Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Bản chất con người

Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người

a) Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã

hội

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời

khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.

Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó,

bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó.

Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì

vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận

của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.

Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất

quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế

giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác

nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao

động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy... Những

quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã

hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.

Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người

một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là

lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý

thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt

đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư

liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định.

Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra

chính đời sống vật chất của mình"1.

Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự

nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ

giới tự nhiên"2.

Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động

sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt

động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời

sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi

vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời

hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.

Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con

người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với

nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường,

quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định phương diện

sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động

trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý

chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.

Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong

đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã

hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời

sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm;

nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.

Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt

sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con

người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã

hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải

được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội

không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau,

hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.

b) Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những

quan hệ xã hội

Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên

thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã

hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều

mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao

trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con

người.

Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi

tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một

cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con

người là tổng hoà những quan hệ xã hội"1.

Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều

kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một

điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó,

bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần

để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ

xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá

nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.

Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ

nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại

trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con

người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ

xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt

tự nhiên, cái sinh vật ở con người.

c) Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.

Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh

Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.

C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản

phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những

con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo

dục"1. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật

cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần

của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng

làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn

ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người

càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự

mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu"2.

Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động

vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch

sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì

trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự

nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.

Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con

người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân

con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người,

vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy

luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã

hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.

Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó,

không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.

Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát

triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện

lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất

con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều

kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai

trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản

chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động

và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận

động và biến đổi của bản chất con người.

Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho

hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi

trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm

đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông

đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên

nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người,

sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con

người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn

cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #tuxgame