BÀI GIẢNG KINH TẾ QUỐC TẾ
CHƯƠNG MỘT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MÔN HỌC
1.1.1. Khái niệm và tầm quan trọng của kinh tế quốc tế
Kinh tế quốc tế (International Economics) nghiên cứu mối quan hệ kinh tế giữa các nước, các nền kinh tế và các khu vực kinh tế trên thế giới.
Kinh tế quốc tế là môn khoa học nghiên cứu những vấn đề phân phối và sử dụng tài nguyên giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia thông qua con đường mậu dịch, nhằm đạt được sự cân đối cung - cầu về hàng hoá, dịch vụ, tiền tệ trong phạm vi mỗi nước và trên tổng thể nền kinh tế toàn cầu.
Khái niệm “mậu dịch” trong Kinh tế quốc tế được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả trao đổi hàng hoá, dịch vụ và sự di chuyển nguồn lực sản xuất, tài chính tiền tệ giữa các quốc gia. Do vậy, có thể khái quát: Kinh tế quốc tế nghiên cứu tính quy luật của mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia thông qua trao đổi hàng hoá, dịch vụ, sự vận động của các yếu tố sản xuất, sự chuyển đổi tiền tệ và sự thanh toán giữa các quốc gia.
Kinh tế quốc tế có vai trò quan trọng đối với những người nghiên cứu về kinh tế nói chung, đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương và kinh tế học phát triển. Với xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, Kinh tế quốc tế càng có vị trí quan trọng. Bởi vì không có một chính sách kinh tế nào, một biến động chính trị - xã hội nào xảy ra ở nước này mà lại không ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nền kinh tế các nước khác. Do đó, sinh viên kinh tế cần phải được trang bị cơ sở lý luận và thực tiễn để hiểu về các mối quan hệ đó, hiểu được những gì đang diễn ra trên bình diện thương mại thế giới và ảnh hưởng của nó tới ngườ sản xuất, người tiêu dùng trong mỗi quốc gia.
1.1.2.Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của môn học
Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế quốc tế chính là nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên không phải nghiên cứu nó ở trạng thái tĩnh mà là ở trạng thái động, tức là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước thông qua con đường mậu dịch, liên kết, đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Nghiên cứu Kinh tế quốc tế cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
1.Trang bị cho sinh viên kiến thức để hiểu biết về nền kinh tế thế giới hiện đại.
2.Dựa trên kiến thức của kinh tế học để phân tích lợi ích của mậu dịch tự do và các chính sách hạn chế mậu dịch.
3.Phân tích các hình thức, lợi ích của việc liên kết kinh tế trên bình diện quốc tế và tác động của sự di chuyển nguồn lực quốc tế với nước dầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
4.Phân tích khía cạnh tài chính của mậu dịch quốc tế nhằm thấy được sự vận động của thị trường tiền tệ giữa các nước, các khu vực trên thế giới.
1.1.3.Nội dung và phương pháp nghiên cứu môn học
* Nội dung của môn học bao gồm 7 chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về kinh tế quốc tế
- Chương 2: Lý thuyết cổ điển về mậu dịch quốc tế
- Chương 3: Lý thuyết hiện đại về mậu dịch quốc tế
- Chương 4: Chính sách mậu dịch quốc tế
- Chương 5: Liên kết kinh tế quốc tế
- Chương 6: Sự di chuyển nguồn lực quốc tế
- Chương 7: Thị trường goại hối và cán cân thanh toán quốc tế
* Nghiên cứu Kinh tế quốc tế dựa trên những phương pháp đặc thù sau:
- Phương pháp thống kê – phân tích
- Phương pháp mô hình hoá
- Phương pháp suy diễn và quy nạp
- Phương pháp kiểm soát bằng thực nghiệm…
1.2. NHỮNG THAY ĐỔI LỚN CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI ẢNH HƯỞNG ĐẾN MẬU DỊCH QUỐC TẾ
+ Một là, sự bùng nổ của khoa học công nghệ thông tin đã hình thành một nền kinh tế mới, đó là kinh tế tri thức, một nền kinh tế mà dựa vào trí thức con người là chủ yếu thay vì dựa vào các yếu tố sản xuất truyền thống là sức lao động và tiền vốn. Sự phát triển nền kinh tế tri thức làm thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội toàn thế giới.
+ Hai là, xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới làm cho thế giới trở nên xích lại gần nhau hơn. Thông qua mậu dịch, đầu tư và chuyển giao công nghệ, các nước có quan hệ với nhau nhiều hơn. Mọi sự biến động về tài chính tiền tệ, chính sách kinh tế, cũng như những biến động về chính trị - xã hội – môi trường của bất kỳ nước nào cũng đều ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế của các nước khác.
+ Ba là, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới không ổn định và không đồng đều giữa các quốc gia, các khu vực và các nhóm nước.
+ Bốn là, kinh tế thị trường chiếm ưu thế và đang trở thành dòng chính của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với việc mở cửa ra bên ngoài của các quốc gia. Nhờ đó, mậu dịch quốc tế có nhiều điều kiện để phát triển. Xu thế phi chính trị hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế ngày một tăng lên.
+ Năm là, quan hệ tay ba giữa Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản chuyển sang một giai đoạn mới. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ giữa các nước Nam - Bắc được điều chỉnh và có xu hướng xích lại gần nhau hơn. Trong khi đó, tam giác kinh tế tay ba giữa Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản vốn là đồng minh thân thiết với nhau trước đây, nay lại trở nên mâu thuẫn gay gắt; đặc biệt là trong mậu dịch, đối với các sản phẩm kỹ thuật cao và lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Trong khi đó, xét ở một giác độ khác, mâu thuẫn giữa các cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới này lại có tác động phụ tích cực, kích thích nền kinh tế thế giới phát triển, thể hiện ở:
- Sự cạnh tranh nhau về kỹ thuật đã liên tục cho ra đời các sản phẩm mới tân tiến hơn;
- Gây sức ép lẫn nhau, góp phần bãi bỏ một phần hàng rào bảo hộ, tạo điều kiện để mậu dịch tự do hoá hơn;
- Do cạnh tranh nhau, mỗi nước hình thành một khu vực kinh tế riêng của mình, thu hút cả các nước kém phát triển. Nhờ đó, các nước này có được khả năng phát triển kinh tế do được hưởng các chính sách đầu tư của các nước lớn.
+ Sáu là, liên kết kinh tế theo khu vực đang trở thành mô hình chủ yếu của nền kinh tế thế giới. Khu vực hoá chính là bước quá độ tiến lên toàn cầu hoá. Các nước có nhu cầu liên kết với nhau trong khu vực trước khi tham gia toàn cầu hoá. Nói cách khác, khu vực hoá tồn tại cùng với toàn cầu hoá và là một bộ phận của toàn cầu hoá.
+ Bảy là, kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nổi lên như một thách thức đối với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là đối với các nước Mỹ và Tây Âu, khiến cho cuộc cạnh tranh kinh tế giữa các nước phát triển vốn đã căng thẳng nay lại khốc liệt hơn bởi bắt đầu có sự tham gia của những con rồng, con hổ Châu Á.
+ Tám là, các vấn đề kinh tế toàn cầu trở nên gay gắt. Ảnh hưởng lớn tới mậu dịch quốc tế đó là các vấn đề về thương mại, tài chính quốc tế cũng như các vấn đề về chính trị - xã hội – môi trường.
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MẬU DỊCH QUỐC TẾ
1.3.1. Vì sao các nước phải giao thương với nhau?
- Do có sự khác biệt về tài nguyên thiên nhiên giữa các quốc gia.
- Sự khác nhau về nguồn nhân lực và trình độ sử dụng nguồn nhân lực đó giữa các quốc gia.
- Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc. Ngày nay, mậu dịch quốc tế không chỉ diễn ra trên phạm vi quốc gia mà là giữa các xí nghiệp của quốc gia này với các xí nghiệp của quốc gia khác.
- Mậu dịch quốc tế giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, mậu dịch quốc tế làm tăng cơ hội tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và cải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật.
1.3.2. Đặc điểm của mậu dịch quốc tế
- Mậu dịch quốc tế vượt ra khỏi biên giới quốc gia nên Chính phủ mỗi nước có thể kiểm soát được dễ dàng và áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu.
- Mậu dịch quốc tế gắn liền với việc sử dụng các đồng tiền của các quốc gia khác nhau nên nó liên quan đến vấn đề thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái.
- Mậu dịch quốc tế được coi là phức tạp hơn so với mậu dịch quốc gia vì nó diễn ra giữa hàng trăm quốc gia khác nhau với hàng vạn sản phẩm không giống nhau.
- Chi phí vận chuyển trong mậu dịch quốc tế rất lớn do sự khác biệt về vị trí địa lý giữa các quốc gia.
1.3.3. Xu thế thay đổi của mậu dịch quốc tế
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng của mậu dịch quốc tế không đồng đều và có xu hướng tăng lên.
- Thứ hai, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng chiếm vị trí quan trọng trên thị trường thế giới.
- Thứ 3, cơ cấu hàng hoá thương mại trên thị trường thế giới ngày càng thay đổi theo hướng:
+ Gia tăng tỷ trọng các mặt hàng chế tạo, giảm bớt tỷ trọng các mặt hàng truyền thống.
+ Gia tăng tỷ trọng các mặt hàng vô hình, giảm bớt tỷ trọng các mặt hàng hữu hình.
- Thứ tư, xu thế tự do hoá thương mại đang trên đà phát triển. Bên cạnh đó, tự do hoá thương mại song phương phát triển mạnh.
CHƯƠNG HAI
LÝ THUYẾT CỔ ĐIỂN VỀ MẬU DỊCH QUỐC TẾ
2.1. HỌC THUYẾT TRỌNG THƯƠNG (THE MERCANTILE THEORY)
2.1.1. Tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương (Mercantilism)
- Về bản chất sự giàu có của các quốc gia: Mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng trong phát triển kinh tế thì phải gia tăng khối lượng tiền tệ (vàng bạc, kim quý)
- Về ngoại thương: Muốn gia tăng khối lượng tiền tệ thì con đường chủ yếu là phải phát triển ngoại thương. Tuy nhiên, phương châm là phải xuất siêu: “Một quốc gia chỉ có thể thu lợi do ngoại thương nếu xuất khẩu vượt nhập khẩu”.
- Về lợi nhuận: Một quốc gia chỉ có thể có lợi nhờ mậu dịch trên sự hi sinh của quốc gia khác: “Dân tộc này làm giàu bằng cách hi sinh lợi ích của dân tộc kia”.
- Về vai trò của Nhà nước: Đánh giá cao vai trò của Nhà nước trong việc điều khiển nền kinh tế. Học thuyết trọng thương kêu gọi Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế.
2.1.2. Hạn chế của chủ nghĩa trọng thương
Chủ trương “Một cán cân thương mại thặng dư” của phái trọng thương đã dẫn đến:
- Chỉ chú ý đến xuất khẩu, tìm mọi cách để tăng xuất khẩu cả về số lượng và giá trị.
- Tiến hành bảo hộ mậu dịch: để bảo vệ sản xuất trong nước, các quốc gia không đánh thuế đối với nhập khẩu nguyên liệu, cấm xuất khẩu nguyên liệu hay bán thành phẩm.
- Đánh giá quá cao vai trò của tiền tệ: các nhà trọng thương đo lợi ích của dân tộc bằng kho dự trữ kim loại quý mà họ sở hữu. Họ cho rằng, quốc gia nào có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc là số 1, nếu không, phải buôn bán với nước ngoài để đổi lấy kim quý.
2.2. HỌC THUYẾT LỢI THẾ TUYỆT ĐỐI CỦA ADAM SMITH (THE ABSOLUTE ADVANTAGE THEORY)
2.2.1. Quan điểm kinh tế cơ bản của Adam Smith
- Khẳng định vai trò của cá nhân và hệ thống kinh tế tư doanh. Ngược lại với quan điểm của phái trọng thương, ông cho rằng, Chính phủ không cần can thiệp vào các hoạt động mậu dịch quốc tế mà hãy để các cá nhân và doanh nghiệp tự do hoạt động. Như vậy, sẽ có một “Bàn tay vô hình” dẫn dắt mỗi cá nhân hướng đến lợi ích chung..
- Khẳng định nguyên tắc phân công lao động để tạo ra nhiều lợi nhuận làm cơ sở cho sự ra đời của lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Theo ông, hai quốc gia mậu dịch với nhau là tự nguyện và cả hai đều cùng phải có lợi.
2.2.2. Lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage)
Theo Adam Smith, cơ sở mậu dịch giữa hai quốc gia chính là lợi thế tuyệt đối. Lợi thế tuyệt đối ở đây là chi phí sản xuất thấp hơn (nhưng chỉ có chi phí lao động). Chẳng hạn, quốc gia I có lợi thế tuyệt đối về 1 sản phẩm A nào đó và không có lợi thế tuyệt đối về sản phẩm B. Trong khi đó, quốc gia II có lợi thế tuyệt đối về sản phẩm B và không có lợi thế tuyệt đối về sản phẩm A. Do đó, cả 2 quốc gia đều có thể có lợi nếu quốc gia I chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm A, quốc gia II chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm B và trao đổi cho nhau. Bằng cách đó, tài nguyên của mỗi nước sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn và sản phẩm sản xuất của 2 nước sẽ tăng lên.
Ví dụ: Trong điều kiện tự cung, tự cấp, 2 quốc gia Anh và Mỹ sản xuất 2 loại mặt hàng lúa mì và vải. Chi phí lao động để mỗi nước sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm được cho ở bảng 2.1.
Bảng 2.1: Chi phí sản xuất lúa mì và vải của Anh và Mỹ
Mỹ
Anh
Lúa mì (giờ/kg)
Vải (giờ/m)
1
5
6
4
Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất lúa mì còn Anh có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất vải. Do đó, Mỹ nên chuyên môn hoá lúa mì còn Anh chuyên môn hoá sản xuất vải, sau đó 2 nước sẽ đem trao đổi một lượng nhất định các mặt hàng này với nhau. Cụ thể, Mỹ xuất khẩu lúa mi, nhập khẩu vải còn Anh xuất khẩu vải, nhập khẩu lúa mì.
Giả sử, mỗi nước Anh và Mỹ có 120 giờ được chia đều cho 2 ngành sản xuất lúa mì và vải. Trong trường hợp tự cung, tự cấp, sản lượng lúa mì và vải được thể hiện ở bảng sau.
Bảng 2.2: Sản lượng lúa mì và vải khi chưa có mậu dịch quốc tế
Mỹ
Anh
Tổng
Lúa mì (kg)
Vải (m)
60
12
10
15
70
27
Khi có mậu dịch quốc tế, lượng lao động sẽ được phân bổ lại ở mỗi nước. Cụ thể là tất cả 120 giờ lao động ở Mỹ sẽ tập trung vào sản xuất lúa mì, 120 giờ lao động ở Anh tập trung vào sản xuất vải. Khi đó, sản lượng lúa và vải được thể hiện ở bảng sau.
Bảng 2.3: Sản lượng lúa mì và vải khi có mậu dịch quốc tế
Mỹ
Anh
Tổng
∆ Sản lượng
Lúa mì (kg)
Vải (m)
120
0
0
30
120
30
+50
+3
Như vậy là nhờ chuyên môn hoá và trao đổi, sản lượng của toàn thế giới tăng lên không chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước như trong trường hợp tự cấp tự túc, mà còn dôi ra là 50 kg lúa và 3 m vải. Do đó, mỗi nước có thể tăng lượng tiêu dùng cả 2 mặt hàng và vì vậy trở nên sung túc hơn.
2.2.3. Ưu điểm và hạn chế của học thuyết lợi thế tuyệt đối
* Ưu điểm
- Theo Adam Smith, sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số lượng hàng hoá mà quốc gia đó sản xuất ra, chứ không phải phụ thuộc vào lượng tiền tệ, kim quý mà quốc gia đó tích luỹ được.
- Bác bỏ quan điểm trọng thương, ông chứng minh rằng mậu dịch quốc tế đem lại lợi ích cho cả hai nước tham gia thông qua việc thực thi một nguyên tắc cơ bản là phân công lao động.
- Về chính sách ngoại thương của Chính phủ, Adam Smith khẳng định rằng thương mại tư do có lợi cho tất cả các quốc gia và Chính phủ không nên can thiệp vào hoạt động thương mại quốc tế nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung.
* Hạn chế
- Học thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith không giải thích được các trường hợp sau:
+ Nếu một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất ra tất cả các mặt hàng thì quốc gia đó có cần thiết phải tham gia vào thương mại quốc tế hay không?
+ Nếu một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất bất cứ một mặt hàng nào thì liệu quốc gia đó có thể tham gia vào thương mại quốc tế được không?
- Học thuyết lợi thế của Adam Smith có thể giúp giải thích được một phần nhỏ của mậu dịch quốc tế, đó là sự trao đổi giữa các quốc gia có điều kiện sản xuất khác nhau. Còn giữa các quốc gia có điều kiện sản xuất khá giống nhau cùng có lợi thế về một sản phẩm hoặc một số sản phẩm nào đó, họ có thể trao đổi với nhau được hay không thì học thuyết này không giải thích đựơc.
2.3. HỌC THUYẾT LỢI THẾ SO SÁNH CỦA DAVID RICARDO (THE COMPARATIVE ADVANTAGE THEORY)
2.3.1. Các giả thiết sử dụng khi nghiên cứu
+ Trên thế giới chỉ có 2 quốc gia sản xuất 2 loại sản phẩm
+ Mậu dịch tự do
+ Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và có thể di chuyển tự do trong nước nhưng không có khả năng dịch chuyển giữa các nước
+ Chi phí sản xuất không đổi
+ Không có chi phí vận chuyển
+ Lý thuyết tính giá trị bằng lao động.
2.3.2. Nội dung của học thuyết lợi thế so sánh
- Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế.
- Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn so với các nước khác, hoặc kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi loại sản phẩm thì vẫn có thể và có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế, Điều này là do mỗi nước có lợi thế so sánh nhất định về một hoặc một só mặt hàng và kém lợi thế so sánh về các mặt hàng khác.
- Lợi thế so sánh chỉ sự khác biệt về chi phí sản xuất tương đối (chi phí cơ hội). Một quốc gia có lợi thế so sánh trong việc sản xuất một mặt hàng nào đó nếư nước đó có chi phí sản xuất tương đối (chi phí cơ hội) sản xuất mặt hàng đó thấp hơn so với các nước khác.
Một cách tổng quát, quy luật lợi thế so sánh có thể được phát biểu như sau:
Nếu chi phí sản xuất ra một đơn vị hàng hoá A của quốc gia I là a1, của quốc gia II là a2; chi phí sản xuất ra một đơn vị hàng hoá B của quốc gia I là b1, của quốc gia II là b2 thì quốc gia I sẽ có lợi thế so sánh về sản phẩm A khi a1/b1 < a2/b2 (quốc gia II có lợi thế so sánh về sản phẩm B).
Ví dụ: Giả sử thế giới có 2 nước là Mỹ và Anh, cùng sản xuất 2 loại sản phẩm là lúa mì và vải, với chi phí sản xuất như sau:
Bảng 2.4: Chi phí sản xuất lúa mì và vải của Mỹ và Anh
Mỹ
Anh
Lúa mì (giờ/kg)
Vải (giờ/m)
1 (a1)
2 (b1)
3 (a2)
4 (b2)
Ta có: a1/b1 < a2/b2 (1/2 <3/4): Mỹ có lợi thế so sánh trong việc sản xuất lúa mì, Anh có lợi thế so sánh trong sản xuất vải. Do đó, Mỹ nên chuyên môn hoá sản xuất lúa mì, Anh chuyên môn hoá sản xuất vải. Sau đó 2 nước trao đổi sản phẩm cho nhau. Cụ thể, Mỹ xuất khẩu lúa, nhập khẩu vải; ngược lại Anh xuất khẩu vải, nhập khẩu lúa.
Giả sử Mỹ không sản xuất vải mà chuyển 2 giờ lao động sang sản xuất lúa sẽ tạo ra 2 kg lúa. Mỹ sẽ đồng ý bán 2 kg lúa cho Anh để mua vải khi Pv < 2*PL. (1)
1/2 < PL/Pv < 3/4
Pv < 2*PL < 1,5*Pv
Kết hợp (1) và (2) ta có: Pv < 2*PL và 2*PL < 1,5*Pv. Hay:
Hay
Đây chính là khung (miền) mậu dịch trao đổi của 2 quốc gia. Căn cứ vào khung trên, chúng ta có thể xác định lợi ích từ mậu dịch của 2 quốc gia Anh và Mỹ (bảng 2.5).
* Kết luận
- Để đảm bảo thương mại quốc tế giữa hai nước có thể diễn ra thì giá quốc tế hay tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm trong khoảng giới hạn hai tỷ lệ trao đổi nội địa.
- Nếu tỷ lệ trao đổi quốc tế bằng tỷ lệ trao đổi nội địa của một trong hai quốc gia thì quốc gia đó sẽ không có lợi gì, còn toàn bộ lợi ích sẽ thuộc về quốc gia kia.
Bảng 2.5: Lợi ích từ mậu dịch theo các tỷ số trao đổi
Tỷ lệ trao đổi
Lợi ích của Mỹ khi bán 2 kg lúa để mua vải
Lợi ích của Anh khi bán 3/4 m vải để mua lúa
Tổng lợi ích của thế giới
2*PL = Pv
2*PL = 1.1*Pv
2*PL = 1.2*Pv
2*PL = 1.3*Pv
2*PL = 1.4*Pv
2*PL = 1.5*Pv
0
0,1 m vải
0,2 m vải
0,3 m vải
0,4 m vải
0,5 m vải
0,5 m vải
0,4 m vải
0,3 m vải
0,2 m vải
0,1 m vải
0
0,5 m vải
0,5 m vải
0,5 m vải
0,5 m vải
0,5 m vải
0,5 m vải
2.3.3. Ưu điểm và hạn chế của học thuyết lợi thế so sánh
* Ưu điểm
David Ricardo đã khắc phục được những hạn chế của Adam Smith, khẳng định mọi quốc gia đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế, dù cho quốc gia đó không có lợi thế tuyệt đối về bất kỳ mặt hàng nào.
* Hạn chế
- Các phân tích của David Ricardo không đề cập đến chi phí vận tải, bảo hiểm và hàng rào bảo hộ, trong khi các yếu tố này lại có tính chất quyết định đến hiệu quả thương mại quốc tế.
- Khi nghiên cứu lợi thế so sánh, trong chi phí sản xuất, David Ricardo mới chỉ tính đến yếu tố duy nhất là lao động và đồng nhất lao động trong tất cả các ngành sản xuất. Chính vì vậy mà ông chưa thể tìm ra nguyên nhân tại sao năng suất lao động của nước này lại thấp hơn hay cao hơn năng suất lao động của nước khác.
- Trong lý thuyết, David Ricardo đã miêu tả nền kinht tế thế giới ở mức độ chuyên môn hoá quá mức mà chúng ta thấy không có trong thế giới hiện thực.
E1: Giá trị xuất khẩu sản phẩm X của quốc gia A
EC: Tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia A
E2: Giá trị xuất khẩu sản phẩm X của toàn thế giới
EW: Tổng giá trị xuất khẩu của toàn thế giới
RCA > 1: Sản phẩm X của quốc gia A có LTSS
2.3.4. Hệ số biểu thị lợi thế so sánh (RCA – The Coefficient of Revealed Comparative Advantage)
E1 E2
RCA = :
EC EW
2.4. LÝ THUYẾT CHI PHÍ CƠ HỘI CỦA HABERLER
2.4.1. Lý thuyết chi phí cơ hội (The Opportunity Cost Theory)
* Khái niệm chi phí cơ hội (Opportunity Cost – OC)
Chi phí cơ hội của một sản phẩm là số lượng của một sản phẩm khác mà người ta phải hy sinh để có đủ tài nguyên làm tăng thêm một đơn vị sản phẩm thứ nhất.
Ở ví dụ bảng 2.4, nếu không có mậu dịch thì Mỹ cần phẩi bỏ ra (hy sinh) 1/2 m vải để có đủ tài nguyên (giờ lao động) sản xuất 1 kg lúa mì. Như vậy chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị lúa mì sẽ là 1/2. Còn ở Anh, chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị lúa mì là 3/4. Như vậy, OC (lúa - Mỹ) < OC (lúa – Anh) à Mỹ có lợi thế so sánh (lợi thế chi phí) so với Anh về sản xuất lúa mì.
Tương tự, chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị vải của Mỹ là 2, của Anh là 4/3. Do OC (vải – Anh) < OC (vải - Mỹ) à Anh có lợi thế so sánh (lợi thế chi phí) so với Mỹ về sản xuất vải.
* Sự tiến bộ trong học thuyết của Haberler so với David Ricardo
Trong lý thuyết, Haberler đã dựa trên lý thuyết chi phí cơ hội để giải thích quy luật lợi thế so sánh thay bằng giải thích bởi lý thuyết tính giá trị bằng lao động. Điều này đã tránh được giả thiết cho rằng lao động là yếu tố duy nhất để tạo ra sản phẩm.
2.4.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất với chi phí cơ hội không đổi
Đường giới hạn khả năng sản xuất (The Production Possibility Frontier – PPF) là một đường thẳng (với chi chi phí cơ hội không đổi) cho biết sự kết hợp thay thế nhau của hai sản phẩm mà quốc gia có thể sản xuất khi sử dụng toàn bộ tài nguyên với kỹ thuật là tốt nhất.
Đường PPF của Mỹ và Anh trong trường hợp ví dụ trên được biểu hiện bằng biểu đồ sau:
Vải Vải
90
60
A 45 B’
30
15 B 22,5 A’
60 90 120 Lúa 60 90 120 Lúa
Biểu đồ 2.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất của Mỹ và Anh
Trên đường PPF, ta thấy nếu Mỹ tập trung nguồn lực (120 giờ) để sản xuất lúa mì sẽ sản xuất được 120 đơn vị, còn nếu tập trung nguồn lực để sản xuất vải thì được 60 đơn vị. Để tăng thêm 30 đơn vị lúa mì, Mỹ phải bớt đi 15 đơn vị vải (OC lúa mì = 1/2). Tương tự, Anh muốn tăng thêm 22,5 đơn vị vải thì phải giảm bớt 30 đơn vị lúa mì (OC vải = 4/3). Như vậy, chi phí cơ hội là một hằng số không đổi. Mỗi điểm trên đường PPF biểu hiện một sự phối hợp giữa lúa mì và vải mà mỗi quốc gia có thể sản xuất. Những điểm nằm bên trong đường PPF biểu thị nguồn tài nguyên không được sử dụng hoàn toàn, không hiệu quả. Còn những điểm nằm bên ngoài đường PPF là không thể đạt tới bằng tài nguyên và kỹ thuật hiện có của quốc gia.
2.4.3. Phân tích lợi ích của mậu dịch với chi phí cơ hội không đổi
Nếu không có mậu dịch, một quốc gia chỉ có thể tiêu dùng những gì mà họ tự sản xuất. Do đó, giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó cũng chính là giới hạn tiêu dùng của họ.
Khi không có mậu dịch, giả sử, Mỹ chọn điểm tiêu dùng là điểm A (60 lúa và 30 vải); Anh chọn điểm B’ (60 lúa và 45 vải). Khi có mậu dịch, Mỹ sẽ chuyên môn hoá vào sản xuất lúa mì và sản xuất tại điểm X (120 lúa, 0 vải). Tương tự, Anh sẽ chuyên môn hoá vào sản xuất vải và sản xuất tại điểm X’ (0 lúa, 90 vải). Vì khung tỷ lệ trao đổi giữa hai quốc gia là 1/2 < PL/Pv < 3/4. Giả sử lấy PL/Pv = 2/3, Mỹ sẽ trao đổi 60kg lúa lấy 40m vải. Như vậy, điểm tiêu dùng mới của Mỹ đã chuyển đến điểm Y (60 lúa; 40 vải) và điểm tiêu dùng mới của Anh cũng chuyển đến điểm Y’ (60 lúa; 50 vải). Rõ ràng điểm Y và Y’ đều nằm ngoài đường PPF, nghĩa là tiêu dùng của cả hai nước đã tăng lên. Đây chính là lợi ích từ mậu dịch.
Vải Vải
90 X’
50
60 Y’(60L,50V)
40 Y(60L, 40V) 45 B’
30 A
22,5
X
60 120 Lúa 60 120 Lúa
Biểu đồ 2.2: Lợi ích từ mậu dịch
Lợi ích từ mậu dịch của hai quốc gia được thể hiện rõ hơn khi phân tích tổng hợp trên biểu đồ hình hộp (biểu đồ 2.3).
Trên biểu đồ, AB là đường giới hạn khả năng sản xuất của Anh, BI là đường giới hạn khả năng sản xuất của Mỹ. Diện tích tam giác ABI chính là tổng lợi ích thu được từ mậu dịch giữa hai quốc gia.
A
Vải
90 0
60 I Anh
Mỹ B
0 120 Lúa
Biểu đồ 2.3: Tổng hợp lợi ích từ mậu dịch
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro