asas-Lenghiabk05
Chó cái
Hắn gọi tôi là chó, một con chó cái. Tôi không hề phản đối điều này. Thậm chí tôi rất thích thú khi hắn gọi mình là chó cái. Lúc tôi đang mải mê gặm cái xương ống, hình như là xương ống của lợn, thì hắn đi ra. Nói thật sự là khi thấy hắn tôi vô cùng sung sướng. Tôi vẫy đuôi và liếm vào chân hắn. Trên tay hắn cầm một sợi xích. Đầu sợi xích hắn đã chuẩn bị một cái móc nhỏ nhưng trông có vẻ chắc chắn. Hắn móc sợi xích vào cổ tôi rồi xích tôi vào dưới gầm bàn. Hắn nói hắn không thích tôi đi lại lung tung. Tôi nghĩ hắn cũng có lý bởi dạo này tôi hay đi lại lung tung. Có khi tôi đi tới hai đêm mới về. Có thể điều này làm cho hắn lo lắng. Nếu như hắn thực sự lo lắng về tôi, thì đó là một niềm hạnh phúc. Tôi nhắm mắt lại và tận hưởng cảm giác được người khác lo lắng cho mình. Rồi hắn nói với tôi rằng tôi cần phải ở yên một chỗ, bởi đây là thời kỳ tôi động dục.
Tôi cần phải tiếp xúc với những con đực. Nhưng hắn lại không thích tôi tiếp xúc với những con đực. Cũng có thể là hắn ghen, hoặc hắn không muốn tôi sinh ra những con chó con. Nếu như hắn ghen thì tôi sẽ hét lên vì sung sướng. Nhưng quá tàn nhẫn, nếu như hắn xích tôi lại chỉ vì hắn không muốn nhìn thấy những con chó con. Tôi nằm bẹp xuống sàn nhà và suy ngẫm.
Hắn vào bếp một lúc rồi lấy ra cho tôi một bát cơm nguội. Hắn bỏ vào cho tôi mấy miếng thịt kho tàu và một ít nước mắm. Tôi đói nên ăn một cách ngon lành. Hắn nhìn tôi có vẻ như âu yếm. Tôi nói “có vẻ như”, bởi tôi thực sự không biết hắn nghĩ gì. Nhiều khi tôi nghĩ hắn đang giận tôi thì hắn lại ôm hôn tôi và khen tôi có bộ lông mượt. Nhưng có khi hắn nhìn tôi một cách âu yếm, lúc đó tôi chạy lại để liếm vào chân hắn thì hắn lại đá mạnh vào sườn của tôi. Thực sự tôi không thể dự đoán được những suy nghĩ của hắn. Hắn rất khác thường và khó hiểu.
Hắn đã xích tôi hai ngày. Tới ngày thứ ba thì tôi bắt đầu chống đối. Tôi không thể chịu nổi sự tù túng này. Tôi tru lên từng hồi. Nhưng hắn nhìn tôi và mỉm cười. Có thể hắn nghĩ rằng tôi không đủ sức để phá tan vòng xích của hắn. Và thực sự thì vòng xích rất chắc chắn. Tôi giật mạnh nhưng có vẻ như không ăn thua. Sau một hồi vật vã, tôi kiệt sức. Tôi đưa mắt nhìn hắn, tôi cố làm ra vẻ mặt van lơn. Nhưng rồi tôi khóc thực sự. Đến hôm sau thì tôi không thể chịu nổi. Có một cái gì đó trong cơ thể của tôi. Nó làm lông tôi dựng đứng lên, toàn thân tôi ngứa ngáy vô cùng. Khi thấy chỗ sinh dục của mình ra một ít chất nhờn màu vàng nhạt thì tôi đã nhận ra vấn đề. Tôi cần phải có những con đực. Vấn đề lúc này của tôi là phải gặp được một con đực. Hoặc nếu may mắn hơn thì có thể gặp được nhiều con. Chúng sẽ làm cho tôi sung sướng. Và tôi sẽ có những chú chó con khoẻ mạnh.
Hôm nay tôi quyết định phải phá đứt vòng xích này. Tôi lại giật mạnh. Nhưng vòng xích quá chắc. Đã có tới hơn chục lần tôi giật mạnh nhưng vẫn không có hiệu quả. Mồ hôi ra tầm tã, làm ướt hết bộ lông màu vàng của tôi. Và điều đáng xấu hổ là chất nhầy màu vàng nhạt sau chỗ sinh dục của tôi cứ tuôn ra khi tôi tức giận. Tôi cho rằng tức giận lúc này không phải là một điều khôn ngoan. Tôi lại nằm bẹp xuống và thở dốc. Hắn nhìn tôi và cười mỉa mai. Tôi nhìn hắn van lơn. Hắn lại mang tới cho tôi một bát cơm nguội. Lần này tôi không ăn. Tôi không ăn vì tôi không cảm thấy đói. Tôi cần có những con đực. Nhưng hắn lại không thích tôi có những con đực. Cũng có thể là hắn ghen. Tôi nghĩ là hắn ghen và rồi tôi thấy mình sung sướng. Chất nhầy lại trào ra.
Sáng hôm sau, tôi dậy sớm và cố gắng kìm cơn động dục của mình. Tôi kiềm chế làm như không có điều gì xảy ra. Tôi ngoan ngoãn lặng im và nhìn những chú chim ngoài vườn. Cuối cùng thì hắn bước tới. Hắn nhìn tôi âu yếm và nói: “Đứng dậy đi con điếm.”
Hắn mở xích và rồi tôi đứng dậy. Điều đầu tiên tôi nói với hắn là tôi cần phải đi tắm. Hắn lại cười thật tươi và nói rằng đó là sự khởi đầu hoàn hảo. Tôi liền bước vào nhà tắm. Hắn nói rằng xà phòng và dầu gội hắn mới mua hôm qua. Tôi cởi lớp lông trên người và bỏ vào sọt rác. Tôi để nước tưới đều lên người mình. Một cảm giác vô cùng thú vị. Tôi nhắm mắt và tận hưởng cảm giác mát mẻ đó. Nhìn vào gương tôi thấy mình có làn da rất trắng và hai bầu vú tròn trĩnh. Trên cổ tôi có một vòng thâm tím. Và rồi tôi nhận ra đó là hậu quả khi tôi cố phá tan vòng xích. Tôi cho dầu gội lên tóc của mình và gội thật sạch. Thú thật là giờ đây tôi rất sợ và sẽ vô cùng xấu hổ khi để những con rận sống sót trên tóc của mình. Tôi sờ xuống bộ phận sinh dục để moi ra nhưng chú rận cuối cùng.
Khi tôi bước ra thì hắn cười một cách tình tứ. Hắn nói rằng tôi là một con điếm hoàn hảo. Một con chó cái quyến rũ. Tôi không hiểu lắm về sự hoàn hảo nhưng tôi biết hắn thích tôi. Hắn bước tới rồi nâng cằm tôi lên. Hắn hôn lên trán và vuốt tóc tôi. Chất nhầy dưới bộ phận sinh dục của tôi lại trào ra. Tôi bắt đầu run rẩy. Hắn liếm vào vành tai tôi rồi từ từ đưa đầu lưỡi của hắn lướt xuống cổ tôi. Cứ thế hắn liếm xuống sâu hơn. Tôi như ré lên khi lưỡi hắn lướt nhẹ trên hai núm vú của mình. Chất nhầy lại trào ra khi hắn lấy tay sờ vào bộ phận sinh dục của tôi. Tôi thực sự thích thú khi tay hắn luồn sâu vào bên trong. Rồi tôi ôm riết lấy hắn. Tôi vật hắn xuống giường và bắt đầu cắn vào da thịt hắn. Hắn như nấc lên khi tôi cho dương vật của hắn vào miệng của mình...
Rồi hắn ngã xuống. Tôi cũng rã rời. Hắn nhìn tôi như có vẻ hàm ơn và vuốt nhẹ lên tóc tôi. Hắn lại nói: “Đồ chó cái.”
Ngày hôm sau cả hai chúng tôi đạp xe ra phố. Phố thoáng và nhộn nhịp. Hắn đưa tôi vào một quán cà phê ven đường và chúng tôi ngồi nghe nhạc. Hắn rất thích nghe nhạc cổ điển. Bởi theo hắn nhạc cổ điển sẽ làm cho con người sống lương thiện hơn. Tôi cũng chưa hiểu lắm về cái gọi là lương thiện. Rồi một gã đàn ông bước vào, gã đưa mắt nhìn tôi. Và tôi cũng liếc nhìn gã. Tôi thấy hắn và gã đàn ông này có nét gì đó giống nhau. Tôi mường tượng rằng họ đều như nhau khi ở trên giường. Có nghĩa là tất cả sẽ trần trụi và tham lam. Tôi cảm thấy buồn khi tự hỏi rằng sau những cuộc giao hoan họ sẽ nghĩ gì. Gã đàn ông đó gọi một ly cà phê và ngồi nhìn tôi không chớp mắt. Với phép lịch sự tối thiếu đã học được từ hắn, tôi mỉm cười với gã. Hắn đứng dậy và lôi tôi đi. Tôi không hiểu vì sao, và hắn nói: “Đồ chó cái.” Thì tôi vẫn là chó cái, tôi luôn nghĩ mình là chó cái. Cho dù hắn không nhắc đi nhắc lại cái từ này thì tôi vẫn biết mình là chó cái. Có điều kể từ khi hắn mở sợi xích trên người tôi rồi làm tình với tôi, thì tôi không còn cần đến những con chó đực.
Tôi lại bước vào nhà tắm. Tôi rất sợ những con rận lại tiếp tục xuất hiện trên người tôi. Hắn sẽ giết tôi nếu hắn phát hiện trên người tôi có một con rận. Tôi lại cho thật nhiều dầu gội lên tóc và chà xát. Vẫn có một vài con rận sót lại. Tôi không ghét bỏ chúng nhưng tôi không hoan nghênh sự xuất hiện của chúng. Khi tôi bước ra từ nhà tắm,hắn lại nhìn tôi âu yếm và vuốt lên tóc tôi. Hắn nói rằng lông của tôi rất mượt. Tôi nói đó là tóc và hắn cười. Hắn lại bế tôi lên dường.
Mỗi khi có ánh trăng xuất hiện tôi lại nghe thấy tiếng tru của sói. Tiếng tru vọng tới từ rất xa. Có thể nó vọng ra từ một vách núi nào đó. Một vách đá cao và dựng đứng. Có thể nơi đó có rất nhiều điều thú vị. Ít ra cũng không lạnh lẽo và nhàm chán như ở đây. Có thể ở đó tôi sẽ hoàn toàn là chó. Một con chó cái có bộ lông mịn màng và cái đuôi quyến rũ.
Ở đây tôi cảm thấy cô đơn và ớn lạnh. Tôi không thể nào nhìn được vào ánh mắt của hắn, dù rằng khi làm tình hắn đã đem đến cho tôi nhiều khoái cảm. Cũng đã có lúc tôi hoài nghi sự tồn tại của mình. Tôi không nhìn thấy bản thể của tôi. Tôi không xác định rõ hình hài. Tôi chỉ biết rên lên khi làm tình và rồi tôi không thể gọi tên được cảm giác đó. Tôi không tin vào con người, không tin vào diễn giải. Tất cả chỉ là sự nguỵ tạo, chỉ là những dối lừa, những dối lừa biết cười cợt và mỉa mai.
Đêm nay sau khi làm tình hắn lại vuốt lên tóc tôi và nói: “Đồ chó cái.” Thì tôi vẫn biết mình là chó cái và tôi luôn cảnh giác với những con rận.
Tôi đã khóc, tôi khóc trong tiếng ngáy ồ ồ của hắn. Khi hắn ngủ thì hắn đúng là con người. Tôi cảm thấy tởm lợm vì hắn là con người.
Nhìn ra bên ngoài cửa sổ tôi thấy trăng đã lên. Trăng như được dát vàng. Rồi tôi lại nghe thấy tiếng tru của sói. Trong tôi tự dưng có một luồng máu nóng tuôn chảy. Tôi nghe lạnh sau gáy.
Tôi muốn ra đi. Tôi cần những con đực thực sự. Những con đực có bộ lông mịn màng và cái đuôi quyến rũ. Tôi bới từ giỏ rác và lấy ra lớp lông của mình. Tôi khoác nó lên và cảm thấy lòng mình ấm lại.
Tôi phải đi khi hắn còn ngủ. Hắn không thích tôi có những con đực.
Trên đầu tôi trăng sáng vằng vặc. Tôi đi về phía ánh trăng, nơi vọng ra tiếng tru của sói. Tôi ngoái lại nhìn cái đuôi của mình lấp lánh dưới ánh trăng.
Tôi hãnh diện vì nó./.
Con chó hoang trên bờ biển
Đã nhiều người nhìn thấy con cho ấy. Nó là con chó hoang vẫn lang thang trên bãi biển. Lông đen tuyền, tai dựng, đuôi cúp xuống như chảy nhểu sự buồn đời. Nhưng từ đâu nó tới? Câu hỏi cứ đánh đu như thách đố hòn Ông, hòn Bà trên bãi biển hòn Chông tuyệt đẹp của Kiên Lương.
Tình cờ tôi gặp thằng bé ngăm đen bán tu huýt. "Mua đi cô! Có hai ngàn hà!". Con chim trên tay nó líu lo giai điệu rạo rực. Trời ạ! Vui nỗi gì mà nó ríu ran như hát. Tôi chọn hai con chim sành, đưa nó năm nghìn. Toét miệng cười, nó nói: "Cô thấy con mực đó không? Nó là con chó hoang số dzach! Khôn tổ trời. Không ai nuôi cũng sống khỏe.".
Quả là bộ dạng con chó không chê được vào đâu. Đầu to, mõm lớn, tai vểnh ngược, ức rộng, bốn bàn chân vững như đá. Rõ ràng là nó nhìn tôi. Màu mắt sâu như biển. Tôi nhớ con chó đốm mõm trắng ở nhà, ăn vụng như tinh. Lúc nào mắt cũng hau háu nhìn vào chảo thịt rán. Chỉ cần tôi xểnh ra giây phút, chị chàng đã nhón chân nẫng ngay một miếng, lủi liền vào xó xỉnh nào đấy. Còn con mực lang thang này, sách tướng số phải ghi là linh khuyển mới xứng. Nghĩ thương con chó tội nghiệp, tôi búng tách ngón tay. Mực gầu gầu hai tiếng, ngoắt đuôi chạy tới. Phủ phục trên một tảng đá cách tôi vài mét, nó nhìn tôi như hỏi: "Muốn làm thiên phóng sự phải không? Đời nhạt thếch. Thiên hạ bia bọt ào ào, có nhớ được bao nhiêu điều tốt mà làm phách làm tàng".
Tôi ném mẫu bánh mì cho mực. Mực tỏ vẻ buồn rầu. "Tưởng mẩu bánh bằng vàng sao hả! Đây không cần bố thí!". Tôi lại vứt cho nó miếng khô mực. Nó lắc đầu. "Dai nhách chứ báu gì". Biết là thua, tôi bật nắp dốc ngược lon tiger vào miệng. "Gầu". Quay lại, thấy con mực ngoắt ngoắt đuôi. Hay là nó khoái bia? Hình như thơ Bùi Chí Vinh thì phải. "Đạp xe qua quán bia hơi, chó ngồi ăn nhậu người ngồi ăn xương". A, phải rồi, cái thời lên ngôi của chó. Nhà giàu đua nhau chơi chó giữ nhà, chó cảnh. Chó được các đức ông đức bà, các cô chiêu cậu ấm săn lùng bằng vàng cây. Hôm ở Dương Tơ, có chàng biên phòng trẻ măng, khoe với tôi: Bẹc giê Đức phải tôn chó xoáy xám Phú Quốc bằng cụ; trước cụ xoáy xám Phú Quốc, tới chó mặt cọp Huê kỳ cũng dúm cả giò, huống nữa bẹc giê. Ngẫm đến chuyện thiên hạ đổ xô kéo nhau cắt lô bán đất, toan tính làm giàu bằng quy hoạch, tôi chỉ chực phá ra cười.
Mực có lẽ tinh tướng, nhận ra sự từng trải dọc ngang đất nước mang hình tia chớp của tôi, nhỏm hai chân trước đứng dậy. Nó chậm rải đi về phía chùa Hang đang vẳng vẳng nhạc Phật trên vách đá.
Hôm ấy là ngày Phật đản sanh. 2549 năm. Tôi thức trắng đêm vì trót uống thứ chè búp mọc từ lông mi của Phật. Nhớ chương trình phát thanh hàng tuần, tôi mở máy gõ bàn phím, đưa hết thơ bạn bè lên mạng. Vui thật. Thơ bạn bè vắt óc. Còn tiền chương trình mình bỏ túi. Cũng là một thứ tham ô, nhưng là tham ô lành mạnh. Chúng nó cần bài lên sóng, còn tôi có tiền cung phụng lão giặc bợm vỉa hè. Dầu gì thì tôi cũng phải đổi mấy tiếng đồng hồ cho bài viết để lấy hai trăm nghìn bạc tiền nhuận bút. Sống với giặc bợm, tôi nhiễm lão thói tu bia như tu nước. Cứ hực hực chút men, không hiểu sao tôi minh mẩn tới chi li từng việc. Con mụ béo réo lão giặc bợm còn thiếu tiền sáu chai bia con cọp. Thằng sún đần nhắc chín ngàn tiền xe ôm. Ghét nhất là mụ gà thiu, lúc nào cũng ngoang ngoác với hàng xóm, rằng thì là, mụ thông cảm cho vợ chồng tôi mượn năm trăm nghìn bạc, vậy mà cù nhầy tới mấy tháng mới trả hết. Chẳng là lúc bấy giờ tôi đang chạy trả tiền mạng. Văn minh thời vi tính khổ thế. Điện thọai bàn, điện thoại bỏ túi, lại còn cõng thêm khoản conection moi thông tin trực tuyến. Đeo vụ Mai Văn Phước, tốn kém gần cả triệu, lời chưa đầy nhuận bút bài báo, lại còn lỗ trắng cặp kính lên độ do màn hình cà giật hằng đêm. Mà thôi, sinh nghề tử nghiệp. Mình còn sống sờ sờ, đã chết đâu mà sợ.
Mà, cái con mực ấy, sao thằng nhỏ bán tu huýt lại nói là chó hoang!? Tôi rờ cái cầm tay vẫn túc trực từng đêm cạnh chiếc gối ôm. Chết thật! Nó bán rổ chim sành ngày không quá mười con, có họa là điên mới nghĩ tới nó. Hay là điện cho con Yến, dặn nó còm măng sẵn chuyện bò nghênh ngang đi lại vô tư trong khu du lịch. Chồng nó lại chẳng lồng lên vì chuyện nửa đêm có ai gọi vợ. Thôi thì thơ thẩn một bài. Lão Cường khỏe khoái tôi như điếu đổ, lúc nào cũng sẵn sàng trả tôi tám mươi nghìn cho ba hai chữ. Cứ việc đổ chữ xuống sàn mà lắc. Lắc một hồi, rồi nhặt nhạnh hết thảy những chữ nằm kế nhau mà gõ bàn phím, bắn lên Mail "đặc chủng" của Cường khỏe là xong.
Tôi lắc được thế này:
Vách đá biển chiều trời rụng nắng
Lang thang tối gió mộng thiên cung
Bánh mì nước suối ho húng hắng
Cầm xe vay nợ tiền tiêu vung
Nghe ra ấm ớ chứ rõ ràng tứ tuyệt. Thơ như họa. Cứ phải siêu thực mới ăn tiền. Viết mà ai cũng hiểu thì nghĩa lý gì với thời đại toàn cầu hóa. Xứ người ta, cứ khó hiểu là tuyệt. Nâng ống kính, bấm đám rêu trên đá, đặt tên "Phù Vân", lắm kẻ ớ ra, khen nắc nỏm. Xịt màu vô guốc đập xuống bố, đặt tên "trừu tượng số 7", thần dân có học gọi là siêu. Chữ nghĩa liêu xiêu như sảy lúa, ắt phải là thánh thi hạ giới. Có điều phải bơm vài tiếng vào lỗ tai dày màng nhỉ của Cường khỏe, rằng mới vớ được bản dịch bị bỏ quên của Uýt Man Úyt Mung gì đấy. Ăn thua là cái tít cho kêu. Chẳng hạn như: "Bắt chợt tứ thi ngủ gục nhặt bên đường".
Sướng tới mụ mị cả người. Ngặt nổi lão giặc bợm phơi bụng ngáy như sấm, ngáy tới muốn điên cả đầu.
Chói mặt trời ngoài cửa sổ, tôi quơ quào mấy bộ đồ, nhét hai bao thư hội nghị mới bồi dưỡng vào túi xách, vẫy xe ôm ra bến xe. Viết cho lão giặc bợm mấy chữ, dặn nhớ đừng ăn phở nhà Lý đẹt, bánh phở ướp hàn the tổn thọ. Dặn thế, chứ giặc bợm khôn lắm. Lão cáo thành tinh, rặt ăn cháo lòng con mụ Gấm, để được cò cưa chai quốc lủi với chồng của mụ. Đệ tử Lưu Linh cả. Cũng phải thông cảm cho nỗi đam mê vô cùng nhân tính của lão. Lão bán buôn đàng hoàng chứ có phải ăn cướp ăn giật bạc tiền của ai. Con buôn là thế nào! Nhà nước còn phải gọi doanh nghiệp nữa là. Như cái nghề của tôi, chẳng lẽ là nghề buôn chữ!?
Xuống xe Ngã Ba Hòn, nghe bụng réo réo, tôi chui vào quán cơm, gọi dĩa cơm sườn bảy nghìn. Nhà hàng mới đưa lý trà đá, đã gặp thằng bé bán tu huýt cười toét miệng: "Hồi hổm con thấy cô trên ti vi nè. Cô là nhà báo, nói láo ăn tiền phải hôn?". Nhìn xấp vé số, thấy lạ, tôi hỏi: "Này, con bỏ nghề rồi hay sao?". Thọc ngón tay ngoáy cứt mũi, nó hồn nhiên: "Con gái mới bán tu huýt. Bữa hổm con bán thay nhỏ Tím. Mẹ nó bịnh kinh phong. Giờ mẹ nó khỏe, nó lại đi bán, nên con về đây bán vé số. Hôm nay con bướm đỏ nghen cô!". Móc mười nghìn, bảo nó lấy ba số Kiên Giang, nó thồi bốn nghìn. Tôi bảo cô cho cháu, nó lắc đầu. "Con bán vé số kiến thiết, giá nhà nước hẳn hòi. Chịu thì cô mua thêm hai tấm, con hổng lấy tiền cho không". Tôi xoa đầu tóc bờm xờm khét nắng của thằng nhỏ, đưa thêm tờ muời nghìn. Nó lựa ra mười tấm cùng xê ri, cười bẻn lẻn. "Con bướm đỏ nghen cô, số này hên lắm, chỉ con mới có mấy chục tờ".
Nói xong nó quày quả bước qua bàn khác. Được một lúc, bỗng nó chạy tới, nói nhỏ như có chuyện hệ trọng: "Cô à, con mực hoang tiêu rồi".
Chuyện nhỏ, nhưng nghề của tôi là cứ phải phóng lên.
Mực có tên Luyx Ky , chó cưng của Đực lượng. Đực lượng bấy giờ đang hồi phát danh, phát tài, phát tướng; đi đâu cũng tiền hô hậu ủng, tướng cá binh tôm hộ tống ăn theo cả bầu đàn. Voa vung tiền như cát, tiêu xài không cần liếc hóa đơn. Vệ sĩ ngồi chồm hổm kè kè trên xe là Luyx Ky đen bóng như dầu hắc, chính nòi Phú Quốc chánh hiệu. Bạn bè cùng cánh, ai cũng ghen lồng lên trước chàng Luyx Ky oai dũng, mà poite Ăng Lê, boxer Đức, lesvie Nga, sánh với nó chẳng bằng nửa bàn chân. Đực Lượng chỉ cần nheo mắt, đá lông nheo, búng ngón tay là Luyx Ky hiểu ra ngay ý chủ. Nó sẵn sàng nhảy chồm lên ngoạm ngang cần cổ ai đó, nếu ông chủ ra hiệu. Nó là cục vàng, cục bồ, cục tột cùng quý hiếm, mà Đực lượng tậu được từ một lần đi Hàm Ninh mua đồi mồi về đất liền gia công làm hàng xuất khẩu. Nó với ông chủ như hình với bóng, như cặp bài trùng thăng tiến thăng hoa.
Ấy thế mà đùng một cái, Đực Lượng kềnh ra, đổ ụp như sóng đánh sụp bờ đất mom sông, bảy năm ngồi không bóc lịch ngẫm sự đời. Nhờ ba lần ân xá, sau bốn năm ăn cơm chế độ đặc biệt, Đực Lượng trở về chốn xứ khai sinh. Vợ con đã bìu ríu ra đi mù mịt tận xứ mắt xanh mũi lõ. Bạn bè thì ngoảnh mặt, gặp nhau coi tựa như chưa một lần uống chung ly nước chanh. Chán ngán sự đời, Đực Lượng xoay qua nghề bổ củi thuê lòng vòng ở bãi Dương cho thiên hạ. Cũng chẳng ai cần biết Đực Lượng là ai. Cứ thuê rẻ được người bửa củi trâm bầu, củi đước là mừng.
Luyx Ky cũng vậy. Khi thấy chủ bị còng tay, nó mất ăn mất ngủ, đêm đêm ngửa mặt tru trăng thống thiết. Khi vợ con bà chủ bỏ xứ, nó thất tha thất thểu lang thang. Chán chường tới rạc người, tới muốn lao đầu vô vách đá. Nhưng niềm hy vọng ông chủ sẽ về đã níu chân nó lại. Người còn thương chó, chẳng lẽ người không thương người. Thế nào rồi ông chủ cũng được tha về. Sớm muộn gì rồi ông chủ cũng về. Luyx Ky với niềm hy vọng khắc khoải ấy, đã vượt lên tất cả, sống đời lang thang của kiếp chó trung thành.
Hàng ngày, nó săn kỳ nhông, tắc kè làm cơm bữa. Hàng ngày, nó xuôi ngược kiếm tìm ông chủ. Cho đến một buổi trưa vàng hanh hao sợi nắng, nó thốt nhận ra ông chủ đang cởi trần trước đống gộc trâm bầu. Mừng quá, nó guồng chân phóng tới, ngẩng cao đầu sủa gâu gâu mừng rỡ. Đực Lượng thốt nhiên thấy con chó to cao xồ tới, tươm tướt mồ hôi, co người thế thủ. Luyx Ky nhận ra thân phận bốn năm bèo bọt của mình, nằm phục xuống, run rẩy bốn bàn chân lết tới. Đực Lượng chụp cây búa, khẽ vung ra sau phòng hờ. (Chó nhà ai thế này? Chó gì mà thấy người không biết sợ? Nó to và nặng chắc gần ba chục ký chứ không ít. Ngữ này mà táp mộ miếng…). Đực Lượng vừa thủ thế vừa nghĩ thầm trong bụng.
Luyx Ky nằm mọp xuống, vừa lết tới phía chủ vừa rên ư ử. Đích là ông chủ Đực Lượng chứ còn ai. "Ông ơi, hổng lẽ ông không nhận ra con là Luyx Ky sao cà? Con là Luyx ky, là Luyx Ky của ông đây!". Luyx Ky vừa rên vừa tiếp tục trườn tới. Trườn tới.
Nghe chát một tiếng rợn người. Lưỡi búa trên tay Đực Lượng phóng xuống như tia chớp. Đầu Luyx Ky vỡ toác, máu phún ra vọt vọt. Mặt đất lầy nhầy những đốm trắng nhờ đỏ.
Đó chính là bộ óc Luyx Ky bị ông chủ làm cho văng tung tóe trên mặt đất.
Cái chết trong bữa ăn
Chúng tôi vừa đưa tiễn một anh bạn về bên kia Thế giới. Anh ra đi thật nhẹ nhàng sau một bữa liên hoan thịnh soạn đầy đủ rượu bia và sơn hào hải vị. Câu chuyện cũng từ đó mà dẫn đến việc tranh luận giữa hai người:
- Chung quy cũng chỉ vì miếng ăn! Tôi kết luận.
- Ông nói cũng phải. Nhưng mà trên Trái Đất có hơn sáu tỷ người thì tám phần trong số đó vẫn lo miếng ăn hàng ngày. Bình cũng quả quyết.
- Mà ông ạ, chẳng đâu xa, cứ nhìn vào anh em mình thì biết. Lương công chức, thậm chí lương giáo sư đại học như ông và tôi cũng chẳng nuôi nổi thân mình thì làm sao mà nghiên với chả cứu.
- Ai mà chẳng lo miếng cơm manh áo. Chẳng biết khi nào người ta mới xây dựng xong một xã hội mà không cần làm gì vẫn được hưởng thụ thoải mái theo nhu cầu cá nhân!
- Ông còn lo nỗi gì? Người ta đã có học thuyết hẳn hoi!
- Nhưng để tới đó cũng còn lâu. Ngẫm về miếng ăn, suy cho cùng nó vừa là niềm hạnh phúc vừa là nỗi nhục. - Tôi điềm đạm nhưng dứt khoát trả lời Bình để ra về.
Nói đơn giản vậy thôi, nhưng khi chia tay Bình rồi mà tôi vẫn cứ nghiền ngẫm về điều đó cả tháng trời. Nào là con người sống vì mục đích gì mà cái ăn quan trọng đến vậy? Nguồn gốc của mọi sự đấu tranh sinh tồn, tranh giành … cướp giật là do đâu? Những hình ảnh và những câu chuyện về cái chết trong bữa ăn cứ thế ào ạt hiện lên trong tâm trí tôi. Đó là những cái chết trong chiến tranh một thời khói lửa: đang ăn bị pháo kích – chết; đang ăn bị đạn lạc, bị bom nổ chậm, bị tập kích,… chết. Đi đánh nhau bị lạc, bị đói lâu ngày nên khi ăn phải hoa quả độc hoặc ăn bội thực mà chết… Nhiều đêm mất ngủ vì những hình ảnh của những đồng đội quặn quại trong vũng máu pha trộn những miếng lương khô đạm bạc. Hơn một nửa bạn bè tôi ra đi đã nằm lại ở chiến trường, trong số đó cũng có nhiều đứa đang ăn mà chết.
Nhưng có một cái chết chẳng phải của người thân hay của đồng đội gì mà nó lại ám ảnh tôi nhiều đến thế, thậm chí bắt tôi theo nó suốt một đời !
*
Dạo đó chiến trường Cămpuchia trở nên ác liệt. Bọn tàn quân Pônpốt đang co cụm lại trong những cánh rừng phía tây, thậm chí rất gần thủ đô Pnômpênh. Quân tình nguyện thường xuyên bị phục kích bất ngờ nên tổn thương rất lớn. Mặt trận lại cần những chàng trai, những cô gái trẻ tuổi dấn thân. Tôi nhận lệnh tái nhập ngũ khi đang ngỗn ngang bộn bề công việc. Mặc dù ăn bo bo ngày hai bữa nhưng vẫn vừa phải lên lớp giảng dạy, vẫn vừa phải nghiên cứu khoa học. Chiến tranh biên giới Tây Nam cũng ngốn mất mấy tháng đắp lũy đào hào. Nhưng lần này thì ra trận thật. Cũng chẳng có gì để băn khoăn với anh giáo trẻ chưa có gia đình riêng. Tôi xách chiếc ba lô con cóc một thời đánh Mỹ tạm biệt mái trường, tạm biệt bạn bè, tạm biệt thành phố mà ra đi. Ngày đầu tái ngũ, tôi cứ tưởng mình là lính cũ và sẽ được ra trận ngay, nhưng không ngờ tôi lại được đưa về Trường Quân chính của Quân khu. Tuy là Trường nhưng nó chẳng khác gì một doanh trại. Những căn nhà nằm đan xen giữa những cánh rừng và đồi khoai mì xanh tốt. Ở cái thời buổi được chèn đầy củ mì vào bụng đã là hạnh phúc thì chúng tôi đang thật sự là những người hạnh phúc. Lá khoai mì vò kỹ rồi nấu canh hoặc luộc, khoai mì thì đủ nhiều để có thể nướng, luộc và cả xào,… Trong khi đó, gần doanh trại có một làng kinh tế mới, người ta cũng trồng khoai mì nhưng cây thì xơ xác. Họ hái lá nhiều quá mà phân bón thì chẳng có, cây khoai mì được phó mặc cho trời đất nên lấy đâu ra mơn mỡn xanh tốt như của mấy anh bộ đội.
Hễ có dịp là tôi lại lân la những gia đình kinh tế mới. Dần dà rồi thành khách quen của cả xóm. Những đứa trẻ đen nhẻm đói ăn gầy xơ xác vây quanh. Bao giờ tôi cũng có quà cho chúng, khi thì vài bát cơm lính, khi thì vài mẫu bánh mì cứng như đá nhưng vẫn được coi là quà bánh của một thời bo bo đói khát.
- Chú Thi hôm nay ra chơi? Ông Năm mình mẩy đầy mô hôi hỏi tôi.
- Vâng chào bác. Trời nắng dữ mà bác không nghỉ ngơi sao?
- Nghỉ sao được chú! Không khéo mùa này chẳng có gì mà nuôi mấy cái tàu há mồm. Chứ chẳng bỡn!
- Gớm! Bác làm gì mà lo cuống lên vậy. Tình hình rồi sẽ khác đi chớ.
Tôi an ủi ông mà lòng nặng như chì. Chiến tranh triền miên, dân mình đã chịu bao đau thương vất vả và đói khát,… Đến bao giờ nữa đây? Vừa mới thoát ra khỏi bom đạn, có người vừa mới hứng khởi: “ Mình đã đánh thắng ba đế quốc to. Đất nước sẽ hòa bình vĩnh viễn! Từ nay sạch bóng quân thù! ” thì đùng một cái chiến tranh phía Nam, chiến tranh phía Bắc. Nhìn những gương mặt thiếu ăn lâu ngày phờ phạc bởi họ chẳng có gì ngoài mấy củ mì chấm muối. Nhà ông Năm có tới sáu miệng ăn. Hai vợ chồng làm nương rẫy nuôi bốn đứa nhỏ sàn sàn tuổi nhau. Trong thời buổi khó khăn thóc cao gạo kém mà cũng chẳng biết mua ở đâu thì ăn củ mì còn chưa no, huống gì là cơm. Cơm là thứ ước ao xa xỉ!
Một buổi tối cuối mùa khô. Oi nồng. Ngột ngạt. Hình như chẳng có tý gió nào làm dịu được cái nóng sau một ngày Mặt Trời hun đốt đồi đất đỏ bazan. Rồi mây vần vũ kéo đen cả bầu trời, ngột ngạt, những giọt mưa đầu mùa rơi, rồi bổng chốc ào ào, chỉ trong chốc lát, nước chảy như thác đổ. Điện đóm chẳng có nên mọi người quây quần bên bữa tối với ngọn đèn dầu leo lét. Gia đình ông Năm hôm đó lại có khách thành phố lên chơi. Hai lần ông Năm bảo cháu lớn sang mời, nhưng nào tôi có sang được. Đang là lính thời chiến, dễ gì tùy tiện. Tiễn cháu Quang, khi bóng nó khuất sau dãy khoai mì cũng là lúc chúng tôi nhận lệnh chuẩn bị hành quân ngay trong đêm. Đã bao lần hành quân, đã bao lần ra trận, nhưng tôi nào có bình tĩnh được đâu. Bụng dạ cứ ngỗn ngang, bồn chồn lo lắng. Vẫn biết giờ người lính ra đi vậy đó … Lệnh ban xuống rằng mọi người phải tranh thủ chợp mắt để đêm nay hành quân nhưng chẳng ai ngủ được.
Ngoài cổng doanh trại bỗng ồn ào. Tiếng năn nỉ cầu xin, tiếng khóc ré lên. Mọi người đổ ra sân trong khi trời vẫn mưa. Các bác sĩ cấp cứu đi lại gấp gáp. Một hồi lâu thủ trưởng cho gọi tôi lên trạm xá. Hỏi ra mới biết có người dân bị rắn độc cắn. Thủ trưởng biết tôi là nhà bò sát học, lại là chuyên gia về rắn độc nên ông hy vọng tôi có thể giúp được gì đó. Bước vào trạm xá, tôi nhận ra ngay bác Năm – người vừa rủ tôi qua nhà chơi. Miệng bác sùi bọt, lên cơn co gật, da bắt đầu tím tái. Bác bị nọc rắn độc của con hổ mang chúa. Bệnh nhân không được sơ cứu, không được thắt garo, giờ thì protein lạ – một độc tố chết người đã vào tận tim. Không có huyết thanh ngựa, chẳng thứ gì để cấp cứu. Sự việc đã quá trễ, đến nước này thì chúng tôi chỉ biết lặng im đứng nhìn ông Năm chết. Cái chết này chỉ vừa xảy ra ít phút, ngay trong bữa cơm tối. Đã lâu lắm rồi họ mới có gạo nấu bữa ăn. Hai người bạn mang lên từ thành phố dăm cân gạo tặng gia đình ông. Nói là cơm, nhưng mì trộn nhiều hơn cơm. Tám con người ngồi quanh ngọn đèn dầu tù mù vệu vạo nhai nuốt những miếng sắn khô. Ba ông già vừa nhâm nhi vài ly rượu cây lý mới được mang về từ thành phố vừa nói chuyện nhân tình thế thái, về tình hình chiến sự ở hai đầu biên giới. Đang mãi vui vẻ, bổng rầm một cái. Mọi người chưa ai hiểu ra đầu cua tai nheo gì thì ông Năm đã giơ tay nắm gọn con hổ mang vừa ngóc đầu dậy phì phì. Ông Năm còn biểu diễn quay con rắn mấy vòng, kiểu nhà hàng Tri Kỷ ngày nào. Ông Năm nhanh đến lạ. Một nồi cháo rắn thơm phức bốc khói nghi ngút. Những khúc rắn trắng hếu dành cho ba người nhậu cũng được vớt ra đĩa. Mọi người lại hỷ hả ngồi xôm tụ bên bàn ăn. Cháo vừa múc xong. Ông Năm giơ tay lên và trịnh trọng:
- Chẳng mấy khi các bác lên chơi. Trời chiều lòng ta có món đặc sản.
Vừa nói tới đó thì một tiếng rầm nữa trên bàn ăn. Lần này, cũng nhanh như chớp, nhưng không phải ông Năm mà là con rắn khác. Nó đớp vào tay ông Năm một phát và trườn trên đầu mọi người mà bỏ chạy. Tất cả hoảng loạn đổ kềnh ra. Mấy đứa nhỏ kêu ré lên. Hai người khách thậm chí sợ đến vãi cả linh hồn. Khi định thần lại được thì họ vẫn thấy ông Năm còn nằm.
- Dây đi cha nội, thịt rắn nguội hết rồi!
Một người bạn lắc lắc người ông Năm. Nhưng than ôi, chất độc của loài rắn hổ chúa đã làm cứng họng nạn nhân. Ông Năm vẫn nằm bất động.
- Ông bị rắn cắn rồi! Ai đó hét toáng lên. Khi mọi người hiểu ra thì đã quá muộn. Hai người đàn ông thay nhau vác ông Năm băng qua ngọn đồi đến doanh trại bộ đội.
Buổi tối đầy mưa gió và sấm chớp đầu mùa như đưa tiễn chúng tôi – những chàng trai trẻ ra trận.
*
Những mùa khô trên đất Cămpuchia oi nồng không nước uống, những mùa mưa như muốn nhấn chìm tất cả. Ở đó cũng chẳng ít những cái chết của đồng đội. Tôi vẫn mãi miết theo đoàn quân Tình nguyện. Tại mỗi nơi dừng chân tôi đều chú ý đến những thứ lá cây chữa rắn cắn. Trong chiếc balo của người lính luôn sẵn có cuốn tập để tôi ghi chép.
Ngày ra quân về lại trường đại học, tôi lao ngay vào công việc đi sưu tầm trong dân gian và tiến hành nghiên cứu những bài thuốc chữa hiệu nghiệm. Thế đấy, cái chết trong bữa ăn đó đã theo đuổi tôi suốt một đời. Thuốc thì đã tìm ra. Hàng trăm ca bị rắn cắn đã được cứu chữa. Nhưng cho mãi tới bây giờ tôi vẫn không thể nào lý giải nổi điều trăn trở nhất: Tại sao con rắn kia – một con bò sát thuộc loại động vật cấp thấp lại biết báo thù kẻ đã sát hại “vợ” mình?./.
Con Lợn Bécgiê
( Tặng KTS Th. )
Câu chuyện bắt đầu từ cái chăn chiên mà kỹ sư bậc bốn như tôi được thưởng do hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khảo sát và thiết kế con đường từ Tây Trang qua nước bạn Lào. Đó là những năm tháng trước chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc, khí thế xây dựng non sông cứ là hừng hực. Những thanh niên, bộ đội sau thời hoà bình lập lại rất nhiệt huyết, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu. Tôi là dân Tây học, tiếng Pháp, tiếng Anh thậm chí tiếng Tàu nói như tiếng mẹ đẻ, hơn nữa lại là con rể của một vị Thứ trưởng vậy mà xung phong lên Tây Bắc thì thưởng cái gì cũng xứng đáng.
Cái chăn chiên ấy đã theo chàng kỹ sư bậc bốn từ công trường về Hà Nội. Dù rằng vợ tôi là con thứ trưởng, nhưng vì ở quê ra nên phải làm tạp vụ cho Văn phòng của Bộ, lương mỗi tháng chỉ 32 đồng. Tổng thu nhập của hai vợ chồng hơn trăm đồng bạc. Nhà có những bốn miệng ăn. Rau thì tăng gia ngay đám đất trước cửa, còn thịt cá thì chưa bao giờ mua được quá 300 gram. Phong trào thi đua tăng gia sản xuất lên ngút trời. Đi đâu cũng gặp khẩu hiệu kêu gọi mọi người chăn nuôi trồng tỉa. Ngay trong căn hộ tập thể - nơi gia đình tôi ở cũng đã có chiến dịch chăn nuôi từ mấy tháng trước. Nghẹt nỗi, nhà thì chật hẹp, nhưng được cái dãy nhà vệ sinh xây cũng tàm tạm. Đứng từ tầng này cũng “bị thấy “tầng dưới có người đang làm cái nhiệm vụ cá nhân (!). Gia đình tầng dưới đã nuôi một con lợn. Tôi bận đi Tây Trang mới về, đêm tiếng lợn kêu nghe cũng hay hay. Đầu óc tư hữu trỗi dậy trong chàng kỹ sư bậc bốn: Bán ngay cái chăn chiên để tăng gia sản xuất. Thức ăn dạo đó cho lợn thì dư thừa: sữa các nước Đông Âu viện trợ bán ê chề mà chẳng ai mua. Sữa đã rút hết bơ và sấy khô, nhưng người mình chẳng ai ăn. Thà ăn củ khoai củ sắn, chứ ai quen ăn mấy cái thứ đó. Khốn nỗi một con lợn bột giống cũng tới 20 đồng, vậy mà cái chăn chiên bán chỉ được 9 đồng, chưa chẵn chục. Mua gì bây giờ? Sau nhiều đêm suy nghĩ và nhiều ngày đi khảo giá ở chợ, chàng kỹ sư - tôi đã có giải pháp.
Chiều mùa đông Hà Nội, gió Đông Bắc lạnh lẽo có chút mưa lất phất. Tôi cho con ngồi lên cổ. Công kênh, hai bố con thả bộ xuống chợ Mơ. Dễ đến năm cây số. Chiến dịch mua lợn bắt đầu. Bỏ ra hai hào bạc, chàng kỹ sư mua ngay một nải chuối và gửi cậu con trai cho cô bán hàng. Tôi thả bộ ra hàng lợn giống. Con nào cũng bóng mượt hồng hào trông thật mê, nhưng con nào cũng có giá những trên hai chục bạc. Mua những ngữ đó về khó nuôi lắm! Tôi tự động viên an ủi: “ Các Hoàng tử đó được chăm bẳm béo tốt thế kia về nhà nghèo sao chịu nổi! ”. Tôi đi về cuối dãy chợ thì gặp một chàng trai đứng run rẫy trong bộ quần áo xác xơ, chỉ có hai con mắt bơ phờ tội nghiệp lộ ra từ chiếc mũ len trùm kín đầu. Thằng cha này nghèo mà chơi sang thật. Trên tay hắn ẳm một con lợn trông thật dữ tợn - con lợn chừng 7 - 8 cân thôi nhưng mõm thật dài, chân thật cao, trên cổ lại lẳng lơ chiếc xích xe đạp bỏ đi.
- Này, Chú em có gì bán đấy? Tôi lên tiếng trước.
- Thì em bán lợn giống mà bác.
- Lợn gì mà lợn. Chó becgiê thì có. Cái mõm thế kia, người giơ xương ra.
- Lợn của em giống Yớcsai đó. Bác nuôi chóng nhớn …
- Nhớn gì mà nhớn. Tôi cướp lời, nhưng bụng bảo dạ rằng món này hời đây. - Mà giá bao nhiêu đấy? Tôi xẳng giọng tiếp.
- Mười lăm đồng chắc giá.
- Lợn “ becgiê ” mà cũng đắt thế sao? Tớ là bác sĩ thú y đây. Sáu đồng nhé! Lợn của chú em phải có tên là chó becgiê. Mà tớ cũng đang đi tìm mua chó đấy, chứ lợn này về chỉ có thịt.
- Ấy chết, nó còn nhỏ lắm.
Con lợn nghe chủ nói vậy cũng gếch cái mõm dài ngoẵng lên giơ hai răng nanh nhọn hoắt. Thấy thế tôi phán ngay:
- Đích thị là lợn “ becgiê ” rồi ! Và tôi giả vờ bỏ đi.
Chú em bán lợn nghe thế liền hạ giọng:
- Thôi, bán cho bác 10 đồng .
Trong túi mình chỉ còn chưa tới 9 đồng. Tôi dứt khoát:
- Tớ chỉ có bảy đồng thôi. Bán thì lấy.
Người bán lợn không chút lưỡng lự, ấn ngay con lợn vào tay tôi và kèm theo câu năn nỉ: “ Nhưng bác đừng thịt nó, thương lắm!”
- Ơ hay, lợn nuôi để làm cảnh chắc?
Tôi mua được, cậu ta bán được, đôi bên hể hả còn siết chặt tay nhau. Quái, thằng này nghèo kiết xác mà lại có nhẫn vàng đeo tay, ghê không?” - Tôi thầm nghĩ.
Tôi ôm con lợn “ becgiê ” ra cổng chợ. Cảnh đầu tiên đập vào mắt là thằng con trai đứng khóc như mưa. Hỏi mãi mà chẳng nói, chắc là chờ bố lâu quá. Cô hàng chuối xẵng giọng: ” Bội thực đấy! Khiếp, bác dại thế, sao cho cháu ăn hẳn cả nải chuối”. À ra thế, ở nhà hoặc ở lớp con tôi chưa bao giờ biết trái chuối ra làm sao. Tiêu chuẩn chỉ có nửa trái. Mãi rồi trong đầu bọn trẻ có khi chuối chỉ là nửa quả. Hôm nay thì cả một gia tài - một nải chuối tiêu những hai hào bạc cơ đấy.
Buộc con lợn vào lều góc chợ, con lợn cứ muốn nhổ cả căn lều mang theo, tôi ném cho nó chỗ chuối thừa mà con trai đã ăn. Chao ôi! Nó nhai ngấu nghiến cả vỏ chuối luôn. Lợn này háu ăn đây. Ông lãi to rồi. Tôi mừng thầm trong bụng. Giải quyết xong cái vụ bội thực cho cậu con trai, chúng tôi quyết định về. Nhưng đường thì xa. Ôm con, dắt lợn ư ? - Không được. Nó mà đi bộ sẽ gầy đi mấy cân, nuôi bao giờ cho lại? Ôm lợn, dắt con cũng chẳng được, thằng bé sẽ khóc và ngộ nhỡ lạc đường thì khốn. Tôi đánh bạo hỏi cô bán chuối:
- Em bán chuối có dây chuối không?
- Em chỉ có bẹ chuối lót giỏ thôi.
- Cũng được.
Tôi ngồi giữa chợ mà bện dây thừng từ mấy bẹ chuối.
Tôi địu con trên lưng bằng sợi thừng chuối, phiá trước thì ôm ”tài sản” rồi hành quân gấp về nhà.
Bà vợ đón hai bố con mà suýt ngất xỉu: ”Trời ơi! Cơm gạo đâu mà ông còn rước thêm một đứa con nuôi về nhà?“. Tôi móc túi đưa bà một đồng tám và giải thích rằng việc nuôi lợn là tăng gia sản xuất theo chủ trương chung. Bà vợ bỗng dưng được món tiền thì mừng khấp khởi. Lát sau lại suy tư: “ Rồi lấy gì mà nuôi nó?”. Tôi quyết đoán: “ Việc đó có anh lo”.
Mà thật sự việc nuôi con lợn “ becgiê ” hoàn toàn do một tay tôi quán xuyến. Vợ con tôi phải chịu cực đôi chút, đó là việc tiểu tiện, đại tiện phải đi vào bô rồi mới đổ cầu tiêu, vì căn phòng đặc biệt này phải dành cho “sếp”. Việc đầu tiên là tôi thả bộ ra đầu phố, ngồi kể lể dài dòng cho cô bán thuốc thú y về tình trạng sức khỏe của con lợn vừa mua.
- Lợn nhà bác bị sán đồng tiền rồi! Cô ấy phán như đinh đóng cột và bán cho một hào thuốc.
Tôi đem về giã thật nhỏ rồi cho vào sữa. Con “ becgiê ” nhà tôi lần đầu trong đời được uống sữa mà lại là sữa ngoại hẵn hoi. Nó làm một mạch biến hết một chậu thau. Cả đêm không nghe con “ becgiê ” ủn ỉn. Chuyện này cũng lạ, từ khi tôi mua được con “ becgiê ” này thì nhà tầng dưới chẳng nghe tiếng eng éc nào nữa. Chắc lũ lợn đã đánh hơi thấy có đồng loại trong khu tập thể. Buổi sáng tôi dậy thật sớm vào thăm “ becgiê ”. Nó nằm sóng soài và bất động. Khiếp thật, quanh nó toàn sán đồng tiền. Tôi dội nước sạch sẽ. Con lợn mắt thiêm thiếp và rên khe khẻ như thầm cảm ơn ông chủ đã giải phóng cho nó cái của nợ đeo bám lâu nay. Làm vệ sinh xong chuồng trại, tôi nấu cho nó một bát cháo gạo. Ăn xong bát cháo, con “ becgiê ” bắt đầu lột xác từ đó!.
Ngày trước tô i thường chạy bộ mỗi buổi sáng trong nghĩa trang Bạch Mai thì nay tôi sắm luôn một cái bao gai mang theo. Trời chưa sáng hẳn, tôi đã cắt đủ một bao rau dại.
Buổi trưa cữ 11 giờ rưỡi tôi lại lẳng lặng rời cơ quan ra chợ xách một bịch đầu ruột cá về cho con “becgiê” . Có bữa các bà hàng cá gom lại nhiều quá tôi cũng đành từ chối vì gói “quà” của tôi gọn lắm. Nó được gói lại rồi bỏ vào chiếc hộp gỗ mỗi chiều có ba tấc, bên ngoài lại bọc một lớp bạt lấy từ cái áo mưa Liên Xô cũ nát. Trông lịch sự có thừa.
Buổi chiều, tôi lân la tới nhà mấy ông anh bà chị vợ - họ đều là cán bộ có cỡ. Lương thực họ ăn không hết, nhiều khi để mốc, hoặc đổi lấy bún nhà quê. Tất cả được tôi gom về sau một hồi nỉ non: ” Nhà em đến những bốn miệng ăn, các bác cho em vay đỡ ”. Bà chị dâu còn dùng dằng: ” Chú phải hỏi anh chú đã! ”. “ Trời ạ! Các bác thông cảm là qúy rồi, đợi được bác trai từ Cao Bằng - Lạng Sơn về thì mấy thằng con em chết đói hết cả à?”. Tôi lấy được của mỗi nhà khoảng 5 -10 cân gạo mốc rồi dấm dúi bán cho mấy bà hàng bún. Tôi dùng tiền ấy mua mấy bao “ sữa viện trợ ”. Nguồn thức ăn dự trữ coi như tạm ổn mấy tháng.
Tôi chăm con “ becgiê ” còn hơn chăm cả bố me, vợ con. Tôi cho nó ăn nhiều bữa, hễ rỗi ở cơ quan là ghé về chăm bẵm, tắm rửa sạch sẽ cho nó. Con “ becgiê ” nhà tôi lớn nhanh như thổi. Mới nuôi có ba tháng mà đã lớn phỗng, dễ đến sáu chục cân có dư. Ngặt nỗi, nó là con lợn đực, đã đến tuổi trưởng thành mà bị nhốt trong bốn bức tường hẹp nên thỉnh thoảng dở chứng quậy. Căn nhà tầng dưới là nơi chịu trận mà không cách gì thưa kiện. Phong trào thi đua tăng gia sản xuất đang thời kỳ cao điểm, ai dám cản. Sáng chủ nhật đẹp trời, tự nhiên anh chàng tầng dưới lên chơi. Sẵn ấm trà mạn, chúng tôi nhâm nhi. Và rồi không cưỡng lại được cái thành tích của mình, tôi mang vị khách lạ mà quen đó ra giới thiệu với con “ becgiê ”. Con “ becgiê ” nhà tôi sững lại khi gặp vị khách và tính chuồn, nhưng chuồng trại chắc lắm - bốn bức tường cao nên nó đành chịu. Sau một lát lưỡng lự, vị khách đề nghị thiến giúp con “ becgiê ” kẻo nó phá phách.
- Em giúp bác triệt nọc cho nó, bắt nó thành quan công công bác ạ thì nó mới hết phá.
Tôi ngờ ngợ nghe cái giọng nói quen quen mà chẳng biết gặp tự bao giờ. Đang hứng khởi, tôi đồng ý ngay:
- Chú lấy bao nhiêu?
- Thì giúp bác là chính, nếu bác băn khoăn thì bác cho em vài cân gạo, nhà em tháng này có khách ở quê ra nên thiếu hụt.
Tôi ngây thơ giao hết cả “ tài sản “ của mình cho một tay mơ về hoạn lợn. Sau một hồi cắt vá, hắn ta hồ hởi:
- Gớm, lợn nhà bác ăn gì mà nhiều mỡ thế?
Con “ becgiê ” sau khi bị hoạn thì chẳng ngó ngàng gì đến cao lương mỹ vị nữa. Chắc là đang tiếc của giời. Tối, nó vẫn bỏ ăn, chỉ rên ư ử. Tôi chạy ra đầu phố kể cho cô thú y.
- Thôi rồi anh ơi! - Cô thốt lên. Lợn nhà anh bị khâu ruột vào thành bụng rồi. Anh phải thịt nó thôi, để là nó sụt cân nhanh lắm đó.
Cách đây ba tháng cô ấy là ân nhân của tôi và của “ becgiê ” thì nay cô là vị quan toà tuyên án cho nó.
Trời nhá nhem tối, tôi đi bộ xuống chợ Mơ gặp mẹ con nhà Thắm - người quen từ thời tôi còn là sinh viên. Thuở ấy chúng tôi thường ăn cháo lòng mỗi sáng khi có tiền cũng như khi ăn thiếu. Tôi biết họ là chuyên gia mổ lợn, nhưng thời buổi nó thế họ không còn làm tư, tất cả đều vào Hợp tác xã. Tôi phải thuyết phục mãi, mẹ con nhà Thắm mới đồng ý lên khu tập thể hoá kiếp cho con lợn “ becgiê ”. Mẹ con nhà Thắm hướng dẫn cho chàng kỹ sư bậc bốn ra thịt và nấu một nồi cháo lòng thật ngon. Tôi không quên cắt vài cân thịt nạc đùi để biếu bố mẹ vợ. Mờ sáng, tôi phụ trách nồi cháo lòng, còn bà vợ phụ trách ghế thịt. Vèo một cái khi Mặt Trời vừa ló dạng phía đông thành phố, chúng tôi đã bán sạch. Người ăn, người mua không mất tem phiếu lại được ăn ngon, thịt rẻ. Cũng may, cán bộ thuế thì chưa ngủ dậy, quản lý chợ cũng thế. Hoá ra nồi cháo lòng lại có giá bằng nửa con “ becgiê ” cơ đấy.
Vợ chồng tôi lần đầu trong đời có một món tiền dư ngoài lương bổng. Tôi phấn khởi xách hai cân thịt lên nhà bố mẹ vợ. Bà ngạc nhiên đến ngờ ngợ:
- Anh chị làm gì mà có những hai cân thịt?
Tôi chưa biết giải thích ra sao thì bà chị dâu trong buồng ngủ bước ra giọng còn ngai ngái:
- Chú ấy trúng qủa đấy mẹ ạ! Nhận đi cho cô chú ấy mừng.
Tiễn tôi xuống nhà dưới, ngay chân cầu thang, bà mẹ vợ vẫn còn băn khoăn:
- Anh lấy đâu ra nhiều thịt thế? Anh lại buôn bán tem phiếu à?
Tôi thành thật: “ Của vợ chồng con mà mẹ ”.
Suốt đời này tôi cứ chống chếnh vì con lợn “ becgiê “ ấy. Giờ này cả ba thằng con trai tôi đều du học ở nước ngoài. Không hiểu thằng lớn có còn nhớ cái kỷ niệm cùng bố nó đi mua lợn nữa không?./.
Chị gà mái hoa mơ của tôi
Má đi chợ mua về một con gà mái, nói là để nấu cháo thay đổi bữa. Ba nhốt tạm vào cái lồng tre mượn của cô Ba Đen. Con gà đẹp thật! lông màu trắng, lốm đốm đen, giống như những cánh hoa mơ; ba gọi nó bằng cái tên nghe thích thích “chị gà mái hoa mơ”. Tôi khoái vô cùng. Nhưng, ba nói tiếp “mai sẽ làm thịt nấu cháo cho cả nhà ăn một bữa!”. Tôi nghĩ đến việc phải ăn thịt nó thì tiếc lắm đa!”
Sáng hôm sau, khi nhìn thấy có cơ hội; ba thì đang bưng tro đổ vào lu; má thi gánh nước cho vào chảo, cả hai đang bận túi bụi chuẩn bị cho việc nấu xà phòng. Tuy tôi chưa nghĩ ra để làm gì, nhưng trước kết phải “liều mình cứu chị gà mái hoa mơ cái đã, hạ hồi phân giải sau!”. Đầu tiên, tôi mở lồng, thả gà ra cho nó thoát án tử hình của ba tôi trưa nay. Được thả, nó chạy một mạch ra tận dãy rào gai bàn chải, ở trước nhà, như để trốn ba tôi vậy. Đến trưa, má bảo “ Nước sôi rồi, anh cắt cổ gà để nấu cháo đi anh! .” Ba tôi xuống nhà dưới bắt gà. Ông nhìn thấy cái lồng trống không, liền kêu lên “Má con Thủy đâu? ai mở lồng cho gà ra mất rồi!”. Ông vừa nói vừa nhìn tôi, đang lấp ló sau cánh cửa, nghi hoặc. rồi chắc như đinh đóng cột, bằng câu luận ngữ không quên: “Ai trồng khoai đất này!?” Ý là chẳng có đứa nào ngoài tôi ra. Nói vậy chứ ông không truy để đánh. Ông chỉ chép miệng tiếc rẻ: “mất toi con gà mái ghẹ ngon quá!” và cố quên....!
Đến chiều, trời nhá nhem tối, cả nhà đều kinh ngạc; chị gà mái hoa mơ đứng ngay trước sân, mắt dớn dác tìm kiếm cái gì đó?.. Thấy tôi, vẫn lấp ló sau cửa, vẻ sợ sệt, ông già trở nên thân thiện. Ông nói với tôi giọng nhẹ tênh “Bích con! đi lấy cái lồng thử xem nó có chịu vào không.” Tôi mừng quá, chạy đi lấy cái lồng, đặt ngay nơi, hôm qua, khi mới đem nó về.
Quả nhiên, thấy cái lồng, gà liền nhảy lên đứng trên miệng lồng một lát, rồi chui tọt vào, nằm xuống, đưa đôi mắt lờ đờ bị quáng, nhìn quanh. Nó tỏ vẻ hài lòng, lấy cái mỏ rỉa đôi cánh, vẻ toại nguyện!
Cứ như thế, ngày lại ngày, tôi liều mình cứu nó. Thế là ý muốn nấu cháo thay bữa của má không thực hiện được, và ba cũng thôi ý nghĩ thịt nó nữa rồi!
Nói thật, từ hồi nào, nhà tôi không có thói quen nuôi bất cứ con gì, ba tôi không thích! Hôm nọ, cậu Thành cho tôi 2 con chó bụ bẫm, dễ thương, mới bỏ bú mẹ. Chỉ qua một đêm, nó nhớ mẹ khóc la, inh tai nhức óc, làm cho cả nhà, đêm đó, không ngủ được! Tờ mờ sáng, ba dậy, bắt tôi mang trả lại cho cậu; không cho ở thêm giây phút nào nữa..
Con gà mái hoa mơ đã hơn chục ngày, mà không nghe ba bảo sao. Vậy là ổn rồi đây! Ba còn tỏ thái độ quan tâm, khen nó nữa chứ: “con gà này ngoan nết đấy”. Nghe ba khen tôi mừng lắm, điều này chứng tỏ ba cũng có cảm tình với chị gà, và đồng ý cho tôi tiếp tục nuôi nó!.. Tất nhiên là nó ngoan rồi, không ỉa bậy này, sáng tự ra chợ nhặt gạo, thóc vãi để tự nuôi mình này; chiều tối về, tự nhảy vào lồng ngủ này!...”
Từ khi có con gà trong nhà, hình như tôi thấy ba cũng vui. Ba còn biểu lộ tình cảm đến chị gà mái hoa mơ của tôi nữa chứ. Đi tìm gỗ đóng cho nó cái chuồng cố định, để tôi khỏi xách lồng ra, xách lồng vào nữa!
Ba đặt chuồng ở gian nhà, nay là nhà bà Chuối-người hàng xóm tốt bụng của má.
Ít lâu sau, mào chị gà trở nên đỏ tươi. Trông chị càng đẹp ra. Rồi chị bắt đầu kêu “cục cục cục, cục tác”, và có dấu hiệu tìm nơi đẻ trứng. Ba lại đi lấy rơm lót vào rổ tre, làm cho nó cái ổ đẻ, ở góc chuồng.
Thế rồi nó đẻ trứng. Đúng 10 trứng. Tuy so, nhưng khá to và đều, 10 quả như một. Ba lại tiếp tục cho nó toại nguyện cái thiên chức làm mẹ; nó không đẻ nữa mà bắt đầu đòi ấp.
Khi ấp, chị gà quá say mê; quên cả ăn, ngủ. Đôi khi, ba sợ nó đói, tự tay bốc nắm gạo miệng kêu túc túc, vãi ngay trước chồng kêu nó ra ăn, như thưởng công nó
Đúng 28 ngày, có 9 gà con chào đời. Nhìn những chú gà mới nở, như 9 nắm bông màu vàng biết cử động; mắt chúng tròn xoe, đôi chân lùn lùn, tíu tít quanh mẹ, ba tôi cực kỳ thích! Còn chú gà thứ mười, làm nũng, chưa chịu ra. Mẹ gà bỏ mặc nó! Ba phải ấp thay mẹ gà, bằng cách lấy bông ủ quanh quả trứng, bỏ vào cái họp thiếc rồi đem để ngoài nắng. Chốc chốc ba chạy ra trông chừng. Suốt cả buổi, nó vẫn ngoan cố ì lại trong vỏ. Cuối cùng, ba phải dùng đến tay, gỡ từng mãnh vỏ dính bết lông để lôi nó ra. Nó quặc quẹo, yếu ớt, tôi lắm!... Nhưng chỉ ít sau, nó nghe tiếng kêu của mẹ liền chạy theo anh chị đi tìm cái ăn ngoài chợ… .
Có một khuya, tôi bỗng nghe “cạch, cạch, cạch cà rạch cạch; cạch, cạch cà rạch cạch” nhịp nhàng như ai đang gãy đờn,…Đêm tối, vắng vẻ, tỉnh lặng, nghe thế tôi sợ quá. Tôi nghĩ là có con ma đang ngồi đàn gần đầu tôi gãy đàn. Bà ngoại tôi từng dạy “Nếu lúc nào gặp ma, con không được la, kẻo nó hút hồn thì chết” Tôi không dám hé răng, chỉ nhẹ nhàng kéo mền trùm kín đầu.
Nhưng tiếng cạch, cạch như tộng vào đầu làm chói cả tai tôi. Tôi lại nghe cả tiếng sột sột ở trước mặt (sau này tôi mới biết đó là tiếng động được phát ra do lông mi của tôi va vào chăn). Nỗi sợ của tôi lên tới cực điểm, không thể chịu được nữa, tôi la lên “Ma! ba, má ơi! có con ma trên đầu con!” Tiếng la thất thanh của tôi làm kinh động đến ba má. Hai người nhào ra, hỏi dồn “đâu, ma ở đâu?”, tôi nói liền một mạch như súng liên thanh “Đó, đó, nó đang gãy đờn trên đầu con đó...”. Ba tôi lật chăn, xem tai, xem đầu nhưng không tìm thấy gì. Rõ ràng cái âm thanh kỳ quặc đó cũng lọt đến tai ba. Ông đưa ngón trỏ, dí dí ở môi, ra hiệu im lặng. rồi thì thầm “Trộm đang đào tường nhà mình. Má nó đứng ở đây canh chừng, anh đi lấy đòn gánh, phan cho nó què giò!” Nói rồi, ba rón rén đi lấy đòn gánh, rón rén sục sạo từng góc nhà, xó xỉnh, song vẫn không tìm ra kẻ trộm dào tường nào cả.
Tiếng “cạch, cạch cạch cà rạch cạch, vẫn đều đều vang lên giữa đêm khuya một cách vô ý thức. Cuối cùng ba phát hiện ra, chị gà mái hoa mơ đang rỉa bộ lông cánh để rũ bỏ những con mạc bám vào cắn ngứa chị ta.
Ôi trời! thế là một phen hú vía với chị gà mái mà tôi đã liều mình cứu sống !
Đàn gà lớn nhanh như thổi. Chú, chị gà nào cũng phây phây, trông dến phát thèm! Hễ lúc nào có khách thì ba đem thịt một con. Ba khoe với các chú nhà thơ (như Phạm Hổ, Nguyễn Đình, Vương Linh...): “Ta được ăn thịt gà là nhờ cháu Bích Thủy đấy!” Sau đó, ông kể lại gốc gác của đàn gà cho các chú nghe. Chú nào nhìn thấy tôi cũng khen nức nỡ “cháu giỏi thật!”. Nghe khen, mủi tôi nở to ra trông thấy!
Đó là lần đầu cũng là lần cuối, nhà tôi nuôi gà đến hai thế hệ. Con gà cuối cùng của “chị gà mái hoa mơ” kết thúc đời mình vừa đúng lúc gia đình tôi chuẩn bị đi tập kết.
Câu chuyện giải hòa với hàng xóm là ba dựa vào đàn gà này.
Chuẩn bị đón Tết (năm 1954) má tôi là quần áo. Biết chị em tôi hay so bì nên má sai tôi đi đến nhà cô A mượn bàn ủi, sau sai Tú đi trả. Thay vì trả cho nhà bà A, nó lại trả cho bà B. Tối bà A đến đòi lại. Má tôi gay gắt cải lại “trả ngay ban sáng rồi mà chị”. cô A tưởng má không muốn trả, giận dữ la to “chị trả cho ai, hồi nào..”. Thế là hai bên cứ cải “trả rồi”, “chưa trả”. Đang ngồi làm thơ trong nhà, nghe hai bà hàng xóm to tiếng nhau, ba tôi bước ra. Đón chắc có sự nhầm lẫn, ông gọi Tú Thủy về hỏi rõ sự tình. Quả là bé Tú trả nhầm thật. Ba bảo má đi đến nhà bà B xin lại và nói “nhà mình sai, má con Thủy xin lỗi chị ấy đi.” Má tôi vui vẻ nhận sai lầm với cô A, hai bên lại vui vẻ trong tình làng xóm.
Về chuyện này, tối đến ba ngoáy rốn kể:
Một gia đình gà, gồm một gà trống và một gà mái với bốn nhóc gà con (hồi đó tôi mới có 3 em). Mặt trời vừa ló đằng Đông, gà trống thức dậy, gáy “Ò ó o o!” trời sáng rồi, cả nhà dậy đi thôi!. Thế là gà mẹ dậy đưa đàn con ra vườn tìm mồi. Ra tới vườn, gà mẹ nhắc nhở đàn gà con “Cục ta cục tác, không được lười nhác tự kiếm mà ăn”. Suốt cả năm bươi rác, tìm cái ăn, bộ lông gà xù xì , bụi bặm bám đầy. Gà mẹ cũng muốn cho nhà mình bằng chị, bằng em nên sang hàng xóm mượn bàn ủi về ủi cho cả nhà gà để có được những bộ lông phẳng, đẹp ăn tết. Ủi xong gà mẹ bất cẩn, không dặn dò kỹ lưỡng cho gà con trả cho ai. Do đó sinh ra có cuộc cải vả, suýt làm mất đoàn kết xóm giềng. Gà trống phê bình, gà mái biết phải trái, nhận lỗi và cẩn thận hơn, vậy là một gia đình tốt./.
Chuyện vịt
Làng toàn người ngồi lê đôi mách. Ở đây nó thế, xưa nay vẫn thế, hơn nghìn năm rồi, không thế không thành làng. Chẳng ảnh hưởng gì đến văn minh nhân loại.
- Tiên sư bố đứa nào bảo bà hớt lẻo. Chuyện con Tĩn nhà ông Tạo, chìa vú cho thằng Sầm nhà ông Sì mút, mà bà kể cho lão Khoái nghe, là bà nghe bà Rủ nói, bà Rủ nghe bà Rỉ kể... Chứ có phải bà trông thấy đâu mà đổ cho bà hớt lẻo. Chúng nó mút vú nhau, chứ có ngủ với nhau nữa thì cũng kệ cha chúng nó, hớt lẻo làm chi cho phí mồm...
Nóng bức đến ngột ngạt, ve sầu lại thi nhau kêu inh ỏi, kêu nghiêng cả vòm trời, làm cho tất cả như đang ở trong một cái nồi rang khổng lồ.
- Thôi bà Hót ơi, tại mồm bà rộng, lại có chút duyên ăn nói... nên từ mồm bà nó cứ loang ra...
- Loang cái mả bố mày. Mồm bà đã nuốt chửng bố mày chưa?, duyên bà có làm lăn lóc ông tổ tám đời nhà mày hay không? mà mày bảo rộng với chả duyên...
- Bà chấp làm gì cái thằng Tít này. Bố nó, cái lão Hít ngày mai làm giỗ thằng con cả là liệt sĩ đấy.
- Tôi bà con gì với lão Hít mà lão ấy mời. Có chuyện này tôi kể mình bà nghe thôi nhé... Cái thằng Tít kia, mày cút ra chỗ khác cho chúng bà nói chuyện. Đừng có hòng mà hóng hớt. Ghét cái thói ngồi lê đôi mách...
Đám giỗ thằng cả Mít, con lão Hít.
- Mời các cụ, các ông các bà vào mâm cho. Cứ năm người đóng một. Bên này người, bên kia ma. Rút kinh nghiệm năm ngoái, năm nay xin đừng lẫn lộn...
- Ông Tách đâu rồi, năm nay vẫn có mặt đấy chứ?
- Cả làng biết thừa cái chuyện ông Tách ỉa ra khói năm ngoái rồi, năm nay chắc hãi không dám đến.
- Hãi cái khỉ gió. Hãi nào bằng cái thói tham ăn. Người với ma còn không phân biệt được, chỉ chúi mũi vào miếng ăn, cho chết.
- Thưa các ông các bà, tôi Tách đây. Vâng tôi tham ăn, nhưng tham mấy cũng không bằng tổ sư nhà nó. Năm ngoái tôi ngồi chỗ này, mâm đủ năm người. Ăn xong về nhà, cảm giác bụng tưng tức, toàn hơi là hơi. Đến lúc ỉa ra chỉ thấy một ngụm khói, mới biết mình ngồi lẫn với ma. Thế mà có kẻ độc mồm bảo rằng tôi ỉa ra cả một đụn khói, trùm kín nhà, ba ngày mới tan...
- Ghê thật. Miếng ăn bỏ vào mồm nhai rồi mà rốt cuộc lại nuốt vào bụng kẻ khác chứ không phảI bụng mình. Chỉ có ma mới ăn tranh kiểu ấy được mà thôi.
- Ba ngày là thế nào. Hôm qua tôi nghe bà Hót bảo cái đụn khói ấy đến bây giờ cũng chửa tan. Làm cho tôi sợ hết hồn, hôm nay phải thủ sẵn mấy cành dâu làm đũa gắp mới dám đến đây ăn giỗ đấy.
- Cái bà Thầm này chỉ được cái nghe hơi nồi chõ. Cành dâu phải nhúng vào nước đái thì ma mới sợ, mới không dám gắp tranh. Chứ cành dâu không thì tác dụng gì.
- Thôi cho tôi xin. Bà mà dùng đũa bằng cành dâu nhúng nước đái thì tất cả những người ở đây biến thành ma hết. Thử hỏi ông có dám ngồi cạnh bà ta mà ăn cỗ hay không? chả lẽ vừa ăn vừa bịt mũi...
- Bác Thì ơi, thế ra ma sợ cành dâu với nước đái lắm à.
- Nào tôi có biết đâu, chỉ nghe lão Tửng bảo cái hồi cả làng bị ma ám, phải dùng hết ruộng dâu làng Thượng làm roi, nhúng vào nước đái cả làng Hạ, quất từng người một suốt bẩy ngày bẩy đêm mới trục hết ma đi được.
- Giời ôi! Bao giờ mới hết cái cảnh người và ma lẫn lộn trong một đám tiệc như thế này?
Trứng …
Chú thích – Truyện ngắn này tôi viết năm 1973. Viết xong, chẳng biết đăng ở đâu, chỉ đưa bạn bè đọc chơi. Nhiều bạn, trong đó có bạn vong niên Ngô Nhật Quang và Phạm Ngọc Khuê, đã thành người thiên cổ. Rồi từ một truyện thành một tập truyện, vẫn chẳng biết gửi đăng ở đâu. Bản viết tay cả tập truyện bị Hoàng Hưng “đánh mất” (cùng 3 bản thảo khác nữa). Nhưng lại có một bản chép tay khác của bạn tôi, nhà giáo Nguyễn Viết Hùng, hiện sống ở Gò Vấp, Sài Gòn. Bản này lang thang tới tay bạn Trí Dũng trước ở phố Hàng Trống Hà Nội, nay cũng ở Sài Gòn. Bạn Trí Dũng vừa mới đưa Hoàng Hưng chuyển về cho tôi. Nhân tiện chị Minh Thư hỏi có truyện gì không, tôi gõ lại y nguyên bài thơ xinh xinh đó gửi đăng, để tỏ lòng biết ơn những người bạn kẻ còn người mất của mình. – Ch.D.
Hình như là các nhà giáo, nếu có chút lòng yêu nghề, thường cũng thích viết văn, làm thơ. Trường hợp của tôi có là ngoại lệ chăng?
Cái phòng làm việc của tôi liền kề với một bờ rào những cây duối già, sù sì, cành là ken vào nhau như những cây cảnh. Lẽ ra tôi đã định nói: phòng làm việc của tôi nằm cạnh một cái chuồng gà. Nhưng nói thế hơi thô. Mà cũng không “tả cảnh” được hết, để bạn đọc dễ hình dung câu chuyện sắp kể. Thực ra, cái buồng xép tôi mới cơi ra để ngồi làm việc, chấm bài, soạn bài cho yên tĩnh, nó nằm sát một bụi duối, và bên kia bụi duối là một mảnh vườn con nhà bên, và ở cuối mảnh vườn con nhà bên liền kề bụi duối là cái chuồng gà.
Và đây, trưa nay, từ cái đám bóng mát âm ẩm ấy bỗng vọng vào tai tôi những tiếng nói xúc động của một lũ trẻ. Âm thanh cũng có cái vẻ gì giống như gió. Khi gió lướt qua, thường ta không nhận thấy, và ta chỉ chợt nhận ra gió khi thấy cây nghiêng ngả, khi thấy tiếng tre cót két, khi thấy những đụn lá vàng đang cuốn nhau đi. Ở câu chuyện này cũng thế, tôi chỉ chợt nhận thấy bên kia vách phòng làm việc của tôi có tiếng người sau khi những tiếng nói con trẻ kia chợt ngừng bặt sau một hồi lao xao. Và chính khi đó tôi mới chú ý. Và cũng vì vậy mà tôi mới bắt vào giữa chừng câu chuyện.
Xin bạn đọc chớ ngờ là tôi nói dối khi tôi kể tên đứa bé này đang nói, đứa bé kia nheo mũi, đứa bé nọ lấy cây nạng thay cho ngón tay chỉ chỏ … Đừng cho rằng tôi không nhìn thấy chúng vì chúng khuất sau vách và sau một bụi duối rậm rì lá xanh… Không, tôi biết chúng từ lâu rồi, cũng như bạn, bạn đọc thân mến, bạn cũng từng gặp chúng nhiều rồi, những đứa bé đáng yêu nhưng vẫn lạ lùng đối với chúng ta.
Thằng Hải:
– Được rồi! Thế là hết ấp bóng!
Có tiếng cộc cộc của một cây nạng gỗ vào gióng tre.
– Để cao lên… Để cái ổ cao lên…
– Bỏ cái lối gõ gõ gậy ấy đi.
– Cái nạng của nó, mày bào là gậy à?
– Thôi, tao không gõ nữa, nhưng phải cho ổ lên tầng trên.
Vẫn có tiếng cộc kèm theo và có tiếng trẻ con cười.
– Di chuyển ổ, nó sợ, nó không ấp nữa.
– Không sợ. Gà nào cũng thích ấp trứng. Không biết tại sao ấy nhỉ?
– Thế nó có thích ăn không?
– Cũng thích. Nhưng nhịn cũng được.
Một lát im lặng. Tôi đoán: có lẽ chúng nó đang kê ổ gà lên một tầng cao hơn. Để làm gì? Chẳng hiểu nữa. Trẻ con thường làm gì cũng thích hợp lý. Chắc hẳn chúng vừa làm xong một công việc hợp lý. Chắc hẳn nữa, rằng chúng đang hả hê. Và bây giờ câu chuyện của chúng đã xoay sang hướng khác.
– Thế là có hai quả, một của tao, một của thằng My. Còn mày không có, nhưng khi nào nở, chúng tao vẫn cho mày chơi.
– Tao cũng ra ao bơi chiều nay, rồi tao cũng mò được trứng.
– Xì! Đây là trứng rùa! Mày đừng hòng mò được. Mày định bơi một chân à?
– Rồi tao cũng nhặt được một quả trứng bồ câu như của thằng Hải xịt!
– Cũng chưa chắc đấy là quả bồ câu. Tao nghi là trứng chim sẻ. Thằng Hải xịt nó nói khoác đấy!
– Tao cam đoan bồ câu.
– Hí! Mày ăn nói thiếu chủ ngữ!
Cả bọn phá lên cười. Một lát, tiếng thằng Hải xịt:
– Mày cứ như cô Ninh ấy! “Các em à, các em phải nói năng cho có chủ ngứ !” … (Nó nhấn giọng vào hai tiếng chủ ngứ ).
– Thế mà nó ấp thật, chúng mày ạ!
– Ấp thật, chứ lại không à? Đang ấp bóng, lại có trứng đặt vào, sướng hơn tiên.
– Nhưng có phải trứng nó đẻ ra đâu?
– Mày ngu lắm, giống vật thường hay nhân đạo. Gà nuôi vịt là thường.
– Tao không ngu. Gà nó ngu thì có. Cho trứng gì vào mà nó chẳng ấp? Trứng nào chẳng giống trứng nào?
*
Tôi mỉm cười một mình. Tôi khẽ bóc một tờ lịch. Tiếng tờ lịch khẽ xột xoạt trong căn phòng bé tí. Nhưng tôi thấy như nó vang lên. Và tôi sợ lũ trẻ giật mình. Tôi ghi vào đó bằng mực đỏ, mực ở cái bút tôi đang chấm bài, cái bút tôi đang khen và đang chê những đầu óc non nớt trong lớp học của mình, và tôi trân trọng ghi: “bắt đầu Ấp”. Tiếng “Ấp”, tự nhiên tôi viết hoa. Tôi lại mỉm cười một mình: vừa sai chính tả, vừa thiếu chủ ngữ. Xin bạn đọc thông cảm cho, tôi không giễu cợt, cũng không thiếu mô phạm, chỉ vì xúc động quá, thực sự tôi cũng thấy hồi hộp như lũ trẻ, tôi cũng như chúng, tôi mong chờ mười lăm, hai mươi, hai mươi lăm hôm nữa, đó sẽ là cái gì…
*
Cho đến một buổi trưa hôm ấy.
Tại sao những điều bất ngờ xảy ra cho con trẻ lại cứ hay xảy ra vào buổi trưa nhỉ? Tôi nghiệm ra vậy, chẳng biết có đúng không. Buổi sáng, đối với trẻ em rất có ít chuyện bất ngờ. Và nếu có chuyện gì bất ngờ thì chúng cũng nhìn bằng con mắt bình thản, trong trẻo, không lo sợ, có lẽ vì chúng còn bận, không bận đi học thì bận đi trâu, không bận đi thi thì bận đi gặt, đi mót. Buổi trưa, sau khi no nê, sau khi một phần lớn công việc đã hoàn thành cho cả ngày, lúc đó chúng mới có dịp nhìn nhận mọi việc kỹ hơn, và lúc đó chúng mới hay ngạc nhiên. Chúng ngạc nhiên để còn cả một buổi chiều làm một việc gì đó cho hết ngơ ngác, để tới khi chiều xuống, chúng lại thanh thản như không, lại đùa vô tư, lại ngủ một giấc ngon lành chờ cái buổi sáng hôm sau trong trẻo sẽ lặp lại …
Vâng, đúng buổi trưa hôm ấy …
Ở bên phòng làm việc của tôi, chợt tôi nghe thấy những tiếng kêu:
– Rắn! Eo ơi! Rắn!
– Một con chết rồi, một con vẫn còn sống mày ạ!
– Con gà mái nó mổ chết đấy.
Tôi vội nhảy bổ sang.Trước mặt tôi, ba đứa trẻ đứng lặng trước chuồng gà mở toang cửa. Con gà mái sau mấy chục ngày ấp bóng và ấp nhầm, gầy rạc, đang đứng bên cạnh ổ. Con gà cũng có vẻ ngơ ngác. Như thể nó cũng biết chia sẻ sự nhầm lẫn với con người. Nó há mồm ra thở. Chùm lông cổ phập phồng theo nhịp thở. Còn lũ trẻ thì cứ tiến vào nhòm cái ổ, sau lại lùi ra xa, rõ ràng là chúng không biết nên làm gì bây giờ. Thực ra thì lúc này đầu óc chúng vẫn căng ra làm việc.
– Tại sao thế nhỉ? … Rõ ràng là trứng mà! Của tao ở ngoài ao, tao cho là trứng rùa, còn của mày, mày bào là bồ câu đẻ rơi, thì mày nhặt được ở đâu?
– Chắc gì của mày là trứng rùa?
– Thế mày nhặt ở đâu?
– Còn ở đâu nữa? Cũng ở chính bụi duối này. Của tao có lẽ là trứng rắn. Nhưng của mày chắc gì là trứng rùa?
– Ừ, làm sao tao biết được? Tao thấy ở ao thì tao đoán nó là trứng rùa.
Những câu trao đổi đó có cái ma lực nào đó khiến chúng trở nên bất động. Chúng nó bỗng thấy sợ. Không đứa nào dám thò tay vào ổ gà nữa.
May quá, chính lúc ấy, tôi đánh liều lấy cả hai tay bưng cái ổ gà ra và hất hai con rắn trong ổ xuống đất. Một con rắn bé tí như cái tăm vót thô đã chết cứng. Một con nữa yếu ớt khẽ ngọ ngoạy. Đó cũng chỉ là những con giun. Nhưng rành rành là chúng có đầu, những cái đầu to hơn thân, và ngay từ khi còn yếu ớt thoi thóp thế, cái đầu đã thành hình tam giác, và chắc chắn trong cái đầu ấy đã tiềm tàng nọc rắn.
Tôi muốn tìm một lời an ủi chúng, lũ trẻ thất vọng kia, nói cho các em biết rằng các em nghịch như vậy không phải là có ý xấu, rằng các em rất yêu đời, các em rất tôn trọng sự sống. Nhưng tôi không tìm được lời ngay lúc ấy. May sao một chú gà trụi ục ịch chạy tới. Bằng mấy nhát mỏ, chú gà trụi nuốt gọn những nỗi buồn sợ của thày trò chúng tôi. Và chúng tôi òa lên cười với nhau. Cuộc đời thế mà cũng giản đơn.
Nhưng khi trở lại phòng làm việc riêng, ngồi trước tờ giấy trắng đang soạn dở dang bài tập Hình học, tôi thấy hơi khó làm việc tiếp. Có lẽ từ một nhà giáo tôi trở thành người viết văn vào lúc này đây. Chính vào lúc này khi tôi thấy cần dặn dò các em nên cẩn thận khi nghịch trứng. “Ừ, làm sao tao biết được. Tao thấy ở ao, tao đoán là trứng rùa”. Câu nói ấy của đứa nào nhỉ? Của thằng Hải xịt mũi hay thằng My? Chỉ của hai đứa ấy thôi, chứ còn thằng bé kia nó cụt chân, nó chỉ chơi ghẹ thôi./.
hầy Thế đi chợ bán trứng
Ai ơi chớ lấy thầy đồ
Anh còn nhớ chỗ em vẫn ngồi bán hàng không? Ở khu vực thực phẩm, bên cạnh là cô bé Thuận bán đậu phụ ấy. Anh đi cẩn thận khi qua cái cầu sắt, có chỗ mục ải rồi, khéo tụt chân xuống thì khổ!
Nâng cái làn cói đầy ắp trứng gà lên, ngoắc vào ghi đông chiếc xe đạp, còn cố quài tay ra sau đút một quyển sách dày cộm vào túi quần, thầy Thế mới quay lại nhìn vợ, gật gật đầu:
- Em cứ yên tâm, đừng lo gì cho anh cả.
- Kìa, đã đi bán hàng lại còn mang cả sách đi theo để đọc ! Quyển gì thế ? Không rời ra được à ? Hay là thôi, nghỉ một buổi cũng đã sao nào.
- Chậc! Quyển sách bàn về văn học của Jean Paul Sartre anh mới mượn được ấy mà. Không sao đâu. Nhưng mà chân em hôm nay thế nào rồi ?
- Hơ lá láng không ăn thua. Nhưng giã nghệ đắp lên thì thấy êm êm, không đau nhức nữa, có lẽ chỉ trưa nay là em có thể nhúc nhắc được rồi.
- Nhúc nhắc là nhúc nhắc thế nào. Bong gân, kinh nghiệm rồi, phải án binh bất động ít ra là một tuần.
- Tuổi tác rồi, sơ ý bước hụt một cái là mang họa cho cả anh. Thật tình, để anh đi, em áy náy lắm.
Rút phựt cuốn sách ở túi quần sau, chạy vào nhà đặt lên bàn, thầy Thế quay ra, nắm ghi đông xe, quay lại nhìn vợ, mắt hấp háy ánh cười:
- Thế nào, hết áy náy chưa, đã yên trí chưa ! Ui dào, bán mất quả trứng mà lại toàn khách quen của em ! Khó đến dạåy ngữ pháp Việt Nam, anh cũng còn chẳng sợ nữa là. Thôi, nắng rồi, anh đi đây !
Chiếc xe lăn theo sức đẩy của hai cánh tay gầy.
Đường làng khập khềnh mất một quãng. Lại gặp cây cầu sắt cũ và hai cái làn trứng ngoắc hai bên xe kềnh càng quá nên tay lái có lúc bị kẹt cứng rất khó điều khiển. Nhưng rồi cũng quen, nhất là khi xe đã lăn trên khúc đường nhựa đầu làng.
Tuy vậy, từ đây, thầy Thế có cảm giác ngất ngư như là đang ở trong một thực tại chưa từng được biết đến. Chưa từng biết đến cả đám sương mù dày đặc phủ kín những khu vườn quả, tiếng bánh xe lao vun vút qua hai bên như những sinh vật đang ra sức bày tỏ ý chí của mình bằng hành động. Chưa từng biết đến, rồi sẽ có lúc mình bước vào cuộc mưu sinh, nghĩa là tạo ra một bản chất mới cho mình, bằng việc đi chợ bán hàng thay vợ như lúc này.
Hừ, sáu mươi hai tuổi, rời bục giảng đã hai năm trời, là người lao động tự do rồi, thế mà mới nhớm chân vào cuộc kiếm sống đã thấy ngượng ngập, lạ lẫm quá ! Nhâm, vợ thầy, giản dị hơn. Mới buông viên phấn, vở soạn bài một tuần, cô đã thon thón hai đầu đòn gánh hai sảo giá đậu ra chợ xã, tìm chỗ ngồi, hớn hở chào mời: "Em mua giá cho cô đi. Giá cô ngâm nước sạch đấy !”. Ấy thế ! Phụ nữa chính là bản thân cuộc sống tự nhiên vậy. Họ ở trong lòng nó, họ sống với nó. Ngơ ngác là cái anh đàn ông. Dang dang dở dở là cái anh đàn ông. Ngang ngang ngửa ngửa là cái nhà ông giáo về hưu ở thôn quê ! Ở đây trẻ con chẳng cần học thêm làm gì. Chúng đào đâu ra tiền để trả công cho thầy. Mà thầy thì ngoài công việc dạåy trẻ con học ra còn làm gì nên ? Quét cái nhà còn bẩn. Giặt quần áo xong, vợ còn phải giũ lại. Cả đời mới chỉ làm đến chức tổ phó công đoàn phụ trách thu đoàn phí mà cứ nhầm lẫn lung tung cả. "Chỉ được mỗi cái tài dạy văn, chỉ được mỗi cái đầu ngẫm nghĩ giỏi hơn người thôi, ông ơi". Cô giáo Nhâm rên, trách yêu chồng. Trách yêu thật ! Vì học trò trong lớp ngồi nghe thầy giảng mà cứ như nhập đồng vào một thế giới khác. Mê mẩn cả tâm trí, có đứa mắt gà sắp ngủ, bị hỏi còn đổ tại vì thầy dạy hay quá. Trách yêu thật ! Vì đó là cái đầu có sức nghĩ sức cảm sâu xa khác thường, như nhìn hoa hồng thấy sự thủy chung, nhìn quả trứng thấy con gà sắp nở và cái lý sự con gà có trước hay quả trứng có trước?
- Chào thầy Thế ! Thầy thay cô đi chợ đấy à ?
Chiếc xe như vấp phải vật chắn. Nhìn sang ngang, thầy Thế cố giữ vẻ tự nhiên. Lời chào hình như phát ra từ một cái quán bên đường túm tụm bốn năm người đang vây quanh cái bàn cờ tướng vẽ trên nền đất. Hình như thôi, vì thấy trong đám đông chơi cờ ở quán nọ, hình như có bộ mặt xấc xược của Khởi, gã thuế vụ, tên học trò bất trị ngày xưa của thầy. Hình như thôi, vì nó giống như tâm trạng thầy phát ra và giống như một lời đồng vọng vẳng tới và ngay sau đó, nghe thấy tiếng còi xe máy thúc ở phía sau, thầy liền gật đầu nhẹ một cái để giữ phép lịch sự rồi đẩy xe đi, cảm giác như đã bước lên bục giảng, nghĩa là vào cuộc rồi.
Sương đang bốc lên từ mặt đất như một hồn thơ phiêu lãng. Bên trái là dãy hàng quà sáng nhộn nhịp đông ken thực khách. Phở, bún, bánh cuốn, mì vằn thắn, bún chả, xôi giò, bánh bao ngào ngạt mùi vị. Như một vế đối, để chứng tỏ rằng sau cái ăn là cái mặc, đối diện với dãy hàng quà là dãy quần áo mùa đông đang ra sức phô trương màu sắc và kiểu loại. Treo trên dây căng, mắc áo, chất chồng tú ụ từng đống như rau dưa, hoặc gấp nếp xếp từng hàng tăm tắp là áo quần đủ kiểu, từng măng-tô, vét khuy chéo, bu-dông, tới sơ mi áo lót, su chiêng, quần xịp của các hãng nội địa, của Mỹ, Thái, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Chợ quê mà sang quá ! Đang cữ rét, hàng nào cũng đông. Nhất là hàng thùng, hàng second - hand. Trông hơi cũ một tí nhưng chất liệu vải ngoại, kiểu dáng và màu sắc lạ mắt. Dãy hàng này vừa xuất hiện ở bên cổng chợ đã như một tứ thơ rủ rê hồn người, khiến thầy vội bóp chặt tay phanh để hãm chiếc xe trứng vì mải nhìn mấy cái áo quần nọ, suýt nữa thầy đâm phải một gánh rổ rá ở bên phải đường.
"Chỗ này đây !".
Như đã tìm được chủ đề của bài thơ, thầy Thế cho dừng xe đúng vào khoang đất trống ở đầu dãy hàng thực phẩm tươi sống. Dựng chân chống, mắm môi mắm lợi, nhưng gượng nhẹ nhấc hai chiếc làn ra khỏi ghi đông xe, đặt xuống đất, thầy thở phào. Thật khéo, vừa lúc một thiếu nữ áo len màu huyết dụ, tóc búi cao, mặt nhẹ nhõm, chạy từ trong chiếc lều lợp tôn ra, miệng kêu liên tiếp: “Để em đỡ một tay”, rồi hai tay hai làn trứng nhanh nhẹn xách vào.
- Chỗ ngồi của cô em ở đây ạ. Em tên là Thuận, học trò cũ của cô. Thầy dạy lớp trên, chắc thầy không biết em đâu. Cô đau thế nào, hả thầy ? Thầy vào trong lều này, ngồi nghỉ, để em xếp trứng ra đã.
Nhanh nhảu và khéo léo quá. Thò tay vào trong làn, nhấc ra, lần nào cũng như lần nào, năm quả trứng xinh một ổ gọn trong bàn tay xòe của Thuận lại được đặt êm ru xuống lòng một cái sảo tre lớn. Lúng túng, thầy Thế chỉ còn biết đứng nhìn. Rồi sau một lần Thuận giụåc nữa, thầy đành bước vào trong lều.
- Trứng bán thế nào đây ?
Hàng vừa bày xong đã có khách. Nhìn ra, thầy Thế thấy khách là một thiếu phụ, váy dài xẻ cạnh, áo măng-tô tím, kính râm to, vai tòng teng ví đầm, điệu bộ đài các. "Câu khai đề thế là đã có rồi đây", thầy Thế nghĩ vui vẻ, nhưng chưa kịp đáp, Thuận đã ngẩng lên, nhanh nhảu:
- Trứng tươi lắm. Cô mua mở hàng cho cháu đi.
- Tươi hay là ung thối ?
- Bốn trăm quả, cháu soi không sót quả nào. Quả nào cũng trong suốt, không hề có tí tia dây nào.
- Không khéo bị mày lừa, trứng gà ta không mua lại mua phải trứng gà Tam Hoàng thì bỏ mẹ.
- Cô ơi, trứng gà Tam Hoàng trông cái là biết ngay chứ. Trứng gà ta hai đầu nó thon thon thế này cơ mà.
Kéo váy, người thiếu phụ ngồi xuống. Môi bìu bĩu như phải làm một việc cực chẳng đã, tay trái ôm ví, bàn tay phải có hai cái nhẫn mặt ngọc to sều, xanh đỏ cạnh nhau, lần rờ trên sảo trứng, rồi bất ngờ giật lên như chạm phải gai, chùi vào cạp sảo, nhăn nhó.
- Khiếp quá, trứng dính cả cứt à ? Trứng này thì bán bao nhiêu ?
- Cô ơi, cô cứ đi khắp chợ mà xem, chả có hàng nào được như của cháu đâu. Cô lấy cho cháu đi. Đúng giá mười ba, cô ạ.
- Mười ba ! Mày bán cho ai giá đấy ?
- Cô ơi, giá ấy là mềm nhất rồi đấy, cô ạ.
- Đừng có qua mặt tao. Ranh con ! Nói thách tao vạch vào mặt bây giờ. Chín rưỡi!
Quái, sao lại có cảm giác như đang đọc một đoạn kịch ấy nhỉ ? Thầy Thế nheo mắt. Thầy nhận ra cái mặt vênh vênh, cái điệu bộ, cái giọng nói ngoa ngoắt của ả khách kia có nét quen quen. Hay là cô ta từ một trang văn nào đó bước ra
- Tao cho mày nói lại. Bao nhiêu ?
- Cháu không nói thách đâu cô ạ.
- Thì một chục chẵn đấy. Mày định chém đẹp tao bao nhiêu nữa, hả con ranh ?
- Cô ơi, cô chửi thì cháu nghe, chứ không có giá ấy cô ạ. Cô xem trứng cháu mười quả như cả mười. Cô cứ lấy đi. Nếu cô mua ở đâu rẻ hơn thì cô đến giả lại cháu, cháu xin làm con cô.
Hừ, một tiếng kêu đau đớn là dấu hiệu của nỗi đau. Nhưng, một tiếng hát đau đớn thì vừa chính là nỗi đau, vừa là cái gì cao hơn nỗi đau. Thầy Thế nghĩ tới câu văn trong một cuốn sách lý luận văn học và nhìn theo người khách đàn bà nọ quay ngoắt đi. Thầy bỗng chưng hửng vì Thuận vừa phủi tay đã chửi ả nọ là con đĩ mới sớm ra đã ám hàng bà, vừa xé mảnh giấy báo, bật lửa đốt, huơ trên mặt hai sảo trứng, miệng lầm nhầm như đọc thần chú, rồi bất thình lình nhấc một bên chân ném tờ giấy đang cháy nọ qua háng mình. Động tác đốt vía đốt vang ấy là lạ với thầy Thế, nhưng thầy nhận ra nó đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Chẳng khác gì một nhân vật kịch từ cánh gà bước ra sân khấu, khách là một người đàn ông đội mũ cối từ hàng bên đã bước tới. Và ông mới chỉ kịp nói: “Cho tôi ba chục quả nào”, thầy Thế đã bật reo to: "Kìa, ông chủ tịch Quát".
- Ôi, thầy Thế ! Sao lại gặp thầy ở đây nhỉ ?
Thuận cười cười:
- Để em nhặt cho bác chủ tịch huyện nhé. Thầy cứ nói chuyện với bác đi
- Chủ tịch huyện gì nữa đâu. Về hưu nửa năm nay, giờ là phó thường dân rồi. Nghĩ cũng có cái sướng của nó, thầy Thế ạ. Cô đâu mà thầy phải đi chợ ?
- Nhà tôi bước hụt xuống cãi rãnh nước, bị bong gân chân. Thế em Tường có được đơn vị cho nghỉ phép Tết không, bác ?
- Dạ, em nó mới về hôm qua. Tít tịt Trường Sa, lại đang lúc phải trực chiến, được về phép coi như đơn vị khen thưởng. Cháu nó được phong trung úy rồi. Về đến nhà là hỏi thăm thầy cô. Để tối nay em nó sang thăm thầy cô nhé.
Ba chục quả trứng đã được bọc gọn trong túi ni lông trao cho khách. Thuận nhận tiền, dúi vào túi áo vét của thầy Thế, khe khẽ: “Thầy giữ cẩn thận. Kẻ cắp ở đây sẵn lắm đấy !”.
Nắng đã hoe vàng trên nóc các ngôi chợ xây. Ông Quát đi thì lớp khách khác đến. Đến cùng một lúc những ba người. Đến là ngồi xuống tự chọn, rồi móc túi trả tiền, không mà cả, so đo. Chà ! Ba người này vừa đi thì dồn đến mấy người khách đi xe mini, đi xe máy. Thì ra đa phần là khách quen. Khách quen là khách nhớ nhà hàng, là khách tin cậy. Tin cậy ở cô giáo. Cô giáo không bao giờ sai ngoa. Khách quen đến là bảo đếm hộ chục quả, hai chục quả không yêu cầu chọn lựa. Có người đến trả nốt tiền hôm qua còn thiếu. Cũng có người nắc nỏm khoe rằng hôm qua mua được mấy quả hai lòng hoặc hẹn ngày ấy ngày nọ để dành cho mấy chục quả thật tươi. Cũng có nhiều người trả tiền xong, ngửng lên nhìn mặt Thuận, mới ngơ ngác: “Ủa, hôm nay cô giáo Nhâm đi đâu mà mày lại bán thay cô, hả con ?”.
Trong cái dồn dập của văn cảnh, thầy Thế có cảm giác như đây là một câu chuyện ăm ắp các chi tiết nghệ thuật làm mê mẩn người đọc mà thầy chỉ là kẻ quan sát. Nói đúng hơn thầy chỉ là cái túi đựng tiền mà cô bé Thuận ních vào mỗi lúc một đầy. Thầy là cái túi. Ý nghĩa ấy khiến thầy bất giác nhớ tới một câu triết lý trong cuốn sách thầy vừa đọc của Jean Paul Sartre: "Điều đáng kể trong cái lọ lục bình là cái rỗng không ở giữa".
Chà ! Xung quanh cái rỗng không, tức thầy Thế, đầu óc toàn tư tưởng và kiến thức sách vở, lúc này là bức tranh sinh hoạt đầy màu sắc lạ lùng mà bây giờ thầy mới nhận ra. Đúng là cái tổ ong nhộn nhịp, tấp nập một cuộc sống thường nhật lý thú mà thầy chưa bao giờ để ý tới. Tíu tít người qua kẻ lại, huyên náo tiếng nói tiếng cười, lời gắt gỏng, câu rủa xả. Hàng rau, hàng măng, hàng cà, hàng bí, hàng bầu san sát chen nhau. Dưa hấu được mùa tròn thu lu to như cái nồi đất. Những bó măng tươi vàng ươi ưởi. Cà rốt đỏ gạch. Cà chua đỏ hồng. Trắng phau là những rổ cà pháo đầy có ngọn và xanh tươi đủ các sắc độ là đậu côve, rau cải, rau ngót và cải xoong. Bên hàng thịt hàng cá nối tiếp đó cũng chẳng kém phần chen đua.
Thầy Thế có cảm giác bị lạc trí. Ôi ! Lại cũng là cái thói quen và tài nghệ nhìn quả trứng thấy con gà cùng mệnh đề triết học: con gà có trước hay quả trứng có trước và bên kia hoa hồng là sự chung thủy, thầy nhận ra cái khung cảnh chợ búa tạp nhạp, nhỏ nhặt vui vẻ và thiết cốt hóa ra là một hiện thực phản ánh trong nó tính đa dạng muôn màu của cuộc sống và thầy bao lâu nay có vẻ như chỉ là một khách du đứng bên lề đường !
Ánh nắng một ngày đông tận đã tưới lên khu chợ một sắc vàng màu mỡ.
Người mua kẻ bán lúc này đều như đã vào guồng, nhịp nhàng trong một hoạt động hài hòa. Nhìn hoạt cảnh này, thầy Thế nghĩ, đúng như người xưa đã nói, những việc khó nên được hoàn thành vào lúc dễ, nên bây giờ tất cả đã trôi chảy, hoàn bị như một tác phẩm thơ kiệt xuất, nghĩa là không thể làm được cái gì hơn thế nữa.
Nhưng vào quãng mười giờ hơn, khi hai sảo trứng chỉ còn ba chục quả thì giống như vĩ thanh của một câu chuyện, trước mắt thầy Thế lại là người khách nữ mặc váy dài đen đã xuất hiện ở đầu buổi chợ. Câu chuyện chưa xong đâu. Đầu vở kịch có khẩu súng thì cuối vở kịch sẽ có tiếng nổ. Đó là quy tắc nghiêm ngặt của nghệ thuật. Ở đời cũng vậy chăng ?
- Ai bán trứng đi đâu rồi ?
Người thiếu phụ kênh kiệu hỏi, lồ lộ vẻ hoang mang.
- Tôi đây.
Lần này thì thầy Thế xưng danh. Thuận đã phải quay sang bán món hàng đậu phụ của em.
- Còn toàn trứng ôi. Chín mươi tất cả, tôi lấy nốt.
- Vâng, cô lấy đi.
Đúng là đi vàng về xanh, đi hơn về kém. Người đàn bà kéo váy ngồi xuống, đưa tay ngót trứng vào cái túi vải in hình Con vịt Đô-nan nhãn hiệu Mỹ. Rồi phủi tay đứng dậy móc ví lấy tiền. Trong động tác đứng lên, cái kính râm như dán vào mắt bỗng trễ xuống, hai con mắt chị đột ngột hất cái nhìn như hai tia chớp vào gương mặt người đàn ông bán hàng. Thốt nhiên, thầy Thế như muốn giật lui một bước. Giây phút giao nhau của hai luồng mắt chấm dứt bằng việc thầy Thế ngoảnh sang bên tìm Thuận, lơ ngơ như cầu cứu và người đàn bà vội xách túi trứng đi. Thuận ngoảnh ngay mặt lại, hơi bất ngờ:
- Thầy Thế, sao thầy bán rẻ thế ?
- Ờ ờ...
- Bán thế thì lỗ vốn thầy ạ.
- Ờ ờ...
- Kìa, thầy cầm lấy tiền con mẹ ấy nó trả ở sảo trứng đi. Nghèo rớt mồng tơi mà điệu chảy nước ra ! Cáo chết ba năm lại quay đầu về núi. Em biết ngay mà.
Đúng là nước vừa chảy vừa nương theo những chỗ gồ ghề ở đáy sông. Ngẩn ngơ vì một mệnh đề cổ văn vừa sực nhớ, thầy Thế cứ để mặc Thuận vừa càu nhàu vừa vơ số tiền nọ đút vào túi áo thầy.
- Ơ kìa, cô Nhâm.
Quay lại, ra khỏi tất cả mọi ý nghĩ vẩn vơ, thầy Thế nhận ra vợ mình tay dắt xe, chân tập tễnh đang đi tới trong tiếng reo vui của cô bé Thuận.
- Cô xem, thầy em có duyên bán hàng chẳng kém cô đâu. Hết sạch cả mấy trăm quả rồi đấy !
Cô giáo Nhâm quệt một giọt nước mắt tưởng tượng ở gò má, sụt sịt:
- Nằm ở nhà sốt ruột quá. Cô cám ơn em Thuận.
Rồi quay sang chồng, giọng cô sụt hẫng nao nao:
- Anh nghỉ đi. Để các thứ đấy em thu dọn cho.
Thầy Thế đứng ngây. Cái gì vừa xảy ra nhỉ ? Gái thương chồng đang đông buổi chợ. Bên kia màu hồng của hoa là biểu trưng của tình chung thủy. Quả trứng đã nở thành con gà. Cuộc đời không thể là cái chợ lộn xộn đâu. Tất cả đều có trật tự
lô-gích của nó đây. Và chung quy, con người vẫn là kẻ cần được sự thương yêu, nâng đỡ của đồng loại ! Mải nghĩ ngợi, cho tới lúc vợ thầy giật tay thầy hỏi: "Có chuyện gì thế, hở anh ?" thầy mới nhìn vào cặp mắt vợ, lòng dâng lên nỗi xôn xao trắc ẩn, ngập ngừng:
- Nhâm à, em có nhớ cái Tý Tửu không? Con bé loắt choắt, mồ côi cha mẹ ấy. Ở với vợ chồng anh trai, nó bị chị dâu hành hạ đến là khốn khổ. Có bận nó bị lột trần, đuổi ra khỏi nhà đã chạy đến nhà mình, anh và em đã cho nó quần áo mặc, cho nó ăn ở nhà mình gần tháng trời. Sau, anh nó buôn ma túy bị đi tù. Chị dâu nó bắt nó phải tiếp khách, nó trốn ra thành phố, ít lâu sau lấy một người Mỹ già. Rồi theo chồng về quê. Vừa nãy anh thấy nó đến mua trứng. Khổ ! Chẳng hiểu nó lênh đênh chân trời góc biển, ba chìm bảy nổi, giờ sinh sống thế nào mà xem ra cũng tội nghiệp lắm.
Tiếng thầy Thế chìm trong tiếng ồn ào của buổi chợ đang cữ đông rồi đột ngột bị ngắt quãng. Thuận vừa chống tay lên sườn, nhìn ra trước cửa hàng, chao chát:
- Ông Khởi, đừng có dở trò hạch sách. Thầy, cô tôi mua vé chợ, đóng thuế chợ đầy đủ rồi !
Trước hai cái sảo tre trống không là gương mặt to như cái tráp của một gã đàn ông. Gã tên Khởi nhân viên thuế vụ tên học trò hư đốn, lười biếng đã bị thầy đuổi học, cách đây hơn chục năm. Thầy đã nhác thấy bóng gã ở cái quán bên đường lúc đẩy xe trứng vào chợ. Giờ, chả lẽ là lúc gã đến quấy rầy thầy và cô. Giờ, chả lẽ theo quy tắc nghệ thuật là nhân vật nổi loạn, cưỡng lại ý định ban đầu của nhà văn ư ?
Không! Không có cuộc nổi loạn của nhân vật. Vì gã đã gật đầu quay đi, vì Thuận đã vừa lườm gã, vừa nhét vào túi gã tờ giấy năm ngàn rồi đập tay vào vai gã, suồng sã quát: "Thôi đi đi, tinh tướng nó vừa vừa thôi !".
Dưa cà mắm muối
Ông bà đi một tháng thăm mấy cậu dì học xa. Kinh nghiệm những lần trước nhà thiếu bà như quân thiếu tướng, bừa bãi chồng lên nhau một tí, bẩn quệt lên nhau một tí, không lâu trong nhà ngoài vườn thừa điều kiện đón bà về bằng nỗi bàng hoàng. Lần này bà dặn vợ chàng, "Mẹ đi cuối tuần chị chịu khó ghé xem trong ngoài hộ mẹ." Cậu em cười, Chưa chi mẹ lo cái vườn đấy." Bà gắt, "Liệu mà lo cơm nước cho bà cố." Chàng bảo vợ, "Dưới vòm trời đâu có mẹ có vườn đó có chút quê hương." Mấy đứa cháu nhỏ bà gom về hết. "Các anh các chị bận đi làm," bà bảo, "hè cứ đem hết về đây cho bà trị." Thằng út chàng nằm trong số gom quân. Dì út nghiễm nhiên xử lý thường vụ chức tư lệnh. Bảng phân công gắn trên tủ lạnh. Lính tráng tuân lệnh răm rắp. Cuối tuần ghé, nó cầm vòi tưới, khoe, "Con phải làm thôi. Thằng Khôi to con lo cắt cỏ. Cái Vân tưới dối, chết cây bà." Chàng hỏi, "Thế tưới sao mới thật?" Nó bảo, "Thọc hết ngón tay xuống vẫn ướt mới đủ." Vợ chàng nói, "Bà bảo không sai. Thằng này tóc quăn, sau lại khổ." Chàng nói, "Cỡ bố nó là cùng." Vợ chàng cười, "Tóc anh hết quăn rồi." Chàng thở ra, "Hói còn quăn vào đâu!"
Tưới đều thế mà mấy gốc dưa gang, nhất là mấy luống cà bát cà pháo chưa ra hoa. Bà cố ra vườn bảo, "Năm nay dám mất mùa cà. Giờ chưa ra hoa mát trời sợ hỏng." Chàng nói, "Chắc do thời khí, hai năm trước cũng vậy đó bà." Bà cố hỏi, "Thế hai năm trước cũng mất mùa à? Bà chẳng nhớ đâu đấy." Chàng chỉ con, cười, "Quên gì bà hỏi thằng này. Nó nhớ dai lắm. Mê món cà bung nó nhớ hết." Bà cố quay vào, lẩm bẩm, "Té ra ở Mỹ đáng quên là con gà đáng nhớ là quả cà, lạ đấy nhỉ!"
Chàng nói với cậu em sắp lấy vợ đang ngồi sang lại mớ băng chuột mèo, "Nhớ lấy, mai mốt bảo mợ ấy trồng cà." Cậu em cười tít mắt dúi mũi vào máy. Chàng nghĩ cậu này sẽ không nhớ chuyện cà nhưng rồi cũng khổ. Cậu đang cố lưu giữ loại hoạt hoạ nay không còn trình chiếu phổ thông, ý để cho lũ con tương lai hưởng được tiếng cười thời các cháu cậu đã hưởng. Vợ chàng cự nự, "Cậu ấm ớ." Chàng không can thiệp nhưng nghĩ đàn bà không hiểu với đàn ông dĩ vãng chẳng riêng đẹp còn cần. Cậu em đang sốt sắng giữ một dĩ vãng gần. Thế hệ chàng nôn nả với dĩ vãng xa.
Xưa còn sống mẹ chàng hay ăn cơm với trám muối, nhất là dưa muối xổi. Cha chàng lại thích cà. Quanh năm nhà có những vại cà nén. Mỗi khi gắp miếng cà lên cụ thường bảo, "Trong như miếng hổ phách thế này mới ngon." Trải bao loạn lạc, bồng bế nhau vào Nam, ê răng, cụ thôi ăn cà nén xoay sang ăn cà pháo ngâm tương. Cụ thường muối lấy, ngâm lấy; và khi gắp quả cà lên vẫn lời xưa ý cũ: "Trong như miếng hổ phách thế này mới ngon." Mấy chú mấy cô sau lập gia đình ở riêng, thấy cũng muối cũng ngâm cà kiểu ấy, nói câu ấy.
Ở Mỹ có đủ thứ nhưng đâu phải nhất nhất tìm ra miếng hổ phách để giải thích cho lũ trẻ miếng cà ngon phải như thế nào. Vả giải thích ích gì khi chúng nhai dưa chuột muối rau ráu, chép miệng chơi cũng hết lọ ô-liu, có khuyến khích nhai thử quả cà chỉ ngao ngán đưa nhận xét "vừa dai vừa chẳng mùi vị gì bố ạ." Chàng kiên nhẫn bảo, "Cà Thái đóng lọ nó thế. Phải trong như..." Mới đây vợ chàng bật cười cắt ngang, "Cuối tuần này chắc khỏi về bà." Chàng hỏi, "Sao thế?" Nàng đáp, "Kẹt chị Kim hẹn đem nhẫn lên cho xem. Năm ly thôi. Em phải lo trước. Cứ để cậu ấy loay hoay phút cuối thiếu nhẫn cô dâu thì chết." Chàng nhớ đến bà bạn già vui tính. "Từ San Diego lên à?" Chàng hỏi. "Dặn chị ấy đi xa đừng mang nhiều món, cướp bóc như rươi." Như chưa thoát khỏi từ trường mấy chiếc nhẫn, vợ chàng kể, "Kỳ trước em xuống chị ấy cho xem toàn hột nước trắng, dầu hoả thích hơn." Chàng cười, "Cứ nước này nước nọ, chẳng hiểu gì." Vợ chàng dấm dẳng, "Đàn ông!" Đứa lớn như từ lâu đợi bố lọt ổ phục kích, cười chen, "Kim cương với bố như cà với con, cứ hổ phách hổ phách con cũng chẳng hiểu gì."
Khi không chàng buồn hụt hẫng.
Đầu tháng chín ông bà về tới. Mấy đứa bé như có chỗ trút một gánh nặng. TV thoải mái, game thoải mái. Dì út tíu tít khoe thành quả tề gia nội trợ. Cậu em tạm rời giàn máy hát, nằm võng sau nhà nghiền ngẫm quyển "Yêu Con Như Một Người Cha Lớn" của một tác giả Á châu nào đó. Bà cố vẫn thủng thẳng ra vào, độc thoại, "Ở thì nhớ mồ mả, về thì nhớ cháu con, chẳng biết định sao nữa." Ông thì trở lại với những giáo trình soạn dở. Chỉ bà xắn tay lao tiếp vào những công việc quen thuộc mà giá có thọ trăm tuổi tưởng vẫn thiếu thì giờ hoàn tất. Thấy vợ chồng chàng lên, bà hỏi, "Sao dạo này anh gầy thế?" Chàng tính đáp "con mất ngủ quá" nhưng vợ chàng đã nhanh nhẩu đáp, "Có chịu ăn đâu mẹ. Gàn lắm. Cứ bảo gốc nông dân, toàn mơ cua đồng mồng tơi rau đay mướp hương và cà... và phải trong như miếng hổ phách cơ!" Bà nhìn vườn cười bảo, "Thoại được việc, hy vọng có ít quả ăn ghém."
Rồi cả nhà rộ lên chuyện cô dâu chú rể trong mâm cơm rôm rả tiếng cười. Chàng ăn xong ra vườn đứng hút thuốc. Gió như bước chân mùa thu khẽ tới. Hoa lá co cụm lời thủ thỉ vĩnh biệt nhau. Chàng không biết chia với ai mối lo xương thịt. Mấy ngày trước điện thoại về Việt Nam chàng hay tin cụ vào bệnh viện. Chú em trấn an, "Cậu vẫn gắt, nói nhạt miệng thèm cơm cà, vậy vẫn khoẻ anh cứ yên tâm." Chàng tính nhắc "quả cà bằng ba chén thuốc" nhưng lan man chuyện khác, quên mất. Nhớ tuần trước nữa được nói chuyện với cụ, chàng nói sẽ về thăm, cụ lặng giây lâu, giọng thều thào, "Nghe nói lại phải xin xỏ, cam kết, quỵ luỵ..." Cụ ngừng, còn chàng thì bâng khuâng mãi. Phải đó là thứ sau cùng ở mỗi người cha mà thời gian không thể làm tiều tuỵ?
Trời trùng hẳn. Gió thổi mây xoắn xít. Và lòng chàng cũng xoắn xít một nỗi thương nhớ lộn màu thấm thía lo âu.
Nhớ hôm ấy chàng về tới nhà đã chạng vạng. Mấy đứa lớn hết hè trở lại các trường phương xa từ tuần trước. Vợ chàng và thằng út nán lại nhà ông bà bàn thêm chuyện cưới hỏi.
Chàng đứng ngoài ban-công nghe tiếng quạ kêu trên mấy ngọn cọ, bất ổn. Mai mình sẽ hỏi một hãng du lịch xem sao, mua vé về tưới chuyện gì hậu xét. Tưới cho mấy chậu ớt ít nước chàng mới mở cửa. Đang khi loay hoay xỏ chìa khoá chàng thấy trên cửa gắn miếng giấy nhỏ. Miếng giấy mang chữ ký người anh họ viết vội: "Gọi mãi không ai bắt phone. Anh chị đến cũng không gặp. Báo chú biết cậu mất rồi."
Khi không chàng không biết mình đang đứng bên mặt nào của cánh cửa; hồn tênh hênh, nhẹ hẫng, trong như miếng hổ phách. Cũng khá lâu chàng thấy bầu trời nhá nhem thoắt đổi thành màu hoa cà mênh mang, rười rượi, trễ tràng. Chàng bấm ba lần mới gọi trúng số nhà cha mẹ vợ.
Chín giờ sáng hôm sau chàng mới choàng dậy, ngửi thấy mùi hương nến phòng ngoài, lòng hoang mang không hiểu sao lại có thứ giấc ngủ bất nhân. Tối qua quên chàng đâu uống thuốc. Nắng lách màn gió đặt một dải tang trên bàn.
Con chàng khẽ mở cửa, mắt bối rối, một lát nói nhỏ:
"Mẹ đi mua hoa. Ông bà gọi lúc bố còn ngủ. Tối qua bà bảo bói mãi mới được mấy quả, đem hết về cho bố. Bói là gì bố?"
Chàng cay mắt nhìn con, bất giác thấy có gì xông lên mũi, hăng hăng, mặn mòi, tựa mùi dưa cà mắm muối.
Bữa tiệc của bầy chuột
H ai sứt trả công cho bài báo tôi viết về công ty mai táng của gã bằng một bữa tiệc ở nhà hàng Thiên Hương nằm ở ngoại ô thành phố. Tôi, gã và hai cô gái xa lạ mũm mĩm chìm đắm trong men bia và những cảm giác hấp dẫn của trần thế. Hai Sứt mặt đỏ gay, giơ bàn tay to bè múc óc khỉ và bảo: “Bọn trí thức của các cậu chỉ là đám khỉ gió. Không hơn gì con khỉ này. Ngoài bộ óc ra còn lại là bỏ đi tất. Vứt sọt rác chó cũng chẳng thèm gặm. Bộ óc này tớ chỉ múc ba muỗng là hết sạch…”. Tôi tái mặt nhưng vẫn nhỏ nhẹ: “Không có bài báo của tớ ca ngợi sự liên doanh giữa nhà xác bệnh viện và công ty mai táng của cậu có lẽ cậu đã sập tiệm lâu rồi. Sao? Cậu đã thấy giá trị của một tí ti chất xám chưa?”. Hai Sứt cười sằng sặc, vết sẹo trên môi gã khẽ giật khiến bộ râu rung lên trông như con đỉa trâu đang quằn quại. Gã bảo: “Dù sao bài báo của cậu cũng đã làm xong sứ mệnh của nó và nó trở thành đồ nghĩa địa rồi. Nhưng nói tới chất xám làm quái gì. Như tớ đây này, tớ chỉ học tới lớp sáu thôi nhưng tớ vẫn điều khiển được bộ não trí thức các cậu…Tất nhiên tớ dùng tiền để mua tri thức….Nhưng xin lỗi….Thời kinh tế hàng hóa mà. Cái gì cũng có giá của nó…”. Tôi giả đò phớt lờ, lơ đãng phả khói thuốc vào gương mặt non tơ của cô gái ngồi bên cạnh. Cô gái đẫy đà ngồi bên Hai Sứt ngúng nguẩy:”Anh Hai ơi ! Nói chuyện gì vui đi. Anh nói chuyện gì đâu trên trời em chẳng hiểu gì ráo trọi. Anh không chịu nói chuyện với em là em đi chỗ khác à…”. Cô gái ngả ngớn choàng tay qua vai gã, cái miệng trông tái lạnh chúm lại áp sát miệng gã như con chim mẹ đang mớm mồi cho con. Dòng nước nhờn nhợt trào ra hai bên mép, chảy dài xuống cái cổ trắng ngần, thon thả…
Tôi biết Hai Sứt đang sục sạo, săn tìm cảm giác nhục dục để lấp đầy sự trống rỗng của tâm hồn, để xua đi nỗi nhục của một gã đàn ông bị vợ bỏ rơi. Hai năm trước đây, Hai Sứt còn trắng tay, gã chỉ là thành viên đội mai táng của phường. Vợ gã vốn thích chưng diện, đua đòi và không chịu nổi cảnh sống nghèo hèn nên đã lẳng lặng cuốn gói bỏ nhà đi, dắt theo đứa con gái năm tuổi. Ngày ấy, tôi vừa tốt nghiệp khoa ngữ văn, thất nghiệp và trong một lần đi lang thang tôi đã gặp và làm quen với Hai Sứt. Tôi đã kết bạn và về chung sống với gã trong căn nhà ổ chuột ẩm thấp và tăm tối. Tôi tập tành viết báo và xin vào làm phóng viên một tờ báo tỉnh lẻ. Vào ngày nọ, Hai Sứt nói với tôi rằng gã sẽ bán nhà lấy tiền góp vốn giúp đội mai táng của phường mua thêm xe tang, lập công ty mai táng. Gã rêu rao rằng sẽ làm việc thiện, công ty mai táng của gã sẽ liên kết với nhà xác ở các bệnh viện trong và ngoài thành phố để tẩm liệm, chôn cất cho người chết, kể cả những cái xác vô chủ. Là một phóng viên mới vào nghề con non nớt nhưng lại thừa hăm hở và xông xáo, tôi đã viết một bài báo ca ngợi công ty mai táng của Hai Sứt. Sau này, khi tôi phát hiện ra những phi vụ làm ăn của Hai Sứt thì đã muộn. Hai Sứt đã mượn danh nghĩa hoạt động của công ty mai táng và đã dùng xe tang để làm điều phi pháp, chở hàng quốc cấm… Nỗi sợ bị mọi người biết được sự vấy bẩn của ngòi bút và nhất là nỗi ám ảnh bị thất nghiệp đã xui khiến tôi sống trong sự im lặng hèn nhát…
Tôi đang chìm đắm trong dòng suy tưởng thì chợt một giọng nói õng ẹo vẳng bên tai: “Anh ba ơi ! Anh nghĩ gì mà ngồi thừ cả người ra như Phật vậy? Cụng với em một cái đi ! Buồn gì mà hiền khô vậy? Không giống nhà hàng xóm bên kia chút nào hết trọi…”. Tôi nâng ly bia cụng với cô gái và nốc cạn. Tôi muốn uống để quên mọi thứ, uống để tê liệt cả tâm trí, để được chìm sâu vào cõi mơ hồ của quên lãng. Đầu óc tôi vẫn tỉnh táo, chỉ có bàn chân trái hơi tê như bị ngàn mũi kim đâm vào da thịt. Bỗng một con chuột cống to đùng chẳng hiểu chui từ đâu ra chạy đâm sầm vào chân tôi và lủi mất ở phía sau nhà. Tôi cảm thấy lợm giọng và nặng trịch phía dưới bụng. Tôi đứng dậy và chậm rãi bước về phía bóng tối ở sau nhà. Trời đã khuya. Gió đêm thổi vào ngực tôi cái lạnh tê buốt. Sao trời dày đặc, hắt những đốm sáng xuống đáy con mương cạnh hiên nhà trông như những đốm lân tinh ma quái đang dật dờ dưới thủy cung…Tôi đã tống khứ được thứ chất lỏng chết tiệt ra khỏi người nên cảm thấy nhẹ nhõm, thư thái. Tôi đang định bước vào nhà thì chợt sững người trước một bàn thờ đóng bằng mảnh ván nhỏ đặt ở bên trái hiên nhà. Nén nhang cháy leo lét hắt vệt sáng lờ mờ xuống mặt đất. Một con chuột cống đang nép cạnh chân bàn thờ, gương những sợi râu như những cần ăng-ten bé xíu để thăm dò thái độ của một lẻ thù xa lạ. Trí não tôi tê dại trong một khoảnh khắc. Cái lạnh chạy dọc sống lưng làm tôi chợt rùng mình. Tôi tự hỏi:” Chẳng lẽ loài chuột đang chạy trốn và ẩn náu trước kẻ thù là tôi hay đang canh giữ chốn linh thiêng là cõi đi về của một linh hồn?”. Tôi chợt hoảng sợ vì đã làm xú uế cõi trú ngụ của một linh hồn. Tôi hấp tấp trở về bàn, vuốt má cô gái và hỏi: “Nhà hàng này sao nhiều chuột qúa vậy em? Ghê qúa ! Lại đặt bàn thờ gần chỗ tiểu tiện nữa. Tội chết à !”. Cô gái cắn hạt dưa lép bép trông như con chuột nhắt đang cắn lúa. Cô gái tỉnh bơ đáp: “Tại có mèo nên có chuột. Em là mèo, anh là chuột. Anh “bo” em đi không mèo ăn thịt chuột à”. Cô gái cười ngặt nghẽo. Tôi hỏi: “Bàn thờ ai vậy?”. Vừa tách hạt dưa cô gái vừa nói: “Con nhỏ con của chị Hà”. Tôi hỏi: “Nó tên gì”. Cô gái nói: “Tên Hương”. Tôi sửng sốt: “ Sao chết vậy?”. Cô gái lạnh lùng đáp: “Mẹ nó lo ôm khách để con nhỏ té mương…Không hiểu do nó mải chơi bị đâm đầu xuống mương hay do nó trông thấy mẹ mình ôm ấp người đàn ông không phải ba nó…”. Tôi tê điếng người, líu cả lưỡi: “Mẹ nó…đâu rồi?”. Cô gái ngậm ngùi: “Chôn nó ở mảnh vườn phía sau…Bỏ đi rồi…”. Hai Sứt chợt thét lên một tiếng như con thú vừa bị thương. Gã xô cô gái mà gã vừa ôm ấp ngã sấp xuống mặt bàn. Gã vùng chạy về phía sau nhà. Tôi lẽo đẽo đi theo sau gã như một con chó xem chủ mình định làm điều gì. Hai Sứt qùi xuống đất trông như một kẻ bị bại liệt đang vái lạy quầng sáng leo lét giữa bóng đêm để cầu xin sự bố thí. Tôi bước lại gần và nâng gã đứng dậy. Hai chiếc bóng ngả nghiêng như hai oan hồn đi vất vưởng trên mặt đất đầy bóng tối…
Ngày hôm sau, Hai Sứt bỏ đi đâu mất biệt. Gã chỉ để lại trên bàn tờ giấy nhàu nát ghi mấy dòng chữ ngắn ngủi: “Tôi đi… Đừng đi tìm vô ích… Hãy tha thứ cho việc làm của tôi…”
Ba tháng sau. Một người bạn cho tôi biết vừa gặp Hai Sứt ở bệnh viện Tâm thần. Tôi vội phóng xe đi tìm gã. Cô bác sĩ trực chỉ cho tôi thấy một nấm mồ nhỏ vừa mới đắp cạnh gốc dừa ở gần cổng và bảo: “Có một anh chàng không biết tên tuổi vừa nhập viện nhưng bỏ trốn rồi. Mấy ngày qua, anh ta cứ tha thẩn, đào bới đất đắp thành nấm mồ. Anh ta xin nhang để đốt nhưng bệnh viện thì làm gì có nhang…. Thế là anh ta bỏ trốn…”.
Tôi nhổ một cọng cỏ may cắm lên nấm mồ. Tôi đứng lặng nhớ lại hình ảnh chiếc bàn thờ bằng ván gỗ đơn sơ của con Hai Sứt. Không hiểu gã có tìm được nấm mồ vô tội của con mình hay không? Trước mắt tôi, nấm mồ nhỏ trông nhạt nhòa, ẩn hiện. Chẳng biết nấm mồ này có phải Hai Sứt đắp hay không? Tôi tự hỏi nếu anh thanh niên tâm thần kia là Hai Sứt thì không hiểu gã đắp mồ cho đứa con thân yêu vô tội hay cho chính mình?
hằng Tư Chuột
Tư sinh vào năm con chuột nên cha mẹ đặt tên Tý. Thân mình ốm và đen, chân đi khập khiễng, lưng hơi khòm, mặt dài và nhọn, mấy chiếc răng cửa vểu ra ngoài với hai chòm râu bên mép trông giống như con chuột biết đi hai chân. Đã vậy, không biết kiếp trước có liên hệ gì với loài động vật nầy hay không mà Tư lại chọn nghề buôn chuột đồng…để suốt đời bị mang tên ‘thằng Chuột’ ! Nhưng Chuột sung sướng chấp nhận danh gọi nầy, cứ mỗi lần nghe ai nhắc nghề nghiệp, Tư thường tự hào về đặc sản chuột đồng do nó thu mua từ tỉnh đem về bỏ mối cho các quán nhậu ở Sàigòn.
Sinh ra và lớn lên tại xóm lao động trong khu vực Cầu Muối, Tư Chuột theo học chữ vài ba năm vừa đủ làm bài tính cộng, trừ đơn giản và đọc lõm bõm được trang báo lá cải thì bỏ trường đi bụi đời. Cha làm nghề đạp xe xích-lô, mẹ đứng giao hàng sỉ rau cải trong chợ. Ông Bảy muốn Tư lớn lên chạy xe xích-lô máy nhưng mẹ nó thì ngược lại, bà khuyên Chuột cố gắng trở thành người xếp chợ thu tiền chỗ, công việc nhẹ nhàng mà có thể kiếm thêm lợi nhuận do bạn hàng hối lộ. Từ lúc bỏ học, Tư Chuột theo nhóm anh chị của khu vực Cầu Muối, nhờ có ít chữ trong đầu, biết qua vài bài tính nên được đàn anh phân công tác nhàn rỗi hơn những người khác. Công việc nhẹ nhàng như tính toán, xếp đặt công việc hằng ngày cho thuộc hạ trong nhóm theo lệnh của đại ca. Nhưng xui cho Chuột, một ngày kia gặp cảnh ‘trâu cột ghét trâu ăn’, Tư bị đuổi khỏi chức vụ ‘ngồi mát ăn bát vàng’, trở thành phu khuân vác sau khi lãnh một trận đòn hội chợ. Bị oan ức nhưng không thể giải thích khi Tư Chuột bị tố cáo ăn xén một số tiền của băng đảng. Nghe lời của một đàn em, đại ca bắt quả tang đúng số tiền thất thoát do ai đó đã nhét vào túi quần Tư. Chuột bỏ băng đảng về tỉnh sống với ông bà ngoại và đổi nghề bằng cách thu mua chuột đồng đem lên Sàigòn bỏ mối. Sau đó trở lại thủ đô, Tư chọn nghề nầy làm kế sinh nhai. Một công việc nhàn hạ và kiếm được khá tiền. Chỉ cần mỗi sáng chịu khó thức dậy sớm, Tư theo xe đò xuống tỉnh nhận hàng, chiều lại quay trở lại bỏ mối. Ông bà ngoại thu mua chuột và đóng sẵn vào hai thùng lớn bằng giây kẽm, mỗi thùng có lúc lên đến năm bảy chục con, Tư chỉ việc đưa lên Chợ Lớn cân ký giao cho các quán nhậu là xong việc trong ngày.
Bản tính hiền lành, chăm chỉ làm việc nhưng có thói quen, cứ đến chiều tối Tư Chuột thường ngồi đầu đường góc hẻm nhậu rượu trắng pha cồn cho đến khuya với đám bạn cùng xóm. Làm nghề thu mua chuột đồng từ dưới quê nhưng Tư chưa bao giờ thưởng thức loại đặc sản nầy. Múi me, trái cóc đến miếng cá khô đều có thể làm mồi cho vài ba chum đế. Đến lúc men rượu lộ ra mặt, tai ù, hoa mắt và đầu không còn kiểm soát được miệng lưỡi thì Chuột biết dừng lại kịp thời và lẳng lặng về ngủ để sáng hôm sau tiếp tục xuống Long An, Mỹ Tho nhận hàng về như thường lệ. Nghề buôn chuột đồng nghe không được êm tai nhưng đã đem lại một nguồn lợi đáng kể. Đến vụ mùa, chuột đồng ăn lúa, con nào cũng mập ú, lông vàng óng ả, cân nặng ít ra cũng gần nửa ký. Mỗi chuyến giao hàng sau khi trừ các khoảng phí tổn Tư cũng kiếm được bạc ngàn. Cuộc đời Tư thật sự lên hương là nhờ chuột, nhưng sau đó, phong trào nuôi mèo của nông dân và chiến dịch rải thuốc diệt chuột đã gây trở ngại trầm trọng đến nghề nghiệp của Tư !
Trong thời gian giao hàng cho các quán nhậu ở Chợ Lớn, Tư phải lòng Mão, một nữ nhân viên hãng bia 33, nhưng không phải nhà máy sản xuất bia mà là một xưởng nhỏ súc vỏ chai do một ông ba Tàu làm chủ. Ở đây chủ thu mua vỏ chai 33 từ các nhà hàng quán nhậu về rửa, súc và giao lại cho nhà máy theo hợp đồng. Một xưởng nhỏ nhưng nhân công cũng trên hai chục người. Hằng ngày Mão phải súc khoảng năm bảy trăm chai, sắp vào két gỗ và chất lên xe tải. Công việc có vẻ nặng nhưng cũng thoải mái, làm nhiều ăn nhiều làm ít ăn ít tính theo số lượng chai chất lên xe giao hàng.
Lúc đầu Mão không chú ý đến lời tỏ tình của Tư. Dưới mắt Mão, vóc dáng của người đàn ông đã lùn lại xấu mà còn làm nghề ‘lái chuột’ thì khó lòng chiếm được cảm tình cô nàng chứ đừng nói đến chuyện hôn nhân. Nhưng Tư vẫn áp dụng chiến thuật cố đấm ăn xôi của những anh chàng lì, bám hoài, nói riết để hy vọng có ngày Mão sẽ ngã lòng. Đúng vậy, chờ mãi vẫn không có ai ngoài Tư Chuột đến tỏ tình cầu hôn, sợ phải ở góa nên Mão đã áp dụng câu châm ngôn ‘Chồng xấu dễ dạy’, miễn cưỡng chấp thuận để ông bà Bảy đem cau trầu đến…
Mão mập, lớn người, so ra cao hơn Chuột gần một gang tay. Nhưng Tư thích mẫu người nầy và thường nói với bạn bè rằng nó khoái đàn bà cao lớn, có da có thịt, khi ôm thấy ‘phê’ hơn ôm con khô mắm… Nghe Chuột xin cưới vợ thì gia đình mừng, ông Bảy hy vọng nhờ tay một người đàn bà, may ra đủ bản lảnh để kềm con ông khỏi hư thân mất nết. Nhưng bà Bảy vừa nghe đến Mão thì đã nhảy đựng lên :
- Mầy gầy như con tép đứng ngang cổ người ta mà đi cưới một con trâu, không sợ nó đè bẹp ruột ra à ?
Tư cười hề hề :
- Có sao đâu má, trời lạnh ngủ ấm chứ sao !
- Mầy nói hay lắm, lấy gì nuôi nổi tấm thân bồ trượng con vợ mầy ?
- Má không biết, đàn bà con gái dù cao lớn mập mạp đến đâu cũng ăn như mèo !
Sực nhớ ra điều quan trọng, bà Bảy chợt hỏi :
- Thế, nó tuổi con gì ?
- Dạ chưa hỏi, nhưng tên Mão !
- Vậy thì chết mẹ mầy rồi ! Tên Mão là tuổi con mèo…mà mầy là chuột thì sống với nhau đâu được. Nó không ăn thịt thì cũng hành hạ mầy không còn manh giáp.
- Má đừng lầm, không ai ăn hiếp được thằng Chuột nầy được đâu !
Bà Bảy chúm chím cười :
- Ngon lắm ! Không ai ăn hiếp được mầy, nhưng lớn con mập mạp như vậy, ngày đêm nó ‘dần’ mầy cũng toe tua. Coi chừng sớm đi theo ông bà đó con.
- Để má xem rồi ai ‘dần’ ai ! Chưa đụng độ thì đâu biết tay nào gục trước !
Nói thì hay nhưng sau khi cưới xong về chung sống với Mão tại Chợ Lớn thì Chuột thật sự te tua. Ngoài công việc thu mua và giao hàng hằng ngày, về đến nhà Tư phải làm hết công việc như một người nội trợ giỏi. Từ giặt áo quần, đi chợ, nấu ăn rồi dọn sẵn lên bàn chờ Mão về. Tối đến Chuột còn bị Mão ‘dần’ đi ‘dần’ lại nhiều lần mới cho phép nằm yên ngủ. Nhưng Tư cảm thấy hạnh phúc đối với cuộc đời của một người đàn ông Trời bắt xấu mà kiếm được vợ đẹp lại đa tình nữa, dù có làm trâu ngựa kiếp nầy cũng cam lòng. Kết quả cuộc tình mặn nồng là một năm sau Mão cho ra đời đứa con trai đầu lòng. Gánh nặng lại bắt đầu đổ thêm xuồng đầu Tư trong lúc công việc làm ăn càng lúc sa sút.
Cũng vì nông dân nuôi mèo và kế hoạch rải thuốc, chuột biến mất khá nhiều. Số lượng thu mua của từng vụ lúa xuống thê thảm, ông ngoại Tư gửi con cháu đến các quận của tỉnh cũng không đủ nhu cầu cung cấp cho các nhà hàng quán nhậu. Vợ đi làm suốt ngày, những lúc rỗi rảnh Chuột thường đến các quán café bình dân tán dốc với bạn bè. Trong dịp nầy Tư gặp một người đứng tuổi thường
bám theo làm quen, đồng thời ngỏ lời giúp đở Chuột tìm một việc làm vững chắc hơn đi bỏ mối chuột đồng. Ông ta cho biết, vì thấy tội nghiệp hoàn cảnh của Tư Chuột nên động lòng trắc ẩn muốn giúp đở chứ không có mưu đồ cũng không ăn chận tiền đầu như những mối lái khác. Thật sự Tư muốn đổi nghề từ lâu, nhưng tiền của không có, chữ nghĩa chẳng ra gì, nếu xin việc mới thì cũng không gì hơn ngoài chuyện làm phu khuân vác ở chợ hay bến tàu.
Tư than thở :
- Cám ơn anh, nhưng tôi đâu đủ sức để lao động chân tay, như làm lục lộ cầu đường hay phu khuân vác ?
- Lầm rồi, tôi sẽ lo cho chú em những công việc ngon lành, đàng hoàng đâu phải làm những chuyện vớ vẩn như chú em nghĩ.
Tư Chuột hớn hở :
- Thế anh kiếm việc gì cho em ?
- Mà phải theo anh học tập một thời gian cho thành thạo trước khi ra nghề.
- Bao lâu vậy thưa anh ?
- Chừng hơn một tuần thôi. Trong thời gian đi học, chú em sẽ được cấp dưỡng tiền bạc để ở nhà cho gia đình. Công việc thì đã có sẵn, tôi giới thiệu giúp, nhận hay không là việc của chú em.
Tư Chuột chụp lấy cơ hội :
- Dạ, anh đã thương, chuyện ngàn năm một thuở làm sao em dám từ chối.
- Được chú em thu xếp với vợ con, chuẩn bị theo tôi một tuần.
- Dạ bao giờ lên đường ?
- Không lâu đâu.
Tối đến cơm nước xong, Tư bàn với vợ :
- Em à, lúc nầy bẫy chuột thật khó khăn vì nông dân phát động chương trình nuôi mèo và sở nông nghiệp đang cho phun thuốc chung quanh bờ ruộng. Hơn nữa, nhiều người cũng nhảy ra làm ăn theo đường nầy. Hàng đã khó thu mua mà giá sỉ bị cạnh tranh. Thật khó đeo đuổi việc bỏ mối chuột đồng. Anh định bàn với em là sẽ đổi nghề.
Mão hỏi nhanh :
- Nghề gì ?
- Anh phải theo học một nghề nào đó, không lý phải trở lại khuân vác tại chợ hay đi đào đường đặt cống. Nghề nào cũng khó khăn với anh, làm thế nào vác nổi vài ba chục ký lô hay suốt ngày tám tiếng dầm mưa giải nắng giữa đường !
- Vậy định học gì ? Lâu mau và lương bổng thế nào sau khi học xong ?
- Yên chí, anh được một người tốt bụng đở đầu, sắp xếp tất cả mọi chuyện cho gia đình.
Người đở đầu trao cho Chuột mười ngàn đồng xem như ứng tiền lộ phí để Tư lo cho gia đình trước khi theo ông ta. Đêm lên đường gồm có thêm mấy người nữa, nhưng sau khi tập trung ở Củ Chi, Chuột bị tách riêng và bắt đầu run khi được hai người trang bị súng hộ tống đi kèm theo. Tư lo sợ hỏi ân nhân :
- Thưa anh, đi…học sao lại vào rừng và…?
Người đàn ông cười, an ủi :
- Khóa học tổ chức đặc biệt trong rừng, chỉ một tuần sẽ xong và chú em sẽ trở về Sàigòn nhận việc.
- Sao lại học trong rừng ?
- Vấn đề an toàn !
Bây giời thì Tư Chuột hiểu mục đích của người đở đầu nhưng đã lỡ ngồi trên lưng cọp, đi giữa hai người trang bị súng, la lên không ai tiếp cứu, chạy thế nào cũng không thoát, chỉ còn nước giả vờ để tìm kế thoát thân. Nhưng khi vào đến mấy cái chòi nhỏ dưới lùm cây thì Chuột nhận ra đây chính là trường học chính trị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà Tư đã nghe qua một vài người bạn đã bị bắt vào đây. Nếu tỏ ra chống đối hay tìm cách bỏ trốn là tự tìm cái chết, chi bằng, nhắm mắt cho xong chương trình khóa học mà họ dành cho những thanh niên thiếu nữ đã nghe lời đường mật của các bộ nằm vùng, bị ép buộc vì một lý do nào đó hoặc bị Mặt Trận Giải Phóng bắt cóc đưa vào đây. Các bài học lý thuyết đều nên cao tinh thần yêu nước, bổn phận và trách nhiệm của thanh thiếu niên, phải đứng lên đánh đuổi đế quốc Mỹ và lật đổ chế độ Ngụy Quân-Ngụy Quyền để đem lại tự do hạnh phúc cho Miền Nam. Qua đến thực hành thì học cách chuyển vận và rải truyền đơn, bắn súng, liệng lựu đạn, gài mìn, đặt chất nổ…Trước khi được ra về, học viên phải thề trung thành với Mặt Trận Giải Phóng. Tổ chức trưng các bằng cớ như hình chụp, số tiền nhận trước để gài tất cả học viên trở thành kẻ có tội với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời để buộc thành phần trẻ nầy phải lệ thuộc và chịu sự chỉ huy của mạng lưới Việt Cộng nằm vùng.
Tư Chuột đặt câu hỏi với cán bộ giảng viên :
- Sau khi học xong, việc làm ăn sinh sống của chúng tôi, các anh bố trí như thế nào ?
Một người đội nón cối, mang súng lục trả lời thế giảng viên :
- Các anh sẽ được phân chia công tác, thời gian và nơi chốn sẽ do cán bộ giao liên truyền lệnh. Mỗi công tác sẽ được thưởng một số tiền.
Chuột vẫn thắc mắc :
- Thưa ông, người dẫn dắc tôi vào đây có hứa sẽ tìm công ăn việc làm đàng hoàng cho tôi, bây giờ xin ông cho biết.
Ông ta nghiêm nét mặt :
- Thì bây giờ Mặt Trận Giải Phóng cho các anh đi làm ‘cách mạng’ !
Thế là cuộc đời của Tư xem như xong, vô tình bị lọt vào bẫy, đưa tay nhận tiền của Mặt Trận và đã vào mật khu học tập chính trị để trở thành những tên khủng bố ! Chuột ân hận, đành ngậm đắng nuốt cay, không dám hé môi với cha mẹ cũng như vợ con, chỉ biết làm thêm kiếm tiền đưa về gia đình để khỏa lấp nguồn gốc công việc mới. Nhưng đâu yên với mấy người nằm vùng, vài ba hôm xuất hiện một nhân vật đến nhắc nhở bổn phận, nhiệm vụ và ứng trước một ít tiền cho công tác sắp đến.
Sứ mạng giao cho Tư thi hành được chính ân nhân ngày trước ra lệnh trực tiếp : Ném một khối chất TNT đã gài ngòi nổ vào giữa chợ Cầu Muối đúng 10 giờ sáng ngày 25 tháng 4 năm 1975. Nghe xong, Tư choáng váng mặt mày nhưng lệnh đã ban ra không thể không chấp hành. Như vậy, chính Chuột sẽ ra tay giết mẹ mình và hai bà dì ruột đang bán hàng chạy trong khu vực nầy. Nhưng nếu không thi hành, chắc chắn sẽ bị thủ tiêu vì đó là lệnh của cách mạng ! Suy nghĩ một đêm và Chuột nhất quyết không thể làm một việc độc ác vô nhân đạo, ném chất nổ vào chỗ đông người để giết hại biết bao mạng sống. Tuy nhiên trong cơn cấp bách, Chuột tỏ vẻ thuần phục nhận gói chất TNT, ngòi nổ và hai chục ngàn đồng bạc. Nhận để tránh cấp trên nghi ngờ, nhưng liền sau đó, Tư ghé tiệm thuốc tây mua một chai thuốc xổ. Đến sáng 25.4.1975, Tư uống một hơi hết chai thuốc. Hàng xóm phải chở Chuột vào bệnh viện cấp cứu và công tác đặc chất nổ xem như bị hoãn lại vì lý do kỹ thuật.
Nhưng sáng 30.4.1975, vừa nghe ông Dương Văn Minh ra lệnh cho toàn thể quân nhân các cấp phải buông súng đầu hàng vô điều kiện để ông trao chính quyền lại cho địch thì Tư là nười đầu tiên chụp lấy cơ hội kiếm công, tiên phong hô hào đồng bào ra đường đón tiếp đoàn quân Cách Mạng vào tiếp thu thành phố. Chuột giành lá cờ Xanh-Đỏ Sao Vàng và miếng vải đỏ trên tay của một người trong xóm, chạy ra đường Thống Nhất, phất cờ hoan hô đoàn quân chiến thắng. Cánh tay phải cột băng đỏ, tay trái cầm cờ, miệng hô các khẩu hiệu : ‘Hoan hô Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’. Đoàn quân Cách mạng muôn năm. Đảng Cộng sản muôn năm, Hồ Chủ tịch vĩ đại muôn năm …Chiều trở về xóm lao động, Tư kêu gọi thanh niên thiếu nữ ra làm ‘cách mạng’, đứng lên tố cáo các thành phần chế độ cũ, thành phần địa chủ bóc lột và những tên ác ôn hút máu đồng bào. Chỉ trong vòng nửa ngày, Tư Chuột trở thành lãnh tụ lũ con nít còn mặc quần giây thun, đám bà già trầu và bọn đầu trâu mặt ngựa Cầu Muối. Đoàn quân cách mạng do Tư cầm đầu trang bị soong chảo, thùng thiếc, gậy gộc, tay đeo băng đỏ cầm cờ giải phóng, hùng hổ diễn hành trên các đường chính của Thủ đô.
Chuột được người ân nhân cũ thăm hỏi và khuyến khích tụ tập tất cả du đảng để giữ gìn an ninh cho thành phố, thi hành chỉ thị cấp trên, lùng bắt các quân cán chính ác ôn chế độ cũ đồng thời xúi giục dân lao động đứng lên tố giác những thành phần theo danh sách Cách mạng đưa xuống. Chuột tự cho rằng thời cơ đã đến với nó, một người đã được huấn luyện để trở thành anh hùng cứu nước, là người của Cách mạng, giờ đây là một nhân vật quan trọng của chế độ mới. Qua sáng hôm sau, mấy thằng du đảng khu Cầu Muối tự động tìm đến gặp Chuột gập đầu tuân phục. Tư sai một thằng đàn em kiếm chiếc nón cối, đôi dép râu và cái bị bằng vải kaki rồi ra lệnh tập họp những băng đảng từ các vùng Sàigòn-Chợ Lớn-Gia Định về họp bên hông tòa án trên đường Nguyễn Huệ. Trước mặt gần hai trăm đầu trâu mặt ngựa, Chuột vỗ ngực :
- Tao theo Cách mạng nằm vùng từ lâu và trong thời gian qua đã thi hành chỉ thị cấp trên, tiếp tay với Mặt Trận, với Đảng để hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng Miền Nam nầy. Tao đã ra lệnh cho đàn em phá hoại, gây tổn thất cho Ngụy Quân Ngụy Quyền ngay tại thủ đô cũng như các vùng ngoại ô. Giờ đây tao là ‘Cách Mạng’, tao ra lệnh cho bọn bây đến đây để nhận chỉ thị.
Đám cô hồn các đẳng ngổ ngáo ngày trước, giờ đây trước mặt lãnh tụ mới đứa nào mặt mày cũng xanh như tàu lá. Một tên cúi đầu lễ phép :
- Kính thưa.. đại ca
Chuột nạt lớn tiếng :
- Tao không phải đại ca của tụi bây ! Tao là Cách Mạng, tao có bổn phận thi hành lệnh của chính quyền giữ gìn an ninh, truy lùng những tên phản động và hô hào dân lao động đứng lên tố cáo..
Một tên trùm ngày trước kính cẩn :
- Dạ thưa..tố cáo ai ạ ?
- Để tao đi họp với chính quyền rồi sẽ đưa cho bọn bây danh sách. Tao sẽ phân công cho bọn bây địa bàn hoạt động để khỏi dẫm chân lên nhau.
- Dạ, xin ‘Cách mạng’ phân chia rõ ràng địa bàn hoạt động không thì tranh nhau trước sau gì cũng đổ máu..
Tư vung tay lên :
- Đứa nào lộn xộn tao bắn bỏ tức khắc.
Cả đám đứng yên không dám có phản ứng. Chế độ cũ chưa giết một thằng du đảng nào nhưng ‘cách mạng’ đâu có tha, mạng người lương thiện còn rẻ hơn một con vật huống gì những tên du đảng như bọn chúng. Trước khi ra về, Tư Chuột ban hành lệnh thứ nhất :
- Tất cả hãy nghe ! Đây là lệnh của tao : Tất cả các cơ sở, công ty xí nghiệp, thương mại lớn nhỏ, công hay tư của chế độ cũ đều được cách mạng ta quản lý. Bây giờ anh em ta đang làm chủ. Bọn bây, tùy theo địa bàn hoạt động, đến các nơi nầy tiếp tay với cách mạng để trị an, quản lý và thanh lọc ngay thành phần ác ôn, đuổi chúng ra khỏi tổ chức, phối hợp với các cán bộ cách mạng cơ sở và chờ lệnh của tao !
Tối về đến nhà, vào phòng dựng Mão dậy, Chuột hớn hở :
- Ta đã làm chủ đất nước rồi !
Thấy vợ đang rầu vì công việc trong xưởng làm, Tư ngồi xuống mép giường :
- Lo gì nữa, công nhân sẽ làm chủ tất cả các nhà máy, cơ sơ sản xuất, thương mại…Chúng ta đã dành được từ tay của bọn bóc lột. Phải hồ hởi phấn khởi lên em !
Mão buồn rầu :
- Làm chủ đâu chưa thấy, chiều nay em có đến xưởng, một thằng làm vệ sinh hốt rác trong xưởng đứng lên kết tột chủ là tư sản mại bản, bóc lột sức lao động rồi đuổi ông ta ra đường, đồng thời tự bầu thành ban quản trị xưởng do chính thằng chó chết đó làm chủ tịch.
- Còn em thì sao ?
- Bọn chúng cũng tập trung em và các người thợ khác vào một phòng, xỉ vả một hồi rồi đưổi về đợi lệnh.
- Đ.m. bọn tép riu ! Để anh trị cho chúng nó một bài học.
Mão hứ một tiếng :
- Anh cũng chạy theo ăn có với bọn du đảng, có gì hơn chúng nó đâu ?
Chuột vỗ ngực :
- Anh là một nhà cách mạng đầy mình ! Bây giờ anh mới cho em hay, anh là người của cách mạng từ lâu nay. Bây giờ anh được cách mạng giao công tác lãnh đạo các ‘đoàn thể’ tại Sàigòn-Chợ Lớn để trị quốc an dân !
Mão nghi ngờ :
- Anh làm gì được mấy thằng trong xưởng của em ?
Chuột hăng tiết :
- Anh sẽ thẳng tay trừng trị bất cứ thằng nào dám xem thường em. Em là vợ của một nhà cách mạng mà !
Nhưng rồi Tư Chuột chẳng làm được gì. Chỉ một thời gian ngắn, Cộng sản thành lập vội vã ủy ban quân quản Sàigòn-Chợ Lớn và công an nhân dân được đưa khẩn cấp từ Hà Nội vào. Bọn ba mươi, nhất là thành phần du đảng, cướp bóc, tù tội chẳng những bị hất cẳng mà còn bị xếp vào loại phá rối trị an. Tư Chuột cũng không thoát khỏi trường hợp nầy. Bất mãn, Tư liệng ngay băng vải đỏ vào sọt rác và theo mấy tay bị thất sủng nhậu đế trắng từ góc đường nầy đến hẻm khác…Tư Chuột lúc nào cũng say, lảm nhảm suốt ngày…Đ.m. đồ khốn nạn, bịp bợm, láo khoét. Cách mạng tráo trở dụ ông dọn mâm để rồi cả giòng họ chúng bây kéo nhau vào hưởng !
Mão được trở lại làm việc, ban giám đốc bây giờ là bọn nằm vùng trước đây hoạt động bí mật trong phạm vi SàiGòn-ChợLớn. Công nhân giờ đây mang danh làm chủ nhưng phải đạt chỉ tiêu sản xuất hằng ngày, cấp chỉ huy đến trể về sớm, ăn nhậu và chỉ có một động tác duy nhất là ngồi chấm công ghi sổ. Việc làm của người thợ được chủ nhân lên gấp đôi mà tiền lương thì hạ xuống, đi ngược với tuyên truyền của một chế độ ưu việt ‘làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít’!!!. Dù đang mang thai nhưng Mão phải đi làm để được nhà nước cấp phiếu hàng tuần mua bobo, bột mì và gạo mốc. Đến lúc bụng lớn, sắp đến ngày sanh đứa thứ hai, Mão làm đơn xin nghỉ đẻ nhưng không được nhà nước chấp thuận vì chưa đến thời kỳ ấn định theo luật của Xã Hội Chủ Nghĩa. Khi được cấp trên cho phép thì đúng lúc phải dùng xe cấp cứu chở ngay sản phụ vào xưởng đẻ. Mão bị băng huyết trầm trọng sau khi đưa được bào thai đã chết ra ngoài.
Mão phải bán chiếc nhẫn cưới và cầm luôn chiếc xe gắn máy của Tư để đủ tiền chi từ anh gác cổng, trà nước cho các người làm vệ sinh, nhân viên cung cấp mền chiếu, bông gòn, xà phòng, thau kéo, chỉ cột….đến các ông bà y tá và bác sĩ để được vào nhà thương đẻ con ! Sau khi đưa được bào thai ra, xưởng đẻ cho biết muốn cứu sống người mẹ thì phải chi tiền mua máu. Tư tình nguyện lấy máu mình truyền cho vợ nhưng bị nhân viên nơi đây, sau khi nhìn Chuột từ đầu xuống chân, từ chối thẳng thừng với nhiều lý do…vì loại máu không hạp nhau, vì máu có vi trùng bệnh…và buộc Tư phải đóng tiền trước tức khắc để được cứu chữa. Đang điên đầu chưa biết tính toán thế nào thì bọn cho vay của xưởng đẻ đề nghị giúp Tư đủ số tiền để cứu người vợ đang hấp hối với 10 phân lời mỗi ngày. Chuột chỉ làm nổi ba bài tính cộng-trừ-nhân, đâu đủ khả năng để hình dung tiền lời sinh ra sẽ cộng thêm vào tiền nợ từng ngày. Hơn nữa đang bận tâm lo mạng sống của Mão trong cơn hấp hối, Chuột gật đầu chấp nhận tất cả điều kiện của bọn ma giáo được xưởng đẻ che dù đở đầu để ăn chia. Nợ chồng chất mỗi ngày một lên cao, bọn côn đồ hăm dọa thanh toán, Tư phải kiếm một giải pháp để vừa trả nợ vừa tiếp tục nuôi vợ tại xưởng đẻ vì chưa thể đưa Mão về nhà trong tình trạng còn quá yếu. Chỉ còn một con đường để giúp Tư kiếm đưọc tiền : Bán máu cho nhà nước.
Mua máu của nhà nước thì giá cao tới mây xanh mà khi đem bán thì nhà nước lại trả rẻ như bèo. Mỗi ngày Tư phải đến để người ra rút ra một túi nylon 250 phân khối, nhưng làm thế nào cũng không đủ để trả cho số tiền lời đang chồng chất và những chi phí chính thức cũng như phụ trội và quà cáp cho nhân viên xưởng đẻ. Không được ăn uống đầy đủ, tẩm bổ không đúng mức, Chuột đã ngất xỉu tại chỗ sau khi bán tới nửa lít máu của mình. Khi tĩnh lại về nhà thì hay tin Mão đã từ trần. Xưởng đẻ yêu cầu Tư chuẩn bị tiền để thanh toán những khoảng còn thiếu mới được phép đem xác chết vợ về mai táng…
Chôn cất vợ xong và gởi đứa con đầu tại quê nhà, chuột trở lên Sàigòn bán đồ đạc và căn nhà của Mão để trả hết số trả nợ còn lại. Tư đau lòng nhìn lại tổ ấm một lần cuối trước khi ra đi, bỗng Chuột chợt thấy trên vách, hình của cha già lãnh tụ đang âu yếm mỉm cười nhìn mình. Chuột tiến đến gở xuống, phân trần :
- Xin tha lỗi, bấy lâu nay tôi vô tình không chú ý nên dán hình bác trên vách ván một cách thô sơ. Tôi thật đui mù và ngu muội nên đã phạm thượng đến bác. Bây giờ quá hối hận, đồng thời cũng đã sáng mắt, tôi sẽ đích thân ‘lộng kiếng’ hình bác và để vào một nơi thật xứng đáng với thành quả vĩ đại của việc Giải Phóng Miền Nam và Thống Nhất Đất Nước do bác lãnh đạo !
Bỏ hình bác xuống….giật nước xong, Tư ra bến xe đò mua vé về quê nội ở Thốt Nốt. Khi qua phà sông Hậu, bất thần nó nhảy xuống sông. Dù ít học và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt, nhưng Chuột đã sớm sáng mắt trước cảnh thiên đường của Xã hội Chủ Nghĩa và Tư muốn mượn cái chết để chuộc những sai lầm của một đứa con bất hiếu với cha mẹ, của một người chồng, người cha thiếu trách nhiệm với vợ con.
Một vài khách trông thấy, hô lên :
- Có người nhảy sông tự tử !
Nhưng tất cả đều bình thản nhìn xuống và phà vẫn tiếp tục qua sông…
Phòng bốn người và bầy chuột nhắt
Sáng hôm ấy Thìn đến cơ quan sớm hơn thường lệ. Đẩy vội chiếc FX cáu cạnh vào nhà xe ở góc sân bên trái, anh ta hấp tấp lấy cặp da, bước nhanh về phía phòng làm việc.
Tạp vụ Yến đang quét dọn trước cửa hội trường cười hơ hớ bảo ông Thìn đến sớm thế này chắc sắp bão to !
Ở cơ quan Thìn ngại nhất bà này. Tuy kém Thìn mấy tuổi nhưng lại có thâm niên vào bậc lão làng, từng phục vụ qua năm đời sếp. Không bằng cấp, chẳng chuyên môn nghiệp vụ, lại chanh chua cạnh khoé nhưng chưa ai dám đặt vấn đề giảm biên thị. Người ta kháo nhau rằng bà Yến cứ như ma xó, việc riêng tư, chơi bời giăng gió của ai cũng tường tận ngọn ngành. Có lần sếp Mão, tiền nhiệm của sếp Long bây giờ từng dọa đuổi chỉ vì trong toa lét cạnh phòng làm việc của ông lại đặt một cục xà bông LIFEBUOY xoàng xĩnh. Mà sếp Mão vốn quen dùng xà bông Fa, rất ghét mùi LIFEBUOY khử trùng. Tạp vụ Yến chẳng hề sợ hãi mà bình thản nói một câu đầy ẩn ý : “Em tưởng cô Loan vẫn thích dùng Laiboi”.
Sếp Mão tái mặt, giật mình nhìn quanh. Thấy không có ai gần đấy sếp mới nhăn răng cười xoa dịu.
Tôi đùa cô một chút thôi, thông cảm nhé ! Có chục lon nước ngọt hôm trước tiếp khách vẫn còn, cô nhớ mang về cho các cháu uống !
Sếp Mão nghỉ hưu. Lúc rỗi rãi đám phụ nữ ngồi buôn dưa, vui miệng Yến cười hơ hớ mà kể rằng đã được tận mắt chứng kiến những lần sếp vật lộn với cô Loan kế toán trong phòng làm việc vào các buổi tối ký duyệt chứng từ sổ sách. Mà cái cô Loan ấy có thân hình rất chi là bốc lửa ! Da thịt cứ là trắng nõn nà, chân dài như chân sếu ! Còn bộ ngực thì nần nẫn như miếng thịt bê, sếp không xin chết mới là chuyện lạ ! Nghe nói trước khi nghỉ hưu sếp Mão đã giúp cô Loan chuyển sang công ty liên doanh, lương tháng vài trăm đô. Đời đàn bà có được cái món tỉnh tình tinh thơm tho như thế chẳng mấy lúc đổi đời. Cái của chị em mình bụi bậm nhếch nhác, đến thằng chồng còn chán, sao dám mơ chàng nọ ông kia …
Nghe những chuyện tào lao trên trời dưới biển ấy, không chỉ sếp mà khối người giật mình thon thót. Dẫu chưa một lần lọt vào các giai thoại của tạp vụ Yến, nhưng cũng chẳng dại làm mất lòng thị. Thìn quay lại giơ tay vẫy, nhăn nhở cười rồi mở khóa lao tới bàn làm việc tìm chiếc phong bì đựng năm trăm ngàn đồng. Đây là khoản hoạch tài kiếm được từ buổi họp thay sếp cuối tuần trước.
Thật ra chuyện dự họp nhận phong bao cũng là bình thường. Riêng trường hợp của Thìn đặc biệt hơn nên muốn giữ kín. Cũng là một cách phòng xa chuyện ghen ăn tức ở. Thìn chẳng phải là kẻ ngộ nhận. Anh ta biết rõ phòng nghiệp vụ có bốn người, mình nhẹ cân về kiến thức hơn cả. Trưởng phòng Đỗ Mùi học vị pờ-tờ-sờ, nay đổi thành tiến sĩ, có kinh nghiệm lâu năm, Thìn chẳng dám so bì. Ngay cả cậu Quang, cô Phượng mới tốt nghiệp đại học vài năm phó phòng Thìn vẫn phải bái phục. Họ sử dụng vi tính thông thạo lại có chứng chỉ “xê” Anh văn. Còn Thìn nguyên là giáo viên sử địa ở miền núi hải đảo, nhờ khôn ngoan chạy chọt mới được nhận về cơ quan giữ ghế phó phòng. Kiến thức đã rỗng lại lười nhác nên Thìn khoái ngồi quán chơi bài hơn ngồi phòng ngâm cứu. Được cái nhũn nhặn mềm mỏng, biết người, biết ta nên trên yêu, dưới chẳng ghét. Có lần trưởng phòng Đỗ Mùi bỗ bã nói rằng nhất lé, nhì min …, ông Thìn thuộc loại hàng đầu trong tứ quái, khôn ranh biến báo hơn người là phải ! Đồ ác khẩu, cứa đúng vào nỗi đau cố tật của người ta. Ai chẳng biết Thìn bị lé mắt, nhìn sang phải thấy bên trái. Với người khác chắc chắn lành làm gáo, vỡ làm muôi. Nhưng Thìn chỉ cười hề hề gãi đầu bảo em còn thua bác xa. Nhẫn đến thế ở cơ quan này chỉ có Thìn là một. Đã nhẫn nhịn lại ngoan nết nên sếp lớn coi Thìn như người nhà, thường nhờ Thìn đưa đón cậu con trai nhỏ tuổi đi học khi sếp bà bận việc, hoặc nhờ Thìn dự họp thay sếp ở những hội nghị không mấy quan trọng. Sếp bảo, do kiêm nhiệm nhiều chức vụ, hội họp chạy sô, buộc phải trưng dụng cán bộ phòng nghiệp vụ họp giúp. Dĩ nhiên là chẳng ai dám bàn cãi về chuyện này. Còn Thìn, người thường được trưng dụng lại rất khoái chí. Sau một vài cuộc họp thế chân sếp Thìn phát hiện ra rằng họp hành chẳng phải là việc đáng ghét như người ta tưởng. Trái lại, anh ta rất thích thú bởi đây là công việc hợp gu, đủ cả danh, lộc. Mới chiều thứ sáu tuần trước sếp có giấy mời dự cuộc họp đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú cho mấy ông nhạc công, đạo diễn ở địa phương. Vốn chẳng quan tâm tới chuyện sĩ siếc, sếp bèn cử Thìn đi họp thay. Nào ngờ hội nghị nhỏ mà phong bì lớn. Nhờ có một nhân vật cỡ bự trong danh sách đề nghị xét tặng nghệ sĩ ưu tú, đại biểu mời lại thu hẹp trong ngành nên cơ quan chủ trì mới phá lệ, nhét mỗi phòng bì một tờ bạc pôlime mệnh giá năm trăm ngàn đồng. Ngồi ở phòng lạnh mát rượi, giơ tay biểu quyết bốn lần, vỗ tay lốp bốp mấy cái, cuối cùng đến tiết mục nhận phong bì, hoan hỉ dẫn nhau ra nhà hàng dự bữa cơm thân mật.
Thìn được cái nết không bia rượu thuốc lá. Đến nhà hàng ăn vội miếng thịt gà nướng, nuốt nhanh tô bún rồi kiếm cớ rút lui. Anh ta tính, phải dấu phong bì tiền ở phòng làm việc trước khi về nhà. Đây là biện pháp hữu hiệu chống lại thủ đoạn quản lý túi chồng của bà xã.
Lúc Thìn về tới cơ quan đã hết giờ làm việc, chỉ còn tạp vụ Yến đang dọn phòng sếp với người bảo vệ mới ký hợp đồng. Thìn vào phòng rút phong bì ra ngắm lại lần nữa. Đích thực năm trăm ngàn đồng pôlime mới coóng, thơm phưng phức. Đang lúc phấn chấn Thìn quên cả quy định của sếp không cho phép cán bộ nhân viên ở lại cơ quan ngoài giờ hành chính. Ai muốn làm thêm phải đăng ký trước qua bộ phận văn phòng. Bấy giờ thành phố đã lên đèn, nhân viên bảo vệ sợ bị sếp mắng bèn xuống phòng nghiệp vụ giục Thìn về để khóa cổng. Hoảng quá, Thìn nhét vội phong bì vào ngăn tủ nhỏ dưới bàn làm việc. Cười xòa, nói mấy lời xin lỗi rồi đóng cửa phòng ra về. Tới nhà Thìn mới nhớ ra chưa kịp khép kín ngăn tủ tài liệu sau khi nhét phong bì tiền vào đó. Suốt hai ngày nghỉ cuối tuần Thìn luôn mang tâm trạng bất an vì sự vội vàng cẩu thả của mình. Ngộ nhỡ ai vào đó phát hiện ra thì sao ? Thìn vốn đa nghi, chuyện tiền bạc chẳng tin ai bao giờ, kể cả người vợ đầu gối tay ấp. Dẫu thị cũng thuộc hàng cao thủ, hở ra một cái là sục sạo túi chồng, nhưng Thìn vẫn đủ mánh khoé để lập được tài khoản riêng ở ngân hàng.
Cũng vì chuyện phong bì tiền nên sáng thứ hai Thìn phải đến cơ quan thật sớm. Đặt vội chiếc cặp da lên mặt bàn, Thìn kiểm tra ngay ngăn tủ. Đúng là cánh tủ phía dưới vẫn mở toang. Thìn hồi hộp ngồi thụp xuống nhòm vào ngăn tủ nhỏ thường chỉ để hai cặp tài liệu mỏng. Không thấy bóng dáng chiếc phong bì đựng tiền đâu ! Hoảng hốt, anh ta lôi tuột mấy cặp tài liệu ra ngoài, quờ tay sục sạo.
Tiền mất thật rồi ! Đau xót nhét tài liệu vào ngăn tủ, ngồi thừ trên ghế, đưa hai tay qua gáy bần thần suy nghĩ. Thìn nhớ rất rõ lúc người bảo vệ bước vào anh ta đã nhanh tay ấn phong bì vào ngăn tủ rồi mới đứng dậy khóa cửa phòng ra về. Năm trăm ngàn đồng, bằng một phần tư tháng lương phó phòng có thâm niên hai chục năm công tác không thể coi là khoản nhỏ. Thìn quyết định tìm lại lần nữa. Bật cả ba bóng đèn ống, xem xét toàn bộ ngăn kéo, gầm tủ .. vẫn không thấy tăm hơi chiếc phong bì đâu.
Anh ta bắt đầu nảy ý nghi ngờ có người lấy trộm. Ai có thể vào đây ? Theo quy định, bảo vệ cơ quan chỉ được giữ chìa khóa cổng, phòng họp, nhà xe. Tạp vụ quản lý chìa khóa phòng của ba sếp để dọn dẹp vệ sinh. Phòng nghiệp vụ có bốn chìa khóa giao cho bốn người cùng phòng. Nhưng hết giờ làm việc phải có sự đồng ý của bảo vệ mới vào được cơ quan. Thìn chạy ra hỏi bảo vệ để truy tìm kẻ trộm. Nhưng rồi anh ta lại thất vọng bởi người bảo vệ khẳng định rằng từ chiều thứ sáu tới sáng thứ hai không có ai đến cơ quan ngoài giờ làm việc. Vô lý! Chẳng lẽ có ma? Không thể tin ai được! Thấy tiền đứa nào cũng tối mắt!… Vừa lúc ấy cô Phượng bước vào lúng túng như người mắc lỗi.
- Chết thật, hôm nay em đi trễ hơn cả phó phòng ! Thìn ậm ừ không nói gì, vênh mặt ra phía ngoài. Thực ra thì anh ta đang chăm chú theo dõi từng chi tiết trên khuôn mặt cũng như thân thể Phượng. Hóa ra đôi mắt lé lại có tính năng vượt trội ! Anh ta nhìn rõ Phượng liếc về phía mình hai lần. Khuôn mặt trắng mịn. Lại mới dùng loại son môi sẫm màu như diễn viên Hàn Quốc. Còn cổ áo thì trễ xuống tận khe ngực. Đua đòi ! Vô duyên ! Nom kìa, cô ta đang đưa tay xuống cạp váy gãi gãi rồi chỉnh lại quần lót. Trông thì có vẻ nai vàng ngơ ngác nhưng bụng dạ cũng như người đời cả thôi ...
- Ấy chết ! Em chưa kịp quét dọn phòng. Phượng líu ríu đứng dậy tìm chổi. Thìn xua tay lắc đầu bảo khỏi cần em ạ, phòng vẫn sạch chán. Phượng chần chừ ngồi vào bàn. Là con gái, lại nhỏ tuổi nhất nên cô thường tự giác nhận phần tạp vụ trong phòng. Ngày mới về làm việc Phượng vẫn gọi trưởng phó phòng là chú, bởi họ hơn cô gần hai chục tuổi, đã kinh qua nhiều năm công tác. Sau thấy cậu Quang bằng tuổi mình nhưng vẫn gọi trưởng phó phòng là anh, Phượng mới thay đổi cách xứng hô cho dễ xử sự. Cô luôn tự coi mình là bậc hậu sinh, bảo sao nghe vậy. Nhìn vẻ mặt thất thần của phó phòng Phượng cảm thấy hình như đã xảy ra sự cố. Tự dưng đến cơ quan sớm nhất? Lại còn ngồi ủ rũ một chỗ như kẻ mất hồn ? Mà xưa nay phó phòng vốn là người vui vẻ xuề xòa?
- Ơ ! Sao không bật máy lạnh lên cho mát ? Mới sáng ra đã nóng bức quá trời!
Trưởng phòng Đỗ Mùi kêu lên, rồi tiến tới bàn làm việc ở góc bên trái, theo sau là cậu Quang. Thế là đủ cả bộ bốn ở phòng nghiệp vụ.
Phượng nghe trưởng phòng kêu nóng vội đứng dậy đóng cửa bật điện, mở máy lạnh. Rồi mỗi người một bàn, trước mặt là màn hình vi tính loang loáng ẩn hiện. Cậu Quang thường say mê chơi game cả buổi, bởi nhiệm vụ lập danh mục tư liệu lưu trữ đã hoàn thành từ lâu. Cô Phượng được giao việc đánh máy các văn bản viết tay, hoặc sao chép tư liệu cũ. Nhưng tám giờ vàng ngọc cũng chỉ sử dụng khoảng một phần mười, còn lại là việc tạp vụ linh tinh. Nếu dư thời gian thì đọc sách báo hoặc nghiên cứu mấy mẫu thời trang đang được chị em ưa chuộng. Phó phòng Thìn thường tới phòng làm việc chiếu lệ. Công việc chính của anh ta do sếp lớn chỉ đạo như đã nói ở trên. Người duy nhất có chút khả năng nghiệp vụ là trưởng phòng tiến sĩ Đỗ Mùi. Nhưng Đỗ Mùi là cái gai trong mắt sếp. Nhậu nhẹt liên miên. Uống rượu như nước lã. Ngang tàng lỗ mãng. Mày tao chi tớ với bất kỳ ai ở bất cứ nơi nào trong các bữa tiệc. Đó là chân dung phác thảo của trưởng phòng được coi là kỳ nhân, tiếng tăm, tăm tiếng lẫy lừng ở tỉnh lẻ.
- Đi công tác năm ngày, riêng tiền ngủ khách sạn gần triệu, vậy mà cha Long nó duyệt chi công tác phí có tám trăm ngàn ? Quân chó má !
Đỗ Mùi vừa đếm lại tiền vừa chửi bới, văng tục. Phượng sợ rúm người ngồi thu lu vào góc bàn. Quang rụt rè bảo theo chế độ hiện hành, tiền ngủ qua đêm chỉ được thanh toán chưa tới trăm ngàn.
- Thế tại sao cha Long nó đi ô tô cơ quan lại đem theo vợ con ra Hà Nội ăn chơi xả láng mà chẳng phải bỏ tiền túi đồng nào.
Cả phòng im thin thít, chỉ có tiếng máy lạnh kêu vo vo. Đỗ Mùi quay sang phía Thìn bảo rằng ông là đệ tử ruột, bưng bô điếu đóm cho sếp chắc là kiếm chác bổng lộc hậu hĩ …
Thìn đang để mắt theo dõi từng người nhằm xác định thủ phạm lấy cắp phong bì tiền. Nghe trưởng phòng chửi anh ta nhăn nhở cười.
- Bác cứ đổ oan ! Em đâu dám.
Vừa lúc ấy cậu Quang cúi xuống nhặt dép, ném mạnh vào góc tủ gần đó. Một tiếng va đập bật lên.
- Tiên sư con chuột nhắt này !
Quang xuýt xoa, cằn nhằn rằng nó chui vào giữa các tủ đựng tài liệu mất rồi ! Chắc là chúng xây tổ ấm ở đó ! Đã mấy lần lấy trộm bánh ở ngăn tủ dưới. Nhất định chúng nó có bầy đàn thê tử …! Phải di chuyển ba chiếc tủ tài liệu kia mới tóm được cái lũ chuột nhắt khốn khiếp ấy !
Trong lúc Quang đang hô hào diệt lũ chuột nhắt thì phó phòng cùng cô Phượng lại tỏ ra bối rối. Không ai hưởng ứng ý kiến truy tìm ổ chuột của Quang. Phó phòng Thìn là người lo lắng nhất. Anh ta đã biết thủ phạm lấy cắp phòng bì tiền chính là lũ chuột nhắt. Thìn nhớ lại, lúc ở nhà hàng đã dùng tay gỡ miếng thịt nướng rồi lau qua loa nên mỡ mới dính vào phong bì. Có thể bọn chuột nhắt ngửi thấy mùi thịt nướng bèn tha về ổ. Nếu cả phòng tìm ra phong bì tiền Thìn sẽ không đủ chứng cứ để nhận là của mình. Mà nếu nhận lại phải giải thích, sự việc sẽ thêm rắc rối . Tốt nhất là đợi lúc vắng tự tìm ra ổ chuột lấy lại số tiền đã mất. Nghĩ vậy, Thìn kiếm cớ bàn lui :
- Chuột nhắt vô hại, tìm ổ chuột làm gì cho mất công !
Cô Phượng lên tiếng hưởng ứng :
- Em sợ bọn chuột nhắt lắm ! Thôi, cứ kệ cho nó làm ổ rồi sẽ tự rút đi.
Không ai ngờ được rằng Phượng cũng có lý do riêng nên ngại truy tìm ổ chuột. Mới thứ tư tuần trước Phượng sơ ý, không kịp chuẩn bị cho sự cố chị em nên chiếc quần con bị dây bẩn đúng lúc đang làm việc, phải ra phòng vệ sinh thay. Đó là chiếc quần lót mới mua ở tiệm “Thời trang và hơn thế nữa” giá bằng một phần ba tháng lương cử nhân của cô. Quá xót tiền, không dám vứt bỏ, nên Phượng vò qua loa, vắt kiệt nước rồi gói mảnh giấy báo để tạm dưới chân bàn. Lúc về mải nói chuyện với mấy chị phòng hành chính nên bỏ quên. Khi tìm lại đã không thấy. Phượng nghĩ hay là mấy người trong phòng vô tình ném vào sọt rác, liền bới tìm tùm lum vẫn mất tăm. Bây giờ có thể hiểu được, chắc chắn lũ chuột nhắt phát hiện ra đã kéo về ổ làm bữa tiệc khao quân. Tìm được ổ chuột với chiếc quần con chềnh ềnh nằm đó, có mà mặt mo ! Cả phòng chỉ một đứa con gái chối cãi sao được. Bởi thế nên Phượng đã lên tiếng hưởng ứng Thìn, không truy cứu lũ chuột nhắt. Số phiếu nghiêng về phía tha bổng nhưng vẫn phải chờ người có vai trò quyết định là trưởng phòng.
Ban đầu Đỗ Mùi có vẻ thờ ơ với chuyện vớ vẩn này. Lúc nghe cậu Quang hỏi ý kiến, Đỗ Mùi vươn vai ngáp dài bảo tùy, thích thì cứ việc làm ! Quang quay ra hối thúc Thìn cùng cô Phượng giúp mình di chuyển tài liệu. Rồi cậu ta hăng hái đi tiên phong, xông vào bê cặp tài liệu trong chiếc tủ lớn. Đỗ Mũi toan đứng dậy giúp Quang, bất chợt dừng lại vì nghĩ đến chiếc phong bì có mấy chiếc bao cao su biến mất mấy tuần trước. Chẳng là đợt ấy Đỗ Mùi xuống cơ sở công tác, sau tiệc chiêu đãi đặc sản ông giám đốc chịu chơi tuyên bố khao năm vị khách quý món “Nhất dạ đế vương” ở một khách sạn sang trọng. Để tỏ lòng ngưỡng mộ tửu lượng Đỗ Mùi ông giám đốc ấn vào tay chiếc phong bì màu hồng ghi dòng chữ : “Thân tặng ngài Tiến sĩ ĐM”. Phía dưới còn chua thêm một câu : “Ta ban cho bảo bối để thỏa chí khám phá vẫy vùng nơi núi đồi hang động kỳ bí”. Mở phong bì thấy mấy bao cao su “OK”, Đỗ Mùi chửi đổng một câu, nhét phong bì vào cặp rồi lên xe máy bỏ về. Hôm sau đến cơ quan mở cặp thấy chiếc phong bì bèn ném vào góc tủ. Ông giám đốc nọ thấy Đỗ Mùi chạy làng đã nhắn tin qua điện thoại nguyền rủa : “Đích thị lại cái. Vì thiến mà không sót …”. Nhớ lại chuyện ấy Đỗ Mùi đã có lần bới tủ tìm chiếc phong bì có bao cao su để huỷ đi cho đỡ phiền toái. Thế nhưng lật hết các ngăn tủ vẫn chẳng thấy chiếc phong bì tệ hại kia. Nhân việc Quang phát hiện bọn chuột nhắt, Đỗ Mùi suy diễn chiếc phong bì “OK” đã bị lũ chuột nhắt lôi đi. Nếu tìm được ổ chuột, chiếc phong bì đựng bao cao su có ghi rõ danh tính trưởng phòng sẽ trơ ra đó, thật là phức tạp. Tốt nhất là dẹp bỏ vụ này. Nghĩ vậy Đỗ Mùi nghiêm giọng tuyên bố:
- Đang giờ hành chính cả phòng xông vào việc bắt chuột không ổn ! Thôi bỏ qua, ai làm việc nấy.
Lúc ấy tạp vụ Yến đang dọn ở gần cửa ngứa miệng xì một tiếng rồi nói rằng có là đứa dở hơi mới bỏ công sức ra truy đuổi bầy chuột nhắt. Ở cơ quan này chỗ nào chẳng có chuột. Trong nhà kho còn có chuột chũi, chuột cống to như con mèo, có giỏi thì vào mà bắt chúng.
Coi như vấn đề đã được giải quyết. Phó phòng nhăn nhở cười tâng bốc trưởng phòng cực kỳ sáng suốt ! Cô Phượng ngồi chăm chú nhìn vào màn hình vẻ mãn nguyện. Riêng cậu Quang vẫn ấm ức vì lũ chuột nhắt khốn khiếp mặc nhiên được miễn tố.
Tưởng như mọi việc đến đó là xong xuôi. Thực ra suốt cả ngày hôm ấy phó phòng Thìn luôn suy tính giải pháp lấy lại chiếc phong bì tiền đang nằm trong ổ chuột nhắt. Ngay cả lúc nằm ngủ bên cạnh vợ anh ta vẫn lo lắng có thể tờ bạc mệnh giá năm trăm ngàn đồng bị lũ chuột đói biến thành đồ nhậu. Đúng là quân đạo tặc độc ác ! Thế mà từ trước tới giờ Thìn chẳng mấy quan tâm tới lũ chuột tham lam tàn bạo ấy. Bất chợt nghe tiếng chuột kêu chin chít ở góc phòng, Thìn tức giận chồm dậy. Trời ơi, khắp nền nhà lúc nhúc từng bầy chuột lớn bé các loại. Ơ kìa ! Có một tên chuột nhắt đang tha chiếc phong bì tiền của Thìn. Anh ta nhào ra, chồm tới vồ lấy chiếc phong bì ...
Nghe tiếng động rầm rầm vợ Thìn đang ngủ giật mình tỉnh giấc, bật đèn. Thị vô cùng hoảng sợ khi thấy chồng đang lồm cồm bò trên nền nhà, tay cầm chiếc phong bì mời dự đám cưới em trai của nhỏ bạn. Nghe chồng rên rỉ, cất tiếng kêu chin chít thị vừa sợ vừa buồn cười. Người đâu vô dạng, lại còn định giả bộ làm chuột nữa ! Thị cằn nhằn mấy câu rồi đỡ chồng lên giường tìm dầu nóng xoa những chỗ bầm tím. Lúc sau Thìn mới tỉnh, đau đớn nhận ra rằng anh ta vừa mới ngủ mê./.
Mùa này rau cỏ...
"... Những ngôi nhà bom xô tốc mái...
nay ta về dựng lại...
Mùa hè ơi nắng tràn về thành phố đẹp tuyệt vời..."
(Nhạc Cát Vận - phỏng thơ Lưu Quang Vũ)
Tháng năm rồi đây. Đã thôi vương vất cái hiu hiu rời rợi của những ban mai ngày chớm hạ. Buổi sáng rỗi rãi đủng đỉnh ra cái chợ nhỏ gần nhà, tha hồ rau cỏ. Còn tươi nõn, xanh hơn hớn. Rau cải, cải Mơ nấu cua ăn bữa chiều mát ruột. Rau dền tía luộc nước đỏ màu vang quý, bìa đậu phụ rán vàng rồi om với mấy quả cà chua hồng đã trái mùa nên được bàn tay phụ nữ nâng niu đặt lên hạ xuống hơi kĩ hơi nhiều. Rau ngót vò kĩ nấu với thịt nạc vai băm nhỏ, phải là thịt băm chứ không phải là mấy miếng sườn đã bị các bà hàng thịt lạng cho đúng là chỉ còn trơ xương. Rau muống luộc lên vớt ra đánh dấm bằng mấy quả sấu tươi, vỏ còn xanh nõn, cùi đã dồn nắng gió đủ chua nhưng cái hạt bên trong còn chưa thật cứng. Hay xào tỏi nhỉ, thêm mấy miếng tóp mỡ còn lại từ hôm kỉa hôm kia. Đĩa rau xanh, bát nước chấm dầm thêm mấy quả sấu hấp cơm chín nục, đĩa thịt kho tàu, hay vài ba con rạm rang khô, và mấy quả cà chưa ngấu hẳn, thế cũng đủ cho bữa trưa giản dị trong một gia đình sống đời giản dị. Bữa quê nhà, không bao giờ được phép quên bát cơm xới đầu tiên, đôi khi là cơm hấp lại, là mì, và ở nhà quê ngày khó thường là bát sắn bát khoai khô gần như toàn phần, người ngồi đầu mâm đừng đưa cho người khác. Bà với mẹ vẫn hằng dặn thế. Nao nao mùi thơm nồi cơm chạm hơi còn nguyên vết mấy quả sấu non vừa hấp, mầu nâu đỏ, chua chua. Nhớ mùi, không nhớ vị, bởi bát cơm đầu nồi ấy, dẫu con gái đã nhanh tay xới trước, cha tôi vẫn dành lại cho mình. Tình thương âm thầm của người cha nóng tính tôi đã cảm được bao nhiêu ngày tháng ấu thơ mồ côi mẹ chính là từ những bữa ăn nghèo trong cái thời khốn khó không của riêng ai.
Bây giờ, đã chẳng còn trẻ nữa, dẫu chẳng khá như ai đất đất cát cát công nọ ti kia thì chí ít ở thành phố miếng ăn cũng đã không còn làm bận trí bận tâm như cái thời xa xôi ấy. Nhưng làm cha làm mẹ thì có bao giờ hết lo toan. Những bậc phụ mẫu đang vào tuổi luống lại nhọc mệt với những điều bận tâm khác. Lo cho con tiền mặc sao cho không lạc mốt để chúng không tủi cùng bè bạn, lo cho con tiền học thêm học nếm không nhỡ ở lớp chúng bị thầy cô 'đì' cho đến chột tinh thần ham học rồi không vào nổi một cái trường nào cho ấm phận về sau. Không mấy ai nỡ lòng kêu gọi con cái so sánh cái tuổi thơ ngây của chúng với cái tuổi thơ ngây của mình. Chao ôi là những lo toan của dân mình. Bao nhiêu đời rồi, lo rạc người, bạc tóc, toàn những cái lo vụn mọn, làm cùn mòn tâm trí. Bao nhiêu đời rồi nghiến răng mà sống chỉ để cho thế hệ sau hơn mình. Không mấy người bình thường dám nghĩ xa hơn về ngày mai. Không mấy người nhận ra sự phi lí trong việc chuyển giao cho thế hệ sau không phải là một thực tại đáng sống mà là một hi vọng vào tương lai. Đấy chắc chưa phải là cội nguồn bi kịch, nhưng đấy chẳng phải là biểu hiện của một bi kịch đằng đẵng phần số dân mình hay sao?
Chao ôi là tương lai! Tương lai ở đâu những ngày buổi chiều tan tầm Hà Nội người xe nháo nhác. Tan trường, từ ngoại ô vào thành phố, thấy những cái xe mải mốt lăn phía trước xe nào cũng chằng thêm bó rau to vật, tả tơi. Rau muống mậu dịch dĩ nhiên chẳng ngon chẳng đẹp như hàng rau ở chợ, nhưng bán rẻ nên được chờ được đợi được mua nhiều. Người ăn một phần, một phần dành cho chị ỉn trấn trong toa lét hay góc bếp. Hỏi sao mua nhiều rau thế là một câu hỏi vô duyên, chẳng khác câu hỏi thăm sức khoẻ cửa miệng dân tây, hay câu hỏi đi đâu đấy vừa đi vừa quăng lại của dân mình. Mà nếu có hỏi, thì câu trả lời đã sẵn rồi, nhái lời một bài hát đã từng được nữ ca sĩ đủ thanh đủ sắc Ái Vân mang đi thi thố một thời và giật giải cao nhất hẳn hoi: 'Cho ngày nay, cho ngày mai, cho hai ngày sau.' Giá có hát đúng lời bài hát đó để trả lời nhau 'Cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau' thì có lẽ cũng chẳng mấy ai nghĩ là ngoa ngoắt quá trong thời buổi ấy.
Nghĩ đi nghĩ lại, lại thấy phục thế hệ mình. Cơm tù Sơn La Côn Đảo các cụ ngày xưa nếm có lẽ cũng chẳng kém ngon hơn cho lắm so với bữa cơm của người dân có độc lập tự do buổi ấy. Thì cũng gạo hẩm và sạn nhai văng cả răng ra khỏi miệng. Xếp hàng ít nhất hai lần trong tháng mới đong được đủ tiêu chuẩn 13 cân một đầu người. Tối tối nhà nào nhà nấy trong khi con lớn đã long rong ngoài phố hẹn hò nhau, con nhỏ thì ú tim ú òa quanh gốc me gốc sấu hay đuổi nhau trong những hầm công cộng mênh mông mãi chưa được lấp, các bậc ông bà cha mẹ kính trễ mũi vừa nghe chương trình ca nhạc vừa cắm cúi nhặt gạo ra khỏi thóc và sạn chuẩn bị cho bữa mai. 'Đi dọc Việt Nam theo bánh con tàu quay...' '...Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay...' Toàn những âm giai nức hồn thời đại. Đấy là chuyện có thật, và nói thật là có ích cho chúng ta thuở ấy. Không có những bài ca như thế, lời thật hay lời nhại thì khó mà chống chèo nổi với ngày tháng gian truân, với những bữa ăn chỉ nghĩ đến cái lúc mở vung nồi cơm ra đã ngại. Gạo chả biết ông nhà nước mói từ cái kho nào của cục Dự trữ quốc gia mà vàng ệch, mùi thì... Và để chống cái mùi kinh khủng kia thì chỉ có một cách cho đẫy muối vào rá gạo mà xát. Cũng có nhà có cách riêng để đánh lừa thính giác. Nhớ có lần ghé thăm cô bạn nhà ở khu tập thể trường Đảng cao cấp, lên tới đầu cầu thang đã thấy mùi xôi nếp thơm lừng. Mẹ bạn đem khoe một cây lá nếp mà bà nưng niu hơn cả nhà buôn bán nưng niu cây tài lộc bây giờ. Cây ấy, bố bạn đi công tác vùng cao bê về tặng vợ và con gái, mỗi bữa cơm chỉ cần một lá nhỏ đặt lên chốc nồi, đậy vung lại là cơm gạo hẩm hóa thành xôi mới nếp cái hoa vàng. Đánh lừa được cái mũi, nhưng đánh lừa cái lưỡi ra sao? Câu hỏi trong tôi đến giờ còn nguyên đó. Gạo đấy, ăn với chủ yếu là rau, thế mà vẫn học, vẫn ao ước, vẫn trông chờ, vẫn tin tưởng vào tuổi trẻ của mình, dẫu bụng rỗng và áo vá. Kì diệu thay là tuổi ấy. Kì diệu thay là sức chứa chở khổ ải của dân mình. Nhà thơ Phùng Cung đã nhẫn nhịn trầm ngâm 'trứng nhà ai rán thơm mùi thiếu mỡ' hay 'mùi tép rang hàng xóm thơm nghiêng' chính trong những tháng năm này, có lẽ.
May mà có rau. Phải! May mà có rau. Những như rau lại bán đắt hơn cả thịt ở đất này thì chắc chết. Ở Berlin hay những vùng đông người Việt thì thế nào cũng có người khéo tay khéo chân khéo tính lo việc tự cung tự cấp cho đồng bào. Chứ như cái nơi tôi đang ở đây, thì cũng là thành phố, xứ này chỗ nào chẳng đáp ứng tiêu chuẩn đô thị của dân mình, có muốn thỏa lưỡi và mũi bằng, chẳng hạn, một bữa đậu phụ luộc còn hôi hổi nóng bẻ ra chấm mắm tôm thơm mùi chanh cốm với ớt chỉ thiên, cũng chả mói được ở đâu ra. Cái thứ đậu phụ đóng gói bì bì mặt càng rán càng quắt đen lại ăn vào đâm bực mình. Còn rau tươi? Thì cũng có trong mấy cái tiệm nhỏ của người Ần và người Thái. Cũng cải cũng muống, nhưng tả tơi vàng úa chả khác gì rau mậu dịch quăng từ xe ô tô xuống vỉa hè của cái thời nào. Mà lại đắt. Chẳng bằng cứ xông ra siêu thị, có gì ăn nấy, ê hề.
Tôi có niềm tự hào hôm nay mới ngỏ: Nhờ liều mạng lấy chồng mà đâm ra chăm chỉ khéo tay. Nhưng mà dù có kính con yêu chồng bao nhiêu cũng chả thế nào thật lòng vui thú khiêu vũ cùng xoong chảo mỡ dầu thịt thà rau cỏ. Tuy thế, mùa này, mùa xuân nơi đây chứ chưa phải là mùa hè, chiều chiều đưa con dạo ra phía bờ sông, tôi hay nhòm ngó cây cỏ bên đường. Hoa dại ôm về nịnh ông nhà thì đã hẳn rồi. Còn rau nữa. Ngải cứu, cải soong, chua me đất, vài ba hôm nữa lại có rau dền chen chúc giữa cánh đồng ngô. Bảo là ngon thì chắc chả ngon bằng rau cỏ sáng nay ở bao nhiêu chợ cóc chợ xanh Hà Nội. Nhưng mà tươi lắm, nhiều lắm. Bát canh rau vặt bên đường đã chẳng làm dịu đi nỗi quê nhà mà lại còn làm cho nó thiết tha hơn, nóng ruột nóng gan hơn. Đã hẳn nơi này mở tivi hay computer ra là có thể có ngay cảm giác đang sống tại Việt Nam. Nhân dân điện tử đầy những tin những bài đọc lên cứ có cảm giác lội ngược thời gian về lại thời vặn hay bàn tay mà tin tưởng ông nhà nước. VTV4 với những người dẫn chương trình trẻ, lắm điều và lẫn lộn một cách tuyệt vọng loại từ tiếng Việt như cái chương trình 'Vườn cổ tích' tôi mới được xem cũng làm thỏa nỗi thương nhớ của vô khối người. Kĩ thuật số đã phát triển đến độ quả thật thế giới là làng, quốc gia là xóm. Nhưng những báo những đài những ti vi ấy đã thực là Việt Nam chưa?
Vào những ngày xuân ngày hạ đẹp trời, trên cánh đồng cỏ bên sông, cứ từng quãng lại thấy nổi lên lúc là cái khăn vuông hoa hệt khăn các nữ nông trang viên Liên xô một thời chít trên mái tóc khi vắt sữa khi đảo cỏ và cả khi chơi hội, lúc lại thấy bành bành một cái mông phụ nữ căng muốn rách tấm váy hoa cũng mốt Liên xô trong họa báo phát không ngày xưa ở Việt Nam. Họ đi tầm rau đấy. Lá chua me đất, vàvô thiên lủng những loài rau khác mà với tôi hay với thổ dân thì đều là cỏ dại. Họ là người gốc Đức trở về cố xứ từ nhiều nước cộng hòa, chủ yếu là Trung Á, thuộc Liên xô cũ. Nhìn đám đàn bà loay hoay bới tìm rau cỏ và đám đàn ông lặng lẽ đợi một con cá động cần, chạnh lòng không dám hỏi có phải họ đang tìm lại quê xưa, là một vùng Trung Á nghèo xơ nào đấy chứ không phải đất Đức cái gì cũng nhiều không dám nói nhưng ít thì vô khối này.
Và tôi, khi lang thang cùng con hái vài ba ngọn rau dại mọc bên đường, tôi biết tôi cũng đang trở về. Ra đi là trở lại. Dù muốn hay không. 'Và sẽ thấy Tổ quốc trong một chiều kích mới'. Mới đây, một cậu học trò cũ đánh đường từ Úc sang thăm cô giáo ngày xưa đã nhắc với tôi dòng thư mà tôi không nhớ dù mình là tác giả. Có phải thế thôi đâu em! Ra đi, ta thấy được chiều kích có thể của tâm hồn mình (và nhiều hơn, chán quá, còn là chiều kích cơ thể mình.)
Cải soong trộn thịt bò, dền luộc hay nấu suông với vài ba lá tía tô, ngải cứu thì đúc trứng. Còn rau bí? Thật kém tắm: tôi chưa kể ngay món rau bí quê nhà ở đất này.
Không phải là rau bí thật. Bí đỏ xứ này to như cái thúng, ngọn mập mạp, lá non cứ mỡ ra, nhưng vô duyên vô vị, là thứ rau cho bò chứ quyết không thể là thứ cho người. Nghe nói ở Berlin chợ người Việt bây giờ có rau bí Việt Nam mình thật. Nhưng mà xa xôi quá. Chẳng bằng về với thiên nhiên.
Thằng con bốn tuổi chân tay lúc nào cũng như lắp thêm động cơ có hôm trời mưa tầm tã vẫn hùng dũng dận ủng xỏ đôi găng cũ của bố mời mẹ đi hái lá han về làm món rau bí. Lá han thật, đầy ra ở những triền đê quê xa. Cũng gợi lắm lúc xôn xao hoa trắng tím khiêm nhường nở rồi còn nép kĩ trong nách lá. Nhưng sơ ý rờ phải thì da đỏ ngay lên như phải bỏng, rát chết thôi, đã là nỗi vui cười ra nước mắt của đôi bà đôi chị một thời tung hoành bán thuốc bán quần áo lẻ ở Berlin, những lúc không thể cầm lòng vậy dầu lòng vậy ở chốn thương trường và đành phải ôm bụng liều mình như chẳng có xông vào bụi rậm. Thế mà thứ lá này ăn được, rất ngon. Tôi có tâm hồn ăn uống, song mắc thói lười, nên bây giờ cứ phải chép miệng tự trách mình thiếu máu mạo hiểm, không thử xơi lá han từ bấy lâu nay.
Mà cái giống rau han thì mùa này đến lắm, ngùn ngụt mọc sau mấy ngày xuân mưa lạnh thành từng vầng trên đồng cỏ, dọc bờ sông, nơi xó vườn. Tốt tươi, ngợp mắt, non cứ bấn ra. Hái về mà xào với cà chua và tỏi, chẳng khác gì món rau bí quê mình. Cái món này đáng phải coi là phát hiện mới dành cho đồng bào Việt Nam xa Tổ quốc.
Bạn có nhớ rau bí quê mình? Đấy là món rau nhiều người thích ăn mà đành chịu, vì không có thì giờ ngồi nhặt, hoặc giả vì không biết nhặt. Có lần tôi đã ăn món rau này ở một gia đình người Mường, biết là đặc sản mà không nuốt được. Không hẳn vì không quen. Rau bí nấu với ốc suối để vỏ, hẳn là ở thành phố không thể có, nước ngọt, là lạ mùi tanh mát. Nhưng rau thì cô chủ nhà không tước, vác nguyên con dao bầu chặt thành khúc, tống thẳng vào nồi mà ninh lên. Rau bí mà ninh thế thì cũng chả khác kiểu mấy anh sinh viên da đen luộc trứng vài ba tiếng. Không thể nào nhừ được.
Ngày tôi còn bé như cái kẹo mút dở thì chiến tranh đánh phá. Tôi theo bà tôi đi. Làng xóm thanh bình lắm, mà chẳng may vắt ngang con sông chảy ven làng lại có cây cầu Pháp xây từ đời tám hoánh nào, nối Hà Nội với Hoà Bình. Nên lại thêm một lần bà cháu bỏ nhà lếch thếch kéo nhau vào đồng sâu gần về chân núi. Ông hàng xóm cùng mấy chú con trai dựng giúp cho một cái, không thể gọi là lều, vì lớn hơn lều, quê tôi gọi là chuộn. Vài ba cái chuộn quây lấy nhau giữa đồng không mông quạnh, mấy bà già và dăm ba đứa trẻ dáo dác với nhau. Nước dùng là cái hố bom sát đó, dấu vết trò chơi ác của mấy ông phi công Mỹ không bay được tới mục tiêu hoặc giả không còn mục tiêu oanh tạc. Quanh cái ao bom, bà tôi đặt mấy dây bầu ngô, cắm thêm dàn mướp. Bao nhiêu năm qua rồi, sao vẫn ngụt ngạt thế này trong tâm trí cái mầu nước đỏ sục lên dưới bàn chân những chiều xách gầu theo bà đi tắm rồi nhân thể tưới rau. Màu hoa mướp hoa bầu vàng tin cậy... Màu hoa muồng muồng vàng dại rười rượi nỗi buồn nhớ trẻ con... Và cái màu cam lộng lẫy chớp lên theo cánh bầy chuồn chuồn ngô báo bão dọc đường đồng đến lớp men theo bãi dâu xanh mê man dưới trời trưa cao vắng...
Có cái năm bầu vừa ra quả bằng cái chén thì bão thật. Đến là to. Đêm, chị em nằm chui trong cái chiếu sực mùi nắng bà vừa kéo đắp cho, túm hai dải vú bà, thấy yên ổn qúa, chẳng biết đến nỗi bà lo sau những lần chép miệng nghe tiếng gió hút qua ống nứa đầu hồi. Chỉ hơi hơi sợ cái lúc bão tốc mất nửa mái. Bão vừa tan cơn, trời còn chưa rạng, trong làng đã có người thình thịch chạy ra xem mấy bà cháu Hà Nội thế nào. Đồng mùa rạp mình dưới bão. Nhưng bầu bí của bà thì gió giật quăng lung tung cả. Những ngọn bầu dập, những quả bầu con con bà nhặt nhặnh về tước xơ thật kĩ, luộc lên chấm muối vừng mời mấy ông người làng ra sửa giúp cho có chỗ mấy bà cháu hui hút cùng nhau. Vị bí ngô non ngày ấy mãi còn bùi ngọt. Không thể nào quên. Đến nỗi sau này lớn hơn, đã được về lại phố xưa, đã được bố mẹ tin tưởng giao tiền lo cơm nước hàng ngày, có lúc nào mua rau bí thế nào tôi cũng chọn lấy một mớ già già, để kiếm dăm ba quả bầu non bé bỏng.
Rau bí, tuổi con gái đến mà tự dưng giữa bữa cơm bố lại chép miệng bảo lâu rồi chưa ăn lại thì ngại lắm. Nhặt đến là lâu. Móng tay còn bị đen sì nữa. Chỉ duy nhất một lần tôi hào hứng ngồi bên mớ rau bí. Chiều ấy tháng năm thành phố thiếp đi trong cơn nóng. Chiều ấy có tiếng gõ cửa ngập ngừng mà tôi phấp phỏng chờ. Chiều ấy có ngưòi con trai vốn được mẹ nuông hì hục ngồi nhặt rau bí cho tôi. Và tôi đã im thin thít trong bữa cơm lúc bố chê rau bí hôm nay còn nhiều xơ quá. Đúng thế thật. Vừa bùi vừa bã, chả khác gì món rau bí của người Mường.
Chiều ấy cơn gió nóng, chiều ấy câu chuyện chẳng ra đầu ra cuối bên mớ rau bí nhặt dở, không bao giờ trở lại, dù tôi theo người đến bây giờ. Bây giờ, rau bí của tôi là món lá han non xào cà chua và tỏi. Không phải là món rau ăn tạm theo kiểu lấy Spinat giả làm rau dền của họa sĩ Võ Đình thời sinh viên xóm học Paris đâu.Thật vị rau bí quê mình, chỉ một nỗi là toàn lá. Xin lấy tên tôi làm chứng. Bạn hãy thử đi.
Tháng năm này nhiều khi bận bịu. Nhưng mà khi thằng cu con bốn tuổi của tôi vòi mẹ đi hái lá han, tôi không muốn ngần ngừ. Biết đâu, những ngọn lá han rau bí hôm nay sẽ chẳng trở thành nỗi nhớ, có thể là buồn, nhưng chắc chắn là kì diệu, như những bữa cơm rau ngày cũ của tôi. Biết đâu, nỗi nhớ tơ non ấy chẳng là một chút men thơ, ủ ấp con tôi, làm lung linh trong chú bé của
ê Xuân Quang
Lái lợn
(Tặng N. Trung Cần)
- Làm gì để có tiền bây giờ? Tết nhất đến nơi rồI ?
San dốc ngược ly rượu dằn mạnh xuống bàn hỏi với vẻ chán chường, thất vọng. 3 người ngồi vây quanh chiếc bàn tròn xếp đãy thức nhắm, rượu bia - vẫn im lặng chưa ai lên tiếng. Ngồi phía đối diện San là Vân – it tuổi nhất, chừng trên dưới ba chục - điềm nhiên nâng li nhấm nháp từng ngụm nhỏ, dường như anh ta đang tập trung tinh thần tận hưởng thứ rượu ngon mới được biết lần đầu. Bên trái - Thuyết chăm chú nhìn San như cũng suy tư trước vấn đề đang gay cấn. Còn người bên phải hầu như không quan tâm đến sự bức xúc của bạn mình, uống hừng hực, cầm dĩa xiên miếng thịt nướng to cỡ bàn tay đưa lên ngoạm.
San quay lại trợn mắt nhìn gã vẻ tức tối: Thế nào? Chả lẽ cậu chỉ biết uống, ăn - thôi à? Hả, ''ông Tham''? Ðó biệt danh của Thẩm. Vì ham chơi, thích chè chén, tiếng Ðức lại không có dấu nên bạn bè cứ gọi Thẩm là Tham. Lúc đầu Thẩm tự ái nhưng lũ bạn cư gọi... lâu dần thành quen. Khi bị bạn cằn nhằn, Tham đâm khó chịu, nhưng thông cảm với bạn, gã giữ vẻ bình tĩnh thủng thẳng: Ôi dào! Cứ tằng tằng. Nhất định sẽ có cách, đừng ‘’cà cuống”!
- Cách... cách! Hơn một tháng, ngồi ăn hơn nửa tạ thịt, uống gần trăm két bia, mươi chai rượu mạnh mà vẫn chưa ''rặn ra cách'', vậy đến bao giờ? Tuy tỏ ra nôn nóng nhưng Thuyết vẫn phải ngừng lại tợp ngụm rượu rồi mới tiếp - Sắp phải gia hạn hộ chiếu. “Viêm màng túi”, chẳng thể ''xoay'' được bảng lương... Không đầy đủ lệ bộ, Sở ngoại kiều từ chối thì A lê hấp: Mã hồi!
Thuyết lại ngừng, uống, rồi dè dặt: Hay là... hay là - gã đưa hai ngón tay lên miệng như đang cầm điếu thuốc, rít... đoạn phả khói, thối phù phù như rắn hổ mang khi bị chọc giận.
- Không được - Vân dẫy nẩy, gạt phắt - Bọn này ”trên răng dưới cát tút”, cảnh sát bắt tạm giam vài ngày lại thả, chẳng sao. Mình mà dây vào là ''đưt'' .
- Thế... thế... đành bó tay thôi! Xí nghiệp giải thể dãn thợ. Mở cửa hiệu bán Quần áo, đồ lưu niệm, Restaurant thì chưa đủ vốn, làm thuê không ai mướn, làm gì đây - Thuyết ngán ngẩm đoạn lại tợp rượu. Sau ý kiến của Thuyết, mỗi người góp một ý kiến làm cả bàn nhậu hăng lên. Xem chừng tìm cách kiếm tiền đã trở nên bức xúc đối với các Thợ Khách (*). ''Ông Tham'' vẫn từ tốn gặm đoạn xương sườn còn dính thịt. Các nhát gặm cư mạnh dần, phát ra tiếng sồn sột...
Ðột nhiên Tham ngừng, ngẩng lên nhìn San, buông câu thăm dò: Hay là đi buôn lợn? Có lãi, ít nguy hiểm?
San và 2 bạn chưa hưởng ứng.
Tham tranh thủ tợp thêm ngụm nữa dường như để củng cố niềm tin cho người nghe, tiêp: Bà con mình sống tập trung ở mấy khu, thành phố và vùng phụ cận có vài nghìn dân Việt trú ngụ, lại có mấy cửa hàng bán đồ châu Á. Ta đến các làng, các trại chăn nuôi mua lợn về giết mổ, vừa rẻ , vừa đáp ứng nhu cầu của dân cư. Ngừng một chút ngẩm nghĩ, tiếp: Ðể sản phẩm tung ra thu hút sự chú ý của khách hàng, cần có thêm lòng, tiết, thịt quay, thịt xá xíu. Những món này không có bán ở cửa hàng thực phẩm Ðức. Nhất là khoản lòng lợn tiết canh. Dân ta từ lâu không được ăn... Với những đặc điểm này của thị trường, tung hàng ra nhất định bọn mình sẽ trúng!
3 ông bạn ngồi nghe vẫn chỉ gật gù...
Tham mỉm cười quyết định ''tung chưởng'': Tớ mới được một lò làm giò lụa đặt mua thịt thăn để gĩa giò ngay tại bên này, không phải mang từ bên nhà sang. Họ dự kiên sẽ cung cấp giò lụa cho một nửa vùng đông Ðức. Chỉ sợ ta không đủ thịt thăn tươi cho họ thôi _ Tham ngừng lạI giọng như tiếc rẻ. Ðến thông tin này thì bàn nhậu sôi nổi hẳn lên. Thuyết phụ họa ngay: Ðúng rồi! Ðưa các sản phẩm đó ra sẽ rất kịp thời.
Mọi người đều góp thêm ý kiến tán thành với phương án của Tham...
Sau ít phút hăng say trao đổi, thảo luận, Vân chợt như bừng tỉnh, giọng hơi nhỏ cứ như anh ta sợ nói to, lộ bi mật: Thế vận chuyển, giết mổ bằng cách nào? Khâu này mà chưa giải quyết được thì đừng hòng. Nước Ðức thi hành luật chống hành hạ súc vật, an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi sinh rầt nghiêm khắc. Ôi chao nhiều ''Luật lệ'' lắm. Hễ vi phạm, bị phát hiện là ''Ăn đòn''. Sống ở đây lâu năm. Biết luật phạm luật thì ''toi''!
- Sao? Lại có cái luật quái quỷ ấy cơ à?
- Ðúng vậy! Bất kể lí do gì, nếu cậu làm con vật đau đớn, sống trong ngắc ngoải, bị bắt qủa tang - là không được! Vận chuyển lợn, bỏ trong cốp xe, bị trói, ''Kêu như lợn sắp bị chọc tiết'' - cậu nhớ chứ! Cảnh sát bắt gặp - phạt, bị ''ghi lý lịch, cộng dồn'', tái phạm là....
- Cậu cứ làm như thể đang dưới chế độ Stasi ấy - San phản bác.
- Mình không thổi phồng. Chẳng cứ Stasi. Chính thể nào cũng có ấn tượng xấu với kẻ phạm tôi, tái phạm. Mấy cha bản xứ đi tù về đã rất mệt. Có thể dư luận xã hội không qúa định kiến, nhưng các ông chủ không bao giờ tuyển dụng. Ði tù về cầm chắc không thể kiếm được việc làm tử tế. Chinh vì vậy mà người dân rất sợ đi tù - Vân tỏ ra thành thạo, nói như giảng bài.
- Khoản vận chuyển không để lợn kêu thì yên tâm đi - Thuyết trấn an các bạn - Hồi ở quê nhà, tớ đã nghe ông hàng xóm, qúa khứ làm nghề trộm chó trộm lợn - kể rằng: các Ðồ tể - Ðạo chích - bắt trộm bằng cách lẻn vào chuồng, trùm đầu lợn vào bao tải gio, lợn há mồm định kêu, gio tràn vào họng, bị sặc không thể kêu thành tiếng. Hoặc cho nhúm đỗ xanh vào tai, các chú ỉn ngứa tai, lắc... lắc đầu, đỗ lọt dần vào óc, lợn sẽ im thin thít. họ yên tâm vác đi ngay trước mũi mọi người mà chẳng ai phát hiện.
- Ở đây lấy đâu ra gio bếp?
- Không có gio sẽ dùng bột mì thay. Chỉ cần dăm kí lô là đủ. Bột mua rẻ bèo. Còn đỗ xanh thì ê hề trong các siêu thị châu Á.
Dường như để các bạn thấm lời của mình, Thuyết lại ngừng, lát sau mới tiếp - Nhưng vấn đề ''ác liệt'' nằm ở chỗ khác mà ta khó có thể khắc phục được: Thời điểm này, cảnh sát Ðức dị ứng với tất cả xe chạy trên đường do dân ''Ðầu đen'' lái. Họ cho rằng, cứ xe của người Việt trong cốp tất sẽ dấu thuốc lá lậu. Bởi vậy, hãu hết xe ta gặp CS đều bị huýt còi kiểm tra. Nếu không có thuốc là mà lại có lợn - thuộc loại hàng phải chuyên trở bằng xe chuyên dụng. ''Vận chuyển không giấy phép, không theo quy định '' - cũng sẽ rất phiền!
- Trời! Nhiêu khê qúa!
- Chưa hết: Cậu có hiểu vì sao trên nước Ðức chỉ rặt bán gà mất đầu không? Ðó là một cách cắt tiết công nghiệp. Như vậy gà chết do tiết ra nhanh vì vết cắt lớn, chư cắt tiết như bên ta thì sao đáp ứng nổi nhu cầu tiêu thụ gà hàng ngày của dân Ðưc. Mặt khác, cắt tiết theo kiểu ta, gà lâu chết, dẫy duạ trông tội nghiệp lắm. Ði mua cá tươi trong bể, vợt đưa ra khỏi nước, người bán cũng đập chết cá rồi mới cho vào túi nilon giao cho khách hàng. Tất cả súc vật đều phải làm cho chết trước khi gia công nấu nướng. Ngay như trong lò mổ, trước khi chọc tiết, người ta cũng thiết kế giây chuyền''làm lợn mê đi''. Khi con lợn tiến đến vị trí nhất định, có hai bàn tay thép nạp điện - ở hai bên vươn ra, ép vào hai mang tai, con lợn bị điện làm xỉu (nhưng chưa chêt), sau đó đến giây chuyền chọc tiết. Lúc này lợn vẫn đang xỉu nên không dẫy dụa kêu gào và khi tiết ra hết lợn sẽ chết trong lặng lẽ, tiếp đến các khu vực cạo lông, mổ, pha thịt...
- Chà... chà... Bây giờ ngay đến súc vật mà người Ðức cũng quan tâm thế ư? Chả bù cho khi xưa - Thuyết đế vào, cắt ngang. Vân tranh thủ tợp... đoạn tiếp: Cho nên, dù tiền đối với chúng ta lúc nàỳ rất cần nhưng không phải là tất cả. Không thể đạp lên luật pháp để có tiền, nếu không muốn từ bỏ mảnh đất mầu mỡ, trong khi cơ hội kiếm tiền còn rất nhiều...
- Nói cứ như cậu: Ban ngày sợ Qủy, ban đêm sợ Ma thì tôt nhất nên ở trong nhà uống rượu, xem phim Chưởng, chơi Phỏm cam chịu nghèo. Các cụ đã nói: Có chi làm quan. Có gan làm giầu . Không mạo hiễm, không có gan thì làm gì có tiền? Ai mang tiền ấn vào tay những người chỉ suốt ngày rong chơi bài bạc? Tớ hoàn toàn đồng ý với ''chuyên gia luật pháp'' - phải hết sưc chú ý. Nhất định luật nào thì cũng có khe hở, bọn mình phải chui qua đó mà đi! Các cậu có nhất trí cùng nhau hợp tác làm dịch vụ “hàng giát’’ không? - San tổng kết ?
- Tất nhiên - Tham, Thuyết đồng thanh. Vân còn ngần ngừ... San cười lớn, nâng li - Chúc cho sự thành công của ''Tờ Rớt'' chúng ta. 3 người kia làm theo. Sau vài tuần rượu nữa, hơi men đã ngấm, họ bắt đầu thảo luận phương án mua, vận chuyển và giết mổ...
Mang lợn ở trại chăn nuôi về là điều quan trọng cần giải quyết trước hết. Ðây là khâu đầu. Ðầu mà không xuôi thì đuôi không lọt. Ðể tránh sự chú ý của cảnh sát, San quyết định thuê xe và tay lái dân bản xư ''chường mặt'' trên đường. Tuy thuê gía đắt nhưng người dám làm việc này không dễ tìm. San tìm mãi... cuối cùng gặp một đối tượng đang thât nghiệp, ''khát''... tiền. Sau một hồi mặc cả, cò kè ''Bản xứ - gốc nước ngoài'' thấy thù lao cho mỗi chuyến nhiều hơn so với việc đi làm - gã ưng ý ngay.
Thế là mắt xích đầu trong ‘‘giây chuyền công nghệ‘‘ đã nối xong.
Cái khó thứ hai là đưa lên tầng 4 để ''thi công'' ngay trong căn hộ mình ở mà không để hàng xóm phát hiện. Cửa cao ốc thường có người ra vào. Vác lù lù bao tải bên trong lại cọ quậy, phát ra tiếng động... người nhìn thấy sẽ liên tưởng lung tung... rồi với ý thức cảnh giác cao, họ báo cho nhà chức trach về hiện tượng khả nghi - thê là ''đi''. Nhận ra điều cốt lõi, San phân công 2 bạn bỏ ra 2 ngày thay nhau ''phục kich''dưới cửa, theo rõi, quan sát, ghi chép, cuối cùng rut ra: Từ 7 giờ sáng, trẻ em đi học, đứa bé có bố mẹ đưa kèm. Từ 8 đến 9 giờ, người lớn đi làm, cửa chung cư lũ lượt người đi ra, 10 giờ trở đi người ra vào lác đác, không có quy luật. Như vậy giờ an toàn nhất để mang lợn vào là từ 5 giờ 30 đến 6giờ 30, thời điểm này cửa vắng tanh. Nhưng đưa lợn vào vẫn phải thật nhanh. 4 người hợp lực làm thử, bấm giờ từ nơi mua lợn đến khi ghé đít xe vào cửa, ở trên phát tín hiệu không có người. bên dưới lôi lợn ra khỏi cốp xe, vác chạy bộ lên tầng 4 (bằng nửa thời gian chờ thang máy). Chỉ mất chưa đầy 1 phút là đã đến nơi, mục đích cốt để không ai kịp nhìn thấy.
Việc thứ hai cũng ổn.
Dân Ðức có thói quen rất đáng phục: Họ không bao giờ dỏng tai, dí mũi, dán mắt vào khe cửa, vách ngăn nhà hàng xóm. Nhưng nếu ‘‘hàng xóm‘‘ có gì khả nghi hoặc làm phiền là gọi điện cho cảnh sát. Vì vậy Tham phải căn giờ để các bạn tới nơi là cửa mở ngay, bao tải lợn đưa vào, cửa đóng nhanh để cư dân ở các căn hộ bên cạnh nếu tình cờ từ trong đi ra không bắt gặp. Lợn đã vào trong nhà, đưa ngay ra WC tranh thủ chọc tiết - kẻo lợn chết, thịt mất tươi. Khi những con lợn đã được các Meister giết mổ ''ra tay'' trong vòng nửa giờ - kết hợp giữa dao thép không rỉ với cưa máy chạy ắc quy – (Ít tiếng ồn) - đã tạo thành những gói, tảng thịt y hệt mua từ cửa hàng về. Thế là khâu gia công hoàn toàn yên tâm.
Cuối cùng là xử lí rac thải! Vất ngay ở khu đổ rác của cao ốc sẽ bị xí nghiệp xử li rác khi phân loại phát hiện, báo cho sở Vệ sinh - Môi trường - lộ tẩy. Ðành phải gói vào bao nilon rồi tối chở xe mang đi nơi khác vất. Nhưng còn khâu quay thịt thì cần phải suy nghĩ kĩ hơn...
Sau khi phân tích, cân nhắc, mọi người quyết định cùng hùn vốn mua thiết bị quay thịt loại hiện đại - đặt ở nhà của Thuyết trên tầng 8. Lý do: Mùi thơm lừng khi quay, nướng thịt sẽ lan tỏa sang các nhà hàng xóm, nếu ngày nào cũng có mùi này dễ bị lộ. Ở trên cao thoáng, trang bị một máy hút công xuất lơn, mùi sẽ khuyếch tán nhanh, ít làm phiền xung quanh, do vậy sẽ đảm bảo bí mật!... Mọi vấn đề đều được dự liệu, xử ly chu đáo đến từng chi tiết.
Và rồi chuyện diễn ra đúng như kế hoạch: Chuyến đầu tiên thí điểm chỉ mua ba con trọng lượng chưa qúa 50 kí do còi cọc chậm lớn nên trại chăn nuôi bán rất rẻ. Quy trình sản xuất khép kín từ khâu đưa về đến giết mổ, tiêu thụ. Lãi thu được khá hấp dẫn. Ngoài chuyện cả 4 nhà ăn thoả thích, trừ mọi chi phí, mỗi nhà còn được chia hơn trăm bạc. Kết qủa đáng khích lệ. Dân Việt trong vùng thấy ở cửa hàng thực phẩm châu Á xuất hiện món ăn dân tộc, bà con ta đổ đến mua đông. Thịt quay - cung cấp có tăng dần nhưng mức tăng không nhiều. Khoản lòng và tiết canh thì khi bán lúc đầu cần phải dấu diếm, bán theo cách rỉ tai để tránh kiểm tra của quản lí vệ sinh thực phẩm vì sản phẩm chưa được kiểm nghiệm. Thế mà trong 3 ngày cuối tuần, có bao nhiêu cũng bán hết. Lòng của ba con lợn không đủ cung cấp. Cả ''Tờ rớt'' lại họp ''sơ kết'', bàn, vạch phương hướng, tìm cách mở rộng kinh doanh. Lại vẫn Vân đề xuất: Ta nên đến lò mổ mua lại lòng. Hàng ngày họ giết thịt hàng trăm con, chỉ cần mỗi ngày 3 can nhựa Tiết - loại 20 lít - là thừa đánh hàng trăm bát tiết canh, hàng chục kí tiết luộc. Còn lòng thì 20 con là thả cửa...
- Tất nhiên nếu đã mua được lòng thì cũng sẽ mua được thịt. Mua được từ lò mổ thì rất rẻ, gía xuất cho cơ sở sẽ hạ theo. Vấn đề làm sao tìm được nguồn? Nhất là tiết phải được hãm đúng kĩ thuật ''kiểu Ta''. Nếu họ đưa loại tiết''kiểu Tây'' có pha lẫn hóa chất để họ làm Würt (Giò), đánh tiết canh không đông, sao bán được?- Thuyết phân vân.
- Cũng không còn cách nào hay hơn. Phải hường dẫn cho thợ mổ của lò theo quy trình của mình. Tất nhiên lúc đầu có nhiêu khê... nhưng rồi cư có rượu ngon, có cái lót tay... họ sẽ quen, khó mấy cũng xong. Chuyện này để tớ - San trấn an các bạn- Nhất định sẽ giải quyết được. Trong khi chưa lo xong, các cậu hãy giữ nhịp độ cung cấp này, cứ để cho khách hàng thòm thèm ít bữa. Khi tung ra vơi giá hạ, sưc mua sẽ tăng vọt và ta sẽ thu lợi lớn. Ðiều quan trọng nhất: Nếu mua được lòng, thịt từ lò mổ sẽ giải thể việc giêt mổ tại nhà, nơi người ta câm kị. Như vậy chính là tháo gỡ được kíp nổ của quả bom mà bất cứ lúc nào cũng có thể nổ tung - San thận trọng tuyên bố. Mọi người đồng ý rồi ai vào việc nấy! San chuẩn bị tiến vào địa bàn khai thác hàng đầy tiềm năng...
Lò mổ thuộc khu liên hợp Chăn nuôi- Chế biến thực phẩm của thành phố nắm ở ngoại vi, trên một cánh đồng, xung quanh bao bọc bởi một rừng cây nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường. Dươi thời Ðông Ðức (D.D.R), nhiều bộ phận của vật giết mổ vất bỏ hoặc bán rất rẻ như cho không. Khi hai nhà nước Ðưc thống nhất, cơ sở sang tay chủ tư nhân, họ tận dụng tất cả những thứ mà trước đây bị xem thường, đem chế biến thành sản phẩm cung cấp cho người tiêu dùng. Do vậy việc giao tiếp vơi ban lãnh đạo, xin, mua rẻ rất khó khăn. Thực hiện phương châm''Chui qua kẽ hở'' San tìm hiểu qua mấy người quen làm ở đây rồi bắc câu đến viên quản đốc. Vẫn ''võ cũ''- Rượu mơi - Remi Martin (chứ không phải Vodka Nga). Mà ''Chiêu'' này, dân Việt ta ai cũng quen, thuộc lòng trong khu sử, nhất là đối với các Sêp - những người có quyền quyết định...
Ông quản đôc lò mổ nhìn thấy chai rượu, mắt sáng như sao Hôm. Ðể trả ơn, ông ta hứa sẽ cung ứng cho San theo yêu cầu. Hơn thế nữa còn cung cấp cho cả lợn vừa giết mổ, chuẩn bị ra lò. Khi nhớ đến nhóm đặt thịt làm giò, San tát nước theo mưa - ‘‘xin nhượng‘‘ 20 số thịt Thăn giết mổ trong ngày. Ông Sếp gật đầu ngay, tất nhiên với gía ưu đãi. Thế là nhà ở chỉ còn làm nhiệm vụ quay, nương, làm đầu mối giao dịch. Tất cả tập trung cho khâu tiêu thụ ở cơ sở - chợ, cửa hàng.
Công việc tiến triển tốt.
Ðột nhiên một hôm Thuyết đề nghị: Mua chó về giết thịt.''Ở đây mà có thịt chó thì...'' - Thuyết nuốt nước bọt đánh ực. tưởng như đĩa chả chó cùng cút rượu cuốc lủi đang bày ở trước mặt. Thuyết chưa kịp nói tiếp, Vân đã dẫy nẩy: Ðồ qủy! Muốn dẹp tiệm, ra toà hay sao mà nghĩ đến việc này thế? Qủa thực cậu ta có li: Dân Ðức coi con chó gần gũi với con người, đến độ nhiều người có thể ăn cùng mâm, ngủ cùng giuờng với chó. Một số các bà các cô còn xếp đàn ông sau Con và Chó. Trong suy nghĩ của đa số dân Đức - Giết, ăn thịt chó tức là ăn thịt ''Người''. Ðó là Qủy, là Ma cà rồng...
San còn đang suy nghĩ, Tham lại lên tiếng: Phải đấy! Giết lợn thì cũng như giết chó thôi, cũng mạo hiểm như nhau. Trong khi một kí thịt lợn quay bán chỉ lãi gấp 3 lần thì 1 kí thịt chó không ‘‘quay cóp‘‘ gì, lãi gấp 5. Tại sao lại sợ?
- Nhưng... giết lợn khi bị phát hiện chỉ bị truy cứu tội danh mất vệ sinh, phạt chút đỉnh. Còn nếu giêt chó thì khác...
- Có cách rồi- Tham lại gỡ bí cho cả hội. Tay này cứ tưởng chỉ ham Ăn, Uống. Có đánh chén là quên hết. Nhưng thực ra hắn vừa ăn vừa nghĩ và nghĩ được nhiều. Nhất là khi có hơi men, Thuyết nói càng hăng. Tiếng đồn vang xa... dân cư trong khu vực đã tặng cho gã biệt danh: ''Tham (ăn) - Tán (róc)''. Lần này khi nghe gã nói vậy, cả bàn nhậu chăm chú theo rõi:
- Dân Ðưc cũng giết Cừu, Dê. Họ theo khuôn: Chặt đầu, chặt chân, lột da. Ta thì cạo lông rồi Thui! Khi con chó, con Dê đều cụt đầu, cụt chân, thui vàng, các vị kiểm tra liên ngành chẳng may bắt gặp, làm sao phân biệt được con nào là con nào?
- Ừ phải! Dê, bên này rất nhiều. Giết Dê còn thu lợi ở khoản khác: Ngoài món tái, lẩu, tiết - vốn từ lâu chỉ còn đọng lại trong tiếm thưc của các khách thợ sành ăn khi còn ở bên nhà. Nhưng hơn chục năm sang đây, đâu còn được ăn. Bây giờ sẽ ê hề, qúan Mùi sẽ lần lượt mọc lên giống như ở phố Trần Quốc Toản của đât ngàn năm văn vật. Nhất là Dái và Tiết Dê - niềm ước mơ của các qúy ông - những vị rất ''hăng'' làm vui qúy bà nhưng khả năng đáp ứng rất kém nên phải nhờ bộ phận cơ bản của con vật có tiếng về khoản này trợ giúp. Của qúy đó sẽ không còn hiếm. Giấc mơ của qúy vị ấy từ lâu vẫn chỉ là ước mơ - giờ sẽ thành sự thật. Ha... ha... Chúng mình sẽ làm các loại thượng đế mắu ‘‘Dờ... ê...‘‘, có nhu cầu ‘‘chuyên dụng‘‘ - sẽ sướng âm ỉ... rên hừ hừ... rồi rú lên – Tham vừa nói vừa làm điệu bộ minh hoạ rồi ngoác miệng cười vang.
- Thế làm sao để thui, lấy đâu ra rơm? Chó mà không thui vàng sẽ không ra thịt chó - Thuyết dập tắt tràng cười của Tham.
- Cả khu này đều nấu bằng Gas. Thui bằng Gas kết hợp đèn Khò. Tuy thit không thơm bằng thui rơm, đành chịu - Tham tỉnh khô.
Ðến luc này thì ''một vốn 4... 5 lời'' đã xua tan e ngại của mọi người. Vân phản đối kịch liệt lúc đầu - giờ cũng phải gật gù vui vẻ tham gia để chuẩn bị thay đổi ''giây chuyền công nghệ''. Tất nhiên lại phải điều chỉnh chút ít việc giết mổ, quay nướng... để chiều thiên hạ. Dự kiến được thực hiện ngay. Các hàng xóm khó tính qủa nhiên không phiền lòng và mọi chuyện ổn thỏa cả...
Sau 2 ngày tung ra thị trường, chất lượng vẫn như cũ nhưng gía hạ hơn trước, bà con kháo nhau đến mua, ăn, khen ngon. Tiếng lành đồn xa, một số chủ nhỏ ở mấy tỉnh lân cận tìm đến đặt quan hệ mua về giới thiệu sản phẩm mới cho đồng hương trong vùng từ lâu nay thèm khát món ''Dân tộc''. ''Tơ rớt'' của San lại bắt tay mở rộng thị trường tiêu thụ. Có đầu ra thì phải chộp lấy làm thỏa mãn tối đa nhu cần của ‘‘Thượng đế‘‘. Ðây là xương sống của''Kinh tế thị trừơng'' nên cả 4 người hăng hái lao theo...
Một hôm San đên cơ sở đại lý thăm thú tình hinh. Chủ nhà hàng ăn uống là một phụ nữ tuổi trạc tứ tuần. đon đả mời chào, chèo kéo . Sau khi thết đãi đối tác những món ngon, đắt tiền nhất, bà chủ mới yêu cầu San cung cấp số lượng lòng gấp 2. Như chợt nhơ ra, chị kia nhấn mạnh: Anh nên cung câp cả Dạ con, Cổ hũ. Những thứ này ngon nhất trong cỗ lòng. Sao từ trước đến giờ tôi không thấy? Chợt trong đầu nẩy ra ý nghĩ, San hỏi: Nếu có, chị nhập gía bao nhiêu?
- Cứ tinh 1,2 lần so với gía Lòng, có bao nhiêu tôi lấy tất!.
- Ðây là bộ phận của con lợn mà hình như người Ðưc dùng để ''chế biến thuốc''- (San buột mồm nói đại) - nên không bán trên thị trường. Nêu muốn mua, gía hơi đắt, chị có chịu được không?
- Thôi, gấp 1,5 lần đi. Anh cũng phải để cho tôi kiếm tí chút chứ- chi kia nài nỉ. Tuy chưa biết sẽ moi ở đâu và moi bằng cách nào, nhưng ông lái vẫn làm cao và hứa sẽ ''chiếu cố'' cho bà chị khi có hàng.
Sau cuộc trao đõi ra về, San suy tính nao nung. Từ lúc đó trong đầu cư lởn vởn trăn trở cách tìm ''Chuy ô'' Dạ con - Cổ hũ. Kể cả khi lên giường đi ngủ - tiêng của chủ nhà hàng kia vẫn văng vẳng bên tai... Ðúng thế! Trước đây ở bên nhà Dạ con lợn - rất hiếm. Bởi hầu hêt lợn ở quê, ở những trại chăn nuôi - sinh ra đã bị hoạn trừ trường hợp cần lợn Nái để lấy giống, nhân giống. Mà lợn Nái thì ai giết ngoại trừ bị bệnh, gìa.
Lợn đực: Hoạn - để hết khả năng sinh dục - tập trung cho vỗ béo.
Lợn cái: Hoạn - để hết khả năng động dục,, không sinh đẻ - cũng dồn cả cho tăng trọng. Ðã có thời các ông Hoạn lợn thủ trong túi con dao chích, tòong teng trên vai chiếc gậy tre có buộc đoạn thừng thòng lọng, đi rông quanh làng, rao to - ''Hoạn lợn, thiến chó, thiến gà... đ...ơ...ơ...i... (đây)''. Vì kinh tê của nưóc ta khi đó còn qúa nghèo, mức sống còn thấp. ''Hoạn'' nhằm thu lợi từ những con vật đã thành truyền thống... Bây giờ thời thế đã đổi thay, những nơi chăn nuôi lớn hoạn bằng phương pháp khoa học, các ông thợ Hoạn hết thời, làng quê hoàn toàn không còn chỗ để có cơ hội cho cac ông đi rông, mời gọi. Thay vào đó là các thú Y sĩ, với các dụng cụ tiên tiến được đào tạo thành thạo nghiệp vụ - đảm nhiệm. Chính vì thê nên mới khan hiếm món khoái khẩu vào bậc nhất này.
Bên Ðức thì khác. Do môi trường chăn nuôi, phong tục tập qúan của xã hội, khẩu vị của dân... từ trước tới nay làm gì có chuyện triệt sản. Có đìều hơi lạ: Hàng ngày lò mổ giết hàng trăm lợn, lẽ ra phải sẵn Dạ con chứ? Thế nhưng tuyệt nhiên không thấy bán - Vậy nó đi đâu? San thắc mắc, tức tốc tìm gặp tay thợ cả ở lò mổ. Hõi ra, mới biết: Trươc đây, khi mổ xong, dạ con bị loại, dùng làm phân vì nó mau phân hủy. thối rửa. Bây giờ, nó cùng với cuống họng được giao cả cho cơ sở chế biến thức ăn gia súc. San đi thẳng vào gặp người phụ trách theo lời chỉ dẫn của ''tay trong''. Sếp ‘‘giết mổ‘‘ chăm chú nghe... Cuối cùng San chơi bài ngửa : Tôi muốn mua dạ con, cuống họng với khối lượng nhiều, thứ này ở đây có không? Gía cả thế nào?
- Có! Ðược chứ! Rất rẻ.
- Nếu ông giúp tôi mỗi ngày mua được mỗi thứ từ vài ba chục kí trở lên sẽ có hậu tạ. Ông xưởng trưởng đã nghe các đồng nghiệp kháo nhau về cách làm ăn ''Thông thoáng - Thoải mái'' của người Việt nên vui vẻ nhận lời. Vài ngày sau San nhận được điện của lò mổ mời đến nhận món hàng mà mây hôm trước còn nằm trong suy nghĩ.
Trên nguyên tắc: Dạ con, cuống họng không được sở vệ sinh coi là sản phẩm cung cấp cho thị trường tiêu dùng. Vả lại, các sắc tộc hiện diện trên nước Ðức cũng không ai biết thưởng thức hai món ăn ngon thuộc loại''số dách'' ngoài người Việt. Cho nên việc mua, nhượng không khó khăn. Tuy nhiên vận chuyển trên đường rất phiền toái vì nó bị liệt vào nhóm hàng hóa dễ, mau phân hủy, phải có buồng lạnh, trong khi tủ ướp lạnh trên xe lại không trang bị vì rất tốn tiền. Mua về luộc rồi đưa giao cho các đại lí thì được phép. Khốn nỗi dân ta không thich sản phẩm đã luộc, mà chỉ ưa còn tươi, đem về tự làm theo sở thích. Không thỏa mãn nhu cầu này, gía bán kém hẳn. Tuy khá nan giải nhưng vì lợi nhuận hấp dẫn, 4 ông Lái đành cúi đầu, bịt tai quyết tâm - liều!
Cũng may, việc ''Liều'' tạm thời trôi chảy.
Họ tưởng vận may đang đến vì mấy tháng hành nghề mà vẫn an tòan, chẳng sao. Cả ''hội'' dự định làm thêm it bữa nữa rồi thu hẹp đi đến giải nghệ trước lễ Noel. Ai cũng đã có kế hoạch cho mùa động tới. Tuy hiện tại thất nghiệp nhưng thời gian qua, mỗi người cũng đã ki cóp được chút vôn, cộng với dự trữ cũ, cũng tạm đủ để mở quán ăn nhanh, quầy hoa tươi hoặc quầy rau qủa. Còn bây giờ mỗi ngày nhóm mua vào, bán ra mấy tạ, Lòng,Tiết, thịt lợn tươi, dăm ba chục kí thịt chó, thịt dê, trừ mọi chi phí, lãi thường gấp đôi, thậm chí gấp ba - Phải tranh thủ - ''múc''!
Kinh tế của nhóm khá dần lên!
Nhưng có ai học được chữ ngờ! Lại vẫn từ chuyện tham! Tham ở đây là tham lam chứ không phải chuyện của gã ''Tham - Tán''. Nguyên do: Sau khi khai thông mạch hàng mua của lò mổ, các nơi đòi nhà cung cấp tăng khôi lượng. Ðó là việc vô cùng thuận lợi. Thế là nhóm thống nhất rút ra 2 người mang hàng đi giao trực tiếp cho các cơ sở đại lý. Người nào cũng có việc của người ấy. Thuyết ở trên cao chót với đám thịt chó thịt dê đảm bảo đủ cho khách quen hàng ngày. Vân ỡ dưới cùng, phải giữ vững quan hệ giao dịch thường xuyên với khách hàng, tiếp sức cho San, Tham. Hai đầu cầu quan trọng không thể rút đi. Tham và San ở giữa, không còn nhiệm vụ giết mổ tại nhà, đưa hàng đi giao là phù hợp. Một thoáng suy nghĩ, ngần ngừ... San gợi ý để Vân đi thay mình với thù lao tăng hơn ở nhà giữ''Gôn''! Vân đưa lí do ''chính đáng'' - thoái thác!
Ðang cuối mùa thu. Năm nay thời tiết nước Ðức thất thường. Mãi cuôi tháng 10 mà vẫn nóng. Ðột ngột sang tháng 11, mấy ngày giữa tháng nắng to, nóng vã mồ hôi. Dường như thời tiết cố nắng lần cuối để chuyển sang ấm rét…
Hôm nay chinh là ngày nóng nhất. Khí tượng thông báo trên truyền hình vào lúc 12 giờ trưa, nhiệt độ ngoài trời lên tới 36 đô C. San và Tham chất lên xe Mini Bus số Lòng, Tiết cung câp đủ theo yêu cầu của các hộ tiêu thụ. Cả hai ý thức được, dưới cái nắng, nóng này, cần phải giao hàng càng nhanh càng tốt.
Chữ Ngờ đã ập tới: Trươc đó vài giờ, trong bệnh viện thành phố nhận một ca cấp cưu: Cả một gia đình Việt Nam, 4 người bị ngộ độc, một đứa bé đã bị chêt. Ở Ðưc, việc ngộ độc được ngành y tế và cả xã hội quan tâm. Người ta phát hiện nguyên nhân ngộ độc là do ăn phải lòng lợn bị thiu. Người bố của hai đứa trẻ 5, 10 tuổi cùng cô vợ - nghe các đồng hương kháo nhau có món lòng lợn tiết canh, bèn mua về ''xì xụp''... Thấy lâu không được ăn nên cả nhà ăn qúa nhiều. Tai hại là số lòng tiết này không được bảo quản cẩn thận, bày bán dưới cái nóng hun đôt trong 2 ngày - chúng đã ôi thiu, chủ cửa hàng tham tiền, tiếc rẻ vẫn bày bán. Gia đình kia mua phải, về ăn và hậu qủa đã xẩy ra. Cũng may phát hiện sớm và đã cứu được 3 người.
Qua khai báo của nạn nhân, cơ quan chức trách đã tới nơi xuất sứ của ổ bệnh kiểm tra, bắt qủa tang số hàng gây bệnh… họ niêm phong cửa hàng, bắt giam chủ, lập hồ sơ chuẩn bị đưa ra tòa xử ly. Cùng với việc làm này, họ tổng kiểm tra tất cả các cửa hàng buôn bán thực phẩm của người Việt trong siêu thị. Một lệnh ’’Nôi bất xuất, Ngoại bất nhập’’ - được chính quyền ban ra...
San và Tham không hề biết tình hình nên vẫn cho xe tăng tốc nhằm tới nơi giao hàng sơm. Hai bạn Vân, Thuyết đang ở nhà nên cũng không biết mà gọi điện thông báo, các cơ sở đại lý rối lên vì đang bị kiểm tra, không ai nhớ gọi điện để hai người đừng mang hàng đến. Biêt chuyện thì đã muộn, xe hàng bị bắt giữ. Khi người ta mở cửa hậu của chiếc xe, mùi xú khí từ những thùng đựng lòng non, dạ dầy, dạ con - (chỉ mới sơ chế) gặp nhiệt độ ngoài trời cao, thùng xe kin tạo ra môi trường hấp, hun nóng - nên bôc mùi: Thối, chua, cộng với hóa chất chông thối rữa - khiên nồng nặc khó ngửi... Luật hình sự của Ðưc: Ðương sự phạm tội lập tức bị dẫn về khám nhà mà không cần lệnh khám của viện Công tố..
Nhà – nơi 4 ông lái sống - cao 8 tầng, 4 đơn nguyên, mỗi tầng 4 căn hộ. 4 hộ người Việt ở cùng một đơn nguyên - cửa vào. Người ta quyết định kiểm tra cả 4. Vân - có lẽ luôn luôn bị ám ảnh chuyện phạm luật nên ''chuyên gia pháp luật ''mặc dù cũng tàng trữ, gia công hàng nhưng sau khi đưa ra khỏi nhà - đã ngụy tạo hiện trường nhằm phi tang, làm vệ sinh nhà sạch, xịt nước thơm, thắp hương xạ... các nhân viên kiểm tra đến không phát hiện được gì đáng nghi.
Nhà của San, Tham cũng không có gì có thể làm vật chứng phạm tôi, duy chỉ lúc bươc qua cửa vào nhà, các nhân viên Kiểm tra liên ngành vì giữ phép lịch sự chỉ khịt khịt mũi (chứ không bịt mũi) vì trong căn hộ sặc mùi tanh tưởi, khăn khẳn mùi mắm tôm chưng...
Nhà Thuyết thì khác: Trong bếp vẫn còn 1 con chó, 1 con dê cở trên dưới hai chục kí - vừa thui, hãy còn nóng hổi. Nhân viên liên ngành thấy vậy hỏi chủ nhà: Ðây là con gì?
- Dê - Thuyết trả lời tỉnh bơ. Qủa thật họ không thể hỏi thêm mà cắm cúi ghi vào biên bản. Chỉ còn hai khúc thịt của con vật 4 chân da, vàng rượm - thì có gì để hỏi, để nghi ngờ, ngoài chuyện chủ nhân để căn hộ hôi hám vì mùi khet do lông bị đôt cháy, mùi tanh của mắu ở đâu đó... chưa kịp làm sạch.
- ''Cùng lắm là bị phạt cảnh cáo vì làm mất vệ sinh'' - Thuyết chặc lưỡi tự an ủi .
Ðột nhiên có tiếng rú từ trong buồng WC.
Hai nhân viên hối hả lao ra. Một nhân viên khác từ trong Toilet vừa lùi, vừa chỉ chiếc túi nilon - nói không ra hơi - Chó... đầu chó - Ðoạn anh ta dôc túi ra sàn: Chiếc đầu của con Berger cùng đầu của con Dê (đã cưa sừng) - to gần bằng nhau - lăn ra. Mõm chó, mõm dê bị chiếc khung dây nhôm buộc chặt nhưng hàm răng cắn chặt nhe ra trắng ởn... Hai cặp mắt của những chiếc đầu không nhăm mà mở trừng trừng...
Thuyết gặp vận đen: Vì phải đến tối mới đưa được rác đi vất nên chiếc đầu của hai con vật đã làm hại anh ta! Thuyết lập tức bị xích tay dẫn đi. Tất cả đồ dùng liên quan đến giết, mổ và các tang vật đều bị thu hết, đóng gói mang theo...
Khi xuống dười cửa, ra đến chiếc xe thùng chuyên dụng của cành sát - đã thấy San, Tham, bị khóa tay - ngồi sẵn ở khu ghế cấu trúc đặc biệt dành cho phạm nhân. Hai bên có 2 cảnh sát mặt đằng đằng sát khí, súng lăm lăm trên tay…
3 người ngao ngán im lặng nhìn nhau. Ðiều mà họ thường xuyên nghĩ tới... đêm ngày canh cánh bên lòng - đã đến!
Ðến nhanh hơn họ tưởng!
Hũ mắm... rươi
''Miếng ăn quá khẩu thành tàn''
Ngạn ngữ
Có thể nói, dân Việt sống ở Ðức rất thích tụ tập mỗi khi có dịp. Bởi vì cứ tụ tập là có Phỏm, sát phạt, đánh chén. Hễ đánh chén ắt có bia, rượu. Khi có tí hơi men, y như rằng cuộc vui trở thành ồn ào... ồn ào, thậm chí gây gổ và cuối cùng thỉnh thoảng cũng : Choang !...
Cảnh ồn ào như vậy trước đây thường xẩy ra. Sau khi nước Ðức thống nhất, thói quen đó vẫn tồn tại. Một lần ồn ào chưa sao. Lần thứ hai, ông hàng xóm đập vách ngăn thình thình để nhắc nhủ : Trật tự !
Lần thử 3, sự ồn ào tới hồi gay cấn thì... những ông bà hàng xóm ở trên đầu, dưới chân, bên phải, bên trái, sau lưng của căn hộ nằm trong cao ốc 18 tầng, hình như... đồng loạt, lặng lẽ nhấc điện thoại. 5 phút sau một xe cảnh sát tới. Có tiếng chuông reo liên hồi... chủ nhân lật đật ra mở. Một tốp cảnh sát 3 người chào rất lịch sự. Xưng hô rất kính trọng, đòi kiểm tra giấy tùy thân của từng người, ghi nội dung đến kiểm tra, bắt chủ nhân căn hộ ký xác nhận, nhẹ nhàng yêu cầu mọi người trật tự rồi... bỏ đi.
Thế thôi !
Tưởng đã yên chuyện, trật tự được lập lại... rồi ai về nhà nấy.
Mấy ngày sau vợ chồng chủ nhân căn hộ kia nhân được giấy báo phạt ''làm mất trự tự công cộng sau 22 giờ...''. Chủ nhân Ông bị chủ nhân Bà đay nghiến... cả hai méo mặt rút hầu bao, cạch, không dám tái phạm.
Tin sốt dẻo lan truyền, bà con ta rút kinh nghiệm, nhờ vậy bệnh ồn ào kinh niên, mãn tính ở những nơi cần yên tĩnh để không làm phiền người khác - dần khắc phục. Nếu có ai đó mới đến Ðức, chưa quen, đi trên đường, trên tầu xe, vô ý nói to, cười hô hố cứ như ở nhà mình, trong khi chưa nhận ra những cặp mắt của người xung quanh đang đổ dồn nhìn mình chằm chằm ngầm phản đối, thì... một đồng hương của họ - đã trải qua cảnh này - lặng lẽ tiến lại khẽ nhắc : Nói nhỏ đi. Dân Ðức không thích ồn ào nơi công cộng.
Không được ồn ào lớn thì ta ồn ào nhỏ - mọi người ngầm bảo nhau.
Thế là quay ra ''đánh du kích''. Tôi đã nói bản chất của dân Việt ta rất thích quần tụ với nhau ít nhất, sự quần tụ hình thức là vì thế. Chuyện thay đổi tính nết hơi khó. Người Tàu đã nói : ''Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dờ i''. Bới vậy để khắc phục ồn ào, chúng tôi đành chọn lọc đối tượng để tụ tập. Những kẻ nát rượu, những người có mắu hoàng bào không bao giờ được mời. Các cuộc vui ăn nhậu, sinh nhật, lễ lạt... chỉ diễn ra trong phòng khách độ 4 đến 5 gia đình gồm vợ chồng con cái chừng trên chục người thường vào 2 ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ hai đi làm. Chủ nhật sau đến lượt gia đình khác luân phiên.
Chủ nhật này gia đình Thành tổ chức liên hoan vừa đến lượt, vừa ăn mừng chuyến đi phép vừa sang. Trong điện thoại gọi cho tôi, Thành nhấn mạnh : Phải đến đúng giờ quy định. Các cậu sẽ được ăn món ăn đặc biệt mang từ quê nhà do tớ đích thân làm.
''Món gì mà gọi đặc biệt'' ? Tôi thầm hỏi rồi tự sự : Ở xứ này, chỉ bán một chiếc xe ô tô người ta đã có thể mua sản phẩm trong một vụ của một trang trại trồng Cam... của ngon vật lạ của thế giới thứ gì chẳng có. Vẽ chuyện thêu dệt. Tuy nghĩ thế, hai vợ chồng cùng đứa con gái 10 tuổi vẫn hăng hái chuẩn bị, tham gia. Ðúng giờ, tất cả 4 gia đình được mời, đều lần lượt gõ cửa căn hộ vợ chồng Thành ở. Chủ nhà vui mừng đón khách. Các bà khách ào xuống bếp gíup nữ chủ nhân hoàn thành nốt những món đang dở... Chỉ vài chục phút sau, hai mâm cỗ thịnh soạn đã được dọn ra : Thịt chó Nhật Tân, tái dê Nguyễn Gia Thiều, gìo lụa, chả quế chợ Hoè Nhai. Một đĩa chả trông như chả trứng đúc thịt nạc, bên cạnh 1 bát trông như chè khoai lang, sền sệt mầu vàng như trứng bác, mùi vỏ quýt thơm lừng. Bên cạnh bầy điã thịt ba chỉ luộc và điã sà lách, đầy rau thơm. Tất cả các món rán, nướng, xào đều nóng sốt bốc hơi. Ðể bữa ăn không bị gián đoạn mất hứng, Thành mang chiếc bếp điện đặt cạnh bàn ăn, trên bếp nồi nước xáo măng hỗn hợp sườn lợn với chú vịt vừa làm lông, tươi rói - đang sôi sùng sục. Ai thích ăn bún vịt sáo măng Việt Nam (chứ không phải măng Thái Lan) - thì tự phục vụ...
Bàn ăn chia làm hai mâm đặt trên những tờ giấy báo, dưới sàn thảm, Các bà mẹ với lũ trẻ ngồi một mâm. Còn mâm kia là 5 người đàn ông - 5 con sâu rượu - Hai chai Sâm banh được mở trước tiên mời cả các bà, lát sau cánh đàn ông mới mở chai X.O. do chính chủ nhân Thành trang trọng rót vào từng ly cho các bạn. Cuộc đưa cay có ồn ào chút ìt nhưng không ai nói quá to nên không khí bữa tiệc đậm đà, ấm áp. Một anh bạn, dân quê vùng núi Hòa Bình chỉ vào đĩa ''chả trứng, bát chè khoai lang'', hỏi : Ðây là món gì, lần đầu tiên tớ thấy, chủ nhân giới thiệu xem nào.
- Chính là đặc sản của quê tớ. Cũng là đặc sản của Việt Nam, vùng châu thổ sông Hồng : Chả Rươi. Mắm Rươi - Thành đưa tay lần lượt chỉ vào điã và bát - cao giọng.
Như để cho các bạn chú ý, ngừng một chút, Thành mới tiếp : Chả này nguyên liệu chính là con Rươi. Có thêm trứng gà nhà - Phải là gà nhà chứ không phải gà công nghiệp hay trứng vịt - trộn với hành hoa, vỏ quýt, nước mắm. Không được cho mì chính để mất hương vị ngọt đậm của con Rươi.
- Cậu tài thật, làm sao mà đưa được những thứ này sang ? Không bị Hải quan ngăn cản à ?
- Tớ cũng gặp may khi xuống máy bay không bị kiểm tra gắt gao. Điều quan trọng: Trừ chai mằm Rươi, tất cả phải làm chín. Tiếc là không mang được đồ tươi sang. Tuy vậy, mới không quá 17 giờ bay, về đến nơi bọn mình đưa ngay vào tủ bảo quản, sáng nay đưa ra để xả lạnh... lúc nẫy đem chưng, nướng lại. Tuy đã mất đi chút ít hương vị nhưng cũng không nhiều, vẫn còn ngon lắm. Nào, mời các bạn, các chắu ăn thử.
Món ăn đặc biệt quy hiếm, lạ miệng nên chỉ một loáng đĩa chả Rươi, bát mắm Rươi chưng, đĩa thịt ba chỉ luộc đã hết sạch. Ai cũng thấy thòm thèm. Thành thanh minh : Hơi ít, các bạn thông cảm, không thể tải thêm được. Mà này, trước đây đã ai được ăn Rươi chưa, hay đây là lần đầu ? Còn cậu, dân Nam Ðịnh, bên ấy có Rươi không ? Cũng gần cửa biển mà ? Thành quay sang hỏi Ban.
- Rươi quê tớ có nhiều. Không những được ăn tươi, ăn nhiều, còn trực tiếp đi bắt vê làm mắm. Các cậu vừa chấm thịt ba chỉ với mắm Rươi chưng, có vỏ quýt, ăn kèm sà lách đó....
- Quả thật ngon miệng. Mình ở Phú Thọ chả bao giờ nhìn thấy con Rươi.
- Anh bảo, đã từng đi bắt Rươi về làm chả, làm mắm à ? Bắt như thế nào, con Rươi hình thù ra sao ? - Cô vợ của một ''sâu rượu'', ngồi cạnh chồng đưa đẩy.
- Tôi chẳng những được ăn còn đi bắt rươi. Thê thảm hơn nữa, mới đây còn bị Rươi cho một vố... nặng. Ban mỉm cười, cầm ly rượu dốc ngược, đặt mặnh xuồng bàn, khà, gắp một miếng dồi chó nhai. Mọi người thấy câu chuyện của Ban có ‘’mùi gay cấn’’ - cũng bắt đầu chú ý, làm theo. Một anh bạn trẻ có vẻ thờ ơ dục chiếu lệ : Thế à, kể xem nào...
Hơi men của gần 1/5 chai XO được các bạn chia cho đã ngấm, được người nghe chú ý khích lệ, Ban bắt đầu thấy hăng lên : Quê mình ở Giao Thủy, Nam Ðịnh, gần cửa biển. Mỗi khi thuỷ triều lên, nước biển tràn vào, dồn nước sông ngược lên thượng nguồn, dềnh ngập bãi sông, ngập những khu ruộng trũng. Hai giòng nước mặn - ngọt hoà trộn, tạo ra khu vực cửa sông đổ ra biển vùng nước, gọi là nước Lợ, hay nước Ngang. Cá, tôm, cua, cáy, rươi... ở khu vực này sinh sôi phát triển. Riêng nước tháng 7, vào trung tuần, khi tiết trời mưa Ngâu lất phất, con Rươi bị khí hậu kích thích, từ lòng đất chui ra, bơi tung tăng trên mặt nước. Trẻ con, người lớn làm những chiếc vợt bằng vải màn, hớt từng con đổ vào giỏ. Rươi trông như con rết, mầu hồng, vàng thẫm hoặc đỏ nâu. Thân mềm, dễ vỡ nát. Trong 3 ngày giữa tháng 7 rươi lên nhiều nhất. Người vớt rươi thu hoạch cũng nhiều hơn so vơi những ngày khác trong tuần nước rươi (từ 12 đến 20/7 âm lịch). Lúc đưa về, rươi còn tươi, làm chả nướng, rán ăn tuyệt ngon. Số khác vớt đã lãu, được đem rửa sạch, ướp muối làm Mắm Rươi. Hai món ngon truyền thống làm bằng rươi được hai bạn Thành mang sang, chúng ta vừa thưởng thức đó.
- Nhưng mắm rươi sao lại có mùi thơm đặc biệt thế nhỉ. Thông thường tôm, cá, cua , cắy... làm mắm vì lượng đạm cao - có mùi khác kia - một cô phát hiện.
- Cô thật tinh. Ðúng. Mắm rươi làm xong phải để một thời gian cho ngấu, rồi cho thêm vỏ quýt, bột thính rang. Chỉ riêng việc rang gạo cũng đã là một khâu quan trọng làm mắm Rươi dậy mùi hay mất mùi. Gạo phải là Dự hoặc Tám thơm. Trước khi rang phải ngâm nước, để ráo. Khi rang phải nhỏ lửa, dùng 2 đôi đũa kẹp song song trong lòng bàn tay, quấy liên tục cho đến khi ngửi thấy mùi thơm, mầu gạo ngả vàng, đổ ra tờ báo, gói lại, ủ trong chăn chừng 30 phút mới đưa ra, để nguội và xay. Phải xay nhiều lần, rây bằng rây bột trẻ em sau đó để nguội hẳn mới đổ vào hũ mắm, bịt kín, hạ thổ hoặc để vào chỗ mát. Khi chưng mắm để chấm thịt luộc, lại phải phi hành mỡ thật thơm, cho thêm vỏ quýt , chưng lửa nhỏ, chín kỹ, vừa ăn... mới thơm ngon, không mất chất, mất mùi. Ban tỏ ra, diệu nghệ sành sỏi trong nghệ thuật ẩm thực thể hiện trong cách tường thuật, giải thích...
Hai bàn tiệc cứ vừa ăn uống, vừa nghe, bàn tán về món ăn có một không hai nơi xứ lạ quê người. Chai XO thứ nhất hết, Thành mở chai thứ hai. Các cô uống Vang Pháp. Rượu vào lời ra. Nhân bàn chuyện ăn, 5 ông chủ quê ở 5 tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ thi nhau kể các món ngon của quê mình để giới thiệu với bạn... Tuy vậy, không vị nào đüa ra được các món ăn ngon hơn, sang hơn chủ nhân bữa tiêc ngưòi Hà Nội. Ngay trong bàn tiệc có tới 4 món : Tái Dê và thit Chó, giò Lụa, chả Quế, không nơi nào làm ngon hơn sản phảm của Hà Nội. Chủ đề của cuộc mạn đàm lại xoay sang chuyện món ăn, nấu ăn.
Ban không tham gia thảo luận mà lặng lẽ uống. Anh ta chỉ gắp món ''Nhựa Mận''. Một mẹ Hĩm ngồi đối diện thấy vậy gợi chuyện : Theo anh Ban, thịt cầy có 7 món, anh thích nhất món nào ?
- Nhựa mận !
- Không phải là Dồi ư ? ''Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó; Chết xuống âm phủ liệu có hay không ?''- các cụ ta nói thế cơ mà ?
- Mỗi người có cách thưởng thức theo khẩu vị của mình. Tớ cho rằng, món Nhựa mân là tuyệt vời nhất. Phải nói Tuyệt vời và Nhất mới đã. Bởi vì không có thịt của con vật nào sau khi đem bóp riềng, mẻ, mắm tôm đun lên, lại có thứ mùi vị đặc biệt như thịt chó. Củ Riềng vị cay, thơm. Mắm Tôm nhiều đạm, ngọt - thứ gia vị này đối với thịt chó nhất thiết không được thiếu. Không bóp mắm tôo, không còn ra mùi vị thịt chó (1). Mẻ - gạo cơm cho lên men tạo ra vị chua, ngọt, cộng vơi bát tiết chó bóp lẫn, tất cả 4 chất ngấm vào miếng thịt vốn dĩ đã rất nhiều chất đạm đem nướng chả hay nấu nhực mận là tạo ra 2 trong số 7 món trứ danh. Riêng nhực mận, phải đun nhỏ lửa, vùi trong tro than hồng. Ở bên ta - miền quê - món nhựa mận phải đun trong nồi đất, vùi than vỏ trấu. Lúc bắt ra mùi vị mới thật đượm. Lãy bát bún, xúc trong nồi, có thứ nước trông sền sệt như nhực cây mận nên gọi là món Nhựa Mận ! Khi lấy vắt búng, chan thịt lẫn nước xúc đưa lên miệng... chao ơi thơm, ngậy... rồi khi lùa vào mồm... chậc - Ban nuốt nước bọt đánh ực...
Ngừng một chút tuồng như nghẹn... lát sau anh mới tiếp : Ở đây không có mẻ nguyên chất gạo, thịt đã bị luộc qua để mang lên máy bay, vùi bằng bếp hầm Gaz nên hương vị của Nhựa Mận có kém đi - chợt nhớ ra... Ban liếc nhìn chủ nhà, ngừng rồi chậm chạp tiếp - Tuy kém hơn nhưng cũng... khá !
- Thì cậu cứ nói thẳng ra là chưa đạt yêu cầu đi. Còn vẽ chuyện, nhiêu khê...
- Tớ không nói vậy. Ðây là lời cậu nói đãy nhé - Ban ngoác miệng cười. Cả bàn tiệc vui vẻ cười theo. Bữa ăn cứ tiếp diễn trong ồn ào. Bỗng một ''con sâu'' - hai mắt đã có vằn đỏ - nhìn Ban, lè nhè :
- Lúc nẫy cậu nói Rươi đã cho một vố, chuyện gì vậy ?
Ban ngẩng nhìn người vừa hỏi, quay nhìn lên trần nhà im lặng, ngẫm nghĩ. Cô Cúc - vợ anh - nhìn chồng, nhìn người vừa gợi chuyện bằng ánh mắt ngạc nhiên... Ban lia mắt sang phía vợ, nhìn vợ chăm chăm đoạn chậm rãi cất giọng : Ðúng, nói chính xác - Hũ Mắm Rươi đã cho tớ một vố nhớ đời. Câu chuyện xẩy ra hồi mùa thu năm kia. Bọn tớ về phép thăm nhà vào cuối mùa hè. Một hôm, Mẹ tớ ra chợ mang về chiếc rá vo gạo loại to, trên đậy lá khoai ngứa. Nhớ lại lúc bé, tớ chạy đến đở chiếc rá cho bà, đặt xuống bàn. (Cứ như cảnh 30 năm trước đón mẹ về chợ). Bà nhắc : Nhẹ tay con ạ. Vợ tớ tò mò nhấc lá khoai ra... eo ôi... - Cô ta tròn mắt thốt lên, quay ngoắt tỏ vẻ kinh tởm : Trong rá một khối những con vật trông như con rết, đan xoắn lấy nhau lầy nhầy. Có con còn nguyên hai hàng chân hai bên hông, con vỡ, nát thành đám bột vàng nhạt... Mẹ trấn an : Con không nhớ con vật này à ? Rươi đó. Lúc bé con rất thích ăn chả Rươi, mắm Rươi kia mà.
Mẹ nhắc, trong ký ức lờ mờ... tôi dần nhớ ra... vội giải thích cho vợ : Rươi sống trong lòng đất. Chỉ bơi ra trong kỳ rằm tháng bẩy rồi gửi xác cho cá cua hoặc lại trở về tan ra với bùn đất. Ðể anh giup mẹ làm món chả rươi cho em ăn, đảm bảo ăn rồi em sẽ nghiện ngay.
Tôi theo hướng dẫn của mẹ, đem rá kia ra ao, đặt chìm trong nước, khẽ dùng tay khuấy thật nhe nhiều vòng, nhặt những cọng que, rơm vất đi. Khi thấy đã sạch, nhấc rá, đưa về để ráo nước, san ra làm hai. Nửa làm mắm để nguyên, rắc muối, xóc đều trên dưới cho ngấm muối rồi đổ vào vại, bịt hai lớp vải màn tránh ruồi nhặng đẻ vào dễ sinh bọ, đem phơi nắng. Nửa kia dùng đuã khuấy liên tục, cho thêm trứng gà, các gia vị rồi đem gói lá chuối, úp nồi đất ủ than trấu, nướng.
Bữa ăn đó thật tuyệt vời. Cô vợ kia - Ban dơ tay chỉ người đàn bà xinh đẹp trong góc bàn - ăn thử thấy ngon, chén tỳ tỳ, quên hẳn ấn tượng lúc đàu. Ðể phục vụ khẩu vị của các con ''Kèo sang bên kia, làm gì có'' - bà nhấn mạnh - đi lùng mua mắm rươi ngấu, về làm cho bọn tớ ăn. Bà cũng làm như cách làm của cậu Thành vậy. Chúng tớ lại được chén vài ba lần mắm Rươi nữa... trưóc khi trở về Ðức. Hôm bọn mình chuẩn bị lên đường mẹ tớ gợi ý : Hũ Mắm Rươi đã ngấu. Hay là các con mang sang mà ăn. Mẹ làm cẩn thận, sạch sẽ lắm. Cố mang đi, kẻo sang bên ấy làm gì có đặc sản này. Ngay ở bên Ta, những tỉnh miền núi cũng chẳng được ăn nữa là bên Tây.
- Phải ! Ta cố mang đi em ạ. Ðóng gói cẩn thận, xách tay... chắc được.
- Em sợ Hải quan sân bay không cho - vợ tớ phân vân.
- Hải quan của ta thì yên tâm đi. Họ vốn dễ thông cảm... Còn Hải quan Ðức, bọn mình đóng gói cẩn thận, vả lại cũng nhiều lần, nhiều người mang thức ăn có sao đâu. Không sợ. Tớ có cái thói, khi đã quyết định điều gì, đố ai làm thay đổi được. Vợ biết tính chồng nên lẳng lặng ậm ừ... Thế là tớ đem hũ mắm kia đóng vào chiếc chai nhựa đặc biệt, to miệng, gắn xi.
Theo trào lưu mới, đi đâu cũng xem ngày. Lời ông thầy bói ở phố Cửa Bắc làm vợ chồng tớ vững dạ: ''Tôi chọn cho cô cậu ngày tốt nhất bay về Ðức đó''... Ðúng như dự tính, ở sân bay Nội Bài mọi chuyện thuận buồm xuôi gío. Lên máy bay, hai vợ chồng yên tâm. Máy bay cất cánh, đúng tầm cao, êm như ru. Bọn tớ ngủ yên lành như đang nằm trên giường trong căn hộ 3 buồng ở khu chung cư Tierpark (Ðông Berlin).
Máy bay hạ cánh xuống sân bay. Cả nhà vui vẻ ra lấy hàng. Hai mẹ con bé Hồng được phân công mang chiếc túi sắc du lịch đựng sách báo, đồ khô. Tớ bảo mẹ con ra trước, còn mình xách một túi khác trong đó có hũ mắm Rươi theo sau.
Cửa ra hôm nay có vẻ khác thường : Nhiều cảnh sát sắc phục. Ở Đức thỉnh thoảng có cảnh này, chẳng cứ ở sân bay mà ngay ở các khu trung tâm thỉnh thoảng vẩn xẩy ra. Việc khám xét khi hành khách nhập cảnh có vẻ kĩ hơn mọi khi : Chỗ khám hành lý có đông người khám hơn. Không khí dường như nhộn nhịp, khẩn trương. Trong bụng tớ thỉnh thoảng lại nhồn nhột... chốc chốc tim lại nhói nhói...
Người nhân viên Hải quan giúp mình lôi từng thứ trong túi ra. Ðến khi cầm chiếc chai nhựa đưa lên ngang mặt, soi... anh ta bóp bóp... mân mê lớp si gắn miệng chai, hỏi : Trong này chứa gì ?
- Mắm rươi. Tớ trả lời không cân nhắc, làm như người Ðức quen biết thứ mắm đặc sản của quê tớ vậy. Bởi vỉ tiếng Ðức không có từ Mắm, tất cả mắm đặc, nước mắm đều gọi là Sốt (Cauce). , tớ chữa lại : Cause ! Nhân viên Hải Quan quay sang bên gọi người khác, đưa chai mắm rươi nói nhỏ... người kia phẩy tay trả lời... anh ta tiến đến dơ tay chỉ, nói : Anh mang tật cả đồ đạc vào trong phòng này.
Gay rồi - Tớ linh cảm thấy có chuyện chẳng lành, nhưng không thể cưỡng lại đành lôi thôi lếch thếch đi theo. Khi đã qua khung cửa, hai cánh đóng lại, hai nhân viên Hải quan bảo tớ tự tay mở chai. Tớ lúng túng... làm, xong đặt chai lên bàn. Hai người kia tiến lai, một người dè dặt nhấc chai lên nắn nắn đoạn đưa mũi ngửi... bỗng bịch, anh ta nhăn mặt, buông tay, rú lên. Chai mắm Rươi rơi xuống, phun ra thứ nước mầu vàng sền sệt, mùi thum thủm chua nồng...
Ngươi kia thấy vậy, chạy ra ngoài, lát sau một tốp 4 người có hai cảnh sát ập vào. Nhân viên Hải quan vừa nôn oẹ, vừa chỉ chiếc chai nhựa nằm dưới sàn nhà, cạnh ''bãi'' mắm rươi lênh láng trên sàn đá bóng loáng, nói ú ớ... Chỉ một thoáng, tớ cùng đồ đạc trong chiếc túi xắc, chai mắm rươi được đưa lên chiếc xe chaỵ bằng Ắc quy, ra cửa sau, tống lên chiếc xe hòm bịt kín. Xe chạy được một lúc, dừng, mỡ cửa, một nhóm nhân viên ăn vận áo xanh lá cây nhạt, trùm kín đầu, xuất hiện, đứng chờ sẵn ở cửa xe. Lại một chiếc ‘’Cáng’’ máy - (thưc ra là một chiếc giường trên đầu có người lái) - tiến tới, họ ra hiệu, tớ lồm cồm trèo lên. Người ta đưa đến một phòng của căn nhà phía sau bệnh viện. Ở đây tớ bị lột sạch, mấy nhân viên xúm vào phun nước thơm, kỳ co...
Sau một giờ tẩy trùng, hai người y tá lau người, sấy tóc, cắt cao (vì tóc tớ lúc đó hơi dài)... rồi được đưa vào một căn phòng to, rộng, đã có chừng một tiểu đội thầy thuốc đứng chờ. Suốt 2 giờ đồng hồ, tốp bác sỹ kia thay phiên nhau vần, lấy mắu, khám, đo, lấy phân, nước tiểu... rồi bỏ đi. Tớ yêu cầu được gọi điện về nhà. Bà xã nhận điện hốt hoảng hỏi, tớ tường thuật lại tình hình.... bà ấy đòi đến thăm, người Y tá lắc đầu : Ông ta đang trong thời gian cách ly, không ai được phép tiếp xúc, thăm hỏi.
Ðành an ủi bà xã, yên tâm... chờ.
Ngày 4 bữa, họ cho ăn xuất ăn rất ngon, chẳng có gì là cơm của người bệnh cả. Suốt trong gần một tuần bị ''giam lỏng''. Ðến ngày thứ 7, một tốp người tiến đến. Cô y ta đưa cho túi nilon trong đó chưa toàn bộ trang phục cho một người lịch sự : Complé, sơ mi, quần áo lót, giày da. Tất cả mới bóc tem, bảo tớ mặc vào.
Ngạc nhiên hỏi : Quần áo cũ đâu?
Ðáp : Ðem di tẩy khử trùng !
Người Bác sĩ đưa cho tập hồ sơ... cô y tá đưa cho chiếc túi xắc bên trong chỉ còn mấy thứ như sách, báo, đồ nhựa, dao cạo râu... còn các thứ khác, trước khi lên máy bay, lèn chặt cứng trong túi đã... không còn. Hiểu ra, tớ không dám hỏi. Tốp Bác sĩ, Y tá tiễn người bệnh ra cửa, đã có sẵn một chiếc Taxi chờ. Cô Y tá trưởng mở cửa nói lời lịch sự : Chúc ông về nhà vui vẻ.
Xe chuyển bánh đưa tớ đến trước cửa nhà. Bà xã và bé Hồng ra đón, như đón người vừa đi... xa về. Cuộc hội ngộ sau một tuần xa cách nhau thật đậm đà, hạnh phúc. Cứ như xa nhau hàng năm không bằng...
Ba ngày sau, người nhân viên bưu điện đưa cho gói bưu phẩm và một bì thư, bắt ký nhận. Mở gói bưu kiện, chỉ có quần áo đã giặt sạch, thơm mùi thuốc tẩy hấp. Mở tiếp bì thư : Một tập giấy gồm 5 trang khổ A.4. Trang đầu xác nhận, tớ không hề mang bệnh truyền nhiễm. Ðồ dùng mang theo cũng không hề có ma túy, không có các vi khuẩn mang bệnh, không có các hóa chất độc hại, dược lìệu gây nguy hiểm cho an sinh của con ngươi.... Mấy trang còn lại thống kê các cuộc khám bệnh, khám nghiệm...
Trang cuối cùng mới nhìn lướt đã choáng váng, xây xẩm mặt mày. Bà xã thấy vậy giật lấy đọc... kêu thét : Trời !
Ðó là bảng kê các chi phí trong một tuần cho các cơ quan liên đới : Hải quan, Bệnh viện, Cảnh sát... xung quanh việc ''nghi ngờ người mang đồ vật có mang vi khuẩn bệnh truyền nhiễm vào nước Ðức''. Lại còn ăn, mặc... Tổng cộng mọi khoản -(trong đó nặng nhất là án phạt) - lên tới mấy nghìn D.Mark. Hai vợ chồng nhìn nhau thở dài, ngao ngán. Chỉ vì thích khẩu... Chỉ vì suy nghĩ đơn giản, liều... chỉ vì... Hũ Mắm Rươi... đến nông nỗi này. Những con Rươi hiền lành, làm món ăn ngon... đã cho tớ bài học: ''Miếng ngon nhớ lâu - Ðiều đau nhớ đời'' - câu ngạn ngữ nói chẳng sai.
Ngừng một chút vớ lấy ly rượu, tợp, đoạn Ban thở phào : Cũng còn may. Nhờ mẹ tớ làm mắm rất chu ý giữ gìn vệ sinh… may mà lũ ruồi, nhặng không đột nhẩp vào đẻ trứng… chứ nếu không thì ôi thôi, không biết tờ biên bản kia còn liệt kê thêm bao nhiêu mục nữa và con số trong bản thanh tóan sẽ còn cao hơn bao nhiêu ? Lạy trời… thế vẫn còn may - Người kể chuyện thiểu não, rên rỉ kết luận.
Bữa ăn lặng đi giây lát như cũng đồng cảm với người bạn không may.
Bỗng tiếng Thành vang lên : Thôi, để chia buồn cùng ông bạn, chúng ta hãy thưởng thức món Tái Dê và Thịt Chó thứ thiệt... từ nay ''cạch mặt'' con... Rươi !
Mọi người cười vang, kể cả vợ chồng Ban.
Lũ trẻ thấy người lớn vui trở lại cũng hùa theo, cuời nghặt nghẽo...
(Rút trong tập Những số phận không định trước - NXB Văn học 2003)
Berlin tháng 8/2001
(1) Hôm qua, một tờ báo mạng đưa tin : Không có Mắm tôm, làng thịt chó ở Hà Tây phải ngừng sản xuất, trung tâm thịt chó ở thủ đô cũng trở lên’’Tiêu điều’’.... Điều này đã chứng minh : Không có mắm tôm sẽ không có thịt chó…
Lái gà
Tưởng nhớ Hoàng Xuân H… - nhân vật nguyên mẫu của truyện.
'’Thái quá sinh bất cập''. Ðối chiếu với cuộc sống thường ngày, qủa thật lời dậy của tiền nhân chẳng sai. Bạn thử nghĩ xem : Nếu món ăn thật ngon mà ta ăn qúa nhiều nhất định sẽ bội thực. Nói nhiều hay vấp, hay sai. Yêu ''qúa'' người được yêu cảm thấy như bị cầm tù. Tư duy ''thái quá'' trở thành cực đoan. Tham ''quá'' thì thâm... và còn rất nhiều thí dụ tương tự khác. Tôi xin kể câu chuyện về''Lòng Tham'' của một đàn anh, đồng nghiệp - bố vợ mình.
Ông vốn là nông dân, sinh ra, lớn lên ở làng quê thuộc 1 huyện trọng điểm lúa của tỉnh Nam Ðịnh. Gần 20 năm đầu của cuộc đời, ở quê với bố mẹ. 15 tuổi đã phải cùng cha, anh kéo cầy, kéo bừa thay trâu vi sau Cải Cách Ruộng Ðất (1957), quê ông rât thíều sức kéo khiến dân nghèo phải thay trâu làm cái việc cần thiết để cắm cây lúa xuống ruộng, đến mùa có thóc nộp thuế nông nghiệp, có gạo mà ăn để sống.
Năm 1962, tròn 20 tuổi, anh Hoàng - tên ông - xung phong đi nghĩa vụ quân sự . 14 năm coi kho ở trong rừng Trường Sơn, anh trở thành ''Người rừng'' đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bù lại - vì để giải trí cho đỡ buồn trong những ngày vẻn vẹn cùng 2 đồng đội sống trong rừng - anh lấy săn băn làm thú vui. Và thế là chim, gà, lợn rừng, hoẵng ở một góc rừng Trường sơn đã là nạn nhân của Hoàng. Chúng mang thân mình để giúp anh trở thành nhà thiện xạ môn bắn nỏ. Nỏ - chứ không phải súng. Bởi vì giữ bí mật tuyệt đối cho kho quân trang quân dụng, cấp trên nghiêm cấm nổ súng nếu không phải bị kẻ địch tấn công.
Cuộc chiến tranh gian khổ kết thúc, ông Hoàng được chuyển ngành.
Ði lính chỉ biết tìm kế giết chim muông, văn hóa mới hết cấp 2, bây giờ thì ngại học. Căn cứ nguyện vọng, chế độ ưu tiên, cơ quan Quân lực cho ông chuyển về ngành Lâm Nghiệp vì biết ông đã từng nhiều năm ở rừng (Chắc là anh này hiểu rõ về rừng - họ nghĩ thế). Người ta không thể bô trí ông vào đâu, ngoài phòng bảo vệ cơ quan. Nói cho có vẻ oai, thực ra đó là anh lính gác cổng không quân hiệu. Tuy vậy, ông vẫn vui vẻ hào hứng chẳng khác nào hai lần trước : Cầm quyết định đi Nghĩa vụ quân sự và lên đường vào rừng sâu coi kho. ''Ngồi trong rừng ngắm cây chán rồi, bây giờ được ngồi giữa phố phường ngắm người... đi lại, ra vào... cũng thú '' - ông tự an ủi mình.
Tưởng cứ thế trôi tuột 20 năm thứ 2 của cuộc đời. Nhưng giữa năm 1981, nhà nước có chủ trương cho công nhân viên đi Hợp Tác Lao Ðộng ở 4 nước XHCN Ðông Âu. Biết tin, tự dưng trong đầu ông Hoàng xưất hiện ý nghĩ : ''Sao minh không đi một chuyến cho biết đó biết đây. Ở mãi cái chòi gác này - (ông gọi phòng thường trực ở cổng cơ quan như vậy) - cứ mụ mẫm cả đầu. Ði, vừa được biết xứ Tây làm ăn ra sao... lương bổng chắc khá hơn.. lại không sợ người ta đuổi về quê tiếp tục ''theo đít trâu'' (đi cầy) - khi mà cơ quan văn phòng đang gióng lên hồi chuông giảm biên chế'' ! Chưa kịp lên gặp lãnh đạo bầy tỏ nguyện vọng thì Trưởng phòng Lao Ðộng - Tiền lương đã đến tận ''chòi gác'' gợi ý cho đi. Thế la đầu năm 1982, ông vác ba lô lên đường đến Ðưc Hợp Tác Lao Ðộng. Hai mươi năm thứ 3 của đời ông bắt đầu như thế.
Trong môi trường sinh sống mới, ngoài giờ lao động ở xưởng, cánh thợ trẻ đua nhau tập tễnh ''buôn thúng bán bưng''. Ông Hoàng thấy ''hay hay'' cũng bắt chước. Thay vì may quần áo bò đóng Mác giả, đổi ngoại tê USD, D. Mark ăn chênh lệch - Ông đến lò mổ cùng chai rượu Vodka Nga. Người qủan đốc niềm nở đón tiếp rồi quyết đînh sáng sớm thứ 6 hàng tuần cấp cho ông 5 cỗ lòng của những con lợn có trọng lượng dưới bẩy chục kí - (phải đúng loại này, to không lấy) - cùng số tiết đã được ông hướng dẩn thợ mổ hãm đúng kỹ thuật, đựng trong can nhựa đủ dánh được trăm bát tiết canh và nấu mươi nồi cháo lòng.
Món tim, gan, dồi, da dầy, dạ con luộc cùng tiết canh, cháo lòng cổ truyền đã nhanh chóng ''thu phục'' tất cả gìa trẻ lớn bé trong khu tập thể người Việt của thành phố. Lúc đầu chỉ là đáp ứng sự khoài khẩu, ít lâu sau họ đâm nghiện, trở thành nhu cầu của những người vốn đã ngán các loại thịt lên tận cổ. Ông Hoàng trở thành ''Thợ'' và biệt danh Hoàng Tiết Canh xuất hiện từ đây. Ðiều thú vị hấp dẫn ông ngày một mạnh chính là khoản lãi thu được trong tuần bằng 2 lần lương đi làm cả tháng.
Năm 1990 nước Ðức thống nhất, không như nhiều người khác nhận tiền bồi thường tự nguyện trở về Việt Nam, ông Hoàng vẫn trụ lại tạo dựng cơ nghiệp rồi 1992 đưa vợ và 4 con - hai trai hai gái - sang sống cùng.
Có An cư mới lạc nghiệp. Ông Hoàng luôn tam niệm trong lòng đạo lý này. Nghĩ thì như thế, nhưng từ suy nghĩ đến thực hiện còn một khoảng cách rất dài. Hai vợ chồng 4 đứa con - trong đó có hai đứa gái đã lớn, không thể không có buồng riêng cho chúng, Cần phaỉ tìm, thuê được căn nhà 4 buồng mới đáp ứng nhu cầu của ông. Thê nhưng tiền thuê không dưới 1500 Mác một tháng. Ðâ hơn chục năm sống làm việc trong môi trường ''buôn bán cò con'', tính nhẩm rất nhanh, trong đầu ông Hoàng xuất hiện : Mỗi tháng tièn thuê nhà quy ra ấp xỉ 1000 USD, quy tiếp : Gần 2 lượng vàng. Một năm... mười năm... ôi chao số tiền, số vàng đâu ít. Không được ! Thà mua phắt nhà cho rồi - Ông bật thành tiếng - tiền thuê để ra... lại được sồng trong căn nhằ của mình... ở đâu thì đầu tư vào lĩnh vực bất động sản cũng lãi nhất.
Một người bạn thân mách, hàng xóm người Ðức của anh ta có mảnh đất hơn 1000 mét vuông cùng ngôi nhà cổ - muốn bán. Hơn 10 năm lao động, tháo vát, tằn tiện, đã để ra ít tiền. Hợp ý nghĩ đang nung nấu trong đầu - ông tức tốc đến xem. Khu đất vuông vắn . Nằm sát cạnh bến xe Buýt. Nhà tuy cũ nhưng tường mái còn khá tôt, ngoài tầng ngầm và tầng áp mái ra. tầng 1 có một phòng chính có thể làm cửa hàng. Tầng hai - 6 phòng, thừa chỗ ở cho vợ chồng con cái. Khi đứng giữa vườn, ông thọc bàn tay cứng như lưỡi mai xuống đất rồi nâng lên, nắm nắm lai như nắm cơm. Vốc đât nhiều như thế mà sau 3 lân chim chim - chỉ còn một cục to bằng qủa trứng vịt.- ''Chà... chà...'' - ông xúyt xoa, tấm tắc ca ngợi chất xốp của đất này. Ðưa mắt lia nhìn qua hàng rào - ngay bên cạnh cổng vào - người đi đến chờ xe Buýt đông nghịt. ''Nhất cận thị, Nhị cận giang'' - Ông Hoàng nghĩ và ưng ý ngay . Chỉ sau 4 tuần chạy đôn chạy đáo, vay mượn thêm... mảnh đât cùng ngôi nhà kia đã thuộc về ông với gia mua đắt hơn so với chỗ khác, tại thời điểm đầu năm 1995 ở Ðông Ðức.
Có đất, việc đầu tiên là tiếp tục vay thêm đám bạn ít tiền nữa, mở một cửa hàng tổng hợp : Một nửa bán quần áo và đồ lưu niệm, nửa kia bán nươc uống, rau hoa qủa, đồ hộp. Khoảng trống ngay cửa ra vào được trang hoàng đẹp để bán cà phê, đồ ăn điểm tâm phục vụ dân buổi sáng đứng chờ xe Buyt đi làm. Ðịa điểm này nắm ở ngoại vi thành phố, quán của ông là loại ''hàng xén'', cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho dân nên khách mua ngày một đông. Chỉ sau 2 năm chăm chỉ, tằn tiện, chẳng những mọi khoản vay đã trả hết mà còn dư thừa tích lũy.
Vào thời điểm những năm giữa thập niên 90 của thế kỷ 20, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng quần áo may sẵn gía rẻ của người Ðức nghèo, người ngụ cư, gốc nước ngoài tăng lên. Một số người Việt có tiền vốn, nhậy bén trước thời cuộc, quyết định hùn nhau mở một trung tâm buôn bán để thoả mãn các loại khách hàng không khó tính, túi tiền chưa được rủng rỉnh. Ở Trung tâm này không thể thiếu cửa hàng thực phẩm châu Á. Dạo đó một ký Mồng tơi, rau Ðay, các loại rau Mùi... đắt ngang 1 kg thit lợn thăn, thit bê (1). Ông Hoàng nhận ra ngay vấn đề... lặng lẽ bay về thăm nhà rồi thực hiện ý đồ. Chỉ trong vòng 2 tuần vừa ăn tết vừa chuẩn bị, khi trở lại Ðức đã có trong tay tất cả những hạt rau - thứ mà dân ta bên châu Âu rất thích. Lúc đầu gieo trồng cũng không suôn sẻ vì thời tiết, thung thổ... Sau mấy vụ ''Thâm canh'' ông Hoàng thành công, trở thành người cung cấp rau tươi châu Á cho các cửa hàng bán lẻ trong vùng. Rau Muống, Mồng tơi, rau Ðay và những thứ rau - dễ héo hỏng trên đường vận chuyển - giờ không còn là món ăn cao cấp đối với người Việt. Ðiều thú vị hơn : Rau ông trồng do lấy giống từ bên nhà sang nên mùi vi thơm, đậm đà hơn hẳn rau nhập từ Thái Lan, Hà Lan. Quan trong nhất : Gía bán ha xuống chỉ còn bằng một phần ba. Các chủ hàng thấy lợi bèn bỏ hợp đồng cũ, ký ngay hợp đồng ''Cung cấp rau tươi'' với ông. Mảnh đất trồng rau được ông trang bị tân kỳ, chăm bón đúng quy trình kỹ thuật của ngành trồng trọt hiện đại. Cộng với bí quyết trồng rau - mà từ bé ông đã học được kinh nghiệm của bố mẹ hồi ở quê hương. Kết qủa chất lượng, sản lượng rau trong mảnh vườn hơn 3 sào kia được thực hiện luân canh - tăng vọt. Ông chủ giầu lên nhanh chóng.
Ðể cung ứng kịp thời và thoả mãn nhu cầu cho bạn hàng, cứ vài ngày ông lại đảo qua Trung tâm - Siêu thị - vừa thăm bạn vừa nghe ngóng, thu thập ý kiến góp ý của họ nhằm phục vụ tốt hơn. 20 tết Canh Thìn 2000, ông đến mua sắm tết. Trước cửa ra vào có đông người tụ tập, mỗi người cầm một túi nặng. Thấy hơi lạ, ông hỏi một người đàn bà trên tay xách 3 túi hàng, chị kia đáp hối hả : Gà trống có đầu, mào to... 2 kí lô... bác vào nhanh...
- ''Tưởng gì'' - ông vỡ lẽ, tiến đến sát quầy hàng, nhin vào : Trên chiếc thùng lớn chỉ còn lại mươi con gà đã làm sạch. Con nào con nấy nguyên vẹn cã đầu, chân. Ðặc biệt mào chung to như cả bàn tay. Cậu bán hàng - là chỗ quen biết - thấy ông vội đon đả : Bác mua nhanh đi kẻo hết, trên 2 kí lô cả đấy.
- Có gì mà quan trọng thế. Trong Metro đầy (cửa hàng bán buôn) - ông nói đại. .
- Ô, bác nói thế nào ấy chứ. Trên nước Ðức làm gì có bán gà trống, cả đầu, chân, trong bụng có nguyên cả cỗ lòng...
- ờ... đúng... - ông vờ... vỡ lẽ, chữa thẹn - bao nhiêu tiền môt con ?
- 20 Ðê (D.Mark).
- Ðắt thế ? Gấp 4.
- Nếu bác có, cửa hàng sẵn sàng nhập với gía 18 D.M/con, nhưng phải từ 2 kí lô trở lên. ''Một gợi ý hay''. Trong đầu ông Hoàng vụt loé sáng... Vừa lúc tốp gần chục người nữa tiến vào, ông nhặt vội một con, tốp người kia nhặt nốt những con cuối cùng. Ðúng là lần đầu tiên mua được con gà trống nguyên vẹn to như vậy. Bà vợ nhìn thấy còn vui hơn, nhưng trách - Sao không mua mấy con.
- Ôi. Gà nào mà chả cúng được. Tuy nói cho qua nhưng khi bà vợ luộc con gà kính cẩn đặt lên bàn thờ, ông mới thấy tiếc. Cạnh mâm ngũ qủa, con gà Trống da vàng rượm, đầu ngênh ngênh trên mỏ cắm thêm bông hoa hồng bằng nhựa đỏ tươi.. Hai chân đệm dưới bụng, nằm bệ vệ trên chiếc đĩa đường kính 35 phân, Hai bên hông gà đặt 2 đĩa xôi gấc, cặp bánh chưng, cây giò lụa, hai khoanh chả quê cùng chồng mứt tết, mấy chai rượu vừa Vang, vừa rượu mạnh - loại đắt tiền. Ðèn nhang nghi ngút, hai cây nến điện rực rỡ. Gà vàng, xôi gâc, chả quế đỏ, bánh chưng xanh... khi đứng thắp hương, nhìn - ông mới cảm nhận được tâm trạng của những người sẵn sàng bỏ số tiền hơn 4 lần để mua con gà về đặt lên bàn thờ trong ngày trọng đại cuối năm.
Chợt như nhớ ra, ông kính cẩn vái 3 vái, miệng nhẩm khấn đoạn đi sang buồng khách bấm số điện thoại. Ðầu bên kia có người nhâc máy. Ông Hoàng noí oang oang bằng tiếng Ðức không mấy sõi : Tôi cần mua ngay vài trăm gà trống, loại từ 2,5 Kg trở lên. Có không ?
- Không. Cả gà mái thì có thể. Nếu 10 ngày nữa thì được - người kia từ chối. Ông Hoàng tư lự dây phút : Còn ba ngày nửa là ngày Táo quân chầu trời. Mùa này ở Ðức không có cá chép tươi, dân ta đành dùng Gà thay thế. Tuy còn phân vân về gà Mái gà Trống. cuối cùng ông chép miệng - ''Trống, mái đều được, miễn là tươi, gà có đầu'' - ông tiêp : Gía đổ sô bao nhiêu?
- 4,5 D.M. Nếu mua từ 200 con trở lên. Mang đến tận nơi, thêm 0, 5 D.M/ con.
- Phải đảm bảo không dưới 2,5 Kg/ con (làm sạch còn 2kg) - đấy nhé.
Bạn cam đoan.
Ông Hoàng cúp máy, quay số khác gọi tiếp cho những cửa hàng bán buôn bán lẻ chào hàng... bạn hàng đều đồng ý nhập. 30 phút sau mọi việc ổn thoả, quay ra thu dọn, che chắn, chuẩn bị cho nơi tập kết hàng. Một ý nghĩ thoáng qua... ông chậc lưỡi gạt phắt trước món lợi một vốn bốn lời - ''Chỉ trong vòng 1 đêm chắc không sao'' !
Khi công việc chuẩn bị vừa xong thì chiếc xe chở gà chuyên dụng của ông chủ trại gà cũng táp vào trước cổng. Gà lần lượt thả vào chuồng cùng vớI mấy chục con do ông đang nuôi. Tất cả mọi nhân lực hiện diện trong nhà đều sãn sàng đợi lệnh của ông chủ.
Trời bắt đầu tối.
Mùa đông ở châu Âu tối rất nhanh.
Căn phòng này rộng, được cấu trúc đặc biệt, khi cần có thể thay đổi chức năng. Ông cho bật đèn sáng trưng, hối thúc các con trai gái, dâu, rể tương lai - tổng cộng 8 người - bắt tay vào việc. Ðầu tiên là cắt tiết làm lông. Giống gà nếu chết rồi mà tiết vân còn trong cơ thể, khi luộc chín, thịt sẽ thâm không đẹp, ăn tanh, không ngon. Mỗi con vẫn phải hấng lấy tiết để luộc, kẹp vào cỗ lòng cho đủ bộ, thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật giết mổ, đáp ứng sở thích của khách hàng.
Thế nhưng mọi tính toán chi tiết khoa học đến mây, trước những biến động ngoại lai có khi cũng làm người ta bị động. Trong số 40 con gà đang nuôi, có 10 con trống do đích tay ông mới thiến với mục đích để giữa năm sau làm cỗ cươi cho con gái. Còn 10 con trống nguyên nuôi để cho 20 con mái lấy giống gà con. Tai hại là trong này có mấy con thiến sót. Cái giống thiến sót rất kỳ la. Lúc ''tính mái'' thuần thục thì chú thiến sót nhà ta hiền lành, chẳng quan tâm đến xung quanh. Có khi đang ăn, mấy con mái nào đó ''đành hanh'' đến trănh ăn, mổ... chàng thiến sot cũng quay người bỏ chạy.
Lúc ''tính trống'' trỗi lên chàng ta cố gắng chưng tỏ ''Nam nhi đại trượng... Trống'', do vậy các biểu hiện bên ngoài thể hiện rất rõ : Lừ lừ, gườm gườm đi đên cạnh con mái, duỗi chân gạ... đạp. Nhưng chỉ có đến thê chứ không hơn. Có luc chú ta lại dạng chân vươn cổ, gật gù... gáy. Khốn khổ, tiếng gáy có ra tiếng gà trống đâu, nghe khè khè... ẹt... ẹt... vì chỉ còn sót lại tí chút... Trống - nên gịong đã biên dạng .
Như đã nói ở trên, gian chuồng gà đã che kín bưng, ông Hoàng cho bật 2 ngọn đèn cao áp thủy ngân 1000 wat sáng như ban ngày. Chú thiến sót thấy đông, ồn ào xung quanh, tưởng đã sáng, dạng chân vuơn cổ gáy. Những con Trống thuần chủng dường như nhận biết ra. Thoạt tiên vài con loại ít cân nhất - ''Trống choai'' - trong đám, ngẩng đầu, mắt chớp chớp rồi như tưc mình - ''Thằng nào gáy vậy mà cũng học đòi. Nghe đây - Ò óo... oooo...''.
Chà, gáy thế mới là gáy chứ !
Khi tiêng gáy thư thiệt cât lên, làm náo động cả đàn gà. Ngạn ngữ noi chẳng sai ''Gà tưc nhau tiếng gáy''. Thế là những con khác ngểnh cổ, dạng chân, đầu gật gù tranh nhau, thi nhau , nối tiếp nhau đáp lại. Âm thanh của những tiếng gáy thứ thiệt, của những chú trống choai, trống vứa, trống gìa ''Originan'' cất lên làm náo động cả một đoạn phố...
Lúc này đã 12 giờ đêm, dân cư trong vùng đẵ bắt đầu yên giấc. Ông Hoàng tái mặt, lo sợ... lo sợ hơn cả những lúc trong đời đã từng gặp nỗi lo sợ. Luật của nước Ðức rất nghiêm. Người ta quy định rõ những nơi được, không được phép nuôi, giết mổ gia súc trên quy mổ lớn. Trong tuần chỉ từ thứ 2 đến thứ 6 được ''ồn ào vừa phải'' từ 9 giờ sáng đến 8 giờ tối. Bây giờ, chủ nhà đã phạm cả hai lỗi : Mất vệ sinh, làm ô nhiễm môi trường và ồn ào. Hốt hoảng, ông hô vợ con: Bỏ mọi việc, ngăn cản không cho chúng gáy.
Bà Hoàng và đám con cái không biết làm sao để chỉ huy cho gà không gáy... đâm lúng túng chưa biết phải làm gì ... ông Hoàng chợt nghĩ ra, hô tiêp : Cắt tiết... không kịp... đập chết những con gáy đi !
Hai ông anh vợ cùng hai thằng em rể tương lai thi hành lệnh răm rắp.
Gía lũ gà biết sợ như người thì đã đi một nhẽ. Ðằng này chúng tỉnh bơ, cứ... gáy... gáy ! Ông Hoàng sốt tiết quơ vột thanh gỗ dựng trong góc phòng, nhẩy tót vào giữa đàn gà - (suýt dẫm chết mấy con mái đang lớ ngớ dương mắt chớp chớp với vẻ ngạc nhiên - nhìn...) - vung thanh gỗ nhằm những con trống đang vươn cổ, xoè cánh sắp gáy - phang vào đầu. Nhiều con vỡ sọ tắt lịm. Có con rất ''quái'', khi thanh gổ vừa tới gần, nó đã thụt đầu xuông, chúi vào cánh, vào háng con mái đứng bên cạnh. Nhát phang thât có nghệ - đầy ''chưởng lực âm nhu'' - nhìn có vẻ nhẹ chỉ như phẩy ruồi, ấy thế mà đụng vào đầu con mái kia, kêu đánh rộp... vỡ bét.
Vẫn không thể ngăn kịp những con khác, ông quát : Lấy sợi chun thít cổ những con gáy lại, tiếp tục cắt tiết... Nhanh ! Nhanh lên !
4 chàng trai hùng hục lao đến chỗ để dụng cụ đồ nghề, chộp nhanh nắm dây chun - được nền công nghiệp hiện đại Ðức chế tạo, tuy nhỏ nhưng dai, bền một cách đặc biệt - thi hành lệnh, gọn, chuẩn xác. Những con gà tội nghiệp chẳng những không thể kêu, gáy mà chỉ trong vòng mây chục giây nghẹt thở chết ngay. 4 chàng trai lúc này mới nhanh tay tiếp tục công việc theo quy trình...
Phải đến mệnh lệnh này ông Hoàng mới dẹp được cuộc đua nhau gáy của lũ gà. Cũng may bọn gà mới chỉ gáy được ít phút lại bị ngăn cản nên rời rạc. Những ’’đao phủ’’ đang bận tay đối phó với những con đang sắp gáy... công việc giết mổ đang phải khẩn trương . Cái chính: chuồng được quây kín... tiếng ồn chưa vang xa... dân Ðức xung quanh chưa kịp thức giấc, chưa kịp nổi xung vì có anh hàng xóm phá rối giấc ngủ... mà... gọi điện cho cảnh sát. Sự náo động chưa đủ đánh thức xung quanh.... Khung cảnh tĩnh mịch của đêm trường trở lại.
Bây giờ ông Hoàng mới hết sợ.
Tuy nhiên ông thở hồng hộc như vừa qua cuộc kéo cầy trong miếng ruộng khô, hồi hơn 40 năm trước ở quê nhà. Ông gieo mình xuống chiếc ghế để ở góc chuồng gà, thở rốc . Những con có khả năng gáy đã lần lượt bị thít cổ... mọi người yên tâm lặng lẽ tiếp tục, ai vào việc nấy : Cắt tiết, vặt lông, mổ moi, làm lòng...
...
Ðúng 7 gìờ sáng, 271 con gà làm xong, đưa vào bao nilon, chất trong kho lạnh để 8 giờ sáng các cửa hàng đến lấy phục vụ bà con ta trong ngày cúng ông Táo lên chầu trời - 23 tháng chạp.
Cánh trẻ tắm rửa rồi tranh thủ lên giường ngủ bù lấy lại sức sau một đêm làm việc cật lực.
Ông Hoàng vẫn gật gù bên chai rượu ngũ Xà.
Chỉ còn bà Hoàng ngồi bên tiếp rượu, gắp thưc nhắm cho chồng. Khi nâng chén rươu thư 5 uống một ngụm, ông hướng vào vợ dè dặt : Bà có mệt không ?
Bà Hoàng lắc đầu.
Ông nâng ly rượu tợp hết, giọng như đứt hơi : ''Một vốn... bốn lờI''... hừ... hừ... mệt. ! Lũ gà chết tiệt... làm tôi sốt vó, đến bở hơi tai...
Mùi Tôm Bạc Đất
Hai mươi năm qua tôi ăn rất nhiều tôm tép, nhưng chưa lần nào ăn cho ra hồn. Năm đầu định cư Hoà Lan tôi lên khu phố Tàu ở trên Amsterdam mua tôm khô, củ kiệu đem về bày tiệc mời bạn bè tới nhậu. Nhưng tôm thì cứng như đá, mặn như muối, củ kiệu ngọt như đường và mềm như củi mục không mùi vị gì hết. Ăn tôm khô Tàu không thấy ngon, tôi thử ăn tôm Tây. Tôm luộc lột vỏ, bỏ vô ly thủy tinh cao cẳng, dưới đáy ly lót lá xà lách, trên miệng ly gắn khoanh chanh, trước khi ăn rưới xốt cocktail, tiếng Việt mình gọi là tôm cốc-tai. Trông ly cốc-tai rất đẹp mắt và ăn cũng khá ngon, ngon nhờ gia vị hằm bà lằng hơn là mùi tôm nguyên chất.
Có một dạo báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh của Hoà Lan loan tin rầm rộ. Có vài người chết và nhiều người vô nhà thương vì ăn nhằm tôm tép nhập cảng bên châu Á. Tin gây xôn xao dân chúng Hoà Lan và bay ra tới Đại Tây Dương, trong lúc tàu tôi còn đương lênh đênh trên biển. Nghe tin thủy thủ đoàn bàn tán rùm beng. Cuối cùng thuyền trưởng đề nghị đầu bếp đem tôm đông lạnh liệng hết xuống biển. Ông nói, ngừa trước tốt hơn, lỡ ăn nhằm tôm bịnh, ngộ độc giữa đại dương không có nhà thương rửa ruột.
Vốn lớn lên trên một quê hương giàu tôm cá, tôi đã thấy vài lần người ta ăn nhằm mật cá nốc mới bị ngộ độc chết chớ chưa nghe ai ăn tôm tép chết bao giờ. Dĩ nhiên tin loan rầm rộ như vậy ắt hẳn không phải tin gà tin vịt rồi. Nhưng sao trong lòng tôi không nao núng sơ sệt gì hết. Tôi quyết định để mấy hộp tôm lại. Chiều nào tôi cũng nhậu bia lạnh ăn tôm thẻ luộc chấm muối tiêu chanh. Tôi ăn trong hai tuần hết sạch ba hộp, sáu ký lô tôm thẻ. Vậy mà trong người tôi không thấy triệu chứng bịnh đau gì hết. Và cũng từ đó trở đi tôi không còn biết thèm thuồng tôm tép nữa.
Còn vụ ăn tôm cho ra hồn có lẽ là năm tôi mười chín tuổi. Lúc đó tôi sống với gia đình bên vàm sông Ông Đốc. Anh em tôi làm nghề đánh cá, đi bạn cho người ta, tay làm hàm nhai. Cho nên ngoài nghề đánh cá ra phải có chuyện phụ thêm, nếu không nhằm lúc biển động dai dẳng thì cả nhà kể như treo mỏ.
Mùa động nam năm 1978. Tôi theo bác Ba đặt đó trong ngọn Xẻo Quau ở bên kia vàm sông Ông Đốc. Bác Ba là bạn thân của ba tôi, lần nào qua thị tứ bác cũng ghé nhà lai rai với ba tôi vài xị đế rồi mới chịu về. Thỉnh thoảng ba tôi cũng bơi xuồng qua xẻo nhậu chơi với bác. Bác làm nghề đặt đó người ta gọi là ông ba Đó riết rồi chết danh. Bác chỉ có Phương, đứa con gái duy nhứt, mười bảy tuổi. Vì bác gái mất sớm, chuyện trong nhà do tay Phương đảm đương. Ban đêm bác ba giở đó về, Phương lựa tôm ra luộc. Sáng mai trời mắng cô trải đệm ngoài sân đổ tôm ra phơi. Cá còn sống cô đem rộng trong chiếc rộng tre đưới bờ rạch. Hết con nước cô chở cá qua thị tứ nhóm chợ và mua thêm thức ăn. Mỗi lần đi chợ còn bạc lẻ cô mua bài ca đem về, rảnh rổi lật ra ngâm nga. Buổi trưa người đi rừng thường nghe văng vẳng giọng vừa vai đào vừa vai kép hát nguyên tuồng cải lương.
Miệt nầy trai gái lần đầu gặp gỡ thường hay hỏi thứ để gọi. Khi thâm tình mới gọi tên nhau. Tôi tên Cu, tên xấu háy, vì dầm mưa dãi nắng da đen thui. Bà con trong xóm gọi tôi là Cu Đen. Không lẽ nói chuyện với nhau Phương cứ gọi tôi Cu nầy Cu nọ, nghe kỳ cục quá. Tôi thứ tám, cô kêu tôi bằng anh Tám.
Công việc của tôi ban đêm bơi xuồng phụ bác Ba giở đó. Ban ngày thăm những tấm đăng, tấm nào rách ít bện lại tại chỗ, rách nhiều kéo lên thay tấm khác. Những ngày nước chết, tôi phụ Phương chẻ củi, đập tôm, chèo xuồng qua thị tứ đổi nước phông-tên về xài. Rảnh rổi chúng tôi rủ nhau đi rừng băt vọp, móc cua, chặt củ hủ chà là hoặc vô vạt cò móc trứng. Có lần lội ngang một trảng nước, trong lòng nước phình lên những bọc trắng như con sứa, lớn bằng cái mâm, nhỏ bằng chiếc nấm. Tôi thò móc cua định móc lên coi. Bác ba vội ngăn:
- Ê đừng làm bể, bọc tôm đó.
- Bọc tôm ?
Thấy tôi ngơ ngác. Bác Ba chỉ cho tôi thấy những chấm đen li ti trong bọc. Bác nói, đó là mắt tôm vì trứng tôm còn non nên chưa thấy rỏ, chừng nào già tôm sẽ hiện nguyên hình sau đó bọc bể tôm mới lội ra. Tôm nầy do đất sanh nên người ta gọi là tôm đất. Theo tôi biết thì tôm bầu, tôm gai, tôm càng có ôm trứng dưới dạ bụng, còn các loài tôm bạc tôi chưa thấy trứng bao giờ. Thiệt tình mà nói, cho tới nay tôi vẫn còn nghi ngờ chuyện đất sanh ra tôm, dù là tôm bạc đất đi nữa. Nhưng phải công nhận, tôm bạc đất sanh sôi nẩy nở rất mau. Những ngày nước xổ tôm từ trong ngọn tràn ra ào ạt, chiếc đó bự hơn người ôm vậy mà tôm vô đầy đặc. Hai bác cháu phải nhảy xuống nịt chiếc đó lại rồi lăng lên bờ, chớ kéo đổ như ngày thường thì không nổi. Tôm đất sống trên trảng, ở nước lợ nên thịt ngọt, luộc không cần thêm màu, phơi khô ruột vẫn đỏ. Nhờ ngon ngọt và màu sắc tự nhiên mà tôm bạc đất bán mắc tiền hơn tôm biển.
Thường thì ban đêm giở đó, sáng sớm về nhà cơm nước xong tôi đánh mật giấc tới trưa mới thức dậy. Một hôm mệt quá, tôi ngủ mê mang, khi giựt mình thức giấc, lồm cồm ngồi dậy, ngó dáo dác, cả nhà đi đâu vắng ngắt, vắng teo. Tiếng gió nhẹ lướt qua mái lá lào xào, lạc xạc. Dưới dòng rạch, mặt nước láng trơn, không một bóng xuồng qua lại. Trời ngã chiều, nắng đã nhạt. Tiếng chim rừng kêu vang, con kêu cạc cạc, com kêu chim chíp, con ục ục, rù rù... nghe rầu chín ruột chín gan. Nhìn di ảnh của bác ba gái trên bàn thờ, bổng nhiên tôi sợ nổi da gà. Miệng khô khốc, lòng hoang mang chưa biết phải làm gì, thì bổng nghe tiếng Phương ngân nga ở phía sau nhà. ‘....Đố ai quét sạch lá rừng, để tôi khuyên gió, gió đừng rung cây. Đố ai nằm ngủ không mơ...’. Tôi bước xuống đi nhanh ra nhà sau, ngó thấy Phương lom khom ở bìa rừng tôi mới yên dạ. Vói tay lấy cái ca úp trên đầu cây cắm cạnh bên chiếc khạp da bò, tôi múc nước súc miệng, tiện tay múc thêm một ca ngữa cổ nốc một hơi. Úp ca lại chỗ cũ tôi men ra bìa rừng. Phương chăm chú lựa trái dác, tôi tới sau đít mà cô vẫn không hay, cứ thảng nhiên ngân nga ca vọng cổ. ‘... Bốn mùa bông cúc nở xây, thử coi trời bắt duyên nầy dìa ai ơ...ơ...’
- Dìa tui nè chớ dìa ai.
Bất ngờ ghe tiếng, Phương giựt mình ngó lên thấy tôi, tay chận ngực cô quát:
- Anh mắc dịch, làm người ta hết hồn hết día.
Thấy vẻ cô giận giổi, tôi cười cầu hoà:
- Tui giởn chơi mà.
- Anh giởn như vậy có ngày tui đứng tim chết.
Phương xốc xốc rổ trái dác, nhắm chừng nấu đủ nồi canh, cô đứng dậy đi vô. Tôi men theo, hỏi:
- Bác ba đâu rồi ?
- Qua chợ cân tôm rồi.
- Ủa bác qua bển sao hổng rủ tôi theo cà?
Ngâp ngừng Phương nói:
- Hồi sớm thấy có nắng, ba tui dặng chừng nào anh thức nhờ anh bửa củi ra phơi, thấy anh ngủ ngon quá tui hổng kêu.
- Trời đất! Sao cô hổng kêu tui, bây giờ bửa ra nắng đâu nữa mà phơi.
- Xí, chờ anh bửa chắc người ta phải chẻ ống quyễn ra chụm trước.
Cô chỉ tay qua đống củi phơi ở góc sân:
- Tui bửa hết rồi, anh lợi đẳng ôm vô đi, hổng ấy mưa xuống ướt hết bây giờ.
Tôi ngó lên nhìn trời. Mây đen nghịt ở phía tây, mây trống chưn che khuất hơn nữa ánh mặt trời. Ánh sáng tỏa ra cái mống cụt ngủn nằm vắt vẻo bên phía nồm. Mống dài trời nắng, mống ngắn trời mưa.
- Phương!
Nghe tôi kêu cô ngoái lại:
- Gì đó?
Tôi chỉ tay về hướng nồm:
- Coi kìa.
Tưởng gì, cái mống cũng lạ dữ.
- Ê, mống chuồng là muốn chồng ha ha...
- Dô duyên.
Cô mắn nhẹ tôi một cái rồi bưng rổ trái dác đi te te vô nhà. Tôi đi qua góc sân gom củi lại ôm vô. Một lát sau đống củi đã nằm ngay ngắn trong chái bếp. Phương đương nấu cơm, thấy tôi rảnh tay cô biểu:
- Anh Tám ra đẩy máng xối qua miệng khạp hứng nước và khép cửa lợi dùm cái coi.
Tôi bước ra đẩy chiếc máng xối và khép cửa lại, cùng lúc cơn mưa chiều cũng vừa rớt hột. Phương lui cui nấu bếp, trán lấm tấm mồ hôi, hai gò má bóng lưởng và cặp ngực căng phồng trong lớp áo bà ba. Nhìn Phương máu tôi xôi lên như nồi canh chua đương bốc khói... vừa lo sợ vừa mắc cở. Tôi bẽn lẽn đi ra nhà trước ngồi bó gối trên bộ ván mơ mộng...
Thường ngày nấu cơn xong, Phương bới bưng lên bàn thờ cúng bác gái trước, sau đó mới dọn cho cả nhà ăn. Hôm nay bác Ba qua chợ chưa về, sau khi bưng cơm lên cúng cô lấy mẻ un ra nhóm. Ngoài trời mưa đã tạnh, gió ngừng. Mọi hôm sóng bạc đầu ập vô bãi bùn vang tiếng rầm rầm. Bây giờ dệu xuống sóng lượng trường lên bãi.
Đêm ấy đoàn xuồng bắt ba khía, vô ‘ruồng’ trong ngọn xẻo Quau, xuồng họ nối hàng lướt qua dòng rạch. Chợt dưới dòng vọng lên tiếng của một đứa con trai:
- Cô Phương ơi tui thương cô quá trời quá đất cô ơi!!!
Thêm một đứa khác hô to:
- Bác ba ơi cho tui ở rể nhà bác ‘đi’ bác ơi!!!
Và tiếng một đứa ngâm nga:
- Ông già ơi hởi ông già, có con hổng gả đốt nhà ông chơi.
Tiếp theo là tràng cười làm vang vội khu rừng. Phương vẫn tỉnh bơ như không có chuyện gì, cô bưng mẻ un ra để trước nhà. Khói un làm nước mắt cô ràng rụa. Cô đi lại ngồi kế bên tôi, vừa quẹt nước mắt vừa nói:
- Lần nào đi ngang họ cũng chọc ghẹo tui om xòm trời đất.
- Ai biểu cô đẹp quá chi.
- Xạo hoài.
Đoàn xuồng qua khỏi, xẻo Quau trở nên yên lặng. Bóng đêm kéo về đánh thức bầy đom đóm trên cây bần trước nhà, ánh sáng nhịp nhàng theo hơi thở làm rực rỡ một góc sân. Tôi day ngang hỏi:
- Sao mà đom đóm tụ lợi có mình ên cây bần?
Phương thỏ thẻ:
- Tại nó thích mùi bần.
Chợt cô giơ tay lên đập xuống đùi tôi nghe cái chách, vừa ê ẩm vừa đã ngứa, tôi ngó xuống cả chục con muỗi dẹp lép, máu dập ra đỏ lòm. Bàng tay Phương cũng dính xác muỗi và máu, cô chùi tay vô ống quần, rồi ngước lên nói:
- Anh lấy quần dài bận vô không thôi muỗi cắn chết bây giờ.
Tôi bước xuống đi qua vách buồng lấy chiêc quần ka-ki trồng vô. Trở ra ngồi sát bên Phương. Gió khua nhẹ tấm phên bên hong nhà. Phương nói vừa đủ nghe:
- Gió nồm.
Phải rồi! Gió nồm, gió báo hiệu mùa đồng chung tới. Nghĩa là tôi sẽ về thị tứ nay mai. Tôi với Phương thường ôm nhau giỡn hớt và cặp kè bơi qua bơi lại dưới dòng rạch mỗi khi nước ngọt tràn bờ. Tôi đâu lạ gì cái thân thể rắn chắc trong bộ đồ ướt nước bó sát để lộ rỏ những đưởng nét thanh xuân. Nhưng lúc đó lòng tôi không rạo rực như bây giờ. Có lẽ hôm nay biết mình sắp rời khỏi nơi đây nên lòng tôi như lửa cháy. Tôi kéo Phương ôm xác vào người. Chắc Phương cũng nghĩ như tôi, cô không có ý kháng cự, trái lại còn ngã người vựa qua tôi. Được trớn tôi ôm vật Phương nằm xuống bộ ván, hôn lên hai gò má ngâm bóng và tay tôi vẹt hàng nút áo... Hai đứa ôm nhau lăng lộn trên bô ván. Chợt nghe tiếng xuồng lụp cụp đậu vô bến. Hai đứa vội buông ra. Phương hoảng hồn ngồi dậy nhảy tót xuống đất, vừa gài nút áo vừa chạy vô buồng. Tôi cũng lồm cồm ngồi dậy nhảy xuống, đi thẳng ra bờ rạch. Giống như tên trộm chưa lấy được đồ đã thấy chủ nhà. Tôi chấn tỉnh mình bằng cách hô to:
- Bác ba dìa!
- Cu đen đó hả?
- Dạ.
- Mầy sửa soạn dìa ngoải đi cào, chủ nghe mới nhắn với ba mầy hồi chiều.
Nói dứt câu bác chợt chưn té cái đụi, văng giỏ đồ qua một bên. Tôi bước tới đỡ bác dậy. Phương bưng đèn ống khói đi ra, cô vặn tỏ ngọn đèn, soi lượm chiếc giỏ. Tôi kè bác Ba vô nhà, vừa nương theo tôi bác vừa lè nhè:
- Hồi sớm ghé nhà tao với ba mầy mần hết cả lít, tao muốn quắc cần câu vậy mà ảnh còn chưa chịu cho tao dìa nữa.
Phương đem giỏ đồ cất, sau đó cô lên trải chiếu giăng mùng trên bộ ván. Bác Ba rửa mình, thay đồ khô ráo leo lên chui vô, nằm chẳng bao lâu bác ngáy khò khò, không thiết tha tới chuyện cơn canh nữa.
Hai đứa dọn cơm trên chiếc chỏng. Đêm nay Phương giống như cô dâu mới về nhà chồng, cô bẽn lẽn không nhìn thẳng mặt tôi. Còn tôi thì nghe lòng lân lân, tuy chưa nói ra nhưng biết chắc trước sau gì cũng chiếm trọn trái tim vàng trong túp lều tranh. Muốn không khí bửa ăn không ngượn ngập, tôi gắp tôm bỏ qua chén cho Phương, nhưng khi gắp lên cả chục con tôm dính tòn ten trên đầu đũa. Tôi gặt gặt mà mấy con tôm ôn dịch không rớt xuống. Đợi Phương giơ đũa gạt dùm mới xong. Tôi nói:
- Ỏ nhà chị tui rang tôm thường cắt đầu cắt đuôi bỏ.
Phương nói:
- Tôm tép lặt đầu, bỏ đuôi đem rang thì mất đi chất ngọt.
Nhờ gắp nhằm chùm râu tôm, không khí bửa ăn trở lại tự nhiên. Chúng tôi bắt sang chuyện mùa đồng chung, chuyện tôi sắp sửa ra bãi. Tôi hứa với Phương tôi sẽ trở vô phụ bác Ba trong những ngày biển động...Hai đứa nói chuyện rù rì đến khi nghe chồn cáo rụt rịt bò ra săn mồi và nghe tiếng thét của con vật xấu số nào đó bị con thú lớn vồ được. Chúng tôi ái náy nhìn nhau, lua vội miếng cơm cuối cùng và bước xuống dọn dẹp chén đũa.
Dọn dẹp xong Phương vô buồng ngủ. Tôi lật nóp ra chiếc chỏng chui vô. Lòng tôi nôn nao cồn cào, đã vậy cơn mưa đêm ác ôn lại kéo về làm cho khu rừng vang tiếng rào rào, hỏi ai mà chịu đời cho thấu. Tôi nghe trong buồng động vạt cọt kẹt, biết Phương cũng ngủ không được. Muốn chui qua buồng nằm với Phương nhưng ngặt một nỗi bác Ba ngủ cách buồng chỉ một tấm vách. Ông già thính tai lắm, say rượu quắt cần câu, chồn cáo xuống bắt cá rọng trong chiếc rọng tre dưới rạch ông còn nghe, huống hồ chi chui vô buồng mò con gái ông bất hợp lệ. Chết với ông chớ hổng phải chơi.
Nhưng tôi không trở lại xẻo Quau như lời đã hứa với Phương. Tôi vượt biển bỏ quê hương giữa mùa đồng chung năm ấy.
Sau hai mươi năm xa xứ, nay tôi trở về. Đầu tôi sói, tóc tôi bạc gần nửa mái nhưng tôi không bao giờ quên được bửa cơm canh chua trái dác và tôm bạc đất rang muối, mỡ, hành. Nhứt là cảm giác đầu đời được ôm con gái. Cái cãm giác mơ mơ màng màng cứ lãng đãng trong tôi ngót hai mươi năm. Hai mươi năm biết bao sao dời, vật đổi, ba má tôi giờ đây không còn nữa, bác ba Đó cũng đã qua đời. Còn Phương thì Nghe đâu cô đã có chồng và sinh một bầy con. Người nói cô ở Cái Đôi, người chỉ qua bên Cái Nước, Năm Căn hay rạch Gốc... Địa chỉ tùm lum như vậy, tôi có muốn đi thăm cũng không biết đâu mà lần.
Hồi ra đi mấy đứa cháu tôi còn dọc bùng dọc đất. Bây giờ chồng con lủ khủ, chúng dắt díu về thăm. Một đứa cháu gái kêu con ra đứng trước mặt khoanh tay, dạy nói:
- Dạ thưa ông Tám.
Nghe cháu gọi tôi rùng mình một cái, già tới nơi rồi. Tôi cúi xuống bồng đứa cháu kêu bằng ông, nó sợ khóc ré lên và day ngang ôm chân má nó cứng ngắc. Trong gia đình máu mủ ruột thịt với nhau còn lạ lẫm rồi. Thử hỏi khắp xã nầy được mấy người quen.
Bây giờ là tháng ba, mùa gió chướng, mùa ngư phủ ra khơi và mùa tôm bạc bãi. Trước kia mấy ngày nầy những chiếc ghe cào, ghe te đem tôm về phơi lấn hết lối đi. Trưa trưa nghe tiếng đập tôm phình phịt từ đầu khu một tới cuối khu ba. Ngày nay nhà cửa chiếm hết mặt bằng. Tôm tép chẳng thấy phơi. Người ta ở đâu mà đông như kiếng. Tôi chen chúc trong khu chợ. Gặp vài người quen chào hỏi. Họ nói chuyện lơ là nhưng không gọi tôi là thằng Cu Đen như ngày trước, mới hay cho đến cái tên cún cơm của tôi cũng bị thời gian xóa bỏ. Ghé qua chợ cá, những thau cá, thau tôm lưng lững, trông chiếc thau dềnh dàng ra, còn người bán thì ngồi chum húm như teo lại.
Tôi dừng lại trước một cô gái bán tôm, ngày xưa Phương của tôi cũng ngồi nhóm chợ như vầy. Thấy tôi đứng tần ngần chăm chăm ngó. Cô gái sửa lại thế ngồi, nhết miệng cười duyên và cất tiếng hỏi:
- Bác mua tôm hả bác?
Tôi không có ý mua tôm, cho nên nghe cô gái hỏi, tôi giựt mình gật đầu ừa đại:
- Ừ ừ, tôi mua.
- Bao nhiêu bác?
- Cô cân hết trong thau cho tui.
Cô lẹ làng nghiêng chiếc thau, tay vét tôm gôm lại. Nhúm tôm đủ gói trong chiếc lá chuối vấn kèn, vậy mà cô cũng hỏi tôi mua bao nhiêu.
Tôi đem tôm về nhà nhờ đứa cháu rang muối, còn cẩn thận dặn cứ để nguyên đầu nguyên đuôi cho tôi. Bửa cơm chiều hôm đó, tôi ăn tôm rang xảm xì, vỏ tôm lợn cợn dán vô cuống họng làm tôi phải khạc nhổ mấy lần. Cháu tôi thấy vậy bưng dĩa tôm lột bỏ vỏ lấy thịt để riêng một chén đưa qua cho tôi. Tôm bạc đất lột vỏ màu đỏ, tươi rói, ngon ngọt khỏi chê. Phải chi có miếng xà lách lót dưới, một khoanh chanh để trên và rưới thêm xốt cóc-tai thì ngon biết mấy!
Chăn Trâu khổ Lắm
Trong đời tôi có một khoảng tuổi thơ được sống trong cảnh thanh bình, mà tôi còn nhớ rõ ràng nhứt là thời gian ba, má tôi ở quận Thới Bình. Lúc đó nhà tôi ở trong ấp chiến lược, ấp nằm trong một bờ thành đất sét đắp cao khỏi đầu người lớn, mặt ngoài thành có cắm chông tre nhọn chi chít và trên mặt thành là một hàng rào tre bện khít khao, chó chui không lọt. Đứng trên bờ thành nhìn ra xa là một cánh đồng cò bay thẳng cánh.
Nhứt là mùa xuân đồng ruộng khô ráo, thường những buổi chiều chúng tôi ra bờ thành xem người ta thả những con diều to lớn, gắn đuôi thiệt dài và bay thiệt cao dưới bầu trời xanh ngát, có con phát ra ra âm thanh vi vu như tiếng sáo thổi. Anh em chúng tôi cũng tự vót trúc, uốn sườn, dán giấy nhựt trình tạo thành những con diều nho nhỏ, rồi đem ra bờ thành thả chơi suốt ngày.
Đầu mùa mưa ong bầu thường làm ổ trong bọng những cây tre cắm rào trên bờ thành chiến lược, chúng tôi để miệng chai ngoài miệng lỗ, chỗ ra vào của ong, lấy cây gõ gõ bên ngoài thân tre lừa cho ong chui lọt vô chai, rồi đem về nhà, lật úp chiếc thùng thiết xuống, để ong bầu lên đít thùng, phủ miếng vải lại và lấy cái dĩa dằn lên lưng ong cho nó phát ra tiếng tè tèèè... nghe rất vui tai, chúng tôi gọi đó là máy hát.
Tuy nhiên những trò chơi nhẹ nhàng ấy làm tôi mau chán. Tôi rất thích cỡi trâu, vì vậy tôi thường ra đồng tìm chơi với nấy đứa chăn trâu. Mấy đứa chăn trâu khôn lắm, chúng biết ý tôi muốn gì cũng như chúng biết ý bầy trâu để chúng ra lịnh điều khiển trâu làm theo ý muốn của chúng. Trong đời sống dĩ nhiên cái gì cũng có giá phải trả, tôi muốn cỡi trâu thì phải trả tiền hoặc một gói xôi hay cái bánh ú, bánh lá dừa chẳng hạn. Vì vậy bao nhiêu tiền và quà bánh của má tôi cho ăn đi học tôi đem trả tụi chăn trâu hết, để đổi lấy mấy buổi cỡi trâu. Một hôm không tiền, không bánh, tôi xin chúng cho tôi cỡi trâu thiếu chịu. Bọn chúng không đồng ý, chúng đề nghị tôi vô vườn hái ô môi cho đem ra cho chúng ăn rồi chúng cho tôi cởi trâu. Ghiền cỡi trâu quá nên tôi làm theo, tôi trèo vô vườn người ta, không quen ăn trộm nên đứng sớ rớ, chưa hái được trái nào thì đã bị chủ vườn bắt gặp. Ông ta bèn dẫn tôi về nhà mắng vốn. Má tôi giận quá, bà đánh tôi một chập và cấm không cho tôi ra đồng chơi với đám chăn trâu đó nữa.
Năm ấy tôi được mười một tuổi, Thới Bình chưa có trường học, tôi học trong một nhà thờ, cô giáo là một bà Sơ hơi lớn tuổi. Đám học trò tuổi tác lộn xộn, đứa nhỏ thì bảy tám, đứa lớn thì mười mấy. Lớp học chia ra làm hai nhóm, nhóm nào chưa biết viết, biết đọc cô dạy tập viết, tập đánh vần, nhóm nào biết viết biết đọc rồi thì cô dạy làm toán, học công dân, đức dục và cho bài học thuộc lòng đem về nhà đọc. Tôi thuộc nhóm biết đọc biết viết, có bài thuộc lòng tôi còn nhớ cho tới ngày hôm nay:
“Các em là búp măng non, là đàn chim nhỏ dưới vòm trời cao, là hoa xuân thắm nắng đào, là hy vọng của đồng bào Việt Nam, giờ em chăm học chăm làm, thì mai sau sẽ giỏi giang giúp đời, nước nhà trông cậy em ơi, làm trai ta phải luyện rèn sức trai.”
Trong lớp tôi có quen với chị bé Hai, chị lớn hơn tôi hai ba tuổi gì đó, nhà chị có một cặp trâu, thường thì anh Bần, em kế của chị chăn, còn những ngày nghỉ học thì chị chăn phụ. Tôi thích chơi với chị hơn là chơi với đám chăn trâu, chị cho tôi cỡi trâu bất cứ lúc nào tôi muốn, không phải trả tiền, trả bánh gì hết và còn được chơi nhiều trò chơi thú vị. Nhứt là những buổi trưa chị thường tụ tập bạn bè trang lứa hoặc nhỏ cỡ tuổi tôi ra vườn. Ngoài vườn có một cái bụi mà chị và mấy đứa bạn đã dọn trống, bên trong bụi ngồi được năm sáu đứa, nhờ phía ngoài được che kín bằng lá dừa nước nên trời mưa chúng tôi có thể ngồi chơi bên trong mà không sợ ướt. Không biết ai nắn dùm chị cà ràng, nồi, tô, dĩa, chén bằng đất sét nung đỏ rất khéo, mấy chị có thể nấu cơm kho cá trong những món đồ chơi đó. Thường bữa trưa, chúng tôi tụ tập trong lùm bày trò chơi đám cưới. Trong nhóm chị bé Hai là nhiều sáng kiến nhứt, chị bày chúng tôi chặt lá đu đủ làm lọng, lấy tấm ván nhỏ làm mâm trầu cau, lễ vật là trái dừa hoặc nải chuối... Trong nhóm mình ên tôi là con trai nên lúc nào cũng được chọn làm chú rể, hôm nay làm chồng với chị nầy, mai với chị kia... Đám cưới cũng đầy đủ nghi thức, lạy bàn thờ, ăn trầu cau và rước dâu đi vòng quanh khu vườn, khi trở về chòi bày đồ ra ăn nhậu, dĩ nhiên là ăn giả bộ, sau khi ăn uống xong, mấy ngưòi khách đi về cho cô dâu chú rễ động phòng hoa chúc, cũng giả bộ ôm nhau ngủ đó thôi.
Một buổi trưa chị bé Hai rủ tôi ra lùm cây, chỗ mà chúng tôi hay tựu tập, kéo tay tôi vô lùm, kêu tôi ngồi xuống coi chị đốt lửa cà ràng, sau đó chị đổ dấm vô lon sữa bò và bắt lên lửa hâm tới khi dấm ấm ấm. Chị bắt dấm xuống rồi cởi nút áo, vạch ngực ra, ngực của chị một bên u lên như núm cau và một bên xẹp lép, chị kêu tôi thoa dấm lên ngực và nhờ tôi bóp dùm phía bên xẹp cho chị, chị nói làm vài lần thì bên nầy sẽ bự bằng bên kia, lúc đó tôi còn nhỏ đâu biết khỉ gì, chị kêu tôi làm sao thì tôi làm vậy. Quả thật, vài lần sau đó ngực bên lép đã sưng lên, tuy mấy lần sau tôi đụng vô chị đau lắm nhưng vì muốn có bộ ngực cân đối chị phải cắn răng chịu đựng. Mặc dầu lúc đó tuổi tôi còn non trẻ, nhưng tôi mơ hồ có một niềm thích thú mà tôi không sao tả được. Một buổi trưa như thường lệ tôi và chị bé Hai chuẩn bị đồ nghề để “nâng cấp” ngực lép của chị, không biết đứa nào mách lẻo, mà má tôi với má chị đột nhiên xuất hiện, mặt mày người nào người nấy đằng đằng sát khí, mỗi người lôi một đứa về nhà. Tôi không biết má chị đánh chị cỡ nào, chớ má tôi thì nổi tam bành lục tặc, sắc mặt dữ dằn, chưa bao giờ tôi thấy bà ghê sợ như lần đó, mấy lần lầm lỗi trước kia bà bắt tôi nằm sắp lên giường, trước khi đánh bà kể những sai lầm tôi đã gây ra và cho biết số roi tôi phải chịu, nhưng lần nầy bà xả roi túi bụi... Sau khi bà trút hết cơn giận thì mình mẫy tôi có lằn tím và mông sưng như dề cơm cháy. Từ đó bà cấm tôi không được đi chơi với mấy đứa con nít “quỷ” đó nữa...
Cho tới hôm nay, đầu đã hai thứ tóc rồi, vậy mà mỗi khi nhớ tới những ngày êm ả hồn nhiên ở Thới Bình, tôi nhớ nhứt là trò chơi đám cưới và chuyện giữa tôi với chị bé Hai, mặc dầu mục đích chính của tôi lúc đó là muốn được cỡi trâu hơn là cùng mấy chị chơi những trò chơi cấm kỵ.
Những năm sống nơi xứ lạ quê người hình ảnh con trâu Việt Nam đã phai mờ trong tâm trí. Rồi một hôm đứa con gái lớn của chúng tôi đem về một cuốn sách có minh hoạ hình, bằng tiếng Hoà Lan, tựa đề là Een jongen in Vietnam (Một Em Trai Ở Việt Nam). Bìa sách có in hình một em trai, độ chín mười tuổi, bận áo sơ mi sọc màu xanh mới toan, tay cầm sợ dây mũi của con trâu, thân hình con trâu to tổ chảng đương đứng trên con đường làng, cạnh một căn nhà tường vôi rữa, xi măng trốc lòi gạch trông cũ kỹ làm sao. Con gái tôi thích lắm, nó đọc hết cuốn sách trong một buổi, sau đó nó sơ lược cho vợ chồng tôi nghe về câu chuyện trong sách. Đại khái là em bé Việt Nam vừa đi học, vừa chăn trâu, về nhà lo phụ giúp gia đình... Vậy mà ở trường em còn là học sinh giỏi và ước mơ tương lai em trở thành phi công hoặc tài xế máy cày...
Thật ra từ ngày Trúc Thanh, vợ tôi, mang thai đứa con gái đầu lòng thì chúng tôi lúc nào cũng bâng khuâng lo lắng, sống nơi xứ người, không biết làm cách nào để dạy con cho thành người Việt. Cuối cùng vợ tôi đề nghị, cứ theo lời của những bậc trí thức ngoài nầy, mình nên tìm về nguồn cội, may ra... Vậy là tôi phải một phen lục lọi tìm tòi sách Việt Nam viết về văn hoá, phong tục, ca dao, tục ngữ, hát ru con, vọng cổ; đọc báo, lướt mạng để tìm về... nguồn cội. Hay lắm, tôi nói với vợ, mình có thể ru con bằng ca dao, tới tuổi nó hiểu biết thì mình kể chuyện cổ tích Việt Nam cho nó nghe, khi lớn lên tức khắc nó trở thành người Việt chánh hiệu con rồng vàng.
Giờ đây ít nhiều gì vợ chồng tôi cũng hài lòng khi nhìn thấy con gái lưu tâm tới văn hoá Việt. Nhưng khi thấy cái hình của em bé chăn trâu ngoài bìa sách không giống một em bé chăn trâu thứ thiệt mà tôi đã biết qua và câu chuyện có vẻ lý tưởng quá cho một em bé chăn trâu. Nhưng hề gì, qua ca dao, tục ngữ và truyền thuyết, lịch sử tôi thấy người xưa đã từng lý tưởng hoá hình ảnh mục đồng lúc thì nhàn nhã như tiên, khi thì anh hùng tái thế làm tới đế vương... Tuy nghĩ là nghĩ vậy, nhưng khi dạy con tôi chọn lọc, bỏ bớt những câu lý tưởng có hơi quá trớn như: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ...” Tôi giải thích cho hai con tôi biết rằng, chăn trâu cực khổ lắm, sáng dắt trâu ra đồng cho ăn cỏ suốt ngày, những ngày mưa thả trâu ra đồng không được phải lội ra đồng tìm cỏ non cắt bó từng bó đem về cho trâu ăn, trâu ỉa trong chuồn phải hốt cứt đem đổ, chiều phải tắm trâu, tối giăng mùng cho trâu ngủ..... Chừng đó công việc đã chiếm hết thời gian thì còn thời giờ đâu nữa mà học với hành. Đó là chăn trâu của nhà, nếu chăn trâu do chủ mướn mà lỡ để trâu đạp lúa hoặc ăn lúa ruộng người ta thì bị trừ lương. Thời địa chủ em chăn trâu nào lỡ để trâu đi mất thì bị chủ đánh đòn tàn bạo, có khi bị đánh và bỏ đói cho tới chết. Nói trắng ra chăn trâu chẳng có chút vui sướng nào như mấy em gái ở Hoà Lan “chăn” con ngựa của mình cỡi.
Tuy nhiên ngoài những cực khổ của em bé chăn trâu ra, tôi cũng kể cho hai đứa con gái tôi nghe những hình ảnh đẹp giữa trâu và người. Từ ngàn xưa nhà nông biết cách dùng trâu để cày, bừa ruộng hoặc cho trâu kéo cộ, kéo xe... Lúc nào trâu và người nông dân cũng hợp tác với nhau chặt chẽ, họ xem trâu như là một người bạn đời thân thiết. Vì vậy mới có những câu gắn bó người và trâu như:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Mình cũng có thể tưởng tượng ra, sau những giờ người và trâu cày, bừa mệt nhọc. Bác nông phu với trâu ngồi dưới một gốc cây nghỉ mát, bác uống trà, còn trâu nằm cạnh bên nhơi cỏ và bác vuốt đầu trâu tâm sự:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Chừng nào cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn...
Nhờ tìm cách dạy con mà tôi học thêm rất nhiều về chuyện con trâu với những tập tục chọi trâu của từng vùng và lễ đâm trâu của người dân tộc. Trong những chuyện tôi thích nhứt là tranh chăn trâu của nhà thiền, nhưng cái nầy thì chưa giải thích cho hai con tôi nghe được.
Có một bức tranh con trâu ăn cỏ trên cánh đồng xanh và em bé ngồi trên lưng trâu thổi sáo, Trúc Thanh và hai đứa con thích lắm, nên kêu tôi đem đóng khung treo lên tường. Thanh cũng góp chuyện kể cho hai đứa con gái nghe quê ngoại của chúng ở tận miền Trung nước Việt Nam, người ta vẫn còn dùng trâu cày ruộng, mai mốt về bển sẽ cho hai đứa tha hồ cỡi trâu. Nghe má nó hứa làm tụi nó nao nức ngày về Việt Nam xem con trâu thiệt và sẽ cỡi trâu cho biết. Hai đứa con gái tôi năm nay đứa nhỏ lên chín, đứa lớn trên mười. Chợt nhớ lại chuyện xưa, hồi ở tuổi chúng nó tôi cũng rất thích cỡi trâu.
Mùa hè năm nay vợ chồng tôi đưa hai cháu về thăm quê ngoại ở ngoài Nha Trang. Xe chạy trên quốc lộ một, tới khúc nào có ruộng thì hai con tôi cứ để ý tìm xem trâu, nhưng không thấy trâu, hai đứa thắc mắc tại sao tôi nói với chúng rằng Việt Nam nhà nông cày ruộng bằng trâu nhưng sao thấy toàn là máy cày. Nghe chúng càu nhàu má nó lên tiếng:
– Ở đây ruộng lớn nên người ta dùng máy cày cày cho lẹ, quê ngoại có những thửa ruộng nho nhỏ nên nhà nông sợ tốn nhiên liệu nên mới dùng trâu kéo cày, về tới nhà ngoại rồi con sẽ thấy trâu đi thành bầy giống như trong phim Mùa Len Trâu mà con đã xem hồi ở bển.
Xe chạy qua khỏi đèo Rù Rì chợt hai con tôi reo mừng hô lớn:
– Trâu kìa, trâu kìa...
Tôi dòm lại thấy mấy con bò đương ăn cỏ bên lề đường, tôi nói:
– Không phải trâu đâu , con nhìn kỹ coi, con bò đó.
Đứa con gái nhỏ thắc mắc:
– Sao bò màu vàng mà hổng có bông và ốm nhom ốm nhách, lòi be xường, không giống như bò ở Hoà Lan chút nào hết.
Con chị làm tài khôn giải thích:
– Bò Việt Nam nghèo hơn bò Hoà Lan, ăn uống thiếu dinh dưỡng nên mới ốm nhom ốm nhách và nắng nóng quá làm da bò đổi ra màu vàng.
Nghe con gái tôi so sánh làm những người trong xe cười rộ.
Phong cảnh Vạn Giả sạch và mát, dưới là biển trên là rừng, núi. Nghe kể ngày xưa nơi đây được mệnh danh là rừng vàng bạc biển. Đất nước tôi từ Nam ra Trung, nơi nào cũng rừng vàng bạc biển, vậy mà mà dân đen cúi mặt xuống đất, bán lưng cho trời, quần quật như trâu nhưng vẫn kiếm không đủ cơm ăn...
Những ngày lưu lại quê vợ, sáng sáng tôi hay ra quán cà phê, ngồi nghe dân quê nói... tục và chưởi thề. Hồi ở nhà mỗi lần “chat” với người quen, tôi thường nghe tiếng chưởi thề của đám nhỏ văng vẳng trong microphone. Hôm nay về đây mới nghe tận tai, nhìn tận mắt. Đám con nít bận đồng phục, quàng khăn đỏ ngồi chơi game la ó chưởi thề ỏm tỏi. Tôi mơ hồ một nỗi xót xa, một niềm thất vọng nào đó mà tôi chưa xác định rõ ràng. Vợ tôi vô tư, về quê chỉ chú ý tới chuyện thăm bà con, bạn bè, ăn uống, sửa sắc đẹp rồi rủ nhau cắm trại và đi hát karaoke...
Hổm rày lo dẫn hai con đi chơi đây đó nên chúng nó không có dịp coi trâu. Chiều nay trên đường về nhà tình cờ tới đầu xóm thấy người ta dẫn một bầy trâu đi ào ạt, tung bụi mịt mù, Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa xua đám chăn trâu ra trận mạc chắc bụi cát bay cũng cỡ như vầy. Thấy trâu hai đứa con gái tôi mừng quá, không chờ trâu tới, a tầm phù chạy về phía trước để coi. Nhưng khi chúng gần tới bầy trâu thì tự dưng sựng lai và nép qua đường, lúc bầy trâu đi ngang đứa con gái nhỏ sợ quá đi thụt lùi, không để ý nên đạp lên bãi cứt trâu làm nó hoảng hồn khóc om xòm trời đất. Trong khi tôi đi tới bồng con nhỏ lên, thì con chị bịt mũi vừa chạy vừa hô to.
– Thúi quá, thúi quá, mấy con trâu thúi quá...
Về nhà tắm rửa xong thì đã tới giờ cơm. Cậu tư nói với hai đứa nếu muốn thì ngày mai cậu dẫn đi qua nhà ông Tám cho cỡi trâu, bên bển có bốn con trâu. Chợt hai đứa buông đũa rưng rưng khóc, hai đứa con tôi có tánh đương ăn cơm hễ ai nói chuyện dơ dáy thì chúng ăn không được. Thấy hai đứa khóc dì ba cũng buông đũa dỗ ngọt và dụ dẫn hai đứa đi ăn bánh bèo, món duy nhứt của quê ngoại mà hai đứa ưa chuộng.
Kỷ niệm những ngày về quê vợ chỉ có bấy nhiêu. Khi ra ngoài nầy, hai con tôi đã trở lại trường học, vợ tôi thì vô xưởng làm, còn tôi vẫn tiếp tục cộng việc của mình và cũng không để ý tới chuyện trâu, bò gì nữa hết.
Cũng như mọi năm, trước Tết, gia đình chúng tôi thường đi chợ Việt Nam mua sắm, tiện dịp xin lịch mới của Việt Nam đem về nhà treo. Vợ tôi xin được mấy tấm lịch còn nguyên trong bọc nylon. Đem về nhà hí ha hí hửng khoe với hai đứa con gái và đưa cho mỗi đứa một cuốn, biểu chúng đem treo trong phòng ngủ. Chúng cầm lịch rồi đi lại bàn ngồi xuống mở ra xem, chợt hai đứa đồng thanh hô lên một lượt:
– Eeewww... (Tiếng hô mỗi khi gặp chuyện ghê gớm.)
Rồi bỏ hai tờ lịch lại bàn, chúng chạy tuốc lên phòng. Chúng tôi không hiểu chuyện gì hết, vợ tôi bèn đi lại bàn xem. Tới phiên cô vợ chỉ tay xuống tờ lịch:
– Anh anh, lại đây coi nè.
Tôi đi lại thấy ngoài bìa tấm lịch in hình đầu một con trâu tổ bố. Vợ tôi nói tiếp:
– Hai đứa con mình chắc mất gốc hết rồi anh.
– Em nói gì kỳ vậy, sợ trâu đâu có ăn nhằm gì tới chuyện gốc gác.
– Sao hồi trước anh nói là dạy con cho thành người Việt chánh hiệu con rồng vàng mà.
Tôi ra bộ nghiêm trang, gật gù:
– Bây giờ anh không hiểu nổi cái mẫu người Việt đàng hoàng nó ra làm sao nữa, xin thưa thiệt với em, hồi hè vợ chồng dắt con về bên bển anh thấy từ già cho tới trẻ ăn với nói, nghe mà phát khiếp làm anh sợ con mình bị nhiễm quá chừng, mẫu người nầy không được đâu, thôi thì tụi nó thành người Tây, người Mỹ, người Tàu, người Nhựt... cũng chẵng hề gì, miễn sao nó lớn lên sống cho ra một con Người là tốt lắm rồi.
Trúc Thanh không nói thêm gì, cô bậm môi, mắt đăm đăm nhìn vô tấm lịch, hồi sau cô ngước lên nói:
– Năm tới là năm con Trâu, rõ ra năm tới là năm Kỷ Sửu.
Còn nhớ lão nông chăn vịt
Dăm con đường ngang dọc trong cái xã nhỏ bé, khoảnh khắc nào cũng khô khan.
Những trưa mùa hè, đạp xe xách lồng cơm xuống cho nội, nắng rọi thẳng lên đỉnh đầu, cảm tưởng như chỉ cần ai sờ nhẹ vào thì mái tóc... nghệ sĩ sẽ bể ra từng khúc nhỏ, rớt ngập đường như thước phim đầy cô đặc về miền Trung.
Ngày ngày, tạt trên những con đường, tôi đã nảy mầm về một giấc mơ... ôn đới. Đêm ra hàng ba nằm ngóng những phiên gió ít ỏi, ngó mảnh vườn thanh long cằn cỗi dưới ánh trăng, thấy kết cục cái nghèo đã len vào dòng tư duy hồn nhiên...
Miền đất khô khốc chỉ trở nên dìu dịu vào mỗi buổi sáng khi thanh long vô mùa. Đạp xe cộc cạch chở nước, xuyên giữa đồng hoa trắng muốt và huýt sáo véo von đợi ngày quả chín. Ngày quả chín, ngôi làng bỗng đậm nét phố chợ, thương lái từ khắp nơi đổ về, thường là một người đàn ông lái xe và một người đàn bà ngồi đằng sau, hai chân thò vô hai giỏ cần xé, hình ảnh chính thống về những người đàn bà buôn đường dài.
Những cần xé thanh long đỏ au tròng trành ngược xuôi trên con đường còn lởm chởm đất tạo ra sự sầm uất tạm bợ và hiếm hoi vốn chìm trong những cơn khô kéo dài. Ký ức của tôi vào mùa thu hoạch hồi những năm 1990 còn thêm chuyện ba ngồi gom những trái thanh long hàng chôm (bé như trái chôm chôm) cho bò và má ngồi thấm nước miếng để đếm xấp tiền mỏng dính khi chiếc xe cuối cùng của thương lái rồ máy vút đi.
Cánh đồng thanh long đẹp như tranh nhưng nhìn buồn hiu với những anh chị còn thanh tân, đã rát mặt, rát da vì những vết cấu của chùm gai thanh long hình vương miện. Có lẽ mọi người đang muốn một kết cục có hậu hơn của những vất vả triền miên thời thanh xuân.
Nỗi buồn nông sản dứt cơn sau cả thập kỷ dài khi những đóa thanh long nghịch mùa nở trắng đồng vào nông vụ đông xuân. Vòm thanh long nứt gai, quang hợp dưới ngọn nắng đêm sau một ngày ngủ dưỡng trái. Những ngọn đèn đêm thắp lên khắp các mảnh vườn và dàn rộng ra như một thị trấn ánh sáng để thay nắng tắm táp lên những sợi cây gai guốc và im lìm.
Những lúc chong đèn thanh long, tôi đem nia ra ngồi ở đầu mảnh vườn, đọc bài ro ro vì chữ chạy rõ quá, óng ánh trên tập. Ánh sáng như chảy dồn vào tim, hừng hực một giấc mơ về ánh sáng chữ nghĩa, ánh sáng trong những dự báo vô thức.
Khi dàn ánh sáng vừa tắt đi là bình minh ló dạng từ phía cánh đồng, ngôi làng những ngày cuối năm, chưa bao giờ chìm trong bóng tối. Thèm những bữa sáng nhìn hoa đáp bóng cánh xuống giếng nước và hoan vui chờ trái ngọt nghịch mùa. Ngoài chợ, ngoài phố chẳng có bè phái trái cây ngon ngọt rẻ rề như hồi mùa chính nên thanh long ngẫu nhiên trở nên có quyền bính, giá tăng gấp chục lần, nghe phấn chấn cả đầu óc và hừng hực ý chí ra vườn đầy gai guốc.
Trái nghịch mùa được ủ ấp, chăm bón kỹ, trái nào da cũng căng đỏ, bóng lưởng, tai cứng khừ nên tung ra toàn hàng xuất, hàng cồ, không bị thương lái chê ỏng chê eo, không bị liệng vào thúng hàng dạt, hàng chôm... Những hôm thanh long chín đỏ rực làng, thương lái cũng vô ra ồ ạt, ra giá, tự sát phạt nhau giành mua từng vườn - một hiện tượng xã hội kỳ lạ mà người trong xã duyên hải khô cát này lần đầu mới thấy, lần đầu bật cười... ra nước mắt. Vựa thu chuyển từ đẩu đâu về sát xã, xe tải đông lạnh ra vô tấp nập tựa hồ như thành phố lớn, dòm lồng lộng mắt.
Ước mơ về một thủ phủ thanh long thành hình trong những tâm hồn nhỏ tuổi lớn lên trong giao thời. Những trụ thanh long non mọc lên, nối dài bất tận mấy mảnh vườn thanh long già cỗi như nối tiếp những khát khao. Ruộng rộc ao vườn trong làng được san bằng phẳng cho một kế hoạch phủ xanh thanh long trên diện rộng.
Người ta bắt đầu mê làm thanh long. Người ta mê những lúc thương lái vừa ra đi, để cọc tiền có những lúc lên tới chín con số. Những con số có thể xây nhà lầu, sắm tủ lạnh, xe ga và nói chuyện kiểu nhà giàu... Chẳng hạnh phúc nào bất tận bằng ăn bát cơm ngon do mồ hôi đổ hột trên mảnh quê mình...
Tiếng xe máy ồn ã khắp con đường làng, nuốt đi sự yên ắng và nghèo nàn. Trên những chiếc xe ga êm như ru, những giấc trưa sâu giấc trên những ngôi nhà gạch men mát rượi..., chẳng biết có ai còn nhớ lão nông chăn vịt, mùa lạnh đã treo đèn bên gốc thanh long già sưởi ấm cho lũ vịt để rồi tình cờ “phát minh” ra trái thanh long nghịch mùa. Chẳng biết có ai còn nhớ?!
Tết của ngày xưa
Mỗi năm, khi những tờ lịch còn lại trên bàn mỏng đi, thì trí nhớ của tôi lại dày lên những ký ức về Tết. Tết trong tôi luôn bắt đầu từ những ngày thơ ấu, trong căn nhà nhỏ nép mình bên rặng dừa xanh ở ngoại ô thị xã Bạc Liêu, nơi mẹ tôi đã dành dụm gói gém tất cả tình yêu của mẹ dành cho gia đình, để Tết nở bung rực rỡ.
Hình ảnh Tết trong tôi là dáng mẹ ngồi bên hiên nhà. Tóc của mẹ xõa xuống che phủ một phần khuôn mặt sạm đi vì nắng gió và vất vả. Khuôn mặt ấy thoang thoảng niềm hạnh phúc khi mẹ chăm chú tước đi phần héo úa của những củ hành, củ kiệu. Tôi lăng xăng giúp mẹ rồi vui mừng trước rổ kiệu sáng ngời lên trong nắng và rổ hành lấp lánh ánh tím. Mẹ dạy tôi cách pha muối, đường, giấm… và cách cắt kiệu, cắt hành sao cho giữ được độ tươi, để hành và kiệu giòn tan trong miệng trong những ngày Tết sắp tới.
Khi những lọ thủy tinh đựng hành và kiệu sáng lên một góc bếp, thì cũng là lúc tôi được giao phó một công việc đặc biệt: hái dừa làm mứt. Mảnh vườn nhà tôi không lớn, nhưng có ba cây dừa trĩu quả, soi bóng xuống những chiếc ao lăn tăn vết cá quẫy. Những cây dừa không quá cao, nhưng chúng cũng đủ cao để thử thách kỹ năng leo trèo của tôi. Với sự dẻo dai của một đứa con gái đang lớn, tôi nhanh chóng thoắt mình lên cây, tựa mình vào những bẹ lá to vững chãi ở trên cao, chọn những quả dừa già vừa đủ, để mứt thơm, dẻo và mềm. Bố và anh trai tôi giúp chúng tôi tước sạch vỏ và bổ những trái dừa. Mẹ thưởng cho mỗi người một cốc nước dừa thơm ngọt, mát rượi, phần còn lại sẽ để dành để làm món thịt kho tàu cùng trứng – một món không thể thiếu được trong những bữa cơm ngày Tết ở miền Nam. Cạy cơm dừa ra khỏi chiếc sọ dừa cứng, mẹ hướng dẫn tôi cách gọt bỏ phần da nâu, rồi bào dừa thành từng miếng mỏng và dài. Bàn tay gầy với những đường gân xanh của mẹ chần sơ dừa qua nước nóng rồi ướp dừa cùng đường trắng. Khi dừa đã trong và đường đã tan hết, tôi nhóm lửa và giúp mẹ xào mứt. Mẹ dạy tôi cách xào với lửa thật nhỏ, đảo thật đều và nhẹ tay để mứt không đứt gãy.
Ngày ấy, trong căn bếp nhỏ được lợp bằng lá dừa nước, ngồi bệt trên một chiếc ghế nhỏ cạnh chiếc bếp được đốt bằng than củi, tôi đã cùng mẹ chuẩn bị rất nhiều loại mứt: mứt dừa, mứt gừng cay, mứt gừng dẻo, mứt bí đao… Tết gia đình tôi những năm ấy, sơn hào hải vị chính là những món mứt do chính tay mẹ và tôi tự làm – những món mứt còn ngọt và thơm trong ký ức tôi đến tận hôm nay.
Trong khi mẹ và tôi bận rộn với công việc bếp núc, bố và anh trai tôi cũng chuẩn bị cho một công việc đại sự của cả năm: đó là việc bắt cá ở chiếc ao cạnh nhà. Chiếc ao không lớn, nhưng hàng năm đều chứa đựng những bí mật của riêng nó. Bố tôi và anh trai tôi, mỗi người một đầu dây, dùng gàu tát nước vào con mương đằng sau nhà. Ao nước cạn dần, cùng với những tiếng quẫy ngày càng lớn của những chú cá lóc, cá trê, trắm cỏ, cá rô… Tôi thấy Tết đang về trong tiếng cười của anh tôi khi đầm mình vào lớp bùn đặc quánh, dâng lên cao đến hông, để chụp bắt những con cá đen trũi. Cả khuôn mặt của anh tôi lấm lem bùn, chỉ còn mỗi hàm răng là trắng. Chúng tôi đựng những con cá to và ngon nhất vào một chiếc xô to, đổ đầy nước và buộc đằng sau chiếc xe đạp của mẹ. Tôi vẫn còn nghe tiếng chuông xe đạp của mẹ lanh canh xa dần, khuất dần sau những cành mai đang vươn nụ. Rồi mẹ trở về vài tiếng sau đó, lưng áo đẫm mồ hôi. Mẹ ngồi và đếm những đồng tiền nhàu nát, cũ kỹ. Đó cũng là tiền ăn Tết của gia đình tôi.
Tiền bán cá giúp chúng tôi mua gạo nếp, thịt lợn, đỗ xanh, và lá dong. Dù đang sống ở miền Nam, nhưng bố mẹ tôi – những người gốc Bắc, không thể nào thiếu bánh chưng trong những ngày Tết. Hạnh phúc lớn nhất của tôi và anh tôi là được quây quần gói bánh chưng cùng bố tôi. Bàn tay khéo léo của bố thoăn thoắt gói từng chiếc bánh xanh vuông vức mà không cần bất cứ chiếc khuôn nào. Bố dạy chúng tôi cách xếp lá, đong gạo, xếp thịt, rải đỗ và trải lên đó một lượt nếp nữa. Bàn tay ông cẩn thận hướng dẫn chúng tôi cách bẻ lá sao cho bánh chưng thật vuông vức, và cách thắt nút lạt sao cho bánh chưng không bị bung khi nấu. Chúng tôi được tự tay mình gói những chiếc bánh bé xíu, để rồi tự tưởng cho mình những chiếc bánh ấy trong ba ngày Tết.
Vào ngày mùng một Tết, tôi được mẹ mặc cho một bộ quần áo mới – bộ quần áo mới duy nhất của năm, rồi được mẹ dẫn đi chùa, đi thăm họ hàng, thầy cô. Tôi nép vào những bước chân của mẹ, rạo rực một niềm vui khó tả. Hai bên đường, vị thơm của Tết dâng lên từ những mái nhà đơn sơ. Những cành hoa mai rực nở, khoe sắc vàng cùng nắng mùa xuân.
Tôi nhớ một lần, mẹ đã dẫn tôi đi thăm một người quen, băng qua một cánh đồng lúa đang dào dạt sắc xanh. Cánh đồng trải mãi, trải mãi đến tận chân trời. Chúng tôi đi trong dào dạt hương lúa, và hương mùa xuân thênh thang ùa về từ mọi phía. Tôi ước mình được đi mãi, đi mãi trong lòng mùa xuân cùng mẹ như thế.
Sau này, tôi xa quê hương và phải ăn Tết ở những nơi xa lạ - nơi không có rặng dừa, ao cá, cánh đồng, không có anh trai và bố mẹ ở bên. Tôi phải mua tất cả những nguyên vật liệu chuẩn bị Tết từ chợ hoặc siêu thị. Dù cố gắng hết sức, nhưng những món ăn chuẩn bị cho ngày Tết những lúc xa quê vẫn thấy thiêu thiếu một loại gia vị nào đó. Và dù cố gắng hết sức để chạm tay vào Tết, cùng với cộng đồng người Việt ở những nơi tôi sống, nhưng tôi thấy không khí Tết thật sự ở bên bờ kia của đại dương – nơi những cành đào, cành mai đang ửng lên sắc thắm, nơi những gia đình đang quây quần tụ họp sau một năm vất vả làm việc.
Những năm đón Tết xa tổ quốc, giữa mùa hè bỏng nắng của nước Úc, dưới sự lạnh giá của mùa đông châu Âu, hoặc trong sự hờ hững của những nước châu Á nơi người dân không biết gì về Tết, tôi nôn nao thèm nắng ấm của ngày xưa, thèm nghe tiếng cá quẫy, và tiếng gió trên những đọt dừa non. Tôi thèm được hít hà hương thơm ấm nồng tỏa lên từ bếp của mẹ tôi, và mùi thơm của những nén hương trầm trên tay bố tôi, khi ông trịnh trọng thắp hương bên bàn thờ tổ tiên, mời ông bà tôi cùng về ăn Tết. Tôi thèm được nghe tiếng nô đùa của anh tôi cùng bạn bè trên con đường nhỏ thoai thoải vắt qua xóm nhỏ quê hương tôi, nơi niềm vui bao giờ cũng bắt nguồn từ những điều chân chất và giản dị.
Có một điều gì đó thật thiêng liêng về Tết, mà chỉ có những người Việt Nam mới hiểu. Và vì thế, khi xa quê, những người Việt đều đau đáu mong ước được trở về nguồn cội để đón Tết, để được ấp đầy lồng ngực hương vị quê hương, để rồi bớt mong, bớt nhớ trong những tháng năm dài đằng đẵng ở xứ người.
Câu quăng
Trước kia vùng ngoại ô phía Nam Hà Nội có rất nhiều ao, hồ. Ao, hồ ở đây chỉ có một số nơi nuôi thả cá như ngõ Trại Cá, phố Hoàng Mai (Trương Định), ngõ Vũ Tạo (Thống Nhất ) phố Đại La còn phần lớn đều bỏ hoang, bèo lục bình tự do sinh sôi. Gần nhà Tám Mái, cạnh phố Hoàng Mai có một cái hồ khá rộng, bèo lục bình phủ gần kín mặt nước, bọn trẻ chúng tôi thường rủ nhau bơi sang bờ bên kia rồi lại bơi về. Bơi qua một cái hồ ngập bèo, không nhìn thấy bờ bến, vừa bơi vừa lấy tay gạt bèo rẽ lối, có khi phải nằm trườn trên bèo rất nguy hiểm, cũng may không có đứa nào bị chết đuối. ở hồ Bốy Mẫu bèo lục bình mọc sát đường Nam Bộ (Lê Duẩn), thân bèo cao hàng thước, lá to như chiếc đĩa, chen chúc nhau rậm rạp như rừng, nếu đặt một tấm ván lên trên có thể bước qua mà không bị chìm.
Ngày ấy nước ăn và sinh hoạt hàng ngày của nhân dân vùng ngoại ô thường lấy ở các giếng chung. Ngay bên cạnh phố Hoàng Mai (Trương Định) cũng có mấy cái giếng khá rộng, thả bèo ong rất trong, dân phố vẫn ra đây gánh nước mang về ăn. Nước sạch khan hiếm như vậy nên trẻ con và cả người lớn thường ra các ao, hồ bơi lội, tắm giặt
Vùng ngoại ô phía nam còn có các con sông Kim Ngưu, sông Lừ, sông Sét chảy qua. Bèo lục bình cũng phủ kín từng đoạn sông như một tấm thảm dầy. Cây bèo này chẳng có giá trị gì, nhưng khi nó ra hoa, những cánh hoa mỏng manh giống như hoa phong lan, nở tím mặt sông và ao, hồ trông rất đẹp. Nước sông và ao, hồ khi ấy còn sạch nên có nhiều cá và các loài thuỷ sinh khác sinh sống. Cà cuống thì rất nhiều. Buổi tối chúng tìm ánh sáng bay nhiều vòng chung quanh các ngọn đèn đường khi mỏi cánh rơi xuống đất, trẻ con lại tranh nhau bắt mang về nhà nướng ăn. Người dân ven nội thường ra đây đánh bắt tôm, cá bằng nhiều hình thức khác nhau như đánh giậm, kéo vó và câu cá.
Những người đánh giậm, đàn ông thì mặc quần cộc, đàn bà quần sắn đến tận đùi, đội khăn đen che kín mặt, không kể nắng, mưa, giá rét lội xuống nước tìm những nơi có nhiều rong bèo thả giậm, đánh bắt cá con…Hình ảnh người đánh giậm gợi lại một thời lam lũ của người dân lao động nghèo khổ trong xã hội.
Kéo vó có nhiều hình thức. Người yếu sức mang những chiếc vó nhỏ đặt vào chỗ nước nông để kiếm những con tép riu nhỏ bé. Người khoẻ hơn một mình mang chiếc vó to đặt xuống những chỗ nước sâu, khi nhấc vó lên cũng kiếm được những con cá nhỏ, lươn, trạch hoặc con tôm càng.
Kiếm được nhiều cá hơn cả là những người kéo vó bè. Họ dựng chòi che mưa, nắng trên một chiếc bè đóng bằng tre, nứa đặt ở những khúc sông có nhiều cá, ăn ngủ tại đó ngày đêm kẽo cọt kéo vó. Chiếc vó của họ rất to và nặng nề. Mỗi lần cất vó có đủ các loại cá to, nhỏ khác nhau, đôi khi có cả rắn mòng, rắn nước. Mắc phải lưới chúng ra sức giẫy giụa, nhẩy lên phơi bụng trắng loá trông rất vui mắt. Cuối cùng tất cả đều chui tọt vào chiếc giỏ tre ở giữa vó.
Câu cá thường có hai cách: câu giật và câu quăng. Người câu giật thường ném thính xuống nước rồi mới thả câu, thỉnh thoảng cũng giật lên được một con cá trôi hoặc chép tuy không lớn lắm. Chỉ có những người câu quăng mới câu được cá to, là những con cá chuối sống lâu năm dưới ao, hồ. So với những người câu giật thì đồ nghề của họ phức tạp hơn và phải có nghề chứ không phải ai cũng làm được. Cần câu của họ là một cây trúc to và dài được lắp một hệ thống ròng rọc, để lưỡi câu và giây câu có thể chuyển dịch ra xa hoặc kéo lại gần theo ý muốn. Giây câu là loại cước to, dài hai, ba chục mét được cuốn vào một khoanh gỗ tiện hình vành khăn hơi lõm. Khi câu, một tay họ giơ lên cao ngả người về phía sau lấy đà rồi vút thật mạnh về phía trước, quăng lưỡi câu có móc con nhái ra xa... cùng lúc lúc ấy tay cầm cuộn giây câu phải nhả ra thật nhanh, khi con mồi đã rơi xuống nước lại nhanh tay cuộn dần lại kéo vào bờ. Lúc này tay cầm cần câu họ khéo léo làm động tác nâng lên, hạ xuống nhịp nhàng liên tục để nhử. Con chuối nào đớp lấy là mắc mồi. Cá chuối rất khoẻ, khi bị mắc mồi nó giẫy giụa quyết liệt làm mặt nước bắn lên tung toé, có lúc nó phi thẳng người lên trên không như một thỏi bạc tìm cách thoát thân. Người câu phải thật khôn khéo, lúc gìm, lúc thả làm cho nó bị mệt và đuối sức dần mới dong được nó vào bờ. Cá chuối to ở ao, hồ bỏ hoang không nhiều. Chúng rất khoẻ và tinh khôn. Người đi câu phải thật kiên nhẫn, có khi đứng cả ngày cả buổi, luôn tay quăng mồi ra rồi lại thu về nhưng cũng không câu được con nào. Hôm nào câu được một con là cả một kì tích, có con nặng tới hai, ba cân chứ không ít. Ngày ấy và rất nhiều năm sau này, cá chuối to như vậy rất hiếm và đắt tiền. Người đi chợ chỉ dám mua một, hai khúc cá làm sẵn, mấy ai dám bỏ tiền ra mua cả con. Bây giờ cá chuối được nuôi thả đại trà ở nhiều nơi mang về bán tại các chợ Hà Nội, có những con rất to nhưng dẫu sao cũng không ngon và chắc thịt như những con chuối sống lâu năm ở các ao, hồ bỏ hoang khi xưa.
Ngày ấy hình ảnh người đi câu quăng, đầu đội nón lá, ngang lưng đeo chiếc giỏ tre, tay cầm chiếc cần câu và cuộn giây cước lang thang khắp nơi trên các vùng sông nước, trở nên quen thuộc với bọn trẻ chúng tôi. Họ thường tìm những chỗ nước sâu và yên tĩnh có nhiều rong, bèo hoặc các bè rau làm nơi cho cá ẩn nấp để quăng mồi nhử cá. Thấy họ đứng câu ở đâu chúng tôi cũng dàn hàng ngang hai bên để xem, ngay cả người lớn đi qua cũng dừng lại nhập cuộc... Mọi người đều chăm chú theo dõi từng động tác của người câu. Khi có một con cá chuối mắc mồi bị nhấc lên khỏi mặt nước, giữa thanh thiên bạch nhật ra sức giẫy giụa mà không thoát, tất cả lại reo hò thích thú. Chỉ có người đi câu là không nói gì, lặng lẽ cho cá vào giỏ. Họ làm khá thận trọng, ngay cả khi đã bị đuối sức cá chuối vẫn còn quẫy rất khoẻ. Nó mà tuột khỏi tay thì bao nhiêu công sức đổ xuông sông, xuống hồ!
Từ lâu hình ảnh người đi câu quăng cũng như kéo vó… kiếm tôm, cá trên ao, hồ và các con sông vùng ngoại ô phía nam, cũng như nhiều nơi khác trong thành phố chỉ còn trong kí ức.
Do cư dân phát triển, phần lớn ao, hồ bị san lấp làm nhà ở. Số ao, hồ còn lại cũng như các con sông đều bị ô nhiễm nặng, ngày đêm bốc mùi hôi thối, không loài cá nào cũng như các loài thuỷ sinh khác có thể sinh sống được./.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro