Bài 2 vật chất và ý thức
Câu 1: Vật chất và các phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.
1. Định nghĩa phạm trù vật chất
* Quan niệm trước C.Mác về vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan. Cho rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sự phức hợp” những cảm giác của con người.
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất.
Ví dụ: Talet = nước; Anaximen = không khí; Heraclit = lửa; Démocrite = nguyên tử; Triết học Ấn Độ = đất, nước, lửa, gió; Thuyết Âm dương - Ngũ hành ở Trung Quốc = kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
> Quan niệm về vật chất thời kỳ cổ đại mang tính trực quan, cảm tính. Tuy nhiên, nó chỉ có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tồn giáo
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử và khối lượng. Niu – tơn cho rằng, khối lượng là vật chất.
Quan niệm về vật chất thời kỳ cận đại mang tính cơ học, máy móc, siêu hình.
* Quan niệm của triết học C.Mác về vật chất
Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, vật chất là cái tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, ở đâu có vật chất là có vận động và vận động không ngừng.
2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động của vật chất:
* Vận động là gì?
- Theo Ph.Ăgghen “vận động là mọi biến đổi nói chung”.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Theo Ph.Ăngghen viết: “Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động”.
Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả”
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
+ Vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai sinh ra và không bao giờ bị tiêu diệt.
+ Vận động được bảo toàn cả về lượng và về chất.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Cần phải hiểu tính bất diệt của vận động không chỉ đơn thuần về mặt số lượng mà cần phải hiểu cả về mặt chất lượng nữa”.
* Các hình thức vận động của vật chất
Theo Ph.Ăngghen, có 5 hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý (thay đổi trạng thái vật lý) là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh.
- Vận động hóa học (thay đổi trạng thái hóa học) là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất.
- Vận động sinh vật: vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa.
- Vận động xã hội: mọi hoạt động xã hội của con người; sự thay thế các hình thái kinh tế -xã hội từ thấp đến cao.
* Vận động và đứng im:
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì:
- Đứng im chỉ xảy trong một quan hệ nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi quan hệ.
- Đứng im chỉ xảy trong một hình thức vận động nhất định (vận động cơ giới).
- Đứng im là một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng).
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu sự vận động.
- Xác định quan điểm duy vật biện chứng; xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Đứng im chỉ là tạm thời, tương đối.
- Hiểu vận động là cái vốn có của vật chất, không do ai tạo ra và không bao giờ bị tiêu diệt. Chống lại các quan điểm duy tâm siêu hình.
- Nắm vững các hình thức vận động của vật chất để hiểu tính đa dạng, phong phú của vận động.
- Sự vật có nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động nhất định. Không thể quy hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp hoặc ngược lại.
Không gian và thời gian với tư cách là hình thức tồn tại của vật chất
- Quan điểm siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật chất. Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện tượng không tồn tại trong không gian và thời gian.
- Quan điểm duy vật biện chứng:
+ Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, gắn liền với sự vận động của vật chất.
+ Không có không gian và thời gian không có vật chất cũng như không thể có sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.
“Vì các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian”.
+ Không gian vô tận. Thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
+ Không gian có 3 chiều. Thời gian có một chiều.
3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy tâm cho thế giới thống nhất ở tinh thần, ý thức. Một số nhà duy vật siêu hình cho thế giới thống nhất ở tính vật lý. Triết học duy vật biện chứng cho thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngoài thế giới vật chất này không có thế giới nào khác.
Thứ hai, thế giới vật chất tồn tại khách quan tự nó, có trước và độc lập với ý thức con người.
Thứ ba, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ vật chất với nhau.
Thứ tư, mọi sự tồn tại cụ thể của thế giới vật chất đều có thuộc tính chung là thực tại khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không sinh ra, không mất đi, chỉ chuyển hoá lẫn nhau.
Thứ năm, ý thức tinh thần cũng chỉ là thuộc tính của bộ óc người - một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao, do đó cũng bị chi phối bởi quy luật của thế giới vật chất.
Thứ sáu, thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó. Đó là những mặt thống nhất và mâu thuẫn của bản thân thế giới vật chất quy định.
Câu 2. Ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử-xã hội. Do đó, muốn hiểu được nguồn gốc và bản chất của ý thức, cần phải xem xét trên cả mặt tự nhiên và xã hội.
1. Nguồn gốc của ý thức
* Nguồn gốc tự nhiên:
- Ý thức là là kết quả của quá tình tiến hoá của thuộc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất. Vậy, phản ánh là gì?
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất có ở mọi dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
- Phản ánh có các đặc điểm sau:
+ Là thuộc tính vốn có ở mọi dạng vật chất
+ Kết quả của phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác động. Vật tác động là cái được phản ánh, vật nhận tác động là cái phản ánh.
+ Quá trình phản ánh bao hàm cả quá trình thông tin, cái phản ánh mang thông tin của cái được phản ánh.
- Các hình thức của phản ánh:
+ Phản ánh lý hoá: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh. Hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn.
+ Phản ánh sinh học: Đặc trưng cho giới tự nhiên sống. Hình thức phản ánh này đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó các sự vật thích nghi với môi trường sống để duy trì sự tồn tại của mình. Hình thức phản ánh này có nhiều cấp độ:
+1. Tính kích thích: thể hiện ở thực vật và động vật bậc thấp, là phản ứng trả lời tác động của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất giữa chúng.
+1. Tính cảm ứng: là hình thức phản ánh của động vật chưa có hệ thần kinh trung ương, là tính nhạy cảm đối với môi trường xung quanh.
+1.Tâm lý: Là hình thức phản ánh ở các động vật bậc cao, có hệ thần kinh trung ương. Tâm lý động vật là sự phản ánh có tính bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và quy luật sinh học chi phối.
- Ý thức: Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức là hình thức phản ánh chỉ có ở con người.
> Ý thức là đặc tính riêng của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người.
* Bộ não người và ý thức:
Bộ não người là một tổ chức sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi và phức tạp. Bỗ não người là cơ quan vật chất của ý thức.
Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lý – thần kinh của bộ não.
Như vậy, bộ óc người cũng với thế giới bên ngoài tác động lên nó – đó chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội:
Ý thức người ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ có lao động và ngôn ngữ:
Lao động là gì? Theo C.Mác: Lao đọng là quá tình diễn biến giữa con người và tự nhiên, trong đó con người đóng vai trò là môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên.
Đặc điểm của lao động: La hoạt động đặc thù của con người, lao động luôn mang tính tập thể.
Vai trò của lao động:
+ Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người, nhờ có lao động mà con người tách khỏi thế giới động vật.
+ Lao động làm cho cơ thể con người ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là bộ óc và các giác quan.
+ Thế giới khác quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận đọng của mình trong quá trình lao động.
+ Trong lao động, đồng thời với lao động là ngôn ngữ (ngôn ngữ xuất hiện từ lao động).
Ngôn ngữ là gì? Theo C.Mác: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ là cái võ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Vai trò của ngôn ngữ:
+ Là phương tiện giao tiếp trong xã hội, để trao đổi tri thức, kinh nghiệm,...
+ Là phương tiện để tổ kết thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực.
Tóm lại, không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành, tồn tại và phát triển.
Ý thức là nội dung thì ngôn ngữ là hình thức biểu hiện của nó.
2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khác quan vào bộ óc con người một cách năng động và sáng tạo. Điều này được thể hiện ở chỗ:
+ Ý thức cũng là “hiện thực”, nhưng đó là hiện thực trong tư tưởng. Đó là sự thống nhất giữa vật chất và ý thức. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý thức là cái phản ánh.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khác quan, bởi vì ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn.
+ Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên đó là sự sáng tạo dựa trên sự phản ánh.
Quá trình ý thức được thống nhất bởi các mặt sau:
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
+ Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người.
3. Kết cấu của ý thức
* Theo chiều ngang, ý thức gồm:
+ Tri thức: “là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới những hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác”.
Phân loại tri thức:
- Có nhiều loại tri thức khác nhau: tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con người.
- Dựa vào trình độ phản ánh, có tri thức thông thường, tri thức khoa học. Tri thức khoa học lại được chia thành thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
+ Tình cảm: Là sự cảm động của con người trong mối quan hệ với thực tại xung quanh và với chính mình.
* Theo chiều dọc, ý thức bao gồm:
+ Tự ý thức: Là ý thức về bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
+ Tiềm thức: Là những tri thức mà con người đã có được từ trước nhưng gần như trờ thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức.
+ Vô thức: là trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền thông tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí,..
* Ý nghĩa phương pháp luận:
CNDVBC khẳng định, vật chất có trước, sinh ra ý thức, quyết định ý thức, song ý thức cũng có tính độc lập tương đối và có tác động ngược lại đối với vật chất. Sự tác động này diễn ra theo hai hướng:
+ Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan nó sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn.
+ Nếu ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của thực tiễn.
Câu 3: Mối quan hệ giữa vật chât và ý thức.
1. Các quan điểm trước Mác về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là cái có trước, sinh ra và quyết định vật chất. (DT chủ quan: “tồn tại nghĩa là được cảm nhận” – Béccơly; DT khách quan: “Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới có trước, sinh ra và quyết định tự nhiên và xh”- Platon).
- CNDV trước Mác: khắng định vật chất có trước, ý thức có sau. (Phoi ơ bắc: con người là sản phẩm của giới tự nhiên, ý thức là sản phẩm của bộ óc người, là sự phản ánh giới tự nhiên).
Tuy nhiên, các nhà duy vật trước Mác chưa thấy được tính năng động, sáng tạo và sức mạnh cải tạo hiện thực của ý thức. Ngay cả Phoiơbắc cũng chưa hiểu được quá trình bộ óc người sản sinh ra ý thức như thế nào. Còn những nhà duy vật tầm thường chưa thấy được sự khác biệt giữa vật chất và ý thức, coi ý thức cũng là một dạng vật chất, rằng: “tư tưởng đối với óc gần giống như mật đối với gan hay nước tiểu thận đối với thận”.
Các quan điểm trên đều chưa giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Chỉ khi CNDVBC ra đời thì vấn đề trên mới được giải quyết khoa học. Theo quan điểm của CNDVBC thì vật chất có vai trò quyết định ý thức nhưng ý thức cũng có thể tác động trở lại vật chất.
2. Quan điểm của CNDVBC và ý nghĩa phương pháp luận
a. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức.
- Vật chất có trước, ý thức có sau: bởi vì ý thức là sản phẩm, là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người nên chỉ khi có con người thì mới có ý thức. Điều đó cũng có nghĩa là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
- Vật chất là nguồn gốc của ý thức: ý thức được hình thành từ nguồn gốc tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan tác động lên bộ óc) và nguồn gốc xã hội (lao động, ngôn ngữ) đều là vật chất và những dạng tồn tại cụ thể của nó. Do vậy, vật chất là nguồn gốc của ý thức.
- Vật chất quyết định ý thức:
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: bởi vì ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cho nên nội dung của nó lệ thuộc vào đối tượng phản ánh, tức thế giới khách quan, do thế giới khách quan quyết định.
+ Vật chất quyết định các hình thức biểu hiện và mọi sự biến đổi của ý thức: bởi vì mọi sự vận động và các hình thức biểu hiện của ý thức đều bị các yếu tố của lĩnh vực vật chất quy định, đó là các quy luật sinh học, quy luật khách quan của xã hội và môi trường sống (môi trường sống thay đổi thì ý thức sẽ thay đổi).
b. Sự tác động trở lại của vật chất đối với ý thức
- Ý thức có thể tác động trở lại vật chất, nhưng tự bản thân ý thức không thể tác động trở lại vật chất, sự tác động đó phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Sự tác động đó là một quá trình biện chứng, thông qua các khâu:
+ Ý thức trang bị cho con người tri thức về đối tượng cần cải tạo, cần tác động, tức thế giới khách quan.
+ Trên cơ sở những tri thức đó, con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, phương tiện,…để thực hiện mục tiêu của mình, cải biến hiện thực khách quan.
- Mức độ tác động trở lại của ý thức đối với vật chất tùy thuộc vào năng lực của con người, do vậy sự tác động đó có thể diễn ra theo 2 hướng:
+ Tích cực:
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có ý chí,… thì hành động của con người phù hợp với quy luật khách quan, cải biến thế giới khách quan theo hướng tích cực, có lợi cho con người.
+ Tiêu cực:
Nếu con người nhận thức sai, ý thức không phản ánh đúng hiện thực khách quan, . thì chắc chắn sẽ hành động ngược quy luật khách quan, có tác dụng tiêu cực đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, quyết định sự đúng sai, thành bại của hoạt động thực tiễn.
c. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan:
Nghĩa là, trong nhận thức và hành động, con người phải tôn trọng hiện thực khách quan, tuân theo các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan để đề ra các chủ trương, đường lối; đồng thời phải dựa trên cơ sở thực tế khách quan để kiểm nghiệm, đánh giá các chủ trương, đường lối đó. Nói cách khác, chúng ta phải lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
- Phát huy tính năng động chủ quan:
Nghĩa là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người.
Để phát huy tính năng động chủ quan, đòi hỏi con người phải tôn trọng và biết làm chủ tri thức khoa học, truyền bá tri thức đó vào trong quần chúng nhân dân để nó dẫn dắt quần chúng; đồng thời, đòi hỏi mỗi người phải biết tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan tiến bộ và nâng cao ý chí, nghị lực trong hoạt động thực tiễn.
Nhận thức rõ vai trò tích cực của ý thức, của nhân tố chủ quan, Đáng ta đã xác định, trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, phải “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” (VKĐH8, tr. 85), đồng thời phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam.
- Phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, tức là khắc phục tình trạng không tôn trọng quy luật khách quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách,…
Đây là căn bệnh mà Đảng ta đã mắc phải (“Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí vi phạm quy luật khách quan” – Cương lĩnh 91, tr. 4 ). Từ đó Đảng đã rút ra bài học: mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng quy luật khách quan (Cương lĩnh 91, tr. 5).
- Phải phòng, chống và khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thụ động và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, coi trường tri thức khoa học, coi thường lý luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro