏi: Có cái gì sai lầm trong quan hệ giữa chúng ta với
kẻ khác, khi cuộc sống mà chúng ta cho là tự do, thì kẻ
khác lại cho là giả dối và làm cho họ đau khổ sâu sắc,
trong khi nó cho chúng ta sự trong sáng? Phải chăng đó là
thiếu hiểu biết thật sự về phía chúng ta, tức là thiếu sự
đồng cảm?
Krishnamurti: Tất cả phụ thuộc vào cái mà bạn gọi là
cuộc sống tự do. Nếu bạn bị ám ảnh bởi một lí tưởng và
bạn theo đuổi nó một cách tàn bạo, không suy gẫm sâu sắc
toàn bộ ý nghĩa của nó, bạn sẽ không khai ngộ được và do
đó gây đau khổ cho kẻ khác và cho bản thân bạn. Do thiếu
quân bình, bạn gây nên sự mất hài hoà. Nhưng nếu bạn tự
xác định thực sự bản thân mình, nghĩa là bạn sống trong
những chân giá trị, lúc ấy, mặc dù sự khai ngộ của bạn có
thể làm nảy sinh những đối lập và xung đột, bạn sẽ thực sự
cứu giúp thế gian, Nhưng ta phải luôn luôn cảnh giác, và
rất chăm chú xem có phải chúng ta chỉ giản đơn là đang
sống theo một lsi tưởng, một nguyên tắc, một tiêu chuẩn,
điều đó biểu hiện sự thiếu hiểu biết chân chính thực tại, sự
trốn chạy khỏi thực tại. Sự trốn chạy, sự bắt chước đó dẫn
tới tình trạng què quặt tâm tính, và gây ra xung đột, phiền
não.
*******************************
Hỏi: Làm sao tôi có thể cấm người ta ngăn trở cái mà
tôi tưởng là hành động chân chính, mà không làm kẻ khác
đau khổ?
Krishnamurti: Nếu ý nghĩa duy nhất của bạn là không
làm kẻ khác đau khổ và bạn cố gắng hướng cuộc đời mình
theo ý nghĩ đó, thì bạn không hành động chân chính.
Nhưng nếu bạn luôn tìm cách gỡ bỏ dẫn những lớp vị kỉ
tinh vi, thì hành động của bạn, dù có thể làm một số người
đau khổ, vẫn là hành động của sự khai ngộ.
*******************************
Hỏi: Luân lí vào đạo đức, mặc dù có thay đổi, nhưng
trải qua các thời đại, cũng đã xây dựng nên những lí do
hành động, chẳng hạn như lòng từ thiện của Ki tô giáo hay
sự khước từ của Ấn giáo. Nếu để mất nền tảng đó, làm sao
chúng ta có thể sống những cuộc đời có ích và hạnh phúc?
Krishnamurti: Có một nền luân lí của lí tưởng và một
nền luân lí thực tế. Lí tưởng phải là yêu thương nhau,
không giết hại, không bóc lột v.v.. Nhưng trên thực tế, việc
ứng xử của chúng ta lại dựa trên một quan niệm khác. Đạo
đức của cuộc sống ngày thường, đạo lí của các tiếp xúc xã
hội, cơ bản dựa trên lòng vị kỉ, sự chiếm hữu, sợ hãi và tự
vệ.
Chừng nào còn tất cả những thứ ấy, làm sao có được
đạo lí chân chính, quan hệ chân thật giữa con người và môi
trường xã hội? Chừng nào mỗi người còn tự cô lập vì sợ
hãi, vì ý thức chiếm hữu, vì lòng tham lam vị kỉ, vì các tín
điều hay các lí tưởng, thì làm sao có được những quan hệ
chân chính với kẻ khác?
Đạo lí ngày thường thực ra chỉ là phi đạo lí, và thế giới
đang mắc kẹt trong thứ đạo lí ấy. Dưới nhiều dạng, chiếm
hữu, bóc lột, giết hại, là những hành động được các chính
phủ cũng như các tổ chức tôn giáo ủng hộ, và chúng là nền
tảng của nền đạo lí được xã hội chấp nhận. Trong tất cả cái
đó đều không có tình thương, mà chỉ có sự sợ hãi được che
đậy bằng những danh từ lí tưởng lặp đi lặp lại, chúng ngăn
cản trí phán đoán. Nếu chúng ta muốn trở nên thật sự có
đạo đức, nghĩa là muốn ta có những quan hệ chân chính với
kẻ khác, với xã hội, thì cần phải chấm dứt sự phi đạo lí của
thế giới. Sự vô đạo này được tạo nên bởi lòng tham và
những cố gắng của từng cá nhân muốn tự bảo vệ mình.
Nhưng bạn lại hỏi tôi, làm sao có thể sống được mà
không ham muốn, không có ý thức chiếm hữu? Nếu bạn
suy tư sâu sắc về ý nghĩa của việc xoá bỏ ý thức chiếm
hữu, và nếu bạn thử nghiệm nó, tự bạn sẽ thấy rằng mình
có thể sống trong thế gian mà không gia nhập thế gian.
*******************************
Hỏi: Trong cuốn sách tựa đề "Điểm đạo trong huyền
môn", có nói rằng Ngài thuyết giảng về Advaitisme, là một
triết lí chỉ dành cho các nhà "yoga" và "đệ tử" , nhưng
nguy hiểm đối với người thường bậc trung. Ý kiến của ngài
như thế nào?
Krishnamurti: Rõ ràng là nếu tôi coi những gì tôi nói là
nguy hiểm đối với người trung bình, thì tôi sẽ không nói.
Vậy tuỳ bạn nhận định xem những gì tôi nói có nguy hiểm
hay không.
Những người viết các sách loại đó, là hạng người bóc
lột, có ý thức hay vô ý thức. Họ lo lắng cho việc làm ăn của
họ, và do dấn thân vào một hệ thống nào đó, họ đưa nước
về cối xay của họ và sử dụng tất cả cái gì nóichung kiểm
soát những hoạt động của thiên hạ: uy quyền của một minh
sư, của một truyền thống, những mê tín dị đoan, những nhà
thờ.
Trong những điều tôi nói ra, có cái gì khó khăn hay
nguy hiểm đối với những người bậc trung? Tôi nói rằng
muốn biết tình thương, lòng tốt, sự tôn trọng kẻ khác, thì
không thể có tính vị kỉ. Không thể có những sự trốn chạy
tinh vi ra khỏi thực tại, bằng lí tưởng. Tôi nói rằng uy
quyền là ác độc, chẳng những uy quyền do kẻ khác áp đặt,
mà uy quyền do ta tự xây dựng một cách vô ý thức, bằng
cách chồng chất những kí ức tự bảo vệ: uy quyền của bản
ngã. Chắc chắn, điều này không nguy hiểm đối với cá
nhân, nhưng đối với người đã tham gia một tổ chức và
muốn duy trì tổ chức ấy, đối với người muốn được sùng
bái, được lòng dân và nắm được quyền hành. Những gì tôi
nói về chủ nghĩa dân tộc và sự phân biệt giai cấp xã hội là
nguy hiểm đối với người nào thu lợi nhờ sự tàn ác và thoái
hoá của họ. Sự thấu hiếu, khai ngộ, là nguy hiểm đối với
người hưởng lợi bằng cách tế nhị hay thô sơ, do sự bóc lột,
uy quyền và sợ hãi.
*******************************
Hỏi: Phải chăng ngài gạt bỏ tất cả các hệ thống triết
học, kể cả triết học Veda từng dạy người ta sự khước từ?
Krishnamurti: Bạn hãy tự hỏi mình, tại sao bạn lại cần
có một hệ thống, chứ đừng hỏi tại sao tôi gạt bỏ nó. Bạn
tưởng rằng những hệ thống giúp con người nẩy nở, hoàn
thiện, hiểu biết. Làm sao một hệ thống hay một kĩ thuật có
thể giúp bạn khai ngộ bao giờ? Sự khai ngộ là nhờ cố gắng
đúng mức để nhận rõ quá trình vô minh của chính mình.
Muốn phán đoán, tâm trí không thể có định kiến, nhưng ở
thế gian này tâm trí mọi người chứa đầy thiên kiến cho nên
họ không xét đoán được, rõ ràng là không một hệ thống
nào làm họ hết thiên kiến được. Tất cả cái gì tôi có thể nói
với bạn là đừng định kiến, nhưng chính bạn phải cố gắng
thoát khỏi chúng.
Không có sự khước từ. Khi bạn thấu hiểu những giá trị
chân thật của cuộc sống thì sự khước từ không còn ý nghĩa
nữa. Chính khi bạn không thấu hiểu các giá trị chân thật thì
sự sợ hãi làm nảy ra nơi bạn hi vọng tự giải thoát bằng sự
khước từ. Sự khai ngộ không xuất phát từ sự khước từ.
Bạn tưởng rằng khi trốn chạy thực tại, trốn chạy cuộc
sống ngày thường, bạn sẽ tìm thấy chân lí. Ngược lại, bạn
chỉ tìm được chân lí trong cuộc sống ngày thường, với
những tiếp xúc giữa con người, thông qua các quan hệ xã
hội, qua con đường suy gẫm và tình thương.
*******************************
Hỏi: Ý kiến của ngài về thiền định như thế nào?
Krishnamurti: Cái gọi là thiền định, như phần nhiều
mọi người thực hành, là tập trung vào một ý nghĩ và chế
ngự bản thân. Sự tập trung tư tưởng này giúp bạn đạt được
kí ức mạnh mẽ về một số nguyên tắc hướng dẫn và kiểm
soát tư tưởng cũng như ứng xử thường ngày. Việc tuân
theo một nguyên tắc, một lí tưởng, chỉ là một cuộc chạy
trốn khỏi thực tại, thiếu trí phán đoán về nguyên nhân thật
sự của phiền não. Người đi tìm chân lí bằng sự khước từ,
bằng thiền định, thông qua một hệ thống, bất kì là hệ thống
nào, cũng đều bị vướng mắc vào hệ thống chiếm hữu, và
cái chiếm được không phải là chân thật.
Thiền định chẳng phải là thoát li cuộc sống. Cũng
không phải là tập trung tư tưởng. Thiền định là trí phán
đoán thường trực về cáichân thật trong các hành động của
chúng ta, những phản ứng của chúng ta và trong những
thách đó của cuộc đời. Nhận rõ được nguyên nhân thực của
các cuộc đấu tranh, của sự tàn ác và khốn khổ, đó chính
thật là thiền định. Điều này đòi hỏi một sự nhạy bén và ý
thức sâu sắc. Trong cái sáng suốt ấy, trong khi nhận biết
sâu sắc những giá trị đích thực, liền xuất hiện sự thấu hiểu
thực tại và phúc lạc.
14/06/1936
*******************************
III
Tôi sẽ tóm tắt những gì đã nói trong các buổi mạn đàm
và thảo luận trên đây. Tôi không cần đi sâu vào các chi tiết,
cũng không cần lưu ý các bạn về những gì bao hàm trong
những câu chuyện, những các ý kiến ấy, nếu bạn suy gẫm
sâu sắc, chúng sẽ phát lộ cho bạn nhiều chi tiết về ý nghĩa
của chúng.
Tất cả chúng ta đều muốn sống không hỗn loạn, không
phoền não, tìm cách thoát khỏi chẳng những cáccuộc đấu
tranh chống lại hàng xóm, gia đình, bạn bè, mà nhất là đấu
tranh với bản thân, với những quan niệm của chúng ta về
cái thiện, cái ác, cái thật, cái giả, cái đúng, cái sai. Không
chỉ có sự xung đột trong quan hệ của chúng ta với môi
trường, mà có cả xung đột trong nội tâm, nó phản ánh vào
đạo lí xã hội.
Dĩ nhiên, có những ngoại lệ: những kẻ thô bạo và ngu
xuẩn cảm thấy hoàn toàn thoải mái, hoặc những kẻ lo sợ
cho sự an toàn cá nhân, sống không suy nghĩ và không đếm
xỉa gì đến người khác. Tâm trí họ bị đóng khung và xơ
cứng đến mức họ không bị rung động bởi sự nghi ngờ hay
tìm kiếm. Họ không muốn suy gẫm, hay là, nếu phải suy
nghĩ, thì tư tưởng của họ cũng chạy theo những kiểu truyền
thống. Họ nhận được phần thưởng riêng của họ.
Nhưng chúng ta quan tâm đến những người tìm cách
thấu hiểu cuộc sống một cách nghiêm túc, cuộc sống với
những thống khổ, những xung đột tưởng chừng không bao
giờ dứt. Những người mà chúng ta đề cập ở đây là hạng
người có ý thức sâu sắc về môi trường của họ và tìm kiếm
ý nghĩa chân thật cùng nguyên nhân nỗi khổ, cũng như
niềm vui thoáng qua của họ. Tâm trí họ bị vướng mắc và
cột trói vào những giải thích trái ngược ấy.
Quan điểm máy móc về cuộc sống, gạt bỏ tất cả những
gì không cảm nhận được bằng giác quan, khẳng định rằng
con người là kết quả của những phản ứng, rằng cơ chế con
người được khởi động bởi một loạt phản ứng, chứ không
do một lực hay năng lượng tự nó có thể sinh ra hành động;
rằng sự phát triển của nó, những ham muốn, những quan
niệm và cảm xúc của nó chỉ là kết quả của những va chạm
bên ngoài; rằng nguyên nhân của từng hiện tượng chỉ đơn
giản là một loạt dữ kiện có trước. Từ đó người ta kết luận
rằng khi kiểm soát được những sự kiện và những phản ứng
của con người trước những sự kiện đó, bằng cách rập
khuôn các tư tưởng và hành động, bằng tuyên truyền, thì
con người sẽ có khả năng điều chỉnh cho hoàn toàn ăn
khớp với các quan hệ của họ với môi trường. Nói cách
khác, sự rập khuôn và kiểm soát những phản ứng khác
nhau của họ sẽ sản sinh ra những sự kiện đem hạnh phúc
lại cho con người.
Đối lập với những thứ trên đây là tín ngưỡng. Quan
điểm này chủ trương rằng có một lực lượng vũ trụ, thiêng
liêng tự tại, mà ta không cảm nhận được bằng giác quan.
Lực lượng siêu nhiên, trí huệ tối thượng này dẫn dắt và
luôn luôn chú ý, và phán quyết rằng không một điều gì xảy
ra mà nó không được biết. Dĩ nhiên, từ đó sinh ra ý nghĩ về
định mệnh. Nếu có một trí huệ tối cao để ý đến các bạn và
dẫn dắt các bạn trong mọi hành động, thì bạn, với tư cách
cá nhân, không có trách nhiệm lớn trong cuộc sống. Số
phận của bạn đã được định trước, do đó không thể có ý chí
tự do. Đã không có ý chí tự do thì ý niệm về linh hồn bất tử
không còn có ý nghĩa. Nếu như vậy, thì không có thực tại,
không có Thượng đế, không có lực lượng vũ trụ. Tín
ngưỡng huỷ hoại chính cứu cánh của nó.
Giữa hai thế đối lập ấy, quan điểm máy móc về cuộc
sống với quan điểm tín ngưỡng, chúng ta dao động tuỳ theo
thiên hướng cá nhân từng lúc. Sự chế ngự lần lượt của hai
thế đối lập ấy làm tăng thêm sự hỗn loạn và đau khổ cho
chúng ta.
Nhưng tôi nói rằng còn có một cách khác để xem xét
cuộc đời chúng ta và thấu hiểu nó thật sự. Thực tại, cái mà
mỗi người cảm thấy và nhận biết, chẳng có gì liên quan đến
hai mặt đối lập ấy, tức là có tín ngưỡng hay là gạt bỏ tất cả
những gì không cảm nhận được bằng giác quan. Mỗi cuộc
đời là một quá trình năng lượng, nó vừa qui định vừa bị qui
định. Năng lượng này, trong quá trình phát triển, tự tác, tự
duy trì, tạo ra vật chất cơ bản của chính mình, cảm giác,
cảm nhận, lựa chọn, ý thức, từ đó sinh ra bản ngã cá nhân.
Năng lượng này duy nhất cho mỗi người, cho mỗi quá trình
không có khởi đầu.
Cá tính, ý thức là kết quả của quá trình năng lượng duy
nhất ấy. Trong ý thức có sự kết hợp của vô minh và lòng
tham. Ý thức lại tự duy trì bằng chính những hoạt động ý
chí của nó, phát khởi từ vô minh, thiên kiến và tham lam.
Đó là một quá trình luôn luôn tự hoạt động do chính những
nhu cầu, do lòng tham và các hoạt động ý chí của nó.
Nếu bạn suy gẫm về điều này sâu sắc và kĩ càng, bạn sẽ
thấy quan điểm này có ý nghĩa khác hẳn với quan điểm
máy móc và quan điểm tín ngưỡng. Hai quan điểm này dựa
trên sự đối lập, còn những gì tôi vừa giải thích không thuộc
lĩnh vực đối lập. Với tư cách một con người, bạn phải tự
mình tìm cho ra cái nguyên nhân thật của cuộc sống, của
phiền não và tính liên tục bề ngoài của nó. Như tôi đã nói,
thực tại là cái mà mỗi người nhận biết và htể nghiệm; ta
không thể sống một lí thuyết, một sự giải thích với tính
cách thể nghiệm. Khi cho phép tâm trí chấp nhận một lí
thuyết và được huấn luyện phù hợp với quan niệm đó, ta có
thể thu được một loạt kinh nghiệm, nhưng đó không phải là
kinh nghiệm của thực tại. Đức tin và tín ngưỡng đã có một
cách rèn luyện tâm trí, và những kinh nghiệm dựa trên cái
đó không thuộc về thực tại, vì chúng là sản phẩm của
những thiên kiến và xác tín. Những kinh nghiệm như vậy
chỉ là kết quả của những thành tựu tưởng tượng mà thôi.
Muốn nắm bắt thực tại, hay muốn cảm nhận sự tiếp cận
với thực tại, cần phải có trí phán đoán. Trí phán đoán là
một trạng thái trong đó tư duy - cảm xúc được tổng hoà,
khi mà mọi tham muốn, mọi lựa chọn đều chấm dứt; đó
không phải là một trạng thái nẩy sinh từ phủ định, đàn áp.
Sự thiếu thốn, khao khát nội tâm - dù là khao khát tìm thực
tại - làm hư hỏng trí phán đoán. Nhu cầu nội tâm khống chế
tư duy - cảm xúc và làm nó mất khả năng trực tiếp nhận
biết. Nếu tâm trí bị sai lạc do một lí thuyết hay một cách
giải thích nào đó, chẳng hạn như một tôn giáo hay một triết
thuyết, nó sẽ hoàn toàn mất khả năng phán đoán.
Vậy, trước hết chúng ta phải tìm biết thế nào là các
thiên hướng và lòng tham, chúng duy trì và tiếp tục mãi
quá trình bản ngã. Phân tích sâu sắc quá trình của nhu cầu
và các hậu quả của nó, trí minh mẫn thường trực trong hoạt
động sẽ giải phóng tâm trí khỏi nhu cầu, khỏi những sự
chống đối để tự bảo vệ mà tâm trí đã dựng lên vì sự an toàn
và tiện nghi của nó. Bởi vì, mọi nhu cầu gây trở ngại cho
trí phán đoán, mọi tham vọng làm biến dạng khả năng nhận
biết.
Tham vọng và bất kì kinh nghiệm nào từ tham vọng
đều góp phần tạo nên quá trình ự tác của bản ngã. Quá trình
của bản ngã, với những nhu cầu và xu hướng của nó, tạo ra
sự sợ hãi, từ đó dẫn đến chấp nhận sự an ủi và an toàn do
uy quyền đem lại. Có nhiều loại uy quyền. Có uy quyền
ngoại lai, uy quyền của lí tưởng và uy quyền của kinh
nghiệm hay kí ức.
Uy quyền ngoại lai sinh ra bởi sự sợ hãi, nó buộc tâm
trí phải chấp nhận sự o ép của dư luận, kể cả dư luận của
láng giềng hay của thủ trưởng, và những điều khẳng định
của những tín ngưỡng có tổ chức, gọi là tôn giáo, với
những hệ thống và những tín điều của chúng. Những điều
khẳng định và tín ngưỡng ấy dần dần trở thành một phần
con người của bạn, và có ý thức hay vô ý thức, những tư
tưởng và hành động của bạn cũng rập khuôn tho mô hình
do uy quyền đã xác lập.
Loại thứ hai là uy quyền của lí tưởng, nó cản trở bạn
làm chủ bản thân mình, điều mà bạn có thể làm được nếu
bạn thấu hiểu thực tại. Nhưng vì bạn không thể hiểu được
sự đấu tranh và tình trạng khốn khổ này nên bạn yêu cầu
một lí tưởng, một quan niệm dẫn dắt bạn vượt qua đại
dương đầy hỗn loạn và phiền não này. Nếu bạn phân tích tỉ
mỉ nhu cầu đó, bạn sẽ thấy nó chỉ là một cuộc trốn chạy
khỏi thực tại, khỏi sự xung đột trong hiện tại. Muốn thoát
khỏi thực tại, thoát khỏi cái hiện tại, bạn dựa vào uy quyền
của một lí tưởng, nó dần dần trở nên thiêng liêng với thời
gian và truyền thống. Uy quyền của lí tưởng ngăn trở sự
thấu hiểu hành động.
Loại thứ ba là uy quyền của kinh nghiệm và kí ức.
Chúng ta chỉ là kết quả của quá trình thời gian. Mỗi người
rút ra từ quá khứ sự khát vọng, sự nâng đỡ, sự thấu hiểu;
quá khứ tác động như một bối cảnh, nó là cái kho chứa
kinh nghiệm mà trí óc là cái máy ghi nhận các bài học.
Những kinh nghiệm ấy cùng với các bài học của chúng đã
trở thành kí ức và các kí ức đó đã trở thành những lời cảnh
cáo nhằm bảo vệ bạn. Nếu bạn nghiên cứu sâu sắc những
cái gọi là bài học do kinh nghiệm thu thập được, bạn sẽ
thấy chúng chỉ là những kí ức tự bảo vệ, được tích chứa
cho tương lai để trở thành một thứ uy dũng dắt dẫn bạn
trong hiện tại.
Vậy, do lòng tham và nhu cầu mà sinh ra sự sợ hãi, từ
sợ hãi nảy sinh ra sự tìm kiếm tiện nghi và an toàn mà
người ta tìm thấy trong uy quyền ngoại lai, trong một tín
ngưỡng hay trong uy quyền của kinh nghiệm. Uy quyền đó,
dưới nhiều dạng khác nhau, duy trì quá trình của bản ngã,
dựa trên sự sợ hãi. Hãy xem xét những ý nghĩ, những hoạt
động và ứng xử đạo lí của bạn, bạn sẽ thấy chúng dựa trên
sự lo sợ đểtự bảo vệ mình, với những uy quyền tinh vi và
có tác dụng an ủi. Vậy hành động sinh ra bởi sự sợ hãi chỉ
luôn luôn tự hạn chế mình, do đó mà quá trình của bản ngã
phải tự duy trì bằng chính những hoạt động ý chí của chính
nó.
Để diễn tả điều trên đây một cách khác, tôi có thể nói
rằng có một ý chí của lòng tham, đó là sự cố gắng, và một
ý chí của sự thấu hiểu, đó là trí suy xét. Ý chí của lòng
tham luôn luôn tìm kiếm một phần thưởng, một lợi lộc và
do đó tạo nên những cơn sợ hãi. Đạo lí xã hội dựa trên nền
tảng đó và sự khao khát tâm linh chỉ là mưu toan thiết lập
quan hệ tốt với những con người ở vị trí cao nhất. Con
người là biểu hiện ý chí của lòng tham và trong quá trình
hoạt động của nó, nhu cầu nội tâm này tạo ra sự xung đột
và đau khổ của chính nó. Từ đó con người tìm cách trốn
chạy trong lí tưởng, trong các ảo ảnh, trong những lời giải
thích và như vậy nó duy trì quá trình của bản ngã. Chỉ khi
nàochấm dứt nhu cầu nội tâm cũng như những kinh nghiệm
luôn luôn lặp lại, khi ấy mới phát sinh ý chí của sự thấu
hiểu.
Nếu ta hiểu rõ rằng không thể có sự suy xét chân thật
chừng nào còn tồn tại ý chí của sự ham muốn, chính sự
thấu hiểu ấy sẽ dẫn đến chấm dứt quá trình của bản ngã.
Không có một bản ngã nào khác, một bản ngã siêu việt, có
thể dẫn đến sự chấm dứt quá trình bản ngã; không một
đấng thiêng liêng nào có thể làm nó chấm dứt. Chỉ có sự
nhận biết chính quá trình đó, sự thấu hiểu bản chất điên rồ
và phù du của nó mới làm được việc đó.
Quá trình của bản ngã tự duy trì lấy nó, nó tự hoạt động
do sự vô minh, do các xu hướng và sự khao khát trong nội
tâm của nó. Nó phải tự chấm dứt, bằng cách chấm dứt các
nhu cầu ý chí của nó. Nếu bạn thấu hiểu sâu sắc ý nghĩa
của toàn bộ khái niệm về bản ngã, bạn sẽ thấy rằng bạn
không chỉ đơn thuần là môi trường, những dư luận hay là
sự ngẫu nhiên, mà là người sinh sửa, người xúi giục hành
động. Chính bạn tự tạo ra cho mình cái nhà tù của phiền
não và xung đột. Khi chấm dứt những hoạt động ý chí của
bạn, sẽ có thực tại và phúc lạc.
*******************************
Hỏi: Ngài có nói, muốn thấu hiểu quá trình của bản
ngã, phải nỗ lực rất lớn. Làm thế nào chúng tôi hiểu được
điều khẳng định của ngài, thường nhắc đi nhắc lại rằng sự
cố gắng làm thất bại trí sáng suốt?
Krishnamurti: Ở đâu có cố gắng vì lòng tham, ở đó có
sự lựa chọn, dựa trên những định kiến, những sự méo mó.
Sự sáng suốt không sinh ra bởi sự lựa chọn, nó xuất hiện
khi có sự nhận biết về tính vô thường của ý chí, sinh ra từ
sự lựa chọn hay từ nhu cầu bên trong.
Bằng sự suy ngẫm liên tục và sự quan tâm sâu sắc, ta
sẽ thấu hiểu được ý chí của lòng tham và lúc ấy xuất hiện ý
chí của sự thấu hiểu. Ở đâu có ý chí của lòng tham thì sự cố
gắng nhất thiết là giả tạo và chính cố gắng ấy dẫn đến sự
hỗn loạn, hạn chế, làm tăng thêm phiền não. Sự sáng suốt
là khả năng nhận biết thường xuyên về những gì chân thật.
Phiền não và sự khảo sát nguyên nhân thật của nó (không
phải khảo sát lí thuyết mà khảo sát bằng sự chứng nghiệm
và hành động) sẽ sinh ra tâm trí uyển chuyển và thức tỉnh.
Chẳng có ai là không đau khổ. Nhưng kẻ nào đau khổ mà
cố gắng thoát khỏi thực tại thì sự trốn chạy ấy càng làm
tăng thêm đau khổ. Nếu kiên nhẫn quan sát thầm lặng, con
người sẽ nhận biết nguyên nhân thật của phiền não và
chính sự nhận biết ấy sẽ xoá tan phiền não.
*******************************
Hỏi: Phải chăng ngài luôn có thái độ cứng rắn đối với
những sự tôn sùng và đối với Hộn thông thiên học?
Krishnamurti: Khi bạn đã thấu hiểu rằng một hành
động là vô nghĩa, thì bạn không lặp lại. Nếu bạn nhận biết
sâu sắc, như tôi, sự điên rồ hoàn toàn của các nghi lễ tôn
giáo, thì chúng không bao giờ còn ảnh hưởng đến bạn nữa.
Không một dư luận nào, dù rộng rãi đến đâu, không một uy
quyền nào, dù là xuất phát từ truyền thống hay hoàn cảnh,
cũng không thể làm thay đổi ý nghĩ của một người đã hiểu
được giá trị kém cỏi của nó. Nhưng chừng nào người ta còn
chưa hoàn toàn thấu hiểu ý nghĩa của sự sùng bái, thì người
ta vẫn cứ sùng bái. Hội thông thiên học cũng vậy. Ý nghĩ
về những tín ngưỡng có tổ chức, với những uy quyền của
chúng, với sự tuyên truyền sự sùng tín và lợi dụng bóc lột,
đối với tôi đều là bất công hoàn toàn.
Tôi nghĩ gì về Hội thông thiên học, điều đó không quan
trọng. Điều quan trọng là bạn tự mình phát hiện ra cái gì có
giá trị, cái gì là thực tại chứ không phải cái gì bạn muốn nó
là thực tại. Và muốn thấu hiểu thực tại, cái chân, cái thực,
không còn chút vương vấn hồ nghi, bạn phải đi tới đó, hoàn
toàn buông bỏ mọi tham lam, mọi mong muốn được an
toàn hay an ủi. Chỉ khi ấy mới có khả năng nhận biết được
cái đang là hiện tiền. Nhưng vì phần đông con người bị qui
định bởi nhu cầu nội tâm, bởi sự khao khát an toàn, bởi
lòng mong muốn được an ủi ở đây hay nơi thế giới bên kia,
nên họ hoàn toàn không thể nhận biết một cách chân xác.
Trước khi bạn có thể phán đoán được cái gì là thật,
trong những lời giáo huấn của Hội thông thiên học hay
trong bất kì tổ chức nào khác, trước hết bạn phải thấy mình
đã buông bỏ tất cả mọi nhu cầu nội tâm. Nếu bạn không
được như vậy, thì các tổ chức kia, với những tín ngưỡng
của chúng, sẽ trở thành những phương tiện bóc lột bạn.
Nếu bạn chỉ tự giới hạn vào việc nghiên cứu những giáo
huấn của họ, thì bạn sẽ bị lạc vào những quan niệm, những
lời giải thích. Vì vậy bạn hãy bắt đầu bằng tự mình phân
biệt quá trình của của lòng tham trong bản thân đã làm biến
dạng khả năng nhận biết, duy trì quá trình của bản ngã và
nuôi dưỡng sự sợ hãi. Khi ấy các hệ thống này, các tổ chức
này, với những tín ngưỡng của chúng, những sự đe doạ và
nghi lễ của chúng, sẽ không còn có ý nghĩa gì.
Khốn thay, chúng ta lại không bắt đầu từ cái gốc.
Chúng ta nghĩ rằng những hệ thống và những tổ chức sẽ
giúp chúng ta xoá bỏ được những định kiến, phiền não và
xung đột. Chúng ta tin rằng chúng sẽ giải phóng chúng ta
khỏi sự hạn hẹp và như vậy chúng ta hi vọng thông qua
chúng để thấu hiểu thực tại. Điều này không bao giờ đến và
sẽ không bao giờ đến. Không một tín ngưỡng nào, không
một tổ chức nào, kèm theo những nỗi lo sợ và những cơn
hấp hối của chúng, có thể giải phóng con người khỏi những
ham muốn.
*******************************
Hỏi: Theo ngài, sau khi thể xác chết, linh hồn sẽ ra
sao?
Krishnamurti: Nếu người nào đặt ra câu hỏi này chịu
xem xét động cơ đã thúc đẩy làm việc ấy, thì người ấy sẽ
thấy đó là nỗi lo sợ. Người ấy không tìm thấy sự khai ngộ
lẫn phúc lạc trong hiện tại, nên đòi hỏi cuộc sống tương lai
và những cơ hội may mắn. Nói cách khác, bản ngã tự hỏi
mình liệu nó có thể tiếp tục tồn tại không. Muốn hiểu được
ý nghĩa của lòng ham muốn tiếp tục tồn tại, bạn phải hiểu
bản ngã là cái gì.
Như tôi đã thử giải thích, tín ngưỡng phá bỏ chính ý
niệm về linh hồn của nó. Tín ngưỡng khẳng định rằng có
một lực lượng vũ trụ, một thực thể tối cao bên ngoài con
người, nó dẫn dắt, chỉ đạo cuộc đời và quyết định tương lai.
Nếu bạn xem xét tận gốc, sẽ thấy quan niệm này phá hoại
ngay ý niệm về linh hồn. Nếu không có linh hồn, họ lại
quay trở về quan điểm máy móc về cuộc sống vad đơn giản
là bạn sẽ mc kẹt giữa hai cái đối lập. Chân lí không tồn tại
giữa các mặt đối lập. Nếu bạn thấu hiểu hoàn toàn ý nghĩ
của những cái đối lập, và tất cả những gì bao hàm trong đó,
bạn sẽ phân biệt được quá trình đích thực của bản ngã (cái
tôi). Lúc ấy bạn sẽ thấy rằng chính cái quá trình ham muốn
tự nó nhận biết lấy nó, và vì sợ hãi nên nó tự hỏi: phải
chăng có sự trường tồn? Phải chăng tự ngã vẫn tiếp tục
hiện hữu sau cái chết của thể xác? Vậy câu hỏi đích thực là:
phải chăng cái sự hạn hẹp ấy, cái tôi, cái bản ngã ấy, trải
qua nhiều kinh nghiệm và tiếp thu được nhiều bài học, cuối
cùng nó sẽ trở nên hoàn hảo? Có bao giờ tính vị kỉ lại trở
nên hoàn hảo cùng thời gian và kinh nghiệm chăng? Cái tôi
có thể trở thành lớn hơn, rộng hơn, phong phú hơn trong sự
vị kỉ, trong những hạn chế, nó có thể thâu tóm thêm những
đơn vị giới hạn và vị kỉ khác, nhưng chắc chắn cái quá
trình ấy vĩnh viễn vẫn là cùng một quá trình của bản ngã,
dù cho nó có được bành trướng và tôn vinh đến đâu.
Việc tiếp tục phát triển hay chấm dứt quá trình ấy phụ
thuộc vào sự hiểu biết của mỗi con người. Khi bạn nhận
thấy một cách sâu sắc rằng quá trình của bản ngã tự duy trì
lấy nó bằng chính sự hạn chế của nó, bằng chính những
hoạt động ý chí tham lam của nó, thì lúc ấy hoạt động của
bạn, đạo lí của bạn, toàn bộ thái độ của bạn đối với cuộc
sống sẽ biến đổi một cách căn bản. Đó chính là thực tại, đó
là phúc lạc.
Tôi có thể giải thích đôi lời về nguyên nhân của sự hiện
hữu và của phiền não. Nhưng người nào đi tìm sự giải thích
thì kẻ ấy chưa nhận biết được thực tại. Những định nghĩa
và giải thích có tác dụng như những đám mây che mờ sự
cảm nhận. Cái quá trình bản ngã mà tôi vừa nói đó có thể
chỉ là một luận thuyết đối với bạn. Muốn nhận ra phần nào
của cái chân thật, người ta phải trải qua kinh nghiệm. Chỉ
có cách thấu hiểu nó bằng trí tuệ, người ta mới phát ra hành
động đúng đắn.
Ngày 16/06/1936
********************************************************************************************
Nói chuyện ở trại Ommen (Hà Lan)
I
Các bạn,
Tôi rất vui mừng gặp lại các bạn sau nhiều năm, và tôi
hi vọng rằng trại này sẽ đem lại ích lợi cho mỗi người trong
các bạn. Tôi cũng mong các bạn sẽ hết sức cố gắng để hiểu
những gì tôi sẽ tìm cách giải thích và mong các bạn đem sự
hiểu biết đó vào hành động.
Tôi mong các bạn sẽ xem xét một cách không định
kiến tất cả những gì tôi nói và không có những phản ứng
bản năng gây trở ngại cho tư duy trong sáng và chân thật.
Chúng ta không phải là một nhóm người được lựa chọn
đặc biệt ở bên ngoài cái thế giới đang đầy những xung đột
này. Chúng ta là một phần của nó, với sự hỗn loạn, khốn
khổ, hoang mang, với những nhóm chính trị đối lập nhau,
với những hành động tàn ác. Chúng ta chưa phải là một
nhóm tách biệt, chúng ta không phải là những con người
kiên quyết hành động và với sự hiểu biết, để chống lại nền
văn minh hiện tại của chúng ta. Chúng ta có mặt tại đây để
tự mình thấu hiểu cái quá trình ý thức ở tâm của từng cá
nhân, và làm như vậy, chúng ta chắc chắn sẽ loại bỏ được
những giá trị giả mạo đã trở thành những nguyên lí chỉ đạo
trong thế giới này.
Mặc dù các bạn, với tư cách là những cá nhân thuộc về
một thành phần giai cấp hay dân tộc nào đó và có những tín
ngưỡng nhất định, có thể không can hệ gì đến những sự thù
hận và xung đột ấy (có thể chẳng may các bạn lại tự bảo vệ
mình bằng những hình thức an ninh nào đó), tuy nhiên các
bạn phải có một thái độ xác định rõ ràng đối với nền văn
minh này, với những hoạt động chính trị, xã hội, thẩm mĩ
và tôn giáo. Thái độ dẫn đến hành động đó phải là sự hiểu
biết quá trình của ý thức cá nhân.
Nhấm mạnh sự hiểu biết về ý thức cá nhân, điều đó
không nên xem như một sự khuyến khích mới cho lòng vị
kỉ và sự thu hẹp quá trình hiểu biết tích cực. Chỉ với sự
hiểu biết quá trình ý thức cá nhân người ta mới có được
hành động hồn nhiên, chân thật và nó không tạo ra, cũng
không làm tăng thêm đau khổ và xung đột. Tôi xin các bạn
hãy cố gắng hiểu được điều này một cách đầy đủ, toàn vẹn.
Khi nói về ý thức cá nhân, tôi không muốn nói đến cái quá
trình soi xét nội tâm và phân tích, vì cái này dần dần từng
bước sẽ thu hẹp mọi tính tích cực hoạt động. Muốn có hành
động viên mãn, cần phải hiểu được quá trình của cá nhân.
Sự tiến bộ cá nhân hay tập thể, tính tích cực của quần
chúng không phải là những vấn đề tôi muốn đề cập đến.
Tôi chỉ quan tâm đến sự thấu hiểu, nó sẽ làm sản sinh một
thái độ và một hành động đúng đối với lao động, đối với
người hàng xóm và đối với toàn bộ xã hội. Vì vậy chúng ta
phải hiểu sâu quá trình cá nhân và ý thức của nó. Chúng ta
phải đủ khả năng trí tuệ để thấy được ngay trong bản thân
mình ảnh hưởng của số đông qua các truyền thống, các
định kiến chủng tộc của họ, những lí tưởng và tín ngưỡng
mà chúng ta phải phục tùng một cách có ý thức hay vô ý
thức. Chừng nào mà những thứ đó còn khống chế chúng ta,
với tư cách là những cá thể, thì chúng ta vẫn chưa có khả
năng hành động một cách sáng suốt, trực tiếp, đơn giản và
dễ cảm thông. Vì vậy, việc tôi nhấn mạnh vào tính cách cá
thể, không nên hiểu đó là sự khuyến khích biểu lộ tính cá
nhân và ích kỉ, cũng không phải là sự đồng tình với một ý
tưởng hay một nguyên tắc tập thể. Không thể dùng nó để
biện minh cho việc chúng ta khuất phục trước một nhóm
người, hay một "bọn" thủ lĩnh nào đó. Nó phải dẫn đến một
hiểu biết đúng cái quá trình của ý thức cá nhân, chỉ có sự
hiểu biết như vậy mới làm nảy sinh ra hành động hồn nhiên
và chân thật.
Để hiểu được quá trình cá nhân này, chúng ta phải
được thúc đẩy bởi lòng mong muốn hiểu biết, chứ không
phải lí luận suông hay là mơ mộng.
Không nên nhầm lẫn sự hiểu biết quá trình cá nhân với
việc chấp nhận một tín ngưỡng, một tôn giáo, hay với việc
tham gia vào những kết luận hay những định nghĩa logic.
Muốn hiểu biết thực sự, ta không nên có bất cứ xu hướng
nào nhằm tự thoả mãn với những giải pháp tức thì và hời
hợt. Nhiều người nghĩ rằng chỉ đơn giản tổ chức lại nền
kinh tế thì phần lớn những vấn đề của nhân loại sẽ được
giải quyết. Hoặc là, nhiều người dễ dàng hài lòng với
những giải thích có liên quan đến cõi giới bên kia, với tín
ngưỡng vào sự tái sinh, vân vân. Nhưng điều đó không
phải là sự hiểu biết, không phải là sự thấu hiểu, đó chỉ là
những thứ ma tuý để xoa dịu và ru ngủ tâm trí đau khổ mà
thôi. Muốn biết, muốn hiểu, cần phải có ý chí và lòng kiên
trì, phải có một tính tò mò ham hiểu biết cơ bản và liên tục.
Vậy cá thể, ý thức cá nhân là gì? Xin hãy hiểu cho, là
tôi không quan tâm đến tính vị kỉ hay sự cần thiết phải
thoát khỏi nó. Nhưng khi mà bạn tự mình hiểu được quá
trình của bản ngã, thì khi ấy có khả năng đưa nó đến kết
thúc. Muốn hiểu được quá trình này, phải bắt đầu từ nền
tảng. Cái gọi là linh hồn phải chăng là một thực tại hay một
ảo tưởng? Nó có phải là duy nhất không? Phải chăng nó
tồn tại độc lập với thể sinh lí hay tâm lí và tác động lên thể
này? Phải chăng, bằng cách nghiên cứu tư tưởng, tâm trí
mà ta sẽ biết được cái ý thức che giấu bên trong mọi vật
chất sống? Phải chăng, bằng cách nghiên cứu sự ứng xử xã
hội mà ta sẽ biết được con người là gì? Các nhà kinh tế học
và các nhà vật lí học đã bỏ qua vấn đề cơ bản này, còn
chúng ta với tư cách là những cá nhân, là những con người
đang đau khổ, chúng ta phải đi sâu vào vấn đề này một
cách thành thật. Vì đây là việc của chính chúng ta cho nên
muốn thấu hiểu nó, chúng ta phải có một sức kiên trì lớn,
một cố gắng lớn và sự kiên nhẫn có định hướng. Các nhà
vật lí, các nhà kinh tế, các nhà xã hội học có thể cho chúng
ta những luận thuyết, những hệ thống và những kĩ thuật,
nhưng chính chúng ta phảitự mình cố gắng hiểu được quá
trình ý thức của chúng ta, chọc thủng được nhiều tấm màn
ảo ảnh che giấu thực tại.
Các nhà triết học đã cho chúng ta những luận thuyết và
những khái niệm về vấn đề ý thức và cá nhân. Có rất nhiều
cách nhìn, rất nhiều tín ngưỡng, nhiều sự khẳng định trái
ngược nhau về thực tại. Mỗi người chúng ta, bằng cách soi
vào nội tâm và quan sát, biết rằng có một thực tại sinh động
che giấu bên trong vật chất. Nhưng nó chỉ đóng vai trò rất
nhỏ bé trong cuộc sống ngày thường của chúng ta. Bởi lẽ
chúng ta đã xây nên một loạt bức tường kí ức tự bảo vệ lấy
mình, cho nên dần dần không còn có thể biết được thực tại
nữa. Như tôi đã nói, có rất nhiều tín ngưỡng, rất nhiều luận
thuyết, nhiều sự khẳng định về vấn đề ý thức cá nhân, về
các quá trình và tính liên tục của nó, cho nên chính chúng
ta phải lựa chọn cái nào là thật trong các quan điểm và tín
ngưỡng khác nhau nói trên. Sự chọn lựa được dành cho
những ai không hoàn toàn bị khuất phục bởi uy quyền của
một truyền thống, một tín ngưỡng hay một lí tưởng, và
những ai không dấn thân vào tôn giáo thông qua lí tính và
tình cảm.
Làm thế nào bạn chọn được cái đúng, cái thật trong tất
cả mớ hỗn độn, trái ngược nhau ấy? Phải chăng sự thấu
hiểu thực tại là một vấn đề lựa chọn? Phải chăng nó bao
hàm việc nghiên cứu các lí thuyết khác nhau, các lí lẽ và
các kết luận logic, là những thứ chỉ đòi hỏi sự cố gắng của
cái trí? Cách làm trên đây có thể dẫn dắt chúng ta đến đâu?
Có thể nó dẫn dắt đến một cách lập luận mang tính chất tri
thức; nhưng một con người đang đau khổ thì muốn biết,
muốn hiểu, và đối với anh ta những khái niệm và lí thuyết
đều hoàn toàn vô bổ. Có chăng một con đường khác, một
cảm nhận không lựa chọn? Để chúng ta được an tâm hành
động và triển nở, nhất thiết cơ bản phải hiểu được cái cá
nhân là gì. Bạn đến với những nhà huấn luyện tôn giáo,
những nhà tâm lí học và có thể đến các nhà bác học khoa
học, để nghiên cứu và thực nghiệm những luận thuyết và
những kết luận của họ. Bạn có thể đến từ nhà chuyên môn
này đến chuyên gia khác và tuỳ theo ý thích của bạn để thử
nghiệm các phương pháp của họ, nhưng sự đau khổ vẫn
tiếp tục. Vậy ta phải làm gì?
Chính hành động mới là thiết yếu, là vấn đề sinh tử,
chứ không phải những kết luận logic và những quan điểm.
Quyền uy của lí tưởng và tham vọng đã ngăn trở và bóp
méo cảm nhận chân thực. Khi nào có một ham muốn chưa
được thoả mãn, khi tâm trí còn bị kẹt giữa những cái đối
lập nhau thì không thể có cảm nhận đúng. Nếu chúng ta
phụ thuộc vào một sự lựa chọn, một cuộc xung đột giữa
những phía đối lập, thì chúng ta luôn luôn ở thế nhị nguyên
trong những hành động của mình và điều đó gây ra đau
khổ.
Vậy chính chúng ta phải nhận biết chân lí không có lựa
chọn, bằng cuộc sống, bằng hành động của chính chúng ta.
Chỉ có cảm nhận được chân lí mới chấm dứt được đau khổ
nó đầu độc mình mà tự nó kéo dài bởi chính hành động hạn
chế của nó.
Muốn phân biệt rõ chân lí thì tư tưởng không thể bị
bóp méo, tâm trí không còn tham vọng, không còn lựa
chọn gì nữa. Nếu bạn tự quan sát mình trong hành động, thì
bạn sẽ thấy rằng ý muốn của bạn luôn biến đổi từng giây,
từng phút theo hoàn cảnh bên ngoài, trên những giá trị giả
tạo và kinh nghiệm tự vệ, quá trình đó làm thay đổi bản ngã
của bạn và ngăn chặn sự cảm nhận chân thực của bạn.
Vậy cần phải có sự cảm nhận sâu sắc và không lựa
chọn, để có thể hiểu được quá trình của ý thức. Mà sự cần
thiết này chỉ xuất hiện khi con người ta đau khổ. Muốn
phát hiện được nguyên nhân của sự đau khổ thì tâm trí phải
sắc bén, linh hoạt và nó không có sự lựa chọn, cũng không
được để trở thành đần độn do ham muốn, cũng không được
phụ thuộc vào những luận thuyết. Nếu ta không nhận thức
được quá trình của ý thức cá nhân thì hành động chỉ tạo
thêm sự hỗn loạn, tạo ra những giới hạn và do đó gây ra
đau khổ và xung đột. Chừng nào chúng ta còn ở trong quá
trình đó thì sự tìm kiếm của chúng ta phải nhằm vào
nguyên nhân của nó. Nhưng rất tiếc phần đông chúng ta chỉ
tìm những phương thuốc giải. Sự thấu hiểu nguyên nhân
của đau khổ sẽ dẫn đến một biến đổi của ý chí trong sự
viên mãn của con người chúng ta, và điều đó không bao
hàm sự lựa chọn. Khi đó kinh nghiệm sẽ có ý nghĩa sâu sắc
vì nó đã được gạt bỏ khỏi những kí ức chồng chất, ngăn
cản sự hiểu biết và hành động.
Như vậy kinh nghiệm chân thật dẫn đến sự nhận biết
quá trình của ý thức, nó là cá nhân hay cá thể và nó không
thể tăng cường thêm ý thức cá nhân. Muốn nhận biết sâu
sắc nguyên nhân của đau khổ, bạn không thể tách mình
khỏi thế giới, khỏi đời sống để quan sát riêng biệt ý thức, vì
bạn chỉ có thể hiểu được nó trong chính sự kiện sống.
Sự cảm nhận sâu sắc không lựa chọn về cuộc sống nói
trên bao hàm một khả năng sinh động lớn và một cố gắng
đúng đắn. Tôi sẽ giải thích sự hiểu biết của tôi về ý thức, từ
đó xuất hiện cá tính; nhưng bạn hãy nhớ rằng điều này đối
với bạn không thể là một thực tại mà chỉ là một luận
thuyết. Muốn điều đó trở thành thực tại đối với bạn, thì tâm
trí bạn phải có khả năng phân biệt và cảm nhận không lựa
chọn, nó phải được giải phóng khỏi sự khao khát tiện nghi
và an toàn. Người ta không phải chỉ đơn giản có tính logic
là đủ. Chỉ bằng kinh nghiệm của chính mình thì bạn mới
biết được điều tôi nói là đúng thật và muốn chứng nghiệm
một việc gì thì tâm trí phải thoát khỏi những rào chắn do
chính nó dựng nên. Thật vô cùng khó khăn để trở nên nhạy
cảm đến mức mà tâm trí có thể cảm nhận được và thấu hiểu
vận động của cuộc sống và phân biệt được cái gì là lâu dài
và chân thật. Muốn hiểu được quá trình của cá nhân cần
phải có một trí tuệ lớn chứ không phải cần sự can thiệp của
trí thông minh. Muốn thức tỉnh trí tuệ ấy, ta phải được thúc
đẩy để hiểu biết một cách sâu sắc chứ không phải để suy
luận. Bạn hãy nhớ rằng có thể một điều gì đó đối với tôi là
một sự khẳng định, một sự kiệ nchắc chắn, nhưng đối với
bạn thì chỉ là một lí thuyết. Sự lặp lại đơn giản những lời
nói của tôi sẽ không tạo ra cho bạn sự hiểu biết và thực tại
của bạn. Những gì tôi nói chẳng qua cũng chỉ là một giả
thuyết đối với bạn. Chỉ có bằng cách chứng nghiệm và
hành động thì bạn mới có thể tự mình cảm nhận thực tại,
nó chẳng thuộc về ai, chẳng phải của bạn cũng chẳng phải
của tôi.
Bất kì cuộc sống nào cũng là năng lượng; nó qui định
và bị qui định, và năng lượng này, trong quá trình tự động
tích cực phát triển của nó, sáng tạo ra những vật liệu riêng
của nó, thể xác với những tế bào và những giác quan của
nó, sự cảm nhận, trí phán đoán và ý thức. Năng lượng và
những hình thái năng lượng cứ luôn luôn xem kẽ với nhau
và điều này tạo ra cho ý thức cái đặc trưng của quan niệm
và của thực tại. Ý thức cá nhân là kết quả của sự ngu dốt,
của những xu hướng, của những ham muốn không được
thoả mãn, của sự khao khát. Sự ngu dốt này không có bắt
đầu và nó được trộn lẫn vào năng lượng, năng lượng này là
duy nhất trong sự phát triển tự động sáng tạo của nó. Điều
đó tạo ra cho cá thể một tính cách thống nhất.
Sự ngu dốt không có cái bắt đầu nhưng nó có thể dẫn
đến một cái kết thúc. Chỉ riêng việc hiểu biết sự kiện là sự
ngu dốt tự duy trì lấy mình cũng đủ dẫn mình đến sự chấm
dứt quá trình ấy. Thấu hiểu là quan sát xem ta nuôi dưỡng
sự ngu dốt bằng chính hoạt động của mình như thế nào, ta
an bài nó bởi sự khao khát tạo ra sợ hãi như thế nào, và tất
cả những điều này tạo nên tính liên tục của quá trình bản
ngã, của ý thức. Sự ngu dốt ấy, quá trình bản ngã ấy tự duy
trì bằng chính những hoạt động ý chí gây nên bởi sự sợ hãi
và khao khát. Bằng cách chấm dứt sự nuôi dưỡng chính
mình, quá trình tồn tại bản ngã sẽ đi đến kết thúc. Bạn sẽ
hỏi tôi: làm sao tôi sống được khi không có ham muốn?
Trong cuộc đời của đa số mọi người, lòng mong muốn, sự
khao khát có một vai trò quan trọng; cả cuộc đời họ là một
quá trình khao khát mạnh mẽ đến nỗi họ không thể hình
dung được cuộc sống với sự phong phú và sự linh ảo của
nó; với những sự trao đổi và ứng xử, lại có thể không có sự
ham muốn nào. Khi bạn bắt đầu nhận biết bằng cách kinh
nghiệm xem hành động nảy sinh bởi lòng ham muốn tự tạo
ra sự hạn chế của nó như thế nào, thì lúc ấy sẽ có sự thay
đổi của ý chí. Nhưng cho đến lúc ấy thì chỉ có sự thay đổi
trong ý chí. Đó là hoạt động tự động - sáng tạo của vô
minh. Nó tạo ra tính liên tục của ý thức và đổi mới không
ngừng. Sự thay đổi cơ bản của ý chí là trí tuệ.
Ngày 25/07/1936
*******************************
II
Tất cả chúng ta, trong một mức độ nào đó, đều có
phiền não, dù là trên phương diện kinh tế, sức khoẻ, tâm lí
hay tâm linh. Thấu hiểu nguyên nhân của phiền não và
được giải thoát khỏi những nguyên nhân ấy là vấn đề
thường xuyên của chúng ta.
Muốn thấu hiểu nguyên nhân cơ bản của phiền não,
chúng ta không thể phân chia con người thành những phần
khác nhau. Con người là không thể phân chia mặc dù nó
được biểu hiện thông qua nhiều khía cạnh và nó bao hàm
nhiều hình thái biểu lộ tạo cho nó một tính phức tạp rất lớn.
Có những nhà chuyên môn nghiên cứu những khía cạnh
khác nhau ấy và những sự phân chia ấy của con người, họ
tìm cách phát hiện nguyên nhân của phiền não bằng cách
tiếp tục những nghiên cứu chuyên sâu; nhưng chúng ta
không thể để cho người khác chăm lo cho sự hiểu biết của
chúng ta về chính mình. Chúng ta phải tự hiểu mình là một
toàn thể và xem xét những ham muốn và hoạt động của
chính chúng ta. Chúng ta phải nhận biết quá trình của bản
ngã, nó luôn luôn tìm cách tự duy trì và kéo dài sự trường
tồn của mình trong cô đơn bằng chính những hoạt động của
mình. Khi nào chúng ta thấu hiểu hoàn toàn quá trình này,
lúc ấy trí tuệ sẽ thức tỉnh và chỉ có nó mới có thể giải thoát
chúng ta khỏi phiền não.
Quá trình của bản ngã là ý thức, là cá thể và nguyên
nhân của phiền não là sự không hiểu biết về quá trình tự
động tích cực này. Nếu chúng ta không thấu hiểu quá trình
gây ra đau khổ này thì không thể có trí tuệ được. Trí tuệ
không phải do trời ban, nó có thể vun trồng, thức tỉnh nếu
ta có tâm trí nhạy bén và nếu ta sống không có sự lựa chọn.
Vậy hành động có thể tạo ra đau khổ, hay ngược lại có thể
tiêu diệt vô minh cùng với những xu hướng và những khao
khát của nó và do vậy mà chấm dứt đau khổ.
Bạn có thể tự mình nhận thấy trong cuộc đời của các
bạn, quá trình nói trên với những nỗi lo âu sợ hãi, những ảo
tưởng và những cuộc trốn chạy đã làm giảm trí tuệ sáng
tạo, mà chỉ có trí tuệ này mới tạo được sự bình an cho con
người. Khi thấu hiểu thực tại, chân lí sẽ đến cùng với sự
chấm dứt đau khổ. Những nghiên cứu của chúng ta về cõi
bên kia, về sự bất tử là một sự đeo đuổi vô ích vì người ta
chỉ có được niềm phúc lạc của thực tại khi chấm dứt đau
khổ.
Muốn thấu hiểu sự đau khổ, chúng ta phải bắt đầu từ
chính bản thân mình, không phải với ý tưởng về sự đau
khổ, nó chỉ là một sự rỗng không khô khan của cái trí.
Chúng ta phải bắt đầu bằng chính mình, với những cơn hấp
hối của chúng ta, với những sự khốn khổ và xung đột
dường như không bao giờ chấm dứt. Hạnh phúc không phải
là cái để đi tìm kiếm mà nó là sự chấm dứt của đau khổ,
nhớ trí tuệ cảm nhận được phúc lạc của thực tại.
Vậy những hoạt động ngày thường của chúng ta bắt
nguồn từ đâu? Cơ sở của tư tưởng đạo lí và tôn giáo của
chúng ta là gì? Nếu chúng ta tự xem xét mình một cách sâu
sắc, với sự thấu hiểu, chúng ta sẽ thấy rằng phần lớn những
hoạt động và những quan hệ của chúng ta bắt nguồn từ sợ
hãi và ảo tưởng. Chúng là kết quả của sự khao khát, của sự
tìm kiếm liên tục an toàn và tiện nghi cả bên ngoài lẫn bên
trong. Sự tìm kiếm ấy đã sản sinh ra một nền văn minh,
trong đó mỗi cá nhân, bằng cách tinh vi hay thô bạo, đều
đấu tranh cho bản thân mình và do chính sự kiện đó làm
nảy sinh lòng thù hận, tàn bạo và áp bức. Quá trình nói trên
đã làm phát triển một nền văn minh bóc lột, chiến tranh và
mê tín tôn giáo có tổ chức - kết quả của quan niệm sai lầm
về cá nhân và sự nảy nở của nó. Sự xung đột bên ngoài về
chủng tộc và tôn giáo, sự chia rẽ của các dân tộc, những
cuộc đấu tranh kinh tế đều bắt nguồn từ những ý tưởng sai
lầm về nền văn hoá. Cuộc sống của chúng ta thường xuyên
ở trạng thái xung đột do nỗi lo sợ, sự khuất phục, những tín
ngưỡng của chúng ta và do chúng ta lúc nào cũng lựa chọn.
Môi trường của chúng ta kích thích quá trình của sự ngu
dốt, còn những kí ức của chúng ta cũng như những ham
muốn không được thoả mãn làm cho ý thức luôn luôn đổi
mới và tạo cho nó tính liên tục của cá nhân.
Khi bạn xem xét quá trình nói trên, bạn thấy từng giây
phút bản ngã tự nó tái lập bởi những hoạt động ý chí dựa
trên sự ngu dốt, ham muốn và sợ hãi. Vì vậy khi bạn bắt
đầu thấy rằng bản ngã không phải là một sự trường tồn, thì
lúc đó sẽ có một biến đổi sinh tử trong tư cách và đạo đức
của bạn. Khi đó sẽ không thể có sự khuất phục hay đồng
tình mà chỉ có hành động của trí tuệ thức tỉnh, nó luôn luôn
tạo ra những điều kiện mới mà không lệ thuộc vào đó. Chỉ
có trí tuệ này mới xác lập được một sự hợp tác chân thật
không dẫn đến thât vọng.
Mỗi người trong các bạn phải trở nên có ý thức về quá
trình của sự ngu dốt. Sự sáng suốt này không phải là một
sự hiểu biết cao chế ngự sự hiểu biết thấp (điều này chỉ là
một trò chơi của trí thông minh) mà là một sự thấy hiểu
không có lựa chọn và phát sinh ra từ một hành động kiên
trì, không sợ hãi và không ham muốn. Từ sự cảm nhận
không lựa chọn này sẽ xuất hiện một đạo lí phân minh,
những quan hệ và những hoạt động chân thật giữa những
con người. Khi đó cách ứng xử của chúng ta sẽ không còn
đơn giản là sự bắt chước một mẫu mực hay một lí tưởng
hay nột giáo lí, mà nó là kết quả của sự thấu hiểu chân thật
về quá trình của bản ngã. Sự cảm nhận này là trí tuệ thức
tỉnh, không theo hệ thống cũng không phải cá nhân, nó sẽ
giúp tạo ra một nền văn minh mới của sự phát triển và hợp
tác.
*******************************
Hỏi: Sự cố gắng có đồng nhất với sự sáng suốt không?
Krishnamurti: Xin hãy hiểu quan niệm của tôi về sự
sáng suốt. Sự sáng suốt không phải là kết quả của sự lựa
chọn. Sự lựa chọn bao hàm những cái đối lập, một sự phân
biệt giữa cái căn bản và không căn bản, giữa cái thiện và
cái ác. Sự lựa chọn nhất thiết dẫn đến xung đột vì nó dựa
trên những động cơ, những tính toán và những định kiến tự
vệ. Sự lựa chọn bao giò cũng dựa vào kí ức. Còn sự nhận
biết là cảm nhận trực tiếp và không chọn lựa cái đang tồn
tại. Và cảm nhận trực tiếp là tự do thoát khỏi bối cảnh của
những ham muốn. Điều này chỉ xảy ra khi chấm dứt cố
gắng mà người ta đã thực thi cho đến nay, giữa những cái
đối lập. Những cái đối lập là kết quả của những ham muốn;
của sự khao khát và như vậy cũng là của sự lo sợ. Cùng với
việc chấm dứt lo sợ sẽ có cảm nhận trực tiếp về cái đang
tồn tại. Còn hiện giờ chúng ta đang thực hiện những cố
gắng để thành công, để đạt tới, để chinh phục một thói
quen này bằng một thói quen khác, để chế ngự một sự sợ
hãi này bằng một sự lo sợ khác, một khao khát này bằng
một lí tưởng khác. Vì vậy có một sự cố gắng không ngừng
để thay thế và để chế ngự. Một cố gắng như vậy là hoàn
toàn vô giá trị và vô ích; nó dẫn đến sự hỗn loạn chứ không
dẫn đến sự thức tỉnh của trí tuệ.
Nếu bạn bắt đầu có ý thức về quá trình lựa chọn trên,
về sự xung đột giữa những cái đối lập thì sẽ có sự thay đổi
của ý chí v y chí này sẽ là kết quả của sự kiện bạn sống
không lựachọn.
Khi tôi nói về một cố gắng được hiểu biết rõ, tôi muốn
ngụ ý rằng chúng ta phải nhận biết về cái cố gắng sai lầm
mà chúng ta đang thực thi hiện nay. Bạn hãy có ý thức về
bối cảnh, hãy xem từng giây phút tư duy của bạn tự biến
đổi như thế nào (bên trong giới hạn của nó) bằng những
hoạt động ý chí của chính nó. Những hoạt động này xuất
phát từ ngu dốt và lo sợ, tạo tính liên tục cho quá trình của
bản ngã và của ý thức.
Chúng ta đau khổ và muốn thoát khỏi sự đau khổ ấy, vì
vậy chúng ta cố gắng tìm một phương thuốc, một sự thay
thế; nhưng làm như vậy chúng ta không thể nhổ tận gốc
được nguyên nhân của đau khổ. Vì trí thông minh đã chứa
đầy những biện pháp thay thế, những cách trốn chạy nên nó
ngăn cản sự phát minh của một cảm nhận không lựa chọn,
khi ấy cố gắng chỉ làm phát sinh thêm đau khổ và thất
vọng. Đó là cố gắng giả tạo. Còn cố gắng đúng là cảm nhận
hồn nhiên về cái cố gắng giả tạo để tìm kiếm những biện
pháp thay thế và trốn chạy thông qua nhiều hình thức an
toàn.
*******************************
Hỏi: Làm sao người ta có thể thoả thuận được với
những kẻ mà trong cuộc sống của họ có những mục đích
hoàn toàn khác với chúng ta?
Krishnamurti: Không thể có sự thoả thuận giữa một
mục đích chân thật và một mục đích giả tạo. Nhưng có thể
có sự thoả thuận giữa hai mục đích giả tạo. Bằng cách xác
lập một thoả thuận giữa cái giả và cái thật, chúng ta cố
gắng phát triển cái gọi là lòng độ lượng với nhiều lí do
khác nhau. Chỉ có sự hoà hợp thật sự khi mà các mục đích
đều xuất phát từ trí tuệ và sự chân thật. Khi hai cá nhân
cảm nhận ảo tưởng cơ bản về sự an toàn thì lúc ấy có sự
hoà hợp và hợp tác. Nhưng nếu một người hiểu được sự tàn
nhẫn của cái chiếm đoạt được dựa trên sự an toàn, còn
người kia không hiểu được thì khi ấy có xung đột và để chế
ngự sự va chạm ấy, người ta bèn vun trồng phẩm hạnh giả
tạo của lòng độ lượng.
Thay vì tìm cách thoả thuận với nhau, thay vì tìm kiếm
nhân tốchung của hai nghịch lí, chúng ta hãy xem mình có
thể trở nên thông minh hay không. Một con người sợ hãi
thì không thể có trí tuệ, vì sự lo sợ ngăn cản họ cảm nhận
một cách không lựachọn. Chừng nào còn tồn tại ý thức
chiếm đoạt thì không thể có trí tuệ vì điều đó cho thấy tâm
trí đang còn vướng mắc trong quá trình ngu dốt và tham
vọng. Vun trồng phẩm hạnh không phải là trí tuệ. Chừng
nào còn tồn tại hoạt động ý chí của sự ngu dốt, sợ hãi, thất
vọng thì chừng ấy còn xung đột.
Thay vì vun trồng sự độ lượng, nó chỉ là một trò chơi
của tâm trí, chúng ta phải đánh thức trí tuệ, nó không có
những kí ức và những nỗi lo sợ tự vệ
*******************************
Hỏi: Những người có của - dù là ruộng đất, công cụ
hay sức lao động, không tự nguyện chia sẻ với những
người nghèo hơn. Vậy phải chăng những người nghèo có
quyền và nói cho cho cùng là có nhiệm vụ tước đoạt của
những người nói trên vì lới ích của tất cả? Phải chăng ngài
không muốn lãng phí lời giáo huấn của mình cho những
người giầu có, họ có ít cơ hội hơn để thay đổi cơ cấu kinh
tế và xã hội hiện nay?
Krishnamurti: Tôi biết rằng đây là vấn đề sinh tử đối
với nhiều người. Tôi không tìm cách tránh né nó và bảo
rằng tôi muốn xem xét tất cả những vấn đề của cuộc sống
một cách toàn bộ, tổng thể chứ không riêng rẽ. Nơi nào mà
trí tuệ hoạt động tự do thì sẽ không có vấn đề riêng rẽ nói
trên. Nơi nào không có trí tuệ thì người ta sẽ sinh ra những
sự phân chia mới với những quyền sở hữu và những cuộc
chiến tranh, dù cho có tước đoạt quyền sở hữu về công cụ,
ruộng đất và nhân công. Vì vậy theo cách nhìn của tôi, điều
quan trọng là vun trồng trí tuệ chân thật, chỉ có nó mới đưa
đến trật tự. Cần phải có cuộc cách mạng nơi tâm, đối với
tôi nó quan trọng hơn nhiều so với cuộc nổi dậy ở bên
ngoài. Nó là vấn đề sinh tử và cấp bách hơn nhiều so với
cuộc cách mạng bên ngoài. Sự thay đổi ý chí một cách toàn
diện là thuộc quyền của các bạn.
Cuộc cách mạng bên trong, sinh tử, là kết quả của sự
thấu hiểu chứ không phải là kết quả của sự ép buộc. Trí tuệ
không biết đến sự giầu nghèo. Tôi không nói chuyện với
những người giầu hay những người nghèo, người sung
sướng hay người khổ cực. Tôi nói với những con người và
tôi bảo họ rằng họ cần phải thấu hiểu quá trình của đời
sống, bởi vì với tư cách là những con người, họ cũng bị
vướng mắc trong đau khổ. Với tư cách những con người,
họ tạo nên môi trường của họ, tạo nên những quan hệ xã
hội và đạo lí. Vậy chúng ta phải xem con người như một
tổng thể chứ không phải trên từng khía cạnh của nó. Chừng
nào còn chưa có được sự thấu hiểu sâu sắc về quá trình của
cá nhân, của bản ngã thì những thay đổi đơn giản bên ngoài
cũng không đánh thức được trí tuệ. Nếu chúng ta thực sự
nhận biết điều đó thì với tư cách những con người, chúng ta
sẽ không tìm kiếm hạnh phúc trong những việc tàn ác và
phi lí mà chúng ta gọi là nền văn minh hiện đại.
Nếu bạn thấu hiểu sự cần thiết tuyệt đối của cách mạng
nội tâm nói trên, của sự thay đổi ý chí, bạn sẽ giúp được
một cách tự nhiên, hồn nhiên vào việc xây dựng một trật tự
đúng đắn, hành động và ứng xử đúng đắn.
*******************************
Hỏi: Phải chăng quan điểm thông thiên học của các
bậc minh sư thông thái về sự tiến hoá của linh hồn cũng có
lí như quan điểm khoa học của sự phát triển sinh học đời
sống trong vật chất hữu cơ?
Krishnamurti: Cái gì có phát triển đều không phải là
trường tồn. Quan điểm thông thiên học hay tôn giáo là
quan điểm về một sự phát triển cá nhân: quá trình bản ngã
sẽ lớn dần lên, nó sẽ đạt được ngày càng nhiều phẩm hạnh
và khả năng thấu hiểu. Như vậy bản ngã có khả năng phát
triển không giới hạn, nó có thể đạt tới những đỉnh ngày
càng cao, hướng tới sự hoàn hảo và để giúp nó trèo lên
những đỉnh cao ấy thì sẽ cần phải có những minh sư, những
giáo lí và những tổ chức tôn giáo. Chừng nào người ta chưa
hiểu được bản ngã là gì, thì chừng đó các minh sư (dù họ
thuộc bất kì loại gì) cũng chỉ là một sự cần thiết ảo tưởng.
Họ có thể không phải là những minh sư theo ý nghĩa thông
thiên học, thì họ cũng là những vị thánh trong nhà thờ, hay
những uy quyền tâm linh của một tổ chức nào đó.Điều mà
chúng ta cần phải hiểu không phải là sự tồn tại hay không
tồn tại của các minh sư, sự cần thiết hay vô ích của họ, mà
điều cần phải biết là bản ngã trong sự phát triển và hành vi
của nó, nó có thể trở thành trường tồn hay đạt tới sự thấu
hiểu chân lí. Vấn đề không phải để biết rằng sự kiện để trở
thành một minh sư có phải là một quá trình tự nhiên hay
không, mà cái cần biết là sự cảm nhận chân lí có thể diễn ra
hay không trong một tâm trí đang bị vướng mắc trong quá
trình bản ngã. Nếu bạn tin tưởng rằng bản ngã là trường tồn
thì nó không thể lớn lên, mà nó phải ở bên ngoài thời gian
và không gian. Vậy ý tưởng cho rằng cá nhân bản ngã có
thể trở thành một minh sư nhờ sự phát triển và kinh
nghiệm, đó là một ảo tưởng. Vậy thì quá trình bản ngã là
vô thường. Muốn chấm dứt quá trình ấy thì bất kì một nhân
tố bên ngoài nào cũng đều vô ích, dù nó có lớn đến đâu, bởi
vì quá trình bản ngã là tự động tích cực và nó tự duy trì
bằng những hoạt động ý chí của chính nó. Vậy chính bạn
phải xét xem cái tôi hoặc bản ngã là trường tồn hay vô
thường. Nhưng đây không phải là một vấn đề lựa chọn, vì
bất kì sự lựa chọn nào cũng dựa trên vô minh, định kiến và
ham muốn.
Có thể một vài người trong số các bạn không quan tâm
đến việc tin tưởng vào các minh sư của thông thiên học, tuy
nhiên khi các bạn ấy gặp đau khổ thì có thể họ sẽ tìm đến
với một uy quyền khác hay một chỗ dựa tâm linh và chính
sự phụ thuộc ấy sẽ kéo dài quá trình của bản ngã với sự bóc
lột tế nhị và sự đau khổ của nó.
*******************************
Hỏi: Nhiều người cảm thấy rất khó khăn để hoàn toàn
tập trung vào những hành động của họ. Để có được khả
năng tập trung, phải chăng một số bài tập có thể là không
bổ ích lắm, hoặc ngài có thể coi chúng là những trở ngại?
Krishnamurti: Khi nào bạn có sự quan tâm sâu sắc thì
bạn không cần thực hành những bài tập để giúp bạn phát
triển khả năng tập trung. Khi bạn ngắm một cảnh đẹp, thì
lúc ấy sự hồn nhiên thích thú và quan tâm sẽ vượt qua tất
cả những kích thích giả tạo của sự tập trung. Chỉ khi nào
bạn không thật sự quan tâm thì lúc ấy xảy ra một sự chia
chẻ trong ý thức. Thay vì tìm những bài tập để phát triển
khả năng tập trung, bạn hãy xét xem mình có quan tâm sâu
sắc đến những sự vật của cuộc sống hay không. Muốn hiểu
biết cuộc sống bạn phải quan tâm đến tất cả những biểu
hiện của nó, không phải chỉ bằng bánh mì và bơ mà bằng
cả những quá trình của tư tưởng, tình cảm, kinh nghiệm và
những quan hệ xã hội. Nơi nào có sự quan tâm sâu sắc thì ở
đó có sự tập trung. Phải chăng người đặt câu hỏi này không
tìm cách kích thích sự tập trung một cách giả tạo? Cách
kích thích giả tạo này biến thành một trở ngại cho sự hiểu
biết phong phú về cuộc sống. Những cuộc thiền định có qui
củ đều là những kích thích giả tạo và trở thành những
chướng ngại, chúng tạo ra sự chia chẻ giữa thực tại sinh
động với những mong muốn và khát vọng hão huyền.
Bạn đừng tìm kiếm phúc lạc của thực tại vì việc tìm
kiếm thực tại dẫn đến ảo tưởng; bạn hãy thấu hiểu quá trình
của tư duy, của ý thức, nó ở ngay trong tâm của bạn. Điều
này không cần một sưk tập trung đơn giản ma nó cần một
tâm trí linh động và một sự quan tâm luôn luôn tự nuôi
dưỡng trong nó.
*******************************
Hỏi: Đối với nhiều người, ý tưởng về một vị lãnh tự là
một khát vọng lớn. Nó cũng kích thích người ta trau dồi
lòng tôn kính và đức hi sinh. Ở ngài chúng tôi nhận ra một
lãnh tụ tâm linh lớn và chúng tôi cảm nhận sự kính trọng
lớn lao đối với ngài. Vậy chúng tôi có nên khuyến khích
những người khác và cả chúng tôi phát triển những phẩm
hạnh lớn của sự tôn kính và hi sinh cá nhân không?
Krishnamurti: Tôi cảm thấy riêng tôi rất khó chịu trước
những biểu hiện tôn kính (cười). Xin các bạn đừng cười.
Nếu các bạn cảm nhận một sự tôn kính chân thật thì các
bạn không chỉ biểu lộ riêng cho tôi, mà cho tất cả mọi
người. Biểu hiện tôn kính của bạn đối với tôi chỉ bày tỏ
một tâm trạng đổi chác. Vì bạn tưởng rằng tôi sẽ cho bạn
một cái gì đó hay sẽ giúp bạn bằng cách nào đó, vì vậy bạn
bày tỏ sự tôn kính đối với tôi. Cái mà bạn thật sự tôn kính
chính là ý tưởng ta cần phải tôn kính người sẽ giúp đỡ ta.
Nhưng từ sự tôn kính giả tạo ấy nảy ra sự khinh thị đối với
những người khác. Tiếc rằng bạn hoàn toàn không quan
tâm xem xét chính những ý tưởng ấy. Ở đây có một nguy
cơ lớn: sự khai thác lẫn nhau. Sự tôn kính quyền uy nói lên
một nỗi lo sợ làm sinh ra nhiều ảo tưởng. Từ sự tôn kính
giả tạo này, xuất hiện sự phân biệt giả tạo giữa lãnh tự và
những người tháp tùng, kèm theo đó là nhiều hình thức
khai thác lộ liễu hay tinh vi. Nơi nào không có trí tuệ thì ở
đó có sự tôn kính đối với một vài người và sự khinh rẻ đối
với những người khác.
Ngày 27/07/1936
*******************************
III
Làm thế nào chúng ta có thể đánh thức trí tuệ ấy, đánh
thức trực giác sáng tạo, nó tiếp cận với ý nghĩa của thực tại
mà không cần có những quá trình phân tích và logic? Bằng
trực giác, và tôi hiểu đó không phải là sự chứng nghiệm
tưởng tượng mà nhiều người cho là như vậy. Nếu đạo lí
nghĩa là những quan hệ giữa con người với nhau được dựa
trên trí tuệ và trực giác thì cuộc sống này sẽ rất phong phú,
viên mãn và đẹp đẽ. Nhưng nếu chúng ta đặt cơ sở của sự
ứng xử và những mối quan hệ của chúng ta trên những sự
cần thiết của công nghệ và sinh học thì nhất thiết hành
động sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên trống rỗng,
vô định và đau khổ. Chúng ta có tiềm năng về trí tuệ và
trực giác nói trên, nhưng làm sao đánh thức chúng? Chúng
ta nên làm hay không nên làm gì để thức tỉnh trí tuệ ấy?
Tất cả những ham muốn không được thoả mãn cũng
với nỗi sợ hãi cần phải được chấm dứt trước khi có thể xuất
hiện trực giác sáng tạo ấy. Việc chấm dứt những ham muốn
ấy không phải do kết quả của sự phủ định chúng, cũng
không phải do chúng ta hợp lí hoá chúng đến mức làm cho
chúng biến mất. Sự giải thoát khỏi những ham muốn,
những lo sợ và những ảo tưởng được thực hiện bằng một
cảm nhận thầm lặng và kiên trì mà không kèm theo sự lựa
chọn do ý chí. Với sự quan sát sâu xa, bạn sẽ nhận thấy
bằng cách nào những ham muốn lại gây ra sự lo sợ với ảo
tưởng và chia chẻ ý thức ra thành quá khứ, hiện tại và vị
lai, thành một phần cao và một phần thấp, thành những kí
ức chồng chất và thành những thứ mà người ta cần chiếm
đoạt. Vậy sự ngu dốt đi đôi với nhu cầu thoả mãn, những
định kiến và sự lo sợ tạo nên hai mặt đối lập trong ý thức,
từ sự đối lập ấy xuất hiện nhiều vấn đề để kiểm soát bản
thân và những cuộc xung đột. Từ tính nhị nguyên ấy xuất
hiện quá trình kỉ luật nội tâm bằng quyền uy của lí tưởng
và kí ức, nó kiểm soát và hạn chế hành động và từ đó gây
ra sự thất vọng. Việc giới hạn hành động dĩ nhiên sẽ gây ra
những hạn chế mới và từ đó dẫn đến những va chạm và đau
khổ. Vậy bánh xe của sự ngu dốt, sợ hãi, định kiến được
vận hành và ngăn trở sự khế hợp hoàn toàn với cuộc sống.
Nơi nào có sự không thoả mãn thì ở đó phải có những kí ức
chồng chất tích luỹ, những mưu toan tự vệ, chúng làm cho
ý thức có tính liên tục và có tính xác định.
Ý thức ấy, với sự chia chẻ và xung đột của nó, tự tạo ra
cho nó một hạn chế bởi chính những hoạt động ý chí của
nó và bằng cách đó duy trì sự hiện hữu của chính bản ngã.
Nó bị giam hãm trong chính cái mà nó tạo nên, trong một
môi trường tối tăm và hỗn độn, luôn luôn có những xung
đột và thất vọng. Nếu bạn tự quan sát mình một cách thầm
lặng mà không có sự lựa chọn xen vào, bạn sẽ thấy được
quá trình của sự ngu dốt và sợ hãi. Khi cái trí biết rằng nó
sản sinh ra sự ngu dốt của chính nó đồng thời với sự lo sợ
của chính nó, lúc ấy mới bắt đầu một sự sáng suốt không
có lựa chọn. Bằng việc quan sát thầm lặng và sự cảm nhận
sâu sắc không có lựa chọn, sẽ chấm dứt được xung đột và
ngu dốt. Đó là cách chân thực để đánh thức trí tuệ và trực
giác. Vô minh và xung đột không thể tự chấm dứt bằng
cách phủ nhận hay hợp lí hoá đơn giản.
Ý thức bị giới hạn là sự xung đột giữa vô số những
mong muốn không được thoả mãn. Bạn hãy có ý thức về
cuộc xung đột ấy, về cuộc chiến tranh liên miên do sự chia
chẻ, nhưng đừng bao giờ tìm cách chế ngự một phần của ý
thức với những ham muốn của nó, bằng một phần khác.
Khi cái trí tự đồng hoá với sự không thoả mãn hay với
những cái đối lập, lúc đó sẽ sinh ra xung đột và cái trí tìm
cách trốn chạy trong những ảo ảnh hay trong những giá trị
giả tạo và như vậy chỉ làm mạnh thêm quá trình khao khát.
Bằng một cảm nhận sâu sắc ta sẽ chấm dứt quá trình đó,
đánh thức trí tuệ và trực giác sáng tạo. Trí tuệ ấy chính là
thực tại.
*******************************
Hỏi: Tôi đã mất tất cả mọi sự hào hứng, tất cả mọi
niềm vui trong cuộc sống mà trước đây tôi đã từng có.
Cuộc sống ngày nay đối với tôi là vô vị, không màu sắc,
trống rỗng một cách tuyệt vọng, là một gánh nặng mà tôi
phải mang. Ngài có thể chỉ ra những nguyên nhân của tình
hình nói trên và giải thích cho tôi làm cách nào để đập vỡ
cái vỏ cứng mà tôi đang bị nhốt trong đó?
Krishnamurti: Bằng những giá trị giả tạo, chúng ta tự
buộc mình hành động bên trong một vài nếp nghĩ nào đó và
chúng ta đem những tư tưởng và tình cảm của mình đến
chỗ thích nghi với một vài điều kiện. Như vậy, bằng cách
tự qui định mình, chúng ta mất cả hào hứng, làm cho cuộc
sống trở nên buồn tẻ và nặng nề. Muốn đập vỡ cái vỏ cứng
mà trong đó không còn chút hi vọng nào, chúng ta phải có
ý thức về sự hạn hẹp của tư tưởng và hành động của chúng
ta. Khi chúng ta ý thức được tình trạng đó và thay vì đấu
tranh chống lại sự trống rỗng tuyệt vọng, chúng ta xem xét
tận gốc những nguyên nhân của sự thất vọng, thì lúc ấy
không còn xung đột giữa những cái đối lập, và sẽ nảy sinh
ra một biến đổi sinh tử, nó là sự viên mãn, sự hiểu biết sâu
sắc về cuộc sống. Nếu ta chỉ ép buộc cái trí vào kỉ luật mà
không hiểu quá trình của ý thức, hoặc chúng ta chế ngự
những hoạt động tâm trí và khuất phục cách ứng xử của
mình dưới quyền uy của một lí tưởng mà không nhận biết
sự ngu xuẩn của quyền uy, thì cuộc sống sẽ trở nên khô
khan, trống rỗng, vô ích.
Nếu ta không thấu hiểu đầy đủ quá trình của ý thức thì
tạm thời ải tưởng có thể đem đến cho hành động một lực
kích thích cần thiết, nhưng một hành động như vậy chắc
chắn sẽ dẫn đến sự rối loạn và đau khổ. Chúng ta phải ý
thức được về nhiều nỗi lo sợ và ảo tưởng của chúng ta. Khi
cái trí được giải phóng khỏi chúng thì lúc ấy cuộc sống sẽ
phong phú và viên mãn.
Khi nào bạn bắt đầu nhận thấy sự vô vị tuyệt đối của
chính những ham muốn, lúc ấy trí tuệ sẽ thức tỉnh và tạo
nên những quan hệ đúng đắn với môi trường. Chỉ lúc đó
hoạ chăng mới có được sự phong phú và vẻ đẹp trong cuộc
sống.
*******************************
Hỏi: Điều này nói với ngài dường nưh là vô lễ, nhưng
ngài dễ dàng khuyên người khác đưa vào ứng dụng một
hành động trí tuệ bởi vì ngài không bao giờ thiếu bánh mì.
Vậy những lời khuyên của ngài có ích gì đối với số đông
những đàn ông và đàn bà trên thế giới khi đối với họ một
hành động thông minh có thể chỉ làm tăng thêm sự nghèo
đói?
Krishnamurti: Vì sao ông nhấn mạnh đến bánh mì như
thế? Bánh mì là căn bản, nhưng nếu chỉ nhấn mạnh vào nó
thì cuối cùng ông sẽ làm cho con người bị thiếu bánh mì.
Khi nhấn mạnh vào một nhu cầu nào đó của con người, là
cái không chia chẻ được, thì bạn sẽ tước đoạt chính cái mà
bạn nhấn mạnh. Chính sự sợ hãi dẫn đến hành động thiếu
trí tuệ. Vì vậy dẫn đến đau khổ và vì nhiều người bị giam
hãm trong nỗi lo sợ ấy, nên tôi tìm cách đánh thức ở họ sự
nhận biết về vật cản của ngu dốt và định kiến do chính họ
dựng lên. Bởi vì mỗi người luôn tìm kiêm sự an toàn cho
chính mình dưới nhiều hình thức, nên anh ta không thể hợp
tác một cách thông minh với môi trường của mình và nhiều
vấn đề từ đó nảy sinh ra, không thể giải quyết một cách hời
hợt. Nếu mỗi người chúng ta không sợ hãi và không khao
khát sự an toàn dưới một hình thức nào đó, ở thế giới này
hay thế giới bên kia, thì trí tuệ sẽ có thể hoạt động dẫn đến
trật tự và hạnh phúc. Nếu ta chỉ xem xét một bộ phận, một
sự phân chia giả tạo của con người vốn không thể chia chẻ
được, thì chúng ta không thể hiểu nó một cách toàn bộ. Tuy
nhiên chỉ thông qua sự hiểu biết cái tổng thể thì mới hiểu
được từng bộ phận. Một vấn đề luôn luôn tồn tại: cần phải
quan tâm nhiều đến bánh mì, đến môi trường hay quan tâm
đến trí tuệ và trái tim? Trong quá khứ đã có sự chia chẻ
này, đó là tính nhị nguyên của con người, giữa linh hồn và
thể xác; mỗi phần đều nhấn mạnh đến một loạt giá trị riêng
của mình và như vậy tạo ra rất nhiều sự hỗn loạn và khốn
khổ; và chúng ta cứ tiếp tục kéo dài - có thể là dưới những
hình tướng mới - sự phân chia giả tạo ấy của con người.
Một số người chỉ thấy tầm quan trọng của bánh mì, còn
một số khác lại coi linh hồn là quan trọng hơn. Sự chia chẻ
con người như vậy là hoàn toàn giả tạo và nhất thiết sẽ dẫn
đến hành động không trí tuệ. Hành động trí tuệ là kết quả
của sự thấu hiểu con người với tính cách toàn vẹn.
*******************************
Hỏi: Những đau buồn của tôi đã cho tôi hiểu rằng tôi
không nên tìm kiếm bất kì một loại tiện nghi nào. Tôi chắc
chắn rằng một người khác không thể chữa trị được căn
bệnh ở tôi. Tuy nhiên, vì sự đau khổ của tôi vẫn tiếp tục,
phải chăng có điều gì sai, trong cách giải quyết của tôi?
Krishnamurti: Bạn nói rằng bạn không còn tìm kiếm
tiện nghi, những phải chăng sự tìm kiếm ấy đã được chặn
đứng một cách dứt khoát, rõ ràng, bằng một quyết tâm, một
quyết định? Điều này không phải là kết quả hồn nhiên của
sự thấu hiểu. Điều này chỉ là kết quả của cái quyết định
không tìm kiếm tiện nghi, vì sự tìm kiếm ấy đã đem thất
vọng đến cho bạn. Và bạn tự nhủ rằng: ta không nên tìm
kiếm tiện nghi nữa. Khi một con người đã bị đau khổ sâu
sắc do sự bám víu của mình, bắt đầu vun trồng sự buông
bỏ, và khen đó là một phẩm hạnh cao quí, thì điều anh ta
làm trong thực tế đó là tự bảo vệ chống lại một vết thương
mới và anh ta gọi quá trình đó là sự buông bỏ. Cũng như
vậy, nỗi lo sợ, sự đau khổ đã làm cho bạn thấy sự an ủi, sự
phụ thuộc bao hàm việc tăng thêm nỗi đau khổ, và lúc ấy
bạn tự nhủ: ta không nên tìm kiếm sự an ủi, ta chỉ nên dựa
vào chính mình. Tuy nhiên sự khao khát dưới nhiều hình
thái vi tế của sự sợ hãi vẫn tiếp tục.
Sự khao khát tạo ra thế đối lập trong tư tưởng, và khi
một ý muốn tạo nên sự đau khổ, thì tâm trí lại đi tìm cái đối
lập. Dù cho đó là một nhu cầu được an ủi hay phủ nhận sự
an ủi cũng chỉ là một mà thôi, luôn luôn đó là một nhu cầu.
Lúc ấy tâm trí duy trì sự xung đột giữa hai mặt đối lập. Khi
bạn bắt đầu đau khổ, đừng bảo rằng: ta phải dứt bỏ nhu cầu
này hay nguyên nhân khác, mà bạn hãy lặng lẽ quan sát,
không phủ nhận cũng không chấp nhận, khi đó sự sáng suốt
không lựa chọn, nhu cầu với những nỗi lo sợ và những ảo
tưởng bắt đầu nhường chỗ cho trí tuệ. Trí tuệ ấy chính là
cuộc sống và nó không bị qui định bởi sự áp đặt của một
nhu cầu.
*******************************
Hỏi: Nghe nói rằng những cuộc điểm đạo huyền bí như
Thông thiên học đã mô tả, cũng như những nghi thức và
những giáo lí cổ xưa là những giai đoạn khác nhau của
hành trình tâm linh. Có phải như vậy không? Ngài có nhớ
lại một biến đổi đột ngột của ý thức của chính ngài không?
Krishnamurti: Ý thức đi qua những biến đổi liên tục
bên trong chính những giới hạn của nó. Trong chu vi giới
hạn của chính nó, nó phải chịu những giao động, bành
trướng với mâu thuẫn và một số người gọi những sự bành
trướng đó là tiến bộ tâm linh. Nhưng điều đó luôn luôn
diễn ra trong biên giới của những sự hạn chế của chính ý
thức, và những cuộc bành trướng ấy không phải là những
biến đổi của ý thức mà chỉ là những biến đổi trong ý thức.
Sự biến đổi của ý thức không phải là sản phẩm của những
nghi thức điểm đạo huyền bí. Người nào nhận thấy tính vô
thường của sự biến đổi trong ý thức, mới có thể đi đến sự
biến đổi của ý thức. Nhận thấy và thay đổi căn bản, điều đó
đòi hỏi một trạng thái sáng suốt liên tục. Điều quan trọng là
cá nhân chúng ta có thể đem lại sự thay đổi sinh tử đó hay
không. Có phải chúng ta chỉ quan tâm đến sự thay đổi căn
bản của ý thức chứ không phải những thay đổi tức thì, và
điều đó chỉ xảy ra khi quá trình bản ngã cùng với sự ngu
dốt vô minh, những xu hướng, những nhu cầu, những nỗi
lo sợ phải chấm dứt.
Ngày 28/07/1936
*******************************
IV
Hành độn bắt nguồn từ việc ý thức tự đối thoại với
chính mình (với nhiều lớp màn vô minh, những xu hướng,
những nhu cầu, những nỗi lo sợ) thì hành động ấy không
thể giải phóng tâm trí ra khỏi những giới hạn do nó tự tạo
ra, ngược lại nó chỉ làm tăng thêm đau khổ và thất vọng.
Chừng nào quá trình này còn tiếp tục, chừng nào chưa có
sự thấu hiểu quá trình của bản ngã (không chỉ trong những
biểu hiện lộ liễu mà cả trong những khía cạnh hết sức tinh
vi của nó) thì chừng ấy vẫn còn đau khổ và rối loạn. Tuy
nhiên chính sự đau khổ ấy (mà chúng ta luôn luôn tìm cách
trốn chạy) có thể dẫn chúng ta đến sự thấu hiểu bản thân
mình, nhưng tất cả những sự trốn chạy vào những ảo tưởng
đều phải chấm dứt. Nỗi đau khổ càng lớn thì dấu hiệu về sự
giới hạn càng rõ ràng. Nhưng nếu bạn không đau khổ, điều
đó không nhất thiết có nghĩa là bạn không bị giới hạn.
Ngược lại điều đó có thể chỉ ra rằng tâm trí bạn bị tù hãm
giữa những bức tường tự vệ, do đó mà không một sự khiêu
khích nào của cuộc sống, không một kinh nghiệm nào có
thể khởi động nó được và thức tỉnh nó để bắt nó đau khổ.
Một tâm trí như vậy không có khả năng nhận biết thực tại.
Nỗi khổ có thể dẫn đến sự thấu hiểu chính mình khi mà bạn
không tìm cách tránh né hay trốn chạy nó.
Làm sao chúng ta có thể chấm dứt quá trình bản ngã
mà hành động của chúng ta không gây thêm những hạn chế
và đau khổ? Muốn chấm dứt nó, ta cần ý thức về sự đau
khổ chứ không đơn giản là có khái niệm về sự đau khổ.
Nếu chúng ta không bị khiêu khích bởi cuộc sống thì phần
lớn chúng ta có xu hướng tự ru ngủ mình một cách thoải
mái và như vậy là tạo điều kiện cho quá trình bản ngã tiếp
tục phát triển. Để nhận biết quá trình này, điều kiện cốt yếu
là phải hoàn toàn ý thức được sự đau khổ. Sau đó ta phải
tuyệt đối chắc chắn rằng không có cách nào để trốn chạy
khỏi sự đau khổ. Lúc ấy mọi sự tìm kiếm niềm an ủi và
mọi phương thuốc hời hợt sẽ chấm dứt hoàn toàn. Tất cả
những phương thuộc tạm bợ của lễ bái không còn có ý
nghĩa nữa. Chúng ta bắt đầu thấy rằng không một nhân tố
bên ngoài nào có thể giúp chúng ta chặn đứng quá trình tự
động - tích cực của vô minh. Khi tâm trí ở trong trạng thái
cởi mở để tiếp nhận như vậy, khi nó hoàn toàn có khả năng
tự nhìn thẳng vào chính mình, thì nó sẽ trở thành tấm
gương của chính nó, ý thức của nó không còn bị chia chẻ,
nó không còn phán xét những hành động của chính mình
theo những giá trị đã được xác lập, và nó cũng không để
cho quyền uy của mọt lí tưởng nào thống trị nó. Khi ấy nó
là kẻ tạo ra và tiêu diệt chính nó. Môi trường với những
ảnh hưởng qui định của nó và tính di truyền với những đặc
trưng giới hạn của nó đều nhường bước cho sự thấu hiểu
quá trình bản ngã. Khi cái trí nhận biết toàn vẹn quá trình
này, nó sẽ thấy chính nó là quá trình đó, nó thấy rằng nó sử
dụng mọi mọi hành động: một sự đổi chác để tự nuôi
dưỡng lấy mình. Bằng sự tự đổi mới trong từng khoảnh
khắc, thông qua nhữnghoạt động ý chí của nó, quá trình
bản ngã tự kéo dài và nó chỉ gây ra đau khổ.
Phần đông chúng ta tìm cách trốn chạy sự đau khổ vào
trong những ảo tưởng, những định nghĩa logic và những
kết luận, và như vậy tâm trí dần dần trở nên đần độn và
không còn khả năng tự nhận biết chính mình. Chỉ khi nào
cái trí tự nhận biết như nó vốn là - cái ý chí hiện hữu của
chính mình, với nhiều lớp màn vô minh, sợ hãi, nhu cầu, ảo
tưởng - và chỉ khi nó thấy bằng cách nào cái quá trình bản
ngã ấy tự duy trì bằng những hoạt động ý chí của chính nó,
chỉ lúc ấy quá trình bản ngã mới có khả năng tự nó chấm
dứt. Khi cái trí thấy rằng tự nó đang gây ra đau khổ, đang
duy trì quá trình bản ngã và chính nó là quá trình bản ngã,
lúc đó sẽ có một biến đổi của ý chí, một biến đổi của ý
thức. Việc kết thúc quá trình bản ngã là bắt đầu của trí tuệ,
của phúc lạc.
Chúng ta đã từng tích cực vun trồng cái ý tưởng cho
rằng trong ý thức có tồn tại một ý chí cao và một ý chí
thấp. Sự chia chẻ này chỉ tạo ra xung đột mà chúng ta tìm
cách chấm dứt bằng việc áp đặt kỉ luật. Nơi nào có sự khao
khát hay sợ hãi, thì hành động của chúng giống như một
nhiên liệu cho ngọn lửa, nó chỉ thổi bùng lên và nuôi
dưỡng quá trình bản ngã. Việc thấu hiểu quá trình này đòi
hỏi trí sáng suốt lớn chứ không cần cố gắng lựa chọn hay
áp đặt kỉ luật.
*******************************
Hỏi: Nỗi lo sợ phải chăng là một phần cơ bản của cuộc
sống, cho nên sự thấu hiểu nó sẽ giúp chúng ta dễ dàng
chấp nhận nó hơn, hay phải chăng nó là một vật mà ta có
thể biến hoá thành vật khác, hay phải chăng nó là một vật
mà ta có thể hoàn toàn loại bỏ? Người ta thường có thể
xác định lại nguyên nhân của một nỗi lo sợ đặc biệt, tuy
nhiên cái sợ vẫn tiếp tục dưới những hình thái khác. Tại
sao mọi việc lại phải như vậy?
Krishnanurti: Sự sợ hãi sẽ tồn tại dưới những dạng
khác nhau, thô hay là tinh, chừng nào còn tồn tại quá trình
tự động tích cực của vô minh được sinh ra bởi những hoạt
động của sự khao khát. Có thể loại trừ hoàn toàn sự sợ hãi:
nó không phải là bộ phận căn bản của cuộc sống. Nếu còn
có sợ hãi, lo sợ thì không thể có trí tuệ và muốn đánh thức
trí tuệ ta phải thấu hiểu hoàn toàn quá trình bản ngã đang
hành động. Sự sợ hãi không thể được chuyển hoá thành
tình thương. Nó vĩnh viễn là sự sợ hãi dù cho chúng ta có
cố gắng gạt bỏ nó bằng lí luận, thậm chí dù chúng ta có cố
gắng nguỵ trang cho nó bằng cách gọi nó là tình thương.
Chúng ta cũng không thể xem sự sợ hãi như một bộ phận
căn bản của đời sống, nhằm mục đích để thích nghi với nó.
Bạn sẽ không tìm thấy nguyên nhân sâu xa của nỗi lo sợ
trong quá trình nó xuất hiện. Sự sợ hãi chỉ có một nguyên
nhân cơ bản mặc dù nó biểu hiện dưới những hình thức
khác nhau. Nếu chỉ đơn giản bằng cách mổ xẻ những hình
thức khác nhau ấy thì tư tưởng cũng không thể tự giải thoát
được khỏi nguyên nhân căn bản của cái sợ. Chỉ khi nào cái
trí không chấp nhận, cũng không chối bỏ, không trốn chạy,
cũng không tìm cách biến đổi sự sợ hãi, chỉ lúc ấy mới có
một khả năng chấm dứt nó. Khi cái trí không bị mắc kẹt
trong cuộc xung đột giữa những mặt đối lập, nó mới có khả
năng nhận biết, không lựa chọn, toàn bộ quá trình bản ngã.
Nhưng chừng nào quá trình ấy còn tiếp tục thì cái sợ vẫn
tồn tại và những mưu toan trốn chạy khỏi nó chỉ làm phát
triển và mạnh mẽ thêm quá trình đó. Nếu bạn muốn được
giải phóng hoàn toàn khỏi sự sợ hãi, bạn phải hoàn toàn
thấu hiểu hành động sản sinh ra bởi những ham muốn.
*******************************
Hỏi: Tôi bắt đầu nghĩ rằng những của cải vật chất có
xu hướng vun trồng lòng kiêu căng và ngoài ra chúng còn
là một gánh nặng. Và giờ đây tôi đã quyết định hạn chế
những nhu cầu của mình. Tuy nhiên tôi khó có thể đi đến
một quyết định có liên quan đến việc có nên để lại tài sản
cho con cái hay không. Tôi có nên quyết định về việc này
hay không, tôi biết rằng nếu tôi có ý thức thì tôi có thể
tránh được việc để lại một bệnh truyền nhiễm cho con cái.
Vậy nếu tôi có quan điểm như trên về việc tài sản và nếu
không để lại tài sản cho các con thì có đúng không?
Krishnamurti: Bạn nào đặt câu hỏi này, chính bạn ấy
nói rằng mình không muốn để lại một bệnh truyền nhiễm.
Nhưng gia sản có phải là bệnh truyền nhiễm không? Sở
hữu hay đạt được tiền bạc mà không lao động để kiếm
được tiền ấy, sẽ sinh ra một dạng bệnh tâm thần. Nếu bạn
đồng ý với điều khẳng định trên đây và nếu bạn hành động
hợp với điều đó, thì bạn phải chấp nhận đối đầu với những
hệ quả do hành động của mình. Bạn sẽ góp phần lật đổ hệ
thống xã hội hiện nay với sự bóc lột của nó, với thế lực tàn
ác và ngu xuẩn của tiền bạc được tích luỹ, của những
quyền ưu tiên, của những lãi suất đầu tư. Vậy việc sở hữu
hay đạt được tiền bạc không thông qua lao động có phải là
một bệnh hay không? Chính bạn phải khám phá ra điều đó.
Khi nào với tư cách một con người, một cá thể, bạn bắt
đầu tự giải phóng mình khỏi căn bệnh sợ hãi, bạn sẽ không
hỏi một người khác rằng liệu bạn có nên để lại gia tài cho
các con bạn hay không. Thật vậy, hành động của bạn sẽ có
một ý nghĩa sâu sắc và khác hẳn. Thái độ của bạn đối với
gia đình, đối với các tầng lớp xã hội, đối với lao động, đối
với sự nghèo hay giàu sẽ trải qua một biến đổi sâu sắc. Nếu
không có sự biến đổi quan trọng ấy, nó nảy sinh ra do sự
thấu hiểu chứ không phải ép buộc, thì những vấn đề giả tạo
chỉ có thể tìm thấy những đáp số hời hợt, không có giá trị
và không có kết quả.
*******************************
Hỏi: Ngài từng nói đến một sự kích thích sinh tử, một
trạng thái liên tục thức tỉnh, nếu tôi không nhầm thì những
trạng thái ấy chỉ có thể đạt được sau khi trải qua một sự cô
đơn hoàn toàn. Ngài có nghĩ rằng người ta khả dĩ có được
sự thúc đẩy sinh tử vĩ đại ấy trong khi vẫn có gia đình? Tôi
cho rằng dù người vợ hay người chồng được tự do đến
đâu, thì luôn luôn vẫn sẽ có những sợi dây vô hình giữa hai
người và chắc chắn chúng sẽ ngăn trở họ chịu trách nhiệm
hoàn toàn đối với chính bản thân mình. Phải chăng trạng
thái giác ngộ không dẫn đến sự buông bỏ hoàn toàn đối với
tất cả mọi người và mọi vật?
Krishnamurti: Bạn không thể tồn tại mà không duy trì
những mối quan hệ với mọi người, với một môi trường
truyền thống, với bối cảnh của quá khứ. Tồn tại, đó là hiện
hữu trong những mối quan hệ. Bạn có thể làm cho những
mối quan hệ ấy trở nên sinh động, mạnh mẽ, có ý nghĩa,
hài hoà, hoặc bạn có thể biến chúng thành những xung đột
và đau khổ. Chính sự đau khổ buộc bạn phải rút lui, và vì
bạn không thể tồn tại mà không có quan hệ với một cái gì
đó, nên bạn bắt đầu vun trồng sự buông bỏ, một phản ứng
tự động - tự vệ chống lại sự đau khổ. Nếu bạn yêu, bạn sẽ
có những quan hệ tốt với môi trường của bạn; nhưng nếu
tình yêu trở thành sự thù hận và ghen tuông, tạo ra xung
đột, khi ấy những mối quan hệ trở thành những gánh nặng
đau khổ, và bạn bắt đầu một quá trình buông bỏ một cách
giả tạo, điều đã làm bạn đau khổ. Bạn có thể dùng cái trí
tạo nên một rào chắn tự động bảo vệ bằng cách buông bỏ
và sống trong cái nhà tù do bạn tạo ra, nó phá hoại dần sự
viên mãn của tâm trí. Sống, đó là tồn tại trong tương quan.
Không thể có những mối quan hệ tự hài hoà và sinh động
nếu người ta có những ý muốn tự bảo vệ và những phản
ứng gây ra đau khổ và xung đột.
*******************************
Hỏi: Nếu tôi không nhầm và hiểu rõ ý ngài thì sự sáng
suốt là cần và đủ để xoá tan đồng thời sự xung đột và
nguồn gốc của nó. Tôi hoàn toàn có ý thức từ lâu về cái
tính hay bắt chước theo thời thượng của tôi. Vậy cái gì
ngăn cản tôi loại bỏ được tính này?
Krishnamurti: Bạn nào đặt câu hỏi này đã không hiểu
được điều mà tôi gọi là sự sáng suốt. Nếu bạn có một thói
quen, chẳng hạn thói bắt chước theo thời thượng, thì không
cần phải chế ngự nó bằng mọt thói quen khác đối lập với
nó. Đấu tranh chống lại một thói quen bằng một thói quen
khác là chuyện phù phiếm. Chính trí tuệ mới loại bỏ được
những thói quen khỏi tâm trí. Sự sáng suốt là hành động
đánh thức trí tuệ chứ không phải tạo ra những thói quen
mới để chống lại những thói quen cũ. Vậy bạn hãy trở nên
có ý thức về những thói quen trong tư duy, nhưng bạn đừng
cố gắng vun trồng những phẩm hạnh hay những thói quen
trái ngược. Nếu bạn hoàn toàn có ý thức, nếu bạn ở trong
trạng thái quan sát không lựa chọn, bạn sẽ thấy được toàn
bộ quá trình tạo nên một thói quen và cả quá trình ngược
lại để chế ngự thói quen ấy. Sự cảm nhận ấy sẽ đánh thức
trí tuệ, nó rũ bỏ tất cả những thói quen của tư duy. Chúng
ta lo toan để rũ bỏ những thói quen làm chúng ta đau khổ
hoặc những thói quen mà chúng ta nhận rõ tính phù phiếm
của chúng, bằng cách tạo những thói quen mới cho những ý
tưởng và những sự khẳng định của chúng ta. Quá trình thay
thế này hoàn toàn không thông minh tí nào. Nếu bạn tự
quan sát mình, bạn sẽ thấy cái trí chẳng khác gì một mớ
thói quen của tư duy và những kí ức. Nếu chỉ đơn giản chế
ngự những ý tưởng này bằng những ý tưởng khác thì tâm
trí vẫn luôn luôn bị tù hãm, rối loạn và khổ sở. Khi nào
chúng ta thấu hiểu sâu sắc rằng những phản ứng tự vệ dần
dần trở thành những thói quen của tư duy, chúng hạn chế
mọi hành động, thì lúc ấy may ra chúng ta có một cơ hội để
đánh thức trí tuệ, mà chỉ có nó mới hoá giải được cuộc
xung đột giữa những cái đối lập.
*******************************
Hỏi: Xin ngài giải thích sự khác nhau giữa hai khái
niệm: sự biến đổi trong ý chí và sự biến đổi của ý chí?
Krishnamurti: Sự biến đổi trong ý chí chỉ là kết quả
của tính nhị nguyên trong ý thức, còn sự biến đổi của ý chí
nảy sinh ra trong sự viên mãn của toàn bộ con người. Một
bên là biến đổi về mức độ, còn bên kia là biến đổi về bản
chất. Sự xung đột của những ham muốn hay sự thay đổi đối
tượng của ham muốn, đó chỉ là thay đổi trong ý chí, nhưng
với sự chấm dứt hoàn toàn mọi khao khát, sẽ có biến đổi
của ý chí.
Sự biến đổi trong ý chí là sự khuất phục trước quyền
uy của lí tưởng và của sự ứng xử. Sự biến đổi của ý chí là
sự nhận biết, là trí tuệ, trong đó không có xung đột của
những phản đề. Ở đây có sự khế hợp sâu sắc và hồn nhiên;
còn ở trường hợp kia, có sự ép buộc do ngu dốt, khao khát
và sợ hãi.
*******************************
Hỏi: Sự đổi mới của con người có đủ để giải quyết
những vấn đề của thế giới không? Phải chăng trí tuệ bao
hàm một hành động nhằm giải thoát tất cả mọi người?
Krishnamurti: Những vấn đề của thế giới là những vấn
đề gì? Bánh mì, nạn thất nghiệp, chiến tranh, những cuộc
xung đột và đối lập giữa những nhóm chính trị, việc một
thiểu số được hưởng thụ nhiều tài nguyên của thế giới,
những sự phân chia giai cấp, nạn đói, cái chết, sự bất tử -
đó là những vấn đề của thế giới, nhưng phải chăng đó cũng
là những vấn đề của từng người? Những vấn đề của thế
giới chỉ có thể hiểu được thông qua quá trình ở trong tâm
của mỗi người, quá trình bản ngã. Tại sao lại tạo ra sự phân
chia giả tạo giữa con người và thế giới? Chúng ta là thế
giới, chúng ta là quần chúng. Nếu bạn, với tư cách một con
người hiểu biết quá trình chia chẻ gọi là chủ nghĩa dân tộc,
đấu tranh giai cấp hay xung đột chủng tộc; nếu bạn không
phải là người Hà Lan, người Pháp, người Đức, hay người
Anh với tất cả những sự phi lí của tính đặc thù, khi đó chắc
chắn bạn sẽ trở nên một trung tâm của trí tuệ. Vậy bạn đấu
tranh chống lại sự đần độn bất kì là bạn đang ở đâu, dù
rằng điều đó có thể dẫn bạn đến nạn đói và những cuộc
xung đột. Nếu chúng ta thấu hiểu điều đó hoàn toàn trong
hành động, chúng ta có thể giống như những ốc đảo mát
rượi trong sa mạc. Quá trình thù hận và chia rẽ cũng già cỗi
như thời gian quá khứ. Bạn không thể tự rút lui ra khỏi
cảnh đó, nhưng ở trong đó bạn vẫn có thể là người sáng
suốt, trong trẻo, giảndị, chân thật, mà không có những dấu
vết khắc hoạ ngu xuẩn của quá khứ. Khi ấy bạn sẽ thấy bạn
đem đến cho cuộc đời sự thấu hiểu sâu sắc và niềm vui
không kể xiết. Nhưng rất tiếc, trong những thời kì đảo lộn
lớn và chiến tranh, các bạn bị lôi cuốn theo. Những hận thù
và sợ hãi tiềm tàng của bạn được đánh thức và chúng lôi
cuốn bạn đi. Bạn không còn là một ốc đảo yên lành mát mẻ
mà nhân loại khổ đau có thể tìm đến.
Vậy một điều quan trọng tối cao là bạn phải thấu hiểu
quá trình làm phát sinh những sự hạn chế, xung đột và đau
khổ. Hành động nảy sinh từ một sự thấu hiểu hoàn toàn sẽ
là một sức mạnh giải thoát, mặc dù những hệ quả của một
hành động như vậy có thể không xuất hiện trong cả cuộc
đời chúng ta, cũng không phải trong một giai đoạn nhất
định. Thời gian không có tầm quan trọng nào cả. Một cuộc
cách mạng đẫm máu không sản sinh ra được hoà bình và
hạnh phúc lâu dài cho tất cả mọi người. Thay vì mong
muốn một nền hoà bình tức khắc trong thế giới hỗn loạn và
đầy sự hấp hối, bạn hãy xem bằng cách nào bạn có thể, với
tư cách một con người, trở nên một trung tâm không phải
của hoà bình mà của trí tuệ. Trí tuệ là điều cơ bản cho trật
tự, sự hài hoà và phúc lợi của con người.
Hiện có rất nhiều tổ chức hoà bình, nhưng có rất ít
người được tự do và có trí tuệ, trong ý nghĩa chân thật của
danh từ này. Chính là với tư cách con người mà bạn nên
bắt đầu thấu hiểu thực tại; khi ấy ngọn lửa của sự hiểu biết
sẽ lan tràn trên thế giới.
Ngày 29/07/1936
*******************************
V
Tâm trí chúng ta đã trở thành chiến trường của những
lí tưởng, những nỗi lo sợ và ảo tưởng, những ham muốn và
phủ định, những hi vọng và thất vọng, những sự kìm hãm
và tính hồn nhiên. Chúng ta có thể nào chấm dứt sự xung
đột trong tâm trí mình mà đồng thời lại không tạo ra một sự
trống trải, khô cằn và thất vọng? Bạn có thể bóp nghẹt cuộc
xung đột trong một thời gian nào đó để bằng cách ép cái trí
vào một cái khuôn nào đó, nhưng điều này chỉ gây ra
những ảo tưởng và không thích ứng được với cuộc sống.
Phần đông chúng ta thường cố gắng chế ngự những ham
muốn, hoặc là để cho chúng hoàn toàn tự do, nhưng không
phải vì thế mà cuộc xung đột chấm dứt.
Có cách nào chăng, để chấm dứt xung đột và đau khổ
mà không phá huỷ trí tuệ sáng tạo và sự viên mãn toàn
phần? Có bao giờ tồn tại một cuộc sống không lựa chọn, tôi
muốn nói: có thể nào tồn tại một hành động không có sự
phủ định và ý muốn gây hấn chăng? Có thể nào tồn tại một
hành động hồn nhiên, nghĩa là tự do ở bên ngoài những cái
đối lập chăng? Có bao giờ tồn tại một cuộc sống viên mãn
không có cái quá trình làm khô cằn của kỉ luật, của sự chối
bỏ, của sợ hãi và thất vọng chăng? Một trạng thái thấu hiểu
sâu sắc như vậy có bao giờ khả dĩ chăng? Tôi tự hỏi: có
bao nhiêu người trong các bạn ý thức sinh tử về cuộc xung
đột trong chiến trường của cái trí?
Một cuộc sống viên mãn, một cuộc sống hành động
không lựa chọn, một cuộc sống được giải thoát khỏi quá
trình khô cằn của sự chế ngự và thay thế, đó là việc khả dĩ.
Trạng thái ấy có thể được thực hiện như thế nào? Những hệ
thống và những phương pháp không thể sản sinh ra trạng
thái tâm trí phúc lạc ấy. Cuộc sống không lựa chọn ấy phải
được thực hiện một cách tự nhiên và hồn nhiên, nó không
phải là đối tượng để tìm kiếm. Nó không thể được thấu
hiểu, được thực hiện hay chinh phục bằng một kỉ luật, một
hệ thống. Ta có thể qui định cái trí bằng sự tập luyện, bằng
kỉ luật, bằng sự ép buộc, nhưng một sự qui định như vậy
không thể nuôi dưỡng tư duy hay thức tỉnh một trí tuệ sâu
sắc. Một cái trí được huấn luyện như vậy giống như một
mảnh đất khô cằn.
Rất ít người trong chúng ta ý thức sâu sắc về cuộc xung
đột với bao phiền não, với những nỗi hoang mang vi tế và
lửng lơ, đồng thời ý thức về cuộc đấu tranh để có được
những điều chắc chắn, thông qua đó cái trí hi vọng đạt
được an toàn và tiện nghi. Ý thức sâu sắc và sinh tử về
cuộc xung đột giống như việc cày đất. Chỉ cần đơn giản
cày xới mảnh đất ấy lên, không lựa chọn. Khi bạn đang bị
xung đột, bạn thường lựa chọn hoặc ý muốn trốn chạy khỏi
nó, hoặc ý muốn dùng nó cho những sự hoàn thành trong
tương lai. Nhưng bạn chỉ cần ý thức sâu sắc về nỗi khổ, về
sự xung đột, việc này giống như việc cày đất, và cái trí
không nên tự cho phép mình tìm kiếm những phương thức,
những sự thay thế, những thái độ lơ lửng. Cần phải có sự
cày xới, sự đảo lộn, cần có cuộc cách mạng tâm trí nhưng
đồng thời cũng phải có một sự bất động, một cảm nhận
thầm lặng không chối bỏ, không chấp nhận, cũng không
cam chịu. Khi cái trí lâm vào cảnh xung đột, nó lập tức tìm
kiếm một phương thuốc và bằng cách đó nó tạo ra một lối
thoát và ngăn trở sự hiểu biết đầy đủ về nỗi khổ; nhưng chỉ
thông qua cảm nhận hồn nhiên người ta mới có được sự
khế hợp không lựa chọn với cuộc sống. Nơi nào có sự bắt
chước thì ở đó cũng có sự sợ hãi, và hành động bắt chước
là không thông minh. Cái kỉ luật ép buộc nỗi lo sợ dẫn tới
sự héo khô dần dần của cái trí, điều này không bao giờ tạo
được những mối tương quan không lựa chọn và hồn nhiên
với môi trường, chỉ có hành động đúng mới làm được việc
này.
Hành động đúng chỉ có được, thông qua sự thấu hiểu
toàn bộ quá trình bản ngã, nó chỉ là quá trình của sự ngu
dốt. Chừng nào chưa có được cảm nhận về quá trình của ý
thức, về sự phức hợp to lớn của sự ngu dốt, về các kí ức, về
những sự ham muốn, những xu hướng, những cuộc xung
đột, thì sự bắt chước đơn giản trong nhân cách, tuyệt đối
không thể làm nảy sinh ra một trật tự thông minh và hài
hoà trên thế giới, và hạnh phúc của con người. Sự bắt
chước như vậy chỉ có thể đem lại một trật tự hời hợt trong
công nghiệp và kinh tế, nhưng nó không thể sinh ra trí tuệ.
Muốn thấu hiểu ý nghĩa đầy đủ của quá trình bản ngã, nếu
chỉ có một sự sáng suốt nhất thời thì không đủ, mà trí tuệ
thường xuyên mới là cơ bản.
Hành động sinh ra từ nhu cầu hay sự sợ hãi chỉ có thể
làm tăng cường sự ngu dốt và sự hạn chế, tức là duy trì quá
trình bản ngã. Bằng cách dùng ý chí chấm dứt nhu cầu và
sợ hãi, trí tuệ sẽ được đánh thức. Sự thức tỉnh của trí tuệ
mở đầu cho hành động đúng đắn. Chỉ có trí tuệ ấy mới sản
sinh ra được sự khế hợp hồn nhiên với cuộc sống mà không
có sự ép buộc phải lựa chọn.
*******************************
Hỏi: Làm thế nào tôi có thể đánh thức trí tuệ?
Krishnamurti: Nơi nào không có trí tuệ, ở đấy tất phải
có đau khổ. Trí tuệ có thể được thức tỉnh khi người ta nhận
biết, không lựa chọn, rằng cái trí tự nó tạo ra nhiều lối thoát
bằng cách tự chia ra nhiều phần, nhiều ham muốn khác
nhau. Nếu cái trí ý thức được về những sự phân chia hão
huyền ấy với những giá trị của chúng, thì trí tuệ sẽ thức
tỉnh. Quá trình lựa chọn chỉ là chế ngự một ham muốn này
bằng một ham muốn khác, dùng một ảo tưởng này để xoá
tan một ảo tưởng khác. Tính nhị nguyên trong ý thức sẽ
kéo dài sự xung đột và đau khổ, và trạng thái xung đột có
nghĩa là thiếu hành động toàn vẹn.
*******************************
Hỏi: Tôi biết rằng việc giải phóng con người là căn
bản; nhưng làm sao thiết lập được một trật tự xã hội bền
vững mà không có sự cố gắng của quần chúng?
Krishnamurti: Trong tất cả những buổi nói chuyện của
tôi, tôi đã chỉ ra sự cần thiết của từng người tong sự thấu
hiểu, từ đó sẽ sinh ra trật tự xã hội. Tôi xem việc giải
phóng con người là quan trọng nhưng điều đó không phải
là khuyến khích những hoạt động ích kỉ hay những biểu
hiện hẹp hòi và cá nhân. Chỉ bằng cách giải phóng tư tưởng
khỏi những hạn chế làm què quặt cái trí, thì trí tuệ mới có
thể thức tỉnh và chỉ có trí tuệ mới làm nảy sinh một trật tự
xã hội đích thực. Chịu trách nhiệm về những hành động
của mình và có tư duy toàn vẹn bao hàm một sự viên mãn
của con người, đặc biệt trong một thế giới mà những cuộc
vận động của quần chúng dường như có một tầm quan
trọng lớn nhất. Tạo nên tính tích cực của quần chúng nhằm
một hành động có suy tính là việc tương đối dễ, nhưng tự
hiểu bản thân mình và hành động sáng suốt là điều rất khó.
Chỉ với sự thấu hiểu sâu sắc mới có thể nảy sinh ra hợp tác
và trật tự xã hội bền vững.
Những cuộc nói chuyện trên đây không nhằm mục đích
kích thích sự cố gắng của quần chúng nhằm một hành động
có suy tính. Chúng chỉ nhằm giúp tạo ra sự hiểu biết và cố
gắng của từng người để bằng cách đó giải thoát con người
khỏi nhà tù do họ tự xây nên bằng những sự tự hạn chế của
mình. Chỉ bằng cách đánh thức sự hiểu biết toàn vẹn về
chính mình, nó có thể nhận biết toàn vẹn về chính mình, nó
có thể nhận biết mà không lựa chọn, mới thiết lập được
một trật tự xã hội chân chính, trong một thế giới không có
sự bóc lột và thù hận.
*******************************
Hỏi: Nghệ thuật thuộc về thế giới của ảo tưởng hay
thực tại? Quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là như thế
nào?
Krishnamurti: Nếu tách rời cuộc sống, nghệ thuật
không còn thực tại. Nghệ thuật chân chính không phải là
một biểu hiện nông cạn của tính nhị nguyên trong một đời
người, mà nó là sự biểu hiện toàn vẹn của con người không
thể chia chẻ. Hiện nay nghệ thuật chỉ biểu hiện một khía
cạnh duy nhất của con người và như vậy càng làm tăng
thêm sự phân chia. Vậy giữa cuộc sống và nghệ thuật có
một sự cách biệt kì lạ. Khi nào nghệ thuật là biểu hiện chân
chính và toàn vẹn của con người, với cuộc sống và những
hoạt động của nó, thì nghệ thuật ấy nắm bắt được thực tại,
khi đó nó có quan hệ trực tiếp với chúng ta và môi trường
của chúng ta.
*******************************
Hỏi: Khi chúng ta đứng trước cái chết của một người
mà chúng ta rất yêu quí thì khó mà khẳng định rằng cuộc
sống là căn bản và những quan niệm về cõi bên kia là phù
phiếm. Mặt khác, ta có thể tự hỏi: cuộc sống, nói cho cùng,
chẳng khác gì một quá trình sinh lí và sinh học đơn giản
được qui định bởi tính di truyền và môi trường, như một
vài nhà bác học đã khẳng định. Trong sự rối rắm ấy ta
phải làm gì? Ta nên nghĩ suy và hành động như thế nào để
biết được cái gì là thật?
Krishnamurti: Như người đặt câu hỏi này đã nói, một
vài nhà bác học khẳng định rằng tính di truyền có thể giải
thích những xu hướng cá nhân của con người, những đặc
trưng của nó, còn một số khác lại khẳng định rằng con
người là kết quả của môi trường, một thực thể xã hội đơn
giản. Từ những khẳng định trái ngược ấy, chúng ta phải lựa
chọn cái gì? Con người là gì? Làm thế nào chúng ta có thể
hiểu được ý nghĩa của cái chết và sự đau buồn sâu sắc mà
nó gây ra ở chúng ta? Có thể nào chúng ta giải quyết được
sự buồn phiền và bí mật của cái chết bằng cách đơn giản
chấp nhận những sự khẳng định khác nhau? Trong những
cách giải thích trên, phải chăng chúng ta có thể lựa chọn
một cái đúng đắn? Đây có phải vấn đề để lựa chọn không?
Cái gì được lựa chọn thì không thể chân thật. Thực tại
không thể nằm trong những mặt đối lập, vì chúng chỉ là trò
chơi của những phản ứng. Nếu cái chân thật không thể tìm
thấy được trong những mặt đối lập và cái được lựa chọn
không thể dẫn đến sự hiểu biết chân lí, vậy chúng ta phải
làm gì? Bạn phải tự mình hiểu biết quá trình bản ngã của
chính bạn và không chấp nhận đơn giản những nghiên cứu
của các nhà bác học hay những điều khẳng định của các tôn
giáo. Bằng cách nhận biết đầy đủ quá trình bản ngã của
chính bạn, bạn sẽ có thể hiểu được sự đau khổ và hấp hối
của cảnh cô đơn, chúng đến cùng với cái bóng của thần
chết. Chừng nào bạn chưa cảm nhận sâu sắc rằng cái quá
trình đó chính là bạn, thì những quan niệm về cõi bên kia,
giả thuyết về luân hồi, tái sinh, những giải thích về các
vong linh, đều là hời hợt và chỉ có tác dụng an ủi nhất thời,
điều này chỉ gây tở ngại cho sự thức tỉnh của trí tuệ. Sự
cảm nhận là cơ bản để hiểu biết quá trình bản ngã. Chỉ
thông qua sự cảm nhận mứoi có thể giải quyết nhiều vấn đề
mà quá trình bản ngã tạo ra liên tục cho chính nó.
Bạn tìm cách vứt bỏ sự đau khổ bằng những điều giải
thích, bằng ma tuý, rượu, giải trí, hay sự nhẫn nhục, tuy
vậy phiền não vẫn tiếp tục. Nếu bạn muốn chấm dứt phiền
não, bạn phải hiểu rằng sự chia chẻ trong ý thức gây nên
trạng thái xung đột và biến tâm trí thành một bãi chiến
trường của nhiều sự ham muốn khác nhau. Một cảm nhận
không có lựa chọn sẽ đánh thức trực giác sáng tạo, trí tuệ,
và chỉ điều đó mới có thể giải phóng tâm trí khỏi vô số
những quá trình tinh vi của ngu dốt, ham muốn và sợ hãi.
Ngày 01/08/1936
*******************************
VI
Hỏi: Theo ngài, những nguyên lí cơ bản dựa theo đó
chúng ta phải nuôi nấng và giáo dục trẻ em là gì? Phải
chăng chúng ta có lí khi cho rằng trẻ em có thể biết được
điều gì tốt và điều gì xấu đối với chúng, và nếu người lớn
càng ít can thiệp vào để hướng dẫn chúng thì càng tốt?
Krishnamurti: Nhiều vấn đề về giáo dục trẻ em chỉ có
thể được giải quyết một cách toàn diện, trong tổng thể của
chúng. Nhân loại được giáo dục và tập hợp thành nhóm
theo một số triết lí công nghệ và tư tưởng tôn giáo. Nếu
con người đúng là kết quả của môi trường và tính di truyền,
nếu nó chỉ là một thực thể xã hội thì khi đó chắc rằng, nếu
nó càng được tập hợp thành nhóm, được hướng dẫn, được
chế ngự và ép buộc thì càng tốt. Nếu sự thể là như vậy thì
trẻ em cần phải được chế ngự ngay từ thủa bé thơ nhất, và
những phản ứng sâu xa nhất của chúng đối với cuộc sống
phải được uốn nắn và đưa vào kỉ luật phù hợp với những
nhu cầu công nghệ và đạo lí sinh học.
Trái ngược với quan niệm trên đây là tín ngưỡng, nó
khẳng định rằng chỉ có một sức mạnh siêu nhiên và phổ
quát duy nhất, đó là Thượng đế mà mọi cái đều là bộ phận
của người và chẳng có cái gì mà người không biết. Vậy thì
con người không còn tự do và số phận của nó đã được định
trước. Trong tín ngưỡng cũng có tình trạng phân nhóm tư
tưởng thông qua tín ngưỡng và lí tưởng. Cái mà chúng ta
gọi là giáo dục tôn giáo chỉ là một sự áp đặt lên con người
khiến cho nó thích nghi với những ý tưởng, những đạo lí và
những kết luận đã được xác lập bởi những tổ chức tôn giáo.
Bạn hãy xem xét hai thái cực nói trên và bạn sẽ thấy
rằng những điều khẳng định của tín ngưỡng và của khoa
học, mặc dù chúng đối lập lẫn nhau, nhưng chúng đều tạo
ra những con người, thô thiển hay tinh vi, tuỳ theo những
mẫu mực riêng của mỗi bên.
Trước khi chúng ta biết được cách giáo dục trẻ em hay
giáo dục chính chúng ta như thế nào, chúng ta phải hiểu ý
nghĩa của hai mặt đối lập trên. Chúng ta đã tạo nên, bởi tín
ngưỡng, sợ hãi và ép buộc, một hệ thống tư duy và ứng xử
mà chúng ta gọi là tôn giáo và chúng ta luôn luôn cố gắng
khế hợp với nó; hay thông qua sự khẳng định liên tục rằng
con người chỉ là một thực thể xã hội, một sản phẩm của
môi trường và của tính di truyền, chúng ta đã tạo nên một
đạo lí hời hợt, nó rỗng tuếch và khô cằn. Vậy trước khi
chúng ta có thể giáo dục trẻ em hay chính mình, chúng ta
phải hiểu con người là gì.
Tư duy và hành động của chúng ta đôi khi xuất phát từ
những tín ngưỡng và những phản ứng gây nên bởi những
nhu cầu sinh học và công nghệ. Khi chúng ta cảm thấy một
nỗi lo lắng nóng bỏng, một sự sợ hãi, hoang mang, thì
chúng ta hướng về Thượng đế, chúng ta khẳng định rằng có
một sức mạnh siêu nhiên dẫn dắt chúng ta, và với đạo lí
của tín ngưỡng, chúng ta cố gắng sống trong một thế giới
cơ hội, hận thù và tàn ác. Vậy nhất thiết phải có sự xung
đột giữa hệ thống tín ngưỡng và hệ thống của đạo lí vị kỉ.
Thông qua cả hai hệ thống đối lập này chúng ta cũng không
thấy được con người là gì.
Vậy làm thế nào để chúng ta có thể phát hiện con
người là gì? Trước tiên chúng ta phải trở nên có ý thức về
tư duy và hành động của mình, giải thoát chúng khỏi tín
ngưỡng, sợ hãi và ép buộc. Chúng ta phải giải toả chúng
khỏi những phản ứng và xung đột giữa những mặt đối lập
trong đó chúng bị mắc kẹt. Nếu nhạy bén và luôn luôn có ý
thức, chúng ta sẽ tự mình khám phá ra quá trình đích thực
của ý thức. Tôi đã cố gắng giải thích quá trình này trong
những cuộc nói chuyện của tôi.
Thay vì theo một trong hai hệ thống đối lập về tư tưởng
- tín ngưỡng và khoa học - chúng ta phải vượt lên và vượt
qua cả hai, và chỉ lúc đó may ra chúng ta mới cảm nhận
được cái gì là thật. Khi ấy chúng ta sẽ thấy có vô số năng
lượng với những quá trình duy nhất chứ không phải một
sức mạnh duy nhất và phổ quát vận hành các năng lượng
riêng lẻ. Mỗi con người là một năng lượng duy nhất, tự
động - tích cực, không có cái bắt đầu, mà sự phát triển tự
động - tích cực làm phát sinh ra ý thức từ đó xuất hiện con
người, với tính cách cá thể. Quá trình này tự nuôi dưỡng
chính mình bằng những hoạt động của vô minh, định kiến,
ham muốn và sợ hãi. Chừng nào còn tồn tại quá trình của
vô minh và ham muốn, thì chừng đó còn tồn tại sự lo sợ
với nhiều ảo tưởng và sự trốn chạy; từ quá trình đó xuất
hiện những xung đột và đau khổ.
Nếu chúng ta thực sự cảm nhận quá trình tự động - tích
cực của vô minh, chúng ta sẽ có một thái độ hoàn toàn khác
hẳn đối với con người và sự giáo dục nó. Chúng ta không
còn chịu sự ép buộc của tín ngưỡng hay đạo lí hời hợt, và
trí tuệ sẽ thức tỉnh để đáp lại những thách thức của cuộc
sống. Chừng nào chúng ta chưa thực sự hiểu được ý nghĩa
của những điều trên đây, thì việc đơn giản tìm kiếm một hệ
thống giáo dục mới sẽ hoàn toàn là phù phiếm. Muốn thức
tỉnh trí tuệ sáng tạo để cho mỗi người có thể đáp lại những
thách thức của cuộc sống một cách hồn nhiên, ta phải quan
sát sâu sắc chính mình với tư cách quá trình. Không một hệ
thống triết học nào có thể giúp ta tự thấu hiểu chính mình.
Sự thấu hiểu chỉ đến thông qua sự cảm nhận quá trình bản
ngã với vô minh, xu hướng và sợ hãi. Ở đâu có trí tuệ sâu
sắc và sáng tạo, thì nơi đó nền giáo dục và quan hệ của nó
với môi trường sẽ đúng đắn và thích hợp.
*******************************
Hỏi: Phải chăng kinh nghiệm không dẫn tới sự viên
mãn của cuộc sống?
Krishnamurti: Chúng ta thấy nhiều người trải qua kinh
nghiệm này đến kinh nghiệm khác, chồng chất những cảm
quan và sống bằng những kỉ niệm cùng dự đoán về tương
lai. Phải chăng những người như vậy sống một cuộc sống
viên mãn? Phải chăng những kỉ niệm chồng chất sẽ sinh ra
sự viên mãn của cuộc sống? Hay ngược lại, chỉ có sự viên
mãn khi cái trí được cởi mở, nhạy cảm và hoàn toàn giải
toả khỏi tất cả các kí ức tự vệ?
Với một hành động toàn vẹn, không chia chẻ bởi
những ham muốn nhiều loại, sẽ có sự viên mãn, trí tuệ, sự
sâu sắc của thực tại. Việc tích luỹ kinh nghiệm đơn giản
hay sống trong cảm giác của kinh nghiệm, chỉ là sự làm
giàu kí ức một cách hời hợt, và kí ức được kích thích sẽ
gây ra cảm giác giả tạo về sự viên mãn. Nhưng còn xa mới
đạt đến sự viên mãn của cuộc sống, việc làm giàu kí ức chỉ
có tác dụng là xây thêm những bức tường bảo vệ chống lại
sự vận động của nó, chống lại sự đau khổ. Những bức
tường này ngăn cản tính hồn nhiên của cuộc sống, nó gia
tăng thêm sự chống đối và do vậy nó tăng thêm sự đau khổ
và xung đột. Những kí ức tích luỹ của kinh nghiệm chẳng
thể sản sinh ra được sự hiểu biết và sức mạnh của sự linh
hoạt sâu sắc.
Kí ức hướng dẫn chúng ta qua kinh nghiệm. Chúng ta
tiếp cận với từng kinh nghiệm mới với một cái trí bị qui
định, một cái trí đã chất đầy những kỉ niệm tạo nên bởi
những nỗi lo âu, những định kiến, những xu hướng mà nó
dùng để tự vệ. Kí ức luôn luôn qui định cái trí và tạo nên
xung quanh nó những giá trị giam hãm nó trong đó. Chừng
nào còn tồn tại những kí ức tự bảo vệ, nó tạo ra tính liên
tục của quá trình bản ngã, thì chừng ấy cuộc sống không
thể viên mãn.
Vậy chúng ta phải hiểu được quá trình kinh nghiệm và
xem bằng cách nào cái trí không ngừng thu hoạch, từ kinh
nghiệm đó, những bài học dùng để hướng dẫn cho nó.
Những bài học ấy, những lí tưởng ấy, những hướng dẫn ấy
chỉ là những kí ức tự vệ, chúng luôn giúp cái trí trốn chạy
khỏi thực tại. Mặc dù cái trí tìm cách thoát khỏi sự đau khổ
với sự giúp đỡ của những kỉ niệm nói trên, làm như vậy nó
chỉ nhấn mạnh thêm nỗi lo sợ, ảo tưởng và xung đột. Sự
viên mãn của cuộc sống chỉ xuất hiện khi tâm trí hoàn toàn
nhạy cảm với vận động của cuộc sống, không có những
chướng ngại giả tạo do nó dựng lên. Sự phong phú của
cuộc sống chỉ xuất hiện khi chấm dứt các ham muốn với
những ảo tưởng và giá trị của chúng.
*******************************
Hỏi: Xin ngài hãy nói cho chúng tôi về cái đẹp và sự
ngây ngất của tự do. Có thể nào tạo được trạng thái phúc
lạc ấy mà không phải nhờ thiền định hay những phương
pháp khác phù hợp với điều kiện của chúng tôi?
Krishnamurti: Tại sao bạn lại muốn tôi nói về cái đẹp
và sự ngây ngất của tự do? Phải chăng để có được một cảm
giác mới, một bức tranh giả tạo mới, một lí tưởng mới, hay
phải chăng bạn hi vọng tạo ra trong bản thân mình, nhờ sự
mô tả của tôi, một bảo đảm, một sự chắc chắn? Bạn muốn
được khích lệ. Cũng giống như khi bạn đọc một bài thơ,
bạn bị lôi cuốn bởi một hình ảnh thoáng qua, do sự hư cấu
của nhà thơ, bạn muốn có sự khích lệ thông qua cách mô tả
của tôi. Khi bạn ngắm một bức tranh đẹp, vẻ đẹp của nó đã
lôi cuốn bạn trong một thoáng, đi xa khỏi những xung đột
hàng ngày của bạn, khỏi sự khốn khổ và nỗi lo sợ của bạn.
Bạn chỉ tm thoát ra nhưng chẳng bao lâu bạn lại trở về với
nỗi khổ của mình. Vậy sự mô tả của tôi về cái không thể
diễn tả sẽ có ích gì cho bạn? Không một từ ngữ nào có thể
nói lên hết tầm cỡ của cái đẹp. Vậy chúng ta không nên hỏi
chân lí là gì, tự do là gì.
Bạn sẽ biết tự do là gì khi bạn ý thức sâu sắc những
bức tường giam hãm bạn, bởi vì chính ý thức đó sẽ xoá tan
những giới hạn mà chúng ta tự tạo ra cho chính mình. Khi
bạn hỏi chân lí là gì, sự ngây ngất của tự do là gì, thì bạn
chỉ đòi hỏi một phương cách mới để tránh khỏi gánh nặng
của những cuộc đấu tranh, những đam mê, những hận thù
của ngày thường. Đôi khi chúng ta cũng có dịp ý thức về vẻ
đẹp không thể diễn tả, nhưng những dịp ấy hiêm hoi đến
nỗi chúng ta bám vào những kỉ niệm về việc ấy và cố gắng
sống lại quá khứ trong khi thực tại vẫn luôn luôn hiện hữu.
Điều đó chỉ tạo ra và duy trì sự xung đột và ảo tưởng.
Chúng ta không nên sống bằng tưởng tượng trong một
tương lai dự đoán trước, mà chúng ta hãy ý thức về những
cuộc đấu tranh và những nỗi lo sợ hàng ngày của chúng ta.
Một số ít người, khi hiểu được quá trình tự động - tích
cực của vô minh, đã dùng ý chí chấm dứt nó. Còn đa số
hầu như trốn thoát thực tại, họ không thể nhận biết cái
thực, cái liên tục trở thành. Không một hệ thống triết học
hay khoa học nào có thể dẫn những người ấy đến trạng thái
ngây ngất của chân lí. Không một hệ thống thiền định nào
có thể giải phóng họ khỏi những ảo tưởng; chúng tự sinh ra
và ự nuôi dưỡng lấy mình bằng những phiền não và xung
đột. Những phiền não và xung đột này dai dẳng đến nỗi
chúng góp phần tạo ra những điều kiện ngăn cản sự nảy nở
của trí tuệ. Bạn cho rằng những hệ thống giới luật, kỉ luật là
thiền định và bạn hi vọng chúng sẽ đánh thức trí tuệ. Phải
chăng sự ép buộc của phần thưởng hay hình phạt có thể
làm nảy sinh trực giác sáng tạo của thực tại? Phải chăng
bạn cần ý thức sâu sắc về quá trình ngu dốt và ham muốn,
chúng tạo nên những ham muốn mới và luôn luôn gây ra sự
lo sợ và ảo tưởng. Khi bạn bắt đầu thực sự ý thức về quá
trình này, thì chính sự sáng suốt ấy là thiền định đích thực,
chứ không phải thiền định giả tạo trongh mấy phút mà bạn
rút lui khỏi cuộc sống để chiêm ngưỡng nó. Chúng ta tưởng
rằng khi chúng ta rút lui khỏi cuộc sống, dù trong một phút,
là chúng ta hiểu được cuộc sống. Muốn thấu hiểu nó, chúng
ta phải đắm mình trong dòng chảy của nó, trong vận động
của nó. Chúng ta phải nhận biết quá trình ngu dốt, ham
muốn và lo sợ, vì chúng ta chính là quá trình ấy.
Tôi sợ rằng nhiều người trong các bạn thường nghe tôi
nói chuyện nhưng không chứng nghiệm về những điều tôi
nói. Những người ấy chỉ đơn giản thu hoạch được một mớ
chuyên từ mới mà không có sự biến đổi cơ bản của ý chí,
mà chỉ có nó mới giải phóng được tâm trí khỏi xung đột và
đau khổ. Thay vì đòi hỏi một phương pháp thiền định, nó
chỉ là dấu hiệu của sự mong muốn thoát khỏi thực tại, bạn
hãy tự mình nhận biết quá trình ngu dốt và sợ hãi. Cảm
nhận sâu sắc đó chính là thiền định.
*******************************
Hỏi: Ngài bảo rằng kỉ luật là chuyện phù phiếm, rằng
nó được áp đặt từ bên ngoài hay bên trong. Tuy nhiên, nếu
chúng ta nhìn nhận cuộc sống một cách nghiêm túc, thì
nhất định chúng ta phải khép mình vào một kỉ luật mà
chúng ta tự áp đặt cho mình. Điều đó có gì sai lầm không?
Krishnamurti: Tôi đã tìm cách giải thích rằng cách ứng
xử do sự ép buộc sinh ra, dù đó là sự ép buộc của phần
thưởng hay hình phạt, của sự sợ hãi hay tình thương, đều
không thích hợp với cuộc sống. Nó chỉ là một sự bắt
chước, một sự bó buộc (ép buộc) và là một cuộc huấn
luyện để cho cái trí ăn khớp với một vài ý tưởng nào đó,
nhằm để tránh một cuộc xung đột. Kỉ luật thuộc loại ấy, dù
áp đặt hay tự nguyện, đều không dẫn đến một nhân cách
thích hợp với cuộc sống. Cách ứng xử khế hợp với cuộc
sống chỉ có được khi chúng ta hiểu được ý nghĩa đầy đủ
của quá trình tự động - tích cực của vô minh và sự hình
thành liên tục những giới hạn của hành động do những ham
muốn. Nếu chúng ta nhận biết sâu sắc quá trình của sự sợ
hãi, thì trí tuệ sẽ thức tỉnh và chúng ta sẽ có một cách ứng
xử đúng đắn. Có lẽ nào trí tuệ có thể được đánh thức bởi
một kỉ luật áp đặt hay tự nguyện? Vấn đề phải đâu là huấn
luyện cái trí và tuân theo một số mẫu mực nào đó? Có thể
nào trí tuệ được đánh thức bởi sự lo sợ, nó buộc chúng ta
phải nép mình theo những giá trị đạo lí đã được xác lập?
Một sự ép buộc bất kì, dù từ bên ngoài hay tự nguyện áp
đặt, cũng không thể đánh thức trí tuệ, bởi vì sự ép buộc là
sản phẩm của sợ hãi. Nơi nào có sự sợ hãi, ở đó không thể
có trí tuệ. Nơi nào có hoạt động trí tuệ, ở đó có sự khế hợp
hồn nhiên mà không cần đến kỉ luật. Vậy vấn đề không
phải là tìm hiểu để xem kỉ luật là một điều tốt hay xấu,
hoặc nó có cần thiết hay không, mà vấn đề là cái trí có thể
tự giải thoát khỏi sự lo sợ do nó tự tạo ra hay không. Bởi
vì, khi ta được giải thoát khỏi nỗi lo sợ, lúc ấy không còn
có ý niệm về kỉ luật mà chỉ có sự viên mãn của cuộc sống.
Vậy nguyên nhân của sợ hãi là gì? Sự lo sợ được sinh
ra như thế nào? Quá trình và những biểu hiện của nó như
thế nào? Sự sợ hãi nhất thiết vẫn tồn tại chừng nào còn hiện
hữu quá trình bản ngã, sự khao khát không được thoả mãn -
nó hạn chế hành động. Bất kì hành động nào được sinh ra
bởi những hạn chế đồng thời cũng là những ham muốn, thì
chỉ tạo ra thêm hạn chế mới. Sự thay đổi liên tục của những
nhu cầu, với vô số những hoạt động của nó, không giải
thoát được tâm trí khỏi nỗi lo sợ; nó chỉ cung cấp cho quá
trình bản ngã một lí lịch và một tính liên tục. Hành động
xuất phát từ một nhu cầu bên trong luôn tạo ra nỗi lo sợ và
do vậy nó ngăn cản trí tuệ và sự hoà nhịp hồn nhiên với
cuộc sống.
Thay vì hỏi tôi rằng việc tuân theo kỉ luật là đúng hay
sai, bạn hãy ý thức về chính sự khao khát của bạn và đừng
bao giờ chấp nhận một sự gò ép nào. Lúc ấy mới chấm dứt
sợ hãi, bừng tỉnh trí tuệ và sự viên mãn của cuộc sống.
Ngày 2/08/1936
*******************************
VII
Muốn nhận biết thực tại, tâm trí phải hết sức mềm dẻo.
Phần lớn chúng ta tưởng rằng ở bên kia và bên trên cái trí
có một thực tại, rằng ở bên kia và bên trên trạng thái ý thức
của những xung đột và hạn chế, của thích thú và đau khổ,
có một chân lí. Nhưng muốn thấu hiểu thực tại, cái trí phải
hiểu được những gì do nó tạo ra, những hạn chế của chính
nó. Muốn cảm nhận quá trình của ý thức, gồm những quan
niệm và cái hiện tại, để đi sâu vào những khía cạnh vi tế
tuyệt vời của nó, cái trí phải vô cùng mềm dẻo và tư duy
phải toàn vẹn. Tư suy toàn vẹn không phải là kết quả của
sự giáo dục, sự kiểm soát hay sự bắt chước. Một tâm trí
không chia chẻ thành những mặt đối lập, có thể cảm nhận
trực tiếp, không thể là kết quả của kỉ luật. Nó không phải là
sản phẩm của ý chí này khuất phục ý chí khác, ý muốn này
chế ngự ý muốn khác. Bất kì phản đề nào trong tư duy
cũng đều là giả tạo. Kỉ luật và sự kiểm soát chứng tỏ sự tồn
tại của một quá trình nhị nguyên trong những ý muốn đang
gây xung đột trong ý thức. Nơi nào có xung đột, có sự
khuất phục, sự chế ngự, có cuộc đấu tranh giữa những phản
đề, thì không thể có sự mềm dẻo, và cái trí không thể trở
thành tinh tế, sâu sắc và sáng suốt. Do cuộc xung đột của
những cái đối lập nên cái trí bị qui định; và tư tưởng bị qui
định sẽ tạo ra thêm những sự hạn chế mới, và cứ thế mà
tiếp tục quá trình qui định. Quá trình này là chướng ngại
cho sự mềm dẻo.
Làm thế nào để đi đến một trạng thái không có xung
đột giữa những cái đối lập?
Không đứng vào một phía và không can thiệp vào cuộc
xung đột, chúng ta trở nên có ý thức rằng cuộc xung đột
của những mặt đối lập tồn tại trong mỗi người chúng ta. Sự
xung đột làm cái trí xao động, mà cái trí lại thích sự yên
tĩnh nên nó tìm một lối thoát giả tạo để ra khỏi trạng thái
rối loạn. Để làm được việc đó nó chỉ có thể tìm một lối
thoát hay một cái đối lập và điều này chỉ tạo thêm sự giới
hạn tâm trí. Sống trong trạng thái xung đột và đồng thời lại
là người nhạy cảm và bất động, không chấp nhận cũng
không chối bỏ, thật không phải là dễ dàng sống trong trạng
thái xung đột, không tìm kiếm một phương thuốc hay một
lối thoát, sẽ làm nảy sinh được một tư duy toàn bộ. Đó là
cố gắng đúng đắn.
Muốn giải phóng cái trí khỏi sự xung đột của những
mặt đối lập, bạn phải bằng cách nào đó, ý thức được rằng
một bộ phận, một phần nhỏ của ý thức đang chế ngự bộ
phận. Bạn gọi cái đó là sự huấn luyện tâm trí, nhưng thực
ra bạn chỉ thiết lập một thói quen nẩy sinh do những mặt
đối lập.
Chúng ta hãy quan sát một cái trí bị khuất phục trước
uy quyền. Ở đây có cả uy lực của sự ép buộc bên ngoài,
quyền lực của các phe nhóm, của các lãnh tụ, các dư luận,
các truyền thống. Bạn có thể nhượng bộ quyền uy ấy mà
không thấu hiểu nó hoàn toàn và bạn khẳng định đó là một
sự lựa chọn tự nguyện; nhưng nếu bạn tự quan sát sâu sắc
bản thân mình, bạn sẽ thấy trong sự lựa chọn ấy có một
lòng ham muốn được an toàn khá lớn, điều đó sinh ra sự lo
sợ, và để chế ngự sự lo sợ ấy, bạn đành khuất phục trước
uy quyền. Ở đây cũng có cả cái quyền uy tinh tế chủ quan
của những hồi ức chồng chất, những định kiến những sợ
hãi, ác cảm, những nhu cầu, chúng đã trở thành những giá
trị, những lí tưởng, những chuẩn mực. Nếu bạn quan sát
sâu, bạn sẽ thấy cái trí luôn luôn chấp nhận và chối bỏ
quyền uy, nó luôn luôn bị qui định bởi những giá trị và tiêu
chuẩn mới nảy sinh từ ham muốn tự bảo vệ mình. Bạn có
thể tự nhủ rằng bạn không hề tìm kiếm an toàn, cái an toàn
đang tạo ra nhiều hình thái tinh vi của quyền uy, nhưng vào
lúc ấy nếu bạn tự quan sát mình, bạn sẽ thấy mình đang tìm
kiếm sự bất an, cũng chỉ nhằm mục đích tự thuyết phục
mình rằng tìm kiếm sự an toàn là một sai lầm. Như vậy ý
niệm bất an sẽ đơn giản trở thành một hình thái khác của an
toàn và của quyền uy. Khi bạn chối bỏ quyền uy và tìm
cách tự giải thoát khỏi nó, bạn chỉ đi tìm cái trái ngược;
trong khi đó tự do thực sự, trạng thái tâm trí thông tuệ và
thức tỉnh vượt ra ngoài những mặt đối lập. Chính sự bất
động nhạy cảm của tư duy sâu sắc, của sự sáng suốt không
lựa chọn, của trực giác sáng tạo là sự viên mãn của đời
sống.
*******************************
Hỏi: Nếu tôi đang xung đột với gia đình, bạn bè, người
làm công và pháp luật của nhà nước, tóm lại với những
hình thức bóc lột khác nhau, phải chăng sự tìm kiếm cách
giải thoát khỏi tất cả những sự lệ thuộc sẽ không làm cho
cuộc sống của tôi hầu như không thể sống được?
Krishnamurti: Có lẽ là đúng, nếu như bạn chỉ tìm kiếm
sự giải thoát như một khía cạnh đối lập trong cuộc xung
đột, tức là như một cuộc trốn chạy khỏi thực tại. Nếu bạn
muốn cuộc đời có thể sống được viên mãn, bạn phải thấu
hiểu toàn bộ quá trình của sự bóc lột, kể cả mặt lộ liễu và
mặt tinh vi. Nếu chỉ đơn giản trốn chạy khỏi cuộc xung đột
với gia đình, bè bạn, môi trường, thì điều đó không giúp
bạn thoát khỏi sự bóc lột. Chỉ bằng cách thấu hiểu ý nghĩa
của toàn bộ quá trình bóc lột mới có được trí tuệ. Trí tuệ
làm cho cuộc sống có ý nghĩa, thực tiễn và phong phú. Cái
mà tôi gọi là trí tuệ không phải là quá trình tri thức, quá
trình hời hợt, mà là sự biến đổi của ý chí được gây nên bởi
sự viên mãn toàn vẹn của con người.
Chúng ta biết rõ có nhiều hình thái bóc lột lộ liễu,
nhưng cũng có nhiều hình thái bóc lột tinh vi, bạn phải cảm
nhận quá trình bản ngã, sinh ra từ sự ngu dốt, nhu cầu và
nỗi lo sợ. Bất cứ hành động nào sinh ra bởi quá trình ấy
đều nhất thiết dẫn đến bóc lột. Nhiều người rút lui khỏi thế
gian để chiêm ngưỡng thực tại và tìm cách chấm dứt quá
trình bản ngã. Bạn không nên tự mình rút lui khỏi cuộc
sống để xem xét cuộc sống. Sự trốn chạy này không thể
chấm dứt quá trình ngu dốt, ham muốn, sợ hãi, nó chính là
bản ngã. Sống, đó là ở trong những mối tương quan, và khi
nào những mối tương quan ấy trở nên khó chịu, hạn hẹp,
chúng liền tạo ra xung đột và đau khổ. Lúc ấy người ta
mong muốn một đối cực, muốn trốn chạy khỏi những mối
quan hệ. Người ta thường trốn chạy nhưng trong một cuộc
sống khô cằn và trống rỗng bởi sợ hãi và ảo tưởng, cuộc
xung đột càng tăng cường và dần dần gây ra sự huỷ hoại.
Chính sự trốn chạy ấy là điều bất tiện và rối rắm. Nếu bạn
muốn cởi bỏ cái xấu và sự tàn ác của cuộc sống, thì phải có
một cố gắng thích hợp để chấm dứt quá trình tự động - tích
cực của ngu dốt.
*******************************
Hỏi: Nếu chân lí ở bên ngoài và ở bên trên của tất cả
những sự hạn hẹp, thì nó phải có tính phổ quát toàn vũ trụ,
và do đó nó phải chứa đựng tất cả những biểu hiện của
cuộc sống. Phải chăng tâm thức vũ trụ ấy không bao gồm
cả sự thấu hiểu toàn bộ những khía cạnh, toàn bộ những
hoạt động của cuộc sống, không loại trừ một thứ gì?
Krishnamurti: Chúng ta không cần tìm hiểu xem tâm
thức vũ trụ là gì, chân lí là gì, v.v.. Thực tại sẽ được hiểu
biết khi nào chấm dứt những hình thái ảo tưởng khác nhau.
Cái trí của chúng ta có khả năng tạo ra những ảo tưởng vô
cùng tinh vi, và nó dễ dàng đi đến thất vọng, đến nỗi chúng
ta có lẽ không nên quan tâm đến trạng thái của thực tại, mà
trước hết nên gạt bỏ những ảo tưởng xuất hiện một cách có
ý thức hay không có ý thức. Bằng cách gia nhập một tổ
chức tôn giáo với những giáo điều, những tín ngưỡng,
những tín điều của nó, hay trở thành một trong những nhà
theo chủ nghĩa dân tộc mới, giáo điều, bạn hi vọng đạt đến
Thượng đế, chân lí, hay hạnh phúc tương lai. Nhưng làm
sao cái trí có thể hiểu được thực tại, nếu nó bị méo mó bởi
những tín ngưỡng, những định kiến, những giáo điều và
những nỗi lo sợ? Chân lí chỉ có được khi những hạn hẹp
nói trên bị xoá bỏ. Bạn đừng tưởng tượng ra cái hiện hữu,
rồi sau đó đem những ham muốn của mình rập khuôn theo
đó.
Bạn tưởng rằng để thương yêu con người, thì bạn phải
thuộc về một dân tộc nào đó; bạn tưởng rằng đểy yêu thực
tại thì cần thiết phải theo một tôn giáo có tổ chức. Vì chúng
ta không có khả năng nhận biết chân lí giữa vô vàn những
ảo tưởng làm bận rộn tâm trí chúng ta, nên chúng ta thất
vọng khi nghĩ rằng sự lầm lạc cũng như chân lí, lòng thù
hận cũng như tình thương, đều là những bộ phận căn bản
của cuộc sống. Nơi nào có tình thương, nơi đó không thể
có hận thù. Muốn hiểu được thực tại, không cần thiết phải
đi qua tất cả các kinh nghiệm của ảo tưởng.
*******************************
Hỏi: Làm sao chúng ta có thể giải quyết vấn đề giới
tính?
Krishnamurti: Nơi nào có tình thương, ở đó không có
vấn đề giới tính. Giới tính chỉ trở thành "vấn đề" khi tình
thương yêu bị thay thế bởi cảm giác. Khi ấy vấn đề đặt ra
là làm thế nào để chế ngự cảm giác. Với ngọn lửa sinh
động của tình yêu, vấn đề giới tính sẽ chấm dứt. Nhưng
giới tính đã trở thành một vấn đề do cảm giác gây ra, do
những thói quen, những chất kích thích, và nhiều điều phi
lí của nền văn minh hiện đại. Tiểu thuyết, phim ảnh, quảng
cáo, những câu chuyện mạn đàm, thời trang, tất cả những
cái đó kích thích cảm giác và làm tăng thêm xung đột. Vấn
đề giới tính không thể được giải quyết riêng rẽ, một mình
nó. Cố gắng tìm hiểu nó bằng những đạo lí dựa trên cách
ứng xử hay dựa trên khoa học là điều vô ích. Có thể một
vài sự hạn chế hay cấm đoán là cần thiết, nhưng chúng chỉ
tạo ra một cuộc sống khô cằn và trống rỗng.
Tất cả chúng ta đều khả dĩ có được một tình thương
yêu sâu sắc và rộng lớn, nhưng do những xung đột, những
mối tương quan giả tạo, do cảm giác và thói quen, mà
chúng ta huỷ hoại cái đẹp của nó đi. Do ý thức chiếm hữu
của chúng ta và nhiều sự tàn ác của nó, bởi tất cả cái xấu xa
của ý thức khai thác lẫn nhau, dần dần chúng ta bóp tắt
ngọn lửa của tình yêu, chúng ta không thể duy trì ngọn lửa
sinh động ấy một cáhc giả tạo, nhưng chúng ta có thể đánh
thức trí tuệ và tình thương yêu, bằng cảm nhận liên tục về
những ảo ảnh và những hạn hẹp hiện nay đang chế ngự tâm
trí chúng ta, toàn bộ con người chúng ta. Vậy điều mà
chúng ta cần thấu hiểu không phải là bản chất của những sự
hạn hẹp về khoa học hay tôn giáo, được áp đặt lên những ý
muốn và cảm giác, mà là làm cách nào để tạo nên một sự
nảy nở sâu sắc và bền vững. Chúng ta bị thất vọng từ mọi
phía; sự sợ hãi chế ngự cuộc sống tâm linh và đạo lí của
chúng ta, nó buộc chúng ta trở thành những kẻ bắt chước,
rập khuôn vào những giá trị giả tạo và những ảo ảnh.
Không có biểu hiện sáng tạo của toàn bộ con người chúng
ta, trong lao động cũng như trong tư tưởng, do đó mà cảm
giác trở nên quan trọng một cách kì quái và đặt ra những
vấn đề ác liệt. Cảm giác là giả tạo, hời hợt, và nếu chúng ta
không thấu hiểu quá trình của nó, thì cuộc sống của chúng
ta sẽ trở nên trống rỗng, hoàn toàn vô ích và khốn khổ. Sự
thoả mãn đơn giản những ham muốn hay sự thay đổi liên
tục những ham muốn sẽ phá huỷ trí tuệ và tình thương. Chỉ
có tình thương mới có khả năng giải thoát bạn ra khỏi vấn
đề giới tính.
*******************************
Hỏi: Ngài nói rằng chúng ta phải trở nên hoàn toàn có
ý thức về quá trình bản ngã ở trong tâm của mỗi cá nhân
chúng ta. Phải chăng điều đó có nghĩa là bất kì kinh
nghiệm nào cũng chỉ có giá trị đối với người đã chứng
nghiệm nó?
Krishnamurti: Nếu bạn qui định tư duy của bạn bằng
chính kinh nghiệm của mình thì kinh nghiệm của người
khác làm sao có thể giải thoát cho bạn được? Nếu bạn đã
qui định cái trí của bạn bằng chính những hoạt động ý chí
của bạn, thì sự thấu hiểu của một người khác làm sao có
thể giải thoát cho bạn? Nó có thể kích thích bạn một cách
hời hợt, nhưng sự giúp đỡ như vậy không bền vững. Nếu
bạn hiểu điều này, thì toàn bộ hệ thống của cái mà người ta
gọi là sự hỗ trợ tâm linh bằng sự sùng bái và kỉ luật, hay
bằng những thông điệp của cõi bên kia, có rất ít ý nghĩa.
Nếu bạn hiểu rằng quá trình bản ngã tự duy trì lấy nó bằng
những hoạt động ý chí của chính nó, sinh ra từ ngu dốt,
những ham muốn và sợ hãi, thì kinh nghiệm của một người
khác chỉ có rất ít ý nghĩa mà thôi. Những nhà huấn luyện
tôn giáo đã tuyên bố rằng cái gì có đạo lí thì cái ấy là có
thật. Các tín đồ của họ chỉ có việc bắt chước theo họ và do
đó không thể chứng nghiệm mình được. Nếu bạn bảo rằng
chúng ta cần phải sống theo một lí tưởng, điều đó đơn giản
cho thấy có sự lo sợ trong tâm và trí của bạn. Những lí
tưởng tạo nên một thế nhị nguyên trong ý thức của bạn,
điều đó chỉ kéo dài quá trình xung đột. Khi ta thấy rằng sự
thức tỉnh của trí tuệ là sự chấm dứt của quá trình bản ngã,
lúc ấy sẽ nảy sinh ra một sự khế hợp hồn nhiên với cuộc
sống và xác lập những quan hệ hài hoà với môi trường,
thay thế cho sự gò ép, sợ hãi, xu thời, chúng chỉ làm tăng
thêm quá trình ngu dốt, ham muốn, lo sợ, đó chính là bản
ngã.
Nếu mỗi người trong các bạn thực sự thấy được điều
này, tôi đảm bảo sẽ có một biến đổi sinh tử trong ý chí và
thái độ của bạn đối với cuộc sống. Có người thường hỏi tôi:
phải chăng chúng ta không cần đến một uy quyền? Phải
chăng chúng ta không cần theo những minh sư? Phải chăng
chúng ta không cần đến những kỉ luật? Và một số khác bảo
rằng: đừng nói với chúng tôi về quyền uy bởi vì chúng tôi
đã vượt qua điều đó. Chừng nào còn tồn tại quá trình bản
ngã, những dạng quyền uy và khao khát nhất định sẽ tồn tại
cùng với những nỗi lo sợ, những ảo tưởng và những sự ép
buộc của chúng. Quyền uy của một tấm gương, của một
mẫu mực bao hàm sự sợ hãi, và chừng nào chúng ta chưa
hiểu được quá trình bản ngã thì những mẫu mực chỉ đơn
giản là những trở ngại.
*******************************
Hỏi: Phải chăng có Thượng đế, một thực thể xa cách
con người như vậy? Ý tưởng về Thượng đế đối với ngài có
một giá trị nào không?
Krishnamurti: Tại sao bạn đặt câu hỏi này với tôi? Phải
chăng bạn muốn tôi khuyên khích bạn trong tín ngưỡng của
bạn hay là tôi làm chỗ dựa cho sự nghi ngờ của bạn?
Thượng đế tồn tại hay không tồn tại? Một số người khẳng
định rằng Người có tồn tại, một số khác thì phủ nhận. Con
người đang dao động trong những sự trái ngược ấy.
Để cảm nhận thực tại, cái có thực, tâm trí phải được tự
do thoát khỏi những mặt đối lập. Tôi đã giải thích rằng thế
giới được tạo nên bởi những lực duy nhất, không có sự bắt
đầu, chúng không được khởi động bởi một sức mạng tối
cao hay một năng lượng duy nhất, siêu nhiên. Bạn không
thể hiểu được một quá trình năng lượng nào khác hơn quá
trình ở trung tâm của bạn, nó là bạn.
Năng lượng duy nhất này, trong sự phát triển tự động -
tích cực của nó, đã trở thành ý thức và tạo ra những hạn
hẹp của chính nó và môi trường của nó, vừa có ý nghĩa
khái niệm vừa là hiện tại.
Quá trình bản ngã tự duy trì lấy nó bằng chính những
hoạt động ý chí của nó, đầy sự ngu dốt và ham muốn.
Chừng nào nó còn tiếp tục thì luôn luôn có xung đột, sự lo
sợ và tính nhị nguyên hoạt động. Bằng cách chấm dứt
những hoạt động ý chí, sẽ có sự phúc lạc, lòng yêu chân lí.
Khi bạn đau khổ, bạn không xem xét nguyên nhân của toàn
bộ quá trình đau khổ, mà bạn chỉ muốn thoát khỏi nó trong
một ảo tưởng bạn gọi là hạnh phúc, thực tại, Thượng đế.
Nếu tất cả những ảo ảnh được cảm nhận và có một nhận
thức sâu sắc về nguyên nhân của đau khổ, điều này sẽ thức
tỉnh cố gắng chân thật, lúc ấy sẽ có cái vô biên, cái không
thể biết được.
*******************************
Hỏi: Ý tưởng về định mệnh có một giá trị nào không?
Krishnamurti: Hành động xuất hiện từng giây phút xuất
phát từ sự hạn hẹp và ngu dốt luôn luôn biến đổi và đổi
mới quá trình bản ngã bằng cách tạo cho nó một tính liên
tục và một lí lịch. Tính liên tục này của hành động xuất
phát từ sự hạn hẹp, chính là định mệnh. Bạn bị qui định do
chính những hành động của bạn, nhưng bất cứ lúc nào bạn
cũng có thể bẻ gãy xiềng xích của sự hạn hẹp. Vậy bất cứ
lúc nào bạn cũng được tự do nhưng bạn lại tự qui định
chính mình bằng sự ngu dốt và sợ hãi. Bạn không phải là
món đồ chơi của một thực thể, của một sức mạnh huyền bí
nào dù tốt hay xấu. Bạn không phải là vật hi sinh cho một
sức mạnh đỏng đảnh chế ngự toàn thế giới. Bạn cũng
không hoàn toàn bị lệ thuộc vào tính di truyền và môi
trường.
Khi chúng ta nghĩ về định mệnh, chúng ta tưởng tượng
rằng hiện tại và tương lai của chúng ta được quyết định bởi
một sức mạnh nào đó ở bên ngoài, và do vậy chúng ta tự
khuất phục trước tín ngưỡng. Do quyền uy của tín ngưỡng
mà chúng ta chấp nhận rằng có một năng lượng duy nhất,
một trí tuệ tối cao, nó đã xác lập sẵn số phận của chúng ta.
Đối lập với tín ngưỡng, chúng ta có khoa học, với những
cách giải thích cơ học về cuộc sống.
Những điều tôi nói không thể được hiểu thông qua
những mặt đối lập. Tư tưởng được qui định bởi sự ngu dốt
và sợ hãi, còn ý thức tự duy trì và nuôi dưỡng lí lịch của nó
bằng chính những hoạt động ý chí của nó. Hành động xuất
phát từ sự hạn hẹp nhất thiết càng ngày càng qui định cái
trí; nói cách khác, sự ngu dốt về chính mình tạo nên một
chuỗi hành động tự giới hạn lấy chúng. QUá trình tự quyết
định và tự giới hạn của tư duy - hành động tạo nên một lí
lịch và một tính liên tục cho ý thức, với tư cách là cái tôi
(bản ngã).
Quá khứ là bối cảnh của tư duy - hành động được qui
định, nó chế ngự và kiểm soát cái hiện tại, và bằng cách đó
nó tạo ra một tương lai được quyết định từ trước. Một hành
động phát sinh từ sự sợ hãi tạo nên một vài kí ức hay
những chống đối có tính cách tự vệ, chúng quyết định hành
động tương lai. Như vậy được hình thành một chuỗi nhân
quả, một dây xích trói buộc tư duy thành nô lệ. Thấy rõ quá
trình này và không lựa chọn, đó là sự bắt đầu của tự do
chân chính.
Nếu cái trí được biết về quá trình ngu dốt thì bất cứ lúc
nào nó cũng có thể tự giải thoát được. Nếu bạn thấu hiểu
sâu sắc điều này, bạn sẽ thấy rằng tư duy chẳng bao giờ có
nhu cầu nào được qui định bởi nhân và quả. Nếu điều này
được hiểu, được sống, sẽ có một tự do sinh động, không sợ
hãi, không có sự hời hợt của phản đề.
Ngày 03/08/1936
*******************************
VII
Tôi hi vọng rằng mười ngày qua các bạn đã có dịp tư
duy bổ ích vì giờ đây bạn phải trở về nhà để đối diện với
cái thói quen nhàm chán thường ngày của những xung đột
và những vấn đề trong một thế giới đã trở nên điên loạn vì
thù hận. Trong mấy ngày qua chúng ta đã cố gắng để hiểu
được làm cách nào có thể tiếp cận những vấn đề của nhân
loại, rất nhiều, rất đa dạng và phức tạp. Nếu ta không đi sâu
vào trong toàn bộ quá trình xung đột của con người, nếu ta
chỉ giải quyết nó bằng những phản ứng, thì càng ngày
chúng ta càng đi đến những xung đột và đau khổ lớn hơn.
Trại này, tôi hi vọng nó đã tạo cho mỗi người chúng ta một
khả năng tư duy đầy đủ, toàn vẹn, một cách chân thật. Trở
về với thế giới, mỗi người chúng ta sẽ vướng mắc vào
nhiều vấn đề tôn giáo, xã hội và kinh tế trong môi trường
của mình, với những sự chia chẻ gây đau khổ.
Phải chăng bằng cách vạch ra từng vấn đề cho đến tận
nguyên nhân, chúng ta sẽ được giải thoát khỏi những xung
đột? Phải chăng bằng cách nghiên cứu những phản ứng,
chúng ta có thể nhận thấy nguyên nhân của mọi hành
động? Các ngành khoa học và các tôn giáo với những
khẳng định trái ngược nhau chỉ tạo ra sự chia chẻ trong tâm
trí. Với những vấn đề của con người, rối rắm và tinh vi,
làm sao chúng ta có thể biết được đâu là trung tâm đích
thực, đâu là nguyên nhân chân thực của mọi hành động,
những xung đột và đau khổ do nó gây ra? Chừng nào
chúng ta chưa tự khám phá được trung tâm hành động ấy
và chưa nhận thấy nó một cách thông tuệ, toàn vẹn thì sự
phân tích đơn giản những phản ứng hay sự khuất phục dưới
một tín ngưỡng sẽ không giải thoát được tâm trí khỏi sự
ngu dốt và sợ hãi.
Nếu chúng ta nhận biết đầy đủ trung tâm của mọi hành
động, chúng ta sẽ tạo nên một thay đổi kinh khủng trong
cách nhìn và trong những hoạt động của chúng ta. Nếu
chúng ta không hiểu được quá trình của hành động, thì việc
sửa sang lại toà nhà xã hội bằng những cải cách hay những
thay đổi kinh tế là điều hoàn toàn vô ích; điều đó có thể
đme lại vài kết quả nhưng đó chỉ là những phương thuốc
hời hợt.
Trên thế giới có rất nhiều sức mạnh hay những năng
lượng duy nhất, chúng hoạt động riêng biệt. Chúng ta chỉ
có thể hiểu được một cách căn bản và toàn vẹn cái quá
trình năng lượng duy nhất ở trung tâm của mỗi chúng ta, đó
là cái tôi (bản ngã). Đó là quá trình duy nhất mà chúng ta
có thể nhận biết được.
106
Để hiểu được quá trình của năng lượng duy nhất ấy, cái
tôi ấy, chúng ta cần phải có một sự nhận biết sâu sắc chứ
không phải những sự suy diễn và những phân tích của cái
trí. Chúng ta cần một cái trí có khả năng linh hoạt lớn. Một
cái trí chứa đầy những nhu cầu và sợ hãi, tạo ra những mặt
đối lập và bị vướng mắc trong những sự lựa chọn, không
thể nhận biết quá trình tinh vi của bản ngã, trung tâm của
mọi hành động. Như tôi đã giải thích, năng lượng này là
duy nhất, nó bị qui định đồng thời chính nó qui định những
thứ khác. Nó luôn luôn tạo ra sự hạn hẹp của chính nó bằng
hành động sinh ra từ sự ngu dốt của chính nó. Năng lượng
duy nhất này không có cái bắt đầu, và trong sự phát triển tự
động - tích cực của nó, đã trở thành ý thức, quá trình của
bản ngã.
Ý thức này luôn luôn tự qui định bởi những hành động
ý chí của chính nó; cái tôi này, quá trình ngu dốt này với
những ham muốn, sợ hãi, ảo tưởng chính là trung tâm của
hành động. Trung tâm này luôn luôn tự tái tạo không
ngừng và gây ra chính sự hạn hẹp của nó bằng hoạt động ý
chí, do đó luôn luôn tồn tại xung đột, phiền não, đau đớn.
Cần phải có một thay đổi cơ bản của ý thức ngay trong
trung tâm hành động ấy. Một kỉ luật đơn giản và quyền uy
của một lí tưởng không thể chấm dứt được phiền não và
bản ngã, cùng với sợ hãi và ảo tưởng của nó, là vô thường,
vậy nó có thể bị đánh tan.
Nhiều người trong các bạn tin rằng bản ngã là trường
tồn, thiêng liêng, rằng không có nó thì không thể có hoạt
động và tình thương, rằng sự chấm dứt quá trình bản ngã
chỉ dẫn đến sự huỷ diệt. Vậy trước hết bạn phải tìm hiểu
sâu xa trong chính mình để biết phải chăng quá trình bản
ngã là trường tồn hay vô thường. Cần phải biết bản chất
của nó là gì, sự hiện hữu của nó là gì. Đây là một nhiệm vụ
rất khó khăn, vì phần lớn các bạn đã được nuôi dạy trong
tín ngưỡng của một truyền thống tôn giáo, nó thúc đẩy bạn
bám chặt vào cái tôi và ngăn cản bạn nhận biết bản chất
thực của nó. Một vài người trong các bạn đã vứt bỏ những
tín ngưỡng tôn giáo chỉ để chấp nhận những giáo điều khoa
học cũng sẽ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm bản chất
thực của trung tâm hành động. Tìm kiếm một cách hời hợt
bản chất của cái tôi, hoặc khẳng định một cách cơ hội tính
thiêng liêng của nó đó là không hiểu bản chất của quá trình
bản ngã.
Bạn có thể tự mình thấy được cái tôi là gì, cũng như tôi
tự mình nhận thấy bản chất thật của nó. Khi tôi nói điều
này, không phải để khuyến khích bạn tin rằng tôi thấu hiểu
quá trình bản ngã. Chỉ khi nào bạn tự mình nhận biết nó,
quá trình ấy mới có thể chấm dứt.
Với sự chấm dứt quá trình bản ngã, sẽ có sự thay đổi
của ý chí, chỉ có nó mới chấm dứt được phiền não. Không
một hệ thống nào, không một kỉ luật nào có thể gây ra sự
biến đổi của ý chí. Bạn hãy trở nên có ý thức về quá trình
bản ngã. Nếu ta sáng suốt không lựa chọn, thì tình trạng nhị
nguyên (nó chỉ tồn tại trong hành động của ham muốn, ngu
dốt và sợ hãi) sẽ chấm dứt. Lúc ấy chỉ còn lại sự nhận biết
của người hành động, cùng với những kí ức, những ham
muốn, những sợ hãi và hành động của người ấy; trung tâm
hành động tự nhận biết mình mà không biến mình thành
đối tượng.
Việc kiểm soát đơn giản, hay sự ép buộc, một ý muốn
chế ngự một ý muốn khác, hay sự thay thế đơn giản, chỉ là
những biến đổi trong ý chí, không thể nào chấm dứt được
đau khổ. Sự thay đổi trong ý thức là sự thay đổi trong hạn
hẹp, là một sự qui định mới của tư duy, kết quả của nó là
những cải cách hời hợt. Nếu có sự thay đổi ý chí bằng cách
thấu hiểu quá trình bản ngã, lúc ấy có một trí tuệ, một trực
giác sáng tạo, chỉ có nó mới xác lập được những tương
quan hài hoà giữa các cá nhân với nhau và với môi trường.
Cùng với sự nhận biết quá trình ngu dốt là bản ngã, sẽ nảy
sinh ra sự sáng suốt. Đây là tính hồn nhiên của hành động
không lựa chọn, đó không phải là hành động xuất phát từ
sự lựa chọn, nó đè nặng lên một hành động và đem đối lập
với một phản ứng khác, một phản ứng này với một phản
ứng khác, một thói quen tư duy này bằng một thói quen tư
duy khác. Khi có sự hiểu biết toàn vẹn - tức là sự chấm dứt
- quá trình bản ngã, sẽ có cuộc sống thoát khỏi sự lựa chọn,
một cuộc sống viên mãn, đầy phúc lạc.
*******************************
Hỏi: Khi chúng ta gặp những người bị vướng mắc
trong tư duy tập thể và trong tâm lí của quần chúng, và họ
chịu trách nhiệm về phần lớn sự xáo trộn và xung đột ở
quanh chúng ta, làm thế nào để giúp họ cởi bỏ được tâm
trạng của quần chúng (của số đông) và chỉ cho họ sự cần
thiết của tư duy cá nhân?
Krishnamurti: Trước tiên bạn hãy tự mình cởi bỏ tâm lí
của số đông, của tình trạng không suy nghĩ tập thể. Giải
phóng tư tưởng của mình khỏi những ngu xuẩn tích luỹ
trong quá khứ là một nhiệm vụ khó khăn. Sự không suy
nghĩ và ngu xuẩn của những nhóm người cũng tồn tại trong
chúng ta. Chúng ta là quần chúng, có ý thức về những sự
ngu xuẩn và tàn ác của nó, nhưng chúng ta đặc biệt vô ý
thức về những định kiến đầy quyền uy, những giá trị giả
tạo và những lí tưởng rởm của nó. Trước khi có thể giúp
người khác cởi bỏ, bạn hãy tự mình giải thoát khỏi sức
mạnh lớn lao của những nhu cầu và sợ hãi nói trên. Nghĩa
là bạn phải tự mình biết những ngu xuẩn và những giá trị
nói trên, chúng qui định cuộc sống và hành động của bạn
như thế nào? Vài người trong các bạn ý thức được những
giá trị giả mạo lộ liễu của sự thù hận, nhưng sự chia chẻ và
bóc lột giữa những dân tộc, nhưng bạn đã không nhận biết
được những hạn hẹp ấy và bạn đã không tự thoát ra được.
Khi bạn bắt đầu thấy được những giá trị giả tạo trói buộc
bạn và hiểu được ý nghĩa của chúng, khi ấy bạn sẽ biết
được sự thay đổi khủng khiếp xảy ra trong bạn như thế nào.
Chỉ lúc ấy may ra bạn có thể thực sự giúp đỡ kẻ khác. Bạn
có thể không trở thành lãnh tụ của những số đông quần
chúng, bạn có thể không thực hiện được những cải cách
vang dội, nhưng nếu bạn thực sự nắm bắt được ý nghĩa của
những gì tôi nói, bạn sẽ trở thành một ốc đảo xanh tươi,
mát rượi trong một sa mạc nóng bỏng, giống như một ngọn
đuốc trong đêm tối.
*******************************
Hỏi: Vài người trong chúng tôi đã nghe ngài nói
chuyện trong mười năm, và mặc dù chúng tôi có thể thay
đổi chút ít như ngài đã nói, chúng tôi cũng không thay đổi
căn bản. Tại sao? Chúng tôi có nên đợi chờ sự đau khổ
thúc đầy chúng tôi không?
Krishnamurti: Tôi không nghĩ rằng các bạn cần phải
chờ cho sự đau khổ làm biến đổi các bạn một cách căn bản.
Hiện giờ các bạn đang đau khổ. Các bạn có thể không ý
thức về những xung đột và sợ hãi nhưng các bạn vẫn đau
khổ. Cái gì gây ra một sự biến đổi hời hợt, đó là cái ý nghĩ
tìm kiếm những phương thuốc giả tạo, trốn chạy và antoàn.
Một sự biến đổi sâu sắc của ý chí chỉ có thể thực hiện cùng
với sự thấu hiểu sâu sắc quá trình bản ngã. Chỉ điều đó mới
là sự viên mãn của trí tuệ và tình thương.
*******************************
Hỏi: Ngài nghĩ thế nào về tiến hoá?
Krishnamurti: Dĩ nhiên có những điều đơn giản và
những điều rất phức tạp: sự đơn giản và sự phức tạp lớn
của những hình thái; sự đơn giản và sự tinh vi lớn của tư
duy; cái bánh xe đơn giản cách đây mấy nghìn năm và
công cụ phức tạp ngày nay. Cái đơn giản trở thành phức
tạp, phải chăng đó là sự tiến hoá? Khi bạn nói về sự tiến
hoá, bạn không chỉ đơn giản nghĩ về sự tiến hoá của hình
thái, bạn nghĩ về sự tiến hoá tinh vi của ý thức mà bạn gọi
là cái tôi. Từ đó xuất hiện câu hỏi: phải chăng có một sự
phát triển, một sự liên tục trong tương lai đối với ý thức cá
nhân? Phải chăng cái tôi có thể trở thành cực kì thông
minh, trường tồn, bền vững? Cái gì có thể phát triển đều
không phải là trường tồn. Cái gì bền vững, chân thực, luôn
luôn đang trở thành. Đây là một vận động không lựa chọn.
Các bạn hỏi tôi liệu cái tôi sẽ phát triển, sẽ trở thành vinh
quang và thiêng liêng. Bạn dựa vào thời gian để làm giảm
bớt hay huỷ hoại sự đau khổ. Chừng nào cái trí còn liên hệ
với thời gian thì sẽ còn có xung đột và đau khổ. Chừng nào
ý thức còn tự tạo ra một lí lịch, chừng nào nó còn tự đổi
mới và tự tái lập bằng chính những hoạt động của nó do sự
sợ hãi gây ra và qui định nó theo thời gian, thì vẫn còn có
phiền não. Thời gian không thể giải thoát bạn khỏi phiền
não. Mong muốn, khao khát có được kinh nghiệm và cơ
hội, so sánh những kí ức, điều đó không thể sinh ra sự viên
mãn của cuộc sống, sự ngây ngất của chân lí. Sự ngu dốt
tìm cách kéo dài quá trình bản ngã; còn trí tuệ phát sinh
cùng với sự chấm dứt của ý thức hạn hẹp tự động - tích cực
tái lập mình. Một sự chồng chất phức tạp không phải là sự
khôn ngoan, không phải là trí tuệ. Sự chồng chất, sự tăng
trưởng, thời gian, đều không làm nảy sinh sự viên mãn của
đời sống. Không sợ hãi, đó là bắt đầu sự hiểu biết và sự
hiểu biết luôn luôn ở trong hiện tại.
*******************************
Hỏi: Như một tấm gương sống của người đã đạt đến
giải thoát, ngài là một nguồn cổ vũ kì diệu đối với chúng
tôi là những kẻ đang còn vướng mắc trong phiền não. Phải
chăng không có mối nguy là sự cổ vũ ấy trở nên một
chướng ngại, mặc dù chúng tôi không muốn?
Krishnamurti: Tôi hi vọng rằng tôi không trở thành một
tấm gương để các bạn noi theo, bởi lẽ tôi đang nói về quá
trình của phiền não và ngu dốt, về ảotưởng của cái trí, về
những giá trị giả tạo do sự sợ hãi gây ra, về sự tự do thuộc
phạm vi chân lí. Một tấm gương là một chướng ngại; nó
sinh ra từ sự ép buộc và sự bắt chước do nỗi lo sợ gây nên.
Bắt chước kẻ khác không phải là thấu hiểu chính mình.
Muốn tự hiểu bản thân, ta không nên theo bất cứ người
nào; ta không nên có những kí ức bó buộc, chúng ngăn trở
quá trình bản ngã tự bộc lộ với chính mình. Khi cái trí
chấm dứt sự trốn chạy đau khổ để trú ẩn trong những ảo
tưởng và những giá trị giả tạo, thì chính sự đau khổ ấy làm
nảy sinh sự thấu hiểu, vì ta không còn có những động cơ
giả tạo của khen thưởng và trừng phạt. Trung tâm của hành
động là sự ngu dốt và kết quả của nó là đau khổ. Noi gương
một người khác hay đưa cái trí vào kỉ luật theo quyền uy
của một lí tưởng, điều đó không đem lại sự viên mãn của
cuộc sống và phúc lạc của thực tại.
*******************************
Hỏi: Trên thế gian có cách nào để chấm dứt sự kinh
tởm ngu xuẩn mà chúng ta lại thấy tiếp tục một lần nữa ở
Tây Ban Nha?
Krishnamurti: Chiến tranh là vấn đề của nhân loại,
chúng ta làm cách nào để chấm dứt những sự tàn ác cá
nhân và tập thể?
Muốn khơi dậy một hành động quần chúng chống lại
những sự kinh khiếp, tàn ác và phi lí của nền văn minh hiện
đại, cần có sự thấu hiểu của từng con người.
Hãy bắt đầu bằng chính bạn. Hãy nhổ tận gốc những
định kiến và những ý muốn tàn ác, rồi bạn sẽ biết một thế
giới hạnh phúc. Hãy nhổ tận gốc những tham vọng cá nhân,
những sự khai thác tinh vi, ý muốn chiếm hữu, sự khao
khát thế lực của bạn. Lúc ấy bạn sẽ có một thế giới thông
minh và trật tự. Chừng nào còn có sự tàn ác và bạo lực của
con người, sự thù hận tập thể, thì vẫn còn lòng "ái quốc" và
những cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục.
Khi bạn nhận biết trách nhiệm cá nhân của bạn trong
hành động, lúc ấy sẽ có thể có hoà bình, tình thương và
những quan hệ hài hoà với người láng giềng của bạn. Lúc
ấy sẽ có khả năng chấm dứt sự khủng khiếp của chiến
tranh, sự kinh khiếp của con người giết hại con người.
Ngày 04/08/1936
**************************************************************************************************
Nói chuyện ở Madras
(Ấn Độ)
I(1)
Trong cái thế giới đầy xung đột và đau khổ này, chỉ
một sự thấu hiểu chân thật mới có thể thiết lập một trật tự
thông minh và một hạnh phúc bền vững. Muốn thức tỉnh
một tư duy thông minh cần phải có một cố gắng định
hướng đúng của từng con người, một cố gắng không xuất
phát từ những phản ứng cá nhân và những sự tưởng tượng
tuỳ hứng, từ những tín ngưỡng và những lí tưởng. Chỉ một
tư duy như vậy mới có thể tạo một tổ chức tốt cho cuộc
sống và những quan hệ chân thật giữa con người với xã
hội. Tôi sẽ cố gắng giúp các bạn, với tư cách là những con
người, suy nghĩ trực tiếp và đơn giản, nhưng các bạn phải
có một khao khát mãnh liệt để hiểu biết. Các bạn phải tự
giải thoát mình khỏi định kiến về lòng trung thành với
những tín ngưỡng và những giáo điều đặc biệt, cũng như
những định kiến có tác dụng làm cho sự ứng xử theo thói
quen của bạn phù hợp với những truyền thống không suy
nghĩ. Các bạn phải có ý muốn nóng bỏng của kinh nghiệm
và hành động, vì chỉ có hành động mới làm bạn thấy rõ
***1 Cuộc nói chuyện này cũng chứa đựng nội dung của cuộc nói chuyện ngày
25/12/1936***
rằng quyền uy, những tín ngưỡng, những lí tưởng là những
trở ngại rõ ràng đối với trí tuệ và tình thương.
Nhưng tôi e rằng phần lớn các bạn đến đây đơn giản
theo thói quen để nghe những câu chuyện này. Đây không
phải là một cuộc họp chính trị và tôi cũng không có ý định
kích động các bạn vào một vài hành động kinh tế, xã hội
hay tôn giáo nào. Tôi không muốn có đệ tử và không muốn
trở thành một lãnh tụ, cũng không muốn tạo ra một lí tưởng
mới. Tôi chỉ muốn chúng ta hãy thử cùng nhau suy nghĩ
một cách rõ ràng, lành mạnh, thông minh; và từ sự phát
triển của tư duy này nhất thiết sẽ xuất hiện hành động chân
chính; tư duy không nên tách rời hành động.
Sự hiểu biết đích thực về cuộc sống không thể nảy sinh
nếu còn có sự sợ hãi và sự ép buộc dưới một hình thức nào
đó. Sự hiểu biết sáng tạo về cuộc sống bị trở ngại khi tư
tưởng và hành động luôn luôn bị ngăn chặn bởi quyền uy,
quyền uy của kỉ luật, của khen thưởng và trừng phạt. Bằng
hành động sáng tạo, trực tiếp, bạn sẽ thấy rằng sự tìm kiếm
an toàn cá nhân tàn bạo nhất thiết sẽ dẫn đến sự bóc lột và
đau khổ. Chỉ bằng tư duy - hành động linh hoạt mới sản
sinh ra được cuộc cách mạng nội tâm toàn vẹn với những
khả năng về mối tương quan chân thật giữa con người với
nhau và với xã hội.
Vậy giải pháp cá nhân của chúng ta cho vấn đề phức
tạp của cuộc sống hiện tại là gì? Phải chăng chúng ta tiếp
cận cuộc sống với quan điểm đặc biệt của tôn giáo, của
khoa học hay của kinh tế? Chúng ta bám chặt một cách
không suy nghĩ vào một truyền thống cũ hay một truyền
thống mới? Phải chăng điều kì diệu phức tạp và tinh vi (là
cuộc sống) có thể hiểu được bằng cách chia nó ra thành
nhiều phần khác nhau: kinh tế, xã hội, tôn giáo, khoa học,
và gán cho phần này tất cả tầm quan trọng mà coi nhẹ
những phần khác?
Ngày nay người ta có cái mốt nói rằng: trước hết hãy
giải quyết vấn đề kinh tế rồi tất cả những vấn đề khác sẽ
được giải quyết. Nếu chúng ta coi cuộc đời là một quá trình
kinh tế đơn giản thì hành động sống trở nên một việc máy
móc, hời hợt và phá hoại. Làm sao chúng ta có thể nắm bắt
được quá trình tâm lí của cuộc sống, tinh vi như một ẩn số,
bằng cách nói rằng chúng ta trước hết phải giải quyết vấn
đề bánh mì? Việc lặp lại những công thức không cần phải
suy nghĩ nhiều.
Tôi không muốn nói rằng bánh mì không phải là một
vấn đề; đó là một vấn đề vô cùng lớn. Nhưng nếu chỉ nhấn
mạnh vào đó, làmcho nó trở thành mối quan tâm chủ yếu
của chúng ta, thì chúng ta đã tiếp cận sự phức tạp của cuộc
sống với một cái trí hạn hẹp và như vậy chỉ làm phức tạp
thêm vấn đề.
Nếu chúng ta theo tôn giáo, nghĩa là nếu cái trí của
chúng ta bị qui định bởi những tín ngưỡng và những giáo
điều, chúng ta chỉ làm cuộc sống phức tạp thêm. Chúng ta
cần xem xét cuộc sống với một trí tuệ sâu sắc, vậy mà phần
đông chúng ta tìm cách giải quyết những vấn đề của cuộc
sống với những cái trí bị qui định, chất chứa đầy những
truyền thống. Nếu bạn là người theo đạo Hindu, bạn sẽ tìm
cách hiểu cuộc sống thông qua những tín ngưỡng, những
truyền thống, những định kiến đặc biệt của đạo Hindu. Nếu
bạn là phật tử, là người theo chủ nghĩa xã hội hay là một
người vô thần, bạn sẽ tìm cách hiểu cuộc sống thông qua
tín ngưỡng riêng của bạn. Một cái trí bị qui định, bị giới
hạn thì không thể hiểu được vận động của cuộc sống.
Xin các bạn đừng tìm kiếm ở tôi một phương thuốc trị
bách bệnh, một hệ thống hay một cách ứng xử. Bởi vì tôi
coi những hệ thống, những cách ứng xử, những phương
thuốc trị bách bệnh là những chướng ngại cho sự hiểu biết
thông minh về cuộc sống.
Muốn hiểu được tính phức tạp của cuộc sống, cái trí
phải vô cùng linh hoạt và giản dị. Sự giản dị của cái trí
không phải là sự rỗng không của phủ định, không phải một
sự chối bỏ hay chấp nhận; đó là tình trạng viên mãn của sự
thấu hiểu. Đó là cảm nhận trực tiếp của một tư duy toàn
vẹn, không bị ngăn trở bởi những định kiến, bởi nỗi lo sợ,
bởi truyền thống hay uy quyền. Giảithoát cái trí khỏi những
hạn hẹp trên đây là mọt việc vất vả khó nhọc. Bạn hãy tự
mình chứng nghiệm nó rồi bạn sẽ thấy khó khăn như thế
nào để có được tư duy toàn vẹn, không bị qui định bởi
những thách thức của kí ức, cùng với quyền uy và kỉ luật
của nó. Vậy mà chỉ với tư duy như thế chúng ta mới có thể
thấu hiểu ý nghĩa của cuộc sống.
Xin các bạn hãy nhận biết việc có được một cái trí linh
động là quan trọng biết bao, một cái trí nhận biết những
phức tạp của nỗi lo sợ với những ảo tưởng của nó và được
hoàn toàn tự do, một cái trí không bị chế ngự bởi những
ảnh hưởng của môi trường. Trước khi chúng ta có thể hiểu
được ý nghĩa toàn vẹn của cuộc sống, những quá trình sinh
tử của nó, chúng ta phải giải phóng tư tưởng của mình khỏi
nỗi lo sợ; và để đánh thức tư duy sáng tạo ấy, chúng ta phải
trở nên có ý thức về cái gì là phức tạp, cái gì là hiện tại.
Có ý thức là gì? Đó không phải chỉ là nhận biết một
cách khách quan những mối tương thuộc phức tạp của cuộc
sống, mà còn là chứng nghiệm hoàn toàn những quá trình
tâm lí ẩn giấu và tinh vi từ đó phát sinh ra sự bối rối, niềm
vui, những cuộc đấu tranh và đau khổ. Phần đông chúng ta
tưởng mình có ý thức về những phức tạp khách quan của
cuộc sống. Chúng ta có ý thức về công ăn việc làm của
mình, về những ông chủ, về chính mình với tư cách là
những người thuê mướn hay làm thuê. Chúng ý thức về
những va chạm trong những mối quan hệ giữa chúng ta với
người khác. Tôi cho rằng sự nhận biết đơn giản về tính
phức tạp khách quan của cuộc sống không phải là ý thức
toàn vẹn. Chúng ta chỉ ý thức toàn vẹn khi nào chúng ta
liên hệ được một cách sâu sắc sự phức tâm lí với sự phức
tạp khách quan. Khi nào chúng ta có khả năng nối liền
bằng hành động, cái che giấu và cái được biết, thìchúng ta
bắt đầu có ý thức.
Trước khi chúng ta có thể đánh thức ở bản thân mình
cái ý thức toàn vẹn, mà chỉ có nó mới làm nảy sinh một
biểu hiện sáng tạo đích thực, chúng ta cần ý thức về cái
hiện tại, nghĩa là những định kiến, những nỗi lo sợ, những
xu hướng, những nhu cầu với nhiều biểu hiện và ảo tưởng
của chúng. Khi chúng ta ý thức như vậy, chúng ta thấy
được mối tương quan giữa cái hiện tại với những ý muốn
của chúng ta, chúng bị giới hạn và qui định bởi tư duy -
tình cảm của chúng ta, với những phản ứng, những ham
muốn, những hi vọng và những cuộc trốn chạy. Khi chúng
ta ý thức về cái hiện tại. lúc ấy sẽ có cảm nhận tức thì của
cái giả tạo. Cảm nhận về cái giả tạo này chính là chân lí.
Khi ấy không còn vấn đề lựa chọn, không còn cái thiện và
cái ác, cái giả và cái thật, cái thiết yếu và không thiết yếu.
Khi đã nhận biết cái hiện hữu thì cái giả và cái thật trở nên
rõ ràng, không có sự xung đột của lựa chọn.
Hiện giờ các bạn tưởng có thể lựa chọn giữa cái giả và
cái thật. Việc lựa chọn này dựa trên những định kiến; nó
được gợi ý bởi những lí tưởng đã được xác lập từ trước, bởi
truyền thống và hi vọng, bởi thế việc lựa chọn chỉ là một
cách thay đổi cái hiện tại mà không một ý muốn xác định
nào, thì ngay trong sự nhận biết cái giả đó đã bắt đầu có cái
thật. Đó là trí tuệ; nó không dựa trên những định kiến,
những truyền thống, những nhu cầu; chỉ có nó mới hoà tan
được bản chất vi tế của mọi vấn đề, một cách hồn nhiên,
phong phú, không có sự ép buộc của sự sợ hãi.
Nếu chúng ta có khả năng, thì hãy cố gắng phát hiện
xem cái hiện hữu là gì, không giải thích, không nhận định.
Khi tôi nói về những tín ngưỡng và những luận thuyết của
các bạn, về sự sùng bái của bạn, về các vị Thần của bạn, về
những lí tưởng và những lãnh tụ của bạn, khi tôi nói về căn
bệnh dân tộc chủ nghĩa và về các hệ thống bao gồm những
"minh sư", những bậc thầy, các bạn đừng phóng ra những
phản ứng tự vệ. Tôi chỉ cố gắng chỉ ra cái mà tôi xem là
nguyên nhân của những xung đột và phiền não.
Hành động xuất phát từ một tư duy toàn vẹn, không
xác định cũng không giải thích, sẽ đánh thức trí tuệ sáng
tạo. Nếu bạn là những nhà quan sát sâu sắc, bạn sẽ bắt đầu
thấy cái gì là thật; khi ấy bạn sẽ thức tỉnh trí truệ mà không
có sự xung đột liên tục của việc lựa chọn. Cách ứng xử rập
khuôn theo một mẫu mực là sự bắt chước chứ không có
sáng tạo. Hành động thông tuệ không phải là sự bắt chước.
Một tư duy bị qui định luôn luôn rập khuôn đúng theo
những mẫu mực, vì nó sợ sự tự biết nó là gì. Nếu bạn nhận
biết cái hiện hữu trong toàn bộ sự trong sáng của nó, như
nó là, không giải thích cũng không xác định, thì ngay
khoảnh khắc của sự nhận biết, liền xuất hiện bình minh của
một trí tuệ mới. Chỉ có trí tuệ này mới giải quyết được
những vấn đề của cuộc sống, dù chúng có phức tạp ghê
gớm và đau khổ đến đâu.
Vậy thì bức tranh của chính chúng ta và của thế giới là
gì? Sự chia chẻ giữa bản thân chúng ta với thế giới có vẻ
như là cái hiện tại, mặc dù sự chia chẻ đó biến mất khi
chúng ta xem xét thật sâu cá nhân con người và đám đông
quần chúng. Cái hiện tại là sự xung đột giữa cá nhân và
đám đông quần chúng, nhưng cá nhân con người là quần
chúng và quần chúng là cá nhân. Sự phân chia cá nhân với
quần chúng sẽ không còn khi những đặc trưng của cá nhân
và quần chúng biến mất. Trong con người, khía cạnh quần
chúng là sự ngu dốt, ham muốn, sợ hãi. Tất cả những vùng
chưa được khảo sát của ý thức, những trạng thái nửa thực
nửa tỉnh của cá nhân tạo thành quần chúng. Chỉ khi nào cá
nhân và quần chúng không còn tồn tại như những lực
lượng xung đột, lúc ấy mới có trí tuệ sáng tạo. Sự phân
chia giữa quần chúng và cá nhân chỉ là một ảo tưởng, nó
tạo nên sự rối loạn và đau khổ. Bạn không phải là con
người toàn vẹn, cũng không phải hoàn toàn là quần chúng;
bạn vừa là cá nhân vừa là quần chúng.
Trong ý nghĩ của số đông người có sự phân chia khổ sở
ấy, phânchia giữa con người với quần chúng. Một số người
nghĩ rằng nếu tổ chức quần chúng được thì sẽ thiết lập
được tự do và sự bộc lộ sáng tạo của cá nhân. Nếu bạn nghĩ
đến việc tổ chức quần chúng để nhằm giải phóng những
khả năng sáng tạo của con người, thì một tổ chức như vậy
sẽ trở thành một phương tiện bóc lột tinh vi.
Có hai hình thức bóc lột: lộ liễu và tinh vi. Sự bóc lột
lộ liễu đã trở thành quen thuộc, chúng ta biết nó và cho
qua, nhưng cần có một cảm nhận sâu sắc để nhận biết
những hình thái bóc lột tinh vi. Giai cấp chiếm hữu tài
nguyên bóc lột số lớn những người lao động. Tài nguyên
tập trung trong tay của thiểu số người, tạo ra những phân
biệt và chia rẽ xã hội; và bằng những sự chia rẽ ấy chúng ta
có chủ nghĩa dân tộc kinh tế và tình cảm, sự đe doạ chiến
tranh thường trực với tất cả những sự khủng khiếp và tàn
ác, sự chia rẽ dân chúng thành những chủng tộc và những
dân tộc với cuộc đấu tranh ác liệt của họ để mỗi dân tộc tự
thoả mãn nhu cầu cho mình, những hệ thống phân cấp đầy
mưu mô và những quyền ưu đãi theo đẳng cấp.
Toàn bộ những điều trên đây là lộ liễu và vì nó rõ ràng
nên các bạn đã quen với nó. Bạn nói rằng chủ nghĩa dân tộc
là không tránh khỏi, điều này mỗi dân tộc đều khẳng định
bằng cách chuẩn bị chiến tranh và tàn sát. Với tư cách
những con người, các bạn thúc đẩy chiến tranh một cách vô
ý thức khi các bạn nhấn mạnh quá mức những đặc trưng
dân tộc riêng biệt của mình. Chủ nghĩa dân tộc là một căn
bệnh dù là ở xứ này, ở châu Âu hay châu Mĩ. Một cá nhân
đi tìm kiếm sự an toàn, chỉ làm tăng thêm sự xung đột và
đau khổ của nhân loại.
Hình thái bóc lột tinh vi không dễ gì nhận biết được, vì
nó là quá trình gắn bó với sự tồn tại của cá nhân. Nó là kết
quả của sự tìm kiếm một đảm bảo chắc chắn, một tiện nghi
trong thế giới hiện đại và ở cõi bên kia. Cuộc tìm kiếm mà
chúng ta gọi là tìm kiếm chân lí, Thượng đế, đã dẫn đến
việc tạo ra những hệ thống bóc lột tinh vi mà chúng ta gọi
là tín ngưỡng, lí tưởng, giáo điều, và sự tiếp nối của chúng
bởi những thầy tu, những "minh sư", những nhà lãnh đạo
tâm linh. Bởi vì bạn, với tư cách là những con người, đang
vướng mắc trong sự rối rắm và nghi ngờ, nên bạn hi vọng
một người khác sẽ đem đến cho bạn sự giác ngộ. Bạn hi
vọng chế ngự phiền não và rối loạn bằng cách đi theo một
người khác, đi theo một hệ thống kỉ luật hay một lí tưởng
nào đó. Một mưu toan như vậy để chế ngự sự khốn khổ và
phiền não của bạn bằng cách khuất phục một kẻ khác, bằng
cách rập khuôn ứng xử của bạn theo một chuẩn mực được
qui định, đó chỉ là sự trốn chạy khỏi hiện tại. Như vậy khi
bạn tìm kiếm một lối thoát khỏi cái hiện tại, bạn lại tìm đến
một người khác để làm cho mình được phong phú và khích
lệ, và bằng sự việc đó chính bạn gây ra quá trình bóc lột
tinh vi. Tôn giáo như hiện nay, sống bằng sự sợ hãi và bóc
lột.
Có bao nhiêu người trong các bạn ý thức được sự việc
rằng họ tìm kiếm sự an toàn, rằng họ tìm cách trốn chạy
khỏi sự sợ hãi, rối loạn và đau khổ, không ngừng gặm
nhấm họ? Cái ý muốn được sự an toàn, sự đảm bảo chắc
chắn về tâm lí, đã khuyến khích một hình thức bóc lột tinh
vi bằng kỉ luật, bằng sự ép buộc, bằng uy quyền và truyền
thống.
Vậy bạn phải tự mình nhận biết quá trình tư duy - hành
động của chính bạn, nó được tạo nên bởi sự ngu dốt và sợ
hãi, chính nó làm nảy sinh sự bóc lột tàn bạo, sự rối loạn và
đau khổ. Nơi nào có sự hiểu biết thực tại, không có sự đấu
tranh chọn lựa, ở đó có tình thương và sự ngây ngất của
chân lí.
Ngày 06/12/1936
*******************************
II
Trong những phương thuốc, những hệ thống, những lí
tưởng, rất nhiều và rất nhiều mâu thuẫn với nhau, vậy
phương thuốc nào sẽ có thể thực sự chứa được những phức
tạp, những sự tàn ác trong xã hội và vô minh sâu thẳm của
chúng ta, đã tạo nên sự hỗn loạn và rối ren trên thế giới?
Có rất nhiều nhà huấn luyện với những phương pháp
của họ và nhiều nhà triết học với những hệ thống của họ.
Vậy làm thế nào lựa chọn cái đúng đắn, chân thực? Mỗi hệ
thống, mỗi nhà huấn luyện đều đặt tất cả tầm quan trọng
vào chỉ một phần của tổng thể cuộc sống con người.
Vậy làm thế nào để hiểu được toàn bộ quá trình của
cuộc sống và làm thế nào giải thoát cái trí để có thể cảm
nhận được chân lí? Mỗi lãn htụ có một nhóm riêng, xung
đột với một nhóm khác, với một lãnh tụ khác. Vậy là có sự
bất đồng ý kiến, rối ren, đảo lộn. Một vài nhóm trở nên tàn
ác, một số nhóm khác cố gắng trở nên độ lượng, rộng rãi vì
các lãn htụ bảo họ rằng: hãy vun bồi lòng độ lượng bởi vì
tất cả mọi con đường đều dẫn đến thực tại. Và như vậy,
bằng cách cố gắng phát triển tinh thần độ lượng, hữu nghị,
họ dần dần trở nên bàng quan, vô cảm và cả họ cũng tàn
nhẫn.
Trong một thế giới đầy rối ren, bất đồng ý kiến, khi
người ta quan niệm những tín ngưỡng, những lí tưởng của
mình một cách nghiêm túc, khi mà những vấn đề đó đều là
sinh tử, thì làm sao có được hợp tác thật sự giữa những
nhóm có đức tin khác nhau, làm việc vì những lí tưởng
khác nhau? Nếu bạn tin chắc chắn vào một lí tưởng nào đó,
và một kẻ khác với đức tin nóng bỏng, làm việc chống lại
bạn, thì làm sao có được sự độ lượng và tình thân ái giữa
hai người? Hay là ý tưởng mà mỗi người phải đi theo về
một phía là một ý tưởng sai?
Cái ý tưởng trau dồi tình hữu nghị và lòng độ lượng ở
giữa một môi trường xung đột phải chăng là giả đạo đức và
không thể được? Mặc dù những tín ngưỡng vững chắc của
bạn, mặc dù những xác tín và những hi vọng của bạn, phải
chăng bạn có thể thiết lập được mối quan hệ, dù là hời hợt,
của tình hữu nghị và lòng độ lượng với một kẻ thẳng thừng
chống đối quan điểm của bạn về cuộc sống? Nếu bạn có thể
làm được điều đó, thì cũng phải có một thoả hiệp, một sự
nhượng bộ về cái gì bạn cho là đúng, và như vậy bạn
nhượng bộ những kẻ mạnh hơn bạn về vật chất. Điều này
chỉ làm tăng thêm sự rối ren. Vun bồi lòng độ lượng chỉ là
một công trình của cái trí, vì vậy nó không có ý nghĩa sâu
sắc, nó sẽ dẫn đến sự không suy nghĩ và sự nghèo nàn của
con người.
Nếu bạn xem xét cuộc tuyên truyền đang diễn ra trên
thế giới bởi những dân tộc, những tầng lớp xã hội, những
nhóm, những môn phái, những cá nhân, bạn sẽ thấy rằng
mỗi người, theo một cách khác nhau, đều quyết tâm chuyển
đổi bạn theo quan điểm riêng của họ, theo tín ngưỡng của
họ. Phải chăng những người tuyên truyền cạnh tranh nhau
có thể thực sự trở thành những người bạn và có lòng độ
lượng với nhau một cách sâu sắc? Có thể được không?
Không. Không thể được. Vun bồi lòng độ lượng là quá
trình của cái trí, vậy nó là hời hợt và không thực tế. Điều
này không có nghĩa là tôi truyền giảng sự lên án hay một
hành động tàn ác nào đó do nguyên nhân của một tín
ngưỡng. Xin hãy theo dõi những gì tôi nói.
Chừng nào còn tồn tại sự truyền giáo ép buộc, sự kích
thích, sức ép tinh vi khiến cho con người phải gia nhập vào
một nhóm hay chấp nhận những tín ngưỡng đặc biệt, chừng
nào còn tồn tại những ý kiến đối lập, mâu thuẫn, thì không
thể có sự hài hoà hay hoà bình, mặc dù chúng ta có thể giả
vờ tỏ ra độ lượng và hữu nghị bằng cái trí. Bởi vì mỗi
người đều vụ lợi, đều nhiệt thành với những lí tưởng và
những phương pháp riêng của mình, đến mức họ muốn gấp
rút áp đặt chúng và như vậy sẽ tạo ra điều kiện cho xung
đột và rối ren. Điều này đã rõ ràng.
Nếu bạn là một người có suy nghĩ chín chắn và không
phải là một nhà tuyên truyền, bạn buộc phải thấy sự hời hợt
của những tiếng độ lượng và hữu nghị và buộc phải đối
diện trong cuộc chiến đấu dữ dội của những ý tưởng trái
ngược nhau, những hi vọng và những tín ngưỡng khác
nhau. Nói cách khác, bạn phải nhận thấy cái hiện tại, những
mối bất hoà, sự rối loạn bao quanh chúng ta. Nếu chúng ta
có thể gạt qua một bên ngôn ngữ dễ dãi về độ lượng và hữu
nghị, thì chúng ta có thể thấy được làm cách nào để hiểu
mối bất hoà. Có một lối thoát cho sự hỗn loạn, nhưng
không phải thông qua tình hữu nghị hời hợt hay lòng độ
lượng của cái trí. Chỉ có bằng một tư duy và một hành
động đúng mới chấm dứt được cuộc xung đột giữa các
nhóm và các ý tưởng đối lập.
Vậy tôi quan niệm ý tưởng đúng đắn là gì? Ý tưởng
này phải là sinh động (sinh tử), linh hoạt chứ không phải
máy móc hay bắt chước.
Người ta nói rằng một hệ thống đưa cái trí vào kỉ luật
theo một phương thức đặc biệt sẽ dẫn đến một cách suy
nghĩ tích cực. Bạn bắt đầu bằng cách tạo ra hay chấp nhận
một hình ảnh của cái trí, một lí tưởng, và để phù hợp với
cái đó, bạn phải bóp méo suy nghĩ của mình. Cách xu thời,
sự bắt chước nói trên được người ta cho là sự hiểu biết,
nhưng trên thực tế đó chỉ là sự khao khát an toàn, gây nên
bởi sự sợ hãi. Sự kích thích của sợ hãi chỉ dẫn đến tính xu
thời, còn kỉ luật sinh ra từ sự sợ hãi không phải là một tư
duy đúng.
Muốn đánh thức trí tuệ, bạn phải thấy cái gì ngăn cản
vận động sáng tạo của tư duy. Nếu bạn có thể tự mình thấy
rằng những lí tưởng, những tín ngưỡng, những truyền
thống, những giá trị luôn luôn bóp méo tư duy - hành động
của bạn, khi đó bạn sẽ có ý thức về những sự méo mó ấy và
bạn sẽ thức tỉnh trí tuệ. Không thể có một tư duy sáng tạo,
chừng nào còn tồn tại - một cách có ý thức hay vô ý thức -
những chướng ngại, những giá trị, những định kiến làm hư
hỏng tư duy. Thay vì chạy theo sự bắt chước, chạy theo
những hệ thống và những "minh sư", bạn phải trở nên có ý
thức về những chướng ngại, những định kiến và những thói
xu thời của bạn, và khi nhận biết được ý nghĩa của chúng,
bạn sẽ làm nảy sinh trí tuệ sáng tạo nói trên, chỉ có nó mới
xoá tan được sự rối ren và xây dựng được sự thấu hiểu và
hoà hợp sâu sắc.
Chướng ngại dai dẳng nhất là truyền thống. Bạn có thể
hỏi: cái gì sẽ xảy ra với thế giới nếu truyền thống bị phá
huỷ? Phải chăng sẽ có sự đảo lộn? Đó có phải là sự vô đạo
đức không? Những sự rối loạn, những cuộc xung đột, sự
đau khổ hiện giờ vẫn đang tồn tại mặc dù những truyền
thống và những giáo lí đạo đức của bạn vẫn được tôn vinh.
Bằng quá trình nào mà cái trí luôn luôn chồng chất
những giá trị, những kí ức, những thói quen mà chúng ta
gọi là truyền thống? Chúng ta sẽ không cảm nhận được quá
trình ấy chừng nào cái trí của chính chúng ta còn bị qui
định bởi sự sợ hãi và những nhu cầu, chúng thường xuyên
cắm rễ sâu vào ý thức chúng ta và trở thành những truyền
thống.
Cái trí có bao giờ được tự do thoát khỏi sự cắm rễ của
những giá trị, những truyền thống, những kí ức? Cái bạn
gọi là tư duy chỉ đơn giản là di động khỏi sự bám rễ hay
khỏi một trung tâm bóp méo đến một nơi khác, và từ trung
tâm ấy bạn phán đoán, lựa chọn và tạo ra những vật thay
thế. Cắm rễ trong sự hạn hẹp, bạn tiếp xúc với những ý
tưởng và những giá trị khác, chúng biến đổi một cách hời
hợt những tín ngưỡng bị qui định của bạn. Lúc ấy bạn tạo
ra một trung tâm khác của những giá trị mới, những kí ức
mới, chúng lại một lần nữa qui định tư duy và hành động
trong tương lai. Như vậy, luôn luôn ở trong những sự cắm
rễ ấy, bạn phán đoán, suy tính và phản ứng. Chừng nào còn
tiếp tục sự chuyển động từ nơi căn cứ này sang nơi khác,
thì vẫn còn có xung đột và đau khổ, không thể có tình
thương. Vun bồi một cách hời hợt tình hữu nghị và lòng độ
lượng chỉ có tác dụng khuyến khích vận động nói trên và
tăng cường thêm các ảo tưởng.
Tâm trí có bao giờ tự giải thoát được khỏi những trung
tâm của tư duy - tình cảm bị qui định? Nếu nó ngừng tạo ra
những nơi bám rễ để tự vệ, nó sẽ tạo điều kiện phát sinh
một tư duy trong sáng và một tình thương chân chính, chỉ
chúng mới có thể giải quyết nhiều vấn đề hiện nay, nảy
sinh ra từ sự hỗn loạn và khốn khổ. Nếu bạn bắt đầu có ý
thức về những trung tâm nói trên, bạn sẽ thấy chúng có sức
mạnh to lớn như thế nào để tạo ra những sự bất đồng và rối
ren. Chừng nào bạn không ý thức về điều đó, thì bạn vẫn bị
khai thác bởi những tổ chức, những lãnh tụ, họ hứa hẹn với
bạn những vật thay thế mới. Bạn học cách nói dễ dàng về
tình hữu nghị, lòng từ thiện, tình thương - những từ ngữ
chẳng có một ý nghĩa nào, chừng nào bạn chỉ làm cái việc
chuyển động từ sự biến dạng này sang một sự biến dạng
khác.
Hoặc là bạn nhận biết quá trình ngu dốt cùng với
truyền thống của nó và lúc ấy sẽ có hành động tức khắc;
hoặc là bạn đã quen thuộc với ma tuý của sự thay thế đến
nỗi không thể nhận biết được, và lúc ấy bạn bắt đầu tìm
kiếm một lối thoát. Sự nhận biết chính là hành động; nó
vốn không chia chẻ. Cái bạn gọi là nhận biết bằng cái trí
tạo nên một sự tách biệt giả tạo giữa tư duy và hành động.
Khi ấy bạn đấu tranh để vượt qua sự tách biệt ấy, một cố
gắng vô nghĩa, bởi vì chính sự thiếu hiểu biết đã tạo ra sự
chia chẻ hão huyền ấy. Bạn có thể ý thức hay không về quá
trình nói trên. Nếu bạn không ý thức được, bạn hãy xem xét
nó một cách sâu sắc, đầy nhiệt tình nhưng bạn đừng tìm
kiếm một phương pháp. Nhiệt tình hiểu biết ấy sẽ trở thành
ngọn đuốc trí tuệ, nó sẽ đốt cháy mọi ham muốn về sự thay
thế.
*******************************
Hỏi: Có bao giờ tôi sẽ cởi bỏ được sự đau khổ chăng?
Và bằng cách nào?
Krishnamurti: Sự đau khổ là bạn đồng hành của mỗi
người, của người giàu hay người nghèo, người có tín
ngưỡng hay người vô thần. Mặc dù tất cả những tín ngưỡng
và giáo lí của bạn, mặc dù những đền thờ và những Thượng
đế của bạn, sự đau khổ vẫn luôn luôn là bạn đồng hành.
Hãy hiểu biết nó và không nên chỉ nghĩ đến việc vứt bỏ nó.
Khi nào bạn thấu hiểu hoàn toàn sự đau khổ, lúc ấy bạn sẽ
không tìm kiếm một biện pháp để chế ngự nó.
Bạn có muốn vứt bỏ niềm vui, sự ngy ngất, niềm phúc
lạc không? Không. Vậy thì tại sao bạn nói rằng bạn cần
phải vứt bỏ sự đau khổ? Một bên là sự sung sướng, một
bên là sự đau khổ, và cái trí cứ bám víu vào điều gì dễ chịu,
và nuôi dưỡng nó. Bất cứ sự can thiệp nào của cái trí để
kích thích niềm vui và đè bẹp đau khổ cũng đều giả tạo, vô
tác dụng. Bạn tìm lối thoát cho nỗi khổ của bạn, và sẽ có
những người giúp đỡ bạn quên sự đau khổ bằng cách cho
bạn hi vọng của một tín ngưỡng, một giáo lí, một hạnh
phúc tương lai. Nếu cái trí không can thiệp vào niềm vui
cũng như nỗi khổ thì chính niềm vui ấy, chính nỗi khổ ấy
sẽ đánh thức ngọn lửa sáng tạo của sự thông tuệ.
Sự đau khổ chỉ là hội chứng của một tư duy bị qui
định, một tư duy bị giới hạn bởi những tín ngưỡng, những
nỗi lo sợ, những ảo tưởng, nhưng bạn đã phớt lờ sự cảnh
cáo liên tục ấy. Để quên đi nỗi khổ, để chế ngự nó, biến đổi
nó, bạn tìm nơi trú ẩn trong những tín ngưỡng, trong sự
cắm rễ để tự vệ, và trong sự an toàn. Cũng không khó khăn
lắm để không can thiệp vào quá trình của sự đau khổ (tôi
không muốn nói rằng phải nhẫn nhục chịu đựng nó hay
chấp nhận nó như một việc không thể tránh được, như một
"nghiệp", như một sự trừng phạt). Cũng như bạn không
muốn thay đổi một cảnh tuyệt diệu, ánh sáng của buổi mặt
trời lặn, hình ảnh một cây cổ thụ trên cánh đồng, vậy bạn
đừng đặt một vật chướng ngại cho vận động của sự đau
khổ. Hãy để nó chín muồi, bởi vì trong chính quá trình nảy
nở của nó là sự thấu hiểu. Khi bạn có ý thức về vết thương
của nỗi đau, mà không chấp nhận, không cam chịu hay
chối bỏ, không mời gọi nó một cách giả tạo, lúc ấy sự đau
khổ sẽ đánh thức ngọn lửa của trí tuệ sáng tạo.
Chính sự tìm kiếm lối thoát trước nỗi khổ tạo ra kẻ bóc
lột, và cái trí chịu khuất phục sự bóc lột. Chừng nào còn
tiếp tục quá trình giả tạo của sự can thiệp vào nỗi khổ, thì
nỗi khổ này vẫn luôn luôn là người đồng hành của bạn.
Nhưng trong sự sáng suốt sinh động, không lựa chọn,
không buông bỏ, hiện hữu một trí tuệ, chỉ duy nhất có nó
mới đánh tan được mọi sự rối loạn.
*******************************
Hỏi: Ngài dùng chữ "trí tuệ" với một ý nghĩa đặc biệt
như thế nào? Phải chăng đó là một sự phân cấp, có khả
năng tiến hoá và biến đổi liên tục?
Krishnamurti: Tôi dùng chữ trí tuệ để chỉ sự viên mãn
sinh động của tư duy - hành động. Trí tuệ không phải là kết
quả của một cố gắng căn bản, cũng không phải là một sự
nhiệt thành đầy tình cảm. Nó không phải là sản phẩm của
những lí thuyết, những tín ngưỡng hay những thông tin. Đó
là sự viên mãn của hành động nảy sinh ra từ sự thấu hiểu
không chia chẻ của tư duy - tình cảm. Trong những khoảnh
khắc hiếm hoi của tình yêu sâu sắc, chúng ta biết được
trạng thái viên mãn.
Trí tuệ sáng tạo không thể được mời gọi hay cân đo,
nhưng cái trí lại đi tìm những định nghĩa, những sự mô tả,
và nó luôn luôn vướng mắc trong ảo tưởng của những từ
ngữ. Sự sáng suốt không lựa chọn phát hiện ra, ngay ở
khoảnh khắc của hành động, những sự biến dạng ẩn giấu
của tư duy và tình cảm cùng với ý nghĩa sâu kín của chúng.
"Phải chăng đó là một sự phân cấp có khả năng phát
triển và biến đổi liên tục?" Cái gì được nhận biết toàn vẹn
thì không thể thay đổi, không thể phát triển hay lớn lên. Sự
hiểu biết quá trình bản ngã cùng với nhiều trung tâm tự vệ
của nó, việc nhận biết ý nghĩa của những nơi cắm rễ, là
không thể biến đổi, không thể thay đổi, phát triển, biến đổi,
tăng trưởng. Những trung tâm tự vệ khác nhau của cái trí
có khả năng lứon lên, thay đổi, biến đổi. Quá trình thay thế
không phải là trí tuệ, đó chỉ là một vận động trong cái vòng
của sự ngu dốt.
Ngọn lửa của trí tuệ, của tình thương chỉ có thể được
đánh thức khi nào cái trí ý thức sinh động về sự qui định tư
duy của chính nó, với những nỗi lo sợ, những giá trị, những
nhu cầu của nó.
Ngày 13/12/1936
*******************************
III
Tôi đã cố gắng giải thích thế nào là một tư duy trong
sáng và sáng tạo, và làm thế nào mà truyền thống, những
sự cắm rễ, nỗi lo sợ và sự an toàn luôn luôn ngăn trở sự vận
động tự do của tư tưởng. Nếu bạn muốn đánh thức trí tuệ
thì cái trí của bạn không nên trốn chạy trong những lí
tưởng và những tín ngưỡng, nó cũng không nên để bị
vướng mắc trong quá trình chồng chất những kí ức tự vệ.
Bạn phải ý thức về cuộc trốn chạy khỏi hiện tại đó, và ý
thức rằng bạn đang sống cái hiện tại với những giá trị của
quá khứ hay của tương lai.
Nếu bạn tự quan sát mình, bạn sẽ thấy cái trí xây dựng
cho chính nó một sự an toàn, những điều chắc chắn nhằm
để vứt bỏ nỗi lo sợ, phập phồng, những mối nguy. Cái trí
luôn luôn đi tìm kiếm những nơi cắm rễ, từ đó có thể phát
ra sự lựa chọn và hành động của nó.
Cái trí luôn luôn tìm kiếm và phát triển những hình thái
an toàn, với những giá trị và những ảo tưởng của chúng: sự
an toàn về của cải với những lợi ích cá nhân và quyền lực
của nó; sự an toàn về tín ngưỡng và lí tưởng; và sự an toàn
mà cái trí đi tìm kiếm trong tình yêu. Một cái trí an toàn
luôn phát triển những ngu xuẩn và ấu trĩ đặc biệt của chính
nó, tạo ra rối ren và đau khổ.
Khi cái trí bị lạc loài và khiếp sợ, nó đi tìm kiếm những
sự an toàn bất khả xâm phạm, chúng trở thành những lí
tưởng, những tín ngưỡng.
Tại sao nó lại tạo ra những nơi cắm rễ trong tín
ngưỡng, trong truyền thống, và bám chặt vào đó? Phải
chăng vì trở nên hoang mang dao động bởi những xung đột
và những biến đổi liên tục, nó đi tìm một cứu cánh, một
đảm bảo sâu sắc, một trạng thái không biến đổi? Tuy nhiên,
mặc dù có những nơi cắm rễ ấy, đau khổ và phiền não vẫn
tiếp tục. Lúc ấy cái trí bắt đầu tìm kiếm những vật thay thế,
những lí tưởng và những đức tin khác, hi vọng lại tìm thấy
sự an toàn và hạnh phúc. Nó đi từ hi vọng này đến hi vọng
khác, từ ảo ảnh này đến ảo ảnh khác. Quá trình lang thang
ấy, người ta gọi là phát triển, tăng trưởng.
Khi cái trí bị qui định trở nên có ý thức về sự đau khổ
và bất định, nó vội vàng đi vào trạng thái lắng đọng bằng
lối thoát trong những tín ngưỡng, những luận thuyết, những
hoài vọng. Những sự thay thế, những cuộc trốn chạy ấy chỉ
đem đến sự thất vọng.
Việc tìm kiếm an toàn chỉ là biểu hiện của nỗi lo sợ, nó
làm biến dạng tâm trí. Khi nào bạn thấy được ý nghĩa đích
thực của cuộc tìm kiếm an toàn của bạn trong một tín
ngưỡng hay trong một lí tưởng, lúc ấy bạn sẽ trở nên có ý
thức về sự sai lầm của nó. Lúc ấy cái trí đi tìm kiếm (trong
một phản ứng chống lại mọi tín ngưỡng và mọi lí tưởng)
một phản đề trong đó bó hi vọng tìm thấy sự ổn định và
hạnh phúc, nhưng đó chỉ là một cách khác để thoát khỏi
hiện tại. Cái trí cần ý thức được về cái thói quen vun bồi
những phản đề ấy.
Tại sao cái trí lại tự bảo vệ mạnh mẽ như vậy chống lại
vận động của cuộc sống? Một cái trí không nhạy cảm luôn
tìm kiếm những lợi ích của chính nó bằng những giá trị do
nó tự tạo ra, có thể nào hiểu biết được sự ngây ngất của
cuộc sống và sự viên mãn của tình thương? Cái trí tự biến
mình thành bất khả xâm phạm để khỏi phải đau khổ, tuy
nhiên chính sự bảo vệ ấy là nguyên nhân của đau khổ.
*******************************
Hỏi: Tôi có thể thấy rằng trí tuệ phải được độc lập khỏi
cái trí và cũng thấy được bất kì hình thức kỉ nào. Vậy phải
chăng có một cách để thúc đẩy sự thức tỉnh của trí tuệ và
làm cho nó trở thành thường trụ?
Krishnamurti: Không thể có được tình thương và trí tuệ
sáng tạo chừng nào mà còn có sự sợ hãi dưới một hình thức
nào đó. Nếu bạn hoàn toàn ý thức về nỗi lo sợ với nhiều
hoạt động và ảo tưởng của nó, thì chính ý thức ấy sẽ trở
thành ngọn lửa của trí tuệ.
Khi cái trí tự nó nhận biết những chướng ngại ngăn cản
tư duy trong sáng, thì không cần một kích thích giả tạo nào
để đánh thức trí tuệ. Một cái trí đi tìm kiếm một phương
pháp là cái trí chưa ý thức về chính mình, về sự ngu dốt và
những nỗi lo sợ của mình. Nó hi vọng giản đơn rằng, có
thể, một phương pháp, một kỉ luật sẽ đánh tan những nỗi lo
sợ và những đau khổ của nó. Kỉ luật chỉ có thể tạo ra một
thói quen, và như vậy nó bóp nghẹt cái trí. Có ý thức không
lựa chọn, ý thức về nhiều loại hoạt động của cái trí, về sự
phong phú, tinh tế, về những sai lầm và ảo tưởng của nó,
đó là có trí tuệ. Sự sáng suốt ấy đánh tan ngu dốt và sợ hãi.
Nếu bạn thực hiện một cố gắng để trở nên sáng suốt, cố
gắng ấy tạo ra một thói quen được kích thích bởi niềm hi
vọng thoát khỏi đau khổ. Nơi nào có trí tuệ sâu sắc và
không lựa chọn, nơi ấy sẽ có mặc khải, và chỉ có nó mới
ngăn chặn được cái trí tạo ra những ảo tưởng và tự ru ngủ
bằng cách đó. Nếu cái trí luôn luôn nhạy bén không có sự
đối lập giữa người quan sát và vật được quan sát, nếu nó có
thể tự nhận biết như nó hiện hữu, không phủ định cũng
không cam chịu, thì do sự kiện hiện tại đó xuất hiện tình
thương và trí tuệ sáng tạo.
*******************************
Hỏi: Tại sao lại có nhiều con đường của chân lí? Phải
chăng ý tưởng này là một ảo tưởng được khôn khéo hình
thành để biện minh cho sự khác nhau giữa những con
người?
Krishnamurti: Tư duy sáng suốt có thể có nhiều con
đường chăng? Phải chăng không một hệ thống nào có thể
đưa đến trí tuệ sáng tạo? Chỉ có trí tuệ sáng tạo chứ không
có một hệ thống nào để đánh thức nó. Chỉ có chân lí chứ
không có những con đường dẫn đến chân lí. Chính sự ngu
dốt tự nó dựng lên thành những con đường và những hệ
thống. Tôn giáo nào cũng khẳng định chỉ có mình nắm
được chân lí và duy nhất chỉ thông qua mình mới chứng
nghiệm được Thượng đế; nhiều tổ chức tôn giáo khẳng
định hay nói úp mở rằng nhờ những phương pháp đặc biệt
của họ có thể nhận biết được chân lí; môn phái nào cũng
khẳng định mình có thông điệp đặc biệt; chiếc xe đặc biệt
của chân lí. Những nhà tiên tri cá nhân và những sứ giả tâm
linh cung cấp phương thuốc bách bệnh của họ như những
thiên khải trực tiếp của Thượng đế. Tại sao họ lại đòi uy tín
và hiệu lực như vậy đối với những điều họ khẳng định? Có
phải rõ ràng không? Đó là những lợi nhuận của vốn đầu tư
trong hiện tại hay ở cõi bên kia. Họ buộc phải bảo vệ
những mưu mẹo để giữ vững uy tín và quyền uy của họ,
nếu không thì cái gì sẽ xảy đến với tất cả những tạo vật của
vinh quang trần thế của họ? Một số khác, do họ bị nghèo
nàn bởi sự từ bỏ và sự hi sinh, tưởng rằng họ đã lớn lên
trong vinh quang chói lọi và vì thế họ phải nắm lấy cái
quyền hướng dẫn tâm linh cho những người ở thế gian. Nói
rằng có nhiều con đường dẫn đến chân lí, là một trong
những cách giải thích dễ dãi về những quyền lợi tâm linh.
Bằng cách đó họ biện minh cho những hoạt động có tổ
chức của họ, đồng thời cũng cố gắng tỏ ra độ lượng với
những người dựng lên những hệ thống tương tự.
Như vậy, chúng ta bị lún sâu trong những định kiến và
những truyền thống, với những tín ngưỡng và những giáo
lí, đến nỗi chúng ta lặp lại một cách giáo điều và tự nguyện
rằng có nhiều con đường dẫn đến chân lí. Để đưa sự độ
lượng vào nhiều sự phân chia tư duy bị qui định và đối lập
nhau, các lãnh tụ của những quyền lợi có tổ chức tìm cách
che đậy, bằng những câu nói tuyệt vời, tính thô bạo vốn có
của sự phân chia. Chỉ riêng sự việc nói về những con
đường dẫn đến chân lí cũng là sự phủ nhận chân lí. Làm
sao có thể chỉ ra phương hướng của chân lí? Chân lí không
có nơi chốn, không thể đo lường, không thể tìm kiếm. Cái
gì cố định là chết, và để đi đến đó thì có rất nhiều con
đường. Sự ngu dốt tạo ra ảo tưởng về nhiều con đường và
nhiều phương pháp.
Bởi chính cái tư duy bị qui định của bạn, bởi chính
mong muốn có sự đảm bảo chắc chắn cùng cứu cánh, bởi
chính những nỗi lo sợ của bạn luôn tạo những điều an toàn,
giả tạo về chân lí, về sự hoàn thiện. Và sau khi đã sáng chế
ra cái đó, bạn tìm kiếm những con đường và những biện
pháp để xác lập nó. Mỗi tổ chức, phe nhóm, môn phái biết
rằng sự chia rẽ phủ định tình hữu nghị, nên cố gắng dẫn
đến một sự thống nhất và một tình hữu nghị giả tạo. Mỗi
người đều nói: Bạn theo đạo của bạn, tôi theo đạo của tôi;
bạn có chân lí của bạn, tôi có chân lí của tôi; những hãy
vun bồi lòng độ lượng. Một sự độ lượng như vậy chỉ có thể
dẫn đến ảo tưởng và rối rắm.
Một cái trí bị qui định bởi sự ngu dốt và sợ hãi không
thể hiểu được chân lí vì do bản thân nó bị hạn chế, nó tự
tạo ra những hạn chế mới. Chân lí không thể được mời gọi.
Cái trí không thể tạo ra chân lí. Nếu bạn hiểu biết điều ấy
một cách toàn vẹn, bạn sẽ nhận thấy tính phù phiếm hoàn
toàn của những hệ thống, những bài thực hành và những kỉ
luật.
Giờ đây bạn đã trở thành một bộ phận không tách rời
của quá trình tâm trí và máy móc về cuộc sống đến mức
bạn không thể thấy được nó là giả tạo, hoặc là bạn không
chịu thấy nó, bởi vì sự cảm nhận có nghĩa là hành động. Từ
đó xuất phát sự nghèo nàn của bạn trong nhân cách khi bạn
bắt đầu có ý thức về quá trình của tư duy và do nó tự tạo
cho nó sự trống rỗng và thất vọng, chính ý thức ấy sẽ đánh
tan sự sợ hãi. Khi đó sẽ có tình thương và sự viên mãn của
cuộc sống.
*******************************
Hỏi: Ngài có thấy chăng, rằng những ý kiến của ngài
chỉ có thể dẫn chúng tôi đến một kết quả: sự trống rỗng
của phủ định và sự bất lực trong cuộc đấu tranh của chúng
tôi với những vấn đề của cuộc sống?
Krishnamurti: Những vấn đề của cuộc sống là gì?
Kiếm ăn, yêu thương, không sợ hãi, không lo buồn, sống
hạnh phúc, lành mạnh, viên mãn. Đó là những vấn đề của
cuộc sống của chúng ta. Phải chăng tôi đã nói điều gì có thể
dẫn bạn đến sự phủ nhận, sự trống rỗng, có thể ngăn trở
bạn thấu hiểu sự khốn khổ của chính bạn và cuộc đấu tranh
của bạn? Phải chăng bạn chỉ đặt ra cho tôi câu hỏi ấy bởi vì
cái trí của bạn đã quen tìm kiếm cái gọi là một lời giáo
huấn tích cực? Tóm lại bạn muốn người ta nói với bạn phải
làm gì, người ta phải khuyên bạn chấp nhận những kỉ luật
nào đó, sao cho bạn có thể sống hạnh phúc và chứng
nghiệm ở Thượng đế. Bạn đã quen với chủ nghĩa thoả
thuận, với hi vọng một cuộc sống vĩ đại hơn và đầy đủ hơn.
Ngược lại tôi nói chủ nghĩa thoả thuận (rập khuôn) sinh ra
do sự sợ hãi và sự bắt chước ấy không phải là khía cạnh
tích cực của cuộc sống. Chỉ cho bạn thấy cái quá trình
trong đó bạn đang lún sâu, giúp bạn trở nên có ý thức về
cái nhà tù của sự hạn hẹp mà cái trí đã tạo ra cho chính nó,
đó không phải là sự phủ định. Ngược lại nếu bạn ý thức về
quá trình đã dẫn dắt bạn đến tình cảnh đau khổ và rối loạn
như hiện nay, và nếu bạn thấu hiểu ý nghĩa đầy đủ của nó
thì chính sự hiểu biết ấy sẽ đánh tan ngu dốt, sợ hãi và nhu
cầu. Chỉ lúc ấy may ra mới có được một cuộc sống viên
mãn và những mối tương quan chân thật giữa con người và
xã hội. Điều này làm sao có thể dẫn các bạn đến một cuộc
sống phủ định và vô hiệu quả?
Giờ đây bạn có cái gì? Một vài tín ngưỡng và lí tưởng,
một vài tài sản, một hai lãnh tụ để đi theo, một hơi thở cơ
hội của tình yêu, một cuộc đấu tranh và đau khổ liên tục.
Phải chăng đó là sự phong phú của đời sống, sự viên mãn
và ngây ngất?
Làm sao có được phúc lạc và thực tại trong khi tâm trí
còn vướng mắc trong sợ hãi? Làm sao có được sự bừng
sáng khi tâm trí đang còn tạo ra chính sự hạn hẹp và rối ren
của nó? Tôi nói: hãy xem xét những gì bạn đang có, hãy ý
thức về những hạn hẹp ấy, rồi chính ý thức ấy sẽ đánh thức
trí tuệ sáng tạo.
*******************************
Hỏi: Phải chăng bất cứ ai, bất kì lúc nào cũng có thể tự
giải thoát khỏi xung đột mà không cần biết đến sự tiến
hoá? Ngoại trừ chính bản thân ngài, ngài đã gặp một thí
dụ nào khác, một người mà đối với họ cái khả năng đã trở
thành một sự kiện hoàn thành?
Krishnamurti: Chúng ta đừng hỏi liệu có một người
nào khác đã tự giải thoát khỏi sự ngu dốt và xung đột. Phải
chăng bạn, người chứa chất đầy ảo tưởng và sợ hãi, bạn có
thể tự giải thoát khỏi đau khổ bất kì lúc nào? Phải chăng
với nhiều tín ngưỡng và nhiều giá trị, bạn có thể tự giải
thoát khỏi sự ngu dốt và nhu cầu? Cái ý tưởng về một sự
hoàn hảo trong tương lai chỉ là một ảo tưởng. Một cái trí
lười biếng luôn bám vào ý tưởng hài lòng về một sự trưởng
thành tuần tự và nó chất chứa cho bản thân nó sử dụng
nhiều luận thuyết có tính cách an ủi cổ vũ.
Phải chăng cuộc vận động từ kinh nghiệm này đến kinh
nghiệm khác có thể làm nảy sinh trí tuệ sáng tạo? Bạn đã
từng có nhiều kinh nghiệm. Nhưng kết quả ra sao? Từ tất
cả những kinh nghiệm ấy bạn chỉ làm cái việc chất chứa
chồng chất những kí ức tự vệ, chúng bảo vệ cái trí chống
lại vận động của cuộc sống.
Cái trí có thể nào trở nên ý thức, bất cứ lúc nào, về tình
trạng bị qui định của chính nó, và bắt đầu tự giải thoát khỏi
sự hạn hẹp của chính nó? Chắc chắn có thể được.
Bạn có thể chấp nhận điều ấy bằng cái trí, nhưng điều
ấy tuyệt đối không có một ý nghĩa nào nếu nó không đưa
đến hành động. Hành động bao hàm những sự va chạm,
những buồn phiền. Người láng giềng, gia đình, những ông
chủ, những giá trị của bạn, tất cả những cái đó tạo nên sự
đối lập. Vì vậy cái trí bắt đầu tránh né hiện tại và vun bồi
những luận thuyết tinh vi và khéo léo về đề tài sự hoàn hảo
của chính nó. Cái trí bị qui định, vì lo sợ, kết quả sự cố
gắng của nó, nó bèn trốn chạy một cách tinh vi trong ảo
tưởng về một sự hoàn hảo sẽ được thực hiện vào ngày hôm
sau.
Ngày 20/12/1936
*******************************
IV(2)
Trong những buổi nói chuyện của tôi, tôi thường dùng
những từ ngữ mà không cho chúng một ý nghĩa đặc biệt mà
các nhà triết học và tâm lí học đã gán cho chúng.
Những buổi nói chuyện ấy đã đem đến cho bạn sự hiểu
biết như thế nào? Phải chăng bạn vẫn còn khẳng định về sự
tồn tại của một đấng linh thiêng, một tình thương ở bên kia
cõi đời người? Phải chăng bạn vẫn luôn luôn mò mẫm tìm
kiếm những phương thuốc từng phần, những biện pháp hời
hợt? Trạng thái của trí và tâm bạn như thế nào?
Muốn thiết lập một trật tự thông minh cần suy nghĩ
đúng và hành động đúng. Khi cái trí có khả năng thấu hiểu
chính quá trình đấu tranh của nó, tình trạng hạn hẹp, khi tư
duy có khả năng tự bộc lộ với chính mình mà không có
***2 Nội dung những buổi nói chuyện ngày 26 - 27/12/1936 cũng nằm trong cuộc
nói chuyện IV***
xung đột của sự chia chẻ, lúc ấy có sự viên mãn của hành
động. Khi cái trí chuẩn bị cho hành động, sự chuẩn bị ấy
nhất thiết dựa trên quá khứ, trên những kí ức tự vệ và do đó
nó ngăn cản tính toàn vẹn của hành động. Sự phân tích đơn
giản hành động đã qua không thể bộc lộ ý nghĩa đầy đủ của
nó. Một cái trí, có ý thức hay vô ý thức, rập khuôn vào một
lí tưởng (và một lí tưởng chỉ là sự phóng chiếu của an toàn
và thoả mãn cá nhân) nhất thiết hạn chế hành động và như
vậy tự qui định chính nó. Nó chỉ làm cái việc phát triển
những kí ức và những thói quen tự vệ để chống lại cuộc
sống. Như vậy luôn luôn có sự thất vọng.
Từ sự chồng chất những kí ức tự vệ sinh ra thực thể,
khái niệm về bản ngã, sự trường tồn của nó và sự phát triển
đi đến hoàn hảo, đi đến chân lí. Bản ngã tìm cách tự duy trì
nhờ những hoạt động ý chí của nó. Nhờ sự ngu dốt, sự sợ
hãi và những nhu cầu của nó chừng nào cái trí chưa ý thức
được những giới hạn ấy, thì cố gắng của nó để tiến hoá, để
thành công, chỉ tạo thêm những đau khổ mới và tăng
trưởng tình trạng vô ý thức. Như vậy cố gắng trở thành một
thủ tục, một kỉ luật, một sự lắp ráp cơ học, một thói xu thời.
Phần đông chúng ta tưởng rằng thời gian và sự phát
triển do tiến hoá là cần thiết cho sự hoàn thiện con người.
Chúng ta nghĩ rằng cần có những kinh nghiệm cho sự nảy
nở và tăng trưởng của chúng ta. Nhiều người bằng lòng
chấp nhận ý tưởng đó, vì nó cổ vũ họ trong ý nghĩ rằng họ
có nhiều kiếp sống để có thể tự hoàn thiện; họ nghĩ rằng
thời gian là cần thiết cho sự hoàn thiện của họ. Có phải như
vậy không? Có phải thật sự kinh nghiệm giải phóng tư duy
hay chỉ làm cho nó hạn hẹp thêm? Phải chăng kinh nghiệm
có thể giải phóng cái trí khỏi những kí ức tự vệ, sự ngu dốt,
sợ hãi, và tham lam? Những kí ức tự vệ và những ham
muốn sử dụng những kinh nghiệm để tự duy trì. Như vậy
chúng ta là những kẻ nô lệ của Thời gian.
Chúng ta gọi kinh nghiệm, đó là gì? Phải chăng đó
không phải là sự chồng chất của những giá trị dựa trên
những kí ức tự vệ, chúng gợi ý cho ta một cách ứng xử thế
nào để lợi cho cá nhân mình? Đó là quá trình của sự lựa
chọn dựa trên sự thích thú và không thích thú. Sự chồng
chất những kí ức tự vệ là quá trình của kinh nghiệm, và
những mối tương quan giữa con người của chúng ta là sự
tiếp xúc giữa hai kí ức cá nhân, tự vệ, mà chân lí là một
cam kết có đi có lại nhằm tôn trọng những gì chúng ta
chiếm hữu.
Bạn là con đường của chính bạn và là cuộc sống của
chính bạn. Trí tuệ sáng tạo sẽ xuất hiện từ sự cố gắng thấu
hiểu của chính bạn. Chừng nào còn chưa xuất hiện trí tuệ
sáng tạo, sinh ra từ sự sáng suốt không lựa chọn, thì nhất
thiết vẫn còn có sự đảo lộn, tranh chấp, thù hận, xung đột
và đau khổ.
*******************************
Hỏi: Ngài đã nói rằng sự hiểu biết chân lí chỉ có thể
thông qua chứng nghiệm. Mà chứng nghiệm có nghĩa là
hành động, và nếu hành động có một giá trị nào đó thì nó
phải được gợi ra bởi một tư duy chín chắn. Nhưng nếu khi
bắt đầu, tư duy của tôi chính nó đã bị qui định bởi những kí
ức và những phản ứng, làm sao tôi có thể thực sự chứng
nghiệm được?
Krishnamurti: Muốn chứng nghiệm một cách thực sự,
cái trí phải ý thức về việc tư duy của nó bị qui định. Người
ta có thể tưởng rằng mình chứng nghiệm, nhưng nếu ta
không ý thức về những hạn hẹp, là ta hành động trong sự tù
hãm của ngu dốt và sợ hãi. Tư duy bị qui định không thể
biết nó bị qui định; ý muốn thoát ra khỏi sự hạ nhẹp ấy
bằng phân tích, bằng quá trình giả tạo của sự ép buộc, bằng
phủ định hay khẳng định, sẽ không đem đến cho bạn sự
hiểu biết và tự do. Không một hệ thống nào, không một sự
ép buộc nào của ý chí có thể bộc lộ cho cái trí biết được sự
hạn hẹp của chính nó, tình trạng nô lệ của nó.
Khi có sự đau khổ, cái trí tìm kiếm một lối thoát và hệ
quả là nó chỉ tạo ra những ảo tưởng mới. Nhưng nếu cái trí
ý thức đầy đủ về sự đau khổ và không tìm cách trốn chạy,
thì chính ý thức ấy đánh tan ảo tưởng; sự sáng suốt ấy là sự
thấu hiểu. Vậy thay vì hỏi, làm cách nào để giải thoát tư
duy khỏi sự sợ hãi và nhu cầu, bạn hãy ý thức về sự đau
khổ. Sự đau khổ là tín hiệu về tình trạng bị qui định của cái
trí, và nếu chỉ giới hạn ở sự trốn chạy thì chỉ làm tăng thêm
sự hạn hẹp. Ngay trong lúc đau khổ, hãy bắt đầu trở nên
sáng suốt; khi ấy cái trí chính nó sẽ nhận biết bản chất hão
huyền của sự trốn chạy, của những kí ức tự vệ và những lợi
ích cá nhân.
*******************************
Hỏi: Chúng ta có cần phải tôn trọng nhiệm vụ phải
hoàn thành không?
Krishnamurti: Ai đã đặt câu hỏi này? Đây không phải
một người đang tìm kiếm sự thấu hiểu, chân lí, mà là một
người có cái trí chất chứa đầy những sợ hãi, những truyền
thống, những lí tưởng và sự trung thành với chủng tộc. Một
cái trí như vậy khi tiếp xúc với vận động của cuộc sống, sẽ
tạo ra cho chính nó những va chạm và phiền não.
*******************************
Hỏi: Những người lớn phải chăng họ có lỗi là bóc lột
khi họ đòi hỏi ở lớp trẻ sự kính trọng và vâng lời?
Krishnamurti: Bày tỏ sự kính trọng đối với những
người có tuổi, nói chung là một thói quen. Sự sợ hãi có thể
bao hàm hình thức của sự sùng bái. Tình thương không thể
trở thành một thói quen, một thủ tục. Người có tuổi không
tôn trọng lớp trẻ và lớp trẻ cũng không tôn trọng những
người già, mà chỉ có những biểu hiện của quyền uy và thói
quen của sự sợ hãi.
Viêc sắp xếp, tổ chức những câu nói, sự vun trồng, trau
giồi lòng tôn kính, không phải là văn hoá đích thực, mà chỉ
là những cái bẫy cho những kẻ không suy nghĩ. Tâm trí
chúng ta đã trở thành nô lệ cho những giá trị quen thuộc
đến mức chúng ta đã đánh mất cả tình thương và sự kính
trọng sâu sắc đối với sự sống con người. Nơi nào có bóc
lột, ở đó không thể có sự tôn trọng nào đối với nhân cách.
Nếu bạn đòi hỏi sự tôn trọng đơn giản chỉ vì bạn lớn tuổi
và bạn có uy quyền, đó là sự khai thác.
*******************************
Hỏi: Nếu một người đang trong tình trạng ngu dốt hay
hoang mang về vấn đề anh ta phải làm gì, có cần một
"minh sư" để giúp đỡ anh ta không?
Krishnamurti: Ai có thể giúp bạn vượt qua sự trống
rỗng cháy bỏng của cuộc sống ngày thường? Dù có vĩ đại
đến đâu, một người có thể nào giúp bạn thoát ra khỏi sự rối
ren ấy? Không thể được. Sự rối loạn ấy tự nó tạo ra chính
nó; sự hỗn loạn ấy là kết quả của những ý chí xung đột
nhau. Ý chí là sự ngu dốt.
Tôi biết rằng việc theo đuôi những minh sư, những nhà
huấn luyện, hướng dẫn, những bậc thầy, là môn thể thao
mà nhiều người tập trong phòng của họ, môn thể thao của
những người không suy nghĩ trên toàn thế giới. Họ nói:
Làm sao chúng ta có thể ngăn chặn sự xáo trộn của tình
cảnh khổ cực và tàn ác này, nếu như những người được tự
do đầy trí tuệ không đến giúp chúng ta để cứu chúng ta ra
khỏi phiền não? Hoặc là họ tạo ra trong trí một hình ảnh về
một vị thánh yêu thích và đem tất cả những nỗi khổ của họ
quàng vào cổ vị thánh ấy. Hoặc là họ tưởng rằng một người
hướng dẫn siêu hình nào đó luôn chăm chút cho họ và bảo
cho họ phải làm gì, phải hành động như thế nào. Tìm kiếm
một "minh sư", một bậc thầy là dấu hiệu trốn tránh cuộc
sống.
Sự dập khuôn là cái chết. Đó chỉ là hình thành một thói
quen, tăng cường sự vô ý thức. Đã bao lâu chúng ta chứng
kiến một cảnh tượng kinh khủng và tàn ác và chúng ta lánh
xa! Chúng ta nhìn thấy cảnh nghèo đói, tàn bạo, suy đồi
dưới một hình thức; đầu tiên điều đó làm chúng ta run lên,
rồi sau đó chúng ta trở thành vô ý thức.
Chúng ta thích nghi với môi trường của mình, chúng ta
nhún vai và tự nhủ: chúng ta có thể làm gì được? Đó là
cuộc sống. Như vậy chúng ta huỷ hoại tính nhạy cảm của
mình đối với cái xấu, sự bóc lột, sự tàn bạo và đau khổ
đồng thời chúng ta cũng huỷ hoại khả năng nhận biết và sự
cảm nhận thích thú sâu sắc về cái đẹp. Như vậy sự cảm
nhận tàn tạ dần dần.
Thói quen dần dần bóp chết tư duy. Hãy quan sát hoạt
động tư duy của chính mình và bạn sẽ thấy nó tự hình
thành do những thói quen kế tiếp như thế nào. Như vậy cái
ý thức trở thành vô ý thức, và thói quen làm chai cứng cái
trí bởi ý chí và kỉ luật. Bắt buộc cái trí khuất phục kỉ luật
bằng sự sợ hãi mà chúng ta thường hiểu nhầm là tình
thương, điều đó gây ra thất vọng.
Vấn đề về các minh sư xuất hiện khi bạn đi tìm kiếm
sự tiện nghi, khi bạn mong muốn sự hài lòng. Không có sự
tiện nghi mà có sự hiểu biết, không có sự hài lòng mà có sự
nảy nở.
*******************************
Hỏi: Dường như ngài đưa ra một định nghĩa mới về ý
chí, một phẩm chất thiêng liêng trong con người, tôi nhận
thấy ngài coi nó như một trở ngại. Có phải vậy không?
Krishnamurti: Bạn hiểu ý chí như thế nào? Phải chăng
đó chẳng phải là một sự chế ngự, chinh phục, một cố gắng
quyết định? Bạn cần chinh phục cái gì? Những thói quen
của bạn, những sự chống đối phát triển bởi nỗi lo sợ, sự
xung đột của những ham muốn, cuộc đấu tranh của những
mặt đối lập, sự thất vọng bởi những người xung quanh bạn.
Khi ấy bạn phát triển ý chí; ý chí hiện hữu, trong toàn bộ ý
nghĩa của nó, chỉ là một quá trình chống đối, một quá trình
chế ngự, thúc đẩy bởi nỗi khao khát tự vệ.
Thực ra ý chí là một sự cần thiết hão huyền của sự sợ
hãi, nó không phải là một phẩm chất thiêng liêng, nó chỉ là
sự kéo dài của những kí ức tự vệ. Vì bạn lo sợ nên bạn
muốn trở thành không thể tổn thương (không nhạy cảm)
bởi tình thương, với chân lí; và sự phát triển của quá trình
tự vệ, ta gọi nó là ý chí. Ý chí bám rễ trong sự vị kỉ. Cái ý
chí hiện hữu, ý chí trở thành hoàn hảo, ý chí thành công, ý
chí thâu đoạt, ý chí tìm thấy Thượng đế, tất cả cái đó được
thúc đẩy bởi lòng vị kỉ.
Khi hành động của sự sợ hãi, của tham vọng, của sự an
toàn, của phẩm hạnh cá nhân và của tính cách, chịu rút lui
trước trí tuệ, khi đó bạn sẽ biết sống một cách viên mãn,
toàn vẹn, không có sự đấu tranh của ý chí.
Ý chí chỉ là sự kích thích dai dẳng của những kí ức tự
vệ, kết quả của sự ngu dốt và sợ hãi được cá nhân hoá. Sự
chấm dứt ý chí không phải là cái chết, nó chỉ là sự chấm
dứt của ảo tưởng phát sinh từ ngu dốt. Chỉ có hành động
cởi bỏ khỏi nỗi lo sợ và những tương quan hài hoà và sáng
tạo giữa người này với người khác, giữa cá nhân và xã hội.
Ngày 28/12/1936
END
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro