Bác sĩ riêng của Mao
Lý Chí Thỏa
Bác Sĩ riêng của Mao
Lời nói đầu
Andrew Natan
Giáo sư Đại học Tổng hợp Colombia
Không có một nhà độc tài nào trong lịch sử nhân loại có uy quyền lớn như vậy đối với quần chúng như Mao Trạch Đông. Không ai trong số những người cai trị trong quá khứ đã mang đến cho dân tộc mình nhiều sự đau khổ bần hàn cho nước Trung quốc chia rẽ. Sự khát vọng uy quyền và mơ ước nắm giữ ngai vàng với bất kỳ giá nào đã buộc Mao phải cai trị đất nước trong sự thối nát cùng cực. Những ý tưởng điên rồ và hàng loạt mưu đồ đã đưa Trung quốc tới vực thẳm. Hàng chục triệu người đã chết vì đói trong những năm chính sách đại nhảy vọt, và vì sự trả thù hàng loạt và hỗn loạn diễn ra trong thời kỳ Cách mạng văn hoá - đấy là kết quả của một thí nghiệm bệnh hoạn do một ông vua mới xuất hiện trên một đất nước vĩ đại có hàng nghìn năm lịch sử.
Sự thú nhận thẳng thắn của một con người từng sống bên cạnh Mao trong thời gian suốt hai mươi năm và nghiên cứu tận gốc rễ không những tổ chức mà còn thế giới bên trong người cầm lái vĩ đại, là độc nhất trong việc mô tả sinh hoạt của một trong số những bạo chúa của thế kỷ XX.
Những chi tiết trong cuốn Về cuộc sống của các Xê-da đã mô tả những ảnh hưởng thối nát của uy quyền tuyệt đối với khuyết tật, sự tham lam, khát máu và giết người man rợ. Tuy nhiên, khi tả lại cuộc sống của các tù trưởng bộ lạc, người Tây Tạng và bạo chúa Neron, tác giả chưa phải là một con người gần gũi với họ như bác sĩ Lý Chí Thỏa với bệnh nhân Mao Trạch Đông. Về tiểu sử Hit-le ông Speer biết chưa đày đủ về đế chế của mình, nhưng trong tiểu sử của lãnh tụ Nazi, chỉ giới hạn đến mặt chính trị và quân sự của Hitle. Con gái Stalin viết nhiều về bố mình, dù cô ta cũng gặp bố không nhiều. Nhật ký của bác sĩ riêng Napoleon và Hit-le chỉ thuần tuý là quan sát về y học. Hồi ký của Moran về Sớc sin, của Herndon về Lincon chỉ là về những sự kiện lịch sử mà ảnh hưởng của cá nhân đến quá trình lịch sử là không đáng kể. Cái gì liên quan tới triều đại Trung hoa, thì theo truyền thống trong đó chỉ mô tả chuyện ma chay, chôn cất, bói toán, chiến tranh và các sự kiện đáng ghi nhớ của việc lên ngôi của hoàng đế. Trong tiểu thuyết cổ Trung quốc Tam quốc diễn nghĩa mô tả sự chia rẽ Trung hoa thành ba quốc gia thù địch Ngụy, Thục, Hán và về sự thống đất nước dưới sự che chở của triều đại Tần năm 280, người ta chỉ kể lại các cuộc chém giết, sát phạt và các thủ đoạn trong thời kỳ này.
Dưới sự soi sáng của các sự việc nguyên bản và sự mổ xẻ tâm lý Mao một cách sâu sắc đã làm cuốn sách của Lý Chí Thỏa là hiện tượng hiếm trong văn học.
Thật là khó hiểu rằng trong những năm 90 thậm chí người ta vẫn mô tả Mao Trạch Đông là một con người nhân hậu thông minh, và bất cứ sự chỉ trích nào nhắm vào ông ta lại gây sự phẫn nộ trong người Trung quốc. Tất cả những ai có vinh dự gặp lãnh tụ không có thể quên được cuộc gặp đầu tiên khi đó Mao là lịch sự, khiêm tốn và nhân từ với người đối thoại và điều này tạo cho ông ta là người ngay thẳng. Tuy nhiên càng về sau Mao không giữ được đức tính như thế nữa, ông thường xuyên giận dữ, dọa dẫm và cai trị thuộc hạn trong sự sợ hãi triền miên. Mao chẳng khó khăn gì lôi kéo đám cận thần và tất cả nhân dân Trung quốc. Và không còn nghi ngờ gì nữa trong trường hợp này, giúp ông ta chính học thuyết Khổng tử, học thuyết đó trong suốt nhiều thế kỷ đã ăn sâu trong tâm khảm dân thường Trung quốc. Một trong năm điều răn dạy của Khổng giáo là lòng tin của thần dân vào kẻ thống trị dựa trên sự tín, nghĩa, trung quân, không chống lại vua. Vây quanh ông ta là những người dễ bảo, Mao dần dần bày ra trò tự phê bình để mà nghe từ họ bao lời ca tụng và thờ phụng ông ta. Mao bắt chước Tần Thuỷ Hoàng và khéo léo điều khiển đám người quanh ông.
Bác sĩ Lý Chí Thỏa xuất thân từ một gia đình dòng dõi, thời trai trẻ đã được đào tạo trong một trường đại học ở Quý Châu, sau khi tốt nghiệp ngẫu nhiên tham gia tổ chức thanh niên chống cộng của Quốc dân đảng. Điều đó cho phép Mao bằng thủ đoạn hăm doạ lành nghề buộc Lý trở thành người đầy tớ tin cẩn của mình.
Dưới thời Mao, sự thối nát thịnh hành và ông ta cũng biết rõ điều này. Cái đó tạo cho Mao cai quản đám người của mình trong vòng cương tỏa. Ông thường xuyên nhắc đi nhắc lại rằng cá không thể sống thiếu nước, và ông rất thích bơi lội trong các hồ nước bẩn hoặc là ban đêm đi đến các nơi tối tăm của cánh đồng lúa. Tất cả những người quanh Mao đều bị cơ quan mật vụ theo dõi. Trong nhiều năm trời, nhiều người trong số chiến hữu của Mao đã bị nằm trong các trại cải tạo hoặc bị xử tử.
Trong những năm chiến tranh và cách mạng, Mao đã mất con, anh em và một người vợ, nhưng ông lại hoàn toàn thờ ơ trước những đau đớn của những người khác. Trong chính trị cũng như trong đời tư, ông không hề ngần ngại tiêu diệt những người mà ông coi là không có lợi đối với ông, và khi cần thiết thì ông lại nhẫn tâm kéo họ về phục vụ cho ông, nếu lúc ấy họ vẫn còn sống.
Bác sĩ Lý thường đặt Mao trong sử sách Trung quốc. Vị lãnh tụ rất thích các tiểu sử đầy mưu mẹo ranh ma và xảo quyệt của các kẻ thống trị đời trước. Họ đã dạy Mao Chủ tịch cả về chiến thuật lẫn chiến lược đấu đá với kẻ thù của mình. Mao đã nổi bật về mưu mô xảo quyệt và một kịch sĩ. Thậm chí chiến hữu thân cận cũng không thể hiểu nổi Mao đồng ý với họ hay chuẩn bị giáng cho họ đòn bất ngờ.
Hình mẫu cuộc sống của Mao là sự kết hợp chủ nghĩa khổ hạnh và xa hoa, sự lười biếng đến lạ lùng và khả năng làm việc đặc biệt. Phần lớn thời gian Mao nằm trên giường hoặc trên trường kỷ trong bể bơi. Ông ta có thể cả ngày đi lại trần truồng, thích thức ăn béo ngậy, thay cho việc đánh răng, ông xúc miệng bằng nước chè và bồng bế lên giường những cô gái thôn dã chanh cốm.
Năm 1958, trong thời gian thăm tỉnh Hồ Nam, đi theo xe Mao là một chiếc xe tải chở đầy dưa hấu mà Mao ưa thích. Chủ tịch rất thích đi những đôi giày vải, và nếu phải xuất hiện trước một cuộc tiếp xúc ngoại giao thì ông chọn giày da, trước đó những cận vệ tin cậy buộc hoặc cởi giầy cho ông. Mao chẳng bao giờ thích tắm. Thay vì đó, các vệ sĩ lau mình ông ta bằng khăn mặt ướt, điều này - theo lời bác sĩ Lý - dễ tăng sự nguy hiểm lây lan chứng bệnh giang mai trong số nhiều tỳ thiếp của lãnh tụ. Mao chỉ ngủ trên chiếc giường gỗ lớn, không bao giờ được rời ông. Ông mang theo nó trong các chuyến đi riêng của mình, mang nó theo ra dinh thự ngoại ô. Chiếc giường thậm chí còn đi theo ông trên máy bay trong chuyến đi tới Moskva.
Chủ tịch là thời gian quyền lực và là một cuốn lịch. Toàn bộ dinh thự làm việc và sống trong một nhịp điệu của chủ nhân, hoạt động chính của nó bắt đầu theo thường lệ vào lúc nửa đêm. Mao có thể gọi người phục vụ vào lúc hai, ba giờ đêm. Ông rất thích chu du đất nước, vì thế các cuộc gặp gỡ với giới lãnh đạo cao cấp và cuộc họp Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc có thể diễn ra ở hang cùng ngõ hẻm của Trung quốc. Trong số Luận văn đạo Lão cổ ông biết rõ là con đường dẫn tới tới sự bất tử nằm ở quan hệ tình dục và say sưa đắm mình trong trác táng tình dục hoan lạc với vô số các cô gái trẻ đẹp.
Trong những ngày lễ chính thức ông chỉ công nhận kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1-5 và ngày thành lập cộng hoà nhân dân Trung hoa và cũng chỉ mời khách nước ngoài cao cấp. Trong những ngày này ông ăn mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn
Các phụ nữ chỉ được phục vụ ông một trong số các món ăn kiểm tra cẩn thận. Cuộc sống tình dục của ông phải chăng không rõ có phải trên cơ sở chăm sóc kiểu vua chúa hay không. Bên cạnh phòng rộng lớn cho hội nghị hiệp thương toàn quốc là một phòng đặc biệt dành riêng cho lãnh tụ để trong thời gian hội thảo mệt nhọc ông được xả hơi bằng tình dục. Các quan chức quân đội và đảng, những người luôn giữ nghiêm ngặt đạo đức xã hội đã kiếm cho Mao các cô trinh nữ duyên dáng xuất thân từ thành phần vô sản và nông dân.
Mao rất thích khiêu vũ, và thường tổ chức vũ hội, để sau đó các bạn nhảy của ông được vinh dự vui vầy với lãnh tụ trên giường. Những cô gái thạo ngón có quyền dẫn em gái trẻ của mình tới phòng Mao.
Mỗi bí thư đảng ở các địa phương đều xây cho Mao một vi-la tráng lệ. Mao không thích ngồi một chỗ và thường xuyên du ngoại trên đoàn tàu riêng. Mọi đoàn tầu trên đường đi của lãnh tụ đều bị ngừng lại, tại các ga mà tàu đi qua, công an canh chừng hành khách và dân buôn thúng bán mẹt.
Trong những năm đại nhảy vọt người ta bắt nông dân trồng lúa dọc theo đường tầu để lãnh tụ từ trong toa nhìn ra tận mắt có thể nhìn thấy vụ mùa bội thu, mặc dù nó chính nó rất tồi.
Mao rất thích ra ngoài dạo chơi ở vi-la của mình xây ở đảo nằm trên sông Châu Giang gần Quảng Châu. Thức ăn của lãnh tụ được trồng ở những trại đặc biệt cách Bắc Kinh không xa và được kiểm tra bằng những chuyên gia lành nghề. Trong những ngày nóng nực, căn hộ của Mao được làm lạnh bằng những chậu nước đá.
Quyền lực tuyệt đối đã ảnh hưởng tới thể lực và tinh thần của nhà độc tài và cướp đi sở thích đơn giản của ông là giao tiếp. Có lúc hàng tháng ông không rời khỏi giường, mặt tỏ ra lo âu mơ hồ. Tuy nhiên khi xảy ra biến cố chính trị nghiêm trọng thì ông tỏ ra hoạt bát lên, lấy đi sự thanh thản và thậm chí không ngủ nữa. Trong thời kỳ ấy cho lãnh tụ dùng lượng lớn thuốc ngủ barbiturat.
Căng thẳng chính trường thời gian ấy đã không làm yếu khả năng tình dục của Mao và đôi khi ngược lại còn tăng lên. Khi mà trong những năm đại nhảy vọt hàng chục triệu người chết đói, Chủ tịch để chuộc lỗi trước đảng, tạm thời ngừng ăn thịt, nhưng đàn bà thì ông không bỏ. Một trong số những thứ như thế đã mở mắt bác sĩ Lý là người cầm lái thực là vĩ đại về mọi phương diện, bao gồm thậm chí cả tình dục.
Chính sách nhà độc tài phụ thuộc vào tính cách cá nhân của ông. Trong thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội Trung quốc duy nhất Mao đã tạo ra một đất nước nghèo khổ, lạc hậu dở sống dở chết chẳng giống với ai cả, lề lối quản lý kinh tế xã hội khác thường. Đối mặt với sự thù địch của phương Tây, Mao bắt đầu chơi với Moskva. Dù thế các thành tựu khoa học kỹ thuật của Mỹ và Châu Âu luôn luôn làm Mao ngưỡng mộ. Có thể là chính vì vậy Mao chọn Lý làm bác sĩ riêng. Trong đó lãnh tụ Trung quốc muốn tìm thấy những người đối thoại thông minh và có học, đặc biệt hiểu được tiềm năng của mức kinh tế và kỹ thuật của các nước phương Tây phát triển. Khi trao đổi với Lý, Chủ tịch nhiều lần nhấn mạnh rằng quan hệ của Mỹ với Trung quốc luôn luôn thiện chí, trong khi Liên-xô gọi cộng hoà nhân dân Trung hoa là người em trai của mình và xem đó là đất nước vĩ đại có triển vọng. Mao có xu hướng khắc phục những yếu kém của mô hình xô-viết nguyên thuỷ của chủ nghĩa xã hội và xây dựng ở Trung quốc chủ nghĩa xã hội kiểu mới, đưa đất nước đến mức các nước văn minh trên thế giới. Ông cho rằng nhờ đó có thể trở thành kinh điển chủ nghĩa Mác-Lê Nin và đóng góp nhiều bài học bởi sự sáng tạo nguyên bản mới.
Một trong những ý tưởng hiệu quả là chính sách đại nhảy vọt, và để cứu nó phải quay sang Cách mạng văn hoá.
Theo Mao, phát triển kinh tế của đất nước có thể chỉ đạt được bằng chủ nghĩa nhiệt thành của quần chúng. Mao Trạch Đông tin thành tâm vào hiện thực thực hiện kế hoạch lớn lao của mình. Điều này không khó vì chính lãnh tụ từng sống trong vùng cộng sản. Vào thời kỳ khi mà nhân dân Trung quốc đói, lãnh tụ vẫn ngoan cố khẳng định về sự giàu có của đất nước, mà các nhà lãnh đạo đảng đã thông báo cho ông ta. Đảng kiểm soát kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và mọi cuộc sống của nhân dân...
Đảng lãnh đạo đã bác bỏ cách đi tiếp của lãnh tụ theo ý tưởng điên rồ để đẩy mạnh đất nước. Khi đó Mao ngừng lại, để chấp hành quyết định của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc. Tuy nhiên lúc đó có cuộc đấu tranh dữ dội trong nội bộ, Mao ngoan ngoãn nghe lời đa số.
Giải quyết vấn đề cơ bản của đất nước là một nhóm ủy viên Ban chấp hành trung ương gồm 30-40 người. ảnh hưởng của họ đến ý kiến đa số trong lãnh đảng cộng sản Trung quốc phụ thuộc nhiều vào quan hệ qua lại với Mao Trạch Đông.
Trong cuốn sách của mình, bác sĩ Lý mô tả tỷ mỷ cấu trúc hệ thống chính trị của Trung quốc bao gồm những người sáng lập và các cơ quan thuộc Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc: bộ máy thư ký, bộ máy an ninh, bệnh viện, giao thông, cung ứng và những cái khác.
Đối với giới chức cao cấp của đảng, người ta xây các thành phố ngầm, để các nhà lãnh đạo có thể chạy một cách dễ dàng từ nhà họ ra tới bất cứ điểm nào của Bắc Kinh.
Giống nhiều nhà thống trị, Mao không có bạn thực sự và chiến hữu tin cậy. Vây quanh ông là cả một đội ngũ thuộc hạ ngoan ngoãn, những thư ký... và những vệ sĩ lực lưỡng. Dù rằng có bộ sậu đông như thế, Mao vẫn cảm thấy đơn độc.
Tại đại hội VIII đảng cộng sản Trung quốc năm 1956, nhân báo cáo Khơ-rút-sốp về tệ sùng bái cá nhân Stalin, người ta đã cố gắng hạ uy thế Mao Trạch Đông. Mao thẳng thừng chống lại vì ông hiểu quá rõ rằng làm thế ông sẽ mất ngai vàng mà ông giành được từ ngày cộng hoà nhân dân Trung hoa ra đời.
Nhiều năm trôi qua, hàng triệu sinh mạng bị thiệt hại.
Nhiều người trong số chiến hữu người cầm lái vĩ đại đã chết trong các trong trại cải tạo và nhà tù, còn dân chúng như trước đây vẫn ca tụng lãnh tụ trong các cuộc mit tinh hàng ngàn người giơ cao những bìa đỏ trích dẫn lời thần tượng của mình.
Trong số những người trước đây còn nắm chức vụ cao chỉ còn Lâm Bưu, từ 1969 chính thức trở thành trợ thủ duy nhất và người kế tục của Chủ tịch Mao.
Năm 1971 Lâm Bưu bị buộc tội đảo chính phản cách mạng và mưu sát Mao. Sau khi bại lộ, Lâm Bưu cùng vợ và con bay sang Liên-xô. Nhưng máy bay của ông bị rớt trên vùng đất Mông cổ mà cho đến nay không rõ nguyên nhân.
Sự phản bội và cái chết của Lâm Bưu đã giáng Mao một đòn nặng tới mức từ thời điểm đó bác sĩ Lý đã nhận thấy sự giảm đột ngột sức khoẻ của Chủ tịch.
Trong những năm cuối đời, Mao Trạch Đông cố gắng dàn xếp quan hệ với phương Tây. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi việc tiến hành cải cách kinh tế do Đặng Tiểu Bình khởi xướng.
Sau khi Mao chết năm 1976, bác sĩ Lý bị đe doạ tính mạng - người ta có thể buộc tội ông giết lãnh tụ. Nhưng rất may mắn, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc biện hộ cho ông. Dù vậy, không tin vào sự ổn định trong nước, Lý Chí Thỏa di cư sang Hoa kỳ. Sau đó tên của bác sĩ riêng của Mao đã bị xoá bỏ khỏi lịch sử chính thức của cộng hoà nhân dân Trung hoa.
Năm năm sau cái chết của Mao, Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc ra quyết định trong đó Mao được phong là nhà cách mạng vĩ đại đóng góp vào sự phát triển của Trung hoa và giảm lỗi của Mao đi đáng kể. Trong cuốn sách này chứng minh ngược lại. Tác giả vững tin chứng minh rằng sự kết hợp quyền lực tuyệt đối với ý tưởng phiêu lưu chỉ đẻ ra tội ác vĩ đại. Không có một cuốn sách nào về tiểu sử người cầm lái vĩ đại lại tỷ mỷ và khách quan như hồi ký của Lý Chí Thỏa
Phần một : Cái chết của Mao
Chương 1
- Chủ tịch gọi tôi phải không ạ?
Mao cố gắng mở mắt và mấp máy đôi môi, nhưng không nổi. Chiếc mặt nạ ôxy trượt ra khỏi mặt và ông lại bị ngạt. Tôi ghé sát ông, nhưng chỉ có thể nghe thấy những âm thanh khò khè, đùng đục. Ông vẫn còn tỉnh, nhưng hầu như không thể nói được gì nữa.
Trong những năm ấy, tôi là bác sĩ riêng của lãnh tụ, lãnh đạo mười sáu bác sĩ tốt nhất Trung quốc và hai chục hộ lý dày dạn kinh nghiệm. Chúng tôi được trao nhiệm vụ cứu sống Mao.
Ngày 26 tháng sáu năm 1976 Mao lại bị nhồi máu cơ tim lần thứ hai, và từ lúc ấy chúng tôi không rời Mao nửa bước. Quanh giường ông luôn túc trực ba bác sĩ và tám hộ lý. Chưa kể tới hai bác sĩ tim mạch luôn theo dõi cẩn thận điện tâm đồ của ông. Đội ngũ bác sĩ thay phiên nhau trực tám tiếng, nhưng tất cả công việc nặng nề hơn thì tôi phải gánh. Phòng làm việc của tôi là buồng xép chật chội, cạnh phòng điều trị của Chủ tịch, tôi ngủ không quá ba, bốn tiếng một ngày.
Nhân dân Trung quốc hoàn toàn không biết gì về tình trạng sức khoẻ xấu của lãnh tụ kính yêu của mình. Tuy nhiên trên các ảnh trên mặt báo, thường hiếm khi in những tấm ảnh các cuộc gặp của Mao với những người lãnh đạo nước ngoài - người ta dễ nhận thấy các triệu chứng xuống mã của ông. Dù rằng báo chí Trung quốc loan tải khắp thế giới về sức khoẻ tốt của Mao, trong tấm ảnh chụp với thủ tướng Lào Cay-xỏn Phom-vi-hản vào tháng 5-1976 Chủ tịch trông lờ đờ như một ông già. Tuy thế, ngày 8 tháng 9-1976 hàng trăm triệu công dân của đất nước rộng lớn đã bắt đầu chiến dịch với khẩu hiệu Mao Chủ tịch vạn tuế
Tuy nhiên, đối với những người trải qua những đêm trong phòng bệnh của ông, thì hiểu rằng Mao Trạch Đông chỉ còn sống một vài giờ thậm chí vài phút thôi. Họ túc trực từng cặp ứng với cấp bậc và vị trí chính trị và được thay đổi 12 giờ một lần. Trong số những người này có ông phó của Mao - người thuộc phái trung dung Hoa Quốc Phong, nhà cải cách Vương Hồng Văn, và còn có cả các ủy viên Bộ chính trị - phái trung dung có Uông Đông Hưng và phái cực đoan có Trương Xuân Kiều.
Hoa Quốc Phong lãnh đạo tất cả mọi hoạt động cấp cứu Chủ tịch. Ông thành kính tôn sùng Mao, thường xuyên hỏi han sức khoẻ Mao. Lắng nghe chăm chú báo cáo của các bác sĩ, ông tin rằng người ta đã làm tất cả những gì có thể để kéo dài cuộc sống của lãnh tụ. Và khi chúng tôi đề nghị hồi sức nhân tạo cho Mao bằng các quy trình mới rất đau đớn, thì Hoa Quốc Phong là người duy nhất muốn thử ngay phương pháp này lên chính ông ta. Tôi rất quý Hoa Quốc Phong. Tính liêm khiết và sự thẳng thắn của ông quả là khá hiếm trong số những người lãnh đạo đảng dính líu đến tham nhũng và trác táng.
Lần đầu tiên tôi gặp Hoa Quốc Phong vào năm 1959, trong thời kỳ chính sách đại nhảy vọt. Khi đó tôi cùng với Mao về quê hương ông ở Thiếu Sơn tỉnh Hồ Nam. Hoa Quốc phong khi ấy là bí thư đảng ở Hướng Đan. Sau đó hai năm, chính sách đại nhảy vọt đã đẩy đất nước vào khủng hoảng kinh tế, tuy vậy chính quyền địa phương vẫn tiếp tục vẫn báo cáo lên về sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp và chỉ có Hoa Quốc Phong dám dũng cảm công khai nói rằng không những chỉ sức người và gia súc mà cả đất đai cũng bị kiệt cạn, và cho rằng tất cả các báo cáo về tăng trưởng sản xuất là sự nói dối trắng trợn.
- Không một ai, ngoài Hoa Quốc Phong, nói cho tôi tất cả sự thật - Mao nhận xét như thế.
Hoa Quốc Phong trở thành người thay thế Mao vào tháng tư năm 1976, khi ông chiến thắng trong cuộc đấu đá giành quyền lực các phe cánh khi họ biết Mao sắp qua đời.
Tháng giêng 1976 Mao bổ nhiệm Hoa Quốc Phong chức vụ quyền thủ tướng Quốc vụ viện cộng hoà nhân dân Trung hoa thay cho Chu Ân Lai đang ốm nặng, để giải quyết công việc chính phủ. Đầu tháng tư, hàng trăm nghìn người Bắc Kinh đã tụ họp nhau trên quảng trường Thiên An Môn để tưởng nhớ vị thủ tướng vừa mất Chu Ân Lai và bày tỏ sự phẫn nộ của mình bởi những hoạt động của Giang Thanh (vợ Mao) và nhóm chiến hữu Thượng Hải của bà là Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn. Cuộc biểu tình này đã bị chính quyền buộc tội phản cách mạng. Để làm vừa lòng những nhà cách mạng vây quanh vợ mình, Mao buộc tội bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trước quần chúng.
Mao luôn luôn có xu hướng cân bằng lực lượng tả và hữu và trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp và đã phải bổ nhiệm người trợ lý của mình là Hoa Quốc Phong. Như vậy Hoa Quốc Phong không những trở thành người đứng đầu chính phủ, mà còn là người thừa kế Mao ở vị trí người đứng đầu đảng cộng sản Trung quốc. Tôi vui mừng vì điều này và xem quyết định của Chủ tịch là rất khôn ngoan. Thậm chí bản thân Giang Thanh cũng tán thành quyết định này và nói rằng cuối cùng thì lãnh tụ hành động một cách thông minh. Tuy nhiên những người cực đoan buộc tội Hoa Quốc Phong là hữu khuynh.
Do Hoa Quốc Phong vẫn bị côpng kích, ngày 30 tháng 4 năm 1976 Hoa nói với Mao rằng ông ta không thể giữ nổi vị trí do sự đả kích liên tục và nhục mạ từ phía nhóm Giang Thanh. Sau cuộc hội đàm với Chủ tịch, Hoa Quốc Phong cho tôi xem một số văn bản. Vấn đề là ở chỗ Mao nói năng rất khó khăn và ông phải nhờ người khác viết hộ. Mao viết cho Hoa Quốc Phong như sau:
Khi đồng chí ở chính quyền, tôi yên tâm. Hãy hành động với nhiệm vụ được giao. Hãy tự tin và đừng chú ý đến các điều lặt vặt.
Sau khi Mao qua đời, bằng chứng chỉ giấy trắng mực đen, tài liệu trên mở đường cho Hoa Quốc Phong trở thành người thừa kế của lãnh tụ.
Sau nửa đêm 8-9-1976, các bác sĩ lại cố gắng kích thích hoạt động tim của Mao. Nhờ đó đã tiêm được vào người Mao một chế phẩm từ nhân sâm. Do vậy áp lực máu nâng lên gần như tới mức bình thường và mạch đập ổn định chút ít, tuy nhiên tôi hiểu rõ rằng cái đó không kéo dài lâu được.
Lát sau, Hoa Quốc Phong kéo tôi lại và hỏi thầm Bác sĩ Lý, liệu chúng ta có thể làm một cái gì đó khác được không? Tôi không nói gì cả, bản thân thủ tướng hiểu rằng đó là kết thúc. Tôi không thể dũng cảm nói từ chết. Phòng bệnh lặng như tờ chỉ còn nghe tiếng máy hô hấp nhân tạo chạy ầm ì. Tôi ngước mắt nhìn Hoa Quốc Phong và nói nhỏ: Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được
Hoa Quốc Phong quay sang người đứng cạnh mình là Uông Đông Hưng, trưởng ban tổ chức Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc, nói:
- Mời đồng chí Giang Thanh và các ủy viên Bộ Chính trị ở Bắc Kinh cấp tốc lại đây, và thông báo cho các ủy viên Bộ Chính trị trong nước phải về ngay thủ đô.
Uông Đông Hưng gặp Mao lần đầu tiên ở Diên An và từng hàng chục năm phụ trách an ninh cho Chủ tịch.
Sau khi Uông Đông Hưng đi khỏi, cô y tá chạy đến tôi và nói rằng Trương Ngọc Phượng thông báo ý muốn của Chủ tịch muốn gặp tôi. Trương Ngọc Phượng trước đây là người phục vụ trên đoàn tàu hỏa đặc biệt dành cho Mao đi thăm trong nước, bây giờ cô ấy vừa là thư ký riêng và vừa bạn gái tin cẩn của ông.
Lần đầu tiên tháp tùng Mao, tôi thấy cô ta ở Trường Sa trong buổi dạ hội do Mao tổ chức. Trương Ngọc Phượng lúc ấy là một cô gái mười tám tuổi, có đôi mắt to ngây thơ và làn da trắng như nõn nà. Cô đã mời Mao nhảy sau đó Mao mời cô về phòng mình, họ qua đêm ở đó. Quan hệ tình cảm của họ được hình thành có lẽ do Mao không có yếu điểm đối với phụ nữ. Thậm chí vẫn còn hai cô gái nhảy trẻ đang làm y tá phục vụ xoa bóp cho Mao, Trương Ngọc Phượng ở gần Mao lâu hơn các cô khác, mặc dù có những cử chỉ tục tằn và thói thích rượu, nhưng cô vẫn giữ được sự ưu ái của lãnh tụ.
Năm 1974, sau khi thư ký của Mao mắc bệnh ung thư phải nằm viện, thì Trương Ngọc Phượng thay vào đó. Cô ta xử lý thư tín mà hàng ngày gửi đến Chủ tịch, sau này khi thị lực Mao giảm đi, cô đọc cho ông ta một khối lượng lớn tài liệu và viết lại tốc ký lời bình và chỉ thị. Cuối năm ấy, Uông Đông Hưng chính thức tin tưởng Trương Ngọc Phượng ở cương vị thư ký riêng của Mao. Với tư cách bác sĩ riêng tôi có thể rẽ vào phòng Mao bất kỳ lúc nào, tuy nhiên tất cả các việc còn lại phải được phép của Trương Ngọc Phượng. Sau năm 1974 ngay cả Giang Thanh, vợ Chủ tịch và các ủy viên Bộ chính trị muốn vào phòng của lãnh tụ cũng phải có sự đồng ý của Trương Ngọc Phượng và buộc phải chịu đựng tính khí đỏng đảnh của cô.
Khoảng tháng sáu năm 1976, Hoa Quốc Phong đến phòng tiếp khách của Mao. Trương Ngọc Phượng đứng sau bàn đề nghị Hoa đừng phá giấc ngủ của Mao. Hai giờ đồng hồ trôi qua, Trương Ngọc Phượng cũng không đánh thức Mao vì thế thủ tướng Quốc vụ viện cộng hoà nhân dân Trung hoa và trợ lý của Chủ tịch phải ra về, không được nghe diễn giả Mao Trạch Đông. Trước đó không lâu, Đặng Tiểu Bình bị ốm cộng thêm sự đả kích của phe đối lập về tư tưởng, làm gia đình ông có sự rạn nứt. Đặng Dung, con gái út của Đặng viết cho Mao bức thư cầu khẩn lãnh tụ cho phép cô được sống gần bố mình, tuy nhiên yêu cầu này phải qua tay Trương Ngọc Phượng, và cô con gái không may ấy cũng không nhận được quyết định để có thể quay về sống với bố.
Trong những năm cuối đời, chỉ có Trương Ngọc Phượng mới nghe và hiểu được lời nói lủng củng và đày trái ngược của ông và thậm chí cô ta còn phiên dịch lời của Chủ tịch cho tôi.
Khi tôi lại gần giường của vị lãnh tụ sắp qua đời, Trương Ngọc Phượng thông báo rằng Mao hỏi còn hy vọng nào không. Mao xác nhận lời của cô ấy một cách khó khăn và từ từ chìa tay cho tôi. Tay của ông yếu lắm và mạch đập khó nhận ra, da đã xạm dần. Cái nhìn của ông không còn có sức sống như trước, chỉ còn lại sự lãnh đạm mệt mỏi của người sắp chết. Đường điện tim gần như phẳng.
Mao được thu xếp đưa vào buồng này trong toà nhà 202 ở Trung Nam Hải sáu tuần trước đó, 28 tháng sáu 1976. Trong những ngày ấy ở phía đông Trung hoa có trận động đất lớn phá huỷ hoàn toàn thành phố Đường Sơn khoảng 100 dặm cách Bắc Kinh làm chết hơn 250 nghìn người. Chính ở thủ đô, nạn nhân tuy không nhiều, nhưng cũng bị phá huỷ đáng kể và hàng triệu người được cứu khỏi đống gạch vụn đã phải ở trong lều tự làm trên phố. Trong dinh thự của Mao cũng bị đổ vỡ nhiều vì thế chúng tôi buộc phải chở ông vào chỗ an toàn hơn.
Toà nhà mang số 202, nơi lãnh tụ nằm, nối liền với toà nhà chính bằng một hành lang. Toà nhà được xây dựng đặc biệt cho Mao vào năm 1974 và có thể tránh được chấn động mạnh. Buổi chiều hôm chuyển đi, có một trận chấn động mạnh và chúng tôi bị xô đẩy lần thứ hai. Nhưng may mắn chúng tôi đã nằm ở chỗ chắc chắn. Bầu trời dường như nổ tung, nhưng tôi chẳng sợ gì cả - tôi cần phải cứu cuộc sống Mao Chủ tịch.
Hoa Quốc Phong, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Uông Đông Hưng đến sát giường lãnh tụ. Sau tấm bình phong tôi nghe thấy cả từng bước chân - ca trực đêm của bác sĩ và hộ lý đang chuẩn bị. Tôi kiểm tra mạch, đứng bên cạnh là 4 ủy viên Bộ Chính trị. Bất ngờ Giang Thanh giận dữ bước vào phòng và gào lên:
- Ai là người sẽ nói cho tôi biết cái gì xảy ra ở đây?
Giang Thanh là người vợ thứ tư của Mao, nếu tính cả lần ông tảo hôn do thúc giục của gia đình. Tuy nhiên về việc đó Mao không thích kể lại.
Mao cưới Giang Thanh ở Diên An năm 1938. Người ta kể cho tôi rằng ở đó bà ta cũng chẳng có gì đặc biệt khác mọi người. Nhưng sau 1949 vai trò thụ động của vợ lãnh tụ vĩ đại làm Giang Thanh buồn bực, bà ta hay cáu kỉnh và thất thường. Chỉ trong những năm Cách mạng văn hoá bà ta mới được xuất hiện và thành ủy viên Bộ Chính trị, bà ta tàn nhẫn với tất cả những ai cản bà.
Mỗi người sống theo cách riêng của mình, tuy nhiên Mao không có ý định ly dị Giang Thanh, nếu làm thế thì ông không tránh khỏi phải cưới một trong số người tình nhõng nhẽo của mình.
Trong những năm Cách mạng văn hoá Giang Thanh chuyển đến ở một biệt thự lớn ở Bắc Đới Hà, nơi khách cao cấp nước ngoài nghỉ chân. Sau cơn đau tim của Mao, bà trở lại Trung Nam Hải.
Bà ta không dễ dàng chấp nhận ảnh hưởng của Trương Ngọc Phượng đối với Mao, nhưng cuối cùng bà biết sự tiện lợi của người phiên dịch phục vụ cho ông chồng ốm đau của mình. Căn bệnh nặng và sự sắp qua đời của Mao là đòn nặng với Giang Thanh. Bà lo rằng quyền lực của bà sẽ biến theo gót chân ông, và cũng trong thời gian ấy trong tâm khảm bà nuôi niềm hy vọng thay chỗ ông.
Hoa Quốc Phong cố an ủi bà:
- Đồng chí Giang Thanh - Hoa lịch sự nói - Chủ tịch bây giờ đang nói chuyện với bác sĩ Lý.
Tôi xoa dịu Mao, mặc dù trạng thái của ông thật vô vọng. Ông bắt đầu xuống sức từ năm 1971, chấn động bởi sự phản bội của Lâm Bưu, một người bạn cũ, một người phó duy nhất và là người thừa kế, sau âm mưu đảo chính bất thành ông cùng vợ và con trai quyết định bay sang Liên-xô. Tuy nhiên máy bay rớt trên vùng Un-đê-khan (Mông Cổ). Tổ lái và gia đình Lâm Bưu đã chết. Sự việc tác động mạnh đến Mao. Ông bị suy sụp, các cơn mất ngủ giày vò dẫn ông đến bệnh tật.
Cuộc viếng thăm Trung quốc của tổng thống Mỹ R. Nixon đã đến gần. Dù bệnh nặng Mao liên tục từ chối bác sĩ chăm sóc. Chỉ ba tuần lễ trước khi tổng thống Mỹ tới, Chủ tịch cuối cùng mới chịu chữa bệnh. Thể trạng của ông xấu trầm trọng cả về thể lực lẫn nói năng. Quá trình chạy chữa lại vấp phải bệnh tim. Để tiếp R. Nixon tại dinh, Mao cần tôi. Tôi dẫn tổng thống Mỹ vào phòng Mao, bản thân tôi đứng sau cánh cửa phòng tiếp khách chuẩn bị bất kỳ lúc nào cũng phải thuốc thang ngay cho lãnh tụ.
Cơ thể ông già 73 tuổi đã xuất hiện nhiều bệnh. Nhiều năm nghiện thuốc lá đã phá hỏng lá phổi ông. Lại còn thêm vài năm Mao bị bệnh viêm phế quản dày vò. Các lá phổi bị xơ cứng mất tính đàn hồi, Mao thở khó khăn và bị ho mạnh. Phổi trái thực tế không làm việc, nên để thở và nói bình thường Mao chỉ có thể nằm nghiêng sang trái. Tôi thường phải sử dụng túi oxigen, còn trong trường hợp rất nặng thì phải dùng máy hô hấp nhân tạo của Mỹ do Henri Kit-sinh-giơ gửi sang sau chuyến thăm bí mật Trung hoa năm 1971.
Nhiều chuyên gia y tế nước ngoài cho rằng Mao mắc bệnh parkingson. Tuy nhiên năm 1974 các bác sĩ Trung quốc phát hiện ra rằng đó là chuẩn đoán sai và ông có căn bệnh nan y ảnh hưởng mạnh đến não làm tê liệt từng bộ phận cơ thể. ít nhất thì sự phát triển của bệnh làm ông mất khả năng nói và nuốt cho nên phải bơm thức ăn qua đường mũi. Cơ bắp làm việc uể oải và thở rất khó khăn. Cơ thể liên tiếp bị viêm nhiễm nhẹ. Do thiếu thuốc công hiệu chạy chữa, người bệnh chết một vài năm sau khi chuẩn đoán.
Bệnh tình của Mao phát triển như các chuyên gia dự đoán. Nhưng ở thời điểm nói trên căn bệnh quái ác này ảnh hưởng xấu tới tim. Cơn đau tim đầu tiên của Mao vào tháng 5-1976. Điều này xảy ra khi cãi nhau với Trương Ngọc Phượng. Cơn tiếp theo vào ngày 26 tháng sáu, cơn thứ ba - 2 tháng 9. Tất cả bác sĩ hiểu rằng cái chết rất gần nhưng để nói ra được điều này, đòi hỏi có lòng vô cùng dũng cảm. Tuy thế cơ thể của lãnh tụ vẫn chưa chịu đầu hàng.
- Mọi thứ bình thường, thưa Chủ tịch - tôi nói, nắm tay ông trong tay mình - chúng tôi có thể giúp đỡ ông.
Trong khoảnh khắc, mắt Mao xuất hiện một tia hy vọng. Tôi thậm chí còn cho rằng má hơi hồng lên chút ít. Mắt ông nhắm lại, bàn tay phải không còn sự sống nữa và tuột khỏi tay tôi. Đường điện tim phẳng lỳ. Tôi liếc đồng hồ, lúc 0 giờ 10 phút. Bắt đầu một ngày mới - 9 tháng 9 năm 1976.
Tôi không hối tiếc vì cái gì đã xảy ra. Hơn hai mươi năm tôi hàng ngày ở bên cạnh Mao, tháp tùng ông trong các chuyến đi và kiên trì giúp ông trong những hội nghị dài. Đối với Mao tôi không những là bác sĩ riêng mà còn là người tin cẩn. Ông tâm tình với tôi chuyện riêng tư và các bí mật chính trị. Và tôi có thể là người gần gũi với ông hơn cả Uông Đông Hưng - người bảo vệ tin cậy của ông.
Trong những năm đầu, tôi ngưỡng mộ Mao. Ông đã cứu Trung hoa khỏi ách đô hộ Nhật bản và ông được coi như sứ giả của Trời. Nhưng trong những năm Cách mạng văn hoá ước mơ của tôi về nước Trung hoa mới, về tự do, không bị đàn áp và công bằng đã bị tan thành mây khói. Tôi không tin vào lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, mặc dù tôi là đảng viên đảng cộng sản Trung quốc. Nhìn vào điện tâm đồ đang chạy một đường thẳng nhịp tim người cầm lái vĩ đại, tôi cảm thấy kết thúc một kỷ nguyên và hiểu rằng ngôi sao của Mao đã tắt hẳn. Một ý nghĩ xâm nhập đầu tôi, và tôi thấy kinh sợ. Cái gì chờ tôi? Sự sợ hãi này đã theo tôi từ sớm hơn.
Nhìn vào xác lãnh tụ không còn linh hồn và bộ mặt những người đang đứng cạnh xác chết, tôi hiểu rằng họ cũng an tâm với số phận của mình. Cuộc sống ở Trung Nam Hải luôn luôn giấu sự nguy hiểm, và bây giờ tôi bỗng thấy nó tiến gần đến. Cái nhìn của tôi xoáy vào Giang Thanh.
- Đồng chí làm cái gì thế? - Bà ta hỏi tôi - Đồng chí phải trả lời tôi đấy!
Tôi chờ đợi lời buộc tội này. Giang Thanh nổi tiếng là mưu mô và bội bạc. Quan hệ của chúng tôi bắt vẩn đục đã hai mươi trước, năm 1972 bà ta thậm chí còn thậm chí buộc tội tôi là gián điệp.
Hoa Quốc Phong tiến đến bà nhận xét rằng tất cả mọi việc diễn ra trước mắt ông ta, và bác sĩ đã làm tất cả mọi cái có thể.
Vương Hồng Văn xác nhận lời thủ tướng:
- Tất cả chúng tôi không dời khỏi Mao.
Vương Hồng Văn là người trẻ nhất trong số ủy viên Bộ Chính trị, và đôi khi người ta gọi đùa là tên lửa do việc thăng tiến nhanh. Từ một nhân viên quèn ở bộ phận an ninh ở một nhà máy ở Thượng Hải, ông leo đến đỉnh cao quyền lực chính trị. Không ai có thể hiểu vị thế của Mao với con người trẻ này và tha cho anh ta về sự thăng tiến nhanh thế này. Vương Hồng Văn, gày gò, trông cũng đáng yêu vì dáng học thức, nếu bỏ qua cái nhìn của ông ta. Vất vả lắm ông mới học xong trung học, dáng gù, vẻ chậm chạp của ông liệu có ích gì cho lãnh tụ. Vào tháng 5, sau khi sức khoẻ Mao xấu đi đột ngột, Vương Hồng Văn đã nói với tôi và đã đề nghị cho Mao dùng ngọc trai được chế biến thay cho thuốc, nhưng tôi bác bỏ đề nghị này vì lãnh tụ không muốn uống thuốc lạ.
Khi Mao chết, Vương Hồng Văn trong phiên trực của mình hiếm khi có mặt vì còn bận săn thỏ gần một sân bay quân sự bí mật Tạ An. Phần đông thời gian rỗi ông dành để xem phim mang từ Hồng công về. Tôi ngờ rằng Vương Hồng Văn trước đây không phải là người đứng đắn, nhưng quyền lực làm ông hư hỏng thêm.
- Bác sĩ đã báo cáo cho chúng tôi tất cả rồi - Vương Hồng Văn chống chế Giang Thanh.
- Vì sao người ta không báo cho tôi sớm hơn? Giang Thanh trách móc.
Đó là một mánh khóe. Giang Thanh thường xuyên được thông báo về sức khoẻ của chồng và bà thường buộc tội bác sĩ thổi phồng bệnh tật và nói là không tin vào lời các phần tử tư sản. Ngày 27 tháng tám chúng tôi chính thức thông báo cho bà ấy về tình trạng sức khoẻ nguy kịch của Mao, nhưng bà phớt lờ lời báo trước của chúng tôi và vẫn đi kiểm tra công tác ở Đại Trại, nơi mà bà ta lãnh đạo một công xã nông nghiệp kiểu mẫu. Hoa Quốc Phong đã thông báo gấp cho Giang Thanh ngày 5 tháng 9, nhưng bà ta thậm chí chẳng thèm chú ý tới sức khoẻ ông chồng, và chỉ kêu là mệt mỏi.
Ngày 7 tháng 9 sức khoẻ của lãnh tụ đã trở nên quá xấu, và Giang Thanh buộc phải gặp các bác sĩ. Bà bắt tay từng người và nói Đây là vinh dự lớn lao và hạnh phúc cho các đồng chí đấy. Giang Thanh gần như tin chắc rằng bà ta sẽ thay thế chỗ Mao và nghĩ chúng tôi chỉ còn mơ ước về điều đó.
Một số bác sĩ lần đầu tiên thấy bà ngạc nhiên về tính lạnh lùng và tàn bạo của bà. Uông Đông Hưng có lần nói với tôi rằng không có gì đáng ngạc nhiên cả: Mao - vật cản duy nhất trên đường nắm quyền của bà. Bà đã chờ đợi cái chết của Mao và cuộc đấu tranh giành quyền lực càng căng thẳng theo từng phút sống của Mao Chủ tịch.
Giang Thanh cầm đầu nhóm các nhà cách mạng cực đoan trong đảng, gồm Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Viên Tân (cháu Mao) và Trương Xuân Kiều, một lý thuyết gia gốc Thượng Hải có quan điểm tả và nhà tư tưởng chủ chốt Cách mạng văn hoá. Ông thích lặp lại câu nói Cỏ dại của chủ nghĩa xã hội còn quý hơn cao lương chủ nghĩa tư bản .
Lúc Giang Thanh giận dữ, Trương Xuân Kiều bồn chồn đi đi lại lại, chắp tay sau lưng. Viên Tân lục lọi khắp phòng với ánh mắt tăm tối dường như muốn tìm một cái gì đấy.
Mao Viên Tân là con trai của Mao Trạch Minh, em út của Chủ tịch. Trong chiến tranh thế giới thứ II Mao Trạch Minh bị tỉnh trưởng Xuyên Giang, tây bắc Trung hoa kết án tử hình. Chính tỉnh trưởng Thân Tử Hải từng là người cùng chí hướng với Mao Trạch Minh, nhưng sau khi phát xít tấn công Liên-xô đã chạy sang hàng ngũ Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng. Sau đó vợ của Mao Trạch Minh cũng bị bắt và bản thân Viên Tân được sinh ra trong tù. Ra tù, mẹ Viên Tân đi lấy chồng khác, và Mao phải nuôi đứa cháu của mình. Sau năm 1949 Mao đưa cháu vào Trung Nam Hải, nhưng hiếm khi nhòm ngó đến cháu.
Tôi được chứng kiến tận mắt Viên Tân lớn lên như thế nào. Trong những năm còn bé, quan hệ của anh ta với Giang Thanh rất phức tạp. Tuy nhiên năm 1966, khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, anh ta dao động và tham gia nhóm Giang Thanh. Người ta bổ nhiệm anh ta chức chính ủy quân sự ở Triết Giang, đông bắc Trung hoa. Sau đó, năm 1975, khi Mao bị ốm nặng và không thể tham gia cuộc họp Bộ Chính trị, Viên Tân trở thành người liên lạc giữa lãnh tụ và những người lãnh đạo đảng và có chút ít quyền hành. Giang Thanh vẫn tin tưởng vào người cháu.
Đám bác sĩ và hộ lý lo hãi nhìn vào bộ mặt giận dữ của Giang Thanh. Uông Đông Hưng nói một cái gì đó với Trương Diêu Tự, người phụ trách nhóm cận vệ của Mao. Hận thù giữa Uông Đông Hưng và Giang Thanh đã từ lâu. Uông Đông Hưng hoàn toàn không sợ, phớt lờ sự công kích của bà và chiếm lấy một số chức vụ. Là trưởng ban tổ chức Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc, Uông lúc ấy lãnh đạo cơ quan mật vụ và là bí thư đảng của bộ phận bảo vệ riêng Mao, đảm bảo an ninh cho các lãnh tụ đảng cộng sản Trung quốc và dinh thự ở Trung Nam Hải. Trước Cách mạng văn hoá Uông Đông Hưng đã từng là thứ trưởng bộ công an.
Trương Diêu Tự, cũng như Uông Đông Hưng, cũng là cựu trào trong đảng và từng tham gia cuộc Trường Chinh. Cả hai đều người Giang Tây. Họ cũng từng bị kết án.
Bỗng nhiên Giang Thanh đổi giận làm lành. Có lẽ bà ngộ nhận con đường tới quyền lực chỉ còn gang tấc, bà sẽ nhanh chóng trở thành người thống trị.
- Thôi được - bà nói - các đồng chí đã làm tất cả những điều có thể và các đồng chí chẳng sung sướng gì. Xin cám ơn tất cả mọi người.
Quay người sang cô phục vụ, bà đề nghị chuẩn bị cho bà bộ áo tang bằng vải lụa đen. Giang Thanh đã chuẩn bị nhỏ nước mắt cho người chồng vĩ đại của mình.
Hoa Quốc Phong đề nghị Uông Đông Hưng gấp rút triệu tập phiên họp. Phần đông những người có mặt sắp ra về, thì bỗng nhiên Trương Ngọc Phượng vừa khóc vừa nói:
- Chủ tịch bỏ chúng ta rồi! Ai sẽ làm với tôi đây?
Giang Thanh tiến đến ôm cô, khuyên nhủ đừng khóc.
- Bây giờ cô sẽ làm việc với tôi - bà nói.
Nước mắt của Trương Ngọc Phượng tức thời biến mất. Cô ta không giữ nổi nụ cười và trả lời:
- Tôi rất cám ơn đồng chí, đồng chí Giang Thanh ạ.
Tôi hiểu rõ Giang Thanh lịch sự yêu cầu Trương Ngọc Phượng đừng cho ai vào buồng Mao, và thu nhặt tất cả các giấy tờ nằm trong phòng và đưa lại cho bà ấy. Sau đấy Giang Thanh mới đi vào phòng lớn chờ cuộc họp Bộ chính trị. Trương Ngọc Phượng vui vẻ nhận lời và hứa thực hiện nhiệm vụ.
Lúc sau Trương Diêu Tự, đội trưởng đội cận vệ riêng tìm tôi. Ông ta vừa mới bước từ phòng ngủ của lãnh tụ và đang băn khoăn một cái điều gì đó. Trương hỏi có ai trong số người thày thuốc nhìn thấy đồng hồ của Mao không.
- Đồng hồ nào chứ - Tôi hỏi.
- Cái đồng hồ mà Quách Mạc Nhược tặng Mao trong thời kỳ hội đàm ở Trùng Khánh năm 1945.
Mao không có thói quen đeo đồng hồ, nhưng món quà tặng của Quách Mạc Nhược có giá trị lịch sử lớn.
Quách Mạc Nhược là nhà văn lớn nổi tiếng của Trung hoa, nhà khoa học xuất sắc nhiều mặt, là bạn và là người ủng hộ Mao. Một thời gian dài ông là Chủ tịch viện hàn lâm khoa học cộng hoà nhân dân Trung hoa và chết vào năm 1978. Trong cuộc hội đàm lịch sử ở Trùng Khánh qua trung gian Mỹ đã thỏa thuận đạt được hoà giải giữa đảng cộng sản Trung quốc và Quốc dân đảng và hình thành một chính quyền liên minh ở Trung quốc. Do đó ở Trung quốc đã ngăn chặn được một cuộc nôị chiến của tất cả các lực lượng từng kháng Nhật.
- Tất cả chúng tôi đều bận bịu cứu lãnh tụ - Tôi trả lời - Không ai chú ý tới đồng hồ. Vì sao ông không hỏi Trương Ngọc Phượng?
- Tôi thấy Mao Viên Tân cứ loanh quanh chỗ đó. Có thể ông ta lấy chiếc đồng hồ?
- Không ai trong số nhân viên y tế có thể lấy chúng - tôi trả lời.
Trương Diêu Tự lại đi tới giường Mao. Lát sau từ trong phòng lớn nơi bắt đầu cuộc họp Bộ chính trị, Uông Đông Hưng đi ra và mời tôi nói chuyện trong một buồng nhỏ bên cạnh. Qua đấy, tôi biết Bộ chính trị vừa mới quyết định thi hài của lãnh tụ phải được bảo quản khỏi thối trong hai tuần để nhân dân có thể tiễn biệt ông. Bắc Kinh vào tháng chín trời còn rất nóng, và giới lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc mong muốn công việc bảo quản thi hài phải làm ngay.
Khi Mao còn sống, không ai trong chúng tôi cả gan nghĩ tới vấn đề chôn cất, nhưng bây giờ, thì đó đương nhiên, ai cũng có số mệnh cả.
Tôi đi ra thực hiện mệnh lệnh của lãnh đạo và chuẩn bị thi hài trong lễ viếng, thì một nhân viên bảo vệ chặn tôi lại và nhắc:
- Bác sĩ Lý, đừng làm rối công việc chuẩn bị. Bộ chính trị đang họp, và tôi cảm thấy rằng chẳng có cái gì tốt đẹp hứa hẹn với ông đâu. Chỉ cần ông phạm sơ xuất nhỏ thì ông cũng phải trả giá đấy.
Trong khoảnh khắc đầu tiên sau cái chết của Mao tôi cảm thấy ớn lạnh trong lồng ngực, nhưng nó nhanh chóng bị nén lại và tôi ghi nhận những lời doạ của viên sĩ quan với sự bình thản tự tin.
Tôi hoàn toàn nhận ra rằng người ta có thể buộc tội tôi giết lãnh tụ. Nhà tôi năm đời là thày thuốc. Người ta kể cho tôi rằng trong thời nhà Thanh, trong những năm cai trị của thái hậu Từ Hy, cụ tôi là người rất được kính trọng. Thậm chí người ta đã mời cụ từ quê ra cung vua để làm ngự y. Một cụ tổ khác cũng chữa cho Đồng Trị và sau đó cũng trở thành thày thuốc trong cung.
Người ta kể rằng hoàng đế Đồng Trị thích vi hành. Vua cải trang và đi vào nhà dân trong các ngõ hẻm phía nam Cấm Thành. Gia đình tôi kể là cụ tôi phát hiện ra hoàng đế Đồng Trị bệnh lậu. Thái hậu Từ Hy đã giận dữ vì chẩn bệnh như vậy. Bà tóm tóc vật xuống sàn nhà và lăn lộn, bắt ông tôi phải chữa cho Đồng Trị khỏi bệnh. Chẳng bao lâu Đồng Trị chết, và cụ tôi bị đuổi khỏi hàng ngũ thày thuốc của bệnh viện hoàng cung. Lời buộc tội sai trái vẫn còn gắn với ông đến lúc chết, nhưng người ta bỏ chiếc mũ thày thuốc ngự y vào quan tài ông. Nghề của gia đình tôi vẫn tiếp tục tồn tại và truyền tới thế hệ sau, tuy nhiên do trường hợp của cụ tôi, không ai trong số giòng họ có thể hành nghề trong hoàng cung. Dù thế, chính quyền cao cấp không hiếm khi mượn chúng tôi phục vụ.
Tôi không nôn nóng mong ước trở thành bác sĩ riêng Mao, tuy nhiên hoài bão của tôi chiến thắng lòng tự hào. Đôi lần tôi thử từ bỏ Mao, nhưng nó luôn luôn gọi tôi quay lại. Chỗ tôi làm việc chỉ có gia đình tôi bạn thân được biết thôi. Công tác an ninh của lãnh tụ luôn luôn nguy hiểm vì có những âm mưu gạt bỏ tôi khỏi lãnh tụ. Tất cả những ai biết công việc tôi đầu cảnh cáo rằng tôi có thể chết bất ngờ. Một trong số các chị họ tôi đã nhắc tôi từ năm 1963 rằng: Sức khoẻ của Mao Chủ tịch nằm dưới sự theo dõi của đảng và nhân dân. Nếu ai đó trong số ủy viên Ban chấp hành trung ương tỏ ra không hài lòng về công việc của chú thì họ không tha chú đâu.
Một vài người bạn ngừng thăm tôi. Thậm chí sau khi gia đình tôi rời khỏi Trung Nam Hải khách cũng hiếm khi đến thăm. Một người bạn của tôi ở Côn Minh, tỉnh Vân Nam, là người bạn thân của Đàm Phú Dân, thời gian ấy là chính ủy khu vực Côn Minh. Đàm bị người bảo vệ của chính ông ta xử tử trong Cách mạng văn hoá. Sau đó ai từng có mặt ở nhà Đàm, đều được mời đi thẩm vấn và rồi bị tống vào ngục. Về trường hợp này, cháu tôi cũng đã kể với tôi: May mắn, cháu tôi nhận xét, tôi chưa khi nào ở ngôi nhà này cả. ít lâu sau cô ta ngừng đến thăm tôi.
Tôi khi nào có thể quên lời buộc tội các bác sĩ chữa cho Stalin, về tội mưu sát lãnh tụ Xô viết. Và vì vậy có thể đoán được hành động tương tự trong quan hệ của tôi và y tá điều trị cho Mao. Từ khi Mao gần chết tôi cũng đã âm thầm chuẩn bị ngày bị bắt.
Đầu tháng 9, sau cơn đau tim lần thứ ba của Mao, tôi nhanh chóng chạy về nhà. Tôi vắng nhà đã vài tháng. Tôi chuẩn bị gói quần áo lót và pantô và đồ mặc lặt vặt. Sau đó tôi đi quanh phòng với ý nghĩ từ gĩa nó, bởi vì không còn hy vọng quay trở lại. Vợ tôi đang ở chỗ làm, con tôi ở trường. Sau này vợ tôi kể cho tôi rằng cô ta biết sự xuất hiện của tôi do một bà nói lại. Bà ta kể lại cho vợ tôi là tôi rất vội và có vẻ bồn chồn. Họ cho rằng có một cái gì đáng sợ.
Vì vậy sự thận trọng và doạ của tay bảo vệ đối với tôi hoàn toàn chưa có tác động. Tôi đã chuẩn bị tất cả từ đã lâu. Mao hay nói con lợn chọc tiết không sợ nước sôi. Tôi quẩn quanh trong đầu rằng câu nói thông thái đó ngụ ý cả đến tôi
Trời vẫn tối, tôi gọi về nhà bộ trưởng y tế Lưu Thân Bình và đề nghị gặp khẩn cấp. Tôi không nêu nguyên nhân, chỉ lưu ý rằng cuộc gặp gỡ không có mặt người khác. Lưu Thân Bình là vợ goá của cựu bộ trưởng công an Tạ Phú Trị. Cả hai đều thân cận Giang Thanh. Tôi ngờ rằng Giang Thanh tác động để bổ nhiệm Lưu Thân Bình vào chức vụ bộ trưởng. Tôi biết Giang Thanh mù tịt về y học.
Lưu Thân Bình vẫn ở trong khu Bộ công an, nơi từ lâu có các biệt thự cho người nước ngoài. Ngôi biệt thự mà Lưu Thân Bình đang ở được xây theo phong cách châu Âu cổ, trước kia là toà nhà đại sứ quán nước ngoài. Bà chờ tôi ở phòng khách dường như đang ngái ngủ.
- Mao Chủ tịch đã từ trần lúc một giờ đêm - tôi nói.
Bà bắt đầu thổn thức, nhưng tôi bình tĩnh tiếp tục:
- Chúng ta có nhiều việc, vì vậy đừng mất thời gian. Lãnh đạo mong rằng chúng ta bảo quản thi hài lãnh tụ trong vòng hai tuần lễ. Phải khẩn trương. Họ đang chờ chúng ta.
Bà lau nước mắt:
- Chúng ta cần phải làm gì?
- Chúng ta cần phải tham khảo ý kiến của các nhà khoa học viện hàn lâm y học. Phải tìm ở các khoa giải phẫu và bệnh lý các chuyên gia mà chúng ta cần.
- Được rồi, trước tiên phải gọi Hoàng Thụ Trạch và Dương Trung tới đã.
Hoàng Thụ Trạch là thứ trưởng bộ y tế, và Lưu Thân Bình thường xuyên trao đổi với ông vì ông có bằng bác sĩ. Dương Trung là bí thư đảng ủy Viện hàn lâm y học.
- Chúng ta không nên phí thời hoài thời giờ trong lúc chờ đợi. Trước tiên chúng ta gọi các chuyên viên đến và sau đó tất cả sẽ gặp nhau ở phòng Dương Trung ở Viện Hàn lâm.
Lưu đồng ý và gọi các chuyên viên, còn tôi đi vào Viện Hàn lâm.
Khi tôi đến thì thấy đang Dương Trung và Hoàng Thụ Trạch ở đó. Cũng có cả các chuyên viên - Trương Bình Thân, giáo sư khoa giải phẫu học và Ngô Thanh, vợ ông, trạc 40 tuổi - giáo sư khoa đại thể. Lưu Thân Bình vẫn chưa thông báo cho họ về lý do cuộc gọi ban đêm, và Trương Bình Thân bối rối nhìn qua cửa sổ.
Sau này tôi hiểu rằng các cuộc gọi như thế xảy ra từ sớm hơn. Trong những năm Cách mạng văn hoá Trương Bình Thân thường bị kéo ra khỏi giường ấm để làm giấy chứng tử về cái chết của người bị tử hình hoặc tự tử. Bởi vì hồng vệ binh thường dính dáng trong những cái chết đó, người ta không muốn đưa vụ việc công khai, nhưng giấy chứng tử cái chết có thể được dùng làm văn bản kết tội cho nên phải cần tới chuyên viên.
Trương Bình Thân bớt chế nhạo đám tiểu tướng Hồng vệ binh. Ông sợ nhất là bị gán cái nhãn phản cách mạng thì mờ đời. Đúng ra đó là bản án tử hình. Mới đây người ta đã gọi ông vào ban đêm để khám thi thể ông cựu bộ trưởng bộ công an Lý Chấn tự sát bằng thuốc ngủ. Do kết luận mà ông ký nên ông đã hai tháng liền phải qua lại đến trụ sở bộ công an và vì thế khi tôi thông báo lãnh tụ từ trần thì bộ mặt Trương trở nên hết lo lắng.
Các chuyên viên nói rằng việc bảo quản thi hài Mao trong vòng hai tuần không phải là phức tạp. Để làm điều đó chỉ cần tiêm hai lít formaldehyde. Hoàng Thụ Trạch và Dương Trung chấp nhận phương pháp này. Trương Bình Thân và Ngô Thanh chuẩn bị bơm tiêm và thuốc và đi cùng tôi vào Trung Nam Hải. Phố xá vẫn còn vắng. Lúc đó là 4 giờ sáng và những tia nắng vẫn chưa xuất hiện. Nhân dân Trung quốc vẫn còn chưa biết lãnh tụ vĩ đại không còn trên đời từ mấy tiếng rồi.
Bộ Chính trị vẫn còn họp. Sĩ quan trưởng bảo vệ nhìn thấy tôi nói là Uông Đông Hưng và nguyên soái Diệp Kiếm Anh mấy lần hỏi tìm tôi. Ông nói thêm là Bộ Chính trị đã thảo xong bản thông báo cho đảng, quân đội và tất cả nhân dân Trung quốc và sẽ được truyền qua đài phát thanh vào lúc 4 giờ sáng.
Tôi nóng lòng chờ thông báo chính thức, bởi vì tôi hiểu rằng sẽ rõ mọi chuyện và liệu người ta có bị buộc tội tôi và các y tá do tôi phụ trách về cái chết của Mao hay không.
- Trong thông báo nói về bệnh và cái chết của Mao thế nào? - tôi lo lắng hỏi.
Ông ta đưa tôi một bản copy.
- Đồng chí tự đọc lấy.
Tôi tóm lấy tờ giấy và dòng đầu tiên lập tức đập vào mắt tôi. Trong đó viết:
... các bác sĩ đã làm mọi thứ có thể, nhưng do tình trạng sức khoẻ của ông không còn hy vọng. Ông qua đời lúc 0 giờ 10 phút ngày 9 tháng 9 năn 1976 tại Bắc Kinh .
Đọc tiếp không có ý nghĩa nữa.. Tôi đã nằm ngoài vòng nghi ngờ rồi. Sau đó vài ngày, 13 tháng 9, tên tôi xuất hiện trên tờ Nhân dân nhật báo ở đó chức danh tôi là lãnh đạo nhóm bác sĩ chữa Mao. Thế là nguy hiểm đã qua.
Ngay khi tôi xuất hiện ở phòng họp mười bảy ủy viên Bộ chính trị, thì Uông Đông Hưng gặp tôi và nói rằng cần thảo luận gấp riêng với tôi. Chúng tôi đi vào phòng nhỏ, Uông Đông Hưng hỏi tôi tôi đã đọc thông báo chưa.
Tôi trả lời rằng vừa đọc được mấy đọan đầu tiên. Uông cười nhạt:
- Bộ chính trị vừa mới chấp thuận quyết định bảo quản thi hài lãnh tụ lâu dài. Đồng chí hãy nghĩ đi làm điều này thế nào cho tốt nhất.
Tôi như bị quay cuồng.
- Nhưng các ông vừa mới nói chỉ chỉ hai tuần thôi. Vì sao các quyết định bảo quản thi hài lâu dài? Năm 1956 chính Mao bằng văn bản đã bày tỏ mong muốn được hỏa táng. Tôi nhớ rõ thế.
- Đây là ý nguyện của Bộ chính trị. Chúng tôi đã thông qua quyết định này mấy tiếng trước đây - Uông Đông Hưng nói thêm là ông và thủ tướng Hoa Quốc Phong đã ủng hộ quyết định này.
- Nhưng cũng cần phải hiểu rằng - tôi nói - thậm chí sắt và thép còn bị thời gian huỷ hoại, nói gì đến xác người chết. Làm thế nào để ngăn cản thối rữa bây giờ được.
Lúc ấy tôi nhớ chuyến đi của mình với Mao năm 1957 tới Moskva và thăm lăng Lê nin và Stalin. Thi hài của họ liên tưởng tới xác ướp Ai cập héo quắt. Người ta kể cho tôi là mũi và tai của Lê Nin đã hoàn toàn bị hỏng và được thay bằng sáp. Bộ râu nổi tiếng Stalin cũng hoàn toàn bị hỏng dù là kỹ thuật ướp xác của Liên-xô hoàn thiện hơn Trung quốc. Tôi không không thể đề nghị xem chúng tôi giữ xác Mao như thế nào.
- Ông cần phải hiểu tình cảm của chúng ta - Uông trả lời và nhắm mắt lại.
- Tôi hiểu tất cả, nhưng các nhà khoa học Trung quốc chưa tiếp cận với cái này - Tôi trả lời.
- Chỉ cần ông tìm cho được những người có khả năng làm việc này. Lãnh đạo đảm bảo tất cả các điều kiện cần thiết - Uông kiên trì.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, bị liệt, người cao tuổi nhất trong số đảng viên cộng sản và người sáng lập giải phóng quân Trung quốc gặp tôi. Tôi rất quý ông nguyên soái. Ông quan tâm đến quan điểm của tôi về quyết định vừa được thông qua và tôi phải nói đi nói lại cho ông biết tất cả các khó khăn. Lặng đi một lát ông nói:
- Chúng ta không còn sự lựa chọn nữa, chúng ta cần thực hiện quyết định của Bộ chính trị. Tôi cho rằng bác sĩ Lý nên tiếp tục tham khảo những người tin cậy, và có thể đề nghị viện mỹ thuật trang trí ứng dụng. Có thể người ta ở đó làm được hình Mao bằng sáp. Nếu nó giống y thật, thì khi cần thiết thì trong tương lai chúng ta sẽ dùng nó để thay thế thi hài lãnh tụ.
Tôi giật thót tim. Đến cả Diệp Kiếm Anh, phó Chủ tịch ủy ban khoa học kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng cũng đòi làm những điều không thể làm được.
Uông Đông Hưng cũng đồng ý với Diệp Kiếm Anh, và yêu cầu tôi không kể cho ai.
Đến tận giờ, tôi không biết có bao nhiêu ủy viên Bộ chính trị biết về phương án phiên bản Mao bằng sáp. Có thể điều này bí mật đến mức thậm chí Giang Thanh cũng không biết.
Tôi trở vào phòng chưa thi hài. Trong phòng chất đầy thiết bị y học, và chúng tôi chuyển thi hài sang buồng thoáng hơn nối liền với phòng Bộ chính trị vừa họp. Nhiệt độ không khí khoảng 26 độ, là tương đối cao. Tôi đề nghị hạ nhiệt độ xuống 10 độ, tuy nhiên nhân viên phục vụ từ chối làm điều này. Họ tuân lệnh Giang Thanh giữ nghiêm nhiệt độ cao như thế. Họ giải thích rằng trong toà nhà có mặt tất cả các nhà lãnh đạo trong nước. Họ khuyên tôi đề nghị trực tiếp với lãnh đạo. Điện ở Trung Nam Hải lấy từ hai trạm điện và đủ cung cấp để đảm bảo nhiệt độ bình thường trong phòng không phụ thuộc vào thời tiết bên ngoài. Thậm chí trong toà nhà 202 xây riêng cho Mao, lại không có khả năng điều hoà nhiệt độ cho từng phòng riêng biệt. Tôi vào phòng họp đề đạt quyết định Bộ chính trị giảm nhiệt độ trong toà nhà. Sau đó các cuộc họp Bộ chính trị chuyển sang thời gian khác.
Khi tôi trở lại thì Trương Bình Thân và Ngô Thanh đã tiêm xong formaldehyde. Tôi kể cho họ về quyết định mới của lãnh đạo và cả hai thống nhất rằng giữ thi hài lãnh tụ nhiều năm trong thời điểm hiện nay thực tế là không thể.
Tôi đề nghị họ chấp hành quyết định lãnh đạo Chúng ta cần phải tìm cách để làm điều này. Tôi đề nghị ai đó trong chúng ta vào thư viện viện hàn lâm y học và cố tìm xem một tài liệu về vấn đề này
Sau một tiếng, Ngô Thanh từ thư viện gọi cho tôi nói là đã đọc qua phương pháp bảo quản xác lâu dài. Theo phương pháp đó thì tiêm vào thân thể người chết khoảng 12-16 lít formaldehyde tùy theo trọng lượng xác. Đồng thời làm việc đó trước 4 đến 8 giờ sau khi chết. Quy trình dừng lại khi mà dung dịch đã lấp đầy ngón tay và ngón chân người quá cố.
Bà ta cũng tìm thấy mô tả lý thuyết phương pháp này trong một tài liệu nước ngoài, nhưng lại không tin vào kết quả thực nghiệm và đề nghị tham khảo ý kiến với các ủy viên Bộ chính trị. Tôi gặp Uông Đông Hưng, nhưng ông ta giận dữ giận dữ nói:
- Các đồng chí là chuyên gia và tự quyết định lấy. Đừng có vì việc này phải họp Bộ chính trị. Thậm chí nếu chúng tôi họp lại thì việc này cũng nằm ngoài tầm hiểu biết quyết của chúng tôi. Tôi khuyên đồng chí nên đi và làm việc.
Trong phòng xuất hiện thêm hai gương mặt mới - Trương, từ bệnh viện Hàn lâm y học và Mạc ở bộ phận bệnh lý học bệnh viện Bắc Kinh. Trương giúp tiêm formaldehyde vào thi hài, còn Mạc lo việc trang điểm người quá cố. Tôi thông báo rằng công việc bắt đầu. Đến 10 giờ sáng thì xác Mao đã được tiêm dung dịch nhiều hơn là dự kiến. Chúng tôi quyết định làm điều này để lấy hy vọng.
Kết quả làm mọi người choáng váng. Mặt Mao phồng lên như quả bóng, cổ dày lên đẩy lên đến đầu. Da thì bóng lên và từ chân lông phun ra những hạt formaldehyde bé li ty. Thân người phồng lên khác thường. Mấy tay bảo vệ và người giúp việc hết sức sợ hãi không nói nên lời.
- Sao lại ghê thế này - Trương Ngọc Phượng thét lên - Các ông làm thân thể Chủ tịch thành cái gì thế?
Mặc sự cố, Ngô Thanh không bối rối. Nhưng Trương Bình Thân thì thấy hãi thật. Ông ta mặt tái nhợt lộ vẻ lo sợ.
- Đừng lo - tôi an ủi ông - Chúng ta phải nghĩ một cái gì đó xem.
Chúng tôi đã đưa vào xác nhiều formaldehye nhưng lấy chúng ra như thế nào đây.
- Chỗ nào không chữa được thì phủ quần áo lên, nhưng mặt và cổ thì phải sửa - tôi trả lời.
Trương đưa ra ý kiến xoa bóp để dung dịch chạy xuống dưới thân. Tất cả mọi người xúm lại lấy gạc và bông băng quấn quanh để đẩy dung dịch xuống thân. Trương sợ hãi đến nỗi làm rách mẩu da cổ Mao. Ông sợ thực sự, nhưng Mạc động viên, nói là dùng son phấn sẽ che được. Sau một phút thì bàn tay lành nghề của Mạc đã che phủ thiếu sót của Trương, và cổ Mao không khác trước đây.
Chúng tôi làm đến ba giờ sáng, cuối cùng thì bộ mặt Mao coi cũng giống như trước đây. Cổ đã bé bớt. Đám bảo vệ và người giúp việc nhận xét rằng bây giờ thì Mao trông được hơn. Vất vả lắm họ mới thay được quần áo và phải rạch chúng từ phía lưng.
Đúng lúc này Hứa Thế Hữu tư lệnh quân sự Quảng Châu bước vào phòng là. Ông ta vừa tới Bắc Kinh và ngay lập tức quyết định viếng lãnh tụ lần cuối.
Hứa Thế Hữu là một trong những tướng tài của Trung quốc. Ông vào đảng từ hồi trẻ và tham gia cuộc Trường Chinh. Hứa Thế Hữu sinh ra trong một gia đình rất nghèo và từ thuở thơ ấu đã phải bỏ nhà và trở thành một phật tử tại chùa Thiếu lâm thuộc tỉnh Hồ Nam. Ngôi chùa này nổi tiếng thế giới nhờ món võ thuật phương đông mang tên ngôi trường của nó. Bố mẹ Hứa Thế Hữu là nông dân và Hứa Thế Hữu chỉ được dạy đọc trong quân đội. Ông là người thô lỗ và chân chất, nhưng theo Uông Đông Hưng kể, thì Hứa có sức khoẻ phi thường có thể một mình chọi 20 kẻ thù, Hứa không thích Giang Thanh và trung thành với Mao như một con chó.
Nhìn Mao, Hứa Thế Hữu theo truyền thống cổ Trung quốc cúi vái ba lần sau đó quay sang tôi hỏi:
- Bao nhiêu ga-ma ở Mao trước khi chết?
Tôi không thể hiểu ông ta nói gì, nhưng Hứa Thế Hữu tiếp tục:
- Con người ta mỗi người có 24 gama. ở Chủ tịch có bao nhiêu? Tôi không biết trả lời thế nào.
- Đồng chí bác sĩ giỏi mà không biết ga-ma là cái gì? Hứa Thế Hữu xỉ nhục tôi
Cho đến nay tôi vẫn không hiểu có phải đấy là trò đùa không. Các bạn của tôi, biết nhiều về thuyết phật giáo giải thích cho tôi là theo thuyết của Phật trong mỗi cơ thể người sống có 24 gama, nhưng nó là cái gì thì không ai trong số họ có thể nói ra được.
Hứa Thế Hữu hai lần đi quanh thi hài Mao nói:
- Giống như ma quỷ. Sao trên mình mẩy lại có vết chấm đen?
Sau đó lại vái ba lần và đi ra.
Mạc kết thúc trang điểm, chúng tôi hài lòng với công việc, phủ lên thi hài đảng kỳ có búa liềm nền đỏ tươi. Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 9, gần một đêm sau khi Mao chết, chúng tôi bỏ xác Mao vào quan tài thuỷ tinh. Một vài ủy viên Bộ chính trị chụp ảnh quanh quan tài. Sau đó thi hài Mao được chở đi bằng xe cứu thương. Tôi ngồi cạnh quan tài, xe chúng tôi ra khỏi cổng Trung Nam Hải về phía nam Bắc Kinh trong đêm vắng người. Để linh cữu Mao vào gian hội nghị hiệp thương toàn Trung quốc, ở đó trong thời gian một tuần sẽ làm lễ truy điệu.
Cuộc đấu đá chính trị trong thời gian nhà độc tài lân bệnh, bây giờ lại chuyển sang lãnh vực giấy tờ của Mao và tài liệu cá nhân. Giang Thanh cùng với Mao Viên Tân là những người đầu tiên có mặt trong nhà lãnh tụ. Như trước đây, Trương Ngọc Phượng là người quản lý giấy tờ. Giang Thanh và Viên Tân thuyết phục cô ta đưa giấy tờ của Mao cho họ. Đặc biệt họ chú ý tới các ghi chép buổi hội đàm của Mao trong chuyến đi của ông đến miền Nam Trung quốc từ 14 tháng 8 tới 12 tháng 9 năm 1971, đêm hôm trước cái chết của Lâm Bưu, khi thất bại đã bay cùng gia đình đến Liên-xô. Những cuộc nói chuyện và cả những phát biểu của Mao không tìm thấy, nhưng người ta biết là trong đó Mao không những đề cập phê bình hành động cực đoan của Lâm Bưu và chiến hữu của hắn, mà còn đưa ra những đánh giá những người lãnh đạo khác của đảng cộng sản Trung quốc, gồm cả Giang Thanh và bè đảng bà ta - Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên, sau này gọi là bè lũ 4 tên.
Uông Đông Hưng, phụ trách việc giữ gìn giấy tờ Mao, đảm trách an ninh trong phòng, nơi nhân dân từ gĩa lãnh tụ của mình. Hàng chục nghìn người được sàng lọc kỹ càng về an ninh để rồi được vinh dự vĩnh biệt Chủ tịch. Trong ngày quốc tang các lãnh đạo cao cấp Trung quốc đứng quanh quan tài Mao. Vì thế Uông không có thời gian theo dõi giấy tờ của Mao, và ông không biết ý đồ của Giang Thanh nhặt giấy tờ của chồng bà. Cận vệ riêng của Mao là Trương Diêu Tự báo cho Uông. Uông Đông Hưng vội gặp Trương Ngọc Phượng và nói trách nhiệm của cô là bảo quản giấy tờ của lãnh tụ, không được nghiêng ngả bên này bên kia! Đó là tài sản Ban chấp hành trung ương đảng và phải nằm ở đây, trong nhà của ông, không ai được phép mang đi.. Trương Ngọc Phượng khóc thút thít.
- Đồng chí Giang Thanh - ủy viên Bộ chính trị và là vợ của Mao Chủ tịch, Viên Tân - người liên lạc của ông với Bộ chính trị và cũng là cháu. Tôi không thể cản họ. Phải làm gì bây giờ?
- ừ - Uông nói - tôi sẽ cử người đến và sẽ kiểm tra lại tất cả giấy tờ có mặt, nhưng phía cô phải yêu cầu Giang Thanh trả lại tất cả giấy tờ đã lấy đi.
Tuy nhiên Giang Thanh từ chối trả lại, Hoa Quốc Phong phải can thiệp.
- Xác Mao của Chủ tịch còn chưa nguội mà các ông đã định áp bức tôi - Giang Thanh phẫn nộ.
Về sau Uông Đông Hưng nói cho tôi rằng một số giấy tờ bị lấy mất hoặc bị thay thế. Có khả năng Giang Thanh đã vứt bỏ các giấy tờ phê bình bà ta.
Tôi bắt đầu chọn người cho đề án bảo quản lâu dài xác lãnh tụ. Trong tay tôi có hơn 20 chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực giải phẫu, bệnh lý và hoá hữu cơ. Họ từ các miền của đất nước.
Chúng tôi chú ý phương pháp cổ truyền bảo quản. Một số bộ phận có thể giữ hàng trăm năm. Tuy nhiên chúng tôi hiểu rằng thi hài Mao được tiến hành khác đi. Người ta ướp các xác cổ chôn sâu trong lòng đất nơi không có oxy. Xác được bao bọc một lớp sáp và được đặt vào trong một chất lỏng giống thủy ngân. Khi mang ra ngoài không khí thì rữa ngay trước mắt.
Người ta cũng biết rằng bảo quản thi hài Lê nin ở Moskva như thế nào, nhưng quan hệ với Liên-xô là xấu và thậm chí không thể đi đến đó được, và cũng không thể nói chuyện được. Chúng tôi gửi hai người đến Hà nội - nơi đó bảo quản thi hài của lãnh tụ của nhân dân Việt nam Hồ Chí Minh. Nhưng chuyến đi không kết quả. Việt nam từ chối chia xẻ kinh nghiệm và thậm chí họ còn chẳng thèm cho các nhà khoa học Trung quốc xem thi hài Hồ Chí Minh. Theo tin mật, thì mũi Hồ Chí Minh đã bị rữa, râu cũng hỏng.
Lại hai người được gửi sang viện bảo tàng người sáp của bà Tusso bên Anh. Nhưng người Trung quốc cũng không kém kinh nghiệm trong việc làm hình nộm như vậy. Thi hài Mao làm bằng sáp do viện nghệ thuật trang trí ứng dụng Bắc Kinh làm ra cũng rất giống với lãnh tụ lúc sống. Ngay cả người ở bảo tàng Anh cũng không làm giống đến như thế.
Chúng tôi xem nhiều tạp chí khoa học và đi đến kết luận rằng có thể bảo quản được thi hài Mao. Nhưng để làm điều đó cần phải hoàn thiện phương pháp chúng tôi đưa ra. Vì không muốn cưa sọ, chúng tôi quyết định giữ óc Mao. Nội tạng gồm tim phổi, dạ dày thận gan, sinh dục phải lấy ra. Chúng tôi quyết định bảo quản chúng trong các bình riêng biệt chứa đày formaldehyde. Đề phòng trường hợp ai đó lật lại nguyên nhân cái chết của Mao. Bụng sẽ nhồi bông tẩm formaldehyde. ở cổ sẽ đặt một cái ống đặc biệt theo chu kỳ đưa dung dịch vào. Trong quan tài thuỷ tinh sẽ bơm khí hê-li. Tất cả công việc sẽ bắt đầu sau khi kết thúc lễ tang và tiến hành trong điều kiện cực kỳ bí mật. Chương trình của chúng tôi nhận tên gọi đề án bí mật 19 tháng 5.
Ngày 19 tháng 5 liên quan tới cuộc xung đột biên giới giữa Trung quốc và Liên-xô ở đảo Trương Bảo (đảo Đại Mãn) nằm phía bắc tỉnh Hắc Long Giang. Hoạt động vũ trang bắt đầu từ ngày 2 tháng ba 1969, chính khi đó Mao cho rằng đe doạ an ninh Trung quốc không xuất phát từ Mỹ mà là từ Liên-xô, điều đó dẫn đến khai thông trong quan hệ Mỹ và Trung quốc.
Chính phủ kêu gọi nhân dân Trung quốc xây hầm trú ẩn, tích trữ lương thực, và không bao giờ tàn sát dân tộc khác. Từ đó suy ra rằng Trung quốc - đất nước yêu hoà bình, luôn sẵn sàng giáng trả kẻ thù. Dân chúng tất cả các thành phố được động viên đắp hầm tránh bom chống xâm lược Xô Viết. Bắc Kinh đến giờ vẫn giữ được nhiều hào dưới lòng đất, đủ để toàn bộ dân Bắc Kinh chui xuống đất sau ba phút.
Trong thời gian dân Bắc Kinh làm hầm tránh bom, bộ phận kỹ thuật của Quân đội Trung quốc xây dựng dưới lòng đất một công trình lớn mang tên tổ hợp bí mật 19 tháng 5, bởi vì chính ngày 19-6-1969 đã thông qua quyết định xây công trình ngầm khổng lồ này dùng cho lãnh đạo cao cấp quân đội trong thời kỳ chiến tranh. Đã xây được một đường ô-tô ngầm 4 làn đường để chạy. Nó nối Trung Nam Hải, Thiên An Môn, toà nhà Hội nghị đại biểu toàn Trung hoa, dinh cựu bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu ở Mao Tần Vũ và bệnh viện trung ương giải phóng quân Trung quốc ở trung tâm Bắc Kinh với vùng tây thành phố, phần đông các sĩ quan chỉ huy sống ở đó. Ngoài sở chỉ huy dưới đất còn xây các toà nhà phục vụ khác, tiến hành đàm thoại, điện báo, nhà cửa, bệnh viện thiết bị hiện đại dùng khi chiến tranh. Bệnh viện đặc biệt này, đặt trực tiếp dưới trung ương mà tôi lãnh đạo nó, trở thành trung tâm nghiên cứu để thực hiện đề án bí mật của chúng tôi.
Tuần lễ tang kết thúc, và 17 tháng 9 1976 sau nửa đêm khi toàn bộ Bắc Kinh ngủ ngon, chúng tôi chuyển xác Mao từ phòng vào xe microbus và theo đường phố tối đen Bắc Kinh vào Mao Tần Vũ, bỏ trống sau khi Lâm Bưu chết. Trong microbus, tôi ngồi cạnh quan tài, Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng ngồi xe của mình. Một hàng rào lính cưỡi mô tô được vũ trang đến tận răng. Ngoài chúng tôi, bộ trưởng và thứ trưởng bộ y tế và nhóm chuyên viên thực hiện đề án cũng đến đó.
ở lối vào tổ hợp, chúng tôi gặp toán bảo vệ. Họ được nói trước và để cho chúng tôi vào tiếp.
Qua đường hầm chúng tôi đến một bệnh viện đặc biệt nằm dưới lòng đất. Sau mười phút đoàn xe dừng lại. Chúng tôi chuyển xác Mao vào một trong những bệnh viện mổ, nơi nhóm tôi sẽ làm việc.
Vài hôm sau, hình giả Mao bằng sáp được mang đến. Họ đặt ở buồng bên cạnh, nơi tôi thấy nó lần đầu tiên. Các nhà nặn tượng thật là giỏi, Mao như còn sống.
Về hai xác Mao - một trong formaldehye và một Mao khác nặn bằng sáp ít người biết. Hai xác đó nằm trong bệnh viện gần một năm, và mỗi tuần một lần tôi tới đó để kiểm tra. Thậm chí lính canh bệnh viện cũng không biết họ giữ của quý gì bên trong.
Năm 1977, người ta tiến hành sửa chữa lăng trên quảng trường Thiên An Môn. Cả hai Mao và các bình chứa nội tạng đã được đặt vào lăng và ở trong một bể lớn nằm dưới phòng lớn. Phần nền giữa gian nơi đặt quan tài thuỷ tinh thực tế là một chiếc thang máy, để khi cần có thể hạ xuống bể. Giáo sư Ngô Thanh, khoa bệnh lý Viện hàn lâm y học, người tham gia vào việc ướp xác Mao, phụ trách việc xem xét cả hai xác Mao theo dõi trật tự trong lăng để hàng ngày hàng chục nghìn thường dân Trung quốc và khách du lịch vào thăm. Họ đến chiêm ngưỡng con người đáng kính đã lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc suốt 40 năm.
Lễ truy điệu Mao tổ chức ngày 18 tháng 9. Chính hôm đó tôi chở thi hài ông vào hầm chứa đặc biệt. Nóng bức ngột ngạt, nhưng tôi nhưng tôi có mặt ở Thiên An Môn lúc hai giờ chiều - một giờ trước khi lễ khai mạc.
Thiên An Môn nghĩa là Cổng trời thanh bình. Thời trước cổng này là lối ra phía nam Cấm Thành, chỗ ở các hoàng đế đời Minh và Thanh trong suốt 450 năm. Trên quảng trường như trước đây đầy chân dung Mao, chụp đầu những năm 1950. Cả hai phía chân dung kết đầy các khẩu hiệu cách mạng kêu gọi đoàn kết vô sản quốc tế và chúc Cộng hoà nhân dân Trung hoa 10 năm giàu có và hùng mạnh.
Trong 30 năm lại đây, tính từ ngày tôi quay về Trung quốc tôi thường có mặt trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi ở đây ngày 1 tháng 10 năm 1949, ngày thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa. Sau đó một thời gian, đã cùng với Mao - trong ngày lễ duyệt binh hai lần trong năm: 1 tháng 10 và 1 tháng 5. Trong những năm bão tố Cách mạng văn hoá (1966-1976) tôi có mặt cùng Mao trong ngày lễ, nơi mà hàng triệu hồng vệ binh từ các trường trung học và đại học cả nước kéo về chúc mừng Mao. Ngày nay trên quảng trường lớn, nối tới phía nam Thiên An Môn giáp toà nhà của tổ chức cao nhất của chính quyền quốc gia - Hội nghị đại biểu nhân dân toàn Trung quốc. Từ phía đông tới quảng trường ngăn cách bởi toà nhà bảo tàng lịch sử cách mạng.
Gần đến giờ mặc niệm. Trên quảng trường tụ tập khoảng nửa triệu người được chọn trong các tập thể kiểu mẫu. Đủ các loại người và đủ các lứa tuổi. Ba giờ đúng, toàn đát nước Trung quốc lặng ngắt. Trong ba phút, các nhà máy xí nghiệp dừng việc, còi nhà máy cùng còi tầu thuỷ vang lên như một bản hợp xướng. Sau đó là mặc niệm quan tài.Trong nước tại thời điểm này tiến hành mít tinh truy điệu. Cuối cùng Vương Hồng Văn khai mạc buổi lễ. Liếc lên đám đông tôi bỗng thấy toát mồ hôi lạnh. Mệt mỏi kéo dài vài tháng bỗng nhiên giảm hẳn trong tôi. Hoa Quốc Phong bắt đầu đọc diễn văn, tôi vất vả mới đứng được.
Sau khi phát cơn bệnh tim đầu tiên của Mao, tôi ở quanh ông suốt ngày đêm. Tôi không ngủ hơn ba giờ mỗi đêm. Tôi giảm từ 77 xuống 55 cân. Tôi sống lờ đờ và biết rằng tôi chỉ được ngủ khi tất cả kết thúc. Có thể, thậm chí tôi không thể quay về nhà mình.
Sáu giờ rưỡi tối tôi trở về buồng mình ở Trung Nam Hải, thả người vào ghế bành và ngủ túc thời.
Một phút sau, chuông điện thoại đánh thức tôi. Uông Đông Hưng gọi. Uông thông báo rằng sau 4 ngày nữa sẽ có cuộc họp Bộ chính trị. Mọi người sẽ chờ kết luận tỷ mỷ về bệnh, cách điều trị và nguyên nhân chết của Mao. Tôi cần phải đọc báo cáo, tất cả các nhân viên y tế điều trị lãnh tụ nhất thiết phải có mặt tại phòng họp. Đây là cuộc họp rất quan trọng - Uông nhấn mạnh - Anh cần phải chuẩn bị. Hôm sau tên tôi xuất hiện ở các tờ báo trung ương. Tôi được giới thiệu như là lãnh đạo nhóm bác sĩ chữa chạy cho lãnh tụ.
Nghĩa là tôi nằm dưới sự nghi ngờ. Niềm vui của tôi đã quá sớm. Bài thông báo dành cho dân chúng. Bây giờ Bộ chính trị họp để tìn nguyên nhân cái chết của lãnh tụ. Nếu báo cáo của tôi được chấp nhận, thì trong kết luận chính thức người ta viết rằng Mao chết tự nhiên, và việc nghi vấn bác sĩ sẽ bị gạt đi. Trong trường hợp ngược lại thì quả là nguy hiểm cho tất cả chúng tôi. Thực chất là sống hay chết.
Tôi họp tất cả anh em, và chúng tôi đồng ý rằng tôi soạn báo cáo, nhưng sau đó chúng tôi lại họp lại và chúng tôi sẽ thảo luận tất cả.. Tôi ngay lập tức ngồi làm việc. Suốt đêm và sáng hôm sau tôi viết và viết. Bài viết nhận được tương đối ấn tượng - khoảng 50 trang. Nó bắt đầu từ việc cố gắng cứu Mao sau khi nhịp tim bị say thoái vào tháng giêng 1972. Tiếp theo là mô tả sự suy sụp từ từ sức khoẻ sức khoẻ của Chủ tịch và ba vụ nhồi máu tim. Tôi giải thích chẩn bệnh như thế nào, chạy chữa ra sao và nguyên nhân nào dẫn tới chết. Đồng nghiệp của tôi đã làm những thay đổi và bổ xung cần thiết. Cuối cùng thì ngày 20 tháng 9 bản báo cáo làm xong.
Uông Đông Hưng từ chối xem và yêu cầu tôi đưa cho Hoa Quốc Phong. Đọc qua, Hoa Quốc Phong nhận xét rằng trong đó những thuật ngữ y học, các ủy viên Bộ chính trị sẽ không hiểu được. Ông cũng nhấn mạnh rằng trong báo cáo không nói rõ ràng về nguyên nhân cái chết và yêu cầu có bổ xung cần thiết.
Các bác sĩ chống việc dịch thuật ngữ y học sang ngôn ngữ thường, bởi vì làm điều đó rất khó, và trong nhiều trường hợp là không thể dịch được. Họ cũng phản đối việc nêu ra nguyên nhân nào đấy của cái chết. Mao già quá, và nhiều bệnh. Ngoài ra, họ còn nhấn mạnh tới việc phá huỷ hệ thống hô hấp, bệnh tim do phổi gây ra và phá huỷ chức năng tải máu lên não. Tôi chỉnh lại báo cáo và 21 tháng 9 gửi cho Hoa Quốc Phong đồng thời nói rõ ý kiến của đồng nghiệp chúng tôi. Hoa Quốc Phong nhắc nhở tôi là một số ủy viên Bộ chính trị sẽ hỏi nhiều và tôi cần cố gắng cung cấp cho họ những câu trả lời để tất cả cùng hiểu.
Sáng 22 tháng 9, tôi với các đồng nghiệp có mặt ở phòng họp, thì mọi người đã tề tựu rồi. Các ủy viên Bộ chính trị ngồi trong ghế bành đặt lộn xộn trong phòng. Trước mặt mỗi người có bàn trà nhỏ. Trong phòng có một số người tốc ký thuộc Ban chấp hành trung ương, và một số người trẻ nữa. Tôi ngồi vào ngồi vào ghế sau lưng thủ tướng Hoa Quốc Phong và nguyên soái Diệp Kiếm Anh, người đề nghị làm Mao bằng sáp. Trần Tử Lăng, chỉ huy quân sự quân khu Bắc Kinh phát biểu Tôi không thể đảm nhận trách nhiệm, đề nghị cho tôi thôi chức vụ này - ông nói.
- Bình tĩnh đã, đồng chí Tử Lăng - Hoa nói - Chúng tôi giải quyết việc đồng chí sau. Bây giờ chúng ta nghe báo cáo của nhóm bác sĩ chữa Mao. Họ đã bốn tháng liền trực phục vụ ngày đêm quanh giường lãnh tụ để cứu sống Mao. Xin mời bác sĩ Lý phát biểu.
Đến tận giờ, tôi chẳng hiểu vì sao Trần Tử Lăng xin từ chức.
Diệp Kiếm Anh nhắc tôi nói to hơn. Một số ủy viên Bộ chính trị tương đối già và nặng tai. Trong thời gian phát biểu, họ đã ngắt tôi nhiều lần và đề nghị giải thích thuật ngữ này, thuật ngữ kia.
Khi tôi bắt đầu kể về sự suy giảm nhanh sức khoẻ Mao từ tháng sáu 1976, đột nhiên tướng Hứa Thế Hữu đứng lên và dạng bộ hung hăng tiến lại.
- Vì sao trên thân thể Mao có những vết tím? - ông hỏi, mắt đưa về phía tôi để nhấn mạnh - Nguyên nhân nào xuất hiện nó?
Cần lưu ý rằng người Trung quốc kiêng kỵ cho rằng xuất hiện nốt như thế trên thân thể người quá cố là biểu hiện sự đầu độc.
Tôi giải thích điều này như sau:
- Trong những ngày cuối đời, lãnh tụ khó thở. Cơ thể thiếu ôxy. Vì thế trên thân thể xuất hiện vết tím.
Hình như Hứa Thế Hữu không thỏa mãn câu trả lời của tôi và tiếp tục:
- Cả cuộc đời tôi tham gia nhiều trận chiến đấu và thấy nhiều xác chết, nhưng không xác nào tôi gặp lại có những vết như thế. Ngày 9 tháng 9 tôi thấy nó trên thân thể của Chủ tịch, hỏi các ông, bác sĩ Lý, có bao nhiêu ga-ma trong cơ thể Mao, tuy nhiên các ông không thể trả lời tôi lúc đó. Và bây giờ tôi cảm thấy rằng Chủ tịch bị đầu độc. Chỉ có chất độc mới dẫn đến xuất hiện những vết này. Chúng tôi phải hỏi bác sĩ và y tá và giải thích, ai đầu độc Mao.
Từ ngày đầu thành lập nước cộng hoà nhân dân Trung hoa đã hình thành hệ thống bảo vệ rất cẩn thận tránh cho Mao bị đầu độc. Tôi kể về hệ thống này cho Hứa Thế Hữu.
- Trước khi đưa cho Mao bất kỳ thuốc gì, chúng tôi phải thử nó ngay trên bản thân - tôi nói - Tất cả đơn thuốc đều ghi trong sổ đặc biệt. Và mỗi thứ đều được hai y tá ký và có bác sĩ trực xác nhận. Thuốc được cung cấp theo đường đặc biệt chỉ dùng cho giới lãnh đạo đảng của Trung quốc. Thuốc luôn luôn chứa trong hộp niêm phong và chỉ cấp phát theo lệnh bác sĩ chữa Mao.
- Âm mưu có thể một người bất kỳ trong số các anh làm chứ - Hứa nói thêm - Chúng tôi cần kiểm tra cẩn thận.
Hứa Thế Hữu tin thành tâm tin rằng cái chết Mao là do một hành động có tính toán. Ông nghi rằng người tổ chức có thể cả Giang Thanh với chiến hữu của mình. Hứa biết rõ rằng quan hệ của tôi với Giang Thanh bị xấu đi từ rất lâu, và dù vậy cho rằng tôi và đồng nghiệp của tôi có thể dính líu vào âm mưu chống lãnh tụ.
Khi Hứa kết thúc, trong phòng lặng ngắt. Ông đứng đối diện tôi, mặt giận dữ. Sau đó ông nhìn vào Trương Xuân Kiều, nhưng ông này lờ đi. Giang Thanh, trong bộ áo tang, ngồi trên đi văng. Hoa Quốc Phong cứng người trong sự lúng túng. Uông Đông Hưng đang làm giả bộ đọc một tài liệu gì đó. Vương Hồng Văn nhìn khắp phòng, lộ vẻ lo lắng.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh và tướng Lý Đan Sâm tư lệnh quân khu Chiết Giang, quay lại phía tôi và hỏi nhỏ: Vết tím ấy từ đâu ra thế?. Tôi trả lời:
- Phía phổi trái chủ tịch có ba lỗ bọt khí lớn, cản trở cả hai phổi. Mao rất khó thở và rất thiếu ôxy. Những vết ấy gọi là những vết xác chết và thường xuất hiện gần 4 giờ sau khi cái chết. Khi đồng chí Hứa Thế Hữu thấy xác đã 16 tiếng rồi.
Vợ goá Mao đứng dậy nói:
- Đồng chí Hứa Thế Hữu, các bác sĩ vật lộn vì cái sống của lãnh tụ tròn bốn tháng. Cớ gì đồng chí không cho cho bác sĩ Lý nói hết báo cáo của mình?
Hứa tiến gần Giang Thanh và đấm tay xuống bàn. Tách chén rơi xuống thảm.
- Ai cho phép đồng chí chặn họng các ủy viên Bộ chính trị trong khi họp? - Hứa tức giận - Đừng có mà nhiễu sự.
Hoa Quốc Phong can:
- Đồng chí Hứa, bình tĩnh đã - Sau đó quay về phía tôi và nói:
- Bác sĩ và các đồng nghiệp tốt nhất là dời khỏi đây. Chúng tôi sẽ xem xét vấn đề sau.
Tôi đợi bị gọi bất kỳ lúc nào. Ăn sáng xong, tôi kể lại lời của Hứa Thế Hữu cho cho đồng nghiệp của mình. Họ đã sửng sốt và phẫn nộ đến mức không đi ăn trưa. Tôi đợi chờ lời buộc tội tham gia giết Mao. Đáng ngạc nhiên là nó thốt ra từ miệng Hứa Thế Hữu, và Giang Thanh lại bảo vệ chúng tôi, dù rằng tôi nhớ rõ sự công kích bác sĩ của bà ta trong những ngày cuối cùng của Mao. Tôi đoán thế. Nếu chiến hữu của Giang Thanh - Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều - giúp bà theo dõi bác sĩ, thì họ cũng có phần lỗi do sai lầm có thể xảy ra của bác sĩ. Và nếu Bộ chính trị quyết định rằng có âm mưu và đầu độc Mao, thì hai người này khó tránh khỏi bị tội. Chính thế Giang Thanh bảo vệ bác sĩ.
Ngày tháng qua không thấy Bộ chính trị đưa lại tin tức gì cả. Tôi biết rõ rằng cuộc đấu đá chính trị ở Trung Nam Hải chỉ mới bắt đầu. Hai tháng trước, tháng sáu, Uông Đông Hưng nói cho tôi rằng đã nghĩ tới việc bắt Giang Thanh, không chờ Mao chết. Uông Đông Hưng trong quan hệ nhiều mặt với Giang Thanh và luôn giữ lịch sự với bà ấy, tôi cảm thấy rằng sớm muộn thì họ cũng bắt Giang Thanh. Dù rằng Giang Thanh cư xử dường như quyền lực trong tay bà, bà ta nên bớt thở những lời nguy hiểm. Và khi cuộc đấu đá chưa ngã ngũ, tình thế của các bác sĩ còn rất mong manh. Lời buộc tội và phản buộc tội trong cái chết của Mao sẽ phục vụ cho con chủ bài trong mánh khóe bẩn thỉu.
ở Trung Nam Hải tôi biết số phận thay đổi như thế nào. Tôi tròn 22 năm theo dõi theo dõi sức khoẻ, bệnh tật và cuối cùng cả cái chết của Mao, và sự nguy hiểm sẽ theo đuổi tôi tất cả những ngày còn lại.
Phần 2 (1949-1957)
Chương 2
Năm 1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi là bác sĩ hàng hải ở Xít nây (úc). Qua báo chí tôi hiểu rằng thành phố quê hương tôi ngừng tiếng súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình (tên gọi Bắc Kinh thời đó) đổ ra đường để đón chào những người giải phóng mình. Kéo về đây có cả lãnh đạo đảng cộng sản. Họ dự định thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung hoa. Bắc Bình lại trở thành Bắc Kinh là thủ đô Trung quốc. Tên gọi Bắc Bình, nghĩa là bình yên phương Bắc. Tên gọi Bắc Kinh nhận được sau khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút về thủ đô phía nam - thành phố Nam Kinh. Nội chiến trong nước giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng vẫn tiếp tục, nhưng không ai hoài nghi rằng về chiến thắng của hồng quân Trung quốc.
Bắc Kinh là thành phố quê hương tôi, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung hoa. Gia đình tôi giàu có và thuộc về hạng trên. Thực tế chúng tôi sống không phải trong nhà riêng biệt, mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này ngay lập tức bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội hoặc chỗ ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung quốc cho trẻ con. Tên gọi Lưu Linh Chương xuất phát từ chữ Trung quốc Lưu Linh - bắt mắt. ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung.
Cụ tổ tôi chết trước tôi ra đời, nhưng gia phong mà cụ lập ra vẫn được giữ gìn. Chân dung cụ treo ở một phòng mà chúng tôi thường tụ họp tất cả gia đình vài lần trong năm để ma ứtưởng nhớ cụ. Phòng thăm bệnh của cụ là bảo tàng gia đình. Cụ lập hiệu thuốc trong đó các thày lang. Cụ tôi là người giàu nhưng mọi người kính trọng và quý cụ vì cụ luôn luôn giúp đỡ người nghèo. Trong hiệu thuốc người nghèo có thể nhận thuốc không mất tiền. Không những người dân Lưu Linh Chương mà còn cả Bắc Kinh biết cụ. Tôi lớn lên trong gia đình, nơi người ta cho rằng người nghèo chịu đựng đau khổ và cần từ thiện.
Tuy nhiên do sự giàu có của chúng tôi đã tạo ra bức tường vô hình ngăn cách với các gia đình nghèo. Mẹ tôi không cho phép tôi chới với trẻ con gia đình nghèo, trong thời ấy có nhiều ở Bắc Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống gia đình và trở thành bác sĩ. Tôi cho rằng tôi được sinh trong gia đình lựa chọn và tự hào về tổ tiên.
Chú tôi, em út của bố tôi, cũng trở thành bác sĩ và cũng cứu giúp người nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam có bệnh thương hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ và chính ông cũng bị lây bệnh và chết khi chưa tròn 30 tuổi. Vợ goá của chú tôi và hai con trai cùng sống trong ngôi nhà chúng tôi, tôi coi họ như anh trai mình. Tôi còn có người anh, con người vợ trước của bố tôi. Anh cũng coi họ như anh em ruột của mình. Bố tôi cưới mẹ tôi sau cái chết của bà vợ đầu.
Bố tôi đã phá vỡ gia phong. Năm 1920 ông sang Pháp thực tập. Lúc ấy tôi mới ra đời. Tôi biết mặt bố mãi 7 năm sau. Qua thư từ, chúng tôi biếttrong số sinh viên của nhóm bố tôi có Chu Ân Lai, người mà ông đánh bạn. Tình bạn của họ giữ được đến tận khi bố tôi mất, dù rằng Chu Ân Lai trở thành lãnh tụ cộng sản, còn bố tôi thuộc về những người quốc gia thân Quốc dân đảng, và có chức vụ cao trong chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Việc bố tôi quay về nước gây ra một bê bối. Ông mang theo một bà vợ người Pháp và bà cũng sống trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi là một phụ nữ Trung quốc điển hình, xuất thân từ tầng lớp dân thường. Trên vai mẹ tôi là cả gánh nặng gia đình, kinh tế nuôi dậy con cái nhưng bà biết cách cư xử với họ hàng và người thân như bao phụ nữ chung thuỷ, đảm đang. Theo tục lệ Trung quốc việc đàn ông giàu có nhiều vợ là tương đối phổ biến. Nhưng gia phong của chúng tôi thì không chấp nhận việc xuất hiện bà vợ hai của bố mà họ cho rằng đó là sự nhục nhã cho gia đình.
Bà vợ hai của bố tôi là người ngăn nắp và có giáo dục. Bà dậy tiếng Pháp ở đại học tổng hợp Bắc Kinh đại học và luôn luôn thân thiện với tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy rằng mẹ tôi căn răng chịu đựng việc này. Mẹ tôi thường trút nỗi bự tức xuống đầu tôi và tôi cũng đôi khi cãi lại. Chỉ khi lớn rồi, tôi hiểu rằng trong vụ việc bố tôi có lỗi.
Thậm chí thời thơ ấu tôi không thích bố tôi. Hiếm khi bố con nói chuyện với nhau trừ khi ông chửi mắng tôi, còn tôi thì bỏ ngoài tai. Tất vả mọi người còn lại trong gia đình đối xử với nhau thân mật và kính trọng. Sự bình đẳng trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu, cho nên thái độ gia trưởng của bố tôi đã xúc phạm không những đến chúng tôi mà còn đến ký ức giòng họ chúng tôi. Ngay sau khi quay về Trung quốc bố tôi cùng bà vợ hai chuyển đến Nam Kinh. Sau một số năm bà vợ người pháp của ông từ trần. Ông gặp phụ nữ hết người này đến người khác nhưng chẳng cưới ai cả. Tôi rất xấu hổ về tư cách của ông, và tôi quyết tâm học hành để trở thành một bác sĩ lành nghề. Sự hằn thù của tôi đối với bố đã lây sang cả chính quyền Quốc dân đảng và trong nhiều năm tôi có mối quan hệ thân thiện với đảng cộng sản. Tuy nhiên sau này ở gần Mao, tôi lại va chạm với tính thô lỗ và vô đạo đức như từng có ở bố tôi.
Cũng như đa số người Trung quốc cùng thế hệ, tôi là người yêu nước và tự hào về nền văn hoá lâu đời của đất nước mình. Lịch sử 4000 năm của Trung quốc mang đến sự vinh quang và giàu có, triết học Trung quốc cổ đại, thi ca, sử ký đã đạt được những kỳ tích khác thường và được ngưỡng mộ khắp toàn thế giới. Vì thế tôi không thể chịu đựng, trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy tàn. Ngay từ trong trường tôi biết nhục nhã của Trung quốc trong Chiến tranh nha phiến với Anh vào năm 1839. Sau đó lại tới Pháp, Nhậõt và Nga can thiệp. Do đó Trung quốc mất độc lập phải trở thành thuộc địa, sự hùng mạnh thuở nào biến mất dạng không còn dấu vết. Các ông chủ ngoại quốc tới đày các thành phố lớn và đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn hóa và tinh thần của dân tộc Trung quốc. Từ nhỏ tôi đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo ngay lối vào công viên cạnh khu phố Tây ở Thượng Hải, trên đó là dòng chữ: Cấm chó và người Trung quốc làm tôi thấy nhục nhã và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước Trung hoa xuất phát từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc là từ các thế lực đế quốc như - sau này người ta thường nói.
Năm 1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn Châu và lập nên quốc gia bù nhìn Mãn Châu. Mẹ con chúng tôi bỏ Bắc Kinh và đi về phương nam - đến Quý Châu, nơi tôi theo học trường trung học thuộc đại học tổng hợp do phái bộ hướng đạo Mỹ thành lập. Tất cả các môn học đều bằng tiếng Anh, đúng hơn là tiếng Anh kiểu Mỹ. Chương trình học có nhiều bài phần giảng về kỷ luật tôn giáo. Tôi đã nghiên cứu tỷ mỷ lịch sử Mỹ. Năm 1935, lúc 15 tuổi tôi đã được kết nạp vào tổ chức hướng đạo.
Trong thời gian rất ngắn tôi đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh cùng cha khác mẹ của tôi học y khoa ở đại học tổng hợp Thượng Hải và năm 1935 vào đảng cộng sản. Cái đó chẳng xứng với vị thế và giàu có của anh tôi. Lòng yêu nước và thương dân nghèo đã thôi thúc anh tôi. Anh tôi đến Quý Châu thăm chúng tôi vào ngày nghỉ và luôn khẳng định cho tôi về sự tàn bạo và bóc lột công nhân của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ cho tôi rằng chỉ có những người cộng sản mới có thể xây dựng được một thế giới không có nghèo đói và bình đẳng. Theo anh tôi, Quốc dân đảng làm tay sai cho đế quốc và không có khả năng đấu tranh với xâm lược Nhật ở Mãn Châu, chỉ có những người cộng sản mới có thể đánh đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước Trung quốc. Tôi nghe anh tôi và bắt đầu tin vào khả năng hồi sinh lại đất nước Trung hoa giàu có, văn minh và độc lập trên nguyên tắc các bên cùng bình đẳng và cùng có lợi. Tôi bắt đầu chú trọng đọc những cuốn sách mà anh tôi đưa cho: Lịch sử kế hoạch 5 năm của Liên-xô Thép đã tôi thế đấy của Nicolai Oxtovxky và cả sách của nhà văn Pháp Henry Barbus về vai trò xuất sắc của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên cách mạng tháng 10 vĩ đại ở Nga. Anh vạch cho tôi thấy chỉ có ý tưởng cộng sản mới cứu được Trung quốc và và các lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và Mao Trạch Đông mới dẫn dắt đất nước đến kinh tế và tinh thần sanựg lạn. Số phận Trung quốc trong tay họ. Chúng tôi và anh gọi họ là Chu Mao, dường như đó là một người. Từ ấy, tôi bắt đầu đọc Chu Mao và lòng tin này dần dà tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà văn yêu quý của tôi cũng thiên về lý tưởng cộng sản. Năm 1936 một người chị họ giới thiệu tôi với cô bạn cùng lớp của chị. Cô ta tên là Võ Tương Thanh - hay là Võ Lý Liên (theo tên thánh), và tôi thấy phải lòng cô ấy từ cái nhìn đầu tiên. Cô cũng xuất thân từ gia đình giầu có. Mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau.
Quân Nhật tràn vào đất nước và chúng tôi cùng mẹ đầu tiên chạy về Vũ Hán năm 1937, sau đó chạy về Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên. Thành phố này Tưởng Giới Thạch năm 1938 coi là thủ đô của Quốc dân đảng. Cuối năm 1934 căn cứ địa của đảng cộng sản Trung quốc ở Giang Tây bị quân đội Quốc dân đảng bao vây, nên trong tháng 10, lực lượng chính của Hồng quân, bị rơi vào vòng vây, đã phải làm cuộc đi bộ vĩ đại và anh hùng sang phía tây Trung quốc để nhập với căn cứ khác. Cuộc hành quân này kết thúc cuối năm 1935 ở tỉnh Thiểm Tây và viết nên trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung quốc. Anh tôi và chị họ tôi cũng đến đó.
Năm 1939 tôi bắt đầu học y khoa ở trường đại học y đại học tổng hợp phía tây Trung quốc, được phái bộ Canada lập ra gần một thế kỷ trước ở thành Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi Nhật chiếm Bắc Kinh nhiều khoa và sinh viên trường y Bắc Kinh chuyển về Thành Đô, sau năm 1941 các bộ phận này hợp nhất làm một. Cả hai trường đều được Mỹ, đúng ra là quỹ Rốc-cơ-phen-lơ, tài trợ. Phần đông giáo sư là người Mỹ. Bài giảng bằng tiếng Anh, tác giả sách giáo khoa là những nhà y học đầu ngành xuất sắc của phương tây. Vì thế trình độ học vấn của chúng tôi rất cao và tương ứng với những tiêu chuẩn mà Mỹ và các nước châu Âu chấp nhận.
Sau khi học xong, tôi được trao hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y khoa thuộc đại học tổng hợp tây Trung quốc và bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp New York.
Lý Liên đầu tiên dự thính những bài giảng ngắn về xã hội học ở đại học tổng hợp Phương Đông Trùng Khánh, nhưng rồi sau chuyển sang học trường nữ sinh thiên chúa giáo ở Thành Đô.
Tôi kết thúc thực hành mổ vào năm 1945, đồng thời với sự thua trận của Nhật Bản. Tôi nhận việc làm trong một bệnh viện đa khoa trung ương Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các bác sĩ giỏi nhất. Tôi muốn được học chuyên môn hẹp là phẫu thuật nơ-ron. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên cuối cùng kết hôn với nhau. Lý Liên khi đó làm ở thư viện thuộc sứ quán Anh.
Nội chiến giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng tiếp tục. Do lạm phát nên cuộc sống khó khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán Anh không đến nỗi tồi - khoảng 150 đô-la/tháng, người ta trả bằng đồng bảng Anh. Tuy nhiên tôi nhận được khoảng 25 đô la Mỹ nhưng nhận bằng tiền Trung quốc. Tiền này tôi tức thời đem ra chợ đen đổi ngay sang đôla Mỹ hoặc đôla Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát phi mã đến nỗi nếu tiền vào buổi sáng đủ mua ba quả trứng thì đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta chở tiền lên xe kéo, giá gạo tăng đến mức những người tuyệt vọng trước đây không bao giờ nghĩ tới ăn cắp thì nay lao vào cướp lấy những gì có thể lấy được.
Trong cơn khủng hoảng này, Đặng Ninh Hoàng, bạn cùng lớp của tôi, đang là bác sĩ làm việc ở Hồng Kông gợi ý tôi chuyển đến đó. Cuộc sống ở đó ổn định và nghề bác sĩ kiếm được số tiền không nhỏ.
Đối với tôi, quyết định chẳng dễ dàng gì. Đồng ý là, ở Hồng Kông chúng tôi có thể sống tốt hơn, tuy nhiên trình độ y học ở đó thấp hơn đáng kể so với ở Trung quốc, và một thày thuốc phẫu thuật như tôi có thể bị mai một nghề nghiệp. Nhưng nội chiến vẫn còn tiếp tục, và Lý Liên khuyên tôi đi khỏi tổ quốc. Tháng 12 năm 1948 tôi rời Nam Kinh và đi Hồng Kông.
Nhưng sống ở đó không lâu. Cũng năm ấy tôi nhận việc ở một hãng nằm ở đông úc và trở thành bác sĩ ở Xít nây. Dần dà, tôi theo các đoàn tàu qua lại úc và Tân Tây lan. Tôi hoàn toàn mãn nguyện. Lý Liên chuyển sang Hồng Kông, thuê nhà và kiếm việc trong một cơ quan của người Anh. Tôi không muốn vợ tôi chuyển sang úc với tôi. úc là nơi người ta chẳng yêu quý gì dân da vàng. Vì thế tôi cũng chẳng có ý định sống lâu dài ở Xít nây và tôi chỉ mê mải thực hành y học ở đó để hy vọng kiếm một cái gì đó để phòng thân. Tôi chưa nhận quyền công dân úc. Niềm tự hào và tự ái của tôi không thể hoà hợp được với những người bảo hoàng có tư tưởng phân biệt chủng tộc ở đây. Tôi sống trong một căn lều trại nhỏ, và những người úc mà tôi nói chuyện, đều một giọng cho rằng Trung quốc không khi nào hồi sinh được. Tôi rất tức nhưng tôi lại còn cần tiền, đúng thế và ở Hồng Kông cũng chẳng vui hơn. Lẽ nào chúng tôi vẫn mãi là thuộc địa Anh nơi tôi chỉ là nô lệ bị tước đoạt mọi quyền lợi của quốc gia hải ngoại.
Khi những người cộng sản chiếm Bắc Kinh, tôi cảm thấy trong lòng trào lên nỗi mừng không tả được. Tháng 2-1949 Hồng quân Trung quốc đè bẹp quân Anh và vượt qua sông Dương Tử, sự kiện này làm tôi sung sướng tột độ. Tôi cũng tin rằng với chiến thắng của những người cộng sản Trung quốc thì bọn cai trị nước ngoài sẽ cuốn xéo và đất nước được giải phóng khỏi ách sánh vai với các nước trên thế giới.
Rồi tôi đã nhận được thư của mẹ tôi. Bà đã quay về Bắc Kinh. Mẹ tôi gửi kèm thư của anh tôi, vừa quay về thành phố quê hương và giờ đây giữ một chức vụ trong Cục bảo vệ sức khoẻ thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung quốc. Anh tôi rất sung sướng và rất mong tôi trở về.
ở Trung quốc còn thiếu các bác sĩ lành nghề - anh tôi viết - chính phủ mới đảm bảo cho chú công việc tốt, và toàn thể gia đình tôi lại đoàn tụ.
Tôi lại băn khoăn. Cuộc sống ở Xít nây đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi còn có cơ hội đến đây được với tôi. Ngoài ra, tôi có thể giúp mẹ tôi ở Bắc Kinh tiền nong.
Chỉ có một điều tôi không hoài nghi. ở đây, úc, không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật nơ-ron, vì lẽ tôi là người Trung quốc. Dĩ nhiên, tôi có thể kiếm được hàng đống tiền, nhưng luôn luôn mặc cảm mình là người xa lạ bị đuổi khỏi tổ quốc. Đây có phải là lòng yêu nước của tôi không?
Gần đến ngày thanh minh. Tôi dự định tổ chức ngày lễ này vơi anh bạn thân Alex Young. Alex sinh ở úc, nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều phong tục Trung quốc. Anh ta và vợ làm việc chăm chỉ. Họ có một cửa hàng tạp hoá ở phố Elizabet
Khi tôi gặp, Alex ngay lập tức nhận xét rằng tôi có một cái gì đó mất hồn. Tôi kể cho anh ta nghe tất cả.
- Cần phải nghĩ cho kỹ đấy - Alex nói.
- Anh tính thế nào? - tôi hỏi.
- Tôi không thể là cố vấn của anh - Alex Young chậm rãi - Gia đình tôi ở đây, ở úc. Thậm chí nếu họ hứa với tôi là trả lương tôi hậu hĩnh ở Bắc Kinh, thì tôi cũng chẳng nghĩ tới quay lại. Đúng là ở đây có tệ phân biệt chủng tộc, nhưng dân số thì không nhiều, và có thể sống dễ chịu. Vì sao anh không viết cho anh trai và hỏi tỷ mỉ về công việc, và để họ nói cho mình lương lậu ra sao chứ? Sau đó chúng ta so sánh tiếp.
Lời của Alex thức tỉnh lòng yêu nước của tôi. Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa Trung quốc đến giàu có thì tôi sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc của tổ quốc mình.
Nhưng Alex, tất nhiên, là đúng: tôi phải biết tất cả một cách tỷ mỉ. Ngay chiều đó tôi viết cho anh tôi.
Đầu tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh tôi lại giục tôi về nước. Anh kèm thư của thủ trưởng của anh, Phó Liêm Chương, phó cục trưởng cục bảo vệ sức khoẻ thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung quốc. Phó Liêm Chương, ở nước ngoài gọi là Nelson Phó, là một nhà y học nổi tiếng của Trung quốc. Đồng thời ông cũng là bác sĩ duy nhất được đào tạo ở phương tây tham gia Trường Chinh. Năm 1934 ông chưa cho Mao khỏi sốt rét và trong thời gian chiến tranh theo dõi sức khoẻ lãnh tụ đảng cộng sản Trung quốc ở Diên An.
Thư của Phó ngắn ngủn, nhưng trong đó sự nồng nhiệt và và lòng chân thành đã giảm bớt. Ông mời tôi trở về và đề nghị tin vào những người bác sĩ Trung quốc khác. Về công việc của tôi ở Bắc Kinh và về lương lậu Phó không nói gì, chỉ bâng quơ rằng tôi sẽ hài lòng về công việc. Tôi được ông tâng bốc là được giữ chức vụ cao, và yêu cầu tôi trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày thuốc lành nghề. Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước Trung hoa mới. Tôi quyết định nhanh chóng về nước.
Alex Yuong tổ chức bữa ăn gĩa từ. Có hai người Trung quốc, cũng là bác sĩ. Họ bảo tôi viết cho họ từ Bắc Kinh, và thêm rằng nếu tôi thấy khó sống, họ có thể giúp tôi quay sang úc.
Tôi chẳng khi nào viết cho anh ta cả. Ba mươi sáu năm sau, năm 1985 tôi ở úc theo lời mời của hiệp hội bác sĩ úc và có mặt ở đại lộ Elizabet hy vọng thấy Alex Yuong. Nhưng tất cả đã thay đổi, và cửa hàng nhỏ của anh ta không còn đó. Tôi không còn thấy Alex Yuong nữa.
Thế là chúng tôi và Lý Liên lại đoàn tụ. Giữa tháng 5-1949 có cuộc xáo lộn ở thuộc địa Anh. Hàng nghìn người đã chạy về đây tránh họa cộng sản và hàng nghìn người chuẩn bị quay về đất mẹ. Hiện tượng này thật lạ lùng và không bình thường. Khi gặp Đặng Ninh Hoàng và kể về quyết định của tôi quay về Trung quốc, anh ta lắc đầu quầy quậy Chẳng lẽ anh không thể ở lại đây và làm việc với tôi? - ông hỏi. Tôi kể cho anh ta thư của Phó Liêm Chương. Đặng buông lời: Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi xẻ thì viết cho tôi. Có thể, cả tôi cũng về tổ quốc.
Tôi chẳng bao giờ viết cho anh ta được cả.
Tôi cùng Lý Liên tới thăm ông Trương Thành Đô giáo sư quen biết đại học tổng hợp Phương Đông. Ông cũng về Bắc Kinh. Người ta xếp ông vào đoàn đại biểu hội đồng hiệp thương chính trị Trung quốc. Đảng cộng sản lôi kéo thêm các trí thức không đảng phái vào một mặt trận duy nhất, trong diễn đàn được triệu tập để bày tỏ cho các lực lượng dân chủ và giải quyết vấn đề chính quyền ở trong nước. Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri thức để kéo đất nước ra khỏi khủng hoảng. ở Trung quốc đều có tương lai - ông nói - cả nước đang trên đường hồi sinh.
Phiên họp đầu tiên ủy ban hiệp thương được tổ chức cuối tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa và bầu ra chính phủ mới do Chủ tịch Mao Trạch Đông đứng đầu. Phó chủ tịch của Mao là Lưu Thiếu Kỳ, bạn chiến đấu của ông và Tống Khánh Linh, vợ goá của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn, người đã đánh đổ triều Thanh và lập nên nước cộng hoà Trung hoa từ 1912. Nhưng rõ rằng là ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là một cây cảnh cho nền dân chủ - mọi việc điều hành trong nước nằm trong tay những người cộng sản. ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là lọ cắm hoa cho vui mắt nhưng hoàn toàn vô tích sự. Ai đó trong số thành viên ủy ban này tỏ ra dũng cảm phát biểu bày tỏ quan điểm của mình mà không hợp với quan điểm của những người lãnh đạo cộng sản thì sẽ bị buộc tội hữu khuynh, bị lăng nhục thô bạo và bị trừng phạt nặng. Một trong số những người như thế là giáo sư Trương Thành Đô. Năm 1957 người ta buộc tội ông hữu khuynh và tống ông đi cải tạo trong trại lao động khổ sai. Ông được phục hồi hai mươi năm sau đó và khi được tự do thì thành một ông già thiểu não, không nơi nương tựa.
Tuy nhiên trong những năm đầu tiên, trước khi bắt đầu đàn áp hàng loạt, tôi cảm thấy rằng những người cộng sản điều hành đất nước là hoàn toàn tự nhiên và đúng đắn. Tôi khâm phục đảng của họ. Toàn thể nhân dân Trung quốc đặt niềm tin vào đảng. Tại úc tôi gần như người mù được người ta dẫn đến tương lai tươi sáng. ý tưởng xây dựng một mặt trận thống nhất đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho tôi. Tài năng bác sĩ của tôi cần cho đất nước. Chúng tôi, trí thức, sẽ được trọng dụng và thậm chí còn được tham gia điều hành đất nước. Tôi nhìn thấy một số hành động của những người lãnh đạo cộng sản đi ngược với những nguyên tắc mà đảng đề ra, nhưng cho rằng đó chỉ là sai sót nhỏ và mà thể tránh khỏi.
Một người bạn sống với tôi ở Hồng Kông, giới thiệu tôi một người tên là Dương. Ông này có chức vụ trong giới lãnh đạo đảng và phụ trách vấn đề lôi kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước ngoài quay trở về Trung quốc. Anh bạn thân khuyên tôi nên biếu cho Dương một món quà để ông ta đảm bảo việc trở về Trung quốc được tốt đẹp. Nhờ ông Dương, anh có thể kiếm được một công việc thu nhập cao ở một trường y khoa ở Bắc Kinh. Một chiếc đồng hồ Thụy sĩ không phải là món quà tồi với ông ấy. Để được ông ấy cho về làm ở Bắc Kinh, thì việc trả một món quà như thế cũng không phải là quá đắt.
Chẳng lẽ ông Dương mà cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi là nguồn gốc làm giàu ở Trung hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng là xa lạ với những người cộng sản, khi mà họ đã thức tỉnh được hàng triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân đảng, và thế là tôi từ chối đưa quà cho ông Dương. Người cộng sản không bị mua chuộc - tôi nói với các bạn - và tôi sẽ tự kiếm tiền để sống bằng khả năng và trí tuệ của mình.
Về sau tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian sau ông Dương xuất hiện trên chính trường với tư cách là người lãnh đạo đảng dân chủ. Thực tế đây là thủ đoạn chính trị đối với dân chủ. Dương chưa bao giờ ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản Trung quốc và làm việc bí mật ở bộ công an. Trong Hội đồng hiệp thương chính trị nhân dân nhiều thành viên đeo mặt nạ dân chủ.
Năm 1956 tôi kể cho Mao câu chuyện về ý nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá lên: Vì sao các anh, lũ trí thức ăn bám lại keo kiệt đến thế nhỉ? Anh như người trên trời rơi xuống, anh phải biết tính tham lam của con người chứ. Cá không thể sống trong nước sạch được. Món quà chẳng mang một giá trị nào cả. Chẳng lẽ Quách Mạc Nhược không tặng được tôi chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng Khánh hay sao?
Mùa thu 1949 Hồng Kông giống như ong vỡ tổ. nhưng tôi còn trẻ, bồng bột và ảo tưởng và ảo tưởng. Tôi trở về tổ quốc và nhận việc tại một bệnh viện đa khoa lớn ở Bắc Kinh. Tôi có thể sống xứng đáng với truyền thống gốc gác của tôi và tin vào lời thề của Hyppocrat chữa bệnh và cứu tất cả đồng bào giàu cũng như nghèo. Tôi sẽ trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron xuất sắc. Y học là kho báu của tôi đẻ xây dựng nước Trung hoa mới, thịnh vượng và hùng mạnh, không có bất công và thối nát.
Chúng tôi cùng Lý Liên rời Hồng Kông về Bắc Kinh vào giữa tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn này gần 17 năm.
Chương 3
Bắc Kinh hoang tàn và tiêu điều. Sau tám năn Nhật chiếm đóng và bốn năm nội chiến, phố xá trở nên bẩn thỉu, những bức tường dày bao quanh Thành Nội bị lở từng mảng có chỗ đã bắt đầu sập. Các biển quảng cáo vui mắt và sặc sỡ cũng biến mất khỏi các cửa hiệu và quầy hàng, những quán sách thân thương của tôi ở Liu-li-chang đóng cửa im ỉm dường như lâu lắm rồi.
Dân tình xem ra nghèo đói, dung nhan không thấy sửa sang gì giống như chính bản thân thành phố. Đàn ông, đàn bà chỉ mặc những chiếc bộ quần áo ghi đá hoặc màu xám thường được khâu bằng tay từ những mảnh bao tải. Mỗi người đều có một đôi giày bằng vải buồm thô màu đen, mọi người trông ai cũng giống ai. Đàn ông xùm xụp mũ chăn cừu còn đàn bà thì tóc cắt ngắn. Tôi mặc quần áo đúng mốt, cà vạt, giày da, đầu tóc chải chuốt kiểu úc trông giống như người nước ngoài. Lý Liên mặc áo khoác màu sặc sỡ và giầy cao gót. Tóc của cô ta chải thành nếp tuyệt đẹp và nổi bật trong những người khác giống những bông hoa đỏ rực trên cánh đồng lúa mì vàng óng. Tôi rất nhanh chóng phải sắm ngay bộ đồng phục mà mấy ông cộng sản đã khuyên. Nhưng Lý Liên phải đặt may một bộ hợp với người cô ta.
Mẹ tôi thay đổi nhiều. Bà sung sướng khi chúng tôi quay về và cầu khẩn chúng tôi đừng bỏ nhà đi nữa. Tôi hứa ở lại với bà.
Dù nghèo, nhưng khí thế của dân Bắc Kinh sôi nổi. Khắp chốn nơi nơi những khuôn mặt tràn trề hạnh phúc nhìn vào tôi. Bắc Kinh được tự do và dân chúng chân thành chào mừng chính phủ cộng sản mới. Trong thành phố bao trùm bầu không khí thân thiện tưởng vào hạnh phúc tới gần. Chỉ một số ít người thân và họ hàng tôi cho rằng việc tôi trở về là sai lầm.
Anh tôi thu xếp cho tôi gặp Phó Liêm Chương để thảo luận vấn đề công việc của tôi.. Tôi đến nhà Phó. Ông sống trong toà nhà được chia cho bộ y tế. Toà nhà này nằm ở vùng Quảng Xương phía bắc trung tâm thương mại Vương Phú Thanh. Toà nhà này từng là nơi ở của hoàng tử Mãn Châu, sau đó một tướng Quốc dân đảng chiếm lấy dùng và cuối cùng, Phó Liêm Chương toạ lạc ở đây. Biệt thự này có kiểu cách làm tôi nghĩ tới ngôi nhà của chúng tôi, nhưng nó này rộng hơn, sang trọng và lộng lẫy hơn nhiều. Biệt thự có có 6 phòng tất cả đều quét màu nho xanh. Trong đó bố trí những vườn nhỏ phong cách Trung quốc truyền thống, có lối đi được lát gạch men.
Khi tôi đến, Phó Liêm Phương nửa ngồi nửa nằm trên trường kỷ làm bằng trúc. Ông dáng người cao, hơi gày. Dưới vầng trán cao, đôi mắt tinh ranh và diễn cảm của ông nhìn tôi. Ông chừng 50 tuổi, hơn tôi tới 26 tuổi. Do tôi còn trẻ nên ông xem có vẻ già hơn.
Khi tôi đến, Phó Liêm Phương cũng chẳng hề đứng dậy, mà chỉ chìa tay cho tôi bắt. Ông lắc lắc tay uể oải một cách xã giao. Do được tâng bốc nên tôi nghĩ mình phải được coi trọng, cho nên tôi đã mất mặt khi tiếp xúc với nhân vật cao cấp như vậy. Tôi đã bị ho lao mất mấy năm vì thế tôi không thể nói chuyện lâu với đồng chí được- ông ta nói chặn trước. Sau đó ông hỏi tôi tỷ mỉ về học hành và nghề nghiệp bác sĩ. Vừa nghĩ ngợi, ông nói tiếp:
- Vấn đề công việc của đồng chí đã được giải quyết. Sáng mai anh có mặt ở Cục theo dõi sức khoẻ.
Chính phủ mới vẫn hoàn toàn chưa thành hình, chức năng quyền lực điều hành tạm thời trao cho ủy ban quân quản thuộc đảng cộng sản Trung quốc. Cục theo dõi sức khoẻ trực thuộc ủy ban này.
Tại Cục theo dõi sức khoẻ tôi được tiếp đón nồng nhiệt. Một người cán bộ nói với tôi là ở đây còn thiếu bác sĩ điều trị và kể thêm anh tôi từng là sếp của anh ta.
Thứ trưởng báo cho chúng tôi là đồng chí sẽ trở thành các bộ của Cục chúng tôi - anh ta giải thích - Tất cả chúng tôi ở đây đều hoàn toàn tình nguyện. Lãnh đạo đảm bảo cho chúng tôi mọi thứ cần thiết: nhà cửa, chỗ làm việc quần áo và thậm chí cả giày dép nữa. Vì đồng chí sẽ đảm đương công việc bác sĩ trưởng điều trị, nên đồng chí sẽ nhận khẩu phần hạng hai, cao hơn chút ít so với nhân viên trung bình.
Hệ thống hoàn toàn tình nguyện nghĩa là tôi sẽ chẳng được nhận lương. Đảng cộng sản thi hành hai dạng trả công cho viên chức nhà nước. Ai tham gia cách mạng chưa lâu, bắt đầu làm cho đảng thì nhận lương bình thường. những người tham gia cách mạng lâu năm thì được cung cấp toàn phần. Những người tham gia tình nguyện nhận kiểu riêng. Tôi thuộc hạng tự nguyện đi theo cách mạng. Dù là tôi là người mới vào nhưng vãn được vinh dự thuộc hạng được nhà nước cho hưởng cung cấp toàn phần.
Nhưng tôi còn băn khoăn. Chi phí gia đình cũng không phải là nhỏ và giờ đây gánh nặng đè lên vai Lý Liên. Tôi còn phải nuôi mẹ, hai bà cô và bố mẹ vợ. Thật ra tôi cũng đã tích luỹ được vàng và đô la Mỹ, nhưng nếu không nhận được lương thì số tiền đó chẳng mấy chốc mà bay.
Chỉ khi gặp đồng chí Lắc tôi nhận được một số hướng dẫn về nhiệm vụ tương lai của mình. Đồng chí Lắc sẽ dẫn đồng chí tới chỗ làm việc tại Đại học tổng hợp công nhân - người ta nói cho tôi - bây giờ đồng chí cứ về nhà và thu xếp tất cả đồ dùng cần thiết. Chúng tôi sẽ cấp cho đồng chí thu xếp một tuần lễ tính từ hôm nay. Xe tải sẽ chở đồng chí đến chỗ làm. Đồng chí Lắc sẽ đi cùng đồng chí .
Thời gian gặp chẳng nêu rõ rằng, thậm chí chẳng ai hỏi tôi xem tôi có muốn làm ở chỗ mà họ đưa ra. Tôi đâm ra lúng túng, bởi vì tôi chưa bao giờ nghe đến tên trường đại học tổng hợp này. Dù là tôi là nhân viên nhận việc ở đó, nhưng tôi rất muốn trường đại học tổng hợp này phải có gì đó liên quan tới bệnh viện mà tôi mơ ước làm ở đo.
Ngoài ra, tôi hiểu rằng Cục theo dõi sức khoẻ cũng chẳng kiếm được việc cho Lý Liên. Người ta chỉ xếp vợ tôi tạm thời làm ở nhà trẻ cách Bắc Kinh 20 ki lô mét, nơi có viện đào tạo dự bị cho nhân viên y tế. Thật là giận khi khi mà người ta chẳng đánh giá khả năng và trình độ theo ưu điểm này. Chẳng lẽ lại đem so sánh công việc được giao với công việc của vợ tôi ở lãnh sự Anh bên Hồng Kông!
Lý Liên và tôi, có thể, ít gặp nhau ở nhà. Và tôi cay đắng nghĩ rằng tại sao mình lại không tặng Dương chiếc đồng hồ.
Chú về chưa lâu và chưa thể hoàn toàn hiểu cái gì đang xảy ra ở đất nước - anh tôi an ủi - ở đây không phải người chọn việc mà là việc chọn người. Điều này nghĩa là phục vụ sự nghiệp của đảng. Về lương, chú vẫn có thể sử dụng tiền tiết kiệm của mình. Dần dà thì mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Kỷ luật đảng không cho phép ai nói khác.
Cơ quan gọi là đại học tổng hợp công nhân đặt ở Xương Sơn, cách cung điện vua mùa hè vài dặm. Khi cầm quyền, vua Càn Long đã xây nhiều cung điện và nhà thờ. ở đây có hai chùa phật nổi tiếng - Chùa Nhà thờ Phật ngủ và chùa Thanh Thiên. Mùa thu cây thông màu bạc và cây cối lá màu ngói đỏ tạo ra bức tranh màu sắc không đơn điệu. Đại học tổng hợp công nhân chiếm một khu rộng ở Xương Sơn, chỗ này thường đông người và ồn ào.
Tuy nhiên ở đây cũng có cái hay riêng. Mọi nơi đều được canh gác. Hai quan chức cao cấp của đảng - Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương giới thiệu trường cho tôi. Tại đây nhiều công chức của đảng. Vũ Trần Phổ cho tôi tất cả các thứ cần và cũng trao cho tôi huy hiệu của trường và nhắc tôi phải giữ gìn nó như con ngươi của mình. Ông dặn tôi đừng kể cho ai những gì xảy ra ở đây, bởi vì việc tôi làm là bí mật, mà lúc ấy tôi không hiểu vì lẽ gì.
Chỗ tôi ở nằm trong khu nhà gỗ cổ xem ra không tương xứng với cung vua lộng lẫy. Đó là một túp lều tàn tạ, nền đất và ngói đỏ. Duy nhất trong phòng có một bóng đèn điện tỏa ánh sáng đỏ quạch. Giường nằm là hai miếng ván kê trên hai cái niễng, đệm nằm cũng không thấy. Nước, tất nhiên, cũng không, còn buồng vệ sinh là một cái ngăn con bằng gỗ hở toang toác nằm sau nhà. Tôi phải dùng chăn bông mỏng ghép lại thành đệm để nằm. Sau đó người ta lắp bình nước, khí đốt và chậu rửa, để bắt đầu rửa ráy. Nhận trách nhiệm bác sĩ tôi không thể chung đụng chỗ ở với người khác. Điều kiện ăn ở tồi tệ đến mức khi tới đây chơi Lý Liên không thể thốt lên lời, và chúng tôi gặp nhau chỉ trong những ngày nghỉ ở nhà mẹ tôi, nơi tôi thường về để nghỉ và tắm giặt.
Một nét đặc biệt nữa là đồ ăn. Có hai bữa ăn như trong gia đình nông dân: mười giờ sáng và bốn giờ chiều. Nhưng khác với nông dân hiếm khi được ăn thịt, thì chúng tôi theo khẩu phần hạng hai thịt được cung cấp hàng ngày. Nhà ăn cũng chẳng gì hơn ở nhà tôi, nhưng thức ăn được nấu khéo léo, thậm chí lại còn ngon, và nhà bếp sạch đến ngạc nhiên.
Chỗ làm việc trong bệnh viện còn làm rầu lòng tôi hơn. Đó cũng lại là ngôi nhà nông thôn nền đất chẳng có một tí thiết bị nào cả, trừ vài cái nồi đun và bộ đo huyết áp. Trong số thuốc thang, tôi chỉ thấy aspirin, thuốc ho, và vài thứ chế phẩm chống vi trùng. Khi chẩn bệnh tôi chỉ dùng kinh nghiệm bác sĩ trước đây của mình. Tất cả chỉ mong rằng chẳng bệnh nhân nặng nào chui vào đây.
Dù vậy, nhân viên trong bệnh viện rất lạc quan. Trong biên chế có gần 30 người vàhọ chờ đợi sự xuất hiện của tôi từ lâu. Gặp tôi họ mừng ra mặt. Tất cả đều rất trẻ, phần lớn trẻ hơn tôi. Ngay cả hai người phụ trách cũng không quá 25 tuổi. Đám nhân viên được chọn từ nông dân, mới chỉ học qua tiểu học. Vì thế họ chỉ làm được công việc sơ cứu - băng vết thương nhỏ và cho uống aspirin khi sốt. Về các bệnh khác và ngay đến hỏi bệnh họ cũng không biết gì cả. Chúng tôi tin rằng đồng chí sẽ dậy chúng tôi kiến thức y học. Chúng tôi hoàn toàn chưa hiểu biết gì cả - họ nói thế và rất muốn tôi giảng bài mà không hiểu rằng thật vô nghĩa trong điều kiện học vấn của họ chỉ có như vậy.
Một người bạn cũ đến Bắc Kinh thăm tôi trong ngày nghỉ. Chúng tôi ôn lại kỷ niệm đã qua và trao đổi với nhau về tình hình đất nước. Anh bạn tôi vào đảng từ nhiều năm trước và giờ đang làm việc ở Liên đoàn thanh niên dân chủ, tiền thân của đoàn thanh niên cộng sản Trung quốc. Tôi kể cho bạn tôi nghe về công việc của mình ở bệnh viện và nhấn mạnh là một cơ quan tương tụ thế tôi chưa từng gặp bao giờ. Anh ta đột nhiên nghiêm mặt nói rằng lãnh đạo của anh ta cho phép anh ta trao đổi cởi mở với tôi và uốn nắn tôi những sai lầm có thể mắc phải. Anh bạn nhận xét rằng tôi vẫn còn hiểu ít về công tác cách mạng và tôi cần ăn nói thận trọng.
Tôi không phủ nhận cái gì đang xảy ra khi đó làm tôi thất vọng, nhưng tôi không thể nào chấp nhận được cái điệu bộ anh ta đóng kịch. Tôi là bác sĩ - tôi nói - và khi người bệnh đến, tôi làm tất cả để chữa họ. Thế thì sai ở đâu và ăn nói thận trọng như thế nào?
Được thôi, bình tĩnh đã - bạn tôi trả lời - Hãy nói nghe xem bạn làm việc ở đâu thế? Tôi nhắc lại là tôi đang làm việc ở Đại học tổng hợp công nhân và biết rất ít về nó và chỉ chữa người bệnh mà xem ra chẳng thấy có vẻ bệnh nặng gì hết. Tóm lại tôi phí hoài thời gian. Anh bạn tôi cười phá lên, trả lời: Bạn nói chưa khi nào nhìn thấy đại học tổng hợp tương tự như thế phải không? Thế bạn đã để ý tới lính canh hay không? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi vì sao công việc của bạn lại bí mật? Này nhé, bạn thân mến của tôi ơi, bạn đang làm việc chẳng phải ở đại học tổng hợp đâu. Chỗ mà nơi bạn đang làm bây giờ là đầu não của các cơ quan cao cấp đảng cộng sản Trung quốc, và bệnh viện của bạn phục vụ những người lãnh đạo đảng không những hàng trung cấp mà còn cả hàng cao cấp nữa, họ sống tạm ở đó vì lý do an ninh, bởi vì Bắc Kinh được giải phóng chưa lâu. Vì thế việc của bạn được giữ bí mật. Sau này bạn bạn tự biết điều này và trong lúc này đừng biểu lộ gì về tình trạng bệnh viện. Tạm thời thì nó được trang bị tồi và anh có ít nhiều bệnh nhân, nhưng anh làm việc ở chỗ rất có uy tín và sẽ gặp nhiều người chức vụ cao. Chính vì thế sếp tôi cũng cho phép tôi nói thẳng với bạn. Khi đó tôi không tiện hỏi sếp bạn tôi tên gì, nhưng sau này tôi vỡ ra rằng ông ta là người cùng phe Giang Thanh tên là Nam Thanh phó bí thư đoàn thanh niên dân chủ, năm 1965 giữ chức bộ trưởng giáo dục.
Tôi trở về tổ quốc mong trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron và giúp đất nước trong lĩnh vực y học, nhưng lại bất ngờ rơi vào sào huyệt đảng cộng sản Trung quốc. Bắc Kinh vừa mới được giải phóng, tuy nhiên nội chiến vẫn còn tiếp diễn, nước cộng hoà nhân dân Trung hoa vẫn chưa ra đời chính thức. Trước khi lập chính phủ và chuyển giao quyền lực cho nó, các lãnh tụ cộng sản quyết định nằm lại ở Xương Sơn. Tại đấy có Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc và tất cả các cơ quan trực thuộc, cả Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức - ba trong số những nhà lãnh đạo cao cấp đảng cũng sống ở đó. Chỉ có Chu Ân Lai và Nhậm Bích Thế ở chỗ khác.
Bệnh viện nơi tôi làm việc không phải là một phần của đại học tổng hợp và sau khi thành lập nước cộng hoà nhân dân Trung hoa nó thuộc Ban tổ chức Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc so Dương Thượng Côn lãnh đạo, ông này năm 1988 là Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung hoa. Ban tổ chức thuộc Ban chấp hành trung ương lo việc an ninh, sinh hoạt vàtổ chức hiệu quả hoạt động của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc - Mao và cả 4 bí thư cao cấp. Ban tổ chức là cơ quan bí mật nhất và ngay cả nhân viên thậm chí cũng không biết gì về cơ cấu và chức năng của nó. Chỉ có giới chức chóp bu đảng biết mà thôi.
Đầu những năm 50 Ban tổ chức gồm 8 bộ phận trực thuộc:
Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương phụ trách Ban hành chính-quản trị. Trách nhiệm của nó là cung cấp phương tiện làm việc cho các lãnh tụ đảng, cung cấp đồ ăn, mọi thứ cần thiết, sửa chữa vàxây dựng nhà cửa cho công việc cũng như cho cá nhân, lo xe cộ, phương tiện giao thông và liên lạc và các tiền nong.
Uông Đông Hưng phụ trách Ban bảo vệ trung ương, sau này ông đồng thời giữ chức thứ trưởng công an mà Đào Thụy Sinh là bộ trưởng, đảm bảo anh ninh và sức khoẻ cho giới lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc. Ngoài phần lo bảo vệ tất cả lãnh tụ đảng, Uông Đông Hưng cũng lo luôn an ninh cho chính Mao và vì thế Uông luôn luôn nằm ngoài tầm kiểm soát. Hệ thống an ninh, thậm chí trong thời ấy, được thanh lọc kỹ càng. Giúp Uông chăm lo sức khoẻ lãnh đạo còn thêm cả bộ y tế đứng đầu là Phó Liêm Chương. Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên, là phục vụ chụp ảnh thậm chí cũng nằm dưới sự kiểm soát của Uông Đông Hưng.
Diệp Tử Long phụ trách Ban thư ký để lo về tổ chức và tiến hành các buổi hội thảo của đảng và tuyên truyền, ghi văn bản các bài phát biểu, và gửi, nhận bưu kiện, văn thư. Bản thân Diệp Tử Long lại còn là thư ký tin cẩn của Mao. Với tư cách này Diệp phải theo sát để cung cấp cho lãnh tụ tất cả các thứ cần bao gồm thức ăn, tiền nong và vào sổ sách và bảo quản tất cả quà cáp gửi tới Mao. Nói chung người thư ký thường là người phục vụ riêng.
Ban thư ký chính trị, có trách nhiệm cung cấp cho lãnh đạo tất cả các thông tin cần thiết, cũng như các văn bản báo cáo và tài liệu. Năn 1949 phụ trách bộ phận này là Trần Bá Đạt, thư ký chính trị chính của Mao.
Mao cũng có một số thư ký chính trị trong số đó có Giang Thanh vợ ông, Hồ Kiều Mục và Điền Gia Anh. Những nhà lãnh đạo khác cũng có ban thư ký như thế số lượng của nó thay đổi và các bà vợ của chính giới lãnh đạo cũng tham gia ban này.
Ban bảo mật do Lý Chí Dương và ban cơ yếu do Vương Kha đứng đầu là cơ quan bí mật nhất của Ban tổ chức. Nhiều người trẻ và tài năng làm việc ở đó. Họ phải có trí nhớ tuyệt vời biết cách hoá mã và giải mã các thông tin khác nhau chủ yếu là các bức điện đặc biệt. Bộ mã ấy khác hẳn với bộ mã điện báo chính thức của Trung quốc và luôn thay đổi để bảo toàn bí mật. Nó dùng để truyền tin bí mật trong nội bộ lãnh đạo và giới quân sự cao cấp. Nhân viên được đào tạo trong một trường đặc biệt ở Trương Dương Kiều, tỉnh Hà Bắc, mõi mmnhân viên cơ yếu đều mang một bí số riêng. Họ phải biết bộ khoá mã và cần bảng và dẫn giải tra cứu. Khi lớn tuổi, trí nhớ giảm đi thì họ chuyển sang việc khác.
Ban cơ mật đảm bảo an toàn bí mật khi truyền và nhận thông tin giữa các nhà lãnh đạo đảng và quân đội trong nước. Phần đông cán bộ của cơ quan này xuất thân từ thành phần cơ bản và thường là không được học hành gì cả, thậm chí không biết đọc biết viết. Họ làm công việc giao liên và đưa chỉ thị xuống các tỉnh xa ở Trung quốc. Người ta đòi hỏi họ không phải là học hànmh mà là lòng trung thành tuyệt đối về mặt chính trị.
Ban lưu trữ do Tăng Sơn phụ trách có nhiệm vụ ghi chép các số liệu lưu trữ
Ban hậu cần vận tải do Đặng Đình Tường phụ trách đảm nhận cung ứng vận tải để cung cấp tất cả các thứ cần thiết cho cơ quan đảng.
Bệnh viện chúng tôi trực thuộc La Đạo Nhương và Phó Liêm Chương, có nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ của tất cả những người làm việc trong cơ quan đảng. Tất cả biên chế Ban tổ chức, từ những nhà lãnh đạo cao cấp đến nhân viên quèn và gia đình họ, đề là bệnh nhân của tôi. Mọi người phần đông là trẻ và khỏe mạnh hiếm khi đến bệnh viện, bệnh thì xoàng nê không cần kiến thức và kinh nghiệm y học. Và dù rằng mơ ước của tôi thành bác sĩ phẫu thuật nơ-ron bị tan thành mây khói, ở Xương Sơn tôi là bác sĩ duy nhất có bằng cấp và quen biết nhiều gương mặt những người lãnh đạo. Tôi còn trẻ và tự trọng, và người ta tâng bốc rằng tôi làm việc bên cạnh lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc. Tôi đều kính trọng và ngưỡng mộ tất cả các bệnh nhân. Những con người này thực hiện cuộc cách mạng và sẵn sàng hy sinh cho tổ quoóc của chúng ta. Họ rời gia đình của mình từ thời thanh niên trai trẻ tham gia Trường Chinh, chịu đựng nhiều gian khổ và mất mát. Họ làm nên chiến thắng chói loà đối với bọn banns nước Tưởng Giới Thạch. Hộ cốang hiến toàn boọ sinh lực của mình cho sự nghiệp xây dựng một nước Trung hoa mới, coi thường lợi ích và quyền lợi cá nhân. Trước đó tôi tôi chưa hề gặp những người như thế này và thành tâm kính phục lòng dũng cảm và tin bào tương lai đất nước tôi.
Tôi ở trung tâm Cách mạng Trung quốc, và tánhung sướng không những đã trở thành người chứng kiến việc thành lập chính thức nước cộng hoà nhân dân Trung hoa, mà còn chúc mừng sự kiện vĩ đại này bên cạnh những lập nên nó.
Đó là ngày 1 tháng mười năm 1949. Tất cả mọi người ở Xương Sơn thức dậy lúc 5 giờ sáng, một buổi sáng tinh sương không khí tươi mát đến ngạc nhiên, để lên đường vào Bắc Kinh được trang hoàng đẹp đẽ trong buổi sáng ngày ấy. Xe tải chở chúng tôi đến quảng trường Thiên An Môn, khi đó chưa tới 7 giờ. Chúng tôi tập hợp đội ngũ ở chiếc cầu đá gần cổng Thiên Bình, cổng này thời cổ là lối vào Cấm Thành. Khi đó quảng trường nhỏ hơn bây giờ, vàở đó nhiều mhà nhỏ tồi trong những năm trước đây dùng cho quan lại chờ gặp hoàng đế. Toà nhà Hội nghị đại biểu toàn Trung hoa và bảo tàng cách mạng được xây trên quảng trường vào năm 1959, nhân dịp 10 năm thành lập nước cộng hoà nhân dân Trung hoa. Trên quảng trường có nhiều đám đông người - đại diện nông dân, công nhân, trí thức và dân chúng trên khắp đất nước rộng lớn. Tôi thấy rõ lễ đài, trước khi khai mạc đã có nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Trước biển người hàng nghìn lá cờ đỏ vẫy tung và Bắc Kinh điêu tàn đổ nát dường như được tiếp máu và hồi sinhứ. Đám đông người hô lớn: Cộng hoà nhân dân Trung hoa muôn năm! Đảng cộng sản Trung quốc muôn năm!. Vang lên bài hát cách mạng.
Đám đông người lạc quan cầm biểu ngữ và hát vang tiến vào quảng trường tăng dần. Đúng 10 giờ, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác xuất hiện trên lễ đài. Trời đất như vỡ tung. Mao là thần tượng của tôi từ anh tôi giải thích cho tôi rằng đây là vị lãnh tụ vĩ đại, cứu tinh của Trung quốc. Hôm ấy tôi lần đầu tiên thấy Mao. Thậm chí làm việc ở Xương Sơn tôi không thấy ông, dù rằng tôi sống cách không xa dinh thự ông là mấy.
Mao là người cao lớn khoẻ mạnh. Ông tròn 56 tuổi trước đây chưa lâu, nhưng trông ông khá trẻ. Khuôn mặt ông vẻ đôn hậu, dưới mái tóc đen và dây là vầng trán cao. Giọng ông vang lên. Giọng ông âm vang, phong thái toát lên vẻ tự tin và người mạnh mẽ. Ông mặc bộ quân phục như trong ảnh mà mọi người thấy trên sách báo. Chính phủ mới đã được thành lập, và Mao phát biểu với tư thế của Chủ tịch Cộng hoà Nhân dân Trung hoa, đại diện không phải cho đảng, mà cho chính quyền nhà nước. Ông mặc bộ quần áo xám xẫm giống hệt bộ quần áo Tôn Trung Sơn đã mặc (sau này bộ quần áo này gắn liền với Mao), đầu ông đội chiếc mũ công nhân thường đội trong các ngày lễ. Trên lễ đài đứng cạnh ông là những nhân vật đại diện cho những người không đảng phái và tổ chức như để xác nhận sự tồn tại của một mặt trận thống nhất. Bà Tống Khánh Linh đẹp đẽ, vợ goá của Tôn Trung Sơn, người đánh đổ triều đại phong kiến cuối tình và mở cho Trung quốc con đường mới phát triển.
Trung tâm của sự chú ý, tất nhiên, là Mao, Ông chỉ đạo rất chắc chắn và thậm chí không tỏ vẻ của sự cao ngạo. Tôi nhiều lần thấy Tưởng Giới Thạch, khi hắn còn nắm quyền lực. Tưởng luôn luôn tỏ ra cách hẳn với người khác và thích tỏ được thuộc hạ tâng lên. Mao tỏ ra là khác hẳn.
Mao có sức thu hút như nam châm. Dù rằng bài phát biểu của ông không hề tỏ vẻ giọng quý phái, giọng Hồ Nam của ông cũng không cũng được đón nhận như giọng đáng yêu. Mượt mà và sang sảng giọng ông thôi miên đám công chúng Nhân dân Trung quốc đã vùng dậy - Mao bắt đầu và đám đông cuồng nhiệt đáp lại lời ông bằng tiếng vỗ tay chúc mừng cộng hoà nhân dân Trung hoa và đảng cộng sản. Tim tôi rung lên vì sung sướng, mắt tôi tràn lệ vì hạnh phúc. Tôi rất tự hào về nước mình tin vào tương lai thịnh vượng của nó. Những năm bị đè đầu cưỡi cổ, ách nô lệ và tủi nhục vĩnh viễn trôi qua. Tôi tin rằng Mao là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung hoa và là người khai sinh ra lịch sử nước Trung hoa mới. Tôi đứng cách ông chỉ vào bước chân, nhưng tôi cảm thấy sao mà xa thế. Tôi là một bác sĩ quèn, còn ông là lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Ngày hôm ấy tôi thậm chí không thể hình dung rằng chỉ một thời gian ngắn sau tôi thành bác sĩ riêng của ông, theo sát ông 22 năm liền và chứng kiến cái chết của ông.
Tháng 12 năm 1949, sau ngày lễ, Mao Trạch Đông đến Moskva, ông ở đấy vài tháng, ký với Stalin Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Trung quốc và Liên-xô. Tháng 2-1950 ông quay về Trung quốc, và ngay sau đó chuyển từ Xương Sơn về Bắc Kinh. Tư dinh của ông là cung điện nằm trên vườn thượng uyển trong Cấm Thành. Các nhà lãnh đạo đảng cộng sản lần lượt chuyển về đây chiếm các ngôi nhà sang trọng của vua trước đây. ở Xương Sơn chỉ còn lại Ban hành chính quản trị và ban bảo mật tài liệu. Bệnh viện chúng tôi chia làm đôi. Một phần ở Bắc Kinh để chữa các nhà lãnh đạo và phần còn lại nằm lại Xương Sơn do tôi phụ trách.
Nếu không phải ngẫu nhiên, thì đời tôi có thể đã khác.
Chương 4
Một quan chức ở Trung Nam Hải bị ốm và chết bởi bệnh sốt xuất huyết não. Tôi được cấp tốc triệu về Bắc Kinh. Được biết vi-rút căn bệnh lạ lùng này được truyền qua muỗi đốt, mà muỗi lại rất nhiều ở Bắc Kinh đặc biệt mùa hè và thu. Vì thế trường hợp sốt xuất huyết não ở đây không phải là hiếm. Các nhà chuyên môn thời kỳ đó khuyên nên theo dõi hội chứng căn bệnh nguy hiểm này phá hoại não người. Giai đoạn đầu của bệnh sốt xuất huyết não có thể bị ngăn lại bằng cách trị bệnh cổ truyền, khi mà mới xuất hiện nó giống như triệu chứng cúm. Tuy nhiên nếu điều trị không kịp thời thì bệnh tiến triển nhanh làm hệ thống tim mạch bị phá huỷ và thậm chí người bệnh còn phát rồ. Trong những trường hợp nặng thì cái chết khó tránh được.
Mùa hè 1950 có mưa nhiều ở Bắc Kinh, thế là muỗi ra như trấu. Khi một nhân viên ở Trung Nam Hải bị sốt xuất huyết não, một bác sĩ trẻ chưa kinh nghiệm coi đó là cúm. Do điều trị không đúng bệnh nhân tử vong. Nhân viên này sống gần biệt thự của Mao, vì thế Dương Thượng Côn và Chu Ân Lai lo lắng về sự nguy hiểm của căn bệnh đe doạ lãnh tụ.
Anh chàng bác sĩ trẻ đó ở bệnh viện Trung Nam Hải bị thải hồi tức khắc. Bệnh viện được cải tổ, trong thành phố người ta tổ chức diệt muỗi quyết liệt. Lãnh đạo quyết định chuyển bộ phận y tế ở Xương Sơn vào Trung Nam Hải. Quyết định này thực tế làm thay đổi tận gốc cuộc đời tôi.
Bệnh viện ở Trung Nam Hải vốn trang bị tồi tàn đã được cấp tốc nâng cấp và hiện đại hoá để trở thành trung tâm chính chữa bệnh cho các nhà lãnh đạo đảng và đất nước. Đồng thời người ta cũng cải tạo lại các ngôi nhà ở Trung Nam Hải. Tại đó có hai hồ lớn chiếm một diện tích rộng: hồ Trung và hồ Nam. Từ đấy mới có tên khu vực này. Khu này được bức tường thành vây quanh giống như Cấm Thành. Bức tường để ngăn người lạ nhìn vào. Sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản đến đây ở thì các quán sách cũng biến mất tất cả các quyển sách có kèm bản đồ Cấm Thành. Đội bảo vệ theo sát anh từng bước. Việc ra vào vùng Trung Nam Hải chỉ cho những ai làm việc và sống ở đây, hoặc là khách mời chính thức của nước. Trụ sở Quốc vụ viện cộng hoà nhân dân Trung hoa, do Chu Ân Lai lãnh đạo nằm ở phía bắc, cạnh hồ Trung. Cùng sống và làm việc với Mao còn có những người bạn chiến đấu của ông - Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Đổng Bích Vũ, Lý Phú Xuân và Trần Nghị. Họ là quan chức cao cấp nhất của đảng, tư dinh của họ là những biệt thự và cung điện Cấm Thành. Cả những nhân viên phục vụ và cả những người làm công tác đảng cũng được sống ở đây. Tôi được chia một căn nhà nhỏ. Về sau tôi chuyển sang căn nhà lớn hơn và đem Lý Liên và thằng con trai Giôn về sống cùng.
Thậm chí ngay trên vùng đất được bảo vệ cẩn mật thế này mà lực lượng an ninh luôn luôn cảnh giác cao độ. Đi từ khu này sang khu kia đều qua kiểm soát nghiêm ngặt. Đi đến đâu cũng bị hỏi chứng minh thư ra vào. Tôi làm việc ở bệnh viện cách tư dinh Mao không xa. Tôi có chứng minh thư ra vào B, nhưng với nó tôi có thể đi quanh khu bệnh viện, về nhà và quanh sân nhà minh mà thôi. Lý Liên cũng có chứng minh thư như thế, nhưng không được đi lại nhiều như tôi.
Bệnh viện tôi phụ trách chữa chạy không những người cao cấp, mà còn cả những gia đình và những nhân vật quan trọng sống ở Bắc Kinh. Nhiều chiến sĩ cách mạng tám năm chiến đấu với Nhật và bốn năm với quân đội Quốc dân đảng, giờ đây lập gia đình và vì thế toii còn phải chữa bệnh cho đám con nhỏ của họ. Gánh nặng công việc đè nặng và tôi không còn thời gian nghỉ ngơi nữa.
Tôi viết đơn xin vào đảng, nhưng nguồn gốc xuất thân của tôi lại thành vấn đề. Dĩ nhiên, tôi được trải qua thử thách. Bố tôi có giữ một chức vụ quan trọng trong chính phủ Quốc dân đảng. Dù Chu Ân Lai mời ông quay về Bắc Kinh, hứa là sẽ bảo vệ ông, nhưng nhiều người liệt bố tôi là phản cách mạng. Bố vợ tôi là địa chủ tỉnh An Huy. Trong thời gian cải cách ruộng đất ông bị quy tội kẻ thù nhân dân, bị tước không chỉ quyền công dân mà còn cả phương tiện sinh sống. Bây giờ ông phụ thuộc vào sự chu cấp của tôi. Vợ tôi cũng gây cho họ sự nghi ngờ. Trước giải phóng vợ tôi làm việc cho không lực Hoa kỳ và lãnh sự Anh và người ta tung tin rằng vợ tôi bề ngoài vẫn là điệp viên bí mật của hai ông chủ trên. Ngay cả thời trai trẻ của tôi cũng chẳng lấy gì tin cậy.
Trong lý lịch tự thuật, kèm đơn xin vào đảng, tôi viết là sau khi học xong trung học ở Quý Châu, tôi bị Quốc dân đảng gọi đi huấn luyện quân sự ba tháng. Người ta nói là sau lớp huấn luyện tôi sẽ gia nhập Hội phục hưng quốc gia của Quốc dân đảng. Tuy nhiên, khi huấn luyện xong, tôi chẳng bao giờ nghe đến cái tổ chức này và tôi cũng không quan hệ gì với hoạt động của nó thậm chí gián tiếp. Về sau mới hay Hội phục hưng quốc gia là tiền thân của Đoàn thanh niên nhân dân quốc gia, một tổ chức chính trị có liên quan tới Hội áo bồ câu - một trong số tổ chức mật của đảng cộng sản. Các đảng viên cộng sản có nhiệm vụ điều tra lý lịch tôi, không thể tin là tôi không dính líu vào hoạt động của Hội Phục hưng.
Lại phát sinh nghi ngờ trong mối quan hệ trong thời kỳ tập sự sau khi học xong trường y khoa. Đợt thực hành y khoa đầu tiên của tôi bắt đầu với tư cách bác sĩ quân y Quốc dân đảng.
Quan chức của đảng tiếp tục đào bới quá khứ của tôi, và việc cho tôi vào đảng bị hoãn vô thời hạn.
Dù vậy tôi có xu hướng muốn đóng góp vào sự nghiệp cách mạng. Để làm điều này, tôi tình nguyện tham gia vào hàng ngũ những người tích cực giúp cho công cuộc cải cách ruộng đất. Một số lần tôi tham gia hạ phóng về nông thôn, ở đó chúng tôi chia lại đất đai và đồ đạc tịch thu ở những gia đình giàu có và chia cho cố nông và nông dân nghèo xơ xác. Thậm chí cuộc cải cách ruộng đất đã tước đi tất cả mọi thứ ở bố vợ tôi, như trước đây tôi vẫn ủng hộ nó. Tất cả những đổi thay này kết liễu sự bóc lột giai cấp nông dân và cải thiện đáng kể đời sống nghèo khó ở thôn quê. Chỉ sau nhiều năm, tôi mới biết thực chất cuộc cải cách man rợ và mất tính người mà những ông đội, bà đội tham gia lúc đó. Chẳng bao lâu người ta không cho tôi tham gia cải cách ruộng đất nữa, nói là Trung Nam Hải rất cần nghề bác sĩ của tôi.
Năm 1950 chiến tranh Triều tiên bùng nổ. Tôi ngay lập tức làm đơn tình nguyện. Tôi chưa được tham gia kháng Nhật và nội chiến Quốc-Cộng, và vì thế tôi quyết định giờ đây phải phục vụ đất nước mình. Tôi tin rằng Trung quốc không thắng cuộc chiến này, có lẽ là vì đối thủ là Mỹ, một nước hùng mạnh bậc nhất thế giới. Tôi theo dõi chặt chẽ tin chiến sự và ngạc nhiên thấy quân đội Trung quốc giáng cho kẻ thù những thiệt hại như thế nào. Lần đầu tiên sau một thế kỷ, Trung quốc tỏ ra là chống đối quyết liệt lực lượng xâm lược ngoại quốc hùng mạnh. Tôi giận và căm phẫn người Mỹ đã sử dụng vũ khí vi trùng ở Triều Tiên. Dù rằng cuộc chiến ở Triều Tiên đi vào ngõ cụt, tôi vẫn tự hào vô hạn lòng dũng cảm của đồng bào tôi. Cấp trên không cho tôi vào khu vực chiến sự, lại đánh giá sự quan trọng của công việc tôi ở Trung Nam Hải.
Tôi bồn chồn và uất ức. Người ta không thể cho phép tôi được giúp đỡ cách mạng, lẫn thành bác sĩ phẫu thuật.
Tôi cảm thấy sự xa lánh từ phía bệnh nhân của mình, việc vào đảng vẫn dậm chân tại chỗ như trước đây.
Trong cơn khủng hoảng ấy, lần đầu tiên tôi gặp gia đình Mao. Mao Ngạn Thanh, người con trai 30 tuổi của lãnh tụ được chở vào bệnh viện. Anh ta mắc bệnh tâm thần - không thể ngủ được, suốt đêm đi lại quanh nhà, lẩm bẩm một mình.
Mao có hai con trai - Mao Ngạn Thanh và Mao Ngạn Anh. Hai người này là con của bà vợ Đường Khai Tuệ, bị Quốc dân đảng xử tử năm 1930 vì không chịu bỏ người chồng mình, mặc dù chính Mao trong khi đó nằm cách đấy vài trăm dặm ở Giang Tây, vùng căn cứ địa xô viết và cũng đã cưới bà Hồ Huệ Trân. Sau khi mẹ chết, hai người con nhỏ được chuyển về Thượng Hải, ở đó họ đã sống sót một cạh lạ lùng. Những ai từng biết Mao Ngạn Thanh đều cho rằng bệnh tâm thần của anh ta do đòn dã man của cảnh sát Thượng Hải. Cả hai người con trai Mao được tìm thấy chỉ sau một số năm, khi trở thành phố Diên An trở thành căn cứ địa của đảng. Mao đã gửi họ sang học ở Liên-xô.
Khi bắt đầu chiến tranh Triều Tiên, người con lớn Mao Ngạn Anh ra chiến trường, hy sinh trong cuộc ném bom của Mỹ. Người con út Mao Ngạn Thanh làm phiên dịch ở bộ phận tuyên huấn Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc.
Năm 1953 trong cả nước rộ lên chiến dịch đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu trong hàng ngũ đảng cộng sản Trung quốc. Mao Ngạn Thanh phát hiện rằng một đồng sự đã biển thủ tiền nhuận bút bài báo của mình bằng cách giả mạo chữ ký. Mao Ngạn Thanh giận dữ đánh người đồng sự ấy. Biết tin, Mao nổi giận và chửi bới người con. Có thể, đây là một trong những nguyên nhân bệnh tâm thần của Mao Ngạn Thanh. Tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực thần kinh học, và bệnh viện chúng tôi chỉ tiến hành điều trị phòng ngừa. Tôi cho Mao Ngạn Thanh uống thuốc an thần và tìm cách báo cho gia đình anh ta nên sang chữa ở bệnh viện tâm thần.
Một chiều, khi tôi đang xem bệnh án, cô y tá chạy hớt hơ hớt hải nói là Giang Thanh đang có mặt trong bệnh viện và muốn nói chuyện với tôi về sức khoẻ của Ngạn Thanh.
Giang Thanh đi cùng người nữ vệ sĩ chờ tôi trong phòng khách, cạnh buồng Anh Thanh. Tôi thấy vợ Mao một vài lần, nhưng thoáng qua. Bà ta vào đảng ở Diên An, trước đó bà là diễn viên ở Thượng Hải. Tất nhiên, tôi cho rằng quần áo của bà khác hẳn bộ đồ một màu xám của lãnh tụ, làm mode cho tất cả Trung quốc, nhưng điều tôi nhìn thấy lại rất gây ấn tượng với tôi. Giang Thanh mặc bộ âu phục thanh lịch. Dưới áo gile là chiếc váy bằng nhung lụa mềm mại. Chân bà đi tất - thời ấy được xem là xa hoa - và đôi ủng da màu đen gót thấp. Mái tóc đen dày. Bà có đôi mắt xẫm quyến rũ và nước da trắng như màu ngà voi. Giang Thanh cao khoảng mét sáu mươi, mảnh mai, phần lưng dài hơn phần dưới. Hồi ấy bà 38 tuổi, con tôi thì 30.
- Xin chào đồng chí, bác sĩ Lý?
Giang Thanh chào tôi lịch sự theo giọng Bắc Kinh, khi tôi ngồi đối diện. Không chờ tôi trả lời, Giang Thanh hỏi luôn:
- Sức khỏe Ngạn Thanh thế nào?
Mặc dù giọng nói rất thanh lịch nhưng phát ra rất lạnh lùng. Người ta kể rằng thời trẻ Giang Thanh là cô gái duyên dáng. Theo tôi Giang Thanh là một phụ nữ đáng yêu nhưng không đẹp. Bà ta có vẻ vừa đoan trang vừa ngạo mạn.
Tôi kể tỷ mỷ tình trạng sức khoẻ của Ngạn Thanh và khuyên nên chuyển anh ta đến bệnh viện tâm thần hoặc trại an dưỡng, bởi vì bệnh viện chúng tôi không thể chữa bệnh tâm thần.
Giang Thanh nghĩ một lúc, sau đó nói là sẽ nói lại điều này cho lãnh tụ. Để ông ta quyết - Giang Thanh chấm dứt.
Khi chia tay chúng tôi bắt tay nhau. Ngón tay bà nhỏ nhắn và mềm mại, móng được thợ sửa cầu kỳ. Cám ơn tôi xong, bà đi ra sân đã có ba vệ sĩ chờ bà. Tôi cảm thấy rằng bà ta không tin tôi. Cái nhìn và ngữ điệu dò hỏi đã toát lên vẻ nghi ngờ của bà đối với những lời và hành động chân thật của tôi.
Sau đó bác sĩ tâm thần xác nhận Mao Ngạn Thanh bị điên và người ta gửi anh ta về thành phố nghỉ mát Đại Liên, bắc Trung quốc. Anh ta sống trong một căn nhà riêng và có cô y tá phục vụ. Họ yêu nhau, nhưng gia đình Mao lại chọn cho anh ta một cô dâu khác, em gái út của cô vợ goá Mao Ngạn Anh. Cô y tá đau khổ trở về Bắc Kinh.
Mùa thu năm 1953, một năm sau cuộc gặp ở bệnh viện, tôi lại chạm trán với Giang Thanh, nhưng ở nhà Hồ Kiều Mục, một trong các thư ký của Mao, phụ trách tuyên huấn. Hồ Kiều Mục kính trọng công việc của tôi, và chúng tôi trở thành bạn của nhau.
Tôi đến nhà Hồ Kiều Mục để chữa cho ông bệnh dị ứng thuốc và lóet dạ dày. Lúc đang khám, thì bỗng nhiên vợ ông, Hồ Hữu, làm việc ở viện hàn lâm khoa học, chạy vào và thông báo rằng Giang Thanh vừa tới. Bà giục chồng: Mặc quần áo nhanh lên. Ông xin lỗi tôi vì phải bỏ dở cuộc khám.
Tôi chạm trán Giang Thanh ngay lối vào. Bà bật lên:
- Bác sĩ Lý ở đây à!
Hồ Kiều Mục giải thích lý do viếng thăm của tôi. Đó là cuộc gặp đã lâu rồi nhưng tôi không quên được giọng lạnh lùng khi bà nói chuyện với tôi.
Phụ trách bệnh viện Trung Nam Hải, tôi coi tất cả bệnh nhân như nhau, không phân biệt địa vị, chức vu của họ. Danh tiếng của tôi tăng lên từng ngày. Nhiều người đã hài lòng khi tôi chữa và một số người thậm chí tin tôi, kểc cho tôi nghe đời tư và chuyện gia đình để tìm lời khuyên trong tình huống phức tạp. Họ tin tôi vì tôi chưa khi nào làm lộ bí mật việc xưng tội của họ.
Cuối năm 1952 tôi được cấp chứng minh thư A dành cho nhân viên gương mẫu của bộ máy. Đó là một vinh hạnh lớn.
Sau đó cuối cùng người ta chấp nhận tôi là đảng viên dự bị đảng cộng sản Trung quốc. Không ai chống tôi cả. Những ai biết tôi, đều nhất trí xác nhận rằng tôi chưa khi nào khoái chính trị cả. Việc thẩm tra lý lịch vào đảng của tôi kéo dài tròn hai năm.
Sau này người ta nhắc lại xuất thân của tôi và những hoạt động chính trị chống đảng cộng sản Trung quốc, khi đất nước Trung quốc tiến hành làn sóng thanh lọc và đàn áp. Nhưng tháng 11 năm 1952 tôi đã thề với đảng cống hiến tất cả đời mình cho sự nghiệp của đảng và sẵn sàng chịu đựng hy sinh và thiệt thòi cho đảng. Về chủ nghĩa Mác, tôi chỉ đọc qua Tuyên ngôn đảng cộng sản của Mác và hai bài báo của Mao. Ngoài ra, tôi chỉ nhớ một vài bài phát biểu hăng hái của anh tôi và một số khẩu hiệu mác xít đại loại Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu
Nhưng tôi cũng không trở thành người đảng viên chân chính. Phần đông đảng viên sống ở Trung Nam Hải thuộc hạng đặc quyền đặc lợi. Họ tham gia công nhân đã lâu và vào đảng khi còn trẻ. Ngoài ra, tất cả những người này đều tham gia Trường Chinh. Họ xuất thân từ dân nghèo, chưa được học hành và mang nặng thành kiến của nông dân ngu dốt. Nhiều người trong số họ ngưỡng mộ hiểu biết của tôi. Tôi đánh giá cao sự nhiệt tình cách mạng và sự sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng cách mạng. Nhưng giữa chúng tôi, như trước đây, cẫn có hố ngăn cách. Họ coi tôi là trí thức, thuộc về tầng lóp bóc lột, và vì thế đâm ra nghi ngờ. Họ áp dụng chính sách lôi kéo, sử dụng và cải tạo đối với tôi. Điều mà đảng quý tôi chỉ là kiến thức của tôi trong lĩnh vực y học và kinh nghiệm của một bác sĩ.
Họ được đánh giá đến mức nào trong hành động, tôi biết điều ấy chiều 2 tháng 11 năm 1954. Uông Đông Hưng gọi điện cho tôi và mời tôi đến nhà ông. Uông phụ trách phục vụ bảo vệ trung ương, lo toan bảo vệ an ninh cho gii lãnh đạo đất nước. Ngoài ra, ông còn chỉ huy đội vệ sĩ của Mao. Tôi quen ông trong bệnh viện, khi vợ ông và con nhỏ vài lần tới đó chữa bệnh. Chúng tôi đánh bạn với nhau. Uông là công thần của đảng và tham gia Trường Chinh. Ông gắn cuộc đời của mình với phong trào cộng sản đã hàng chục năm. Uông Đông Hưng gốc gác bần cố nông, khi đó chưa biết lối sống thành phố đã bị cảnh sát bắt giữ khi ông quyết định chữa các thứ cần ngay trên đường phố. Người ta doạ bỏ tù ông, may mà nhờ nhờ khoản hối lộ khá to của ông bố mà Uông thoát khỏi bị tù. Uông chống lại sự bán nước của Quốc dân đảng, và tham gia đảng cộng sản. Ông gặp Mao ở Diên An. Sau năm 1949, người ta bất ngờ đưa ông chức vụ cao, nhưng ông luôn luôn tôn trọng trí thức và đánh giá tôi là bác sĩ nhận bằng cấp phương tây.
Ông không muốn nói chuyện qua điện thoại, nguyên do là ông muốn trực tiếp gặp tôi, nên ông phải yêu cầu gặp riêng. Điều này làm tôi ngạc nhiên, bởi vì trước đó Uông Đông Hưng và tôi luôn cởi mở với nhau.
Chúng tôi gặp nhau ở một phòng rộng ở Trung Nam Hải, ông sống với vợ ở đó. Căn buồng này vừa là phòng làm việc, vừa là phòng khách, vừa là phòng ăn và thậm chí còn là phòng ngủ. Con cái ông sống trong ngôi nhà nhỏ đầu kia toà nhà có bảo mẫu trông nom. Uông Đông Hưng rót trà và bưng một chén cho tôi.
Uông nói:
- Đây là chè Long Thanh năm nay. Thử đi đồng chí! Chè này trồng ở Hàng Châu và được coi là ngon nhất ở Trung quốc. Khác với rượu vang, chất lượng phụ thuộc vào tuổi, thì chè này có giá trị và hữu ích nhất trong năm thu hoạch nó. Uông Đông Hưng biết rạch ròi thưởng thức. Tôi uống một ngụm và thấy ngon.
- Tôi có ích như thế nào?
Im lặng một lát, Uông Đông Hưng hỏi tôi:
- Đồng chí biết vì sao trong thời gian dài tôi không điều đồng chí đi chỗ khác?
Tôi trả lời, ngạc nhiên về câu hỏi của ông ta
- Tôi không biết.
- Tôi theo dõi đồng chí một số năm rồi, mọi người ở Trung Nam Hải quý đồng chí. Đồng chí được bệnh nhân đánh giá cao vì không phân biệt địa vị và chức vụ và không khi nào tỏ vẻ lên mặt. Kinh nghiệm và kiến thức y học của đồng chí, thái độ phục vụ và ýinh không ích kỷ của đồng chí đã làm cho các đồng chí của chúng tôi, bao gồm cả lãnh đạo cao cấp kính phục. Thậm chí chính Mao Chủ tịch đã nghe về đồng chí chỉ qua những câu ca ngợi. Bây giờ chúng tôi cố tìm một người vào chỗ bác sĩ riêng Mao, và điều này là nhiệm vụ không đơn giản.
Uông nói tiếp:
- Tôi đã thảo luận với bộ trưởng công an La Thụy Khanh và trưởng ban Ban tổ chức và xếp đồng chí vào công việc này. Về điều này tôi cũng thông báo cả cho thủ tướng Chu Ân Lai. Tất cả đều thống nhất chấp thuận sự lựa chọn của tôi. Hôm qua tôi đã trình tất cả cho Mao, và ông sơ bộ đồng ý. Nhưng trước khi có quyết định dứt khoát, Mao Chủ tịch muốn nói chuyện trực tiếp với đồng chí. Đồng chí cần chuẩn bị. Tôi nghĩ rằng Chủ tịch sẽ nhanh chóng gọi ông đến gặp đấy.
Tôi rất bất ngờ tin này. Tôi biết sau cái chết bất ngờ Nhậm Bích Thế năm 1950, tất cả các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc bắt đầu sử dụng bác sĩ riêng. Tuy nhiên giao tôi việc như thế quả là một trách nhiệm lớn. Từ cửa sổ bệnh viện tôi thường nhìn sang nhà nơi Mao ở. Tôi cho rằng ngôi nhà này là trái tim của Trung quốc, và nhịp đập Mao - cũng là nhịp đập của của nước Trung hoa. Tôi thậm chí không thể hình đung một lúc nào đó tôi được ở chỗ thần thánh. Mao đối với tôi là người vĩ đại, như ngôi sao trên trời. Đầu óc tôi bâng khuâng.
Tôi chẳng tự hào gì về công việc này. Thành phần xuất thân của tôi, bị nghi ngờ có liên quan với Quốc dân đảng, bố tôi làm cho chính phủ Quốc dân đảng, lại thêm tin đồn vợ tôi là gián điệp - mọi người không quên điều đó. Lý Liên không là đảng viên và chẳng khi nào có thể vào đảng được. Nhiệm vụ như thế thường trao cho con cái công nhân và nông dân. Quá khứ của tôi luôn luôn theo sát tôi, và người ta cũng không gạch nó đi cho tôi nhờ. Thêm nữa, Mao cũng đã có bác sĩ riêng.
Tôi nhớ lại trường hợp đau buồn trong quá khứ của cụ tôi, từng là thầy thuốc trong hoàng cung thái hậu Từ Hy, sau khi phát hiện bệnh giang mai ở con trai bà - hoàng đế Tường Nghi. Sự đày ải cụ tôi khỏi chức vụ bác sĩ ngự y đã ảnh hưởng tới thế hệ sau, và không ai trong họ chúng tôi có quyền chữa bệnh troing hoàng cung.
Tôi phát biểu sự nguy hiểm của mình cho Uông, và tôi cho là mình không xứng đáng làm công việc này, nhưng Uông cười phá lên, trả lời:
- Đừng lo! Trước khi cho đồng chí vào đảng, chúng tôi nghiên cứu cẩn thận quá khứ của đồng chí và những người thân của đồng chí. Mọi nghi vấn đã được tháo gỡ. La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn và thủ tướng Chu Ân Lai không nghi ngờ gì về lòng trung thành của đồng chí, và họ cũng an tâm về quá khứ của đồng chí. Nếu không thế thì đồng chí đã chẳng được tiến cử làm bác sĩ riêng của Mao. Quá khứ cụ tổ đồng chí, thuộc về thời phong kiến. Thời nay khác xưa rồi, và đồng chí nên bỏ tất cả những mặc cảm đó đi.
Tôi hỏi:
- Nhưng Phó Liêm Chương có biết việc này không chứ?
Chính Phó Liêm Chương mời tôi quay về Trung quốc. Đồng chí ấy xếp việc cho tôi và giờ đây là thứ trưởng bộ y tế. Bộ này bộ thuộc Quốc vụ viện cộng hoà nhân dân Trung hoa được thành lập mới đây. Trước đây đồng chí ấy lãnh đạo cục bảo vệ sức khoẻ, lo về công tác bảo vệ sức khoẻ các nhà lãnh đạo cao cấp đất nước. Phó Liêm Chương tự cho mình là bạn thân và là chiến hữu của Mao, đương nhiên, luôn luôn phải quan tâm sức khoẻ của Mao nhiều hơn. Vì thế tôi cho rằng giao việc trong tương lai cần nên thảo luận cả với Phó.
Uông đáp:
- Các đồng chí lãnh đạo cao nhất sẽ quyết định. Dù rằng Phó là thủ trưởng trực tiếp của đồng chí, tôi không nghĩ là chúng tôi nhất thiết phải hỏi đồng chí ấy.
Nhưng tôi linh cảm điều này có gì không ổn trong quan hệ với Phó Liêm Chương.
Tôi nói với Uông:
- Tôi cũng cần nghĩ kỹ đề nghị của đồng chí. Lý do của nó chưa thuyết phục tôi đến cùng. Tôi không cảm thấy mình đang ở Trung Nam Hải, dù rằng về hình thức tôi đã đứng trong hàng ngũ đảng. Lý lịch xuất thân của tôi không khi nào xoá được, và nếu tôi thành bác sĩ riêng của lãnh tụ, thì tôi sẽ luôn nằm dưới sự theo dõi. Nếu lỗi nhỏ người ta nhắc nhở tôi, nếu lỗi to hơn thì lại buộc tội tôi âm mưu chống đảng và lãnh tụ. Toi sẽ tức khắc bị coi là kẻ thù giai cấp, được xem là trọng tội ở nước Trung hoa cộng sản.
Uông nói
- Không còn thời gian để đồng chí nghĩ lung tung nữa. Chúng tôi đã quyết định rồi.
Lúc này tôi hiểu rằng mình hết lối thoát.
Tôi tiếp tục nói:
- Nếu tôi đảm nhận trách nhiệm này, thì tôi làm tất cả bào chữa cho lòng tin của đảng nhưng tôi nói trước rằng tôi chưa đạt được trình độ hoàn thiện và tôi muốn người ta tin rằng nếu mắc lỗi thì phạt tôi chứ đừng đổ xuống đầu đồng chí.
Thực tế, Uông Đông Hưng quả là rất liều, khi đưa tôi vào nhiệm vụ này. Nếu tôi mắc lỗi gì đó, thì rõ rằng là Uông cũng phải gánh chịu. Chúng tôi sẽ đi với Uông trong một rọ đến khi Mao chết.
Uông động viên tôi:
- Đừng lo. Dĩ nhiên, đồng chí phải hết sức chú ý vàthận trọng, thường xuyên trao đổi với thủ trưởng của mình. Dù vậy quyết định cuối cùng hoàn toàn chưa xong, và đồng chí có thể cân nhắc lợi hại, nhưng chỉ có đồng chí là tự trả lời được. Tất cả chỉ có thế. Tôi nghĩ, đồng chí nên tham khảo ý kiến và tôi không sai khi chọn đồng chí. Bây giờ, đồng chí quay về nhà và chuẩn bị cho cuộc nói chuyện với Mao. Chủ tịch sẽ chấp nhận quyết định cuối cùng. Hãy chờ điện thoại của tôi. Tôi sẽ nói đồng chí thời gian gặp lãnh tụ.
Uông Đông Hưng đưa tôi hồ sơ sức khoẻ Mao và yêu cầu tôi xem trước. Uông cũng nói rằng Mao sớm rời khỏi Bắc Kinh đi nghỉ ở phương nam. Tôi vẫn làm ở bệnh viện và chờ quyết định cuối cùng.
Trong khi chờ đợi, tôi nghe không ít những lời cảnh cáo. Trần Dương Anh, vợ goá Nhậm Bích Thế, một trong số bí thư đảng cộng sản Trung quốc, nhắc trước tôi rằng công việc sắp tới sẽ chẳng đơn giản chút nào đâu. Sau khi chồng chết, bà sống trong sự thất vọng. Tôi cố an ủi và động viên bà. Bà là người phụ nữ đáng nể, một người vợ chung thuỷ, một người mẹ đáng quý. Sau cuộc gặp này chúng tôi trở thành bạn tốt của nhau.
Cùng với Trần Dương Anh, tôi có mặt trong các cuộc hội nghị đảng, đi Thượng Hải và Hàng Châu. Bà kể cho tôi về sự lập dị và quái đản của Mao cảnh báo tôi rằng cẩn thận trọng khi nói chuyện với Mao.
Bà nói:
- Mao có thói nổi xung bất thường, và một sai sót nhỏ của đồng chí có thể làm ông phát khùng. Vợ ông, Giang Thanh, một người độc ác và thô bỉ với người xung quanh, ngoài việc quyến rũ đàn ông. Đừng bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của bà ta. Nếu đồng chí rơi vào thảm hoạ, thì không ai trong số những người gần Mao giúp được đồng chí đâu. Hơn thế nữa, bất kỳ lúc nào đồng chí có thể chui vào tù đấy.
Những lời nói thẳng của Trần Dương Anh làm tôi lo lắng. Tôi phục Mao và cho đấy là lý tưởng. Dĩ nhiên, tôi không so sánh ông với ông vua nhưng uy quyền của ông với tôi là không còn bàn cãi nữa. Không ai có thể dũng cảm phê bình ông. Thêm nữa, chính trong những năm này rộ lên chiến dịch đấu tranh chống bọn phản cách mạng, và nếu ai đó nghe được lợi của Trần Dương Anh, người ta có lẽ buộc tội bà âm mưu và phần tử phản cách mạng.
Tôi không bao giờ quên những lời cảnh báo của Trần Dương Anh và năm này qua năm khác tôi tin sự chính xác của bà. Thậm chí bây giờ tôi vẫn còn biết ơn sâu sắc người phụ nữ dũng cảm này vì lòng thiện chí và cởi mở với tôi.
Cuộc đấu tranh với phản cách mạng làm tôi bối rối. Cầm đầu chiến dịch là Uông Đông Hưng, người tiến cử tôi làm bác sĩ của Mao. Người ta vẫn tiếp tục quy tội những bác sĩ riêng của một người lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc vào tội chống đảng. Bắt bớ các bác sĩ tiếp tục một số tuần lễ. Hàng ngày tất cả mọi người ở Trung Nam Hải họp mít tinh kéo dài 4-5 giờ liền để xỉ nhục các đồng nghiệp của tôi, trút xuống đầu những bác sĩ vô tội những lời lăng nhục bẩn thỉu. Tôi choáng váng và căm phẫn. Các bác sĩ đâu có được đối xử ngọt ngào, họ đã phải thực hiện công việc chẳng nhẹ nhàng chút nào. Mỗi người trong số họ phải coi sóc sức khoẻ chỉ cho một người lãnh đạo. Dù cái chết bất ngờ Nhậm Bích Thế, nhưng những người lãnh đạo vẫn còn khoẻ mạnh cơ mà. Kinh nghiệm của bác sĩ cũng chỉ có giới hạn trước bệnh tật. Tất cả họ đều trẻ hơn tôi và mới vào đời. Họ cảm thấy rằng khả năng và kiến thức của họ không được sử dụng hoàn toàn, nghề nghiệp thì mai một, nhưng họ lại không được thực hành ở chỗ khác. Họ không hài lòng là kiến thức và kinh nghiệm của họ chỉ phục vụ cho số ít người được chọn chứ không phải cho tất cả nhân dân, và thế là bị buộc tội chống đảng.
Cuộc tấn công vào các bác sĩ vẫn chưa ngừng lại, những lời buộc tội mới hoàn toàn vô lý đã được thêm vào tội của họ. Hứa Đào, bác sĩ của vợ Mao, từng có thời là bác sĩ riêng của Mao trở thành nạn nhân. Người ta buộc tội Hứa Đào không những chống đảng, mà còn tội chế giễu Giang Thanh. Và dù là những lời buộc tội hoàn toàn lố bịch, bản thân Hứa Đào bị doạ trừng trị nặng nế. Các vệ sĩ vợ Mao kể là khi Giang Thanh đề nghị kéo rèm, thì bác sĩ Hứa Đào làm điều đó hơi chậm. Do đó ánh sáng mặt trời thường xuyên chiếu vào mắt Giang Thanh, làm giảm thị lực của bà. Ngoài ra, Hứa Đào còn bị buộc tội chủ ý giảm nhiệt độ phòng của vợ Chủ tịch, và khi bà ta nổi giận thì ông ta chỉ cho bà thấy cái nhiệt kế hỏng đang chỉ mức 25 độ, đó là nhiệt độ mà đồng chí Giang Thanh yêu cầu. Vì tất cả những lỗi này, ông bị buộc tội chống đảng. Cuối cùng tất cả các bác sĩ, trừ một người, đã bị thải hồi. Cần phải nói là họ được chuyển về bệnh viện Bắc Kinh và có thể tiếp tục nghề nghiệp y học của mình. Đó là điều mà họ mơ ước.
Trớ trêu thay, Hứa Đào, bị buộc tội nhiều nhất, lại vẫn ở lại là bác sĩ riêng của Giang Thanh
Tôi rất thông cảm cho đồng nghiệp của mình và tin rằng họ không có lỗi. Họ chưa hề là thành viên nhóm chống đảng, nhưng tôi không thể lên tiếng bảo vệ họ được. Giá như ai đó nghe được ý kiến của tôi, thì tôi cũng bị buộc tội chống đảng và sự việc cũng chấm dứt.
Ngày ấy tôi chưa có nhiều kinh nghiệm và còn ngây thơ. Điều này bắt đầu ngay ngay sau khi tôi trở về Bắc Kinh, khi Lý Liên không thể tìm thấy việc làm. Tôi khi đó hiểu rằng giá như tôi tặng Dương chiếc đồng hồ, thì tất cả mọi việc sẽ khác đi và Lý liên chẳng lo gì việc làm.
Năm 1953 bắt đầu chiến dịch chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu, đụng chạm tới gia đình tôi. Anh và chị họ tôi bị buộc tội. Họ từng khuyến khích tôi vào đảng, và tôi không nghi ngờ họ vô tội. Nhưng tôi lại phải ngậm miệng, nếu không thì họ cũng buộc tội tôi là kẻ thù của đảng.
Trong khi chưa được vinh dự làm bác sĩ riêng của Mao, tôi đã cảm thấy sự nguy hiểm do là tôi buộc phải làm trái ngược những nguyên tắc sống của mình và truyền thống gia đình. Thông thường trong những trường hợp như thế, tôi phải đứng về một bên, nhưng trong thời gian đấu tố bác sĩ tôi buộc phải đứng ở phía những người buộc tội, bởi vì số phận những người thân của tôi phụ thuộc vào điều đó. Tôi phải lừa dối, nhưng đó là cơ hội duy nhất để giữ được việc làm và trau dồi nghề nghiệp. Tôi cần phải làm điều này, bởi vì thực tế bao hàm cả gia đình tôi.
Tôi không buộc tội đồng nghiệp của tôi tội chống đảng mà chỉ xác nhận rằng họ chẳng có điều gì đáng phàn nàn, và mói về sự chưa vững về nghề nghiệp và sai sót phần nào nghề nghiệp bác sĩ, cái đó họ cần học nhiều để làm việc tốt hơn trong tương lai.
Bốn mươi năm đã trôi qua, và tôi cũng vẫn còn sợ hãi mặc dù tôi đang sống ở một đất nước tự do và dân chủ - Hoa kỳ. Nghĩ lại chặng đường đã qua nếu tôi mọi thứ lặp lại như lúc đầu và những sai lầm được tính trước thì tôi đã bước đi một cách chính xác. Tôi không có sự lựa chọn. Những người thân phụ thuộc vào tôi, nếu bây giờ tôi còn ở lại Trung quốc làm chứng cho cuộc đàn áp đẫm máu với những người biểu tình trên quảng trường Thiên An Môn 4 tháng sáu năm 1989, hành động được chính quyền và quân đội gõy ra, thì những người thanh niên cũng không dạy được nữa. Thậm chí giờ đây, trong sựphát triển của Trung quốc, đảng cộng sản vẫn tiếp tục theo dõi những người vô tội và cưỡng bức ý nguyện của toàn thể nhân dân Trung quốc. Như những năm trước đây, để mà sống được ở Trung quốc, cần phải giảm bớt lương tâm và lòng tự trọng.
Năm 1954, trong vụ án bác sĩ tôi và không biết rằng đồng nghiệp của tôi chỉ là những con tốt đen trong ván cờ tranh chấp quyền lực giữa Uông Đông Hưng và Phó Liêm Chương.
Phó Liêm Chương là thứ trưởng bộ y tế và đảm nhiệm bảo vệ sức khoẻ cho các lãnh tụ cao cấp. Các bác sĩ riêng cho họ đều được bổ nhiệm theo lời đề nghị của ông ta. Phó Liêm Chương rất kho có cơ hội nói chuyện với Mao và những người lãnh đạo khác, và vì thế ông ta sử dụng các bác sĩ được tiến cử vào mục đích của mình. Họ không những chỉ thông báo cho Phó về tình trạng sức khoẻ của lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc, mà còn kể cho họ về tất cả cái gì thấy và nghe được. Điều này giúp Phó trong cơn bão táp chính trị giữ được vị trí của mình và tránh khỏi chỉ trích và buộc tội. Tất nhiên ông quan tâm hơn cả là quan điểm của Mao.
Uông Đông Hưng, phụ trách an ninh quốc gia và lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc, nhưng việc bảo vệ sức khoẻ những nhà lãnh đạo cao cấp Trung quốc cũng là nhiệm vụ của ông ta. Quyền lực của Uông thực tế lớn hơn quyền lực của Phó Liêm Chương. Uông luôn là người có hoài bão chính trị, và ông lại rất gần Mao. Tin tức về hoạt động và phát biểu của các nhà lãnh đạo cao cấp, Uông Đông Hưng nhận được không những từ đám vệ sĩ, mà còn từ các bác sĩ mà Phó bổ nhiệm. Miếng mồi giành độc quyền nguồn thông tin dẫn cuộc cắn xé giữa hai con hổ.
Cuộc xung đột tới đỉnh điểm sau khi Uông, không hỏi han gì Phó Liêm Chương đã tiến cử tôi vào chức vụ bác sĩ riêng của Mao. Mâu thuẫn ngấm ngầm ban đầu đã biến thành thù địch công khai. Phó Liêm Chương bắn tin để Mao chống sự bổ nhiệm tôi, lôi thành phần và quá khứ của tôi ra. Trả miếng Phó Liêm Chương, Uông Đông Hưng kích động vụ án bác sĩ, được tiến hành dưới ngọn cờ đấu tranh với bọn phản cách mạng là hoàn toàn tự nhiên. Kết quả là tất cả các bác sĩ do Phó bổ nhiệm bị thải hồi và Uông Đông Hưng ăn mừng chiến thắng. Chia rẽ trong quan hệ mối quan hệ Phó Liêm Chương và Uông tăng lên, và họ trở thành kẻ thù không đội trời chung.
Chiến dịch chống bác sĩ cũng bẻ gẫy ý chí của trí thức. Không ai hoài nghi rằng ở Trung quốc không có chút nhân quyền nào cả có thể sống và nói năng. Mỗi người cần phải bưng mắt tuân theo mệnh lệnh của cấp trên. Một sự không bằng lòng nho nhỏ hoặc một lời nói bừa bãi có thể làm cho anh trở thành kẻ thù của đảng và nhân dân. Trên khắp đất nước, đảng cộng sản Trung quốc tổ chức các cuộc mít tinh phản đối, tại đó khối quần chúng nhân dân phẫn nộ lên án bọn kẻ thù của cách mạng, đảng và nhân dân Trung quốc. Mỗi người chỉ là một chiếc đinh ốc nhỏ trong cỗ máy quyền lực khổng lồ phức tạp. Một thoáng nhỏ không hài lòng hoặc lệch khỏi các tiêu chuẩn định sẵn đều có thể bị quy tội và bị gửi đi cải tạo.
Tuy nhiên quay lại việc bổ nhiệm tôi. Tôi càng tôn thờ Mao bao nhiêu thì công việc tương lai đe doạ tôi bấy nhiêu. Lý Liên cảnh cáo tôi người ta sẽ không khi nào tha thứ sai lầm của tôi. Sau năm năm sống ở Trung quốc vợ tôi đã hoàn toàn gột bỏ ảo tưởng đối với những gì xảy ra trong nước. Vợ tôi lúc nào cũng nhớ tới ông bố địa chủ, và tội gián điệp luôn lơ lửng trên đầu vợ tôi như một như thanh gươm Đamocrát. Trong khi đó vợ tôi hiểu rõ rằng tôi không thể thoát khỏi trách nhiệm nguy hiểm này. Trong những năm chung sống vợ tôi luôn luôn lo sợ cho tính mạng của tôi.
Một vài tháng trôi qua kể từ hôm gặp Uông. Tôi căng thẳng chờ đợi, nhưng không thấy lãnh tụ gọi.
Chương 5
Ngày 25 tháng 4 năm 1955, lúc gần ba giờ, cô y tá trưởng bệnh viện ở Trung Nam Hải với vẻ mặt căng thẳng, bối rối, báo cho tôi biết: nhóm Một vừa gọi điện sang. Cô ta thì thào: Đồng chí hãy đợi ở bể bơi. nhóm Một là bí danh của Mao và những cộng sự của ông ta. Lúc đó ở Trung Nam Hải có hai bể bơi. Một bể ngoài trời, tất cả mọi người đều được phép sử dụng nó trong mùa hè. Một bể khác ở trong nhà, được xây dựng riêng cho những cán bộ lãnh đạo của đảng. Tuy vậy, dần dần, bể bơi này chỉ có Mao sử dụng và sau này ông thường hay tới đó, đến nỗi người ta phải xây thêm một phòng ngủ, một phòng tiếp khách và một phòng làm việc cho ông ngay tại bể bơi. Năm 1967, trong khi Cách mạng văn hóa đang diễn ra. Mao đã dọn đến ở hẳn tại ngôi nhà có bể bơi đó cho đến khi ông gần qua đời. Tại đây, ông đã đón tiếp tổng thống Nixon, thủ tướng Tanaca và nhiều chính trị gia nước ngoài khác. Ngay từ năm 1955 chữ bể bơi đã luôn gắn liền với Mao. Bây giờ cũng vậy, Chủ tịch đã đích thân ra lệnh cho tôi.
Như thường lệ, hôm đó công việc ở bệnh viện rất bận rộn và một số bệnh nhân đã kiên tâm chờ đợi hàng giờ liền. Tôi có nhiệm vụ phải lo cho họ trước khi tôi đến bể bơi bằng xe đạp. Lý ẩm Kiều, người đội phó đội vệ sỹ của Mao vội vã đi về phía tôi
- Tại sao đồng chí đến muộn thế? - anh ta hỏi với vẻ đầy lo âu - Đồng chí bắt Chủ tịch Mao phải chờ à?.
- Tôi còn phải điều trị cho các bệnh nhân - tôi giải thích - Chủ tịch ốm à? Chủ tịch cần chăm sóc thuốc men không?
- Không, Chủ tịch chỉ muốn nói chuyện với đồng chí.
Lý ẩm Kiều đưa tôi đến bể bơi. Mao đang nằm trên phản gỗ, say sưa đọc sách. Ông khoác một chiếc áo tắm băng vải bông lên tấm thân trần và quấn một chiếc khăn bông khác ngang hông. Trông ông vẫn nặng nề và to lớn như lần đầu tiên tôi thấy ông trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn. Ông có đôi vai rộng, bụng phệ và sắc mặt hồng hào. Tóc ông luôn đen và dày, trán rộng, da bóng và không có lông tơ. Cặp đùi của ông gầy, hai bàn chân thô luôn xỏ đôi tất màu cà phê. Lý ẩm Kiều báo tôi đã đến và tôi liền xin lỗi ông vì sự chậm trễ của mình. Mao không hề bực mình. Ông để quyển sách sang bên rồi bảo Lý mang một chiếc ghế đến cho tôi. Những vệ sỹ của Mao thường thi hành ngay lệnh của ông. Cứ bốn người trong số họ cắt nhau túc trực phục vụ Mao hàng giờ.
- Trương Trí Đông chẳng bao giờ ăn đúng giờ, ngủ đúng giờ - Mao giải thích (ông tự liên hệ mình với một quan chức cao cấp trong triều đại nhà Thanh) - Tôi cũng như Trương. Mấy giờ rồi?
- Bây giờ là 4 rưỡi chiều ạ - tôi trả lời.
- Giờ này đối với tôi vẫn còn là bình minh. Đồng chí dậy lúc mấy giờ?
Tôi lúng túng. Vì sau bữa ăn trưa phần lớn người Trung quốc thường chợp mắt một chút và tôi vẫn chưa hề biết thói quen của Mao, nên tôi không dám chắc là ông muốn biết tôi dậy sau giấc ngủ trưa vào lúc nào hay tôi dậy vào buổi sáng lúc mấy giờ.
- Buổi sáng tôi thường dậy lúc gần 6 giờ - cuối cùng tôi đã nói - và buổi chiều tôi chợp mắt một chút ạ.
- Đồng chí là bác sỹ - Mao vừa cười vừa nói - nên đồng chí mới lưu tâm đến sức khỏe và cuộc sống của đồng chí theo thời gian biểu một cách nghiêm ngặt. Trong cái nhìn của Mao, ông tỏ ra là người hiểu biết và chắc là nhân ái - bằng điệu bộ của ông nhiều hơn là bằng lời nói. Tôi bị ông chinh phục, vì tôi cảm thấy mình đang đối diện với một người vĩ đại.
Ông hút thuốc lá của Anh, mác 555. Khi hút, ông dùng thêm tẩu.
- Tống Khánh Linh vợ goá của Tôn Trung Sơn tặng tôi cái tẩu này và khuyên đã khuyên tôi nên dùng tẩu, bên trong có đầu lọc để giảm hàm lượng nicotin. Tôi đã hút thuốc từ nhiều năm nay nhưng tôi luôn tự hỏi, chất nicotin đã gây tác hại như thế nào. Đồng chí có hút thuốc không?
- Tôi có hút, nhưng không nhiều. Buổi tối, sau giờ làm việc tôi thường hút ba hoặc bốn điếu.
- Đồng chí là bác sỹ hút thuốc đầu tiên mà tôi biết.
Ông nói nhiều lần về tẩu thuốc và vừa nhìn tôi vừa cười chế nhạo tinh quái.
- Hút thuốc cũng là phương pháp luyện tập hít thở tốt đúng không?
Tôi không biết ông nói đùa hay nói thật, nên tôi chỉ cười và không nói gì. Mao nhìn tóc tôi, rồi nói:
- Đồng chí chỉ trên 30 tuổi, mà sao tóc đã sớm bạc như tôi thế?
Tôi đáp, tóc tôi bạc trước tuổi là theo gen di truyền.
- Cứ theo tóc mà phán, thì tôi già hơn Chủ tịch nhiều.
Mao cười:
- Đồng chí nịnh tôi chứ gì?
Dần dần tôi đã bạo hơn.
Mao hỏi tôi về việc học hành, về quá trình công tác của tôi và lắng nghe tôi nói.
- Từ khi đi học, đồng chí đã được giáo dục hoàn toàn theo kiểu Mỹ - ông nói- Trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng, người Mỹ đã ủng hộ Tưởng. Và ở Triều Tiên họ cũng đã chống lại chúng ta. Mặc dù vậy, tôi vẫn thích những người đã từng học ở các trường của Mỹ và Anh làm việc cho tôi. Tôi cũng rất thích ngoại ngữ. Người ta đã nhiều lần đề nghị tôi học tiếng Nga, nhưng tôi không thích. Tôi thích tiếng Anh hơn. Có lẽ đồng chí có thể giúp được tôi việc này?
Tôi đồng ý.
Mao ngừng nói, rồi nghiêm giọng:
- Mới có 15 tuổi, khi vẫn còn là trẻ con, đồng chí đã gia nhập tổ chức Phục hưng Quốc gia vào năm 1935. Khi đó, đồng chí chưa hề hiểu chính trị là gì. Ngoài ra, đồng chí đã kể những mẩu chuyện về quá khứ của đồng chí. Tôi thấy không có vấn đề gì.
Ông kể cho tôi nghe về Lý Thế Dân, vị hoàng đế lập ra triều đại nhà Đường (618-907), đã từ chối lời can ngăn của quan thượng thư không nên dùng một viên tướng không rõ lai lịch ngay cả khi viên tướng đó ngoan ngoãn tuân lệnh vua. Nhưng viên tướng đó lại có tài năng phi thường và đã phụng sự nhà vua rất tích cực. Chẳng bao lâu nhà vua và viên tướng đó đã cộng tác với nhau rất chặt chẽ
Mao nhìn tôi, nói:
- Đó chính là sự thành thật. Chúng ta cần phải thành thật với nhau. Quan hệ và sự thành thật của chúng ta cần phải trải qua thử thách trong một thời gian dài.
Mao nói tiếp:
- Chúng ta lấy Hứa Thế Hữu làm thí dụ - Ông nhắc đến nhà sư từng là tỉnh đội trưởng tỉnh Nam Kinh - Hứa Thế Hữu nguyên là đồng chí của Trương Quốc Đạo, một trong những người sáng lập ra đảng cộng sản Trung quốc nhưng đã chạy sang hàng ngũ Quốc dân đảng sau khi cãi vã với Mao. Hứa Thế Hữu không chịu theo Trương Quốc Đạo và giải thích điều đó là do lòng trung thành của ông đối với Mao. Trong đợt chỉnh huấn năm 1942 ở Diên An, nhiều người ngờ vực lòng trung thành của Hữu, vì trước đó đồng chí ấy đã từng làm việc cho Trương Quốc Đạo. Hứa bị phê bình kịch liệt. Đồng chí ấy đã thất vọng và nghĩ đến việc rút quân của mình khỏi Diên An. Khang Sinh muốn bắt và xử bắn đồng chí ấy. Nhưng tôi muốn đích thân nói chuyện với đồng chí ấy. Nhiều người ngại rằng đồng chí ấy có thể làm gì tôi, nhưng tôi không sợ. Khi gặp tôi, đồng chí Hứa đã khóc. Tôi nói, đồng chí ấy đừng khóc nữa và trả lời hai câu hỏi đơn giản của tôi: Đồng chí tin Trương Quốc Đạo hay tin tôi? tôi hỏi. Tất nhiên, tôi tin đồng chí đồng chí Hứa trả lời. Đồng chí muốn đi hay ở lại, tôi hỏi tiếp. Tất nhiên là tôi muốn ở lại đồng chí ấy đáp. Và tôi nói: Được, đồng chí hãy ở lại. Đồng chí tiếp tục chỉ huy bộ đội của đồng chí. Thế thôi. Từ đó, đâu phải Hứa Thế Hữu đã không hoàn thành nhiệm vụ của đồng chí ấy. Sau khi lo lắng và nản lòng cả năm trời, bỗng nhiên tôi cảm thấy vững tâm. Mao đã gạt bỏ nguồn gốc xuất thân và quá khứ chính trị của tôi. Ông là người lãnh đạo cao nhất và không ai có thể nghi ngờ uy tín của ông.
Một vệ sỹ đến chuẩn bị bữa ăn cho Mao. Chủ tịch mời tôi dùng cơm chung. Nhiều món ăn được chọn cho phù hợp - cá, thịt lợn với ớt thái lát (món ăn mà Mao thích), thịt cừu xào với tỏi tây và một đĩa rau. Trong khi đó các món ăn thường được đảo qua dầu nóng được dưới thêm xì dầu và rắc thêm muối.
Vào giữa những năm 1950, hầu hết mọi người đều phải chịu dựng một cuộc sống nghèo khó, thực phẩm thiếu thốn và dầu ăn trở thành một món ăn xa xỉ. Nhưng tôi lại quen ăn những món nhúng dầu. Vì vậy tôi đã phải cắn răng nhịn.
- Đồng chí không ăn à? - Mao có vẻ trách tôi - Món cá ngon lắm, thịt lợn cũng thế.
- Tôi không đói lắm - tôi cáo từ.
Mãi sau này tôi mới quen với khẩu vị của ông.
- Đây là bữa sáng và bữa trưa của tôi - ông nói - Mỗi ngày tôi ăn hai bữa là đủ. Hình như bây giờ chưa phải là giờ ăn của đồng chí?
Chúng tôi tiếp tục trò chuyện. Ông muốn biết tôi có luôn quan tâm đến triết học không.
- Khi còn là sinh viên, chưa bao giờ tôi đọc những cuốn sách giáo khoa về nghề y của tôi kỹ lưỡng như tôi mong muốn - tôi đáp - Tôi không có thời gian để đọc những cuốn sách khác. Từ khi trở thành bác sĩ, tôi hoàn toàn dành thời gian cứu bệnh nhân. Vì vậy, đến nay tôi không có điều kiện để đọc sách về triết học. Nhưng tôi cũng đã đọc hai bài của Chủ tịch: Bàn về thực tiễn và Bàn về mâu thuẫn.
Thực ra, tôi rất thích hai bài này. Mao viết rất hay, dung dị và chính xác. Bài Bàn về thực tiễn đã cho tôi thấy, sự hiểu biết đúng đắn chỉ có thể có được từ hành động hơn là từ những lý thuyết suông. Đó là một bài học bổ ích đối với một bác sĩ phẫu thuật tương lai. Bài Bàn về mâu thuẫn đã giải thích cho tôi, rằng người ta cần phải tìm hiểu bản chất của vấn đề thay vì tập trung vào hiện tượng bên ngoài của nó.
Mao cười.
- Trong cuộc kháng Nhật (1937-1945) tôi đã đề nghị đưa môn triết học vào Trường đại học chống Nhật ở Diên An. Lúc đó tôi nghĩ, tôi còn đúc kết kinh nghiệm cách mạng của chúng ta, trong đó tôi đã kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác vào thực tế cụ thể ở Trung quốc. Vì thế tôi đã viết cả hai bài này. Tôi nghĩ, bài Bàn về thực tiễn có ý nghĩa hơn bài Bàn về mâu thuẫn. Tôi phải viết đề cương bài Bàn về mâu thuẫn trong hai tuần, nhưng bài giảng thì chỉ có hai tiếng đồng hồ.
Sau này, nếu đôi khi nhớ lại tôi đã tự hỏi, tại sao trong lần gặp đầu tiên, tôi lại gây ấn tượng tốt cho Mao như vậy, thì tôi lại phải nghĩ đến đoạn trao đổi này. Ngay sau đó ít lâu, tôi trở thành người gần gũi với Mao và với các cộng sự tin cậy nhất của ông, tôi mới biết, hai bài viết này quan trọng đối với Mao như thế nào. Mao coi đó là những bài học cơ sở đưa đến sự phát triển triết học của chủ nghĩa Mác-Lê nin - tức là sự áp dụng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh cụ thể của Trung quốc. Không những Liên-xô đã coi thường bài viết này, mà còn gán cho những bài viết đó có tính chất xét lại. Có tin đồn Stalin đã cử P. F. Yudin, một triết gia Mác xít- Lê nin nít nổi tiếng sang làm đại sứ Liên-xô ở Trung quốc. Do vậy, ông ta đã gần gũi với tư tưởng Mao và viết bài về tư tưởng đó. Mao thường gặp Yudin, rồi hai người tranh luận với nhau đến tận đêm khuya. Nhưng Yudin đã cương quyết phủ nhận những quan điểm của Mao, cho đến khi Mao phật lòng. Có phải thứ triết học nào đã va chạm với Mác và Lê nin ở giới hạn của nó? , đôi khi ông hỏi. Sự liên hệ với kinh nghiệm cách mạng của Trung quốc không thể tạo ra những tư tưởng triết học mới sao?
Tuy nhiên buổi chiều hôm đó tôi vẫn chưa biết tất cả sự việc mà Mao vẫn còn dè dặt.
Ông nói:
- Tôi nghĩ, đồng chí nên đọc vài cuốn sách triết học. Là bác sỹ, điều đó có thể rất bổ ích đối với đồng chí. Tôi vừa mới đọc xong Phép biện chứng tự nhiên của ăng ghen. Đồng chí cầm cầm lấy cuốn sách này. Tôi đã từng nghe, ở các trường đại học bên Mỹ người có học vị hàn lâm cao nhất trong khoa học tự nhiên và thần học là tiến sĩ triết học. Rõ ràng, người Mỹ cũng có quan điểm cho rằng, trong tất cả các ngành khoa học, triết học đóng một vai trò đầy ý nghĩa. Tôi đã nắm được điều quan trọng đó để nghiên cứu lịch sử. Nếu không biết gì về lịch sử, chúng ta không thể hiểu được cái gì đang xảy ra trong hiện tại. Và đồng chí cũng nên biết về văn học. Một khi là bác sỹ, thường xuyên giao tiếp với nhiều người, đồng chí chỉ sử dụng những kiến thức y học không thôi, thì đồng chí không còn quan tâm đến những điều khác. Đồng chí sẽ không nói được ngôn ngữ như vậy.
Mao dừng một lát.
- Hôm nay như thế là đủ rồi. Trong tương lai chúng ta sẽ còn có nhiều dịp để thường xuyên trao đổi với nhau.
Khi ra về, ông bất chặt tay tôi.
Hơn bảy giờ tối, tôi rời bể bơi mà trong đầu chất chứa bao suy tư. Cuộc gặp gỡ có quá nhiều bất ngờ. Trước tiên, tôi thấy Mao nằm trên giường và tôi đã làm quen với thói quen ngủ nghê kỳ quặc, lối khôi hài khô khan của ông. Rốt cuộc, ông đã làm cho tôi phát điên lên, khiến tôi nói năng huyên thuyên. Ông là người làm cho người khác sợ hãi, đồng thời ông cũng là người xã giao không ngoan và không sùng bái thần tượng. Sự hồi hộp đã biến mất và tôi cảm thấy yên tâm hơn so với những năm trước đây. Mặc dù giữa chúng tôi vẫn luôn luôn còn hố sâu ngăn cách và tôi chỉ biết rất ít về ông, nhưng tôi chắc rằng, tôi đang đối diện với một nhân vật quan trọng. Tôi rất tự hào vì đã được giao nhiệm vụ đày tin cậy là phục vụ ông. Đó là một dịp may mà tôi không dám mơ đến. Nhưng liệu tôi có hoàn thành nhiệm vụ hay không? Tôi nên chuẩn bị như thế nào đây? Người ta đã trông mong ở tôi điều gì? Tôi lập tức tìm gặp Uông Đông Hưng. Tôi kể cho ông ta nghe về cuộc nói chuyện của chúng tôi. Uông hoan hỷ.
- Đồng chí thấy không? Tôi đã nói ngay với đồng chí là đồng chí sẽ toại nguyện. Đó là sự khởi đầu tốt đẹp. Sau cũng thế!
Chuông điện thoại reo. Vệ sỹ của Mao là Lý ẩm Kiều gọi điện đến. Tôi đã gây ấn tượng rất tốt đối với Mao và tôi đã vượt qua được thử thách. Mao muốn tôi sẽ là bác sỹ riêng của ông.
- Tôi sẽ báo việc này cho Bộ trưởng công an La Thụy Khanh- Uông nói - Bây giờ đồng chí về nghỉ đi. Và nhớ giữ kín tất cả những gì đã xảy ra ngày hôm nay.
Lý Liên là người duy nhất được tôi kể cho nghe về nhiệm vụ mới của tôi. Cô ấy cũng nghĩ, hẳn tôi phải gây được thiện cảm tốt đẹp rồi. Nếu không thì Mao đã không nói chuyện với tôi lâu như vậy và lại còn mời tôi cùng dùng cơm. Nhưng tôi vẫn còn băn khoăn. Tôi nói:
- Chúng ta sẽ thấy liệu công việc của tôi có thuận lợi như vậy hay không?
Hôm sau Phó Liêm Chương gọi điện cho tôi và mời tôi đến thăm nhà ông ở ngõ Dây Cung. Tôi đạp xe đến nhà ông ta. Lần này, ông đích thân ra tận cửa chào và bất tay tôi:
- Đồng chí kể cho tôi nghe đi Tôi không hề hay biết, tin mới này lại lan nhanh đến như vậy. Phó Liêm Chương lắng nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ giữa tôi và Mao. Câu chuyện thường làm ông phấn khích. Ông rót trà mời tôi, hai lần đi quanh bàn trà nhỏ và lẩm bẩm: Thật là may mắn. Cuối cùng ông ta cười và nói với tôi:
- Đồng chí thật may mắn. Lần đầu gặp Mao chủ tịch mà đồng chí đã được nói chuyện với Chủ tịch lâu như vậy. Được lắm!
Tôi cảm thấy Phó Liêm Chương ngạc nhiên ra mặt và có ý ghen tị.
Phó Liêm Chương nói:
- Năm 1934, lúc đó Chủ tịch mắc bệnh sốt rét, nhưng Chủ tịch lại muốn ra mặt trận, nên Chủ tịch đã yêu cầu tôi chạy chữa cho Chủ tịch. Khi đó, tôi đã cho Chủ tịch uống ký ninh. Và thế là Chủ tịch lại ra trận được và giao phó cho tôi chăm sóc vợ Chủ tịch đang có mang, đó là nữ đồng chí Hạ Tử Trân. Tôi đã đỡ đứa con của họ chào đời.
Hai má Phó nóng bừng, khi ông nhớ lại thời kỳ đó. Những hạt mồ hôi lăn trên trán ông. Ông nhấp vài ngụm nước đun sôi. Ông nói ngắn gọn:
- Tôi không những uống trà mà còn dùng bất cứ chất kích thích nào. Sau đó, Chủ tịch đã cứu vớt đời tôi.
Phó nói tiếp và lái câu chuyện sang hướng khác. Lần đó tôi bị buộc tội là thành viên của nhóm chống bôn-sê-vích của Quốc dân đảng và Chủ tịch Mao đã đứng ra bảo vệ tôi. Hồi trẻ, tôi mắc bệnh lao và lần đó Chủ tịch cũng rất tốt với tôi. Trong cuộc Vạn lý trường chinh, khi mọi người khác phải đi bộ, thì Chủ tịch đã để cho tôi cưỡi ngựa. Vì sức khỏe của tôi rất yếu, nên Chủ tịch rất quan tâm, bảo người lo cho tôi mỗi ngày được ăn một con gà. Hồi đó, thịt gà đắt lắm và khó mua nữa, nên mỗi ngày ăn một con gà thì thật là xa hoa không tưởng tượng nổi.
Phó rót thêm trà cho tôi và nói tiếp:
- Tôi đã kể tất cả cho đồng chí nghe, vì tôi muốn đồng chí hiểu Chủ tịch.
Tôi biết quá ít về thời kỳ đầu của đảng cộng sản Trung quốc và quá khứ của Mao. Vì vậy tới đòi Phó kể tiếp câu chuyện.
- Cái mà đồng chí kể, cho tôi nghe lúc này rất bổ ích đổi với tôi.
Phó cười.
- Chủ tịch mắc chứng mất ngủ. Đầu những nàm 1930, trong thời gian ở Giang Tây, tôi đã phải hóa trang thành thương gia để đến Thượng Hải mua thuốc giảm đau veronal và đường gluco. Tôi đã chỉ dẫn cho Chủ tịch dùng thuốc trước khi đi ngủ. Thuốc đã có hiệu quả và Mao rất sung sướng. Đồng chí thấy đấy, tôi vẫn trung thành với Chủ tịch. Bây gìờ, Chủ tịch và tôi đều già rồi, nhưng tôi không còn sung sức như Chủ tịch.
Phó nhìn tôi chăm chú.
- Việc đồng chí được giao nhiệm vụ có nghĩa là đảng đã tin tưởng đồng chí - ông nói - Đó là một nhiệm vụ vinh quang, nhưng cũng đầy khó khăn.
Bữa ăn được dọn ra. Phó nói:
- Hôm qua, Chủ tịch đã mời đồng chí dùng cơm, nay đến lượt tôi.
Đó chỉ là bữa ăn đạm bạc, ngoài các món khác còn có món gà.
- Hàng ngày tôi thường ăn gà.
Ông gọi người mang rượu vang ra và nâng ly.
- Thường thường tôi không uống rượu vang, nhưng hôm nay là ngoại lệ - ông nói tiếp - Là bác sỹ riêng của Mao Chủ tịch, đồng chí cần phải thận trọng. Nếu có điều gì, đồng chí cứ nói với tôi. Tôi sẽ giúp.
Tôi không biết Phó có thể giúp tôi ra sao. Rõ ràng ông chỉ muốn nghe được càng nhiều càng tốt về Mao và về những hoạt động của Mao. Sau đó, Phó ăn một chút thịt gà, rồi đặt đĩa của mình sang bên. Ông nói:
- Mỗi ngày tôi ăn năm bữa, nhưng ăn rất ít. Chủ tịch muốn đồng chí dạy tiếng Anh cho Chủ tịch - Phó nói tiếp - Đấy là một dịp may đề đồng chí kết thân với Chủ tịch. Đồng chí không những phải chăm sóc sức khỏe cho Chủ tịch, mà còn phải làm tất cả những việc mà Chủ tịch đòi hỏi.
Tôi cảm thấy lời khuyên của Phó đã xúc phạm tôi. Tôi đáp lại không đắn đo:
- Một khi tôi làm theo lời khuyên của đồng chí, thì tôi lấy đâu ra thời gian cho chuyên môn của tôi.
Phó nghiêm nghị:
- Đồng chí cần phải nhìn nhận vấn đề như thế này: Chủ tịch uyên bác lắm và đồng chí có thể học hỏi được rất nhiều ở Chủ tịch. Đồng chí là bác sỹ. Nếu đồng chí mở mang kiến thức của mình, đồng chí sẽ thường xuyên có nhiều cơ hội hơn để trao đổi với Chủ tịch. Khi đó đồng chí sẽ hiểu Chủ tịch hơn.
Mao cũng đã khuyên tôi trau dồi, mở mang kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau và tới hiểu rằng Phó có lý. Mao vẫn còn trẻ, khỏe và nhiệm vụ của tôi không chỉ kéo dài vài năm để chữa chạy bệnh tật cho ông, mà còn phải lo cho ông luôn luôn khỏe mạnh. Tôi phải làm quen với cá tính, đặc điểm, thói quen của ông và chiếm được lòng tin của ông. Tôi cảm ơn lời khuyên của Phó. Ông ta nắm tay tôi và siết chặt.
- Tuần nào cũng đến tôi nhé.
Ngoài phố, người đông nghịt, không khí ngày lễ tràn ngập. Bắc Kinh đang sửa soạn đón ngày lễ mồng l tháng Năm, những tòa nhà được trang hoàng bằng những tấm biểu ngữ và những lá cờ đỏ rực. Lòng tôi lâng lâng hạnh phúc. Sau khi trỏ về, giấc mơ của tôi tan nhanh như bong bóng xà phòng. Những người cùng thế hệ với tôi - anh em ruột, họ hàng và nhiều bạn bè tôi đã tìm được chỗ đứng của họ trong xã hội mới, cách mạng này. Họ từng là chiến sỹ lão thành, những người đàn ông của những năm 30 ở Diên An, họ là những người cách mạng tiên phong. Sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, họ đã được thưởng những chức vụ quan trọng. Mặc dù, trong phong trào Ba chống, đôi khi họ đà phê bình nhau để bám giữ chức vụ của họ và bây giờ họ được kính trọng như những người thành đạt trong xã hội. Họ là những người lãnh đạo cao cấp làn việc trong các bệnh viện lớn của đất nước và được ton kính.
Ngược lại, sự nghiệp của tôi lại bế tắc. Mặc dù trước đó ít lâu thủ tướng Chu Ân Lai đã thông báo, bệnh viện của tôi ở Trung Nam Hải sẽ sát nhập với bệnh viện đã xây dành cho Hội đồng nhà nước, và thủ tướng sẽ bổ nhiệm tôi làm giám đốc bệnh việc mới này. Nhưng tất cả sự thay đổi cơ cấu là còn đang dang dở. Tôi không hiết tương lai sẽ ra sao. Nhờ trở thành bác sỹ riêng của Mao, bây giờ tôi có thể rời khỏi bệnh viện và thoát khỏi sự tù túng của nó. Khi trở thành bác sỹ riêng của Mao, tôi được nhiều người kính trọng. Mao là người lãnh đạo cao nhất của Trung quốc và được hàng triệu người tôn sùng. Nhưng ông sống xa lánh với tất cả mọi người, thậm chí với cả những nhà chính trị thân cận nhất của ông. Ông được bảo vệ rất cẩn mật. Với người thường, ông là nhân vật khó hiểu và khó gần. Ngay những cán bộ cao cấp của đảng cũng không thể trực tiếp gặp ông và chỉ trong những cuộc họp chính thức họ mới có thể gặp mặt ông. Là bác sỹ riêng của Mao, tôi thường xuyên túc trực bên ông, ngày nào tôi cũng chỉ cho ông học tiếng Anh, nói chuyện với ông về triết học và chứng kiến những điều xảy ra xung quanh ông.
Cuộc đời tôi đã thay đổi. Bầu trời mở ra, đất ôm lấy tôi. Tôi không còn là tôi nữa. Ngay sau khi trở về vào năm 1949, tôi đã tìm gặp Phó Liêm Chương. Trong lúc chào hỏi tôi, ông không hề đứng dậy và mặc dù vậy tôi vẫn cảm thấy vinh hạnh được một cán bộ cao cấp như vậy đón tiếp. Bây giờ ông lại mở cửa cho tôi gần như với vẻ nhũn nhặn. Tôi sớm nhận ra rằng, bỗng nhiên nhiều chính trị gia cao cấp đối xử với tôi lễ độ, ân cần và họ cứ muốn gợi chuyện tôi. Tôi không còn là một thầy thuốc bình thường nữa, mà đã là bác sỹ riêng của Mao. Lòng tôi dâng lên niềm hân hoan!
Chương 6
Chỉ vài ngày sau khi tôi được tiếp kiến Mao lần đầu vào buổi chiều ngày lễ mồng một tháng Năm, một vệ sĩ của Mao đã triệu tôi đến ngay để gặp chủ tịch vào buổi tối.
Tôi vội đến tư dinh của Mao và nhận ra ông ông ta bị ốm. Nhưng tại sao người ta lại gọi tôi muộn như vậy?
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ bước chân vào cái tư dinh thâm nghiêm, có vẻ đầy bí ẩn của Mao. Đối với tôi cuộc Vạn lý trường chinh của bản thân tôi, từ một bác sĩ bình thường trở thành một nhân viên Trung tâm của cuộc cách mạng, đã chấm dứt. Tôi nghĩ, từ nay trở đi, tôi sẽ gắn chặt với cái vương quốc thâm cung bí sử này. Một người gác đi vượt lên trên trước tôi.
Hình như Mao thường sống một cuộc sống khổ hạnh và ông là một tấm gương về sự tiết kiệm. Sau khi ông qua đời, cái cửa tư dinh của ông được mở ra thì những đồ dùng cũ kỹ, chiếc áo khoác buổi sáng, chiếc áo bành tô ông mặc mới xuất hiện trước công chúng là những bằng chứng cho thấy ông đã cự tuyệt sự xa hoa một cách có ý thức. Mao vốn là một nông dân và có sở thích đơn giản. Mao chỉ mặc quần áo khi chẳng đừng, còn hầu như lúc nào ông cũng khoác một chiếc áo choàng và nằm trên giường, để chân trần. Khi cần, ông mặc nhưng bộ quần áo đã sờn, đi đôi giày buộc dây đã mòn đế. Theo quy định, ông chỉ mặc bộ quần áo kiểu Mao và đi giày buộc dây khi ông xuất hiện trước đám đông. Thông thường, một trong những vệ sĩ của Mao phải sửa lại giày mới cho ông. Những bức ảnh cho thấy ông ăn mặc tươm tất khi đang làm việc trong văn phòng của ông đều là được bố trí sẵn. Hầu hết công việc, ông đều giải quyết trong phòng ngủ hoàc bên thành bề bơi.
Mặc dù vậy, ông sống như một hoàng đế. Tư dinh của ông năm ở chính giữa khu Trung Nam Hải, ngay trong vườn hoa của triều đình trước đây, hướng về phía Nam, giữa hồ Trung và hồ Nam. Tư dinh này được canh gác cẩn mật nhất thế giới. Khách nước ngoài có cảm giác rằng, những vị trí canh phòng có vũ trang không hề bỏ sót một chi tiết nào. Thực ra, tuy lính gác được bố trí khắp nơi ở Trung Nam hải, nhưng họ kín đáo đến nỗi người ta không nhận ra ngay điều đó. Họ chủ yếu tập trung vào Mao và tư dinh của ông. Vệ sĩ của Mao đồng thời cũng là những người phục vụ ông ta. Họ đều mang súng ngắn, nhưng thực ra họ không cần phải mang vũ khí, vì bên ngoài khu vực trọng yếu đó người ta đã thực hiện những biện pháp an ninh nghiêm ngặt đến nỗi tư dinh của ông kín như cái kén. Bên cạnh những vệ sĩ của Mao thường trấn ở bên ngoài cũng như bên trong tư dinh, còn những trạm gác ngoại vi của những nhân viên của Chánh văn phòng an ninh Uông Đông Hưng. Họ cũng đều được vũ trang.
Những người lính có vũ trang của các đơn vị đồn trú trung ương, tuy chính thức dưới quyền của Bộ tổng tham mưu, nhưng thực ra lại thuộc quyền cai quản trực tiếp của Uông Đông Hưng với tư cách là Phó phòng an ninh công cộng, canh gác những khu vực lân cận của Trung Nam Hải. Mao cứ định đi đâu, là ở đó người ta phải lo bảo vệ
Nơi ở của Mao được giữ tuyệt mật. Chỉ có những cán bộ lãnh đạo cao nhất của đảng mới được thông báo nơi ở của ông. Khi ông công khai tới Trung Nam Hải, xe chở ông được đỗ cách biệt với dân chúng, để người ta khỏi nhận ra số xe của ông. Ngoài ra, biển số xe thường xuyên được thay đổi. Ngay sau khi những người cộng sản cướp chính quyền, những biện pháp an ninh một phần được thực hiện theo một phần kiểu của Liên-xô, một phần theo kiểu của thời vua chúa ngày xưa.
Dinh thự của Mao, vốn được xây dựng từ thời Càn Long (1735-1796), vừa là thư viện vừa là nơi ẩn dật của vua. Ngôi nhà này hàng thập kỷ không được giữ gìn cẩn thận và có nguy cơ bị hỏng. Nó vẫn chưa lấy lại được cái vẻ hào nhoáng ngày xưa, vì công việc sửa chữa còn đang dở dang. Khi lần đầu bước vào ngôi nhà đó, tôi có ấn tượng rằng nét hào hoa chính là ở sự giản dị có chủ ý trong nội thất. Nhưng Càn Long vốn là người ưa hiện đại.
Cổng chính dân đến tư dinh của Mao ở phía Nam toà nhà, theo lệ cổ, được sơn màu tươi mát. Tấm bảng gỗ treo trên cổng mang chữ Vườn thượng uyển. Tất cả những chữ viết treo trên những lối vào toà nhà đều là bút tự của Càn Long. Những viên ngói trên mái đều có màu xám, chứ không phải vàng suộm? Như trong Cấm Thành, nhưng những toà nhà lại được xây dựng theo cùng một phong cách như nơi ở của vua. Bên trong cổng chính, ở hai bên lối đi là hai căn phòng nhỏ thường có vệ sĩ. Chỉ có những người có chứng minh thư loại A mới được phép đi vào toà nhà có tường bao bọc xung quanh đó. Đi qua một cái sân rộng là đến ngay Phòng trường sinh mà Mao đã ở trong đó, đã đón tiếp khách nước ngoài và tổ chức lễ tiệc trước khi xây Đại lễ đường nhân dân vào năm 1959. Sau Phòng trường sinh là Phòng giao hòa, nơi thư viện khá phong phú của Mao đã được chuyển vào, nhưng hầu như thường đóng cửa im ỉm. Những phòng riêng của Mao, được kể là có mùi hoa cúc, ở sân thứ hai có mái che ở trên nối với sân thứ nhất. Dưới bóng những cây thông và những cây trắc bá già đẹp đẽ là những chiếè bàn, những chiếc ghế bằng mây. Mùa hè Mao thường ra đây ngồi, dưới trời lộng. Dinh thự của ông gồm hai toà nhà chính và nhiều công trình phụ. Phòng lớn ông vừa dùng làm phòng ngủ, vừa dùng làm phòng làm việc thì ở toà nhà thứ nhất, cách biệt với phòng ngủ của vợ ông bằng một phòng ăn rộng. Trong tòa nhà thứ hai, đi qua một hành lang nối với phòng ngủ của Giang Thanh là phòng khách của bà ta. Bên cạnh đó là phòng của Diệp Tử Long, chánh thư ký riêng, đồng thời cũng là quản trị cao cấp của Mao, chuyên lo đáp ứng những nhu cầu cá nhân cho hai vợ chồng Chủ tịch.
Trong một toà nhà khác ở phía Tây nơi ở của Diệp Tử Long, thông với phòng giao hòa là nhà bếp. Diệp cũng lo việc ăn uống cho Mao. Việc chế biến thực phẩm tuy theo mẫu của Liên-xô, nhưng lại phỏng theo những phương cách cổ điển của thời vua chúa và được Phòng an ninh của Uông Đông Hưng canh chừng. Ngay sau khi Mao từ Moskva trở về vào đầu năm 1950, Phòng an ninh đã được hai chuyên gia Liên-xô truyền cho những phương pháp chế biến và kiểm tra thực phầm dành cho giới lãnh đạo ở Trung Nam Hải. Một xí nghiệp nông nghiệp - công xã Tụ Sơn - chuyên cung cấp rau, thịt, trứng và gà cho Mao và những chính trị gia cao cấp khác. Những đầu bếp của Mao chỉ cần gửi thực đơn đến phòng cung ứng của Phòng an ninh ở phía bắc Trung Nam Hải, gần công viên Bắc Hải. Phòng cung ứng chuyển tiếp thực đơn đến công xã Tụ Sơn. Từ đó, thực phẩm được chuyển về phòng cung ứng ở công viên Bắc Hải, để người ta khám nghiệm thực phẩm đó trong hai phòng thí nghiệm xem chúng tươi đến mức nào, mức độ dinh dưỡng ra sao và có độc tố không. Sau đó, thức ăn được nếm thử trước khi mang cho Mao thưởng thức. Đối với tất cả các quan chức cao cấp, kể cả ở các tỉnh, người ta đều áp dụng phương pháp tốn kém đó, ngốn không biết bao tiền của của dân. Phòng ngủ của Mao nối với một tòa nhà khác mà ông thường dùng làm văn phòng bằng một hành lang. Tuy nhiên, văn phòng này quanh năm thường khóa trái và chỉ mở cửa khi cần để chụp ảnh. Mao chẳng bao giờ dùng đến nó.
Một tòa nhà khác chắn ngang toà nhà mà Mao và Giang Thanh sống trong đó là nơi Lý Mẫn, con gái của Mao với Hạ Tử Trân, Lý Nạp, con gái của ông với Giang Thanh và chị của Giang Thanh là Lý Vân Lục đang cư ngụ. Lý Vân Lục già hơn Giang Thanh vài tuổi, chân bà vẫn bị bó bột. Sau khi mẹ bà qua đời, bà phải nuôi đứa em gái của bà. Về sau bà trở thành tình nhân của một chủ hiệu. Khi giới lãnh đạo chuyển về Trung Nam Hải, Giang Thanh yêu cầu bà cùng với con trai bà về ở với bà ta để giúp đỡ bà ta trong việc dạy dỗ Lý Nạp và Lý Mẫn. Cả Mao và Giang Thanh đều không quan tâm đến những đứa con của họ. Bọn trẻ được đưa đến ký túc xá. Thậm chí, trong những kỳ nghỉ, họ chỉ gặp chúng trong bữa ăn. Trong toà nhà thứ tư là văn phòng của các nhân viên y tế và thư ký của Mao cũng như là nơi ở của đứa cháu trai Viên Tân, lúc đó còn đang học trung học.
Ngoài ra, ở đó còn có một bàn bóng bàn, một phòng dùng để cất giữ những quà tặng, quần áo của Mao, nhiều đồ lặt vặt của Giang Thanh. Trong một phòng khác có để những bức tranh của các họa sĩ nổi tiếng như Tề Bạch Thạch và Từ Bắc Hồng tặng Mao. Tuy nhiên, hầu hết những tặng phầm đều là của nước ngoài. Về sau tôi phát hiện ra một hộp xì gà Cuba lớn, bằng gỗ chạm, rất nghệ thuật, do Fidel Castro tặng và một két rượu Brandy lâu năm do Chủ tịch nước Rumania Ceausescu tặng. Vua Iran tặng Mao một hộp đựng thuốc lá chạm vàng và bạc. Diệp Tử Long vừa là người cai quản bếp núc, vừa là người trông coi căn nhà kho đó.
Tư dinh có một cái sân bên trong lớn nhất, nơi có những khóm tre và cây cối luôn luôn xanh tươi, có một vòi phun nước và một dàn nho. Trong sân còn có một vườn rau, cuối những năm 1960, người ta đã xây một hầm ngầm phòng không trong khu vườn này. Giữa năm toà nhà, một lối vào ở phía sau nối với căn phòng của chính phủ. Trước khi Đại lễ đường được xây dựng, các đại sứ thường đến viếng thăm phòng này. Những phòng ngủ của các vệ sĩ của Mao và các y tá của Giang Thanh cũng ở trong tòa nhà này. Ngoài ra, ở đó còn cất chứa thực phẩm của Mao trong những tủ lạnh sản xuất từ những năm 1940 mang nhãn hiệu General Electric cũng như dự trữ những vật dụng hàng ngày và thuốc men
Những phòng của vệ sĩ của Mao, trong đó lịch trình của Mao cũng được lưu tâm, ở phía sau tòa nhà thứ tư. Bất kỳ ai, kể cả những nhân vật thân cận muốn nói chuyện với Mao, trước hết đều phải trình báo đám vệ sĩ này. Từ đó, ngày 30 tháng 4 năm 1955, tôi cũng được thông báo là Mao ốm.
Tôi được một vệ sĩ đón.
- Có chuyện gì thế - Tôi hỏi.
- Chủ tịch đã uống hai viên thuốc ngủ, nhưng không tài nào chợp mắt được - Người vệ sĩ trả lời.
- Chủ tịch muốn nói chuyện với đồng chí.
Tôi được đưa vào phòng ngủ của Mao. Đó là căn phòng khá rộng, gần rộng bằng phòng chơi bóng. Đồ gỗ trong phòng được chạm khắc vừa theo lối Tây phương, vừa theo lối Trung quốc, hiện đại, tiện lợi và trước bốn khung cửa sổ có treo những tấm rèm nặng. Sau này tôi có cảm giác những tấm rèm đó thường được kéo kín mít, đến nỗi người ta không biết ở bên ngoài là ban ngày hay ban đêm.
Mao nằm trong một chiếc giường gỗ rộng, gấp rưỡi chiếc giường đôi bình thường, do một thợ mộc ở Trung Nam Hải đóng riêng cho ông. Trên giường sách vở chất đống và tôi nhận ra một đầu giường cao hơn đầu kia, nơi Mao đang nằm, khoảng mười xăng-ti-mét. Lý ẩm Kiều nói rằng giường nghiêng là để đảm bảo an toàn cho Mao không bị lăn khỏi giường. Những năm sau này tôi mới biết rằng, chiếc giường nghiêng đó để những cuộc làm tình của Mao có nhiều khoái cảm hơn là để Mao khỏi lăn xuống đất. Cạnh giường là một chiếc bàn lớn, vừa là bàn ăn, vừa là bàn làm việc. Mao thường ăn trong phòng ngủ. Khi đó ông đã sống ly thân với Giang Thanh và hiếm khi họ ăn chung với nhau.
- Tôi chưa ăn bữa tối- Mao nói như để chào tôi - Tôi muốn trao đổi với đồng chí.
Ông khoác một cái áo choàng buổi sáng, để lộ khoảng ngực trần dưới áo. Tay ông cầm một cuốn lịch sử Trung quốc cũ bọc vải gai. Mao dặt cuốn sách sang một bên và tôi ngồi xuống cạnh giường, nhấm nháp tách trà mà người vệ sĩ mang đến.
- Có gì mới không? - Mao hỏi.
Tôi bối rối. Có gì mới thì khi đọc báo Nhân dân tôi đã biết. Tôi nhận thấy rằng Mao cũng quan tâm đến độc giả của tờ báo.
- Chẳng hạn mấy ngày qua đồng chí đã trò chuyện với những ai? - Mao nói thêm khi nhận thấy sự lúng túng của tôi. Đồng chí đã trao đổi về những vấn đề gì?
Có gì mới không?, từ giờ trở đi ngày nào Mao cũng hỏi như vậy và ông cũng nêu câu hỏi đó đối với các cộng sự của ông. Bằng cách đó, Mao đã thu lượm được thông tin và thường xuyên kiểm tra chúng tôi ông mong muốn chúng tôi kể cho ông nghe về những cuộc nói chuyện và công việc của chúng tôi, tạo điều kiện cho chúng tôi phê bình lẫn nhau. Ông thỏa mãn khi khích được một cộng sự này phản ứng với những cộng sự khác. Ông không chịu đựng nổi sự bí mật. Tôi kể cho ông nghe về cuộc nói chuyện của tôi với Phó Liêm Chương. Ông lắng nghe, rồi kể như chính Phó Liêm Chương đã liên hệ với những người cộng sản trong cuộc Vạn lý trường chinh từ tỉnh Giang Tây đến sở chỉ huy mới ỏ tình Thiểm Tây.
- Trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống lại đội quân chống cộng của Quốc dân đảng, năm người của gia đình phó Liêm Chương đã bị hành hình theo lệnh của đảng cộng sản, trong đó có con gái và con dượng của đồng chí ấy. Mặc dù là đảng viên, nhưng họ đã bị buộc tội là đã bí mật liên lạc với quân đội chống cộng của Quốc dân đảng.
Từ Phó Liêm Chương, tôi biết rằng, lúc đó ông đã chăm sóc Mao đang mắc bệnh sốt rét.
Mao nói tiếp
- Dù Phó không còn là đảng viên cộng sản nữa, nhưng tôi đã hỏi đồng chí ấy có muốn tham gia cuộc Vạn lý trường chinh không. Đồng chí ấy đồng ý. Chúng tôi mang ngựa đến cho đồng chí ấy, nhưng đồng chí ấy không thể cưỡi được và đồng chí ấy đã ngã ngựa và suýt chết đuối. Nhưng đồng chí ấy vẫn lên đường đến Thiểm Tây cùng với chúng tôi. Phó Liêm Chương là một con người dẻo dai. Nhưng đồng chí phải nghe tất cả những gì đồng chí ấy đã nói. Đồng chí không nên nói cho đồng chí ấy biết về sức khỏe của tôi. Nếu tôi cảm thấy không dễ chịu, đồng chí hãy nói với tôi về phương pháp điều trị, chứ không phải nói với đồng chí đó. Nếu tôi đồng ý với cách điều trị đó, tôi sẽ không phê bình đồng chí, thậm chí cả khi đồng chí làm sai. Nếu đồng chí không nói với tôi về phương pháp điều trị của đồng chí, tôi sẽ không thừa nhận đồng chí, ngay cả khi phương pháp đó làm cho tôi khỏi bệnh.
Một mặt tôi vui mừng vì không phải khuyên nhủ Phó Liêm Chương, mặt khác tôi cảm thấy băn khoăn, vì Mao muốn tôi cho ông biết phương pháp điều trị. Thực ra tôi có nên trình bày với ông những thay đổi về sinh lý và bệnh lý của cơ thể trong thời kỳ mắc bệnh hay không? Tôi cần phải giải thích và thuyết phục ông dần dần theo cách điều trị của tôi hay không? Tôi có nên giải thích tất cả cho ông bằng ngôn ngữ dễ hiểu nào đó không?
Mao là người bệnh khó tính.
Bữa ăn được dọn ra. Các món ăn lại được nhúng qua dầu. Mao đã 62 tuổi và cân nặng hơn 80 cân, quá béo so với khổ người ông. Sau này, tôi thường góp ý với ông về cách thức ăn uống. Tôi khuyên ông không nên ăn quá nhiều chất béo, nhưng ông không nghe. Thời còn trẻ, ông đã thích ăn thịt lợn mỡ và ông vẫn giữ thói quen này cho đến khi chết. Bây giờ ông mời tôi ăn món dưa đắng với hạt tiêu đỏ.
- Ngon không? - ông hỏi. Mao cười rung cả cổ - Ai cũng nên nếm một ít vị đắng trong đời, nhất là người như đồng chí.
Chi ku hoặc có nghĩa ăn món gì có vị đắng, hoặc có nghĩa là cuộc đời phải chịu nhiều trầm luân, khổ ải và tôi không chắc Mao chỉ nói về món ăn thôi, hay ông chơi chữ ám chỉ rằng, ông coi tôi là đồ hèn, là sản phẩm của cuộc sống thượng lưu. Sau này, tôi khẳng định quan điểm của Mao là mỗi người nên nếm cái vị đắng, như con gái Lý Minhvà Lý Nạp của ông cũng như nhiều nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước. Phần lớn cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng đều xuất thân từ nông dân và họ đã chiến đấu hàng chục năm ròng để làm nên thắng lợi của cách mạng. Họ cũng đã nếm trải đủ mùi đắng cay. ý kiến của Mao cho rằng, quyền chức và cuộc sống xa hoa ở chốn đô hội đã làm cho họ nhụt chí. Theo Mao, nếu không thường xuyên vấp váp, thì các vị lãnh đạo cao cấp đã quên béng nước Trung hoa rồi. Mao chuyển đề tài. Ông nói, nhân loại chịu ơn Trung hoa với ba sự việc quan trọng: y học Trung hoa, cuốn tuyển thuyết Hồng Lâu Mộng của Cao Học Tân và trò chơi Mạt chược.
Mạt chược là một trò chơi giải trí phổ biến, gồm 136 quân giống như quân của trò chơi domino, thường dành cho bốn người chơi. Nhiều người Trung hoa đã nghiện nó. Nhưng gia đình tôi không thích trò chơi may rủi này. Từ hồi nhỏ, tôi coi Mạt chược và thuốc phiện là hai thứ ung nhọt gặm nhấm xã hội Trung hoa từ trong ra ngoài. Vì vậy tôi không học chơi cái trò đó. Mao trách tôi
- Bây giờ, đồng chí không nén cười trò chơi Mạt chược. Mỗi người chơi không những phải chú ý đến quân chơi của mình, mà còn phải quan tâm đến tất cả, đến những quân khác trong tổng số 136 quân, để tính toán sao cho có thể thắng được. Nếu đồng chí đã làm chủ được trò chơi, thì đồng chí sẽ hiểu được mối quan hệ giữa quy tắc tương đối và quy tắc tuyệt đối.
Trong hành động, Mạt chược là một trò chơi cô tính chiến lược. Mao không chỉ là một nhà chiến lược quan trọng của Trung quốc, mà còn là một tay chơi Mạt chược cừ khôi. Tôi nghĩ, tài thao lược của ông bắt nguồn từ những bài học trong cuốn sách Tôn Tử binh pháp rất có giá trị trong thời cổ, từ lịch sử của nước Trung hoa và từ cuốn tiểu thuyết lịch sử Tam quốc diễn nghĩa. Nhưng Mao không chỉ chơi Mạt chược một cách đơn thuần, mà còn để trau dồi trí tuệ của mình. Như sau này tôi kể lại lệ chơi của ông là bạn chơi phải là những cô gái trẻ đẹp. Khi chơi, tay ông vừa cầm quân, ông vừa buông lời ong bớm ve vãn ác em. Dưới gầm bàn, ông dùng chân cọ cọ vào chân hoặc vào đùi các cô gái.
Mao nói tiếp, cuốn Hồng Lâu Mộng đã mô tả cuộc sống xa hoa và đồi bại của xã hội phong kiến. Cuốn tiểu thuyết đã tóm tắt lịch sử của Trung hoa trong hai nghìn năm qua. Thật ra, tôi không đọc cuốn truyện đó, nhưng tôi thích nó. Tôi mới xem lướt qua cuốn tiểu thuyết này. Nhưng nó không thề làm cho tôi đọc từ đầu cho đến cuối được, mặc dù đó là cuốn tiểu thuyết lớn của Trung hoa. Lối mô tả cầu kỳ, rắc rối và cách xây dựng những nhân vật khó tin đến nỗi khi cầm cuốn truyện đọc được vài ba trang, tôi đã thấy chán và gập nó lại. Cuốn tiểu thuyết đã kể về sự suy đồi của gia đình phong lưu Gia Bảo Ngọc và nạn tham nhũng, hối lộ trong xã hội phong kiến đã ăn sâu vào gia đình này. Đối với Mao, cuốn tiểu thuyết này là một tài liệu nghiên cứu về nạn tham nhũng, hối lộ và sự suy đồi của chủ nghĩa phọng kiến Trung hoa. Nhưng đối với nhiều người Trung hoa, nó lại là một tấn bi kịch tình yêu của Gia Bảo Ngọc. Gia đình của Gia đã phản đối tình yêu của anh với một cô gái trẻ và cấm anh không được kết hôn với cô. Rút cuộc, Gia Bảo Ngọc đã bỏ nhà, quay lưng lại với xã hội, vì anh đã tìm nơi cửa Phật. Nhưng phản kháng ban đầu của anh là lao vào ăn chơi trác táng. Sau này khi quá quen Mao, tôi quan niệm, Mao gần như là hiện thân của nhân vật Gia Bảo Ngọc. Chính tư dinh của ông, mảnh vườn của lòng từ bi bác ái lại là phiên bản khá chính xác của biệt thự gia đình Gia Bảo Ngọc. Mao cũng là một tên cướp. Ông thích lôi kéo, quyến rũ những người đàn bà trẻ và ông có vô số phụ nữ quanh ông. Tuy nhiên, ông khác với nhân vật Gia Bảo Ngọc là ông không quy y, nương mình nơi cửa Phật. Mao đã nhắc tôi ngay khi chúng tôi mới quan hệ với nhau: Đồng chí đừng suy tôn tôi, tôi không phải là một ông thánh mà cũng chẳng là nhà sư. Tôi không hề thích thế.
Mao quy cho sự gia tăng dân số ở Trung quốc là do tác dụng của nền y học Trung hoa. Mặc dù trong suốt bốn nghìn năm qua, chiến tranh và thiên tai thường xuyên xảy ra ở Trung quốc, nhưng dân số vẫn táng tới năm trăm triệu người. Hay là nền y học Tây phương trở nên lạc hậu? Nền y học Tây phương đã du nhập vào Trung quốc mới khoảng một trăm năm nay. Nhưng trước đó hàng nghìn năm con người đã quen dùng dược liệu của Trung quốc vậy thì tại sao vẫn có người phủ nhận nền y học đó?
Mao đã hỏi tôi biết những gì về y học Trung hoa. Mặc dù, ông cha tôi là những người từng làm nghề thuốc ở Trung hoa, nhưng tôi đã được đào tạo nghe y theo khôn mẫu của phương Tây, thành ra tôi không mấy quan tâm đến y học cổ truyền. Tuy nhiên, tôi cũng không nghĩ, Trung hoa đông dân là do nền y học của nó.
Tôi trả lời ông, tô đã đọc một vài cuốn sách cổ về y học Trung hoa, nhưng không thé hiểu được chúng, nhất là đoạn nói đén thuyết ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Tôi không lĩnh hội được lý thuyết này. Mao cười. Ông nói:
- Đúng ra thuyết âm dương và thuyết ngũ hành rất rối rắm. Đồng chí sẽ phải dùng những phương pháp cổ truyền của Trung hoa để chẩn đoán tình trạng sinh lý và bệnh lý của người bệnh. Quan điểm của tôi là nên kết hợp y học Trung hoa với Tây y. Những bác sỹ phương Tây giàu kinh nghiệm cân phải tham khảo y học Trung hoa và những bác sỹ Trung hoa cũng cần phải nghiên cứu sinh lý học, bệnh lý học, khoa học giải phẫu, dịch tế học và những lĩnh vực tương tự. Đồng chí nên tìm cách giải thích những nguyên tắc y học Trung hoa dưới ánh sáng của khoa học hiện đại. Những cuốn sách y cổ truyền của Trung quốc cần được chuyển sang ngôn ngữ hiện đại, được chú giải và cắt nghĩa cho sáng tạo. Như vậy, bằng sự liên hệ giữa y học Trung hoa và y học phương Tây, có thể tạo ra một nền y học mới. Đó là một tiến bộ quan trọng.
Mao dừng một chút rồi nói:
- Mặc dù tôi ủng hộ, khuyến khích nền y học Trung hoa, nhưng bản thân tôi lại không tin tưởng nên y học đó lắm. Tôi không dùng thuốc men của Trung quốc. Đồng chí không cảm thấy kỳ quặc chứ?
Tôi cần phải nói thật với ông, vì ông đã công khai ủng hộ nền y học cổ truyền. Kết thúc cuộc trao đổi đêm hôm đó của chúng tôi, Mao nói:
- Mai là ngày lễ mồng l tháng Năm. Đồng chí cùng đi với tôi đến quảng trường Thiên An Môn và xem buổi lễ tiến hành ra sao. Đó là một sự kiện quan trọng đối với đồng chí.
Ông ta hỏi về dứa con trai cả của tôi.
Tôi đáp:
- Cháu đã 5 tuổi.
Mao đề nghị:
- Đồng chí đưa cháu đi nhé.
Tôi đáp:
- Tôi nghĩ không nên. Tất cả các chính trị gia cao cấp đều ở đấy, chẳng ai đưa con cải theo cả. Nếu cháu mải xem quá, cháu sẽ lạc tôi mất.
Mao cười.
- Thôi được. Đồng chí không cần mang cháu theo. Băy giờ đồng chí về nhà ngủ một chút đi. Khi tôi về thì đã ba rưỡi sáng. Thường thường tôi đi ngủ lúc mười giờ tối. Lý Liên đang đợi tôi. Tôi kể cho bà ấy nghe về cuộc trao đổi của tôi và Mao.
- Ông ta khỏe và thực sự ông không cần bác sĩ chăm sóc. Tôi có cảm tưởng, ông coi tôi như là người bạn tâm sự hơn là bác sỹ.
Lý Liên khuyên tôi hãy kiên nhẫn chiều theo ý muốn của Chủ tịch.
- Anh vừa mới bắt đầu làm việc cho Chủ tịch, anh đã gây được ấn tượng tối đối với ông. Bây giờ anh không được hấp tấp.
Đó mới chỉ buổi đầu tiên trong vô số buổi nói chuyện với Mao vào ban đêm. Ông sống rất cô độc. Hiếm khi ông gặp Giang Thanh, ông không có bạn. Tinh thần Diên An, tình đồng chí của những người sống sót sau cuộc Vạn lý trường chinh chỉ là một huyền thoại. Thỉnh thoảng Lưu Thiếu Kỳ hoặc Chu Ân Lai gặp Mao vì lý do chính trị, nhưng sự tiếp xúc cũng chỉ giới hạn trong phạm vi những điều cần bàn đến trong những tài liệu mà họ trao đổi thường xuyên với nhau, hoặc trong những cuộc họp của Ban thường vụ Bộ chính trị. Mao triệu tập những cuộc họp này rất thất hường. Lúc thì ở trong phòng Trường sinh, lúc thì ở ngay những nơi mà ông vừa tới. Ban ngày ông giao du với đám vệ sỹ của ông. Họ là những trai làng thất học. Mao ít khi đàm đạo với họ, thường chỉ tán gẫu với họ về các cô người yêu của họ, thậm chí ông còn làm cố vấn tình yêu cho họ và thỉnh thoảng ông giúp họ viết thư tình. Nhưng về đề tài ông thường quan tâm là lịch sử Trung hoa và về triết học, thì ông không thể trao đổi với họ được.
Vì thế, Mao coi tôi là người trò chuyện của ông. Ông đề nghị tôi viết những bài về lịch sử và triết học để ông đọc và mỗi tuần ông trao đổi với tôi hàng giờ liền. Khi khó ngủ, có lúc ông đọc sách hay triệu tập một cuộc họp, bất kể vào lúc nào. Nhưng thường thường, ông cho gọi một người nào đó đến để trò chuyện với ông và người đó thường là tôi. Chẳng có gì lạ khi ba giờ sáng lại bị Mao lôi ra khỏi giường. Trước những ngày quốc khánh và mồng l tháng Năm, Mao mất ngủ nặng nếu ông phâi tham gia duyệt binh và chào mừng quần chúng ở quảng trường Thiên An Môn. Mặc dù Lý Liên đã ra sức động viên tôi phải nhẫn nại, nhưng bà đã thấy cô ta lầm khi khi nhận ra rằng tôi chỉ vờ chiều Chủ tịch. Mao là một kẻ độc tài mà chúng tôi phải chiều theo mọi sở thích của ông. Mọi cố gắng thực hiện ý nguyện riêng tư đều không thành.
Chương 7
Sau đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau là ngày lễ 1-5, lúc 10 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao. Tôi mang túi thuốc theo người. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó và sau đó Mao Chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ giống bộ quần áo mà Tôn Trung Sơn mặc, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc và nồng nhiệt chào chúng tôi.
Sau đó một lát bộ trưởng công an La Thụy Khanh đến và chúc mừng Mao. Theo lệnh Mao chúng tôi ngồi vào xe và tiến về quảng trường Thiên An Môn.
Sau khi trở về Trung quốc vào năm 1949 tôi không đi dự ngày lễ 1-5 hay ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung hoa 1-10, được tiến hành trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi coi những ngày đó là niềm sung sướng của tôi. Tôi thích đám đông dân chúng hân hoan, duyệt binh, nhạc, và biển cờ. Tôi nhìn một cách ngưỡng mộ lên lễ đài có các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước. Họ cũng thích diễu hành và vẫy chào nhân dân. Ngày lễ này đánh thức trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay tôi cũng sẽ đứng trên lễ đài trên quảng trường cùng với các nhà lãnh đạo đất nước và cùng với họ quan sát những gì xảy ra bên dưới.
Tôi ngồi xe đầu tiên cạnh La Thụy Khanh. Khi chúng tôi đi đến cổng Thiên Bình thì La Thụy Khanh ra khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, và kính cẩn mở cửa xe, nâng tay lãnh tụ. Mao liếc La, tự mình ra khỏi xe và cáu kỉnh nói: Hãy nhanh lên, không phải giúp tôi, mà là giúp phó chủ tịch Tống Khánh Linh. Ngày 1-5 là ngày lễ chính thức, và chính phủ cộng sản luôn giữ giữ chặt khẩu hiệu mặt trận thống nhất liên kết những người cộng sản và phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người nổi tiếng về lý tưởng thống nhất là người vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. La Thụy Khanh chạy theo xe bà, nhưng bà đã ra khỏi xe.
Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, nhưng bà cũng còn đẹp và duyên dáng, cũng như trong ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung hoa, khi tôi thấy bà lần đầu tiên. bà toát lên vẻ đôn hậu và dịu dàng. Đi qua mỗi người bà bắt tay thân mật.
Những người khác được gọi là nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược với bà. Bọn họ tất cả tỏ vẻ cao ngạo và kiểu cách. Họ chào một cách uể oải và đi lại chậm chạp. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh và lịch sự đi cùng bà vào gian tiếp khách, cạnh cổng Thiên Bình và giúp Tống Khánh Linh lên các bậc thềm đá.
Khi chúng tôi lên đến trên, thì một tràng vỗ tay vang lên chào khách. Tôi không ngờ lại thấy được một gian lớn đến thế. Trong đó có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt. Khá nhiều thức ăn, đồ uống, hoa qua. Không ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo cao cấp có thể ngồi ở đây 5-6 giờ liền để xem đoàn người diễu hành.
Mao chào khách, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ và cờ đỏ rực rỡ, và được ngăn với phòng bằng một tấm rèm lớn. Tôi theo Mao lên lễ đài. Với sự ngưỡng mộ, tôi quan sát những cử chỉ chào của ông với nhân dân. Chậm rãi và nghiêm trang, Mao đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết rằng sự tự hào và vui mừng tràn trề lòng ông. Tôi cũng hoàn toàn cảm thấy thế. Quảng trường giống như một biển người rập rờn nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được. Trong đó áo trăng của sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân vàtrí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, thì đám đông này chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, và hiện ra một biểu ngữ xếp bằng hàng nghìn con người, ý nghĩa ủng hộ đảng cộng sản, nước Trung hoa mới và lãnh tụ Mao.
Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Quân nhạc cử quốc ca cộng hoà nhân dân Trung hoa. Pháo hoa bắn lên. Quân nhạc tiếp tục chơi và Đông phương hồng, sau đó Quốc tế ca và, cuối cùng, là diễu hành Giải phóng quân Trung quốc. Buổi lễ bắt đầu.
Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho trinh sát, hải quân và không quân diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc chơi những khúc quân hành. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao.
Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không dời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát.
Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người.
Mao nói:
Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thấy bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, và sẽ yêu đất nước mình hơn.
Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về đất nước vĩ đại của mình và sẵn sàng cống hiến cho nó.
Cuộc tuần hành kết thúc khoảng 4 giờ rưỡi, chúng tôi về Trung Nam Hải. Mao nghỉ ở gian khánh tiết, La Thụy Khanh gặp tôi và nhắc là buổi chiều chúng tôi lại tập hợp ở quảng trường Thiên An Môn để tham dự chiêu đãi.
La Thụy Khanh nói với tôi:
- Đồng chí rất mệt phải không, nhưng tôi sẽ chờ tất cả các đồng chí tại đây lúc 6 rưỡi. Đừng chậm đấy.
Tôi quay về nhà mình ở Trung Nam Hải. Vợ và con trong lúc chờ tôi, chơi cờ tướng. Hôm ấy tôi đã hứa với gia đình đi công viên, sau đó rẽ vào thăm mẹ nhưng tất cả kế hoạch bị hỏng.
Tôi sẽ nói với mẹ tôi gì đây? - Lý Liên than thở.
Vợ con tôi đến chỗ mẹ tôi, tôi nói rằng ngay lúc xong việc, tôi sẽ đến đó luôn. Nhưng nếu tôi không có mặt trước lúc 9 giờ tối, thì họ cứ về nhà. Sau đó tôi quay về phòng làm việc ở tư dinh Mao và tranh thủ ăn bát mỳ. Những người khác cũng đã tới. Các tay thư ký và bảo vệ than phiền là họ thâm chí chưa kịp ăn tối nữa.
Uông Đông Hưng an ủi họ.
- Đừng lo, ở Thiên An Môn đồ ăn thừa cho tất cả mọi người. Chỉ đừng có tụ tập nhau thành cụm quanh bàn thôi, để người ta khỏi xì xào là nhân viên của Mao có nhiệm vụ đặc biệt lại đi phá hỏng cuộc vui dành cho những người lãnh đạo.
Đến 7 giờ, nhưng Mao vẫn chưa thấy đâu. Cuối cùng Uông Đông Hưng giải thích: Mao đang sửa râu. Đến 7 rưỡi, La Thụy Khanh nhắc Uông Đông Hưng nói cho Mao là mọi người đã đến đày đủ cả rồi. Uông Đông Hưng biến vào phòng Mao. Tôi theo gót ông tới đó.
Mao ngồi ở chiếc bàn nhà ăn. Quanh người quấn khăn tắm trắng, tay cầm những tờ giấy mỏng được ghim lại. Mao mải mê đọc chú đọc chẳng hề để ý đến Vương, người phó cạo cao lớn đang xoay người theo Mao để cắt tóc. Người Vương đầm đìa mồ hôi.
Vương - cắt tóc cho Mao từ cuối những năm 30. Tên ông Vương Hoá, ông ngoài 60 tuổi. Khi đảng năm 1942 tiến hành chiến dịch thanh lọc hàng ngũ, Vương bị buộc tội thiếu lòng tin vào đảng. Vụ việc này được đem ra mổ xẻ và người ta tuyên bố là người thợ cạo Vương Hoá nằm trong số những người mưu giết Mao bằng dao cạo.
Sau này Mao cũng kể cho tôi nghe điều này. Mao nghi ngờ về tội trạng của Vương. Chả lẽ ông phó cạo này cắt tóc và cạo râu cho Mao từng ấy năm thậm chí chẳng có lần nào cắt cổ ông ta ư. Nếu như ông phó cạo được trao nhiệm vụ giết Mao, thì ông có thể làm điều này sớm hơn. Mao gọi Vương đến. Ông này quỳ xuống, nước mắt đầm đìa nhận tội rằng định giết lãnh tụ. Mao hỏi: Vì sao anh vẫn chưa giết tôi?. Vương trả lời rằng còn chờ quân Quốc dân đảng kéo tới. Mao nói Nhưng nếu họ tới được thì họ giết tôi và chẳng cần gì anh nữa đâu
Mao bắt Vương phải kể hết sự thật và ông phó cạo nói rằng trong khi hỏi cung người cán bộ điều tra không cho ông ta ngủ mấy hôm liền và bắt ông nhận tội chống Mao. Thế là vụ việc của ông phó cạo bất hạnh được khép lại.
Mao nói:
- Khi tôi tuyên bố về sự thanh lọc, tôi đã nhấn mạnh là cần làm rõ bản chất chứ không phải làm chứng cớ giả để gán cho người vô tội.
Vương, người thợ cạo to lớn trung thành với Mao như một con chó. Rất thú vị là phần đông những người phục vụ Mao tin cẩn và trung thành thời ấy đã được lãnh tụ cứu thoát khỏi sự trừng phạt trông thấy nhỡn tiền, đó là cái chết.
La Thụy Khanh đi đến và nói Uông Đông Hưng giục Mao. Tuy nhiên Uông Đông Hưng nói rằng sự hấp tấp có thể làm Chủ tịch bị thương, và từ chối làm điều này, nói với La đừng xía vô việc này.
Cuối cùng việc cắt tóc hoàn thành, và ông phó cạo mệt lử cạo râu cho Mao. Công việc này té ra lại phức tạp hơn. Mao vẫn mải đọc, và cằm của ông hạ thấp xuống Vương buộc phải quỳ xuống để đưa dao cạo vào đúng chỗ, thời gian cứ trôi dần.
Cuối cùng mọi việc kết thúc và bầu đoàn kéo tới quảng trường. Tôi ngồi cùng xe với Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh. Họ thảo luận vấn đề cắt tóc và cạo râu của Chủ tịch. La Thụy Khanh đề nghị mang một chiếc ghế cắt tóc từ khách sạn Bắc Kinh đặt vào phòng riếng cho Mao. Uông Đông Hưng nói là ông đã gợi ý Mao điều này, nhưng Mao từ chối. Uông nói thêm:Chủ tịch làm mọi thứ theo ý mình
La Thụy Khanh tiếp tục:
- Nhưng có lẽ tay phó cạo Vương già quá rồi và tay thì run run, cái gì xảy ra nếu ông ta làm xước mặt Mao. Hơi ghê đấy!
Uông nói:
- Nhưng tìm được người thay Vương cũng chẳng đơn giản đâu. Mao không muốn điều đó và cũng không nghe đâu. Ông ta sợ đưa tới một người mới với con dao cạo sắc trong tay.
La Thụy Khanh im. Ông dĩ nhiên trung thành với Mao, nhưng ông ít khi hiểu được tính đa nghi của Chủ tịch. Tất nhiên Uông Đông Hưng rõ hơn.
Nghe họ, tôi đột nhiên sợ rằng một lúc nào đó khi tôi đến chữa cho Mao đem theo bơm tiêm và kim tiêm. Và Mao chỉ cho phép tôi làm điều này chỉ khi tin tôi hoàn toàn. Nếu tôi không xứng đáng với lòng tin cậy ngay từ bây giờ, thì tôi không thể trong là bác sĩ riêng của lãnh tụ trong tương lai. Tôi cần phải gần Mao, kể hết ý nghĩ của tôi và cố gắng làm bạn với ông ta.
Ngay lúc Mao lên ban công, pháo hoa bắt đầu bắn lên. Bầu trời được sáng lên bởi hàng nghìn ngọn lửa nhiều màu sắc chiếu sáng thành cổ. Phía dưới là quảng trường Thiên An Môn rộng lớn, hàng trăm nghìn người vui sướng, hạnh phúc và hớn hở quây quần nhảy múa.
Trong khi xem pháo hoa, Chu Ân Lai đến chỗ Mao đề nghị lãnh tụ chụp ảnh kỷ niệm với khách nước ngoài được mời đến dự lễ. Trong số khách có cả Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt nam. Ông Hồ năm ấy 65 tuổi, ông gày gò nhưng đày sinh lực. Ông nổi bật ở bộ râu màu xám, thưa và dài. Ông ăn vận như một nông dân, chân đi dép rọ bằng da. Hồ Chí Minh từng sống ở Trung quốc nhiều năm và rất thích các đồ Trung quốc như thức ăn, quần áo, nhà cửa, phương tiện đi lại. Ông biết tiếng Trung quốc do trong những năm dài sống ở Trung hoa, chủ yếu ở phương nam, tỉnh Vân Nam và Quảng Đông giáp giới Việt nam. Người ta giới thiệu tôi với ông, và tôi rất thích ông. Mao tạo ra sự ngưỡng mộ và kính trọng, còn Hồ Chí Minh thì tính tình chan hoà hơn và không gây ra sự sùng kính một cách kinh hãi như ở Mao.
Pháo hoa kết thúc lúc 10 giờ đêm. Tôi không biết phải chi hết bao nhiêu tiền cho vui chơi và phục vụ khách khứa, nhưng người ta kể cho tôi rằng chỉ riêng tiền pháo hoa cũng hết nửa triệu nhân dân tệ. Năm ấy tiền lương trung bình khoảng 30 nhân dân tệ. Về sau tôi xem tất cả những buổi lễ tương tự là chi phí điên rồ và tộ lỗi. Đặc biệt là tổ chức những ngày lễ này trong những năm khó khăn khi ở Trung quốc hàng triệu người chết đói. Từ đó trở đi ngày lễ với tôi coi như không có trên đời. Càng ngày việc tổ chức lễ hội làm Mao cáu. Ngay quốc khách cộng hoà nhân dân Trung hoa và 1-5 làm kiệt sức lãnh tụ. Ông chỉ đến lễ đài đúng giờ. Ông rất lo lắng vào đêm hôm trước ngày lễ và thường mất ngủ, đôi khi ông không ngủ được đến sáng. Nhưng quần chúng nhân dân hăng hái làm ông sôi nổi lên, nhưng không ai trong ngày ấy nhận ra sự mệt mỏi và cáu bẳn của ông. Thật ra đôi khi trong ngày lễ ông bị cảm sốt và viêm phế quản. Về sau bệnh viêm phế quản dẫn đến khó thở.
Mao không thể mặc quần áo được. Nhưng để tham dự lễ, người ta phải mặc quần áo cho ông. Ông không thích những ngày lễ trịnh trọng, đến nỗi sau này thậm chí từ chối khỏi chức vụ Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung hoa. Ông cũng bỏ cả các buổi tiếp mệt nhọc và các cuộc gặp chính thức. Đầu những năm 60 Mao chỉ tham dự ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung, nhưng chỉ 5 năm một lần. Ông giải thích điều này bề ngoài như là do vấn đề tiền bạc. Dù vậy trong những năm cuối Cách mạng văn hoá, lúc cao trào đấu tranh giành quyền lực, Mao xuất hiện trên quảng trường Thiên An Môn tám lần cả thảy. Ông chào mừng Hồng vệ binh từ khắp các ngõ ngách Trung quốc, và thổi vào họ những luồng kích thích mới. Đương nhiên, phí tổn cho cuộc biểu dương thích thú này lấy vượt quá tiền chi cho buổi lễ chính thức. Nhưng để giải quyết vấn đề quyền lực, Mao không ngần ngại chi phí này.
Sau âm mưu bất thành, Lâm Bưu bay sang Liên-xô tháng 9 năm 1971, Mao cũng thôi tham dự các buổi lễ chính thức.
Tuy nhiên ngày 1-5-1955 Mao vẫn còn đang hưng thịnh, còn tôi hoan hỉ bên cạnh ông và sự xót ruột do chi phí tiệc tùng dường như tan biến. Tôi đợi đến cuối buổi lễ để quay về xum họp gia đình. Nhưng điều này xảy ra. Tôi ngạc nhiên biết rằng Mao rất thích khiêu vũ một cách điên cuồng. Sau cách mạng các buổi khiêu vũ được coi là định kiến tư sản, các vũ trường bị đóng cửa. Tuy nhiên đằng sau bức tờng Trung Nam Hải, Mao hàng tuần đều bố trí khiêu vũ. Thường nhảy ở chỗ rộng rãi gian Liên Xuân, phía bắc tư dinh Mao. Ngay tối hôm ấy, sau khi pháo hoa, Mao quyết định khiêu vũ và tôi, bác sĩ riêng phải ở lại với ông.
Tôi cùng Mao vào phòng to. Tức khắc vây quanh Mao là những cô gái trẻ của nhóm khiêu vũ của bộ phận bảo vệ Mao. Họ tán tỉnh ông và mời ông nhảy. Ban kèn hơi chơi những bài nhạc nhảy điệu foxtrot, van-xơ và tăng gô, còn Mao làn lượt nhảy với hết cô này đến cô khác. Ông nhảy không đẹp, nhưng ăn nhịp tuyệt đẹp và nhảy khá tao nhã. Sau mỗi lần nhảy, ông kịp đổi bạn nhảy chỉ bằng vài câu. Những người còn lại cũng theo gương Mao vào nhảy. Giang Thanh chiều ấy không có mặt. Đêm hôm trước bà bay đi Hàng Châu. Tuy nhiên chiều ấy có mặt Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ. Trong gian chỉ có một vài chiếc bàn. Các nhà lãnh đạo ngồi ở đó. Hàng trăm người phục vụ và ca sĩ của ban nhạc ngồi ở ghế đặt quanh tường phòng nhảy. Đàn ông ít hơn phụ nữ, vì thế một cô gái xinh đẹp mời tôi nhảy.
Dần dần người ta thay các điệu nhạc phương tây bằng nhạc kinh kịch Trung quốc. Lúc ấy dưới con mắt người nước ngoài thì các màn nhảy này có vẻ gượng gạo, thô thiển, thậm chí còn không đứng đắn. Bản thân nhạc Trung quốc người phương tây không thể hiểu được, chỉ toàn những tiếng kèn nghe chói tai, người ta lại giải thích là do chưa hoàn thiện, khác hẳn với nhạc phương đông mà người phương tây quen nghe. Tôi ngạc nhiên là buổi chiều đó lại vang lên bản nhạc, trong đó kể về tình yêu của một cô gái điếm với chàng sinh viên trẻ. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa là tại thời điểm này Mao ra khỏi phòng và mô tả vở nhạc kịch bằng kiểu nhảy phương tây.
Khuya rồi, tôi cho là là nhiệm vụ của tôi đã xong. Tôi gặp Lý ẩm Kiều nói là tôi phải về nhà, nhưng anh ta nói:
- Đồng chí cần ở lại. Chủ tịch, tất nhiên, đang vui nhảy, nhưng ông vẫn quan sát tất cả chúng ta đấy. Nếu bây giờ đồng chí đi khỏi phòng, thì Mao đánh giá điều này như là thiếu tôn trọng ông. Phía đồng chí, là sự bỏ đi, phía tôi là sự cho phép đồng chí đi.
Tôi ngạc nhiên:
- Nhưng thế này là thế nào? Chúng ta hình như không làm điều gì đáng trách cả.
Lý trả lời:
- Thế đấy, đồng chí chưa hiểu rõ Chủ tịch. Hãy nghe tôi và đồng chí sẽ hiểu tất cả.
Lý hoàn toàn đúng. Thậm chí khi Mao nghỉ ngơi, ông ta cũng biết người của ông ở nơi nào và bắt tất cả mọi người phải ở bên cạnh ông. Một năm sau, ở Hàng Châu, tôi mệt đến mức quyết định không đến khiêu vũ. Tôi quay về vào buồng mình và quyết định nghỉ một lát, nhưng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và thấy tay vệ sĩ của Mao đứng ngay ngưỡng cửa:
- Có thật là người ta không báo cho đồng chí về buổi dạ hội không?
Anh ta nói thêm:
- Đồng chí nên đi đi!
Sau này vào năm 1958 ở Hồ Nam, tôi quyết định phớt lờ cuộc vui ban đêm do mưa to. Tuy nhiên sau một giờ một tay phụ trách công an tỉnh Hồ Nam xuất hiện trước mặt tôi và nói là Mao trao cho anh ta đón tôi đến cuộc vui đó. Sau đấy, tôi hiểu là mình phải luôn có mặt bên Mao.
Phải cần đến 7 năm tôi mới hiểu rằng Mao thu xếp các buổi khiêu vũ ban tối để làm gì. Các nhóm khiêu vũ thuộc bộ phận bảo vệ do Uông Đông Hưng xây dựng. Té ra là đội ngũ các cô gái nhẩy ấy không chỉ tiêu khiển các tay vệ sĩ và lính tráng, mà còn cho cả lãnh tụ. Trong nhóm có nhiều cô gái nhảy duyên dáng, thành thạo được trải qua thử thách lòng trung thành về mặt chính trị.
Năm 1961, người ta mang một trong những chiếc giường của lãnh tụ sang buồng bên cạnh phòng nhảy. Trong thời gian khiêu vũ, Mao không ít lần vào đó thư dãn cùng với các bạn nhảy xinh đẹp của mình.
Phó Chủ tịch ủy ban quân sự Bành Đức Hoài hai lần phê bình Mao về chuyện phiêu lưu tình ái với gái nhảy trong các cuộc họp Bộ chính trị. Bành là một ủy viên Bộ chính trị trung thực và thẳng thắn, và là người duy nhất thường phê bình Mao. Bành cũng tuyên bố rằng Mao sống như vua và chứa chấp khoảng ba nghìn tì thiếp. Ngoài ra, Bành buộc tội La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng đã thỏa mãn mọi ý thích của lãnh tụ. Kết quả nhóm gái nhảy bị giải tán, nhưng Mao chẳng thay đổi gì, tiếp tục kéo các cô gái trẻ vào giường mình. Ông tìm những cô gái này chủ yếu ở các đoàn văn công thuộc Giải phóng quân Trung quốc, trong quân khu Bắc Kinh, trong các đơn vị không quân, đường sắt, pháo binh, cuối cùng là ở các tỉnh Triết Giang, Giang Tây và Hà Bắc. Nhưng lãnh tụ cũng chẳng từ cả các nhân viên bộ máy Ban chấp hành trung ương. Nhưng năm 1955 tôi vẫn còn chưa biết điều đó.
Tôi rất muốn về nhà, nhưng phải chờ đến cuối buổi. Chỉ mãi đến hai giờ sáng cuối cùng tôi mới được về nhà với vợ con.
Lý Liên đưa tôi bát cháo và rất đau khổ nói rằng ngày lễ của gia đình vắng tôi. Mẹ tôi chuẩn bị bữa cỗ ngon lành. Cả nhà chờ tôi đến 10 giờ tối và không ngồi vào bàn. Thằng con trai nhỏ của tôi mệt đến nỗi phải ngủ ở nhà bà và Lý Liên cũng phải ở lại chăm nó đến sáng sớm.
Sau vài tuần kể từ buổi gặp Mao hôm đầu, cuộc sống của tôi đã ra khỏi tầm tay. Chế độ sinh hoạt hàng ngày thay đổi hẳn, và Lý Liên nhận xét là tôi đã theo thói quen của Mao. Từ lúc nhận việc bác sĩ riêng của lãnh tu, cuộc ssóng của tôi và gia đình tôi trong suốt hai chục năm liền luôn luôn trong tình trạng bất ổn và lạ lùng. Tôi rất yêu Lý Liên, nhưng hiếm khi có mặt ở nhà. Các buổi giỗ chạp ở nhà mẹ tôi thường vắng mặt tôi. Trong những năm làm việc với Mao tôi chỉ có hai tuần nghỉ phép.
Đoi khi tôi phải thức với Mao suốt đêm. Tôi trở lại nhà khi trời sáng. Lý Liên luôn luôn chờ tôi và rất lo.
Mao thường xuyên du lịch, và tôi phải tháp tùng ông. Tôi có thể vắng nhà vài tháng, có một lần gia đình không nhìn thấy tôi cả năm. Lý Liên luôn trong tình trạng lo lắng cho tôi. Cô ta bị mất ngủ. Thằng con thứ hai của tôi, Erward sinh năm 1956, và ngày sinh nó tôi cũng không có mặt ở nhà.
Lý Liên cho rằng thật lạ lùng người ta buộc tôi phải sống trong một môi trường như thế. Vợ tôi không vào đảng. Người ta đánh giá vợ tôi là không tin cậy về chính trị do thành phần xuất thân và vài năm làm sở Mỹ và Anh. Chỉ có chức vụ của tôi mới bảo vệ được cô ta những cuộc bão táp chính trị mà nạn nhân lên đến con số hàng triệu người.
Tất cả sức lực vợ tôi dành cho gia đình, nuôi nấng con cái và chăm sóc mẹ già của tôi. Lý Liên cố gắng xây dựng trong nhà một góc con bầu không khí hạnh phúc và sung sướng để trong những giờ hiếm hoi khi tôi ở nhà để tôi cảm thấy hạnh phúc và yên tâm. Lý Liên trở về Trung quốc khi là một phụ nữ trẻ, hiền lành và đầy sinh lực. Trong máu vợ tôi sôi lên nhiệt huyết, và rất yêu đất nước. Nhưng năm tháng đã làm vợ tôi thay đổi đến mức làm tôi đau lòng và thất vọng triền miên. Sự sợ hãi vì tôi, không công việc ổn định và sự rời rạc cuộc sống mới ở Trung quốc - khiến vợ tôi buồn rầu và chán nản. Chúng tôi không sống mà là bơi theo dòng. Khó mà gọi gia đình chúng tôi là gia đình - Vợ tôi nói thế.
Những hy vọng trong mắt vợ tôi đã héo dần.
Chương 8
Giữa tháng sáu 1955 người ta gọi tôi vào Bắc Đới Hà, thành phố nghỉ ngơi ở vịnh Bắc Hải Văn. Lãnh đạo cao cấp đảng thường đến đay tránh cơn nóng Bắc Kinh. Mao cùng đoàn tùy tùng vừa rời đây vài ngày trước đây. Đi cùng ông có bác sĩ Châu Thế Đào, người trước khi tôi thay. Tôi vẫn còn là giám đốc bệnh viện Trung Nam Hải và chưa có lượt nào du lịch cùng với Mao. Cuộc gọi bất ngờ này nghĩa là có một cái gì đó nghiêm trọng.
Tôi ngồi trên đoàn tàu đặc biệt chạy hàng ngày giữa Bắc Kinh và Bắc Đới Hà, vàtrong ngày ấy tôi đã đến nơi.
Tôi được nói lại là Mao đêm qua ngủ không ngon giấc, sớm nay đột nhiên quyết định ra biển bơi. Các vệ sĩ can ông đừng làm cuộc phiêu lưu dại dột này. Vấn đề ở chỗ đêm nay ở Bắc Đới Hà có giông, và biển có sóng lớn, gió to. Sáng nay gió đã bắt đầu mạnh lên và biển rất không hiền hoà. Các vệ sĩ sợ Mao chết đuối. Nhưng Mao cứ khăng khăng giữ ý định và ra biển. Theo sau ông là các vệ sĩ vẻ mặt buồn rầu.
Bảo vệ cầu cứu Uông Đông Hưng, và Uông cũng ra biển để can Mao. Nhưng Chủ tịch, chẳng để ý đến lời khuyên của ai cả, nhảy xuống nước và bơi một cách dứt khoát trên biển. Các vệ sĩ phải bơi theo sát ông. Uông Đông Hưng thất vọng. Nếu xảy ra chuyện không may với Mao, ông phải chịu trách nhiệm. Ông gọi La Thụy Khanh và Chu Ân Lai để họ trút trách nhiệm tính mạng Mao lên đầu họ. Chu không biết làm thế nào, ngay lập tức thông báo cho cấp trên là Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật thứ hai sau Mao, tin rằng Lưu Thiếu Kỳ có thể khuyên Mao không liều mạng nữa. Lưu từ chối can thiệp. Ông là người khôn ngoan và kín đáo và quyết định để Mao muốn làm gì thì làm.
Trên bờ có Giang Thanh và bác sĩ Chu. Sự bình tĩnh của bác sĩ Chu làm bà vợ Mao chưa hết lo. Bác sĩ Chu là người nhút nhát, tuổi chừng 50.
Giang Thanh nói:
- Chủ tịch đang vật lộn với sóng biển, và nếu cái gì đó xảy ra với ông ấy, thì đồng chí sẽ làm gì? Đứng nhìn thôi à?
Tuy nhiên bác sĩ Chu thậm chí còn không biết bơi.
Hai người lính giúp Chu xuống chiếc xuồng nhỏ để ông có thể lại gần Mao. Nhưng họ lại không biết điều khiển xuồng, và xuồng chao đảo trên sóng trông như chiếc lá. Bác sĩ rất hốt hoảng. Khi Mao bắt đầu quay về bờ, thì chiếc xuồng của bác sĩ vẫn còn lắc lư trên sóng. Bác sĩ Chu, nét mặt sợ hãi cuối cùng cũng cập bờ, lảo đảo rời khoang thuyền. Giang Thanh nhìn ông với vẻ mặt căm thù. Chính thời điểm ấy, bà ta cho gọi tôi.
Mao quẳng cái nhìn vào Uông Đông Hưng, thét lên:
- Anh là thằng khốn nạn và đểu giả. Anh cần phải biết tôi có thể bơi trên biển trong thời tiết như thế này. Nhưng anh không những cản tôi, mà còn gọi các đồng chí lãnh đạo khác nhờ giúp!
Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh luôn luôn dưới sự che chở của Mao. Họ phục vụ Mao một cách tin cẩn và trung thành, nhưng họ cũng nằm trong hoàn cảnh phức tạp. Họ chịu trách nhiệm sinh mạng của Chủ tịch. Nếu ông bị chết đuối thì không ai nhớ đến sự trung thành của họ hoặc là họ cố gắng ngăn cản lãnh tụ, nhưng ông lại không nghe. Không những mất chức mà còn mất đầu như chơi.
Tất cả những hành động của họ, Mao nhìn nhận như là chuyện xâm phạm vào tự do của ông, các ủy viên Bộ chính trị khác cũng muốn kiềm chế ông. Không ai có thể bẻ gẫy được ý thích của ông, ông nhanh hiểu những ai có ý làm điều này.
Vụ việc ở Bắc Đới Hà ảnh hưởng mạnh tới mối quan hệ của Mao đối với Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh. Sự giận dữ của Mao trong quan hệ với họ được tích dần từng năm và cuối cùng làm giảm lòng tin của ông.
Sự kiện trên liên quan đến tôi. Bác sĩ Chu chuyển sang công việc khác và ông lãnh đạo bệnh viện Bắc Kinh, còn tôi chính thức trở thành bác sĩ riêng của Mao. Công việc của tôi là điều trị, phòng ngừa bệnh và kiểm tra trạng thái sức khoẻỷ của Mao. Trong bất kỳ sự không vừa lòng nào của Chủ tịch toii sẽ có lỗi. Kể từ đây không những công việc mà còn tính mạng của tôi phụ thuộc vào điều là tôi sẽ chú ý đến sức khoẻ Mao bao nhiêu. Vì thế tôi cần luôn luôn cạnh với Mao, để nghiên cứu cặn kẽ cơ thể ông ta.
Sau khi Chủ tịch từ Bắc Đới Hà về, tôi gặp ông hàng ngày. Nguyên nhân chủ yếu là bài học tiếng Anh. Tôi đi cùng Mao khắp nơi, ở cả Bắc Kinh, và ở cả các tỉnh. Tôi cần phải khám tổng thể Chủ tịch.
Điều này giúp tôi đoán trước căn bệnh tương lai khi tuổi tác ông tăng lên. Ngoài ra, khám tổng thể để giải thích nguyên nhân hàm lượng tăng cao mỡ trong máu. Tôi biết điều này khi xem y bạ của ông. Hai năm lại đây chỉ số này của Mao vượt quá quy định gần 1,5 lần. Chủ tịch bị thiệt hại do viêm nhiễm kinh niên thể nhẹ, và tôi cần phải là giải thích nguyên nhân.
Tôi không muốn kể cho Mao điều này. Ông tự hào về sức khoẻ và thể lực của mình, và tự cảm thấy căn bệnh thừa mỡ nào đấy. Ông không thích gọi bác sĩ. Năm 1951 một nhóm bác sĩ giỏi Liên-xô đã khám ông. Do bị thăm bệnh, phân tích và hỏi han quá nhiều, Mao mất hết kiên nhẫn và bỏ dở việc khám..
Tôi quay lại bài học tiếng Anh. Chúng tôi đọc tác phẩm Ăng-ghen Chủ nghĩa xã hội: từ ảo tưởng đến khoa học. Tại thời điểm này tôi quyết định tế nhị đặt vấn đề. Tôi giải thích Mao rằng bạch cầu tăng cao nói lên là có một viêm nhiễm nhẹ nào đấy trong cơ thể.
Chủ tịch ngạc nhiên;
- Đâu mà viêm nhiễm ra thế. Nó là sự bày đặt trong y học hiện đại.
Tôi trấn an ông:
- Chẳng có gì nghiêm trọng đâu. Tôi muốn xác định nơi viêm nhiễm.
Sau đó tôi nói rằng tôi sẽ khám tổng thể mũi, răng, và tuyến nội tiết và việc đó không chiếm quá nửa giờ. Ông đồng ý.
Hốc mũi bình thường. Tôi xem qua miệng. Mao chưa bao giờ đánh răng cả. Theo thói quen của nông dân nông dân miền nam Trung quốc, ông chỉ làm sạch răng bằng chè, mỗi buổi sáng họ nhai một nắm lá chè và xúc miệng bằng nước. Mao khăng khăng từ chối cho xem răng. Tướng Bành Đức Hoài luôn luôn nói thẳng sự thật, và có một lần ông khuyên tôi nên chú ý đến vấn đề vệ sinh miệng Mao. Ông nói răng của Chủ tịch dường như có màu xanh da lá cây và khi tôi khám miệng ông thì tôi tin điều đó. Gần như tất cả răng của ông đều có cặn cứng màu xanh nhạt. Một số cái đã bị rụng. Tôi xem lợi, bị tấy sưng. Đáng ngạc nhiên là Mao chưa bao giờ phàn nàn, dù rằng viêm nhiễm như thế trong miệng thường gây ra đau nặng. Hình như ông vui lòng chịu đựng đau đớn còn hơn là gọi thày thuốc mà ông vốn chẳng ưa gì.
- Đồng chí đã thu xếp xong rồi chứ? Mao hỏi khi tôi nói cho ông về những chiếc răng của ông.
Tôi trả lời rằng không nghiên cứu về nha khoa và khuyên ông gọi các chuyên gia.
Mao cười phá lên và nhận xét:
- Khổng tử nói: Biết cái mình biết, biết cái mà mình chưa biết - nghĩa là biết
Sau đó tôi khám bộ phận tuyến sinh dục.
Chỗ đấy bị sưng tấy. Hình như tôi đã tìm thấy nguồn viêm nhiễm. Sau khi chuyển vào Trung Nam Hải, Mao không tắm nữa. Ông cho rằng tắm làm mất thời gian. Các vệ sĩ đứng trong buồng tắm. Họ lau cơ thể lãnh tụ bằng khăn bông tẩm nước nóng, còn chính Mao lúc ấy nghiên cứu tài liệu, đọc hoặc nói chuyện với thuộc hạ.
Tôi còn nhận ra rằng kích thước tinh hoàn bên phải nhỏ hơn bình thường, nhưng lại không nằm ở bìu. Sự khiếm khuyết như vậy thường là bẩm sinh và không ảnh hưởng tới chức năng sinh dục, tuy nhiên dần dần có thể dẫn đến ung thư tinh hoàn. Tôi cũng tiếp tục chú ý tới sự bất bình thường này. Để xác định vùng phân bố viêm nhiễm, cần phải phân tích tinh trùng của Mao. Để làm điều này tôi bao một chiếc túi mềm lên đầu dương vật của ông và mang tinh dịch về phòng thí nghiệm.
Vài ngày sau, Mao cho phép dẫn một bác sĩ răng ở đại học y khoa Bắc Kinh tới. Tên ông là Trương Quang Hán. Tôi biết Trương từ hồi còn học ở đại học tổng hợp liên hợp miền Tây Trung quốc. Ông hơn tôi hai tuổi và học về nha khoa.
Việc chữa răng cho Mao tiến hành cũng ở buồng ăn, nơi Mao cắt tóc và cạo râu. Chiếc ghế tựa nhanh chóng được biến thành thành chiếc ghế để chữa răng. Trương chuẩn bị đồ nghề, rõ ràng căng thẳng và để ý đến kết quả khám của tôi, cũng như thái độ tính khí của chính Mao. Tôi ở vị trí này chỉ mới được vài tháng và chưa đủ được thông tin về tính khí ông ta. Chỉ chắc một điều là Mao thích tất cả nhanh gọn và không chuyện trò dài dòng. Tô cũng cho Trương biết là Mao đồng ý cho Trương đến, nghĩa là ông ta muốn thực hiện tất cả những gì đã nêu ra.
Khi chúng tôi vào, Chủ tịch đang đọc một quyển sách về lịch sử Trung quốc. Ông thích gặp khách với quyển sách trong tay. Dù rằng có đày quyền lực, ông đôi khi bị bất an khi gặp những người ông chưa quen biết. Nhưng ông, không còn nghi ngờ, biết rằng những người gặp ông đều bị xúc động được nhìn thấy thiên tử và người cai quản vũ trụ. Sách làm ông an tâm và giúp ông bắt đầu chuyện trò. Để mà bớt vẻ ngăn cách với khách, ông biết cách pha trò và trích dẫn sách. Trong cuộc gặp lần đầu tiên ông chú ý lắng nghe và hóm hỉnh, và người đối thoại của ông trở nên thoải mái và cởi mở. Như vậy Mao đã tận dụng tất cả những thông tin hay từ họ.
- Đồng chí đến đây rồi - Mao đặt sách ra một bên, nhận xét - Đọc sách thực là bài học kỳ diệu.
Ông đứng dậy chìa tay cho bác sĩ Trương bắt. Sau đó mời chúng tôi ngồi. Người ta mang chè đến. Một vệ sĩ mang cho Mao một khăn bông tẩm nước nóng, lau mặt và lau lau tay cẩn thận.
Mao chú ý tới nguồn gốc tên của bác sĩ. Trương giải thích rằng tên của ông Quang Hán, Quang nghĩa là chiếu sáng, Hán - dân tộc Hán. Trung quốc - một quốc gia nhiều dân tộc, nhưng dân tộc Hán đông hơn, khoảng 93% dân số. Khi nói về Trung quốc thì người ta nói đến dân tộc này.
- Đồng chí cũng biết làm sáng tỏ dân tộc Hán- Mao nhận xét - Tên của đồng chí rất nổi tiếng trong thời gian đấu tranh với triều đại nhà Mãn châu - nhà Thanh.
Triều đại Thanh sụp đổ năm 1911. Nó được hình thành bởi những những người đi chinh phục ở bắc Trung quốc. Dân tộc Hán vĩ đại thực tế biến thành nô lệ của những người chinh phục ngoại bang, vì thế ở Trung quốc luôn luôn có tâm lý chống Mãn thanh rất mạnh.
Khi Mao hỏi Trương gốc gác, Trương nói là quê ông tỉnh Hà Bắc, nghĩa là phía bắc con sông, nhưng từ lâu sống ở tỉnh Tứ Xuyên, nghĩa là bốn con sông.
- Đồng chí biết con sông nào gọi là Hà Bắc? - Mao tò mò.
- Vâng, con sông Vàng, tức Hoàng hà - nha sĩ trả lời.
Trong lịch sử Trung quốc, con sông Hoàng hà thay đổi dòng chảy của mình. Khi người ta đặt tên tỉnh Hà Bắc, khi ấy tỉnh nằm ở phía nam của con sông. Bây giờ Hoàng Hà lại còn tụt hẳn xuống phía nam và chảy thậm chí qua tỉnh Sơn Đông.
Mao rít thuốc và hỏi:
- Thế còn bốn con sông mang tên Tứ Xuyên?
Trương chẳng cần nghĩ ngợi nói luôn:
- Sông Minh, sông Tô, sông Giang và sông Thanh.
Mao cười và chữa lại:
- Không phải sông Thanh mà là sông Vũ, rộng hơn sông Thanh.
Trương cũng cười và nói:
- Tôi nhớ một bài thơ của đồng chí nói về Tứ Xuyên. Có câu: Nước sông Thanh bồi đắp bờ sương mù. Vì thế tôi cũng gọi là sông Thanh.
Mao mỉm cười và nói:
- Đấy là thơ.
Sau đó Mao chuyển sang nói chuyện về trường y khoa thuộc đại học tổng hợp liên hợp Tây Trung quốc. Người Mỹ lập nên trường này và Mao nói rằng ông rất mừng là có người Trung quốc học ở trường Mỹ. Mao nói:
- Trong thời gian kháng Nhật, Mỹ gửi cố vấn đến Diên An và họ đã giúp chúng ta rất nhiều. Bác sĩ Mỹ Gorge Haitem giúp đỡ chúng ta và trị được bệnh lậu. Đó là đóng góp chính vào chiến thắng bọn xâm lược Nhật. Ông cũng là đồng nghiệp của các đồng chí đấy.
Bác sĩ Haitem cùng với trợ lý của mình là Edward Snow có mặt ở chiến khu đảng cộng sản Trung quốc Trung quốc năm 1936 và sau đó ở lại Trung quốc để chữa cho các chiến sĩ giải phóng quân Trung quốc.
Mao tiếp tục:
- Mỹ đã đào tạo cho chúng ta không ít chuyên gia.
Nếu người dân thường Trung quốc nói câu này thì người ta buộc tội là phản cách mạng, bởi vì ở Trung quốc, Mỹ được gọi chính thức là kẻ thù số một, và bất kỳ sự tán dương Mỹ được xem như lời nói phản cách mạng.
- Như thế, tất cả các đồng chí tốt nghiệp đại học Mỹ - Mao nhận xét - Tôi kính trọng các chuyên gia do Mỹ và Anh đào tạo.
Ông cũng khoe với Trương rằng tôi đã giúp ông học tiếng Anh và ông bắt đầu đọc nguyên bản tác phẩm của Ăng ghen Chủ nghĩa xã hội từ ảo tưởng đến khoa học.
Tính hay chuyện và cởi mở của Mao đã làm yên lòng Trương, tôi gợi ý khám miệng Mao. Mao phản đối.
Trương cậy hết cặn răng Mao và gắp các mẩu vụn thức ăn khỏi miệng, sau đó nói:
- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch cần đánh răng hàng ngày. Răng đồng chí tồi lắm.
Mao phản đối:
- Tôi thường làm sạch răng bằng chè và chẳng bao giờ dùng bàn chải đánh răng cả. Xem con hổ đấy, có bao giờ nó đánh răng đâu. Vì sao răng nó cứng và sắc.
Logic của Mao thì không ai bắt bẻ được, dù rằng khá lạ lùng. Tôi và Trương im lặng. Mao cảm thấy rằng giành được chiến thắng lớn, nháy mắt, chua cay nhận xét:
- Các đồng chí thấy đấy, thậm chí các đồng chí là bác sĩ bằng cấp hẳn hoi mà cũng chẳng thể giải thích được.
Trương đồng ý:
- Xin chịu Chủ tịch!
Sau đó Trương nói cho Mao rằng cần phải nhổ vài chiếc răng hàm trên.
- Nó bị sâu rồi, những răng này là nguồn viêm nhiễm. Nếu không nhổ đi, thì nó lại làm hỏng tiếp các răng bên cạnh.
- Có thật là nặng thế không? - Mao ngạc nhiên.
- Tôi thề với Chủ tịch đúng như thế - Trương trả lời.
- Thôi được, nhưng hãy tính toán cho đúng nhé, tôi sợ đau lắm. Tiêm thuốc tê đi.
Trương quay về phía tôi và hỏi nhỏ:
- Chủ tịch có kháng thuốc giảm đau novocain không?
- Không - Tôi trả lời - đôi lần tôi đã tiêm peneciline và novocain. Không thấy kháng thuốc.
- Có cần phải dùng tới anestesine không? - Trương lại hỏi nhỏ - Răng này khó giữ lắm, tôi nhổ nó chỉ trong tích tắc thôi.
- Chúng mình cứ làm như Chủ tịch đã nói - Tôi trả lời - Để ông ấy yên tâm.
Trương tiêm novocain và mấy phút sau khi bệnh nhân bị tê rồi, thì ông nhổ chiếc răng đau.
Mắt Mao sáng lên.
- Trường học Anh Mỹ đã giành chiến thắng vĩ đại! Mao kêu lên, khẽ cười.
Sau vài ngày, lượng kháng thể trong máu trở lại mức bình thường. Mao vui vẻ dường như trẻ con. Ông nói:
- Đồng chí đã giải quyết được vấn đề làm băn khoăn tôi nhiều năm. Đó là thành công lớn. Hoan hô trường học Anh Mỹ!
Sáng hôm sau ông bảo tôi mang cho ông bàn chải và thuốc đánh răng và bắt đầu cọ răng. Nhưng ông chỉ tiếp tục vài ngày. Thói quen nông dân thâm căn cố đế đánh răng bằng chè vượt hẳn lên. Ngoài ra Mao không muốn bận thân vào việc tắm rửa và đánh răng.
Răng Mao dần dần tồi đi, cũng như trước đây ông không khoái gì nha sĩ đến. Răng của Chủ tịch bị xỉn đen và lần lượt rụng dần. Đến đầu những năm 1970 hàm trên chẳng còn chiếc răng nào cả. May mắn thay, khi ông cười, chỉ thấy những chiếc răng tốt còn giữ được, còn những răng đen và bị nhổ rồi thì nằm ở phía trong không nhìn thấy rõ.
Xét nghiệm tuyến sinh dục cho thấy rằng Mao mất khả năng có con. Tinh dịch của ông không có tinh trùng khoẻ. Mao từng là ông bố của một số con từ ba nhiều vợ. Đứa sau cùng là con gái, con của Giang Thanh, tên là Lý Nạp, khi ấy khoảng 15 tuổi. Ông không thể có con, khi tuổi ông chưa tới 50. Tôi không thể giải thích được nguyên nhân. Tuy nhiên không thể chữa được.
- Nghĩa là tôi trở thành hoạn quan phải không?
Mao đau buồn hỏi thế, khi tôi nói cho ông về sự không thể có con. Ông cực kỳ hoảng hốt.
- Hoàn toàn không phải thế - Tôi trả lời - Phần đông quan thái giám trong cung vua, hoàn toàn bị cắt cơ quan sinh dục. Vài người may mắn thì còn giữ được tinh hoàn.
Phút chốc tôi hiểu rằng Mao thậm chí không có khái niệm cơ bản về các cơ quan trong cơ thể và chức năng của chúng. Từ cuộc tiếp kiến, tôi biết rằng tinh hoàn bên phải của ông bị teo. Tuy nhiên sự bất lực không biến ông thành hoạn quan.
Tôi bắt đầu nói để ông hiểu.
- Tinh dịch của ông không có tinh trùng, và vì thế ông không có con. Tuy nhiên điều này là không ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tình dục
Tôi hiểu rằng Mao hoàn toàn không vui lòng về sự bất lực của ông. Ông hoảng lên sợ liệt dương. Một thời gian dài ông vẫn tin thành tâm rằng hoạt động tình đục bị hạn chế ở tuổi 20 và 60. Về sau ông kẻ cho tôi rằng ông bắt đầu cuộc sống tình dục khi chưa thành niên. Điều này xảy ra ở quê ông làng Sào Sơn. Ông vui vẻ nhớ về sự làm quen đầu tiên với tình dục thời trẻ. Bạn tình là cô bé cùng làng 12 tuổi.
Tháng 12 năm 1953, Mao tròn 60 tuổi. Tôi là bác sĩ riêng của ông từ năm 1955, và khi đó ông chờ đợi trong lo sợ về hết khả năng tình dục. Các bác sĩ trước tôi thường tiêm cho ông nhung hươu. Trong y học dân tộc Trung quốc đây là một trong thứ thuốc kích thích mạnh. Tuy nhiên dấu hiệu say yếu tình dục không thấy mất đi, ông sống trong lo sợ. Ông muốn sống tới 80 tuổi, giữ được vẻ đẹp, khoẻ mạnh và hoạt động tình dục, và tôi là một bác sĩ cần phải giúp ông thực hiện điều lạ lùng như thế. Ông mất bình tĩnh, khi tôi tỏ ra nghi ngờ hiệu quả của nhung hươu. Ngoài ra, tôi không tin vào hiệu dụng của chất này đối với cơ quan sinh dục.
Mao buồn rầu:
Các ông bác sĩ, người thì khuyên thế này, người thì khuyên thế kia. Tôi nghĩ trong 10 trường hợp thì chỉ 7 là gần đúng thôi.
Mao không đòi dùng nhung hươu nữa, nhưng đòi tôi kiếm thần dược để kéo dài tuổi thọ và tăng tình dục. Trong hoàn cảnh ấy thì ông lại thích đưa ra các ví dụ từ các vua Trung quốc. Ông vua lâu nhất Trung quốc là Hoàng đế, tổ tiên dân tộc Hán, người đã tạo ra tất cả người Trung quốc. Truyền thuyết kể rằng ông đạt được bất tử, vì ngủ với hàng nghìn con gái đồng trinh. Thậm chí các vua đời sau còn cho rằng càng ngủ nhiều với gái thì tuổi thọ càng tăng lên. Từ đó truyền thống các vua đều có tới hàng nghìn nữ tỳ. Hoàng đế Tần Thuỷ Hoàng, lập nên nhà Tần, theo truyền thuyết, có lần đã cử một nhà sư và năm trăm cô gái trinh bạch ra biển khơi để kiếm thuốc trường sinh. Truyền thuyết cũng xác nhận là những người được gửi đi là thuỷ tổ của dân tộc Nhật bản. Mao cho rằng Tần Thuỷ Hoàng là lý tưởng của mình và cố gắng noi gương ông vua này.
Một thời gian ngắn sau khi tôi làm việc ở chỗ Mao, tôi biết rằng một bác sĩ Rumani tìm ra công thức thuốc kéo dài tuổi thọ và tăng khả năng tình dục. Thứ thần dược này bề ngoài hồi phục sinh lực và có khả năng làm tăng độ dẻo dai ngay cả khi chỉ dùng một lượng nhỏ. Mao rất khoái thuốc này, nhưng lại muốn, tôi phải thử trước thần dược. Nếu nó có tác dụng với tôi, Mao nói, thì ông mới dùng.
Tôi cũng phải bóng gió nói cho ông biết tôi và ông chênh lệch nhau gần 30 tuổi và tôi hãy còn trẻ và không có chứng bệnh ông mắc. Bác sĩ Rumani đặt tên thuốc của mình là vitamin H3, nhưng té ra là thuốc này chưa chủ yếu novocain. Không tin vào khả năng thần diệu của nó, nhưng cũng biết là Mao không phản ứng với novocain, tôi quyết định đưa vitamin này cho ông dùng thử. Trong gần ba tháng người ta bằng cách này nhồi vào cơ thể lãnh tụ, nhưng chẳng đem lại kết quả.
Trong tất cả những năm làm việc với Mao, tôi chẳng mở mang hiểu biết cho ông về lĩnh vực y học. ý nghĩ phản khoa học cản trở ông. Tôi ngày càng ngờ rằng nguyên nhân sự bất lực của ông là do tinh thần hơn là thể xác. Sau khi tham khảo các chuyên gia bài tiết và thần kinh, tôi tin là tôi chẩn đúng. Tôi quyết định sử dụng phương pháp tác động tinh thần. Tôi cho chế tạo glucoza và chế phẩm làm từ nhân sâm, tôi đưa cho ông và nói là đây là một loại thuốc mới từ thảo mộc. Trong thời gian đấu đá chính trị hậu quả không lường được, thì bệnh liệt dương của ông đặc biệt xuất hiện mạnh. Nhưng đầu những năm 60, khi quyền lực của ông còn bền vững, thì không thấy ông phàn nàn về vấn đề yếu tình dục. Tại thời gian cao điểm Cách mạng văn hoá, cuối những năm 60, khi giữa Mao và Giang Thanh không có quan hệ tình dục nào cả, Chủ tịch thường xuyên lôi các cô gái trẻ lên giường, đồng thời số lượng các cô ấy tăng lên, nhưng độ tuổi lại nhỏ đi.
Lãnh tụ của chúng ta thực hiện chương trình kéo dài tuổi thọ theo công thức hoàng đế cổ Trung quốc như thế đấy.
Mao tiếp tục tìm kiếm thuốc trường sinh, thậm chí cũng chẳng hề nghi ngờ có thứ thuốc đó trên đời. Lại còn trong những dòng thơ ông bốc đồng viết là sẽ sống hai trăm tuổi và bơi qua con sông lớn dài ba nghìn dặm. Những dòng thơ này là ngôi sao dẫn đường cho ông. Ông tin điều đó cho đến cuối đời. Giữa những năm 60 ông tuyên bố với khách nước ngoài là chuẩn bị gặp chúa trời và cụ Các Mác, đó là mánh khóe chiến lược của ông. Năm ấy ông còn khỏe và lạc quan và lúc đó chịu đựng đau đớn và yếu, tránh biểu lộ ra ngoài để rồi sau đó tính sổ những người đối lập của mình. Sức khoẻ của Mao Chủ tịch và chính trị Trung quốc có quan hệ tương hỗ.
Năm 1963, Mao đóng vai một ông già ốm yếu trước đại sứ Liên-xô ở Bắc Kinh. Ông ta muốn dò xét phản ứng của Liên-xô trước cái chết giả tưởng của mình. Mối quan hệ Trung quốc -Liên-xô trong những năm ấy là xấu, và vì thế đối với Mao điều này cực kỳ quan trọng. Trước khi chuẩn bị màn kịch này, Mao một số lần tập nhập lại vai ông già run rẩy sắp chết cho chúng tôi xem, và hỏi xem liệu ông có giống như người sắp chầu trời hay không. Sau đó chui vào giường và cho gọi đại sứ Liên-xô. Buổi diễn đạt được thành công.
Cũng đúng vào năm 1965, Mao nói với người bạn cũ của mình là nhàbáo Mỹ Edward Snow rằng ông sắp chầu thượng đế. Mao rất chú ý thái độ phản ứng của người Mỹ về tin tức ông sắp chết. Ông rất muốn cải thiện quan hệ với Mỹ. Mao tin rằng E. Snow, tác giả cuốn sách Ngôi sao đỏ trên đất nước Trung hoa, cuốn sách trở thành phổ biến ở Trung quốc và Anh, là người của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), và vì thế thông tin về cái chết gần kề của lãnh tụ rơi vào tay chính quyền Mỹ. Mánh khóe tương tự Mao cũng sử dụng cũng trong cùng năm ấy cả trước bộ trưởng bộ văn hoá Pháp Andre Malro và sau đó ông chú ý theo dõi tin tức báo chí phương tây.
Mao thường buộc tội những người khác về lòng trung thành và tính đa nghi nhưng chính bản thân ông lại là một trong người mánh khóe nhất và không những lừa từng người một, mà còn lừa toàn bộ chính quyền.
Chương 9
Trong những năm đầu tiên làm với Mao, nhiều thứ bệnh lặt vặt làm tôi không an tâm: sốt thông thường, viêm phế quản, nứt da, chai ở chân và ăn không ngon miệng. Do táo bón xảy ra hai ba ngày một lần lại phải thụt cho ông. Mao là chủ đề các cuộc thảo luận hàng ngày. Khi việc tiêu hoá đạt được bình thường, đó thực sự là ngày lễ đối với những người làm việc quanh Mao.
Dường như đối với tôi, những cơn mất ngủ của Mao choán hết thời gian của tôi. Mao là con người có năng lượng vô tận. Bản chất ương ngạnh, ông tỏ ra không chấp nhận những quy tắc và chuẩn mực xác định. Ông thậm chí chống lại sự độc quyền khắc nghiệt của thời gian. Quá trình bơi và ngủ nghê chỉ làm tiêu tốn thời gian một cách vô ích. Cơ thể của Mao không thưà nhận nhịp sống sinh học ngày đêm, và ông có thể thức nhiều hơn người khác, đồng thời mọi hoạt động lớn của ông đều diễn về ban đêm. Ví thử nếu ông ngủ vào lúc nửa đêm, thì ngày hôm sau ông cũng chẳng hề nhớ lại giấc ngủ đến ba giờ sáng, và ông cũng không thể đóng nổi mắt tới 6 giờ sáng. Chu kỳ mất ngủ của ông ngày một dài thêm, và có lúc ông không thức liền vài ngày. Sau đó ông ngả vào giường và ngủ mê mệt 10-12 tiếng liền. Tôi thật khó nói được từ lúc nào Mao bắt đầu cái kiểu sống như thế. Có thể, nhịp sống sinh học của ông có từ lúc cha sinh mẹ đẻ, vì rằng Phó Liêm Chương kể cho tôi nghe ông đã chữa cho Mao cơn mất ngủ từ đầu những năm 30. Không còn nghi ngờ gì nữa, hai thập kỷ đấu tranh công nhân và những năm nội chiến với Quốc dân đảng đã tác động tới ông.
Trong những giờ mà Mao không thể ngủ được, ông phải sử dụng phươnng cách hoạt động thân thể: bơi, khiêu vũ, đi bộ dạo chơi. Trong những năm 30 bắt đầu dùng thuốc ngu. Đầu tiên Phó Liêm Chương cho ông dùng thuốc veronal, nhưng sau 1949 dùng thuốc amital natri, một loại thuốc gây ngủ mạnh, dạng bột theo liều 0,1 gam. Nếu một liều không xong, thì ông cho Mao dùng 2, ba và 4 liều một lần uống. Nhưng sớm phải ngừng sử dụng. ông vẫn mệt mỏi vì thiếu ngủ, và thường xuyên lắc lư từ bên này sang bên kia. Những người quanh ông thậm chí rất lo rằng Mao có thể gục ngã và bị vỡ đầu hoặc may mắy hơn là gẫy xương. Phó Liêm Chương bắt đầu sợ rằng Mao tình cờ có thể dùng một lượng rất lớn thuốc ngủ mạnh, và bí mật không cho Mao biết, thay cho liều 0,1 gam, thì Phó chỉ đưa những gói chưa thuốc hàm lượng từ 0,05 đến 0,075 gam. Nhưng cơ thể Mao đòi hỏi theo mức của mình, và Chủ tịch cũng vẫn tăng liều uống.
Tôi yên tâm là Mao đã quen thuốc ngủ. Tôi chưa khi nào kê đơn cho bệnh nhân của mình mạnh đến như vậy, và tôi cũng như Phó Liêm Chương bắt đầu lo ngại về sự nguy hiểm do dùng quá liều. Khi tôi lần đầu tiên biết tất cả việc này, tôi khuyên Mao bỏ thuốc ngủ.
- Nghĩa là đồng chí muốn tước giấc ngủ của tôi phải không?
Ông phản ứng và vẫn yêu cầu thuốc ngủ. Tôi chẳng có cách nào để buộc Mao ngừng dùng thuốc ngủ. Tôi là thuộc cấp của ông, và ông chẳng thèm đếm xỉa ý kiến của tôi.
Một lần ông gọi tôi đến và hỏi:
- Theo đồng chí một năm có bao nhiêu ngày?
Mao thích đặt các câu hỏi thông thường dường như nó chứa một đđiều bí mật nào đó.
- Ba trăm sáu nhăm ngày, tất nhiên - tôi trả lời.
- Đối với tôi một năm cả thảy chỉ có 200 ngày thôi, vì rằng tôi ngủ ít - Mao nói.
Thoạt đầu tôi không hiểu, nhưng sau đó biết rằng ông tính số lần ngủ trong thời gian một năm.
- Nếu tính cả số giờ không ngủ, thức trắng và quy lại thành ngày, thì một năm của Chủ tịch sẽ là 400 ngày đấy. Từ quan điểm này thì cuộc đời đồng chí, thưa chủ tịch, tiến gần đến bất tử rồi đấy, có một bài thơ nói về việc này: Mặt trời và mặt trăng không hiện ra vì núi thì không thể nhận ra hàng nghìn năm đã qua.
Mao cười phá lên và nhận xét:
- Nghĩa là, theo đồng chí, cơn mất ngủ của tôi - đó là con đường đến bất tử phải không?
Điều này, tất nhiên, là đùa; tôi muốn ông giảm bớt căng thẳng tôi do mất ngủ.
Tôi khuyên ông thay đổi cách chữa. Dù rằng chất amital natri mà Phó Liêm Chương kê đơn vẫn tương đối có hiệu quả và gây cho Mao giấc ngủ sâu, nhưng nó tác dụng không tức thời.
Vì thế tôi gợi ý Mao trước khi ăn hai mươi phút uống hai gói bột thuốc ngủ, để nó tác dụng tương đối nhanh. Ngay lập tức sau khi ăn, tôi khuyên Mao uống một viên amital natri để đảm bảo giấc ngủ được dài. ở điểm này tôi không đồng ý với Phó Liêm Chương khi ông giấu Mao hạ liều lượng thuốc. Tôi cho rằng bệnh nhân của chúng tôi cần phải biết liều lượng mà họ uống. Thuốc đưa cho Mao từ tay các nhân viên bảo vệ, gốc gác nông dân nghèo, ít học. Bây giờ tôi chịu trách nhiệm về sức khoẻ Mao và vì thế, để tránh trường hợp không may nào đấy xảy ra, đích thân Mao phải kiểm tra được lượng thuốc uống.
Bởi vì Phó Liêm Chương là thủ trưởng của tôi, tôi phải báo cho ông ta biết tất cả lý do. Ông không phản đối. Nhưng khi tôi bắt đầu tán dương phương pháp mới điều trị lãnh tụ, thì Phó Liêm Chương tỏ ra hoài nghi nhắc lại một câu châm ngôn Trung hoa: Một bác sĩ hay khoe khoang - đó là liều thuốc tồi, nhưng dù vậy ông vẫn đồng ý cho thử.
Đợt điều trị tỏ ra có hiệu quả, và tôi giảm lượng thuốc ngủ tác dụng nhanh và thay vào đó là glucoza. Kết quả cũng không tồi. Khi tôi kể cho Mao nghe việc này, ông nhận xét:
- Chẳng lâu nữa, đồng chí điều trị cho tôi chỉ bằng glucoza.
Cũng có những ngày, khi Mao lo lắng đến mức phương pháp của tôi thậm chí giúp không được gì. Thực ra cơn mất ngủ của Mao do hai nguyên nhân. Ngoài nhịp điệu sinh họ còn có cả sự căng thẳng.
ở Mỹ người ta coi căng thẳng cũng là bệnh. Dù vậy triệu chứng này khá phổ biến ở Trung quốc. Xuất hiện không những ở Mao, mà còn cả ở vợ ông. Sự căng thẳng thường là hậu quả của những sự thất bại tinh thần. Từ lâu người ta cho là bệnh tâm thần và thất bại về mặt thần kinh là do nhục nhã và xấu hổ. Vì thế cơn mất ngủ, gây ra chính bệnh căng thẳng được giải thích là do nguyên nhân sinh lý học. Ngoài việc làm mất ngủ dẫn đến căng thẳng cũng dẫn đến các chứng sau: nhức đầu, đau kinh niên, lo lắng, tăng áp huyết, giảm tình dục, bệnh da liễu, rối loạn tiêu hoá, đái dắt, dễ bực tức và nhiều bệnh khác.
Dần dần tôi đi đến kết luận rằng sự căng thẳng phổ biến nhiều nhất trong đất nước bắt đầu từ chế độ cộng sản do sự hạn chế tự do cá nhân và cảm giác tuyệt vọng của tồn tại. Tôi va chạm với vấn đề này từ 1952, khi anh trai tôi rơi vào căn bệnh căng thẳng nặng. Anh tôi hiếm khi tăng huyết áp và xuất hiện hội chứng khác của căn bệnh này. Tất cả điều này xảy ra trong những năm đấu tranh khốc liệt của đảng với ba sai lầm cơ bản: hối lộ, lãng phí, quan liêu. Sự căng thẳng tiếp theo xảy ra năm 1957 trong thời gian chiến dịch chống khuynh hữu trong đảng, hậu quả của nó là hại hàng triệu người vô tội. Trong những năm cai trị Quốc dân đảng, tôi không nhận thấy hiện tượng như thế. Khi đó xấu dở gì đi nữa, thì người ta vẫn có lối thoát. ở chế độ cộng sản không có sự lựa chọn - buộc phải sống theo luật lệ của họ và giữ mồm giữ miệng. Hệ thống cộng sản gây ra hai bệnh tinh thần nghiêm trọng - bệnh thần kinh phân lập và bệnh khùng do bị đè nén.
Mọi sự thất vọng còn lại liên quan với định kiến tư sản và thiếu ý chí được xem là vấn đề tư tưởng. Đối với dân thường Trung quốc, thì bệnh tâm thần do những trắc trở cá nhân được xem là do nhục nhã và xấu hổ. Đó là sự mất mặt, nghĩa là mất đi sự kính trọng dưới con mắt người khác. Vì thế tất cả các vấn đề cá nhân phức tạp, người Trung quốc thường giải quyết trong nội bộ gia đình. Kiểu này tiếp diễn đến khi Mao chết. Bác sĩ, theo đúng quy tắc, không đi tìm nguyên nhân thất vọng tinh thần và căng thẳng, mà chỉ kê đơn thuốc cho người không may.
Đàm luận với Mao về cơn mất ngủ của ông và những chứng bệnh lặt vặt khác, tôi thậm chí không dám đả động đến chữ căng thẳng, bởi vì biết là điều này làm Mao nổi cơn thịnh nộ và tôi có thể bị mất việc. Ngay cả Mao cũng không đả động đến từ này. Khi nào bị ức chế, ông nói việc tôi là ông cảm thấy bất hạnh sâu và nhờ tôi giúp. Tôi cho ông nhân sâm và vitamin B và C. Sự căng thẳng của Mao là đương nhiên. Dày vò ông là bệnh mất ngủ. ngứa ngáy ở da, đầu óc quay cuồng và liệt dương. Ông thường xuất hiện những ý nghĩ độc đoán, sự lo lắng vô cớ và đa nghi. Có một lần trong thời gian nghi lễ chính thức đầu ông bỗng quay cuồng, và những vệ sĩ đứng bên cạnh phải đỡ ông khỏi ngã. Và những trường hợp như thế xảy ra tương đối thường xuyên. Tôi còn nhớ, trong buổi Mao tiếp đoàn đại biểu châu Phi, các vị khách đang lanh lợi hội đàm với ông thì đột nhiên họ tỏ ra lúng túng khi thấy Mao lảo đảo. Tôi lập tức chạy lại giúp ông. Trong cac chuyến đi, tiêu dao, và tiếp chính thức chúng tôi luôn luôn bên cạnh để trong trường hợp cần thiết đỡ ông khỏi ngã. Khi Mao nghỉ, thì những hiện tượng tương tự không xảy ra. Tôi thường xuyên kiểm tra sự làm việc của tim và huyết áp của ông, chẳng thấy gì lạ cả, tất cả đều bình thường.
Phần đông nhân dân khi có khúc mắc vấn đề riêng tư đều bị căng thẳng. Đời sống của lãnh tụ trôi đi không có hoảng loạn đặc biệt gì về thần kinh. Ông thường làm người khác bất hạnh. Sự căng thẳng của ông là hậu quả của tính đa nghi quá mức, và sự thiếu tin tưởng trong quan hệ với của ông với các chiến hữu. Ông không có bạn, và chỉ có ít người tận dụng được thiện chí của ông. Hội chứng căng thẳng xuất hiện mạnh ở Mao đặc biệt trong trong thời kỳ đấu tranh dữ dội giành quyền lực trong nước. Mất ngủ suốt tuần và thậm chí hàng tháng đã làm kiệt sức lãnh tụ. Trong hoàn cảnh tranh giành chính trị quyết liệt với phe đối lập Mao, việc điều trị cơn mất ngủ của lãnh tụ gần như vô vọng.
Mao rất muốn làm cải cách trong nước, không cần tính đến điều kiện kháh quan. Tiến độ chậm chạp của cuộc cải tạo ở nông thôn làm ông điên tiết, dù rằng từ đầu những năm 50 việc tập thể hoá thực tế đã hoàn thành và nông dân đã nhận ruộng. Thế nhưng vẫn còn một số ít ruộng đất nằm trong tay sở hữu riêng. Để tiến nhanh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung quốc, Mao xúc tiến ý tưởng xây dựng kinh tế tập thể, không cần chờ làm xong việc cơ giới hoá nông nghiệp, quá trình cơ giới hoá trong hoàn cảnh một đất nước lạc hậu như thế, lại bị tàn phá phải kéo dài hàng chục năm.
Những hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên xuất hiện năm 1953 nhưng xu hướng xây dựng liên hợp kinh tế nông nghiệp lớn khác thường và việc tước đoạt từ tay nông dân phương tiện sản xuất và gia súc đã gây ra chống đối mạnh mẽ không những từ phía các người đối lập chính trị lãnh tụ, mà còn từ phía nông dân. ở một số vùng kinh tế tập thể bị tan rã nhanh như lúc nó được lập ra. Mao trút tội xuống người lãnh đạo ban nông nghiệp Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc Đặng Tử Huy và những người khác. Ông buộc tội họ là chậm chạp, thiếu cương quyết và thậm chí cả tôi phá hoại ngầm. Đặng Tử Huy bị mất chức, cơ quan do ông lãnh đạo bị giải tán. Thật ra, người ta không gạt Đặng Tử Huy ra khỏi guồng máy, mà thuyên chuyển ông sang cương vị nhỏ hơn. Về sau Mao tâm sự với tôi:
- Đặng Tử Huy đi cùng với chúng tôi trong những năm cách mạng. Tuy nhiên sau khi giải phóng Trung quốc, ông ta chọn con đường không đúng.
Sự chia rẽ của Mao với chiến hữu trở nên gay gắt từ mùa hè 1955, khi những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc họp hội nghị ở Bắc Đới Hà. Tại đấy Mao chống lại ý kiến tập thể Ban chấp hành trung ương và đường lối chung của đảng, đưa ra cách thức riêng, theo Mao, đi tới phát triển của Trung quốc.
Tôi cố gắng tiếp xúc ít hơn với chính trị, và trong những năm đầu tiên cạnh Mao, tôi chỉ quan tâm bởi sự phân tích của ông và cố gắng điều trị những cơn cơn mất ngủ và liệt dương của lãnh tụ. Lúc ấy tôi không biết gì cảvề cuộc đấu tranh mạnh mẽ mà Mao tiến hành chống những người đối lập ông, nhiều người trong số ấy những năm nội chiến từng là chiến hữu của ông. Trong thời gian từ mùa thu 1955 đến mùa xuân 1956 Mao tổ chức một loạt các cuộc họp, ở đó ông trình bày chương trình của mình cải cách chủ nghĩa xã hội trong nước. Cuối mùa thu 1955 ông bắt đầu viết cuốn sách: Sự đi lên chủ nghĩa xã hội của nông thôn Trung quốc, chọn những bài diễn văn phaty biểu của mình về vấn đề tập thể hoá và viết lời mở đầu và bình luận cho cuốn sách. Ông chuẩn bị bài phát biểu quan trọng trước Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc như thế để cố gắng lôi kéo các ủy viên trung ương đảng chấp nhận quyết định về đẩy mạnh cải cách xã hội ở nông thôn. Trong thời kỳ căng thẳng này cơn mất ngủ trở thành đồng minh của ông. Khi viết sách và soạn các bài đem in, Mao lúc đó không ngủ vài đêm liền, lúc thư dãn ông đi bơi. Do đó, cơ thể khỏe mạnh của ông bắt đầu rệu rã, và ông gọi tôi.
Khi tôi đến bể bơi, Mao nằm trên ghế dài. Trên khuôn mặt đỏ ửng của ông lộ vẻ kích động mạnh và trông rất mệt mỏi. Ông mời tôi cùng bơi, nhưng tôi lịch sự từ chối, nói là thậm chí không kịp ăn sáng và vẫn còn tiếp tục công việc cả trong bệnh viện. Mao cười và nói:
- Tôi cũng chưa ăn và chưa ngủ, nhưng cũng đã kịp nhảy xuống nước bơi được một giờ rồi. Tôi uống toa thuốc của đồng chí ba lần, nhưng không thể ngủ được. Đồng chí, có lẽ, lại giảm đô phải không?
- Đâu có thế, đô thuốc vẫn như trước đây thôi - Tôi trả lời.
- Thế thì đồng chí làm cái gì đó rồi để tôi mất ngủ - Mao giận dữ.
Tôi kê đơn cho Mao dung dịch chloralhydrade, dù Phó Liêm Chương nói với tôi rằng Mao không uống thuốc dạng nước. Vì thế tôi báo trước cho Mao là thuốc sẽ đắng.
Mao trả lời:
- Không sao đâu, tôi thích tất cả các thứ cay đắng.
Tôi đến chỗ tủ thuốc đặc biệt, chứa thuốc dành cho Mao và các ông chủ khác của đảng. Thuốc được mua từ Hồng Kông từ một hãng nào đấy và chủ yếu là thuốc Mỹừ Anh, Nhật. Tất cả thuốc được kiểm tra cẩn thận, do Phó Liêm Chương lãnh đạo. Để tăng cường biện pháp an toàn, tất cả thuốc kê cho Mao đều mang tên Lý Đăng Sơn. Tên Lý năm 1947 là bí danh của Mao. Lúc ấy do sự đe doạ tấn công của quân Quốc dân đảng, những người cộng sản buộc phải rút khỏi Diên An. Trong khi dược sĩ tìm thuốc, thì Phó Liêm Chương đến và lại nhắc tôi rằng Mao không thích thuốc nước, và cũng nhận xét rằng chloralhydrade làm cho Mao rất khó chịu về mùi, và Chủ tịch có thể cáu chúng tôi. Tôi trả lời rằng Mao đã được báo trước điều này và đồng ý uống thuốc này, và tôi nói thêm là cần nhanh lên, vì rằng ông đang đợi tôi.
- Sau này tôi sẽ thông báo cho đồng chí kết quả.
Tôi trả lời và đi ra cổng.
- Đồng chí đã hành động vội vàng chẳng hỏi gì tôi cả!
Phó Liêm Chương bỏ đi, vẻ khó chịu.
Phó Liêm Chương cho rằng tôi là thuộc cấp của ông và bắt tôi phải cung cấp tin tức cho ông về tất cả cái gì liên quan tới sức khoẻ của lãnh tụ. Phó Liêm Chương rất tự hào rằng đã có nhiều năm quan hệ tốt với Mao, và tin rằng Mao sẽ sướng tai nghe lời khuyên của ông ta. Nhưng thời thế đã đổi thay, và giờ đây Mao lại tin tôi hơn.
Chủ tịch chờ tôi ở bể bơi và mời tôi ăn trưa với ông.
- Thuốc nên uống trước bữa ăn - tôi nói.
Sau đó tôi rót 15 mililit dung dịch 50% chloralhydrade vào chén và đưa cho Mao. Ông uống một hơi và nói là vị nó không phải khó uống như vậy và thậm chí còn giống rượu vang, mà Mao hiếm khi dùng. Ông nói thêm:
- Bây giờ xem nó tác dụng ra sao!
Chúng tôi còn chưa ăn xong bữa, thì thuốc đã bắt đầu ngấm. Mắt Mao đờ đẫn, và ông bắt đầu thẫn thờ. Cuối bữa ông gần như không còn biết gì nữa. Tôi dìu ông vào phòng ngủ bên cạnh bể bơi, và lúc hai giờ thì ông đã chìm trong giác ngủ ngon lành.
Buổi chiều một vệ sĩ gặp tôi và với giọng ngưỡng mộ gọi tôi là phù thuỷ.
Mao đã ngủ 10 tiếng liền thành công. Khi tôi đến gặp ông, ông vẫn còn nằm trên giường, mắt nhắm nghiền. Khi mở mắt, lấy thuốc lá và hỏi:
- Đồng chí cho tôi thuốc gì hay thế?
- Đây là một loại thuốc ngủ. Người ta biết nó từ thế kỷ thứ 12, tác dụng của nó đối với cơ thể đã được biết cặn kẽ. Không có chống chỉ định nào cả.
- Vì sao đồng chí không đưa thuốc này tôi từ trước?
Tôi giải thích:
- Người ta nói cho tôi rằng Chủ tịch không thích thuốc nước, ngoài ra, vị của nó khá đắng khó uống, và gần đây chưa có thuốc này.
Thực ra giữa amital natri và chloralhydrade chẳng có gì khác nhau đáng kể. Đơn giản là Mao bị kích thích bởi những cơn mất ngủ đến nỗi trò quảng cáo thuốc của tôi, có thể, gây nên hiệu quả tâm lý thuần tuý.
Tôi cảm thấy Mao biết rõ rằng sự căng thẳng của ông gây ra bởi nguyên nhân tâm lý, và ông tin vào hiệu quả của tác dụng thuần tuý tâm lý. Khi Mao còn nhỏ, mẹ ông bán khoán ông cho nhà Phật để cầu Phật giúp đứa con bệnh tật của bà. Sau đó Mao hồi sức rất nhanh.
Mao nói với tôi:
- Tôi luôn luôn chống lại việc phá chùa chiền. Những người nghèo khi đau ốm tìm sự giúp của ông trời. Họ cầu cứu Phật để chữa khỏi bệnh, nhưng thay vì giúp đỡ họ chỉ nhận được một nhúm tàn hương. Tuy thế thậm chí chỗ tàn hương đó cũng làm giảm bớt đau đớn của họ, làm cho họ minh mẫn và trả lại sức khoẻ cho họ. Chẳng lẽ thuốc ngủ lại không giống tàn hương hay sao? Chẳng lẽ nó không làm tôi minh mẫn của tôi? Tôi cảm thấy rằng trong tủ thuốc của đồng chí hãy còn không ít thuốc thần diệu.
Sau cuộc độc thoại lạ lùng này, Mao tuyên bố:
- Bây giờ đồng chí có thể về nhà và ngủ một lúc đi. Tôi lại bắt tay vào công việc.
Từ đó Mao chỉ chấp nhận chloralhydrade và thường uống nó với seconal natri. Đến lúc này ông đã bắt đầu quen thuốc. Chúng không những giúp ông ta ngủ được, mà còn kích thích khẩu vị, thậm chí tác dụng như ma túy. Ông chuộng trạng thái lâng lâng gây ra bởi một số thuốc và và ông thường dùng nó khi cần tiếp khách hay họp hành. Ông cũng không quên chúng cả trong các buổi tối khiêu vũ.
Chương 10
Vốn tránh xa chính trị, nên tôi không hề hay biết sự căng thẳng giữa Mao và ban lãnh đạo trung ương đảng ngày càng tăng. Nhưng vào đầu năm 1956 tôi nhận thấy, Chủ tịch bị một sự bất an nào đó về chính trị ám ảnh. Sau này tôi mới biết, năm 1956 là thời điểm xảy ra một biến cố. Chính lúc đó, mầm mống của cuộc Cách mạng văn hóa, của sự xáo trộn chính trị ghê gớm đã được gieo, mà sau này nó đã làm chao đảo cả đất nước suốt một thập kỷ liền.
Bản tường trình bí mật của Khơ-rút-xốp tố cáo Stalin tại Đại hội lần thứ XX của đảng cộng sản Liên xô vào tháng hai năm 1956 đã đưa đến biến cố đó.
Mao không tham dự Đại hội đảng ở Mát-xcơ-va. Đoàn đại biểu Trung quốc do Chu Đức, người đã cùng với Mao thành lập Hồng Quân và chỉ huy đội quân du kích đó trong chiến tranh, dần đầu. Khi đó, Chu Đức khoảng 70 tuổi, đẹp lão với mái tóc đen dày và có nụ cười hiền hậu. Ông không hề có tham vọng chính trị. Sau giải phóng, ít nhiều ông đã co về cuộc sống riêng tư và đã từng giữ những vụ quan trọng: Phó Chủ tịch Chính phủ trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (từ năm 1949 đến năm l954), phó Chủ tịch nước cộng hoà nhân dân Trung hoa và phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (từ năm 1954 đến năm 1959). Khi ông không chính thức đi thị sát tình hình, thì ông dành thời gian chăm sóc những giò phong lan trong nhà vườn của ông ở Trung Nam Hải, nơi ông trồng tới hơn một nghìn giò. Chúng tôi thường gọi ông là Tổng tư lệnh và ông được nhân dân Trung quốc kính trọng, vì ông đã góp phần đưa đảng cộng sản Trung quốc lên nắm chính quyền.
Chu Đức đã không được chuẩn bị trong cuộc công kích của Khơ-rút-xốp. Ông đã đánh điện hỏi Mao về việc đó và xin chỉ thị ông nên phản ứng như thế nào. Đồng thời, ông đề nghị Trung quốc nên ủng hộ việc chỉ trích của Khơ-rút-xốp.
Đặng Tiểu Bình, lúc đó cũng ở Moskva, đã tán thành đề nghị của Chu Đức. Mao liền tỏ thái độ. Ông nổi giận nói: Chu Đức là kẻ dốt nát. Đồng chí ấy muốn chúng ta chỉ trích Stalin và quên sạch những nguyên tắc đạo đức cơ bản của cách mạng. Cả Khơ-rút-xốp và Chu Đức đều không thể chấp nhận được.
Thêm vào đó, Mao lại có lòng tin huyền bí vào vai trò của người lãnh đạo. Ông không hề băn khoăn khi cho rằng, chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của ông mới cứu vãn và thay đổỉ được đất nước Trung hoa. Ông chính là Stalin của Trung quốc và ai cũng biết điều đó. Mao hình dung, ông là đấng Cứu thế của đất nước. Việc Khơ-rút-xốp chỉ trích Stalin đã buộc Mao phải đề phòng rồi có lúc quyền lực của ông bị xới mòn và địa vị lãnh đạo của ông gàp trắc trở. Có lẽ, Mao chỉ tán thành việc chỉ trích Stalin, một khi việc đó mang lại cơ hội cho chính cá nhân ông. Sau khi Stalin chết và Khơ-rút-xốp lên thay vào năm 1953, Mao đã chúc mừng việc bổ nhiệm này. Nhưng khi Stalin bị chỉ trích, thì Mao trở thành đối thủ không đội trời chung đối với Khơ-rút-xốp. Dưới con mắt của ông, người lãnh đạo mới của Liên xô đã phạm một nguyên tắc cơ bản của cách mạng. Đó là nguyên tắc trung quân bất di bất dịch. Mặc dù Khơ-rút-xốp chịu ơn Stalin về tất cả mọi việc, nhưng ông ta lại chống Stalin.
Hơn nữa, theo Mao, bằng việc chỉ trích của mình, Khơ-rút-xốp đã bắt tay với Mỹ, tức là bất tay với tên đế quốc đầu sỏ. Ông tố cáo: Ông ta đã trao gươm cho người khác để bầy cọp có thể nuốt chửng chúng ta. Nếu họ không muốn giữ thanh gươm đó, thì chúng ta sẽ giữ nó. Chúng ta có thê sử dụng nó hữu hiệu. Liên xô muốn chỉ trích Stalin, nhưng chúng ta sẽ không làm điều đó. Nhưng không chỉ có vậy, chúng ta sẽ kiên định đi theo đường lối của Stalin.
ấy thế, khi Mao kể cho tôi về thái độ của ông đối với vị lãnh tụ Xô viết đã quá cố, tôi mới sửng sốt nhận ra rằng, Stalin và ông không bao giờ có thể đồng hành với nhau được. Sự cừu địch của Mao đối với vị lãnh tụ Liên-xô này thật ghê gớm, hệt như thời kỳ chính phủ Xô Viết ở tỉnh Giang Tăy vào đầu những năm 1930.
Năm 1924, khi đảng cộng sản Trung quốc mới gần ba tuổi, Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho tổ chức đảng còn non trẻ này cùng với Quốc dân đảng thành lập một liên minh chính trị. Vì ở Trung quốc đang xảy ra loạn lạc và không có một chính phủ trung ương nào, nên Quốc tế cộng sản muốn những người cộng sản Trung quốc hợp tác với những người quốc gia để đánh đổ các thủ lĩnh ở những vùng khác và thống nhất đất nước do một chính phủ lãnh đạo. Một mặt trận thống nhất đã được hình thành. Tuy nhiên, nàm 1927, Tưởng Giới Thạch đã dồn hết sức chống lại những người cộng sản ở đô thị làm cho số đảng viên giảm đi mau chóng. Khi đó, Mao đã trở về quê ông ở Hồ Nam, nơi ông đã chứng kiến những cuộc nôi dậy của nông dân. Theo kinh nghiệm, những cuộc nổi dậy ở Trung quốc thường xuất phát từ nông thôn. Bởi vậy Mao hiểu rằng, nếu có một cuộc cách mạng xảy ra ở đất nước này trong thế kỷ 20, thì khởi điểm của nó chính là từ nông dân và họ sẽ là lực lượng nòng cốt trong cuộc cách mạng đó. Ông đã đưa ra một chiến lược táo bạo, mặc dù nó không tuân theo học thuyết Mác-Lê nin chính thống. Nhưng những điều kiện lịch sử ở Trung quốc lại diễn ra hoàn toàn ngược lại. Theo diễn giải của Mao, đảng cộng sản sẽ là người lãnh đạo nông dân nổì dậy. Tại những vùng núi hẻo lánh thuộc tỉnh Giang Tây, ông đã xây dựng một căn cứ địa, để thực hiện cải cách ruộng đất với sự hỗ trợ của nông dân. Ngoài ra, ông thường tiến hành những cuộc tập kích vào quân Tưởng Giới Thạch, hy vọng rằng cuối cùng sẽ tiêu hao được sinh lực của những người quốc gia, tạo điều kiện cho nông dân chiếm được các đô thị. Dưới sự chỉ huy của Mao, khu Xô viết tỉnh Giang Tây ngày càng được mở rộng. Năm 1930, Stalin bổ nhiệm Vương Minh, người vừa tốt nghiệp khoa học ở Liên-xô khi mới 25 tuổi, làm đại diện của Quốc tế cộng sản ở Trung quốc. Theo Mao, mặc dù Vương Minh không muốn, nhưng một bộ phận Quốc tế cộng sản lại chấp nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản Trung quốc, vì đảng kiên trì đưa những hoạt động cách mạng từ nông thôn vào thành thị, do đó đã đẩy những người cộng sản còn non kém vào những cuộc chiến đấu vô vọng. ở khu Xô Viết, Mao bị coi là bảo thủ và ông bị dồn đến chân tường. Mao kể: Stalin gọi tôi là người cộng sản ngu dốt - đỏ vỏ trắng lòng. Ban lãnh đạo khu Xô viết Giang Tây lâm vào tình trạng lao đao khi quân Tưởng Giới Thạch bao vây khu căn cứ ở vùng núi và bắt đầu hàng loạt các cuộc tấn công mãnh liệt mà Tưởng gọi là chiến dịch tảo thanh. Ông ta gần như thành công. Chiến dịch tảo thanh thứ năm mang ý nghĩa tiêu diệt đảng cộng sản Trung quốc. Nhưng đảng cộng sản quyết định phá vòng vây để khỏi bị tiêu diệt. Họ đã thực hiện một cuộc rút lui nổi tiếng là cuộc Vạn lý trường chinh. Ngay trong cuộc Vạn lý trường chinh này, Mao đã đoạt lại vị trí lãnh đạo của ông.
Mao đã buộc Stalin và Quốc tế cộng sản phải chịu trách nhiệm đối với những khủng hoảng trước đây của đảng. Theo ông, Quốc tế cộng sản đã biến những lối thoát có lợi thành ngõ cụt. Ông nói:
- Khi đó chúng tôi đã bị tiêu diệt 100% trong những vùng do Quốc Dân đảng kiểm soát ở Trung quốc, và ở khu Xô viết 90% bị tiêu điệt. Lẽ ra chúng tôi phải buộc Stalin hoặc Liên-xô chịu trách nhiệm về thảm họa đó, thì chúng tôi lại khiển trách một số đồng chí của chúng tôi vì thứ chủ nghĩa giáo điều mang tính duy ý chí sai lầm của họ.
Không phải Stalin, mà chính Vương Minh, tín đồ của chính sách Stalin, phải báo cáo về tai họa này. Thậm chí, Mao cũng đã kết tội ông ta là người tả phái phiêu lưu. Ngoài ra, Mao còn chỉ trích Stalin rằng, sau Chiến tranh thế giới thứ hai ông ta đã quy phục trước sức mạnh của Mỹ và khuyên đảng cộng sản Trung quốc noi gương các đảng cộng sản Pháp, ý và Hy Lạp, đầu hàng chính phủ, tức là đầu hàng Quốc dân đảng. Nhưng Mao đã cự tuyệt. Trong cuộc nội chiến giữa những người Quốc gia và những người cộng sản, Stalin không hề giúp những người cộng sản một khẩu súng hay một viên đạn nào, đến cả cái rắm cũng không. Chẳng những thế, ông ta lại ép những người cộng sản phải ngừng cuộc hành quân của họ ở phía Bắc sông Dương Tử và để cho Quốc dân đảng kiểm soát toàn bộ miền Nam. Mao nói: Chúng tôi không thèm đề ý đến lời ông ta.
Tôi thường nghe rằng, phần lớn vũ khí mà những người cộng sản dùng trong cuộc nội chiến là từ Liên-xô và được để lại khi người Xô viết di tản đến vùng Mãn Châu khi chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Nhưng Mao lại không muốn xác nhận rằng, thực ra Liên xô đã giúp và tôi khó mà cãi lại ông được.
Khi những người cộng sản chiếm thành phố Nam Kinh - thủ phủ của Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch phải chạy trốn về Quảng Châu. Mao nói, đại sứ Anh và Hoa Kỳ đã ở lại Nam Kinh để hợp tác với chính phủ mới. Ngược lại, Liên-xô đã ủng hộ Quốc dân đảng và chuyển sứ quán của họ về Quảng Châu. Theo Mao, thì Stalin không muốn những người cộng sản chiến tháng. Mao nói tiếp:
- Mùa đông năm 1949, chỉ vài tháng sau giải phóng, thì tôi đi hội đàm ở Liên-xô. Nhưng Stalin không tin tôi. Hai tháng trôi qua mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Cuối cùng, tôi bực quá và nói: Nếu đồng chí không muốn hội đàm, thì chúng ta cứ gác việc đó lại và tôi về.
Nhưng rồi, một Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ song phương giữa Liên-xô và Trung quốc cũng đã được ký. Cuộc chiến ở Triều Tiên cũng gây ra càng thẳng giữa Mao và Stalin. Tôi thường cho rằng, Liên-xô và Trung quốc đã hợp tác với nhau trong chiến tranh, thế nhưng Mao lại phủ nhận diu này. Ông nói:
- Khi quân đội Mỹ tiến đến biên giới Trung - Triều tại sông áp Lục, tôi đã nói với Stalin chúng tôi sẽ điều quan đến đó. Nhưng Stalin không đồng ý, vì ông ta sợ xảy ra Thế chiến thứ ba.
Mao báo cho Stalin rằng, nếu ông ta không muốn tham chiến và nếu người Mỹ chiếm được Triều Tiên, thì họ sẽ không chỉ đe dọa Trung quốc, mà còn là mối nguy hiểm đối với cả Liên-xô nữa.
Cuối cùng, há miệng, thì có thể mắc quai. Cứ muốn đánh nhau, Mao lại phải cần đến vũ khí của Liên-xô. Một khi Liên-xô sợ Mỹ và Anh kết tội ủng hộ Trung quốc, thì Trung quốc có thể mua lại vũ khí của Liên-xô. Trung quốc sẽ đơn phương chiến đấu và Liên-xô không dính dáng gì đến việc này. Mao quy cho Stalin muốn chia cắt Trung quốc. Để làm điều đó, Stalin đã cố đưa Cao Cương lên làm thủ lĩnh ở Mãn Châu và thành lập ở đây một đảng cộng sản riêng. Sự khẳng định của Mao làm tôi ngạc nhiên. Với tất cả những lời lẽ công khai thì Liên-xô là người anh của Trung quốc, là tấm gương cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa của chính chúng ta. Nhưng theo Mao, thực ra sự tương quan này gần như là mối quan hệ chủ tớ. Mao nói: Họ muốn nuốt chửng chúng ta. Không bao giờ ông muốn bị thất thế. Lịch sử đã dạy ông rằng, nên ủng hộ những đất nước xa xôi, nên thận trọng đối với những nước láng giềng và đừng có đặt niềm tin vào chủ nghĩa bành trướng Xô Viết.
Tuy nhiên, Mao không bao giờ để lộ sự chỉ trích của ông, vì với tư cách một người lãnh đạo cách mạng, Mao liên hệ mật thiết với Stalin.
Bản tường trình của Khơ-rút-xốp cũng làm cho chính sách đối nội của Trung quốc thay đổi. Việc Chu Đức đề nghị Trung quốc nên ủng hộ việc chỉ trích Stalin là một sự xúc phạm ghê gớm đối với Mao. Không bao giờ tôi cho Chu Đức lại là mối nguy hiểm đối với Mao và sự bực tức của Mao là vô lý. Nhưng trước đây, Mao và Chu Đức đã từng tranh cãi với nhau khi còn ở Giang Tây và Mao đã quả quyết, nhận định ban đầu của Chu Đức về bản tường trình của Khơ-rút-xốp đã phản ánh tư cách của ông ta. Vì vậy, ông đã không hiểu được sự trung thành của Chu Đức.
Ngày 1-5-1956, hai tháng sau khi bản tường trình của Khơ-rút-xốp được công bố và cơn giận lôi đình của Mao, thì Chu Đức lâm bệnh. Thực ra, tình trạng sức khỏe đã không cho phép ông có mặt trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng đó lại là một sự kiện chính trị quan trọng, vì các vị lãnh đạo cao cấp của Trung quốc đều có mặt vào ngày hôm đó để chụp một bức ảnh chính thức. Bởi thế, Chu Đức ngại rằng người ta sẽ có ấn tượng nào đấy khi ông vắng mặt trước công chúng. Ông đã nói với Trần Dương Anh, vợ góa của Nhậm Bích Thế là: Nếu tôi không đến, mọi người sẽ nghĩ tôi đã phạm một sai lầm tồi tệ về chính trị và vì thế tôi đã vắng mặt. Cuối cùng, khi chụp ảnh, Chu Đức mệt mỏi, mặt tái mét đứng vào chỗ của ông cách không xa Mao Chủ tịch.
Mao không bao giờ tha thứ cho Khơ-rút-xốp vì ông ta đã chỉ trích Stalin. Tuy nhiên, vào nãm 1956 tôi để ý thấy Mao cũng thường bất bình với ban lãnh đạo đảng của ông như thế nào. Trước hết, loại người hèn hạ, cứng nhắc, dập khuôn theo mô hình Xô Viết đã làm ông không hài lòng.
Ngay năm 1956, Liên-xô đã đảm nhận nhiều công việc giúp Trung quốc. Dưới sự giám sát trực tiếp của đảng cộng sản Trung quốc, một bộ máy quan liêu, cồng kềnh đã được triển khai và nó quán xuyến cả những vùng nông thôn. Công cuộc tập thể hóa nông nghiệp đã hoàn thành, những nhà máy và doanh nghiệp lớn ở các thành phố đều do nhà nước quản lý. Các xí nghiệp tiểu thủ công nghiệp có quy mô nhỏ hơn và các cửa hiệu đã bị quốc hữu hoá hoặc là được giao cho chính quyền địa phương quản lý. Sự chuyển biến mang tính xã hội chủ nghĩa đã thể hiện rõ nét trong phương diện kinh tế quan liêu. Nhưng sự chuyển biến về tư tưởng, sự hồi sinh sống động của Trung quốc mà Mao ao ước thật khó mà đạt được. Những chiến sĩ cách mạng kỳ cựu đã trở thành những kẻ quan liêu, đối với họ đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội quan trọng hơn cả tư tưởng cách mạng của Mao. Mao tỏ ra nóng lòng. Ông muốn đẩy mạnh cuộc cách mạng. Nhưng nhưng kẻ quan liêu trong đảng, trong đó có cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp, vẫn còn dè dặt và bám lý hình mẫu phát triển của Liên-xô. Người ta đã thiết lập những thể chế và cơ cấu tổ chức theo khuôn mẫu của Liên-xô mà không lưu tâm đến hoàn cảnh đặc biệt ở Trung quốc. Do vậy, Mao đã nổi giận với các đồng chí của ông.
Cuộc cách mạng do Mao tiến hành đòi hỏi lòng dũng cảm, sự hăng hái, tinh thần sẵn sàng chiến đấu và Mao cho rằng, những người lãnh đạo của Trung quốc vẫn còn thiếu những đặc điểm đó. Bởi vì, thậm chí một số người tán thành việc Khơ-rút-xốp chỉ trích Stalin, nên ông phải dè chừng đối với địa vị của mình. Mao không muốn một thuộc hạ nào của ông noi gương Khơ-rút-xốp và lên án ông mãnh liệt sau khi ông qua đời. Cho nên, ông cũng tính đến việc có kẻ nào đó âm mưu lật đổ ông khi ông còn sống. Sự bất bình của ông đối với đảng ngày càng tăng theo năm tháng và nó đã đưa đến cuộc Cách mạng văn hóa đầy tai hại.
Chương 11
Việc Mao tự viết về mình thật là thiếu liêm sỉ.
Năm 1970, ông nói với Edgar Snow ông là hoà thượng đạt san, dịch từng chữ có nghĩa là hoà thượng đội mũ. Nhưng heshang dasan chỉ là vế đầu của một câu thơ. Vế thứ hai là vô phan vô thiên mới là vế quan trọng, nhưng lại thường không được nhắc đến. Vô phan vô thiên, có nghĩa là không tóc, không Trời, tức là coi Trời bằng vung, để nói về một người bất phục. Vì người nữ phiên dịch của Mao khi đó không được đào tạo về lĩnh vực văn chương, nên đã dịch câu nói của Mao thành một nhà sư đội mũ cô đơn lang bạt khắp nơi. Edgar Snow và những nhà khoa học khác suy ra rằng, Mao tự ví mình như một người độc hành đáng thương. Nhưng thực ra, Mao muốn nói rằng, chính ông là thiên, là Trời: vô phan vô thiên.
Mao đã nổi dậy chống lại mọi quyền lực và doạt được mọi thứ. Đieu này không chỉ có giá trị đối với những quyết định trong lĩnh vực chính trị cao nhất, mà còn có tác dụng đối với cả những việc lặt vặt hàng ngày. Tại Trung Nam Hải, không có gì xảy ra nếu không được ông chuẩn y. Thậm chí ông quyết định cả việc vợ ông mặc bộ y phục nào.
Mao không có bạn và sống hoàn hoàn cách biệt. Ông dành rất ít thời gian cho vợ và không quan tâm lám đến con cái. Mặc dù sự lịch thiệp của Mao trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi đã gây cho tôi ấn tượng rằng, Mao không những tỏ ra đáng yêu, thân mật và còn nhân hậu nữa. Một lần tôi và Chủ tịch đi xem biểu diễn nghệ thuật ở Thượng Hải. Trong tiết mục đi trên dây, một em nhỏ đã bị thương nặng. Trong khi khán giả lặng người đi và mẹ của em nhỏ khóc lóc trước sự không may đó, thì chỉ có Mao vẫn thản nhiên tán chuyện và cười vang như không có điều gì xảy ra. Tôi cũng biết, ông không bao giờ hỏi han về số phận của em nhỏ đi trên dây. Tôi không thể hiểu nổi sự lãnh đạm của Mao. Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều cảnh tang tóc, nên ông chai sạn với nỗi đau khổ của con người. Người vợ đầu của ông là bà Đường Khai Tuệ và cả hai người em ruột của ông đều bị Quốc dân đảng sát hại. Con trai cả của ông cũng đã hy sinh trong cuộc chỉến ở Triều Tiên. Ông cũng đã mất những người con trong cuộc Vạn lý trường chinh vào giữa những năm 30. Nhưng không bao giờ tôi thấy ông để lộ bất cứ sự xúc động nào vì những mất mát này. Việc ông sống sót trong khi nhĩeu người khác đã hy sinh càng làm cho ông tin tưởng ông sẽ rất thọ. Ông nói, chính những người chết đã phù hộ cho cách mạng.
Mao không bao giờ thiếu thông tin. Mặc dù suốt ngày ông nằm trên giường và không mặc quần áo, nhưng ông thường đọc và được các cộng sự của ông báo cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng về những sự kiện ở Trung quốc và trên thế giới, từ những mưu mô lặt vặt ngay xung quanh ông, những diễn biến tại những nơi hẻo lánh ở Trung quốc cho đến những sự việc xảy ra ở những đất nước xa xôi khác. Mao không ưa hình thức và lễ nghi. Sau khi Mao được bổ nhiệm làm Chủ tịch nước ít lâu vào năm 1949, vụ trưởng Vụ Lễ tân Dư Tín Thanh đề nghị ông nên tuân theo lễ nghi quốc tế trong khi đón tiếp các đại sứ nước ngoài, như mặc quần áo màu sẫm, đi giày da đen. Mao đã nổi giận. Ông nói:
- Chúng ta là người Trung quốc, chúng ta có tập quán riêng của chúng ta. Tại sao chúng ta lại phải theo người khác?
Từ đó ông thường mặc bộ đồng phục kiểu Tôn Trung Sơn và đi giày vải. Khi các chính trị gia hàng đầu khác noi gương vị Chủ tịch của họ, thì tên của bộ đồng phục đã thay đổi và bộ đồng phục màu xám kiểu Mao đã trở thành mốt. Vụ trưởng Vụ Lễ tân, người dám cả gan khuyên Mao tuân theo nghi thứ quốc tế đã bị cách chức. Ông ta đã tự vẫn trong thời kỳ Cách mạng vàn hóa. Mao coi lịch trình, công việc hàng ngày, nghi thức và lễ nghi như là phương tiện để kiểm tra chính mình. Ông không hề bị lệ thuộc vào bất cứ quy định nào, ông thưng chơi bời quá độ. Khi đi dạo, ông thường về nhà bằng đường khác. Ông hay tìm tòi những cái mới, những điều chưa được thử nghiệm không những trong cuộc sống riêng tư mà còn cả trong lĩnh vực chính trị. Ông mê nhất lịch sử Trung hoa. Ông thường nói: Chúng ta phải nghiên cứu về quá khứ để phục vụ hiện tại. Ông đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần cuốn lịch sử 24 triều đại - một bộ biên niên sử chính thống, được triều đại vừa mới chiến thắng sắp xếp trong khoảng thời gian từ năm 221 trước công nguyên đến năm 1644 sau công nguyên.
Tuy nhiên, quan điểm lịch sử của Mao khác cơ bản với những người bình thường khác ở Trung quốc. Lĩnh vực đạo đức không có chỗ trong chính sách của Mao. Tôi hoảng sợ khi nghe thấy rằng, Mao không chỉ tự ví mình với những vị hoàng đế Trung hoa, mà còn tỏ ra khăm phục những tên bạo chúa bất nhân nhất. Mao đặc biệt khâm phục vua Chu, kẻ trị vì triều đại nhà Thương trước công nguyên. Dân tộc Trung hoa ghê tởm vua Chu và khiếp sợ trước sự tàn bạo của vị vua này. Đối với nhà vua, sinh mạng của bầy tôi chỉ là cỏ rác và nhà vua thích bêu xác những nạn nhân bị hành quyết, để cảnh cáo những người nổi loạn chống lại nhà vua. Bể tắm của nhà vua thường đổ đy rượu vang.
Tuy vậy, Mao cho rằng, sự quá thái của vua Chu không có nghĩa gì so với những việc làm của nhà vua. Vua Chu đã bành trướng lãnh thổ Trung hoa, kiểm soát cả một vùng duyên hải từ Bầc tới Nam và đã thống nhất nhiều sắc tộc khác nhau. ấy thế, nhà vua đã ra lệnh giết một số vị quan có tài và trung thành. Thí dụ điển hình là một vị quan đã lập được nhiều công trạng, nhưng chỉ vì can ngăn hành động bành trướng của vua Chu mà bị xử trảm. Vua Chu sống rất xa hoa và có hàng nghìn cung tần mỹ nữ, nhưng vua nào mà chẳng thế.
Vua Tần Thủy Hoàng, 22l-206 trước công nguyên, người lập nên triều đại nhà Tần và vương quốc Trung hoa tồn tại gần hai nghìn năm, cũng là người được Mao hâm mộ. Ông thường ví mình với vị hoàng đế này. Như vua Chu, Tần Thủy Hoàng cũng bành trướng lãnh thổ Trung hoa và đã thống nhất vô số các quốc gia nhỏ. Ông đã đưa ra đơn vị đo trọng lượng và khối lượng, đã xây dựng mạng lưới đường bộ. Nhưng người Trung hoa khinh bỉ ông, vì ông đã tàn sát những người theo đạo Khổng và đốt những cuốn sách cổ. Mặc dù vậy, Mao nói, Tần Thủy Hoàng chỉ làm điều này để cố gắng thống nhất đất nước Trung hoa và xây dựng đế quốc Trung hoa mà không bị ngăn cản. Ngoài ra, ông ta chỉ giết 260 người theo đạo Khổng thì có gì quá thảm khốc? Khi nhận xét về Tần Thuỷ Hoàng, người ta không được cường điệu những điều không quan trọng mà quên đi những điểm nổi bật.
Mao cũng rất khâm phục Hoàng hậu Võ Tắc Thiên (627-705 sau công nguyên), một trong số ít phụ nữ nắm giữ quyền lực ở Trung quốc và là cái đích mà sau này Giang Thanh đã cố đạt được. Khi Mao hỏi tôi nghĩ gì về Võ Tắc Thiên, tôi đã nói thẳng: Bà ta là người đa nghi, gian giảo và đã giết hại quá nhiều người. Mao nói:
- Đúng vậy, nhưng Võ Tắc Thiên cũng là một người cải cách xã hội. Bà ta đã bênh vực quyền lợi của địa chủ nhỏ và trung bình trong việc nộp tô cho giới quý tộc và những dòng họ lớn. Nếu bà ta không đa nghi và không tin vào những tay do thám của bà thì làm sao bà phát hiện được những âm mưu của giới thượng lưu và của những gia tộc lớn chống lại bà? Và tạì sao bà lại không hạ thủ những kẻ âm mưu chống lại bà?
Đối với vua Tùy Dạng (604- 618 sau công nguyên) cũng vậy. Dưới con mất của người Trung quốc, ông vua này là tên bạo chúa xấu xa nhất. Ông mê gái và mê rượu. Ông sống rất xa hoa, đồi trụy. Những cô gái trẻ đẹp đã phải kéo con thuyền du ngoạn của ông ngược dòng bằng những sợi dây lụa. Vô số người đã chết trong khi đào kênh của vua. Nhưng Mao lại liệt ông vào hàng những kẻ cai trị giỏi nhất. Tất cả các con sông ở Trung quốc đều chảy từ Tây sang Đông. Riêng kênh của vua lại nối miền Bắc với miền Nam. Vì vậy, vua Tùy Dạng cũng là người vĩ đại hiếm có.
Mao quan tâm đến lịch sử Trung quốc hơn cả. Nhưng ông cũng đã đọc ít nhiều về một số nhân vật lịch sử phương Tây. Trước hết, ông đánh giá cao Napoleon. Theo Mao, bằng lực lượng pháo binh mạnh, Napoleon đã làm một cuộc cách mạng về chiến lược quân sự. Ngoài ra, vị tướng Pháp này đã ứng dụng khoa học vào chính sách bành trướng. Ông không chỉ đưa quân đến Ai Cập mà còn đưa cả các nhà khoa học đến đó để nghiên cứu nguồn gốc của nền văn minh phương Tây. Mao cũng muốn tổ chức một chuyến đi nghiên cứu như vậy. Năm 1964 ông đã dự định thực hiện chuyến thám hiểm khoa học tìm hiểm về nguồn gốc của con sông Hoàng hà ở tỉnh Thanh Hải xa xôi. Sông Hoàng Hà đã từ lâu gắn chặt với cái nôi của nền văn hoá Trung quốc khiến Mao có ý định lần về quá khứ của nền văn hóa này và cả nguồn gốc của nó nữa. Uông Đông Hưng được giao nhiệm vụ tập hợp và điều hành một nhóm những nhà sử học, trắc địa, địa chất và những chuyên viên thủy học và năng lượng học. Uông ta đã kiếm được những con ngựa vùng Nội Mông cũng như quân trang, quân dụng. Tôi và Mao cùng nhau tập cưỡi ngựa. Ngày 10 tháng tám 1964 chuyến đi bị hoãn lại, năm ngày trước Mao nhận được tin Mỹ định đổ thêm quân vào Việt Nam hòng làm chủ tình thế. Ông quyết định bí mật phái ra chiến trường những người lính Trung quốc được cải trang bằng những bộ quân phục Việt Nam, để hỗ trợ cho đồng minh của ông.
Về chính bản thân ông, quan điểm lịch sử của Mao cũng có nhiều điểm không đúng. Những tài liệu về quá khứ của đất nước Trung hoa đã giúp ông nắm được và điều chỉnh được hiện tại và ông kết hợp điều đó với chính sách đối ngoại của đất nước. Tôi biết, những mưu mô trong các triều đại vua chúa tác động đến tư tưởng của ông mạnh hơn cả chủ nghĩa Mác-Lênin. Dĩ nhiên, Mao vẫn là một người cách mạng. Mục đích của ông là thành lập nước Trung quốc, mang lại sức mạnh và cuộc sống tốt đẹp cho đất nước. Thế nhưng quá khứ lại dẫn dắt sự lãnh đạo và lối hành xử đầy thâm hiểm của ông nhằm vào tầng lớp lãnh đạo cao cấp.
Nếu xét đến những thay đổi mà Mao cố đạt được, thì những thay đổi đó lại chẳng đóng góp được gì vào lịch sử của Trung quốc. Quan điểm của Mao là sử dụng văn hóa Trung quốc. Ông muốn đổi mới nền văn hoá đó, nên điều cần thiết là phải học hỏi nước ngoài và kết hợp những tư tưởng mới lạ với tình hình Trung quốc. Ông thường nói, kết quả sẽ không mang tính chất của Trung quốc, mà cũng không mang tính ngoại lai, chẳng phảỉ là lừa, mà cũng chẳng phải là ngựa, mà là con la.
Bằng chủ nghĩa xã hội, Mao muốn khơi dậy tiềm năng sáng tạo của dân tộc Trung hoa và đưa đất nước Trung quốc trở lại thời hoàng kim trước đây. Ông cần sự ủng hộ cần thiết của Liên-xô, vì đó là một nhà nước xã hội chủ nghĩa hết sức quan trọng đối với Trung quốc. Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa, Mao đã tâm niệm rằng, Trung quốc phải đi theo một hướng riêng. Liên xô là một tấm gương đối với ban lãnh đạo mới của Trung quốc. Nhưng khi Mao nói về chủ nghĩa xã hội, ông thường đề cập đến một chủ nghĩa xã hội mang tính chất đặc thù của Trung quốc, một chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước Trung quốc hạnh phúc và vinh quang. Ông thường nói, việc nhập cảng ồ ạt tư tưởng và hàng hóa của nước ngoài mà không có sáng tạo của mình thật đáng lên án. Ông không bao giờ có ý định tiếp thu mô hình xô-viết mà không có phê phán. Ngay hôm đầu chúng tôi quen nhau, ông đã tỏ ra rất khâm phục công nghệ, sự năng động và nền khoa học của Mỹ và phương Tây. Với quan điểm phát triển theo một hướng riêng, và nhờ có kiến thức, mà ông thường không cường điệu, coi Liên-xô là một tấm gương sáng duy nhất đối với việc xây dựng lại đất nước Trung quốc.
Mao có một cách nhìn đặc biệt về vai trò của riêng ông trong lịch sử. Ông là người lãnh đạo vĩ đại nhất, kẻ trị vì vĩ đại nhất trong tất cả những kẻ trị vì, là người đã thống nhất đất nước Trung quốc và muốn đưa đất nước này trở lại thành cường quốc như trước đây. Với tôi, Mao không bao giờ dùng chữ hiện đại hóa. Ông không phải là người hiện đại. Thay vì điều này, ông nói về việc làm cho đất nước phồn vinh và lấy lại được tầm vóc trước đây của nó. Là một kẻ nổi loạn, một kẻ không thích sùng bái, nhưng ông lại muốn dựng lên Vạn lý trường thành của riêng ông. Sự vĩ đại của bản thân ông và nhân dân Trung quốc đan xen vào với nhau. Cả đất nước Trung quốc là của Mao và ông có thể thử nghiệm tùy thích. Mao là Trung quốc và ông nghi ngờ bất cứ ai tỏ ý muốn bàn về vị trí của ông hoặc không chia xẻ quan điểm của ông. Ông đã loại những đối thủ của ông một cách không thương xót. Đối với ông, sinh mạng của những người dưới quyền hoàn toàn vô nghĩa.
Lúc đầu, tôi khó tin rằng, Mao lại sẵn sàng hy sinh những công dân của nước ta đề đạt được mục đích của ông. Từ khi Mao gặp tổng thống ấn độ Jawaharlan Nehru vào tháng 10 năm 1954, tôi mới biết rằng Mao đã dành sẵn những quả bom nguyên tử cho con hổ giấy và không ngần ngại hy sinh hàng trìệu người Trung quốc để chiến thắng trong cuộc đấu tranh chống bọn đế quốc. Ông quả quyết với Nehru: Đừng có sợ bom nguyên tử. Trung quốc rất đông dân. làm sao một quả bom nguyên tử lại có thể xóa sổ tất cả họ được. Nếu ai có thề ném vào người khác một quả bom nguyên tử, thì tôi cũng có thể làm được việc đó. Tôi đâu có sợ trước cái chết của mười hay hai mươi triệu dân. Nghe đến đó, ông Nehru phát hoảng. Trong bài diễn văn đọc ở Moskva năm 1957, Mao tuyên bố, ông sẵn sàng hy sinh 300 triệu dân Trung quốc, một nửa dân số Trung quốc. Ngay khi Trung quốc có mất đi nửa số dân, thì đó cũng chưa phải là tốn thất lớn lao, vì đất nước này vẫn có thể sản sinh ra nhiều người nữa. Riêng trong thời kỳ đại nhảy vọt trước đây đã có hàng trìệu người Trung quốc chết đói, làm cho tôi thấy ràng, Mao hệt như những tên bạo chúa mà ông vốn khâm phục. Ông thừa hiểu, nhiều người đã chết ra sao, nhưng ông không hề mảy may động lòng.
Từ cuộc nói chuyện đầu tiên giữa chúng tôi về lịch sử Trung quốc, tôi đã có thể rút ra những bài học cho bản thân. Quan điểm lịch sử của Mao rất bổ ích đối với tôi. Ông là trung tâm để vạn vật quay quanh ông. ý muốn của ông là trên hết. Sự trung thành là yêu cầu cao nhất. Ông đòi hỏi ở những người dưới quyền ông, vợ ông, bạn gái của ông, các cộng sự và nhưng người phục vụ ông, cũng như những người lãnh dạo chính trị mà ông đã chia xẻ quyền lực với họ, sự trung thành tuyệt đối và trọn vẹn.
Sự trung thành này dựa vào sự tin cậy ít hơn vào sự lệ thuộc. Vì Mao không có khả năng mang lại những tình cảm khác, nên ông cũng không thể trông chờ người ta dành cho ông mối thiện cảm. Trong tất cả những năm là bác sỹ riêng của Mao, tôi thường chứng kiến việc Mao củng cố lòng trung thành của người khác cũng như của tôi đối với ông như thế nào.
Với vẻ dễ mến, ông đã chiếm được lòng tin của người khác và làm cho họ thú nhận những khuyết điểm của họ. Mao đã bỏ qua tất cả và làm cho họ có cảm giác yên tâm. Bằng cách này, ông đã thâu nạp được những cộng sự trung thành nhờ sự bao dung bên ngoài của ông. Bất cứ những ai trung thành mới Mao, đều bị lệ thuộc vào ông, và càng lệ thuộc vào ông, thì họ càng khó thoát khỏi sự khống chế của ông. Không một ai ở Trung quốc dám ủng hộ một người nào đó đã không trung thành với Chủ tịch. Có một số người đáng tin cậy, vì Mao đã cứu bản thân họ hoặc làm cho họ yên tâm, hoặc họ coi ông là cứu nhân của đất nước Trung quốc. Ngược lại, những người khác thường là những kẻ xu nịnh. Mao cũng thích được bợ đỡ, ngay cả khi ông thừa biết họ chẳng nghiêm chỉnh gì, vì ông hiểu rằng, thời gian sẽ phân loại được những kẻ nịnh thần với những người thực sự trung thành. Rút cuộc, những kẻ nịnh bợ sẽ bị phế truất, nếu họ không còn tác dụng nữa.
Phương châm của Mao là: Phục vụ nhân dân và khắp đất nước Trung quốc, đâu đâu lời hiệu triệu này cũng được quảng cáo bằng chữ trắng viết trên nền đỏ với bút tích của Mao. Đằng sau cánh cổng của nước Trung hoa mới sau lối vào khu vực Trung Nam Hải ở phía Nam, có một tấm biển mang dòng chữ vàng cấm thường dân Trung quốc ngó nghiêng vào bên trong khu Cấm Thành hiện đại, nơi những ngươi lãnh đạo cao cấp nhất của Trung quốc sống và làm việc. Trong những buổi họp nghiên cứu chính trị định kỳ ở Trung Nam Hải, chúng tôi thường được nhắc nhở là phải phục vụ nhân dân và đảng thay vì phục vụ cá nhân mình. Lời hiệu triệu này luôn cổ vũ tôi và là một trong những lý do khiến tôi nhất thiết phải gia nhập đảng cộng sản.
Nhưng sau khi bắt tay vào công việc ít lâu, tôi nhận thấy rằng, Mao là trung tâm để vạn vật quay quanh, là một cái mỏ quí và người được bảo vệ, được bợ đỡ và được nịnh hót. Mọi việc đều được làm vì Mao. Ông không bao giờ phải nhúng tay, không bao giờ tự xỏ tất đi giày, tự mác quần áo hay tự chải đầu. Khi tôi lưu ý với Uông Đông Hưng rằng, phải tập trung sức lực của nhóm Một vào việc phục vụ Mao, chứ không phải phục vụ nhân dân, thì ông ta nói phục vụ nhân dân chỉ là một khái niệm trừu tượng. Uông nói: Chúng ta phải phục vụ một cá nhân cụ thể. Nói là phục vụ Mao có nghĩa là phục vụ nhân dân, không đúng sao? Đảng đã tin tưởng giao công việc cho đồng chí, tức là đồng chí đã làm việc cho đảng hay à không phảỉ như vậy?
Thật là non dại và thơ ngây làm sao khi tôi đã tin vào lời nói của Uông Đông Hưng. Thế rồi sau này tôi đã hiểu rằng, hệt như các vị hoàng đế đã ruồng bỏ không thương tiếc những thuộc hạ của mình, khi những người này không hoàn toàn đồng ý với sự nghĩ của các vị hoàng đế, Mao cũng có thể phế truất tất cả những cố vấn và cộng sự của ông, nếu họ không hoàn toàn nhất trí với ông. Lúc đầu, người ta đã không trừng phạt các quan chức cao cấp vì đôi khi họ có những ý kiến khác với Mao. Nhưng Mao vẫn để bụng và một khi ông biết được ai đó dưới quyền không trung thành với ông, đến khi thời gian chín muồi, ông có thể đánh gục cả những chién sĩ cách mạng lão thành mà không hề đắn đo. Những người như Chu Ân Lai có vẻ biết được điều đó và hoàn toàn tuân phục Mao. Những người khác như Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu thì không thế, nên họ phải rút lui. Khi một người lãnh đạo cao cấp có tư duy độc lập, thì ông ta sẽ bị loại.
Một khi Mao nghi ngờ những ai trong ban tham mưu của ông có quan hệ mật thiết với những quan chức cao cấp quan trọng khác, như Chu Ân Lai, Lâm Bưu hoặc Lưu Thiếu Kỳ, thì ông sẽ phế truất họ ngay. Mao cảnh cáo tôi: Mọi tai họa đều do cái miệng. Tôi biết số phận của tôi phụ thuộc vào sự nín lặng của tôi. Trong khi xảy ra những trào lưu chính trị làm xáo trộn cả đất nước Trung hoa trong hai thập kỷ liền, tôi đã ghi lòng tạc dạ lời giáo huấn của Mao Chủ tịch và chỉ giới hạn mình trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông. Khi là bác sỹ riêng của Mao, tôi đã biết được tính tàn nhẫn của ông. Tôi đã nín lặng, để khỏi mang vạ vào thân và chỉ nói khi Mao muốn. Mặc dù vậy tôi vẫn kính trọng ông. Ông là con người vĩ đại của Trung quốc, là người đã cứu đất nước chúng ta, là ngọn núi cao nhất của chúng ta, của tất cả những người lãnh đạo của chúng ta. Đối với tôi, Trung quốc là một đại gia đình duy nhất và gia đình này cần có một người chủ. Đó là Mao Chủ tịch. Tôi muốn phục vụ ông và cũng là phục vụ nhân dân Trung quốc.
Chương 12
Khi vi hành với Mao, tôi mới biết người ta đã sửa soạn cho những chuyến đi của ông như thế nào. Sự an toàn và sức khỏe của ông là trên hết. Tại Trung Nam Hải, Mao được bảo vệ rất cẩn mật bằng các biện pháp an ninh đa dạng, nhưng những biện pháp đó dần dần trở nên quá nhàm, đến nỗi hầu như tôi không để ý đến chúng nữa. Chỉ trong các chuyến đi chu du, các biện pháp bảo vệ đặc biệt đó mới lại bộc lộ.
Mao thường hay đi đây đó, ít khi ông sống một thời gian dài ở Bắc Kinh. Tại thủ phủ ở phía Bắc này, ông cảm thấy như không phải ở nhà. Ông thích về quê ông ở miền Nam hơn và về những nơi ông thích lưu lại như Quảng Châu, Hàng Châu, Thượng Hải và Vũ Hán. Ông thường ở lại những nơi đó hàng tháng trời và miễn cưỡng trở về Bắc Kinh vào các ngày lễ mồng l tháng Năm hay ngày quốc khánh, hoặc để tiếp khách nước ngoài. Khi đi chu du, Mao cũng có những sở thích của ông. Nếu ông quyết định đi Hàng Châu vào buổi sáng, thì thường thường chúng tôi phải lên đường vào chiều hôm trước. Ngay những người tháp tùng ông cũng không được thông báo chính xác điểm dừng của cuộc hành trình và nếu Mao đã định đi đâu từ lâu, thì thường vào chiều hôm trước chúng tôi mới được thông báo vì lực lượng an ninh sợ chuyến đi của ông có thể bị tiết lộ. Bởi vậy, ít khi chúng tôi có quá một hay hai ngày để chuẩn bị.
Mao thường chu du bằng một đoàn tàu hỏa của riêng ông có mười một toa lịch sự. Đoàn tàu được để trong một căn nhà đặc biệt, cách xa ga chính của thành phố Bắc Kỉnh để Mao đi lại thuận tiện. Mao và Giang Thanh có những toa riêng, mặc dù Giang Thanh chỉ một lần duy nhất cùng đi với chúng tôi. Toa thứ ba của đoàn tàu được dùng làm phòng ăn và nhà bếp. Trong toa sang trọng của Mao có một chiếc giường gỗ đồ sộ, một giá sách lớn chiếm mất khá nhiều chỗ.
Bốn toa ngủ có giường tầng được dành cho đám vệ sỹ của Mao vốn là nhân viên an ninh của cơ quan trung ương, cho nhân viên trên tàu và ban tham mưu của Mao gồm thợ chụp ảnh, phục vụ và đầu bếp. Tất cả họ dùng một toa ăn riêng. Một toa khác chứa dụng cụ y tế dành cho trường hợp cấp cứu và có thêm một toa dự phòng nữa. Cái đuy nhất mà đoàn tàu còn thiếu là máy điều hòa nhiệt độ, đến nỗi vào mùa hè trong tàu nóng như thiêu như đốt. Tuy nhiên, vào đầu những năm 60 Mao đã nhận được một đoàn tàu mới của Đông Đức. Đoàn tàu được trang bị đầy đủ tiện nghi với hệ thống chiếu sáng gián tiếp, với những máy móc hiện đại nhất và tất nhiên còn có cả hệ thống điều hòa nhiệt độ. Uông Đông Hưng, Lâm Khắc, thư ký riêng của Mao và tôi có một toa riêng có buồng ở. Trong những căn buồng rộng, rất tiện lợi này được kèm thêm một chiếc bàn và một chiếc giường, trong buồng tắm có hệ thống nước nóng.
Những biện pháp an ninh trên đường cũng rất khác thường. Trong khi có cuộc hành trình, tất cả các hoạt động giao thông trên tuyến đường sắt đó đều bị đình trệ, làm đảo lộn cả các lịch trình giao thông trong suốt một tuần lễ cho đến khi mọi việc trở lại bình thường. Những nhà ga thường đông hành khách và người bán hàng thì được nhân viên an ninh trấn dẹp. Thật là rờn rợn khi vào những nhà ga vắng ngắt và trên những lối đi chỉ thấy lính canh. Khi một cộng sự khác và tôi cho Uông Đông Hưng biết là thiếu người bán hàng, ông ta liền cho một vài nhân viên an ninh đóng giả thành người bán hàng, làm cho quang cảnh có vẻ giống tự nhiên.
Tỉnh nào mà đoàn tàu của Mao đi qua, thì tỉnh đó phải chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh cho ông và phải chuẩn bị sẵn một người lái tầu và một đầu tàu. Ngoài ra, cùng với những nhân viên an ninh của Bắc Kinh ngồi trong tàu và có mặt ở những điểm dừng, còn có một vài trăm lính do các Ban an ninh của các tỉnh bố trí và trên suốt chặng đường cứ năm chục mét có một người gác. Có lần tôi nói chuyện với trưởng Ban an ninh của địa phương nằm trên tuyến đường sát giữa Bắc Kinh và Mãn Châu Lý, một thành phố ở biên giới giữa vùng Mãn Châu và Liên-xô, người có nhiệm vụ canh gác khi Mao từ Moskva về vào năm 1950. Giữa mùa đông tháng giá, trong suốt hai tuần lễ, những người lính đã bảo vệ tuyến đường sắt dài hàng trăm cây số này từng giờ từng phút. Cũng trong suốt hai tuần lễ, người nói chuyện với tôi đã phải chui rúc trong một ngôi mộ trên tuyến đường sắt đó. Mọi người đều biết, trong đoàn tàu có một só quan chức cao cấp, nhưng mãi về sau người ta mới biết chính Mao cũng có mặt trong số đó. Mao đi chẳng theo lịch trình nào, bởi vì tàu chỉ chuyển bánh khi Chủ tịch thức, chừng nào ông còn ngủ thì đoàn tàu còn đứng yên. Bởi vậy, chằng thể biết khi nào thì tàu chạy, hệt như giấc ngủ của Mao vậy. Khi ông ngủ, đoàn tàu dừng lại tại ga phụ của một sân bay quân sự, hay một ga để dồn toa hoặc tại ga phụ của một nhà máy đã được dọn dẹp trước khi ông đến. Như thế cũng là để dễ bảo vệ Mao hơn. Đôi khi Mao lại đi máy bay. Tôi đi bằng máy bay cùng với ông lần đầu vào mùa hè năm 1956. Sau đó ông giành mùa đông để viết cuốn sách Chủ nghĩa xã hội nở rộ trên đất nước chúng ra. Ông đã đến thăm Hàng Châu và Thượng Hải và tìm cách đẩy mạnh kế hoạch tập thể hóa nông nghiệp cấp tốc của ông. Vì thế ông muốn đi đến đó bằng máy bay, chủ yếu là để thu thập kinh nghiệm như ông đã nói. Trước đó Mao mới đi máy bay một lần. Tháng 8. 1945, một chiếc máy bay của Mỹ đã chở ông cùng với đại sứ Mỹ Patrick Hurley từ Diên An đến Nam Kinh, nơi ông sẽ tham dự cuộc đàm phán tai hại giữa những người cộng sản và những người quốc gia, nhằm ngăn ngừa cuộc nội chiến bùng nổ.
Tất cả những người có trách nhiệm đều lưu tâm đến việc bảo vệ an ninh cho Mao. Những biện pháp an ninh đặc biệt tỉ mỉ được thực hiện. La Thụy Khanh, bộ trưởng công an đã làm việc trực tiếp với tư lệnh không quân là tướng Lưu Nha Lâu để bay thử và trang bị thêm cho chiếc máy bay kiểu LI- 2 của Liên-xô trở thành chiếc máy bay an toàn nhất.
Buổi sáng, tướng Lưu Mao và cấp phó của ông cùng đi với chúng tôi đến sân bay quân sự Tân An nằm rìa phía Tây thành phố, cách không xa Cung điện mùa hè. Trong khi có chuyến bay, giao thông đường không trên toàn đất nước Trung quốc bị đình chỉ và những tốp máy bay chiến đấu kiểm soát toàn bộ không phận. La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn, Uông Đông Hưng và một loạt thư ký, nhân viên an ninh và cần vụ đã bay trước trên một chiếc máy bay khác của Liên-xô, loại IL-14. Cả hai người lái xe, người đầu bếp, thợ chụp ảnh, hai chuyên gia về thực phẩm và những nhân viên an ninh bay trên hai máy bay khác. Những thành viên khác của ban tham mưu tổng cộng 200 người, đi cùng với xe của Mao - một loại xe hòm ZIC sang trọng của Liên-xô, có bọc thép chống đạn được sản xuất riêng cho ông, đã được một đoàn tàu đặc biệt đưa đến trước. Chiếc xe này sẽ chở Mao từ sân bay về biệt thự của ông ở Quảng Châu. Đoàn tàu được để trong một gian phòng lớn tại sân bay Bạch Văn đề phòng trong trường hợp Mao muốn tiếp tục cuộc hành trình bằng tàu hỏa.
Máy bay của Mao nhỏ và chỉ có một cánh quạt. 24 ghế ngồi trước đây đã được gỡ bỏ và toàn bộ bên trong khoang được bố trí lại. Trong phần phía trước của máy bay, người ta lắp một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và hai chiếc ghế cho Chủ tịch. Còn phía sau có bốn chiếc ghế tiện lợi dành cho những người tháp tùng ông, gồm hai vệ sỹ, một thư ký riêng và tôi. Phi công của chúng tôi chính là viên tư lệnh không quân Hồ Bình. Khi chúng tôi lên máy bay, Mao chào tư lệnh Hồ: Trong chuyến bay này tôi phải ra tình huống cho đồng chí. Ông tỏ ra ôn tồn để viên phi công yên tâm.
Thật là một vinh dự lớn lao và thật là hạnh phúc đối với tôi khi được phép bay cùng với Chủ tịch - Hồ Bình trả lời. Tôi nhận thấy ngay, giữa những lời nịnh hót được Mao chấp nhận và sự thăng quan tiến chức mau chóng của kẻ xu nịnh có một sự liên quan trực tiếp. Trong khi diễn ra cuộc Cách mạng văn hóa, Hồ Bình đã được thăng cấp làm Tổng tham mưu trưởng không quân. Tuy vậy, năm 1971 ông bị tống giam vì đã dính líu vào âm mưu của Lâm Bưu chống lại Mao. Thế là tất cả những công trạng phục vụ Chủ tịch của ông đều bị xóa sạch.
Chuyến bay của chúng tôi được chia thành hai chặng. Trong khi bay, chúng tôi học tiếng Anh. Đến gần trưa chúng tôi đáp xuống Vũ Hán. Chúng tôi được các quan chức địa phương đón tiếp, trong đó có bí thư thứ nhất tỉnh ủy Vương Nhậm Trọng và cán bộ lãnh đạo đảng của tỉnh Vũ Hán là Lưu Khắc Nông, người đã tổ chức bữa đại tiệc đón chúng tôi trong một nhà khách tráng lệ, trước kia là biệt thự của Tưởng Giới Thạch. Tòa biệt thự này nằm trong vùng nghỉ mát đẹp như tranh bao quanh một cái hồ ở phía Đông, đối diện với trường đại học tổng hợp Vũ Hán. Những người phục vụ vui vẻ và ân cần. Họ được đào tạo trong các khách sạn của Anh và Pháp, mà trước năm 1949 chúng là một nét đặc sắc của Vũ Hán. Giống cá chép màu bạc của vùng Vũ Xương là một món ăn tuyệt ngon mà Mao rất ưa thích.
Trong chuyến đi, đâu đâu tôi cũng có dịp chứng kiến việc Mao được xu nịnh thế nào. Trong việc này, Vương Nhậm Trọng tỏ ra khá xuất sắc. Ông ta khẳng định:
- Người ta không thể đơn giản so sánh Stalin với Chủ tịch. Stalin đã giết quá nhiều người. Ngược lại, đảng ta không chỉ khoan hồng kẻ đối lập với đảng là Vương Minh, mà thậm chí đảng còn cố gắng hòa thuận với ông ta.
Mao vui vẻ đáp lại:
- Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa mâu thuẫn trong nhân dân với mâu thuẫn giữa chúng ta và đối phương. Đề giải quyết những mâu thuẫn trong dân chúng, chúng ta không được phép bắt hoặc thủ tiêu những người độc đoán.
Vương nói:
- Nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch.
Và tôi có cảm tưởng rằng, lời tâng bốc của ông ta chỉ là một con tính thuần túy. Cho đến khi nổ ra cuộc Cách mạng văn hóa, ngôi sao chính trị của Vương không ngừng lên cao. Khi cuộc Cách mạng bắt đầu, ông trở thành một trong những phó chỉ huy của Cách mạng và ông bị thất sủng sau khi ông xúc phạm đến Giang Thanh và công khai diễn thuyết mà không được bà ta đồng ý.
Gần mươi tám giờ, chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Bạch Vân ở thành phố Quảng Châu. Tại đây đã diễn ra cuộc đón tiếp không kém phần xúc động. Bí thư thứ nhất của tỉnh ủy tỉnh Quảng Đông Đào Chu đã đến và cả người lãnh đạo đảng của tính là Trần Dư. Trong khi xe chạy, tôi nhìn qua cửa xe để cố tạo nên ấn tượng đầu tiên về Quảng Châu. Tôi sửng sốt về sự bẩn thỉu và sự ồn ĩ ở đó. Rác rưởi tràn ngập khắp nơi và nước cống chảy lênh láng trên đường phố. Sự ồn ào đơn điệu ở Quảng Đông còn lẫn cả tiếng guốc gỗ gõ lọc cọc trên mặt đường nhựa.
Chuyến vi hành của Mao tại Quảng Châu được giữ tuyệt mật. Các thành viên tham mưu thuộc nhóm Một hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoàì. Chúng tôi không những không được phép rời khỏi vị trí của mình, mà còn không được nói chuyện qua điện thoại, không được tiếp khách hay nhận thư từ. Thư của chúng tôi viết về nhà được một người đưa thư đặc biệt chuyển đi. Mấy ngày ngay trước khi lên đường, Uông Đông Hưng phái chúng tôi đi thị sát. Chuyến đi này do những nhân viên Ban an ninh tỉnh Quảng Đông chỉ đạo. Sau vấn đề đảm bảo an toàn cho Mao là làm sao để ông thật thoải mái. Sau khi giải phóng Bắc Kinh ít lâu, điều đã trở thành lệ là người ta tịch thu những biệt thự trước đây hoặc xây mới những biệt thự khác cho giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng. Lúc đó, Dương Thượng Côn và Văn phòng trung ương đã cho xây ở những quả đồi Ngọc Thạch gần Núi Thơm năm biệt thự cho năm nhân vật lãnh đạo cao nhất là Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Nhậm Bích Thế.
Theo lời của cả hai vệ sỹ không biết bơi của Mao là La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng, người ta đã xây một bể bơi cho Mao. Bởi vì đối với họ, sự an toàn của Mao là trên hết, nên họ đã quyết định chiều dài của bể bơi chỉ bằng hai lần chiều dài của bồn tám và nước thì chỉ sâu đến đầu gối.
Mao nổi giận lôi đình về cái bể bơi vô tích sự, chỉ đáng đành cho trẻ con. Cơn thịnh nộ của ông càng bùng lên dữ dội khi trung một phiên họp Bộ chính trị, ông Bành Đức Hoài vốn cứng rắn, đã phản đối Mao xài tiền của nhà nước cho những hưởng thụ cá nhân của ông. Mao đã bồi hoàn cho nhà nước những chi phí xây bể bơi, nhưng ông thường không đến biệt thự này. Những biệt thự và bể bơi ở Bắc Đới Hà cũng được sung công hoặc được xây mới.
Vào năm 1950, Dương Thượng Côn đã tịch thu những ngôi nhà ở đó và phân cho tất cả các chính trị gia cao cấp mỗi người một biệt thự. Người ta đã xây cho Mao một ngôi nhà mới, được gọi là nhà số 8. Sau đó, biệt thự bắt đầu được xây ở các tỉnh và các vị lãnh đạo tỉnh đua nhau xây biệt thự theo kiểu nhà Mao. Thế vẫn chưa đủ. Ai cũng cho rằng, hiện đại là tốt nhất, nên nhiều vị lãnh đạo đảng đã cho bày trong nội thất những chiếc đệm mút và bệ xí ngồi theo kiểu phương Tây.
Bởi vậy, khi đi đâu Mao cũng thường đưa theo chiếc giường bằng gỗ cứng của ông và ông dùng bô. Thậm chí, khi sang Moskva vào năm 1949, ông cũng đưa theo giường riêng và trong chuyến viếng thăm Moskva năm 1957 ông đã sử dụng bô vệ sinh bởi vì trong điện Kreml chỉ có bệ xí bệt.
Đào Chu là người đầu tiên đã cho xây một ngôi biệt thự mới và sang trọng cho Mao và Giang Thanh. Trong việc này ông đã phạm ít sai lầm hơn người khác. Vì thế Mao rất thích lưu lại ở Quảng Châu. Nhà khách Tiểu Đảo, nơi chúng tôi lưu lại, nằm trên một hòn đảo nhỏ, bao quanh đảo là hai nhánh của con sông Ngọc. Trong vườn đầy hoa thơm chuối ngọt và những giống cây nhiệt đới. Ba ngôi nhà ở trên hòn đảo đó được dành cho Mao. Một trong ba ngôi nhà trước đây là nhà nghỉ của bác sĩ Tôn Trung Sơn, nhưng vì Đào Chu chê nó quá nhỏ nên ông đã cho xăy thêm một ngôi nhà khác mang số 1. Giữa phòng ngủ của Mao và Giang Thanh có một phòng lớn, trong đó người ta có thể xem phim được. Trong ngôi nhà thứ ba, sau này người ta đã xây một bể bơi với kích thước của thế vận hội và ở đó người ta có thể giải trí, đọc sách và ăn uống. Những biệt thự số 4, 5 và 6 bình thường là dành cho Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức, nhưng tháng 6 năm 1956, La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn, Uông Đông Hưng và tôi đã được thu xếp đến đó.
Tại thành phố Quảng Châu, người ta luôn gặp phải những biện pháp an ninh nghiêm ngặt như ở những nơi khác, vì Đào Chu, La Thụy Khanh và lực lượng an ninh lo ngại đối phương từ Hồng Công có thể thâm nhập vào. Họ biết rằng, trong lãnh thổ thuộc địa của Anh cách đó khoảng 150 cây số có vô số điệp viên của Quốc dân đảng và những phần tử phản động lăm le muốn ám sát Chủ tịch. Trên khắp hòn đảo đều có những người lính có vũ trang của đơn vị bảo vệ trung ương canh gác. Các phương tiện giao thông đường sông đều bị đình chỉ và những chiếc tàu tuần tiêu luôn rẽ sóng canh chừng những khả năng đột nhập. Trên đảo cực kỳ tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng hót của những con chim vùng nhiệt đới.
Vì bộ phận bảo vệ trung ương của Uông Đông Hưng đã phái toàn bộ một đơn vị đến Quảng Châu, nên chỉ riêng đoàn tùy tùng của Mao từ Bắc kinh đến đã có tới 200 người. Thông thường thì cứ từ 8 đến 10 người ở trong một căn phòng của tòa nhà của Ban an ninh tỉnh Quảng Đông nằm ở đầu cầu nối hòn đảo với đất liền. Các nhân viên của Ban an ninh tỉnh Quảng Đông và của nhà khách trên đảo đã không thu xếp nổi nơi ăn chốn ở cho chừng đó con người. Ngược lại, nhà bếp của Mao lại được trang bị rất tốt, hợp vệ sinh không chê vào đâu được, sao cho không xảy ra những vấn đề về sức khỏe và tổ chức. Thực phẩm của Chủ tịch hàng ngày được chở đến bằng máy bay từ công xã Tụ Sơn ở Bắc Kinh và được đầu bếp của ông chế biến. Mao thường thưởng thức các loại trái cây hảo hạng, dùng rau và cá vùng Quảng Đông, nhưng ông thường rưới thêm dầu ăn cùng với nhiều gia vị cay của tỉnh Hồ Nam.
Việc cung cấp thực phẩm cho lực lượng an ninh lại là cả một vấn đề. Vì không có tủ lạnh và thực phẩm dành cho 200 con người phải để ngoài trời nóng, nên rất dễ có nguy cơ ngộ độc thức ăn. Việc thanh toán rác rưởi cũng khó khăn không kém, đã thu hút lũ chuột cống và chuột nhắt kéo đến.
Uông Đông Hưng đã điều cho nhân viên nhà bếp ở Quảng châu một số cộng sự từ Bắc Kinh đến để giúp việc và chăm lo việc vệ sinh cũng như việc cung ứng và bảo quản thực phẩm. Còn tôi thì chịu trách nhiệm về tất cả những vấn đề y tế. Mặc dù Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh đã cố gắng hết sức để lấp liếm trước Mao những khó khăn do ban tham mưu của lực lượng an ninh gây ra, nhưng Chủ tịch vẫn để ý thấy. Ông vạch ra cho Uông Đông Hưng:
- Các anh canh gác khắp nơi cứ như là các anh sẵn sàng đương đầu với kẻ thù mạnh. Các anh muốn tự làm tất cả dường như các anh không tin vào lãnh đạo địa phương và tin quần chúng vậy.
Chính Mao lại không cảm thấy có nguy cơ gì. Ông biết quần chúng ngưỡng mộ ông. Tại sao họ lại muốn làm cái gì đó đối với ông? Sau khi chúng tôi đến ít lâu, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân cũng đến Quảng Châu, kéo theo cả các vị lãnh đạo đảng của tỉnh và các quan chức địa phương. Mao đã triệu tập một cuộc họp. Trong khi các quan chức chóp bu của đảng ở trong nhà khách trên đảo, thì tôi dọn sang ngôi nhà của Ban an ninh ở bên kia cầu. Các vị trong tỉnh ủy và các chính trị gia của địa phương được thu xếp ở trong các nhà khách khác, do thành đội Quảng châu và ủy ban tỉnh Quảng Đông quản lý. Đào Chu tổ chức một bữa tiệc chào mừng các vị khách mới đến và mời Mao làm khách danh dự. Đào Chu nói, đầu bếp Quảng Đông đã chuẩn bị những món đặc sản của đất nước và ông ta hy vọng Mao sẽ thưởng thức các món ăn này. Song Mao đã không nhận những lời lẽ văn hoa lịch sự đó và từ chối lời mời. Uông Đông Hưng, Diệp Tử Long và tôi phải thay ông đến dự tiệc, rồi sau đó tôi phải tường thuật lại cho ông biết.
Trước khi khai tiệc một tiếng rưỡi, Điền Chu, trưởng phòng nhân sự của Cơ quan an ninh đến và đi lại phía tôi.
Các nhân viên hóa thực phẩm đã phát hiện ra trong thức ăn có chất xianua (một loại hóa chất cực kỳ độc - N.D) và ông ta tỏ ra đặc biệt lo ngại. Người ta đã phong tỏa nhà bếp, không một nhân viên nào được phép ra ngoài. Uông Đông Hưng yêu cầu tôi lập tức theo ông vào nhà bếp.
Bảy bàn ăn dài đã được dọn ra thịnh soạn và người ta chỉ đợi thực khách đến. Tôi đi vào phòng xét nghiệm cạnh nhà bếp, nơi có hai nhân viên hóa thực phẩm vừa từ Bắc Kinh đến đang kiểm nghiệm các loại đồ ăn cao cấp, cơm và thức uống. Sự căng thẳng làm cho họ toát cả mồ hôi, nhưng khi thấy tôi họ bớt lo và muốn nghe lời khuyên của tôi.
Phó Ban công an tỉnh Quảng Đông, một người tên là Tô nói, các nhân viên nhà bếp đã được kiểm tra nhiều lần. Mặc dù vậy ông vẫn lo ngại. ở Hồng Công có hàng nghìn gián điệp mà nó lại rất gần. Có lẽ một phần tử tội phạm nào đó đã đột nhập vào và đầu độc thức ăn.
Điều hết sức kỳ lạ là chỉ có măng mới có chất xianua. Những đồ ăn khác đều không sao cả. Măng này lấy từ vườn của nhà khách. Tôi cho đào một ngọn măng tươi và mang đi kiểm nghiệm. Lại tìm thấy chất xianua. Tôi theo xe đến ngay thư viện của Học viện y học Tôn Dật Tiên, ở cách nhà khách chỉ vài phút. Tại đó tôi mới biết, măng trong thiên nhiên có chứa một lượng rất nhỏ chất xianua, nhưng không gây nguy hiểm cho sức khỏe.
Đào Chu rất đỗi vui mừng. Ông ta mỉm cười bắt tay tôi, cám ơn tôi luôn miệng và đề nghị nâng ly chúc sức khỏe tôi trong bữa tiệc.
Phó Ban công an cũng cảm ơn tôi. Ông ta nói:
- Đồng chí làm chúng tôi rất hài lòng. Cách đây vài phút, bí thư Đào còn bối rối, đe trừng phạt tôi và nhân viên của tôi. Nhưng bây giờ mọi việc đã rõ, bữa tiệc co thề bắt đầu đúng giờ. Không có đồng chí, có lẽ chúng tôi phải bó tay trước vấn đề hóc búa này mất.
Trong bữa tiệc, khi tôi đứng lên để cám ơn Đào Chu về lời chúc của ông, thì ông ta đến cạnh Uông Đông Hưng và nói một câu ngạn ngữ cổ của Trung quốc: Tướng nào, quân nấy. Uông khoái chí với lời khen đó. Ông ta tự hào rằng, quyết định của ông tiến cử tôi làm bác sỹ riêng của Mao đã được công khai thừa nhận.
Ngay sau bữa tiệc, tôi đến gặp Mao. Ông đang nằm trên giường và đọc một cuốn sách về triều đại nhà Minh. Tôi kể cho ông về chất xianua và ông đã đổi lỗi cho Liên-xô trong vụ lộn xộn này.
Ông lưu ý:
- Tôi không chấp nhận việc tiếp thu mọi thứ của nước ngoài mà không có phê phán.
ý ông muốn nói, việc kiểm tra thực phẩm cũng như những biện pháp an ninh nhiều mặt đều xuất phát từ người anh cả của Trung quốc. Ông nói tiếp:
- Bây giờ thức ăn không những được kiểm tra ở Bắc Kính mà còn được kiềm tra ở cả những nơi khác của đất nước. Việc này tạo ra những rắc rối vô lý. Đồng chí hãy bảo Uông Đông Hưng nên chấm dứt việc đó đi.
Uông Đông Hưng bực tức vì tôi đã nói với Mao, nhưng ông ta biết tôi có lý và phải thay đổi việc kiểm tra thực phẩm.
Sau đó ít lâu, người ta thôi không dùng hai phòng xét nghiệm thực phẩm nữa, việc kiểm tra được thực hiện ở Bắc Kinh và cơ quan an ninh đã chuyển cho thành phố Bắc Kinh việc quản lý công xã Tụ Sơn. Tuy nhiên, việc thay đổi đó chỉ là hình thức. Phần lớn thực phẩm dành cho Mao vẫn tiếp tục được cung ứng từ công xã Tụ Sơn, mặc dù việc cung ứng được chủ thị là không chỉ lấy thực phẩm từ nơi đó, mà còn lấy từ những vùng khác.
Khi Mao biết đã có sự thay đổi, ông cười:
- Tôi đã nói học tập Liên-xô, thì không phải chúng ta học ở Liên-xô người ta ỉa đái như thế nào, đúng không? Tôi không muốn chỉ học Liên xô, mà tôi còn muốn học cả Mỹ nữa.
Chương 13
Giang Thanh cũng lưu lại ở Quảng Châu và tôi thường làm việc với bà.
Sau khi chúng tôi đến được hai ngày, vệ sỹ riêng của Mao là Lý ẩm Kiều đề nghị tôi:
- Đồng chí nên báo cáo tình hình sức khỏe của Chủ tịch cho Giang Thanh biết.
Tôi hỏi:
- Sao vậy? Hôm đầu chúng tôi đến có thấy mặt bà ta đâu.
Lý hạ giọng:
- Nếu đồng chí không làm, thì bà ta sẽ cho rằng đồng chí coi thường bà ta.
Tôi đã làm theo lời khuyên của ông ta. Một buổi sáng, tôi được dẫn đến phòng làm việc của bà ở nhà số 2. Giang Thanh mặc bộ y phục màu xanh sẫm và đi giày da trắng, dế bằng, tóc búi tó. Bà đang ngồi trên ghế và đọc tờ Bản tin được lưu hành nội bộ, hàng ngày được chuyển cho những nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước. Trong đó có nhiều tin quan trọng ở trong và ngoài nước, không bình luận và phần lớn đều lấy từ báo chí nước ngoài
Giang Thanh cũng bắt chước thói quen của Mao, khi tiếp khách tay thường cầm sách. Tuy nhiên, ở bà việc này không gây được nhiều ấn tượng lắm. Bà chỉ vờ đọc và thường khi được thông báo khách đã có mặt, thì bà mới cầm sách lên.
Nhớ lại lời nhắc nhở nhiều lần của Lý ẩm Kiều và của chị y tá là phải đặc biệt lễ phép đối với phu nhân của Chủ tịch, tôi đã ngoan ngoãn chào Giang Thanh. Bà ra hiệu cho tôi ngồi. Tôi nói:
- Thưa, Chủ tịch vẫn khỏe ạ. Mặc dù Chủ tịch sinh hoạt không theo giờ giấc, không có lợi cho sức khỏe, nhưng Chủ tịch vẫn rất thọ. Nếu ngay bây giờ chúng ta buộc Chủ tịch thay đổi, thì có thể sẽ có hại nhiều hơn là có lợi ạ.
Bà xẵng giọng hỏi lại:
- Đồng chí cho rằng việc Chủ tịch sinh hoạt điều độ là không quan trọng sao?
Tôi trả lời:
- Thưa, không ạ. Chứng mất ngủ của Chủ tịch còn tăng thêm nữa là đằng khác.
Bà xuống giọng châm biếm:
- Đó là lời khuyên của thày thuốc của đồng chí phải không?
Bà ngước đôi mất màu nâu chăm chăm nhìn tôi:
- Đồng chí cũng nói điều này cho Chủ tịch biết rồi chứ?
- Thưa, vâng
Giang Thanh ngạc nhiên. Bà nóng nảy gõ ngón tay lên bàn.
- Thế Chủ tịch trả lời thế nào?
- Chủ tịch đồng ý với tôi. Chủ tịch nói, đồng chí ấy ngày càng già đi và không dễ thể thay đổi thói quen của đồng chí ấy.
Bà cúi đầu, nhìn tôi một lần nữa và vuốt nhẹ tóc. Tôi biết, những thói quen của Mao đã làm phiền bà, nhưng bà không thể tự cho mình có quan điểm khác với chồng bà. Giang Thanh hoàn toàn lệ thuộc vào Mao, không có cộng sự gần gũi nào của ông lại cư xử một cách hạ mình và xu phụ như bà. Không có Mao thì bà cũng chẳng là gì.
Bà nói dối:
- Tôi cũng nghĩ thế. Nhiều người muốn làm Chủ tịch thay đổi thói quen, nhưng tôi thì ngược lại.
Bà cười, rồi hỏi:
- Thế thuốc ngủ có tác dụng gì không?
- Thưa, Chủ tịch đã mắc chứng mất ngủ từ nhiều năm nay. Chỉ có thuốc ngủ mới làm cho Chủ tịch chợp mắt được.
- Rõ ràng đồng chí không muốn thay đổi gì.
- Dạ, đúng thế ạ, từ lâu Chủ tịch đã không dùng thêm liều thuốc nào.
Bà diễu cợt:
- Chẳng có thày thuốc nào có lời khuyên hay đến nỗi người ta phải dùng thuốc ngủ. Thế đồng chí dùng thuốc gì?
- Thưa, không ạ.
- Nhưng đồng chí biết rõ là thuốc ngủ có hại cho sức khỏe chứ?
Tôi trả lời:
- Thưa, tốt hơn là không nên dùng thuốc ngủ ạ. Nhưng từ nhiều năm nay Chủ tịch đã quen dùng...
Bà thô lỗ ngất lời tôi:
- Đồng chí đã nói gì đó với Chủ tịch, để ông tiếp tục dùng thuốc ngủ chứ!
- Thưa vâng. Tôi đã từng hiểu cặn kẽ thói quen ngủ nghê của Chủ tịch. Hàng ngày ông ngủ muộn hơn hai hoặc ba tiếng so với ngày hôm trước. Thỉnh thoảng ông thức liền 24 tiếng hoặc 36 tiếng. Nhưng sau đó ông ngủ liền từ 10 đên l2 tiếng. Tính trung bình mỗi ngày ông ngủ từ 5 đến 6 tiếng. Thoạt nhìn, thì điều này có vẻ không theo quy luật, nhưng thực ra lối ngủ nghê này có sự đều đặn riêng.
Giang Thanh lại hỏi:
- Tại sao đồng chí không thông báo sớm tất cả điều này cho tôi biết?
Tôi mất dần kiên nhẫn:
-Thưa, tôi chưa có điều kiện. Chủ tịch chỉ mới vừa nói điều này với tôi.
Giang Thanh lạnh lùng nói:
- Thôi được, chúng ta tạm thế đã. Lần sau đồng chí hãy nói cho tôi biết trước khi đồng chí đến chỗ Chủ tịch.
Tôi không có ý định phải thưa bẩm với Giang Thanh trước, vì bà ta không thể trực tiếp kiểm soát được chồng bà. Bà tính qua tôi để tác động đến Mao. Tôi lễ độ từ biệt bà, nhưng tôi phớt lờ chỉ thị của bà.
Sau khi tôi đi khỏi, Giang Thanh nói với một cô y tá của bà: Bác sỹ Lý thật ương ngạnh và kiêu căng, cứ khăng khăng giữ ý kiến của hắn. Chúng ta phải dạy cho hắn một bài học.
Tôi kể cho Mao cuộc nói chuyện của tôi với Giang Thanh và ông có ý định làm người trung gian giữa tôi và vợ ông. Ông nói:
- Giang Thanh đã công khai đối đầu với đồng chí. Đồng chí nên nói cái gì đó nịnh đầm bà ấy một chút, để làm bà ấy hài lòng.
Uông Đông Hưng cũng vậy. Ông ta muốn tôi kính trọng Giang Thanh hơn nữa và lo ngại hậu quả sẽ xảy ra khi tôi không làm theo lời ông. Có lẽ ông ta cũng đã từng xung đột với Giang Thanh.
Lời khuyên của cả hai người làm tôi ngạc nhiên. Tôi rút ra bài học, không nên đưa chuyện nữa.
Mặc dù tôi không muốn nịnh Giang Thanh và tôi thấy khó mà gây được thiện cảm đối với bà, nhưng tôi vẫn tìm cách để hiểu bà.
Bà sống một cuộc sống xa hoa, nhưng vô nghĩa. Mao không quan tâm đến bà và bà cũng chẳng có vai trò gì trong cuộc đời ông. Ông già hơn vợ tới 20 tuổi và họ có những thiên hướng rất khác nhau. Giang Thanh coi trọng giờ giấc và sự đều đặn, ngược lại Mao chối bỏ tất cả mọi sự điều độ. Mao thích đọc, còn trong việc này Giang Thanh lại thiếu kiên nhẫn. Mao tự hào về sức khỏe và tầm vóc của ông, còn Giang Thanh luôn cảm thấy đau yếu. Chưa bao giờ họ cùng ăn với nhau. Trong khi Mao ưa thích những món ăn cay của vùng Hồ Nam, thì Giang Thanh lại mê hoặc là món cá nấu với rau nhạt nhẽo, hoặc là làm ra vẻ sành các món ăn phương Tây mà bà đã từng nếm thử ở Liên-xô và còn đòi hỏi cả món thịt hâm nhừ và trứng cá muối.
Người ta đã từng hết sức cố gắng tìm cho bà một công việc thích hợp. Năm 1949 bà được bổ nhiệm làm phó phòng Kiểm duyệt phim thuộc bộ Văn hóa, nhưng bà tỏ ra ương ngạnh đến nỗi chẳng ai có thể chịu nổi bà. Sau đó bà đổi sang làm phó phòng Thư ký chính trị của Tổng văn phòng của Dương Thượng Côn ở Trung Nam Hải. Nhưng bà lại đe mọi người rằng, Mao sẽ cách chức họ.
Mao đành phái cử bà làm thư ký riêng của ông. Với chức vụ này, bà phải tổng hợp tin tức từ bản tin phần lớn các nhà lãnh đạo đảng đều giao cho vợ làm công việc tương tự như vậy.
Mặc dù Giang Thanh thường có tập Bản tin đó nhưng ít khi bà đọc chúng. Khi làm, bà lại không thể phân biệt được tin nào là quan trọng, tin nào không, đến nỗi công việc của bà chẳng giúp gì được cho Mao. Vì vậy, Lâm Khắc phải đảm nhiệm công việc của Giang Thanh là thu thập tin tức.
Giang Thanh là người mà người Trung quốc gọi là tiểu công minh (kẻ khôn vặt). Bà xét nét, nhưng không được giáo dục và không có khả năng phân tích. Bà chỉ biết một chút về lịch sử Trung hoa, còn về thế giới bên ngoài biên giới thì bà lại càng biết ít hơn. Bà thường không hiểu ngay cái mà bà vừa đọc. Có lần bà nói với tôi, nước Anh không phong kiến như Trung quốc, vì nó thường có nữ hoàng trị vì. Theo bà, vì chế độ gia trưởng của Trung quốc mang tính chất phong kiến, cho nên sự lãnh đạo của phụ nữ chính là biểu hiện của thời đại mới. Bà nghe được giọng Bác Kinh, thế mà hiểu biết của bà về ngôn ngữ Trung quốc lại hạn chế. Nhưng bà biết cách giấu dốt khi bà thường hỏi thêm những từ đó được phát âm như thế nào trong tiếng địa phương ở Bắc Kinh. Việc tra từ điển đối với bà thật khó khăn.
Mặc dù kiến thức của bà kém cỏi như thế, nhưng bà lại hay diễu cợt người khác. Một lần Mao nói đùa với tôi là tôi thu lượm được kiến thức về lịch sử Trung quốc ở trong nhà hát kinh kịch Bắc Kinh. Thật là một sự lăng nhục đối với tôi khi tôi nghiên cứu lịch sử Trung quốc một cách có hệ thống. Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục lấy lời nhận xét của Mao để châm chọc tôi, tuy câu chuyện tiếu lâm đó đã nhạt từ lâu.
Mao không yên tâm về sự thờ ơ của vợ ông đối với những sự kiện lịch sử và thời sự. Bởi vậy, ông thường gửi cho bà sách vở, tài liệu và những tập sưu tầm tin tức mới nhất để bà nắm được những thông tin như ông. Nhưng Giang Thanh luôn luôn thoái thác. Thay vì đọc, tối ngày bà xem những cuốn phim nhập từ Hồng Công. Bà nói là bà ốm. Giang Thanh luôn đau ốm, nhưng những bộ phim, có lẽ, chữa được bệnh suy nhược thần kinh của bà.
Năm 1953, bộ y tế và Văn phòng chính của lực lượng an ninh đã ra tay với những bệnh tật mơ hồ của bà. Họ cử bác sĩ Hứa Đạo đến làm bác sĩ riêng cho bà. Ông nguyên là bác sỹ riêng của Mao trước đây, nhưng vì Giang Thanh luôn đau ốm, nên là Mao để cho bác sỹ Hứa Đạo chăm sóc vợ ông.
Giang Thanh đã đẩy cuộc đời của bác sỹ Hứa xuống địa ngục. Trong chiến dịch chống bọn phản cách mạng năm 1954, bà đã công kích ông, và về sau bà vẫn tiếp tục cái trò đê tiện đó của bà. Tại Quảng Châu, ông đã trở thành nạn nhân của những lời vu khống cay độc. Lần này ông bị phê phán là đã giở trò bỉ ổi với một cô y tá của Giang Thanh.
Cô y tá vốn mắc chứng thiếu máu, luôn cảm thấy mệt mỏi và chóng mặt. Vì vậy, ngay sau khi đến Quảng Châu ít lâu, cô đã yêu cầu bác sỹ Hứa khám cho cô. Bác sỹ Hứa khám cho cô trong tiền sảnh của nhà khách, nơi cô ở. Bỗng nhiên, một vệ sỹ - một gã nông dân vô học, rất nghi ngờ về mặt đạo đức - xộc vào phòng. Gã vốn mù tịt về y tế, thế là gã đã vu cho bác sỹ Hứa tội quấy rối tình dục.
Là chỉ huy toán vệ sỹ, Uông Đông Hưng phải lưu tâm đến vụ này. Ông chứng minh được là Hứa Đạo vô tội, vì một người là bác sỹ ông đã biết từ lâu, và người kia là gã vệ sĩ ông cũng không lạ gì về sự thất học và tư cách thô lỗ của hắn.
Tôi cũng rất bất bình về sự chỉ trích này. Đơn giản là không đời nào bác sỹ Hứa lại hành động như vậy. Ông là người rất thận trọng, có thể hơi bướng bỉnh một chút, nhưng ông có nguyên tắc về đạo đức. Ngoài ra, người ta đã gán cho ông có liên hệ với nhóm chống đảng, và chắc chắn ông không đến nỗi khờ khạo quên mất tương lai của mình. Trong khi điều tra, tôi đã biện hộ cho bác sỹ Hứa bằng cách đưa ra bằng chứng rằng sự liêm khiết và sự thành công trong nghề của ông là một tấm gương mẫu mực. Chúng ta không có quyền buộc tội ông với lời tố cáo hoàn toàn vô lý.
Cuối cùng, cả Mao cũng can thiệp bảo vệ danh dự cho bác sỹ. Bác sỹ Hứa được giải tỏa khỏi những nghi ngờ và gã vệ sỹ kia bị sa thải. Có lẽ, đây là lần đầu tiên người ta đã cư xử ngay thật đối với một thày thuốc trong một vụ xung đột với lực lượng an ninh.
Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục gây sự với vị bác sỹ của bà. Bác sỹ Hứa phải làm người chiếu phim cho bà và chỉ được phép chọn những cuốn phim làm cho bà sảng khoái và đến đêm không làm bà mất ngủ. Nếu ông chọn không đúng phim bà thích - điều này thường xảy ra - thì lập tức bà nhiếc mắng ông thậm tệ. Hứa đề nghị không phải làm việc này, nhưng Giang Thanh không chịu. Xem phim là điều trị chứng suy nhược thần kinh cho bà: vì vậy trách nhiệm của ông là phải chiếu phim cho bà xem. Tuy vậy, hầu hết các cuốn phim đều không làm cho bà vừa lòng, nên bà thường chì chiết ông. Khi xem bộ phim Cuốn theo chiều gió, bà quả quyết, đây là phim tuyên truyền cho chế độ nông nô ở miền Nam và bà chửi rủa những người thích bộ phim đó là bọn phản cách mạng đốn mạt. Giữa những năm 1950 mà câu nói đó của bà cũng chẳng có mấy trọng lượng. Thế nhưng vài năm sau, trong khi diên ra cuộc Cách mạng văn hóa, với lòng thù hận, bà đã hủy hoại sự nghiệp và cuộc đời của biết bao con người.
Nếu bác sỹ Hứa có chọn đúng cuốn phim bà thích thì bà cũng chẳng hài lòng. Thỉnh thoảng cảnh phim trên màn ảnh quá sáng, khiến bà khăng khăng là mắt bà bị đau. Nếu có điều chỉnh tối đi, thì có thể bà lại không nhìn thấy hình ảnh nữa. Và một khi nếu ánh sáng đã được bà chấp nhận, thì nhiệt độ trong phòng lại không được ổn, hoặc quá nóng, hoặc quá lạnh, hoặc là quá ngột ngạt, hoặc gió lùa quá mạnh. Người ta chẳng bao giờ có thể chiều nổi bà, vì thế họ luôn luôn là người có lỗi và phải chịu những lời đay nghiến tưởng như không bao giờ dứt của bà.
Mãi khá lâu sau này tôi mới biết rằng, vô số nhưng câu chuyện dính dáng đến phụ nữ của Mao chính là nguyên nhân thực sự đối với vấn đề của Giang Thanh. Vì các cô y tá của bà - hầu hết đều là những thiếu nữ trẻ, quyến rũ - là những chiến lợi phẩm nho nhỏ dành cho Mao - lại ở dưới sự giám sát của tôi, nên thỉnh thoảng bà đề nghị tôi hãy lưu tâm, đừng để các cô y tá đó tiếp xúc với chồng bà. Một lần, tình cờ tôi bắt gặp Giang Thanh ngồi khóc trên một clúếc ghế dài trong công viên ở Trung Nam Hải, trước dinh thự của Mao. Bà khần khoản yêu cầu tôi đừng tiết lộ sự việc này, cứ như ai đó có thể đoạt phần thắng trong đòn chính trị chống lại chồng bà. Stalin đã chả từng giam một người đàn bà trong kho đã cưỡng lại tình yêu của ông đó sao. Chồng bà càng công khai săn đuổi các cô gái bao nhiêu, thì nỗi lo sợ của bà sẽ bị ông bỏ rơi ngày càng lớn bấy nhiêu.
Bà thật cô đơn, tẻ nhạt và chán chường.
Bà cảm thấy từng nỗi thất vọng của bà. Tôi không biết, liệu bà có phải cố gắng lắm không, nhưng bà phải nói hết với Mao và nếu ông không cho phép, thì bà chẳng dám làm gì.
Vì bà không thể chế ngự được Mao nên bà cố tận dụng cương vị là vợ ông để chỉ huy người khác và sự chông chênh đó của bà làm cho bà trở nên tâm thường và nanh nọc. Đặc biệt, bà thường nổi giận với đám vệ sỹ, vì bà biết họ đã giúp Mao trong những vụ bê bối của ông. Nhưng bởi vì những người vệ sỹ lại trực tiếp làm việc cho Mao và ở dưới quyền Uông Đông Hưng, nên bà khó có cơ hội sinh sự với họ. Do đó, bà chỉ còn biết trút cơn thình nộ lên những người phục vụ riêng của bà, trước tiên là lên vị bác sỹ.
Giang Thanh liên tiếp chỉ trích những người khác đã làm khổ bà, song thực ra bà lại đày đọa tinh thần của những nhân viên của bà. Bà công khai cho rằng, nếu bà gặp chuyện không hay, thì mọi người khác cũng phải chịu đau khổ. Chỉ có một số ít người ở lâu được với bà, còn hầu hết đều xin thuyên chuyển đi nơi khác để khỏi bị hành hạ.
Mùa thu năm 1956 bác sỹ Hứa Đạo cũng xin từ chức. Sau chiến dịch chống bọn phản cách mạng và vụ vu khống quấy rối tình dục, ông đã sang dạy ở trường Đại học y khoa. Ông muốn trở về làm việc ở bệnh viện, để ông có thể sử dụng và đào sâu kiến thức của mình. Cuối cùng, ông đã chuyển về bệnh viện đa khoa Bắc Kinh, một trong những bệnh viện tốt nhất và quan trọng nhất của Trung quốc. Lúc đó, tôi đã tị với Hứa Đạo về việc ông từ chức.
Chương 14
Trong khi Giang Thanh là một thành viên thụ động nhất trong chuỗi cộng tác viên gần gũi nhất của Mao, thì Diệp Tử Long lại là một kẻ đắc lực nhất.
Người nào xung quanh Mao cũng đều có một chức năng nhất định.
Thông thường thì Diệp chính thức là người phụ trách Văn phòng thư ký riêng và đặc biệt, ông còn là Trưởng ban thư ký riêng của Mao. Ông lo thu xếp các cuộc họp, hoàn thành các biên bản và với tư cách là người trợ lý cao nhất của Mao, ông thường xuyên quan tâm đến những việc sinh hoạt cá nhân của Mao, như ăn, mặc và tiền nong.
Sau này tôi được biết từ Uông Đông Hưng và từ chính Diệp Tử Long rằng, ông cũng đã kiếm gái cho Mao. Ông không những lấy gái từ Văn phòng thư ký riêng do ông phụ trách, từ Văn phòng bảo mật hoặc là từ các đội văn hóa thuộc Cục bảo vệ trung ương. Mà ông còn hay để mắt đến những cô gái trẻ, thơ ngây, không có ý thức chính trị và tuyệt đối trung thành với Mao.
Việc ông Diệp ở ngay trong tư dinh của Mao là để ông thực hiện nhiệm vụ cần vụ cho Mao dễ dàng hơn. Nhưng ông lại dùng nhà ở của ông để giấu các cô gái, trước khi ông đưa họ đến gặp Chủ tịch. Khi Giang Thanh vừa chìm vào giấc ngủ và Mao đã sẵn sàng tiếp các nữ tú, thì Diệp Tử Long dẫn các cô gái rón rén đi qua phòng ăn, rồi lẻn vào phòng ngủ của Mao. Đến gần sáng, ông mới quay trở ra và đưa các cô theo.
Ông Diệp còn là người trông nom một tài khoản đáng kể mà Mao dành để chi cho những công việc đặc biệt trong văn phòng.
Vào năm 1966, trước khi có cuộc Cách mạng văn hóa ít lâu và ngay trước khi hàng trăm triệu quyển sách nhỏ bìa đỏ trích những câu nói của Mao được bán ra, thì chỉ riêng Tuyển tập của mình, Mao đã kiếm được ba triệu nhân dân tệ. Trong những năm 1950, ông là một trong những người giàu nhất Trung quốc và ông cũng là người rộng rãi trong chuyện tiền nong. Ông đã giúp đỡ những giáo viên, bạn bè và những đồng chí cũ của ông, để họ có thể có một cuộc sống dễ chịu hơn trong tương lai sau khi họ bị chính quyền cộng sản mới tước mất quyền sở hữu và khả năng hành nghề của họ. Ngoài ra, ông còn dùng tiền để trả ơn những phụ nữ đã ngủ với ông. Việc này do Diệp Tử Long thu xếp một cách kín đáo. Tổng số tiền đó dao động từ một vài trăm đến một vài nghìn nhân dân tệ. Diệp Tử Long là một người bẳn tính, ít học và hầu như mù chữ. Ông là một trong những nông dân theo đảng từ khi còn trẻ và đã tham gia cuộc Vạn lý trường chinh. Sau cuộc Vạn lý trường chinh ít lâu, ông bắt đầu làm cần vụ cho Mao. Trước khi đến Bắc Kinh vào năm 1949, ông chưa hề đặt chân đến một thành phố lớn nào. Việc đảng nắm quyền tại Bắc Kinh chính là sự giải phóng thực sự đối với ông và Diệp đánh giá cao Mao ở chỗ, Mao đã đưa ông từ bóng đêm nghèo đôi ở nông thôn tới nơi thiên đường thịnh vượng. Nhưng Diệp không thuộc loại nông dân ngờ nghệch, dễ bị lóa mắt trước ánh đèn rực rỡ ở thành phố. Tôi chắc rằng, trước khi đến Bắc Kinh, từ lâu ông đã thiếu những cá tính mạnh. Có điều trước đây ông chưa có điều kiện để tham nhũng.
Tôi làm quen với Diệp Tử Long ở bệnh viện trong khu Trung Nam Hải, trước khi tôi trở thành bác sỹ riêng của Mao ít lâu. Lúc đầu tôi không có cảm tình đối với ông. Tôi vẫn còn nhớ, năm 1951 ông đã xin tôi năm lọ kháng sinh penicillin để cho người bà con của ông chữa bệnh giang mai. Khi đó, Trung quốc vẫn chưa sản xuất được penicillin và chúng tôi phải bảo quản những lọ penicillin nhặp ngoại này ở bệnh viện, nên thứ thuốc này rất quý. Ông Diệp khá ngạc nhiên, vì tôi đã từ chối lời đề nghị của ông. Cô y tá trưởng của bệnh viện cũng ngạc nhiên. Lúc đó, người ta đều biết, ông Diệp rất gần gũi và có ảnh hưởng lớn đối với Chủ tịch. Hầu hết mọi người đã phải đáp ứng yêu cầu của ông để lấy lòng ông, nên cô y tá nghĩ, tôi đã xúc phạm ông.
Tôi không hề nghĩ ràng, đường đi của chúng tôi lại một lần gặp nhau và hầu như ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau. Như tất cả chúng tôi, vào đầu những năm năm mươi, Diệp Tử Long cũng được hưởng chế độ bao cấp. Ông thèm khát một cuộc sống xa hoa, vậy mà ông không có tiền.
Nhưng là thư ký riêng của Mao, ông có thể có được tất cả những gì mà ông muốn. Ai muốn Mao ban cho ân huệ, thì chỉ cần nịnh thư ký riêng của Mao. Trong khi ông kêu gọi phải sống thanh bạch và tiết kiệm thì ông Diệp lại sống xa hoa và phung phí.
Sau khi một câu lạc bộ khá lịch sự được xây dựng dành cho các quan chức cao cấp, Diệp Tử Long đã kết bạn với nhiều người quản lý và thường xuyên tham dự những bữa tiệc lớn mà chẳng phâi trả một xu nào.
Những nhân viên an ninh không cho thường dân Trung quốc bén mảng đến những nơi mà ông Diệp thường lui tới, như câu lạc bộ dành riêng cho các quan chức cao cấp hoặc khách sạn Bắc Kinh, lại không hề hỏi giấy tờ ông. Ai cũng cho rằng, ông là một nhân vật quan trọng, một cán bộ cao cấp của đảng. ít ra ông cũng có vẻ thanh lịch. Da ông sáng và bóng. Trong khi ở Bắc Kinh mọi người mặc quần áo bằng vải bông bạc màu, vá víu, thì ông Diệp lại ưa diện bộ đồ kiểu Mao được cắt may. Khi Mao nhận được một bộ quần áo mới vừa vặn, thì ông Diệp có mặt ở đó và người thợ may của Mao cũng xúc động dành cho ông một bộ quần áo, mà ông không phải trả tiền, để tạ ơn ông.
Là người cần vụ cao nhất của Mao, ông có trách nhiệm lớn đối với kho riêng của Mao. Trong kho cất giữ nhiều quà biếu Mao nhận được từ khắp nơi. Diệp Tử Long mau chóng thuộc hết tên các hãng sản xuất đồ điện nổi tiếng của nước ngoài, ngay cả khi ông không thể đọc nổi tên nước sản xuất trên bản đồ hay tên của các vị nguyên thủ quốc gia.
Ông Diệp là người rất hợp với câu ngạn ngữ cổ: lầm nghề gì ăn nghề đó. Ông liên hệ được thực phẩm không mất tiền từ trại cải tạo Duyên Hà. Sau khi đảng cộng sản nắm quyền, chính phủ mới đã dựng lên trên khắp cả nước nhiều trại cải tạo, dành cho tù hình sự và tù chính trị.
Điều kiện sống trong trại rất hà khắc. Phần lớn tù chính trị là những người thuộc tầng lớp thấp như lính bộ binh hoặc các công chức nhỏ đã từng phục vụ cho Quốc đân đảng, Những quan chức cao cấp, hoặc là đã chạy trốn, hoặc là như cha tôi, đã theo cộng sản. Trại Duyên Hà do Sở công an Bắc Kinh quản lý và là trại cải tạo lớn nhất ở thủ đô. Những người bị giam trong trại đã phải tự lo nhiều loại lương thực, thực phẩm như thịt, cá, rau và gạo và chính họ cũng phải may những chiếc áo pull và các loại quần áo khác.
Diệp đã lợi dụng quan hệ bạn bè với trưởng trại Duyên Hà để lấy một khối lượng lớn thực phẩm cao cấp mà không phải trả liền, thậm chí ngay trong thời kỳ có nạn đói lớn năm 1960-1962, đã làm hàng triệu người chết đói.
Mặc dù Diệp Tử Long đã có vợ, nhưng trong một cuộc khiêu vũ của Mao, ông đã làm quen với một cô gái của Phòng bảo mật và mang lòng yêu cô. Khi cấp trên của cô gái trẻ biết chuyện, ông đã đưa cô xuống tàu, bí mật rời Bắc Kinh. Không ai muốn hỏi ông, bạn gái của ông đã biến đi đâu.
Vào năm 1958, khi ông Diệp ở Vũ Hán cùng với Mao, tình cờ ông gặp lại cô gái đó trong một buổi khiêu vũ khác và hai người đã nối lại quan hệ. Ông đã cố rời khỏi người tình của ông và để cô chuyển đến thành phố công nghiệp Thiên Tân, cách thủ đô Bắc Kinh khoảng 100 km về phía Đông. Vì thời đó chưa có đường cao tốc và đường xá luôn tắc nghẽn, nên đi từ Bắc Kinh đến đó phải mất tới 6 giờ đồng hồ. Ông Diệp đã tìm cho cô bạn gái của ông chỗ làm việc và một ngôi nhà để ông bí mật lui tới. Ông thường ở lại đó nhiều ngày. Khi Giang Thanh vừa rời Bắc Kinh, thì ông liền lấy xe của bà để đến Thiên Tân. Trong khi có nạn đói lớn, ông đã lo chu cấp thực phẩm cho người tình. Đến khi người ta bắt đầu tiến hành xét hỏi ông trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, ông mới cắt đứt quan hệ vừa được nối lại giữa hai người. Mãi đến năm 1980, khi Diệp Từ Long được phục hồi và được bầu làm phó thị trưởng thành phố Bác Kinh, thì hai người mới quay lại với nhau. Lúc đó ông đã là một ông già hói đầu, còn cô bạn gái của ông đã là một bà già tóc hoa râm. Việc tôi được nhận vào nhóm Một đã làm cho Diệp Tử Long phật ý. Ông không thể quên việc tôi đã từ chối không cho người bà con của ông thuốc kháng sinh penicillin. Đối với ông, một cán bộ từng trải một nông dân và một người từng tham gia Vạn lý trường chinh, thì tôi chỉ là một trí thức tiểu tư sản, vẫn còn mang những khuyết tật của xã hội cũ. Và việc đối thủ của ông là Uông Đông Hưng chọn tôi càng làm cho ông thêm ác cảm đối với tôi.
Sau khi Phó Liêm Chương và ông biết tôi được bổ nhiệm làm bác sỹ riêng của Mao ít lâu, họ đã lập kế hoạch để loại tôi một cách nhanh nhất. Giang Thanh đã cho tôi hay, họ đã nói với Mao rằng, cần phải lưu ý đến lý lịch của tôi, rằng tôi không chắc chắn về mặt chính trị. Nhưng Mao đã không đồng ý với họ.
Là thành viên của nhóm Một, tôi buộc phải làm việc cùng với Diệp Tử Long, khiến mối ác cảm của tôi đối vớl ông ngày càng tăng. Ngay cả những vệ sỹ của Mao cũng chăng có thiện cảm với Diệp. Văn phòng của họ nằm ngay cạnh phòng của các nhân viên cần vụ, nên khó thấy được sự khác nhau giữa hai nhóm. Các cô y tá thường tập trung vào công việc và chỉ trao đồi về công việc của họ. Hứa Đạo là người rất kín tiếng, vì ông là người không ưa gì đảng và chỉ khi gần đây ông bị buộc tội hủ hóa, ông mới biết rằng, lời hứa nhỏ nhất lại có thể gây cho ông những khó khăn lớn. Ngược lại, đám vệ sỹ thì lại lắm lời. Họ thường oang oang và trơ trẽn kháo nhau về những chuyện mà các cô nhân viên phục vụ xấu hổ không dám hé lời. Chuyện tình dục là đề tài mà họ ưa thích. Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Mao thản nhiên nói chuyện tình dục. Chẳng hạn, ông thường quan tâm đến cuộc sống tình dục của Cao Cương, trước đây là thủ lĩnh vùng Mãn Châu Lý và đã tự vẫn vào nãm 1954 sau khi ông ta bị quy tội âm mưu chống đảng. Cao Cương là một người có nhiều ảnh hưởng, như người bạn tốt của ông là Stalin thường gọi ông là ông vua của Mãn Châu Lý. Qua Uông Đông Hưng, tôi biết Cao và một người khác, hình như là người đồng mưu là Giao Xương Trí, đã trở thành nạn nhân của cuộc thanh trừng vì họ muốn ủng hộ Lưu Thiếu Kỳ.
ít khi Mao nói với tôi về sai lầm chính trị của Cao Cương. Thay vì việc dó, ông có ý quả quyết rằng, Cao đã ngủ với trên một trăm phụ nữ và ông băn khoăn, làm sao Cao lại giỏi gạ các nữ đồng chí chung chăn chung gối đến thế. Mao lưu ý với tôi rằng, vợ Cao đã thú nhận, vào cái đêm Cao tự vẫn, đồng chí ấy đã hai lần ngủ với bà. Đồng chí có thể tưởng tượng nổi sự khoái lạc như vậy không? ông kể tiếp: Thói phiêu lưu tình yêu của Cao nói chung là tục tĩu. Có lẽ đồng chí ấy đã không phạm phải những sai lầm chính trị nghiêm trọng như vậy, một khi đối với chúng ta những sai lầm dó nói chung không thuộc về quyền lợi. Mặc dù phạm sai lầm chính trị, nhưng đồng chí ấy vẫn có ích đối với chúng ta, khi đồng chí ấy chịu trách nhiệm trước những sai ìầm của đồng chí ấy.
Giang Thanh cũng công khai đề cập đến tình dục. Sau khi tôi trở thành bác sỹ riêng của Mao ít lâu, tôi ngạc nhiên nghe thấy rằng, nhiều lần bà đã tự hào khoe đêm hôm trước bà đã ngủ với Mao. Bà ca ngợi hết lời khả năng tình dục của Chủ tịch. Trong bối cảnh như vậy, không lấy gì làm ngạc nhiên khi tình dục là đề tài tán chuyện ưa thích nhất đối với đám vệ sỹ của Mao. Một đề tài khác cũng không kém phần thú vị đối với nhân viên an ninh là Giang Thanh. Cứ khi bà không thể nghe thấy họ nói, là câu chuyện lại xoay quanh bà và họ chẳng nể nang gì mà không chế nhạo bà. Trước hết, có một vệ sỹ trẻ tên là Tiểu Chương có thể bắt chước cực giống điệu bộ của vợ Chủ tịch. Tiểu Chương là một người thông minh, có tướng phụ nữ và là một người sắm vai rất giỏi. Vì áo quần của Giang Thanh (cả áo quần lót bằng lụa) để trong phòng của nhân viên an ninh, nơi đám vệ sỹ tắm rửa, giặt giũ và là quần áo, nên Tiểu Chương đã khoác áo mưa, đội mũ rơm của bà, vênh váo lắc hông ở trong phòng, làm mọi người phá lên cười. Ngay cả Mao, một lần tình cờ được chứng kiến cảnh đó, cũng chỉ mỉm cười mà không nói gì. Tôi cảm thấy không thích thú gì những trò đó và cố lánh xa bộ phận an ninh. Trước mặt họ, tôi thường nín thinh và người ta nghĩ rằng tôi không chấp nhận tư cách của họ. Bởi vậy, Diệp Tử Long đã chỉ trích tôi là kiêu ngạo và có thái độ quý tộc.
Sau lưng tôi, ông đã đến chỗ Mao và nói với Mao rằng tôi là kẻ ngạo mạn, vì là bác sỹ, nên tôi coi thường những cán bộ xuất thân từ những gia đình công nhân và nông dân thuần túy - một bằng chứng chứng tỏ sự mập mờ về chính trị của tôi. Mao khoái những lời tố cáo như vậy. Ông cố tình tạo ra sự hiềm khích giữa những người cộng sự của ông. Ông thường thu thập những tin tức làm cho chúng tôi chống đối nhau và để ngăn cản chúng tôi liên kết chống lại ông. Ông thường làm cho nội bộ nhóm Một ở trong bầu không khí căng thẳng. Chẳng hạn, Giang Thanh thường xuyên va chạm với Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều. Trước đây, Giang Thanh và Diệp vốn thân nhau, nhưng khi bà phát hiện ra Diệp đóng một vai trò quan trọng đối với chồng bà, thì mối quan hệ giữa họ trở nên nguội lạnh trông thấy. Bà cũng không chịu thông cảm với Lý ẩm Kiều vì Lý đã một lần xúc phạm bà và trong một cuộc phát động chính trị, bà đã chuyển đến Hàng Châu để thoát ra khỏi sự giám sát.
Uông Đông Hưng và Diệp Tử Long là hai kẻ cừu địch với nhau. Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều cũng không hòa hợp với nhau, vì cả hai đều ganh ghét nhau trước những ân huệ của Mao. Mao lợi dụng những bất hòa đó nhưng khi nào có nguy cơ xô xát, ông lại đứng ra hòa giải và sự hòa hợp cũng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Một hôm ở Hàng Châu, Mao nói với tôi:
- Người làm nghề y luôn cư xử nhã nhặn. Tôi không thích thế.
Tôi đáp:
- Đối với những người khác, có lẽ bác sỹ thường cư xử nhã nhặn, nhưng đối với đồng chí thì không thế.
Mao phản bác:
- Tôi không tin điều đó. Đồng chí chưa bao giờ tự cao tự đại chứ?
Lúc đó tôi mới biết Diệp Tử Long đã tố cáo tôi.
Lường được bối cảnh xung quanh Mao, thực ra tôi đã rất nhã nhặn. Cả địa vị xã hội của gia đình tôi lẫn quá trình học hành của tôi đã dạy cho tôi rằng, nghề nghiệp của tôi có giá trị cao và nhà y được mọi người kính trọng. Theo quan điểm cách mạng của Mao, hiện nay công nông là tầng lớp được ưu tiên. Nhưng tôi khó thay đổi quan điểm của tôi. Tôi luôn tự hào về công việc của tôi và tôi cảm thấy bị xúc phạm với những tiếng xì xèo thô thiển trong đám nhân viên của Mao.
Diệp khuyên tôi nên từ chức, nhưng Mao đóng vai người trung gian. Ông lệnh cho Diệp không được gây khó dễ đối với tôi và chỉ thị cho tôi hãy xích lại gần Giang Thanh hơn. Bà khuyên tôi nên kính trọng Diệp Tử Long và niềm nở với ông ta một chút. Cuối cùng bà nói, Diệp Tử Long phục vụ Chủ tịch lâu hơn tôi và thậm chí ngay cả bà cũng phải chiều Dìệp.
Nhưng tôi chỉ muốn lấy lòng Diệp Tử Long như Giang Thanh thôi. Tôi nói thẳng với Mao, tôi nghĩ gì về Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều, rồi kết luận rằng những người khác đều không có cảm tình đối với cả hai người. Mao đáp:
- Họ có ích đối với tôi. Đồng chí hãy cố hòa hợp với họ.
Lúc đó, tôi vẫn chưa hiểu tại sao cả hai lại hữu dụng đối với Mao. Chỉ những năm sau này tôi mới biết được sự bí mật về quyền lực của họ.
Lúc nào tôi cũng cảm thấy mình ở trong tình trạng ngột ngạt - không phải vì Mao, người mà tôi luôn tôn kính, cũng không phải vì Giang Thanh, mà là vì những cộng sự của nhóm Một. Những kẻ nịnh bợ này làm cho tôi khó chịu và tôi chán ngấy những lời nhắc nhở tôi nên bợ đỡ ai hoặc tôi phải sốt sắng với ai. Mặc dù tôi là người cộng sự gần gũi nhất của Mao, nhưng những thành viên của nhóm Một lại coi tôi chẳng ra gì. Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều - nói chung, cả đám thư ký và vệ sỹ - có thể ví như các hoạn quan trong hoàng cung, suốt ngày tranh nhau lấy lòng vua, chuyển lệnh của vua và lợi dụng ảnh hưởng của họ để dọa nạt và làm nhục người khác. Người ta trông chờ tôi cất lòng tự trọng của mình đi và thành kẻ xu nịnh. Mặc dù là bác sỹ riêng của Mao, nhưng tôi vẫn bị Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều đối xử thô lỗ.
Tôi đã cố gấng để tình hình của tôi sáng sủa hơn. Mao vẫn còn khỏe và không cần bác sỹ túc trực hàng giờ bên ông. Nếu tôi ở lại thì có lẽ tôi không bao giờ trở thành một thầy thuốc giỏi, nhưng tôi lại luôn luôn muốn chứng tỏ rằng, mình là một bác sỹ.
Bởi vậy, tôi đă quyết định từ chức.
Trước hết tôi nói với Uông Đông Hưng. Ông ta ngạc nhién nhìn tôi, cố động viên tôi:
- Đồng chí đă làm được nhiều việc cho Chủ tịch đấy chứ. Đồng chí đã giải quyết được vấn đề bạch cầu và kê toa thuốc ngủ mới cho Chủ tịch. Đồng chí không được xem xét mọi việc một cách khe khắt như thế, mà đồng chí phải nghĩ đến đảng. Người ta không dễ có được một chức vụ như đồng chí. Ngoài ra, nếu đồng chí không cân nhắc kỹ càng một lần nữa và xin thôi việc mà không có lý do rõ ràng, thì sau này có thể đồng chí sẽ không tìm được việc làm đâu.
Câu nói cuối cùng cùa Uông đã có tác dụng. Những người rời khỏi nhóm Một mà không có lý do cụ thể, trong số đó có một người là bác sỹ của Mao trước đây, đã phải cố gắng lắm mới tìm nổi việc làm. Nếu ai đó được nhận vào làm, thì họ phải không có lý do chính trị. Tại sao người ta lại muốn rời khỏi khu vực Trung Nam Hải danh giá nhỉ? Không ai dám liều lĩnh trở thành một người có vấn đề về chính trị.
Mặc dù vậy, tôi vẫn luôn luôn nghĩ tới quyết định từ chức, càng sớm càng tốt. Rồi tôi đến gặp Giang Thanh. Tôi nói:
- Tôi đã suy nghĩ về tình hình của tôi ở đây. Tôi thấy, tôi không hợp với những đòi hỏi về chính trị được đặt ra đối với bác sỹ riêng của Chủ tịch. Chúng ta cần phải tìm ai đó thay tôi và người dó xuất thân từ tầng lớp nghiêm chỉnh của xã hội và có lý lịch trong sạch về chính trị.
Giang Thanh thăm dò, liệu tôi đã nói chuyện này với Mao hay chưa. Tôi nói chưa. Bà ta trầm ngâm suy nghĩ một lát và khuyên tôi đừng đến gặp Chủ tịch. Bà muốn bà đích thân nói chuyện với ông.
Hôm sau, Giang Thanh cho gọi tôi tới. Bà đã nói chuyện với Mao và họ đi đến một quyết định rằng, những khó khăn về chính trị của tôi và gia đình tôi đều thuộc về quá khứ. Ngoài ra, Uông Đông Hưng, La Thụy Khanh và Dương Thượng Côn đã kiểm tra tư cách của tôi và xếp tôi vào loại không có vấn đề. Chu Ân Lai cũng biết việc này. Họ nói: Như vậy đồng chí có thể hoàn toàn yên tâm và trở lại công việc của đồng chí. Đồng chí hãy quên những vấn đề chính trị của đồng chí đi.
Uông Đông Hưng khá vui. Ông tự hào nói:
- ít ra, bây giờ chúng ta đã biết Chủ tịch nghĩ gì về đồng chí. Bây giờ đồng chí phải cố gắng làm việc để đồng chí không còn gặp khó khăn nữa!.
Thế là tôi không còn cựa vào đâu được nữa.
Sau sự việc này, Giang Thanh tỏ ra thân mật với tôi hơn trước nhiều. Bà thường mời tôi đến để chuyện trò và pha trà mời tôi.
Bà bắt chước cách nói chuyện của Mao, thoải mái và không nặng nề. Bà động viên tôi nói thẳng và cố tìm hiểu nhưng suy nghĩ của tôi, mà không đánh giá một suy nghĩ nào. Giang Thanh có thể bắt chước giống hệt chồng bà, vì bà đã từng là diễn viên, nhưng thực ra lại không phải là tác phong của ông. Vì bà đại diện cho quan điểm của Mao, nên khi nói chuyện tôi cần phải thận trọng. Tôi không hề nghĩ rằng, một lời nhận xét vô tư nhất về một cuốn tiểu thuyết hay một bài thơ, mười năm sau lại có thể trở thành nguy cơ đe dọa cuộc sống. Nhưng lúc đó tôi đã có linh cảm như vậy và trước mặt Giang Thanh tôi luôn luôn đề phòng.
Đầu mùa hè năm 1956, chúng tôi vẫn còn ở Quảng Châu. Người y tá của Giang Thanh cho tôi hay, vợ của Chủ tịch muốn gặp tôi. Cô ta nói: Đồng chí ấy có tin mừng cho đồng chí.
Khi tôi bước vào phòng, thì Giang Thanh đang ngắm nghía những tấm ảnh. Bà là người chụp ảnh nghiệp dư rất cừ. Bà đặt những tấm ảnh sang một bên và lên tiếng:
- Bác sỹ này, tôi nghe thấy đồng chí ra mồ hôi khá nhiều.
Tôi lúng túng. Tôi thiếu quần áo hợp với khí hậu nhiệt đới ở Quảng Châu. Mặc dù khi làm việc tôi đã phải cởi áo ra, nhưng vì ở đây không có máy điều hòa nhiệt độ và quần của tôi may bằng vải dày, nên suốt ngày tôi vã mồ hôi.
Tôi đáp:
- Tôi không mang theo quần áo mùa hè.
Giang Thanh chỉ vào những xấp vải trên một cái bàn:
- Đồng chí hãy lấy một tấm vải để thợ may cho một bộ quần áo khác. Quần áo của đồng chí dày quá.
Tôi đang chần chừ thì cô y tá giật tay áo tôi, ra hiệu tôi nên nhận món quà của Giang Thanh. Nhưng tôi lại chối từ, vì tôi không muốn mang tiếng là đã nhận quà của vợ Chủ tịch đảng. Nhưng Giang Thanh vẫn không chịu. Bà cho người đưa tôi đến thợ may. Món quà của Giang Thanh đã đặt tôi vào một tình thế khó xử. Mặc dù bà có tiếng là keo kiệt, nhưng bà lần này bà lại tỏ ra hào phóng đối với tôi. Nếu tôi từ chối quà của bà, có nghĩa là tôi dám xúc phạm bà và có thể cũng dám xúc phạm cả Mao nữa.
Tôi đã kể cho Uông Đông Hưng về sự khó xử của tôi. Uông nói
- Nếu đồng chí không nhận tấm vải, đồng chí ấy sẽ quả quyết đồng chí coi thường đồng chí ấy. Nếu đồng chí nhặn, thì những người khác sẽ ghen tị với đồng chí. Tôi sẽ nói cho đồng chí ấy về vấn đề này. Có thể tôi sẽ thuyết phục được đồng chí ấy.
Nhưng ông đã không làm được điều đó.
Uông Đông Hưng thuật lại với tôi:
- Giang Thanh nói Đồng chí ấy hỏi, tại sao một người đồng chí lại không thể giúp đỡ một người đồng chí khác? Đồng chí ấy đâu muốn mua chuộc đồng chí. Nếu có ai xì xào sau lưng đồng chí, tôi sẽ giải thích cho họ biết.
Tôi buộc phải nhận món quà của Giang Thanh. Nhưng tôi vẫn ngại rằng những lời đàm tiếu sẽ tệ hơn. Lý ẩm Kiều nói:
Giang Thanh lúc nào mà chả keo kiệt. Cử chỉ thân thiện của bà đối với bác sỹ Lý chắc chỉ là một lần duy nhất. Rồi Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều đã phao tin là Giang Thanh và tôi rất hảo với nhau, tức là chúng tôi là những người bạn tốt, để bóng gió rằng, giữa chúng tôi có mối quan hệ nào đó. Tin đồn đến tai Mao và có lẽ ông cũng tin.
Chương 15
Bấy giờ đã là tháng 6. Tiết trời ở Quảng Châu nóng kinh khủng. Mao dọn đến ngôi nhà số ba và ở trong một phòng khách rộng. Hàng ngày những người phục vụ mang đến năm thùng đựng đầy nước đá để làm cho Chủ tịch mát mẻ, dễ chịu. Còn chúng tôi thì dùng quạt máy để xua tan khí nóng. Buổi tối, chúng tôi ngủ không có màn. Muỗi đã tấn công chúng tôi, thêm vào đó là bầu không khí hầm hập, ngột ngạt. Mao cũng không tránh khỏi những phiền phức. Ông ta đã khiền trách đám vệ sỹ của ông là không gắng hết mình diệt muỗi. Đám vệ sỹ đùn trách nhiệm cho tôi. Họ nói muỗi là kẻ truyền bệnh sốt rét, nên việc chống muỗi là của bác sỹ.
Nạn muỗi là một vấn đề nan giải. Chúng tôi ở trên một hòn đảo có nước bao bọc xung quanh và đó chính là sào huyệt của muỗi. Ngoài ra, lại còn các xó xỉnh trong các ngôi nhà mà trần nhà chỉ cao khoảng ba, bốn mét, với những tấm rèm cửa kín mít. Ban ngày bọn muỗi đậu trên trần nhà hoặc chui vào giữa các tấm rèm. Khi mặt trời lặn, chúng mới bay ra hàng đàn. Tất cả nhưng nỗ lực để giải tỏa sự hành hạ con người đều thất bại. Chỉ đến khi chúng tôi đề nghị phải có thuốc DDT mua từ Hổng Công, thì vấn nạn muỗi mới được giải quyết.
Khí hậu oi bức cũng làm cho những cộng sự của Mao nổi cáu. Họ đề nghị tôi thuyết phục Mao vào thời gian này nên trở về Bắc Kinh. Nhưng Mao nói: Cái nóng không hành hạ tôi. Hơn nữa, tôi còn phải hoàn tất một vài công việc ở đây, nên chúng ta phải hoãn ngày về một chút. Có lẽ đó là những quyết định chính trị quan trọng. Trong khi Mao đi vắng, trong những bài xã luận đăng trên báo Nhân dân, ban lãnh đạo trung ương ở Bắc Kinh đã công khai tố cáo những chính sách phiêu lưu và tuyên bố, sản xuất công nông nghiệp phải được tăng lên từng bước. Lúc đó, dư luận Trung quốc và tôi hiểu rõ rằng, ban lãnh đạo đảng đã chỉ trích những chính sách của Mao, vì ông chủ trương tập thể hoá và mở rộng sản xuất công nghiệp một cách ồ ạt.
Sau việc tôi thử thuyết phục Mao trở về ít lâu, La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng hỏi tôi, liệu nước sông Ngọc Trai có sạch không. Tôi ngạc nhiên, vì Chủ tịch vừa mới tuyên bố, ông muốn bơi ở ba con sông: sông Ngọc Trai ở Quảng Châu, sông Tương ở Trường Sa tỉnh Hồ Nam và sông Dương Tử ở Vũ Hán, tỉnh Hà Bắc. La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng cũng như ban lãnh dạo của các tỉnh trên đều cho rằng, dự định của ông rất nguy hiểm. Đào Chu nói, sông Ngọc Trai ở Quảng Châu bị nhiễm bẩn nặng và Vương Nhiệm Trọng thì nghĩ sông Dương Tử ở Vũ Hán quá rộng. Nhưng Mao không nghe họ, nên bây giờ La và Uông chờ lời phán quyết chính thức của tôi là nước sông Ngọc Trai có bị nhiễm bẩn nặng không.
Có lẽ nước sông không sạch vì các nhà máy công nghiệp của tỉnh Quảng Châu đều làm ở phía thượng lưu của sông. Nhưng vì không xét nghiệm, nên tôi không thể nói được mức độ nhiễm bần như thế nào. Uông và La đề nghị tôi kiểm tra vi khuẩn và chất thải trong nước, rồi nói lại kết quả cho họ biết, càng sớm càng tốt.
Sáng hôm sau, trước khi tôi xét nghiệm xong, một vệ sỹ của Mao đến đón tôi. Anh ta nói: Chủ tịch có vẻ muốn bơi. La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng đã hứa gặp Mao và muốn tôi cùng đi.
Khi tôi vào tư dinh của Mao, hai nhân viên an ninh đã ở đớ. Mặt họ đỏ bừng và nhễ nhại mồ hôi vì xúc động. Uông lúng túng cười với tôi. Kết quả xét nghiệm chẳng có tác dụng gì. Chủ tịch vừa thay quần áo để bơi.
Mao từ phòng ngủ bước ra. Ông khoác chiếc áo tắm màu trắng, mặc chiếc quần tắm cũng màu trắng và đi dép da. Ông đi thẳng đến cầu tàu và bước lên một chiếc thuyền đã chờ sẵn. Đào Chu, Vương Nhiệm Trọng và Dương Thượng Côn đi theo ông. Còn tôi thì rảo chân theo họ. Mao muốn chứng minh với mọi người rằng, không ai có thể ngăn cản được dự định của ông.
Thuở thiếu thời, ông đã học bơi trong cái ao của bố ông và ông bơi rất khá. Tất cả nhưng ai chịu trách nhiệm về an toàn của ông đều cố khuyên can ông đừng bơi. Nhưng đám vệ sỹ của ông càng ra sức bảo vệ cho ông, thì ông lại càng ngang ngạnh.
Chiếc du thuyền chạy đến một đoạn sông, vừa tắt máy thì lập tức có bốn chiếc thuyền khác vây quanh. Mao bước xuống dưới theo chiếc thang bên mạn thuyền rồi lặn xuống dưới nước. Theo sau ông có khoảng 20 đến 30 vệ sỹ và các vị lãnh tụ của đảng. Tôi nhảy xuống nước cuối cùng và nhập vào vòng bảo vệ vây xung quanh Mao.
Mao quyết định đi bơi nhanh đến nỗi chỉ có ông là người duy nhất mặc quần bơi.
Còn chúng tôi thì mặc quần lót để bơi. Dòng sông rộng trên 90 mét, nước lững lờ trôi. Nước sông bẩn đúng như tôi lo ngại. Thỉnh thoảng những đám rác rưởl lềnh bềnh trôi qua. Nhưng Mao chẳng nề hà. Ông nằm ngửa, để cái bụng phệ nổi lên trên mặt nước như quả bóng, hai chân duỗi thẳng như nằm trên ghế xa-lông. Nước đẩy ông trôi theo dòng và ít khi ông sử dụng chân hoặc tay để bơi.
Tôi là người bơi kém, nên tôi phải dùng hết sức để giữ cho người nổi trên mặt nước. Mao đế ý thấy tôi bơi khá vất vả ông nói với sang: Đồng chí hãy chùng người, đừng cử động chăn tay nhiều, thì đồng chí mới giữ người nổi trên nước lâu mà không mệt. Đồng chí thử đi.
Tôi đã thử, nhưng tiếc là không có kết quả. Tôi lại phải khua chân khua tay, không thì chìm nghỉm. Dương Thượng Côn và Vương Nhiệm Trọng đã học nhanh hơn. Họ đã nắm được bài dạy bơi của Mao và cùng trôi nổi với ông. Sau này, khi tôi biết nhiều hơn thì năm tháng đã trôi qua.
Chúng tôi bơi gần hai giờ đồng hồ xuôi theo dòng Ngọc Trai, độ 10 hay 11 km. Sau đó chúng tôi tắm và ăn trưa trên boong thuyền được trang bị rất tốt. Giang Thanh từ trên mái thuyền nhìn chúng tôi rồi nhập bọn với chúng tôi. Mao cảm thấy rất sảng khoái, hệt như ông vừa thắng trận. Mao hỏi xoáy La Thụy Khanh: Bác sỹ Lý không nói nước sông quá bẩn à?
Tôi chống chế: Tôi thấy cả phân trôi qua mà.
Mao cười to: Nếu lúc nào chúng tôi cũng nghe lời thầy thuốc, thì có thể chúng tôi không còn tồn tại nữa. Tất cả sinh vật không cần không khí, nước và đất hay sao? Đồng chí nói cho tôi biết, cái gì là sạch sẽ? Tôi không tin có không khí sạch, nước sạch và đất sạch. Đồng chí thử thả một con cá vào nước cất xem, đồng chí nghĩ con cá sẽ sống được bao lâu?
Tôi im lặng. Dẫu sao Mao cũng không chấp nhận ý kiến về vệ sinh của tôi. Buổi tối, khi chúng tôi gặp lại nhau, tôi mới biết giữa ông và nhân viên bảo vệ của ông đã nổ ra một cuộc xung đột mới. Ông nói: Tôi muốn bơi ở cả ba con sông. Theo ý kiến của La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng, thì tôi chẳng nên bơi ở con sông nào. Sông Dương Tử là con sông có sóng to và nhiều xoáy nước nguy hiểm. Nếu không may tôi bị dòng nước cuốn đi, thì không ai có thể cứu tôi được. Còn Đào Chu lại không muốn tôi bơi ở sông Ngọc Trai, nhưng đồng chí ấy không phản đối tôi bơi ở sông Tương. Vương Nhiệm Trọng không muốn tôi bơi ở sông Dương Tử, nhưng đồng chí ấy lại không phản đối tôi bơi ở sông Ngọc Trai và sông Tương.
ở đây còn có vấn đề nhiệm vụ của mỗi người. La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng phải chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn cho Mao ở khắp nơi. Vì vậy họ không hề muốn Mao bơi ở bất cứ con sông nào. Là bí thư thứ nhất tỉnh Quảng Đông, Đào Chu lại phản đối việc Mao bơi ở sông Ngọc Trai và cho rằng tính mạng Mao sẽ gặp nguy hiểm. Nếu Mao bơi ở sông Dương Tử, thì Vương Nhiệm Trọng phải chú ý đến vấn đề an toàn cho ông.
Mao nói:
- Tôi không cần các đồng chí bảo vệ tôi. Song, các đồng chí vẫn chưa biết nước sông như thế nào, nên tôi đã cử Yến Thanh Ngọc và Tôn Vĩnh đến bơi thử ở sông Dương Tử và kể lại cảm tưởng của họ cho tôi biết.
Cả hai nhân viên an ninh này đều là những người bơi giỏi và là những người luôn bơi cạnh Mao.
Điều không thể ngờ là Mao có thể bơi ở sông Dương Tử. Đay là con sông lớn, nước chảy xiết, hung dữ và nguy hiềm nhất ở Trung quốc. Ngay việc điều khiển tàu bè trong dòng nước xiết có nhiều xoáy nước cũng là việc không dễ. Chưa có ai trong số cư dân hai bên bờ sông bơi được một quãng sông dài. Mặc dù vậy, Mao vẫn liều. Sau khi trở về, Yến Thanh Ngọc và Tôn Vình đều đồng thanh báo cáo lại rằng, sông Dương Tử nguy hiểm hơn nhiều so với sông Ngọc Trai. Ai đã bị cuốn vào những xoáy nước là có thể mất mạng như chơi. Ngoài ra, trong nước còn có vô số ốc sên mang theo bệnh tật.
La Thụy Khanh đề nghị Vương Nhiệm Trọng nên thông báo kết quả đó cho Mao, nhưng Vương lại cử ngay hai người đã đến chỗ Mao, vì Vương biết Mao không nghe ông.
La Thụy Khanh dặn đi dặn lại hai viên vệ sỹ là phải nói thật cho Mao rõ và họ đã đồng ý. Tất cả chúng tôi cùng đến chỗ Mao. Khi đứng trước mặt lãnh tụ, Yến Thanh Ngọc vì quá xúc động, nên lắp bắp nói không nên lời. Không có cách nào khác, Mao đành ngắt lời anh ta. Ông nói:
- Thôi được, đồng chí đừng nói nữa. Bây giờ tôi sẽ hỏi đồng chí và đồng chí hãy trả lời lần lượt từng câu một.
Yến vẫn chưa hết run. Mao bắt đầu hỏi:
- Sông rộng lắm không?
Yến gật đầu:
- Thưa, rất rộng ạ.
- Có nhiều xoáy nước không?
- Thưa, có nhiều xoáy nước ạ.
- Người ta có thể tự thoát ra được nếu rơi vào một xoáy nước không?
Yến lắc mạnh đầu:
- Thưa không, không thể ạ.
- Như vậy, không thể bơi được ở sông đó phải không?
- Thưa, không ạ.
Đột nhiên, Mao đấm xuống bàn và gầm lên giận dữ:
- Tôi cuộc rằng, bản thân đồng chí chưa hề xuống nước. Từ đâu mà đồng chí biết được những điều đó? Làm thế nào mà đồng chí lại có thể là chỉ huy cảnh vệ của chúng tôi được?
Mao quát:
- Cút mẹ mày đi!
Một lối phát ngôn chắc chắn là nhân dân Trung quốc không thể ngờ ở những chính trị gia cao cấp nhất.
Yến tái dại và kinh hãi đứng như trời trồng.
- Cút mẹ mày đi! - Mao lại quát.
Yến rời khỏi căn phòng. Những người khác không hề nhúc nhích. Mao quay sang Tôn Vĩnh.
- Bây giờ đồng chí hãy nói cho tôi biết, sông Dương Tử như thế nào?.
Tôn biết rõ điều anh sẽ phải trả lời. Anh nói không do dự:
- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch có thể bơi ở sông Dương Tử được ạ.
Mao cười. Tôn muốn nói thêm, nhưng Mao đã biết trước:
- Đủ rồi. Đồng chí đừng nói nữa. Đồng chí hãy chuẩn bị đi bơi đi.
Uông Đông Hưng bực tức với Tôn Vinh. Ông vặn:
- Tại sao đồng chí lại nói dối? Đồng chí đã hứa nói thật với Chủ tịch cơ mà!
Tôn đỏ mặt:
- Thưa thứ trưởng Uông, đồng chí không thấy điều gì đã xảy ra với đồng chí Yến sao? Nếu tôi cũng nói với Chủ tịch như vậy, thì đồng chí ấy cũng lại tống cổ tôi ra ngoài. Tôi không thể chịu được điều này.
Yến cũng tức giận và trách đồng nghiệp của anh đã phản bội anh.
Uông Đông Hưng cố gắng trấn an Yến và hứa sẽ bảo vệ anh ta trước cơn giận của Mao. Nhưng ông không làm được điều đó.
Sau khi chúng tôi trở về Bắc Kinh, Yến bị khai trừ khỏi nhóm Một. Còn Tôn Vĩnh, kẻ nói dối và phản bội đồng nghiệp của anh ta, thì vẫn tiếp tục làm vệ sỹ cho Mao, thậm chí anh ta còn được đề nghị thăng cấp.
Rốt cuộc, cuối tháng 6 năm 1956 Mao đã lên đường. Cái đích của chuyến du hành sắp tới là Trường Sa, thủ phủ tỉnh Hồ Nam, quê của ông. Tại đó, ông muốn bơi ở con sông Tương như thuở thiếu thời. Chúng tôi đáp một chuyến tàu dặc biệt.
Tiết trời ở Trường Sa nóng khủng khiếp, nhiệt độ tới 40 độ C. Sau hôm chúng tôi tới nơi, Mao đã bơi lần đầu.
Sông Tương đang mùa lũ, có nơi sông rộng tới 180 mét. Nhóm của Mao, cả thảy có khoảng 50 chục người, bơi gần đến dãy phố chạy song song với nó. Bỗng nhiên ở đâu nhóm có tiếng kêu thất thanh. Một vài người nói: Đưa đồng chí ấy vào bệnh viện. Lý Tương, trưởng phòng an công an Hồ Nam bị rắn nước cắn.
Mao vẫn bình thản như không cố chuyện gì xảy ra, nhưng vòng người khoảng từ 25 đến 30 nhân viên an ninh bơi quanh ông khép lại La Thụy Khanh hoảng hết hỏi tôi: Đồng chí có thuốc chống rắn cắn không? Tôi trấn an ông để ông khỏi lo ngại cho Lý Tương và đừng trông chờ tôi giúp đỡ những quan chức bị thương. Tôi còn phải lo cho sức khỏe của Mao.
Mặc dù nước sông Tương chảy mạnh hơn sông Ngọc Trai, nhưng Mao vẫn để cho người trôi xuôi dòng như ở Quảng Châu. Ông trôi đến một hòn đảo nhỏ nằm giữa sông mà hồi còn trẻ ông thường đến thăm. Đảo đó gọi là đảo Cam. Ngay khi ông vừa đặt chăn lên đảo, thì một chiếc tuần tiễu cũng đã thả neo xong. Những người cần vụ mang đến cho Mao một chiếc áo tắm, một dôi dép và một hộp thuốc lá. Còn chúng tôi đi chân đất và chỉ mặc độc có chiếc quần bơi. Có một vài gia đình sống trên đảo. Những ngôi nhà của họ đã đổ sập tới một nửa. Những cây cam mà người ta lấy tên loài cây này đặt cho hòn đảo, thì chưa từng thấy ở bất cứ đâu. Mao châm một điếu thuốc và đi lại phía một bà già ăn mặc rách rưới.
Mao hỏi: Cuộc sống ở đây ra sao? Rõ ràng là bà không hề biết trước mặt bà là vị Chủ tịch đảng cộng sản Trung quốc. Bà vẫn lúi húi làm việc và không trả lời. Mao nhắc lại câu hỏi.
- Thế cả thôi mà - bà hững hờ trả lời và không thèm ngước lên.
Ngay lúc đó, một toán cư dân trên đảo tập trung xung quanh Mao và Mao kể thời còn trẻ ông thường bơi đến hòn đảo này. Khi đó hòn đảo vẫn còn hoang vắng.
Nhiều năm sau, vào tháng 6 năm 1959 khi chúng tôi trở lại hòn đảo, bà già đã không cón sống ở đó nữa. Việc Mao ở lại trên đảo là ngoài kế hoạch, nên lực lượng an ninh được một phen hú vía. Ngay sau đó, nhân viên phòng an ninh tỉnh và một đơn vị quân đội đóng ở gần đảo đã phải lùng tìm những phần tử tình nghi và đuổi tất cả dân trên đảo đi. Người ta đã biến hòn đảo thành một công viên lộng lẫy trồng cam. Vào mùa thu, hoa cam nở rộ, trông rất đẹp. Tôi hỏi Lý Tương, trưởng phòng an ninh tỉnh Hồ Nam, cái gì đã xảy ra với bà già, nhưng Lý không nói gì. Vào ngày thứ ba chúng tôi lưu lại Hổ Nam, Mao lại đi bơi. Lần này tất cả chúng tôi đều bắt chước ông, thử để cho người nổi trôi theo dòng nước. Bỗng nhiên, Yến Thanh Ngọc, người đã khuyên Mao không nên bơi ở sông Dương Tử, không may sa vào hố phân. Bình thường thì hố phân nằm trên bờ sông, nhưng hố phân này lại ngập nước do nước đã dâng lên. Khắp người Yến toàn phân là phân. Trông anh ta tbật đáng thương khiến tôi cũng phải bật cười theo những người khác.
Nhưng là bác sỹ riêng của Mao, phải quan tâm đến sức khỏe của Mao, nên buổi tối tôi đã nói đến việc này. Mao cười và cho rằng, thực phẩm mà chúng ta dùng đều nhờ phân bón. Ông nói tiếp:
- Sông Tương quá nhỏ. Tôi muốn bơi ở sông Dương Tử. Nào hãy đến sông Dương Tử!
Chúng tôi mất mấy tiếng đi tàu đến Vũ Hán. Vương Nhiệm Trọng đã chuẩn bị tất cả mọi thứ. Chúng tôi lại ở nhà khách Đông Hồ. Vương tìm được một chiếc tàu thủy tên là Đệ nhất Đông phương hồng, có khoảng từ hai đến ba trăm chỗ và trong khoang tàu có nhiều buồng ngủ nhỏ, một phòng tắm đầy đủ tiện nghi được lắp đặt và có nhiều nhà vệ sinh. Mao, các vị lãnh đạo đảng cũng như ban tham mưu cồng kềnh của đám vệ sỹ lên tàu ở gần một nhà máy đã định sẵn và được lực lượng an ninh canh gác. Tám chiếc tàu khác chở nhân viên an ninh đi theo bảo vệ chiếc tàu thủy của Mao vă thêm bốn tàu tuần tiễu nữa canh chừng ở khu vực xung quanh. Khi chiếc tàu thủy của Mao xuôi theo dòng đến chiếc một chiếc cầu lớn đang xay, thì Mao tụt thang xuống nước và các vị lãnh đạo khác làm theo ông. Lập tức, khoảng 40 nhân viên an ninh bơi thành một vòng quây quanh Chủ tịch. Tôi thử bắt chước bơi theo kiểu của Mao.
Tôi để cho người nổi, trôi theo nước và cử động tay chân càng ít càng tốt. Sông Dương Tử dang mùa lũ và từ giữa sông khó có thề nhìn thấy được bờ sông. Đây là con sông đẹp, dáng để thưởng ngoạn. Bỗng tôi nghe thấy tiếng kêu và nhìn thấy những con tàu nhỏ hướng vào chiếc tàu thủy lao đến. Mấy người thủy thủ nhảy xuống nước. Khi lên trên tàu tôi mới hay, tướng ba sao Trần Tái Đạo, tư lệnh tỉnh Vũ Hán, đã xuống nước một mình sau chúng tôi không bao lâu. Dòng nước chảy rất xiết đã làm cho ông phát hoảng. Ông cố bơi trở lại tàu, nhưng đòng nước đã cuốn phăng ông đi và ông được một phen uống no nước. Các thủy thủ đã kịp vớt ông trước khi ông chìm nghỉm. Chúng tôi đã để cho người trôi được khoảng hai giờ đồng hồ và tới gần một nơi trên sông vốn có nhiều con vật mang một căn bệnh nguy hiểm.
Tôi nhắc Mao nên chú ý, nhưng ông nói:
- Chuyện vặt. Đồng chí muốn tôi trở lại tàu chứ gì!
Tôi đáp:
- Chúng ta bơi hai giờ đồng hồ là đủ rồi. Trước khi bơi, nhiều người chưa ăn uống gì cả. Bây giờ chắc họ đói lắm.
- Thôi được. Ta trở lên tàu ăn cái gì đã.
Một thủy thủ cùng bơi với chúng tôi ước đoán chúng tôi đã bơi được chừng 25 km. Nhưng tôi chắc quãng đường còn xa hơn nữa. Nước sông chảy xiết, nên chúng tôi không cần phải tốn sức lắm. Dương Thượng Côn cũng đồng ý: Đây không phải là bơi, mà là để cho trôi theo dòng nước.
Đến khi Mao trở lên tàu, những người chịu trách nhiệm an toàn cho ông mới thở phào nhẹ nhõm. Uông Đông Hưng giả sử nếu Mao ở vào trường hợp như Trần Tái Đạo, thì chắc ông cũng chìm. Tôn Vình người đã can Mao nên bơi ở sông Dương Tử cũng như trút được gánh nặng Vì anh ta biết, đời anh ta sẽ chấm hết, nếu Mao có mệnh hệ gì. Mao mời chúng tôi dùng bữa trưa. Ông rất hoan hỉ về kết quả mà ông đã đạt được. Và những kẻ xu nịnh đã không bỏ lỡ thô cơ. Vương Nhiệm Trọng biếu Mao một ly rượn vang. Ông nói:
- Thưa Chủ tịch, xin Chủ tịch dùng một ly rượu để tránh bị cảm lạnh ạ.
Mao cười:
- Ai lại cảm lạnh giữa trời nóng nực như thế này? Nhưng đồng chí hãy cho chúng tôi uống cái gì đi đã. Tất cả cụng ly với tôi nào!
Ông nhấp ly rượu và nói với tướng Trần khi đó vẫn chưa hoàn hồn:
- Đồng chí Trần Tái Đạo này, tôi nghĩ đồng chí nên bồi bổ khỏe thêm nữa đi. Bình thường mọi người đều bơi được cả, tại sao đồng chí lại không?
Trần im lặng.
Vương bắt đầu nịnh rất thô:
- Thưa Chủ tịch, chúng tôi biết Chủ tịch từ nhiều năm nay, nhưng đến giờ, chúng tôi mới biết Chủ tịch là một người bơi rất giỏi và Chủ tịch có nghị lực rất cao. Khi còn trẻ, Chủ tịch đã từng nói: Chiến đấu chống lại trời, chống lại đất, chống lại con người - hạnh phúc là vô tận. Điều này đã được thể hiện trong hành động. Hôm nay chúng tôi được bơi cùng Chủ tịch, đó là điều may mắn cho chúng tôi. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều ở Chủ tịch. Tôi hy vọng rằng, trong tương lai Chủ tịch sẽ còn dìu dắt, chỉ bảo và giáo dục chúng tôi nhiều hơn nữa.
La Thụy Khanh, người đã cứng cổ ngăn cản ý định của Mao bơi ở cả ba con sông, cũng hùa theo ca ngợi:
- Từ lâu chúng tôi là những người trung thành với Chủ tịch, nhưng chúng tôi vẫn chưa thấu hiểu được tất cả những gì đã học được ở Chủ tịch. Tôi không phải là người lỳ lợm, cứng đầu. Tôi có thể sửa đổi được mình.
Dương Thượng Côn không tỏ ra chống lại các dự định của Mao, nhưng tôi biết, ông cũng không thích gì thành tích mà Mao đã đạt được. Mặc dù vậy, ông cũng bắt đầu hòa giọng. Ông vừa cười, vừa nói:
- Không ai mạnh bằng Chủ tịch. Không có vị lãnh tụ nào trên trái đất này cồ thể coi thường núi cao, sông dữ như Chủ tịch. Không có một nhân vật lịch sử nào có thể sánh được với Người.
Ngay cả Uông Đông Hưng, dù đã cố gắng làm tất cả mọi việc để can Mao đừng bơi, cũng quên hết mọi sự. Uông nói:
- Thưa Chủ tịch, chúng tôi cần rút ra bài học kinh nghiệm này. Chúng tôi không nên chỉ nhìn vào vấn đề an ninh mà cần phải noi gương Chủ tịch, làm theo những hành động vì đất nước của Chủ tịch. Nhân dân ta phải noi theo gương Chủ tịch...
Mao chìm đắm trong những lời ca tụng.
- Thôi đừng nịnh tôi nữa. Không có việc gì là không thể làm được, nếu người ta thực sự muốn làm việc dó. Các đồng chí nght xem, nếu các đồng chí gặp điều gì đó bất thường nhưng không chế ngự được ngay và nếu các đồng chí buộc phải làm điều gì đó thì đừng có đo dự, mà phải nghiêm túc chuẩn bị mà làm - như Vương Nhiệm Trọng vậy.
Giang Thanh lại tụng ca Mao khi mọi người đã tạm ngưng. Bà đã từng là người phản đối Mao bơi ở sông Dương Tử, nhưng thái độ kiên quyết của Mao đã làm cho bà đổi ý Với giọng khinh khỉnh, bà hỏi:
- Có gì nguy hiểm ở đây nhỉ?
Rồi bà hợm hĩnh nhìn mọi người xung quanh:
- Khi ở Quảng Châu, các đồng chí đã phản đối việc Chủ tịch bơi. Các đồng chí đã hoảng hốt ra mặt. Nhưng tôi lại nghĩ khác.
Mao thường quả quyết: Chỉ có Giang Thanh là luôn luôn ủng hộ tôi. Ông có lý. Giang Thanh đã ủng hộ tất cả các việc làm của Mao vì bà không có sự lựa chọn nào khác.
Tất cả mọi người ở đây đều là những người lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản, và tôi đã liên tưởng tới những lời Mao nói về các đồng chí của ông: Họ thường ghen tị nhau về những ân huệ tôi ban cho họ. Tôi đã lợi dụng họ. Nhưng điều chủ yếu họ là những kẻ nịnh bợ. Vậy thì họ có ích như thế nào đối với Mao?
Cuộc nói chuyện trong bữa ăn và những lời tán tụng của mọi người thật là nhàm chán và vô nghĩa. Câu chuyện chỉ xoay quanh việc bơi lội. Nhưng những lời bốc thơm Mao cũng có tác dụng về chính trị. Kế hoạch cải tổ Trung quốc của Mao thật đồ sộ, nguy hiểm và đầy mạo hiểm. Ông có tham vọng mau chóng đẩy Trung quốc trở thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ông phản dối sự dè đặt của ban lãnh đạo trung ương đảng, phê phán tết cả những ai cưỡng lại những dị biệt mà thiếu cân nhắc, kể cả những nhân vật bảo thủ ở Bắc Kinh. Theo quan điểm của Mao, những vấn đề xuất hiện trong quá trình tập thể hóa nông nghiệp và trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa là do thiếu chuẩn bị đầy đủ, chứ không phải do chính sách, chủ trương. Nếu bản thân Mao đã có thể bơi ở những con sông nguy hiểm mà không mệnh hệ gì, thì đất nước Trung quốc cũng có thể dám cải tổ toàn bộ nền kinh tế và cơ cấu xã hội để tiến tới thời kỳ hoàng kim và được thế giới vì nể. Nếu các nhà lãnh đạo cao cấp Trung quốc không ủng hộ kế hoạch của ông, thì ít ra cũng có giới lãnh đạo ở các tỉnh như Đào Chu và Vương Nhiệm Trọng đứng về phía ông. Mao chỉ có thể thực hiện được kêế hoạch của ông nếu các quan chức cao cấp của các tỉnh và địa phương hợp tác với ông.
Do đó, ông thường đi vi hành các nơi. Chính ở các tỉnh, ông đã tìm kiếm sự ủng hộ mà ở Bắc Kinh ông không có và chuyến đi điền đã vào mùa hè năm 1956 của ông đã thu được kết quả to lớn. Mao lãnh đạo Trung quốc tương tự như ông đi bơi. Ông theo đuổi những chính sách mà chẳng ai hiểu nổi và thực hiện những ý tưởng chính trị kỳ quặc như đại nhảy vọt, Công xã nhân dân và Cách mạng văn hóa. Vào tháng 6 năm 1956, những dự định chính trị mạo hiểm nhất như đại nhảy vọt và Cách mạng văn hóa vẫn chưa được nói đến. Và mười công trình lớn dưới thời cai trị của ông được dự định dựng lên nhân kỷ niệm thập kỷ giải phóng đầu tiên do đảng cộng sản tiến hành, trong đó có Đại lễ đường nhân dân và Viện bảo tàng cách mạng, phải được phác thảo trên bản vẽ từ bấy giờ. sau lần bơi đầu tiên ở sông Dương Tử, tỉnh Vũ Hán, dần dần tôi hình dung thấy Mao có những suy nghĩ rất đặc biệt. Khi chúng tôi ở Vũ Hán, tôi đã đi cùng Mao đến gặp trưởng phòng kế hoạch của khu vực thung lũng sông Dương Tử - ông Lâm Nghị Sơn. Lúc đó tôi mới biết Mao có dự định cho xây một đập nước khổng lồ chắn ngang sông Dương Tử. Khi được nghe ông Lâm trình bày và được xem kế hoạch xây đập, điều làm cho tôi lo ngại là Lam Nghị Sơn chỉ là một nhà cách mạng lão thành, chứ không phải là một nhà khoa học hay một kỹ sư, trong khi đề án lại đề cập đến một công trình kỹ thuật là thay đổi toàn bộ khu vực thung lũng sông Dương Tử. Các ngành đều đòi hỏi những kiến thức khoa học chuyên sâu, nhưng kết quả thì vẫn chưa ai mường tượng thấy. Tuy thế, Mao rất phấn chấn. Ông nói với tôi:
- Ba thung lũng sẽ biến mất và ở đó sẽ là một hồ chứa nước lớn.
Ông muốn nói tới đoạn sông Dương Tử nổi tiếng nhất với những tảng dá dựng đứng, nước chảy rất xiết, tạo nên một quang cảnh đày thu hút vốn đã được ngợi ca trong những bức tranh, trong những bài thơ từ hàng thế kỷ nay. Buổi tối sau khi chúng tôi đến gặp Lâm, Mao đã sáng tác một bài thơ để ca ngợi cuộc đi bơi, ca ngợi những con sông và sự can đảm của những người đã quyết định thay đổi cả thế giớì.
Mấy khi uống nước Trường Sa
Mấy khi cá ngọt Vũ Xương la đà,
Mấy khi ngang dọc sông dài
Mấy khi nước Thục trời cao ngắm nhìn
Gió to sóng ca chẳng sờn
Chứ đâu vô dụng loanh quanh xó nhà
Đất trời lồng lộng chơi xa
Giữa dòng vang tiếng cao nhân phán truyền:
Cứ như thế, hãy tiếp đi!
Gió cuốn, cột buồm bay
Rùa, rắn quay trong nước
Dự định hơn mơ ước
Một cây cầu trong chuyến bay cũng làm nên hồi hộp,
Vắt ngang lưng chừng trời, khai thông từ Bắc xuống Nam,
Sừng sững những con cá voi bằng đá,
Cắt ngang núi mây mưa đang xuôi dòng về phía tây
Biển phẳng lặng nhô lên bao mũi đá.
Dẫu hồn ma bóng quỉ thiên biến vạn hóa,
Cũng giật mình: Thế giới đã đổi thay.
Mao hoàn toàn không thể ngăn cản được cơn bão tố phản đối ông ở Bắc Kinh, dù chỉ là một lần. Nhưng ông là Tần Thủy Hoàng của thế kỷ 20. Dầu Thủy Hoàng đã xây Vạn Lý Trường thành. Mao cũng muốn xây một công trình kỷ niệm vĩ đại lưu lại hàng trăm năm cho hậu thế. Đập nước ngăn con sông lớn nhất và quan trọng nhất ở Trung quốc chỉ là một trong những công trình tương tự.
Sau đó, các nhà khoa học và các kỹ sư cũng đã cùng làm việc với nhau trên công trình của sông Dương Tử này. Chắc chắn việc họ biết Mao mơ ước có con đập đó đã tác động đến công việc của họ. Có lẽ các kỹ thuật viên có lương tâm không dễ đồng ý với ông. Mặc dù sau này các nhà khoa học và các kỹ sư chân thật đã bày tỏ sự nghi ngờ trước Hội đồng nhà nước và trong Hội nghị tư vấn chính trị những trăn trở của họ, thì mãi hơn 15 năm sau khi Mao chết, công trình này mới được chuẩn y vào tháng 4 năm 1992.
Cả hai ngày tiếp theo, Mao cũng bơi ở sông Dương Tử và cứ mỗi lần lên khỏi mặt nước, ông đều tỏ ra khoái trá. Sau lần bơi thứ ba, bỗng nhiên ông nói: ông muốn trở về Bắc Kinh ngay lập tức. Bây giờ đã là tháng 7 rồi. Vì tôi dồn tất cả tinh thần vào việc chãm lo sức khỏe cho Chủ tịch và sự tranh cãi giữa những người cộng sự gần gũi của ông, nên tôi không hề biết đến những cuộc tranh chấp chính trị mà chính Mao đã dàn xếp được khi ông vắng mặt ở Bắc Kinh. Nếu tôi muốn sống, bằng mọi giá tôi không được để lộ quan điểm chính trị của mình. Chỉ qua Mao, tôi mới biết được những thay đổi lớn lao của đất nước, từ những tài liệu trong nội bộ đảng mà tôi đã nhận được tận tay và từ những báo cáo mà người bạn của tôi là Điền Gia Anh, thư ký riêng về chính trị của Mao, đã cho tôi hay. Sau khi chúng tôi trở về Bắc Kinh, việc tôi giữ khoảng cách với lĩnh vực chính trị không còn là điều đơn giản nữa.
Chương 16
ở Bắc Kinh, Mao tìm cách lôi kéo tôi nhiều hơn. Càng ngày ông càng tin tôi và ông muốn tôi tham gia vào chính trị nhiều hơn, chứ không chỉ là bác sĩ riêng của ông. Ông nói:
- Tôi vẫn khỏe, đồng chí không phải làm gì nhiều. Tôi nghĩ, đồng chí là người trung thực
Ông muốn giao cho tôi công việc tương tự như đã giao cho Lâm Khắc. Ngoài những tài liệu thông tin nội bộ, tôi còn phải tự tìm hiểu về chính trị, viết báo cáo như là cố vấn của Mao
Đề nghị trên chẳng lấy gì làm hấp dẫn đối với tôi. Nếu tôi đảm nhiệm công việc của một thư ký tôi sẽ bị cuốn vào một cơn xoáy lốc chính trị, hiểm nguy khôn lường.
Tôi chẳng biết gì về chính trị và cũng không muốn dính dáng đến chính trị. Uông Đông Hưng khuyên tôi nên chấp nhận đề nghị của Mao, vì như vậy quan hệ của Uông đối với Mao Chủ tịch cũng sẽ được củng cố. Nhưng tôi cũng thừa hiểu, những thành viên khác trong nhóm Một sẽ ganh tị và họ sẽ chám chọc, gièm pha thêm. Chỉ cần vướng một sai lầm nhỏ, cũng đủ làm những kẻ đố kỵ nhảy bổ vào công kích tôi.
Là bác sĩ của Mao tính mạng tôi chưa hẳn là đã an toàn, huống hồ khi làm thư ký cho Mao, tôi sẽ luôn phải đối mặt với những nguy nan.
Tôi đã phải từ chối đề nghị của Mao.
Thế là tôi lấy cớ tôi không đủ trình độ làm những công việc hành chính và càng không thể là một thư ký đắc lực như Lâm Khắc được. Vì vậy tôi chỉ muốn được tiếp tục là bác sĩ riêng của Mao.
Tuy vậy, Mao vẫn không chịu. Ông ve vãn tôi và gia đình tôi. Mùa hè năm 1956, khi kỳ nghỉ hè hàng năm của chúng tôi ở Bắc Đới Hà sắp tới ông đề nghị tôi đưa cả hai đứa con trai tôi cùng đi nghỉ.
Tôi viện cớ con trai út của tôi còn quá nhỏ, còn John đứa lớn lại là đứa trẻ hiếu động
Mao phê bình:
- Đồng chí kỹ tính quá. Chẳng có gì ngạc nhiên khi Giang Thanh nói đồng chí là người thận trọng. Nếu Lý Nạp, Lý Minh và Viên Tân có thể đi thì tại sao con đồng chí lại không đi được.
Những đặc ân Mao dành cho tôi đã đẩy tôi vào tình trạng khó xử đối với nhóm Một. Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều có vẻ bực tức. Diệp gắt gỏng khi tôi kể cho ông ta nghe đề nghị của Mao:
- Nếu thế thì chúng ta cho bọn trẻ đi theo.
Tôi cũng cảm thấy khó chịu.
Uông Đông Hưng cứ ngỡ tôi đã ưng thuận đề nghị của Mao. Đồng thời ông cũng lo ngại về thái độ không vui của những nhân viên an ninh khi các con tôi được đi mà con những người khác lại không được đi. Ông ta khuyên tôi nên để cho bộ phận y tế ở Trung Nam Hải lo việc chuẩn bị. Như vậy, những nhân viên bảo vệ sẽ đỡ gây khó khăn.
Từ trước tới nay, tôi vẫn làm việc cho hai nơi - văn phòng An ninh dưới trướng Uông Đông Hưng và bộ phận y tế ở Trung Nam Hải, nơi tôi chính thức là bệnh viện trưởng. Vì hầu hết những lãnh tụ của đảng cộng sản Trung quốc đều nghỉ hè ở Bắc Đới Hà, nên nhân viên của bộ phận y tế cũng đi theo. Các cô y tá sẵn sàng chăm sóc các con tôi trên đường đến Bắc Đới Hà.
Cuối cùng tôi chỉ cho con trai tôi là John, hồi đó mới 6 tuổi, đi cùng. Erward, Lý Liên và mẹ tôi ở lại Bắc Kinh.
Trước khi đi, trong khi nói chuyện với Uông Đông Hưng, Giang Thanh đã gợi ý tôi nên dạy dỗ Lý Minh, cô con gái riêng 19 tuổi của Mao với Hạ Tử Trân khi chúng tôi ở Bắc Đới Hà. Lý Minh là cô gái ngay thật, giản dị, gia giáo và lễ phép, nhưng không thông minh lắm. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, cô sống ở Liên-xô và cũng không được học hành đến nơi đến chốn.
Năm 1956 Lý Minh học trung học và phải học thêm các môn toán, lý và hóa. Uông Đông Hưng đã biến tôi thành gia sư của cô mà chẳng thèm hỏi ý kiến tôi.
Tôi đồng ý dạy riêng cho Lý Minh. Nhưng Giang Thanh còn có một đề nghị. Bà nghe nói vợ tôi rất giỏi tiếng Anh, nên bà muốn Lý Liên dạy tiếng Anh cho Lý Nạp. Uông cũng đồng ý như vậy.
Tôi phát bực, bởi vì tuy mới 16 tuổi, nhưng Lý Nạp, con gái của Giang Thanh rất hỗn xược và đáng ghét. Ngược lại, Lý Liên là một phụ nữ cởi mở và đáng yêu, thì làm sao có thể chịu đựng được Lý Nạp.
Uông nói:
- Tôi đã hứa với đồng chí Giang Thanh rồi. Đồng chí đừng làm tôi khó xử.
Nhưng tôi vẫn kiên quyết nói:
- Không! Lý Liên rất bận.
Vợ tôi làm ở ngoại giao đoàn và thường đưa các phái đoàn nước ngoài đi đây đó khắp Trung quốc. Tôi nói tiếp.
- Cô ấy không phải là đảng viên. Nếu cô ấy cứ ra vào nhà Mao chủ tịch thì sẽ không tiện lắm. Vả lại, cha mẹ cô đã từng là địa chủ và anh chị cô ấy hiện đang sống ở Đài Loan. Cô ấy có nhiều vấn đề về chính trị khiến chúng ta lưu tâm.
Uông nổi giận. Nhưng rồi ông nhượng bộ:
- Thôi được. Đồng chí không cần phân vân. Tôi sẽ đích thân nói chuyện với vợ đồng chí. Đồng chí bảo cô ấy đến gặp tôi.
Tôi tức tốc về nhà và khẩn khoản yêu cầu Lý Liên đừng lùi bước. Cô ấy hứa với tôi và đi ngay đến chỗ Uông. Tôi bồn chồn đợi cô ấy trở về.
Một tiếng sau, Lý Liên trở về. Cô có vẻ bình tĩnh. Vẻ mặt cô đã phá tan mọi sự lo ngại của tôi. Cô kể: Em và Uông nói chuyện với nhau rất thoải mái. Em kể cho thứ trưởng Uông về công việc của em, về những vị khách nước ngoài mà em đưa họ đi du lịch kháp đất nước. Bởi vậy, em không thể thu xếp thời gian để dạy Lý Nạp.
Tôi nhẹ hẳn người và khen: Em khá lắm. Thế đồng chí ấy nói gì?
- Đồng chí ấy chăm chú lắng nghe. Sau đó đồng chí ấy cũng thừa nhận là công việc này cũng chẳng nhẹ nhàng chút nào và cuối cùng đồng chí ấy nói, sau này sẽ bàn lại việc này. Thế thôi.
Hôm sau, khi gặp tôi Giang Thanh nói:
- Vợ đồng chí bận lắm à?
- Vâng, cô ấy phải lo cho rất nhiều khách nước ngoài và thường về muộn.
Giang Thanh gặt đầu:
- Chúng ta sẽ nói chuyện sau về Lý Nạp vậy. Đồng chí có thể bắt đầu dạy Lý Minh chứ?
- Vâng, mỗi ngày hai tiếng.
Cuối tháng 7 năm 1956, tôi cùng với Mao đáp một chuyến tàu đặc biệt đi Bắc Đới Hà. Mao và Giang Thanh lại ở trong ngôi nhà số 8, chị của Giang Thanh, cả hai cô con gái của Mao và Viên Tân, cháu trai của Mao, sống trong căn biệt thự cũ của Trương Tiểu Kiền, còn tôi và thư ký Lâm Khắc của Mao ở ngôi nhà số 10.
Bắc Đới Hà đẹp một cách huyền diệu.
Năm 1954, Lý Liên và tôi đã ở đây. Trong hơn hai chục năm nay, thì đó là lần cuối chúng tôi cùng đi nghỉ mát và chúng tôi đã yêu nhau tại nơi đó. Lúc đầu Bắc Đới Hà chỉ là một làng chài nhỏ ven biển ở trong vịnh Bắc Hải ở phía Bắc tỉnh Hà Bắc. Sau chiến tranh thuốc phiện (giữa Anh và Trung quốc l839-1843, chú thích của người dịch), người Anh đã biến làng này trở thành một nơi nghỉ mát tuyệt vời và đã xây dựng một tuyến đường sắt đến tận Bắc Kinh. Ngay cả khi người Anh rút đi, ở đây vẫn tiếp tục phát triển. Những người có chức quyền và những thương gia Trung quốc đã cho xây các biệt thự ở đây và bây giờ ở đó đã mọc lên vô số các cửa hiệu, nhà hàng. Những ngôi biệt thự được xây bằng gạch nung màu đỏ theo kiểu Anh nổi bật trên nền trời xanh, mây trắng, trông như tranh vẽ.
Còn mặt biển thì sắc màu sặc sỡ, hệt như ống kính vạn hoa. Màu xanh của biển, theo lời ngư dân nói với chúng tôi, thay đổi theo màu sắc của những đàn cá. Chúng tôi thích nhất loài cá làm cho mặt biển có một vệt sáng, trông như được dát bạc.
Năm 1954, khi tôi với Lý Liên ở Bắc Đới Hà, chúng tôi thường dậy vào khoảng hai, ba giờ sáng và đi nhặt sò trên bãi cát trong khi thủy triều xuống. Đến khoảng bốn giờ, khi những ngư dân bày bán những hải sản họ vừa đánh được buổi sáng, thì chúng tôi đi mua đồ ăn cho cả ngày hôm đó. Tôm ở đây rất ngon, nhưng chúng tôi thích một loại cá có tên là bimuyu. Hai mắt của cá bimuyu cùng nằm một bên, khiến chúng tôi nhớ tới một bài thơ tình của Trung quốc về đôi cá bimuyu cũng nhau bơi ra khơi.
Trong khi nghỉ mát cùng với Mao, tiết trời thật tuyệt, như để cho chúng tôi trốn cái nóng ở Bắc Kinh. Cứ buổi sáng và chiều, một làn gió nhẹ, mằn mặn từ biển thổi vào, thật dễ chịu và mát mẻ. Ngay trước cửa nhà chúng tôi có một bãi cát phẳng, chạy dài 11 km từ đông sang tây. Và ở chân trời xa xa, những chiếc thuyền buồm trông vui mắt đang bồng bềnh trên mặt nước. ở mặt tiền của ngôi nhà chúng tôi có bốn cây mận trĩu cành những quả mận tím ngọt, to bằng quả trứng, chỉ chờ người hái. Mỗi khi trời đổ mưa, chúng tôi đi thành từng nhóm nhỏ vào rừng hái những cây nấm to, thơm mùi thông, trồi lên khỏi mặt đất khi gặp hơi ấm và cùng với tôm khô, đầu bếp cùa chúng tôi đã nấu món súp cực ngon. Mao không thích súp nấm, nhưng Giang Thanh lại rất khoái món ăn này.
Một bầu không khí đầy quyến rũ bao trùm Bắc Đới Hà. Tối nào người ta cũng chiếu phim, trong đó có cả những cuốn phim nước ngoài mới nhất. Vào thứ tư và thứ bảy hàng tuần, Mao tổ chức đêm dạ vũ trong hội trường lớn có ban công lộ thiên.
Đôi khi, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức cũng tham gia. Buỏi sáng tôi dạy Lý Minh học hai tiếng, còn buổi chiều tôi đi bơi với Mao, được một tiểu đội vệ binh hộ tống và vô số nhân viên của văn phòng chính, cả thảy đến ba, bốn chục người. Lính gác đã neo một cái bè cách bãi cát khoảng hai nghìn mét để Mao có thể nghỉ ngơi và tắm nắng ở trên bè trước khi bơi trở lại bãi cát.
Về mùa hè, ở Bắc Đới Hà thường có dông bão dữ dội. Những đợt sóng cả ào qua chiếc bè. Tuy vậy, ngày nào Mao cũng quyết bơi ra đó. Khi đó Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh tìm cách cản Mao. Tôi và Mao đã vật lộn với những cơn sóng dữ - một cảm giác kích động, đôi khi còn hãi hùng nữa. Sóng biển nâng chúng tôi lên cao, ném chúng tôi vào không trung rồi dìm chúng tôi xuống biển sâu. Vì ngạt thở, tôi cố vấy vùng để nhô lên mặt nước. Tôi thường phải dốc hết sức bơi về phía chiếc bè, để sau đó lại được một con sóng lớn ném trở lại bãi cát.
ở vùng biển đó có rất nhiều cá mập. Đám lính gác của Mao đã giăng lưới phía trước bè, không cho cá mập vào gần. Lần nào lính gác bắt được cá mập, họ đều cho Mao xem - một lời cảnh cáo ngầm: đừng bơi quá xa.
Mao thường ở lại bên bãi cát đến tận chiều. Ông đọc tài liệu hoặc tán chuyện với những vị lãnh đạo khác của đảng. Một căn lều vừa là phòng khách vừa che nắng cho ông.
John, cậu con trai của tôi mau chóng quen với cuộc sống ở Bắc Đới Hà. Đây là kỳ nghỉ hè đẹp nhất của cậu bé. Cháu trở về Bắc Kinh với nước da rám nắng, trông thật khỏe khoán. Chiều chiều, các nhân viên an ninh cùng đi bơi với cháu. Tối đến, họ lại cùng nhau đi xem phim. Lý Minh cũng có thiện cảm với cháu. Hai đứa trẻ thường cùng chơi với nhau. John ở với tôi, sáng nào cháu cũng gấp chăn màn cho tôi, và lo quần áo của hai bố con lúc nào cũng sạch sẽ. Tôi rất tự hào về tư cách của cháu.
Những lãnh tụ khác của đảng cũng thường lui tới Bắc Đới Hà, nhưng tôi thường gặp Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức.
Nhưng chính trị gia khác ngại Mao, bởi vậy họ thường sống khá dè dặt. Họ tắm ở bãi tắm riêng của mình và tổ chức những tối khiêu vũ riêng trong những khu nhà mà chính phủ dành cho họ trên quả đồi phía đông. Hiếm khi họ dám tới gần Mao. Tôi không muốn quan hệ với họ, vì Mao mong đợi ở chúng tôi lòng trung thành tuyệt đối và sợ chúng tôi có thể tiết lộ những bí mật của ông.
Tuy nhiên Chu Đức có vẻ không biết là Mao vẫn không ưa ông. Ông thường ra bãi cát mỗi khi Mao ở đó, thậm chí đôi khi ông còn tán chuyện với Mao ở trong lều.
Vị cựu tổng tư lệnh này không biết bơi, nên ông thường mặc áo phao xuống nước. Ông rất mê chơi cờ. Những lúc không có bạn chơi, ông thường rủ con trai tôi làm một ván. Chu Đức luôn cư xử lịch lãm, ân cần đối với tôi và cũng rất lưu tâm đến sức khỏe của Chủ tịch.
Ngoài Chu Đức ra, còn có Lưu Thiếu Kỳ, dáng cao, gầy, tóc hoa râm, hơi gù, là lãnh tụ đảng duy nhất thường tới thăm Mao trên bãi cát. Ông thường xuất hiện vào khoảng từ ba đến bốn giờ chiều. Ông Lưu Thiếu Kỳ vốn dè dặt, đeo kính và tỉnh táo hồi đó được coi là mẫu người kế nhiệm Mao, là nhân vật số hai trong đảng, phụ trách những việc chính trị nội bộ. Mặc dù Mao và Lưu cộng tác chặt chẽ với nhau, nhưng họ có vẻ là đồng chí, chứ không phải là bạn của nhau.
ở Bắc Kinh họ rất ít gặp nhau và gần như chỉ liên lạc với nhau qua thư từ. Nếu trung ươg đảng soạn thảo một tài liệu cần sự chuẩn y của Mao, thì trước tiên người ta phả gửi cho Lưu. Ông xem xét, ghi lời góp ý bên lề, rồi chuyển qua phòng bảo mật để chuyển cho Mao.
Sau đó, Mao lại gửi tài liệu trở lại cho Lưu, kèm theo những phê chuẩn của mình.
Người vợ sau cùng của Lưu là Vương Quang Mỹ thường theo chồng đi nghỉ mát ở Bắc Đới Hà. Như nhiều phu nhân của các vị lãnh đạo đảng khác, bà trẻ hơn chồng một chút. Hồi đó bà Vương khoảng ba mươi, tóc đen, dày, khuôn mặt dài và răng hơi hô. Bà không đẹp nhưng có vẻ quyến rũ và dễ làm quen và là một phụ nữ ưa ánh đèn sân khấu.
Hễ gặp Mao là bà chào đón sởi lởi, thậm chí có lần bà còn bơi với Mao ra tận bè. Giang Thanh không hề giấu diếm mối ác cảm đối với vợ Lưu và tôi nhận thấy cả sự ghen tuông của bà. Vương trẻ hơn Giang Thanh nhiều, thoải mái bơn và dễ gần. Giang Thanh chẳng thích ra bãi cát. Không bao giờ bà chịu tập bơi và bà thấy khó chịu với bàn chân phải có sáu ngón của bà. Vì thế, mỗi khi xuống nước, bao giờ bà cũng giấu đôi bàn chân trong ủng cao su.
Lưu để lại vô số con cái sau nhiều cuộc hôn nhân và trong mùa hè này, một số người trong cuộc cũng có mặt ở Bác Đại Hà. Lưu Đạo, cô con gái 16 hay 17 tuổi gì đó của Lưu với Vương Tiền cũng là người sôi nổi. Thỉnh thoảng, cô bơi với Mao ra bè. Và trong các buổi dạ vũ được tổ chức mỗi tuần hai lần, cô thường mời Mao nhảy với tất cả sự trinh bạch của mình. Đối với cô, không bao giờ Mao tự cho mình thoải mái như đối với nhiều thiếu nữ khác. Mặc dù vậy, Giang Thanh bực tức với Lưu Đạo ra mặt, tuy vẫn cố giữ vẻ thân mặt. Nhưng ở Bắc Đới Hà thơ mộng, tôi không thể ngờ những vụ ghen tuông lặt vặt và những hồ nghi của bà, mười năm sau lại có thể biến thành sự thù hận, đến nỗi bà đã tìm cách xóa sổ cả gia đình Lưu Thiếu Kỳ.
Vào mùa hè năm 1956 ấy, không ai có linh cảm, sau này chính Mao chống lại người mà tất cả chúng ta đều cho là người tin cậy nhất của Mao.
Nhưng sự đổ vỡ này đã được định trước vì giữa Mao và Lưu có sự bất đồng về vai trò của Lưu trong bối cảnh chính trị của đất nước. Mao tự cho mình là lãnh tụ tối cao, lời nói của ông là mệnh lệnh cao nhất. Ông coi Lưu Thiếu Kỳ như một người phụ tá của ông trong việc giải quyết công việc hàng ngày của đảng. Nhưng theo cách nhìn của mình, Lưu Thiếu Kỳ coi mình ngang bằng, hay ít ra cũng sàn sàn với Mao, và đất nước không thể thiếu ông
Lưu càng tỏ ra muốn ngang hàng với Mao bao nhiêu, thì Chủ tịch càng không vừa lòng bấy nhiêu.
Mùa hè năm 1956 đã đánh dấu bước ngoặt trong mối quan hệ của Mao đối với Lưu. Mãi tới khi chính mối quan hệ của tôi đối với Mao đột ngột xấu đi thì tôi mới phát hiện ra điều này.
Chương 17
Tôi cho rằng mùa hè này là một trong những mùa hè khó chịu nhất đối với tôi sẽ chỉ là những cơn giông và gió bão ở Bắc Đới Hà. Nhưng hoá ra không phải thế. Lần đầu tiên tôi được thử cơn giận dữ Mao. Điều này xảy ra do lỗi của Phó Liêm Chương.
Ngay sau khi chúng tôi về Bắc Kinh vào tháng sáu năm 1956, Phó Liêm Chương đề nghị tôi thông báo cho ông ta về sức khoẻ của Mao. Trách nhiệm của Phó về sức khoẻ của Mao vẫn được tiếp tục. Phó viết cho Chủ tịch một bức thư và quyết định rằng tôi chuyển nó. Trong thư Phó gợi ý Mao một thứ thuốc ngủ mới của Tây Đức mang tên Fanodor và thông báo rằng đã kiểm tra cẩn thận thuốc của lãnh tụ.
Tôi không thấy cần thiết dùng thuốc mới. Mao đã ngủ tương đối tốt hơn, trung bình ông ngủ từ 6 đến 12 giờ trong một ngày đêm. Phó biết rõ rằng Chủ tịch có thể kiên nhẫn thử thuốc, và Mao luôn luôn cảnh cáo cả tôi trước về điều này. Tôi phát biểu sự phản đối của mình với Phó. Ông đồng ý gác lại việc dùng thuốc ngủ mới, nhưng khăng khăng bắt tôi nói Mao đi khám sức khoẻ. Phó lại nhắc đi nhắc lại rằng Mao biết ông ta từ những năm 30 và luôn luôn tin ông. Đồng chí cứ chuyển cho lãnh tụ thư của tôi - Phó nói và gọi hai chuyên gia từ viện y học Bắc Kinh chuẩn bị đến làm việc. Tôi lại sự phản đối của mình, nhưng Phó đột ngột cắt lòi tôi và tuyên bố rằng mọi việc đã được quyết định rồi.
Tôi trong tình thế rất khó xử. Về hình thức Phó Liêm Chương là thủ trưởng tôi, tôi không thể không tuân lệnh. Cùng với đường đó tôi tin rằng Mao sẽ bác đề nghị của Phó, và tất cả các bực tức của Mao đổ xuống đầu tôi. Tôi tính kế hoãn binh.
Hai ngày sau. Phó bực mình vì sự chậm trễ và yêu cầu tôi đưa thư của ông ta tận tay Mao.
Tôi chẳng còn cái gì khác còn lại nữa, và tôi lấy tinh thần đi gặp chủ tịch. Mao vừa mới ra khỏi bể bơi và nằm trên chiếc ghế dài.
- Vì sao đồng chí đến chậm để bơi? - Mao thích thú - Bác sĩ cũng cần phải chăm sóc sức khoẻ của mình chứ. Tôi mặc áo tắm và nhảy ùm xuống bể.
- Đừng để ý đến tốc độ vội, cứ luyện độ dẻo dai đã - Mao dạy tôi, trong khi vẫn nằm ở ghế dài nhìn ra.
- Tôi vẫn chưa thuộc cách bơi của Chủ tịch - Tôi trả lời - Tôi cần tập nhiều.
- Đồng chí có thể lực tốt đấy, và đồng chí cũng khéo giữ mình nổi trên nước đấy - Mao khen tôi.
Bắt đầu được rồi, tôi thầm nghĩ và nói:
- Khi chúng ta ở Vũ Hán, Chủ tịch sông Dương Tử vài giờ liền, và trong khi nhịp tim và tuần hoàn vẫn bình thường.
- Đồng chí lại nịnh tôi rồi - Mao cười.
- Không đâu, tôi nói thật đấy. Nhiều thanh niên không thể bơi lâu như vậy được. Có thể lấy ví dụ - ngay cả một thuỷ thủ thậm chí không đủ sức bơi cùng với chúng ta.
- Sao tôi nghe thấy điều này nhỉ? - Mao chú ý lắng nghe.
- Khi bơi có nhiều người tham gia và Uông Đông Hưng giấu chuyện anh thuỷ thủ này để không làm rối người khác và làm mất lòng tin của họ vào sức mình.
- Trong trường hợp như thế có gì mà phải rối - Mao nhận xét - Thể trạng mỗi người khác nhau.
- Chính bây giờ người ta nên đưa Chủ tịch vào bệnh viện để khám, trong khi mà Chủ tịch đang khỏe mạnh và sôi nổi thế này - Tôi thận trọng thăm dò - Kết quả nhận được sẽ dùng làm chuẩn cho Chủ tịch trong tương lai.
Tôi không muốn nêu tên Phó Liêm Chương, e Chủ tịch buộc tội tôi luôn nghe lời khuyên của Phó và không muốn nhận trách nhiệm về mình.
Mao liếc nhìn tôi và quay đầu lại, nói:
- Điều này chả dẫn đến cái gì cả, bác sĩ Lý thân mến. Khi nông dân đau yếu, họ cũng chẳng chú ý đến điều này và vẫn tiếp tục làm. Mọi thứ sẽ tự qua đi. Thậm chí nếu họ ốm nặng, thì họ cũng chưa tới bác sĩ ngay lập tức đâu. Thuốc chỉ giúp họ khi ốm thập tử nhất sinh. Liệu có phải thuốc của đồng chí luôn luôn giúp được người bệnh không? Thí dụ, ung thư. Chẳng lẽ đồng chí có thể chữa được nó à? Tôi nghĩ là không!
Tôi cố giải thích rằng tại giai đoạn đầu của ung thư người ta có thể chữa được nếu không phải u ác tính, bằng phẫu thuật hiện đại có thể cắt bỏ được.
- Tuy nhiên nếu không có sự khám xét tổng thể về ung thư thì không thể phát hiện ung thư ngay từ giai đoạn đầu.
Mao ngắt lời tôi:
- Đồng chí hãy cho ví dụ?
Phần đông những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc là những người tương đối trẻ và khỏe mạnh. Đương nhiên, tôi không thể lấy họ ra làm ví dụ được, và tôi nói về một số trường hợp chữa thành công ung thư vú.
Mao cười - tôi công nhận ông lập luận đúng.
- Ung thư vú - ông nhận xét - có thể nhận biết bằng mắt thường. Nó phát sinh ra trên bề mặt cơ thể, vì thế có thể phát hiện kịp thời và chữa chạy bằng mổ xẻ. Tuy nhiên tồn tại nhiều dạng ung thư, chống nó thì y học hiện đại bó tay.
Mao ngừng một lát, sau đó hỏi:
- Đồng chí, nói đi, tôi cần khám gì nào?
- Đây là thư của thứ trưởng bộ y tế - tôi lấy từ trong túi ra - Chủ tịch hãy đọc qua.
Đọc sơ qua bức thư, Mao giận dữ quát:
- Lại Phó Liêm Chương, biết ngay mà, ông ta chẳng có việc gì làm. Bây giờ tôi không có thời gian để theo ý ông ta vẽ ra. Hãy hoãn lại đến chuyến đi của tôi vào Bắc Đới Hà.
Thế là người ta quyết định gửi các bác sĩ đến Bắc Đới Hà và sẽ khám Mao Chủ tịch ở đó
Phó không giấu vẻ vui mừng.
- Thấy chưa - ông nói - ngay lúc Mao biết rằng ý tưởng này là của tôi, ông đồng ý ngay lập tức.
Phó vẫn còn ngây thơ cho rằng lãnh tụ đối xử với ông giống như 30 năm rất đây.
Bộ y tế lập kế hoạch tỉ mỷ khám tổng thể cho Chủ tịch và vợ ông. Khám cho Mao là giáo sư Trương Tiêu Giang và Đặng Kiếm Đông, viện y học Bắc Kinh. Kiểm tra sức khoẻ cho Giang Thanh được giao cho bác sĩ Vũ ánh Phương và Lâm Giảo Trí. Họ không cần chờ lâu. Giang Thanh đến đúng ngày và việc khám được tiến hành. Nhưng chính lãnh tụ, đã ởỷ Bắc Đới Hà, nhưng không xuất hiện trong bệnh viện. Các giáo sư chờ ông gần hai tuần lễ, nhưng tôi chưa quyết định nhắc Chủ tịch điều này, bởi vì ông, có thể, rất bận. Phó gọi điện cho tôi giọng khó chịu và yêu cầu là tôi nhắc Mao rằng Trương và Đặng chờ ông hai tuần và họ còn nhiều việc ở Bắc Kinh. Tôi cho rằng lần này chắc Mao đồng ý khám, tôi là bác sĩ của ông có thể gợi ý khéo ông là các giáo sư đã chờ ong hi tuần để khám. Tôi bắt đầu cuộc nói chuyện trong thời gian học tiếng anh của chúng tôi. Tôi nói với Mao rằng các chuyên gia từ Bắc Kinh Bắc Kinh muốn khi nào ông đi khám tổng thể.
- Để cho họ nghỉ ngơi một chút tránh cái nóng Bắc Kinh chứ đã - Mao trả lời.
- Thế tôi nói với họ thế nào? - tôi lo lắng hỏi.
- Nói cái gì cơ?
- Chẳng có lẽ chúng ta chưa nói chuyện về việc khám bệnh đấy sao.
Tôi ngạc nhiên. Mao im lặng
- Ai nói rằng tôi chuẩn bị gặp bác sĩ?
- Chính Chủ tịch đề nghị khám ở Bắc Đới Hà?
- Tôi không thể đổi ý được hay sao? - bỗng nhiên Mao khùng lên - Tôi thậm chí có thể bác bỏ quyết định của Bộ chính trị. Thằng Uông Đông Hưng chắc lại nghĩ ra trò này. Không khám xét gì hết! Bảo nó cút khỏi đây đi.!!!
Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao lãnh tụ lại giận dữ đến như thế, và không thể hiểu ông ra lệnh đuổi ai.
- ý tưởng khám bệnh là của Phó Liêm Chương, chứ không phải Uông Đông Hưng đâu ạ - Tôi bẽn lẽn nói.
- Đuổi mẹ nó cả thằng Phó bố láo đi! - Mao thét lên.
- Nhưng ông ta không có đây - tôi nói lí nhí - Có lẽ chính tôi đâu chống lại sáng kiến của Phó.
Cơn giận dữ của Mao thật là bất ngờ và bất thường đến nỗi tôi hoàn toàn lúng túng. Tôi không làm điều gì xấu cả - chỉ có nhắc lãnh tụ là ông cần kiểm tra tình trạng sức khoẻ. Ông có thể lịch sự chối từ, cớ sao lại cáu giận... Khi tôi thoát khỏi ra ngoài, Lý ẩm Kiều bắt đầu giải thích cho tôi là lãnh tụ giận dữ hoàn toàn không phải vì tôi. Hoá ra là Lý ẩm Kiều và Tiểu Chương, một vệ sĩ của lãnh tụ đứng ngoài cửa nghe được.
- Hai hôm nay Bộ chính trị họp một số lần - Lý tiếp tục - Ngoài ra, còn có một số cuộc họp với các bộ trưởng của Quốc vụ viện và với các bí thư đảng các tỉnh. Thảo luận nhiều vấn đề. La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng tăng cường an ninh bảo vệ Chủ tịch. Nói riêng, lãnh tụ phát cáu vì có nhiều bảo vệ trong đoàn tàu của ông và đám đông nhân viên an ninh trong trong thời gian ông ta bơi trên sông Dương Tử. Hình như có cái gì đó xảy ra.
Nghe xong, tôi nghĩ, có thể, Mao không hoàn toàn cáu tôi một cáu một ai đó trong hàng ngũ cao cấp.
- Nếu Chủ tịch không giải thích cho đồng chí cái gì xảy ra, Giang Thanh cũng nói thôi- Lý an ủi tôi - Đừng lo lắng, quẳng cái ấy ra khỏi đầu đi.
Nhưng tôi không cách nào thể an tâm được. Tôi thường thấy, Mao cư xử với người khác như thế nào, nhưng ông giận giữ và thô lỗ với tôi đến như thế này thì chưa lần nào tôi thấy cả. Tôi đâm thất vọng. Tôi làm việc như thế nào đây với con người nóng nảy và tính khí bất thường? Bỗng nhiên việc phục vụ lãnh tụ hoá ra cũng đầy khó khăn và nguy hiểm đối với tôi. Tôi muốn thoát khỏi Trung Nam Hải và về làm bác sĩ ở bệnh viện thường.
Tôi tự kiểm lại bản thân để tìm nguyên nhân, và hiểu ngay rằng chỉ có mình có lỗi trong vụ này. Biết Mao không thích khám bệnh, mà tôi vẫn còn đề cập tới chuyện khám bệnh. Hình như ông ừ ào qua quýt chỉ để tôi ngừng đả động đến việc này. Từ trước tôi không quan tâm đến chính trị và vì thế tôi không hiểu Mao bận rộn ra sao ở Bắc Đới Hà. Có thể, ông đang phải xử lý những vấn đề gì đó hóc búa, còn tôi thì đưa ra một sáng kiến chẳng đúng lúc.
Chiều hôm sau Mao gọi tôi đến. Khi tôi có mặt ở văn phòng ông, Mao cười và nói:
- Làm việc với tôi không dễ chịu chút nào, đúng không?
Tôi cũng cười thay cho việc đáp lại.
Mao nói:
- Những chuyện ầm ĩ giúp tôi chống lại những ý nguyện lạ. Khi người ta muốn tôi phải làm cái mà tôi không muốn làm thì tôi bắt đầu nổi khùng. Đừng chấp tôi làm gì. Tôi luôn luôn cho rằng cần phải phê bình không những người khác, mà còn cả bản thân nữa. Vì thế, nếu đồng chí coi rằng tôi có cái gì đó không đúng, nói ngay với tôi, đừng có nói sau lưng tôi. Kiểu ấy tôi thẳng thừng chẳng chịu được đâu.
- Thưa Chủ tịch - Tôi trả lời - Tôi đã hành động thiếu suy nghĩ, đem chuyện khám bệnh ra bàn.
- ở Bắc Đới Hà tôi có nhiều chuyện quan trọng - Mao giải thích. Ông nói rằng sau vài tuần ở Bắc Kinh sẽ khai mạc Đại hội lần thứ 8 đảng cộng sản Trung quốc và ông phải chuẩn bị chương trình cho nó - Hãy chuyển lời cho các bác sĩ rằng tôi rất bận - ông yêu cầu - và nói sau này tôi phải kể lại cho ông - Ông nghĩ một lát và tiếp tục, giọng bình tĩnh hơn: Trương Tiêu Giang và Đặng Kiếm Đông
- Hãy quan tâm đến các bác sĩ Bắc Kinh. Nếu họ muốn, họ có thể ở lại Bắc Đới Hà lâu hơn. Bác sĩ Trương Tiêu Giang là người cùng quê Hồ Nam với tôi. Có thể, tôi cố thu xếp thời gian để chuyện trò với ông.
Tôi vẫn chưa biết về hoàn cảnh chính trị trong nước, nhưng cũng cảm thấy rằng Mao giận dữ ai đó.
Sau khi làm lành Mao lại, cũng như trước đây, tin và kính trọng tôi. Chúng tôi hàng ngày học tiếng Anh, trong thời kỳ mất ngủ của lãnh tụ tôi là người nghe chăm chú và người đối thoại của ông. Chủ tịch thường phẫn nộ bởi chính sách của Liên-xô trong mối quan hệ với Trung quốc và luôn luôn nhắc đi nhắc lại là chúng tôi cần học phương tây. Ông cho rằng tư duy phương tây giúp đỡ việc hồi phục văn hoá của đất nước lạc hậu chúng ta. Mao chống lại sự bắt chước mù quáng phương tây và muốn trên cơ sở kết hợp văn hoá phương đông và phương tây tạo ra một nguyên tắc mới để cập nhật đất nước vĩ đại chúng ta. Khi tôi lưu ý Mao về sự khác nhau giữa phương đông và phương tây, Mao nhận xét rằng tôi chưa đủ trí lãng mạn và khát vọng. Theo tôi, nhiều người lãnh đạo đảng cộng sản cũng không có điều này.
Gần thời kỳ ấy, cuối hè năm 1956, Mao lần đầu tiên thông báo cho tôi ý định của mình từ chức Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung hoa. Thoạt đầu tôi không tin. Khi đấy tôi chưa biết rằng Chủ tịch không bao giờ nói xuông, và cũng không có ý nghĩa gì đặc biệt trong các cuộc đàm luận về đêm, tuy nhiên sau này tôi hiểu rằng Mao đã suy nghĩ cẩn thận và quyết định. Việc từ chức chức vụ chủ tịch nước của Mao vẫn chưa lan ra, nhưng dư luận đã bóng gió nói đến. Chính thức Mao bỏ chức vụ này chỉ ba năm sau đó - vào năm 1959. Ông cũng tuyên bố rằng nguyên nhân là do sức khoẻ xấu và ông muốn đỡ ừ vướng víu công việc xã giao hình thức, giành thời gian giải quyết các vấn đề trong nước và chính sách gđối ngoại. Thực tế Mao cũng có cả những kiểu chơi ngầm.
Thật vậy mỗi buổi lễ chính thức trên quảng trường Thiên An Môn làm lãnh tụ mất ngủ vài đêm và khi xong việc lại bị cảm và sưng cuống phổi. Mao cũng bực mình do chuyện hình thức này mà ông bị mất thời gian quý giá.
Chủ tịch không thích các buổi tiếp khách chính thức. Để tham gia, ông phải mặc quần áo đúng nghi lễ mà ông không ghét. Ông cho rằng tất cả các cuộc gặp đại sứ nước ngoài và các thủ tục hình thức chỉ làm mất thời gian vô ích. Từ năm 1956 huỷ bỏ các cuộc biểu tình trong ngày lễ trên quảng trường trang hoàng không phải vì tự ái mà đơn thuần là vì Mao cáu
Tuy nhiên sau một vài năm tôi hiểu rằng việc Chủ tịch từ chức là một hành động chính trị khôn ngoan. Với bước đi như thế Mao muốn lấy lòng tin chiến hữu của mình, đặc biệt là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, những người mà ông bắt đầu nghi ngờ. Việc Khơ-rút-sốp buộc Stalin tội sùng bái cá nhân đẩy Mao vào vị trí phòng thủ. Bạn chiến đấu của ông muốn sự lãnh đạo đất nước phải do tập thể làm, việc họ phê bình cách đi của Chủ tịch trong cuộc cải cách mau lẹ đã trở nên mạnh mẽ và biến những người bạn cũ của ông thành những người chống đối lại ông. Khi thông báo cho những người lãnh đạo cao cấp đảng ý định của mình từ chức chủ tịch nước, Mao muốn chứng tỏ cho các chiến hữu của mình tính trung thành của ông, dù họ đang thuyết phục ông ở lại. Nếu sự từ chức của ông không gây nên sự chống đối, Mao sẽ dùng các biện pháp quyết liệt để giành quyền lực của mình.
Rời khỏi lò đấu tranh chính trị Bắc Kinh, Chủ tịch tiếp tục theo dõi sự phát triển tình hình ở Trung Nam Hải. Mao không có ý định rời bỏ quyền lực, ngược lại - ông muốn tóm lấy tất cả sợi dây điều khiển đất nước vào tay mình. Mao không cần cái vẻ bề ngoài quyền lực, mà cần quyền lực để cải cách đất nước tương ứng với kế hoạch có ảnh hưởng sâu rộng.
Lãnh tụ chẳng phải đợi lâu. Đại hội 8 đảng cộng sản Trung quốc, khai mạc tháng 9 năm 1956, xác nhận tất cả sự nghi ngờ tồi tệ của ông trong mối quan hệ của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.
Chương 18
Dự kiến là đại hội đảng cộng sản Trung quốc khai mạc 15 tháng 9 năm 1956. Các vị lãnh đạo đảng cao cấp có mặt ở Bắc Kinh sớm hơn, trong khi chính Mao vẫn còn nằm lại ở Bắc Đới Hà. Thời tiết bắt đầu xấu đi, nhưng dù vậy Mao vẫn như trước đây sau bữa cơm trưa lại ra biển. Cứ vậy tiếp tục bơi như thế đến chừng nào nước lạnh. Chúng tôi trở lại Bắc Kinh trước khi đại hội khai mạc.
Đại hội tám là diễn đàn đầu tiên của đảng cộng sản Trung quốc sau năm 1945. Tại đại hội này có kế hoạch bầu ban lãnh đạo mới và vạch ra những nguyên tắc chính phát triển chủ nghĩa xã hội ở Trung quốc. Mao tin rằng đại hội sẽ chấp nhận hướng đi cải cách tận gốc của ông và chính thức đề cử ông là người lãnh đạo cao nhất của đảng và nhà nước. Lãnh tụ để cho Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình điều khiển đại hội. Theo cái nhìn của tôi, tính tự phụ của hộ đã lấn át những nhạy cảm chính trị. Họ không thấy được thủ đoạn từ chức của Mao, và đại hội tiến hành theo kịch bản của họ, giáng một đòn mạnh vào uy thế và kiêu căng của Mao Trạch Đông. Mao buộc tội Lưu và Đặng âm mưu gạt ông khỏi chính trường và cướp chính quyền ở cộng hoà nhân dân Trung hoa.
Lưu Thiếu Kỳ đã trình bày bản báo cáo chính trị của mình - sự kiện trung tâm của đại hội. Trước khi đó Lưu Thiếu Kỳ luôn luôn đưa cho Mao xem văn bản bài phát biểu của mình nhân danh đảng, và lãnh tụ luôn luôn có thể sửa chữa và bổ xung. Nhưng lần này, như Mao nói với tôi, Lưu Thiếu Kỳ không làm như vậy. Chính Lưu Thiếu Kỳ đã ký vào bản án tử hình chính mình, được thi hành trong những năm Cách mạng văn hoá.
- Tôi bỏ chức vị Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung hoa, nhưng tôi vẫn là Chủ tịch đảng cộng sản Trung quốc - Mao tâm sự với tôi - Vì sao họ không trình tôi về thông tin về các vấn đề cần thảo luận trong báo cáo? Họ nói rằng không kịp, nhưng tôi có đi khỏi nước đâu chứ.
Tôi không bao giờ tin rằng, trước khi đại hội Mao chưa nhìn thấy văn bản báo cáo của Lưu Thiếu Kỳ. Nhưng các mục chính của bài phát biểu này rõ ràng là không hợp ý Mao. Đường lối chung của đảng, được vạch ra trong đại hội, khác hẳn với ý tưởng của Mao, và tất cả các sáng kiến chính trị sau này của Mao - thanh lọc hàng ngũ đảng, đại nhảy vọt, chiến dịch phục hồi chủ nghĩa xã hội của quần chúng, cuối cùng, Cách mạng văn hoá - là sự xác nhận rõ nhất sự khác nhau này. Mao chỉ có thể tính sổ hoàn toàn các đối thủ chính trị của mình vào năm 1969, ở hội nghị đại biểu lần thứ 12 Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc, gạt bỏ khỏi đảng Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và phần đông những người tham gia đại hội 8 đảng cộng sản Trung quốc và thông báo ý tưởng của Mao là người lãnh đạo đảng và nhà nước.
Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ cùng một quan điểm và cho là mọi quyết định trong đảng cộng sản Trung quốc phải được tập thể thông qua. Họ cho rằng Mao chỉ là người đầu tiên trong số những người cùng có quyền ngang nhau, điều này rõ ràng chống lại hoài bão làm vua của lãnh tụ.
Tôi có mặt tại đại hội từ hôm khai mạc đến hôm bế mạc với tư cách bác sĩ riêng của của lãnh tụ. Ngày đầu tiên Mao thu hút các đại biểu đại hội bài phát biểu chào mừng. Sau đó Lưu Thiếu Kỳ đọc báo cáo chính trị. Nghe Lưu Thiếu Kỳ và sau đó nghe Đặng Tiểu Bình, tôi đoán được phản ứng của lãnh tụ. Tôi kinh hãi khi được nghe chỉ đích danh lãnh tụ. Trong báo cáo Lưu và Đặng đưa ra ý tưởng lãnh đạo tập thể của đảng và nhà nước, và cũng lên án tệ sùng bái cá nhân. Đặng Tiểu Bình làm các đại biểu tin rằng chế độ tương tự Stalin, sẽ không bao giờ có ở Trung quốc. Trong đề án xây dựng hiến pháp mới cộng hoà nhân dân Trung hoa, do Đặng trình bày, không có điểm nào về vai trò lãnh đạo của tư tưởng Mao Trạch Đông trong nước, bản thân Mao chỉ có vai trò chủ tịch danh dự. Người ta cho rằng cứ theo bài phát biểu này, thì Mao phải rời bỏ cả chức vụ Chủ tịch đảng cộng sản Trung quốc.
Đối với Mao, nguyên tắc lãnh đạo tập thể cũng là không thể chấp nhận được, bởi vì đã tước bỏ quyền lực tuyệt đối của ông và đặt lãnh tụ ngang hàng với những người lãnh đạo khác. Ông luôn thèm khát sự tôn sùng cá nhân.
Tôi hoàn toàn đồng ý điều này. Chẳng phải Lưu Thiếu Kỳ, chẳng phải tổ chức tập thể nào cả, mà chỉ có Mao là người lãnh đạo cao nhất của đất nước
Đại hội 8 đảng cộng sản Trung quốc phơi bày sự chia rẽ đang có giữa lãnh tụ và người thừa kế của ông - Lưu Thiếu Kỳ. Sự kiện này coi như điểm đảo ngược trong mối quan hệ của Mao với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đang cố gắng làm giảm quyền lực của Chủ tịch.
Tuy nhiên Mao quyết định tạm thời chưa xông vào cuộc chiến công khai với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đầu tiên ông trút những thuộc hạ trực tiếp của họ - La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng. Ông từng làm như thế từ trước đây, Mao giận dữ Stalin, nhưng trút xuống đầu nhân vật thân Cremlin là Vương Minh. Hành động quyết liệt của Mao trong mối quan hệ cả với La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng trong thời gian ngắn đã đụng chạm trực tiếp đến cả tôi.
Cơn lôi đình nổ ra ngay trong một buổi chiều đại hội. Ngày lễ độc lập vừa mới được tổ chức, và phần đông quan chức Trung Nam Hải tập họp để xem buổi trình diễn vở kinh kịch trong hội trường Hoàng Dương. Giờ ấy, Mao đang nằm trên giường, còn tôi đang ngồi xem ghi chép y tế trong buồng nhỏ bên cạnh. Bỗng nhiên Lý ẩm Kiều giận dữ tới chỗ tôi, gọi điện vào hội trường gọi La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng cấp tốc về gặp Chủ tịch.
Họ chưa kịp bước qua ngưỡng cửa phòng Mao, thì Mao nổi cơn lôi đình. Tôi được giải thích việc này sau đó mấy giờ do Lý ẩm Kiều và một vệ sĩ của lãnh tụ đứng ngoài cửa nghe lỏm được kể lại.
Mao từ trước không ưa La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng. Ông phẫn nộ về các biện pháp an ninh đắt tiền và phức tạp, bởi lẽ họ hoàn toàn áp dụng nguyên bản hệ thống an ninh của Liên-xô. Mao cũng nhắc là Uông đã phát biểu chống lại việc bơi của lãnh tụ trên sông Dương Tử. Nhưng tất cả cơn giận Chủ tịch là ở chỗ cả hai người này luôn luôn thông báo mọi hoạt động cho Ban chấp hành trung ương, thực tế cho cho hai ông chủ Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.
Đứng đầu Ban bí thư Ban chấp hành trung ương là lãnh tụ, và vì thế La và Uông đã qua mặt ông. Tuy nhiên hoạt động của họ không có ý độc ác gì cả, đơn thuần họ cho rằng mối quan hệ Mao với Ban chấp hành trung ương là thân thiện và khăng khít. Ngoài ra trước Ban chấp hành trung ương, La và Uông được giao lãnh đạo bộ phận an ninh cho lãnh tụ của đảng, trước hết là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.
Lý ẩm Kiều đổ thêm dầu vào lửa, báo cho Mao rằng La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng, dù đã bị phê bình nghiêm khắc ở Bắc Đới Hà, vẫn tiếp tục tăng cường các biện pháp an ninh quanh Chủ tịch.
Lý ẩm Kiều chắc chắn biết rằng Mao coi những hoạt động phục vụ an ninh như thế khác nào sự hạn chế tự do của mình. Mao rõ ràng không muốn rằng đời tư của ông nằm dưới sự kiểm soát thường xuyên, và mọi việc ông ta làm đều bị lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc biết được. Tất cả các sĩ quan phục vụ an ninh chịu sự chỉ huy của La và Uông. Mao muốn rằng đội bảo vệ chỉ trung thành đối với mình ông thôi, chứ không phải cho giới chóp bu của đảng, tuy nhiên ông không thể nói điều này một cách công khai bởi vì nó làm xấu đi mối quan hệ với chiến hữu của mình.
Trận đấu của Mao với La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng kết thúc, Chủ tịch tuyên bố thải hồi họ.
Bộ trưởng công an về làm tỉnh trưởng tỉnh Hồ Nam, còn người phó của La và thủ trưởng đội cận vệ riêng- Uông Đông Hưng thoạt đầu được gửi đi học ở trường cán bộ đảng cao cấp Bắc Kinh sau đó chuyển về làm công tác đảng ở tỉnh Giang Tây, quê Uông.
Khi đi ra, mặt họ không còn hạt máu, đặc biệt là La. La Thụy Khanh chẳng thể nào hiểu được vì sao Mao tóm lấy công việc về an ninh của mình một cách bệnh hoạn như thế. La định trình bày tất cả sự việc trước Ban chấp hành trung ương và tổ chức cuộc họp bộ công an. La cũng không đoán được nguyên nhân thật sao lại bị cách chức.
Uông Đông Hưng biết Mao khá rõ và hiểu ngay lập tức. Vì thế Uông thuyết phục La giảm bớt hợp tác với Ban chấp hành trung ương và đừng tiến hành bất kỳ thảo luận trong Bộ, bởi vì điều này chỉ đưa tới sự đổ vỡ hoàn toàn với lãnh tụ và những hậu quả không lường đối với cả hai người.
Về sau La viết một bức thư cho Mao, trong đó ông nhận lỗi của mình và đề nghị lãnh tụ tha thứ. Trong phiên họp của Bộ công an La công khai xám hối về tất cả các lỗi lầm tưởng tượng và rõ rằng.
Mao mềm lòng lại và vẫn để La ở chức bộ trưởng Bộ công an.
Lãnh tụ cũng nhận được bức thư tương tự của Uông Đông Hưng, tuy nhiên điều này không cứu nổi Uông, ông vẫn bị thải hồi.
Uông ra đi, tôi còn lại ở chỗ Mao nhưng thiếu sự giúp đỡ và bảo vệ.
Uông tin tôi và đã tiến cử tôi làm bác sĩ riêng của Mao. Những lời khuyên và sự giúp đỡ của Uông giúp tôi hiểu đúng nhiều vấn đề và định hướng được các sự kiện đang xảy ra ở Trung Nam Hải, cũng như ở trong nước. Thiếu Uông Đông Hưng tôi trở thành bị bông cho Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều, là những người không thích tôi và từ lâu đã chờ sẵn những trường hợp thế này.
Tôi hiểu rằng mình đang phải sống đơn độc ở đây, và bắt đầu chuẩn bị ra khỏi Trung Nam Hải.
Chương 19
Giang Thanh đã làm hỏng hết kế hoạch của tôi. Lần này bà ốm thật.
Trong một lần kiểm tra thường kỳ ở Bắc Đới Hà mẫu xét nghiệm bệnh phẩm của bà dương tính. Để xác định kết quả xét nghiệm, các bác sĩ của bà là Lâm Kiều Trí và Dư ái Phong đã gửi ống nghiệm chứa bệnh phẩm tới hai nhà bệnh lý học giỏi nhất của nước lúc đó là Lương Bạch Cường ở Học viện Tôn Dật Tiên tại Quảng Châu và Hồ Trịnh Tường thuộc Hiệp hội y khoa Bắc Kinh. Cả hai đều đi đến kết luận giống nhau: bệnh phẩm dương tính. Xét nghiệm cho thấy bệnh ung thư cổ tử cung của bà thuộc trạng thái tự nhiên. Tuy vậy, căn bệnh này vẫn chưa phát. Nó chỉ mới ở giai đoạn đầu và người ta cho rằng có nhiều khả năng chữa được.
Nhưng Giang Thanh lại là vợ của Mao nên các bác sĩ tìm mọi cách lảng đi để được yên thân. Bác sĩ Dư ái Phong đã bay sang Liên-xô đề tiến hành xét nghiệm một lần nữa. ở đó người ta cũng xác nhận kết quả xét nghiệm đúng như vậy. Phó Liêm Chương, người liên hệ với các bác sĩ, đã viết một bản báo cáo cho Mao.
Mao triệu tập một cuộc họp với các bác sĩ. Nữ bác sĩ phụ khoa Lâm Kiều Trí, người đã lấy bệnh phẩm, đề nghị chữa bằng phương pháp chiếu tia Cobalt- 60 (một kim loại có từ tính và phóng xạ) ở Liên-xô.
Các bệnh viện ở Trung quốc vẫn thường chiếu tia Radium, nhưng việc điều trị bằng tia Cobalt- 60 thì họ chưa làm được. Các bác sĩ Nga chiếu tia này thành thạo hơn cả.
Lời đề nghị của bác sĩ Lâm không chí căn cứ vào những thận trọng nghề nghiệp, mà bà còn muốn bảo vệ mình và những đồng nghiệp Trung quốc của bà nữa. Chẳng có bác sĩ Trung quốc nào muốn nhận trách nhiệm về mình. nếu dự đoán lạc quan của họ bị sai.
Mao nói: Các đồng chí là người quyết định. Khi người ta ốm, người ta phải nghe theo lời khuyên của bác sĩ. Vậy là đề nghị của bác sĩ Lâm đã được chấp thuận. Giang Thanh sẽ phải sang Liên-xô với sự tháp tùng của bác sĩ Dư ái Phong.
Giang Thanh lờ mờ nhận ra là có điều gì không ổn, thế nhưng bà vẫn không hay biết tí gì về bệnh tình của mình. Mao muốn các bác sĩ sẽ nói chuyện với bà. Ông mời tất cả chúng tôi tới dùng cơm.
Khi biết được sự thật. Giang Thanh rất bồn chồn, cho tới khi các bác sĩ nhiều lần khẳng định với bà rằng việc chữa bệnh bàng phương pháp chiếu xạ này sẽ làm bà khỏi hẳn thì lúc đó mới yên tâm. Vài ngày sau. bà bay sang Liên-xô. Lúc đó là đầu tháng 11. Bây giờ tôi phải tích cực hơn. Có hai khóa học bổ túc mà tôi quan tâm: tôi có thể học ngành y khoa phục vụ chu vùng nhiệt đới ở Anh hoặc học tiếp ngành thần kinh học ở bệnh viện Bắc Kinh.
Tại đó, tôi sẽ học một khóa do nhà thần kinh học nổi tiếng nhất Liên-xô Ruschinski dạy. Lúc đó ông đang làm việc tại Trung quốc. Những bác sĩ trưởng khoa thần kinh có tiếng nhất ở trong nước đều tham dự khóa học này. Sau khóa học đó, bệnh viện Bắc Kinh muốn thành lập một viện nghiên cứu về thần kinh.
Tôi báo cho Mao biết cả hai khả năng học bổ túc thêm này. Mao hỏi:
- Thế có nghĩa là đồng chí muốn đi chứ gì?
Tôi đáp:
- Vâng, nếu đồng chí cho phép.
Ông hỏi với vẻ tư lự:
- Y học nhiệt đới à? Cái đó chẳng liên quan gì tới tôi.
Qua những lời nói này của Mao, tôi cảm nhận được rằng, Mao cho việc tôi đi chỉ là tạm thời. Ông muốn tôi sẽ quay lại.
- Nếu thực sự đồng chí muốn đi, đồng chí hãy học ngay ở Bắc Kinh. Sau này đồng chí có thể giúp tôi được tốt hơn nữa.
Bởi vì Mao ca cẩm nhiều nhất về chứng suy nhược thần kinh của ông, nên việc học bồ túc thần kinh học sẽ thực sự giúp tôi điều trị cho Mao.
- Nếu Chủ tịch đồng ý, tôi sẽ thu xếp việc này với Bộ y tế. Tôi vẫn nuôi ý định từ bỏ nhóm Một, tuy nhiên tôi phải làm từng bước một. Bộ y tế có trách nhiệm phân công công tác cho các bác sĩ.
Mao hỏi:
- Ai sẽ thay thế đồng chí khi đồng chí vắng mặt.
Tôi cũng đã nghĩ tới điều này. Tôi muốn giao việc lại cho bác sĩ Biện Thế Cường. Ông là bác sĩ nội khoa ở bệnh viện Bắc Kinh, trẻ hơn tôi khoảng 5 tuói và đã tốt nghiệp một khoa nổi tiếng ở Nam Kinh.
Mao nói:
- Tôi không biết đồng chí ấy. Đồng chí muốn đi hẳn, nếu đồng chí ấy nhận việc này à?
Tôi cam đoan với Mao, tôi sẽ trở lại nếu Mao muốn.
- Đồng chí hãy nói lại với đồng chí Phó Liêm Chương là tạm thời tôi không cần người thay thế. Chúng ta sẽ quyết định sau về vấn đề này.
Phó Liêm Chương vui mừng trước sự ra đi của tôi. Ông ta chẳng bao giờ muốn tôi làm bác sĩ riêng cho Mao. Bất chấp sự phản đối của Mao, ông ta vẫn cử Biện làm người kế nhiệm tôi. Biện chuyển ngay về Trung Nam Hải. Còn tôi, từ giữa tháng 11, bất đầu đi học.
Thế là tôi lại được tự do! Tôi rất thích khóa học, thời khóa biểu lúc nào cũng kín mít và tôi như bị hút chặt vào khóa học mới này. Được làm việc chung với các bác sĩ khác, tôi cảm thấy thật hào hứng. Tôi thường làm việc đến hai, ba giờ sáng và mặc dù vậy tôi vẫn cảm thấy sung sức hơn và thoải mái hơn là ở Trung Nam Hải, nơi tôi phải cộng tác với những đồng nghiệp như Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều. Phó giám đốc bệnh viện Bắc Kinh đã đề nghị tôi ở lại làm việc sau khoá học và hứa sẽ dành cho tôi một chỗ trong khoa thần kinh.
Công việc mới của tôi làm cho Lý Liên mừng rỡ và trở lại vẻ tươi tắn mà bấy lâu nay không thấy ở cô. Công việc mới vẫn không dành cho chúng tôi nhiều thời gian để gần gũi nhau, nhưng ít ra, cuộc sống của cô cũng trở lại bình thường. Cha mẹ cô rời Nam Kinh đến Bắc Kinh ở với mẹ tôi, Lý Liên và hai con trai tôi sống trong ngôi nhà cũ của gia đình tôi. Cha mẹ cô rất vui khi được sống chung với chúng tôi. Trước đây ít lâu, người ta đã trả lại quyền công dân cho họ, khi các nhà chức trách ở Nam Kinh được biết, tôi là bác sĩ của một cán bộ cao cấp ở Bắc Kinh. Họ lại được liệt vào tầng lớp dân nghèo thành thị đáng kính. Cả hai bây giờ cũng cảm thấy được tự do hơn và rất quan tam chăm sóc hai đứa cháu.
Tôi vẫn giữ ngôi nhà ở Trung Nam Hải. Mặc dù chúng tôi rất ít khi ở đó. La Đạo Nhương, người tạm thời giữ chức chỉ huy lực lượng an ninh sau khi Uông Đông Hưng bị cách chức, đã cho phép tôi chuyển vào làm việc chính thức ở bệnh viện, tuy nhiên ông không muốn tôi xa hẳn Mao để sau này tôi có thể dễ dàng trở lại. Trước tôi đã có ba người làm bác sĩ riêng cho Mao.
Nếu để tôi đi hẳn, La sợ sẽ gặp khó khăn khi sau này Mao muốn tôi trở lại.
Tôi lao đầu vào học đến nỗi chẳng hay biết gì những biến cố chính trị đang xảy ra ở Trung quốc. Mãi lâu sau tôi mới hay, Mao đã bắt đầu phát động phong trào Trăm hoa đua nở, trăm trường đua tiếng.
Tôi cũng được biết, trong một bài phát biểu ngày 27 tháng hai nám 1957, Mao đã kêu gọi trí thức và đảng viên của các đảng dân chủ hãy vạch những sai lầm của đảng Sau khoá học, chúng tôi cũng phải có những phê bình của chúng tôi. Các cuộc họp đã được triệu tập trong bệnh viện để làm việc này. Tôi đang phải bù đầu vào việc học hành, nên chẳng có thời gian tham dự các cuộc họp. Những biến cố chính trị có vẻ xa lạ như mới cuộc chiến tranh ở nơi nào đó xa xôi, chẳng có ai ép chúng Tôi phải tham gia các cuộc họp.
Đầu năm 1957, tôi vẫn tập trung vào học và cảm thấy hạnh phúc khi lại được trở về môi trường cũ của mình.
Sau đó, ngày 4 tháng 5 năm 1957, Lý ẩm Kiều tới bệnh viện thăm tôi.
- Chủ tịch bị cảm lạnh và muốn gặp tôi.
Thế là tôi bị gọi về. Nhưng tôi không muốn thế.
Tôi nhắc tới bác sĩ Biện Thế Cường và Lý, bây giờ ông ấy có nhiệm vụ chăm sóc Chủ tịch cơ mà.
Lý kể lại rằng, sau khi tôi đi, Mao đã gặp bác sĩ Biện khoảng hai lần, nhưng Mao không thể hợp với ông ta được. Để làm quen, Mao đã mời người bác sĩ trẻ này tham dự một buổi khiêu vũ của ông vì bầu không khí đông vui sẽ làm Biện tự nhiên hơn.
Mặc dù vậy. Ông ta vẫn phát run lên trước sự hiện diện của Mao. Mao không thể chịu được ông ta. Sau khi ông ta trở về Quảng Châu, Mao không có bác sĩ nữa.
Giang Thanh cũng từ Liên-xô trở về. Cả hai người đều muốn được tôi coi sóc
- Nếu Chủ tịch đã gọi đồng chí, đồng chí không được từ chối.
Tôi vẫn phải làm việc trong bệnh viện. Theo quy định công tác, nếu tôi muốn đi, tôi phải xin phép, và chỉ có bí thư đảng ủy bệnh viện biết tôi là bác sĩ riêng Chủ tịch. Vì lý do an ninh, chức vụ của tôi được giữ kín. Người ta sợ rằng những kẻ mưu sát có thể đầu độc Mao và lợi dụng tôi để làm việc này.
Lý nói: Cấp trên của đồng chí biết chuyện này rồi!
Sau khi Uông Đông Hưng đi một ông Vương Kính Tiên nào đó phụ trách việc bảo đảm an toàn cho Mao. Ông này cũng đã thu xếp để tôi trở về và ủy nhiệm cho Lý ẩm Kiều đi đón tôi. Một chiếc xe đang chờ bên ngoài.
Tôi xin phép được thông báo cho cấp trên của tôi.
Lý ẩm Kiều không chịu:
- Muộn rồi. Chúng ta đừng để Chủ tịch phải chờ đợi. Đồng chí cứ đến gặp Chủ tịch trước rồi báo cho bệnh viện sau cũng được.
Vậy là tôi chưa bao giờ thực thoát khỏi nhóm Một, mà chẳng qua Bộ y tế mượn tôi một thời gian. Cuộc sống của tôi vẫn bị phòng an ninh hoàn toàn kiểm soát. Tôi chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Với chiếc va li bác sĩ trong tay, tôi trở về Trung Nam Hải.
Mao nằm trên giường trông xanh xao và mệt mỏi. Ông bảo tôi ngồi lên giường cạnh ông. Một vệ sĩ mang trà lại. Tôi hỏi ông cảm thấy trong người thế nào, ông đáp:
- Không được khỏe. Tôi bị cảm.
Suốt hơn hai tháng nay, ông bị cảm và ho, ăn không ngon miệng. Mao để tôi khám bệnh cho ông. Bệnh tình của ông không trầm trọng lắm, chỉ bị cảm nặng. Tôi muốn dùng xirô trị ho và thuốc chống táo bón để điều trị cho ông.
- Được rồi, tôi sẽ dùng những thuốc này.
Đông chí có thể ghi đơn thuốc và cách sử dụng cho nhân viên an ninh. Đồng chí không cần phải tới khi tôi uống thuốc.
Tôi đồng ý với ông và muốn cáo từ.
Mao bảo tôi: Đồng chí cứ ngồi đây một lúc nữa đã. Tôi ngồi lại.
Ông cười và hỏi tôi làm tôi nhớ lại sự việc ở Bắc Đới Hà, khi ông mất bình tĩnh:
- Làm việc cho tôi chằng dễ chút nào phải không? Đồng chí muốn bỏ hản chỗ này à? Nhưng tôi vẫn chưa có bác sĩ mới. Tôi đề nghi với đồng chí một thỏa thuận hai bên cùng có lợi. Đồng chí trở lại làm việc với tôi. Tôi biết, ở đây đồng chí cũng chẳng có gì nhiều để làm. Chúng ta sẽ kiếm thêm việc gì khác cho đồng chí làm. Tôi nhớ tới bộ trưởng y tế dưới chế độ Quốc dân đảng- ông Chu Nghị Xuân gì đó. Tôi không nhớ rõ nữa, ông ta đã đạt học vị tiến sĩ của Đức bằng công trình nghiên cứu ống dẫn trứng của thỏ. Đồng chí cũng có thể nghiên cứu trong thời gian rỗi. Có thể, đồng chí kiếm vài con vật, mua trang thiết bị và mở một phòng thí nghiệm. Tôi sẽ bỏ tiền túi ra đài thọ tất cả, chứ không phải tiền của chính phủ đâu. Đồng chí nghĩ thế nào?
Theo tôi, việc mở một phòng thí nghiệm súc vật ở Trung Nam Hải không tiện lắm. Tôi sẽ bị phê phán gay gắt, bởi vì trong phạm vi Trung Nam Hài không được phép chứa súc vật, kể cả chó hoặc mèo.
Lực lượng an ninh và y tế sợ ràng thú vật có thể mang bệnh và truyền cho Mao hoặc những nhà lãnh đạo đảng khác. Sau này Giang Thanh cũng có lần gây ra một vụ náo động, khi bà mua một con khỉ con để nuôi.
Tôi nói: Nếu tôi không có gì làm, có lẽ lôi có thể đọc nhiều sách hơn.
Ông suy nghĩ về đề nghị này một lát rồi nói:
- Được đấy. Nhưng chỉ như vậy cũng chưa đủ. Học phải đi đôi với hành. Vậy thì chúng ta thống nhất thế này: đồng chí đảm nhiệm việc chăm sóc sức khoe cho tôi và sẽ quyết định sau việc đồng chí muốn sử dụng thời gian rảnh rồi còn lại như thế nào.
Đó chẳng phải là một thỏa thuận cùng có lợi mà chỉ là một mệnh lệnh được đưa ra một cách lịch sự của vị Chủ tịch đảng.
Chẳng ai dám cả gan cưỡng lại Mao. Lời nói của ông là pháp luật. Nếu tôi từ chối, tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được một công việc nào khác. Cả vợ tôi chắc chắn cũng sẽ bi sa thải. Thậm chí tôi có thể bị bát giam, bị tra tấn.
Một lúc sau, Mao nhắc lại với tôi:
- Đã có lần tôi hỏi đồng chí có muốn làm thư ký cho tôi hay không, nhưng đồng chí đã từ chối. Trong thời cận đại ở Trung quốc, có rất nhiều chính trị gia nối tiếng, họ bắt đầu là bác sĩ sau đó chuyển sang nghiệp chính trị, ví như Tôn Trung Sơn, Lô Huấn và Quách Mạc Nhược. Nghề bác sĩ có vẻ danh giá, nhưng người ta không nhất thiết phải đóng khung trong đó. Tham dự vào cả các ngành khoa học xã hội cũng chẳng sao.
Mao có thể ép tôi làm bác sĩ cho ông, nhưng ôngg không thể thuyết phục tôi làm thư ký cho ông được. Tôi là một nhà y, chứ không phải là một chính trị gia và tôi không bao giờ muốn dính líu vào việc tranh giành quyền lực.
Mao hỏi: Đồng chí nghĩ kỹ rồi chứ? Thôi được. Thế thì đồng chí chỉ làm bác sĩ cho tôi vậy. Nhưng chúng ta phải thông cảm với nhau, học hỏi lẫn nhau. Không cần là thư ký của tôi, đồng chí vẫn có thể đọc những bản tin. Như vậy chúng ta dễ trao đổi với nhau hơn và hoà thuận với nhau.
Tôi vô cùng thất vọng. Khi làm việc ở Bác Kinh tôi tưởng cuối cùng tôi đã yên thân và tôi muốn bằng mọi giá tôi phải ở lại đó. Khi làm việc với Mao. tôi sẽ chẳng bao giờ được gặp các bạn đồng nghiệp.
Lòng trung thành đối với Mao có nghĩa là chỉ làm việc trong phạm vi những người thân tin. ý nghĩ sẽ lại phải làm việc với Diệp Tứ Long và những người khác trong nhóm Một khiến tôi rùng mình. Thế nhưng tôi lệ thuộc vào Mao, chẳng còn cách nào khác.
Mao nói:- Tôi sẽ thực sự rời chức Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân. Ban trị sự trung ương đã đệ trình các cán bộ cao cấp của đảng và chính phủ một bản tham khảo ý kiến. Diệp Tử Long, Lý ẩm Kiều và một vài người khác trong nhóm Một hoàn toàn bác bỏ ké hoạch của tôi. Họ sợ rằng, họ sẽ bị mất quyền lợi khi tôi không còn là Chủ tịch nước nữa. Họ nghĩ, làm việc cho Chủ tịch thì danh giá hơn.
ý định từ chức của Mao luôn được giữ kín, nhưng bây giờ mới được quyết định dứt khoát.
Đến giờ tôi mới biết. Mao không chỉ phải chịu đựng bệnh cảm lạnh. Trong sáu tháng tôi vắng mặt, biết bao biến cố chính trị to lớn đã xảy ra. Tôi mải mê với công việc của bệnh viện, đến nỗi tôi không nhận ra điều đó. Bây giờ tôi lại bị chìm ngặp trong chính trị. Tôi chẳng bao giờ quay trở lại bệnh viện Bắc Kinh được nữa. Tôi không thể tự đến để lấy những đồ đạc lặt vặt của mình, mà cũng chẳng giải thích được tại sao tôi bỏ học giữa chừng. Tôi gọi điện báo cho bí thư đảng của bệnh viện biết là Mao ra lệnh cho tôi quay trở lại. Một nhân viên an ninh Trung Nam Hải đã đến lấy đồ về cho tôi. Ngay lrong đêm hôm đó. tôi đã lại ở Trung Nam Hải, không thoát khỏi nhóm Một được. Lần này thì hết lối thoát.
Phần 3
Chương 20
Lâm Khắc cố thuật lại cho tôi những sự kiện xảy ra trong khi tôi vắng mặt.
Mao tức tối về những đề nghị mà ông cho là xúc phạm ông trong Đại hội đảng lần thứ 8: kêu gọi một sự lãnh đạo tập thể, tuyên bố Trung quốc sẽ xóa bỏ tệ sùng bái cá nhân, gạch bỏ một điều trong hiến pháp, trong đó những lời nói của Mao Chủ tịch dẫn lối chỉ đường cho nhà nước nhân dân, và chỉ trích sự phiêu lưu của Mao. Ông cho rằng, nhiều cán bộ cao cấp của đảng quá bảo thủ và, nhút nhát trong việc áp dụng những thay đồi có tính cách mạng.
Trong kỳ họp thứ hai của Ban chấp hành trung ương đảng khóa 8 giữa tháng 11, ông vẫn chưa nguôi. Trong bài phát biểu của mình, ông nhấn mạnh ý nghĩa của cuộc đấu tranh giai cấp và công bố ý định của ông sẽ phát động một chiến dịch làm trong sạch đảng, nhằm loại bỏ chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa quan liêu ra khỏi đảng.
Ngay sau cuộc họp tháng 11, Lâm Khắc kể, trong ba tháng liền Mao suốt ngày nằm trên giường, một hiện tượng thường thấy ở Mao mỗi khi ông gặp một xung đột chính trị hóc búa. Ông chỉ rời khỏi giường khi đi tắm hoặc đi đọc diễn văn ở đâu đó. Trạng thái có vẻ mệt mỏi này của Mao đã giúp ông sắp đặt kế hoạch cho những bước đi chính trị tiếp theo.
Bài phát biểu của Mao trong ngày 27 tháng hai năm 1957 là một phần trong chiến lược của ông. Ông rời khỏi giường để đến nói chuyện ở hội nghị cao cấp nhất của nhà nước mà ông làm chủ tọa với tư cách là Chủ tịch nước. Thành phần tham gia hội nghị không chỉ có các thành viên của Bộ chính trị, các quan chức cao cấp trong quân đội và những đại diện cao cấp của chính phủ, mà còn có những người đứng đầu cái gọi là các đảng phái dân chủ. Trong bài phát biểu của mình, ông lên án gay gắt thói quan liêu trong đảng và kêu gọi đảng viên của các đâng phái dân chủ hãy vạch ra những sai lầm của đảng cộng sản và đưa ra những đề nghị cải tổ. Ông coi cuộc cách mạng đã thắng lợi, chủ nghĩa xã hội đã thành công và ông tuyên bố thời kỳ đấu tranh giai cấp đã qua. Mặc dù vẫn còn bọn phản cách mạng, nhưng số lượng không đáng kể - chỉ là vài đám cỏ dại trong cánh đồng lúa - nên chúng không thể làm gì được. Những mâu thuần trong xã hội hiện nay không mang bản chất đối kháng, chủ yếu là những mâu lhuần trong nhân dân mà có thề giải quyét được bằng những biện pháp thích hợp.
Bài phát biểu đóng vai trò tối quan trọng trong chiến lược làm trong sạch đảng của Mao sắp tới. Những phong trào làm trong sạch đảng chẳng có gì mới đối với đảng cộng sản. Năm 1942, Mao đã phát động phong trào này lần đầu ở Diên An Lần này nó sẽ không chỉ giới hạn trong bộ máy đảng. Mao chằng còn tin vào việc đảng tự làm trong sạch nữa. Ông muốn tất cả quần chúng, nhất là giới trí thức trong những đảng gọi là dân chủ cũng tham gia vào việc phê bình đảng. Đó là một cách làm rất khác thường, bởi vì đảng cộng sản là một tổ chức chặt chẽ về nội bộ, bí mật và đầy quyền lực mà những thành phần ngoài đảng chưa bao giờ dám hé răng phê bình. Ai dám cả gan phê bình, người đó sẽ phải tính đến việc bị chụp mũ phản cách mạng như hàng trăm nghìn tấm gương khác.
Mao chẳng tin giới trí thức Trung quốc một chút nào. Tuy nhiên, ông vẫn công khai nói ông muốn hợp tác với họ và tận dụng kiến thức của họ, song ông vẫn nghi ngờ lòng trung thành của họ. Những trí thức phải nghiên cứu đường lối của đảng. Việc cải tạo trí thức Trung quốc đã được bắt đầu ngay sau khi giải phóng. Những trí thức cứng đầu hoặc những người đã học khoa lý luận mà không chịu học tập cải tạo thì sẽ bị công kích.
Nạn nhân gần đây nhất của những vụ công kích đó là nhà văn Hồ Phong. Hồ Phong, một người đã thẳng thắn phê bình việc kiêm duyệt, đã cả gan trình bày với Bộ văn hóa những đề nghị có tinh chất xây dựng. Dĩ nhiên, ông chỉ thổ lộ những chl trích gay gắt nhất qua thư từ trong phạm vi bạn bè của ông. Trong số đó, một số người thân thiết với đảng đã nộp những bức thư của ông cho chính quyền. Do những thổ lộ mà Hồ dại dột, cho là chỉ có tính chất cá nhân này, mà năm 1955 ông đã phải vào tù với danh nghĩa là thủ lĩnh của một tố chức bí mật chống đảng. Việc này lại càng làm trí thức lên tiếng phê bình, chứ đừng bày tỏ trong phạm vi bạn bè.
Chiến thuật của Mao khởi xướng tranh luận trong giới trí thức, cho phép trăm hoa đua nở và trăm nhà đua tiếng là chấp nhận sự mạo hiểm, bởi vì chỉ có ít người thực sự phản cách mạng và những người gan dạ như Hồ Phong sẽ chẳng bao giờ lên tiếng được nữa. Những trí thức khác sẽ chỉ phê phán những cá nhân mà Mao chủ tâm cải tạo.
Mao có lý do để chấp nhận là chiến thuật của ông sẽ thành công. Bởi vì, ngay cả trong những cuộc họp với các đại diện của các đảng dân chủ, ông luôn luôn ngập trong những lời xu nịnh thấp hèn - chẳng khác gì chuyến du lịch mùa hè năm 1956 của chúng tôi, khi ông gặp giới lãnh đạo đảng các tỉnh. Sau khi Hồ Phong bị bịt miệng, người ta phỏng đoán rằng, những trí thức trung thành còn lại sẽ đi theo đường lối của Mao.
Trong cuộc hội nghị cao nhất của nhà nước, Mao đã phê bình sự yếu kém về lãnh đạo của chính mình, liên quan tới sự xuống dốc của nền kinh tế nước nhà. Trương Thế Trung liền đỡ lời, bệnh vực vị Chủ tịch.
Trước đây, Trương Thế Trung là tướng của Quốc dân đảng và là người đứng đầu trong đàm phán giữa những người cộng sản và những người quốc gia hồi năm 1945. Năm 1949 vì bị Chu Ân Lai lôi kéo, ông đã chạy sang hàng ngũ những người cộng sản và từ đó trở đi, ông trở thành một thành viên lừng lẫy của kẻ thù cũ.
Trương nói trong hội nghị: Tôi thường so sánh Chủ tịch với Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch lúc nào cũng đồ lỗi cho người khác, mỗi khi việc gì bị thất bại. Không bao giờ ông ta nhận trách nhiệm về mình. Ngược lại không bao giờ Mao đổ lỗi cho người khác. Thật là một trời một vực! Thật đáng kính phục!
Phong trào phê bình do Mao khởi xướng cứ ì ra. Hầu hết các trí thức không dám mở miệng. Tính cách cai trị của Mao cũng như vầng hào quang huyền bí của quyền lực và sự bất khả xâm phạm bao quanh ông đã khiến cho ngay cả những kẻ to gan nhất và những người trung thực nhất cũng phải kính cẩn trước ông. Những thú nhận mà Mao cố gợi được ở người đối thoại trong những cuộc nói chuyện riêng tư chỉ là những lời xin lỗi đáng thương vì trước đây họ đã ngờ vực ông. Trước công luận cũng như trong phạm vi cá nhân, chẳng bao giờ Mao khuyến khích những người khác chính kiến nói lên sự thật là tại sao ông lại tin rằng ông được nhân dân ủng hộ hết lòng.
Khi các trí thức im lặng, một lần nữa, Mao lại rời khỏi giường và bước lên bục diễn thuyết. Trong hội nghị toàn quốc của đảng cộng sản Trung quốc về công tác tuyên truyền diễn ra từ ngày 6 đến 13 tháng ba năm 1957. với sự tham dự của các cán bộ lãnh đạo đảng và những phần tử dân chủ không đảng phái, Mao nhắc lại những câu quan trọng của bài phát biểu tháng hai của ông và cổ động cho phong trào Trăm hoa đua nở. Ông kêu gọi các lực lượng dân chủ đừng ngần ngại phê bình. Các báo chí tường thuật lại những luận điểm của ông, và ở khắp đất nước, những người lãnh đạo đảng bộ địa phương đã hưởng ứng trào lưu cho rằng, càng yêu đảng bao nhiều, càng phải thằng thắn phê bình đảng bấy nhiêu.
Nhưng khi phê bình chỉ được nêu ra một cách chung chung, rất hời hợt và nhẹ nhàng. Trong một cuộc mít tinh tại quảng trường Thién An Môn cuối tháng 4, Mao lại khuyén khích mọi người hãy phê bình đảng.
Cuối cùng những người dân chủ đã đáp ứng đề nghị của ông và những tiếng nói phê bình ngày một to hơn.
Lúc đó là đầu tháng 5 tức là vào thời điểm tôi trở lại với Mao. Dần dần. những sai lầm của đảng bị lên án ngày càng gay gắt, thậm chí người ta còn đặt vấn đề về quyền lãnh đạo của đảng. Không chỉ từng cá nhân đảng viên, mà toàn đảng bị công kích. Bỗng nhiên có tiếng nói, đảng cộng sản không có độc quyền lãnh đạo, quyền lực phải được chia sẻ. Một số người đòi chế độ đa đảng hoặc nguyên tắc lãnh đạo luân lưu, mỗi đảng đều có cơ hội lãnh đạo và thậm chí một vài kẻ lộn xộn còn đòi các đảng dân chủ phải có quân đội riêng.
Cuối cùng, cả sự chỉ lãnh đạo của Mao cũng bị lên án cực lực. Người ta so sánh đảng cộng sản với một ngôi chùa đạo Phật, mà người trụ trì chùa (tức là Mao) đọc kinh, còn các sư sãi (các cán bộ đảng) tụng theo. Thậm chí một vài người còn phàn nàn rằng, họ chỉ được phép phê bình các sư sãi chứ không được phê bình người trụ trì.
Dĩ nhiên, Mao bị sốc ông không hề có chủ ý đem mình ra để người ta phê phán, hoặc để cho toàn thể bộ máy đảng bị công kích. Từ trước tới nay ông chỉ quen với những lời xu nịnh, chẳng biết các nhà trí thức bất mãn đến mức độ nào.
Giữa tháng 5, cuộc phê bình đạt tới tột đỉnh. Tư tưởng chống đảng của quần chúng ở Trung quốc đã biến thành một cơn sóng lớn dữ dội. Ngay cả những thành viên của chính phủ, những người được coi là thủ lĩnh của những đảng dân chủ mà ý kiến của họ thường xuyên được chính phủ tham khảo, cũng lên tiếng phê bình. Tờ Nhân dân, cơ quan ngôn luận của đảng do Đặng Tước làm tổng biên tập được Hồ Kiều Mục, bạn tôi, cục phó cục tuyên truyền, kiểm duyệt cũng bị phê bình.
Về cơ bản. Mao đã tính sai. Ông chán ngán nằm lì trên giường và dưỡng bệnh cảm của ông, mà vì nó tôi lại bị triệu tới.
Bực tức trước những công kích ngày càng tăng, Mao soát lại chiến lược của ông và lập kế hoạch trả đũa.
Ngày 15 tháng 5, tức vài ngày sau khi tôi trở lại, Mao viết một bài với tiêu đề Sự biến hóa của sự thật. Bài này được lưu hành bí mật trong phạm các cán bộ cao cấp của đảng. Sau đó chiến dịch làm trong sạch đảng được chuyên hướng. Mao lập kế hoạch giáng trả những kẻ đã lớn tiếng phê bình ông. Các báo chỉ vẫn tiếp tục đăng những ý kiến phê bình, nhưng đồng thời đăng cả những bài cảm tình với đảng và những bài công kích những phần tử thiên hữu.
Mao nói: Trước hết, chúng ta phải nhử răn rết bò ra khỏi hang sau đó chúng ta mới đánh chúng. Chiến lược của tôi là, trước tiên chúng ta hãy để cỏ dại mọc lên, rồi bứng từng cụm một làm phân bón.
Trí thức vẫn tiếp tục được khuyến khích phê bình, nhưng các cán bộ cao cấp của đảng được đánh động và hiểu rằng, đòn phản công trí thức sắp được tung ra.
Mao nói: Tôi muốn dựa vào các đảng dân chủ để đưa đảng cộng sản đi theo con đường đúng đắn. Nhưng tôi không ngờ họ lại có thể thay đổi đến như vậy Mao bực nhất là với các thành viên của Liên minh Dân chủ, một liên minh được một nhóm trí thức thành lập trong những năm 40. Liên minh này đã vận động những người cộng sản và người quốc gia thỏa hiệp. Mao chì chiết: Chúng nó là một lũ cướp và đĩ điếm. Theo nhận định của Mao việc Khơ-rút-sốp chống lại Stalin vào tháng hai năm 1956 và cuộc nối dậy ở Hungary cuối năm ấy đã gây nên một làn sóng chống cộng hiện đang lan rộng khắp thế giới. Nhiều người Trung quốc, kể cả các cán bộ đảng cũng như thường dân mà dưới con mắt của Mao họ là những kẻ rách việc đã chịu ảnh hướng của làn sóng này.
Ông nổi đóa với Hồ Kiều Mục, vì ông ta hình như chẳng chịu làm gì để chấm dứt việc phê bình đảng trên báo Nhân dân. Nếu đồng chí không nắm được tờ báo này, đồng chí hãy từ chức để cho người khác làm. Ông quát tháo và ra lệnh cho Hồ chuẩn bị công kích lại bọn thiên hữu.
Ngày 8 tháng 6 năm 1957 trên báo Nhân dân đã xuất hiện dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự chuyển hướng của chiến dịch làm trong sạch đảng. Một bài xã luận do Mao viết với tiêu đề Để làm gì? đã quả quyết rằng, có một nhóm nhỏ đang âm mưu lật đổ chính phủ xã hội chủ nghĩa. Bài này kêu gọi quần chúng hãy giáng trả nhóm người đó.
Ngày 19 tháng 7 năm 1957, bài phát biểu hôm 27 tháng 2, trong đó Mao khuyến khích các trí thức phê bình đảng, đã được đăng trên báo Nhân dân với cái tít: Về phương pháp giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn trong nhân dân và được bán cho quần chúng. Đó là bản sao bài phát biểu phê bình đảng của Mao trong Hội nghị cao cấp nhất của nhà nước hồi tháng hai và được sửa đổi đôi chút. Thực ra, bài viết này có những cái khác cơ bản với nguyên bản mà trong đó việc phê bình không bị hạn chế. Mao ra sức kêu gọi đề cao tự do ngôn luận và để cho trăm hoa đua nở.
Ngược lại, trong bài phát biểu được đăng báo ngày 19 tháng 6, Mao đã đề ra 6 tiêu chuẩn phê bình được coi là hợp lệ: phải góp phần thống nhất dân tộc, không được gây chia rẽ, khuyến khích công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố nền chuyên chính dân chủ của nhân dân, bảo dám sự lãnh đạo của đảng cộng sản và khuyến khích sự đoàn kết của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Nếu Mao đã cảm thấy bị phản bội khi giới trí thức lớn tiếng phê bình, thì bây giờ giới trí thức lại cảm thấy cay đắng khi ông bỏ rơi họ. Mao luôn khuyến khích họ phê bình. Thông điệp của ông được đăng trên tất cả các báo ở Trung quốc và phân phát tới từng cơ sở sản xuất. Thế mà giờ đây ông lại trở mặt.
Mao biết giới trí thức đã nhận ra là họ mắc lừa. Sau khi bản sao bài diễn văn của ông được đăng báo ngày 19 tháng 6, ông nói với tôi:
- Bây giờ một số người thiên hữu quả quyết rằng, tôi đã hối thúc họ tham gia phong trào Trăm hoa đua nở, khuyến khích họ phê bình đảng vô điều kiện và bây giờ lại trả thù họ. Nhưng ngay từ đầu tôi đã cảnh cáo họ, đừng có trêu ngươi tôi. Một số người đã nghe lời tôi, nhưng chỉ rất ít thôi.
Cho tới nay, tôi mới biết khi đó Mao đã giả dối. Chiến lược của ông là lợi dụng những phê bình của tầng lớp trí thức để chọi lại những đối thủ của ông trong đảng. Nhưng mũi dùi phê bình đó lại chĩa vào chính ông.
Khoảng cuối tháng 6, vài tuần sau khi tôi trở lại, Vương Kính Tiên, người chỉ huy mới của Phòng an ninh, yêu cầu tôi thu xếp đồ đạc. Mao sẽ rời Bắc Kinh đi đến một nơi nào chưa rõ. Thời kỳ Trăm hoa đua nở đã qua. Chiến dịch chống bọn thiên hữu của Mao bắt đầu.
Phần 3
Chương 21
Thông thường chúng tôi sử dụng chuyến tàu đặc biệt và sang trọng của Mao mà lịch trình của nó được điều chỉnh theo giấc ngủ bất thường của Mao. Tuy nhiên, những biện pháp an toàn từ thời Uông Đông Hưng đã được thay đổi hoàn toàn. Đoàn đi hộ tống dần dần rút xuống đến một phần mười. Trưởng ban an ninh Vương Kính Tiên là một người nhát như cáy, ông miễn cưỡng lãnh nhiệm vụ khó khăn này. Ông răm rắp tuân theo mọi yêu cầu của Mao tới từng chi tiết, giảm bớt lực lượng bảo vệ ở Trung Nam Hải xuống mức tối thiểu và chủ yếu sử dụng các đơn vị an ninh ở cơ sở vào việc bảo vệ.
Sau khi Mao quyết định trả đũa, ông đã nhanh chóng bình phục. Bệnh cảm lạnh đã khỏi hẳn và ông lại khỏe khoắn như trước.
Trên đường đi, Mao và Lâm Khắc đã dành nhiều thời gian trò chuyện với nhau. Những cuộc trò chuyện của hai người đã giúp tôi lấp những lỗ hổng thông tin của mình. Những cuộc nói chuyện ban đêm giữa tôi với Mao thường được Mao đúc kết lại một hoặc hai ngày sau đó.
Một lần ông nói với tôi:
- Tôi để cho đối thủ tấn công tôi trước sau đó tôi mới đánh trả. Tôi thực hiện ba nguyên tắc. Thứ nhất, tôi làm theo vị hiền triết Lão Tử, tôi án binh bất động. Nếu bị tấn công, tôi sẽ thoái lui, cố thủ và yên lặng. Kẻ thù tưởng hắn chiếm ưu thế.
Mao nghĩ, nếu chúng ta phản ứng thì kẻ thù sẽ không có dịp lộ mặt thật của chúng. Vì vậy chúng ta phải chờ cho tới lúc chúng lộ mặt.
- Chỉ khi nào kẻ thù xuất đầu lộ diện, lúc đó chúng ta mới báo thù. Chúng ta sẽ ăn miếng trả miếng. Đó là triết lý của Khổng Tử.
Thật ra, việc này chẳng liên quan gì tới giáo lý của Khổng Tử, mà chỉ là một chiến thuặt của Mao. Mao không chỉ sử dụng nó để chống những người thiên hữu, mà ông còn dùng nó để đối phó với cả những đối thủ của ông trong đảng.
- Lúc đầu, mọi người chẳng biết bọn thiên hữu là ai và diện mạo của chúng như thế nào và chúng ta khó mà giải thích cho mọi người hiểu. Nhưng bây giờ chúng ta đã có thể mô tả chúng chính xác. Đó là những tên phản cách mạng! Không, chúng ta hãy gọi chúng đơn giản là những phần tử thiên hữu.
Nguyên tắc thứ hai của Mao là, ông chỉ bỏ tù những đối thủ của ông một khi họ phạm những tội nghiêm trọng và họ làm nhân dân căm giận. Tại sao lại giam họ để lãng phí sức sản xuất của họ? Nếu họ không thích hợp với công việc lãnh đạo, thì họ cũng có thể làm cái gì đó có ích. Cách xử thế như vậy là trở về với một truyền thống lâu đời của Trung quốc.
Nguyên tắc thứ ba là đối thủ phái được cải tạo ngay tại nơi làm việc của họ. Những đồng nghiệp phải theo dõi những hành vi của họ và phải nghe ngóng họ.
Mao nói: Bằng tấm gương xấu của họ, bọn thiên hữu sẽ cho chúng ta biết thế nào là xấu xa và sai trái.
Theo Mao thì ai cũng có thể cải tạo được, ai cũng có cơ hội để trở thành người tốt
- Một con bò không tự đi cày hoặc cung cấp sữa cho người được. Một con ngựa chưa thuần thì người ta không thể cưỡi nó được. Một tên phản cách mạng hay một tên gián điệp chắc chắn phải có một biệt tài nào đó, tại sao chúng lại trở thành một tên phản cách mạng hay gián điệp cơ chứ? Tại sao chúng ta lại không cải tạo chúng rồi tận dụng những khả năng của chúng.
Đầu tiên chúng tôi tạm nghỉ ở Kim An thuộc tỉnh Thượng Đông, sau đó chúng tôi tiếp tục đến Thượng Hải, đến chỗ thiếu tá Kha Thanh Thế, một đồ đệ lừng lẫy của Mao. Kha Thanh Thế là cán bộ đảng duy nhất đã trực tiếp làm quen với Lê Nin.
Trong thời gian học tập tại một trường đại học ở Liên-xô, ông cũng đi làm ở một nhà máy, nơi Lê Nin có lần đến nói chuyện.
Mao kể rằng, không bao giờ Kha quên được cảnh tượng ấy
- Đồng chí thấy đó, ảnh hưởng của một lãnh tụ vĩ đại đối với nhân dàn lớn đến mức độ nào.
Kha thu xếp cho Mao ở trong một ngôi nhà lát đá cẩm thạch tráng lệ có mái bằng đồng. Đó là nhà của một thương gia Do Thái tên là Silas Hardoon, người mà trong những năm 30 đã gặp may ở Thượng Hải.
Ngôi nhà ở trung tâm bao quanh là những bức tường bằng gạch nung. Khu vườn tạo ra một khung cảnh tuyệt vời, có đầm sen, có ếch nhái và những cây cổ thụ mọc rải rác trên thảm cỏ thoai thoải. Trong sự sang trọng kiểu phương Tây này, Mao vẫn chẳng thấy thoải mái và bất chấp sự phản đối của Kha, ông muốn trở lại đoàn tàu của ông.
Khác hẳn với những chuyên du lịch trước đây của Mao, chuyên viếng thăm Thượng Hải lần này là một sự kiện đối với dư luận. Cả nước biết rằng Mao đang chỉ huy chiến dịch chống bọn thiên hữu.
Chiến dịch ở Thượng Hải tiến triển rất tốt Chúng tôi tới thăm một nhà máy, nơi công nhân đã căng những khẩu hiệu kêu gọi chống bọn thiên hữu. Mao nói chuyện trước các cán bộ đảng ở địa phương, cán bộ của quân đội, của chính phủ và ông đã gặp gỡ những nghệ sĩ thiên tả nối tiếng nhất của thành phố, như nhà văn Ba Kim, nữ minh tinh Thanh Nghị, tài tử Triệu Đan và vợ là Hoàng Tông Anh.
Khi đấu tranh, lúc nào Mao cũng năng nổ. Chúng tôi rời thành phố Thượng Hải náo nhiệt và tới Hàng Châu yên tĩnh - thành phố đẹp nhất ở Trung quốc. Chưa bao giờ tôi thấy một ngôi nhà tráng lệ như Liễu Chương, nơi chúng tôi đã lưu lại. Trước đây ngôi nhà này là của một người buôn chè giàu sụ, nhưng bây giờ nó được tân trang lại cho Mao ở. Liễu Chương nằm trên một bán đảo hẻo lánh đây hoa cỏ, trải dài đến bờ biển phía tây, nhỏ hơn và hấp dẫn hơn so với lâu đài Mùa hạ ở Bắc Kinh.
Ngược lại, khu vườn của nó to hơn và đẹp hơn so với khu vườn tuyệt diệu của Tô Châu.
Chính trị gia Anatas Mikoyan của Liên-xô đã đến Hàng Châu để thi hành một nhiệm vụ bí mật. Ông ta muốn trấn an Mao sau vụ Ma-len-cốp và Mô-lô-tốp bị phế truất.
Ngoài ra các cuộc đàm phán gay go về kế hoạch sản xuất vũ khí nguyên tử ở Trung quốc.
Mao cho gọi tôi lên.
Mikoyan là một người mập mạp, đáng đi lom khom, trạc độ 60 tuổi. Ông mắc bệnh đau khớp ở lưng và ở chân. Ông hy vọng sẽ được chữa khỏi bằng châm cứu. Tôi liên hệ để ông tới gặp một chuyên gia nổi tiếng nhất ở Bắc Kinh. Trong khi chúng tôi đang nói chuyện về sức khoẻ của ông, ông mời tôi một ly vốtka và chuyển sang nói về những nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Ông có vẻ bực bội về cuộc gặp gỡ với Mao và muốn thổ lộ điều đó với tôi. Ông lo ngại khi Mao chẳng hề bận tâm tới việc giết người hàng loạt.
Mao phân tích cho Mikoyan luận thuyết hổ giấy của Mao và quả quyết rằng Trung quốc có thể chiến thắng trong một cuộc chiến tranh nguyên tử dù có hy hàng triệu người. Mikoyan cố gắng mô tả cho tôi về sức tàn phá ghê gớm của một quả bom nguyên tử. Ông hy vọng rằng Trung quốc sẽ học kinh nghiệm của Liên-xô và không chế tạo loại bom này ở đây, vấn đề chi phí chỉ là một phần. Ông cũng kể cho tôi nghe một cán bộ cấp cao của Liên-xô đã phải chịu hậu quả tệ hại như thế nào, sau khi ông ta điều hành việc thử bom nguyên tử ông đã chết vì bệnh máu trắng - một căn bệnh mà tủy không còn khả năng sản xuất ra hồng cầu nữa.
Tôi đáp:
- Tôi là thầy thuốc, tôi không biết gì nhiều về bom nguyên tử. Theo quan điểm đạo đức của mình, tôi không chấp nhận nó, bởi vì nó cũng giết người như tất cả những loại khí khác.
Tôi không có quyền trao đối với một chính trị gia cao cấp của nước ngoài về một đề tài quan ưọng như vậy, và tôi nghĩ rằng, tốt hơn hết là phải báo cáo lại cho Mao về cuộc nó chuyện này. Đối với ông việc tàng trữ bom nguyên tử chỉ là vấn đề quyền lực chứ không phải là vấn đề sinh mạng con người. Mao rùng mình nói:
- Mikoyan đảm bảo với tôi là vũ khí nguyên tử của Liên có đủ cho cả hai nước dùng. Hệ thống phòng thủ hạt nhân của Liên-xô trùm lên tất cả chúng ta. Liên-xô muốn kiểm soát chúng ta, vì vậy họ ngăn cản việc Trung quốc có bom nguyên tử. Họ sợ chúng ta có thể không nghe lời họ, chúng ta có thể khiêu khích Mỹ. Nhưng chúng ta không sợ xung đột với các nước khác. Bằng giá nào tôi cũng cho chế tạo bom nguyên tử. Đồng chí cứ yên tâm. Chúng ta sẽ không để cho kẻ nào sai khiến chúng ta được.
Một khi Mao đã sán sàng hy sinh chừng ấy người Trung quốc trong một cuộc chiến tranh nguyên tử thì tại sao ông lại không dám để mặc cho hàng chục nghìn người thiên hữu bị giết hại. Tuy ông không trực tiếp hành hình họ nhưng ông cũng chẳng ngăn cản việc đó.
ở Hàng Châu Mao phát biểu trước công chúng thêm một lần nữa trước khi ông nghỉ ngơi mấy hôm. Lưu lại đó ít lâu, chúng tôi lại lên đường đi Nam Kinh, nơi chúng tôi trú trong một ngôi biệt thự trước đây là của một chính trị gia Quốc dân đảng. ở Nam Kinh, tiết trời vô cùng nóng nực, nhiệt kế thường chỉ trên 40 độ C. Mao ít bị cái nóng quấy rầy hơn tôi. Hàng ngày, những người phục vụ của Mao mang vào phòng ông những thùng đựng đầy nước đá.
Trong khi ông phổ biến về chiến dịch kháng hữu, nước đá thì chảy ra, còn tôi thì toát mồ hôi.
Chiến dịch này lan ra khắp đất nước như một cơn lốc. Mao khoan khoái đọc những tờ thông báo mít kín mít những dòng chỉ trích những người thiên hữu. Vào thời gian này, chúng tôi thường hay chuyện trò ban đêm hơn. Sự thiếu ngủ hình như có tác dụng kích thích ông.
Lâm Khắc - trong thời gian tôi ở bệnh viện Bắc Kinh, ông ta vẫn liên lạc chặt chẽ với Mao - đã kể cho tôi những nhận định của ông ta về quan điểm chính trị hiện nay của Mao. Theo Lâm, Chủ tịch phải tạm thời thỏa hiệp với những đối thủ trong đảng một cách miền cưỡng để cùng nhau tìm cách chống lại những người thiên hữu đang to mồm phê bình đảng. Đặng Tiểu Bình chịu trách nhiệm tổ chức chiến dịch kháng hữu. Đặng đã làm Mao tức giận khi ông gợi ý Mao từ chức trong Đại hội đảng lần thứ 8, nhưng ông thuộc vào hàng những cán bộ đảng mà Mao rất tin tưởng trong việc sử dụng những biện pháp cứng rắn. Mãi sau này tôi mới biết, Đặng đã điều khiển chiến dịch kháng hữu một cách cuồng nhiệt như lhế nào và ông đã tấn công tàn bạo như thế nào đối với những kẻ đòi xét lại địa vị của đảng.
Trong bối cành hiện nay, tôi cho ràng những chiến dịch trong năm 1956 và 1957 của Mao giống như một cuộc Cách mạng Văn hóa sai lầm. Ngày nay chúng ta liên tưởng tới năm 1957 chủ yếu là với chiến dịch kháng hữu khủng khiếp, mặc dù đối thủ của Mao ban đầu không phải là những người thiên hữu ngoài đảng, mà là các cán bộ lãnh đạo của đảng cộng sản - những người đã xúc phạm Mao, đòi bớt xén quyền lực của ông và cảnh cáo ông trước những giấc mơ viễn tưởng của ông về chủ nghĩa xã hội. Mao muốn trả đũa đối thủ, nhưng ông không muốn người ta động chạm đến chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhất là ông không muốn vị trí lãnh đạo của bản thân ông bị lung lay. Vì vậy, ông miễn cưỡng tạm thời liên minh với các đối thủ của ông trong đảng. Những người đã này theo ông hết lòng, vì địa vị lãnh đạo của chính họ cũng bị đe dọa.
Tuy nhiên, Mao cũng đã cho những nhà lãnh đạo đảng thấy rằng, nếu cần, ông có thể dùng thế lực bên ngoài để tấn công họ, và lời đe dọa này của ông như một lưỡi gươm lơ lửng trên đầu tất cả những ai muốn lay chuyển địa vị của ông. Nhưng lúc đầu, đa số những cán bộ đảng đã đứng về phía Mao. Nỗi sợ lại bị tấn công từ phía Mao và cả tầng lớp trí thức cũng như lòng tin vào những suy nghĩ viễn tưởng của Mao đã khiến họ ủng hộ phong trào đại nhảy vọt của Mao sau này.
Chủ tịch có ý muốn triệu tập một hội nghị đảng để nhận định tình hình. ở Nam Kinh quá nóng nên Giang Vệ Thanh, bí thư thứ nhất tỉnh Giang Tô - Nam Kinh cũng thuộc tỉnh này - đã triệu các tỉnh ủy viên tới để cùng tìm một nơi dễ chịu cho hội nghị của đảng.
Họ quyết định chọn Thanh Đảo. Một nơi tắm biển ở tỉnh Sơn Đông, trước đây do người Đức kiểm soát, khí hậu ở đó mát mẻ hơn và rất thích hợp cho việc tắm biển. Nếu đi tàu chủ tịch sẽ không chịu được nóng. Vì vậy chúng tôi đi bằng hai chiếc máy bay IL-14 do Liên-xô chế tạo và nghỉ giữa chặng bay tại Kim An. Tại đây, Mao đã sôi nổi phát biểu trước một nhóm cán bộ đảng, quân đội của tỉnh Sơn Đông về việc chống bọn thiên hữu - nội dung tóm tắt của cuộc chuyện trò ban đêm của chúng tôi.
Với khí hậu sóng gió biển mát mẻ, Thanh Đảo là một nơi nghỉ lý tưởng sau khi chúng tôi rời địa ngục Nam Kinh. Thành phố có những quả đồi khiến người ta liên tưởng đến San Francisco nay được xây dựng theo phong cách của Đức. Giữa những cây cói và những lùm cây um tùm, những ngôi nhà gạch lợp ngói rất đẹp, được bao quanh bởi những bức tường. Mao cùng vệ sĩ của ông ở trong một lâu đài tráng lệ nằm trên một quả đồi, nơi ở của viên thống đốc - người Đức trước đây. Từ trên đó nhìn xuống thành phố và biên hiện ra thật là đẹp.
Mao đi thăm những kỳ quan quan nổi tiếng nhất của thành phố được coi là đẹp nhất Trung quốc, trường đại học tổng hợp Sơn Đông, nơi hình như Giang Thanh đã nghe nhà nghiên cứu Sêchxpia nổi tiếng nhất là Lương Thế Kỳ giảng và một nhà máy sản xuất đầu máy xe lửa. Tại đó sự có mặt của Mao làm tất cả mọi người trở nên phấn khích, mặc dù Mao chẳng phải phát biểu gì, mà chỉ đứng lẫn trong đám đông. Những biện pháp bảo vệ ở Thanh Đảo quả là nghiêm ngặt. Trong thành phố, người ta đã phong tỏa nhiều con đường dành cho người và cho xe chạy.
Hội nghị các bí thư tỉnh ủy và đảng ủy xã bắt đầu vào ngày 17 tháng ó năm 1957, ngay sau khi chúng tôi đến và kéo dài nhiều ngày. Các cuộc tranh luận tập trung vào chiến dịch kháng hữu và vấn đề cải tạo xã hội theo kiểu xã hội chủ nghĩa. Báo Nhân dân đăng báo cáo của Mao trong hội nghị dưới nhan đế Bối cảnh chính trị mùa hè 1957. Trong đó, ông lại công kích nhữmg người thiên hũu và bộc lộ rõ hơn viễn tưởng về xã hội của ông, bức tranh một nhà nước công nông hiện đại được thiết lập bởi một đội ngũ đông đảo những nhà khoa học kỹ thuật xã hội chủ nghĩa. Mao nói về cặp mâu thuẫn: sự tập trung quyền lực và dân chủ, kỷ luật và tự do, về sự thống nhất tư tưởng và nguyện vọng của mỗi cá nhân - nhiệm vụ đề ra là trong vòng 40-50 năm kể từ năm 1953 trở đi, là phải vượt Mỹ về kinh tế và từ chủ nghĩa xã hội chuyển sang chủ nghĩa cộng sản.
Bị những vệ sĩ của Mao quây kín, lại ở nơi cách biệt với thế giới nghèo nàn bằng sự xa xỉ khôn tả, tôi không thể hiểu được nội dung thực của chiến dịch kháng hữu. Ngay cả trong những cuộc chuyện trò của tôi với Mao cũng có những điều không thực tế.
Ngoài ra ở Thanh Đảo, tôi gặp phải một vấn đề không liên quan gì tới chính trị.
Phần 3
Chương 22
Giang Thanh đã trở thành cả một vấn đề. Tháng tư trước lúc Mao triệu tôi về ít lâu thì bà từ Liên-xô trở về. Bà ở lại Thanh Đảo với chúng tôi.
Việc điều trị bằng tia Cobalt đã thành công, nhưng từ khi bà bị căn bệnh ung thư này, càng ngày bà càng bẳn tính. Chưa đầy hai ngày sau. bà đã đuổi ban tham mưu của Mao ra khỏi lâu đài, vì bà không chịu nổi sụ ồn ào do chúng tôi gây ra. Ngay cả tiếng nước trong cầu tiêu chảy róc rách cũng làm bà khó chịu. Bà chất vấn: ở đây ai cần nghỉ ngơi, các đồng chí hay tôi?
Bà vẫn được hai bác sĩ phụ khoa chăm sóc. Tuy nhiên, từ cuối năm 1956 khi Hứa Đạo đi khỏi bà không còn bác sĩ nội khoa nào chăm sóc bà nữa và vì thế bà cần đến tôi.
- Thỉnh thoảng tôi mới cần đến đồng chí. Khi nào đồng chí không có ở đây, y tá của tôi có thể gọi điện cho đồng chí để xin đơn thuốc và chỉ dẫn.
Tôi đành phải chấp nhận đề nghị của bà.
Chẳng bao lâu sau sự thỏa thuận này của chúng tôi đã gây ra bao phiền toái. Vài ngày sau khi chúng tôi bị đuổi ra khỏi lâu đài thì cô y tá của Giang Thanh gọi điện cho tôi. Lúc đó vào khoảng 23 giờ. Trời mưa như trút. nhưng Giang Thanh vẫn muốn gặp tôi ngay. Qua điện thoại tôi được biết mạch của bà vẫn bình thường và bà không sốt. Tôi khuyên bà nên dùng thuốc chống ngạt mũi và hứa sáng hôm sau tôi sẽ đến chỗ bà ngay lập tức. Tôi không có ô tô và cũng chẳng muốn đội mưa chỉ vì cái mũi ngạt của Giang Thanh.
Vài phút sau chuông điện thoại lại reo. Giang Thanh tức tối và bảo cô y tá nói lại với tôi rằng một bác sĩ chẳng ngó ngàng gì đến bệnh nhân mà kê đơn, thì thật là vô trách nhiệm.
Tôi cũng bực mình. Lúc này đã khuya và Giang Thanh cũng biết rằng trời mưa rất to. Bệnh của bà chẳng có gì hơn là ngạt mũi sơ sơ, còn cách cư xử của bà chứng tỏ bà chẳng coi tôi ra gì. Tôi bảo có y tá:
- Nếu đồng chí ấy không muốn, đồng chí ấy chẳng cần dùng loại thuốc này. Ngày mai tôi sẽ đến.
Hôm sau Giang Thanh công khai trách chúng tôi. Hai bác sĩ phụ khoa phải trở về Bắc Kinh và bà dự định tổ chức một bữa tiệc để chia tay họ. Theo thông lệ thì bữa tiệc phải có mặt tôi, nhưng bà cố tình lờ không mời tôi và qua các nhân viên của bà, bà nói đó là sự trừng phạt đối với lối cư xử tệ bạc của tôi.
Rồi đến lượt Mao bị cảm lạnh. ở Thanh Đảo tháng 7 tiết trời vẫn lạnh và mưa. Mặc dù vậy, sáng nào chủ tịch cũng đi bơi ở bãi tắm riêng của ông ở Sơn Đông. Sau cuộc họp đảng, ông bị ho, ăn kém ngon và hay bị mệt. Những loại thuốc Tây của tôi cũng vô hiệu, nên mấy ngày sau tôi không cho dùng nữa. Bí thư thứ nhất tỉnh Sơn Đông - Trụ Đông, đã thuyết phục Mao để cho bác sĩ Lưu Huệ Mẫn, một bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng về y học Trung quốc ở Vân Nam điều trị.
Lần đầu tiên Mao sẵn sàng chịu điều trị theo phương pháp y học cổ truyền. Ông chẳng tin vào y học Trung quốc lắm, mặc dù bề ngoài ông vẫn khuyến khích và ông ghét thứ nước sắc từ thảo dược vừa nóng vừa đắng vốn là phương thuốc nổi tiếng của phương pháp điều trị truyền thống này. Vì bệnh cảm nặng làm ông khó chịu, nên ông vẫn quyết định thử dùng một lần xem sao.
Tôi chưa nắm được công dụng của y học Trung quốc, nhưng những phương pháp điều trị bằng cây cỏ cũng có vẻ mang lại hiệu quả. Cũng có lần, bố tôi được một bác sĩ nổi tiếng của Trung quốc chữa khỏi bệnh bằng phương pháp này sau khi cách điều trị bằng y học phương Tây bất lục. Tôi nghĩ Mao cũng nên thử chữa bệnh bằng phương pháp này.
Bác sĩ Lưu Huệ Mẫn, 60 tuổi, là một người cao lớn, gầy gò, giản dị và thẳng thắn. Mao đón tiếp ông rất ưu ái - như mỗi khi ông đón tiếp những người ông mới gặp gỡ lần đầu. Ông giài thích ý nghĩa của tên của người bác sĩ:
- Huệ mẫn có nghĩa là người mang lại hạnh phúc cho mọi người. Xin bác sĩ hãy mang lại hạnh phúc cho tôi bằng sự điều trị của bác sĩ.
Bác sĩ bắt mạch vâ khám lưỡi Mao. Ông nói với vẻ quan trọng. Chủ tịch bị cảm nặng. Chúng ta phải cho Chủ tịch uống thuốc giải cảm.
Mao biết rằng ông bị cảm lạnh và chẳng cần phải nói, ông chỉ muốn được chữa khỏi bệnh. Ông nói: Tôi chẳng hiểu gì về y học Trung quốc. Đồng chí bàn với bác sĩ Lý về cách điều trị, rồi bỏ đi.
Bác sĩ Lưu tỏ ra cung kính Mao bằng cách cúi thấp mình theo truyền thống, sau đó chúng tôi đi ra ngoài để cùng với Trụ Đông bàn cách chữa bệnh cho Mao.
Bác sĩ Lưu muốn sắc hai hỗn hợp thảo dược để Mao dùng ngay truớc khi đi ngủ.Sau đó Mao phải đắp kín bằng chăn dày để ra mồ hôi. Tôi biết Chủ tịch sẽ chẳng ưa gì cách chữa bệnh theo kiểu này. Ông không thích thuốc đắng, chỉ thích ở những nơi mát mẻ và thích đắp chăn vải mỏng.
Mao đành chấp nhận đề nghị của tôi:
- Được tôi sẽ thử một lần xem sao.
Vợ Trụ Đông chuẩn bị thuốc. Tôi kiểm tra thành phần của thuốc và khẳng định thuốc là vô hại. Vì thứ thuốc này không thể mang đi kiểm tra mức độ an toàn kỹ luỡng ở Ban dược của Phó Liêm Phương, nên tôi đã cẩn thận thỏa thuận với Ban y tế trung ương ở Bắc Kinh. Cuối cùng thì bốn thang của thứ thuốc này đã sắc ra được một loại nước đắng mầu nâu sẫm. Một thang được niêm phong và cất giữ cho Ban y tế trung ương. Sau đó tôi và Trụ Đông lấy mình làm những con thỏ thí nghiệm để nếm thử loại thuốc này. Khi không thấy có triệu chứng ngộ độc nào, thì Mao mới uống thứ thuốc đó.
Mao đã trải qua một đêm khổ sở, mồ hôi vã ra dưới lớp chăn dày và hôm sau ông vẫn không hề thấy đỡ. Bác sĩ Lưu thuyết phục Mao tiếp tục dùng thuốc.
Vào buổi sáng ngày thứ ba, bác sĩ Lưu bắt mạch và khám lưỡi Mao. Ông nghĩ Chủ tịch đã khỏi bệnh.
Nhưng Mao lại nghĩ khác. Ông vẫn ho và sổ mũi. Những triệu chứng vẫn như cũ và ba ngày tiếp theo vẫn không có một dấu hiệu bình phục nào.
Bác sĩ Lưu kinh ngạc khám lại cho Chủ tịch lần nữa. Lần này ông kết luận nguyên nhân bệnh tật của Mao không phải do cảm lạnh, mà là suy nhược nói chung. Ông kê một toa thuốc gồm hồn hợp nhân sâm và những thảo dược truyền thống của Trung quốc để tạo ra cho Mao sự cân bằng về dụ trữ dinh dưỡng. Đó là những loại thảo dược thông thường theo cách đĩều trị của Trung quốc, và mặc dù tôi nghi ngờ về việc cần cung cấp thuốc bổ thêm cho Mao, nhưng tôi chẳng có ý kiến ngăn cản việc kê dơn. Ngay cả Ban y tế trung ương cũng đồng ý việc này, tôi và Trụ Đông lại tiếp tục làm những con thỏ thí nghiệm.
Tình trạng sức khỏe của Mao vẫn chẳng khá hơn chút nào trước sự kinh ngạc của vị bác sĩ kia. Tôi cho rằng, một nơi có khí hậu ấm áp hơn sẽ giúp Mao và tôi cũng chẳng tin vào phỏng đoán của Trụ Đông là khí hậu sẽ thay đổi hàng ngày. Cuối cùng tôi đề nghị Mao trở lại Bắc Kinh. Ông đồng ý và đầu tháng tám, khi chúng tôi chưa tới Trung Nam Hải thì sức khỏe của ông đã khá hơn nhiều.
Phần 3
Chương 23
Mao muốn tôi là người đầu tiên chứng kiến chiến dịch chống những người thiên hữu sau khi chúng tôi trở về Bắc Kinh. Ông nói với tôi: Đồng chí cứ như là đạo sĩ, ẩn dật nơi rừng sâu núi thẳm. chẳng biết gì sự đời. Vì vậy, ông đề nghị tôi ghé thăm bệnh viện đa khoa Bắc Kinh và báo cáo tình hình ở đó cho ông hay.
Trước đây, Hiệp hội y khoa Bắc Kinh là một bệnh viện có nhiều khoa nhất ở Trung quốc, có đội ngũ bác sĩ giỏi nhất và được trang bị hiện đại nhất. Tuy nhiên, từ năm 1949, bệnh viện này được tổ chức lại hoàn toàn mới theo kiểu Liên-xô. Người ta đã thay thế một số bác sĩ nổi tiếng và sự điều hành được đặt dưới sự kiểm soát của đảng. Bí thư thứ nhất Trương Trí Thường nắm toàn quyền lãnh đạo bệnh viện. Đảng coi ông như một bác sĩ, vì trong chiến tranh ông đã được những bác sĩ quân y cộng sản đào tạo. Nhưng những bác sĩ được đào tạo ở các nuớc phương Tây làm việc trong bệnh viện tất nhiên không công nhận ông. Trương là một người thô lỗ, vô học, một nhà cách mạng lão thành hồi đó được xem là có đủ trình độ.
Những bác sĩ thực sự, trong đó có cả những bạn bè và thầy dạy cũ của tôi, lo ngại trước những thay đổi về tổ chức. Họ phàn nàn rằng, ông bộ trưởng Bộ y tế, cơ quan có trách nhiệm quản lý chung các bệnh viện, đã can thiệp vào công việc nội bộ của họ. Một số bác sĩ khi được khuyến khích phê bình trước công luận trong thời gian phong trào Trăm hoa đua nở đã bày tỏ suy nghĩ của họ. Tôi đã viết báo cáo về những ưu tư của họ, Mao bác bỏ sự trình bày của tôi, ông khiển trách tôi đã nhận xét quá hấp tấp và lại cử tôi đi tìm hiểu tiếp.
Tôi đã tham dự một cuôc họp phê phán các thành phần thân hữu trong bệnh viện. Mục tiêu phê phán chủ yếu trước hết là hiệu trưởng trường Đại học y khoa Lý Tống Ân và giám đốc bệnh viện Lý Khắc Hồng.
Những người phê phán hầu hết là các nhân viên trẻ ở phòng thí nghiệm và những y tá chẳng có khái niệm gì về việc điều hành một bệnh viện hiện đại. Vì tôn trọng những đồng nghiệp già, nên những bác sĩ trẻ không tham gia chiến dịch này. Cả hai bác sĩ họ Lý đều bị buộc tội đã âm mưu khước từ sự lãnh đạo của đảng và lạm dụng quyền hành can thiệp vào những công việc nhân sự, tài chính và hành chính. Mọi người sửng sốt và tức giận.
Tuy tôi có cảm tình với hai vị bác sĩ này, nhưng tôi cho việc phê bình đảng một cách thẳng thắn của họ là sự ngu xuẩn. Tôi đã làm việc cho Mao từ ba năm nay và tôi vẫn kính trọng ông. Tôi chẳng cần phải kiềm chế hoặc nuôi ý nghĩ chống lại ông, vì quan điểm của Mao cũng là của tôi.
Saư cuộc họp, tôi tới thăm bác sĩ Trương Tiểu Kiều, một trong nhưng bác sĩ giàu kinh nghiệm mà đáng lẽ đã khám bệnh cho Mao ở Bắc Đới Hà. Ông cũng là người tỉnh Hồ Nam như Mao. Trước giải phóng ông là hiệu trưởng trường Đại học y khoa Yale và được coi là một trong những bác sĩ giỏi nhất Trung quốc. Hồi đầu năm bác sĩ Trương cũng đã lên tiếng công kích và phê bình bí thư đảng ủy nhà trường vì ông này đã độc đoán điều động các bác sĩ ở khoa của Trương. Vì vậy chiến dịch chống những người thiên hữu đã làm cho bác sĩ Trương vô cùng lo lắng. Ông nói: Tôi đã nói quá nhiều, đó thật là một sai lầm nghiêm trọng. Lẽ ra, tôi nên im lặng. Ông khẩn khoản xin tôi tiến cử ông đến một nơi tin cậy, ý ông muốn ám chỉ Mao. Mao cười khi tôi báo cáo với ông về chuyến viếng thăm bệnh viện lần thứ hai của tôi, vì ông nghĩ rốt cuộc tôi đã hiểu được tình hình. Quyền lực của đảng đều được thể hiện trong những vấn đề nhân sự, tài chính và hành chính. Sau hàng năm ròng nội chiến với vô số người hy sinh, chúng ta mới giành được chính quyền. Vậy mà giờ đây bọn cánh hữu lại muốn đoạt lấy chính quyền của chúng ta. Nhưng ông đã tha thứ cho Trương Tiểu Kiều: Bác sĩ Trương không phải là người cánh hữu. Đồng chí ấy chỉ dại dột và để cho người khác lợi dụng Trương Tiểu Kiều không bị truy bức vì hành động của ông.
Các bác sĩ Lý Tống Ân và Lý Khắc Hồng ít gặp may hơn. Vài tuần sau chuyến viếng thăm của tôi, họ đã bị quy là thiên hữu và bị đày đi cải tạo ở nông thôn. Lý Khắc Hồng, một trong những bác sĩ giỏi nhất Trung quốc, phải làm người thủ thư trong một trường y khoa nhỏ ở Vân Nam, nơi tận cùng miền Tây Nam Trung quốc. Bác sĩ Lý Tống Ân cũng là một bác sĩ chuyên môn nổi tiếng, thì bị đày đi Quí Châu xa xôi. Cả hai đã chết sớm sau khi bị đi đày một thờì gian ngắn.
Ngay cả khi chiến dịch chống nhưng người thiên hữu lan rộng, tôi vẫn chưa lường được tầm mức của sự kiện này. Tôi không biết bao nhiêu người đã bị kết án đi cải tạo lao động và như thế có nghĩa họ sẽ phải chịu đựng những cục hình gì. Theo Mao nói, thậm chí tôi có cảm tưởng rằng Chủ tịch rất độ luợng đối với kẻ thù của ông và muốn dành cho họ một cơ hội để hối hận. Khi Mao cho tôi biết rằng ông không nghĩ đến việc hành quyết những đối thủ của ông, thì tôi tin ông ngay. Tôi đã ủng hộ Mao và chiến dịch chống những người thiên hữu. Mao tốt, đảng cộng sản tốt và cà hai đã cứu Trung quốc.
Mãi tới năm 1960, nghĩa là ba năm sau, khi bộ trưởng ngoại giao Trung quốc Trần Nghị kể cho tôi người ta đã quy cho nửa triệu người là thiên hữu. tôi mới vỡ ra rằng chiến dịch đã biến bao người vô tội trở thành nạn nhân. Tôi ái ngại nhất là ở các cơ sở sản xuất người ta phải hoàn thành một chỉ tiêu nhất định. Môi đơn vị phải quy được 5% thành viên của mình là thuộc thành phần cánh hữu, bất kể đúng hay sai.
Đến bây giờ tôi mới rõ, bao nhiêu người đã bị mất việc và bị đẩy vào những trại cái tạo lao dộng. Thực tế thì Mao không ra lệnh tử hình những đối thủ của ông, những sự hành hạ về thể xác lẫn tinh thần của những biện pháp cải tạo của ông thường dẫn đến cái chết dần, chết mòn và đầy đau đớn.
Cho đến khi có lần bản thân tôi phải lao động cật lực suốt hai tuần liền, tôi mới hiểu được cuộc sống trong trại cải tạo. Chẳng hạn, đàn ông chỉ vác được tối đa là 20 Jin (đơn vị đo khối lượng của Trung quốc) đá đã buộc phải khuân tới 40 Jin. Nếu họ gục xuống vì kiệt sức, thì người ta ép họ phải nhận tội của họ và khai ra những người khác.
Đáng lẽ tôi phải biết điều đó rõ hơn mới đúng. Chính Mao đã nhiều lần tiết lộ với tôi Một lần ông nói:
- Nếu chúng ta tính gộp tất cả những tên địa chủ, phú nông, những tên phần cách mạng, những thành phần không trong sạch và thành phần cánh hữu, thì ít nhất là 30 triệu người. Nếu chúng ta gom tất cả bọn chúng vào một chỗ duy nhất, chúng sẽ lập ra được cà một quốc gia mà mọi vấn đè rắc rối đều có thể từ đó mà ra. ở các cấp ủy đảng và các cơ quan chính quyền riêng lẻ, chúng sẽ chỉ là một thiểu số ít ỏi. Với dân tộc 600 triệu dân của chúng ta, thì chúng chỉ là một phần hai mươi. Vậy thì chúng ta chẳng cần phải sợ. Tuy nhiên, một số cán bộ đảng không nhận ra điều này. Tôi đã khuyên họ rằng, trong trường hợp họ bị tấn công, thì hãy đứng vững, để cho vấn đề tự nó được giải quyết. Một số người hầu như không chịu được khi bị tấn công và thậm chí một số còn muốn bỏ đảng và chạy sang hàng ngũ bọn cánh hữu. Bây giờ chúng ta đã lột mặt nạ của tất cả bọn chúng và chính chúng ta lại tấn công chúng.
Khi đó, lần đầu tiên tôi được nghe con số 30 triệu kẻ thù nhân dân - một con số lớn không thể tưởng tượng được. Nhưng đồng thời, tôi cũng biết rằng Mao ít khi nói bừa. Con số của ông hẳn là từ các nguồn tin đáng tin cậy. Sau này tôi phòng đoán con số đó còn nhiều hơn thế.
Có cả bằng chứng về việc Mao coi sinh mạng của đồng bào ông chẳng có nghĩa lý gì ông thường nói: Chúng ta đã quá đông dân. Chúng ta có thể loại bớt một số. Điều đó có sao đâu?
Tôi vui mừng vì hồi đó tôi chẳng hiểu Mao. Mừng vì tôi chẳng thấy hết được những gì chất chứa trong chiến dịch thanh trừng của ông, mừng vì tôi chẳng biết gì về sự khủng khiếp mà những người trí thức khác phải chịu đựng và biết bao người đã phải bỏ mạng. Tôi đã bao lần tìm cách thoát khỏi Mao, còn ông lại muốn kéo tôi trở lại. Báy giờ tôi tuyệt vọng ngồi trong bẫy. Tôi có thể làm gì được, nếu tôi biết những gì đang xảy ra bên ngoài cái kén bảo vệ của tôi?
Theo lối nói của người Trung quốc là nande hum, có nghĩa là ra vẻ ngớ ngẩn không phải lúc nào cũng đơn giản, ngu si có khi lại hưởng thái bình. Ngày nay do nhìn nhận như vậy, tôi biết rằng hồi đó tôi thật ngớ ngẩn và cần phải ngớ ngẩn. Đó là cơ hội để sống còn duy nhất của tôi.
Phần 3
Chương 24
Vào tháng 11 năm 1957 Liên-xô kỷ niệm 40 năm ngày lập nước. Nhân dịp này Khơ-rút-sốp mời các vị lãnh đạo các đảng cộng sản từ khắp thế giới sang Liên-xô. Hồi đó, Mao Chủ tịch đã 63 tuổi và mới một lần duy nhất rời Trung quốc là cuối năm l949, ngay sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa khi ông và Stalin đàm phán về Hiệp định Xô- Trung ở Moskva.
Mao vui mừng vì được trở lại Moskva. Chiến dịch chống những người thiên hữu vẫn diễn ra tốt đẹp và Chủ tịch rất phấn khởi. Toàn dân tỏ ra như một và tin tưởng chưa từng thấy. Chủ nghĩa xã hội được đưa về tới cả nông thôn lẫn thành thị, cuộc cách mạng tiến triển thuận lợi. Mao có thể tới Mát-xcơ-va với danh nghĩa là một người thắng cuộc, một người nước ngoài với tư cách một nhà lãnh đạo lâu năm nhất của thành trì cộng sản, một người dẫn đầu một đoàn đại biểu khổng lồ, là một đối thủ và là một người tuyên chiến đối với Khơ-rút-sốp.
Chúng tôi lên đường vào ngày 2 tháng 11 Tôi lo chuẩn bị về y tế cho chuyến đi.
Phó ban y tế trung ương đảm nhận việc chăm lo sức khoẻ thành viên trong đoàn đại biểu, trong khi đó tôi đến Moskva với tư cách bác sĩ riêng của Chủ tịch.
Giang Thanh đề nghị cho cả Lưu Huệ Mẫn đi theo, người đã điều trị cho Mao ở Thanh Đảo. Như thế có thể đến đáp sự phục vụ trước đây của ông ta và ngoài ra sự hiện diện của ông ở Mát-xcơ-va cũng chứng tỏ Chủ tịch là một người khuyến khích y học Trung quốc. Sự cảm kích lúc đầu của bác sĩ Lưu nhanh chóng chuyển thành lo ngại. Ông sợ sẽ bị mất mặt nếu ông bị cảm lạnh ở Moskva. Thật là nhục nếu Chủ tịch bị ốm và ngay cả bác sĩ điều trị cho Chủ tịch cũng bị ốm. Bác sĩ Lưu cũng sợ những chiếc áo bành-tô đồng phục nhồi bông phát cho mọi thành viên trong đoàn đại biểu sẽ không đủ ấm, ông muốn có một áo bành-tô lông, một cái mũ lông và cảm thấy nhẹ nhõm ra mặt khi Diệp Tử Long, người phụ trách hậu cần đáp ứng yêu cầu của ông.
Thế rồi, ông Lưu lo lắng đến sức khỏe của Mao. Ông phải được trang bị đầy dù để đề phòng tất cả những trường hợp có thể xảy ra, vì ở Liên-xô không có những loại thảo được mà Lưu cần khi Chủ tịch bị ốm.
Những thảo dược của ông chất đầy ba cái thùng lớn, đến nỗi mùi thảo dược hăng hắc bốc ra từ những chiếc thùng đã được niêm phong đó. Nhưng bác sĩ Lưu vẫn nhất quyết đòi mang những thùng đó lên máy bay.
Chúng tôi thỏa thuận rằng, bác sĩ Lưu chỉ mang theo máy bay một lượng thảo dược đủ dùng cho một tuần, còn ba chiếc thùng cũng nhu chiếc nồi bằng đất sét để sắc thuốc sẽ được gửi sang Mát-xcơ-va trước trong một chuyến tàu chở đầy tặng phẩm.
Cuối cùng chúng tôi cần một y tá để chăm sóc Mao. Tôi chọn vợ Hứa Đạo là Ngô Từ Tuấn, người y tá có khả năng nhất và từng trải nhất mà tôi biết. Tuy nhiên Diệp Tử Long muốn cử một trong những y tá mà năm ngoái đã đưa Giang Thanh sang Moskva. Nhu vậy sẽ rẻ hơn, vì đảng phải lo quần áo mùa đông cho các thành viên trong đoàn, còn người y tá hộ tống Giang Thanh trước đây đã có sẵn quần áo. Nhưng ngược lại, cô ta không được đào tạo về y khoa. Giang Thanh ủng hộ tôi một cách bất thường: một y tá tốt cho Mao Chủ tịch quan trọng hơn nhiều so với việc tiết kiệm nhỏ nhặt. Thế là Ngô Từ Tuấn được bổ nhiệm vào nhiệm vụ này.
Liên-Xô cũng cử một bác sĩ để chăm sóc sức khoẻ Chủ tịch trên đường tới Mát-xcơ-va.
Tôi phải tiếp đãi ông khách này trong thời gian ngắn ngùi mà ông lưu lại ở Bắc kinh. Cô y tá Ngô Từ Tuấn và tôi đã dẫn ông ta tới nhà hàng Quán Tư Đắc nổi tiếng về món vịt Bắc Kinh quen thuộc. Ông bác sĩ này tỏ ra rất thích những món ăn cùng như thứ rượu mạnh Mao Đài.
Khi tôi đưa ông về sứ quán Liên-Xô. Ông đã chếnh choáng và mừng rỡ khi tôi đưa thêm cho ông một chai Mao Đài nữa.
Người Nga dành cho chuyến bay của chúng tôi hai chiếc máy bay TU 104.
Mao, Tống Khánh Linh, ông bác sĩ người Nga và tôi đi trên một chiếc, những người còn lại của phái đoàn đại biểu khổng lồ của Trung quốc đi chiếc thứ hai. Các chiêu đãi viên hàng không mang tới cho chúng tôi món trứng cá muối, cá, khoai tây rán ăn kèm với bánh mì và trong các chặng nghỉ để tiếp nhiên liệu giữa đường là đủ các loại xúc-xích được cắt lát. Mao chẳng cần giấu diếm mối ác cảm của ông đối với những món aă của người Nga. Ngay lúc mới khởi hành, ông bác sĩ Nga đã uống rất nhiều vốt ka, ông nói về tác hại của hút thuốc và lợi ích của uống rượu. Chặng còn
lại của chuyến bay ông dành cho giấc ngủ để tỉnh rượu.
Nikita Khơ-rút-sốp đón chúng tôi ở sân bay. Cùng đi với ông có Nikolai Bulganin, một người có bộ râu xồm đáng kính, có vẻ mặt u sầu và người bạn cũ của tôi là Anastas Mikoyan. Mikoyan chào đón tôi rất nồng nhiệt bằng tiếng Nga, nhưng không có phiên địch nên tôi chẳng hiểu gì cả. Hình như ông ta nói gì đó về phương pháp điều trị bằng châm cứu mà tôi đã giới thiệu cho ông trước đây. Người phụ nữ duy nhất của Ban tiếp tân là bà bộ trưởng bộ văn hóa Ekaterina Furzeva, một phụ nữ trông hấp dẫn trạc 50 tuổi. Không hiểu sao mà bà đi đi lại lại có vẻ tất bật.
Phái đoàn Trung quốc là phái đoàn quan trọng nhất trong 64 đoàn đại biểu.
Khơ-rút-sốp tiếp Mao rất thân mật và đầy vẻ kính trọng. Ông đích thân đưa Mao vào nơi làm việc của mình trong điện Kreml và mời Mao sau hội nghị hoặc là đi nghỉ ở một nhà nghỉ tại Mát-xcơ-va, hoặc đến bãi tắm Sotschi bên bờ Biển Đen. Mao từ chối và ngay từ đầu đã tỏ ra thận trọng và lạnh lùng đối với Khơ-rút-sốp. Ông vẫn còn tức việc Khơ-rút-sốp đã phê phán Stalin. Gần như ngay sau khi chúng tôi đặt chân đến Mát-xcơ-va, Mao đã bắt đầu châm chọc người lãnh đạo đảng cộng sản Nga này. Khi chúng tôi đi từ sân bay vào thành phố, cũng giống như tôi, Mao nhận thấv dân chúng trên đường phố có vẻ chán chường và cau có. Ngược hẳn với ở Trung quốc, nơi mà lòng nhiệt tình sau cách mạng vẫn hừng hực dâng cao. Mao nói: Với chiến dịch chống Stalin, Khơ-rút-sốp đã đánh mất đi sự ủng hộ của dân chúng. Chẳng có gì lạ khi người dân ở đây đã mất hết nhiệt tình.
Người ta chuẩn bị cho Mao và những người tùy tùng của ông cực kỳ kỹ lưỡng.
Đó là một lâu đài, trước kia là nơi ở của hoàng hậu Katharina trước đây với những hành lang tạo thành những mê cung rộng lớn và những căn phòng gọn gàng, được trang trí bằng những đồ cổ cực quí. Dưới sàn là những tấm thảm nhung dày, trên trần cao có treo những chùm đèn sáng lấp lánh, còn những bức tường được trang trí bằng những bức tranh chân dung. Mao ở trong căn phòng lộng lẫy nhất là phòng ngủ của hoàng hậu Katharina. Căn phòng đó khá rộng và được bày biện tuyệt đẹp. Lần này tuy ông không mang theo chiếc giường riêng của ông, nhưng ông vẫn khăng khăng dùng chiếc bô riêng của ông, mặc dù đã có cầu tiêu xả nước ngay bên cạnh phòng tắm.
Diệp Tử Long, Vương Kính Tiên, Lâm Khắc, Lý ẩm Kiều, vệ sĩ Tiểu Trương, hai người dầu bếp và tôi cùng ở với Mao trong lâu đài. Những thành viên còn lại trong đoàn đại biểu, trong đó có nhiều vị lãnh dạo đảng và chính phủ như Tống Khánh Linh, Đặng Tiểu Bình. Bành Chân. Bành Đức Hoài, Lỗ Đình Nghị, Dương Thượng Côn, Trần Bá Đạt, Hồ Kiều Mục cũng như những người hộ tống khác thì ở các khách sạn hoặc chia nhau ở trong sứ quán Trung quốc. Tôi hầu như chẳng gặp họ. Lâm Khắc và tôi cùng ở trong một căn phòng thuộc một phần lâu đài. Tuy căn phòng này không lộng lẫy như phòng của Mao, nhưng trông nó cũng rất sang trọng. Người ta luôn luôn mang tới cho chúng tôi nào táo, cam, sô-cô-la, nước cam, nuớc khoáng vâ thuốc lá.
Mao rất phấn khích, sôi nổi và kích động. Tuy ông chẳng thèm để ý đến sự xa hoa bao quanh ông, nhưng lại lưu tâm đến thái độ ân cần mà người ta dành cho ông và các đại biểu Trung quốc. Ông so sánh rất sắc xảo với những gì ông đã chứng kiến vào năm 1949, khi ông sang hội đàm với Stalin. Ông châm biếm với nụ cười khinh bỉ:
- Các đồng chí thấy bây giờ người ta tiếp đãi mình như thế đấy. Ngay tại đất nước cộng sản này, người ta cũng phân biệt rõ ai là người có thế lực và ai là người yếu hèn. Đúng là bọn đua đòi!
Tôi không thể tin được là Mao có thể nặng lời như vậy.
Chúng tôi viếng lăng Lênin và đặt vòng hoa trước quan tài kính của Lênin và Stalin một cảm giác thật xúc động. Thi hài của hai nhà lãnh đạo Liên-Xô trông nhăn nhúm và khô khốc. Sau này tôi được biết chân tay của họ đã bị thối rữa và được thay thế bằng sắp. Hồi đó tôi không thể ngờ rằng 20 năm sau tôi phải điều hành một nhóm bác sĩ bảo quản thi hài của Mao.
Mao tỏ ra ít để tâm đến văn hóa Nga. Ông ngồi ăn một mình, thậm chí còn tách ra khỏi các thành viên trong đoàn đại biểu Trung quốc. Trong mỗi bữa ăn. Ông có thể thoải mái chọn các món ăn từ vô số các món ăn Nga và Trung quốc. Người ta đã điều cho ông hai đầu bếp Nga và một trong hai dầu bếp riêng của ông cũng rất thành thạo nghệ thuật nấu ăn phương Táy. Tuy vậy, Mao vẫn chỉ ăn những món ăn của Hồ Nam - quê hương ông - do người đầu bếp mà ông ưa thích nấu. Tôi cũng hiểu được sự ưu ái mà ông dành cho các món ăn Trung quốc, bởi vì chúng tôi cũng không thấy ngon miệng khi phải ăn những món ăn nặng nề của Nga. Bởi vậy, khi ông mời tôi đến ăn cơm vào buổi tối. tôi đã ăn rất thích thú, mặc dù tôi mới vừa ăn các món ăn Nga. Mao trêu tôi: Tôi không nghĩ đồng chí vừa mới ăn xong.
Chuyến chu du duy nhất của Mao vào đời sống vãn hóa Nga lại là một thất bại khó chịu. Khơ-rút-sốp dẫn ông đi xem buổi trình diễn vở Hồ Thiên Nga. Tôi cũng đi theo và ngòi với hai chính trị gia này ở lô riêng của Khơ-rút-sốp. Khi hồi thứ hai bắt đầu, chúng tôi mới gặp nhau. Từ trước tới nay Mao chưa bao giờ xem biểu diễn ba-lê của phương Tây và chưa được ai chuẩn bị trước, cho nên ngay từ đầu ông đã chán ngán. Ông nói với Khơ-rút-sốp:
Tôi chịu không nhảy được như vậy? Thế còn đồng chí? Nhà lãnh đạo Liên-Xô cũng quả quyết là ông không thể nào nhảy bằng đầu các ngón chân được. Hết hồi thứ hai Mao nói ông muốn về. Tại sao trong khi nhảy họ lại nhún trên các đầu ngón chân nhỉ? Thật là nực cười. Tại sao họ không nhảy như những người bình thường? Tôi đoán rằng, Mao cố tình không đánh giá cao nền văn hóa Nga. Ông khoái chí khi chê được Khơ-rút-sốp và những khiếm khuyết của Liên-Xô.
Tới khi chúng tôi đến thăm sinh viên Trung quốc đang học ở trường đại học tổng hợp Mát-xcơ-va, thì mới thấy Mao có vẻ quan tâm đôi chút. Bữa ăn trong các nhà ăn sinh viên ở đây ngon hơn nhiều so với cơm rau đạm bạc bình thường của sinh viên ở Trung quốc. Các cư xá sinh viên ở Mát-xcơ-va cũng đầy đủ tiện nghi hơn hẳn ở Trung Quốc. ở đây cứ hai sinh viên ở trong một phòng. Còn ở Trung quốc thì căn phòng này đủ cho tám người ở. Mao nói: Chúng ta không thể so bì được.
Thường thường, ban ngày ông tham gia các cuộc gặp mặt. Tối đến ông ở trong phòng một mình. Vì vậy, các thành viên trong ban tham mưu của ông có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Có lần, tôi và Lâm Khắc đi xem chương trình biểu diễn ca nhạc dành cho các đoàn đại biểu nuớc ngoài mà chúng tôi rất ưa thích. Những buổi tối, chúng tôi thường vào rạp chiếu phim trong lâu đài để xem những cuốn phim của Mỹ nói về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Bộ phim mà chúng tôi thích là điệu van-xơ vĩ đại. Hán Tự, nhân viên bộ ngoại giao, sau này ông làm đại sứ ở Hoa Kỳ, sợ việc chúng tôi thích phim Mỹ sẽ xúc phạm nước chủ nhà. Do đó, chúng tôi đã không xem phim Mỹ nữa và chọn xem một bô phim Liên-Xô. Tôi bát đầu xem bộ phim mới quay theo cuốn tiểu thuyết Sông đồng êm đềm của Sô-lô-khốp nói về thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và cuộc Cách mạng tháng Mười. Bởi vì bộ phim này chẳng có lời dịch bằng tiếng Trung quốc cũng như tiếng Anh và tôi cũng chẳng hiểu tiếng Nga, nên tôi đã nản chí không xem nữa.
Đoàn chúng tôi được chủ nhà đặc biệt quí trọng. Chúng tôi mang theo vô số tặng phẩm: một chiếc tàu chạm bằng ngà voi rất quí, những bình hoa bằng gốm, những lá cờ của quốc tế cộng sản làm bằng vàng là lá dành cho các cán bộ cao cấp và một số lượng lớn thuốc lá Trung quốc và rượu Mao Đài dành cho các nhân viên. Ngay sau khi đến nơi. chúng tôi bắt đầu phân phát tặng phẩm. Rồi người ta gõ cửa phòng chúng tôi vào ban đêm để xin thêm quà.
Những tặng phẩm quí đã làm cho người ta ngộ nhận rằng, các bác sĩ Trung quốc rất có uy tín và có thu nhập cao. Có lẽ đó cũng là nguyên nhân khiến một cô hầu phòng đã ngỏ ý với tôi. Lâm Khắc thấy người cô gái này đặc biệt cẩn thận khi dọn giường cho tôi. Sau đó qua anh phiên dịch Nhan Minh Phục của chúng tôi, cô cho tôi biết là cô ta muốn cặp bồ với tôi và thậm chí còn sẵn sàng theo tôi về Trung quốc. Nhan Minh phục thay mặt tôi đã từ chối và đoàn chúng tôi được một trận cười vui vẻ.
Khi thời gian ở Moskva của chúng tôi sắp hết, Lại Chu Liệt, trưởng phòng chi tiêu đặc biệt đề nghị tôi cùng với một phiên dịch của sứ quán Trung quốc đến cảm tạ ông bác sĩ đã tháp tùng Mao đến Mát-xcơ-va. Ông bác sĩ này có một căn hộ trải thảm rộng rãi, bày biện đồ gỗ khá dẹp.
Ông mừng rỡ khi chúng tôi tới thăm và tiếp đãi rất ân cần. Khi chúng tôi trao quà tặng cho ông gồm hai chai Mao Đài và một số thứ lặt vặt, ông có vẻ bối rối, đi tới đi lui.
Cuối cùng, ông rút ra ba tờ một trăm rúp đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ. Tôi khó chịu và không muốn nhận tiền, nhưng Lại giật tiền từ tay tôi và nhét vào túi. Trên đường về Lại giải thích cho tôi là tất cả những tặng phẩm dành cho phái đoàn Trung quốc là sở hữu của nhà nuớc. Vì Lại là người bần tiện, nên tôi chắc rằng số tiền đó hắn sẽ đút túi riêng.
Vào ngày mồng 7 tháng 11 có cuộc diễu hành nhân dịp 40 năm ngày Cách mạng tháng Mười. Tất cả chúng tôi đều tham dự. Mao đứng với Khơ-rút-sốp trên khán đài của lăng Lê nin. Tôi đứng ngay cạnh lăng. Bên cạnh tôi là tổng bí thư đảng cộng sản Estonia. Ông đã ở Anh lâu năm và nói tiếng Anh tuyệt vời. Ông nói rằng, ông hy vọng sẽ có ngày ông được đến Trung quốc. Trung quốc là một đất nước xa xôi và huyền bí.
Các cuộc diễu hành của chúng tôi vào ngày mồng một tháng 5 và ngày mồng một tháng 10 cũng bắt chước Liên-xô. Trong khi đó, tôi không thể nán lại xem các cuộc duyệt binh tốn kém. Ngay Quảng trường Đỏ có con đường lát đá, với những tháp đường và các cung điện cũng chẳng hấp dẫn được tôi. Hai năm sau, quảng trường Thiên An Môn được mở rộng nhân dịp kỷ niệm 10 năm Cách mạng Trung quốc. Tôi nghĩ rằng Trung quốc đang chạy đua với Liên-xô xây dựng một quảng trường lớn nhất thế giới.
Mặc dù bất đồng với Khơ-rút-sốp, sự kiện Hội nghị Mát-xcơ-va và Bản luyên bố chung cũng tác động tới Mao. Mao nói.
Năm 1848 Mác và ăng ghen đã công bố tuyên ngôn cộng sản và phát động phong trào cộng sản toàn câu. Bây giờ, hơn 100 năm sau, bản Tuyên bố chung ở Moskva đã đúc kết những kinh nghiệm của phong trào này và vạch ra những triển vọng cho tương lai. Mao lạc quan nhìn về tương lai và cũng tư cảm thấy phấn khởi qua những tiên đoán trong bài phát biểu của ông. Trước đông đảo các đại biểu. Mao tiên đoán rằng, trong vòng 15 năm tới, Liên-Xô sẽ vượt Mỹ về công nghiệp luyện kim và những ngành công nghiệp quan trọng khác. Cũng trong thời gian đó, Trung quốc sẽ vượt Anh. Mao quả quyết trong vòng 10 nam tới, hệ thống kinh tế cộng sản sẽ vượt hết các nước tư bản và tình hình thế giới sẽ chín muồi cho một cuộc cách mạng cộng sản.
Mao coi ngành luyện kim là chủ đạo, quyết định việc phát triển kinh tế và cho rằng Trung quốc cần phải tăng sản luợng luyện kim. Ông chấp nhân cuộc chiến tranh lạnh, chính sách của bộ trưởng ngoại giao Mỹ Đa-lét và những căng thẳng quốc tế: Những căng thẳng quốc tế chỉ có lợi cho chúng ta, chóng thống nhất đất nước chúng ta. Chừng nào những kẻ khác còn mài kiếm, chừng ấy tôi chưa thể yên tâm.
Sau này, qua hồi ký của Khơ-rút-sốp tôi biết rằng. Ông ta rất lo ngại trước bài phát biểu vô trách nhiệm của Mao vào tháng 11 năm 1957 ở Mát-xcơva. Mao nhìn thế giới như ếch ngồi đáy giếng. Việc òng quả quyết trong vòng 15 năm tới các nước cộng sản sẽ vưọt các nuớc tư bản là hoàn toàn thiếu cơ sở. Và việc tán thành tiếp tục duy trì tình hình cảng thang trên thế giới trong thời đại nguyên tử là một sự mạo hiểm. Bài phát biểu của Mao cũng chẳng hơn gì những câu chuyện phiếm rỗng tuyếch trong các cuộc tán gẫu ban đêm của chúng tôi. Ông đang ôm ấp một chiến lược mới. Sáng kiến đại nhảy vọt - một chiến dịch mang tính chất chính trị bất hạnh nhất của Mao đã ra đời.
Phần 3
Chương 25
Hội nghị Moskva đã tạo đà cho Mao. Ngày 20 tháng 11 năm 1957, trong khi chúng tôi rời Liên-xô, ông đã soạn thảo một chương trình hành động nhằm nâng cao sản xuất. Vì ban lãnh đạo đảng là chướng ngại vật chính cho kế hoạch này, nên trước hết ông phải tìm sự ủng hộ của ban lãnh đạo đảng.
Sau khi trở về, Mao và Giang Thanh ở Hàng Châu hai tuần. Sau đó chúng tôi cùng bay đi Nam Ninh dự hội nghị đảng ở khu tự trị Quảng Tây Ngay trong chuyến đi, Mao đã tìm cách thu phục các cán bộ đảng để họ ủng hộ kế hoạch của ông.
Châu Tiểu Châu bí thư thứ nhất tỉnh Hồ Nam đã đón tiếp Mao trong lúc nghỉ giữa chừng đề tiếp nhiên liệu ở Trường Sa. Nhân dịp này Mao chọc tức người lãnh đạo đảng ở quê ông bằng câu hỏi: Tại sao sản lượng nông nghiệp ở Hồ Nam không tăng? Tại sao nông dân ở Hồ Nam chỉ thu hoạch được một vụ trong năm?
Châu Tiểu Châu trả lời, điều kiện khí hậu ở Hồ Nam chỉ cho phép thu hoạch một vụ duy nhất. Mao phản đối và nêu ra tỉnh Triết Giang, những điều kiện khí hậu ở đó cũng tương tự mà vẫn thu hoạch được hai vụ một năm. Tại sao ở Hồ Nam lại không như vậy - Mao nói tiếp.
Cuộc đối thoại làm Châu Tiểu Châu khó chịu, ông không biết phải trả lời thế nào.
Mao nói:
- Đồng chí không chiu học kinh nghiệm của những vùng khác. Vấn đề là ở chỗ đó.
Châu Tiểu Châu ngoan ngoãn trả lời: Từ giờ chúng tôi sẽ học hỏi.
- Học hỏi ở đây nghĩa là thế nào? Như vậy thì đến giờ đồng chí cũng không hơn được đâu. Đồng chí có thể đi.
Mao cầm một quyển sách lên đọc. Châu Tiểu Châu nhã nhặn cáo từ những người có mặt ở đó rồi quay lại hứa với Mao:
- Chúng tôi sẽ cố gắng làm hai vụ ngay lập tức.
Khi Châu Tiểu Châu đi khỏi, Mao bực tức ném quyển sách sang một bên và nói gay gắt:
- Đồng chí ấy muốn thử làm hai vụ mà chẳng chịu học hỏi kinh nghiệm của người khác, thì chẳng đi tới đâu cả.
Trong những tháng tiếp theo cũng đã có những cuộc đối thoại tay dôi tương tự giữa Mao và những cán bộ đảng có vẻ dè đặt của các tỉnh và trong các cuộc họp đảng cũng vậy. Dần dần, Chủ tịch đã thành công, kể cả những người nhút nhát cũng hứa sẽ ủng hộ con đường ảo tuởng của ông.
Tại hội nghị đảng ở Nam Ninh sau đó, ông đã làm một cuộc thử nghiệm vĩ đại đưa toàn đảng đi theo đường lối của ông.
Nam Ninh là một thành phố có kính, nhiều màu sắc vui mắt và sạch sẽ. phố xá ở đây hẹp, ban công ở các tầng trên chìa ra che cho các cửa hiệu nhỏ và khách bộ hành trước những cơn mưa thường ập tới. Vùng này ấm, ẩm ướt và xanh tươi quanh năm. Ngay cả trong tháng giêng, khi chúng tôi tới đây. khí hậu rất dễ chịu, nhiệt độ 26 độ C. Những cây cam và bưởi trổ hoa, làm cho không khí thoảng hương thơm. Con người ở đây trông cũng sặc sỡ. ở vùng này có người Choang, một dân tộc thiểu số. Phụ nữ mặc váy ngắn uyển chuyển, đầu quấn những chiếc khăn sặc sỡ. Người dân Nam Ninh giản dị và ngay thẳng. Đây là vùng không giàu và cũng không phải là vùng kinh tế phát triển cao.
Các quan chức của thành phó lấy làm hãnh diện mời được Mao tới thăm và ra sức thực hiện bổn phận chủ nhà của mình. Người ta tuyên truyền Mao và vợ ông là những người giản dị và vì cũng chính từ miệng các quan chức tuyên truyền mà mọi người tin chắc rằng, Mao sẽ đánh giá cao những gì người ta dành cho ông. Người ta đã bố trí cho Chủ tịch và vợ ông ở trong hai tòa nhà riêng biệt. Thực ra, đó là nhà khách của ủy ban hành chính tỉnh. Hai tòa nhà này nằm trên một đồi cây yên tĩnh, phong cảnh xung quanh rất đẹp. Mao chẳng phàn nàn gì, nhưng Giang Thanh lại không chịu được nơi ở này.
Vài ngày sau khi chúng tôi tới đây, bà vẫn để tôi nghỉ ngơi. Các y tá của bà đã làm khổ bà. Bà nói vậy và đòi tôi phải khiển trách những cô y tá này. Trong nhiệm vu của tôi có cả việc canh chừng những nhân viên chăm sóc cho Giang Thanh, và nếu bà không hài lòng với các cô y tá, thì tôi phải can thiệp.
Giang Thanh quả quyết rằng các nhân viên đã làm tất cả khiến bà bị cảm lạnh. Nhà khách chẳng có lò suởi, ban đêm trời trở lạnh, các nhân viên phục vụ Giang Thannh đã đặt một lò sưởi điện. ở lò sưởi này không có bộ phận điều chỉnh, nên lúc bà cảm thấy quá nóng, lúc lại quá lạnh. Các chủ nhà của chúng tôi ráo riết tìm cách giải quyết và cuối cùng họ cử một phái đoàn sang Hồng kông mua được một lò sưởi xách tay hiện đại, được làm nóng bằng một hệ thống ống chứa nước nóng chày tuần hoàn. Và căn phòng đã được sưởi ấm điều độ.
Giang Thanh hay tắm trước khi đi ngủ, nhưng nhà khách lại không có vòi tắm hoa sen. Các y tá đổ nước ấm vào trong những cái chậu, rồi thay nhau dội nước lên người Giang Thanh, nước trong những chậu sau nguội đi. nên Giang Thanh đã đổ tội cho các cô y tá cố tình dội nước lạnh như đá làm bà bị cảm.
Bởi vậy, các chủ nhà lại phải cử một phái đoàn đi Hongkong để mua một hệ thống vòi tắm hoa sen. Trong khi nhà tắm được xây, thì Giang Thanh phải tạm thời rời khỏi nhà khách. Bà từ chối không chịu đi và vẫn tiếp tục trách móc các y tá của mình. Khi tôi tới để tìm cách hòa giải, thì bà lại trút cơn giận lên đầu tôi và quả quyết rằng tôi cũng muốn ép bà chuyển ra khách sạn.
Nói chuyện nghiêm chỉnh với bà quả là không thể được. Tôi tức tối trình bày việc đó với Mao.
Mao nói: Giang Thanh là một con hổ giấy Một số vấn đề người ta không được phép làm to chuyện. Đồng chí đừng chấp bà ấy nữa. Các cô y tá cũng chẳng phải sợ gì bà ấy. Đồng chí hãy nói với họ, tôi biết đánh giá công việc của họ.
Giang Thanh cũng tức giận và chất vấn chồng về chuyện này. Một vệ sĩ nghe được Mao nói với vợ Bà cũng biết câu nói: Nếu mẹ ốm lâu ngày, thì con trai sẽ không còn đáng yêu nữa. Người ta làm việc chỉ để kiếm tiền, chứ họ không nghĩ đến việc phục vụ chu đáo đâu.
Lúc có mặt tôi thì Mao trách vợ và khen các cô y tá. Nhưng trước mặt vợ. thì ông lại chỉ trích họ. Mao có vẻ muốn thuyết phục vợ ông hòa giải với tôi.
Một lần Giang Thanh hỏi tôi khi những chuyện cãi vã giữa chúng tôi vẫn còn chưa chấm dứt: Đồng chí có biết tôi thường nhường đồng chí không? Tôi trả lời là tôi không biết.
Bà tiếp lời:
- Đồng chí có những điểm mạnh và điểm yếu đáng chú ý. Đồng chí rất sáng suốt khi giải quyết các vấn đề và hành động cương quyết. Cả Chủ tịch cũng đánh giá cao sự sáng suốt của đồng chí. Nhưng đồng chí cũng là người có học thức và kiêu căng. Nếu đồng chí đã có ý định gì thì chẳng có gì ngăn cản nổi đồng chí. Thế nhưng đồng chí đã làm cho Chủ tịch không cho phép tôi được khiển trách đồng chí. Đồng chí biết không?
- Không, tôi không biết đồng chí đang nói gì.
- Có lúc tôi không chịu được đồng chí. Nhưng Chủ tịch muốn giữ đồng chí lại, vì ông hợp đồng chí. Tôi và đồng chí là đồng minh, cả hai chúng ta đầu làm việc cho Chủ tịch. Tôi đã nói những suy nghĩ của tôi. Thế đồng chí nghĩ gì về tôi?
Tôi đáp:
- Tôi chẳng có ý kiến gì. Nhưng tôi tin là với trình độ và gốc gác của tôi, tôi không thích hợp với công việc ở đây. Tôi vẫn hy vọng có ai đó có thể thay thế được tôi.
Giang Thanh càng bị kích động và mất kiên nhẫn:
- Chủ tịch sẽ quyết định về tư cách của đồng chí.
Một vệ sĩ nghe được cuộc đối thoại của chúng tôi. Anh ta nói với tôi: Đồng chí bác sĩ Lý này, đồng chí Giang Thanh có vẻ muốn đối xử tử tế với đồng chí đấy. Cả Chủ tịch cũng giận đồng chí Giang Thanh. Mới đây tôi nghe được khi đồng chí ấy vừa ra khỏi phòng, Chủ tịch ca cẩm: Chúng tôi đang bận như thế mà bà cứ diễn tuồng ở đây. Chuyện này không xem xét đơn giản được đâu
Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục diễn tuồng. Phòng tắm vẫn chưa được giải quyết và bà vẫn tiếp tục chửi rủa các cô y tá, khiến họ nước mát giàn giụa chạy lại giãi bày với tôi. Tôi chẳng biết phải làm gì nữa. Trưởng ban an ninh Vương Kính Tiên, một người có năng lực, đã thông báo cho tôi biết, công việc của ông ta chỉ được giới hạn trong vấn đề bảo vệ an toàn cho các vị lãnh đạo cao cấp. Và Diệp Tử Long cũng cho vấn đề phòng tắm của Giang Thanh không phải là bổn phận của ông.
Thế là tôi phải sử dụng toàn bộ ngón võ mồm của mình để thuyết phục bà Chủ tịch ngủ tạm một đêm ở khách sạn. Vòi tắm sẽ được lắp rất nhanh.
Trong hội nghị đảng ở Nam Ninh có các cán bộ đảng toàn quốc và của các tỉnh tham gia. Hội nghị được khai mạc vào ngày 11 tháng 1 năm 1958 và ngay từ ngày đầu tiên một bầu không khí căng thẳng đã bao trùm hội nghị. Những người tham dự hội nghị như bị kích thích, đa số người soạn thảo kế hoạch kinh tế của đảng đều cho dự định đuổi kịp Anh trong 15 năm của Mao là ảo tưởng. Còn Mao trong 11 ngày này đã phải mất rất nhiều thời gian để chống đối lại những cán bộ kế hoạch, phát triển và tài chính. Chỉ có rất ít người không bị Mao đụng tới, ngay cả Chu Ân Lai và Trần Vân cũng không thoát khỏi sự chỉ trích của ông.
Hoàng Kính, chồng cũ của Giang Thanh là chủ tịch ủy ban kinh tế và kỹ thuật, chịu trách nhiệm về vấn đề phát triển công nghệ đã khuất phục trước áp lực của Mao. Gần đến khi kết thúc hội nghị, Kha Thanh Thế, chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Thượng Hải đã yêu cầu tôi khám cho Hoàng Kính. Sau nhiều lần bị Mao công kích gay gắt, ông ta đã có những biểu hiện không bình thường.
Hoàng Kính nằm trên giường, nhìn trừng trừng lên trần nhà và lảm nhảm những câu khó hiểu. Ông ta van xin tôi. Cứu tôi với! cứu tôi với!
Dương Thượng Côn thu xếp cho ông ta đi điều trị ở thành phố Quảng Châu gần đó. Lý Phú Xuân, phó thủ tướng và chủ tịch ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Tập Trọng Huân, Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước đưa Hoàng Kính đi. Trên máy bay ông ta cũng có những cử chỉ kỳ lạ. Ông quì xuống và đập đầu xuống sàn trước mặt Lý Phú Xuân và van xin Lý hãy thả ông ra, dành mạng sống cho ông. Ông được đưa vào một bệnh viện quân y ở Quảng Châu và bị gẫy một chân trong một lần ông định bỏ trốn. Sau đó tôi không nghe được tin tức gì về ông nữa. Mãi sau này tôi mới biết ông chết vào khoảng tháng 11 năm 1958.
Thái độ của Mao rất trái ngược đối với những người mà ông đã làm cho họ căng thẳng. Sau vài lần nổi giận, ông bắt đầu tỏ ra nhũn nhặn hơn và thậm chí đến lúc bế mạc hội nghị, ông còn tự bỏ sự phân biệt trên dưới thường ngày của ông. Ông dự bữa liên hoan buổi trưa kết thúc hội nghị và ăn lấy ăn để một món đặc sản có tên rồng đả hổ được nấu từ thịt rắn độc (tượng trưng cho rồng) và thịt mèo rừng (tượng trưng cho hổ). Món đặc sản này rất béo, vậy mà Mao cứ khen ngon.
Hôm sau, Mao đi bơi ở sông Vĩnh chảy qua phía trước thành phố. Nhiệt độ của nước khoảng 20 độ C nghĩa là rất lạnh đối với việc bơi lội. Mao cứ nhất quyết đòi bơi, nên tôi phải đi theo ông. Như thường lệ, ông ngâm mình một tiếng liền dưới nước và đến ngày hôm sau thì bị ho và sổ mũi.
Lại một lần nữa, ông chỉ nghe theo lời khuyên của bác sĩ khi mà ông cảm thấy sự việc thật nghiêm trọng. Thế nhưng sau đó ông bình phục rất nhanh.
Tiếp theo hội nghị ở Nam Ninh là hàng loạt những cuộc họp đảng do Mao triệu tập trong những tháng sau đó. Với những lời châm chọc, nịnh nọt, sau đó lại giận dữ, Mao tìm cách đưa đảng đi theo đường lối của ông. Đầu tiên ông buộc tội những cán bộ tỉnh, sau đó ông buộc tội những người soạn thảo kế hoạch kinh tế đã làm cho nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển. Tuy nhiên cứ sau mỗi cuộc họp, những chỉ tiêu kế hoạch lại được nâng lên một chút và đến khóa họp thứ hai của Đại hội đảng lần thứ 8 vào tháng 5 năm 1958. Mao đã chuẩn bị xong kế hoạch đại nhảy vọt của ông.
Phần 3
Chương 26
Đầu năm 1958, lần đầu nên tôi nhận thấy ở Mao có sự thay đổi. Tính đa nghi một cách phi lý chưa hề thấy ở ông đã xuất hiện và ngày càng tăng trong những năm trước khi xảy ra cuộc Cách mạng Văn hóa. Sau khi rời Nam Ninh, chúng tôi nghỉ lại ở Quảng Châu hai tuần rồi mới bay về Bắc Kinh. Mao tiếp tục gây sức ép với đảng và đến tháng giêng, ông lại tiếp tục thúc đẩy chiến dịch nhằm hướng đảng đi theo đường lối của ông. Lần này những gì còn vướng mắc trong nội bộ đảng phải được giải quyết.
Đầu tháng ba, chúng tôi bay tới Thành Đô thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên và được coi là vựa lúa của Trung quốc. Tại đây, Mao đã triệu tập một cuộc họp đảng.
Chúng tôi sống trên đập Những con bò vàng cách thành phố 12 km về phía Tây. Cảnh vật ở đây làm cho người ta liên tưởng đến một vườn bách thảo với những đồng cỏ xanh mượt, những cánh rừng tre, những cây thông xanh ngát và những cây trắc bá. Ngoài những cây cọ, những bụi chuối và những cây bưởi mọc hai bên đường, còn có những cây sơn trà và cây đỗ quyên đầy hoa đỏ rực. Trong thời gian chúng tôi ở đó, trời thường đổ mưa. Sau đó, những cánh rừng nhiệt đới được một lớp sương mù bao phủ, trông huyền bí giống như một bức trướng phong cảnh của Trung quốc. Mao kể rằng, một số bài thơ của ông về những khu vườn phủ sương và những triền núi xanh tươi đã được ngẫu hứng sáng tác từ những cảnh vật như thế này.
Tôi rất thích thú được đến Thành Đô. Kể từ kỳ thi tốt nghiệp y khoa cách đó mười bốn năm, tôi chưa bao giờ đặt chân tới thành phố này, nơi thực ra là quê hương thứ hai của tôi. Tôi mong uớc sớm được đến thăm trường đại học cũ.
Khu vườn của trường đại học tổng hợp y khoa ở miền tây Trung quốc này hồi đó là một thảm thực vật xanh tốt. Khi tôi còn là sinh viên. Khu vườn này được coi là lớn nhất và đẹp nhất Trung quốc lúc bấy giờ. Còn đối với tôi, nó là thiên đường trên trái đất. Bây giờ tất cả đã đổi khác. Một phố lớn chạy qua khu đất trước đây. Nhiều tòa nhà bị phá bỏ, những tòa nhà còn lại thì đổ nát, các khu vườn không được chăm sóc.
Trường đại học bây giờ mang tên trường Đại học y khoa Tứ Xuyên. Các khoa nhân chủng học được duy trì ở trường đại học tổng hợp Tứ xuyên. Chuyến viếng thăm các bạn học cũ và anh bạn Tôn Ngọc Hoa, hiện là hiệu trưởng trường đại học, đã làm trỗi dậy trong tôi những kỷ niệm xưa. Nhưng sẽ rất nguy hiểm cho tôi, nếu tôi tiếp tục thăm viếng những người bạn khác, vì công việc của tôi ở chỗ Mao đặc biệt khó khăn và vì sẽ ảnh hưởng đến việc giữ bí mật đối với hội nghị đảng sắp tới.
Mao tỏ ra thông cảm với sự đa cảm của tôi và ông ngâm một bài thơ nổi tiếng từ thời triều đại Đông Tấn (năm 317- 420 sau công nguyên):
Tạm dịch:
Thăm thiết ôm sông rặng liễu già
Nhưng dòng sông Hán vẫn xuôi Nam
Lá liễu rụng phủ sông buồn tủi
Thiên nhiên còn vậy huống chi ta
Mao khuyên tôi nên đến thăm các bạn cũ của tôi. Nhưng tôi từ chối.
Sau khi chúng tôi tới chưa được bao lâu. Lý Tinh Toàn, bí thư thứ nhất tỉnh Tứ Xuyên mời Mao tới xem kinh kịch ở một nhà hát trong khu nhà khách. Lúc đầu, Mao còn ngờ vực ông vốn chỉ thích kinh kịch Bắc Kinh - nhưng sau đó ông đã bị buổi biểu diễn thu hút, đến nỗi điếu thuốc trên miệng ông cháy hết từ lúc nào. Sau hôm đó tối nào chúng tôi cũng đi xem kinh kịch Tứ Xuyên. Chỉ một thời gian ngắn, tin Mao thích kinh kịch đã đến tai các nhà lãnh đạo đảng ở các tỉnh - Họ quan tâm đến thị hiếu của Mao, vì họ luôn được Mao đến thăm và muốn chuẩn bị thật chu đáo cho cuộc viếng thăm của ông. Sau năm 1958, tại các nhà khách của tất cả các tỉnh đều có nhà hát kinh kịch.
Thái độ của Mao đối với bể bơi có mái che, lần đầu tiên đã cho tôi thấy sự sợ hãi vô cớ của Mao. Chiếc bể bơi đặc biệt này dành riêng cho Mao được xây dưới sự chỉ đạo của Lý Tinh Toàn, phòng theo mẫu bể bơi có mái che ở Trung Nam Hải. Mao bảo tôi và dám vệ sĩ của ông xuống nước, nhưng chính ông lại cảm thấy không yên tâm. Nhiều lần ông hỏi tôi, liệu bể bơi này có thực sự giống bể bơi ở Bắc Kinh không và ông có về lo ngại người ta có thể pha thuốc độc vào trong nước. Vậy mà khi bơi chúng tôi chẳng ai bị làm sao. Thái độ của Mao làm tôi thấy tò mò hơn là lo ngại. Mãi đến khi tình trạng của ông xấu đi, nghĩ lại tôi mới lần ra sự đa nghi quá dáng của ông là khởi đầu của bệnh điên loạn. Mao thường bồn chồn không yên.
Những người lãnh đạo đảng vẫn thường quấy rầy ông. ý định làm họ thức tỉnh khỏi trạng thái mê muội và đi theo đường lối của ông chỉ thu được kết quả giới hạn. Hội nghị có nhiệm vụ tiếp tục thuyết phục giới lãnh đạo đảng.
Trong phiên họp từ ngày 9 đến 26 tháng ba năm 1958, những cuộc tranh luận ở Hội nghị Nam Ninh lại tiếp tục diễn ra. Các cán bộ đảng phụ trách phát triển kinh tế bị Mao hối thúc. Ông muốn thuyết phục họ rằng, theo kế hoạch của ông, trong vòng 15 năm nữa Trung quốc sẽ đuổi kịp nước Anh về kinh tế. Ông cho những chỉ tiêu sản xuất vẫn còn quá thấp và những người lập kế hoạch kinh tế quá nhút nhát. Tuy việc quần chúng phê bình đảng đã bị chiến dịch chống những người cánh hữu chấm dứt một cách đột ngột vào mùa hè năm 1957, nhưng lòng tin của Mao đối với đảng vẫn chưa được hồi phục. Ông phàn nàn về sự lãnh đạo chưa đầy đủ ở trong nước và đánh giá hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng như một lũ tôi đòi đân độn. Ông đòi hỏi mọi người phải có lòng dũng cảm và tính cương quyết.
Việc gần nhu cuồng tín rập khuôn theo Liên-xô, không cân nhắc khi trích dẫn những tác phẩm của Mác ìàm Mao vô cùng khó chịu. Ông nói: Chủ nghĩa Mác đâu phải từ trên trời rơi xuống. Không phải lúc nào cũng phải học những lời răn dạy đó rồi nhai lại như những kẻ tôi đòi. Mao liên hệ phong cách làm việc hiện nay của đảng với đạo Khổng trước đây ở Trung quốc. Người dân Trung quốc sùng kính Khổng Tử đến nỗi không ai dám gọi tên ông mà gọi ông là nhà thông thái. Đảng cũng coi Mác như vậy không đủ khả năng làm khác lời Mác, đảng đã biến lời của Mác thành tín điều. Kết quả hiện nay cũng tương tự như Khổng Giáo trước đây: chủ nghĩa Mác đã làm tê liệt tinh thần sáng tạo. Mác chính là một Khổng Tử hiện đại, làm cho Trung quốc què quặt và kìm hãm sự phát triển của đất nước này. Stalin cũng giống Mao.
Theo Mao, việc Stalin chỉ trích Mác là đúng. Stalin đã dũng cảm kết hợp giữa lý thuyết và thực tế của chủ nghĩa xã hội. Mao cho rằng, đảng đã để cho giới trí thức hù dọa và đã bộc lộ cho chúng thấy cảm giác thấp kém của đảng. Ông nghi ngờ, liệu đảng cộng sản Trung quốc có thể đảm nhiệm được vai trò lãnh đạo trong công cuộc cải tổ xã hội hay không:
- Các cán bộ đảng của chúng ta hiểu biết rất hạn chế. Họ sống trong sung túc và ních cho đầy bụng. Năng lực của họ đã chuyển từ trí óc xuống dạ dày.
Tuy nhiên, ông vẫn hy vọng vào lớp trẻ:
- Thông thường lớp trẻ tuy không được học hành cũng vẫn nảy sinh ra những sáng kiến, đưa ra những thuyết mới và lập ra những tôn giáo mới. Khi Khổng Tử đưa lý thuyết mới và lúc nào cũng có học trò đông đúc vây quanh, lúc đó ông mới có 23 tuổi. Trình độ học vấn của Chúa Giê-Su đến đâu và tôn giáo do ông lập ra đến nay còn tồn tại không và Shakyamuni đã phát triển những giáo lý của dạo phật khi ông ở tuổi 19. Ngay Tôn Trung Sơn đâu có phải là nhà thông thái. Ông đã học tiếp lên khi ông trở thành nhà cách mạng. Chính Mác đã đưa ra thuyết của mình về chủ nghĩa duy vật biện chứng khi ông còn rất trẻ. Mãi sau này ông mới trở thành học giả. Năm ông 29 tụổi, ông đã tranh luận với những học giả lừng danh của giai cấp tư sản như Ricardo, Adam Smith và Hegel. Và khi 30 tuổi đời, ông đã viết bản Tuyên ngôn cộng sản sáng lập ra một học thuyết mới.
Mao nói tiếp:
- Các học giả trẻ tuổi nổi tiếng, nhưng chưa qua trường lớp, thì thường bị ngờ vực. Tuổi tác cũng như sự non nớt của họ không quan trọng. Điều quan trọng là nhận biết được sự thật và can đảm quảng bá cho họ.
Những lời nói của Mao không hề có ẩn ý nào cả. Ông chẳng bao giờ nhận ra rằng, người ta gọi ông là Chủ tịch khác nào người ta gọi Khổng Tử là Nhà thông thái. Chẳng bao lâu những lời nói của ông cũng sẽ được biến thành những tín điều.
Mao thường bóp méo các sự kiện lịch sử nếu chúng có lợi cho mục đích của ông. Chẳng hạn, khi Tôn Trung Sơn bắt đầu hoạt động cách mạng vào năm 1911, thì ông đã là bác sĩ và là một trong những giáo viên cự phách. Nhiều năm sau, năm 1966, khi Mao phát động cuộc Cách mạng Văn hóa và kêu gọi thanh thiếu niên của đất nước chống lại thày cô giáo của họ và chống lại đảng cộng sản, tôi lại nhớ đến buổi nói chuyện này và những buổi nói chuyện tương tự. Thì ra, Mao đã ấp ủ chiến lược này từ nhiều năm nay.
ở Thành Đô Mao vẫn phụ thuộc vào đoàn tùy tùng của đảng. Ông lại dùng phương pháp đối chất và chỉ trích tất cả những ai muốn tiến lên phía trước một cách dè đặt. Ông tìm cách thuyết phục để họ nhận thấy rằng, bác bỏ sáng kiến tiến vọt của ông là chống lại chủ nghĩa Mác và như vậy có nghĩa là hữu khuynh Lần đầu tiên, ở Thành Đô tôi nghe thấy phương châm: Hãy tiến nhanh, hãy đặt ra cho mình những mục đích cao và hãy xây dựng chủ nghĩa xã hội với những thành quả lớn hơn, nhanh hơn, tốt hơn và kinh tế hơn.
Lần đầu tiên, ở Thành Đô, tôi cũng nhận thấy sự thay đổi trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội của Mao. Mặc dù áp dụng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng các giai cấp vẫn tồn tại. Công nhân và nông dân là những người tốt, nhưng vẫn còn tồn tại những tàn dư của chủ nghĩa đế quốc, những tàn dư của chủ nghĩa phong kiến và còn tồn tại tư bản quan liêu cũng như tầng lớp tư sản hữu khuynh. Cả tầng lớp tư sản dân tộc đã từng ủng hộ những người cộng sản trong cuộc chiến đấu chống Quốc dân đảng trước đây vẫn còn và họ sẽ chống lại những cải cách xã hội chủ nghĩa.
Mao coi giới trí thức là tư sản.
- Người trí thức hay dao động, gió chiều nào là họ theo chiều nấy. Họ đọc lắm sách nhưng chẳng biết gì về đời thực. Rồi Mao nói về dấu tranh giai cấp.
Theo đánh giá của Mao, hội nghị ở Thành Đô là một thành công. Những chỉ tiêu kế hoạch đã được đặt ra cao hơn và 37 văn kiện mới được ban hành, với việc nâng cao những chỉ tiêu kinh tế thực dụng và bảo thủ trước đây.
Đảng đang đứng trước một cuộc đổi mới, có ảnh hưởng ghê gớm đến đất nước Trung hoa: Lời của Mao quả là có trọng lượng, ý kiến của ông có sức mạnh, đến nỗi ngay cả những người ôn hòa cũng không thể cưỡng lại được. Ai tỏ ra hoài nghi về những chỉ tiêu kế hoạch cao một cách không thực tế, thì sẽ có nguy cơ bị quy là hữu khuynh. Tham vọng mạnh mẽ của Mao đã buộc những người có những ý kiến khác lần lượt phải câm nút. Những kẻ xu nịnh bắt đầu khoác lác và thừa nhận cả những chỉ tiêu kế hoạch cao hơn, mặc dù chính họ biết là không thể nào đạt được. Sự dối trá tràn lan trong đảng và những kẻ nói dối trơ trẽn nhất đã chiếm được vị trí tốt nhất bên cạnh Mao. Nỗi sợ hãi bắt đầu lan rộng.
Phần 3
Chương 27
Trong lúc chúng tôi lưu lại Thành Đô chiến dịch làm trong sạch đảng được tăng cường. Ông bạn Lâm Khắc của tôi, người có nhiệm vụ báo cáo nội dung của tờ thông tin ra hâng ngày cho Mao biết và dạy Mao tiếng Anh, là một trong những người đầu tiên nằm trong đường ngắm. Khi vừa biết mình bị tố cáo. Lâm Khắc liền rời khỏi Thành Đô. Ông phải có mặt ở Bắc Kinh để đích thân bào chữa cho mình.
Trong thời kỳ này, người ta biết vụ những lá cờ đen, một sự kiện dáng lưu ý nhất và rối rắm nhất mà tôi được chứng kiến từ bên trong. Sự kiện này đã làm hại thanh danh và sinh mạng của nhiều người khác, nhưng nó đã giúp tôi rút ra một kinh nghiệm xương máu. Một trong những nguyên nhân gây ra việc kéo bè kết cánh trong đảng đã làm Mao tức giận là cách thức bổ nhiệm những chức vụ về chính trị. Đó cũng là lý do dẫn đến những mưu đồ chính trị phức tạp và sinh ra vụ Những lá cờ đen. Vấn đề là trách nhiệm của từng cán bộ. Nếu một cán bộ đảng ở Trung quốc đề cử một người nào đó giữ một chức vụ thì mặc nhiên người đó phải chịu trách nhiệm về những việc làm của người mà người đó đã đề cử. Thể thức này chi có tác dụng khi người được bổ nhiệm tuyệt đối trung thình với cấp trên và phải chấp hành mệnh lệnh ngay cả khi họ là người hiểu biết hơn. Đối với đảng viên, điều lệ quan trọng nhất là kỷ luật và tuyệt đối phục tùng cấp trên, chấp hành sự lãnh đạo của đảng và chỉ thị của cán bộ cấp cao hơn. Đảng và cấp trên luôn luôn đúng. Phé bình cấp trên là vi phạm toàn bộ các điều lệ mà đảng viên nào cũng phải học. Công kích cấp trên của mình cũng tệ hại như công kích đảng. Trung thành là đức tính tối cần thiết.
Sự phục tùng sẽ được trả giá bằng sự bao che. Vì cấp dưới luôn phải thi hành mệnh lệnh của cấp trên, nên cấp trên phải bảo vệ cấp dưới trước sự công kích. Hậu quả là tất cả những phản ứng hướng vào các quan chức cao cấp trong đảng lại nhắm vào cấp dưới. Nếu một cán bộ đảng cấp dưới bị chỉ trích về những sai lầm chính trị thì dĩ nhiên cấp trên của người đó cũng bị liên lụy. Những cuộc đấu đá chính trị triền miên mà tôi được chứng kiến nhiều năm ròng luôn luôn bắt đầu từ lớp cán bộ trung cấp theo hệ thống phân cấp trong đảng. Nếu muốn đả kích những cán bộ đảng cao cấp, trước tiên người ta tấn công cấp dưới của họ.
Mao kịch liệt bác bỏ cách thức này ông cho nó là nguyên nhân dẫn đến việc thiếu cảnh giác và thiếu dũng cảm trong đảng. Ai cũng tìm cách đẩy trách nhiệm cho cấp cao hơn và vì sai lầm nào cũng đều bị xử lý nghiêm khắc, nên tinh thần sáng tạo, tính độc lập và dứt khoát bị hạn chế. Ai bị hạ bệ, sẽ kéo theo cả thủ trưởng, cấp dưới của người đó và nhiều người khác. Một cán bộ đảng để cho một cấp dưới nào đó phạm sai lầm, thì những cấp dưới khác của người đó cũng phạm sai lầm như vậy. Mùa thu năm 1957. Mao phục hồi chiến dịch làm trong sạch đảng để đập tan lối kết bè kéo cánh này. Ông khuyến khích những cán bộ đảng cấp dựới hãy vạch ra những sai lầm của cấp trên, đặc biệt là sự bảo thù vốn được coi là hữu khuynh. Lời hiệu triệu khác thường này đã làm những đảng viên cấp thấp lo ngại. Điều gì sẽ xảy ra nếu việc phê bình của họ không được ủng hộ, nếu vị lãnh đạo đảng bị phê bình kia vẫn được tại chức? ông ta có thể sẽ trả thù và với chức vụ của mình. Ông ta sẽ đẩy những người phê bình ông xuống địa ngục. Vì thế đa số các đảng viên không dám lên tiếng.
Dĩ nhiên, Tôi cũng im lặng. Tuy tôi có vấn đề với Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều nhưng tôi chẳng bao giờ phản ứng lại họ.
Một số nhân viên ở Trung Nam Hải đã lên tiếng phê bình. Tám thư ký chính trị làm việc trong Văn phòng trung ương của Dương Thượng Côn đã liên kết với nhau chỉ trích Hà Tài, phó phòng của họ. Họ đã lên án Hà Tài thường vơ hết công trạng về mình và đổ mọi tội lỗi cho cấp dưới khi hỏng việc. Ngoài ra, họ còn buộc tội ông ta nịnh trên nẹt dưới. Lâm Khắc cũng là một trong tám người này. Nhưng Hà Tài đã đổ trách nhiệm cho cấp trên và quá quyết người quyết định mọi việc không phải là ông, mà là Dương Thượng Côn, thủ trưởng của ông và là người có vị trí cao hơn ông rất nhiều theo cấp bậc trong đảng. Khi quy cho Hà Tài có tư tưởng hữu khuynh, theo lối lý luận như đã nói ở trên, thì chẳng khác nào buộc tội Dương Thượng Côn. Và như vậy rất nguy hại về chính trị. Hà Tài cũng quả quyết rằng, phê bình cá nhân ông cũng đồng nghĩa với việc lên án đảng và chính tám người phê bình kia mới thực là những kẻ hữu khuynh. Ông kêu gọi những nhân viên khác của Văn phòng thư ký chính trị lên tiếng chống lại tám người đối nghịch đó và tung tin đồn là Điền Gia Anh, bạn tôi và là một trong những thư ký của Mao và phó Văn phòng của Hà Tài đã xúi giục những người này lên tiếng phê bình. Tháng ba trong lúc chúng tôi đang ở Thành Đô, Hà Tài đã tập hợp quanh mình nhiều người ở Văn phòng trung ương, đến nỗi tám người phê bình kia công khai bị coi là Nhóm hữu khuynh đối nghịch với đảng và chủ nghĩa xã hội.
Mãi tới khi hội nghị ở Thành Đô kết thúc và Lâm Khắc trở về Bác Kinh, tôi mới biết được mức độ của những lời buộc tôi kia. Tôi và Mao rời Thành Đô đến Trùng Khánh, sau đó chúng tôi đi tàu thủy dọc theo sông Dương Từ và nghỉ lại ở Vũ Hán, nơi đã có lần người ta nói về dự án đập chắn nước. Đầu tháng tư chúng tôi đi tiếp đến Quảng Châu. Diệp Tử Long và Điên Gia Anh đã chờ chúng tôi ở đó. Tôi biết rằng, Dương Thuợng Côn đã đình chỉ công tác của tám vị thư ký và ra lệnh cho họ phải viết một bản tự kiểm điểm. Người ta tiếp tục điều tra những hoạt động chống đảng của họ.
Điền Gia Anh lo lắng. Những lời buộc tội chắc chắn là sai trái, nhưng ông lâm vào tình trạng bối rối. Là một trong những phó Văn phòng thư ký chính trị, chức vụ của ông ta ngang với Hà Tài. Như vậy tám nhân viên kia là cấp dưới của ông và ông phải tính đến chuyện chính ông sẽ trở thành mục tiêu của các cuộc điều tra. Ông muốn thổ lộ vấn đề này với Mao, nhưng ông sợ rằng như vậy ông sẽ còn gặp nhiều phiền phức hơn. Cũng như tất cả các nhân viên của nhóm Một, Điền Anh phục vụ hai chủ. Một là ông làm việc trực tiếp cho Mao, nhưng đồng thời ông cũng phải phục tùng chỉ thị chung của văn phòng trung ương đảng. Nếu ông trực tiếp nói những lâm tư riêng của ông cho Mao biết. Ông sẽ bị lên án là dám qua mặt Dương Thượng Côn và Văn phòng trung ương. Tôi lo ngại cho Lâm Khắc. Tôi quen hết cả tám người bị buộc tội, nhưng tôi đặc biệt gần gũi với Lâm Khắc hơn. Trong những năm qua, chúng tôi đã cộng tác chặt chẽ với nhau và trong các chuyến đi chúng tôi thường ở chung một phòng. Là thư ký của Mao, Lâm Khắc đang giữ chức vụ mà đã có lần Mao đề nghị tôi làm. Tôi hoàn toàn có thể đảm nhận được nhiệm vụ của ông, nếu tôi nhận lời. Tính thẳng thắn của Lâm Khắc thỉnh thoảng cũng dễ làm mếch lòng người khác, nhưng chưa bao giờ tôi nghe thấy ông hé một lời chống đảng. Buộc tội ông có những hoạt động chống đảng thì thật là phi lý.
ở Quảng Châu, những câu chuyện của các thành viên nhóm Một lúc nào cũng xoay quanh vụ này. Cuối cùng tôi ra sức bênh vực Lâm Khắc và tuyên bố, tôi không thể hình dung nổi ông lại làm cái gì đó chống đảng. Có phải những người buộc tội ông chỉ muốn thanh toán những mâu thuẫn cá nhân? Thế là tôi bị Diệp Tử Long công kích: Đồng chí không có mặt ở Bắc Kinh làm sao đồng chí lại khẳng định như vậy được
Tôi đáp:
- Nếu đồng chí Lâm Khắc là kẻ thù của đảng thật, thì chắc chắn đồng chí ấy đã phản bội rồi. Theo tôi biết, đồng chí ấy luôn luôn trung thành. Tại sao bỗng nhiên đồng chí ấy lại có thể trở thành kẻ thù của đảng được?
Vương Kính Tiên ra hiệu cho tôi theo ông vào phòng bên cạnh.
Tại đó ông đã cảnh cáo tôi nói mà không cân nhắc. Quyết định đã có rồi, ý kiến của tôi cũng chẳng có trọng lượng chính trị. Nếu đồng chí còn tiếp tục nói như vậy, có nghĩa là đồng chí muốn bao che cho hắn. Người ta sẽ buộc tội đồng chí chống lại quyết định của đảng và lúc đó sẽ đến lượt đồng chí.
Diệp Tử Long, người lấy làm rất khoái trá về việc Lâm Khắc bị thất sủng, đã thông báo cho Mao về quyết định này. Nếu tôi còn tiếp tục bênh vực Lâm Khắc có lẽ Diệp Tử Long sẽ hại cả tôi
Vương nói có lý. Tôi không thể làm gì được.
Mặc dù vậy tôi cảm thấy khó chịu về chuyện này. Những lời buộc tội thật là sai trái và chẳng cao thuợng chút nào khi không ai dám đứng ra bảo vệ Lâm Khắc. Đến chiều tối hôm đó, Mao cho gọi tôi tới, ông đang nghỉ ngơi trên boong của chiếc tàu thả neo gần nhà khách của ông, trên người chỉ mặc quần bơi và khoác áo choàng tắm. Ông đề nghị tôi dạy ông một giờ tiếng Anh. Chúng tôi vừa bắt đầu thì Diệp Tử Long đi tới. Ông ta muốn báo cáo những tin tức mới nhất về Nhóm chống đảng ở Trung Nam Hải. Tôi đứng dậy định cáo lui vì việc này không phải phận sự của tôi. Nhưng Mao yêu cầu tôi ở lại.
- Không có gì bí mật cả. Chúng ta sẽ tiếp tục học tiếng Anh ngay.
Mao hỏi tại sao người báo cáo về những kẻ thù của đảng lại là Diệp. Việc điều tra là nhiệm vụ của Dương Thượng Côn và cấp phó của ông ta. Lẽ ra họ phải thông báo cho Mao biết, nhưng người phó của Dương Thượng Côn lại cử Diệp đi.
Mao im lặng nghe báo cáo, sau đó Diệp Tử Long cáo lui.
Tôi thấy Mao có vẻ khó chịu với chuyện vừa rồi, nên tôi cũng không dám gợi chuyện đó với Mao. Tôi thuộc Ban y tế trung ương của Bộ y tế, còn vụ xung đột này lại xảy ra trong Văn phòng thư ký chính trị. Vì vậy kỷ luật đảng không cho phép tôi dính vào việc đó. Nếu không người ta có thể vu cho tôi là cùng một giuộc với Lâm Khắc. Tôi không thể nói chuyện bí mật riêng với Mao, vì luôn luôn dám vệ sĩ ra vào. Họ mang trà tới, lau mặt cho Mao bằng khăn ấm, ghi lại từng lời hoặc đứng nghe lỏm ngoài cửa mỗi khi họ ra khỏi phòng. Nếu tôi gợi chuyện này ra, thì sẽ đến tai Diệp Tử Long và các đối thủ của Lâm Khắc ở nhóm Một sẽ quay sang tấn công tôi. Vì vậy tôi không được phép gợi chuyện, mà phải đợi đến lúc Mao chuyển sang đề tài này.
Tôi quay sang với những dòng chữ tiếng Anh của chúng tôi. Chúng tôi đọc bản tiếng Anh của báo cáo chính trị mà Lưu Thiếu Kỳ phải đọc ở phiên họp lần thứ hai của Đại hội đảng lần thứ tám dự định tổ chức vào tháng 5. Bài diễn văn dành cho Mao nhiều chỗ để bình luận và được viết hoàn toàn theo ý ông. Mao ngắt lời tôi:
- Đồng chí có biết chuyện ở Văn phòng thư ký chính trị không?
-Tôi cũng có nghe chuyện này, nhưng không biết chi tiết. Tôi ngạc nhiên khi được đồng chí Diệp cho biết, Lâm Khắc đang ở trong tình trạng cực kỳ khó khăn.
- Đồng chí quen cả tám người đó chứ?
- Tôi chỉ biết sơ thôi. Lâm Khắc là người mà tôi biết rõ nhất.
- Đồng chí nghĩ Lâm Khắc là người như thế nào?
Cơ hội đã đến với tôi. Tôi phải thận trọng. Trong khi những kẻ khác dang vểnh tai lên nghe ngóng, thì tôi phải trình bày những điểm yếu, điểm mạnh của Lâm Khắc.
- Trong ba, bốn năm qua, chúng tôi đã có nhiều thời gian cùng sống với nhau. Chúng tôi cũng đã chuyện trò nhiều với nhau. Tôi không tin Lâm Khắc có thể chống đảng. Có lẽ Lâm Khắc chỉ muốn được coi trọng chứ chẳng có ý gì khác.
- Bây giờ không phải lúc nói chuyện này. Tôi hỏi đồng chí, theo đồng chí, Lâm Khắc có phải là kẻ chống đảng hay không?
Tôi trả lời theo tôi biết, Lâm Khắc chưa bao giờ nói điều gì chống lại đảng cả. Có lẽ ông ta chỉ phê bình cá nhân hoàc cán bộ đảng nào đó, nhưng chưa bao giờ tôi nghe thấy ông ta nói một lời chống đảng hay chống Chủ tịch. Theo tôi, tôi bảo đảm với Mao, thậm chí Lâm Khắc còn đặc biệt trung thành.
- Thôi được. Trong thời kỳ chiến dịch chống hữu khuynh năm ngoái, thậm chí Lâm Khắc và bảy nhân viên kia rất tích cực. Sao bây giờ bỗng nhiên họ trở thành kẻ thù của đảng?
Tôi đáp:
- Tôi không nắm được chi tiết cụ thể, nhưng đồng chí Điền Gia Anh mới tới đó, đồng chí ấy biết rõ hơn tôi về chuyện này.
Mao muốn nói chuyện với Điền Gia Anh.
Điền Gia Anh và Vương Kính Tiên như rơi từ trên mây xuống khi tôi kể cho họ nghe về cuộc đối thoại giữa tôi và Mao. Vương khen tôi can đảm, nhưng Điền Gia Anh vẫn lo ngại. Dương Thượng Côn cũng là cấp trên của Điền và ông không muốn tỏ ra là ông chống lại hay qua mặt Dương.
Nhưng Mao muốn biết rõ chuyện, nên ông quyết định sẽ kể hết cho Mao. Cuộc đối thoại cũng đã diễn ra trong buổi tối hôm đó.
Vào lúc 4 giờ sáng khi tôi đang ngủ say thì bị một vệ sĩ của Mao đánh thức. Chủ tịch muốn học thêm một giờ tiếng Anh nữa. Tôi xoa nước lạnh lên mặt rồi vội vã vào phòng ngủ của Mao:
- Tôi muốn đánh thức đồng chí cách đây hai tiếng, nhưng quá sớm.
Một vệ sĩ mang tới cho tôi một cốc trà đặc.
Tôi biết Mao muốn nói chuyện với tôi về Lâm Khắc. Nhưng đầu tiên chúng tôi đọc vài đoạn văn tiếng Anh. Sau đó Mao nói:
- Tôi nghĩ bây giờ tôi đã nắm được tình hình. Tám nhân viên đã buộc tội cán bộ lãnh đạo của Văn phòng thư ký chính trị là hữu khuynh. Rồi Hà Tài và Dương Thượng Côn tìm cách cứu nhau và cùng phản công tám người này, thành ra vụ này đã xoay ngược lại hoàn toàn. Tôi nghĩ tám người này đúng, đúng là một số cán bộ lãnh đạo có vẻ hữu khuynh, điều này tháy được qua cách thức mà họ dùng để chống lại tám người này. Họ đã lạm dụng kỷ luật đảng để uy hiếp cấp dưới của mình một cách tàn nhẫn. Tám người kia không còn cơ hội nào để chống lại.
Mao so sánh vụ này với một vụ tương tự trong đời nhà Đường. Hồi đó có tám người cải cách trẻ tuổi đã can đảm đề nghị cài tổ bộ máy hành chính và như vậy đụng chạm đến các lãnh chúa và quan lại. Bọn này đã phản ứng và đưa những người này đi đày.
- Tôi đã lệnh cho Điền Gia Anh trở về Bắc Kinh. Chúng ta cũng sắp lên đường.
Ba ngày trước lễ kỷ niệm ngày mồng một tháng 5, chúng tôi trở về Bắc Kinh. Mao nói chuyện ba tiếng liền với Lâm Khắc và dò hỏi nhận xét của ông ta về vụ này. Việc Mao trở về đã làm thay đổi hẳn bầu không khí ở Trung Nam Hải. Dương Thượng Côn đã chuẩn bị một hiệp đấu dữ dội chống lại tám người khi Điền Gia Anh xuất hiện và thông báo vụ án này chỉ kết thúc sau khi đích thân Chủ tịch điều tra - Mao không đồng ý với quyết định của Văn phòng Trung ương. Bây giờ thì Hà Tài và Dương Thượng Côn lại trở nên khó xử.
Ngay sau ngày l tháng 5, Mao mời Điền Gia Anh, Lâm Khắc, Hà Tài và hai đảng viên nữa của Văn phòng trung ương là Hoa phong và Tiểu Lan đến gặp riêng. Tôi cũng phải đến làm người dự thính.
Mao nằm trên giường và chỉ khoác áo choàng. Bằng giọng nói ôn tồn và hòa giải, ông tìm ra một thỏa hiệp. Văn phòng thư ký chính trị đã thực hiện chiến dịch không đúng quy định, tám nhân viên này đã từng ủng hộ chiến dịch chống hữu khuynh, họ không phải là những người thiên hữu. Không được phép giải quyết những vấn đề của giai cấp vô sản bằng phương thức của giai cấp tư sản - ai dụng đến ta, ta sẽ thủ tiêu người đó.
Nếu tất cả những người có mặt đều nhất trí với Mao thì chắc chắn vụ án xét xử tám kẻ chỉ trch này sẽ bị hủy bỏ ngay lập tức. Nhưng Tiểu Nữ, một nữ nhân viên chạc 40 tuổi của Văn phòng trung ương đã phản đối. Bà dẫn ra rằng, tám người này đã phê phán chánh Văn phòng trung ương và Văn phòng trung ương đã quyết định coi thái độ của họ là chống đảng. Họ đã bị đình chỉ công tác và buộc phải viết một bản tự kiểm điểm.
Tiểu Nữ đã khiêu khích Mao. Mặc dù tôi không đồng ý với quan điểm của bà, nhưng tôi phục lòng can dảm của bà. Nhưng bà thật ngây thơ không hiểu được lý do Mao phát động chiến dịch làm trong sạch đảng. Mao không hài lòng với thái độ bảo thủ của các nhà lãnh đạo đảng, ông muốn họ bị phê phán. Theo suy nghĩ của ông, lẽ phải thuộc về tám người kia. Mao đột ngột thay đổi thái độ. Ông nhỏm dậy, quăng chiếc khăn tắm sang một bên và nhìn quanh. Ông đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Ông nói:
- Được rồi, cả hai bên đề giữ lập trường của mình. Tôi không thể hòa giải họ được. Chúng ta sẽ triệu tập một cuộc họp để giải quyết vụ này. Tất cả đều phải có mặt. Chúng ta sẽ thảo luận kỹ lưỡng và chấm dứt hẳn vụ này. Ngày mai sẽ bắt đầu. Tất cả nhân viên của Trung Nam Hải đều phải tới. Bây giờ các đồng chí có thể đi.
Mao đã châm ngòi nổ quả bom, không thể đập tắt được nữa. Ông ủng hộ những cán bộ đã phê bình thủ trưởng của mình và ông hy vọng những nhân viên khác sẽ đứng về phía họ. Dương Thượng Côn, Chủ nhiệm kiêm bí thư đảng của Văn phòng trung ương và đồng thời cũng là bí thư đảng của đại bản doanh của ủy ban trung ương là một kẻ xảo quyệt. Hà Tài thuộc hạ của ông ta thì tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của ông. Vì Dương Thượng Côn biết Mao chống Hà Tài, nên ông đã viết một bản tự kiểm điểm trong đó ông cho biết ông không dính dáng gì đến những việc làm của Hà Tài và ông nhận lỗi là không quan tâm chu đáo đến những hoạt động của Hà và của phong trào làm trong sạch đảng trong Văn phòng thư ký chính trị. Trong cuộc họp lần thứ nhất, ông tuyên bố: Tôi yêu cầu tất cả những đồng chí có mặt hãy kẻ tên những người muốn hạ bệ những người tả khuynh của chúng ta. Và nếu ai cho rằng, cả tôi cũng phạm sai lầm thì hãy nói ra. Đó là một nước cờ cao.
Tiểu Lan lại lời buộc tội của bà đối với tám người kia, mặc dù bây giờ bà đã biết quan điểm của Mao. Trong cuộc họp lần này và tất cả các cuộc họp tiếp theo, bà đều nhắc đi nhắc lại lời buộc tội của bà là nhóm Lâm Khắc không treo cờ đỏ của đảng cộng sản, mà lại treo lá cờ đen của phe đối lập. Bà đã đặt cho vụ này một cái tên.
Họp hành kéo dài tới hơn một tháng trời. Thần kinh của tôi không thể chịu được những cuộc họp đó. Không ngoài sự mong đợi, nhờ sự can thiệp của Mao, cuối cùng tám người kia đã được giải thoát. Nhưng mãi sau này trong cuộc Cách mạng Văn hóa, tôi mới hiểu rõ chiến thuật của Mao trong vụ những lá cờ đen. Từ những ngày đó, Dương Thượng Côn đảng viên cao cấp nhất trong vụ này và cả thủ trưởng của ông là Đặng Tiểu Bình là những người bị Mao nghi ngờ nhiều nhất. Vụ này đối với Mao chỉ là một trong nhiều lần Mao thử thách lòng trung thành của Dương - một sự thử thách mà cuối cùng Dương Thượng Côn đã không qua được. Năm 1958 ông ta vẫn giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng trung ương. Nhưng đại bản doanh của ủy ban trung ương mà ông làm bí thư đảng đã bị giải tán - một mất mát nhỏ về uy tín, nhưng ông vẫn giữ được thể diện. Trong Cách mạng Văn hóa, vụ này được lôi ra và ông bị phế truất.
Những cán bộ cấp dưới trực tiếp của Dương cũng bị vạ lây. Lý Đông Diệp và Lưu Hoa Phong những người đã làm theo chỉ thị của Dương Thượng Côn và Tăng San bị thí tốt và bị đưa đi cải tạo, nơi số phận khắc nghiệt đang chờ đến họ. Cho tới năm 1980, sau khi Mao chết. Đặng Tiểu Bình và Dương Thượng Côn quay lại nắm quyền thì họ mới được phục hồi danh dự.
Hà Tài người bị các nhân viên phê bình đầu tiên thì còn thê thảm hơn. Ông bị đuổi ra khỏi đảng và cũng phải đi cải tạo, làm những công việc thấp hèn. Việc phục hồi danh dự cho ông cững phải đến năm 1980 mới được thực hiện.
Tiểu Lan người đàn bà đã ngây thơ khiêu khích Mao, ngu ngốc làm sai lệch đường lối chính thống của đảng, thì bị tiêu diệt hoàn toàn. Bà bị mất chức, bị khai trừ ra khỏi đảng và bị cải tạo bằng những công việc nặng nhọc. Bà đã chết trong trại cải tạo.
Một lần nữa vẻ bề ngoài làm người ta dễ mắc lừa. Những lời đồn đại hình như Điền Gia Anh đứng đằng sau các nhân viên của mình để chống lại Hà Tài lại là đúng. Đúng ra Hà Tài và Dương Thượng Côn là mục tiêu công kích của ông ta. Nhưng trong quá trình xét xử, Điền Gia Anh lại bảo vệ cho Dương Thượng Côn khỏi mất chức bằng cách ông quả quyết Dương Thượng Côn không biết gì về những việc làm của Hà Tài. Sau khi Hà Tài bị cách chức Dương Thượng Côn đã thăng chức cho Điền Gia Anh để thưởng công.
Vụ lá cờ đen đã cho tôi thấy những cuộc đấu đá chính trị ở Trung Nam Hải phức tạp và nguy hiểm tới mức nào. Mao yêu cầu những cán bộ cấp dưới hãy phê bình thủ trưởng của họ để đập tan khối bảo thủ trong hàng ngũ lãnh đạo. Vì những người lãnh đạo này có phương tiện, có quyền lực trong tay đề chống trả nên những người phê bình có nguy cơ bị quy là hữu khuynh hoặc là phản cách mạng. Chỉ có sự can thiệp của cá nhân Mao mới có thể cứu một người cấp dưới khỏi cành tù tội. Nhưng Mao vẫn chưa sẵn sàng đích thân tấn công và phế trất những nhà lãnh đạo đảng không làm vừa lòng ông. Những cuộc thanh toán chính trị luôn có một lối thoát vô định và một số người luôn đứng về bên những người thua cuộc, chẳng hạn như những cán bộ trung cấp, những người như tôi hoặc Lâm Khắc. Chúng tôi rơi vào một tình thế khó xử. Lòng trung thành đối với đảng đòi hỏi sự phục tùng và tuân lệnh. Ai hưởng ứng lời kêu gọi của Mao và phê bình cấp tren, người đó có nguy cơ bị quy là hữu khuynh. Một lần nữa tôi lại vui mừng vì không giữ chức vụ của Lâm Khắc. Một lần nữa, tôi tự răn mình là phải im lặng và đừng dính dáng vào những tranh chấp chính trị.
Chương 28
Vào mùa hè năm 1958, toàn thể nhân dân Trung quốc được hiệu triệu bắt tay thực hiện các công tác thủy lợi và do đó nhiều người đã đảm nhận những việc nặng nhọc. Mao đã phát động phong trào này. Những dự án không chỉ có những mục đích dơn thuần về kinh tế, mặc dù các hồ dự trữ nước chủ yếu để nhằm cải thiện hệ thống thuỷ lợi của Trung quốc và như vậy sẽ tăng sản lượng nông nghiệp. Bằng cách này, Mao còn muốn nhấn mạnh đến lao động chân tay và đề cao giá trụ của nó. Những dự án xây dựng này cùng nhằm để tỏ mối ác cảm muốn dời của Mao đối với sự ngạo mạn của lớp trí thức ăn bám và nhằm ca ngợi giai cấp công nông hay lam, hay làm.
Theo cơ quan tuyên truyền của đảng, ở Bắc Kinh đã có hàng trăm nghìn người tự nguyện đi xây dựng một hồ chúa nước mới gần khu mộ đời nhà Minh nổi tiếng. Những tấm bia mộ đổ nát của 13 trong số 16 vua đời nhà Minh nằm trên một vùng đồi nhấp nhô, cách thành phố chừng 50 km. Bộ đội, nhân viên của đảng và của chính phủ, công nhân từ các trường học, xí nghiệp, doanh nghiệp, thận chí cả nhân viên sứ quán, tất cả đều tham gia vào dự án này.
Sau đó đến cả các nhà lãnh đạo đảng của Trung quốc cũng tham gia. Họ xắn đất trong khi máy ảnh nháy liên tục, ghi lại sự kiện này cho hậu thế.
Buổi chiều ngày 5 tháng 5 nam 1958, sáu chiếc xe buýt chờ đầy cán bộ cao cấp của đảng và chính phủ ở Trung Nam Hải lên dường. Mao ngồi ngay trước mặt tôi, ở hàng gần cuối trong chiếc xe đi đầu và tán chuyện phiếm với những người cùng đi. Ông nói:
- Thông thường, súc vật phục vụ chúng ta. Bây giờ đến lúc chính chúng ta thử bắt tay vào việc. Mọi người đều khẳng định lao động chân tay là tốt, nhưng đến khi họ thực sự làm, họ sẽ mau chóng thay đổi ý kiến. Những người đến đây xây đập với nhiều lý do khác nhau. Một số người thực sự muốn lao động, một số khác cho đây là nghĩa vụ, còn một số nữa coi lao động chân tay là một loại giá trị. Nhưng lúc nào cũng vậy, lao động chân tay bao giờ cũng tốt hơn là chẳng làm gì cả.
Người lúc nhúc như kiến trên công trường. Đa số là bộ đội, rồi đến những thợ xây làm công, nông dân từ các vùng lân cận và cả những người tình nguyện từ các thành phố. Việc Mao tới làm tất cả mọi người sửng sốt. Khi ông từ trên xe buýt bước xuống, cả đám người khổng lồ đồng loạt vỗ tay và rầm rộ hô những khẩu hiệu chào mừng trong khi tướng Dương Thành Vũ tư lệnh quân khu Bắc Kinh và tổng công trình sự đập chắn nước nhiệt liệt đón chào Mao.
Cả một đại đội lính đã được huy động đề mở một con đường xuyên qua đám đông cưồng nhiệt đến một chiếc lều là đại bản doanh của tướng Dương. Từ chỗ chiếc lều, chúng tôi có thể nhìn bao quát toàn bộ khu vực, tướng Dương báo cáo Mao tình hình công việc. Trong khi người ta xây con đập ở tít phía sau, thì ở phía trước, trong một cái hố khổng lồ, vô số người dùng cuc xẻng đào khóet những tảng đá lớn. Họ xúc đá và cát cho vào sọt, rồi gánh bằng đòn gánh tới chất lên những chiếc xe goòng chạy trên đoạn đường ray từ đập tới hố.
Ngược lại, hàng nghìn người đổ đá và cát từ các xe goòng vào những chiếc sọt to và khiêng đến một xưởng xay đẻ xay thành đá răm. Sau đó đá vụn lại được đổ vào sọt và được gánh thẳng đến con đập. Công việc thật nặng nhọc.
Mao cùng với tướng Dương, các cán bộ cao cấp của đảng và tôi trong đoàn hô tống đi đến chân đập. Ông xắn tay áo, nhặt một cái xẻng và bắt đầu xúc đá vụn. Chúng tôi làm theo Mao. Mao mặc áo sơ mi trắng, chiếc quần màu xám và đi đôi dày vải đen. Trời nóng như thiêu như đốt. Mặt Mao đỏ lên mau chóng và chẳng bao lâu, cả người ông đã sao phủ một lớp bụi màu vàng. Ông bắt đầu vã mồ hội và những dòng nước nhỏ ngang đọc chảy trên mặt ông. Gần đến giũa trưa, tức là sau hơn nửa tiếng làm việc, tướng Dương Thành Vũ ép Chủ tịch phải nghỉ tay một chút. Mao nói: Đã lâu tôi chưa làm việc như thế này. Mới có làm một lúc mà tôi đã toát mồ hôi! Mao chui vào lều của tướng Dương để nghỉ uống trà.
Trong khi ông đang ngồi nghỉ, Mao hỏi tôi:
- Tại sao những người ở nhóm Một như các đồng chí không đến đây lao động một tháng nhỉ? Các đồng chí phải biết lao động nặng nhọc có ý nghĩa như thế nào. Nhiều người ở Bắc Kinh đã đến đây. Những nhân viên nhóm Một không được phép vắng mặt.
Chiến dịch làm trong sạch đảng của Mao tiếp tục tiến triển và không chỉ liên quan đến những người đã phạm sai lầm, mà còn dính dáng đến cả những đảng viên thường như tôi. Chúng tôi phạm sai lầm vì chúng tôi đã xa rời quần chúng như cách nói hồi đó. Nhân viên nhóm Một sống sung sướng, quá sướng theo cách đánh giá của Mao. Chúng tôi được an ngon, mặc đẹp, luôn luôn được người khác phục vụ. Vậy thì chúng tôi phải làm quen với cuộc sống thiếu thốn, khó khăn của giai cấp công nhân và nông dân. Qua đó, lối sống của chúng tôi sẽ thay đổi và điều hòa. Mao tin rằng lao động nặng nhọc sẽ có tác dụng tích cực và muốn tất cả chúng tôi - nhất là tôi, thành viên của tầng lớp được hưởng đặc quyền đặc lợi, cuộc sống lúc nào cũng dễ dàng, phải trải qua một chút cay cực. Bây giờ thì tôi đã cảm nhận được tác dụng của việc cải tạo lao động ngay trên cơ thể mình.
Đề nghị của Mao không dành cho tôi một sự lựa chọn nào khác. Tôi chẳng hứng gì với cái việc vất vả này, nhưng tôi vẫn phải chấp nhận. Tôi đáp:
- Dạ được ạ, thưa Chủ tịch. Nhưng chúng ta phải trở về thành phố để lấy đồ đạc.
Mao đồng ý.
Ngày hôm sau, ảnh Mao được đăng trên trang nhất của tất cả các báo trong nước. Với chiếc xẻng trong tay, xung quanh là các cán bộ đảng tươi cười và thường dân, Chủ tịch tuyên bố rằng ông rất tôn trọng lao động chân tay, ông hòa mình với quần chúng và mặc dù với cương vị lãnh đạo, ông sản sàng lao động như bất kỳ một người nào. Bức ảnh này được in đi in lại nhiều trên các báo và tạp chí, dĩ nhiên là cả trong sách báo tuyên truyền về Mao. Đó là lần duy nhất mà Mao làm việc nặng trong suốt 22 năm tôi làm việc cho ông. Ông cầm xẻng chưa đầy một tiếng đồng hồ. Chưa bao giờ trong lịch sử, chỉ một hành động đơn gỉan như vậy lại làm cho dân chúng khoái lao động chân tay đến thế.
Buổi tối, sau việc làm tượng trưng của Mao, tôi đi gặp Mao ở bể bơi để lập kế hoạch cho việc tham gia của nhóm tôi vào dự án này. Mao mới bơi một lúc và muốn uống trà với Giang Thanh ở trên bờ.
- Đập chắn nước cạnh khu mộ đời nhà Minh là một công trình vĩ đại. Hàng trăm nghìn người đã tự nguyện cống hiến thời gian và sức lao động. Thậm chí cả những người nước ngoài cũng tham gia. Chúng ta không được phép làm cho họ thất vọng. Từ ngày mai nhân viên nhóm Một - đồng chí, các thư ký và vệ sĩ - sẽ đến đó để làm việc từ 10 đến 20 ngày. Nhiệm vụ của đồng chí rất đơn giản. Đồng chí sẽ xúc và vận chuyển đá vụn, bất kể trời mưa hay nắng. Đồng chí cứ làm việc cho tới khi kiệt sức. Khi nào đồng chí thực sự không chịu đựng được nữa, đồng chí hãy báo cho tôi biết. Sau đó tôi sẽ đón đồng chí về.
Mao không quay lại công trường nữa bởi vì hình như ông rất bận. Một thư ký và một vệ sĩ phải ở lại với ông. Tất cả những nhân viên khác của nhóm Một đều phải đi. Ông nói:
- Các đồng chí hãy làm thay tôi, hãy đại diện cho tôi.
Ông quay sang Giang Thanh:
- Sức khỏe bà không được tốt. Bà không cần phải đi. Nhưng bà đừng cản trở người khác. Bà hãy để cho các nhân viên của bà đi.
Vợ Mao trả lời:
- Tôi chỉ cần hai cô y tá, những người khác có thể đi.
Giảm bớt nhân sự đối với Giang Thanh là một sự hy sinh lớn.
Ngày hôm sau chúng tôi khởi hành. Diệp Tử Long và Vương Kính Tiên, mới thay Uông Đông Hưng điều hành Ban an ninh, đi đầu. Các cán bộ từ tất cả các cơ quan trung ương của đảng, chính phủ và ủy ban nhân dân thành phố Bắc Kinh có nghĩa vụ phải lao động 20 ngày ở công trường. nhóm Một đến muộn hơn một chút, vì phần lớn những cơ quan khác đã lao động trước đó 5 ngày rồi. Ngay ở đây, nhóm Một cũng là nhóm được ưu đãi. Những người khác phải ngủ trong những túp lều đan và không chịu nổi giông bão. Ngược lại, tướng Dương Thành Vũ đã thu xếp cho chúng tôi ở trong phòng học của một trường trung học ở khu Eangshan gần đó. Căn phòng không được trang bị đồ gỗ và chỉ rộng chừng 12 mét vuông. Chúng tôi ngủ dưới đất và dùng những chiếc áo khoác nông làm nệm - Chín người chúng tôi nằm ngủ kiểu xếp cả hộp. Nếu một người muốn giở mình, thì tất cả những người khác đều phải thay đổi tư thế theo. Những tiếng động triền miên vì nóng nực và ồn ào trong phòng, nên chẳng ai ngủ được. Tuy vậy chúng tôi vẫn biết ơn về điều kiện cư trú hạng nhất này dành cho chúng tôi.
Tướng Dương cũng ưu tiên cho chúng tôi làm việc theo ca thoải mái nhất. Đó là ca đêm từ nửa đêm đến 8 giờ sáng lại một dấu hiệu nữa về việc người ta ưu đãi chúng tôi. Lúc đó vào cuối tháng 5 ban ngày trời nóng kinh khủng. Ca đêm đlã giúp chúng tôi tránh được cái nóng dữ dội nhất. Chúng tôi ăn sáng lúc tan ca với một chiếc bánh mì thô được gọi là nắm đấm, với cháo và rau muối. Buổi sáng, chúng tôi dành thời gian học chính trị. Người ta muốn chứng minh cho chúng tôi là tất cả những tiến bộ về văn hóa của nhân loại chỉ có được thông qua lao động nặng nhoc. Bữa ăn trưa khá hơn bữa ăn sáng một chút. Có rau luộc, một ít cơm và một bát canh, nhưng gia vị rất tồi, đến nỗi tôi ăn chẳng thấy ngon chút nào. ăn xong chúng tôi đi ngủ đến khoảng 21 giờ thì dậy và sửa soạn đi làm.
Công trường cách trường học một tiếng đi đường. Chúng tôi khởi hành lúc gần 23 giờ. Mao đã có lý khi ông nói công việc rất đơn giản. Tôi đào đất, đá từ lòng sông và xúc từng xẻng đất đổ vào chiếc sọt lớn. Khi hai sọt đã đày, tôi treo chúng lên đòn gánh, đưa lên vai và gánh tới những toa goòng chuyển đá vụn đến nơi xây đập. Tôi vẫn còn trẻ, mới 38 tuổi và rất khỏe mạnh. Thời thanh niên tôi đã tập thể thao thể dục và bóng rổ. Nhưng đây là công việc khổ cực nhất, nặng nhọc nhất trong đời tôi. Cơ bắp mà tôi phải sử dụng ở đây hoàn toàn khác với khi tôi tập thể thao. Ban đêm trời lạnh, vậy mà sau một, hai tiếng, mồ hôi tôi vã ra như tắm và người tôi chỗ nào cũng đau ê ẩm. Đối với nhiều người khác ở nhóm Một, những người xuất thân từ nông tlôn, công việc cầm xẻng đối với họ hoàn toàn bình thường như tôi cầm dao dĩa vậy. Họ gánh liền 6 sọt mà chẳng có vẻ mệt nhọc gì và nhịp điệu các bước đi của họ uyển chuyển như nhảy múa.
Tôi cố gắng làm bằng các đồng chí xuất thân từ nông thôn, nhưng không được. Một đêm, tôi kiệt sức đến nỗi khi trút đá từ những chiếc sọt của mình xuống xe goòng, tôi đã mất thăng bằng và ngã vào đó, làm cho những người quanh tôi được một trận cười khoái chí. Họ đùa: Việc này hơi khác với việc dùng ống nghe và dao mổ phải không? Lần đầu tiên trong đời, một cảm giác thua kém thoáng hiện lên trong tôi. Nhưng tôi tự an ủi, những công nhân và nông dân kia cũng sẽ trông rất nực cười với ống nghe hoặc dao mổ trên tay. ở đây tôi cũng có thể hình dung được, cuộc sống cải tạo lao động của những người hữu khuynh nặng nhợc và khắc nghiệt đến mức nào. Bao nhiêu người trong số họ còn sống sót?
Những người khác tìm cách giúp tôi. Họ giải thích cho tôi phải phân chia lực như thế nào và gánh như thế nào để không cảm thấy nặng. Nhưng vô ích. Một đêm mưa rất to, Vương Kính Tiên nhìn thấy tôi ướt như chuột lột và run lên vì lạnh. Ông ta đề nghị tôi nghỉ và quay về trường học. Nhưng tất cả những người khác vẫn làm việc tiếp, nên tôi không được phép bỏ cuộc. Tôi vẫn cố sức và chẳng bao lâu, mặc dù trời mưa và lạnh mồ hôi tôi túa ra.
Đến ngày thứ 15 thì tôi gần như qụy. Tôi không ngủ được, không ăn được và tất cả những năng lượng dự trữ của tôi đã cạn kiệt. Đau đớn kéo dài. Tất cả cơ bắp đều đau, mỗi bước đi tôi đều thấy đau đớn. Thời gian 20 ngày lao động đối với các cán bộ đảng và chính phủ đã kết thúc, chi có nhóm Một đến sau 5 ngày và phải quyết định có tiếp tục ở lại hay không. Chẳng một ai muốn làm tiếp cả. Nhưng cũng chẳng ai muốn mạo hiểm để bị quy là phần tử chống đối, nếu người đó đề nghị không làm nữa. Chúng tôi quyết định làm thêm 5 ngày.
Sau đó tướng Dương Thành Vũ đã giúp chúng tôi. Ông chúc mừng thành tích lao động của chúng tôi. Ông nói: Các đồng chí làm 15 hay 20 ngày không quan trọng. Chủ tịch cần các đồng chí. Một giờ làm việc cho Chủ tịch đáng giá hơn ngày lao động ở đây. Với tư cách là tổng công trình sư ở đây, tôi ra lệnh cho các đồng chí phải rời khỏi công trường. Ông cười, chúng tôi cũng cười, quá vui mừng trước mệnh lệnh của ông chúng tôi cười phá lên.. Chúng tôi có lệnh phải trở về Trung Nam Hải.
Tuy vậy, cuộc họp vẫn chưa được giải tán, bởi vì chứng tôi phải chọn ra một người lao động gương mẫu trong nhóm. Tôi đã được đè cử. Một người nào đó nói: Bác sĩ Lý rất xứng đáng. Đồng chí ấy là trí thức, nhưng đồng chí ấy vẫn không nề hà. Đồng chí luôn theo sát chúng tôi và làm việc đến cùng. Đối với đồng chí ấy, điều đó không phải là đơn giản.
Đa số ủng hộ anh ta nhưng tôi không thể nhận danh hiệu này được. Trao tặng danh hiểu lao động gương mẫu cho tôi quả là vô lý. Tôi đến đây không phải là tự nguyện mà là Mao đã ra lệnh cho tôi. Ngoài ra, phần thưởng này đối với tôi không phải là một giá trị gì lớn. Tôi là một bác sĩ và những kiến thức về y học mới là niềm tự hào của tôi. Tôi cũng biết rõ nhóm Một. Nếu tôi được tuyên dương là lao động gương mẫu, thì những thành viên khác trong nhóm Một, như Diệp Tử Long chẳng hạn sẽ có lý do cho những mưu mô xảo quyệt của họ.
Tôi từ chối phần thưởng này, tôi giải thích: Là một trí thức, tôi phải hoàn thiện mình bằng lao động. Tôi không thể nhận danh hiệu lao động gương mẫu, nếu không tôi sẽ không còn ý thức phấn đấu nữa. Một vài thành viên của nhóm khuyên nhủ tôi, nhưng tôi cương quyết từ chối. Tuy nhiên, nhóm không thể nhất trí chọn một người khác làm lao động gương mẫu.
Tướng Dương Thành Vũ lại tìm ra một giải pháp. Ông nói: Tất cả các đồng chí đều làm việc cho Chủ tịch. Tất cả các đồng chí đã làm gương cho những người khác. Vậy thì mọi người trong các đồng chí đều là lao động gương mẫu. Chúng tôi sẽ gọi tất cả nhóm của các đồng chí là nhóm lao động gương mẫu.
Tất cả đều hài lòng với đề nghị này. Chúng tôi có thể trở về Bắc Kinh trong niềm vinh quang.
Khi chiễc xe tải cho chúng tôi xuống Trung Nam Hải tôi không dám về nhà ngay. Từ hơn hai tuần nay tôi chưa tắm và không muốn cho gia đình nhìn thấy tôi trong tình trạng này. Thay vì về nhà, tôi tới Hạnh Hoa Viên, vào một trong những nhà tắm kiểu cũ không được sang lắm khi đó vẫn còn lại. Với 5 nhân dân tệ giá trị tương đương với bốn kilôgam, lợn tôi được dẫn vào một phòng riêng có chỗ nằm thoải mái và có một bồn tắm. Một nhân viên xà nước ấm vào bồn tắm. Tôi ngâm mình trong bồn và lần đầu tiên trong hai tuần nay, tôi mới được thoải mái như thế.
Sau khi tắm xong sạch sẽ, tôi lên giường nằm và người nhân viên xoa bóp những bắp thịt đau nhức cho tôi. Trong khi đó, người ta để quần áo của tôi đã được giặt sạch sẽ tới, hong khô và là cẩn thận. Sau hai tiếng nghỉ ngơi ở nhà tắm, tôi đã hồi lại để có thể ra mắt gia đình. Tôi đến Liuli chang, chỗ mẹ tôi.
Diện mạo của tôi làm cho mẹ và vợ tôi bị sốc. Họ kêu lên. Gày đi nhiều quá! Lý Liên có thể hiểu được những đau đớn và cực nhọc của tôi. Cô đã lao động một ngày ở đập trở về bị cháy nắng và kiệt sức. Cả hai người đều muốn tôi ở nhà và nghỉ ngơi cho lại sức. Nhưng Mao đang chờ và tôi muốn sẽ là người đầu tiên kể cho ông nghe về sự rủi ro của mình. Tôi ăn ngấu nghiến món thịt viên ngon lành do mẹ tôi nấu, rồi tất tưởi lên đường gặp Chủ tịch.
Ông đang ngồi với Giang Thanh trên bờ bể bơi. Ông trêu tôi:
- Trông kìa, anh chàng giết gà không nổi! Đồng chí bị ngã vào xe goòng phải không? Cũng may là đồng chí nhanh chân ra được. Nếu không đồng chí đã bị đưa xuống đập cùng đá vụn rồi.
Tôi đã đến quá muộn. Một người nào đó đã báo cáo cho ông về công việc của tôi trong hai tuần qua. Y tá của Giang Thanh đã cho tôi biết là Giang Thanh rất khoái chí về chuyện của tôi. Bà hỏi tôi:
- Lúc ấy đồng chí thấy thế nào? Trong xe goòng có thích không? ở đâu tất cả các đồng chí cũng được ăn ngon, được ở những nơi tráng lệ và được tiếp đãi tử tế chỉ vì các đồng chí là nhân viên của Chủ tịch. Bây giờ các đồng chí cũng phải có lần chịu khổ một chút chú.
Mao đã biết chuyện, Suýt nữa thì đồng chí không chịu nói.
Tôi nói thêm: Tôi đã kiệt sức. Công việc cũng không mấy dễ chịu
- Trí thức các đồng chí chỉ được cái nói và viết lách là giỏi. Các đồng chí không hình dung được những công việc nặng nhọc. Khi tôi nói trí thức đôi khi cũng nên lao động chân tay, thì không phải là những lời trống rỗng. Bởi vì lao động chân tay giúp cho chúng ta có khả năng gần gũi quần chúng và biết đánh giá sức mạnh tập thể của toàn dân. Đồng chí nên lao động thường xuyên hơn. Điều đó sẽ tốt cho đồng chí.
Những lời của Mao làm tôi phát hoảng. Chẳng có gì tốt đẹp đối với tôi, khi tôi phải trở lại công trường. Câu chuyện về cuộc vận lộn hai tuần với lao động nặng nhọc của tôi đã lan đi khắp Trung Nam Hải. Mãi sau này, cái ngã vào xe goòng đáng xấu hổ của tôi vẫn được người ta lấy ra làm chuyện bông đùa.
Chương 29
Năm 1956, sau khi từ Liên-xô trở về Giang Thanh mắc căn bệnh u uất. Bà nghĩ rằng, bệnh ung thu cổ tử cung của bà lại tái phát, rằng bà có khối u ở gan, ở dạ dày và trong não, rằng cơ thể bà như đang bị bệnh tật tàn phá. Ngoài ra bà còn cảm thấy trong tai bà như có tiếng chuông kêu. Bà không chịu được cả ánh sáng lẫn tiếng động, gió lùa cũng khiến bà kêu ca, bà ăn không ngon, ngủ không yên. Thế là trước khi uống thuốc chữa bệnh, bà dùng thuốc ngủ, lần khác bà uống thuốc chữa bệnh trước, rồi mới dùng thuốc ngủ. Sau bà cho rằng các loại thuốc công nhau, loại thuốc bà uống sau phản ứng với loại thuốc uống trước. Bà ghiền thuốc ngủ, nghiện thuốc Tây và nghiện cả các chứng bệnh của bà. Nhưng việc điều trị bằng cách chiếu tia đã làm cho bà hoàn toàn khỏi bệnh ung thư.
Khi bà cùng sống với Mao, tôi lại phải chịu trách nhiệm về sức khỏe của bà và buộc phải cẩn thận với những lời phàn nàn của bà.
Qua vài lần xét nghiệm máu sau khi bà từ Moskva trở về, tôi phát hiện ra một điều hơi khác thường trong mẫu máu của bà tôi chắc mẩm không có gì hệ trọng. Điều đó chỉ là những biểu hiện thích nghi của cơ thể sau khi được chiếu tia. Thế nhưng Giang Thanh đã phản ứng thật kỳ quặc. Tôi muốn trấn an bà bằng cách để một số bác sĩ nổi tiếng nhất ở trong nước khám bệnh cho bà. Ngay sau khi tôi lên đường đi vào thế giới công việc đầy khó khăn này thì Ban y tế trung ương, một bộ phận trực thuộc bộ y tế chuyên chăm sóc sức khỏe cho những chính trị gia cao cấp nhất, đã phái một số chuyên gia dưới sự chỉ đạo của tôi, tiến hành một cuộc khám bệnh kỹ lưỡng đối với tất cả các căn bệnh khả nghi của Giang Thanh. Công việc này kéo dài suốt hai tuần liền, vì trong thời gian đó Giang Thanh đã tỏ ra ngang ngược, thay đổi thời hạn theo ý bà, trịch thượng đối với các bác sĩ và sai khiến họ như những kẻ tôi tớ của bà. Sau khi việc chẩn đoán bệnh kết thúc, tôi đã tập họp các bác sĩ lại. Tất cả chúng tôi đều đi đến một kết luận: Giang Thanh không heef có bệnh. Bệnh ung thư của bà đã được chữa khỏi hoàn toàn, màu máu của bà gần như đã bình thường. Và thực tế là 20 năm sau, từ đầu năm 1957 đến khi bị bắt giam bà vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Chỉ có một vấn đề mà tất cả chúng tôi đều nhất trí, đó là bản tính tâm lý của bà. Tôi có thể hiểu được vấn đề này đã phát sinh như thế nào. Giang Thanh lo cho sức khỏe của bà, trong khi bà ít hiểu biết về cơ thể con người. Thêm vào đó, bà vốn đa nghi và thiếu tự chủ, bà chẳng tin một ai kể cả các bác sĩ của bà. Có tính đanh đá ích kỷ, bà xua đuổi tất cả những người mà đáng lẽ có thể là bạn của bà và người ta cũng không thể xem mối quan hệ của bà với Mao là bình thường. Cuộc sống cách biệt càng làm bà thêm sợ hãi. Chúng tôi chỉ có thể gọi căn bệnh tâm lý của bà là suy nhược thần kinh chung chung. Nhưng chúng tôi là những nhà y khoa, những chuyên gia về những trục trặc của cơ thể con người. Nên chúng tôi không thể giải quyết nói vấn đề tâm lý của Giang Thanh. Chúng tôi đã soạn một báo cáo rồi gửi cho cả Mao lẫn Giang Thanh. Chúng tôi đã trình bày rằng chúng tôi đã xem xét toàn bộ tình trạng sức khỏe của nữ đồng chí Giang Thanh, rằng việc điều trị bằng cách chiếu tia đã thành công và đồng chí Giang Thanh đã hồi phục. Chúng tôi khuyên bà nên tăng thêm lượng vitamin để nâng cao tính đề kháng cho cho cơ thể và khuyến khích bà hãy tham gia các hoạt động văn hóa văn chương và thể thao.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khuyên bà phải quan hệ xã hội nhiều hơn nữa và lao động cho khuây khỏa. Lời khuyên sau cùng hoàn toàn là một sự nhã nhặn, vì Giang Thanh chẳng có gì để mà làm. Đó cũng là một nguyên nhân gây nên căn bệnh tâm lý của bà. Giang Thanhh bác bỏ bàn báo cáo và văn khẳng định là bà dang mắc bệnh nặng. Theo bà các bác sĩ hoặc là những kẻ ngu dốt, hoặc là những tên lừa đảo. Bà ra lệnh cho chúng tôi phải viết lại bản báo cáo. Chúng tôi lại họp lần nữa, tuy nhiên lần này không phải để bàn về sức khỏe của bà. Chúng tôi phải viết một bán báo cáo mà một mặt nó có thể cho Giang Thanh biết được những nhận định của chúng tôi, mặt khác bà có thể chấp nhận được nó. Cuối cùng, chúng tôi quyết định một phương án điều trị dần từng bước căn bệnh suy nhược thần kinh của bà một cách thoải mái. Những triệu chứng khiến bà khó chịu là kết quả của việc gia tăng một cách tự nhiên căn bệnh suy nhược thần kinh. Nhưng Giang Thanh cũng chẳng thích gì bản báo cáo này. Bà yêu cầu: Các đồng chí có thể đảm bảo trong tương lại tôi cũng không mắc bệnh chứ. Thật phi lý, vì tất nhiên chẳng ai dám bảo đảm với bà điều đó. Bà còn cho báo cáo này quá trừu tượng. Chúng tôi phải lập tức biến những đề nghị bà tham gia các hoạt động văn chương và thể thao thành một thời gian biểu hàng tuần với những thời hạn quy định.
Chúng tôi khuyên bà đi xem phim, đi nghe nhạc, trau dồi nghệ thuật nhiếp ảnh của bà và tham gia các buổi khiêu vũ, hòa nhạc. Bà cũng nên tập Thái Cực quyền, một môn võ cổ truyền. Thái cực quyền đòi hỏi sự tập trung cao trong việc chế ngự hơi ởn và cử động. Chúng tôi nghĩ môn thể thao này sẽ giúp Giang Thanh trầm tĩnh hơn. Mao có vẻ hoài nghi, nhưng ông cũng đồng ý nên để bà thử xem sao. Ban y tế đã tìm được một sư phụ là ông Cố, người được ban thể thao Thượng Hải giới thiệu. Ông bắt đầu bằng những buổi luyện tập hàng ngày các kỹ thuật cơ bản. Mao và vợ đến nghỉ vài tuần tại một nhà nghỉ ở ngoại ô phía tây thành phố Bắc Kinh. Khu nhà này dành cho các các bộ cao cấp của đảng, được gọi là Lục tân lầu. ở đó tôi cũng giúp Cố trong các buổi tập hàng ngày. Giang Thanh đã thực sự tỏ ra cố gắng học Thái cực quyền nhưng bà một một học trò tồi. Cố là một người rất thận trọng và dè đặt. Tuy nhiên, ông coi trọng môn võ của ông, nên cả vợ của Chủ tịch. Ông cũng đề nghị phải tuân thủ nghiêm ngặt. Giang Thanh tỏ ra tức giận mỗi khi bị ông sửa tư thế hoặc cách thở. Tôi đã phải khuyên can ông đừng có thái độ quá cục cằn về sự chậm tiến của Giang Thanh.
Mùa hè đã đến. Tháng 7, tôi cùng với Mao và Giang Thanh trở về Bắc Đới Hà. Cố đi theo chúng tôi để tiếp tục chương trình luyện tập.
ở Bắc Đới Hà, căn bệnh tâm lý của Giang Thanh lại đột ngột gia tăng. Bà luôn luôn than vãn. Vì sợ ánh sáng mặt trời, bà ra lệnh cho các cô y tá phải kéo rèm lại. Sau đó bà lại muốn có không khí trong lành nên bà lại ra lệnh mớ cửa sổ, nhưng chỉ được để cho gió vào. Bà nhạy cảm vói tiếng động nhỏ nhặt, thậm chí cả tiếng quần áo sột soạt ở những nhân viên phục vụ của bà cũng làm bà khó chịu. Màu sắc cũng quấy rầy bà, đặc biệt là màu hồng và nàu nâu làm cho đôi mắt bà tổn thương. Tất cả đồ đạc trong nhà - các bức tường cũng như đồ gỗ đều phải sơn một màu xanh lá cây nhạt.
Các y tá của bà không thể chiều theo ý bà. Trong vòng một tháng, bà đã đổi y tá tới năm sáu lần. Có lần khi đuổi một cô y tá bà đã nói: Trung quốc có 600 triệu dân cơ mà, chúng ta tha hồ mà chọn. Tôi phụ trách những nhân viên chăm sóc Giang Thanh vâ tôi cũng chẳng biết tôi phải làm gì nữa. Tôi đã trình bày với Thạch Chu Hàn và Hoàng Thụ Trạch trưởng và phó Ban y tế trung ương về việc này. Tôi hy vọng, kinh nghiệm của họ có thể sẽ giúp được tôi. Nhưng đến họ cũng bất lực. Hoàng Thụ Trạch đưa tôi đến gặp Dương Thượng Côn. Sau khi nghe tôi trình bày, Dương Thượng Côn nói: Giang Thanh không nể tôi lắm. Vậy tôi có thể làm được gì?
Cuối cùng Thạch Chu Hàn, Hoàng Thụ Trạch và tôi đã quyết định trình bày vấn đề này với thủ tướng Chu Ân Lai. Tất cả chúng tôi đều rất kính trọng Chu. Thạch Chu Hàn cũng đã từng gặp phải một vấn đề tương tự với Lâm Bưu như tôi với Giang Thanh bây giờ. Hồi đó Lâm Bưu đang ở tình trạng chưa hoàn toàn nghỉ hưu. Lâm Bưu cũng mắc bệnh suy nhược thần kinh và không chịu theo theo chỉ dẫn của bác sĩ. Chu ân Lại dă nói với ông rằng, Mao Chủ tịch và đảng hy vọng Lâm Bưu sẽ tuân theo chỉ dán của bác sĩ. ít ra, làm Bưu cũng dă nghe lời bác sĩ một thòi gian. Chúng tôi nghĩ Chu cũng sẽ tìm ra được một giải pháp tương tự đối với Giang Thanh.
Nhưng chúng tôi đã lầm.
Chúng tôi xin yết kiến thủ tướng và trình bày lý do của chúng tôi. Chu từ chối là ông rất bận. Thay vào đó ông đề nghị chúng tôi đến gặp vợ ông là bà Đặng Dĩnh Siêu, là cố vấn và là người tin cẩn nhất của ông. Bà cũng là một ủy viên trung ương đảng có uy tín. Cho đến lúc đó, tôi chưa hề tiếp xúc với vợ Chu. nhưng từ lâu tôi vẫn ngưỡng mộ bà. Chúng tôi thường gọi bà là chị cả Đặng. Tôi lấu làm vinh hạnh nếu được làm quen với bà. Nhiệm vụ của tôi là phải thuật lại vấn đề cho Đặng Dĩnh Siêu nghe. Tôi phải trình bày tường tận tình trạng của Giang Thanh và giải thích rằng, những khó khăn mà Giang Thanh dang gặp phải chỉ là bản tính của cơ thể và vì vậy không thể giải quyết được bằng các phương tiện y học Theo đánh giá của tôi, vấn đề tâm lý của Giang Thanh là hậu quả của sự cách biệt của bà với bên ngoài và bà chẳng tham gia vào một hoạt động nào. Có lẽ Giang Thanh sẽ thay đổi được cách sống và khắc phục được vấn đề tâm lý nếu bà được mọi người hợp với bà khuyên bảo. Chúng tôi phải nhờ đến Đặng Dĩnh Siêu, vì chính tôi đã bất lực.
Đặng Dĩnh Siêu chăm chú tôi trình bày. Sau đó bà nói: Chủ tịch dă cống hiến trọn đời cho cách mạng. Tám thành viên trong gia dình Chủ tịch đã hy sinh cho cách mạng. Chúng ta phải hiểu rằng hiện giờ Mao Chủ tịch chỉ còn có vợ là nữ đồng chí Giang Thanh thôi. Người vợ cả của Chủ tịch là Dương Khai Huệ đã hy sinh cho cách mạng, người vợ thứ hai là Hạ Tứ Trân thì mắc bệnh tâm thần. Bây giò cả Giang Thanh cũng lâm bệnh. Với tất cả khả năng của chúng ta, chúng ta phải giúp đỡ đồng chí Giang Thanh. Bởi vì như thế chúng ta mới chứng tỏ được lòng biết ơn của chúng ta đối với Chủ tịch. Dù nhiệm vụ có khó khăn đến đâu chúng ta cũng phải hết lòng chữa chạy cho Giang Thanh.
Bà nói tiếp: Đồng chí nói rằng ở đồng chí Giang Thanh có vấn đề về tâm lý. Điều đó làm chúng tôi rất buồn. Lẽ ra đồng chí không nên nói ra điều đó, làm như vậy là không công bằng đối với Chủ tịch. Đảng giao cho đồng chí nhiệm vụ điều trị cho nữ đồng chí Giang Thanh với những phương tiện y học tốt nhất chứ đồng chí không có quyền can thiệp vào những công việc khác.
Tôi như bị dội một gáo nước lạnh. Đặng Dĩnh Siêu đã làm đảo ngược sự việc. Rõ rằng, bà đã nói chuyện với Chu Ân Lai, vì bà sẽ không có thái độ như vậy nếu bà không được Chu đồng tình. Bỗng nhiên, tôi hiểu rằng, Chu Ân Lai là một kẻ nô lệ của Mao, chỉ nhất nhất tuân theo từng lời của Chủ tịch. Cả ông lẫn vợ chẳng ai dám có một ý nghĩ độc lập nhỏ nào. Đặng Dĩnh Siêu là ngưòi đàn bà khôn ngoan và tính toán. Tôi tìm đến bà với một vấn đề thực sự, nhưng bà lại muốn lợi dụng việc này để trở thành người tin cẩn của Mao bằng cách bà tố cáo chúng tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ đối với Chủ tịch, không cố gắng làm việc. Bà và chồng bà đã đưa chuyện này ra ánh sáng. Nếu Mao biết cuộc đối thoại này, vợ chồng bà sẽ được lòng Mao. Còn mối quan hệ của tôi với Mao chắc chắn sẽ xấu đi. Tôi cảm thấy mình bị lừa dối. Bà ta dă thành công trong việc lợi dụng ý tốt của tôi để chống lại tôi và đẩy tôi vào thế thù. Bằng cách biến sự bất lực của tôi trong việc giải quyết vấn đề của Giang Thanh thành sự thử thách lòng trung thành của tôi đối với Mao. Đặng Dĩnh Siêu là một người đàn bà quỉ quyệt. Từ đó tôi không còn tin bà nữa. Tôi tức giận và rùng mình khi rời khỏi nhà bà.
Bây giờ tôi chẳng còn cách nào khác là đích thân nói thẳng với Mao. Cơ họi đã đến trong chuyến viếng thăm bí mật Trung quốc của Khơ-rút-sốp. Khơ-rút-sốp đến Bắc Kinh vào ngày 31.7. 1958. Mao đi tàu từ Bắc Đới Hà về Bắc Kinh để tiếp đón. Trên đường đi tôi đã nói chuyện với Mao về tình hình sức khỏe của Giang Thanh. Mao sửng sốt:
- Các đồng chí đã nộp báo cáo cho tôi rồi cơ mà? Lại xuất hiện vấn đề mới hay sao?
Tôi đáp:
- Tuy không có vấn đề mới nào cả, nhưng bản báo cáo không chứa đựng được tất cả những điều các bác sĩ muốn trình bày. Mao dụi điếu thuốc và đề nghị tôi nói tường tận sự việc với ông. Tôi bắt đầu: Các bác sĩ cho rằng đồng chí Giang Thanh không có vấn đề gì nghiêm trợng về thân thể. Vấn đề của đồng chí ấy là tâm lý. Tôi đưa cho Mao đọc một bản hội chẩn được các bác sĩ khám cho Giang Thanh ký tên. Tôi nói tiếp: Ngoài ra, các bác sĩ còn cho rằng, đồng chí Gimg Thanh thường lầm lần giữa cách đánh giá của riêng mình với thực tế. Và suy nghĩ của đồng chí ấy thường hay thay đổi. Tích cực hoạt động xã hội và tang cường quan hệ có thể sẽ giúp được đồng chí ấy.
Mao im lặng.
Tôi biết rằng, nguyên soái Lâm Bưu khi bị mắc bệnh đã cương quyết không nghe theo lời khuyên của bác sĩ. Nhưng khi thủ tướng Chu Ân Lai yêu cầu đồng chí ấy nghe theo chỉ dẫn của bác sĩ, thì đồng chí ấy đã làm theo. và đồng chí ấy dần dần bình phục. Vấn đề là ở chỗ đồng chí Giang Thanh chẳng nghe lời một ai trong chúng tôi cả. Chúng tôi không biết làm thế nào. Mao nhắm mắt lại, châm một diếu thuốc mới và rít một hơi dài. Ông chậm rãi nói: Giang Thanh chỉ nghe theo chỉ thị của đảng. Tôi biết ông ám chỉ chính ông khi ông nói tới đảng. Ông nói thêm, vợ ông thường nghĩ những chuyện quá tầm thường, ngược lại chúng tôi chỉ quan tâm đến vấn đề của bà mà chẳng để ý đến những chuyện khác. Điều thực sự làm cho bà ấy lo lắng là ý nghĩ: có lẽ một ngày nào đó tôi chán bà ấy. Tôi vẫn thường nói với bà ấy rằng bà ấy không phải lo lắng gì.
- Đồng chí hãy truyền đạt cho các y tá rằng tôi biết đánh giá những cố gắng của họ đối với Giang Thanh. Chắc chắn bà ấy chẳng dễ chịu chút nào đối với các y tá. Thỉnh thoảng họ cũng cần phải tờ chối những đòi hỏi của Giang Thanh.
Tôi nói:
- Điều đó thì họ chẳng dám đâu, thưa Chủ tịch. Làm sao họ có thể từ chối những yêu cầu của Giang Thanh được? Nếu vậy, họ sẽ bị tố cáo là phản cách mạng. Những các y tá cũng không thể làm cho đồng chí ấy hài lòng được, ngay cả khi họ đã cố hết sức.
Mao cười:
- Bà ấy ốm đau đã lâu rồi và bây giờ bà ấy cũng phải niềm nở hơn một chút chứ.
- Không phải các y tá mong muốn đồng chí ấy ân cần, niềm nở hơn, mà họ chỉ hy vọng rằng Giang Thanh đừng hay mắng mỏ họ và đưa ra những đòi hỏi vô lý.
Mao nói:
- Tôi nghĩ bà ta đã qua khỏi giai đoạn tồi tệ nhất của căn bệnh rồi. Đồng chí hãy nhân danh tôi cám ơn các bác sĩ và y tá.
Tiếp đó, tôi nói với Mao là các bác sĩ mong rằng ông sẽ không cho Giang Thanh biết bản hội chẩn.
Mao đóng ý:
- Không, tôi sẽ không kể chuyện này cho bà ấy đâu. Tôi nghĩ Giang Thanh sẽ nghe theo chỉ thị của đảng. Nếu đồng chí có vấn đề gì với bà ấy đồng chí hãy nói thẳng với bà ấy và cả với tôi nữa. Nhưng đồng chí đừng có nói với những người khác sau lưng chúng tôi. Như vậy là không tốt đâu.
Tôi trả lời: Tôi chưa bao giờ nói sau lưng Chủ tịch.
Tất nhiên là cuộc đối thoại giữa tôi và Đặng Dĩnh Siêu đã diễn ra sau lưng Mao, nhưng tôi không thể thú nhận. Hơn nữa, đã từ lâu tôi lấy làm ân hận về cuộc gặp gỡ với vợ thủ tướng. Mao lại cười:
- Tất cả chúng ta hãy làm những việc mà chúng ta phải làm.
Tôi lại gặp gỡ với Thạch Thụ Hán, Hoàng Thụ Trạch, là những người lãnh đạo bộ phận bảo vệ sức khoẻ, để báo cáo lại cuộc đối thoại giữa tôi và Mao. Họ có vẻ lo ngại nếu đến lúc nào đó Giang Thanh biết được chuyện này, thì các bác sĩ và Ban y tế trung ương sẽ phải gánh chịu hậu quả. Vì họ cho tôi một lời khuyên hữu ích: đừng bao giờ nói cho Mao về Giang Thanh.
Chắc Mao đã cảnh cáo vợ về thái độ của bà đối với các y tá. Giang Thanh đã cố gắng cư xử với họ tốt hơn. Nhưng mặc dù vậy, trong mùa hè năm đó ở Bắc Đới Hà, cũng có vài y tá bị sa thải. Tôi bắt đầu đoán được rằng, những xung khắc giữa Giang Thanh đối với các y tá không chỉ vì bà không hài lòng với công việc của họ, mà bà còn lo ngại về sức quyên rũ của các cô gái trẻ đối với Mao. Giang Thanh có thói quen bắt chuyện với các cô y tá mới từ bệnh viện Bắc Kinh được cử đến chỗ bà trong các buổi khiêu vũ. Theo bà khi đó không khí thoái mái hơn. Cả Mao cũng có mặt, còn các cô gái trẻ chìm ngập trong sự kính cẩn khi họ nhìn thấy Mao. Có lần bà vô cùng bực tức khi một cô y tá trẻ ngừng lấy thuốc cho bà để bắt tay Mao và chào đón ông rất nồng nhiệt. Tôi cố gắng giải thích cho bà rằng, thái độ quá lố đó của các cô y tá trẻ là điều hoàn toàn tự nhiên, vì họ đang đối diện với một người đáng kính.
Nhưng Giang Thanh lại nghĩ khác:
- Bác sĩ ạ, đồng chí không hiểu Chủ tịch đâu. Ông ấy phóng đãng lắm. Lối sống và lao động trí tuệ của ông ấy là hai thái cực hoàn toàn khác nhau. Lúc nào có những người đàn bà chỉ muốn chiếm lấy ông ấy. Đồng chí có hiểu không? Đồng chí phải báo các cô bé hãy tỏ ra có đạo đức một chút. Họ phải lễ độ đối với vị lãnh đạo của họ, nhưng cũng phải thận trọng khi tiếp xúc với ông ấy.
Sự nhắc nhở của Giang Thanh làm tôi bối rối. Hồi đó tôi vẫn chưa biết tí gì về sự vô độ trong tình dục của Mao và tôi chỉ nhớ rằng, trong cuộc nói chuyện giữa tôi và Mao, ông đã nói cho tôi biết nỗi lo sợ của vợ ông và ông cam đoan sẽ không bao giờ bỏ bà. Tôi vẫn chưa nhận thức được rằng trong một số điểm, Giang Thanh có thể tinh tường hơn tôi. Ham muốn tình dục của Mao thật vô cùng. Đối với ông, tình dục và tình yêu là hai vấn đề khác hẳn nhau.
Chương 30
Ngày 31-7-1958, Khơ-rút-sốp bí mật đến Bắc Kinh. Trong dịp này, Mao đã đáp lại lòng hiếu khách của Liên-xô ở Moskva với một thái độ khiêu khích. Mao đón tiếp Khơ-rút-sốp bên bờ bể bơi và chỉ mặc độc một chiếc quần bơi trên người. Mao đề nghị Khơ-rút-sốp mặc quần bơi và cùng xuống bơi. Khơ-rút-sốp đã nhận lời trước sự ngạc nhiên của tất cả chúng tôi và cùng Mao xuống nước. Khơ-rút-sốp không biết bơi nên phải mặc áo phao. Một số vệ sĩ, tôi và người thông dịch bơi cạnh ông. Khơ-rút-sốp không hề để lộ thái độ của ông trước sự lăng nhuc của Mao, nhưng cuộc đối thoại giữa hai người không đi đến kết quả nào. Trong hồi ký của mình, Khơ-rút-sốp tỏ ra khinh bỉ tính cách bất thường của Mao. Lúc đầu ông định lưu lại một tuần nhưng ba ngày sau ông đã cáo từ. Chủ tịch cố tình đóng vai một ông hoàng và cư xử với Khơ-rút-sốp như một kẻ mọi rợ đến cầu khẩn ông ban ơn. Trên đường trở về Bắc Đới Hà, Mao cho tôi biết, bằng thái độ này, ông muốn chọc tức Khơ-rút-sốp. Những phàn nàn của Mao về Liên-xô ngày càng tăng, nhưng chung quy lại chỉ là một mối lo ngại duy nhất. Mao nói:
- Thực ra mục đích của họ là khống chế chúng ta. Họ tìm cách trói chúng ta lại. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Thế mà những kẻ ngốc này lại thổ lộ ảo tưởng của chúng.
Liên-xô đã đề nghị thành lập một hạm đội chung và muốn xây dựng một đài rada có công suất lớn ở Trung quốc. Ngoài ra, Mao còn lên án Khơ-rút-sốp định dùng Trung quốc để cải thiện quan hệ với Mỹ. Khơ-rút-sốp đòi Trung quốc phải bảo đảm sẽ không tấn công Đài Loan. Khơ-rút-sốp cũng phê phán chương trình hợp nhất các hợp tác xã nong nghiệp thành những công xã nhân dân khổng lồ hiện nay ở Trung quốc. Mao nói:
- Tôi đã bảo ông ta rằng, chúng ta có thể xây dựng một đài rađa, nhưng ông ta phải cung cấp trang thiết bị và công nghệ cho chúng ta. Chúng ta cũng có thể thành lập một hạm đội chung với những chiến hạm của ông ta và thuyền trưởng của chúng ta. Và tôi cũng nhấn mạnh với ông ta rằng, chúng ta có tấn công Đài Loan hay không là việc riêng của chúng ta. Ông ta không nên sốt sắng can thiệp vào. Còn về chuyện công xã nhân dân, tại sao chúng ta không nên thử xem sao?
Dư luận thế giới và phương Tây xa xôi không biết xung đột giữa Trung quốc và Liên-xô đã bắt đầu. Trên đường đến Bắc Đới Hà, Mao vẫn còn bực tức. Ông phàn nàn:
- Khơ-rút-sốp không hiểu ông ta đang nói gì. Ông ta muốn cái thiện mối quan hệ với Mỹ à? Được, chúng ta sẽ chúc mừng ông ta bf vũ khí của chúng ta. Bom đạn của chúng ta cất giữ đã lâu đến nỗi trở thành vô dụng. Tại sao chúng ta không sử dụng chúng vào một buổi lễ? Có lẽ chúng ta sẽ kéo cả Mỹ vào cuộc. Họ sẽ xúc động mà ném một trái bom nguyên tử vào Phúc Kiến. Và sẽ có mười hay hai muơi triệu người chết. Tưởng Giới Thạch đang mong Mỹ dùng bom nguyên tử chống chúng ta. Họ có nên làm chuyện này không, hãy chờ xem Khơ-rút-sốp nói gì. Một số đồng chí của chúng ta không hiểu tình hình. Họ muốn chúng ta chinh phục Đài Loan. Theo ý tôi, chúng ta đừng đụng đến Đài Loan, bởi vì việc này sẽ gây sức ép đối với chímg ta, buộc chúng ta phải giữ đoàn kết nội bộ.
Những điều Mao thổ lộ làm tôi bối rối. Tôi chẳng biết gì về đài phát thanh hay hạm đội chung và chỉ biết rất ít về Đài Loan. Khi ông phân tích vấn đề Đài Loan, tôi thầm hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ có những cuộc đàm phán về hòa bình giữa hai bên. Tôi cũng chưa biết tí gì về kế hoạch thành lập công xã nhân dân. Chúng tôi chỉ vừa mới qua thời kỳ chuyển các hợp tác xã nông nghiệp lên một bậc cao hơn. Phải mất vài tuần tôi mới hiểu được ý nghĩa thực tế của thái độ của Mao về vấn đề Đài Loan. Ngược lại, bằng quan sát của mình, tôi đã sớm hiểu được công xã nhân dân.
Ngày 2-8-1958, ngày chúng tôi từ Bắc Đới Hà trở về, vào lúc ba giờ sáng, một vệ sĩ của Mao đánh thức tôi khi tôi đang ngủ say. Chủ tịch muốn học một giờ tiếng Anh. Tôi vội tới phòng ông và chúng tôi bắt đầu đọc Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ viễn tưởng đến khoa học của ăng ghen. Bên cạnh Tuyên ngôn cộng sản, đó là một cuốn sách được ưu ái và chúng tôi thường xuyên bận rộn với cả hai cuốn sách này. Mao không bao giờ học tiếng Anh một cách nghiêm chỉnh. Ông chỉ lợi dụng những giờ học này để thư gĩan và tán gẫu. Khoảng sáu giờ sáng thì chúng tôi nghỉ. Mao mời tôi ăn cơm chung. Trong bữa ăn Mao cho tôi xem số mới nhất của tờ Bản tin. Nó cung cấp thông tin cho những cán bộ cao cấp nhất về những sự kiện mà đảng muốn giữ bí mật trước công chúng. Việc thông báo thường mang tính phê bình, phân tích những vấn đề thời sự hoặc những mâu thuân giữa lý tưởng của đảng và thực tế trong đời sống thường ngày. Trong thời kỳ phong trào Trăm hoa đua nở năm 1957, khi mà ai ai cũng đều được khuyến khích nói lên suy nghĩ của mình, thì Bản tin là chiếc loa truyền thanh những lời phê bình đảng không thương tiếc. Thi thoảng người ta cũng tìm được một số bài đưa những tin giật gân về các vụ cướp của, giết người mà chưa bao giờ thấy trên phương tiện thông tin đại chúng.
Khi chiến dịch chống hữu khuynh vào mùa hè năm 1957 bắt đầu, tờ Bản tin cũng thay đổi tính chát. Một số phóng viên đã phơi bày mảng tối của xã hội Trung quốc, như Lý Thẩm Tri đã bị quy là hữu khuynh, bị mất chức. thậm chí có người còn bị đày đi những vùng hẻo lánh xa xôi. Đâu năm 1958, khi chiến dịch làm trong sạch nội bộ đảng và thử nghiệm của Mao đưa đảng đi theo con đường của mình được làm sống dậy, thì tờ Bản tin đã quay ngoắt 180 độ. Bấy giờ nó lại ca tụng những thay đổi diễn ra ở Trung quốc đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Số Bản tin Mao cho tôi xem sáng hôm đó đã tường thuật về buổi thành lập một công xã nhân dân - tổ hợp nhiều hợp tác xă nông nghiệp nhỏ thành một tổ chức khổng lồ duy nhất - ở Chaya thuộc tỉnh Hồ Nam.
Mao nói: Đây là một sự kiện đặc biệt quan trọng. Nhiều họp tác xã ở nông thôn đã thống nhất lại để thành lập một công xã nhân dân lớn. Công xã nhân dân sẽ là chiếc cầu nối từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng có nhiều điều mà chúng ta chưa biết, tổ chức một công xã nhân dân như thế nào, công xã nhân dân làm việc như thế nào, phân chia lợi tức ra sao và làm thế nào để biết được khối lượng công việc của mỗi người? Bằng cách nào để ý định gắn sản xuất nông nghiệp với huấn luyện quân sự trở thành thực tế
Mao muốn tôi đi kiểm tra một vài công xã nhân dân mới. Đồng chí hãy quan sát tất cả. Đồng chí ở đó một tháng, thu thập tình hình một cách chính xác, rói về báo cáo với tôi. Đồng chí đã làm xong những công việc cần thiết ở đây rồi chứ?
Trong dịp hè yên tĩnh và kéo dài ở Bắc Đới Hà, theo đề nghị của Mao, tôi bắt tay vào dịch một cuốn sách từ tiếng Anh sang tiếng Trung quốc nói về quá trình lão hóa. Trong khi dịch, tôi thường trao đổi với Mao. Ông rất thú vị với chương đầu của cuốn sách, những đến đoạn nói về ảnh hưởng của quá trình lão hóa đến các tế bào cơ thể thì ông bắt đâu chán. Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục dịch để thời gian của mình được tận dụng vào một công việc có ý nghĩa và để giữ mối quan hệ với các sách báo y học. Nhưng tôi bảo đảm với ông là tôi có thể tạm hoãn lại việc dịch sách và dành thời gian cho chuyến công du này. Mao nói:
- Cuốn sách này chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Sau này đồng chí cũng vẫn có thể dịch tiếp. Ngược lại, công xã nhân dân là một vấn đề quan trọng. Nó ánh hưởng đến cơ chế chính trị của nước ta. Năm 1949. khi quânl đội của chúng ta vượt sông Dương Tử, một người Mỹ đã viết môt cuốn sách với tựa đề Trung quốc làm rung chuyển thế giới (China shakes the world) hay đại loại như vậy. Cho đến giờ, mười năm sau, với việc thành lập các công xã nhân dân, một lần nữa Trung quốc lại làm chấn động thế giới. Vì vậy đồng chí hãy đi thị sát xem sao. Nhưng đồng chí đừng nên đi một mình. Đồng chí hãy đề nghị Diệp Tử Long và Hoàng Thụ Trạch đi cùng.
Hiểu biết về một nước Trung quốc nông nghiệp của tôi chỉ đóng khung trong các cuộc dạo chơi vào các xóm làng, mỗi khi con tàu của Mao dừng lại đôi chút ở đâu đó. Và những gì tôi được chứng kiến tại toàn là những cảnh ghê sợ: sự nghèo đói cùng cực và những người nông dân còn sống được nhờ những chiếc bánh mì làm bằng ngũ cốc xay xát qua loa. Họ là những con người thật thà và chất phác. Có lần, tôi muốn mua hai chiếc bánh mì, nhưng họ đã biếu tôi, không lấy tiền. Tôi ăn một chiếc, còn một chiếc tôi đưa cho Mao. Ông có vẻ chẳng hề ngạc nhiên khi ông tận mắt thấy cảnh cơ cực như tôi tưởng. Thế mà ông khuyến khich tôi và những người khác nên có những cuộc điều tra xã hội như vậy. mỗi khi chung tôi có dịp.
Trong khi đang nói về việc phải tôi đi thanh tra công xã nhân dân, mắt của ông đã nhắm lại. Những lời nói của ông nhỏ dần và gần như không thể nghe thấy được nữa. Ngay trước bữa ăn, ông đã uống thuốc ngủ. Ông nảy ra ý nghĩ kiểm tra công xã nhân dân khi các viên thuốc đã phát huy tác dụng, đưa ông vào trạmg thái mơ màng với giọng nói khoái cảm. Tôi không rõ, đề nghị của ông là nghiêm túc, hay đó chỉ là cơn mộng với công hiệu của những viên thuốc.
Tôi đáp: Tôi sẽ bàn với những người khác. Trong vòng từ hai đến ba ngày, chúng tôi có thể lên đường.
Khi tỉnh dậy được một lúc. Ông nói to:
- Chẳng có gì phải bàn nữa. Đồng chí bảo với họ, hôm nay họ phải chuẩn bị xong và ngày mai lên đường ngay.
Rồi Chủ tịch lại thiếp đi. Lúc đó là 8 giờ sáng. Lập tức tôi thông báo cho Diệp Tử Long về nhiệm vụ mới nhất mà Mao vừa giao cho.
Một tháng ở nông thôn - một chuyến chu du không có Mao và chỉ đi bằng xe lửa loại thường, phải ngủ trong những nhà trọ bình dân và ăn những thức ăn có chất lượng thấp của nông dân. Tất cả những điều đó khác hẳn với một nhiệm vụ dễ chịu như Diệp Tử Long tưởng bở. Ông chẳng thèm quan tâm đến chính trị. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xâ hội hay chủ nghĩa tư bản đối với ông cũng như nhau, nếu như cuộc sống xa hoa của ông không bị ảnh hưởng.
Ông nói: Đồng chí báo cho Hoàng Thụ Trạch biết. Sau đó chúng ta sẽ gặp nhau và bàn về việc này. Nhưng ngày mai chúng ta chưa thể đi được. Tôi phải cần vài ngày
Lời nói của ông làm tôi bực mình. Chúng tôi không được phép lần chần. Tôi cự lại:
-Chủ tịch ra lệnh cno chúng ta ngày mai phải đi. Chúng ta không được cưỡng lại chỉ thị của Chủ tịch.
Tôi đề nghị Diệp Tử Long trực tiếp lên nói chuyện với Mao trong khi tôi đi báo cho Hoàng Thụ Trạch, phó Ban y tế trung ương.
Hoàng là một môn đồ sùng Mao hơn. Lời nói của Chủ tịch đối với ông là thiêng liêng. Tất nhiên, ông ta cảm thấy tự hào khi được Mao giao việc và sẵn sàng lên đường ngay ngày hôm sau. Tôi vẫn lo lắng về mệnh lệnh của Mao. Có lẽ mệnh lệnh đó chỉ là do ngẫu hứng.
Tôi quyết định đem chuyện này bàn với Giang Thanh.
Vào lúc giữa trưa, tôi được dẫn vào phòng của bà. Bà vẫn ở trên giường và đang ăn sáng với sữa chua làm từ hạnh nhân và bánh mì. Tôi trình bày khó khăn của tôi cho bà biết. Bà trả lời: Tôi không tin Chủ tịch nói rồi để đó đâu, nếu lời nói đó liên quan đến một việc hệ trọng như vậy Nhưng khi nào Chủ tịch dậy tôi sẽ nói chuyện với ông.
Tình cờ, tôi gặp Điền Gia Anh, thư ký chính trị của Mao và là một người bạn tốt của tôi. Ông luôn luôn biết rõ mọi tin tức, không phải chỉ từ tờ Bản tin, mà nhất là từ các tài liệu mật mà ông, các bạn ông và những thư ký chính trị cấp dưới ở khắp nơi ở Trung quốc có được. Ông biết hết các công xã nhân dân mới. Tuy nhiên ông vẫn tỏ ra nghi ngờ.
Điền lấy thí dụ, năm 1956, nông dân đã kêu ca là việc quá vội vã trong việc triển khai hoạt động của các hợp tác xã cấp cao. Việc quản lý các hợp tác xã ở các cơ quan cấp thấp vẫn chưa được bố trí, thì người ta đã nâng cấp các hợp tác xã. Bây giờ chúng ta lại tìm cách áp dụng một cơ cấu tổ chức cao hơn nữa là công xã nhân dân. Theo ý ông, người ta chưa biết công xã nhân dán sẽ có hiệu quả kinh tế hay không, những những người lãnh đạo đảng ở các tỉnh vẫn lợi dụng công xã để lấy lòng Chủ tịch. Do Mao kích động trong cuộc họp ở Thành Đô và ở Nam Ninh, các vị lãnh đạo các tỉnh cố tỏ ra họ triệt để thực hiện nghị quyết. Họ nghĩ ra đủ mọi mánh khóe để thu hút được sự chú ý từ Bắc Kinh và họ phát động một chiến dịch ganh đua cuồng dại nhằm đạt tỉ lệ tăng trưởng sản xuất cao nhất. Ai cũng muốn mình dẫn đầu. Điền Gia Anh khuyên tôi hãy trực tiếp theo dõi việc này.
Sau bữa ăn trưa, tôi gói ghém đồ đạc chuẩn bị cho chuyến công du ngày mai. Sau đó rồi chợp mắt một chút. Nhưng tôi đã thức giấc từ lúc ba giờ sáng cho đến giờ. 19 giờ, anh vệ sĩ Tiểu Lý của Mao đánh thức tôi dậy. Chủ tịch muốn gặp tôi. Cả Diệp Tử Long cũng như Giang Thanh đều đã nói chuyện với Mao. Mao nói. Tôi đã quyết định đích thân đi thị sát tình hình. Vài ngày nữa chúng ta sẽ khởi hành. Tôi muốn đi thăm rất nhiêu nơi. Đồng chí hãy chuẩn bị và đưa theo một nữ trợ lý, nếu đồng chí cần người giúp đỡ. Theo lời Mao, Hoàng Thụ Trạch không đi. Thay vào đó, Mao cần một nữ y tá. Ông vẫn thường dùng nhân sâm do tôi kê đơn để ông khỏi bị liệt dương. Nhân sâm được các y tá sắc theo phương pháp cổ truyền, tức là nấu với nước thành một loại thuốc uống. Tôi đề nghị đưa theo Ngô Từ Tuấn, người đã từng cùng đi với chúng tôi sang Moskva.
Mao nhắc tôi, chuyến đi này phải được giữ tuyệt đối bí mật. Nhiệm vụ của tôi không phải chỉ là bác sĩ riêng cho ông. Mà ông còn cho rằng: Đối với những nhân viên y tế, không nên chỉ trói buộc họ trong việc chữa bệnh. ông không muốn tôi sống cách biệt với xã hội bên ngoài, nhất là khi trong xã hội đang có một biến cố quan trọng như thế. Phải tìm hiểu xem biến cố này sẽ làm con người thay đổi như thế nào. Chúng tôi sẽ xem xét mỗi công xã nhân dân có những đặc điểm mang tính nguyên tắc xã hội chủ nghĩa như thế nào. Hai ngày sau, chúng tôi rời Bắc Đới Hà với con tàu sang trọng dành riêng cho Mao. Phần vì thách thức Khơ-rút-sốp, phần do ngẫu hứng bởi tác dụng của tân được, nhưng cũng do cả bàn tính hiếu kỳ bẩm sinh của Mao, nên chuyến thanh tra kỳ thú mà Mao thực hiện đã bắt đầu như vậy
Con tàu của chúng tôi xuôi về phía Nam Cuộc thăm dò xã hội này từ đầu đã được hiểu như vậy thật đặc biệt. Thế là chiến dịch đại nhảy vọt đã bắt đầu.
Chương 31
Đã lâu lắm mới lại có một mùa hè tuyệt vời như mùa hè năm nay. Đêm nào trời cũng mưa còn ban ngày lại nắng dịu. Chẳng ai nghi ngờ, vụ thu hoạch mùa thu năm nay sẽ bội thu nhất trong lịch sử Trung quốc. Cả nước Trung quốc ngập chìm trong ngất ngây, tràn trề cảm kích và rất đỗ lạc quan.
Đầu tiên, chúng tôi tới thăm vài công xã mới thành lập ở tỉnh Hà Bắc. tinh thần lạc quan của nông dân được thể hiện bằng cả những cái tên của các cơ quan, những cái tên hứa hẹn một tương lai vẻ vang và cách mạng như Công xã cộng sản Công xã Bình minh. Công xã Rạng đông, Công xã Cờ đỏ.
Sau đó chúng tôi đến Hà Nam, nơi viên bí thư thứ nhất Vũ Chí Phú, một người thấp béo và mau miệng, đưa chúng tôi đi bằng ô tô đọc theo những con đường không trải nhựa, đầy bụi bặm đọc ngang trong khắp tỉnh của ông. Chúng tôi đi trên một đoàn xe với hàng chục người cả thảy, gồm một đơn vị lính có vũ trang dưới sự chỉ huy của Vương Kính Tiên, một đội bảo vệ tỉnh của Vũ Chí Phú, các phóng viên báo Tân Hoa và vài phóng viên của báo đảng tỉnh Hà Nam. Trời tháng tám nóng toát mồ hôi. Chúng tôi đội những chiếc mũ lớn, rộng vành để che nắng. Mỗi khi nghỉ chân ở đâu đó, có người đưa đến cho chúng tôi những chiếc khăn ướt để lau cho mát. Hai chiếc xe tải chở đưa hấu tươi và ngọt lúc nào cũng đi theo chúng tôi. Dưa hấu là món giải khát tốt nhất đối vớí chúng tôi trong cái nóng như thiêu như đốt này. Mao không hề bận tâm đến cái nóng. Ông chẳng đụng đến đưa hấu, trong khi nhiều người khác trong xe ông đã đổ xô vào thứ quá mọng nước này.
Mao phấn khởi vì ông được tận hưởng cái thú trở về nông thôn. Mỗi khi dẫm phải phân bò bẩn giày, nhưng ông không để cho ai lau chùi. Ông nói:
- Đây là phân, rất có ích. Tại sao lại phải lau nó đi?
Chỉ đến tối khi ông cời giày, vệ sĩ của ông mói đem giày đi rửa. Những cánh đồng được mùa và đông nghịt nông dân đang làm việc ở phía bắc Hoàng hà, phụ nữ rất ít khi tham gia việc đồng áng. Nhưng ở đây chúng tôi thấy phụ nữ mặc quần áo màu đỏ rực và màu xanh đang cùng làm việc với đàn ông. ở huyện Lan Cao. Mao có ý định muốn bơi ở dòng sông Hoàng có nhiều truyền thuyết. Ông cử vệ sĩ tin cẩn của ông là Tôn Vĩnh, người đã từng cổ vũ ông bơi ở sông Dương Tử, bơi thử. Nhưng Hoàng hà toàn bùn và phù sa. Mực nước lại chỉ cao đến ngực và trông như một thứ dung dịch màu nâu. Tôn Vĩnh và những nhân viên an ninh khác vừa xuống nước đã bị lún xuống bùn tới đầu gối. Chỗ nào ở con sông cũng vậy cả. Mao định hủy bỏ dự định đi bơi của ông.
Ngày 6-8, Vũ Chí Phú dẫn chúng tôi đến làng Thất Lý thuộc huyện Tân Cương. Dọc hai bên con đường dẫn đến làng này là những cánh đồng bông cao ngang ngực với những quá bóng tròn, to bằng nắm tay, trắng rực lên dưới ánh náng mặt trời. Làng Thất Lý chắc sẽ được mùa bông.
Khi ô tô của chúng tôi đèn sân làng, chúng tôi được đón chào bằng một tấm biểu ngữ lớn, màu đỏ giăng ngang lối vào trụ sở đáng bộ của làng: Công xã nhân dân làng Thất Lý.
Vừa xuống xe, Mao đã tươi cười. Ông nói:
- Cái tên Công xã nhán dân hay lắm! Công nhân Pháp đã thành lập công xã Pari khi họ giành chính quyền. Còn nông dân ta thành lập được công xã nhân dân như một cơ sở kinh tế và chính trị trên con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Công xã nhân dân là tuyệt vời.
Ba ngày sau, Mao lặp lại lời bình của ông ở Sơn Đông. Một phóng viên Tân Hoa xã đứng gần đó nghe được và lập tức những lời nói của Mao xuất hiện trên các mặt báo toàn quốc. Những lời nói này của Mao mau chóng trở thành khẩu hiệu có sức thuyết phục đến nỗi chúng đã được các bí thư đảng ở các cấp răm rắp tuân theo như chiếu chỉ của vua. Bỗng nhiên các hợp tác xã nông nghiệp ở khắp Trung quốc được tập họp lại thành những công xã khổng lồ thành những cơ sở mà hai lĩnh vực hành chính và sản xuất nông nghiệp gắn liền với nhau, đồng thời quyền lực của đảng cộng sản ở nông thôn cũng được củng cố.
Chuyến đi từ công xã này đèn công xã khác đã cung cấp cho chúng tôi những hiểu biết lý thú. Có một cái gì đó thật to lớn, mới mẻ và trước đây chưa từng có trong lịch sử đã diễn ra ở nông thôn. Cuối cùng, Trung quốc đã tìm ra con đường thoát khỏi nghèo đói và tiến tới sung túc. Nông dân Trung quốc sắp được cứu thoát. Cả tôi cũng ủng hộ công xã nhân dân. Mao chủ tịch thật có lý. Công xã nhân dân thật vĩ đại. Mao rất phấn khởi. Trên đường trở về Bắc Đới Hà ông vẫn còn phấn khích và chưa bao giờ tôi thấy ông có vẻ hạnh phúc như vậy. Ông tin chắc vấn đề cung cấp lương thực ở Trung quốc đã được giải quyết và bây giờ đất nước sẽ dư thừa lương thực
Bốn ngày sau khi chúng tôi trở về, tức là ngày 17-8-1958, Mao triệu tập một cuộc họp mở rộng của Bộ Chính trị, kéo dài đến ngày 30.8. Trong khi họp, câu trả lời của Mao đối với Khơ-rút-sốp được công bố vào ngày 3.8. Sau đó, Trung quốc bắt đầu dùng tới số bom đạn mà Mao đã từng đề cập để oanh tạc dữ dội hòn đảo Kim-môn ở ngay ngoài khơi bờ biển tỉnh Phúc Kiến và đang bị Quốc dân đảng chiếm giữ. Đó là sự đáp lại của Mao đối với ý định làm làm dịu căng thẳng giữa Liên-xô và Mỹ của Khơ-rút-sốp, và cũng là sự khẳng định của Mao với Liên-xô và Mỹ về vai trò quan trọng của Trung quốc trong bộ ba siêu cường. Mao hiểu những nỗ lực vì hòa bình thế giới của Khơ-rút-sốp là âm mưu hòng khống chế ông và Trung quốc. Ông tin chắc, Tưởng Giới Thạch sẽ yêu cầu Mỹ thả một quả bom nguyên tử xuống tỉnh Phúc Kiến và Mao chẳng phản đối việc này. Việc oanh tạc đảo Kim môn là một thách thức để xem Mỹ có thể đi xa đến đâu. Mao cho bắn phá hòn đảo này hàng tuần liền. Cuối cùng, ngày 6-10, đảng cộng sản đã tuyên bố ngừng bắn một tuần, và ngày 13-10, lệnh ngừng bắn được gia hạn thêm hai tuần nữa khi một hạm đội của Mỹ vào vùng bờ biển của Đài Loan để bảo vệ khu vực này trước sự tấn công của Trung quốc. Mao lại ra lệnh tiếp tục bắn phá. Ngày 25.10, một chiến lược mới được công bố: Nếu các tàu chiến Mỹ không vào gần, thì đại bác của Trung quốc ngừng bắn vào các ngày chẵn và chỉ pháo kích các đảo Kim Môn và Mã Tổ vào các ngày lẻ. Mao biết, những đồng chí như Khơ-rút-sốp và một vài đồng chí Trung quốc ngỡ ông muốn chiếm lại Đài Loan. Nhưng chẳng bao giờ ông có ý định ấy. Cá đảo Kim Mônvà Mã Tổ ông cũng không muốn lấy lại. Ông nói:
- Kim Môn và Mã Tổ là cầu nối của chúng ta với Đài Loan. Nếu chúng ta chiếm lại chúng, chúng ta sẽ mất đi cầu nối này. Con người ai cũng có hai tay phải không? Nếu chúng ta mất cả hai tay, chúng ta sẽ không nắm được Đài Loan nữa. Hai hòn đào này là hai cái que chỉ huy của nhạc trưởng để buộc Khơ-rút-sốp và Ai-xen-hao phải khiêu vũ. Đồng chí đã thấy tầm quan trọng của hai hòn đảo này rồi chứ.
Đối với Mao, việc oanh tạc các đảo Kim Môn và Mã Tổ chỉ là một mánh khóe để chứng tỏ với Khơ-rút-sốp và Ai-xen-hao về tinh thần độc lập và khả năng hành động của Mao và sổ toẹt nỗ lực mới vì hòa bình của Khơ-rút-sốp. Một mánh khóe khủng khiếp. Nó đã gây ra nguy cơ về một cuộc chiến tranh nguyên tử đối với thế giới và đe dọa tính mạng của hàng triệu nhân dân Trung quốc.
Trong các hội nghị mở rộng của Bộ chính trị, có hai quyết định quan trọng. Một là cả công xã nhân dân chính thức được coi là hình mẫu mới của cơ cấu kinh tế và chính trị của đất nước. Hai là, trong vòng một năm, bằng việc sử dụng những lò luyện kim gia đình, Trung quốc phải tăng gấp đôi sản lượng luyện kim. Cả đất nước Trung hoa như trong cơn say. Mao đánh giá cao về các công xã nhân dán và bỗng nhiên hàng loạt công xã nhân dân được thành lập khắp nơi trong cả nước. Mao mới vừa nửa đùa nửa thật nghĩ ra lò luyện kim gia đình mà mọi người đã vội xây ngay những chiếc lò đó. Mọi viêc diễn ra đúng như mong muốn của Mao.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro