Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tệp tin 2: Xe tăng T-24.

Giới thiệu xe tăng T-24 Antaka: Đây là sản phẩm hợp tác giữa các công ty quốc phòng và các phòng thiết kế thuộc viện thiết kế vũ khí của 2 nước Việt Nam và Liên Xô.

-Tên gốc: Object 884.

-Tên chính thức: T-24 "Antaka"

*Thông số kĩ thuật:

-Chiều cao: 2,85m.

-Chiều dài: 10,85m.

-Chiều rộng: 5,2m.

-Trọng lượng: 50 tấn.

-Thành phần giáp xe: Trang bị giáp hỗn hợp 4 lớp, gồm:

+Lớp 1: Thép hợp kim đặc biệt 8896_K-76 gồm: 80% Fe, 10% Vonfam tinh khiết, 8% titan tinh khiết, 2% đất hiếm và các kim loại đặc biệt khác.), sử dụng công nghệ Nano từ Nhật Bản để hỗ trợ làm giảm trọng tải xe.

+Lớp 2: Lớp Composite hỗn hợp của gốm kim loại nung chất lượng cao, trộn chung với nhựa kháng nhiệt cùng chất kết dính là cao su lưu hóa.

+Lớp 3: Gồm các tấm thép của lớp 1 được đóng chéo nghiêng 80⁰, cách nhau khoảng 4cm, mặt sau được căng vải chống cháy-cắt độ bền cao.

+Lớp 4: Là 1 lớp thép boron nitride tinh thể (80% thép 8896_K-76 chuẩn, 18% boron nitride, 2% các chất dẻo hoá kim loại) và 4 lớp sợi Kevlar (tổng độ dày đạt 10mm).

-Tỉ lệ độ dày giữa các lớp giáp: 2/2,5/1/1.

-Độ giày giáp xe:

+Giáp thân xe:

*Chú ý: Giáp phản ứng ở đây là 1 sự kết hợp giữa gạch ERA và gạch NERA. VD: Giáp phản ứng thế hệ 2 Vikatov-I là sự kết hợp giữa giáp phản ứng không nổ NERA Manovka và giáp phản ứng nổ ERA Malachit. Ở mục này, tham số chống đạn là tổng hợp của cả hai loại giáp.

#Mặt trước:

_Mặt trên: 100mm, nghiêng 75⁰ (tương đương 600mm thép RHA* tiêu chuẩn), gạch ERA thế hệ 4 Malachit, tăng độ dày lên 1000mm thép RHA hay giáp phản ứng thế hệ 2 Vikatov-I tăng độ dày lên 1200mm hoặc giáp phản ứng thế hệ 2 GPU-10 (Việt Nam) tăng độ dày lên 1400mm thép RHA.

*Quy ước: thép cán RHA đồng nhất, đặt thẳng đứng.

_Mặt dưới: 80mm, nghiêng 70⁰ (tương đương với 500mm thép RHA), gạch NERA thế hệ 4 Manovka giúp tăng độ dày lên 800mm thép RHA hoặc giáp phản ứng thế hệ 2 Vikatov-I tăng độ dày lên 1000mm thép RHA.

_Trần thân xe: 50mm thép, tương đương với 152mm thép RHA

#Hông xe:

_Phía trên: 100mm nghiêng 30⁰, tăng cường giáp rỗng ( tương đương với 354mm thép RHA ). Được trang bị giáp phản ứng thế hệ 2 Vikatov-I, độ bảo vệ tương đương 600mm thép RHA. Đồng thời bổ sung giáp lồng chống đạn nổ mạnh-nổ lõm và drone tự sát.

-Phía dưới: 100mm đặt thẳng đứng+50 mm chiều rộng bánh giảm xóc= 150mm, tương đương 200mm thép RHA. Khoảng sáng gầm xe là...m (not data)

#Đuôi xe: 50mm thép nghiêng 60⁰, tương đương với 125mm thép RHA. Chỉ được trang bị mái che chống đạn nổ và giáp lồng chống UAV.

#Tháp pháo: Bổ sung giáp lồng kháng UAV.

_Mặt trước: Dày 250mm nghiêng 45⁰, tương đương với 500mm thép RHA, trang bị giáp phản ứng Vikatov-I, tăng độ dày lên 800mm thép RHA.

_Mặt bên: Dày 250mm nghiêng 15⁰, tương đương 344mm thép RHA, trang bị giáp phản ứng Vikatov-I, tăng độ dày lên 540mm thép RHA.

_Mặt sau: 300mm đặt thẳng đứng, tương đương 400mm thép RHA, trang bị giáp phản ứng Vikatov-I tăng độ dày lên 400mm.

_Mặt trần: 100mm thép đặt thẳng đứng, tương đương 172mm thép RHA, trang bị giáp phản ứng GPU-10, tăng độ dày lên 350mm.

#Gầm xe: 150mm thép, tương đương với 225mm thép RHA, được bổ sung giáp rỗng cách đất, giúp chống mìn chống tăng hiệu quả. Mặt sàn cách mặt đất 60cm.

*Vũ khí:

-Chính: Pháo 152,4mm 2A83M2 L/48 hoặc pháo 152,4mm PCT-15 L/50.

#Đạn của pháo 2A83M2:

_Đạn APFSDS-T lõi Vonfam 3BM100 "Vanya", độ xuyên 900mm thép RHA ở khoảng cách 1km, vận tốc đạt 2250m/s. Tầm bắn hiệu quả là từ dưới 1,5km đổ xuống.

_Đạn HEAT-FS 3BK35 "Final", có 3 đầu nổ lõm liên tiếp, độ xuyên đạt 825 mm thép RHA, vận tốc đạt 720m/s, chứa 5,4kg thuốc nổ. Tầm bắn từ 50m đến 4,5km.

_Đạn HE-FRAG 3OF100 "Balkan", chứa 2000 mảnh văng sắt và 12kg thuốc nổ. Bán kính sát thương là 45m. Tầm bắn từ 100m đến 4km.

_Đạn pháo chính xác 3OF39M4 Krasnopol-F chứa 15kg thuốc nổ, vận tốc đạt 658m/s, bán kính sát thương đạt 50m, tầm bắn từ 500m đến 4km.

_Đạn AGTM 9M135 "Yuuka"*, vận tốc đạt 707,1m/s, trang bị 3 đầu nổ lõm liên tiếp, động năng xuyên đạt 25MJ, độ xuyên đạt 1200mm. Tầm bắn từ 125m đến 8km.

*"Yuuka": Lấy từ tên của Hayase Yuuka trong Blue Archive. Tôi cố tình thêm vào đấy! (100kg bay với vận tốc 707,1m/s có động năng là 25MJ. 1 sự trùng hợp hay do ai can thiệp?)

#Đạn của pháo PCT-15:

_Đạn APFSDS-T lõi Vonfam XG-15, vận tốc đạn đạt 2290m/s, độ xuyên đạt 945mm thép RHA ở khoảng cách 1km. Tầm bắn hiệu quả từ dưới 1891m đổ xuống.

_Đạn HEAT-FS NMCT-15, có 3 đầu nổ lõm liên tiếp, vận tốc đạt 900m/s, độ xuyên đạt 840mm thép RHA, chứa 5,8kg thuốc nổ. Tầm bắn từ 50m đến 5km.

_Đạn HE-FRAG NM-15, chứa 1950 mảnh văng sắt và 12kg thuốc nổ. Bán kính sát thương là 45m. Tầm bắn từ 45m đến 4,3km.

_Đạn pháo chính xác DPCX-15, chứa 15kg thuốc nổ, vận tốc đạt 700m/s, tầm bắn từ 50m đến 4,5km, bán kính sát thương đạt 45m.

_Đạn AGTM TLCT-15, vận tốc đạt 700m/s, trang bị 3 đầu nổ lõm liên tiếp, động năng nổ đạt 25,8MJ, độ xuyên đạt 1266mm thép RHA. Tầm bắn từ 150m đến 8km.

-Phụ:

_Pháo tự động 30mm 2A42 M3, dùng đạn 3UOR10 ( trang bị ngòi nổ cảm ứng máy bay địch) và 3UBR15 ( độ xuyên đạt 115mm thép RHA ).

_Súng máy đồng trục MTPU 14,5mm.

*Hệ thống truyền động:

-Động cơ: động cơ 4 thì đa nhiên liệu với xi lanh kiểu X 12N360B, 1550 mã lực khi bình thường và 1900 mã lực khi chạy tối đa.

-Hệ truyền động 4KF15, hộp số 9 số, 5 số tiến, 1 số 0, 3 số lùi. Tốc độ tối đa đạt 90km/h, tốc độ lùi tối đa là 25km/h, tốc độ dã chiến là 65km/h.

-Hệ thống giảm xóc 3-TPU-N kiểu giảm xóc thanh xoắn kép, gồm 14 đôi bánh giảm xóc ở 2 bên và 2 bộ xích bám đất 3-TNU-N giúp xe có thể vượt địa hình dốc có độ nghiêng 60⁰, vượt địa hình không phẳng với độ chênh lệch tối đa 85cm. Ngoài ra còn được bổ sung thêm 2 dải xích dự phòng dài 2 mét đắp lên mặt sau xe và 4 đôi bánh xóc dự phòng treo trên giáp đuôi xe.

-Thùng nhiên liệu chính chứa 1215 lít dầu diesel, cho phép hoạt động với phạm vi 320km khi chạy đường tốt, 290km khi chiến đấu việt dã với tối đa công suất ( khi động cơ chạy bình thường thì cứ cộng thêm 30km vào các chỉ số là được ). Thùng nhiên liệu phụ đặt ở 2 bên thân dưới xe chứa 238 lít dầu diesel, giúp gia tăng khả năng hoạt động lên 80km với tất cả mọi địa hình (Tức là cứ cộng thêm 80km vào mọi chỉ số, kể cả là có max công suất hay tiết kiệm nhiên liệu ).

*Hệ thống chiến đấu:

-Lái xe: Hệ thống sang số bán tự động ( Vừa có thể điều khiển bằng tay, vừa có thể để tự động ); hệ thống lái cần gạt truyền thống; phanh xe thủy lực/điện UBK-S; hệ thống quan sát lái xe ngày đêm thế hệ 4 TKN-45, trường nhìn quét đạt 120⁰. Khả năng quan sát ban ngày đạt 2km, ban đêm là 1,8km.

-Pháo thủ:

+Kính ngắm ngày đêm thế hệ 4 TSh-84, độ phóng đại lần lượt là 1x, 5x, 10x với trường nhìn tương ứng là 25⁰, 18⁰, 10⁰, sử dụng Camera ảnh nhiệt đa dụng KRA-56 của hãng kính ảnh nội địa SOVERA.

+Hệ thống ổn định nòng pháo 4 trục STP-76, với khả năng hạ nòng tối đa 7⁰ và nâng nòng tối đa là 20⁰, độ lệch đạn là 30cm phương ngang và 34cm theo phương thẳng đứng ở cự li 2km, khi di chuyển với vận tốc 45km/h trên địa hình có độ chênh lệch 40cm.

+Hệ thống điều khiển tháp pháo, với tốc độ quay là 30⁰/s.

+Hệ thống ngắm tích hợp máy tính đạn đạo/đo xa laze/điều khiển tên lửa chống tăng TPD-K45 cho phép bắn AGTM với độ chính xác rất cao.

+Hệ thống nạp đạn tự động AVGR-14, là phiên bản độ chế cho phù hợp với đạn 152,4mm từ máy AZ của xe tăng Type -10B ( Nhật Bản). Chứa 25 viên đạn, tốc độ nạp đạn là 5s/viên khi bình thường và 2s/ viên khi ở trạng thái khẩn cấp, tốc độ chuyển loại đạn là 15s.

-Chỉ huy:

+Hệ thống quan sát toàn cảnh PNK-15A, có khả năng phát hiện địch ở cự li 5km khi bình thường và 4,8km khi ở chế độ nhìn đêm.

-Hệ thống điều khiển hoả lực FIU-68 cho phép kiểm soát độc lập súng máy phòng không và gửi dữ liệu vị trí địch cho pháo thủ.

-Hệ thống liên lạc tác chiến TKP-42K (Phiên bản gọn hoá, lắp trên các xe tăng chỉ huy), với khả năng liên lạc với bán kính 32km.

-Hệ thống AI hỗ trợ kíp lái thế hệ 2 "Nina".

*Hệ thống bảo vệ:

-Hệ thống đèn gây nhiễu tín hiệu TShU-2-33 Shtora-4, với khả năng phát sóng làm nhiễu đa kiểu tín hiệu của các loại đạn dẫn đường.

-Hệ thống APS thế hệ 5 "Sulfamit", với khả năng đánh chặn đạn bay với tốc độ 4000m/s, với tầm quét khoảng 1,8km, có khả năng đánh chặn cùng 1 lúc 12 mục tiêu.

-Hệ thống phóng lựu đạn 8S31, với khả năng phóng 12 quả đạn khói cùng lúc, tạo màn khói chứa bụi kim loại gây nhiễu, hay phóng đạn mồi nhử kháng APS của địch trong lúc tấn công.
____________

Lịch sử phát triển.

Các mẫu xe tăng như T-14 Armata có khả năng chiến đấu rất tốt. Tuy nhiên, nó chỉ có thể sử dụng pháo 2A82M3 bắn đạn 3BM90 Priosha. Tuy độ xuyên đạt 700mm, nhưng đối với các mẫu xe tăng hiện đại bây giờ, 700mm không đủ. Còn mẫu T-14/152mm, thì pháo 2A83 vẫn chưa đủ uy lực. Pháo 2A83M2 thì lại làm hỏng hệ thống lồng tháp pháo của T-14.

Còn mẫu T-100, tuy hiện đại, nhưng cũng gặp vấn đề tương tự, và khả năng cơ động và bảo vệ thua xa T-14.

Trong khi đó, lực lượng của Nato sở hữu các loại xe tăng như Abram X sử dụng pháo 130mm bắn đạn M928 có độ xuyên đạt 800mm, đủ sức xuyên qua lớp giáp tháp pháo của T-14 và T-100.

Vì vậy, để chiếm thế áp đảo, Stavka yêu cầu tập đoàn Uralvagonzarod và Phòng thiết kế Malyshev tiến hành nghiên cứu.

Trong khoảng thời gian thiết kế, phòng Uralvagonzarod nhận được lời mời hợp tác từ Cục thiết kế cơ khí và Viện thiết kế công nghệ cao của Viettel.

Dưới sự đồng ý của BQP Liên Xô, họ đã đồng ý hợp tác.

Vào ngày 27 tháng 4 năm 2039, mẫu thực nghiệm đầu tiên được phòng Malyshev trình lên BQP Liên Xô dưới tên gọi: Obj-830. Để mô tả, thì nó giống như tháp pháo T-100 gắn lên thân xe T-14. Do pháo 2A83M2 là hàng khan hiếm nên họ phải sử dụng pháo 2A83M thay thế.

Nhưng mẫu Obj-830 chưa đạt yêu cầu.

Lỗi bắt đầu xuất hiện.

Tháp pháo T-100 quá rộng, trong khi thân xe T-14 quá bé. Điều đó khiến tháp pháo dễ kẹt, dễ làm hỏng lồng tháp pháo. Điều đó làm mất điểm trong mắt BQP Liên Xô.

Trong khi đó, phòng Uvz lại tập trung thiết kế thân xe mới.

Với công nghệ giáp Nano hoá đến từ xe tăng Type-10 của Nhật Bản, họ đã Nano hoá giáp thân xe, giúp giảm trọng lượng nhưng vẫn giữ được khả năng chống đạn xuyên giáp.

Sau đó, bước ngoặt bắt đầu diễn ra.

Vào ngày 17 tháng 1 năm 2040, 1 chiếc xe tăng Abram X bị tóm tại Frankfurt am Main, được Đông Đức chuyển thẳng về Liên Xô.

Các chuyên gia vũ khí từ Uvz và Malyshev đến nghiên cứu công nghệ. Và điểm đột phá ở đây.

Giáp trước của Abram X dày 80mm nghiêng 80⁰, có độ dày đạt 280mm RHA. Cái thiết kế này đã lọt vào mắt xanh của Uvz.

Họ tiến hành tiếp tục thiết kế lại xe. Nhưng ngặt ở chỗ, nếu mặt trên nghiêng bao nhiêu, mặt dưới phải bù lại bấy nhiêu. Tuy vậy, họ tiến hành thu hẹp lại phần góc giữa 2 miếng giáp, không quan tâm đến vấn đề chiều dài xe bị kéo căng.

Tiếp theo là tháp pháo. Họ cũng dựa vào thiết kế mặt trước của Abram X, tăng độ nghiêng lên 45⁰. Còn các phía mặt bên thì được dựa vào Obj-845 (1 thiết kế thất bại khác)

Tổng thể lại, họ đã hoàn tất thiết kế ban đầu của mình, đặt tên là Obj-884. Phiên bản đầu tiên, Obj-884A, được Uvz đưa lên trình diện cho BQP Liên Xô vào ngày 30 tháng 6 năm 2040.

Tuy nhận được sự tán thưởng, nhưng mẫu Obj-884A vẫn không nhận được sự chấp thuận của họ. Vì vậy, họ hợp tác với Malyshev để tiến hành nghiên cứu kết hợp mẫu Obj-830 và Obj-884.

Sau rất nhiều ngày nghiên cứu miệt mài, mẫu Obj-884B ra đời. Họ đã tiến hành thử nghiệm vào ngày 4 tháng 10 năm 2041, dưới sự chứng kiến của BQP Liên Xô. Cuối cùng, mẫu Obj-884B đã nhận được sự phê chuẩn của BQP Liên Xô, nhận định danh T-24A "Antaka"

Rồi, vào ngày 1 tháng 1 năm 2041, tại thành phố Chelyabinsk, dây chuyền sản xuất T-24 đã xuất xưởng chiếc xe tăng T-24A đầu tiên. Chúng được trang bị khẩu pháo 2A83M2 mạnh mẽ nhất Liên Xô. Điều này đã đánh dấu sự ra đời của lô xe tăng T-24 đầu tiên, gồm 20 xe tăng.

Những chiếc xe tăng T-24A lô đầu tiên được phân phối khắp mặt trận Tây Âu để tiến hành thử nghiệm chiến đấu trực tiếp. Kết quả rất khả quan. Và lô thứ 2, gồm 80 xe tăng, đã được phê duyệt sản xuất.

Vào ngày 6 tháng 4, bước ngoặt đã đến.

Bên tổ thiết kế cơ khí thuộc Viện thiết kế vũ khí và Viện thiết kế công nghệ cao Viettel cho ra mắt mẫu pháo xe tăng nội địa PCT-15, mạnh hơn 25% so với pháo 2A83M2 của Liên Xô. Đúng theo điều khoản của Hiệp ước Warsaw, họ đã gửi mẫu pháo này đến Liên Xô để thí nghiệm với mẫu T-24. Và bên Uvz đã thử tích hợp và thí nghiệm. Kết quả cho ra, mẫu PCT-15 có độ tương thích 100% với mẫu T-24.

Cuối cùng, 4 xe tăng T-24A (PCT-15) được gửi đến các tank ace để nghiên cứu chiến đấu thực tế. Và danh sách các tank ace được cấp xe thử nghiệm:

-Trung Tá Vladislav Matarovich Batarov, thuộc Sư đoàn xe tăng cận vệ Warsaw Xô Viết số 58.

-Thiếu Tá Paul Walker Stander, thuộc Sư đoàn xe tăng cận vệ Warsaw Germaniya số 228.

-Thượng Tá Boris Meseyevich, thuộc Sư đoàn xe tăng Warsaw Yugoslavia số 122.

-Thượng Tá Vladinov Stepanovich Khatritonov, thuộc Sư đoàn xe tăng Warsaw Xô Viết số 388.
--------------
Hết rồi đó á!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro