bai hoc cuoc song_song ngu
True Generosity
When a tornado touched down in a small town nearby, many families were left devastated. Afterward, all the local newspapers carried many human-interest stories featuring some of the families who suffered the hardest.
One Sunday, a particular picture especially touched me. A young woman stood in front of a totally demolished mobile home, an anguished expression twisting her features. A young boy, seven or eight years old, stood at her side, eyes downcast. Clutching at her skirt was a tiny girl who stared into the camera, eyes wide with confusion and fear.
The article that accompanied the picture gave the clothing sizes of each family member. With growing interest, I noticed that their sizes closely matched ours. This would be a good opportunity to teach my children to help those less fortunate than themselves. I taped the picture of the young family to our refrigerator, explaining their plight to my seven-year-old twins, Brad and Brett, and to three-year-old Meghan.
"We have so much, and these poor people now have nothing," I said. "We'll share what we have with them."
I brought three large boxes down from the attic and placed them on the living room floor. Meghan watched solemnly as the boys and I filled one of the boxes with canned goods and other nonperishable foods, soap and other assorted toiletries.
While I sorted through our clothes, I encouraged the boys to go through their toys and donate some of their less favorite things. Meghan watched quietly as the boys piled up discarded toys and games.
"I'll help you find something for the little girl when I'm done with this," I said.
The boys placed the toys they had chosen to donate into one of the boxes while I filled the third box with clothes. Meghan walked up with Lucy, her worn, faded, frazzled, much-loved rag dollhugged tightly to her chest. She paused in front of the box that held the toys, pressed her round little face into Lucy's flat, painted-on-face, gave her a final kiss, then laid her gently on top of the other toys.
"Oh, honey," I said. "You don't have to give Lucy. You love her so much."
Meghan nodded solemnly, eyes glistening with held-back tears. "Lucy makes me happy, Mommy. Maybe she'll make that other little girl happy, too."
Swallowing hard, I stared at Meghan for a long moment, wondering how I could teach the boys the lesson she had just taught me. For I suddenly realized that anyone can give their cast-offs away. True generosity is giving that which you cherish most.
Honest benevolence is a three-year-old offering a treasured, albeit shabby doll to a little girl she doesn't know with the hope that it will bring this child as much pleasure as it brought her. I, who had wanted to teach, had been taught.
The boys had watched, open-mouthed, as their baby sister placed her favorite doll in the box. Without a word, Brad rose and went to his room. He came back carrying one of his favorite action figures. He hesitated briefly, clutching the toy, then looked over at Meghan and placed it in the box next to Lucy.
A slow smile spread across Brett's face, then he jumped up, eyes twinkling as he ran to retrieve some of his prized Matchbox cars.
Amazed, I realized the boys had also recognized what little Meghan's gesture meant. Swallowing back tears, I pulled all three of them into my arms.
Taking the cue from my little one, I removed my old tan jacket with the frayed cuffs from the box of clothes. I replaced it with the new hunter green jacket I had found on sale last week. I hoped the young woman in the picture would love it as much as I did.
It's easy to give that which we don't want anymore, but harder to let go of things we cherish, isn't it? However, the true spirit of giving is to give with your heart.
Sự hào phóng đích thực
Khi cơn bão ập đến khu thị trấn nhỏ ở gần nhà tôi, rất nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn cùng. Ngay sau đó, các báo địa phương đều đăng tải những câu chuyện thương tâm về một số gia đình chịu hậu quả nặng nề nhất từ cơn bão.
Ngày chủ nhật nọ, một bức ảnh đập vào mắt tôi. Một phụ nữ trẻ đang đứng trước căn nhà lưu động đã bị bão phá huỷ, vẻ đau khổ hằn trên gương mặt chị. Một cậu bé chừng bảy, tám tuổi gì đó đứng cạnh, ánh mắt cúi xuống. Nắm chặt váy người mẹ là một bé gái nhìn chằm chằm vào máy ảnh, đôi mắt em mở rộng đầy lo lắng và hoảng sợ.
Bài báo kèm theo bức ảnh đó rất gần gũi với từng thành viên trong gia đình tôi. Bằng sự cảm thông sâu sắc, tôi nhận thấy gia đình họ có nhiều điểm tương đồng với gia đình mình. Đây sẽ là dịp phù hợp để dạy các con tôi về việc cần phải giúp đỡ những người kém may mắn hơn chúng. Tôi buộc bức ảnh của gia đình đó lên chiếc tủ lạnh trong nhà và bắt đầu giải thích về cảnh ngộ của họ với hai đứa con sinh đôi lên bảy là Brad và Brett và cô con gái ba tuổi Meghan.
“Chúng ta thì có quá nhiều trong khi những người nghèo khổ này thì chẳng có gì”, tôi nói. “Chúng ta sẽ chia sẻ với họ những gì ta có”.
Tôi lấy trên gác mái xuống ba chiếc hộp lớn và đặt trên sàn nhà phòng khách. Meghan đứng nhìn nghiêm nghị khi các anh và mẹ chất đầy một hộp các loại hàng hoá đóng hộp, các loại thực phẩm không bị hỏng, xà phòng và nhiều vật dụng tắm giặt đủ loại khác.
Lúc tôi phân loại quần áo của cả nhà, tôi khuyến khích các con xem qua đống đồ chơi của chúng để đem tặng những thứ chúng không thích nữa, Meghan im lặng quan sát khi các anh chất đống những đồ chơi đã bỏ xó từ lâu.
“Mẹ sẽ giúp con tìm thứ gì đó cho cô bạn gái đó khi mẹ làm xong việc này”, tôi nói.
Hai con trai tôi bỏ tất cả số đồ chơi chúng đã chọn để cho đi vào một chiếc hộp trong khi tôi bỏ đống quần áo vào hộp thứ ba. Lúc đó bé Meghan bước tới, ôm sát ngực Lucy, con búp bê nhồi bằng giẻ rách nó rất yêu quý đã rách mòn, phai màu. Con bé đứng trước hộp đựng đồ chơi, áp sát khuôn mặt tròn bé bỏng vào mặt Lucy, hôn con búp bê lần cuối sau đó nhẹ nhàng đặt nó lên trên các món đồ chơi khác.
“Ồ, con yêu. Con không phải đem tặng Lucy đâu. Con yêu nó thế cơ mà”.
Meghan nghiêm nghị gật đầu, đôi mắt ầng ậc nước. “Lucy làm cho con vui mẹ à, thế nên có thể nó cũng sẽ khiến cô bé kia được hạnh phúc”.
Nghẹn ứ trong cổ họng, tôi lặng nhìn Meghan một lúc lâu, tự hỏi làm sao tôi có thể dạy các con trai tôi bài học như con bé đã dạy cho tôi. Vì tôi chợt nhận ra ai cũng có thể cho đi những thứ họ không còn cần tới nữa. Sự hào phóng thực sự phải là có thể cho đi những gì bạn yêu thích nhất.
Lòng nhân từ chân thực là khi một đứa trẻ lên ba đem tài sản quý giá của nó dù chỉ là một con búp bê đã sờn cũ tặng cho một cô bé không quen với hy vọng con búp bê sẽ đem lại cho cô bé đó nhiều niềm vui như đã từng đem lại cho nó. Tôi đã muốn dạy bảo con nhưng rốt cuộc lại được chính con dạy lại.
Hai đứa anh trai đứng nhìn, miệng há to kinh ngạc khi thấy cô em gái đặt con búp bê yêu thích nhất vào trong hộp. Không nói lời nào, Brad đứng lên, bước vào phòng, sau đó trở ra, mang theo một nhân vật siêu nhân nó rất thích. Thoáng chút ngần ngại, Brad cầm lấy món đồ chơi, nhìn sang Meghan rồi đặt nó vào hộp, cạnh chỗ Lucy.
Một nụ cười chậm rãi rộng mở trên khuôn mặt Brett, sau đó nó đứng dậy, hai mắt lấp lánh khi tìm ra một vài chiếc ô tô làm bằng hộp diêm vốn là niềm tự hào của nó.
Tôi thật sự ngạc nhiên khi thấy hai cậu con trai cũng đã nhận ra ý nghĩa trong cử chỉ của bé Meghan. Nén vào lòng những giọt nước mắt xúc động, tôi giang tay ôm chặt cả ba đứa.
Bắt chước đứa con bé bỏng, tôi bỏ chiếc áo khoác màu nâu đã cũ có cổ tay áo bị sờn khỏi thùng quần áo và thay vào đó là chiếc áo khoác màu xanh vừa mua tuần trước. Tôi hy vọng người phụ nữ trong bức ảnh cũng sẽ thích nó như tôi.
Cho đi những gì ta không cần nữa thật dễ dàng nhưng phải tự nguyện rời bỏ những gì ta yêu thích thì thật vô cùng khó khăn, phải không nào? Tuy nhiên tinh thần đích thực của hành động cho đi ấy chính là đem tặng với cả trái tim từ chính bạn.
Heaven and Hell
A holy man was having a conversation with the Lord one day and said,
‘Lord, I would like to know what Heaven and Hell are like.’
The Lord led the holy man to two doors.
He opened one of the doors and the holy man looked in. In the middle of the room was a large round table. In the middle of the table was a large pot of stew, which smelled delicious and madethe holy man’s mouth water.
The people sitting around the table were thin and sickly. They appeared to be famished. They were holding spoons with very long handles that were strapped to their arms and each found it possible to reach into the pot of stew and take a spoonful. But because the handle was longer than their arms, they could not get the spoons back into their mouths.
The holy man shuddered at the sight of their misery and suffering.
The Lord said, ‘You have seen Hell.’
They went to the next room and opened the door. It was exactly the same as the first one. There was the large round table with the large pot of stew which made the holy man’s mouth water. The people were equipped with the same long-handled spoons, but here the people were well nourished and plump, laughing and talking.
The holy man said, ‘I don’t understand.’
‘It is simple,’ said the Lord. ‘It requires but one skill. You see they have learned to feed each other, while the greedy think only of themselves.’
Thiên đàng và địa ngục
Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa “ Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục như thế nào”. Chúa dẫn anh ta vào hai cái cửa...
Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn vào.
Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn, khiến cho người đàn ông nhỏ nước miếng.
Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.
Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng được.
Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục”.
Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Có một cái bàn tròn lớn với một nồi nước hầm hấp dẫn làm cho người đàn ông nhỏ nước miếng. Mọi người xung quanh cũng cầm cái thìa có cán dài, nhưng mọi người ở đây trông thật béo tốt, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.
Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu, thưa Chúa”.
“Đơn giản thôi” - Chúa đáp - “Ở nơi này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn”.
What's The Miracle Cost?
Tess was a precocious eight years old when she heard her Mom and Dad talking about her little brother, Andrew. All she knew was that he was very sick and they were completely out of money. They were moving to an apartment complex next month because Daddy didn't have the money for the doctor bills and our house. Only a very costly surgery could save him now and it was looking like there was no-one to loan them the money.She heard Daddy say to her tearful Mother with whispered desperation, "Only a miracle can save him now."
Tess went to her bedroom and pulled a glass jelly jar from its hiding place in the closet. She poured all the change out on the floor and counted it carefully. Three times, even. The total had to be exactly perfect. No chance here for mistakes. Carefully placing the coins back in the jar and twisting on the cap, she slipped out the back door and made her way 6 blocks to Rexall's Drug Store with the big red Indian Chief sign above the door.
She waited patiently for the pharmacist to give her some attention but he was too intently talking to another man to be bothered by an eight year old at this moment. Tess twisted her feet to make a scuffing noise. Nothing. She cleared her throat with the most disgusting sound she could muster. No good. Finally she took a quarter from her jar and banged it on the glass counter. That did it!
"And what do you want?" the pharmacist asked in an annoyed tone of voice. "I'm talking to my brother from Chicago whom I haven't seen in ages," he said without waiting for a reply to his question.
"Well, I want to talk to you about my brother," Tess answered back in the same annoyed tone. "He's really, really sick ... and I want to buy a miracle."
"I beg your pardon?" said the pharmacist.
"His name is Andrew and he has something bad growing inside his head and my Daddy says only a miracle can save him now. So how much does a miracle cost?"
"We don't sell miracles here, little girl. I'm sorry but I can't help you." the pharmacist said, softening a little.
"Listen, I have the money to pay for it. If it isn't enough, I will get the rest. Just tell me how much it costs."
The pharmacist's brother was a well dressed man. He stooped down and asked the little girl, "What kind of a miracle does you brother need?"
"I don't know," Tess replied with her eyes welling up. "I just know he's really sick and Mommy says he needs a operation. But my Daddy can't pay for it, so I want to use my money. "How much do you have?" asked the man from Chicago.
"One dollar and eleven cents," Tess answered barely audibly. "And it's all the money I have, but I can get some more if I need to."
"Well, what a coincidence," smiled the man. "A dollar and eleven cents -- the exact price of a miracle for little brothers." He took her money in one hand and with the other hand he grasped her and said "Take me to where you live. I want to see your brother and meet your parents. Let's see if I have the kind of miracle you need."
That well dressed man was Dr. Carlton Armstrong, a surgeon, specializing in neuro-surgery. The operation was completed without charge and it wasn't long until Andrew was home again and doing well. Mom and Dad were happily talking about the chain of events that had led them to this place. "That surgery," her mom whispered. "was a real miracle. I wonder how much it would have cost?"
Tess smiled. She knew exactly how much a miracle cost... one dollar and eleven cents....plus the faith of a little child.
Phép mầu nhiệm giá bao nhiêu?
Khi nghe cha mẹ bàn về bệnh tình của người anh, những gì cô bé Tess biết được là người anh mắc bênh rất nặng và gia đình đã cạn kiệt tiền. Cần có một ca phẫu thuật với chi phí rất mắc mới có thể cứu được anh của bé nhưng ngặt nổi không có ai cho gia đình em vay mượn. Em nghe cha nói trong tuyệt vọng: "Chỉ có phép mầu nhiệm mới có thể cứu được thằng bé thôi".
Tess và phòng mình và lôi ra con heo đất với số tiền em đã dành dụm từ bấy lâu nay. Em vội lao ra cửa và chạy thẳng đến một tiệm thuốc tây nổi tiếng ở khu phố. Em đứng trước cửa hiệu một cách kiên nhẫn để chờ đợi sự chú ý của người dược sĩ. Đoạn em dùng chân gõ lên sàn nhà rồi hắng giọng để tạo ra tiếng động... nhưng vô ích. Cuối cùng em lấy tay gõ mạnh lên tủ kính và người dược sĩ cất giọng một cách khó chịu: "Cháu muốn gì hả cháu bé? Cháu không thấy ta đang nói chuyện với người anh xa cách mười mấy năm trời hay sau?". Tess cũng trả lời với vẻ bực bội: " Cháu cũng muốn nói chuyện với chú về người anh của cháu đây. Anh ấy đang bị bênh và cháu đến đây để mua ... phép mầu nhiệm".
"Cháu muốn mua gì?". Người dược sĩ tròn mắt tỏ vẻ không hiểu.
"Tên của anh cháu là Andrew và anh ấy chịu đựng cái gì đó đau lắm ở trong đầu. Cha cháu nói rằng chỉ có phép mầu nhiệm mới cứu được anh ấy. Vậy phép mầu nhiệm bán với giá bao nhiêu hả bác?".
"Ở đây không bán thứ đó cháu bé ạ" - giọng người dược sĩ nhỏ đi.
"Nhưng bác này ,cháu có tiền. Cái giá có cao lắm không? Nhưng nếu không đủ cháu sẽ đi mượn thêm" - giọng Tess như van nài.
Người anh của ông dược sĩ ăn mặc rất đẹp và đứng bên cạnh đó và nghe hết cuộc đối thoại. Ông hỏi Tess: "Thế cháu có bao nhiêu?". "1 đô và 11 xu và đó là những gì cháu có, nhưng cháu có thể mượn thêm được mà. Bác bán cho cháu nhé?". Tess trả lời như muốn khóc.
"Ồ, thật trùng hợp", người đàn ông mỉm cười "1 đô và 11 xu - một số tiền chính xác để mua phép màu nhiệm cho anh cháu". Sau đó, ông cầm số tiền và nắm chặt bàn tay cô bé đề nghị: "Cháu hãy dẫn ta dến nhà cháu. Ta muốn gặp anh trai và cha mẹ cháu. Để xem ta có phép mầu nhiệm mà cháu cần không nhé!".
Người đàn ông ấy chính là một bác sĩ rất nổi tiếng. Cuộc phẫu thuật đã rất thành công mà không hề tốn kém bất cứ chi phí nào. Anh trai Tess dần hồi phục và sống khoẻ mạnh. Cha mẹ Tess vui hơn lúc nào hết. Mẹ em thì thầm: "Thật sự là một phép nhiệm màu. Mẹ không biết mình phải trả bao nhiêu tiền đây? ".
Tess mỉm cười tinh nghịch. Cô bé biết chính xác số tiền đó...1 đô và 11 xu... cộng thêm sự chân thành của một đứa trẻ.
On Attitude
At ten minutes to seven on a dark, cool evening in Mexico City in 1968, John Stephen Arkari of Tanzania painfully hobbled into the Olympic Stadium - the last to finish in the marathon.
The winner had already been crowned and the victory ceremony was long finished. So the stadium was almost empty as Arkwari, alone, his leg bloody and bandaged, struggled to circle the track to the finish line. The respected documentary, Bud Greenspan, watched from a distance. Then, intrigued, Bud walked over to Arkwari and asked why he continued the grueling struggle to the finish line.
The young man from Tanzania answered softly, "My country did not send me nine thousand miles to start the race. They sent me nine thousand miles to finish the race."
Đường đua của niềm tin
Thủ đô Mexico một buổi tối mùa đông năm 1968. Đồng hồ chỉ bảy giờ kém mười phút. Vận động viên John Stephen Arkwari người Tanazania tập tễnh kết thúc những mét cuối của đường đua Thế vận hôi Olympic với một chân bị băng bó. Anh là người cuối cùng về đích trong cuộc thi marathon năm ấy.
Những người chiến thắng cuộc thi đã nhận huy chương và lễ trao giải cũng đã kết thúc. Vì thế sân vận động hầu như vắng ngắt khi Arkwari, với vết thương ở chân đang rướm máu, cố gắng chạy vòng cuối cùng để về đích. Chỉ có Bud Greenspan, nhà làm phim tài liệu nổi tiếng là còn tại đó, đang ngạc nhiên nhìnanh từ xa chạy tới. Sau đó, không giấu được sự tò mò, Bud bước tới chỗ Arkwari đang thở dốc và hỏi tại sao anh lại cố vất vả chạy về đích như thế khi cuộc đua đã kết thúc từ lâu và chẳng còn khán giả nào trên sân nữa.
John Stephen trả lời bằng giọng nói hụt hơi: "Tôi rất hạnh phúc vì đã hoàn thành chặng đua với cố gắng hết mình. Tôi được đất nước gửi đi chín ngàn dặm đến đây không phải chỉ để bắt đầu cuộc đua - mà là để hoàn thành cuộc đua".
Chush, Chush, Sweet Varlets
In Brooklyn, New York, Chush is a school that caters to learning disabled children. Some children remain in Chush for their entire school career, while others can be mainstreamed into conventional schools.
At a Chush fundraising dinner, the father of a Chush child delivered a speech that would never be forgotten by all who attended.
After extolling the school and its dedicated staff, he cried out, "Where is the perfection in my son Shaya? Everything God does is done with perfection.
But my child cannot understand things as other children do. My child cannot remember facts and figures as other children do. Where is God's perfection? The audience was shocked by the question, pained by the father's anguish and stilled by the piercing query.
"I believe," the father answered, "that when God brings a child like this into the world, the perfection that he seeks is in the way people react to this child."
He then told the following story about his son Shaya.
One afternoon, Shaya and his father walked past a park where some boys Shaya knew wereplaying baseball. Shaya asked, "Do you think they will let me play?"
Shaya's father knew that his son was not at all athletic and that most boys would not want him on their team. But Shaya's father understood that if his son was chosen to play it would give him a comfortable sense of belonging. Shaya's father approached one of the boys in the field and asked if Shaya could play. The boy looked around for guidance from his teammates. Getting none, he took matters in his own hands and said "We are losing by six runs and the game is in the eighth inning. I guess he can be on our team and we'll try to put him up to bat in the ninthinning."
Shaya's father was ecstatic as Shaya smiled broadly. Shaya was told to put on a glove and go out to play short center field. In the bottom of the eighth inning, Shaya's team scored a few runs but was still behind by three. In the bottom of the ninth inning, Shaya's team scored again and now with two outs and the bases loaded with the potential winning run on base. Shaya was scheduled to be up. Would the team actually let Shaya bat at this juncture and give away their chance to win the game?
Surpassingly, Shaya was given the bat. Everyone knew that it was all but impossible because Shaya didn't even know how to hold the bat properly, let alone hit with it. However as Shaya stepped up to the plate, the pitcher moved a few steps to lob the ball in softly so Shaya should at least be able to make contact.
The first pitch came and Shaya swung clumsily and missed. One of Shaya's teammates came up to Shaya and together they held the bat and faced the pitcher waiting for the next pitch. The pitcher again took a few steps forward to toss the ball softly toward Shaya. As the pitch came in, Shaya and his teammate swung at the ball and together they hit a slow ground ball to the pitcher.
The pitcher picked up the soft grounder and could easily have thrown the ball to the first baseman. Shaya would have been out and that would have ended the game. Instead, the pitcher took the ball and threw it on a high arc to right field, far beyond reach of the first baseman.
Everyone started yelling, "Shaya, run to first, run to first."
Never in his life had Shaya run to first. He scampered down the baseline wide-eyed and startled. By the time he reached first base, the right fielder had the ball. He could have thrown the ball to the second baseman who would tag out Shaya, who was still running. But the right fielder understood what the pitcher's intentions were, so he threw the ball high and far over the third baseman's head.
Everyone yelled, "Run to second, run to second." Shaya ran towards second base as the runners ahead of him deliriously circled the bases toward home.
As Shaya reached second base, the opposing short stop ran to him, turned him in the direction of third base and shouted, "Run to third." As Shaya rounded third, the boys from both teams ran behind him screaming, "Shaya run home." Shaya ran home, stepped on home plate and all 18 boys lifted him on their shoulders and made him the hero, as if he had just hit a "grand slam" and won the game for his team.
"That day," said the father softly with tears now rolling down his face, "those 18 boys reached their level of God's perfection."
Funny how you can send a thousand 'jokes' through e-mail and they spread like wildfire, but when you start sending messages regarding life choices, people think twice about sharing.
Funny how the lewd, crude, vulgar and obscene pass freely through cyberspace, but the public discussion of morality is suppressed in the school and workplace.
Funny isn't it?
Funny how when you go to forward this message, you will not send it to many of your address list because you're not sure what they believe, or what they will think of you for sending it to them.
Funny how I can be more worried about what other people think of me than what I think of me.
Sự hoàn hảo của Chúa
Tại Brooklyn, New York có ngôi trường Chush là nơi chuyên dành phục vụ những trẻ em thiểu năng trí tuệ. Sau một thời gian ở đây, ngoài những trẻ tham gia toàn bộ khoá học của trường thì số khác có thể chuyển sang tiếp tục học tại các trường bình thường khác.
Trong một bữa tối gây quỹ do trường Chush tổ chức, người cha một học sinh đang theo học tại đây đã có những lời phát biểu mà bất cứ ai tham dự hôm đó đều không thể quên được.
Sau khi hết lời ca ngợi ngôi trường cùng đội ngũ giáo viên tận tuỵ, người cha nói lớn: “Đâu là sự hoàn thiện với Shaya, con trai tôi? Chúa tạo ra mọi thứ đều hoàn hảo, nhưng sao con trai tôi không thể hiểu được những điều mà mọi đứa trẻ khác đều có thể. Sao con trai tôi lại không thể nhớ được chính xác mọi điều như các đứa trẻ bình thường khác. Vậy thì sự hoàn hảo của Chúa là ở đâu?”
Tất cả đám đông đều xúc động trước câu hỏi của người cha, họ đau đớn và sững sờ bởi nỗi thống khổ cũng như lời chất vấn đầy nhức nhối của ông. “Tôi tin rằng,” người cha tiếp tục, “khi Chúa tạo ra một đứa trẻ trong thế giới, sự hoàn thiện cho đứa trẻ mà Người mong mỏi chính là cách thức những người khác đối xử với đứa trẻ ấy”.
Sau đó, ông liền kể cho mọi người nghe câu chuyện về con trai mình:
Một buổi chiều nọ, Shaya cùng bố đi bộ qua khu công viên, lúc đó một vài đứa trẻ Shaya quen đang chơi bóng chày. Shaya hỏi, “Bố có nghĩ là chúng sẽ cho con chơi cùng không hả bố?” Bố Shaya hiểu rằng, con trai mình không thực sự khoẻ mạnh và có lẽ tất thảy lũ trẻ đang chơi đó đều không muốn cho nó vào đội của chúng. Nhưng ông cũng biết, nếu được cho phép chơi cùng, Shaya của ông sẽ rất hạnh phúc.
Thế là ông tới gần một trong số những cậu bé trên sân và xin cho Shaya được chơi cùng chúng. Cậu bé liếc nhìn xung quanh tham khảo ý kiến của các bạn chơi khác trong đội. Không có ý kiến phản đối, cậu bèn tự quyết định và nói: “Hiện tại, chúng mình đang thua sáu run (điểm trong bóng chày) và trận đấu đang ở lượt thứ tám. Tớ cho là Shaya có thể tham gia cùng đội mình và chúng mình sẽ thử thách cậu ấy ở lượt đánh thứ chín tới”.
Bố của Shaya đã rất phấn khởi khi nhìn cậu con trai há rộng miệng cười hết cỡ. Lũ trẻ bảo Shaya đeo găng tay vào và ra sân đảm nhiệm vị trí giữa sân.
Cho tới cuối lượt thứ tám thì đội của Shaya cũng ghi thêm được một số run nữa nhưng vẫn thua tới ba run. Và khi gần kết thúc lượt thứ chín, đội của Shaya tiếp tục ghi điểm và lúc này hai thành viên của đội tấn công đã bị loại, chỉ cần loại một người nữa thì đội của cậu sẽ giành chiến thắng. Theo dự kiến thì lúc này Shaya sẽ được tham gia trò chơi.
Nhưng liệu đội bóng có để Shaya chơi vào thời điểm quyết định này không, liệu họ có sợ sẽ vuột khỏi tay cơ hội chiến thắng đã gần kề?
Thật bất ngờ, Shaya đã được chọn là người đánh bóng. Gần như ai cũng hiểu điều đó là không thể vì Shaya thậm chí còn không biết cầm gậy chứ nói gì tới chuyện đánh bóng. Thế nhưng, khi Shaya bước tới đĩa nhà (khu vực đánh bóng) người ném bóng phía đối phương đã bước thêm lên vài bước để tung bóng nhẹ nhàng giúp Shaya ít nhất có thể chạm tới được. Dẫu thế thì khi cú giao bóng đầu tiên bay tới, Shaya vung gậy vẫn rất vụng về và đã đánh trượt bóng. Lần giao bóng tiếp theo, một cậu bé cùng đội tiến tới cạnh Shaya và cùng em nắm gậy, hướng về phía đối phương ném bóng chờ đợi.
Cậu bé giao bóng một lần nữa lại tiến thêm vài bước và ném bóng nhẹ nhàng về phía Shaya. Thế là Shaya với người đồng đội cùng vung gậy lên và đánh vào quả bóng đang từ phía người ném chầm chậm bay tới. Liền sau đó, người ném bắt được bóng và hoàn toàn có thể dễ dàng ném về phía căn cứ thứ nhất. Nhưng nếu làm như thế thì Shaya sẽ bị loại và trận bóng sẽ kết thúc. Thế là cậu bé ném bóng giữ lấy quả bóng vừa bắt và ném bổng vòng cung lên phía sân bên phải, rất xa vị trí của người đồng đội đang đứng ở căn cứ thứ nhất.
Mọi người bắt đầu thét lớn cổ vũ, “Shaya, hãy chạy tới căn cứ thứ nhất. Chạy đi!”. Thế là chưa từng chạy một lần trong đời nhưng lần này Shaya vụt lao tới căn cứ thứ nhất, mắt mở to thoáng chút lo sợ. Khi cậu chạy tới được căn cứ thứ nhất thì người chặn bóng bên phải đã bắt được bóng. Bình thường ra, cầu thủ chặn bóng sẽ ném bóng cho người chốt giữ căn cứ thứ hai và người này sẽ cố chạm được vào người Shaya để loại cậu. Nhưng cậu bé chặn bóng hiểu ngay ý đồ của người ném, thế là cậu liền ném bóng lên cao, vượt qua đầu của người đang chốt giữ căn cứ thứ ba.
Lúc này mọi người lại hô to, “Chạy tới căn cứ thứ hai đi Shaya, chạy đi.” Thế là Shaya lại dốc sức chạy tới căn cứ thứ hai trong khi những người chạy trước cậu đã quây tròn phấn khích quanh các căn cứ hướng về phía đĩa nhà. Lúc Shaya chạy tới được căn cứ thứ hai rồi, một cậu bé đội bạn chặn Shaya lại, lái Shaya theo hướng về căn cứ thứ ba và la lên, “Chạy mau về căn cứ thứ ba.”
Khi Shaya đã chạy tới căn cứ cuối cùng, tất cả các cậu bé của cả hai đội đều chạy sau Shaya và la lớn: “Shaya, chạy về đĩa nhà đi!” Thế là Shaya chạy về đĩa nhà, bước lên đĩa nhà và cả 18 cậu bé liền công kênh Shaya trên vai, biến cậu thành một anh hùng như thể cậu vừa đánh một cú quyết định thắng lợi cho đội nhà.
“Và ngày hôm đó tôi nghĩ rằng,” người cha kết thúc câu chuyện khi nước mắt đã lăn dài trên khuôn mặt, “18 cậu bé kia đã đạt tới cái ngưỡng hoàn hảo mà Chúa dành cho các em”.
The Fern and the Bamboo
One day, a small business owner decided he’d had enough. Enough of the unremitting workload, enough of the lack of response, enough of the crushing loneliness.
He went into the woods to have one last talk to God. “God,” he said. “Can you give me one good reason why I shouldn’t quit?”
The answer took him by surprise. “Look around you,” it said. “Do you see the fern and the bamboo?”
“Yes,” the man replied.
“When I planted the fern and the bamboo, I took very good care of them. I gave them both equal amounts of food and water. I gave them sunlight in spring and protected them from the storms in autumn. The fern quickly grew from the earth. Its brilliant fronds soon covered the forest floor. Yet nothing came from the bamboo seed. But I did not quit on the bamboo. In the second year, the fern grew even more splendidly than before but nothing came from the bamboo seed. But I did not quit on the bamboo. In year three there was still nothing from the bamboo seed. But I would not quit. In year four, again, there was nothing from the bamboo seed. Still I would not quit.”
“Then in the fifth year a tiny sprout emerged from the earth. Compared to the fern it was seemingly small and insignificant. But day by day the sprout grew. First a shoot, then aseedling, and finally a cane. Within six months, the bamboo cane had risen to a height of 100 feet. It had spent the five years growing roots. Those roots made it strong and gave it what it needed to survive. I would not give any of my creations a challenge it could not handle.”
“Did you know, my child, that all this time you have been struggling, you have been growing? Growing the roots that you need to produce your fruit. I would not quit on the bamboo. I will not quit on you.”
“Don’t compare yourself to others. All of my creations have different purposes, different journeys, and different timescales. The bamboo had a different purpose from the fern. Yet they both make the forest beautiful. Your time will come. You will rise high.”
“How high should I rise?” the man asked.
“How high will the bamboo rise?” asked God in return.
“As high as it can?” the man questioned.
“Yes,” God replied. “Give me glory by rising as high as you can.”
The small business owner left the forest. And never went back.
If nothing seems like it is happening in your life, despite all the work you’re putting in, remember that you’re probably growing roots not fruit. Stick with it. One day not far from now, there’ll be a fantastic harvest.
Tre và dương xỉ
Một ngày, tôi quyết định sẽ từ bỏ. Từ bỏ công việc, mọi mối quan hệ, từ bỏ mọi mong ước, hi vọng của mình. Tôi muốn từ bỏ cuộc sống. Tôi đã đến tìm và nói chuyện với Chúa.
“Thưa Chúa, Người có thể cho con một lí do để không từ bỏ cuộc sống của con không?”.
Chúa rất ngạc nhiên khi tôi hỏi câu đó. “Con hãy nhìn đây” - Chúa lên tiếng - “Con có nhìn thấy cây dương xỉ và cây tre này không?”.
“Có”- Tôi kính cẩn trả lời.
“Khi ta gieo hạt của dương xỉ và cây tre, ta đã chăm sóc chúng rất cẩn thận. Ta cho chúng ánh sáng, ta tưới đầy đủ nước cho chúng. Cây dương xỉ lớn rất nhanh trên mặt đất. Màu xanh của nó chẳng mấy mà phủ kín cả một vùng.
Nhưng chẳng có dấu hiệu gì từ hạt giống của cây tre cả. Tuy nhiên, ta đã không từ bỏ hạt mầm đó. Một năm trôi qua, Dương xỉ nhanh chóng phát triển lớn mạnh. Nhưng một lần nữa, không một dấu hiệu của hạt giống cây tre. Và cũng một lần nữa ta không từ bỏ” - Chúa chậm rãi kể.
“Bước sang năm thứ ba, vẫn chẳng thấy gì từ hạt giống cây tre cả. Nhưng ta vẫn không từ bỏ. Năm thứ tư cũng không có gì khác. Ta vẫn tiếp tục công việc và không từ bỏ…
… Đến năm thứ năm, một mầm xanh vươn mình lên khỏi mặt đất. So với đám dương xỉ xung quanh, nó quá nhỏ bé và chẳng có chút ấn tượng nào. Nhưng chỉ 6 tháng thôi, cây tre đã cao hơn 30 mét. Nó đã mất tới 5 năm để phát triển bộ rễ. Rễ của nó rất khoẻ mạnh và có thể cung cấp cho nó tất cả những gì cần thiết để sống và vươn lên. Ta đã không cho cây tre một chút thử thách nào”.
“Con có biết không, con của ta, tất cả thời gian mà con phải vật lộn để sống, con đã xây dựng và hoàn thiện gốc rễ của mình” - Chúa nói tiếp.
“Ta đã không rời bỏ cây tre. Và ta cũng sẽ không bao giờ xa con. Đừng so sánh bản thân con với bất cứ thứ gì khác.
“Cây tre và dương xỉ có cách sống khác nhau mặc dù mục tiêu của chúng đều là màu xanh cho trái đất. Cơ hội của con sẽ đến…” - Chúa khắng định - “… Con sẽ vươn cao”.
“Liệu con có thể vươn cao đến đâu thưa Người?”.
“Vậy con có biết cây tre vươn cao đến đâu không” - Chúa không trả lời mà hỏi lại.
“Cao hết mức mà nó có thể phải không ạ?” - tôi ngập ngừng hỏi lại.
“Đúng thế” - Chúa mỉm cười - “Hãy cho ta cảm thấy tự hào khi thấy con vươn đến đỉnh cao nhất mà con có thể”.
Đứng tiếc nuối những ngày đã qua trong đời. Những ngày may mắn, tốt đẹp mang cho bạn hạnh phúc. Những ngày đen tối khó khăn mang lại cho bạn nhiều kinh nghiệm. Tất cả đều cần cho cuộc sống.
Strength And Weakness
A 10-year-old boy decided to study judo despite the fact that he had lost his left arm in a devastating car accident. The boy began lessons with an old Japanese judo master. The boy was doing well, so he couldn't understand why, after three months of training the master had taught him only one move.
"Sensei,"(Teacher in Japanese) the boy finally said, "Shouldn't I be learning more moves?". "This is the only move you know, but this is the only move you'll ever need to know," the sensei replied. Not quite understanding, but believing in his teacher, the boy kept training. Several months later, the sensei took the boy to his first tournament.
Surprising himself, the boy easily won his first two matches. The third match proved to be more difficult, but after some time, his opponent became impatient and charged; the boy deftly used his one move to win the match. Still amazed by his success, the boy was now in the finals. This time, his opponent was bigger, stronger, and more experienced. For a while, the boy appeared to be overmatched. Concerned that the boy might get hurt, the referee called a time-out. He was about to stop the match when the sensei intervened.
"No," the sensei insisted, "Let him continue." Soon after the match resumed, his opponent made a critical mistake: he dropped his guard. Instantly, the boy used his move to pin him. The boy had won the match and the tournament.
He was the champion. On the way home, the boy and sensei reviewed every move in each and every match. Then the boy summoned the courage to ask what was really on his mind.
"Sensei, how did I win the tournament with only one move?"
"You won for two reasons," the sensei answered."First, you've almost mastered one of the most difficult throws in all of judo. And second, the only known defense for that move is for your opponent to grab your left arm."
The boy's biggest weakness had become his biggest strength.
Sometimes we feel that we have certain weaknesses and we blame God, the circumstances or ourselves for it but we never know that our weaknesses can become our strengths one day.
Each of us is special and important, so never think you have any weakness, never think of pride or pain, just live your life to its fullest and extract the best out of it!"
Điểm yếu hay sức mạnh
. Đôi khi điểm yếu nhất của bạn lại có thể trở thành sức mạnh to lớn. Hãy lấy ví dụ từ câu chuyện về cậu bé 10 tuổi quyết định học judo, bất chấp việc mình chỉ còn một cánh tay sau tai nạn giao thông.
Cậu bé đã bắt đầu những bài học judo đầu đầu tiên với một ông giáo người Nhật khá nhiều tuổi. Cậu làm rất tốt những yêu cầu của ông giáo. Nhưng cậu không hiểu tại sao, sau ba tháng, ông giáo vẫn chỉ dạy cậu duy nhất một động tác di chuyển.
"Thưa thầy" - Không kiềm chế nổi tò mò, cậu bé đánh bạo hỏi - "Tại sao con chỉ được học mỗi một động tác di chuyển thế ạ?".
"Động tác đó, con chỉ biết là động tác di chuyển, nhưng đó là cách di chuyển duy nhất con sẽ cần để có thể chiến thắng" - Ông giáo nhẹ nhàng giải thích.
Dù không hiểu được ý thầy, cậu bé vẫn tin tưởng và tiếp tục luyện tập chăm chỉ.
Vài tháng sau, ông giáo đưa cậu bé đến tham gia cuộc thi đấu đầu tiên. Thật ngạc nhiên, cậu đã dễ dàng chiến thắng trong hai trận đầu. Trận đấu thứ ba thật là một cuộc đấu khó khăn, nhưng cậu vẫn kiên cường chiến đấu và cuối cùng giành chiến thắng với duy nhất một lối di chuyển. Có thể tham gia trận chung kết, cậu bé hết sức ngạc nhiên về thành tích của mình.
Ở trận đấu thứ 4 này, đối thủ của cậu lớn hơn, khỏe hơn và giàu kinh nghiệm hơn. Trận đấu diễn ra trong một thời gian khá dài, trọng tài lo lắng cậu bé có thể quá sức nên đề nghị thời gian nghỉ ngơi. Nhưng ông giáo lại không đồng ý và yêu cầu trọng tài cho trận đấu tiếp tục.
Trận đấu nhanh chóng được tiếp tục, đối thủ của cậu bé phạm một lỗi cơ bản: Không phòng vệ cẩn thận. Cậu bé đã dùng bài học về cách di chuyển để đánh bại đối thủ. Cậu trở thành người chiến thắng trong trận đấu và giành chức vô địch.
Trên đường về nhà, cậu bé và ông giáo đã cùng nhau xem lại từng bước trong mỗi trận đánh, sau đó ông giáo khuyến khích cậu nói ra điều đang thắc mắc trong đầu.
"Thưa thầy, làm sao con có thể chiến thắng tất cả các đối thủ chỉ với một bước di chuyển chứ?".
"Con chiến thắng vì hai lí do" - Ông giáo phân tích - "Thứ nhất, con thực hiện một trong các thế quật ngã khó nhất của judo. Và thứ hai, với cách phòng thủ đó, con có thể đã thu hút tất cả sự tập trung của đối thủ vào chỗ yếu nhất của mình là cánh tay để rồi quật ngã họ".
What Do You Hear?
A Native American and his friend were in downtown New York City, walking near Times Square in Manhattan. It was during the noon lunch hour and the streets were filled with people. Cars were honking their horns, taxicabs were squealing around corners, sirens were wailing, and the sounds of the city were almost deafening. Suddenly, the Native American said, "I hear acricket."
His friend said, "What? You must be crazy. You couldn't possibly hear a cricket in all of this noise!"
"No, I'm sure of it," the Native American said, "I heard a cricket."
"That's crazy," said the friend.
The Native American listened carefully for a moment, and then walked across the street to a bigcement planter where some shrubs were growing. He looked into the bushes, beneath the branches, and sure enough, he located a small cricket. His friend was utterly amazed.
"That's incredible," said his friend. "You must have super-human ears!"
"No," said the Native American. "My ears are no different from yours. It all depends on what you're listening for."
"But that can't be!" said the friend. "I could never hear a cricket in this noise."
"Yes, it's true," came the reply. "It depends on what is really important to you. Here, let me show you."
He reached into his pocket, pulled out a few coins, and discreetly dropped them on the sidewalk. And then, with the noise of the crowded street still blaring in their ears, they noticed every head within twenty feet turn and look to see if the money that tinkled on the pavement was theirs.
"See what I mean?" asked the Native American. "It all depends on what's important to you."
As Jesus tells the Pharisees in the Gospel, "Give to Caesar what is Caesar, but give to God what is God's."
Anh bạn nghe thấy gì?
Hai người, một người Mỹ và bạn anh ta, đi bộ dọc theo con đường đến trung tâm thành phố. Đó là giờ tan tầm buổi trưa nên các con phố thật đông đúc. Tiếng ô tô, tiếng tàu điện, tiếng cười nói, tất cả cùng vang lên tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp.
Đột nhiên, anh chàng người Mỹ nói: "Tôi nghe thấy tiếng dế kêu đâu đó". Người bạn ngạc nhiên hỏi lại: "Gì cơ? Anh nói gì chứ? Làm sao mà có thể nghe thấy tiếng dế kêu trong cái đống âm thanh này".
"Không, tôi chắc chắn là như thế", anh chàng người Mỹ quả quyết. "Tôi đã nghe thấy tiếng dế kêu mà".
"Thật là điên rồ" - Người bạn lẩm bẩm.
Anh chàng người Mỹ im lặng, lắng nghe và đột nhiên băng qua đường đến bên mấy cái chậu cây đang cố gắng vươn lên. Anh ta cúi xuống, nhẹ nhàng chỉ cho người bạn lúc này đang hết sức ngạc nhiên một chú dế nhỏ đang ra sức hát bài hát của mình.
"Thật là kì lạ!", người bạn thốt lên. "Anh có đôi tai phi thường!".
"Không", anh chàng người Mỹ nói, "tai của tôi cũng chẳng khác tai của anh đâu. Tôi nghe thấy chỉ vì tôi muốn nghe thấy thôi".
"Sao có thể thế được", người bạn phản đối, "tôi không thể nghe thấy tiếng dế kêu trong tiếng ồn ào như thế".
"Không, có thể chứ. Nó chỉ phụ thuộc vào cái gì quan trọng với anh thôi. Nào hãy để tôi chỉ cho anh".
Anh ta lôi trong túi ra một vài đồng xu, thận trọng ném xuống đường. Và mặc dù đường phố đông đúc vẫn om sòm xung quanh, nhưng họ vẫn nghe thấy tiếng những đồng xu leng keng rơi xuống nền đường.
"Đó, anh thấy chưa, điều quan trọng nhất là anh muốn nghe thấy cái gì thôi".
The Power Of Worry
Death was walking toward a city one morning, and a man asked, "What are you going to do?"
"I'm going to take 100 people,"Death replied.
"That"s horrible!" the man said."That's the way it is."
Death said, "That's what I do."
The man hurried to warn everyone he could about Death's plan.
As evening fell, he met Death again. "You told me you were going to take only 100 people," the man said. "Why did 1,000 die?" I kept my word, Death responded," I only took 100 people" Worry took the others.
Worry is, and always will be, a fatal disease of the heart for its beginning signals the end of faith.
Release the regrets of yesterday, refuse the fears of tomorrow and receive instead, the peace of today. Simply let go and let God be God. Live this and be eternally blessed.
Sức mạnh của sự lo lắng
Một buổi sáng, một người đàn ông gặp thần Chết trong thành phố. Ông ta hỏi thần Chết: “Ngài đang làm gì trong thành phố của tôi vậy?” - “Ta sẽ lấy đi mạng sống của 100 người trong thành phố này” - Thần Chết trả lời.
“Thật là tồi tệ” - người đàn ông nói.
“Đúng thế” - Thần Chết đồng ý - “Nhưng đó là công việc của ta và ta phải làm thôi”.
Người đàn ông nhanh chóng loan báo cho mọi người trong thành phố về kế hoạch của thần Chết.
Nhưng khi tối đến, người đàn ông kia gặp lại thần Chết với một câu hỏi lớn:
“Thần nói với tôi là lấy đi cuộc sống của 100 người, vậy sao lại có tới 1000 người qua đời trong ngày hôm nay?”.
“Ta vẫn giữ lời của mình đó chứ” - Thần Chết trả lời - “Ta chỉ lấy đi 100 người, và lo lắng đã lấy đi số người còn lại”.
Việc lo lắng thái quá có thể là nguyên nhân của rất nhiều căn bệnh như chứng đau nửa đầu, chứng viêm khớp, các vấn đề về tim mạch, viêm ruột, chứng đau lưng, các vấn đề về tiêu hóa và tất nhiên là cả cái chết nữa.
Hãy để những hối tiếc của ngày hôm qua, những lo lắng của ngày mai sang một bên và thay vào đó, hãy nhận bình yên trong cuộc sống của ngày hôm nay.
The Rose
The first day of school our professor introduced himself and challenged us to get to know someone we didn't already know. I stood up to look around when a gentle hand touched my shoulder. I turned around to find a wrinkled little old lady beaming up at me with a smile that lit up her entire being. She said, "Hi, Handsome. My name is Rose. I'm eighty-seven years old. Can I give you a hug?"
I laughed and enthusiastically responded, "Of course you may!" and she gave me a giant squeeze.
"Why are you in college at such a young, innocent age?" I asked.
She jokingly replied, "I'm here to meet a rich husband, get married, have a couple of children, and then retire and travel."
"No, seriously," I asked. I was curious what may have motivated her to be taking on this challenge at her age.
"I always dreamed of having a college education and now I'm getting one!" she told me.
After class we walked to the student union building and shared a milkshake. We became instant friends. Every day for the next three months we would leave class together and talk nonstop. I was always mesmerized, listening to this "time machine" as she shared her wisdom and experience with me.
Over the course of the year, Rose became a campus icon and easily made friends wherever she went. She loved to dress up and she reveled in the attention bestowed upon her from the other students. She was living it up.
At the end of the semester we invited Rose to speak at our football banquet and I'll never forget what she taught us. She was introduced and stepped up to the podium. As she began to deliver her prepared speech, she dropped her 3x 5 cards on the floor. Frustrated and a little embarrassed, she leaned into the microphone and simply said, "I'm sorry I'm so jittery. I gave up beer for Lent and this whiskey is killing me! I'll never get my speech back in order so let me just tell you what I know."
As we laughed she cleared her throat and began: "We do not stop playing because we are old; we grow old because we stop playing. There are only four secrets to staying young, being happy, and achieving success."
"You have to laugh and find humor every day."
"You've got to have a dream. When you lose your dreams, you die. We have so many people walking around who are dead and don't even know it!"
"There is a huge difference between growing older and growing up. If you are nineteen years old and lie in bed for one full year and don't do one productive thing, you will turn twenty years old. If I am eighty-seven years old and stay in bed for a year and never do anything I will turn eight-eight. Anybody can grow older. That doesn't take any talent or ability. The idea is to grow up by always finding the opportunity in change."
"Have no regrets. The elderly usually don't have regrets for what we did, but rather for things we did not do. The only people who fear death are those with regrets."
She concluded her speech by courageously singing "The Rose." She challenged each of us to study the lyrics and live them out in our daily lives.
At the year's end Rose finished the college degree she had begun all those years ago. One week after graduation Rose died peacefully in her sleep. Over two thousand college students attended her funeral in tribute to the wonderful woman who taught by example that it's never too late to be all you can possibly be.
Hoa hồng
Ngày đầu tiên ở trường đại học, giáo sư của chúng tôi tự giới thiệu mình và thử thách đám học trò bằng cách gợi ý để chúng tôi tìm hiểu về những người chưa hề quen biết.
Khi tôi đứng dậy và nhìn quanh thì có một bàn tay lịch sự chạm nhẹ vào vai tôi. Tôi quay lại và nhìn thấy một bà cụ nhỏ bé, da nhăn nheo đang nhìn tôi cười tươi tắn, nụ cười làm bừng sáng con người bà.
Bà cụ nói: "Chào cậu bé đẹp trai, tên ta là Rose. Năm nay ta tám mươi bảy tuổi. Chúng ta ôm nhau được chứ?”
Tôi cười to và nhiệt tình đáp lại: "Tất nhiên là được ạ!", và bà cụ xiết chặt lấy tôi.
"Sao bà lại đến trường vào cái tuổi còn quá trẻ trung và non nớt như thế này ạ?". Tôi hỏi.
Bà cụ nói đùa: "Ta đến đây để kiếm một người chồng giàu có, kết hôn, rồi sinh con, rồi sau đó ta sẽ nghỉ hưu và đi du lịch”.
"Không phải vậy chứ?". Tôi đang rất tò mò muốn biết cái gì đã thúc đẩy bà cụ nhận lấy một thử thách như thế này vào cái tuổi ấy.
"Thực ra thì ta luôn mơ về một tấm bằng đại học, và giờ thì ta sắp có nó rồi". Bà nói.
Sau buổi học, tôi và Rose cùng đi đến khu liên hợp dành cho sinh viên, và ở đó chúng tôi cùng uống chung một cốc sôcôla đi kèm trứng và đá. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn.
Trong ba tháng kế tiếp, ngày nào chúng tôi cũng cùng về và nói chuyện không ngừng.Tôi lúc nào cũng lắng nghe như thể bị thôi miên khi bà cụ chia sẻ với tôi những kinh nghiệm sống của bà.
Sau hơn một khóa học của năm, Rose trở thành một hình mẫu của trường và bà dễ dàng kết bạn với mọi người khi đi đến bất kỳ đâu. Bà thích mặc đẹp và cũng rất thích thú với các biệt danh mà các sinh viên trong trường đặt ra cho bà. Bà đã sống xứng đáng với những tên gọi đáng yêu ấy.
Cuối học kỳ, chúng tôi mời bà đến phát biểu trong buổi liên hoan của đội bóng. Bà được giới thiệu và bước lên khán đài. Khi chuẩn bị nói thì bà vô ý làm rơi mất ba trên năm tờ của bài phát biểu đã chuẩn bị sẵn.
Không hài lòng và có vẻ như hơi xấu hổ về việc ấy, bà tựa người vào chiếc micro và nói đơn giản: "Tôi rất xin lỗi vì mình đã hơi hậu đậu. Tôi đã uống hộ cho Lent và bây giờ thì hình như cái chất whisky ấy đang giết tôi hay sao ấy. Tôi sẽ không nhặt mấy tờ giấy này lên vì tôi sẽ kể cho các bạn nghe những gì mà tôi biết".
Chúng tôi cười khi bà hắng giọng và bắt đầu nói: “Chúng ta không ngừng hoạt động vì chúng ta già, mà chúng ta già là vì chúng ta ngừng hoạt động. Chỉ có bốn bí quyết để sống trẻ trung, ấy là sống vui vẻ, cố gắng để đạt lấy thành công, phải cười và tìm kiếm những điều hài hước mỗi ngày, và bạn phải có những giấc mơ. Xung quanh chúng ta có rất nhiều người đi lại vật vờ mỗi ngày, họ thậm chí không biết là mình đang chết dần đi”.
"Có một sự khác biệt lớn giữa lớn lên và trưởng thành. Nếu bạn mười chín tuổi và cứ nằm trên giường suốt ngày trong một năm tròn, thì dù bạn không chịu làm gì thì sang năm bạn cũng sẽ sang tuổi hai mươi. Năm nay tôi tám mươi bảy tuổi và nếu tôi cứ nằm nhà mà chẳng chịu mó tay đụng chân vào việc gì thì sang năm tôi cũng cứ sang tuổi thứ tám tám. Tất cả mọi người đều có thể lớn lên. Công việc ấy chẳng đòi hỏi bạn phải có tài hay khả năng gì đặc biệt. Điều đáng kể là bạn trưởng thành, tức là bạn luôn tìm thấy những cơ hội trong mọi sự thay đổi.
Đừng để mình phải nuối tiếc. Những người già thường nuối tiếc về những gì mà họ đã không làm nhiều hơn là hối hận về những gì họ đã làm.
Những người duy nhất sợ cái chết là những người có quá nhiều điều phải nuối tiếc".
Bà kết thúc bài nói chuyện của mình bằng cách dũng cảm hát bài hát: "The Rose" và đố chúng tôi học thuộc lời bài hát rồi áp dụng vào trong cuộc sống.
Vào năm cuối cùng, Rose hoàn thành khóa học mà bà đã bắt đầu từ nhiều năm trước đó. Một tuần sau lễ tốt nghiệp, bà ra đi trong giấc ngủ thanh bình.
Hơn 200 sinh viên đã đến dự lễ tang bà để tỏ lòng kính trọng đến người đã dạy cho họ biết bằng ví dụ của chính bản thân mình rằng không bao giờ là quá muộn để trở thành một con người như bạn muốn.
The Parable of the Child
There is a difference between education and experience. Education is what you get from readingthe small print. Experience is what you get from not reading it!
But isn't it true that great learning comes from both education and experience? Let me tell you a parable:
A young school teacher had a dream that an angel appeared to him and said, "You will be given a child who will grow up to become a world leader. How will you prepare her so that she will realize her intelligence, grow in confidence, develop both her assertiveness and sensitivity, be open-minded, yet strong in character? In short, what kind of education will you provide that she can become one of the world's truly GREAT leaders?"
The young teacher awoke in a cold sweat. It had never occurred to him before -- any ONE of his present or future students could be the person described in his dream. Was he preparing them to rise to ANY POSITION to which they may aspire? He thought, 'How might my teaching change if I KNEW that one of my students were this person?' He gradually began to formulate a plan in his mind.
This student would need experience as well as instruction. She would need to know how to solve problems of various kinds. She would need to grow in character as well as knowledge. She would need self-assurance as well as the ability to listen well and work with others. She would need to understand and appreciate the past, yet feel optimistic about the future. She would need to know the value of lifelong learning in order to keep a curious and active mind. She would need to grow in understanding of others and become a student of the spirit. She would need to set high standards for herself and learn self discipline, yet she would also need love and encouragement, that she might be filled with love and goodness.
His teaching changed. Every young person who walked through his classroom became, for him, a future world leader. He saw each one, not as they were, but as they could be. He expected the best from his students, yet tempered it with compassion. He taught each one as if the future of the world depended on his instruction.
After many years, a woman he knew rose to a position of world prominence. He realized that she must surely have been the girl described in his dream. Only she was not one of his students, but rather his daughter. For of all the various teachers in her life, her father was the best.
I've heard it said that "Children are living messages we send to a time and place we will never see." But this isn't simply a parable about an unnamed school teacher. It is a parable about you and me -- whether or not we are parents or even teachers. And the story, OUR story, actually begins like this:
"You will be given a child who will grow up to become...." You finish the sentence. If not a world leader, then a superb father? An excellent teacher? A gifted healer? An innovative problem solver? An inspiring artist? A generous philanthropist?
Where and how you will encounter this child is a mystery. But believe that his or her future may depend upon influence only you can provide, and something remarkable will happen. For no child will ever be ordinary to you again. And you will never be the same.
Ngụ ngôn về giáo dục trẻ
Có sự khác nhau giữ học vấn và kinh nghiệm.
- Học vấn là những gì bạn tiếp thu được nhờ đọc sách báo.
- Kinh nghiệm là những gì mà bạn có được không phải tư đọc sách !
Nhưng kiến thức bao la phải được đúc kết từ học vấn lẫn kinh nghiệm.
Một giáo viên trẻ nằm chiêm bao thấy một thiên thần xuất hiện trước mặt anh và nói : "Anh sẽ được ban cho một đứa bé. Đứa bé này khi trưởng thành, sẽ là người lãnh đạo thế giới. Anh sẽ trang bị cho cô bé như thế nào để cô nhận ra rằng mình thông minh, tự tin, vừa quyết đoán vừa nhạy cảm, cởi mở, nhưng mạnh mẽ về tính cách? Nói tóm lại, anh sẽ áp dụng hình thức giáo dục nào để cô bé trở thành một nhà lãnh đạo thế giới thực sự vĩ đại "
Thầy giáo trẻ thức dậy, đổ mồ hôi lạnh. Điều đó chưa bao giờ xãy ra trong giấc mơ của anh - ai đó là học trò trong hiện tại và tương lai của anh có thể là người được miêu tả trong giấc mơ. Liệu anh đã chuẩn bị cho chúng bước lên vị trí mà chúng khao khát? Anh ta suy nghĩ "Bài giảng của tôi sẽ thay đổi thế nào khi tôi biết rằng một trong những học trò của tôi là người đó". Dần dần anh bắt đầu hình thành kế hoạch trong đầu.
Có lẽ người sinh viên này cần kinh nghiệm cũng như được hướng dẫn. Người ấy cũng cần biết cách xử lý nhiều loại vấn đề. Người ấy phải trưởng thành cả về tư cách lẫn kiến thức. Người ấy cần có lòng tự tin, khả năng lắng nghe và phối hợp với người khác. Người này phải thấu hiểu và tôn trọng quá khứ, nhưng vẫn lạc quan về tương lai. Người ấy cần phải biết giá trị của việc "Học, học nữa, học mãi" để giữ cho mình một cái đầu nhanh nhẹn và ham học hỏi.
Người ấy cần trưởng thành trong việc thấu hiểu người khác và trở thành một sinh viên có ý thức. Cuối cùng, người ấy nên đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe cho mình và học cách tự giữ kỹ luật, tuy nhiên sinh viên ấy cũng cần tình yêu thương và sự khuyến khích, điều đó sẽ giúp người ấy khơi dậy tình yêu thương và lòng tốt của bản thân.
Cách dạy của anh thay đổi hẵn. Trong mắt anh, những cô bé cậu bé trong lớp anh đều trở thành nhà lãnh đạo thế giới tương lai. Anh nhìn mỗi học trò không phải với suy nghĩ chúng đang là ai mà chúng có thể là ai. Anh điều hỏi điều tốt nhất từ học trò và tôi luyện nó thành tình yêu thương. Anh dạy chúng như thể tương lai của cả thế giới này phụ thuộc vào bài giảng của anh.
Một thời gian sau, một người phụ nữ mà anh biết trở thành một nhân vật xuất chúng trên thế giới. Anh nhận ra rằng cô ấy chắc hẵn là cô bé đã được miêu tả trong giấc mơ của anh. Chỉ có điều cô ấy không là một trong những học trò của anh, mà là con gái anh. Trong số tất cả người thầy mà cô đã gặp trong cuộc đời, cha cô là người thầy vĩ đại nhất.
Ai đó nói với tôi rằng: "Trẻ em là những thông điệp sống ta gửi đi mà không thể biết thời gian và điểm đến". Nhưng đây không đơn giản là một câu chuyện hàm ý một người thầy giáo không tên. Nó là một câu chuyện về bạn và tôi - bất kể chúng ta có là bậc cha mẹ hay giáo viên. Và câu chuyện này, chính xác hơn là câu chuyện của tất cả mọi người, thực sự bắt đầu như thế này:
"Anh sẽ được ban cho một đứa bé. Đứa bé này, khi trưởng thành sẽ là..."
Bạn hãy tìm phần kết cho câu nói. Nếu không là một vị lãnh đạo thế giới, thì có phải là một người cha vĩ đại không? Hay một người thầy giáo lớn? Một thầy thuốc thiên tài? Một chuyên gia xử lý vấn đề đầy sáng tạo? Một nhà nghệ thuật đầy nhiệt huyết? Một nhà hảo tâm?
Không ai biết bạn sẽ gặp đứa trẻ ấy ở đâu và như thế nào.
Nhưng hãy tin rằng tương lai của cô bé, cậu bé ấy tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của bạn và một điều đó khác thường sẽ xảy ra. Sẽ không còn đứa trẻ nào tầm thường trong mắt bạn nữa. Và bạn sẽ không chỉ là bạn.
How Much Music Can You Make?
On Nov. 18, 1995, violinist Itzhak Perlman, performed a concert at Avery Fisher Hall at Lincoln Center in New York City. Stricken with polio as a child, Perlman painfully walked with the aid of two crutches to a chair in the middle of the stage. He carefully laid the crutches on the floor, loosened the clasps of his leg braces, extended one leg forward and the other underneath his chair, picked up his instrument and nodded to the conductor to begin.
But something went wrong. After only seconds of playing, one of the strings on his violin broke. The snap was a gunfire reverberating in the auditorium. The audience immediately knew what happened and fully expected the concert to be suspended until another string or even another instrument could be found.
But Perlman surprised them. He quietly composed himself, closed his eyes and then signaled the conductor to begin again. The orchestra resumed where they had left off and Perlman played -- on three strings. He played with passion and power. All the time he worked out new fingering in his mind to compensate for the missing string. A work that few people could play well on four strings Perlman accomplished on three.
When he finished, an awesome silence hung in the room. And then as one, the crowd rose to their feet and cheered wildly. Applause burst forth from every corner of the auditorium as fans showed deep appreciation for his talent and his courage.
Perlman smiled and wiped the sweat from this brow. Then he raised his bow to quiet the crowd and said, not boastfully, but in a quiet, pensive, reverent tone, "You know, sometimes it is the artist's task to find out how much music you can still make with what you have left."
Perlman should know. Polio left him with less stamina than he had before, yet he went on. Playing a concert on three strings is not unlike his philosophy of life -- he persevered with what he had left and still made music.
And isn't that true with us? Our task is to find out how much music we can still make with what we have left. How much good we can still do. How much joy we can still share. For I'm convinced that the world, more than ever, needs the music only you and I can make.
And if it takes extra courage to make the music, many will applaud your effort. For some people have lost more than others, and these brave souls inspire the rest of us to greater heights.
So I want to ask, "How much music can you make with what you have left?"
Chơi vĩ cầm chỉ với 3 dây
Ngày 18-11-1995, Itzhak Perlman, nghệ sĩ vĩ cầm, xuất hiện trên sân khấu trong một buổi hòa nhạc tại Trung tâm Lincoln, thành phố New York.
Nếu bạn từng có mặt tại các buổi hòa nhạc của Perlman, bạn biết rằng để lên được sân khấu không phải là chuyện dễ dàng đối với anh do bị bại liệt khi còn bé và vì thế anh đã phải mang hai cái nẹp ở hai chân và bước đi với sự trợ giúp của hai cái nạng. Khi anh đi qua sân khấu, đến chỗ ngồi của mình từng bước một cách khó khăn nhưng không kém phần oai vệ là một hình ảnh đầy xúc động. Sau đó Perlman chậm rãi ngồi xuống ghế, đặt cặp nạng trên sàn nhà, tháo hai cái móc ở chân ra, gấp một chân về phía sau và duỗi một chân ra phía trước. Kế đó anh cúi xuống và nhặt cây vĩ cầm lên, đặt nó vào vị trí, gật đầu với người chỉ huy dàn nhạc và bắt đầu chơi.
Nhưng lần này một biến cố nhỏ đã xảy ra. Ngay khi Perlman vừa chơi được một vài nhịp đầu tiên, 1 trong 4 sợi dây đàn trên cây vĩ cầm của anh bị đứt. Người ta có thể nghe nó kêu “rắc” một tiếng, âm thanh như một tiếng súng nhỏ lan ra cả phòng. Khán giả tưởng rằng Perlman sẽ cài lại những cái móc, nhặt lên cặp nạng và đi khập khiễng ra khỏi sân khấu để tìm hoặc một cây đàn khác hoặc một sợi dây khác cho cây đàn đang sử dụng. Nhưng Perlman không làm như vậy. Thay vào đó, anh ngồi im, khép đôi mắt lại trong giây lát và sau đó ra dấu cho người chỉ huy dàn nhạc bắt đầu trở lại.
Dĩ nhiên ai cũng biết rằng không thể chơi với cây vĩ cầm chỉ còn 3 dây trong một bản nhạc giao hưởng. Nhưng đêm nay Perlman đã chơi với cây đàn chỉ còn 3 dây của mình bằng tất cả sự đam mê, cuồng nhiệt. Và nhìn ở một góc cạnh nào đó, dường như anh đang thay đổi, sáng tạo giai điệu của những sợi dây đàn còn lại để phát ra những âm thanh chưa từng có bao giờ.
Khi Perlman chấm dứt, có một sự im lặng đầy kính trọng bao trùm cả không gian, hoan hô. Tiếng vỗ tay nghe được từ mọi góc của khán phòng. Perlman mỉm cười, lau những giọt mồ hôi trên trán, cúi chào khán giả và bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng nghiêm túc, anh nói: "Như quý vị đã biết, thỉnh thoảng chức năng của người nghệ sĩ là phải sáng tạo ra những cái mới để thay thế cho những cái đã mất đi".
Câu nói có sức mạnh làm sao. Nó luôn luôn tồn tại trong ý nghĩ của tôi kể từ khi tôi nghe nó. Và phải chăng đó là định nghĩa chính xác nhất không phải chỉ cho người nghệ sĩ mà là cho tất cả chúng ta.
The Wooden Bowl
I guarantee you will remember the tale of the Wooden Bowl tomorrow, a week from now, a month from now, a year from now.
A frail old man went to live with his son, daughter-in-law, and four-year old grandson. The old man's hands trembled, his eyesight was blurred, and his step faltered. The family ate together at the table.
But the elderly grandfather's shaky hands and failingsight made eating difficult. Peas rolled off his spoon onto the floor. When he grasped the glass, milk spilled on the tablecloth.
The son and daughter-in-law became irritated with the mess. "We must do something about father," said the son. "I've had enough of his spilled milk, noisy eating, and food on the floor."
So the husband and wife set a small table in the corner. There, Grandfather ate alone while the rest of the family enjoyed dinner. Since Grandfather had broken a dish or two, his food was served in a wooden bowl!
When the family glanced in Grandfather's direction, sometime he had a tear in his eye as he sat alone. Still, the only words the couple had for him were sharp admonitions when he dropped a fork or spilled food.
The four-year-old watched it all in silence.
One evening before supper, the father noticed his son playing with wood scraps on the floor. He asked the child sweetly, "What are you making?"
Just as sweetly, the boy responded, "Oh, I am making a little bowl for you and Mama to eat your food in when I grow up." The four-year-old smiled and went back to work .
The words so struck the parents so that they were speechless. Then tears started to stream down their cheeks. Though no word was spoken, both knew what must be done.
That evening the husband took Grandfather's hand and gently led him back to the family table. For the remainder of his days he ate every meal with the family. And for some reason, neitherhusband nor wife seemed to care any longer when a fork was dropped, milk spilled, or thetablecloth soiled.
On a positive note, I've learned that, no matter what happens, how bad it seems today, life does go on, and it will be better tomorrow.
I've learned that you can tell a lot about a person by the way he/she handles four things: a rainy day, the elderly, lost luggage, and tangled Christmas tree lights.
I've learned that, regardless of your relationship with your parents, you'll miss them when they're gone from your life.
I've learned that making a "living" is not the e same thing as making a "life.."
I've learned that life sometimes gives you a second chance.
I've learned that you shouldn't go through life with a catcher's mitt on both hands. You need to be able to throw something back.
I've learned that if you pursue happiness, it will elude you. But if you focus on your family, your friends, the needs of others, your work and doing the very best you can, happiness will find you.
I've learned that whenever I decide something with an open heart, I usually make the right decision.
I've learned that even when I have pains, I don't have to be one.
I've learned that every day, you should reach out and touch someone.
People love that human touch -- holding hands, a warm hug, or just a friendly pat on the back.
I've learned that I still have a lot to learn!
Cái bát gỗ
Tôi cam đoan bạn sẽ nhớ được câu chuyện của cái bát gỗ này vào ngày mai, tuần tới, tháng tới hay năm tới nữa.
Một ông già gầy yếu phải dọn đến ở chung với con trai, con dâu và một đứa cháu nội lên 4 tuổi. Ông già hai tay run rẩy, mắt đã mờ, chân bước không vững. Cả gia đình ngồi ăn chung nơi bàn ăn.
Nhưng người ông lớn tuổi với hai tay lụng cụng và đôi mắt kèm nhèm khiến cho việc ăn uống rất khó khăn. Những hạt đậu rớt từ muỗng xuống sàn nhà. Khi ông với tay lấy ly sữa thì sữa đổ tóe ra khăn bàn.
Người con trai và con dâu rất bực mình vì phải lau chùi dọn dẹp cho ông. Người con trai nói: “Chúng mình phải làm một cái gì để giải quyết vấn đề này. Anh chán ngấy cái vụ ông đánh đổ sữa, ăn uống nhồm nhoàm, và đánh đổ thức ăn trên sàn nhà.”
Sau đó hay vợ chồng bàn nhau đặt một cái bàn trong góc phòng. Ở đó, người ông phải ngồi ăn một mình trong khi cả gia đình ăn uống vui vẻ. Vì ông cụ đã đánh vỡ mấy cái đĩa, thức ăn của ông được bỏ vào một cái bát gỗ.
Khi cả gia đình liếc nhìn về phía ông cụ, đôi khi thấy ông chảy nước mắt khi phải ngồi một mình. Vậy mà, mỗi khi ông đánh rơi muỗng nĩa hay đánh đổ thức ăn, hai vợ chồng vẫn còn la rầy ông.
Đứa cháu 4 tuổi quan sát mọi sự trong thinh lặng.
Một tối kia, ngay trước bữa ăn, người cha thấy đứa con nghịch với mấy khúc gỗ vụn trên sàn. Anh ta dịu dàng hỏi: “Con đang làm gì vậy?”
Đứa bé cũng trả lời dịu dàng không kém: “Ồ con đang làm một cái bát nhỏ cho ba và mẹ ăn khi con lớn lên.” Nó cười và tiếp tục làm việc.
Những lời nói của đứa trẻ làm cho cặp vợ chồng sững sờ không nói nên lời. Rồi những giọt nước mắt tuôn rơi trên mặt họ. Dù không nói ra lời, cả hai đều hiểu phải làm cái gì.
Tối hôm ấy, người con trai, cầm tay bố và dịu dàng dắt ông cụ trở về bàn ăn của gia đình. Và trong suốt những ngày còn lại của cuộc đời ông cụ được ngồi ăn chung với gia đình. Và từ đó cả chồng lẫn vợ dường như không còn chú ý đến những lúc muỗng nĩa rơi, sữa bị đổ tràn hay khăn bàn bị dính bẩn.
Điểm son của bài học này là, dù bất cứ cái gì xẩy ra hôm nay có tệ đến đâu, đời sống vẫn tiếp diễn, và ngày mai sẽ tốt đẹp hơn.
Tôi cũng học được rằng chúng ta có thể biết nhiều về một con người qua phản ứng của người này trước bốn điều này: một ngày mưa buồn, người già yếu, mất hành lý, và những giây đèn Giáng Sinh bị vướng mắc.
Tôi đã học được rằng, dù cho bạn có yêu hay không thương yêu cha mẹ bạn, bạn cũng sẽ nhớ tiếc họ, khi họ đã đi ra khỏi cuộc đời của bạn.
Tôi đã học được rằng: kiếm sống trong đời không giống như là tạo dựng một cuộc đời.
Tôi cũng học được rằng, đời sống đôi khi ban cho ta một cơ may thứ hai.
Tôi cũng học được rằng chúng ta không thể nào chỉ biết tìm cách ôm bắt tất cả mọi sự trong đời. Chúng ta cũng phải có thể ném ra và cho đi.
Tôi đã học được rằng: nếu chúng ta theo đuổi hạnh phúc, nó sẽ lẫn tránh ta. Nhưng nếu chúng ta tập trung vào gia đình, bạn bè, vào nhu cầu của người khác, vào công việc của mình và cố gắng làm mọi sự tốt đẹp nhất, thì hạnh phúc sẽ tìm đến với ta.
Tôi đã học được rằng mỗi khi tôi quyết định một điều gì với một trái tim rộng mở, thì tôi thường quyết định đúng đắn.
Tôi đã học được rằng ngay cả khi tôi đang đau đớn, tôi không phải là nỗi đau cho kẻ khác.
Tôi đã học được rằng mỗi ngày qua tôi phải vươn ra và chạm đến một người khác.
Người ta thích những cử chỉ thân thiện - cầm tay, ôm chặt hay chỉ cần một cái vỗ nhẹ vào vai.
Tôi đã học được rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều hơn nữa!
A Living Message
Vincent Van Gogh was not always an artist. In fact, he wanted to be a church pastor and was even sent to the Belgian mining community of Borinage in 1879. He discovered that the miners there endured deplorable working conditions and poverty-level wages. Their families were malnourished and struggled simply to survive. He felt concerned that the small stipend he received from the church allowed him a moderate life style, which, in contrast to the poor, seemed unfair.
One cold February evening, while he watched the miners trudging home, he spotted an old man staggering toward him across the fields, wrapped in a burlap sack for warmth. Van Gogh immediately laid his own clothing out on the bed, set aside enough for one change, and determined to give the rest away. He gave the old man a suit of clothes and he gave his overcoat to a pregnant woman whose husband had been killed in a mining accident. He lived on starvation rations and spent his stipend on food for the miners. When children in one family contracted typhoid fever, though feverish himself, he packed up his bed and took it to them.
A prosperous family in the community offered him free room and board. But Van Gogh declined the offer, stating that it was the final temptation he must reject if he was to faithfully serve his community of poor miners. He believed that if he wanted them to trust him, he must become one of them. And if they were to learn of the love of God through him, he must love them enough to share with them.
He was acutely aware of a wide chasm, which can separate words and actions. He knew that people's lives often speak louder and clearer than their words. Maybe it was that same knowledge that led Francis of Assisi to frequently remind his monks, "Wherever you go, preach. Use words if necessary."
Thông điệp không lời
Họa sĩ tài ba Vincent Van Gogh không phải lúc nào cũng cầm cọ. Ông đã từng đến làm việc tại một mỏ than ở Borinage, Bỉ. Ở đó mọi người rất quý trọng ông vì sự hiểu biết và vốn sống của ông. Những khi rảnh rỗi, ông thường được mọi người mời nói chuyện về cuộc sống. Ông nhận ra có một số người thường phản ứng khi nghe ông nói chuyện.
Ông hiểu vì cuộc sống họ quá khổ sở đến nỗi khó tin được vào lời nói của người khác. Hằng ngày nhìn những người thợ mỏ phải làm việc trong các điều kiện cơ cực triền miên mà chỉ nhận được đồng lương chết đói, gia đình họ luôn phải chạy ăn từng bữa, ông chợt thấy xót xa khi so sánh với cuộc sống tương đối sung túc của mình.
Vào một buổi tối cuối năm lạnh lẽo, trong đoàn người thợ mỏ mệt mỏi lê từng bước chân về nhà, ông thấy một ông lão chân bước xiêu vẹo băng ngang qua cánh đồng, giấu chặt người sau miếng vải bố để tìm chút hơi ấm. Van Gogh đã lấy quần áo của mình đem cho ông lão và chỉ giữ lại một bộ duy nhất. Ông quyết định sống với khẩu phần lương thực ít ỏi và phân phát tiền lương của mình cho những thợ mỏ khốn khổ ấy.
Có lần, mấy đứa trẻ của một gia đình nọ bị sốt thương hàn, tuy bản thân cũng đang sốt, Van Gogh vẫn nhường giường của mình để bọn trẻ có chỗ nằm.
Một gia đình giàu có trong vùng gợi ý dành riêng cho ông một căn phòng trống để trọ, nhưng Van Gogh từ chối lời đề nghị này. Ông nói nếu có thiện chí, gia đình đó nên giúp những người có hoàn cảnh khó khăn hơn.
Những người trước đây thường phản ứng với ông giờ đã hiểu và rất kính trọng ông.
Ông ý thức rất rõ rằng giữa lời nói và hành động có một sự cách biệt khá lớn. Chính cuộc sống và hành động mới là tiếng nói chân tình và ấn tượng nhất, hơn tất cả mọi lời hoa mỹ. Ông nhận ra dù ở bất cứ nơi đâu, chỉ nên dùng lời nói khi thật cần thiết.
What's The Miracle Cost?
Tess was a precocious eight years old when she heard her Mom and Dad talking about her little brother, Andrew. All she knew was that he was very sick and they were completely out of money. They were moving to an apartment complex next month because Daddy didn't have the money for the doctor bills and our house. Only a very costly surgery could save him now and it was looking like there was no-one to loan them the money.She heard Daddy say to her tearful Mother with whispered desperation, "Only a miracle can save him now."
Tess went to her bedroom and pulled a glass jelly jar from its hiding place in the closet. She poured all the change out on the floor and counted it carefully. Three times, even. The total had to be exactly perfect. No chance here for mistakes. Carefully placing the coins back in the jar and twisting on the cap, she slipped out the back door and made her way 6 blocks to Rexall's Drug Store with the big red Indian Chief sign above the door.
She waited patiently for the pharmacist to give her some attention but he was too intently talking to another man to be bothered by an eight year old at this moment. Tess twisted her feet to make a scuffing noise. Nothing. She cleared her throat with the most disgusting sound she could muster. No good. Finally she took a quarter from her jar and banged it on the glasscounter. That did it!
"And what do you want?" the pharmacist asked in an annoyed tone of voice. "I'm talking to my brother from Chicago whom I haven't seen in ages," he said without waiting for a reply to his question.
"Well, I want to talk to you about my brother," Tess answered back in the same annoyed tone. "He's really, really sick ... and I want to buy a miracle."
"I beg your pardon?" said the pharmacist.
"His name is Andrew and he has something bad growing inside his head and my Daddy says only a miracle can save him now. So how much does a miracle cost?"
"We don't sell miracles here, little girl. I'm sorry but I can't help you." the pharmacist said, softening a little.
"Listen, I have the money to pay for it. If it isn't enough, I will get the rest. Just tell me how much it costs."
The pharmacist's brother was a well dressed man. He stooped down and asked the little girl, "What kind of a miracle does you brother need?"
"I don't know," Tess replied with her eyes welling up. "I just know he's really sick and Mommy says he needs a operation. But my Daddy can't pay for it, so I want to use my money. "How much do you have?" asked the man from Chicago.
"One dollar and eleven cents," Tess answered barely audibly. "And it's all the money I have, but I can get some more if I need to."
"Well, what a coincidence," smiled the man. "A dollar and eleven cents -- the exact price of a miracle for little brothers." He took her money in one hand and with the other hand he grasped her and said "Take me to where you live. I want to see your brother and meet your parents. Let's see if I have the kind of miracle you need."
That well dressed man was Dr. Carlton Armstrong, a surgeon, specializing in neuro-surgery. The operation was completed without charge and it wasn't long until Andrew was home again and doing well. Mom and Dad were happily talking about the chain of events that had led them to this place. "That surgery," her mom whispered. "was a real miracle. I wonder how much it would have cost?"
Tess smiled. She knew exactly how much a miracle cost... one dollar and eleven cents....plus the faith of a little child.
Phép mầu nhiệm giá bao nhiêu?
Khi nghe cha mẹ bàn về bệnh tình của người anh, những gì cô bé Tess biết được là người anh mắc bênh rất nặng và gia đình đã cạn kiệt tiền. Cần có một ca phẫu thuật với chi phí rất mắc mới có thể cứu được anh của bé nhưng ngặt nổi không có ai cho gia đình em vay mượn. Em nghe cha nói trong tuyệt vọng: "Chỉ có phép mầu nhiệm mới có thể cứu được thằng bé thôi".
Tess và phòng mình và lôi ra con heo đất với số tiền em đã dành dụm từ bấy lâu nay. Em vội lao ra cửa và chạy thẳng đến một tiệm thuốc tây nổi tiếng ở khu phố. Em đứng trước cửa hiệu một cách kiên nhẫn để chờ đợi sự chú ý của người dược sĩ. Đoạn em dùng chân gõ lên sàn nhà rồi hắng giọng để tạo ra tiếng động... nhưng vô ích. Cuối cùng em lấy tay gõ mạnh lên tủ kính và người dược sĩ cất giọng một cách khó chịu: "Cháu muốn gì hả cháu bé? Cháu không thấy ta đang nói chuyện với người anh xa cách mười mấy năm trời hay sau?". Tess cũng trả lời với vẻ bực bội: " Cháu cũng muốn nói chuyện với chú về người anh của cháu đây. Anh ấy đang bị bênh và cháu đến đây để mua ... phép mầu nhiệm".
"Cháu muốn mua gì?". Người dược sĩ tròn mắt tỏ vẻ không hiểu.
"Tên của anh cháu là Andrew và anh ấy chịu đựng cái gì đó đau lắm ở trong đầu. Cha cháu nói rằng chỉ có phép mầu nhiệm mới cứu được anh ấy. Vậy phép mầu nhiệm bán với giá bao nhiêu hả bác?".
"Ở đây không bán thứ đó cháu bé ạ" - giọng người dược sĩ nhỏ đi.
"Nhưng bác này ,cháu có tiền. Cái giá có cao lắm không? Nhưng nếu không đủ cháu sẽ đi mượn thêm" - giọng Tess như van nài.
Người anh của ông dược sĩ ăn mặc rất đẹp và đứng bên cạnh đó và nghe hết cuộc đối thoại. Ông hỏi Tess: "Thế cháu có bao nhiêu?". "1 đô và 11 xu và đó là những gì cháu có, nhưng cháu có thể mượn thêm được mà. Bác bán cho cháu nhé?". Tess trả lời như muốn khóc.
"Ồ, thật trùng hợp", người đàn ông mỉm cười "1 đô và 11 xu - một số tiền chính xác để mua phép màu nhiệm cho anh cháu". Sau đó, ông cầm số tiền và nắm chặt bàn tay cô bé đề nghị: "Cháu hãy dẫn ta dến nhà cháu. Ta muốn gặp anh trai và cha mẹ cháu. Để xem ta có phép mầu nhiệm mà cháu cần không nhé!".
Người đàn ông ấy chính là một bác sĩ rất nổi tiếng. Cuộc phẫu thuật đã rất thành công mà không hề tốn kém bất cứ chi phí nào. Anh trai Tess dần hồi phục và sống khoẻ mạnh. Cha mẹ Tess vui hơn lúc nào hết. Mẹ em thì thầm: "Thật sự là một phép nhiệm màu. Mẹ không biết mình phải trả bao nhiêu tiền đây? ".
Tess mỉm cười tinh nghịch. Cô bé biết chính xác số tiền đó...1 đô và 11 xu... cộng thêm sự chân thành của một đứa trẻ.
The Mayonnaise Jar and 2 Cups of Coffee
When things in your lives seem almost too much to handle, when 24 hours in a day are not enough, remember the mayonnaise jar and the 2 cups of coffee.
A professor stood before his philosophy class and had some items in front of him. When the class began, he wordlessly picked up a very large and empty mayonnaise jar and proceeded to fill it with golf balls. He then asked the students if the jar was full. They agreed that it was.
The professor then picked up a box of pebbles and poured them into the jar. He shook the jar lightly. The pebbles rolled into the open areas between the golf balls. He then asked the students again if the jar was full. They agreed it was.
The professor next picked up a box of sand and poured it into the jar. Of course, the sand filled up everything else. He asked once more if the jar was full. The students responded with an unanimous "yes."
The professor then produced two cups of coffee from under the table and poured the entire contents into the jar effectively filling the empty space between the sand. The students laughed.
"Now," said the professor as the laughter subsided, "I want you to recognize that this jar represents your life. The golf balls are the important things--your family, your children, your health, your friends and your favorite passions--and if everything else was lost and only they remained, your life would still be full.
The pebbles are the other things that matter like your job, your house and your car.
The sand is everything else--the small stuff. "If you put the sand into the jar first," he continued, "there is no room for the pebbles or the golf balls. The same goes for life. If you spend all your time and energy on the small stuff you will never have room for the things that are important to you.
"Pay attention to the things that are critical to your happiness. Play with your children. Take time to get medical checkups. Take your spouse out to dinner. Play another 18. There will always be time to clean the house and fix the disposal. Take care of the golf balls first--the things that really matter. Set your priorities. The rest is just sand."
One of the students raised her hand and inquired what the coffee represented. The professor smiled. "I'm glad you asked.
"It just goes to show you that no matter how full your life may seem, there's always room for a couple of cups of coffee (pot of tea) with a friend."
Cái bình cuộc sống
Khi bạn cảm thấy cuộc sống của mình đang ngoài tầm kiểm soát, khi một ngày dài 24h dường như không đủ để bạn làm việc, hãy nhớ đến câu chuyện về cái bình rỗng và hai tách cà phê…
Giờ triết học, vị giáo sư già ngồi yên ở bàn với một số đồ lỉnh kỉnh trước mặt. Khi giờ học bắt đầu, giáo sư không nói lời nào mà đặt một cái bình lớn lên trên mặt bàn và đổ đầy vào đó những quả bóng bàn. Sau đó ông hỏi tất cả sinh viên trong lớp và mọi người đều đồng ý rằng cái bình đã đầy.
Tiếp đó, ông giáo sư lấy ra một hộp đầy sỏi nhỏ và đổ chúng vào bình. Ông lắc nhẹ cái bình, sỏi rơi đầy các kẽ hở giữa những quả bóng bàn. Một lần nữa ông hỏi các sinh viên của mình và tất cả đều đống ý là cái bình đã đầy.
Tiếp tục công việc, vị giáo sư lấy tiếp một cái hộp đựng đầy cát và trút tất cả số cát vào bình. Tất nhiên là cát nhanh chóng lấp đầy những kẽ hở còn lại. Thêm một lần nữa giáo sư hỏi cả lớp chiếc bình đã đầy chưa. Lần này, rất quả quyết, đám sinh viên trong lớp khẳng định cái bình không thể chứa thêm một thứ gì nữa.
Mỉm cười, vị giáo sư ra ngoài lấy hai tách cà phê rồi trút cả vào trong bình. Ðám cát có sẵn nhanh chóng hút hết, và cà phê đã lấp đầy khoảng trống dù rất bé nhỏ giữa những hạt cát.
“Nào các trò”, ông giáo sư ngồi xuống ghế và bắt đầu. “Tôi muốn các trò hãy coi cái bình này như cuộc sống của các trò. Những trái bóng bàn kia là những thứ quan trọng nhất trong cuộc sống của các trò: Gia đình, con cái, sức khoẻ, những người bạn và những niềm đam mê. Nếu những thứ đó còn, cuộc sống của các trò vẫn coi như hoàn hảo.
Những viên sỏi kia tượng trưng cho những thứ khác trong cuộc sống như công việc, nhà cửa hay xe hơi.
Cát là đại diện cho những điều vặt vãnh khác. Nếu các trò bỏ cát vào bình đầu tiên, sẽ không còn chỗ trống cho sỏi hay bóng bàn. Cuộc sống cũng thế. Nếu bỏ quá nhiều thời gian, sức lực cho những thứ vặt vãnh, các trò sẽ không còn thời gian cho điều gì quan trọng hơn.
Những thứ cần quan tâm có thể là những thứ quyết định hạnh phúc của các trò. Ðó có thể là chơi với bọn trẻ, có thể là bỏ thời gian để đến khám bác sĩ định kì, có thể là dành thời gian ăn tối cùng gia đình, cũng có khi chỉ là công việc dọn dẹp nhà cửa và tống khứ đi một số thứ không cần thiết.
Hãy quan tâm đến những trái bóng bàn đầu tiên, những thứ thật sự quan trọng. Hãy biết ưu tiên cái gì đầu tiên. Những thứ còn lại chỉ là cát thôi.
Có một cánh tay đưa lên và một câu hỏi cho giáo sư: “Vậy cà phê đại diện cho cái gì thưa giáo sư?”.
Ông giáo sư mỉm cười: “Tôi rất vui khi trò hỏi câu đó. Cà phê có nghĩa là dù trò có bận rộn với cuộc sống của mình đến đâu thì vẫn luôn có thời gian để đi uống một tách cà phê với bạn bè”.
The Bridge
Once upon a time, two brothers, John and Andrew, who lived on adjoining farms, fell into conflict. It was the first serious rift in 40 years of farming side by side, sharing machinery, and trading labor and goods as needed without a conflict. Then the long collaboration fell apart. It began with a small misunderstanding and it grew into a major difference, and finally it exploded
into an exchange of bitter words followed by weeks of silence. (They were desperately in need of reconciliation.)
One morning there was a knock on John's door. He opened it to find a man with a carpenter's toolbox. "I'm looking for a few days work", he said. "Perhaps you would have a few small jobshere and there that I could
help with?"
John, replied, "Yes, I do have a job for you. Look across the creek at that farm. That's my neighbor, in fact, it's my younger brother Andrew. Last week there was a meadow between us, but he took his bulldozer to the river levee and now there is a creek between us. Well, he may have done this to spite me, but I'll do him one better. See that pile of lumber by the barn? I want you to build me a fence; an eight-foot fence so I won't need to see his place or his face anymore."
The carpenter said, "I think I understand the situation. Show me the nails and the post-hole digger and I'll be able to do a job that pleases you." John had to go to town, so he helped the carpenter get the materials ready and then he was off for the day. The carpenter worked hard all that day measuring, sawing, and nailing. About sunset when John returned, the carpenter had just finished his job. John's eyes opened wide, his jaw dropped. There was no fence there at all. It was a bridge--a bridge stretching from one side of the creek to the other! A fine piece of work,
handrails and all, and Andrew the younger brother, was coming toward them, his hand outstretched. Andrew hollered to John. "You are quite a fellow to build this bridge after all I've said and done."
The two brothers stood at each end of the bridge, and then they met in the middle, taking each other's hand, and then embracing. They turned to see the carpenter hoist his toolbox onto his shoulder.
John called to the carpenter, "No, wait! Stay a few days. I've a lot of other projects for you,"
"I'd love to stay on," the carpenter replied, "but, I have many more bridges to
build."
Cây cầu
Vùng nọ có hai anh em sống kế nhà nhau. Họ đã từng rất hòa thuận nhưng gần đây xảy ra mâu thuẫn chỉ vì một sự hiểu lầm nhỏ trong kinh doanh.
Một buổi sáng, có một người đến gõ cửa nhà người anh, John. Đó là một người thợ mộc với túi đồ nghề to tướng: "Tôi đang tìm việc và hi vọng ông có việc gì đó cần đến tôi".
"Rất đúng lúc" - John nói. "Tôi có một công việc cho anh đây. Anh nhìn thấy cái hố to đằng kia không? Đó là “tác phẩm” của hàng xóm nhà tôi, mà không, thực ra là em trai tôi. Tuần trước, có một bãi cỏ ở giữa hai nhà và nó đã lấy xe ủi đào đi tạo thành cái hố. Nó làm việc đó để chọc tức tôi nhưng hãy xem tôi trả đũa lại nó. Tôi muốn anh xây cho tôi một hàng rào cao khoảng 3m. Tôi không muốn nhìn thấy nó thêm nữa".
Người thợ đáp: "Tôi hiểu. Hãy cho tôi đinh và chỉ cho tôi chỗ ông muốn xây rào. Tôi sẽ hoàn thành tốt công việc".
John đưa cho người thợ mộc những thứ anh ta cần rồi vào thành phố, nói rằng mình sẽ quay lại vào cuối ngày.
Người thợ mộc đo đạc, xẻ gỗ, đóng đục chăm chỉ cả ngày.
Hoàng hôn xuống, cả nông trại chuyển dần về tối thì người thợ mộc cũng kết thúc công việc và John trở về. Nhưng John không thấy hàng rào đâu, thay vào đó là một cây cầu. Cây cầu nối liền hai nhà. Và ở phía đầu cầu bên kia, người hàng xóm, người em trai đang chạy lại với vòng tay mở rộng.
"Anh thật rộng lượng khi xây cây cầu này sau tất cả những gì em đã nói và làm" - Người em nói với John.
Giữa hai anh em không còn gì ngăn cách nữa. Họ chạy lại bên nhau, ôm chặt nhau sau nhưng mâu thuẫn không đáng có. Họ quay lại nhìn người thợ mộc để nói lời cảm ơn nhưng người thợ mộc đang khoác túi đồ nghề lên vai chuẩn bị ra đi.
"Không, chờ đã. Anh hãy ở lại đây với chúng tôi một vài ngày. Chúng tôi muốn cảm ơn anh" - Người anh nói.
"Tôi cũng muốn ở lại" - Người thợ lên tiếng - "Nhưng còn rất nhiều cây cầu khác đang đợi tôi".
The Moth and The Cocoon
A man found a cocoon of an emperor moth. He took it home, so that he could watch the moth come out of the cocoon. One day, a small opening appeared, and he sat still, watching for several hours, as the moth struggled to force its body through the little hole. Then, it seemed to stop making any progress. It appeared, as if, it had gotten as far as it could and it could go no farther. It seemed to be stuck. Then, the man in his kindness, decided to help the moth.
So, he took a pair of scissors, and snipped off the remaining bit of the cocoon. The moth then emerged easily. But, it had a swollen body and small, shriveled wings. The man continued to watch the moth, because he expected, at any moment, the wings would enlarge and expand to be able to support the body, which would contract in time. Neither happened! In fact, the little moth spent the rest of its life, crawling around with a swollen body and shriveled wings. It never was able to fly.
What the man, in his kindness and haste, did not understand was, the restricting cocoon and the struggle, required for the moth to get through the tiny opening, were God's way of forcing fluid from the body of the moth, into its wings, so it would be ready for flight, once it achieved its freedom from the cocoon. Freedom and flight would only come after the struggle. By depriving the moth of a struggle, the man deprived the moth of health.
Sometimes, struggles are exactly what we need in our life. If God allowed us to go through our life without any obstacles, He would cripple us.We would not be as strong, as what we could have been.
Con nhộng và cái kén
Khi con nhộng chui ra khỏi được cái kén chật hẹp của mình, nó sẽ tung bay vào bầu trời xanh rộng bao la đầy hoa và nắng ấm. Và đây là giây phút hạnh phúc nhất trong cuộc đời của nó.
Một ngày kia, tổ kén trên cành cây hé mở một chút. Một người ngồi gần đó quan sát: đã hàng mấy tiếng đồng hồ chú bướm cứ cố gắng chui ra khỏi cái lỗ nhỏ xíu ở đầu kén. Rồi bỗng chú bướm bất động, dường như nó đã kiệt sức và không thể chui ra thêm một đoạn nào nữa. Thế là người đàn ông quyết định giúp đỡ chú bướm. Ông ta lấy kéo và tỉa cái miệng kén cho rộng thêm ra. Chú bướm liền chui ra một cách dễ dàng. Nhưng nó chỉ là một thân nhộng trần trụi với đôi cánh nhăn nhúm và khô héo như chiếc lá cháy sém dưới sức nóng của ánh sáng mặt trời. Người đàn ông tiếp tục quan sát chú bướm vì ông ta nghĩ rằng thế nào đôi cánh đó cũng mọc lớn lên để kịp nâng thân bướm khi nó rời khỏi kén. Thế nhưng cả hai điều đó đều không xảy ra. Chú bướm dùng thời gian ngắn ngủi còn lại của đời mình trường quanh với một thân nhộng trần trụi và đôi cánh khô nhăn nhúm. Nó chẳng bao giờ có thể bay được.
Điều người đàn ông tốt bụng kia không biết đến là miệng kén chỉ mở rất hẹp và con nhộng kia cần phải nỗ lực hết sức mình, đến mức kiệt sức để có thể chui ra. Và cách thiên nhiên tạo ra loài bướm là chính khi con nhộng dùng hết sức để chui ra khỏi miệng kén như vậy, cơ thể nó sẽ tiết ra một loại dịch nhờn và bươm vào đôi cánh của nó để đôi cánh sẽ lớn dần lên và chú bướm có thể tung bay vào bầu trời xanh bao la ngay khi nó rời hẳn cái kén.
Nhiều lần trong đời chúng ta cần phải nỗ lực đến kiệt sức để có thể đạt được điều mình mơ ước. Nếu cuộc sống cho chúng ta một cuộc đời không có những trở ngại và gian truân, thì chính cuộc đời đó sẽ làm cho chúng ta què quặt. Chúng ta sẽ rất yếu ớt và không thể có được một sự mạnh mẽ mà lẽ ra chúng ta phải có. Chúng ta cũng chẳng thể nào tung bay được .
The Painting
Years ago, there was a very wealthy man who, with his devoted young son, shared a passion for art collecting. Together theytraveled around the world, adding only the finest art treasures to their collection. Priceless works by Picasso, Van Gogh, Monet and many others adorned the walls of the family estate. The widowed, elder man looked on with satisfaction as his only child became an experienced art collector. The son's trained eye and sharp business mind caused his father to beam with pride as they dealt with art collectors around the world.
As winter approached, war engulfed the nation, and the young man left to serve his country. After only a few short weeks, his father received a telegram. His beloved son was missing in action. The art collector anxiously awaited more news, fearing he would never see his son again. Within days, his fears were confirmed. The young man had died while rushing a fellow soldier to a medic. Distraught and lonely, the old man faced the upcoming Christmas holidays with anguish and sadness. The joy of the season, a season that he and his son had so looked forward to, would visit his house no longer.
On Christmas morning, a knock on the door awakened the depressed old man. As he walked to the door, the masterpieces of art on the walls only reminded him that his son was not coming home. As he opened the door,he was greeted by a soldier with a large package in his hand. He introduced himself to the man by saying, "I was a friend of your son. I was the one he was rescuing when he died. May I come in for a few moments? I have something to show you."
As the two began to talk, the soldier told of how the man's son had told everyone of his, not to mention his father's, love of fine art. "I'm an artist," said the soldier, "and I want to give you this." As the old man unwrapped the package, the paper gave way to reveal a portrait of the man's son. Though the world would never consider it the work of a genius, the painting featured the young man's face in striking detail.
Overcome with emotion, the man thanked the soldier, promising to hang the picture above the fireplace. A few hours later, after the soldier had departed, the old man set about his task. True to his word, the painting went above the fireplace, pushing aside thousands of dollars of paintings. Then, the man sat in his chair and spent Christmas gazing at the gift he had been given.
During the days and weeks that followed, the man realized that even though his son was no longer with him, the boy's life would live on because of those he had touched. He would soon learn that his son had rescued dozens of wounded soldiers before a bullet stilled his caring heart. As the stories of his son's gallantry continued to reach him, fatherly pride and satisfaction began to ease the grief. The painting of his son soon became his most prized possession, far eclipsing any interest in the pieces for which museums around the world clamored. He told his neighbors it was the greatest gift he had ever received.
The following spring, the old man became ill and passed away. The art world was in anticipation! Unmindful of the story of the man's only son, but in his honor; those paintings would be sold atan auction.
According to the will of the old man, all of the art works would be auctioned on Christmas day, the day he had received his greatest gift. The day soon arrived and art collectors from around the world gathered to bid on some of the world's most spectacular paintings. Dreams would be fulfilled this day; greatness would be achieved as many would claim "I have the greatest collection." The auction began with a painting that was not on any museum's list. It was the painting of the man's son. The auctioneer asked for an opening bid. The room was silent. "Who will open the bidding with $100?" he asked. Minutes passed. No one spoke. From the back of the room came, "Who cares about that painting? It's just a picture of his son. Let's forget it and go on to the good stuff." More voices echoed in agreement. "No, we have to sell this one first," replied the auctioneer. "Now, who will take the son?"
Finally, a friend of the old man spoke. "Will you take ten dollars for the painting? That's all I have. I knew the boy, so I'd like to have it." I have ten dollars. Will anyone go higher?" called the auctioneer. After more silence, the auctioneer said, "Going once, going twice. Gone." The gavel fell. Cheers filled the room and someone exclaimed, "Now we can get on with it and bid on these treasures!" The auctioneer looked at the audience and announced the auction was over.
Stunned disbelief quieted the room. Someone spoke up and asked, "What do you mean it's over? We didn't come here for a picture of some old guy's son. What about all of these paintings? There are millions of dollars of art here! I demand that you explain what's going on here!" The auctioneer replied, "It's very simple. According to the will of the father, whoever takes the son ... gets it all."
Puts things into perspective, doesn't it? Just as those art collectors discovered on that Christmas day, the message is still the same-the love of a Father, a Father whose greatest joy came from His Son who went away and gave His life rescuing others. And because of that Father's love, wow gold kaufenwhoever takes the Son gets it all.
Bức chân dung
Hai cha con nhà nọ tính tình rất gần gũi, hiền lành và thích sưu tầm các kiệt tác nghệ thuật hội hoạ có giá trị. Các tác phẩm vô giá của Picasso, Van Gogh, Monet và nhiều kiệt tác khác được treo khắp trên tường như những tài sản quý giá của gia đình.
Người đàn ông già góa vợ rất hài lòng khi thấy con trai duy nhất của mình trở thành một nhà sưu tầm tranh sành sỏi.
Con mắt lành nghề và đầu óc kinh doanh sắc bén của anh làm cho người cha rất lấy làm tự hào trong những lần làm việc với các nhà sưu tầm tranh trên toàn thế giới.
Mùa đông đến, đất nước chìm trong chiến tranh, chàng trai trẻ lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Và chỉ sau một vài tuần ngắn ngủi, cha anh nhận được một bức điện. Đứa con trai yêu quý của ông đã mất tích trong chiến đấu.
Nhà sưu tầm nghệ thuật chờ đợi thêm thông tin trong sự lo âu, bồn chồn; ông sợ rằng mình sẽ không bao giờ được gặp lại con trai nữa. Và rồi, nỗi lo sợ của ông đã trở thành sự thật. Chàng trai trẻ đã hy sinh trong khi đưa một đồng đội đi cấp cứu.
Cô đơn và tuyệt vọng, người đàn ông già nua đón những ngày lễ Giáng Sinh đang đến gần trong sự buồn tủi, đau đớn. Niềm vui của một mùa Giáng Sinh mà ông và con trai hằng mong mỏi không còn ghé thăm ngôi nhà.
Buổi sáng hôm Giáng sinh, một tiếng gõ cửa làm ông già đau khổ thức giấc. Khi ông bước ra tới cửa, các kiệt tác nghệ thuật chỉ nhắn nhủ ông rằng con trai không còn về nhà được nữa.
Khi ông mở cửa, một người lính chào ông, trên tay anh là một gói đồ lớn. Anh giới thiệu: “Cháu là bạn của con trai bác, là người được anh ấy đưa đi cấp cứu ngày anh ấy hi sinh. Cháu xin phép vào nhà một chút được không ạ? Cháu có cái này muốn cho bác xem”.
Khi hai người bắt đầu nói chuyện, anh lính kể cho ông nghe về lòng đam mê hội hoạ của người con trai, về những điều anh đã nói. “Cháu là một hoạ sĩ ”, người lính nói, “và cháu muốn tặng bác món quà này”.
Mở gói quà ra, bức chân dung người con trai hiện ra trước mắt ông. Mặc dù thế giới không bao giờ coi đó là tác phẩm của một thiên tài, nhưng bức tranh đã khắc họa gương mặt người con trai rất chi tiết và ấn tượng. Tĩnh tâm lại, ông cảm ơn chàng lính trẻ, hứa sẽ treo bức tranh lên phía trên lò sưởi.
Một vài giờ sau khi chàng lính đã chia tay ra về, ông già bắt đầu công việc của mình. Đúng theo lời ông, bức tranh được treo phía trên lò sửa, bên cạnh các bức tranh có giá trị hàng nghìn đô la. Sau đó ông ngồi trên ghế tựa và dành cả buổi Giáng Sinh ngắm nhìn món quà mình được tặng.
Trong suốt những ngày sau đó, ông già nhận ra rằng mặc dù con trai không còn nữa, nhưng anh vẫn còn sống mãi vì hành động dũng cảm của mình. Ông sớm biết rằng con trai ông đã cứu hàng chục chiến sĩ bị thương trước khi một viên đại xuyên vào trái tim nhân ái và gan dạ của anh.
Khi tiếp tục được nghe những câu chuyện về hành động dũng cảm của con trai mình, lòng tự hào và hãnh diện của người cha đã dần xoa dịu nỗi đau trong ông. Bức hình của con trai sớm trở thành tài sản quý giá nhất, làm lu mờ hết đam mê của ông đối với những kiệt tác mà các bảo tàng trên toàn thế giới muốn có. Ông nói với láng giềng rằng đó là món quà quý giá nhất mà ông đã nhận được.
Mùa xuân năm sau đó, ông già lâm bệnh và qua đời. Giới nghệ thuật cũng dự đoán được điều này! Không để ý đến câu chuyện về người con trai duy nhất của ông, nhưng để tỏ lòng tôn kính và theo nguyện vọng của ông; những bức tranh được đem bán đấu giá. Theo di chúc của ông, tất cả các tác phẩm hội họa phải được bán đấu giá vào ngày Giáng Sinh, ngày mà ông đã nhận được món quà quý giá nhất của mình.
Ngày đó sớm đến và các nhà sưu tầm nghệ thuật trên toàn thế giới đã tụ họp để trả giá một số bức tranh đẹp nhất của thế giới.
Ngày này sẽ khiến giấc mơ của những người sưu tầm tranh trở thành hiện thực và nhiều người sẽ phải thốt lên rằng: “Tôi có được bộ sưu tập quý giá nhất”.
Cuộc đấu giá bắt đầu với bức tranh không có trong danh sách của bất cứ bảo tàng nào. Đó là bức tranh người con trai ông già. Người điều khiển cuộc bán đấu giá yêu cầu trả giá lần đầu tiên cho bức tranh. Căn phòng im lặng.
“Ai sẽ mở màn cuộc đấu giá với 100 đô la?” - ông hỏi. Nhiều phút trôi qua. Không có động tĩnh gì. Từ cuối phòng có tiếng người vang lên: “Ai quan tâm đến bức tranh đó? Đó chỉ là bức tranh người con trai ông già thôi. Hãy bỏ qua và chuyển sang những bức tranh quý giá khác đi”.
Nhiều giọng đồng tình nữa vang lên. “Không, chúng tôi phải bán bức tranh này đầu tiên”, người chủ trì cuộc bán đấu giá trả lời. “Nào, ai lấy bức tranh người con trai?”. Cuối cùng, một người bạn của ông già lên tiếng: “Ông có bán bức tranh đó với giá 10 đô la không? Tôi chỉ có tất cả từng ấy thôi. Tôi biết cậu bé, vì vậy tôi muốn mua bức tranh đó. Tôi có 10 đô la”.
“Có ai trả cao hơn không?” người chủ trì cuộc đấu giá hỏi.
Lại sau một hồi im lặng, người chủ trì cuộc đấu giá lên tiếng: “Một lần, hai lần. Kết thúc”.
Chiếc búa rơi xuống. Tiếng reo hò tràn ngập căn phòng, một số người reo lên: “Bây giờ chúng ta có bắt đầu cuộc đấu giá cho các tác phẩm quý giá này rồi!”.
Người chủ trì cuộc đấu giá nhìn vào khán giả và tuyên bố cuộc đấu giá kết thúc. Cả phòng lặng đi trong sự hoài nghi, khó hiểu. Một số người lên tiếng hỏi: “Ông nói cuộc đấu giá kết thúc nghĩa là sao? Chúng tôi không đến đây vì một bức tranh con trai của một ông già nào đó. Thế còn tất cả những bức tranh này? Có hàng triệu đô la nghệ thuật ở đây! Tôi yêu cầu ông giải thích xem trò gì đang diễn ra ở đây vậy…!”
Người chủ trì cuộc đấu giá trả lời: “Rất đơn giản. Theo di chúc của người cha, ai lấy bức tranh người con trai… sẽ được tất cả”.
Mọi thứ đều có giá trị nghệ thuật. Như điều mà các nhà sưu tầm tranh đã khám phá ra vào ngày Noel đó, vẫn dòng thông điệp:
Tình yêu của người cha, một người cha có lòng yêu thương con vô hạn, một người cha lấy người con trai làm niềm vui, niềm an ủi lớn nhất đời mình, người đã qua đời và dành cuộc đời mình cứu vớt những người khác. Và bởi tình yêu của người cha, bất cứ ai lấy bức chân dung người con trai sẽ được hưởng tất cả.
Why Buy Trouble?
One day Mullah Nasruddin was inconsolably crying. His neighbours and friends gathered around and asked why Nasruddin grimly replied, "My uncle has passed away. A friend asked, "Was he very close and dear to you?"
Nasruddin replied, "Not very close. I have seen him during childhood. But he has left one lakh rupees for me." The friends were surprised, "Why are you crying for a distant uncle, more so when he has left so much money?" Nasruddin replied, "I am not crying for him. Another uncle of mine died yesterday ."
A neighbour asked, "Oh! He must be very close to you. Never mind, after all everybody has to die…." Nasruddin interrupted, "I am not crying for him. He has also left one lakh rupees for me." The surprised friends asked, "Then what makes you cry?" Nasruddin said, "Another uncle of mine died day before yesterday He has also left one lakh rupees for me."
The friends rebuked, "Today you are richer by three lakh rupees by the death of three distant uncles. Instead of crying you should rejoice."
Nasruddin grimly replied, "How can I rejoice? I am crying because I do not have any other uncle to die and give me one lakh rupees more."
We all make ourselves unhappy like Nasruddin over what we have not got or cannot get, instead of being happy over what we have got. In life we get certain things and do not get certain things. We have precious life, loving relations, air, water, flowers, green grass and blue skies to make us happy . All nature is busy giving us pleasure. But we have no time to accept it.
We are too busy in counting what we have not got: a bigger house, better car, power and position and so on. We forget that someday in the near future we have to leave everything for our eternal abode.
Life is too short to be possessed by these transitory possessions. Since life is in motion we cannot remain happy with anything for long. So why pine for them?
Khóc than ư? Cuộc đời ngắn lắm
Một hôm thấy Mullah Nasruddin khóc không dứt, hàng xóm và bạn bè mới tụ tập quanh và hỏi tại sao. Nasruddin trả lời: “Chú tôi vừa qua đời”. Một người bạn hỏi: “Thế chú ấy có thân thiết với anh không?”...
… Nasruddin đáp: "Không thân lắm. Tôi chỉ gặp chú hồi nhỏ. Nhưng chú để lại cho tôi một trăm ngàn rupi".
Mấy người bạn đều ngạc nhiên: "Thế tại sao anh lại khóc về một người chú xa lạ như thế, lại khóc nhiều khi chú đã để lại cho anh một đống tiền như vậy?". Nasruddin trả lời: "Tôi không khóc cho chú ấy. Một người chú khác của tôi mất hôm qua".
Tức thì một người hàng xóm hỏi: "Ồ! Chắc hẳn chú ấy phải thân thiết với anh lắm. Đừng buồn, rồi ai cũng phải chết mà…". Nasruddin ngắt lời: "Tôi không khóc cho người chú đó. Chú ấy cũng để lại cho tôi một trăm ngàn rupi".
Những người bạn ngạc nhiên: "Thế thì cái gì khiến anh khóc?".
Nasruddin nói: "Một người chú khác của tôi chết ngày hôm kia. Chú ấy cũng để lại cho tôi một trăm ngàn rupi".
Những người bạn đồng thanh quở trách Nasruddin: "Hôm nay anh đã giàu hơn vì có thêm ba trăm ngàn rupi từ ba người chú họ xa. Thay vì ngồi khóc, anh phải vui lên".
Nasruddin thản nhiên đáp: "Làm sao tôi có thể vui vẻ được? Tôi khóc vì tôi không còn người chú nào khác chết đi và cho tôi thêm một trăm ngàn rupi nữa".
Giống như anh chàng Nasruddin, tất cả chúng ta đều khiến mình bất hạnh về những gì chúng ta không có hoặc không thể đạt được, thay vì hạnh phúc về những gì chúng ta đang có.
Trong cuộc sống, chúng ta có được một số thứ nhất định và không có một số thứ nhất định. Chúng ta có cuộc sống đáng quý, những mối quan hệ tốt đẹp, không khí, nước, hoa, cỏ xanh, và bầu trời xanh. Tất cả thiên nhiên đều bận rộn mang đến cho chúng ta niềm vui. Nhưng chúng ta không có thời gian chấp nhận những niềm vui này.
Thay vì đó, chúng ta lại bận rộn đếm những gì chúng ta không có: một căn nhà lớn hơn, quyền lực, chức vụ… Chúng ta quên rằng trong tương lai không xa, ta phải bỏ lại mọi thứ để sang thế giới bên kia.
Cuộc đời quá ngắn ngủi nếu ta chỉ nhăm nhăm theo đuổi những tài sản phù du. Bởi vì cuộc sống luôn chuyển động, chúng ta không thể hạnh phúc mãi với bất cứ điều gì trong một thời gian dài. Vậy thì tại sao lại héo hon vì những tài sản phù du ấy?
A Teacher's Lesson
There is a story many years ago of an elementary teacher. Her name was Mrs. Thompson. And as she stood in front of her 5th grade class on the very first day of school, she told the children a lie. Like most teachers, she looked at her students and said that she loved them all the same.
But that was impossible, because there in the front row, slumped in his seat, was a little boy named Teddy Stoddard. Mrs. Thompson had watched Teddy the year before and noticed that he didn't play well with the other children, that his clothes were messy and that he constantly needed a bath. And Teddy could be unpleasant. It got to the point where Mrs. Thompson would actually take delight in marking his papers with a broad red pen, making bold X's and then putting a big "F" at the top of his papers.
At the school where Mrs. Thompson taught, she was required to review each child's pastrecords and she put Teddy's off until last. However, when she reviewed his file, she was in for a surprise.
Teddy's first grade teacher wrote, "Teddy is a bright child with a ready laugh. He does his work neatly and has good manners...he is a joy to be around."
His second grade teacher wrote, "Teddy is an excellent student, well liked by his classmates, but he is troubled because his mother has a terminal illness and life at home must be a struggle."
His third grade teacher wrote, "His mother's death has been hard on him. He tries to do his best but his father doesn't show much interest and his home life will soon affect him if some steps aren't taken."
Teddy's fourth grade teacher wrote, "Teddy is withdrawn and doesn't show much interest in school. He doesn't have many friends and sometimes sleeps in class."
By now, Mrs. Thompson realized the problem and she was ashamed of herself. She felt even worse when her students brought her Christmas presents, wrapped in beautiful ribbons and bright paper, except for Teddy's. His present which was clumsily wrapped in the heavy, brown paper that he got from a grocery bag.
Mrs. Thompson took pains to open it in the middle of the other presents. Some of the children started to laugh when she found a rhinestone bracelet with some of the stones missing, and a bottle that was one quarter full of perfume. But she stifled the children's laughter when she exclaimed how pretty the bracelet was, putting it on, and dabbing some of the perfume on her wrist.
Teddy Stoddard stayed after school that day just long enough to say, "Mrs. Thompson, today you smelled just like my Mom used to." After the children left she cried for at least an hour. On that very day, she quit teaching reading, and writing, and arithmetic. Instead, she began to teach children..
Mrs. Thompson paid particular attention to Teddy. As she worked with him, his mind seemed to come alive. The more she encouraged him, the faster he responded. By the end of the year, Teddy had become one of the smartest children in the class and, despite her lie that she would love all the children the same, Teddy became one her "teacher's pets."
A year later, she found a note under her door, from Teddy, telling her that she was still the best teacher he ever had in his whole life. Six years went by before she got another note from Teddy. He then wrote that he had finished high school, third in his class, and she was still the best teacher he ever had in his whole life.
Four years after that, she got another letter, saying that while things had been tough at times, he'd stayed in school, had stuck with it, and would soon graduate from college with the highest of honors. He assured Mrs. Thompson that she was still the best and favorite teacher he ever had in his whole life.
Then four more years passed and yet another letter came.. This time he explained that after he got his bachelor's degree, he decided to go a little further. The letter explained that she was still the best and favorite teacher he ever had. But now his name was a little longer -- the letter was signed, Theodore F. Stoddard, M.D.
The story doesn't end there. You see, there was yet another letter that spring. Teddy said he'd met this girl and was going to be married. He explained that his father had died a couple of years ago and he was wondering if Mrs. Thompson might agree to sit in the place at the wedding that was usually reserved for the mother of the groom. Of course, Mrs. Thompson did. And guess what? She wore that bracelet, the one with several rhinestones missing. And she made sure she was wearing the perfume that Teddy remembered his mother wearing on their last Christmas together.
They hugged each, and Dr. Stoddard whispered in Mrs. Thompson's ear, "Thank you Mrs. Thompson for believing in me. Thank you so much for making me feel important and showing me that I could make a difference."
Mrs. Thompson, with tears in her eyes, whispered back. She said, "Teddy, you have it all wrong. You were the one who taught me that I could make a difference. I didn't know how to teach until I met you."
Bài học của cô giáo
Cô giáo tiểu học Thompson, trong ngày đầu tiên của năm học mới, trước các học sinh lớp năm yêu quý của mình, đã nói dối. Cô nhìn đám học trò thân thương và nói rằng cô yêu tất cả, ai cũng như ai. Nhưng điều đó không đúng.
Bởi ở hàng ghế ngay trước mặt cô, có cậu bé đang ngồi thụp trong chỗ của mình. Cậu ấy là Teddy Stoddard.
Cô Thompson để mắt đến Teddy từ năm học trước, và biết rằng cậu bé không hoà đồng, quần áo thì lôi thôi, nhếch nhác, luôn làm người khác khó chịu. Cũng vì lẽ đó, mỗi khi chấm bài của Teddy, cô rất thích dùng bút đỏ nét to, gạch vào đó dấu “X” thật đậm và cho điểm F to tướng lên đầu bài.
Theo quy định nhà trường, các giáo viên khi nhận lớp mới đều phải xem lại học bạ của học sinh từ những năm trước. Cô Thompson “ém” học bạ của Teddy xuống cuối cùng. Nhưng rồi cô đã rất ngạc nhiên khi đọc đến nó.
Cô giáo lớp vỡ lòng của cậu bé nhận xét trong học bạ: “Teddy rất sáng dạ, hay cười. Em gọn gàng, ngăn nắp trong học tập và lao động, có đạo đức tốt, rất hòa đồng với bạn”.
Cô giáo lớp hai viết: “Teddy là một học sinh xuất sắc, được các bạn yêu quý, nhưng hoàn cảnh em rất khó khăn vì mẹ mắc bệnh nặng có thể không qua khỏi”.
Cô giáo lớp ba: “Cái chết của mẹ là nỗi đau lớn của Teddy. Em đã cố gắng học tốt nhưng không được bố quan tâm. Mọi việc nếu tiếp diễn theo chiều hướng này có thể ảnh hưởng đến cuộc đời em”.
Cô giáo lớp bốn: “Teddy không chan hòa với mọi người, không quan tâm đến việc học, còn ngủ gật trong lớp và không có nhiều bạn”.
Đến giờ, cô Thompson đã hiểu ra vấn đề và tự trách bản thân. Cô buồn hơn khi Giáng sinh đến, các học sinh mang tặng cô những món quà gói cẩn thận trong giấy sáng màu, quấn ruy băng rất đẹp, riêng Teddy gói quà rất vụng về trong miếng giấy màu nâu, thô và dày mà cậu bé lấy được từ một bao hàng ở cửa hàng tạp hóa.
Cô Thompson xót xa mở món quà đó giữa những món quà khác. Một số học sinh ồ lên cười khi thấy chiếc vòng đeo tay bằng kim cương giả đã khuyết mất vài hạt và lọ nước hoa chỉ còn một phần tư trong gói quà của Teddy. Nhưng tiếng cười của bọn trẻ vụt tắt khi cô Thompson trầm trồ khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào, và chấm nhẹ chút nước hoa lên cổ tay của mình.
Ngày hôm đó, Teddy Stoddard cố nán lại sau giờ học, chỉ để nói: “Cô Thompson, hôm nay mùi thơm của cô rất giống mùi thơm của mẹ em hồi trước”.
Sau khi cậu bé ra về, cô đã khóc ít nhất khoảng một tiếng đồng hồ. Kể từ ngày hôm đó, cô Thompson không còn đơn thuần dạy đọc, dạy viết, dạy làm toán. Thay vào đó, cô dạy dỗ bọn trẻ.
Cô dành sự chú ý đặc biệt đến Teddy. Khi cô làm việc với cậu bé, trí óc em dường như sống lại. Cô càng động viên, khích lệ bao nhiêu, cậu bé càng tiếp thu và phản ứng nhanh bấy nhiêu.
Đến cuối năm học, Teddy đã trở thành một trong những học sinh thông minh nhất lớp. Và bất chấp lời nói dối của mình rằng cô yêu tất cả các học sinh đều như nhau, Teddy trở thành một trong những “học trò cưng” của cô.
Một năm sau, cô nhận được một bức thư ở dưới cửa nhà, thư của Teddy. Trong thư em nói rằng cô là cô giáo tuyệt vời nhất em từng được học.
Sáu năm trôi qua, cô lại nhận được một bức thư khác từ Teddy. Cậu đã tốt nghiệp trung học, đứng thứ ba trong lớp, và cô vẫn là cô giáo tuyệt vời nhất của cậu trong suốt cuộc đời.
Bốn năm sau, cô nhận được một lá thư nữa, nói rằng mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng cậu vẫn tiếp tục học, phấn đấu hết mình và sẽ sớm tốt nghiệp đại học với số điểm cao nhất. Cậu đảm bảo với cô Thompson rằng cô vẫn là cô giáo tuyệt vời và đáng quý nhất cậu từng có trong cả đời mình.
Bốn năm nữa lại trôi qua, một lá thư khác được gửi đến. Lần này Teddy báo tin cho cô giáo biết sau khi lấy bằng cử nhân, anh đã quyết định học cao lên chút nữa. Lá thư cũng cho biết cô vẫn là cô giáo tuyệt vời và đáng kính nhất.
Câu chuyện chưa dừng ở đó. Mùa xuân ấy lại mang đến một lá thư. Teddy thông báo anh đã gặp một cô gái và chuẩn bị kết hôn. Cha Teddy đã qua đời cách đó hai năm và anh băn khoăn liệu cô Thompson có thể nhận lời đến dự đám cưới, ở vị trí mẹ chú rể được không.
Tất nhiên cô Thompson đồng ý. Cô đeo chiếc vòng tay khuyết hạt và dùng nước hoa mà Teddy nhớ là mẹ cậu đã dùng trong Giáng sinh cuối cùng họ được ở bên nhau.
Họ ôm chầm lấy nhau, Tiến sĩ Stoddard thì thầm bên tai cô giáo: “Cảm ơn cô đã tin tưởng vào em. Cảm ơn cô rất nhiều vì đã thêm nghị lực cho em và chỉ cho em thấy em có thể thay đổi”.
Cô Thompson, với đôi mắt tràn lệ, đáp lời: “Teddy, em nói sai rồi. Chính em là người đã dạy cô rằng cô có thể làm được những việc có ý nghĩa. Cô đã không biết dạy dỗ học sinh như thế nào cho đến khi gặp được em đấy”.
An Angel in Uniform
In 1949, my father had just returned home from the war. On every American highway you could see the soldiers in uniformhitchhiking home to their families, as was the custom at that time in America.
Sadly, the thrill of his reunion with his family was soon overshadowed. My grandmother became very ill and had to be hospitalized. It was her kidneys, and the doctors told my father that she needed a blood transfusion immediately or she would not live through the night. The problem was that Grandmother's blood type was AB-, a very rare type even today, but even harder to get then because there were no blood banks or air flights to ship blood.
All the family members were typed, but not one member was a match. So the doctors gave the family no hope; my grandmother was dying.
My father left the hospital in tears to gather up all the family members, so that everyone would get a chance to tell Grandmother good-bye. As my father was driving down the highway, he passed a soldier in uniform hitchhiking home to his family.
Deep in grief, my father had no inclination at that moment to do a good deed. Yet it was almost as if something outside himself pulled him to a stop, and he waited as the stranger climbed into the car.
My father was too upset to even ask the soldier his name, but the soldier noticed my father's tears right away and inquired about them. Through his tears, my father told this stranger that his mother was lying in a hospital dying because the doctors had been unable to locate her blood type, AB-,and if they did not locate her blood type before nightfall, she would surely die.
It got very quiet in the car. Then this unidentified soldier extended his hand out to my father, palm up. Resting in the palm of his hand were the dog tags from around his neck. The blood type on the tags was AB-. The soldier told my father to turn the car around and get him to the hospital.
My grandmother lived until 1996, 47 years later, and to this day no one in the family knows this soldier's name. But my father has often wondered, was he a soldier or an angel in uniform?
Thiên thần mang áo lính
Gia đình tôi có một giai thoại mà cha tôi thường hay kể cho chúng tôi nghe. Đó là câu chuyện về bà nội tôi.
Năm 1949, cha tôi trở về nhà sau chiến tranh. Trên mọi nẻo đường khắp nước Mỹ, bạn có thể thấy những người lính đang xin đi nhờ xe để trở về với gia đình mình. Chuyện đó đã trở thành chuyện bình thường ở Mỹ lúc bấy giờ.
Không may là, niềm vui sướng được trở về đoàn tụ với gia đình của cha tôi nhanh chóng lụi tàn. Bà nội tôi bị bệnh rất nặng phải đưa vào bệnh viện. Thận của bà có vấn đề. Bác sĩ nói, bà phải được truyền máu ngay nếu không sẽ không qua khỏi đêm nay.
Vấn đề là ở chỗ, máu của bà nội thuộc nhóm AB-, một lọai máu cho đến ngày nay vẫn còn rất hiếm chứ đừng nói gì đến thời đó, cái thời mà chưa có các ngân hàng máu hay các chuyến bay phục vụ cho công tác y tế.
Tất cả mọi người trong gia đình đều đến làm xét nghiệm, nhưng chẳng ai có nhóm máu giống bà. Không còn hy vọng gì nữa, bà nội đang hấp hối.
Cha tôi rời bệnh viện mà nước mắt ròng ròng. Ông phải đi đón mọi người trong gia đình đến để nói lời chia tay với bà nội. Đang đi trên đường, cha tôi gặp một người lính đang vẫy tay xin đi quá giang về nhà. Đang buồn như thế, cha tôi chẳng còn tâm trí đâu mà đi giúp người khác. Nhưng, dường như có một sức mạnh nào đó khiến ông dừng xe lại cho người lạ mặt đó bước lên xe.
Trong lúc tâm trạng rối bời, cha cũng chẳng thèm hỏi xem người lính đó tên là gì, nhưng khi vừa lên xe ông ta đã nhìn thấy những giọt nước mắt của cha và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra.
Qua dòng nước mắt, cha tôi kể cho người đàn ông xa lạ nghe chuyện mẹ mình đang nằm chờ chết trong bệnh viện vì bác sĩ không thể nào tìm ra người có nhóm máu AB- giống như bà. Và nếu họ không tìm được trước đêm nay, bà chắc chắn sẽ chết.
Không khí trong xe chợt chùng xuống. Rồi người lính xa lạ đưa tay mình cho cha tôi, lòng bàn tay xòe ra. Nằm gọn trong lòng bàn tay ông là một chiếc thẻ bài ông vừa tháo trên cổ mình xuống, trên đó ghi: nhóm máu AB-. Rồi người lính nọ bảo cha tôi quành xe trở lại, đưa ông đến bệnh viện.
Bà nội tôi sống thêm đến 47 năm nữa. Thế nhưng, cho đến tận bây giờ, cả gia đình tôi không một ai biết tên người lính đó. Cha tôi vẫn thường tự hỏi, liệu người đàn ông đó có phải là một quân nhân hay chính là một thiên thần trong trang phục người lính?
God's Coffee
A group of alumni, highly established in their careers, got together to visit their old university professor. Conversation soon turned into complaints about stress in work and life. Offering his guests coffee, the professor went to the kitchen and returned with a large pot of coffee and an assortment of cups - porcelain,plastic, glass, crystal, some plain looking, some expensive, some exquisite - telling them to help themselves to the coffee.
When all the students had a cup of coffee in hand, the professor said: "If you noticed, all the nice looking expensive cups were taken up, leaving behind the plain and cheap ones. While it is normal for you to want only the best for yourselves, that is the source of your problems and stress. Be assured that the cup itself adds no quality to the coffee. In most cases it is just more expensive and in some cases even hides what we drink. What all of you really wanted was coffee, not the cup, but you consciously went for the best cups... And then you began eyeing each other's cups.
Now consider this: Life is the coffee; the jobs, money and position in society are the cups. They are just tools to hold and contain Life, and the type of cup we have does not define, nor change the quality of Life we live. Sometimes, by concentrating only on the cup, we fail to enjoy the coffee God has provided us." God brews the coffee, not the cups.......... Enjoy your coffee! "The happiest people don't have the best of everything. They just make the best of everything." Live simply. Love generously. Care deeply. Speak kindly. Leave the rest to God.
Cà phê của cuộc đời
Một nhóm học sinh cũ khá thành công và ổn định trong nghề nghiệp tập trung tại nhà một thầy giáo cũ. Câu chuyện dần dà chuyển sang những than thở về áp lực cuộc sống và công việc.
Đãi cà phê cho các vị khách của mình, thầy giáo vô bếp mang ra một ấm to cà phê và nhiều ly tách khác nhau từ ly nhựa, ly sứ, ly thủy tinh, có cái đơn giản, xinh xắn, có cái sang trọng đắt tiền. Thầy bảo các học sinh tự lấy cà phê cho mình.
Khi em nào cũng chọn được cái tách cho mình, thầy nói:
“Nếu các em để ý sẽ thấy mấy cái tách đẹp, sang trọng và đắt tiền được chọn ngay, chỉ có những cái bình thường và rẻ tiền được chừa lại. Cũng bình thường thôi, thường thì người ta chỉ muốn những cái tốt nhất cho mình. Đó cũng chính là nguồn cội của những vấn đề và áp lực”.
Hãy hiểu rõ ràng rằng bản thân cái tách không làm cà phê ngon hơn. Trong mọi trường hợp, nó chỉ làm cà phê mắc tiền hơn hay trong vài trường hợp nó át hẳn mùi vị của cà phê.
Những gì bạn muốn ở đây đơn giản chỉ là cà phê, không phải là cái tách nhưng một cách vô thức các em lại hướng đến những cái tách tốt nhất... và sau đó các em bắt đầu nghía tách của các bạn khác.
Hãy nghĩ thử xem: cuộc sống như cà phê; công việc, tiền bạc và vị trí trong xã hội là những cái tách thôi. Chúng chỉ là những công cụ để chứa đựng cuộc sống này và loại “tách” chúng ta có được không quyết định, cũng không thay đổi giá trị của cuộc sống chúng ta.
Đôi khi vì quá chạy theo những cái tách mà chúng ta bỏ mất cơ hội thưởng thức cà phê! Người hạnh phúc nhất không phải là người có tất cả những thứ tốt nhất. Họ chỉ trân trọng hết mức mọi thứ mà họ có.
Sống đơn giản. Yêu thương ngập tràn. Quan tâm sâu sắc. Nói những lời tử tế.
Dr. Howard Kelly and a Glass of Milk
One day, a poor boy who was selling goods from door to door to pay his way through school, found he had only one thin dime left, and he was hungry. He decided he would ask for a meal at the next house. However, he lost his nerve when a lovely young woman opened the door.
Instead of a meal he asked for a drink of water. She thought he looked hungry so brought him a large glass of milk. He drank it so slowly, and then asked, How much do I owe you?"
You don't owe me anything," she replied. "Mother has taught us never to accept pay for a kindness."
He said ... "Then I thank you from my heart."
As Howard Kelly left that house, he not only felt stronger physically, but his faith in God and man was strong also. He had been ready to give up and quit.
Many year's later that same young woman became critically ill. The local doctors were baffled. They finally sent her to the big city, where they called in specialists to study her rare disease.
Dr. Howard Kelly was called in for the consultation. When he heard the name of the town she came from, a strange light filled his eyes.
Immediately he rose and went down the hall of the hospital to her room.
Dressed in his doctor's gown he went in to see her. He recognized her at once.
He went back to the consultation room determined to do his best to save her life. From that day he gave special attention to her case.
After a long struggle, the battle was won.
Dr. Kelly requested the business office to pass the final bill to him for approval. He looked at it, then wrote something on the edge and the bill was sent to her room. She feared to open it, for she was sure it would take the rest of her life to pay for it all. Finally she looked, and something caught her attention on the side of the bill. She read these words ...
"Paid in full with one glass of milk"
(Signed) Dr. Howard Kelly.
Tiến sĩ Howard Kelly và một ly sữa
Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền học. Một ngày nọ nhận thấy mình chỉ còn mỗi một hào mà bụng đang đói, cậu định bụng sẽ sang nhà kế bên xin một bữa ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa. Bối rối trước cuộc gặp gỡ không chờ đợi này nên thay vì xin ăn cậu lại xin uống. Người phụ nữ đoán là cậu đang đói bèn mang cho cậu một ly sữa lớn.
Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi:
- Cháu phải trả cô bao nhiêu ạ?
Người phụ nữ trả lời:
- Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt.
Cậu bé cảm kích đáp:
- Cháu sẽ biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu.
Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn và niềm tin của cậu vào con người như cũng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng số phận.
Nhiều năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương đều bó tay. Họ chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này. Tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Khi ông nghe tên thị trấn nơi người phụ nữ ở, một tia sáng ánh lên trong mắt ông. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ra ngay ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hội chẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức để cứu sống bệnh nhân này. Và cuối cùng nỗ lực của ông đã được đền đáp.
Tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài chữ bên lề của tờ biên lai và cho chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn biết rằng mình phải thanh toán nó cho đến hết đời mới xong. Bỗng nhiên có cái gì đó bên lề khiến bà chú ý và bà đọc được những dòng chữ này:
"Trị giá hóa đơn = một ly sữa"
Ký tên: Tiến sĩ Howard Kelly.
All I Want For Christmas....
Jessica Ellenhart was only six years old that late November morning --- the day she went to see Santa Claus. She had recently moved from the small town of Willington in Upstate New York, where her cat would chase mice around her basement, to Orlando, Florida, where mice, of course, were praised for another reason.
To the commoner, a young child living in the land of dreams and the innocence surrounding Walt Disney World, it would have seemed as though a girl, like Jessica, would be in Heaven. Jessica, however, was very unhappy. She missed her Grandma.
Two weeks before her family had moved to Florida, Jessica’s Grandmother, Ruthie, passed away. Ruthie had been a simple woman, but she was someone to whom Jessica turned for sugar cookies and hugs, laughter and love. Now, although one thousand miles away from New York, it seemed as though she was a million miles from the place she longed to be --- near her Grandmother, yet again.
While families were joining together for the Thanksgiving holiday, Jessica and her parents were finishing their unpacking from the move. There was no turkey, no stuffing, no pumpkin pie, and very little time for laughter and family. Delores, Jessica’s Mother, was slated to begin her job as a stock broker the following Monday; therefore, everything along the lies of turning their simple two bedroom apartment into a home needed to be rushed to fruition.
Having planned no Thanksgiving dinner, Delores decided to order sandwiches from the local sub shop and she invited her daughter to accompany her on the trip to pick them. The sub shop was adjacent to the local shopping mall and outside the entrance, there was a long line. The line to visit the Mall Santa had grown beyond what the Mall’s enclosure could handle. Like any child, Jessica pleaded to see Santa and despite the line and her need to do other things, Delores, like any Mother, granted her daughter’s request.
Nearly two hours passed before Jessica arrived to the front of the line; yet, her time in line had allowed for much thought in regards to what she wanted for Christmas. When she was finally seated on Santa’s lap, no one believed what she had to say. Santa asked the little girl for her Christmas wish and Jessica said, “I want to see my Grandma.”
As Delores and Jessica traveled back to their home with their Thanksgiving sandwiches, Delores was stunned by her daughter's request and worried that Jessica would be disappointed that Christmas. After all, despite how much we might miss our loved ones, we will not see them again until we enter Heaven --- something that, for Jessica, was many years away. It had been quite obvious that Jessica had wanted her Christmas wish to be true, sooner rather than later. Santa had promised Jessica that he would do his best and Delores, deep in her heart, hoped he could provide this miracle for her precious little one.
A month of prayers and wishes passed and when Christmas morning arrived, a sleepy Jessica sat in front of her Christmas tree, tearing into box after box with no sign of her Grandmother. By 8 o’clock Christmas morning, it looked as though Santa had been unable to grant her special wish. Then, Jessica opened her last package.
The package was a simple box, wrapped in gold-colored paper with a bow as white as an angel’s wings. When Jessica looked inside the box, she saw her Grandmother, in the form of a five-by-seven inch photograph. Jessica held the picture close to her heart and then, noticed a note that had been placed beneath it. The note read:
“Jessie, my sweetheart....
I love you, though I’m far away
My heart is with you, every day
I send this hug with arms unfurled
You are my special little girl.”
Love,
Grandma
From that moment forward, Jessica Ellenhart was no longer sad. She realized that not only was her Grandmother always by her side, even if only in spirit, she also knew deep in her heart that the treasures for which we yearn most will come true, if only we believe.
By Jill Eisnaugle
Ước muốn duy nhất cho ngày Giáng Sinh
Vào một buổi sáng muộn tháng mười một, cái ngày mà Jessica đến gặp ông già Noel, cô bé mới sáu tuổi. Cô vừa chuyển từ một thị trấn nhỏ của Willington ở Upstate New York tới Orlando, bang Florida.
Đối với những người bình dân và một đứa trẻ như Jessica, được sống trên mảnh đất của những giấc mơ và thế giới Walt Disney kỳ diệu lẽ ra phải là thiên đường. Nhưng Jessica vẫn thấy không vui bởi một lẽ, cô nhớ bà ngoại da diết.
Hai tuần trước khi gia đình chuyển tới Florida, bà ngoại của cô bé qua đời. Bà là một người phụ nữ giản dị bình thường, nhưng với Jessica, bà là nơi chứa đựng những chiếc bánh ngon, những cái ôm ấm áp, những trận cười và cả tình yêu thương rộng lớn.
Bây giờ, dù cách xa New York hàng ngàn cây số, đối với cô bé, khoảng cách để đến với bà còn xa hơn gấp bội.
Khi mọi gia đình đã sum vầy trong ngày Lễ Tạ Ơn, Jessica và bố mẹ vẫn còn đang dọn dẹp đồ đạc nơi ở mới. Không gà quay, không bánh bí ngô, ngay cả một chút thời gian để vui đùa cũng không có.
Không có kế hoạch dành cho bữa tối ngày Lễ Tạ Ơn, bà Delores - mẹ của Jessica quyết định đặt mua bánh sandwich tại một cửa hàng gần đó và muốn cô con gái bé nhỏ đi lấy bánh cùng. Giống như tất cả những đứa trẻ khác, Jessica rất háo hức được gặp ông già Noel nên cô bé đồng ý đi ngay với mẹ.
Cửa hàng nhỏ này nằm cạnh trung tâm mua sắm sầm uất. Một dãy dài người mua hàng đang chờ đến lượt ngay tại lối ra vào. Hàng người chờ vào gian của ông già Noel ngày càng dài hơn.
Hai tiếng đồng hồ trôi qua mới đến lượt Jessica. Trong lúc đứng xếp hàng cô bé đã nghĩ rất nhiều đến chuyện mình sẽ chọn món quà gì trong ngày lễ giáng sinh. Đến khi ngồi vào lòng của ông già Noel và được ông hỏi về điều ước của mình, cô bé trả lời: “Cháu muốn gặp bà ngoại”.
Khi Delores trở về nhà cùng Jessica và những chiếc bánh Sandwich, bà cảm thấy băn khoăn về yêu cầu của con gái mình. Bà lo ngại rằng Jessica sẽ thất vọng vào lễ Giáng Sinh năm nay.
Ông già Noel đã hứa là sẽ cố gắng hết sức và ngay cả Delores, từ tận đáy lòng mình, bà hi vọng ông già Noel có thể đem lại điều kỳ diệu đó cho cô con gái nhỏ.
Một tháng cầu nguyện, mong ước trôi qua và buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh đã đến. Cô bé Jessica vẫn còn ngái ngủ ngồi trước cây thông Noel, mở lần lượt từng gói quà mà vẫn không thấy bà ngoại đâu cả.
Đến khoảng 8 giờ sáng, dường như là ông già Noel vẫn không thể tặng cho cô bé món quà đặc biệt đó. Khi ấy, cô bé bắt đầu mở gói quà cuối cùng - một chiếc hộp rất đơn giản, được gói bằng giấy màu vàng với chiếc nơ trắng như cánh của thiên thần.
Jessica nhìn vào bên trong, cô bé nhìn thấy bà ngoại, trong một bức ảnh cỡ 12x15 cm. Jessica ôm chặt bức ảnh vào ngực, và sau đó, cô bé nhận thấy những dòng chữ bên dưới:
“Jessie, cháu gái đáng yêu,
Bà yêu cháu, dù bà có ở nơi xa.
Trái tim bà vẫn luôn bên cháu mỗi ngày,
Đôi tay bà vẫn luôn rộng mở để ôm cháu vào lòng,
Cháu là cô gái bé bỏng của bà”.
Yêu cháu,
Bà ngoại.
Từ đó trở đi, Jessica không bao giờ cảm thấy buồn nữa. Cô bé nhận ra rằng tất cả những ước muốn tốt đẹp sẽ trở thành hiện thực chỉ khi chúng ta thật sự tin tưởng.
Three Red Marbles
During the waning years of the Great Depression of the 1930's in a small southeastern Kansas community, I used to stop by Mr.Miller's roadside stand for farm fresh produce as the season made it available. Food and money were still extremely scarce and bartering was used extensively.
One particular day, Mr. Miller was bagging some early potatoes for me. I noticed a small boy, delicate of bone and feature, ragged but clean, hungrily apprising a basket of freshly picked green peas. I paid for my potatoes but was also drawn to the display of fresh green peas. I am a pushover for creamed peas and new potatoes. Pondering the peas, I couldn't help overhearing the conversation between Mr. Miller and the ragged boy next to me.
"Hello Barry, how are you today?"
"H'lo, Mr. Miller. Fine, thank ya. Jus' admirin' them peas...sure look good."
"They are good, Barry. How's your Ma?"
"Fine. Gittin' stronger alla' time."
"Good. Anything I can help you with?"
"No, Sir. Jus' admirin' them peas."
"Would you like to take some home?"
"No, Sir. Got nuthin' to pay for 'em with."
"Well, what have you to trade me for some of those peas?"
"All I got's my prize marble here."
"Is that right? Let me see it."
"Here 'tis. She's a dandy."
"I can see that. Hmmmm, only thing is this one is blue and I sort of go for red. Do you have a red one like this at home?"
"Not 'zackley .....but, almost."
"Tell you what. Take this sack of peas home with you and next trip this way let me look at that red marble."
"Sure will. Thanks, Mr. Miller."
Mrs. Miller, who had been standing nearby, came over to help me. With a smile she said, "There are two other boys like him in our community, all three are in very poor circumstances. Jim just loves to bargain with them for peas, apples, tomatoes or whatever. When they come back with their red marbles, and they always do, he decides he doesn't like red after all and he sends them home with a bag of produce for a green marble or an orange one, perhaps."
I left the stand, smiling to myself, impressed with this man. A short time later I moved to Colorado but I never forgot the story of this man, the boys and their bartering. Several years went by, each more rapid than the previous one. Just recently I had occasion to visit some old friends in that Idaho community and while I was there learned that Mr. Miller had died.
They were having his viewing that evening and knowing my friends wanted to go, I agreed to accompany them. Upon our arrival at the mortuary, we fell into line to meet the relatives of the deceased and to offer whatever words of comfort we could. Ahead of us in line were three young men. One was in an army uniform and the other two wore nice haircuts, dark suits and white shirts - very professional looking. They approached Mrs. Miller, standing smiling and composed, by her husband's casket. Each of the young men hugged her, kissed her on the cheek, spoke briefly with her and moved on to the casket. Her misty light blue eyes followed them as, one by one, each young man stopped briefly and placed his own warm hand over the cold pale hand in the casket. Each left the mortuary, awkwardly, wiping his eyes.
Our turn came to meet Mrs. Miller. I told her who I was and mentioned the story she had told me about the marbles. Eyes glistening, she took my hand and led me to the casket. "Those three young men who just left were the boys I told you about. They just told me how they appreciated the things Jim 'traded' them. Now, at last when Jim could not change his mind about color or size - they came to pay their debt. "
"We've never had a great deal of the wealth of this world," she confided, "but right now, Jim would consider himself the richest man in Idaho." With loving gentleness, she lifted her husband's lifeless fingers. Resting underneath were three exquisitely shined, red marbles!
Ba viên bi màu đỏ
Trong suốt những năm khủng hoảng ở cái bang Idaho bé nhỏ nằm phía Đông Nam nước Mỹ này, tôi thường đến cửa hàng nhỏ của ông Miller để mua rau quả tươi. Thực phẩm và tiền bạc đều khan hiếm, nên đôi khi chúng tôi dùng hình thức đổi chác.
Một hôm, khi ông Miller đang bỏ một ít khoai tây vào túi cho tôi, thì tôi nhìn thấy một cậu bé gầy gò, ăn mặc rách rưới nhưng khá sạch sẽ, đang nhìn giỏ đựng quả đậu xanh với ánh mắt đói khát. Tôi trả tiền xong liền đứng lại nghe cuộc nói chuyện giữa ông Miller và cậu bé ăn mặc rưới kia.
- Chào Barry, cháu khỏe không? - Tiếng của ông Miller.
- Chào ông Miller, cháu khỏe ạ! Cháu nghĩ đang ngắm giỏ quả đậu này. Trông chúng ngon thật đấy!
- Chúng ngon lắm, Barry ạ ! Mẹ cháu khỏe không?
- Cũng bình thường ạ? Hình như mẹ cháu đang khỏe lên.
- Tốt! Ta có thể giúp gì cho cháu nào?
- Không ạ, thưa ông. Cháu chỉ ngắm giỏ quả đậu thôi?
- Cháu có muốn lấy một ít không?
- Không ạ, thưa ông. Cháu không có tiền trả đâu.
- Được, cháu có gì để đổi nào?
- Cháu? - Tiếng cậu bé ngập ngừng - Cháu chỉ có một viên bi cháu mới chơi thắng được thôi ạ !
- Thế à? Cho ta xem nào!
- Đây, viên đẹp nhất đấy ạ !
- Nó màu xanh à... Nhưng ta đang cần viên màu đỏ. Cháu có viên màu đỏ không?
- Cháu không nhớ, để cháu xem...
- Này, cháu đem giỏ đậu này về nhà đi và lần sau mang cho ta viên đỏ nhé!
- Chắc chắn rồi, cảm ơn ông?
Có hai cậu bé nữa như thế ở làng này. Chúng nghèo lắm. Ông Jim nhà tôi cứ thích đổi chác, cho chúng quả đậu, táo, cà chua và những thứ khác. Cứ khi chúng giơ viên bi màu xanh ra, ông ấy lại bảo chúng cầm một ít rau quả về nhà và lần sau mang viên bi màu đỏ cho ông ấy. Vừa để chúng chịu mang rau quả về nhà ngay, vừa để chúng cảm thấy chúng thực sự đã làm gì cho để trao đổi, chứ không phải được cho không. Tôi thấy rất cảm phục ông Miller. Không lâu sau, tôi chuyển nhà, nhưng câu chuyện về ông Miller, người nông dân nhân hậu ấy, thì tôi không bao giờ quên.
Nhiều năm sau, lại có lần tôi quay về làng quê ở Idaho và rất buồn vì trong thời gian ở đó thì nghe tin ông Miller mất. Khi cùng vài người bạn cũ đến nhà ông Miller, tôi thấy ở đó có ba chàng trai trẻ, trông rất thành đạt. Họ đến gần bà Miller, ôm lấy bà và nói những lời an ủi. Rồi từng người một, họ đến bên ông Miller đang nằm đó, chạm những bàn tay nóng ấm của mình vào bàn tay lạnh lẽo của ông Miller và lau nước mắt.
Rồi tôi cũng lại gần bà Miller và nói rằng tôi vẫn nhớ câu chuyện về những viên bi ve ngày nào. Bà Milìer nói:
- Ba chàng trai lúc nãy chính là những cậu bé ngày trước, tôi kể với cô. Họ vừa nói với tôi là họ đã biết ơn ông Jim và những gì ông đã "đổi chác" cho họ biết chừng nào. Và cuối cùng, bây giờ, khi ông Jim không còn đòi họ đổi những viên bi màu nào nữa, thì họ quay lại để tỏ lòng biết ơn ông ấy. Ông Jim luôn nghĩ mình là người giàu có nhất ở bang Idaho này với những viên bi ông có được.
Rất nhẹ nhàng, bà Miller nhấc bàn tay của ông Jim lên. Dưới bàn tay ông là ba viên bi đỏ, sáng bóng và trong veo.
Ruby's Roses
The neighborhood kids nicknamed the cranky old couple Crazy Jack and Ruby Rednose. Rumor was that they sat inside and drank whiskey all day.
It was true that Jack and Ruby Jones preferred to keep tothemselves. About the only words we ever heard from them were "Keep out of our rosebushes!"
The rosebushes were seventy beautiful floribunda shrubs that served as a fence between our house and theirs. The rose fence took quite a bit of abuse, since our house was the neighborhood hangout.
I was eleven at the time and the oldest of six active girls. We should have played our softballgames elsewhere to avoid hurting the roses, but we secretly enjoyed irritating Crazy Jack and Ruby Rednose.
Jack and Ruby had a son whom we nicknamed Crazy Jack Junior. He was due to come home from Vietnam. We heard he had been discharged because of a nervous breakdown. The neighborhood had thrown a big party for Jimmy Brown when he came home from the war, but no one offered to have a party for Crazy Jack Junior.
The day Crazy Jack Junior was scheduled to come home, we had a neighborhood softball game in our yard. Johnny McGrath was trying to catch a fly ball. He stumbled over one of Ruby Rednose's thorny rosebushes and fell on top of several more. Boy, did he yell. But the roses were the ones that really suffered.
From my vantage point at second base, it looked like about ten of them were damaged pretty badly.
Johnny's timing was terrible, because as he lay there swearing at the roses, the Joneses' pickup rolled into the driveway. The truck screeched to a halt and Crazy Jack Junior sprang out. He ran full speed toward Johnny.
"You little punk!" he screamed. "Look what you've done to our family's roses! You've always been trouble. I'm going to fetch my gun and shoot you!"
The next few minutes were a blur. The neighborhood kids ran for their lives. Ruby and Jack tried to restrain their son. He continued to yell threats and profanities.
Ruby wasn't my favorite person, but I felt sorry for her when I saw her tearfully pleading with Crazy Jack Junior. Finally, they coaxed him inside.
Meanwhile, my sisters and I tore into our house. Breathlessly, we told Mom what had happened.
She put down her sewing and scolded, "Girls, I have told you not to play softball near those bushes. Come outside right now and help me fix them."
"Mom, we thought you didn't like the Joneses," we protested. "They're mean to us. Besides, Crazy Jack Junior might shoot us."
Mom just glared at us. We followed her outside to help mend the rose fence.
While Mom examined the damaged roses, my sisters and I hung back, plotting how to get out of the thorny job. As we whispered back and forth, the Joneses' garage door opened and Ruby slowly walked out. She looked sad. And it wasn't her nose that was red, it was her eyes.
Ruby walked over to my mother. The two women stood looking at each other through the new gap in the rose fence. We girls held our breath, waiting to see who would shout first and what terrible things would be said. How much trouble would we be in when it was all over?
Suddenly my mother stepped forward and hugged Ruby. "I'm glad your son came back home," she said gently. "It must have been a horrible experience in Vietnam. We're sorry about the flowers.
"The girls will replace them if we can't fix them. In return for all the bother, they'll help you weed the roses this summer."
My sisters and I looked at each other in horror, but Ruby smiled at my mother through her tears.
"I know we're particular about these roses," she said, "but they're very special to us. When my mother came from England, she brought one tiny part of her favorite rosebush. That was her reminder of home."
She paused for a minute, then said sadly, "My mother had a magic touch with flowers. Over the years that one plant multiplied into all these bushes. Since she died, I've tried to keep them up, but I just don't have her magic touch."
Her voice was all choked up. "Mom died while Jack Junior was in Vietnam. He just found out about her death today. When he saw her rosebushes damaged, it was the last straw."
Ruby mopped at her tears. "Once we got him inside and calmed down, he admitted he's out of control. Jack just drove him to Clinton Valley to be admitted to a treatment program."
By now I felt really bad for the Jones family-what a sorrowful homecoming! I could tell my mother and sisters felt the same.
"We all enjoy the roses as much as you do. We wi1l be happy to help you care for them," my mother said. "You know, some people say I have a magic touch with flowers, too."
Soon both women were down on their knees talking and examining the damaged bushes together. A few weeks later, the plants had all returned with vigor.
My mother and Ruby worked together on the roses all summer long and many summers to follow. So did my sisters and I.
A friendship formed between the families that would include countless birthdays, graduations and weddings-including Jack Junior's. Years later, when her son left home and her husband died, Ruby became part of our family, spending many happy hours at our house.
She wasn't Ruby Rednose anymore; she was Aunt Ruby.
And the rose fence wasn't a fence any longer. My mother had turned it into a bridge.
Những bông hồng của Ruby
Hàng xóm nhà tôi là những người kì quặc. Bọn trẻ chúng tôi thường gọi họ là Jack “điên” và Ruby “mũi đỏ”. Họ ngồi ngoài hiên uống rượu cả ngày. Tất cả những gì chúng tôi có thể nghe họ nói là: “Bọn nhóc! Tránh xa những chậu hoa hồng ra!”.
Jack và Ruby có một đứa con trai, Jack nhỏ. Anh ta đi chiến trường Việt Nam. Ngày Jack nhỏ trở về, chúng tôi đang chơi bóng trong sân nhà. Johnny cố bắt quả bóng và trượt chân ngã vào những chậu hồng.
Đau đớn, nó thét lên thật kinh hoàng nhưng những bụi hồng thì còn kinh hoàng hơn. Ít nhất cũng phải chục chậu đã bị phá huỷ hoàn toàn. Johnny vừa hét vừa nhổ gai. Đúng lúc đó một chiếc xe lao đến, người đàn ông lao về phía Johnny và hét lên: “Chúng mày làm cái quái gì thế? Hãy nhìn xem chúng mày đã làm gì với những bông hoa! Chúng mày chỉ giỏi phá hoại”.
Sau đó là những phút giây hỗn loạn. Bọn tôi chạy tán loạn. Ruby và Jack cố gắng can ngăn con trai. Anh ta tiếp tục gào thét lạc cả giọng. Ruby không phải là người tôi có cảm tình nhưng tôi thực sự thấy buồn khi nhìn cảnh bà vừa khóc vừa van nài Jack nhỏ vào nhà.
Tôi và đứa em gái chạy như bay về nhà, hốt hoảng kể lại cho mẹ nghe mọi chuyện. Mẹ mắng chúng tôi: “Mẹ đã bảo là không được chơi gần những chậu hồng rồi cơ mà. Đi ra ngoài và giúp mẹ sửa lại hoa cho bác Ruby”.
“Mẹ, con nghĩ là mẹ không thích nhà họ cơ mà” - tôi phản đối
Mẹ nghiêm khắc nhìn còn bọn tôi riu ríu bước theo.
Trong khi mẹ kiểm tra những chậu hồng bị dập, bọn tôi thì thầm đoán xem thằng Johnny có nhổ hết được gai ra không. Đúng lúc đó, cửa nhà bật mở, Ruby chầm chậm bước ra với đôi mắt đỏ hoe.
Ruby bước lại gần chỗ mẹ tôi. Hai người phụ nữ nhìn nhau. Chúng tôi nín thở, chờ xem ai sẽ là người “nổ pháo” trước.
Bỗng nhiên mẹ tôi bước về phía trước, nắm lấy tay Ruby: “Tôi rất mừng khi con trai chị đã trở về. Chắc thời gian ở Việt Nam kinh hoàng lắm. Chúng tôi rất xin lỗi về những bông hồng. Bọn trẻ sẽ sửa lại chúng. Và hi vọng đến mùa hè, những bông hoa lại có thể nở ”.
Thật lạ, Ruby mỉm cười dù hai mắt bà vẫn long lanh những giọt nước mắt: “Tôi biết chúng tôi thật khắt khe về những chậu hồng, nhưng chúng thật đặc biệt với chúng tôi. Hồi mẹ tôi từ Anh sang đây, bà đã mang theo hạt giống loài hoa yêu thích nhất để trồng. Chúng nhắc bà nhớ về quê hương”.
Bà dừng lại một chút rồi buồn buồn nói tiếp: “Kể từ khi mẹ tôi mất, dù chúng tôi đã cố gắng nhưng hoa hồng không đẹp như ngày được mẹ tôi chăm. Mẹ tôi mất khi Jack đang ở Việt Nam, chúng tôi đã giấu nó. Khi nhìn thấy những bụi hồng bị phá, nó không kiềm chế nổi”.
Bây giờ thì tôi thật sự thấy buồn cho bác Ruby. Chắc là mẹ và em gái tôi cũng thế.
“Chúng tôi cũng thích những bụi hoa này lắm!” - Mẹ tôi nói - “Để tôi giúp chị chăm sóc chúng, trước đây tôi cũng biết chút ít về trồng hoa”.
Mẹ tôi và bác Ruby cùng chăm sóc hàng rào hoa hồng suốt mùa hè đó và nhiều mùa hè sau nữa. Cả tôi và em gái tôi cũng vậy. Tình hàng xóm giữa hai gia đình ngày càng gắn bó và nhiều kỷ niệm, trong đó có cả lễ tốt nghiệp Đại học của anh Jack nhỏ.
Nhiều năm sau, khi ông Jack qua đời còn anh Jack đi làm xa, Ruby trở thành một phần của gia đình tôi. Bà không còn là Ruby “mũi đỏ” nữa mà là bác Ruby. Và hoa hồng không chỉ là hoa hồng, mẹ tôi đã biến chúng thành chiếc cầu nối giữa hai gia đình.
The Painting
Years ago, there was a very wealthy man who, with his devoted young son, shared a passion for art collecting. Together they traveled around the world, adding only the finest art treasures to their collection. Priceless works by Picasso, Van Gogh, Monet and many others adorned the walls of the family estate. The widowed, elder man looked on with satisfaction as his only child became an experienced art collector. The son's trained eye and sharp business mind caused his father to beam with pride as they dealt with art collectors around the world.
As winter approached, war engulfed the nation, and the young man left to serve his country. After only a few short weeks, his father received a telegram. His beloved son was missing in action. The art collector anxiously awaited more news, fearing he would never see his son again. Within days, his fears were confirmed. The young man had died while rushing a fellow soldier to a medic. Distraught and lonely, the old man faced the upcoming Christmas holidays with anguish and sadness. The joy of the season, a season that he and his son had so looked forward to, would visit his house no longer.
On Christmas morning, a knock on the door awakened the depressed old man. As he walked to the door, the masterpieces of art on the walls only reminded him that his son was not coming home. As he opened the door,he was greeted by a soldier with a large package in his hand. He introduced himself to the man by saying, "I was a friend of your son. I was the one he was rescuing when he died. May I come in for a few moments? I have something to show you."
As the two began to talk, the soldier told of how the man's son had told everyone of his, not to mention his father's, love of fine art. "I'm an artist," said the soldier, "and I want to give you this." As the old man unwrapped the package, the paper gave way to reveal a portrait of the man's son. Though the world would never consider it the work of a genius, the painting featured the young man's face in striking detail.
Overcome with emotion, the man thanked the soldier, promising to hang the picture above the fireplace. A few hours later, after the soldier had departed, the old man set about his task. True to his word, the painting went above the fireplace, pushing aside thousands of dollars of paintings. Then, the man sat in his chair and spent Christmas gazing at the gift he had been given.
During the days and weeks that followed, the man realized that even though his son was no longer with him, the boy's life would live on because of those he had touched. He would soon learn that his son had rescued dozens of wounded soldiers before a bullet stilled his caring heart. As the stories of his son's gallantry continued to reach him, fatherly pride and satisfaction began to ease the grief. The painting of his son soon became his most prized possession, far eclipsing any interest in the pieces for which museums around the world clamored. He told his neighbors it was the greatest gift he had ever received.
The following spring, the old man became ill and passed away. The art world was in anticipation! Unmindful of the story of the man's only son, but in his honor; those paintings would be sold atan auction.
According to the will of the old man, all of the art works would be auctioned on Christmas day, the day he had received his greatest gift. The day soon arrived and art collectors from around the world gathered to bid on some of the world's most spectacular paintings. Dreams would be fulfilled this day; greatness would be achieved as many would claim "I have the greatest collection." The auction began with a painting that was not on any museum's list. It was the painting of the man's son. The auctioneer asked for an opening bid. The room was silent. "Who will open the bidding with $100?" he asked. Minutes passed. No one spoke. From the back of the room came, "Who cares about that painting? It's just a picture of his son. Let's forget it and go on to the good stuff." More voices echoed in agreement. "No, we have to sell this one first," replied the auctioneer. "Now, who will take the son?"
Finally, a friend of the old man spoke. "Will you take ten dollars for the painting? That's all I have. I knew the boy, so I'd like to have it." I have ten dollars. Will anyone go higher?" called the auctioneer. After more silence, the auctioneer said, "Going once, going twice. Gone." The gavel fell. Cheers filled the room and someone exclaimed, "Now we can get on with it and bid on these treasures!" The auctioneer looked at the audience and announced the auction was over.
Stunned disbelief quieted the room. Someone spoke up and asked, "What do you mean it's over? We didn't come here for a picture of some old guy's son. What about all of these paintings? There are millions of dollars of art here! I demand that you explain what's going on here!" The auctioneer replied, "It's very simple. According to the will of the father, whoever takes the son ... gets it all."
Puts things into perspective, doesn't it? Just as those art collectors discovered on that Christmas day, the message is still the same-the love of a Father, a Father whose greatest joy came from His Son who went away and gave His life rescuing others. And because of that Father's love, wow gold kaufenwhoever takes the Son gets it all.
Bức chân dung
Hai cha con nhà nọ tính tình rất gần gũi, hiền lành và thích sưu tầm các kiệt tác nghệ thuật hội hoạ có giá trị. Các tác phẩm vô giá của Picasso, Van Gogh, Monet và nhiều kiệt tác khác được treo khắp trên tường như những tài sản quý giá của gia đình.
Người đàn ông già góa vợ rất hài lòng khi thấy con trai duy nhất của mình trở thành một nhà sưu tầm tranh sành sỏi.
Con mắt lành nghề và đầu óc kinh doanh sắc bén của anh làm cho người cha rất lấy làm tự hào trong những lần làm việc với các nhà sưu tầm tranh trên toàn thế giới.
Mùa đông đến, đất nước chìm trong chiến tranh, chàng trai trẻ lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Và chỉ sau một vài tuần ngắn ngủi, cha anh nhận được một bức điện. Đứa con trai yêu quý của ông đã mất tích trong chiến đấu.
Nhà sưu tầm nghệ thuật chờ đợi thêm thông tin trong sự lo âu, bồn chồn; ông sợ rằng mình sẽ không bao giờ được gặp lại con trai nữa. Và rồi, nỗi lo sợ của ông đã trở thành sự thật. Chàng trai trẻ đã hy sinh trong khi đưa một đồng đội đi cấp cứu.
Cô đơn và tuyệt vọng, người đàn ông già nua đón những ngày lễ Giáng Sinh đang đến gần trong sự buồn tủi, đau đớn. Niềm vui của một mùa Giáng Sinh mà ông và con trai hằng mong mỏi không còn ghé thăm ngôi nhà.
Buổi sáng hôm Giáng sinh, một tiếng gõ cửa làm ông già đau khổ thức giấc. Khi ông bước ra tới cửa, các kiệt tác nghệ thuật chỉ nhắn nhủ ông rằng con trai không còn về nhà được nữa.
Khi ông mở cửa, một người lính chào ông, trên tay anh là một gói đồ lớn. Anh giới thiệu: “Cháu là bạn của con trai bác, là người được anh ấy đưa đi cấp cứu ngày anh ấy hi sinh. Cháu xin phép vào nhà một chút được không ạ? Cháu có cái này muốn cho bác xem”.
Khi hai người bắt đầu nói chuyện, anh lính kể cho ông nghe về lòng đam mê hội hoạ của người con trai, về những điều anh đã nói. “Cháu là một hoạ sĩ ”, người lính nói, “và cháu muốn tặng bác món quà này”.
Mở gói quà ra, bức chân dung người con trai hiện ra trước mắt ông. Mặc dù thế giới không bao giờ coi đó là tác phẩm của một thiên tài, nhưng bức tranh đã khắc họa gương mặt người con trai rất chi tiết và ấn tượng. Tĩnh tâm lại, ông cảm ơn chàng lính trẻ, hứa sẽ treo bức tranh lên phía trên lò sưởi.
Một vài giờ sau khi chàng lính đã chia tay ra về, ông già bắt đầu công việc của mình. Đúng theo lời ông, bức tranh được treo phía trên lò sửa, bên cạnh các bức tranh có giá trị hàng nghìn đô la. Sau đó ông ngồi trên ghế tựa và dành cả buổi Giáng Sinh ngắm nhìn món quà mình được tặng.
Trong suốt những ngày sau đó, ông già nhận ra rằng mặc dù con trai không còn nữa, nhưng anh vẫn còn sống mãi vì hành động dũng cảm của mình. Ông sớm biết rằng con trai ông đã cứu hàng chục chiến sĩ bị thương trước khi một viên đại xuyên vào trái tim nhân ái và gan dạ của anh.
Khi tiếp tục được nghe những câu chuyện về hành động dũng cảm của con trai mình, lòng tự hào và hãnh diện của người cha đã dần xoa dịu nỗi đau trong ông. Bức hình của con trai sớm trở thành tài sản quý giá nhất, làm lu mờ hết đam mê của ông đối với những kiệt tác mà các bảo tàng trên toàn thế giới muốn có. Ông nói với láng giềng rằng đó là món quà quý giá nhất mà ông đã nhận được.
Mùa xuân năm sau đó, ông già lâm bệnh và qua đời. Giới nghệ thuật cũng dự đoán được điều này! Không để ý đến câu chuyện về người con trai duy nhất của ông, nhưng để tỏ lòng tôn kính và theo nguyện vọng của ông; những bức tranh được đem bán đấu giá. Theo di chúc của ông, tất cả các tác phẩm hội họa phải được bán đấu giá vào ngày Giáng Sinh, ngày mà ông đã nhận được món quà quý giá nhất của mình.
Ngày đó sớm đến và các nhà sưu tầm nghệ thuật trên toàn thế giới đã tụ họp để trả giá một số bức tranh đẹp nhất của thế giới.
Ngày này sẽ khiến giấc mơ của những người sưu tầm tranh trở thành hiện thực và nhiều người sẽ phải thốt lên rằng: “Tôi có được bộ sưu tập quý giá nhất”.
Cuộc đấu giá bắt đầu với bức tranh không có trong danh sách của bất cứ bảo tàng nào. Đó là bức tranh người con trai ông già. Người điều khiển cuộc bán đấu giá yêu cầu trả giá lần đầu tiên cho bức tranh. Căn phòng im lặng.
“Ai sẽ mở màn cuộc đấu giá với 100 đô la?” - ông hỏi. Nhiều phút trôi qua. Không có động tĩnh gì. Từ cuối phòng có tiếng người vang lên: “Ai quan tâm đến bức tranh đó? Đó chỉ là bức tranh người con trai ông già thôi. Hãy bỏ qua và chuyển sang những bức tranh quý giá khác đi”.
Nhiều giọng đồng tình nữa vang lên. “Không, chúng tôi phải bán bức tranh này đầu tiên”, người chủ trì cuộc bán đấu giá trả lời. “Nào, ai lấy bức tranh người con trai?”. Cuối cùng, một người bạn của ông già lên tiếng: “Ông có bán bức tranh đó với giá 10 đô la không? Tôi chỉ có tất cả từng ấy thôi. Tôi biết cậu bé, vì vậy tôi muốn mua bức tranh đó. Tôi có 10 đô la”.
“Có ai trả cao hơn không?” người chủ trì cuộc đấu giá hỏi.
Lại sau một hồi im lặng, người chủ trì cuộc đấu giá lên tiếng: “Một lần, hai lần. Kết thúc”.
Chiếc búa rơi xuống. Tiếng reo hò tràn ngập căn phòng, một số người reo lên: “Bây giờ chúng ta có bắt đầu cuộc đấu giá cho các tác phẩm quý giá này rồi!”.
Người chủ trì cuộc đấu giá nhìn vào khán giả và tuyên bố cuộc đấu giá kết thúc. Cả phòng lặng đi trong sự hoài nghi, khó hiểu. Một số người lên tiếng hỏi: “Ông nói cuộc đấu giá kết thúc nghĩa là sao? Chúng tôi không đến đây vì một bức tranh con trai của một ông già nào đó. Thế còn tất cả những bức tranh này? Có hàng triệu đô la nghệ thuật ở đây! Tôi yêu cầu ông giải thích xem trò gì đang diễn ra ở đây vậy…!”
Người chủ trì cuộc đấu giá trả lời: “Rất đơn giản. Theo di chúc của người cha, ai lấy bức tranh người con trai… sẽ được tất cả”.
Mọi thứ đều có giá trị nghệ thuật. Như điều mà các nhà sưu tầm tranh đã khám phá ra vào ngày Noel đó, vẫn dòng thông điệp:
Tình yêu của người cha, một người cha có lòng yêu thương con vô hạn, một người cha lấy người con trai làm niềm vui, niềm an ủi lớn nhất đời mình, người đã qua đời và dành cuộc đời mình cứu vớt những người khác. Và bởi tình yêu của người cha, bất cứ ai lấy bức chân dung người con trai sẽ được hưởng tất cả.
A Thousand Marbles
A few weeks ago, I was shuffling toward the basement shack with a steaming cup of coffee in one hand and the morning paper in the other. What began as a typical Saturday morning, turned into one of those lessons that life seems to hand you from time to time. Let me tell you about it.
I turned the dial up into the phone portion of the band on myham radio in order to listen to a Saturday morning swap net. Along the way, I came across an older sounding chap, with a tremendous signal and a golden voice. You know, the kind, he sounded like he should be in the broadcasting business. He was telling whomever he was talking with something about “a thousand marbles.”
I was intrigued and sat down to listen to what he had to say. “Well, Tom, it sure sounds like you’re busy with your job. I’m sure they pay you well but it’s a shame you have to be away from home and your Family so much. Hard to believe a young fellow should have to work sixty or seventy hours a week to make ends meet. Too bad you missed your daughter’s dance recital.”
He continued, “Let me tell you something Tom, something that has helped me keep a good perspective on my own priorities.” And that’s when he began to explain his theory of a “thousand marbles.”
“You see, I sat down one day and did a little arithmetic. The average person lives about seventy-five years. I know, some live more and some live less, but on average, folks live about seventy-five years.”
“Now then, I multiplied 75 times 52 and I came up with 3900 which is the number of Saturdays that the average person has in their entire lifetime. Now stick with me Tom, I’m getting to the important part.”
“It took me until I was fifty-five years old to think about all this in any detail,” he went on, “and by that time I had lived through over twenty-eight hundred Saturdays. I got to thinking that if I lived to be seventy-five, I only had about a thousand of them left to enjoy.”
“So I went to a toy store and bought every single marble they had. I ended up having to visit three toy stores to roundup 1000 marbles. I took them home and put them inside of a large, clear plastic container right here in my workshop next to the radio. Every Saturday since then, I have taken one marble out and thrown it away.”
“I found that by watching the marbles diminish, I focused more on the really important things in life. There is nothing like watching your time here on this earth run out to help get your priorities straight.”
“Now let me tell you one last thing before I sign-off with you and take my lovely wife out for breakfast. This morning, I took the very last marble out of the container. I figure if I make it until next Saturday then God has blessed me with a little extra time to be with my loved ones...”
“It was nice to talk to you Tom, I hope you spend more time with your loved ones, and I hope to meet you again someday. Have a good morning!”
You could have heard a pin drop when he finished. Even the show’s moderator didn’t have anything to say for a few moments. I guess he gave us all a lot to think about. I had planned to do some work that morning, then go to the gym. Instead, I went upstairs and woke my wife up with a kiss. “C’mon honey, I’m taking you and the kids to breakfast.”
“What brought this on?” she asked with a smile.
“Oh, nothing special,” I said. “It has just been a long time since we spent a Saturday togetherwith the kids. Hey, can we stop at a toy store while we’re out? I need to buy some marbles.”
Một nghìn viên bi
Vài tuần trước, tôi bước về phía căn nhà dưới tầng hầm, trên hai tay là cốc cà phê và tờ báo buổi sáng. Những điều bắt đầu trong buổi sáng thứ Bảy bình thường hôm ấy đã trở thành một trong những bài học mà thi thoảng cuộc sống vẫn gửi tới cho ta.
Tôi dò sóng đài trên điện thoại để nghe chương trình phát sáng thứ Bảy. Trong lúc dò, chợt tôi phát hiện giọng nói có vẻ của một người đã cao tuổi, có gì thật hấp dẫn và đó quả là một chất giọng vàng.
Bạn biết đấy, với chất giọng như vậy, có lẽ ông ta đang làm trong ngành phát thanh. Ông đang kể cho mọi người nghe về việc đã nói với ai đó câu chuyện một nghìn viên bi.
Tò mò, tôi ngồi xuống và nghe ông nói. “Này Tom, hình như anh đang rất bận việc thì phải. Tôi chắc rằng họ trả anh cũng khá phải không, nhưng thật xấu hổ nếu anh cứ suốt ngày vắng nhà vì công việc như vậy. Không thể tin được một người trẻ tuổi như anh lại cứ quần quật làm việc mỗi tuần từ 60 đến 70 tiếng để trang trải mọi thứ. Sẽ thật tồi tệ nếu anh quên không tham dự buổi biểu diễn khiêu vũ của con gái anh”.
Ông tiếp tục, “Tôi sẽ kể cho anh nghe điều này Tom ạ, một điều đã giúp tôi luôn biết nhìn trước những thứ cần ưu tiên trong cuộc sống của mình”. Và khi đó, ông lão bắt đầu giải thích lý thuyết một nghìn viên bi.
“Anh biết không, một ngày nọ tôi đã ngồi làm thử một bài toán nhỏ. Mỗi người trung bình sống được khoảng 75 năm. Tôi biết cũng có người sống thọ hơn và cũng có người chết sớm hơn nhưng về trung bình, người ta có thể sống được khoảng 75 năm”.
“Sau đó, tôi nhân 75 năm đó với 52 tuần thì được 3900, đó chính là số ngày thứ bảy mỗi người bình thường có được trong cả cuộc đời của họ. Nào tập trung vào câu chuyện của tôi đi Tom, tôi đang chuyển sang phần quan trọng rồi đây”.
“Phải đến năm 55 tuổi tôi mới có thể suy nghĩ về mọi việc kỹ càng như vậy”, ông tiếp tục, “và cho tới lúc đó, tôi đã sống qua hơn 2800 ngày chủ nhật của đời mình. Tôi hiểu rằng, nếu tôi sống được đến năm 75 tuổi, tôi sẽ chỉ còn được tận hưởng khoảng 1000 ngày chủ nhật nữa mà thôi”.
“Và rồi tôi tới một cửa hàng đồ chơi, mua tất cả những viên bi họ có. Phải đi tới ba cửa hàng tôi mới mua đủ 1000 viên bi cho mình. Tôi đem chúng về nhà, bỏ vào chiếc hộp nhựa lớn, rỗng trong xưởng làm việc, ngay cạnh chiếc đài. Từ đó, khi mỗi ngày thứ Bảy qua đi, tôi lại lấy ra một viên bi ra và ném đi”.
“Tôi nhận ra rằng, khi nhìn số lượng những viên bi ngày một giảm dần, tôi đã biết tập trung hơn cho những điều thật sự quan trọng trong cuộc sống. Không gì giống như việc nhìn thời gian tồn tại của mình trên trái đất này cứ vơi dần và nó giúp bạn biết ưu tiên mọi việc thật mau chóng”.
“Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe một điều cuối cùng trước khi tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng. Sáng nay, tôi đã nhặt viên bi cuối cùng ra khỏi chiếc hộp. Tôi hình dung nếu tôi có thể giữ nó cho tới sáng chủ nhật sau nữa thì tức là, Chúa đã ban cho tôi thêm một chút thời gian để được ở lại bên những người thân yêu…”
“Thật tuyệt khi được trò chuyện với anh Tom ạ, tôi mong anh sẽ dành nhiều thời gian hơn cho những người thân yêu của anh và tôi cũng hy vọng, một ngày nào đó sẽ gặp lại anh. Chúc buổi sáng tốt lành!”.
Bạn có thể nghe thấy rõ tiếng gác ống nghe khi ông ấy kết thúc cuộc trò chuyện. Ngay cả người điều phối chương trình cũng lặng đi trong vài giây. Tôi biết ông ấy đã khiến chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều.
Sáng hôm đó, tôi đã định làm một số việc, sau đó tới phòng tập thể dục. Nhưng rồi, tôi quyết định chạy lên gác, đánh thức vợ bằng một cái hôn. “Dậy thôi em yêu, anh sẽ đưa em và các con đi ăn sáng”.
“Có chuyện gì đặc biệt hả anh?”, cô ấy hỏi và cười.
“Không, không có gì đặc biệt cả”, tôi nói, “Chỉ vì đã lâu lắm rồi hai vợ chồng mình chưa đi ăn cùng các con. À, khi đi mình dừng lại ở cửa hàng đồ chơi một chút nhé, anh muốn mua một vài viên bi”.
My Money Tree
For years I wanted a flower garden. I'd spend hours thinking of different things I could plant that would look nice together.
But then we had Matthew. And Marvin. And the twins, Alisa and Alan. And then Helen. Five children. I was too busy raising them to grow a garden.
Money was tight, as well as time. Often when my children were little, one of them would want something that cost too much and I'd have to say, "Do you see a money tree outside? Money doesn't grow on trees, you know."
Finally, all five got through high school and college and were off on their own. I started thinking again about having a garden.
I wasn't sure, though. I mean, gardens do cost money, and after all these years I was used to living on a pretty lean, no-frills budget.
Then, one spring morning, on Mother's Day, I was working in my kitchen. Suddenly, I realized that cars were tooting their horns as they drove by. I looked out the window and there was a new tree, planted right in my yard. I thought it must be a weeping willow, because I saw things blowing around on all its branches. Then I put my glasses on--and I couldn't believe what I saw. There was a money tree in my yard!
I went outside to look. It was true! There were dollar bills, one hundred of them, taped all over that tree. Think of all the garden flowers I could buy with $100! There was also a note attached: "IOU eight hours of digging time. Love, Marvin."
Marvin kept his promise, too. He dug up a nice ten by fifteen foot bed for me. And my other children bought me tools, ornaments, a trellis, a sunflower stepping stone, and gardening books. That was three years ago. My garden's now very pretty, just like I wanted. When I go out and weed or tend my flowers, I don't seem to miss my children as much as I once did. It feels like they're right there with me.
I live up in Michigan's Upper Peninsula, where winters are long and cold and summers are way too short. But every year now, when winter sets in, I look out my window and think of the flowers I'll see next spring in my little garden. I think about what my children did for me and I get tears in my eyes--every time.
I'm still not sure that money grows on trees. But I know love does!
Tình yêu mọc trên cây
Từ nhỏ tôi đã mơ ước có một khu vườn trồng thật nhiều hoa. Tôi có thể ngồi hàng giờ để tưởng tượng về nó, về những loài hoa sẽ trồng, những chiếc chậu bằng đất nung màu đỏ, hay những lối đi nhỏ rải đầy cuội trắng...
Nhưng để có một vườn hoa như thế cần không ít công sức, và cần rất nhiều tiền.
Gia đình tôi có Matthew, Marvin, hai nhóc sinh đôi Alisa và Alan, và Helen. Với 5 đứa con, tôi quá bận rộn và vất vả, làm sao đủ sức nghĩ tới một khu vườn trồng hoa chỉ để ngắm.
Khi bọn trẻ còn nhỏ, đôi khi chúng muốn một thứ gì đó đắt tiền mà tôi thì không thể cho, và tôi thường nói: “Con có nhìn thấy một cái cây tiền nào ngoài kia không? Con biết là tiền không mọc trên cây mà!”.
Cuối cùng, khi cả 5 đứa nhỏ đều đã tốt nghiệp trung học, rồi đại học, rồi có sự nghiệp riêng thì tôi bắt đầu nghĩ đến khu vườn mình từng ao ước.
Một buổi sáng mùa xuân, vào Ngày của mẹ, tôi đang ở trong bếp, đột nhiên nghe tiếng ầm ĩ ngoài cửa. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy một cái cây. Hẳn là nó mới được trồng. Không biết là cây gì mà có những chiếc lá khá to cứ đung đưa trên cành. Tôi vội vàng đeo kính. Không thể tin vào mắt mình! - Đó là một cái cây tiền, trong sân nhà tôi.
Tôi chạy bổ ra ngoài. Có rất nhiều tờ 1 đôla được dính vào cái cây. Một tờ giấy đính kèm: “Chúng con yêu mẹ thật nhiều. Matthew, Marvin, Alisa, Alan và Helen”.
Cả nhà đã lấy những tờ đô la đó để mua dụng cụ làm vườn, lưới mắt cáo về làm hàng rào, hạt giống và cả những quyển sách dạy làm làm vườn nữa.
Đó là chuyện 3 năm về trước. Giờ thì khu vườn nhỏ của tôi đã rất xinh xắn và giống như trong trí tưởng tượng của tôi. Khi tôi ra vườn tưới nước hay bắt sâu cho những cây hoa, tôi dường như không nhớ những đứa con nhiều như trước nữa, vì tôi cảm thấy chúng luôn ở bên mình.
Tôi đã sống ở Michigan, nơi mùa đông dài và giá lạnh, còn mùa hè trôi qua trong chớp mắt. Nhưng mỗi năm, khi mùa đông đến, tôi lại nhìn ra ngoài cửa sổ và nghĩ đến những bông hoa sẽ nở rộ trong vườn vào mùa hè năm tới.
Tôi nghĩ đến những gì bọn trẻ đã làm, và lần nào cũng thế, giọt nước mắt hạnh phúc lại lăn trên má. Tôi không chắc là tiền có thể mọc trên cây không nhưng rõ ràng tình yêu thì có thể.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro