BA NGUOI BAN - ...
BA NGƯỜI BẠN
Erich Maria Remarque
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách:
BA NGƯỜI BẠN
Tác giả:
Erich Maria Remarque
Nguyên tác tiếng Đức:
Drei Kameraden (Three Comrades)
Dịch giả: Vũ Hương Giang
Nhà xuất bản: Văn Học
Năm xuất bản: 1988
Số trang: 612 (2 tập)
Khổ sách: 13 x 19 cm
Giá bìa: 2.200 đồng
Erich Maria Remarque
2
BA NGƯỜI BẠN
Đánh máy: Thanh Tâm, Kim Chi, Cường, Hồng Điệp, Uyên Châu
Kiểm tra: Thu Hằng, Phương Lan
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thực hiện: 20/07/2012
Making Ebook Project #263 -
www. BookaholicClub. com
MỤC LỤC
Erich Maria Remarque
3
BA NGƯỜI BẠN
Lời
giới
thiệu
ERICH
MARIA
REMARQUE
-
NGƯỜI
ĐI
QUA
CHIẾN
TRANH ................................................................................................................ 5
I ........................................................................................................................... 10
II ......................................................................................................................... 27
III ........................................................................................................................ 37
IV ........................................................................................................................ 50
V ......................................................................................................................... 62
VI ........................................................................................................................ 75
VII....................................................................................................................... 93
VIII ................................................................................................................... 103
IX ...................................................................................................................... 118
X ....................................................................................................................... 138
XI ...................................................................................................................... 149
XII..................................................................................................................... 165
XIII ................................................................................................................... 180
XIV ................................................................................................................... 202
XV .................................................................................................................... 217
XVI ................................................................................................................... 233
XVII .................................................................................................................. 253
XVIII ................................................................................................................ 278
XIX ................................................................................................................... 297
Erich Maria Remarque
4
BA NGƯỜI BẠN
XX .................................................................................................................... 314
XXI ................................................................................................................... 340
XXII .................................................................................................................. 357
XXIII ................................................................................................................ 370
XXIV ................................................................................................................ 386
XXV ................................................................................................................. 402
XXVI ................................................................................................................ 424
XXVII ............................................................................................................... 438
XXVIII ............................................................................................................. 456
Lời giới thiệu
Erich Maria Remarque
5
BA NGƯỜI BẠN
ERICH MARIA REMARQUE - NGƯỜI ĐI QUA CHIẾN TRANH Erich Paul Remarque sinh ngày 22-6-1898 trong một gia đình theo dòng Công giáo La Mã tại Osnabrück, một thành phố thuộc tỉnh Westphalia nằm ở miền Tây nước Đức. Ngay từ nhỏ, Erich đã luôn luôn ngưỡng mộ người mẹ - bà Anna Maria, trong khi luôn tỏ ra xa lánh người cha - ông Peter. Ông Peter Remarque vốn xuất thân trong một gia đình phiêu bạt đến Đức sau Cách mạng Pháp, chỉ là một người thợ đóng sách nghèo. Sự vất vả, thiếu thốn của gia đình đã khiến Remarque phải tự kiếm tiền từ khi mới mười mấy tuổi bằng việc dạy kèm piano. Cậu bé luôn làm việc hết sức vất vả để bù vào chỗ những kỳ lương mà cậu luôn luôn xin ứng trước. Cậu bé say mê piano và nhiều thứ khác trên đời, ví dụ như sưu tập những cánh bướm hoặc lần mò khám phá những dòng suối và cánh rừng - tất cả những gì sau này sẽ lần lượt hiện ra trong những cuốn tiểu thuyết vĩ đại. Thú viết lách của cậu bé đã khiến cho cậu được biệt danh: Kẻ-bôi-bẩn. Vì thường xuyên phải di chuyển nên Remarque học một lúc hai trường cấp hai và sau đó là trường dự bị Công giáo Catholic Praparande. Cậu say sưa những diễn biến đầy kịch tính của các lễ nghi Công giáo, say mê vẻ đẹp của những ngôi nhà thờ, của thảm hoa trong Erich Maria Remarque 6 BA NGƯỜI BẠN vườn tu viện và của lao động nghệ thuật. Sau này, những gì Remarque viết ra đều có chút hơi hướng của một nhà hát, đường nét của giáo đường và bảo tàng, còn hoa và cây cối là biểu tượng của sự bình an vĩnh cửu. Những ngày học ở trường, cậu bé Erich luôn gặp rất nhiều chuyện khổ sở vì các giáo viên nhưng rồi sau đó, thế nào các giáo viên cũng sẽ bị “nhồi” vào trong tiểu thuyết của Remarque. Tại trường dự bị, Erich cãi nhau suốt ngày với một giáo viên tên là Konschorek. Sau này Konschorek đã hóa thành một gã giáo viên tại nơi huấn luyện tân binh với đầy đủ thói xấu của nguyên mẫu và chỉ khác mỗi cái tên: Kantorek ( Phía Tây không có gì lạ ). Tháng 11 năm 1916, chàng Erich 18 tuổi, sinh viên năm thứ ba của trường sư phạm Osnabrück's Lehresminar bị gọi quân dịch để tham gia vào Đại chiến Thế giới lần thứ nhất. Sau khóa huấn luyện tân binh tại Westerberg (chính là trại Klosterberg trong Phía Tây không có gì lạ ), Erich được phân vào một sư đoàn dự bị, tuy nhiên cậu rất hay được về thăm nom bà mẹ đang ốm nặng. Tháng 6 năm 1917, Erich bị chuyển đến một đơn vị công binh ở mặt trận phía Tây. Anh luôn tỏ ra rất điềm tĩnh, ngay cả khi người đồng đội Troske bị thương vì dính mảnh lựu đạn, Erich vẫn đưa được Troske về phía sau an toàn. Nhưng cái chết của Troske - không phải vì vết thương mà do không được nhìn ngó đến đã khiến cho Erich bị đổ vỡ hoàn toàn. Anh vẫn tiếp tục cứu các đồng đội cho tới khi cũng bị thương vì mảnh đạn. Suốt hai năm 1917 - 1918, Erich nằm tại bệnh viện St-Vincenz ở Duisburg để chữa vết thương. Trong khi đó, mẹ anh qua đời tháng 9 - 1917. Sau này, khi chiến tranh kết thúc, lòng thương nhớ mẹ đã khiến Erich quyết định đổi tên kép Erich-Paul thành Erich- Maria. Rời bệnh viện, Erich trở về Osnabrück để dự khóa huấn luyện nâng cao trong nỗi đau buồn sau cái tang lớn. Chiến tranh đã chấm dứt trước khi anh trở lại mặt trận và mặc dù chưa hề trải qua sự đối đầu tại chiến tuyến nhưng chiến tranh đã làm thay đổi suy nghĩ và thái độ của Erich mãi mãi. Anh đã học một bài học cay đắng về giá trị mong manh thực sự của đời sống cá nhân sau khi đã hoàn toàn đổ vỡ khi nhận ra “chủ nghĩa yêu nước” của cái xã hội Đức đó có thể sẵn sàng bỏ qua bất cứ một cá nhân nào. Với anh và nhiều người bạn của anh, “trách nhiệm công dân Đức” chẳng còn một ý nghĩa gì nữa. Những năm tiếp theo, nước Đức lâm vào tình trạng thiếu thốn, lạm phát, thất nghiệp, đầy rẫy bọn đầu cơ trục lợi cùng bọn cực đoan chính trị. Remarque cùng vài người bạn quay trở về và nhận thấy những giáo viên cũ bây giờ chỉ là những kẻ nực cười. Remarque thường lôi mình vào rắc rối theo kiểu tự chụp một bức ảnh ông mặc đồ sĩ quan có chữ thập ngoặc và một mớ huân chương cùng con chó cưng trong một cách bố trí đầy mâu thuẫn... Erich Maria Remarque 7 BA NGƯỜI BẠN Sau khi tốt nghiệp, Remarque được giới thiệu vào dạy thay cho một giáo viên trong vòng hai năm. Môi trường giáo dục không dính dáng đến chính trị và Remarque chuyển sự say mê sang các môn thể thao, nhất là đua ô tô. Hình ảnh về Remarque lúc bấy giờ là chàng thanh niên có mái tóc vàng, rất điển trai, ăn mặc trang nhã và những cơ bắp cuồn cuộn nổi. Tóm lại đó là hình ảnh về một con người hào hoa bất chấp thu nhập! Sau một thời gian, Remarque chán nản bỏ đi làm đủ thứ việc: chơi organ ở nhà thương điên, nhân viên một công ty sản xuất bia mộ, làm nhà phê bình sân khấu ở một thành phố nhỏ, viết quảng cáo cho một công ty ô tô. Ông lấy một nữ diễn viên tên là Zutta Ilse Zambona năm 1925, một thời gian ngắn sau khi được nhận vào làm biên tập ở tạp chí Sport im Bild ở Berlin. Đầu năm 1920, với cái tên Erich Remark, ông xuất bản một cuốn tiểu thuyết và nó bị thiên hạ lạnh nhạt đến nỗi ông phải bỏ cả bút danh - vốn là tên của cụ nội. Lối viết báo của ông quá cứng, thậm chí tầm thường và đầy cảm tính. Chính vì thế, sự thành công của Phía Tây không có gì lạ xuất bản năm 1929 làm cho ông và bất cứ một người nào cũng phải ngạc nhiên. “Bóng ma của chiến tranh luôn ám ảnh chúng tôi - ông nói - nhất là khi chúng tôi cố gắng không nghĩ đến nó nữa”. Và kết quả là Phía Tây không có gì lạ đã làm cho tất cả những người ở hai bên bờ Thái Bình Dương xúc động sâu sắc trong khi trước đây, họ ra sức tìm kiếm ý nghĩa của chiến tranh. Trong năm đầu tiên, riêng độc giả Đức đã mua tới hơn một triệu bản cuốn tiểu thuyết Phía tây không có gì lạ và người Anh, Pháp, Mỹ thậm chí còn mua nhiều hơn. Cuốn tiểu thuyết còn thành công hơn nữa nhờ bộ phim do người Mỹ dựng với Lew Ayres và Lewis Wolheim đóng vai chính. Đó là một trong những bộ phim nói đầu tiên và hiện nay vẫn là một phim kinh điển của thế giới. Năm 1932, Phía Tây không có gì lạ được dịch ra 29 thứ tiếng. Từ một anh nhà báo quèn hoàn toàn vô danh, Erich Maria Remarque đã trở thành nhà văn nổi tiếng trên khắp thế giới. Dù vậy, cuốn sách đã gây ra cuộc tranh luận ngay trong lòng nước Đức. Một số người cho rằng tác giả chỉ bịa tạc để gây sốc và kiếm tiền. Bọn Quốc xã đã phao đủ thứ tin đồn để phá hoại sự nổi tiếng của Remarque. Nào là ông là một tên Pháp - Do Thái, hoặc là ông là một thằng già không biết gì về chiến trận... Remarque không bình luận gì, sau đó ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn: “Tôi chỉ bị hiểu lầm khi người ta cố tình hiểu lầm”. Remarque ly dị vào đầu những năm 30 khi chính quyền Quốc xã bắt đầu đầy ải ông, Erich Maria Remarque 8 BA NGƯỜI BẠN nhưng rồi họ tái hôn ngay sau đó. Thế rồi hai vợ chồng lại sống ly thân và ly dị chính thức vào năm 1951. Cuốn sách tiếp theo dựa trên câu chuyện mà Remarque và những người bạn trải qua sau khi từ mặt trận trở về được mang tên Đường về . Khi đó thật ra Remarque vẫn chưa hề là người chống Quốc xã nhưng Đường về đã khiến cho chính quyền Quốc xã nổi giận. Goebbels, kẻ đã gây dựng nên chương trình “săn-phù-thủy” đã có những phản ứng đầu tiên khi bộ phim Mỹ Phía Tây không có gì lạ được chiếu ở Berlin. Đội quân của hắn với cái tên Thanh niên Hitler đã xông thẳng vào rạp để ném những bình hơi thối cùng những con chuột bạch và hét lên: “Nước Đức hãy thức tỉnh”. Bộ phim bị cấm năm 1931 và Remarque bị buộc phải rời nước Đức trong khi sách của ông bị thiêu rụi trong cuộc đốt sách đáng hổ thẹn năm 1933. Năm 1962, Remarque đã nói: “Tôi bắt buộc phải rời nước Đức vì tính mạng bị đe dọa. Tôi chẳng phải là Do Thái và cũng chẳng ủng hộ gì cánh hữu. Tôi vẫn là tôi như bây giờ: một người theo chủ nghĩa hòa bình và luôn sẵn sàng chiến đấu”. Sau đó có người kể rằng Goebbels đã mời Remarque quay lại nhưng ông đã trả lời: “Có 65 triệu người đang muốn ra đi mà tôi lại tự nguyện quay về ư?”. Năm 1932, chính quyền Quốc xã tịch thu tài khoản của ông ở Berlin - chúng nói rằng để bù vào tiền thuế. Tuy nhiên trước đó Remarque đã chuyển hầu hết tiền và số tranh theo trường phái Ấn tượng sang Thụy Sỹ. Tại đây, ông mua một ngôi biệt thự ở Porto Ronco cạnh bờ hồ Magiore và dần dần mua về nhiều thứ đồ cổ quý giá. Trong thời gian Remarque bị tước quyền công dân Đức, 3 cuốn sách của ông lần lượt được dựng phim ở Mỹ và đôi lúc người ta gọi ông là Vua của Hollywood. Bạn bè của ông rất nhiều: Marlene Dietrich, Greta Garbo, Charles Chaplin, F.Scot Fritzgerald và Ernest Hemingway. Sau cùng, mệt mỏi vì những phù hoa giả tạo của Hollywood, ông chuyển sang đi về sống ở New York và Porto Ronco. Năm 1957, ông càng nổi tiếng vì vai diễn trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của ông: Thời gian để sống và thời gian để chết Năm 1958, Remarque cưới nữ diễn viên Mỹ Paulette Goddard sau 18 năm quen biết. Lần đầu tiên đến Mỹ, Remarque không gặp một khó khăn gì về thủ tục nhưng ông hết Erich Maria Remarque 9 BA NGƯỜI BẠN sức bực bội và thông cảm với những bất công mà bạn bè ông phải chịu đựng trong cảnh tha hương. Mặc dù đã xin nhập quốc tịch Mỹ năm 1941 nhưng Remarque luôn phẫn hận vì mất quyền công dân Đức. Năm 1943, một nỗi đau lớn đến với Remarque: em gái ông, Elfried Scholz bị chính quyền Quốc xã xử trảm vì “tuyên truyền lật đổ”. Sau này, ông thật sự cảm động khi Osnabrück đã lấy tên cô gái đặt cho một con đường năm 1968. Năm 1971, chính quyền Osnabrück cũng đã đặt tên một con đường chạy quanh thành phố là Erich Maria Remarque. Bóng tối thiên đường là tiểu thuyết cuối cùng của ông. Trong tác phẩm đó, người ta tìm gặp lại bóng dáng của rất nhiều nhân vật trong các tiểu thuyết trước đây và nhân vật chính đã quyết định trở về lại nước Đức bất chấp cuộc sống và tình yêu ở Mỹ ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Nỗi hoài nhớ quê hương còn thể hiện trong khoảng những năm 1950 khi Remarque về Đức tìm tài liệu cho những tiểu thuyết mới: ông không bao giờ trở về thành phố quê hương vì cảm thấy thành phố mới xây lại này không còn là những gì thân quen mà ông đã mô tả trong Phía Tây không có gì lạ, Đường về và Bia mộ đen nữa cả. Remarque qua đời sau một loạt cơn đau tim tại một bệnh viện ở Locarno vào ngày 25- 9-1970. Báo chí mê mải đi tìm các chi tiết về cuộc đời ông mà quên cả một điều: Remarque là tác giả của Cuốn tiểu thuyết hay nhất về Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhưng dù sao chăng nữa, các độc giả đã không hề quên. Chỉ riêng ở Châu Âu, người ta đã mua đến 13 triệu bản những cuốn sách của ông. Trong đó Phía Tây không có gì lạ bán được 8 triệu cuốn vẫn mãi là một trong những cuốn sách bán chạy nhất châu Âu của thế kỷ 20. LƯU SƠN MINH I Erich Maria Remarque 10 BA NGƯỜI BẠN Bầu trời vàng như đồng thau, vẫn chưa bị vẩn đục bởi khói nhà máy, hừng sáng phía sau dãy mái ngói xí nghiệp. Hẳn mặt trời sắp nhô lên đến nơi. Tôi nhìn đồng hồ. Vẫn chưa đến giờ. Sớm mười lăm phút. Tôi mở cổng chuẩn bị sẵn sàng máy bơm xăng. Vào giờ này thường có một số xe muốn ăn xăng chạy qua đây. Bỗng tôi nghe sau lưng mình tiếng gì khàn khàn, khe khẽ, tuồng như một chiếc đinh ốc gỉ đang xoáy trồi lên khỏi mặt đất. Tôi dừng chân nghe ngóng, đoạn đi qua sân trở lại xưởng và thận trọng mở cửa. Trong căn phòng tranh tối tranh sáng đang lắc lư dạo vòng một con ma. Con ma chít chiếc khăn đội đầu màu trắng bẩn thỉu, choàng tạp dề xanh, nó nặng chín chục ký và là mụ lao công Mathindo Stox. Tôi đứng yên một lát nhìn mụ. Mụ có cái vẻ yêu kiều của một con hà mã khi mụ chuệnh choạng đi đi lại lại giữa những bộ tản nhiệt xe hơi và cất giọng trầm trầm hát bài ca về anh lính khinh kỵ trung thành. Trên mặt bàn kê cạnh cửa sổ có hai chai cô nhắc. Một chai gần như đã cạn. Tối qua cái chai còn đầy nguyên. Tôi đã quên không cất nó vào tủ khóa lại. “Kìa bà Stox!” tôi lên tiếng. Lời ca ngừng bặt. Cái chổi rơi xuống đất. Nụ cười ngà say tắt lịm. Bây giờ tôi mới là con ma. “Giesuma, lạy Chúa tôi”, Mathindo ấp úng và giương cặp mắt đỏ ngầu ngó tôi trân trân. “Tôi đâu ngờ cậu đến sớm thế...”. - Biết rồi. Rượu ngon chứ? - Đã hẳn... nhưng nhục cho tôi quá. - Mụ quệt miệng. - Tôi rõ tồi tệ... - Chà, bà cứ phóng đại thế. Bà chỉ say thôi. Say khướt như một gã nghiện. Mụ cố gắng đứng thẳng người. Ria mép động đậy và mi mắt mụ chớp chớp như mắt một con cú già. Nhưng dần dần mụ cũng tỉnh táo hơn. Mụ quả quyết tiến lên một bước. - Cậu Lokhamp... người ta ai cũng là người thôi... đầu tiên tôi chỉ ngửi... và rồi làm một ngụm... vì rằng tiếng thế chứ dạ dày tôi bao giờ cũng yếu... vâng, thế rồi, thế rồi hẳn quỷ Erich Maria Remarque 11 BA NGƯỜI BẠN Sa tăng đã ám tôi. Các cậu cũng không nên thử thách một người đàn bà tội nghiệp, không nên để mặc cái chai đấy. Đây chẳng phải lần đầu tiên tôi bắt gặp mụ như thế. Sáng nào mụ cũng đến dọn dẹp trong xưởng độ hai tiếng; cứ việc quăng tiền vương vãi đâu tùy thích, mụ không tơ hào đến... thế nhưng rượu đặt trước mắt mụ thì chẳng khác gì mỡ để miệng mèo. Tôi giơ cái chai lên. “Đương nhiên rồi, bà không động đến rượu cô nhắc dành cho khách hàng... Thế nhưng rượu ngon của ông Koester thì bà nốc sạch.” Một thoáng cười đắc ý lướt qua nét mặt già nua của Mathindo. “Tất tật những gì ngon lành... tôi là kẻ sành sỏi mà lại. Nhưng cậu sẽ không tố giác tôi chứ, cậu Lokhamp? Tố giác một mụ góa yếu đuối bất lực như tôi?” Tôi lắc đầu. “Hôm nay thì không đâu” Mụ buông những nếp váy xuống. “Thế thì tôi chuồn đây. Cậu Koester mà đến bây giờ thì... trời đất quỷ thần ơi!” Tôi lại bên tủ và mở ra. “Bà Mathindo...” Mụ vội vã lạch bạch chạy đến. Tôi giơ cao một cái chai nâu hình vuông. Mụ huơ tay chối. “Không phải tôi! Thề danh dự đấy! Tôi không hề động tới nó!” - Tôi biết - Tôi nói và rót đầy một ly. - Bà biết loại rượu này chứ? - Sao không! - Mụ liếm môi. - Rum! Rượu rum Giamaica lâu đời! - Khá. Vậy xin bà hãy cạn một ly! - Tôi ấy? - Mụ nhảy lùi lại - Như thế thì nhiều quá cậu Lokhamp! Đầu tôi đang nóng phừng phừng như than hồng đây này! Mụ Stox già nua đã ngầm nốc sạch rượu cô nhắc của cậu, thế mà cậu còn thết mụ một ly rum để thưởng công nữa. Cậu là một bậc thánh, chính thế! Thà chết còn hơn chấp nhận một chuyện như vậy. - Thế hở? - Tôi nói và làm ra vẻ chực thu ly rượu về. - Nào thì uống! - Mụ vội vã nắm lấy cái ly - Đành phải tiếp nhận những điều tốt đẹp Erich Maria Remarque 12 BA NGƯỜI BẠN như nó đã đến thôi. Cho dù không hiểu nó. Chúc sức khỏe cậu! Dễ thường hôm nay là sinh nhật cậu. - Đúng vậy, bà Mathindo. Bà đoán giỏi đấy. - Sao, thật thế ư? - Mụ chộp lấy bàn tay tôi lắc lấy lắc để. - Rất chi thành thật chúc cậu hạnh phúc! Dồi dào tiền của! Cậu Lokhamp này, - mụ quệt miệng, - tôi cảm động quá thể... nhất định tôi phải làm một ly nữa mừng cậu. Là vì chẳng gì tôi cũng quý cậu như con. - Tốt thôi. Tôi rót thêm cho mụ ly nữa. Mụ dốc cạn một hơi, rồi rời xưởng, mồm xuýt xoa khen ngợi. Tôi dọn cái chai đi, ngồi vào bàn. Mặt trời nhợt nhạt xuyên qua cửa sổ chiếu xuống đôi tay tôi. Cảm giác lạ kỳ trong một ngày sinh nhật như thế này, dẫu rằng ta chẳng xem nó ra gì. Ba mươi tuổi... đã từng có thời tôi ngỡ đâu không bao giờ mình có thể lên đến tuổi hai mươi, tôi cảm thấy cái ngày ấy sao mà xa vời. Và rồi... Tôi mở ngăn kéo lấy một tờ giấy viết thư và bắt đầu tính. Thời thơ ấu, trường học... đó là một tổng thể xa xôi, ở đâu đó, không còn thật nữa. Mãi năm 1916 cuộc đời thật sự mới bắt đầu. Khi ấy tôi vừa trở thành chú lính mới, gầy, cao ngổng, mười tám tuổi, tập nằm xuống đứng lên trên những thửa ruộng mới cày phía sau doanh trại theo lệnh của một tay hạ sĩ quan ria mép rậm rì. Vào một trong những tối đầu tiên, mẹ tôi đến doanh trại thăm tôi, nhưng bà phải đợi tôi mất hơn một giờ đồng hồ. Tôi đã đóng ba lô của mình không đúng quy cách và phải chịu một hình phạt quét dọn nhà vệ sinh vào giờ nghỉ. Mẹ tôi muốn giúp tôi, nhưng bà không được phép. Bà khóc, còn tôi thì mệt tới mức ngủ thiếp đi khi mẹ hãy còn ngồi bên. 1917. Flander n 1 . Mitdendorf và tôi mua ở căng tin một chai vang đỏ. Chúng tôi đã định uống một chầu. Thế nhưng cả bộ tôi đã không thực hiện được. Sáng tinh mơ, quân Anh bắt đầu một trận pháo kích lớn. Koester bị thương lúc giữa trưa, Mayer và Detes ngã xuống 1 Miền đất thuộc Bỉ, trong Chiến tranh thế giới I là vùng có chiến sự đặc biệt. Erich Maria Remarque 13 BA NGƯỜI BẠN buổi chiều. Và tối đến, khi cả bọn đã tưởng được bình yên và mở chai rượu ra, thì hơi độc tràn vào, ùa xuống các công sự. Tuy rằng cả bọn kịp thời đeo mặt nạ nhưng mặt nạ của Mitdendorf lại hỏng. Khi cậu ấy phát hiện ra thì đã muộn. Cho đến lúc chiếc mặt nạ này bị giật đi và tìm thấy một chiếc mới thay vào thì Mitdendorf đã hít phải quá nhiều hơi độc và nôn ra máu. Cậu ấy chết vào sáng hôm sau, trên mặt có nhiều vết bầm tím. Cổ Mitdendorf rách bươm... cậu ấy đã cố dùng móng tay hòng phanh nó ra để hớp lấy không khí. 1918. Nằm quân y viện. Mấy hôm trước. Một đợt thương binh mới được chở đến. Bông băng bằng giấy bản. Những ca bị thương nặng. Suốt ngày, những chiếc xe phẳng lỳ của phòng mổ cứ chạy ra chạy vào. Thỉnh thoảng có những chiếc ra không. Giogiep Ston nằm cạnh mình. Anh đã mất cả hai đùi, nhưng còn chưa biết điều đó. Không thể nhìn thấy được vì người ta chụp lên phần dưới anh một cái lồng bằng dây thép phủ chăn. Mà giá có thấy anh cũng chẳng tin vào, vì anh vẫn cảm thấy đau đớn dưới hai bàn chân. Đêm, có hai người chết trong buồng bọn mình. Một người chết rất ngắc ngoải và đau đớn. 1919. Lại ở nhà. Cách mạng 2 . Đói. Bên ngoài vẫn tiếp tục nghe tiếng súng máy. Lính đánh nhau với lính. Đồng đội gây lộn với đồng đội. 1920. Đảo chính. Karl, Broeger bị bắn chết. Koester và Lenz bị bắt. Mẹ tôi nằm nhà thương. Bệnh ung thư của bà vào giai đoạn cuối. 1921... Tôi ngẫm nghĩ. Tôi chẳng còn nhớ nữa rồi. Đơn giản là thiếu mất năm đó. 1922, tôi làm công nhân đường sắt ở Thuyringor, 1923 lãnh đạo việc quảng cáo cho một xí nghiệp cao su. Đang thời kỳ lạm phát. Lương tháng của tôi là hai trăm tỉ mác. Mỗi ngày hai lần lĩnh tiền và mỗi lần lĩnh tiền lại được nghỉ nửa giờ để đảo nhanh qua các cửa hiệu mua sắm chút ít trước khi hối đoái đô la mới lại được công bố... đồng tiền lại mất giá một nửa. Còn sau đó? Những năm tiếp theo? Tôi đặt bút chì xuống. Nhẩm lại tất cả những cái ấy mà làm gì. Vả lại tôi cũng chẳng còn nhớ chính xác. Tôi đã quá lẫn lộn quá lắm. Năm ngoái tôi uống mừng sinh nhật của mình tại tiệm cà phê Quốc Tế, nơi tôi đánh dương cầm thuê được một năm. Thế rồi tôi gặp lại Koester và Lenz. Còn lúc này tôi đang ngồi trong xưởng sửa chữa ô tô Koester và Co.. Co., đây tức là Lenz và tôi, nhưng thực sự thì xưởng 2 Chỉ cuộc cách mạng dân chủ tư sản bắt đầu nổ ra ở Đức vào tháng Mười một 1918. Erich Maria Remarque 14 BA NGƯỜI BẠN này chỉ thuộc về mỗi mình Koester. Trước kia Koester là bạn học, rồi chỉ huy đại đội của chúng tôi, sau đó làm phi công, có thời gian dài là sinh viên, rồi lái xe đua... cuối cùng cậu ta tậu được cái văn phòng khổ này. Đến làm với Koester trước tiên là Lenz, kẻ từng lang bạt vài năm bên Nam Mỹ,... rồi thêm tôi. Tôi rút từ túi áo một điếu thuốc lá. Thật ra tôi có thể hoàn toàn hài lòng. Hoàn cảnh của tôi chẳng đến nỗi nào, tôi lại có việc làm, lại cường tráng, tôi không dễ gì trở nên mệt mỏi, tôi lành lặn - như người ta thường nói... nhưng dẫu sao đừng nghĩ ngợi thái quá về điều đó vẫn hơn. Đặc biệt đừng nghĩ ngợi vào lúc chỉ có một mình. Và buổi tối cũng đừng. Một cái gì đó của quá khứ đôi khi lại hiện lên và nhìn ta trân trối bằng cặp mắt của người chết. Nhưng ta đã có rượu mạnh. Ngoài kia có tiếng kẹt cổng. Tôi xé tờ giấy có ghi những năm tháng đời mình ném vào sọt giấy lộn. Cánh cửa bật mở, Gotfrit Lenz đứng trong khung cửa, cao, gầy, với cái bờm tóc màu vàng rơm và một cái mũi lẽ ra thích hợp với một người đàn ông hoàn toàn khác. “Robby”, cậu ta gầm lên, “Quân săn mồi già đời, đứng dậy và hãy lên gân lên cốt đi! Cấp trên của cậu muốn nói chuyện với cậu!” - Chúa ơi! - Tôi đứng dậy - Mình đã hy vọng rằng các cậu không nhớ tới kia đấy. Hãy nương nhẹ thôi các chú bé! - Điều đó xem ra hợp ý cậu! Gotfrit đặt lên bàn một cái gói, từ đó tiếng lanh canh phát ra rõ mồn một. Koester bước vào sau Lenz. Lenz đứng chắn trước mặt tôi. “Robby, sáng nay cậu gặp cái gì trước tiên?” Tôi ngẫm nghĩ. “Một mụ già nghiêng ngả.” - Đấng Moses thiêng liêng! Một điềm gở! Nhưng lại đúng với lá số tử vi của cậu. Mình vừa lập nó hôm qua. Cậu là đứa trẻ cần được che chở, không vững vàng, dao động, một ngọn lau trước gió, với chòm thổ tinh đáng ngờ và một mộc tinh thương tật trong năm nay. Vì Otto và mình thay mặt cho cha mẹ cậu, vật đầu tiên mình trao cậu là một thứ để phòng thân. Hãy nhận lấy tấm bùa hộ mệnh này. Một kẻ hậu sinh của những người Inka đã để lại nó cho mìn h 3 . Mụ ta có dòng máu quý tộc, đôi bàn chân phẳng, chấy rận và biệt tài nhìn vào tương lai. “Hỡi người lạ da trắng”, mụ ta bảo mình, “các đức vua đã đeo nó, nó chứa 3 Những thành viên của một bộ tộc Peru cổ Erich Maria Remarque 15 BA NGƯỜI BẠN sức mạnh của vầng dương, mặt trăng và trái đất, hoàn toàn chưa nói đến các hành tinh nhỏ hơn... hãy đưa ta một đồng đô la bạc để ta mua rượu mạnh, và anh sẽ được nó.” Để sợi dây chuyền hạnh phúc này tiếp tục luân chuyển, mình sẽ trao nó cho cậu. Nó sẽ bảo vệ cậu, sẽ xua đuổi lão mộc tinh lạnh lùng của cậu. Cậu ta đeo vào cổ tôi một bức tượng nhỏ xíu màu đen treo trên sợi dây chuyền mỏng mảnh. - Thế! Để chống lại điều rủi giáng xuống từ trên trời... còn chống lại những bất hạnh hàng ngày thì đây: sáu chai rượu rum của Otto! Lâu năm gấp đôi số tuổi cậu! Lenz mở gói và đặt từng chai một dưới ánh mặt trời buổi sớm. Chúng lóng lánh như hổ phách. “Trông tuyệt đẹp”, tôi nói, “cậu moi ở đâu ra thế Otto?” Koester cười. “Một câu chuyện rắc rối. Kể ra thì dài dòng lắm. Nhưng hãy nói thử cậu cảm thấy trong người ra sao? Như một kẻ tam tuần?” Tôi phẩy tay. “Như mười sáu và đồng thời như ngũ tuần. Chẳng có gì đặc biệt cả.” - Cậu bảo chẳng có gì đặc biệt sao? - Lenz đáp lại - Tuổi tác không phải là thứ cao nhất có trên đời hay sao? Cậu đã chiến thắng thời gian một cách tự chủ và sẽ sống gấp đôi. Koester nhìn tôi, đoạn bảo: “Thôi mặc cậu ấy, Gotfrit, những ngày sinh nhật thường đè nặng lên lòng tự tôn. Đặc biệt vào lúc sáng sớm. Cậu ấy sẽ tĩnh tâm lại ngay ấy mà.” Lenz nheo mắt lại. “Lòng tự tôn của một con người càng ít bao nhiêu, giá trị của anh ta càng nhiều lên bấy nhiêu, Robby ạ. Điều đó ít nhiều an ủi cậu chăng?” - Không, - tôi đáp - không một mảy may. Khi con người trở nên có giá trị một chút, anh ta chỉ còn là tượng đài của riêng anh ta mà thôi. Đối với mình, như thế thật mệt mỏi và buồn tẻ. - Cậu ấy triết lý, Otto ơi, - Lenz reo - Cậu ấy đã thoát nạn. Cậu ấy đã vượt qua khoảnh khắc im lặng! Cái khoảnh khắc im lặng trong ngày sinh nhật, khi con người ta tự soi vào đồng tử của con ngươi mình và phát hiện ra mình chỉ là một chú gà nhép nghèo hèn biết mấy. Bây giờ tụi mình có thể thanh thản bắt tay vào công việc hàng ngày và tra dầu cho động cơ chiếc Cadilac cổ được rồi đấy... Erich Maria Remarque 16 BA NGƯỜI BẠN Cả bọn chúng tôi làm việc cho tới lúc chạng vạng tối, rồi rửa ráy và thay quần áo. Lenz thèm thuồng liếc nhìn dãy chai. “Ta bẻ cổ một chai chứ?” - Cái đó phải do Robby quyết định - Koester nói - Đi gạ gẫm kẻ được tặng quà một cách vụng về đến thế thật không đẹp chút nào, Gotfrit ạ. - Nhưng để những kẻ tặng quà chết khát còn không đẹp hơn nữa kia. - Lenz đáp và mở một chai. Mùi thơm lập tức lan khắp xưởng. - Đấng Moses thiêng liêng. - Gotfrit xuýt xoa. Cả ba thằng hít lấy hít để. “Tuyệt vời Otto ạ. Cần phải vươn tới nền thi ca cao siêu mới hòng tìm được những so sánh xứng đáng.” - Quá uổng nếu cậu đem uống trong căn xép tối tăm này! - Lenz quyết định - Các cậu biết không, tụi mình sẽ ra khỏi đây, sẽ ăn tối ở đâu đó và cắp chai rượu theo. Phải nốc cạn nó giữa thiên nhiên tự do của Chúa - Hết tầm! Ba thằng đẩy chiếc Cadilac vừa sửa sang ban chiều sang một bên. Phía sau nó là một vật kỳ dị đặt trên bốn bánh. Đó là chiếc xe đua của Otto Koester, niềm tự hào của xưởng. Koester đã đổi chiếc xe, một cái thùng cũ cao thành, trong một cuộc bán đấu giá bằng một chiếc bánh mì bơ. Thời đó nhìn chiếc xe, các chuyên gia đều không chút do dự mệnh danh cho nó là một hiện vật thú vị cho viện bảo tàng giao thông. Nhà thời trang Bonvis, chủ một hãng may măng tô phụ nữ và là kẻ ham thích đua xe, đã khuyên Otto biến nó thành một chiếc máy khâu. Nhưng Koester chẳng bận tâm đến điều đó. Cậu ta tháo rời chiếc xe như tháo một chiếc đồng hồ bỏ túi và hì hục thâu đêm với nó hàng tháng trời. Một tối nọ, cậu ta xuất hiện cùng với chiếc xe trước tiệm rượu mà chúng tôi thường đến uống. Khi lại nhìn thấy chiếc xe, Bonvis suýt ngã lăn ra vì cười, nom nó vẫn tức cười như cũ. Để gây chuyện khôi hài, gã mời Otto một cuộc thách đấu. Gã muốn đưa ra hai trăm mác cược lấy hai mươi thôi, nếu Koester nhận đua với chiếc xe thể thao mới của gã chặng đường dài mười kilomet, chấp xe của Otto một kilomet. Koester nhận lời thách đấu. Ai nấy đều cười và trông đợi một điều thú vị khổng lồ. Nhưng Otto còn làm tợn hơn nữa: cậu ta khước từ sự ưu tiên, và với nét mặt bình thản, nâng giá đánh cược lên một ngàn mác chọi một ngàn Erich Maria Remarque 17 BA NGƯỜI BẠN mác. Bonvis luống cuống hỏi Koester liệu gã có cần phải đưa cậu ta tới trại điên hay không. Koester chỉ trả lời bằng cách cho xe mình khởi động. Cả hai lập tức phóng đi thực hiện cuộc đấu. Sau nửa giờ, Bonvis trở lại với vẻ mặt hoảng loạn như thể vừa trông thấy rắn biển. Gã lặng lẽ viết một tấm séc và thêm một tấm séc nữa. Giờ đây gã muốn mua tại chỗ chiếc xe. Nhưng Koester đã cười nhạo gã. Cậu ta sẽ không bao giờ đổi chiếc xe lấy đồng tiền trần gian nữa. Dẫu cỗ máy bên trong của chiếc xe không chê vào đâu được... bề ngoài của nó vẫn xấu xí. Để sử dụng hàng ngày, chúng tôi thay cho nó một chiếc vỏ đặc biệt lỗi thời, vừa khớp, với lớp sơn đã khá xỉn, chắn bùn có những chỗ rách, và cái mui đã dùng đến cả chục năm. Lẽ ra chúng tôi có thể mông má tất cả xuya hơn... Nhưng chúng tôi có một lý do để không làm. Chiếc xe tên là Karl. Karl, bóng ma trên đường nhựa. Karl thở phì phò dọc theo đường nhựa. - Otto, tôi nói, một nạn nhân đang dẫn xác đến kìa. Sau lưng chúng tôi, một chiếc Buich nặng nề nôn nóng bóp còi. Nó đang nhanh chóng đuổi kịp. Những bộ tản nhiệt sắp sửa xích lại gần nhau. Gã đàn ông bên tay lái hững hờ trông sang. Ánh mắt gã lướt từ trên xuống chiếc Karl thô thiển. Rồi gã quay mặt đi và quên phắt chúng tôi. Vài giây sau, hẳn gã xác định là Karl vẫn ở cùng một tốc độ với gã. Gã chỉnh lại tư thế một chút ít cho thoải mái, nhìn chúng tôi một cách khoái trá và tăng ga. Nhưng Karl không nao núng. Như một con chó terie bên cạnh một con chó đô , nó vẫn tiếp tục chạy, nhỏ bé, linh lợi kèm sát cái đầu máy mạ kền và sơn sáng loáng. Gã đàn ông nắm chắc tay lái hơn. Gã hoàn toàn chẳng nghi ngờ gì và bĩu môi khinh bỉ. Có thể đoán giờ đây gã định bụng cho chúng tôi thấy hiệu suất cỗ xe trượt của gã. Gã nhấn chân ga mạnh tới mức ống xả ríu rít lên như một cánh đồng đầy chim sơn ca trong mùa hạ. Thế nhưng chẳng ích gì; gã không vượt lên nổi. Như có phép phù thủy, Karl cứ dính chặt lấy gã, xấu xí và khiêm tốn. Gã đàn ông ngạc nhiên nhìn chòng chọc xuống chúng tôi. Gã không hiểu nổi làm sao với tốc độ trên trăm cây số giờ mà cái hòm cổ lỗ bên cạnh gã đây lại không long hết ra. Gã kinh ngạc nhìn vào đồng hồ tốc độ xe gã, làm như nó có thể chỉ sai. Rồi gã thả xe chạy hết tốc lực. Erich Maria Remarque 18 BA NGƯỜI BẠN Giờ đây hai chiếc xe sánh vai nhau lao trên con đường nhựa thẳng, dài hun hút. Được vài trăm mét xuất hiện một chiếc xe tải đi ngược chiều. Chiếc Buick đành lùi lại sau chúng tôi để tránh. Nó chưa kịp lên ngang với Karl thì một chiếc xe tang lướt đến với những tua kết vòng hoa bay bay, chiếc Buick buộc lòng lùi lại lần nữa. Sau đó là khoảng trống trước mặt. Tới lúc này, gã đàn ông bên tay lái đã mất hết vẻ ngạo nghễ; tức giận, môi mím chặt, gã khom mình về phía trước... máu đua xe đã bốc lên trong gã, và đột nhiên danh dự đời gã buộc gã bằng bất cứ giá nào không được phép tỏ ra hèn kém trước con chó hay sủa nhặng đang kè kè bên gã đây. Ngược lại, chúng tôi tỏ vẻ dửng dưng ngồi yên chỗ của mình. Đối với chúng tôi, chiếc Buick như không hề tồn tại, Koester bình thản nhìn con đường, tôi uể oải dõi mắt vào không trung; còn Lenz, mặc dù hết sức căng thẳng, lôi một tờ báo ra và làm ra vẻ như đối với cậu ta ngay lúc này không có gì quan trọng hơn là đọc báo. Ít phút sau Koester nháy mắt cho chúng tôi. Karl ngầm giảm tốc độ, và chiếc Buick từ từ vượt lên. Những chiếc chắn bùn rộng, bóng nhoáng của nó sạt qua xe chúng tôi. Ống xả ầm ầm nhả khói xanh vào mặt chúng tôi. Dần dần nó đã bỏ xa chúng tôi quãng hai chục mét... và ở cửa sổ xe đã ló ra bộ mặt của kẻ sở hữu, gã nhe răng cười đắc thắng. Gã chắc mẩm đã được cuộc. Nhưng gã còn có một hành vi nữa. Gã không thể nén một sự trả thù. Gã vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi cứ việc đuổi theo. Thậm chí gã vẫy tay một cách đặc biệt hờ hững, nắm chắc phần thắng. “Kìa Otto”, Lenz nói giọng nhắc nhở. Nhưng cậu ta chẳng cần phải nhắc. Trong cùng khoảnh khắc, Karl đã vọt lên. Chiếc máy nén khí huýt như tiếng sáo. Và đột nhiên cánh tay vẫy vẫy thò ở cửa xe biến mất... Bởi vì Karl đã hưởng ứng sự mời mọc. Nó tới, thậm chí không gì kìm hãm nổi, lấy lại mọi khoảng cách... và bây giờ, lần đầu tiên chúng tôi để tâm đến chiếc xe lạ. Chúng tôi ngước nhìn gã đàn ông bên tay lái với vẻ dò hỏi trong trắng, như thể chúng tôi rất muốn biết vì cớ gì gã lại vẫy chúng tôi. Thế nhưng gã một mực ngoảnh mặt đi. Bấy giờ Karl mới thả hết tốc lực vọt lên, một kẻ lôi thôi lếch thếch thắng trận với toàn thân lấm lem và những chiếc chắn bùn bay rập rờn. Erich Maria Remarque 19 BA NGƯỜI BẠN - Cừ đấy, Otto. Lenz bảo Koester. Tối nay thằng cha sẽ ăn mất ngon. Những cuộc săn đuổi như thế chính là lý do chúng tôi không thay đổi vỏ ngoài của Karl. Chỉ cần Karl xuất hiện trên đường phố, lập tức có kẻ tìm cách bỏ xa nó. Đối với những chiếc xe khác, nó như một con chim gáy rã cánh trước một lũ mèo đói. Nó cám dỗ những cỗ xe hiền hòa nhất muốn vượt và ngay cả những kẻ rậm râu béo bệu nhất cũng không sao tránh khỏi bốc máu đua xe, một khi thấy cái gầm xe kêu rầm rầm của nó cứ nhảy loi choi trước mặt. Có ai ngờ nổi bên trong cái hình thù nực cười đó đang đập trái tim vĩ đại của một động cơ xe đua! Lenz khẳng định rằng Karl có tác dụng giáo dục. Nó dạy thiên hạ biết kính trọng sự sáng tạo luôn ẩn mình trong một cái vỏ khiêm nhường. Đó là lời của Lenz, kẻ đã vỗ ngực khẳng định mình là con người lãng mạn cuối cùng. Chúng tôi dừng bánh trước một quán ăn nhỏ và xuống xe. Chiều đẹp, yên tĩnh. Những luống cày trên các cánh đồng mới xới ánh lên màu tim tím. Còn những bờ ruộng phát sáng ánh sắc nâu và óng vàng. Những đám mây tựa đàn cò lửa khổng lồ sải cánh trên bầu trời xanh màu trái táo, lấp ló sau chúng là lưỡi liềm mỏng manh của vầng trăng đang dần đầy. Một bụi hồ đào dại ôm hoàng hôn và nỗi ngờ vực trong những cánh tay của mình, trơ trụi một cách cảm động, nhưng đã ngập tràn hi vọng chồi non. Từ quán ăn nhỏ bay ra mùi gà rán thơm phức. Cả mùi hành phi nữa. Chúng tôi hít căng lồng ngực. Mùi thơm kéo Lenz đâm bổ vào quán. Cậu ta quay ra, nét mặt rạng rỡ. “Các cậu phải tận mắt nhìn những lát khoai tây rán nhé! Nhanh lên, không họ nốc sạch món ngon nhất bây giờ!” Đúng lúc đó có tiếng một chiếc xe nữa rì rì tiến lại. Cả bọn đứng như trời trồng. Đó là chiếc Buick. Nó đỗ xịch ngay cạnh Karl. - Ái chà! - Lenz nói. Chúng tôi luôn ẩu đả vì những vụ tương tự. Gã đàn ông xuống xe. Gã cao lớn, nặng nề, khoác một chiếc áo Raglan rộng bằng lông lạc đà nâu. Gã bực tức liếc nhìn Karl, tháo đôi găng tay to sụ màu vàng ra, và bước lại gần. - Cũng là một mẫu xe hả? Xe của anh ấy? Gã hỏi Koester lúc ấy đứng gần gã nhất, mặt nhăn nhó chẳng khác gì dưa chuột ngâm dấm. Erich Maria Remarque 20 BA NGƯỜI BẠN Cả ba thằng lặng lẽ nhìn gã một lúc. Chắc gã cho chúng tôi là bọn thợ máy diện bộ cánh chủ nhật đi chơi lậu một chuyến. - Ngài vừa nói gì đó phải không ạ? Cuối cùng Koester ngờ vực hỏi, cốt dạy cho gã biết lẽ ra có thể lịch sự hơn. Gã đàn ông đỏ mặt. - Tôi hỏi về chiếc xe này - gã không đổi giọng, càu nhàu giải thích. Lenz ưỡn thẳng người. Cái mũi to bự của cậu ta rung rung. Cậu ta hết sức đòi hỏi những người khác phải giữ phép lịch sự. Nhưng Lenz chưa kịp mở miệng thì bỗng nhiên, như bởi một bàn tay ma quỷ, cánh cửa thứ hai của chiếc Buick bật mở... một bàn chân nhỏ nhắn thò ra, tiếp theo là cái đầu gối xinh xinh... rồi một cô gái bước xuống, từ tốn đi về phía chúng tôi. Ba thằng kinh ngạc nhìn nhau. Trước đấy chúng tôi không nhận thấy trong xe còn có người nữa. Lenz thay đổi ngay thái độ. Cả gương mặt đầy tàn nhang của cậu ta mỉm cười. Chúng tôi cùng nhất loạt mỉm cười, có trời biết tại sao. Gã béo sửng sốt nhìn chúng tôi. Gã trở nên hoài nghi và hình như không còn biết nên làm gì trong tình huống này. - Bindinh, cuối cùng gã nói, khẽ nghiêng mình, tuồng như gã có thể tin tưởng vào cái tên của gã. Lúc này cô thiếu nữ đã đến sát chúng tôi. Chúng tôi hòa nhã hơn nữa. “Hãy giới thiệu về chiếc xe đi, Otto”, Lenz nói, mắt đưa nhanh sang Koester. - Sao lại không nhỉ. Otto trả lời và đáp lại bằng cái nhìn láu lỉnh. - Thực tình tôi rất muốn xem qua chiếc xe - Bindinh nói, giọng đã ôn hòa hơn - Hẳn nó chạy nhanh ghê gớm. Nó đã làm tôi hết cả hơi. Hai người đi sang bãi đỗ xe, và Koester nhấc nắp xe lên. Thiếu nữ không đi cùng. Thanh mảnh và lặng lẽ, nàng đứng bên Lenz và tôi, trong cảnh hoàng hôn. Tôi chắc mẩm Gotfrit sẽ tận dụng cơ hội, sẽ bung ra như một trái bom. Erich Maria Remarque 21 BA NGƯỜI BẠN Cậu ta vốn thích hợp với những tình huống như thế này. Ấy vậy mà tuồng như cậu ta đã quên mất tiếng nói. Thông thường cậu ta có thể gọi mái như một chú gà lôi... thế mà giờ đây cứ đứng đực ra đó chẳng khác nào một vị linh mục thuộc giáo phái Karmen 4 kỳ về thăm nhà. - Mong cô thứ lỗi cho - cuối cùng tôi lên tiếng - Chúng tôi không thấy cô ngồi trong xe. Nếu thấy chắc chắn chúng tôi chẳng làm bậy như vừa rồi. Thiếu nữ nhìn tôi. “Nhưng sao lại không nhỉ?” - Nàng bình thản đáp, giọng trầm một cách đáng ngạc nhiên, “Điều đó đâu đến nỗi tồi tệ gì.” - Không tồi tệ, nhưng không hoàn toàn đứng đắn. Xe của chúng tôi chạy quãng hai trăm kilomet một giờ. Nàng hơi khom mình về phía trước, tay thọc túi áo măng tô. - Hai trăm kilomet kia à? - Chính xác là 189.2 kilomet, số ghi chính thức đấy. - Lenz kiêu hãnh giảng giải ngay tức khắc, chẳng khác gì súng liên thanh. Nàng cười - Thế mà chúng tôi tưởng chỉ khoảng sáu bảy chục. - Cô thấy đấy... - tôi nói - dẫu sao cô cũng không thể biết được. - Vâng - nàng đáp - Quả thật chúng tôi không thể biết. Chúng tôi ngỡ chiếc Buick phải chạy nhanh gấp đôi xe của các anh. - Vâng... - tôi lấy mũi chân đá một cành cây vân sam gẫy sang bên - Nhưng chúng tôi có một lợi thế quá lớn. Và ông Bindinh bên đấy hẳn cũng khá tức giận về chúng tôi. Nàng cười. - Chắc thế, trong một khoảnh khắc nào đó. Nhưng con người cũng phải biết thua; nếu không làm sao sống nổi. - Hẳn rồi... 4 Giáo phái hình thành giữa thế kỷ XII trên núi Karmen thuộc Palestin với luật lệ hết sức khắc nghiệt, có thời kỳ không được phép nói. Erich Maria Remarque 22 BA NGƯỜI BẠN Một quãng ngừng. Tôi đưa mắt cho Lenz. Nhưng con người lãng mạn cuối cùng ấy chỉ nhếch miệng cười, phập phồng cánh mũi và bỏ mặc tôi. Những cây bạch dương xào xạc. Một con gà mái quang quác sau nhà. - Thời tiết kỳ diệu. - cuối cùng tôi nói nhằm phá vỡ sự im lặng. - Vâng, đẹp tuyệt! - thiếu nữ đáp. - Và đến là ôn hòa, - Lenz thêm. - Thậm chí ôn hòa khác thường, - tôi bổ sung. Lại một quãng ngừng mới. Cô thiếu nữ hẳn xem chúng tôi là những cái đầu cừu khá ngu ngốc, nhưng mặc dù muốn lắm, tôi cũng không moi nổi một ý nào nữa. Lenz hểnh mũi hít quanh. “Táo hầm”, cậu ta nói đầy cảm xúc, “hình như người ta cho cả táo hầm vào món gan. Một món ăn ngon lành.” - Đương nhiên rồi, tôi hưởng ứng và nguyền rủa hai thằng bạn tôi. Koester và Bindinh quay trở lại. Sau có ít phút mà Bindinh đã trở thành một người khác hẳn. Ông ta có cái vẻ hoàn toàn mãn nguyện của những kẻ say mê ô tô khi vớ được ở đâu đó một tay sành sỏi để có thể cùng trò chuyện. - Chúng ta cùng ăn với nhau chứ? - ông ta mời. - Lẽ dĩ nhiên. - Lenz đáp. Chúng tôi bước vào quán. Bước qua cửa, Gotfrit nháy mắt với tôi và hất hàm về phía cô gái. - Này cậu, cô nàng mười lần ăn đứt mụ già nghiêng ngả ban sáng... Tôi nhún vai. - Có thể, nhưng tại sao cậu lại bỏ mặc mình ấp a ấp úng như vậy? Cậu ta cười. - Cũng phải học cái ấy lấy một lần, bé yêu ơi. - Nhưng mình chẳng còn hứng học hiếc gì sất, tôi nói. Chúng tôi theo chân những người kia. Họ đã ngồi vào bàn. Bà chủ quán vừa vặn bưng ra món gan và khoai tây rán. Bà ta còn đưa ra một chai lớn rượu mạnh cất từ lúa mì để khai vị. Erich Maria Remarque 23 BA NGƯỜI BẠN Bindinh tỏ ra là một nhà diễn thuyết, lời lẽ tuôn ra như thác nước. Kiến thức của ông ta về động cơ ô tô fordng phú tới mức đáng kinh ngạc. Khi nghe Otto đã từng lái cả xe đua nữa thì mối thiện cảm của ông ta đối với Otto hầu như không còn biết giới hạn. Tôi ngắm ông ta kỹ hơn. Đó là một người đàn ông cao lớn, nặng nề với cặp lông mày rậm trên một gương mặt đỏ đắn, ít nhiều khoe khoang, ít nhiều ồn ào, và hình như tốt bụng, giống như hết thảy những ai thành đạt trong cuộc sống. Tôi có thể hình dung tối tối trước khi đi ngủ ông ta vẫn tự ngắm mình trong gương một cách nghiêm nghị, đầy phẩm giá và trịnh trọng. Thiếu nữ ngồi giữa tôi và Lenz. Nàng đã cởi bỏ áo măng tô, bên trong là một bộ trang phục Anh màu xám. Cổ nàng thắt một chiếc khăn trắng trông như cà vạt của kỵ sĩ. Tóc nàng màu nâu, óng như tơ, lấp lánh màu hổ phách dưới ánh đèn. Vai nàng rất phẳng, nhưng hơi nhô ra phía trước, đôi bàn tay nhỏ nhắn, ngón quá dài, và có vẻ hơi xương xương hơn là mềm mại. Gương mặt nàng nhỏ, xanh xao, nhưng cặp mắt to đã cho nó một sức mạnh gần như là nồng nhiệt. Theo tôi thì nàng rất xinh... nhưng ngoài điều đó ra tôi không nghĩ gì hơn. Ngược lại giờ đây Lenz hết sức hứng khởi. Cậu ta đã biến đổi hoàn toàn so với khi nãy. Chỏm tóc vàng của cậu ta sáng lóe như mào một con chim đầu rìu. Trong đầu cậu ta những ý nghĩ thay nhau nảy ra như pháo hoa và cậu ta cùng với Bindinh chế ngự cả bàn. Tôi lép vế ngồi đấy và chỉ có thể gây được rất ít sự chú ý, nhiều lắm là một lần đưa liễn xúp hay mời thuốc lá. Và chạm cốc với Bindinh nữa. Chạm cốc khá thường xuyên. Bỗng nhiên Lenz vỗ tay lên trán: “Chai rum! Robby, ra lấy cái chai rum sinh nhật của chúng ta vào đây!” - Sinh nhật à? Một người nào trong các anh có sinh nhật chăng? - cô gái hỏi. - Tôi - tôi nói - Vì nó tôi đã bị đeo đẳng suốt ngày hôm nay. - Đeo đẳng ư? Vậy có nghĩa anh không muốn người ta chúc mừng anh chứ gì? - Có chứ - tôi nói - Chúc mừng lại là một chuyện khác. - Vậy xin chúc anh mọi điều tốt đẹp! Erich Maria Remarque 24 BA NGƯỜI BẠN Trong một khoảnh khắc tôi nắm lấy tay nàng trong bàn tay tôi và cảm thấy cái siết tay khô ấm của nàng. Đoạn tôi đi ra ngoài lấy chai rum. Đêm mênh mông và câm lặng trùm lên căn nhà nhỏ. Những chiếc ghế da trong xe chúng tôi ẩm sương. Tôi đứng lại, nhìn về chân trời, nơi ánh sáng đỏ của thành phố hắt lên. Lẽ ra tôi còn muốn nấn ná ở ngoài này thêm nữa, nhưng đã nghe tiếng Lenz gọi. Bindinh không chịu được rum. Chỉ sau cốc thứ hai là thấy ngay. Ông ta lảo đảo bước ra vườn. Tôi đứng dậy, cùng Lenz lại bên quầy rượu. Cậu ta gọi một chai gin. “Một cô gái tuyệt vời, hả?”, cậu ta nói. - Mình không biết Gotfrit ạ. - tôi đáp - Mình chẳng chú ý đến điều đó lắm. Lenz ngắm nhìn tôi một lát với cặp mắt xanh lấp lánh ánh cầu vồng của cậu ta, đoạn lắc lắc cái đầu vàng rực. - Nói xem, bé yêu, thật ra cậu sống để làm gì hở? - Mình cũng đã tự hỏi từ lâu. Cậu ta cười. - Khôn thế! Nhưng không phải với ai cũng dễ dàng vậy đâu. Còn bây giờ trước hết mình phải moi thử xem cô gái có quan hệ thế nào với cái cuốn kataloge ô tô dày cộp ngoài kia. Cậu ta theo Bindinh ra vườn. Sau ít phút, hai người cùng trở lại quầy rượu. Tin tức hẳn phải tốt đẹp, bởi Gotfrit, người giờ đây hình như biết mình không bị ngáng đường, đang sôi nổi bám riết lấy Bindinh trong niềm hân hoan rạng rỡ. Hai người lấy chai gin và một giờ sau đã cậu cậu tớ tớ với nhau. Khi vui vẻ, Lenz luôn có một cái gì đó lôi cuốn khiến người khác khó lòng cưỡng lại. Bản thân cậu ta cũng không cưỡng nổi mình. Giờ đây, cậu ta đang nhấn chìm Bindinh trong rượu và liền đó cả hai đã cùng nghêu ngao những bài hát lính tráng ở ngoài vườn. Con người lãng mạn cuối cùng đã quên phắt cô gái. Còn lại ba chúng tôi trong quán ăn. Không khí đột nhiên hết sức yên ắng. Chiếc đồng hồ bằng gỗ mun kêu tích tắc. Bà chủ quán thu dọn bát đĩa và nhìn chúng tôi với ánh mắt của người mẹ. Một con chó săn màu nâu nằm duỗi người bên lò sưởi. Thỉnh thoảng nó lại sủa trong giấc ngủ, khe khẽ, ăng ẳng và rền rĩ. Bên ngoài gió lướt qua cửa sổ. Tiếng gió bị át bởi cái thứ bài hát lính giẻ rách, và tôi có cảm giác căn buồng nhỏ tự nâng bổng lên, Erich Maria Remarque 25 BA NGƯỜI BẠN cùng với chúng tôi bay lững lờ xuyên màn đêm, xuyên năm tháng, lướt qua bao kỷ niệm. Một trạng thái kỳ lạ. Thời gian như đã mất hiệu lực... nó không còn là một dòng sông bắt nguồn từ tăm tối và tìm về tăm tối... nó là một cái hồ trong đó cuộc sống lặng lẽ soi bóng. Tôi nắm trong tay ly rượu của mình. Rượu rum sáng lấp lánh. Tôi nghĩ đến mảnh giấy mình viết ban sáng ở xưởng. Tôi đã buồn ít nhiều. Giờ đây tôi không còn buồn nữa. Tất cả thế nào cũng được miễn là người ta còn sống. Tôi nhìn Koester. Tôi nghe cậu ta trò chuyện với cô gái nhưng tôi không để ý họ nói gì. Tôi cảm thấy vẻ rực rỡ êm dịu của tình trạng chớm say, nó sưởi ấm dòng máu, và tôi yêu nó bởi thông qua sự mơ mơ màng màng nó cho ta sắc thái phiêu lưu. Ngoài kia Lenz và Bindinh đang hòa bài ca về rừng Argonner. Còn bên cạnh tôi, cô gái không quen biết đang nói, nàng nói khẽ và từ tốn, với cái giọng trầm đục, gợi cảm và hơi khàn khàn ấy. Tôi uống cạn cốc rượu của mình. Hai người kia lại quay vào. Không khí trong lành đã khiến họ tỉnh táo hơn. Chúng tôi đứng dậy. Tôi giúp cô gái mặc áo măng tô. Nàng đứng sát trước tôi, đầu hơi ngả về phía sau, miệng hé mở, nhìn trần nhà nở một nụ cười bâng quơ. Tôi buông thõng chiếc măng tô trong một khoảnh khắc. Mắt tôi để đâu suốt thời gian vừa rồi? Tôi đã ngủ chăng? Tôi bỗng hiểu nỗi phấn khích của Lenz. Nàng quay người vẻ dò hỏi. Tôi giương vội chiếc măng tô lên và ngó sang Bindinh. Mặt đỏ như trái anh đào, vẫn ít nhiều đờ đẫn, ông ta đứng cạnh bàn. - Cô cho rằng ông ta lái xe được chăng? - tôi hỏi. - Tôi tin thế... Tôi vẫn không thôi nhìn nàng. - Nếu ông ta không đủ tỉnh táo, một trong những người chúng tôi có thể đi cùng xe cô. Nàng lôi hộp phấn của mình ra và mở nắp. - Sẽ đâu vào đấy cả thôi, - nàng nói - khi say, ông ấy lái tốt hơn nhiều. - Tốt hơn và có lẽ cũng ẩu hơn - tôi đáp. Nàng nhìn tôi qua chiếc gương nhỏ của nàng. - Hy vọng rằng sẽ ổn. - tôi nói, có hơi cường điệu một chút vì Bindinh đứng khá vững Erich Maria Remarque 26 BA NGƯỜI BẠN trên đôi chân của mình. Nhưng tôi muốn làm một cái gì đó, cốt sao nàng đừng bỏ đi. - Cô cho phép tôi sáng mai gọi điện tới nhà cô hỏi thăm chuyến đi ra sao chứ? - tôi nói. Nàng không trả lời ngay. - Với trò nhậu nhẹt của mình, dẫu sao chúng tôi cũng có trách nhiệm phần nào - tôi tiếp - nhất là tôi, với chai rum sinh nhật của mình. Nàng cười. - Vâng, được ạ, nếu anh muốn. Phía Tây 2796. Ra khỏi quán tôi ghi lại ngay số điện. Chúng tôi nhìn xe Bindinh lăn bánh, rồi cạn thêm ly cuối cùng. Sau đó chúng tôi cho Karl rú máy. Nó lướt qua đám sương mù tháng ba mỏng manh, chúng tôi thở gấp, thành phố nhích lại gần trước mắt chúng tôi, đỏ rực và đung đưa trong sương mù; và từ làn hơi nước, tiệm rượu của Fretdi như một con tàu sặc sỡ được chiếu sáng nhô lên. Chúng tôi cùng Karl đến trước mỏ neo. Rượu cô nhắc rót ra vàng óng, rượu gin lóng lánh như ngọc xanh màu nước biển và rượu rum chính là cuộc đời. Chúng tôi ngồi lì lợm trên những chiếc ghế kê trong tiệm, âm nhạc ướt át, sự tồn tại thật sáng sủa và mạnh mẽ; rượu chảy ào ào qua lồng ngực chúng tôi, chúng tôi quên đi nỗi phiền muộn trong những gian buồng cho thuê trống trải, quên đi nỗi tuyệt vọng của sự hiện tồn, quầy rượu trong tiệm là buồng chỉ huy con tàu, và chúng tôi ồn ào lướt sóng vào tương lai. II Erich Maria Remarque 27 BA NGƯỜI BẠN Hôm sau là chủ nhật. Tôi đánh một giấc dài và chỉ thức giấc khi ánh mặt trời rọi vào giường tôi. Tôi nhảy vội mở tung cửa sổ. Bên ngoài, không khí tươi mát và trong trẻo. Tôi đặt chiếc bếp cồn lên bậu cửa sổ rồi tìm hộp đựng cà phê. Chủ nhà tôi, bà Zalepski đã cho phép tôi tự đun cà phê của mình trong phòng. Cà phê của bà loãng quá, đặc biệt loãng đối với những kẻ tối hôm trước vừa nốc rượu. Tôi sống ở nhà trọ của Zalepski đã hai năm nay. Tôi thích khu vực này. Nơi đây luôn luôn diễn ra một cái gì đó, vì nhà công nhân, tiệm cà phê Quốc Tế và trụ sở hội họp của Đội quân cứu tế nằm sát bên nhau 5 . Ngoài ra phía trước nhà trọ còn có một nghĩa trang cổ đã ngừng hoạt động từ lâu. Cây cối mọc trong đó chẳng khác gì trong công viên, và khi đêm về yên tĩnh, ta có thể ngỡ như mình đang sống ở thôn quê. Nhưng phải khá khuya mới có được sự yên tĩnh ấy, bởi bên cạnh nghĩa trang là một quảng trường Chợ với nào là đu quay, đu thuyền. Với bà Zalepski thì nghĩa trang này là một nguồn lợi chắc chắn. Bà dẫn ra không khí trong lành và tầm nhìn thoáng đãng để đòi những giá thuê nhà cao hơn. Câu nói cửa miệng của bà trong những lần quảng cáo là: “Nhưng thưa các quý vị, quý vị thử ngẫm mà xem... địa thế mới tuyệt chứ!”. Tôi hết sức thong thả mặc quần áo để tạo cho mình cảm giác đang là ngày chủ nhật. Tôi rửa mặt mũi, tôi dạo quanh trong phòng, tôi đọc báo, tôi quấy tách cà phê, tôi đứng bên cửa sổ nhìn xem đường phố trở nên náo nhiệt ra sao, tôi nghe những chú chim hót trên những tán cây cao trong nghĩa trang. Chúng hót như những ống sáo nhỏ bằng bạc của Chúa lòng lành hòa với tiếng làu nhàu ngọt ngào, khe khẽ phát ra từ những chiếc đàn quay tay ở quảng trường Chợ... Tôi lựa chọn giữa một vài chiếc sơ mi và những đôi bít tất của mình, tuồng như tôi giàu quần áo hơn thế gấp hai chục lần, và vừa huýt sáo tôi vừa dốc túi của mình ra: vài đồng tiền lẻ, một con dao, chìa khóa, mấy điếu thuốc lá... và đây, mảnh giấy ngày hôm qua có ghi số điện thoại của nàng. Patrice Hollmann. Một cái tên kỳ quặc... 5 Salvanion Army: Tổ chức từ thiện có tính chất tôn giáo trong quân đội, ở Anh và Mỹ Erich Maria Remarque 28 BA NGƯỜI BẠN Patrice. Tôi đặt mảnh giấy lên mặt bàn. Có thật mới chỉ hôm qua thôi không? Nó đã lùi xa biết mấy... gần như đã bị quên đi trong đám hơi men màu xám ngọc của rượu... Thật tuyệt diệu là khi rượu chè… nó khiến ta mau chóng sụp đổ... nhưng từ đêm tới sáng, nó cũng lại tạo ra những khoảng trống, dường như đã trôi qua có đến hàng năm. Tôi nhét mảnh giấy dưới một chồng sách. Gọi điện chăng? Có lẽ nên... cũng có lẽ không nên. Ban ngày ta nhìn những sự việc đại loại luôn khác với buổi tối. Thật ra tôi hoàn toàn hài lòng vì có được sự yên tĩnh của mình. Những năm vừa qua ầm ĩ như thế là đủ. Có điều chớ để một chút gì đến với ta, Koester nói. Cái gì ta đã để đến với ta rồi, ta cứ muốn giữ lấy. Mà giữ thì ta lại không thể... Đúng lúc này bắt đầu nổ ra trận cãi vã sáng chủ nhật thường kỳ ở buồng bên cạnh. Tôi tìm chiếc mũ mà hẳn tôi đã bỏ lại đâu đó tối hôm qua, và lắng tai nghe một lát. Đó là cặp vợ chồng Hasso đang nổi khùng lên với nhau. Cả hai sống ở đây đã năm năm, trong một căn buồng nhỏ. Họ không phải những người xấu. Giá như họ có được một căn hộ ba buồng, với một gian bếp cho người vợ, và ngoài ra thêm một mụn con nữa, thì cuộc hôn nhân của họ có lẽ vẫn giữ được êm ấm. Thế nhưng một căn hộ đòi hỏi nhiều tiền, và ai là kẻ dám sinh con vào thời buổi bấp bênh này! Thế là họ cứ đành sống chật chội, bà vợ sinh thói khỏe cáu gắt, còn ông chồng ngay ngáy lo mất cái cương vị nhỏ nhoi của mình. Khi ấy, ông sẽ đi đứt. Ông đã bốn mươi lăm tuổi. Sẽ không ai thèm nhận ông vào làm nữa bởi vì ông đã một lần mất việc. Đó là nỗi cay cực… trước kia người ta suy sụp từ từ, và bao giờ cũng vẫn còn cơ hội để ngoi lên... nhưng ngày nay, liền sau mỗi sự thải hồi là cái vực thẳm thất nghiệp vĩnh viễn. Tôi toan lẳng lặng bỏ ra ngoài thì nghe tiếng gõ cửa, và Hasso thất thểu bước vào. Ông ngồi phịch xuống một chiếc ghế: “Tôi không chịu nổi nữa...” Thật ra ông là một người đàn ông nhỏ nhẹ với đôi vai trễ và chút ria mép. Một viên chức khiêm tốn, tận tụy. Nhưng giờ đây chính những người như thế lại khốn đốn nhất. Mà có lẽ vào thời nào họ cũng là những kẻ lận đận nhất. Đức khiêm tốn và tận tụy chỉ được trả ơn trong tiểu thuyết mà thôi. Trong cuộc sống, chúng bị lợi dụng để rồi sau đó bị gạt sang bên. Hasso giơ tay lên trời: “Anh thử nghĩ xem lại có thêm hai người nữa bị thải hồi ở công sở. Người tiếp theo là tôi, anh chú ý cho, là tôi!”. Ông sống trong nỗi sợ hãi kể từ khi kẻ đầu tiên bị thải hồi. Tôi rót cho ông ly rượu mạnh. Ông run rẩy toàn thân. Có thể thấy rõ một ngày kia ông sẽ hoàn toàn suy sụp. Ông không còn mấy chút sức lực để mà chống Erich Maria Remarque 29 BA NGƯỜI BẠN chọi. “Đã thế, bao giờ cũng phải nghe những lời chì chiết ấy”, ông thì thầm. Hình như bà vợ kết tội ông về hiện trạng của bà. Bà bốn mươi hai tuổi, đã hơi sồ sề và tàn tạ, nhưng cố nhiên không đến nỗi kiệt quệ như ông chồng. Bà đang ở giai đoạn hồi xuân. Can thiệp vào chuyện của họ chẳng ích lợi gì. “Thế này nhé, bác Hasso”, tôi nói, “bác cứ việc ngồi đây bao lâu tùy thích. Tôi có việc phải đi. Rượu cô nhắc ở trong tủ áo ấy, nếu bác thích uống thứ ấy hơn. Còn đây là rượu rum. Có cả báo đấy. Đến chiều bác hãy thử rủ bác gái ra khỏi nhà lấy một lần xem sao. Đến rạp chiếu phim chẳng hạn. Tốn kém cũng ngang như ngồi hai giờ trong tiệm cà phê, mà lại bổ ích hơn hẳn. Khẩu lệnh hôm nay là: “Quên đi, chớ có suy nghĩ!””. Tôi vỗ vai ông với ít nhiều áy náy trong lương tâm. Dẫu rằng rạp chiếu phim bao giờ cũng tốt. Ở đó ai cũng có thể mơ mộng chút đỉnh. Cửa phòng bên mở toang. Bà vợ khóc nức nở khiến ai ở ngoài cũng nghe rõ. Tôi đi dọc hành lang. Có ai nép mình phía sau cánh cửa buồng tiếp theo. Người đó đang nghe ngóng. Mùi nước hoa thoang thoảng bay ra. Đó là buồng của Erna Boenich, nữ thư ký tư. Quá ăn diện so với đồng lương của cô ta. Nhưng mỗi tuần sếp của cô ta lại một lần bắt cô ta ghi chép thâu đêm suốt sáng. Và thế là ngày hôm sau cô ta hết sức cau có. Để bù lại, tối nào cô cũng đi nhảy. Erna tuyên bố lúc cô ta không còn nhảy được nữa cũng sẽ là lúc cô ta hết thiết sống. Cô ta có hai nhân tình. Anh này yêu và tặng hoa cô ta. Chàng kia được cô ta yêu và cho tiền. Bên cạnh cô ta: đội trưởng đội kỵ mã, bá tước Orlop, người Nga lưu vong, vũ công, bồi bàn, đĩ đực với hai bên tóc mai đã ngả hoa râm, một tay chơi ghi ta tuyệt vời, tối tối cầu xin Đức mẹ Kadan ban cho chân điều hành tiếp tân trong một khách sạn cỡ vừa. Hễ say rượu là mau nước mắt. Phòng bên cạnh: bà Bende, hộ lý trong một cư xá dành cho trẻ sơ sinh. Bà đã năm mươi tuổi. Chồng nằm lại trong chiến tranh. Hai con chết năm 1918 vì suy dinh dưỡng. Bà có một con mèo tam thể. Nó là tài sản duy nhất của bà. Bên cạnh nữa... lão Muynler, cố vấn kế toán đã nghỉ hưu, theo dõi sổ sách cho một hội chơi tem. Một bộ sưu tập tem sống, ngoài ra chẳng là gì cả. Con người sung sướng. Tôi gõ cánh cửa tiếp theo. “Thế nào George”, tôi nói, “vẫn chưa có tin gì sao?” George Block lắc đầu. Chú là sinh viên năm thứ ba. Để theo học được ba năm đó, chú Erich Maria Remarque 30 BA NGƯỜI BẠN đã phải làm việc hai năm ở mỏ. Giờ đây số tiền dành dụm ấy đã sắp cạn, chỉ đủ nuôi chú thêm hai tháng. Chú chẳng thể quay lại mỏ... Ở đó lúc này thiếu gì thợ không việc làm. Chú xoay xở mọi cách kiếm kế sinh nhai. Chú chạy chân phát quảng cáo cho một hãng sản xuất bơ thảo mộc vừa được một tuần thì hãng này bị vỡ nợ. Sau đó ít lâu, xin được việc đi giao báo, chú đã thở phào. Ba ngày sau, lúc tờ mờ sáng, chú đã bị hai tên đội mũ kết chặn đường, giật xấp báo của chú, xé tan và cảnh cáo đừng để chúng trông thấy chú lần thứ hai trong cái nghề không mảy may liên quan gì tới chú này. Bản thân bọn chúng cũng khối thằng mất việc rồi. Tuy nhiên sáng hôm sau chú vẫn đi, dẫu đã phải đền tiền số báo bị xé. Một tên nào đó tông xe đạp hất chú té nhào. Xấp báo bay xuống bùn. Chú lại phải đền thêm hai mác nữa. Chú đi lần thứ ba và trở về với quần áo rách bươm, mặt mũi bầm dập. Chú đành bỏ việc. Giờ đây, ngày nào chú cũng ngồi lì trong phòng, tuyệt vọng, và chúi đầu học như điên, tuồng như việc học hành còn giúp ích gì cho chú. Mỗi ngày chú chỉ ăn một bữa. Trong khi chú có theo học hay không theo học các năm sau cũng thế cả thôi... Ngay giả thử chú có cầm bằng trong tay, thì sớm nhất cũng phải chục năm sau chú mới hòng kiếm nổi một chỗ làm. Tôi đẩy bao thuốc về phía chú: “Thây kệ việc học hành đấy, George. Tôi đây cũng đã từng học. Sau này lúc nào chú bắt đầu lại chẳng được”. Chú lắc đầu. “Trước kia, hồi ở mỏ về, tôi đã thấm thía rồi. Chỉ cần buông sách vở một ngày là sẽ quên hết, và tôi không đủ sức làm lại lần thứ hai đâu”. Gương mặt xanh xao với đôi tai vểnh và cặp mắt cận thị, thân hình gầy đét với bộ ngực lép kẹp... Khốn nạn thân chú! “Vậy hãy gắng lên, George”. Chú cũng chẳng còn đâu cha mẹ. Nhà bếp. Một cái đầu lợn lòi nhồi. Vật tưởng niệm ông Zalepski quá cố. Chiếc máy điện thoại. Cảnh tranh tối tranh sáng. Nồng nặc mùi hơi ga và mỡ hôi. Cánh cửa hành lang với nhiều danh thiếp dán bên cạnh nút chuông. Trong đó có cả danh thiếp của tôi. “Robert Lokhamp, sinh viên triết, hai hồi chuông dài”. Nó đã vàng ố. Sinh viên triết. Không nghi ngờ gì nữa! Qua từ lâu rồi. Tôi theo cầu thang xuống nhà, đến tiệm cà phê Quốc Tế. *** Tiệm Quốc Tế là một cái ống lớn, tối tăm, mù mịt khói với nhiều phòng hậu. Phía trong, cạnh quầy là chiếc đàn dương cầm. Nó đã lạc điệu, vài dây bị đứt, và dãy phím bằng ngà voi cũng long mất một số; nhưng tôi yêu con ngựa bạch can đảm dai sức ấy. Nó đã Erich Maria Remarque 31 BA NGƯỜI BẠN cùng tôi chia sẻ năm tháng cuộc đời tôi hồi tôi được nhận vào chơi dương cầm trong tiệm. Những tay lái gia súc tụ tập với nhau trong những phòng hậu của tiệm cà phê, đôi khi cả những anh hàng chợ nữa. Các ả gái điếm ngồi ở phòng ngoài. Tiệm vắng tanh. Chỉ có anh bồi chân bẹt Alois đứng sau quầy rượu. “Như mọi lần?”, gã hỏi. Tôi gật đầu. Gã mang lại cho tôi một ly vang pha rum. Tôi ngồi xuống bàn, thẫn thờ nhìn phía trước. Một tia mặt trời xám lạnh chiếu chếch qua cửa sổ, dừng lại trên những chai rượu mạnh xếp trên giá. Chai rượu anh đào đỏ rực như một viên hồng ngọc. Alois súc sạch các ly. Con mèo của chủ tiệm nằm gừ gừ trên nắp dương cầm. Tôi thong thả rít thuốc lá. Không khí khiến tôi buồn ngủ. Cô gái hôm qua có giọng nói đến lạ. Trầm, hơi đục, gần như khàn khàn, nhưng vẫn êm ái. “Cho mượn vài tờ tạp chí đây, Alois”, tôi nói. Có tiếng kẹt cửa. Roda bước vào. Roda, ả điếm nghĩa trang, được mệnh danh là “con ngựa sắt”. Ả mang cái tên đó bởi ả rất dai sức. Ả định uống một tách socola. Sáng chủ nhật nào ả cũng tự đãi mình một tách tại đây để rồi còn đi Burgdorf thăm con ả. - Chào anh Robert. - Chào cô, Roda. Con nhóc nhà cô sao rồi? - Em đi thăm cháu bây giờ đây. Nhìn này... em mang theo cho nó đấy. Ả lôi trong hộp ra một con búp bê hai má đỏ chót và ghì nó vào bụng. “Mẹ... mẹ”, con búp bê kêu. Mắt Roda sáng rõ lên. - Tuyệt vời! Tôi nói. - Chú ý nhé! Ả ngả con búp bê về phía sau. Nó đóng sập hàng mi lại. - Hết tầm đấy, cô Roda! Ả lấy làm thỏa mãn và cất con búp bê đi. - Anh biết thông cảm phần nào với những chuyện như thế này, Robert ạ. Anh sẽ là một người chồng tốt. - Chà chà. Tôi ngờ vực nói. Erich Maria Remarque 32 BA NGƯỜI BẠN Roda rất quyến luyến con ả. Ba tháng trở về trước khi con bé chưa biết đi, ả giữ nó bên mình, trong phòng ả. Vẫn ổn, mặc dù cái nghề của ả, bởi cạnh đó có một gian xép nhỏ. Tối tối dẫn khách chơi về, ả thường viện một cái cớ gì đó buộc khách chờ một lát ở ngoài rồi hối hả vào nhà, đẩy chiếc xe nôi sang căn phòng xép, khóa cửa thông giữa hai phòng, rồi mới mời khách vào. Nhưng tiết tháng chạp mà con bé phải rời căn phòng ấm sang gian xép giá lạnh quá thường xuyên, thành thử nó bị cảm lạnh và hay gào toáng lên ngay giữa lúc ả đang hành nghề. Roda buộc lòng sống xa con gái, dù rất đau lòng. Ả gửi con vào một trại trẻ đắt tiền. Tại đó ả được xem như một quả phụ đoan chính. Nếu không thế chắc gì người ta đã nhận con ả. Roda đứng dậy. - Thứ sáu anh đến chứ? Tôi gật đầu. Ả nhìn tôi. - Anh hẳn biết có chuyện gì? - Tất nhiên. Tôi hoàn toàn chẳng biết có chuyện gì, nhưng tôi cũng chẳng thiết hỏi thử. Tôi đã quen nết như vậy trong cái năm chơi dương cầm ở tiệm này. Cứ thế hóa ra lại thoải mái nhất. Cũng như tôi anh anh em em với tất cả các ả điếm, không thể khác được. - Tạm biệt, anh Robert. - Tạm biệt, Roda. Tôi còn nán lại ngồi thêm lát nữa. Nhưng tôi không có được sự thư thái mơ màng đích thực như trong những ngày tôi coi tiệm Quốc Tế là một dạng tổ ấm chủ nhật của mình. Tôi uống thêm một ly rum, vuốt ve con mèo rồi bỏ đi. Suốt ngày tôi lang thang đây đó. Tôi không biết mình nên làm gì và cũng chẳng dừng ở bất cứ đâu được lâu. Xế chiều, tôi về xưởng. Tôi gặp Koester: cậu ta đang sửa chiếc Cadilac. Trước đây ít lâu, chúng tôi đã mua chiếc xe cũ kỹ ấy với giá rẻ mạt. Giờ đây Erich Maria Remarque 33 BA NGƯỜI BẠN chúng tôi vừa tân trang lại nó một cách kỹ lưỡng, và Koester đang tô điểm hoàn chỉnh nó. Đây là một món hời. Chúng tôi hy vọng sẽ trúng to. Tôi ngại rằng khó lòng bán nổi chiếc xe. Vào thời buổi khó khăn này ai ai cũng muốn tậu những chiếc xe nhỏ, chứ đâu ham một chiếc xe buýt kềnh càng như nó. “Bọn mình kẹt rồi, Otto ạ”, tôi nói. Thế nhưng Koester vẫn tin tưởng. “Người ta chỉ kẹt với những chiếc xe giá phải chăng thôi, Robby ơi”, cậu ta giải thích, “Những chiếc xe rẻ hoặc cực đắt lại bán rất chạy, thời nào cũng vẫn có những kẻ sẵn tiền, hoặc làm ra vẻ ta đây sẵn tiền”. - Gotfrit đâu nhỉ? Tôi hỏi. - Chắc lại hội họp chính trị gì đấy. - Điên rồ! Cậu ta muốn gì ở đó? Koester cười. “Bản thân cậu ta cũng không biết. Hình như mùa xuân khiến cậu ta ngứa ngáy tay chân. Lúc nào cậu ta chẳng kiếm một cái gì đó mới mẻ”. - Có thể. Tôi nói. “Nào, mình giúp cậu một tay”. Hai đứa chúng tôi hì hục đến xẩm tối. “Nghỉ thôi!” Koester bảo. Chúng tôi rửa ráy. “Cậu biết mình có gì trong này không?” Cậu ta hỏi, tay vỗ ví. - Gì thế? - Vé xem đấu bốc tối nay. Một đôi. Cậu sẽ cùng đi hả? - Tôi do dự. Cậu ta ngạc nhiên nhìn tôi. “Stinlinh chọi với Vankher nhé”, cậu ta nói, “một trận đấu hay phải biết”. - Rủ Gotfrit ấy, tôi đề nghị và cảm thấy mình lố bịch vì đã không nhận lời. Nhưng tôi không có cảm hứng đi cho lắm, chẳng hiểu vì sao. - Cậu có dự định gì rồi chăng? Cậu ta hỏi. - Không. Cậu ta nhìn tôi. - Mình cần về nhà - tôi nói - Viết thư và những việc đại loại. Cũng phải có lần... - Cậu ốm hay sao? Cậu ta lo lắng hỏi. Erich Maria Remarque 34 BA NGƯỜI BẠN - Ồ không, không một mảy may. Có lẽ mùa xuân cũng khiến mình cảm thấy ngứa ngáy. - Thôi được, tùy cậu. Tôi tha thẩn đi về nhà. Nhưng khi ngồi trong buồng mình rồi, tôi lại chẳng biết nên bắt đầu làm gì. Tôi do dự dạo quanh trong buồng. Giờ đây tôi không còn hiểu thật ra tôi muốn về vì lẽ gì. Cuối cùng tôi đi qua hành lang lại thăm George. Tôi va phải bà Zalepski. “Úi chà”, bà sửng sốt nói, “cũng ở nhà cơ đấy?” - Khó lòng chối cãi. Tôi hơi bực bội đáp. Bà lúc lắc mái đầu với những búp tóc hoa râm. - Không đi chơi đâu sao? Kỳ lạ gớm. Tôi không ngồi lại lâu với George. Sau mười lăm phút tôi trở lại buồng mình. Tôi ngẫm nghĩ xem mình có thèm nhấp chút gì không. Nhưng tôi không thấy thèm. Tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ, nhìn xuống đường phố. Hoàng hôn lướt trên nền nghĩa trang với những cặp cánh của loài dơi. Nền trời phía sau nhà công đoàn xanh như một trái táo non. Bên ngoài, đèn đường đã bật; nhưng chưa đủ tối nên ánh sáng của chúng như run rẩy. Tôi lần tìm dưới chồng sách mảnh giấy có ghi số điện thoại. Rốt cuộc thì... tôi có thể gọi thử một lần chứ sao. Thậm chí tôi đã gần như hứa hẹn sẽ gọi điện cho nàng kia mà. Đã chắc gì nàng có mặt ở nhà đấy. Tôi đi ra tiền sảnh, nơi đặt máy điện thoại, nhấc ống nghe lên và quay số. Trong khi đợi trả lời, tôi cảm giác như từ ống loa đen thoát ra một làn sóng êm ái, một niềm hy vọng sẽ sáng. Cô gái có nhà. Khi cái giọng trầm hơi đục của nàng đột nhiên cất lên một cách phi thường trong gian phòng chờ của bà Zalepski - giữa những cái đầu lợn lòi, hơi mỡ và xoong nồi xủng xoảng - khe khẽ và hơi chậm rãi như thể nàng cân nhắc từng chữ, thì nỗi bực bội của tôi bỗng chốc tan biến. Tôi móc lại ống nghe sau khi, thay vì chỉ hỏi cho biết tin, đã hẹn được với nàng một cuộc gặp gỡ vào ngày kia. Bỗng chốc mọi thứ đối với tôi không còn u ám như trước nữa. Rõ nhiên, tôi nghĩ và lắc đầu. Rồi tôi lại nhấc ống nghe, gọi cho Koester. - Cậu vẫn còn giữ vé đấy chứ, Otto? - Còn. - Hay lắm. Mình sẽ đi xem đấu bốc với cậu. *** Erich Maria Remarque 35 BA NGƯỜI BẠN Sau đó chúng tôi còn la cà khá lâu trong thành phố về đêm. Đường phố sáng sủa và vắng tanh. Những tấm biển quảng cáo nhấp nháy. Trong các ô trưng bày hàng, đèn cháy sáng rực một cách vô ích. Trong một gian kính thấy sừng sững các hình nộm trần nhồng nhộng với những mái đầu tô vẽ lòe loẹt. Trông ma quái và thác loạn. Bên cạnh, lấp lánh đồ nữ trang. Rồi đến một cửa hàng lớn tắm mình trong ánh sáng trắng chẳng khác gì một thánh đường. Các ô kính ngồn ngộn hàng tơ lụa sặc sỡ, bóng bảy. Trước rạp chiếu phim chồm hổm những hình hài nhợt nhạt, đói ăn. Bên cạnh họ, choáng lộn một chi điếm của một của hàng thực phẩm. Đồ hộp xếp chồng lên nhau như những ngọn tháp bằng thiếc, những trái táo mềm quý hiếm nằm trên nệm bông, một dãy ngỗng béo treo lủng lẳng như quần áo trên dây phơi, những ổ bánh mỳ nâu tròn xen giữa những chiếc xúc xích hun khói chắc nịch, chùm dăm bông và pate cắt khoanh lấp lánh sắc hồng và vàng dịu. Chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng đặt cạnh cửa hàng. Trời mát lạnh. Mặt trăng như một ngọn đèn hồ quang lơ lửng trên các mái nhà. Quá nửa đêm đã lâu. Gần đó trên đường cái, những người thợ dựng một mái lều. Họ sửa chữa đường xe điện. Những chiếc máy quạt gió kêu phè phè, và những chùm tia lửa bắn tung tóe bên trên những dáng người tối sẫm, khom mình nghiêm trang. Cạnh họ, những chảo nhựa đường bốc khói nghi ngút như những thùng thịt kho. Chúng tôi theo đuổi những ý nghĩ của mình. - Nực cười là một chủ nhật như thế này, phải không Otto? Koester gật đầu. - Thật ra mình hoàn toàn vui mừng khi nó qua đi, Koester nhún vai. Có lẽ mình đã quen với lối sống nhàm chán, tới một chút tự do cũng đủ khiến mình khó chịu. Tôi dựng cổ áo lên. - Có cái gì phản bác lại cuộc sống của bọn mình chăng, Otto? Cậu ta nhìn tôi và mỉm cười. - Một cái gì hoàn toàn khác đã phản bác lại nó rồi còn đâu, Robby. - Đúng vậy. Tôi thừa nhận. - Dẫu sao... Ánh sáng gắt của chiếc máy khoan dùng khí nén khiến mặt đường nhựa xanh ngắt lên. áp. Erich Maria Remarque 36 BA NGƯỜI BẠN
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro