Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần 1

CHƯƠNG 1

Mọi gia đình sung sướng đều giống nhau,

nhưng mỗi gia đình bất hạnh lại khổ sở theo cách riêng.

Trong gia đình Oblonxki, mọi việc đều rối bét. Bà vợ khám phá ra việc chồng tằng tịu với cô nữ gia sư người Pháp dạy trẻ trước đây và nói thẳng với chồng là mình không thể sống chung với ông nữa. Sự tình kéo dài từ hai hôm nay khiến cho cả vợ chồng, con cái và kẻ ăn người làm trong nhà đều cảm thấy khổ tâm. Tất cả đều thấy hai người chẳng còn lý do gì để ăn ở cùng nhau nữa và mối dây ràng buộc họ bây giờ còn lỏng lẻo hơn cả cái quan hệ giữa những người tình cờ gặp nhau trong một quán trọ bên đường. Bà vợ không buồn bước ra khỏi phòng; ông chồng vắng nhà đã hai hôm; con cái tha thẩn khắp nhà như bị bỏ rơi; chị vú nuôi người Anh cãi nhau với bà quản gia, đã viết thư nhờ một cô bạn thân tìm cho chỗ làm khác; anh đầu bếp ra đi vào bữa ăn tối qua; cô phụ bếp và anh xà ích thì đòi tính tiền công xá.

Ba hôm sau cuộc cãi lộn, công tước Xtepan Arcaditr Oblonxki tức Xtiva(1) - như người ta thường gọi trong giới thượng lưu - thức giấc vào giờ thường lệ, nghĩa là tám giờ sáng, không phải trong phòng ngủ của vợ, mà trên chiếc đi văng bọc da ở phòng làm việc của mình. Ông trở nghiêng cái thân hình nặng nề và phì nộn trên lò xo đi văng như muốn ngủ lại, vòng hai tay ôm lấy gối và áp má vào; rồi bỗng nhiên ông nhỏm lên, ngồi dậy và mở choàng mắt.

"ừ... ừ... thế nào nhỉ? Ông ta nghĩ ngợi, cố nhớ lại giấc mơ vừa qua.

Thế nào nhỉ? à, Alabin thết tiệc ở Darmoxtat; không, không phải Darmoxtat(2) mà là cái quái gì My Mỹ kia. Đúng rồi: Darmoxtat ở Mỹ.

Alabin thết tiệc trên bàn thuỷ tinh và... những bàn đó hát bài Kho vàng của tôi(3) và một khúc ca khác du dương hơn. Có cả những bình pha lê nhỏ mà lại là đàn bà".

Cặp mắt Xtepan Arcaditr bỗng ánh lên vui thích, và ông say sưa mơ mộng, môi nở một nụ cười. "ồ, khoái thật, khoái ghê. Trong giấc mơ ấy, còn ối chuyện tuyệt thú, mà chẳng thể diễn đạt bằng lời cũng như bằng ý; và khi đã thức dậy là không còn biết xác định nó ra sao nữa". Rồi, bỗng thấy tia sáng chiếu xiên qua từ sau tấm màn cửa bằng dạ, ông vội đặt chân xuống đất, quờ tìm đôi dép da cừu thêu kim tuyến, món quà vợ mừng nhân dịp sinh nhật ông năm ngoái; sau đó, theo cái thói quen từ chín năm nay, ông cứ nằm nguyên, với tay về phía vẫn treo chiếc áo ngủ. Lúc dó ông mới sực nhớ ra tại sao và thế nào mà mình lại không nằm trong phòng vợ; nụ cười vụt biến khỏi môi và ông cau mày.

Ông nhớ lại mọi việc đã xảy ra, miệng lẩm bẩm: "à! Chậc! Chậc!..." Và trong trí tưởng tượng của ông, lại diễn ra tất cả các chi tiết xung đột với vợ, cái thế bí không lối thoát và lỗi lầm của chính ông, nó giày vò dữ dội hơn mọi điều khác.

Ông nghĩ bụng: "Không, Doli sẽ chẳng tha thứ cho mình đâu, Doli không thể tha thứ cho mình được. Và điều ghê gớm hơn hết là chính mình gây ra tất cả; tất cả đều do mình, vậy mà thực không phải lỗi tại mình. Tất cả tấn bi kịch là ở đó". Ông vừa than vãn tuyệt vọng "ối chao", vừa nhớ lại những chi tiết khổ tâm nhất về cuộc cãi lộn.

Chính cái phút đầu tiên là phút khó chịu nhất: vừa đi xem hát về, dáng vui vẻ và hể hả, tay cầm một trái lê to làm quà cho vợ, ông không thấy vợ ở phòng khách; ông ngạc nhiên vì sang phòng làm việc cũng không thấy; sau cùng, ông gặp vợ ở phòng ngủ, tay cầm lá thư đốn mạt đã làm vỡ lở hết mọi chuyện.

Cô nàng Doli(4) suốt đời ưu tư và bận rộn, mà ông vẫn cho chẳng có gì là sắc sảo, lúc đó đang ngồi yên không nhúc nhích với lá thư trong tay và nhìn ông vừa kinh tởm, tuyệt vọng, vừa giận dữ.

- Cái này là cái gì? Cái gì? - bà chìa mảnh giấy hỏi chồng.

Điều làm Xtepan Arcaditr khổ tâm hơn cả mỗi khi nhớ lại cảnh đó - mà ông cứ nhớ lại luôn mới tệ chứ - không phải bản thân câu chuyện mà chính là cái cung cách ông trả lời vợ. Lúc đó ông lâm vào cái tình thế vẫn thường xảy đến với những người bỗng dưng vướng vào một chuyện xấu xa. Ông không biết đường sửa soạn một bộ mặt hợp với hoàn cảnh sau khi tội lỗi đã bị lộ. Đáng lẽ phải làm ra bộ tức giận, chối phắt, hay thanh minh, xin lỗi, cùng nữa là cứ dửng dưng (cách nào cũng vẫn tốt hơn) thì ông lại tươi cười, thản nhiên dễ dãi và lúc ấy vẻ mặt ông thật ngây ngô. Sắc diện đó là vô tình, hoàn toàn vô tình thôi (Xtepan Arcaditr vốn thích sinh lý học nên cho đó là "phản xạ não").

Ông không thể tha thứ cho mình về cái cười đần độn ấy. Vừa thoáng thấy nụ cười đó, Doli giật bắn người như bị một cơn đau giày vò thể xác. Không nén nổi cơn giận, bà tuôn ra những lời gay gắt và bỏ chạy khỏi phòng. Từ đó, bà nhất định không nhìn mặt chồng nữa.

"Chính cái cười ngây ngô là nguyên nhân của mọi chuyện - Xtepan Arcaditr nghĩ bụng - Nhưng biết làm thế nào? Làm thế nào đây?", ông nhắc đi nhắc lại một cách tuyệt vọng. Và vẫn không tìm ra câu trả lời.

CHƯƠNG 2

Xtepan Arcaditr vốn thật thà với mình. Ông không thể dối lòng đến mức tin rằng ông đã hối hận về hành động của mình. Một người đàn ông băm tư tuổi, bảnh bao, đầy dục tình như ông, không thể hối hận vì đã thôi không yêu vợ, một bà mẹ bảy con nuôi được năm và chỉ kém mình có một tuổi. Ông chỉ tiếc đã không biết giấu vợ cho khéo hơn. Nhưng ông cũng nhìn rõ tất cả tầm nghiêm trọng của tình hình. Ông thương Doli, thương các con và thương cả bản thân mình nữa. Nếu đoán trước được tin đó sẽ làm vợ xúc động đến thế, có lẽ ông đã biết che đậy sự phụ bạc khéo hơn. Tuy không bao giờ suy nghĩ cụ thể về chuyện đó, ông vẫn láng máng thấy rằng bà vợ đã đoán biết ông bạc tình từ lâu, nhưng đành nhắm mắt làm ngơ đấy thôi. Thậm chí ông còn cho rằng cái người đàn bà tàn tạ, luống tuổi, hết thời xuân sắc ấy, người đàn bà chẳng có đức tính gì nổi bật và chỉ còn là bà mẹ tốt trong gia đình, đáng lý phải biết ăn ở cho rộng lượng hơn thì mới hợp lẽ công bằng. Thế mà sự việc lại xảy ra khác hẳn.

"Ôi phiền quá! Phiền quá! Xtepan Arcaditr cứ nhắc đi nhắc lại mãi mà vẫn chẳng tìm ra giải pháp. Trước đây mọi việc đều êm thấm, hai vợ chồng sống cuộc đời tươi đẹp biết bao! Doli hài lòng, sung sướng với lũ trẻ, mình không hề làm phiền Doli chút nào, mình để Doli tuỳ ý trông nom nhà cửa. Kể cũng đáng tiếc là cô ta trước kia lại là cô giáo dạy con mình, kể cũng hèn hạ tầm thường. Nhưng sao lại có cô gia sư đẹp đến thế kia chứ! (Ông nhớ lại rõ ràng cặp mắt đen láy, tinh quái và nụ cười của cô Rolland(1). Tuy nhiên, cả thời gian cô ta ở nhà mình, mình có dám giở trò gì đâu. ác nhất là cô ta lại... Thật cứ như cố tình ấy! Chao! Nhưng biết làm thế nào? Làm thế nào đây?" Chẳng có giải đáp nào khác, ngoài câu trả lời chung cho mọi vấn đề phức tạp và nan giải: đành lần lữa cho qua ngày, đành quên đi thôi. Không thể tìm được quên lãng trong giấc ngủ, và nếu có thì cũng phải đến đêm; cũng không thể quay lại với điệu nhạc, lời ca của những phụ - nữ - bình - pha - lê được nữa; âu là cứ ru mình vào giấc mộng đời cho khuây khoả.

"Rồi sau sẽ hay", Xtepan Arcaditr nghĩ bụng. Ông đứng dậy, xỏ tay vào chiếc áo ngủ màu xám lót lụa xanh nhạt, thắt dây lưng, và hít một hơi dài căng lồng ngực vạm vỡ, rồi lại gần cửa sổ, đôi chân chữ bát bước đi thoăn thoắt, nhẹ nhàng, trái hẳn với tấm thân phì nộn, kéo rèm cửa lên và lắc chuông rầm rĩ. Người hầu phòng Matvei, một lão bộc thân tín, lập tức bước vào, tay cầm quần áo, đôi ủng và một bức điện tín. Theo sau là anh thợ cạo với túi đồ.

- Có giấy tờ gì của toà án không? - Xtepan Arcaditr hỏi, cầm lấy bức điện và ngồi xuống trước gương.

- ở trên bàn ấy ạ, - Matvei trả lời, liếc nhìn chủ bằng cặp mắt dò hỏi và đầy vẻ thông cảm; - đợi một lát, - bác nói tiếp, mỉm cười ranh mãnh.

- Lão chủ hiệu xe thuê vừa cho người tới đấy ạ.

Xtepan Arcaditr không trả lời và chỉ đưa mắt nhìn Matvei trong gương, cái nhìn họ trao đổi chứng tỏ họ hiểu nhau biết chừng nào.

Xtepan như muốn hỏi: "Tại sao bác lại nói với tôi điều đó? Bác thừa hiểu sự tình ra sao rồi còn gì?".

Matvei thọc tay vào túi áo dài chẽn, dạng chân ra, và chẳng nói chẳng rằng đưa ánh mắt thân ái nhìn chủ, trên môi thoáng một nụ cười. Bác nói:

- Tôi đã bảo họ chủ nhật hãy tới và từ nay đến hôm đó, đừng làm phiền ông vô ích.

Câu nói rõ ràng được chuẩn bị từ trước.

Xtepan Arcaditr biết Matvei nói giỡn và muốn ông chú ý đến bác.

Ông mở bức điện tin ra đọc, mặc nhiên chỉnh lại trong đầu những chữ sai chính tả thường thấy ở các bức điện, vẻ mặt bỗng sáng lên:

- Matvei này, mai cô Anna Arcadievna đến đấy, ông nói, tạm ngăn bàn tay bóng nhẫy, mũm mĩm của anh thợ cạo đương rẽ một đường hồng hồng giữa hai chòm râu má dài loăn xoăn của ông.

- Đội ơn Chúa! - Matvei thốt lên và câu trả lời tỏ ra bác cũng hiểu rõ như chủ tầm quan trọng của việc này: - Anna Arcadievna, cô em gái thân yêu của Xtepan Arcaditr, có thể giúp hai vợ chồng làm lành với nhau.

Matvei hỏi:

- Cô đến một mình hay cùng đi với chồng kia ạ?

Xtepan Arcaditr không thể trả lời vì anh thợ cạo đã nắm lấy môi trên ông; ông bèn giơ một ngón tay lên. Matvei gật đầu một cái trong gương.

- Có một mình thôi ạ. Vậy có phải sửa soạn căn buồng trên gác không?

- Báo tin đó cho Daria Alecxandrovna biết đã, rồi bà bảo sao thì làm vậy.

- Báo cho Daria Alecxandrovna? - Matvei hỏi lại, vẻ nghi ngại.

- Phải. Này, mang cho bà xem bức điện; bà bảo gì phải nhớ nói lại với tôi đấy.

"Ông định thăm dò đây", Matvei hiểu ngầm như vậy, nhưng bác chỉ nói gọn lỏn:

- Thưa ông vâng ạ.

Xtepan Arcaditr rửa mặt, chải đầu xong và sắp mặc quần áo thì Matvei chậm rãi quay lại, đôi ủng khẽ kêu cót két, tay vẫn cầm bức điện. Lúc đó anh thợ cạo đi rồi.

- Daria Alecxandrovna dặn tôi thưa với ông là bà sắp đi. Bà bảo:

"Ông ấy (tức là ông đấy ạ), ông ấy muốn làm thế nào thì làm". - Và Matvei, hai tay đút túi, đầu nghiêng sang bên, đăm đăm nhìn chủ, chỉ có đôi mắt là nhấp nháy cười.

Xtepan Arcaditr nín lặng. Rồi một nụ cười hiền hậu, hơi thiểu não, hiện trên khuôn mặt đẹp của ông.

- Làm thế nào bây giờ, Matvei? - ông hất hàm nói.

- Không sao cả, ông chủ ạ, rồi sẽ ổn thôi, - Matvei trả lời.

- Có chắc không?

- Thưa ông, chắc chứ ạ.

- Bác chắc thế thật à? Ai đó? - Xtepan Arcaditr nghe thấy tiếng áo phụ nữ sột soạt sau cửa, liền hỏi.

- Thưa ông, tôi đấy ạ.

Một giọng rắn rỏi và dễ nghe đáp lại; rồi khuôn mặt nghiêm nghị, rỗ hoa của bác bảo mẫu Matriona Filimonovna hiện ra ở khung cửa.

- Có chuyện gì đấy, Matriona? - Xtepan Arcaditr bước về phía bác ta, hỏi.

Mặc dầu Xtepan Arcaditr hoàn toàn có lỗi với vợ và chính ông cũng biết vậy, nhưng hầu như mọi người trong nhà, kể cả bác bảo mẫu là người thân tín nhất của Daria Alecxandrovna, vẫn bênh ông.

- Có chuyện gì vậy? - ông hỏi, giọng rầu rĩ.

- Thưa ông, ông nên đến xin lỗi bà lần nữa đi. Chúa sẽ phù hộ cho ông. Bà đang đau khổ, trông thương tâm lắm; còn trong nhà thì mọi việc đều rối bời. Ông phải biết thương các em chứ. Ông hãy đến xin lỗi bà đi. Chẳng có cách nào khác đâu! Gây đổ vỡ thì phải...

- Nhưng bà chẳng tiếp tôi đâu...

- Như vậy chẳng gì ông cũng làm hết bổn phận. Chúa lòng lành vô cùng! Ông cầu nguyện đi, ông chủ ạ, ông hãy cầu nguyện đi!

- Thôi được. Nào! - Xtepan Arcaditr nói, mặt bỗng đỏ dừ. Ông quay lại bảo Matvei: "Bác giúp tôi mặc quần áo", và ông cởi áo ngủ, dáng kiên quyết.

Matvei thổi thổi những hạt bụi vô hình, chìa sẵn cho chủ chiếc sơ mi hồ bột và hỉ hả ra mặt, choàng áo lên cái thân hình trau chuốt của Xtepan Arcaditr.

Mặc quần áo xong, Xtepan Arcaditr bơm nước hoa, cài khuy tay áo, quen tay bỏ luôn vào túi chiếc ví, hộp thuốc lá, bao diêm và chiếc đồng hồ quả quýt có dây chuyền kép đính đồ trang sức, rũ khăn tay, rồi, cảm thấy sạch sẽ, thơm tho, thoải mái và khoan khoái thể xác, mặc dù đang ở trong tâm trạng phiền muộn, ông đi thẳng sang phòng ăn, bước chân hơi run rẩy, nơi món cà phê sáng và thư từ, giấy má đã chờ sẵn.

Ông đọc thư. Có một bức thư làm ông rất khó chịu: đó là thư của một thương gia đang muốn mua khu rừng trong trang trại của vợ ông. Nhất thiết phải bán khu rừng đó rồi; nhưng vấn đề chưa thể đặt ra trước khi vợ chồng hòa thuận trở lại. Điều bực mình nhất là việc dàn hòa này lại dính đến chuyện tiền nong. Ông khó chịu với ý nghĩ là trường hợp đó có thể làm ông mất thể diện: tìm cách làm lành với vợ để bán trôi khu rừng.

Đọc xong tập thư, Xtepan Arcaditr kéo đống giấy má để trên bàn lại, giở nhanh hai tập hồ sơ, lấy chiếc bút chì to đánh dấu vài chỗ rồi gạt tất cả sang bên, rót cà phê uống; ông vừa điểm tâm vừa giở tờ báo buổi sáng còn ướt mực và bắt đầu đọc.

Xtepan Arcaditr thường ngày đọc tờ báo của phái tự do, cũng không lấy gì làm tân tiến lắm, thuộc cái khuynh hướng mà đa số đang theo. Và mặc dầu chẳng quan tâm đặc biệt gì đến khoa học, nghệ thuật cũng như chính trị, ông vẫn kiên quyết giữ vững quan điểm của đa số và của tờ báo về tất cả những vấn đề đó, và chỉ thay đổi ý kiến khi đa số cũng thay đổi, hoặc, nói đúng hơn, ông chẳng thay đổi gì hết: chính những quan điểm tự thay đổi lúc nào không biết.

Xtepan Arcaditr không hề lựa chọn khuynh hướng cũng như quan điểm; tự chúng tìm đến ông; ông chẳng mất công lựa chọn gì hơn chọn mũ chọn áo: người ta ăn vận thế nào, ông làm theo như vậy. Nhưng sống trong một xã hội mà mọi người đứng tuổi đều phải có một hoạt động trí tuệ nào đó, việc có chính kiến đối với ông, cũng cần như đội mũ. Sở dĩ ông ưng khuynh hướng tự do hơn khuynh hướng bảo thủ mà một số đông trong giới ông đang theo, đó không phải vì ông thấy nó phải chăng hơn, mà bởi nó phù hợp với lối sống của ông hơn. Phe tự do nói ở nước Nga, mọi sự đều bí bét: quả vậy, Xtepan Arcaditr nợ đìa ra và luôn luôn túng tiền. Phe tự do nói hôn nhân là tục lệ lỗi thời, cần phải cải cách: thực tế, cuộc sống vợ chồng chẳng đem lại hứng thú gì lắm cho Xtepan Arcaditr, buộc ông phải dối trá, che đậy, và điều đó trái hẳn với bản chất ông. Phe tự do nói, hay đúng hơn, ngụ ý rằng tôn giáo chỉ là một trở lực kìm bước đám người vô học trong dân chúng: thì đấy, Xtepan Arcaditr có bao giờ chịu đựng nổi một buổi lễ chầu, dù ngắn nhất, mà không rấm rứt ở bắp chân; ông không tài nào hiểu được ý nghĩa của tất cả những bài thuyết giáo hãi hùng và khoa trương về thế giới bên kia, trong khi người ta vẫn có thể vui chơi thoả thích ở ngay cái thế giới này. Ngoài ra, Xtepan Arcaditr, vốn thích bông đùa, thường rất khoái trá mỗi khi có dịp châm chọc những người yên phận rằng: nếu ta hãnh diện vì dòng giống thì lẽ nào chỉ dừng lại ở thời Ruritr(2) và không chịu công nhận ông tổ đầu tiên là... con khỉ. Cho nên, khuynh hướng tự do đã trở thành thói quen của Xtepan Arcaditr, và ông yêu thích tờ báo của mình như điếu xì gà sau bữa ăn trưa, nó toả một màn sương nhẹ lâng trong đầu.

Ông đọc xã luận, bài báo giải thích là thời buổi này, thật hoài công mà đi la lối rằng chủ nghĩa cấp tiến đang đe doạ nuốt chửng mọi yếu tố bảo thủ; rằng chính phủ sắp sửa bắt buộc phải ra tay bóp nghẹt con mãng xà tinh cách mạng; trái lại "theo ý chúng tôi, nguy cơ không do con mãng xà tinh cách mạng tưởng tượng gây ra, mà chính là tại các yếu tố tồn cổ đã ngoan cố kìm hãm đà tiến bộ", v.v... Ông cũng đọc lướt bài báo thứ hai bàn về vấn đề tài chính, trong đó người ta dẫn ra nào là Bentham(3) nào là Min(4) và xỏ ngọt Bộ Tài chính vài cú. Vốn sắc sảo minh mẫn, ông hiểu ngay ý nghĩa của từng lời ám chỉ: xuất phát từ đâu, nhằm vào ai và được tung ra nhân việc gì, ông đều hiểu hết và cũng như mọi lần điều đó đem lại cho ông ít nhiều thú vị.

Nhưng bữa nay, niềm thích thú bị giảm đi khi ông nhớ tới lời khuyên của Matriona Filimonovna và tình trạng rối bời trong gia đình; báo còn loan tin bá tước Boxt đi Vixbadell, tin thị trường không còn món tóc bạc, tin có người muốn bán xe ngựa nhẹ và tin một thanh niên tìm việc làm; nhưng những tin tức đó không mang lại cho ông niềm thoả mãn bình thản và nhạo đời như mọi lần trước.

Đọc báo xong, và uống cạn tách cà phê thứ hai với chiếc bánh mì trắng nhỏ quệt bơ, ông đứng dậy, rũ những mẩu bánh vụn vãi trên áo gi lê và ưỡn bộ ngực nở nang, mỉm cười khoan khoái, không phải vì ông thấy tâm hồn có gì đặc biệt thanh thản... mà là do thức ăn đã tiêu hóa tốt.

Nụ cười rạng rỡ làm ông sực nhớ lại tất cả, và ông đâm ra tư lự.

Có tiếng hai đứa trẻ đằng sau cửa (Xtepan Arcaditr nhận ra tiếng Grisa, con trai út, và Tania, con gái lớn của ông). Chúng vừa đánh rơi một vật gì.

- Chị đã bảo em đừng có để hành khách lên mái, - con bé la lên bằng tiếng Anh. - Bây giờ thì phải nhặt lên nào!

Xtepan Arcaditr nghĩ bụng: "Nhà cửa lung tung, trẻ con bị bỏ mặc chẳng ai trông nom". Và ông lại gần cửa, lên tiếng gọi hai con. Chúng bỏ chiếc hộp dùng làm tàu hoả và chạy lại với bố.

Tania, con gái cưng của Xtepan Arcaditr, mạnh dạn bước vào, quàng tay ôm lấy cổ bố vừa đánh đu vừa cười như mọi lần, khoan khoái hít hít mùi nước hoa quen thuộc toả ra từ hai chòm râu má của bố. Sau khi hôn bộ mặt bố đỏ bự vì phải cúi xuống và ngời ngợi trìu mến, đứa bé buông tay ra định chạy, nhưng ông bố giữ con lại.

- Mẹ đang làm gì? - ông vừa hỏi vừa vuốt ve cái cổ mảnh dẻ của con gái. Rồi quay sang mỉm cười với thằng con trai út: Chào chú!

Ông không thấy yêu con trai bằng con gái và luôn luôn gắng không để lộ điều đó; nhưng thằng bé thừa biết và không buồn đáp lại cái cười gượng của bố.

- Mẹ ấy à? Mẹ dậy rồi ạ, - con bé trả lời.

Xtepan Arcaditr buông một tiếng thở dài. Ông nghĩ: "Thế ra, cả đêm nàng không ngủ".

- Mẹ có vui không?

Con bé thừa biết bố mẹ đã cãi nhau, mẹ nó không thể vui được, bố hẳn phải hiểu rõ, nhưng định đóng kịch nên vờ hỏi giỡn như vậy. Nó đỏ mặt thay cho bố. Xtepan Arcaditr chợt hiểu ngay và cũng đỏ mặt.

- Con chả biết, - nó nói. - Mẹ bảo chúng con không phải học nữa mà đi với cô Hal đến nhà bà.

- Vậy thì đi đi thôi, Tania bé bỏng của ba. à, khoan đã - ông giữ con lại lần nữa, vuốt ve bàn tay nhỏ xíu mềm mại của nó...

Ông cầm hộp kẹo để trên lò sưởi từ hôm qua, chọn lấy hai cái con bé thích nhất: một kẹo sôcôla, một kẹo mứt hoa quả và đưa cho con.

Con bé giơ chiếc kẹo sôcôla và hỏi:

- Cái này cho Grisa phải không ba?

- ừ, ừ.

Và vuốt ve lần cuối chiếc vai nhỏ nhắn của con gái xong, ông hôn vào cổ, vào chân tóc rồi cho nó đi ra.

- Xe đánh ra ngoài rồi đấy ạ, - Matvei vào báo và nói tiếp: - có một bà đến kêu việc.

- Bà ta đến lâu chưa? - Xtepan Arcaditr hỏi.

- Độ nửa giờ rồi.

- Đã bao lần tôi dặn bác phải báo ngay kia mà.

- Thì tôi cũng phải để ông dùng xong cà phê đã chứ, - Matvei nói, giọng lủng bủng và thân mật khiến ông không còn bụng nào mà giận được.

- Thôi cho người ta vào nhanh lên, - Oblonxki cau mày nói.

Người đó là vợ viên đại uý tham mưu Klinin, đến nhờ vả một việc không thể giải quyết được và phi lý nữa; nhưng Xtepan Arcaditr, theo thói quen, vẫn mời bà ta ngồi và chăm chú nghe từ đầu đến cuối không hề ngắt lời, chỉ vẽ cụ thể nên xử sự thế nào, nên đến cầu cạnh ai, và viết hẳn một lá thư bằng lối chữ khoáng đạt, đẹp và rõ ràng của ông, giới thiệu đến người có thể giúp đỡ bà ta được. Sau khi đưa tiễn vợ viên đại uý, Xtepan Arcaditr bèn cầm mũ và dừng lại tự hỏi xem có quên gì không. Ông chỉ quên mỗi một điều mà ông ước ao quên đi được là... vợ ông.

"à, phải!", ông cúi đầu và bộ mặt đẹp bỗng đượm buồn. Ông tự hỏi:

"Ta nên đến gặp, hay không nên đến?" Một tiếng nói từ trong lòng bảo ông có đến gặp cũng vô ích, rút cục chỉ đi đến chỗ giả dối thôi, không thể chắp nối lại tình nghĩa vợ chồng nữa rồi, bởi vì không ai có thể trả lại cho Doli cái xuân sắc quyến rũ thuở xưa, cũng như không thể biến ông thành lão già bất lực được. Làm thế chỉ đưa đến giả tạo và dối trá: mà giả tạo và dối trá thì trái hẳn với bản chất ông.

"Tuy nhiên trước sau, vẫn phải một lần, không thể cứ thế này mãi được!", ông tự bảo, gắng động viên mình mạnh hơn. Ông thẳng người lên, lấy điếu thuốc lá, châm lửa hút, kéo hai hơi, rồi vứt điếu thuốc vào chiếc vỏ xà cừ dùng làm gạt tàn, đi nhanh qua phòng khách và mở cửa phòng vợ.

CHƯƠNG 3

Chúa dạy: "Việc báo oán thuộc về ta, chính ta lại ra ân đền bù lại"

Daria Alecxandrovna, mình khoác áo choàng, mái tóc xưa kia đẹp và dày nay đã lưa thưa, tết bím vắt ra sau gáy, đang đứng trước tủ quần áo mở toang và lục lọi lựa chọn; xung quanh bề bộn những đồ dùng. Má bà hóp lại và khuôn mặt gầy càng làm nổi bật cặp mắt to sợ sệt. Nghe thấy tiếng chồng, bà dừng tay và nhìn ra cửa, cố làm ra vẻ nghiêm khắc và khinh bỉ nhưng vô hiệu. Bà cảm thấy sợ chồng, sợ cuộc gặp gỡ này. Bà đang thử làm cái điều bà đã thử hàng chục lần trong ba hôm nay là thu xếp quần áo của các con và của mình để gửi về nhà mẹ đẻ. Cả lần này nữa, bà cũng không thể quyết định dứt khoát; nhưng cũng như lần trước, bà lại tự nhủ không thể cứ thế này mãi, thể nào mình cũng phải làm một cái gì: trừng phạt anh ta, làm anh ta phải xấu hổ, trả thù về nỗi đau đớn anh ta đã gây ra cho mình, dù chỉ phần nào thôi. Bà cứ nhắc đi nhắc lại trong bụng là mình sẽ bỏ chồng, nhưng lại cảm thấy không thể được; không thể được vì bà không thể từ bỏ thói quen coi anh ta là chồng và yêu thương anh ta.

Hơn nữa, bà hiểu rằng nếu như ở đây, trong nhà mình, bà nuôi năm đứa con cũng đã thấy vất vả, thì ở chốn kia, nơi bà định đến với chúng, hẳn còn cực hơn nữa. Trong ba ngày hôm nay, đứa bé nhất đã ốm vì bị cho ăn canh thiu, còn ba đứa kia hôm qua suýt phải nhịn ăn chiều. Bà cảm thấy không thể bỏ đi được; nhưng bà cứ tự dối mình và vẫn tiếp tục nhặt nhạnh quần áo và giả bộ như sắp bỏ đi.

Thoáng thấy chồng, bà thọc hai tay vào một ngăn tủ như đang tìm vật gì đó và mãi đến khi chồng đã tới sát bên cạnh, bà mới thèm ngoảnh lại nhìn ông ta một cái. Nhưng mặc dầu muốn tỏ ra nghiêm nghị và kiên quyết, mặt bà chỉ lộ vẻ bối rối và đau đớn.

- Doli! - Oblonxki nói, giọng dịu dàng và rụt rè.

Ông ta rụt đầu lại, cố nặn ra một bộ mặt qụy lụy và thiểu não, song người ông lại roi rói tươi tắn và khỏe mạnh. Doli ướm nhìn nhanh người đàn ông ngời ngợi vẻ tươi tắn và khỏe mạnh đó. "Phải, anh ta đang sung sướng và mãn nguyện, bà nghĩ bụng... còn như mình đây! Cả đến cái tính hồn hậu của anh ta mà mọi người đều quý mến và ca tụng, mình cũng thấy ghê tởm: mình căm ghét lòng tốt của anh ta!" - Môi bà bặm lại và bộ mặt tái nhợt, tức tối, rúm ró.

- Ông muốn gì? - bà hỏi nhanh, giọng khàn khàn khác thường.

- Doli! - ông nhắc lại, giọng run run. - Hôm nay, Anna đến.

- Thế thì can gì đến tôi? Tôi không thể tiếp cô ấy được! - bà nói to.

- Dù sao cũng nên tiếp, Doli...

- Ông đi ra đi, ra đi! - Doli hét lên, không nhìn chồng, dường như tiếng kêu bật ra từ một nỗi đau thể xác.

Xtepan Arcaditr hồi nãy có thể bình tĩnh khi nghĩ đến vợ, hy vọng mọi sự rồi sẽ "ổn" theo cách nói của Matvei, ông có thể điềm nhiên đọc báo và uống cà phê; nhưng khi trông thấy bộ mặt đầy vẻ tiều tụy và đau khổ, khi nghe thấy giọng nói nhẫn nhục và tuyệt vọng, ông đâm nghẹn ngào, cổ họng se lại và rơm rớm nước mắt.

- Lạy Chúa! Tôi đã làm gì nên tội, Doli! Nhân danh Chúa!... - Ông không nói tiếp được nữa; một tiếng nấc nghẹn lại trong cổ.

Bà đóng sập tủ thật mạnh và nhìn chồng.

- Doli, tôi biết nói gì đây? ... Chỉ một điều thôi: mình hãy tha thứ cho tôi... Mình nghĩ lại xem, chín năm trời ăn ở với nhau, lẽ nào không thể chuộc lại một phút, một phút...

Doli đưa mắt nhìn xuống và chờ đợi điều chồng sắp nói, dường như bà đang van xin chồng giải mối nghi ngờ cho mình bằng cách này hay cách khác.

- Một phút mê muội... - Oblonxki nói nốt câu và định tiếp tục, nhưng vừa nghe thấy câu đó, môi Doli bỗng mím lại như bị một cơn đau thể xác hành hạ và những bắp thịt ở má phải bà lại co rúm lại.

- Ông ra đi, ông ra khỏi đây đi! - bà rít lên the thé. - Đừng có nhắc lại với tôi những chuyện mê muội và đốn mạt của ông nữa.

Bà định ra khỏi phòng nhưng bỗng lảo đảo và phải níu vào thành chiếc ghế tựa. Mặt Oblonxki đỏ bừng, môi phồng lên, mắt đẫm lệ.

- Doli! - Lần này, ông ta vừa nói vừa nức nở. - Vì lòng yêu kính Chúa, mình hãy nghĩ đến các con, chúng nó, chúng nó vô tội! Chính tôi là kẻ gây nên tội, mình hãy trừng phạt tôi, mình hãy bảo tôi phải chuộc lỗi như thế nào. Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì tôi có thể làm được. Tôi đã gây nên tội, tôi không còn biết tìm chữ gì để nói với mình rằng tội tôi nặng như thế nào. Nhưng xin mình hãy tha thứ cho tôi, Doli!

Bà ngồi xuống. Oblonxki lắng nghe nhịp thở nặng nề, hổn hển của vợ và thấy thương vợ vô cùng. Nhiều lần bà định nói nhưng không thốt nên lời. Ông vẫn chờ đợi.

- Anh nhớ đến các con là để nô đùa với chúng, còn tôi đây, tôi lo cho chúng và tôi biết rằng bây giờ đời chúng thế là bỏ đi, - bà nói. Rõ ràng đây là một trong những câu bà thầm nhắc đi nhắc lại từ ba hôm nay.

Bà đã gọi chồng bằng: "anh", Oblonxki đưa mắt nhìn vợ tỏ vẻ biết ơn và định cầm lấy tay bà, nhưng bà ghê tởm né ra.

- Tôi nghĩ đến các con và tôi sẽ làm mọi việc trên đời để cứu chúng; nhưng chính bản thân tôi cũng không biết làm thế nào là hợp lẽ hơn:

để chúng xa rời hẳn bố hay ở lại với một người trụy lạc... phải, một người trụy lạc... Nào, ông hãy nói cho tôi nghe xem là sau... cái chuyện vừa xảy ra, chúng ta còn có thể chung sống với nhau được không? Có thể được không? Ông hãy nói tôi nghe, có thể được không?

- bà cất cao giọng nhắc lại, - khi mà chồng tôi, người cha của các con tôi lại đi tằng tịu với con bé dạy trẻ.

- Nhưng làm thế nào? Làm thế nào đây? - Oblonxki nói với giọng rầu rĩ, chính ông cũng không hiểu mình nói gì và đầu mỗi lúc một cúi gằm xuống.

- Đối với tôi, ông là một vật gớm ghiếc, tởm lợm! - bà nổi nóng hét lên. - Nước mắt ông chỉ là nước lã! Ông chẳng bao giờ yêu gì tôi, ông là người không có tim, chứ cao quý cái nỗi gì! Ông làm tôi phát tởm, đối với tôi, ông chỉ là người dưng nước lã, phải, chỉ là người dưng nước lã mà thôi! - Bà chua xót thốt lên cái tiếng người dưng nước lã, cái tiếng kinh khủng biết bao đối với bà.

Oblonxki nhìn vợ, vẻ hằn học trên mặt bà khiến ông sợ hãi và sửng sốt. Ông không hiểu chính việc ông tỏ ra thương hại vợ đã làm bà tức giận. Doli thấy rõ chồng chỉ thương hại chứ không hề yêu mình. "Phải, cô ta căm ghét mình. Cô ta sẽ không tha thứ cho mình đâu", Oblonxki thầm nghĩ.

- Thật đáng sợ, đáng sợ! - ông nói.

Giữa lúc ấy ở phòng bên, một đứa nhỏ, hẳn vừa bị ngã, khóc oà lên.

Daria Alecxandrovna lắng tai nghe và nét mặt đột nhiên dịu đi.

Bà định thần lại một lúc, như do dự, tự hỏi xem mình đang ở đâu, rồi đứng phắt dậy và đi ra cửa.

"Tuy nhiên nàng vẫn yêu con mình, Oblonxki nghĩ bụng, nhận thấy nét mặt vợ biến đổi khi nghe tiếng đứa bé khóc... con của tôi; vậy thì làm sao nàng lại đang tâm ghét bỏ mình được?" - Doli, cho tôi nói câu nữa thôi, - ông vừa nói vừa chạy theo vợ.

- Nếu ông đi theo tôi, tôi sẽ gọi bọn người làm, gọi bọn trẻ đến! Cho tất cả chúng nó biết ông là đồ thô bỉ! Tôi đi khỏi đây bây giờ cho ông ở lại với nhân tình của ông.

Bà bước ra, đóng sập cửa lại.

Xtepan Arcaditr thở dài, thấm mồ hôi trên mặt và lặng lẽ bước ra cửa.

"Matvei bảo mọi việc rồi sẽ ổn, nhưng ổn là ổn thế nào chứ? Mình thấy chả chắc gì. Ôi thật là tai hại! Mà sao cô ta lại ăn nói thô tục đến thế! Oblonxki nghĩ thầm, nhớ lại những lời vợ tru tréo, những tiếng "thô bỉ" và "nhân tình", khéo mà bọn gái hầu phòng nghe thấy mất thôi! Thật là thô tục ghê gớm!" Xtepan Arcaditr đứng lại một mình trong giây lát, lau nước mắt, thở dài và dướn thẳng người, đi ra khỏi phòng.

Hôm đó là thứ sáu; trong phòng ăn, bác thợ đồng hồ người Đức đang lên dây chiếc đồng hồ quả lắc. Xtepan Arcaditr sực nhớ tới câu ông nói bỡn con người rất đúng giờ giấc này: "Anh chàng người Đức này đã được lên dây cót đời mình để làm nghề lên dây cót đồng hồ" và ông mỉm cười. Xtepan Arcaditr vốn thích những chữ ý nhị. "Có thể là chuyện đó sẽ "ổn" thực; cái từ ấy hay đấy, ta sẽ dùng lại nó".

- Matvei! - Ông gọi, - bác với Maria hãy sửa soạn mọi thứ ở phòng khách cho cô Anna Arcadievna nhé, - ông nói với bác hầu phòng vừa xuất hiện.

- Thưa ông, vâng ạ.

Xtepan Arcaditr mặc áo choàng lông và bước ra thềm cửa.

- Ông không ăn chiều ở nhà ạ? - Matvei vừa tiễn chủ vừa hỏi.

- Còn tuỳ xem. Này, tiền chi các khoản đây, - Oblonxki nói, rút trong ví ra mười rúp. - Có đủ không?

- Đủ hay không, thì cũng phải bằng lòng vậy thôi, - Matvei nói, đóng cửa xe và bước lên bậc thềm.

Trong khi ấy, Daria Alecxandrovna dỗ con nín xong, nghe thấy tiếng bánh xe ngựa lăn, biết chồng đã đi rồi và quay về buồng mình.

Đó là nơi ẩn náu duy nhất: cứ động ra khỏi đấy, là những lo lắng về chuyện nhà cửa lại bủa vây lấy bà. Ngay cả vừa nãy, trong quãng thời gian ngắn ngủi bà sang buồng lũ trẻ, chị vú nuôi người Anh và bác Matriona Filimonovna cũng đã hỏi bà về bao việc không thể trì hoãn được, và chỉ có bà mới trả lời nổi: mặc quần áo gì cho trẻ con để dẫn đi chơi? Cho chúng uống sữa có được không? Liệu có phải tìm anh bếp khác không?

- Trời! Để tôi yên! - bà bảo họ, và trở về phòng ngủ, bà lại ngồi vào chỗ cũ lúc nói chuyện với chồng; hai bàn tay ngón gầy nhẳng, nhẫn đeo đã lỏng tuột, ép chặt vào nhau, bà ôn lại từ đầu đến cuối cuộc nói chuyện giữa hai người hồi nãy.

Chàng đi rồi! Nhưng chàng đã cắt đứt với con kia ra sao? Liệu chàng còn tìm gặp nó nữa chăng? Tại sao mình lại không hỏi chàng điều đó nhỉ? Không, không, hai chúng mình không thể nào cùng chung sống với nhau được nữa. Dù có ở cùng nhà, mình và anh ta sẽ vẫn là người dưng nước lã với nhau. Mãi mãi! Người dưng nước lã! Bà cứ một mực nhay đi nhay lại cái tiếng phũ phàng đó. Tuy nhiên trước kia, ta yêu chàng biết mấy, lạy Chúa, trước kia ta yêu chàng nhường nào!... Xưa ta yêu chàng nhường nào! Và bây giờ, phải chăng ta không yêu chàng? Hay có khi ta còn yêu chàng hơn trước nữa cũng nên? Điều đáng sợ nhất là...", bà bắt đầu ngẫm nghĩ, nhưng không có thì giờ nghĩ nốt vì Matriona Filimonovna đã ló đầu qua khung cửa.

- Xin bà cho tìm em trai tôi vậy, - Matriona nói, - ít ra nó cũng có thể nấu bữa chiều hầu bà, kẻo lại giống như hôm qua và các em sẽ phải nhịn ăn mãi đến tận sáu giờ mất thôi.

- Được, tôi sẽ sai làm ngay bây giờ. Có người đi lấy sữa tươi chưa?

Thế là Daria Alecxandrovna lại lao đầu vào những lo lắng thường ngày và dìm nỗi phiền muộn vào đó trong chốc lát.

--------------------

(1) Đơn vị trọng lượng của Nga bằng 16,38 kg.

(2) Coterie (tiếng Pháp trong nguyên bản).

(3) Tên gọi theo tiếng Anh của Ecaterina.

CHƯƠNG 4

Xtepan Arcaditr trước đây học khá vì ông vốn thông minh; nhưng tính lười nhác và nông nổi khiến ông tốt nghiệp trong số những người đội sổ. Tuy nhiên, mặc dầu sống phóng túng, thứ bậc kém và trẻ tuổi, Oblonxki vẫn giữ một chức vị kha khá và lương nhiều: ông là chánh án một toà án ở Moxcva. Oblonxki có được chức vụ đó là nhờ ông chồng cô em Anna tức Alecxei Alecxadrovitr Carenin, một trong những quan chức quan trọng nhất của Bộ trực tiếp chỉ đạo Toà án đó; nhưng ví bằng không có Carenin, thì hàng trăm người khác, anh chị em họ, bà con, chú bác cũng có thể kiếm cho ông cái địa vị đó hoặc một địa vị khác tương tự, với số lương sáu nghìn rúp cần thiết cho ông sinh sống, vì mặc dầu có cái gia sản của vợ, ông làm ăn vẫn cứ lẹt đẹt.

Kể có tới nửa Moxcva và Peterburg là chỗ thân thuộc và bè bạn của Xtepan Arcaditr. Ông vốn sinh trong giới những người có quyền lực trên thế gian này. Một phần ba các chính khách của thế hệ trước là bạn bè của ông thân sinh ra Oblonxki và biết ông từ hồi còn ẵm ngửa; cái phần ba thứ hai vào loại cậu cậu tớ tớ với ông và quan hệ của ông đối với cái phần ba thứ ba cũng rất tốt; những người phân phối của cải trên đời, dưới hình thức việc làm, trang trại, nhượng địa, v.v... tất cả đều là bạn bè của ông và chả lẽ lại bỏ rơi người thân. Cho nên Oblonxki chẳng phải chật vật gì cũng vẫn kiếm được một chỗ làm nhiều bổng lộc; ông chỉ việc đừng có khước từ cái gì, đừng ganh tị mà cũng đừng gây sự với ai, đừng tỏ ra hay động lòng, mà điều này lại chính là cái xu hướng hồn hậu bẩm sinh của ông. Hẳn ông sẽ coi là chuyện kỳ khôi nếu người ta từ chối không cho ông cái địa vị và số lương ông đang cần, vả chăng ông có yêu cầu điều gì khác thường đâu, chỉ đơn giản là cái mà những người vào lứa tuổi ông đều có thể đạt được, và ông hoàn toàn có khả năng làm tròn loại công việc đó như ai khác.

Tất cả những người quen biết Xtepan Arcaditr mến ông không phải chỉ vì tính nết tốt, sự hoạt bát và lòng trung thực hiển nhiên của ông. Cái bề ngoài quyến rũ, cặp mắt sáng long lanh, đôi lông mày và mớ tóc đen nhánh, nước da tươi tắn của ông có sức hấp dẫn thể chất với tất cả những ai gặp ông, khiến họ thấy khoái hoạt hẳn lên. "A, Xtiva! Oblonxki! Anh ta kia kìa!", họ reo lên và hầu như bao giờ cũng nở một nụ cười rạng rỡ mỗi khi trông thấy ông. Và cho dù cuộc trò chuyện chẳng mang lại điều gì đặc biệt thích thú, người ta vẫn không kém hoan hỉ khi gặp lại ông ngày hôm sau và hôm sau nữa.

Giữ địa vị chánh án trong một toà án ở Moxcva từ hai năm nay, Xtepan Arcaditr đã chiếm được lòng quý mến và vì nể của các bạn đồng sự, cấp dưới và cấp trên, của mọi người có quan hệ công việc với ông. Những đức tính đã đem lại cho ông cái uy tín rộng khắp ấy là:

thứ nhất, thái độ khoan dung rất mực đối với mọi người, dựa trên ý thức về những khuyết điểm của bản thân; thứ hai, một đầu óc tự do tuyệt đối, không phải thứ chủ nghĩa tự do người ta thường huyênh hoang với ông trên báo chí, mà là thứ chủ nghĩa tự do sẵn có từ trong máu, nó giúp ông đối xử với mọi người nhất loại như nhau không phân biệt địa vị và hoàn cảnh; thứ ba, và đây là điểm quan trọng nhất, thái độ hoàn toàn dửng dưng với nghề nghiệp, nó giữ cho ông khỏi say mê hoặc phạm điều vụng dại.

Đến toà án, Xtepan Arcaditr đi về phòng làm việc, theo sau là gã lính hầu khúm núm mang cặp hồ sơ; ở đó, ông mặc quần áo quan toà rồi bước vào phòng nghị án. Những vị bồi thẩm và lục sự đứng dậy hết và vui vẻ, kính cẩn chào. Như thường lệ, Xtepan Arcaditr bước nhanh đến chỗ mình, bắt tay các thẩm phán và ngồi xuống. Ông nói đùa, trò chuyện với họ trong giới hạn nghiêm ngặt của thủ tục và khai mạc phiên họp. Không ai duy trì đúng mức hơn ông cái chừng mực giữa sự phóng túng, giản dị với giọng trịnh trọng cần thiết phải giữ để thừa hành nghề nghiệp một cách thoải mái. Người thư ký mang giấy má đến, vui vẻ và kính cẩn như tất cả những ai làm dưới quyền Xtepan Arcaditr, và nói bằng cái giọng thân mật, phóng túng mà Oblonxki đã khơi mào:

- Cuối cùng, toà án tỉnh Penđa đã cung cấp tình hình cho chúng ta. Đây, xin trình ngài những tài liệu ấy...

- A! Ông đã có tình hình rồi đấy ư? - Xtepan Arcaditr nói, luồn ngón tay vào giữa những tờ giấy. - Vậy thì, thưa quý vị...

Phiên họp bắt đầu.

"Nếu họ biết, - Oblonxki nghĩ thầm, đầu nghiêng nghiêng trịnh trọng trong khi nghe đọc bản tường trình, - nếu họ biết trước đây nửa tiếng đồng hồ, ông chánh án của họ đã mang bộ mặt con nít phạm lỗi như thế nào!". Và đôi mắt ông cười. Buổi họp phải tiếp tục luôn một mạch đến tận hai giờ; đến hai giờ, sẽ tạm nghỉ họp để ăn trưa.

Khoảng gần hai giờ, cánh cửa kính cao của phòng thường mở toang và một người bước vào. Tất cả các vị thẩm phán, ngồi dưới chân dung đức vua, sau tấm gương của công lý, đều quay nhìn phía cửa ra vào, khoái chí vì cơ hội giải trí đó; nhưng người mõ toà đã tống ngay kẻ vừa đột nhập kia ra và đóng cửa lại.

Khi bản tường trình được đọc xong, Xtepan Arcaditr vươn vai, và theo cái chủ nghĩa tự do đương thời, hút thuốc lá ngay giữa phòng nghị án trước khi trở về phòng làm việc. Hai ông bạn đồng sự, vị lão thành Nikitin và nhà quý tộc của nghị viện Grinevitr, cùng ra với ông.

- Sau bữa ăn, chúng ta còn đủ thì giờ làm nốt, - Xtepan Arcaditr nói.

- Nhất định rồi! - Nikitin trả lời.

- Thằng cha Fomill ấy ắt hẳn là một tên lưu manh khét tiếng. - Grinevitr nói về một trong những nhân vật có dính líu đến vụ án họ đang thẩm xét.

Xtepan Arcaditr cau mày, có ý muốn để mọi người ngầm hiểu là không nên phát biểu một lời phán xét trước như thế và không trả lời gì.

- Lúc nãy ai vừa vào đấy? - ông hỏi người mõ toà.

- Bẩm quan lớn, có một người không được phép mà vẫn cứ lén vào, lúc chúng tôi vừa quay lưng đi. Hắn hỏi quan lớn. Chúng tôi đã bảo hắn phải chờ cho đến khi bãi toà.

- Vậy hắn đâu?

- Tôi chắc hẳn ra ngoài phòng chờ, hắn vừa đi bách bộ ở đây. Hắn kia rồi, - người mõ toà vừa nói vừa chỉ một người đàn ông vạm vỡ, vai rộng, râu quăn, đang chạy phăng phăng lên chiếc cầu thang bằng đá mòn nhẵn, chiếc mũ da cừu vẫn đội nguyên trên đầu. Một viên chức toà án đang đi xuống, dáng giảo hoạt, tay cắp cặp, nhìn đôi chân của người trai trẻ ra vẻ bất bình và đưa mắt dò hỏi Oblonxki.

Xtepan Arcaditr dừng lại ở bậc thang thứ nhất. Trên cổ áo thêu của bộ đồng phục, nét mặt hớn hở của ông sáng ngời lên khi nhận ra người vừa tới.

- Chính hắn! Levin đây rồi! - ông nói, vừa mỉm cười thân ái vừa giễu cợt, vừa nhìn Levin đang bước tới. - Cậu không sợ phải đến tìm mình trong cái hang hùm này ư? - Xtepan Arcaditr nói, không chỉ bắt tay mà còn ôm hôn Levin. - Cậu đến đây đã lâu chưa?

- Mình vừa mới tới và mình muốn gặp cậu quá, Levin trả lời, nhìn quanh có vẻ rụt rè, vừa bực dọc vừa lo ngại.

- Về phòng làm việc của mình đi, - Xtepan Arcaditr nói, vốn biết cái tính rụt rè vừa tự phụ vừa đa nghi của bạn; và ông nắm lấy cánh tay Levin kéo đi như kiểu dẫn dắt chàng qua những bước hiểm nghèo.

Xtepan Arcaditr mình mình cậu cậu với hầu hết những người quen: từ ông già sáu mươi đến chàng trai hai mươi, từ đào kép đến bộ trưởng, từ thương gia đến tướng lĩnh... thành thử đa số những người ông thường mình mình cậu cậu là thuộc hai đầu bậc thang xã hội và hẳn họ sẽ rất kinh ngạc nếu được biết nhờ Oblonxki mà họ có cái gì tương đồng với nhau. Ông xưng hô mình mình cậu cậu với tất cả những ai cùng ông uống rượu sâm banh, mà ông thì cạn cốc sâm banh với khắp thiên hạ; cho nên, trước mặt những người dưới quyền, khi gặp một trong những người xấu hổ vì bị mình mình cậu cậu - ông thường gọi đùa một số lớn bạn bè như thế - với sự tế nhị sẵn có, ông luôn biết tránh cho cấp dưới khỏi có cảm giác khó chịu. Levin không phải là một người xấu hổ vì bị mình mình cậu cậu, nhưng tự nhiên Oblonxki cảm thấy Levin cho rằng có lẽ ông không nên phô trương sự thân mật giữa hai người trước mặt cấp dưới, vì vậy ông vội vàng đưa Levin về phòng làm việc.

Levin gần trạc tuổi với Oblonxki và sở dĩ chàng mình mình cậu cậu với ông, đó không phải chỉ đơn thuần vì họ đã cùng uống sâm banh với nhau. Họ chơi với nhau từ hồi nhỏ. Mặc dầu khác biệt về tính tình và sở thích, họ yêu thương nhau như hai người bạn gắn bó từ lúc ấu thơ thường yêu nhau. Nhưng, như thường xảy ra giữa những người đã chọn những lĩnh vực hoạt động khác nhau, tuy về lý lẽ người nọ vẫn tán thành hoạt động của người kia, song thâm tâm lại miệt thị nó. Người nào cũng nghĩ cuộc đời mình đang sống mới là cuộc đời chân chính duy nhất còn cuộc đời bạn mình đang sống chỉ là... ảo giác. Oblonxki không thể kìm được nụ cười châm biếm nhẹ nhàng khi trông thấy Levin. Biết bao lần ông thấy Levin, từ nông thôn ra, nơi chàng đang làm "một việc gì" (Xtepan Arcaditr không biết đích xác đó là việc gì và tuyệt nhiên không quan tâm đến chuyện ấy). Levin đến Moxcva bao giờ cũng nháo nhác, vội vã, hơi rụt rè và bực dọc về tính rụt rè đó, nhiều khi mang theo những quan điểm hoàn toàn mới và bất ngờ về mọi sự. Xtepan Arcaditr thường cười bạn về điều đó và lấy thế làm vui thích. Về phía mình, Levin cũng coi thường cuộc sống thị thành và nghề nghiệp của bạn mà chàng coi là trò đùa và thường đưa ra chế giễu. Chỉ khác một điều là Oblonxki xử sự như tất cả mọi người, cười một cách tự tin và dễ dãi, còn Levin thì nghi ngờ chính bản thân mình và đôi khi thường cười gượng.

- Bọn mình chờ cậu đã lâu, - Xtepan Arcaditr nói, khi vào đến phòng làm việc và buông tay bạn, như để tỏ ra không còn gì nguy hiểm nữa. - Mình rất sung sướng được gặp cậu, - ông nói tiếp - Cậu có khỏe không? Hiện đang làm gì? Cậu đến lúc nào vậy?

Levin lặng thinh, nhìn bộ mặt lạ lẫm của hai bạn đồng sự với Oblonxki và nhất là bàn tay anh chàng Grinevitr sang trọng, ngón búp măng trắng muốt, móng dài vàng vàng và cong cong ở đầu, cùng những cái cúc to tướng lấp lánh ở cổ tay áo; đôi bàn tay đó dường như thu hút tất cả sự chú ý của chàng và khiến tâm trí chàng mất cả thoải mái. Oblonxki nhận ra điều đó ngay và mỉm cười.

- à phải, cho phép tôi giới thiệu các ngài với nhau, - ông nói. Các bạn đồng sự của tôi: Filip Ivanovitr Nikitin, Misen Xtanixlavitr Grinevitr, và quay lại phía Levin: một quan cai trị tỉnh nhỏ, con người mới của hội đồng tự trị địa phương, một lực sĩ một tay nhấc nổi năm pút(1), một nhà chăn nuôi và một nhà săn bắn, ông bạn Conxtantin Dimitrievitr Levin của tôi, em trai Xergei Ivanovitr Coznusev.

- Rất hân hạnh, - ông già nhỏ bé nói.

- Tôi đã có vinh dự được biết lệnh huynh Xergei Ivanovitr, Grinevitr nói, chìa bàn tay thanh tú để móng dài ra.

Levin sa sầm mặt; chàng lạnh lùng bắt tay Grinevitr và lập tức quay về phía Oblonxki. Mặc dầu rất mến phục ông anh cùng mẹ khác cha, nhà văn nổi tiếng khắp nước Nga, chàng không chịu được khi người ta nói với mình không phải như nói với Conxtantin Levin mà là với em trai nhà văn Coznưsev trứ danh.

- Không, tôi không ở trong hội đồng nữa đâu. Tôi đã xích mích với tất cả mọi người và không đến dự các phiên họp nữa, - chàng quay lại nói với Oblonxki.

- Thế là chuyện chẳng đi đến đâu cả! - Oblonxki mỉm cười nói. - Nhưng đầu đuôi thế nào? Tại sao vậy?

- Chuyện dài lắm. Mình sẽ kể cho cậu nghe sau, - Levin nói thế, nhưng chàng lại kể ngay tức khắc. - Nói vắn tắt là mình tin chắc không thể nào làm việc với hội đồng được, - chàng nói với giọng của kẻ vừa bị lăng nhục. - Một mặt, đó là một thứ đồ chơi: người ta vui chơi ở nghị viện; vậy mà mình thì chả còn non trẻ, cũng chưa đến nỗi già nua gì để vui thú với những thứ đồ chơi, và mặt khác (chàng ngần ngừ), đó là một thứ phe cánh(2) ở tỉnh nhỏ nhằm mục đích kiếm tiền.

Trước kia, có chế độ bảo hộ, có toà án, bây giờ thì là hội động tự trị, ở đây người ta không ăn hối lộ, nhưng lại kiếm được những khoản bổng lộc không phải do công sức làm ra, - chàng hăm hở nói, như thể trong số những người đứng đấy có ai định bác bỏ ý kiến của mình.

- Chà! Chà! Mình thấy cậu đang ở một giai đoạn mới đấy, cậu hướng về phe bảo thủ mất rồi, - Xtepan Arcaditr nói với Levin. - Ta sẽ trở lại chuyện đó sau.

- Phải, đúng vậy. Nhưng mình cần gặp cậu, - Levin nói, hằn học nhìn đôi bàn tay của Grinevitr.

Xtepan Arcaditr thoáng mỉm cười.

- Thế nào, dạo nọ cậu bảo là sẽ không vận âu phục nữa kia mà! - ông vừa nói vừa ngắm nghía bộ đồ mới của bạn, rõ ràng vừa ở một cửa hàng may người Pháp ra. - Quả đúng vậy: một giai đoạn mới...

Levin đột nhiên đỏ mặt, không phải như kiểu người lớn tuổi, chỉ hời hợt bên ngoài, tự mình không hay, mà như một chú bé cảm thấy tính nhút nhát làm cho mình đâm lố bịch, và do đó, lại càng đỏ mặt hơn, tựa hồ sắp phát khóc. Thật khổ tâm khi nhận thấy trên bộ mặt thông minh và trai tráng ấy một vẻ quá con nít như vậy, đến nỗi Oblonxki phải quay nhìn đi chỗ khác.

- Phải, vậy chúng ta có thể gặp nhau ở đâu? Mình có chuyện nhất thiết phải nói với cậu, - Levin nói.

Oblonxki ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ.

- Mình đề nghị với cậu thế này: đến hiệu Gurin ăn trưa, ta sẽ có thể trò chuyện được. Mình còn rỗi cho đến ba giờ.

- Không, - Levin đáp sau một lúc suy nghĩ. - Mình còn phải đi đằng này.

- Vậy thì ta ăn chiều với nhau nhé.

- Ăn chiều ư? Nhưng câu chuyện mình nói với cậu chả có gì đặc biệt đâu: chỉ hai câu thôi; ta sẽ nói chuyện sau vậy.

- Được, cậu nói hai câu của cậu cho mình nghe đi, rồi đến bữa chiều ta sẽ bàn thêm.

- Thế này nhá, - Levin nói. - Vả lại, cũng chả có gì đặc biệt đâu.

Mặt chàng đột nhiên cau lại, do phải cố vượt lên thói nhút nhát.

- Gia đình Serbatxki hiện làm gì? Không có gì thay đổi chứ? - chàng hỏi.

Xtepan Arcaditr từ lâu đã biết Levin mê cô em vợ mình là Kitti(1) nên thoáng mỉm cười và cặp mắt ông vụt long lanh vui thích.

- Quả là cậu đã nói với mình có hai câu thật, nhưng mình không thể trả lời cậu vắn tắt như thế được, bởi vì... Xin lỗi cậu một lát...

Viên thư ký bước vào, với cái vẻ thân tình kính cẩn, và cái ý thức khiêm tốn chung của mọi người thư ký tự biết mình thạo công việc hơn hẳn thủ trưởng; anh ta mang giấy tờ đến cho Oblonxki và dùng hình thức câu hỏi để giải thích cho ông một chỗ khó xử. Xtepan Arcaditr không đợi anh ta nói hết, thân mật đặt tay lên tay áo viên thư ký.

- Không, ông cứ làm như tôi đã dặn, - ông nói, mỉm cười để làm nhẹ bớt lời phán đó, và sau khi cắt nghĩa tóm tắt ý kiến của mình về vấn đề ấy, ông đẩy chồng giấy ra và bảo: - ông cứ làm như thế cho, ông Zacari Nikititr ạ.

Viên thư ký ngượng ngập, rút lui. Trong khi họ nói chuyện, Levin đã hoàn toàn bình tĩnh lại; chàng vẫn đứng tỳ khuỷu tay vào chiếc ghế tựa, và nét mặt lộ vẻ chăm chú mỉa mai.

- Mình không hiểu, mình không hiểu, - chàng nói.

- Cậu không hiểu cái gì? - Oblonxki mỉm cười vui vẻ hỏi và lấy ra một điếu thuốc lá. Ông chờ Levin thốt ra một điều gì kỳ cục.

- Nhưng mình không hiểu các cậu làm cái gì thế, - Levin nhún vai nói. - Làm sao mà cậu có thể làm việc đó nghiêm túc được nhỉ?

- Tại sao?

- Vì... cậu chả có việc gì phải làm cả.

- Cậu tưởng thế chứ, tụi mình đang bù đầu vì công việc đấy.

- Toàn chuyện giấy tờ cả thôi; nhưng cậu có khiếu về mặt ấy đấy, - Levin nói thêm.

- Nghĩa là cậu cho rằng mình còn thiếu một cái gì phải không?

- Có thể, - Levin nói. - Nhưng dù sao mình vẫn thán phục cái điệu bộ trịnh trọng của cậu và hãnh diện có được người bạn là một nhân vật quan trọng đến thế. Với lại cậu chưa trả lời câu hỏi của mình, - chàng nói tiếp, gắng tự chủ để nhìn thẳng vào mắt Oblonxki.

- Được, được, không chóng thì chầy thế nào rồi cũng đến lượt cậu cho mà xem. Chừng nào cậu còn có ba ngàn mẫu trong quận Karazino, bắp thịt còn rắn chắc như bây giờ và tươi tắn như một em bé gái mười hai tuổi, thì mọi việc đều êm đẹp, nhưng cả cậu nữa, rồi cậu cũng đến như bọn mình thôi. Còn điều cậu hỏi mình, thì chẳng có gì thay đổi cả, nhưng có điều đáng tiếc là cậu bẵng đi quá lâu không đến chơi đằng ấy.

- Tại sao, - Levin sợ hãi hỏi.

- Bởi vì... - Oblonxki đáp. - Ta sẽ nói chuyện đó sau. Cậu về đây có việc gì?

- Điều đó ta cũng sẽ nói chuyện sau, - Levin nói, mặt đỏ dừ lên.

- Được, mình hiểu rồi, - Xtepan Arcaditr nói. - Cậu ạ, lẽ ra mình định mời cậu về nhà kia đấy, nhưng vợ mình lại hơi mệt. Nếu cậu muốn gặp họ, chắc chắn là từ bốn giờ đến năm giờ thế nào họ cũng có mặt ở vườn thú đấy, Kitti vẫn trượt băng tại đó. Cậu cứ đến đấy, mình sẽ tới tìm cậu và ta sẽ cùng đi ăn chiều với nhau.

- Tốt lắm, vậy thì lát nữa nhé.

- Coi chừng đấy, mình biết cậu lắm: cậu có thể quên phắt đi hoặc đùng đùng trở về nông thôn! - Xtepan Arcaditr cười, nói to với Levin.

- Không, nhất định mình sẽ đến.

Và Levin rời khỏi phòng làm việc, đúng lúc bước ra khỏi cửa chàng mới sực nhớ là đã quên không chào các bạn đồng sự của Oblonxki.

- Ông ấy có vẻ cương nghị lắm, - Grinevitr nói, khi Levin đi khỏi.

- Phải, ông bạn thân mến ạ, - Xtepan Arcaditr gật đầu nói, - đó là một anh chàng sung sướng! Ba nghìn mẫu ở quận Karazino! Trước mặt cậu ta có tất cả, con người mới tươi tắn làm sao! Thật không giống như chúng ta đây...

- Ông thì cũng chả có gì phải phàn nàn, ông Xtepan Arcaditr ạ.

- Có chứ, mọi việc đều lung tung beng, - Xtepan Arcaditr vừa nói vừa thở dài.

CHƯƠNG 5

Khi Oblonxki hỏi chàng đến Moxcva có việc gì, Levin đỏ mặt rồi lại tự giận mình vì đã đỏ mặt, bởi lẽ chàng không thể trả lời: "Mình đến xin cưới cô em vợ cậu đấy". Vậy mà, chàng ra đây chỉ vì cái việc duy nhất ấy.

Hai gia đình Levin và Serbatxki, hai gia đình quý phái lâu đời ở Moxcva luôn đi lại thân thiết với nhau. Mối quan hệ đó càng thêm khăng khít trong những năm Levin đi học. Chàng chuẩn bị thi và vào trường Đại học cùng một lúc với hoàng thân trẻ tuổi Serbatxki, anh của Doli và Kitti . Thời kỳ đó, Levin rất năng lui tới nhà Serbatxki và mê tất cả nhà. Kể ra thì cũng thật kỳ dị, nhưng quả là Conxtantin Levin phải lòng tất cả gia đình, và đặc biệt là phái nữ trong nhà Serbatxki.

Levin không còn giữ được kỷ niệm nào về mẹ mình, và chàng chỉ có một người chị, thành thử chính ở nhà Serbatxki, chàng đã làm quen với cái môi trường phong nhã và học thức của những gia đình quý phái lâu đời, mà vì bố mẹ mất sớm, chàng không được hưởng. Tất cả những người trong gia đình ấy, và chủ yếu là phái nữ, đối với chàng, dường như có một vầng hào quang thơ mộng và huyền bí bao quanh, chẳng những chàng không hề nhìn thấy ở họ một khuyết điểm nào, ngược lại, chính là để có ánh hào quang thơ mộng đó mà chàng gán cho họ những hoài bão cao cả nhất và tất cả những gì toàn thiện toàn mỹ có thể có trên đời. Tại sao ba cô tiểu thư trẻ măng kia cứ phải xen kẽ một ngày nói tiếng Pháp rồi lại một ngày nói tiếng Anh?

Tại sao vào những giờ nào đó, các cô cứ thay nhau ngồi vào dương cầm, tiếng đàn vẳng lên mãi tận phòng anh trai, nơi tốp thanh niên đang học tập? Tại sao các giáo sư dạy văn học Pháp, âm nhạc, hội họa và khiêu vũ cứ diễu đi diễu lại trong nhà? Tại sao, cứ đúng vào một giờ cố định, ba tiểu thư lại mặc áo choàng xatanh (Doli mặc một cái dài lê thê, Natalia một cái dài vừa và Kitti một cái ngắn tũn lộ cả đôi chân thon lẳn đi tất đỏ căng) cùng cô Linong(1) đi xe ngựa đến tận đại lộ Tve? Tại sao các tiểu thư cứ phải dạo chơi trên đại lộ Tve dưới sự hộ tống của tên hầu đeo phù hiệu vàng óng trên mũ? Tất cả những điều đó, chàng đều không hiểu nổi, cũng như phần lớn sự kiện xảy ra trong thế giới huyền bí của họ, nhưng chàng biết chắc tất cả những gì xảy ra ở đó đều tuyệt diệu và đúng là chàng đã mê cái không khí huyền bí đang bao quanh họ.

Trong những năm ở trường Đại học, chàng suýt phải lòng cô chị cả Doli, nhưng người ta đã sớm gả cô cho Oblonxki. Thế là chàng bắt đầu mê cô em. Chàng lờ mờ cảm thấy mình phải mê một trong mấy chị em mà không thể xác định dứt khoát là cô nào. Nhưng lại đến lượt Natalia, ngay sau khi xuất hiện trong giới thượng lưu, đã lấy luôn nhà ngoại giao Lvop. Khi Levin rời khỏi trường Đại học thì Kitti hãy còn là một cô bé. Chàng Serbatxki trẻ tuổi gia nhập hải quân, đã bị chết đuối ở biển Ban Tích, và sự lui tới giữa Levin với gia đình Serbatxki thưa dần, mặc dầu tình bạn của chàng đối với Oblonxki vẫn thân thiết. Nhưng vào đầu mùa đông năm nay, sau một năm ở nông thôn, khi Levin đến Moxcva và gặp lại gia đình Serbatxki, chàng chợt hiểu duyên số đã định mình phải yêu người nào trong ba chị em.

Cứ xét bề ngoài thì đối với chàng, chẳng có gì đơn giản hơn việc hỏi quận chúa Serbatxki làm vợ: ba mươi hai tuổi, con nhà gia thế, nói cho đúng là giàu có, xem ra rất có thể người ta sẽ coi chàng là một đám tốt. Nhưng Levin yêu Kitti và đối với chàng, Kitti dường như hoàn hảo hết sức về mọi phương diện, một con người vượt hẳn lên trên mọi sự ngẫu nhiên, còn bản thân chàng thì tự coi mình chẳng ra gì và quá ư phàm tục, đến nỗi ngay cả trong ý nghĩ, chàng cũng không sao hình dung nổi mọi người và bản thân Kitti lại có thể coi chàng là xứng đôi với nàng được.

Sau khi sống ở Moxcva hai tháng như trong giấc mộng, hầu như ngày nào cũng gặp Kitti trong giới xã giao, nơi chàng đến để tìm gặp nàng, bỗng nhiên Levin cả quyết là chuyện không thể thành được và trở về trang trại. Chàng tin chắc cha mẹ nàng đánh giá mình chưa đủ điều kiện là chàng rể xứng với Kitti kiều diễm, và chính Kitti cũng không thể nào yêu chàng. Dưới mắt cha mẹ Kitti, chàng không có công việc thường xuyên và dứt khoát nào cả, chẳng có địa vị gì trong giới thượng lưu, trong khi các bạn bè, vào lúc chàng đã ba mươi hai tuổi đầu, người là đại tá cận vệ, người là giáo sư, kẻ là giám đốc ngân hàng hay giám đốc hoả xa, hoặc chánh án như Oblonxki; còn chàng (chàng biết rất rõ những điều người ta có thể nghĩ về mình), chàng chỉ là anh điền chủ, nuôi bò cái, săn chim dẽ, xây nhà dựng cửa; vậy chàng chỉ là kẻ bất tài, không làm gì nên thân và trước mắt xã hội, chẳng kiếm được công việc gì khác ngoài những chuyện dành cho bọn vô tích sự.

Bản thân Kitti, huyền bí và xinh đẹp, làm sao có thể yêu một anh con trai xấu như vậy (chàng tự cho là xấu trai), nhất là lại thô sơ và tầm thường đến thế. Hơn nữa, những quan hệ cũ giữa chàng với Kitti (những quan hệ giữa một người lớn hẳn hoi với một cô bé, hậu quả tình bạn giữa chàng với anh trai Kitti ), đối với chàng, hình như cũng là một trở ngại khác cho mối tình. Một gã thanh niên trung thực, mã người chẳng có gì là ưa nhìn (chàng tự xét mình như thế), có thể khiến người ta muốn đánh bạn - chàng nghĩ bụng - nhưng muốn được yêu như chàng đã yêu Kitti, thì cần phải điển trai và nhất là phải...

độc đáo.

Chàng từng nghe nói phụ nữ thường hay yêu những anh đàn ông xấu xí và kém cỏi, nhưng chàng không tin vì chàng cứ suy từ bụng mình thì biết, chàng chỉ có thể yêu một người đàn bà đẹp, huyền bí và độc đáo.

Tuy nhiên, sau hai tháng sống một mình ở nông thôn, chàng xác định rõ lối sống đó không còn là một cám dỗ tương tự như hồi còn trẻ măng, cảm giác đó không để chàng yên ổn lấy một phút, chàng sẽ không thể sống nổi nếu chưa được biết đích xác liệu nàng có thể trở thành vợ mình hay không, nỗi tuyệt vọng của chàng mới chỉ là do tưởng tượng thôi và chưa có gì chứng tỏ chàng sẽ bị từ chối. Thế là chàng đáp xe lửa đi Moxcva với quyết tâm sẽ tỏ tình và sẽ cưới nàng nếu được đồng ý. Hoặc là... nhưng chàng không dám nghĩ đến những điều sẽ xảy đến với mình, nếu bị cự tuyệt.

------------------

(1) Đây là nữ gia sư của các tiểu thư nhà Serbatxki. ở các nước phương Tây, chữ "cô" để chỉ tất cả những người đàn bà không chồng, không phân biệt trẻ hay già.

CHƯƠNG 6

Tới Moxcva bằng chuyến xe lửa sáng, Levin ghé vào nhà ông anh cùng mẹ khác cha Coznưsev. Sau khi thay quần áo, chàng đến phòng anh định kể ngay cho ông rõ tại sao chàng đến Moxcva và hỏi ý kiến ông, nhưng anh chàng không phải chỉ có một mình. Trong phòng còn có một giáo sư triết học nổi tiếng, từ Kharcov đến, với chủ đích làm sáng tỏ sự hiểu lầm nảy ra giữa hai người về một luận điểm triết học rất trọng yếu. Ông giáo sư đang tiến hành một cuộc bút chiến sôi nổi, công kích các nhà duy vật chủ nghĩa và Xergei Coznưsev rất quan tâm theo dõi cuộc bút chiến. Sau khi đọc bài báo gần đây nhất của giáo sư, ông gửi thư phản đối giáo sư về một vài điểm: ông trách giáo sư nhượng bộ phái duy vật nhiều quá. Và vị giáo sư lập tức đến đây để thanh minh. Đó là một vấn đề thời sự nóng hổi: có ranh giới nào giữa những hiện tượng tâm lý và sinh lý trong sinh hoạt của con người không và nó ở vào chỗ nào?

Xergei Ivanovitr tiếp đón em trai với nụ cười đáng yêu và lạnh lùng thường ngày của ông, và sau khi giới thiệu chàng với giáo sư, lại tiếp tục câu chuyện.

Người đàn ông nhỏ bé đeo kính, trán hẹp, ngừng một giây để chào Levin rồi lại tiếp tục chứng minh, chẳng buồn mảy may để ý đến chàng. Levin ngồi xuống chờ cho giáo sư đi khỏi, nhưng chẳng mấy chốc chàng bị lôi cuốn ngay vào câu chuyện. Chàng đã đọc những bài báo đó đăng trên các tạp chí và quan tâm đến chúng như một người nghiên cứu khoa vạn vật ở trường Đại học quan tâm đến sự phát triển của môn học này, nhưng chưa bao giờ chàng đem những điều suy diễn khoa học về nguồn gốc con người với tính cách là động vật, về những phản xạ, về sinh học và xã hội học, đối chiếu với những vấn đề ngày càng khiến chàng bận tâm: ý nghĩa của sự sống và cái chết.

Lắng nghe cuộc tranh luận, chàng thấy hai bên đang xác lập mối liên hệ giữa khoa học và những vấn đề có dính líu đến tâm hồn.

Nhiều lần, họ suýt đề cập đến những vấn đề này, nhưng cứ mỗi lần mon men gần tới cái điều Levin cho là chủ yếu, họ lại hấp tấp lảng xa để rồi lại lao vào lĩnh vực những nét phân biệt tinh vi, những phản bác, trích dẫn, điển cố, dẫn chứng và chàng vất cả lắm mới hiểu họ đang bàn chuyện gì!

- Tôi không thể thừa nhận, - Xergei Ivanovitr nói rành rọt, khúc chiết và trang nhã như thường thấy trong ngôn ngữ của ông, - trong bất kỳ trường hợp nào, tôi cũng không thể thừa nhận như Két rằng tất cả những điều tôi hình dung về thế giới bên ngoài là do cảm giác mà ra. Khái niệm cơ bản về con người không phải đến với tôi bằng giác quan, vì chẳng có cơ quan đặc biệt nào để truyền đạt ý niệm đó cả.

- Phải, nhưng cả Vuyếcxt, cả Cnovxc và cả Pripaxov đều sẽ trả lời rằng ý thức về con người của ông là do sự giao tiếp của cảm giác, nó chỉ là sản phẩm của cảm giác. Thậm chí, Vuyếcxt còn nói dứt khoát là hễ không còn cảm giác thì cũng không còn ý thức về con người nữa.

- Ngược lại, tôi cho rằng... - Xergei Ivanovitr mở đầu.

Nhưng một lần nữa, Levin cảm thấy, giữa lúc hơi đụng đến vấn đề chủ yếu, họ lại né ra; chàng quyết định hỏi vị giáo sư:

- Vậy nếu cảm giác của tôi chìm đắm vào chốn hư vô, nếu thể xác tôi chết đi, thì không thể có cuộc sống nữa chăng? - chàng hỏi.

Giáo sư có vẻ phật ý và như bị tổn thương về tinh thần vì câu phá ngang đó: ông đưa mắt nhìn kẻ nói leo, hắn giống phu kéo thuyền hơn là triết gia, và lại nhìn Xergei Ivanovitr như để hỏi xem nên trả lời thế nào. Nhưng Xergei Ivanovitr tuyệt nhiên không nghiệt ngã như giáo sư: trong óc ông có đủ cả câu trả lời giáo sư, lẫn sự thông cảm với cái quan điểm đơn giản và tự nhiên dẫn đến câu hỏi đó; ông mỉm cười nói:

- Chúng ta không có đủ luận cứ, - vị giáo sư nhấn mạnh thêm và tiếp tục trình bày luận điểm của mình. - Không, - ông nói, - tôi cho rằng nếu cảm giác cũng dựa trên ấn tượng như Pripaxov đã nói thì chính vì thế mà ta càng phải phân biệt rõ ràng hai khái niệm ấy.

Levin không nghe nữa và chờ giáo sư đi khỏi.

CHƯƠNG 7

Khi giáo sư đã ra về, Xergei Ivanovitr quay lại phía cậu em.

- Tôi rất mừng thấy chú lên chơi. Chú ở đây có lâu không? Công việc trang trại ra sao?

Levin biết ông anh rất ít quan tâm đến chuyện trang trại và ông hỏi chỉ vì phép lịch sự, cho nên chàng cũng chỉ nói chuyện bán lúa mì và thu nợ thôi.

Levin có ý nói với anh về dự định thành lập gia đình và muốn hỏi ý kiến ông; thậm chí chàng còn quyết tâm thế nào cũng nói. Nhưng khi gặp anh, theo dõi cuộc nói chuyện của ông với giáo sư, rồi lại nghe ông hỏi thăm tình hình quản lý trang trại với cái giọng vô tình mà thành ra kẻ cả (của cải của mẹ để lại không chia và chính Levin quản lý toàn bộ), Levin cảm thấy không thể ngỏ cho anh biết dự định lấy vợ của mình được nữa. Chàng cảm thấy ông anh sẽ không nhìn nhận vấn đê như chàng mong muốn.

- Công việc của hội đồng tự trị chỗ chú ra sao? - Xergei Ivanovitr hỏi, ông vốn rất quan tâm đến những thí nghiệm về hành chính địa phương mà ông cho là rất quan trọng.

- Em hoàn toàn chẳng biết tí gì.

- Sao hả?... Chú là uỷ viên hội đồng kia mà?

- Không, em không phải là uỷ viên nữa; em xin từ chức rồi, - Levin đáp, - và em không đi họp nữa.

- Thật đáng tiếc! - Xergei Ivanovitr cau mày nói.

Để tự bào chữa, Levin bắt đầu kể những việc người ta thường làm trong các cuộc họp của hội đồng tự trị ở quận chàng.

- Bao giờ cũng vẫn vậy! - Xergei Ivanovitr ngắt lời chàng, - người Nga chúng ta bao giờ cũng thế! Có lẽ khả năng nhìn thấy khuyết điểm của bản thân mình là mặt tốt của tính tình chúng ta, nhưng chúng ta đã đi quá trớn: ta khoái trá với cái chất châm biếm mà bao giờ ta cũng có thừa. Tôi chỉ cần nói với chú điều này thôi: nếu người ta cho một dân tộc khác ở châu Âu, như người Đức, người Anh chẳng hạn, được hưởng cũng những quyền hạn đó, cũng những chế độ địa phương đó, họ sẽ biến những cái đó thành tự do, còn chúng ta thì chỉ biết đem ra chế giễu.

- Biết làm thế nào được? - Levin nói với vẻ mặt phạm lỗi. - Đó là lần thí nghiệm cuối cùng của em. Em đã cống hiến tất cả sức lực vào đó. Em không thể chịu được nữa, em là kẻ bất tài.

- Chú không phải là kẻ bất tài đâu, - Xergei Ivanovitr nói, - nhưng chú không nhìn vấn đề với một quan điểm đứng đắn.

- Có lẽ thế, - Levin đáp, giọng buồn buồn.

- Chú có biết là chú Nicolai nhà ta đã trở về chưa?

Nicolai là anh ruột Conxtantin Levin và em cùng mẹ khác cha với Xergei Ivanovitr. Đó là con người bỏ đi: anh ta phung phí phần lớn gia sản, đàn đúm với một bọn người kỳ lạ, tư cách chẳng ra gì và xích mích với anh em ruột.

- Anh bảo sao? - Levin hoảng hốt thốt lên. - Sao anh biết?

- Procov trông thấy chú ấy ngoài phố.

- ở Moxcva này ấy à? Anh ấy ở đâu? Anh có biết không? - Levin đứng dậy như định đi ngay.

- Tôi tiếc là đã nói với chú điều đó, - Xergei Ivanovitr nói và lắc đầu khi thấy vẻ bối rối của cậu em út. - Tôi đã cho người đi hỏi xem chú ấy ở đâu và tôi đã nhờ gửi tới tận tay chú ấy lá hối phiếu nhà Trubin mà tôi trả tiền rồi. Đây là thư chú ấy trả lời.

Và Xergei Ivanovitr lấy ở dưới cái chặn giấy ra một lá thư, chìa cho em xem.

Levin đọc mảnh giấy đặc sịt một thứ chữ kỳ quặc và quen thuộc:

"Tôi xin mọi người để cho tôi được yên thân. Tôi chỉ yêu cầu các ông anh, ông em thân mến của tôi có thế. Nicolai Levin".

Đọc xong bức thư, Levin cứ đứng nguyên trước mặt Xergei Ivanovitr, đầu cúi gằm, mảnh giấy trong tay. Trong tâm hồn chàng, ý muốn tạm quên người anh khốn khổ kia đang vật lộn với ý thức biết như thế là sai.

- Rõ ràng nó muốn sỉ nhục tôi, - Xergei Ivanovitr nói, - nhưng nó không đủ sức làm thế, còn tôi, với tất cả tấm lòng, tôi muốn giúp nó, nhưng biết không thể được.

- Vâng, vâng, - Levin nhắc lại. - Em hiểu và em tán thành thái độ của anh đối với anh ấy; dù sao em cũng phải đi gặp anh ấy!

- Tuy tôi muốn can chú là không nên, nhưng nếu chú muốn, thì chú cứ việc đến, - Xergei Ivanovitr nói. - Về phần tôi, tôi chả lo: nó không làm anh em mình bất hòa được đâu; nhưng tôi khuyên chú tốt hơn hết là đừng đến đó. Không giúp gì được cho nó đâu. Nhưng thôi, chú muốn làm thế nào thì tuỳ.

- Có thể là không giúp nổi anh ấy, nhưng em cảm thấy, nhất là trong lúc này (nhưng điều đó lại là chuyện khác), em cảm thấy em sẽ không yên tâm nếu...

- Tôi không hiểu chú ra sao cả, - Xergei Ivanovitr nói, - tôi chỉ hiểu có một điều, - ông nói thêm: - đó là một bài học nhục nhằn. Từ khi chú Nicolai nhà ta thành con người như bây giờ, tôi trở nên rộng lượng hơn đối với cái mà người ta gọi là sự đê mạt... Chú có biết nó đã làm những gì không?

- Chao! Thật ghê gớm! Ghê gớm! - Levin nhắc đi nhắc lại.

Sau khi hỏi người hầu phòng của Xergei Ivanovitr địa chỉ anh trai, Levin định đến đấy ngay, nhưng chàng lại thay đổi ý kiến, quyết định hoãn cuộc đi thăm đến tối. Muốn cho tâm trí thanh thản, trước hết chàng cần giải quyết vấn đề đã khiến chàng tới Moxcva. Từ nhà ông anh, chàng lại thẳng toà án của Oblonxki và sau khi biết nơi gia đình Serbatxki thường tới vui chơi, chàng đi luôn đến chỗ người ta bảo có thể gặp được Kitti

CHƯƠNG 8

Vào lúc bốn giờ, Levin từ trên chiếc xe ngựa thuê bước xuống cửa Vườn thú, tim đập thình thình, men theo con đường nhỏ dẫn tới những trái núi Nga(1) và sân trượt băng; chàng chắc chắn sẽ gặp nàng ở đó, vì đã trông thấy cỗ xe của gia đình Serbatxki đậu gần cửa.

Trời quang đãng và lạnh. ở gần cửa, xe ngựa bốn bánh, xe trượt tuyết, xe cho thuê, đỗ thành dãy dài cùng với hàng rào sen đầm. Một đám đông sang trọng chen chúc ngoài cửa và trên những con đường nhỏ lách giữa dãy nhà xinh xắn bằng gỗ chạm trổ công phu, ánh nắng lấp lánh điểm tô những chiếc mũ và những cây bạch dương già cong queo trong vườn, phủ khắp cành nhánh một lượt tuyết như mặc bộ áo lễ mới, trang trọng.

Vừa đi về phía sân trượt băng, Levin vừa tự nhủ: "Bình tĩnh, không được rối trí! Mày làm sao thế? Mày muốn gì nào? Câm ngay đi, đồ ngốc!", chàng thầm nhủ lòng. Nhưng chàng càng gắng trấn tĩnh bao nhiêu lại càng bồi hồi bấy nhiêu. Một người bạn gặp chàng, gọi, nhưng Levin cũng không nhận ra anh ta nữa. Chàng đến gần những trái núi Nga từ đó vẳng lên tiếng cót két của dây xích xe trượt tuyết đang lên xuống ầm ầm trong tiếng xôn xao nói cười vui vẻ. Chàng đi mấy bước nữa thì thấy sân trượt băng và lập tức nhận ra nàng giữa đám đông.

Bằng vào niềm vui và nỗi xao xuyến tràn ngập lòng mình, chàng biết nàng đang ở đó. Nàng đang đứng nói chuyện với một bà ở đầu kia sân băng; nhìn bề ngoài thì cả y phục lẫn thái độ nàng chẳng có gì đặc biệt; nhưng đối với Levin, việc nhận ra nàng giữa đám đông cũng dễ dàng như nhận ra một cây hoa phong lữ thảo giữa bụi tầm ma. Tất cả đều ngập trong hào quang của nàng. Nàng là một nụ cười chiếu sáng tất cả những gì bao quanh. "Liệu mình có dám bước xuống sân băng và lại gần nàng không đây?" - Levin nghĩ thầm. Chàng cảm thấy như nơi Kitti đang đứng là một thánh đường bất khả xâm nhập và chỉ một ly nữa thì quay gót trở lui vì quá sợ hãi. Chàng phải cố sức chế ngự bản thân và tự nhủ rằng xung quanh nàng có đủ hạng người, và cả chàng nữa, chàng cũng có thể được phép trượt băng chứ. Chàng bước xuống, tránh không nhìn Kitti như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời; nhưng mặc dầu không nhìn, chàng vẫn cứ trông thấy nàng, như vẫn thấy mặt trời vậy.

Hôm ấy, vào giờ này, trên mặt băng tập hợp toàn những người cùng một giới, tất cả đều quen biết nhau. ở đó, có những nhà trượt băng cự phách đang trổ tài, những người mới học đang vịn ghế bành để tập, cử chỉ lóng ngóng, vụng về, có cả những chú bé và những ông già trượt băng với mục đích bảo vệ sức khỏe; đối với Levin, hình như tất cả đều là những kẻ tốt số, sung sướng, vì họ được ở gần bên Kitti.

Vậy mà những người trượt băng lại cứ vượt qua nàng, đuổi kịp nàng, nói chuyện với nàng thản nhiên như không, và cứ vui đùa như tuyệt nhiên chẳng lệ thuộc gì vào nàng, cứ việc tận hưởng thời tiết đẹp và mặt băng trong ngần!

Nicolai Serbatxki, anh họ Kitti, mặc áo chẽn ngắn và quần ống hẹp, đang ngồi trên ghế dài, chân đi giày trượt băng; ông ta trông thấy Levin và gọi to:

- Này! Nhà trượt băng giỏi nhất nước Nga! Anh đến đây lâu chưa?

Sân băng tuyệt lắm, đi giày trượt vào mau lên!

- Tôi không có giày trượt, - Levin đáp, sửng sốt thấy mình mạnh dạn và phóng túng đến thế ngay trước mặt Kitti và tuy không hề nhìn, chàng vẫn không để nàng lọt khỏi tầm mắt một giây. Chàng cảm thấy mặt trời đang đi về phía mình. Nàng đang ở một đầu sân băng và, đôi chân nhỏ lút trong giày cao cổ, nàng tiến về phía chàng, vẻ sợ sệt lộ rõ trên nét mặt. Một chàng trai trẻ vận y phục kiểu Nga, tay vung hết sức mạnh, mình rạp xuống mặt đất, vượt qua nàng.

Nàng không vững tin ở mình lắm nên đã rút hai tay ra khỏi chiếc bao tay nhỏ quàng vào cổ bằng một sợi dây và sẵn sàng bíu lấy bất cứ cái gì; mắt đăm đăm nhìn Levin, mà nàng đã nhận ra, nàng mỉm cười với chàng và đồng thời mỉm cười cả về vẻ sợ hãi của chàng. Khi đã vượt qua chỗ ngoặt, nàng mềm mại quay gót lấy đà và tới thẳng chỗ Serbatxki; nàng nắm lấy tay ông ta và mỉm cười với Levin, gật đầu chào. Nàng còn đẹp hơn chàng mường tượng nhiều.

Khi nghĩ đến Kitti, Levin có thể hình dung rõ toàn thân nàng, đặc biệt là mái tóc vàng xinh xắn với vẻ trong trắng trẻ thơ và hồn hậu, mái tóc vô cùng thanh lịch trên đôi vai cân đối. Chính vẻ trẻ thơ ấy hòa với cái đẹp mỏng manh của thân hình đàn bà đã tạo nên sức quyến rũ của Kitti: Levin rất thích điều đó. Nhưng cái điều luôn luôn khiến chàng ngạc nhiên, gần như sửng sốt, là vẻ nhìn hiền dịu, bình thản, trung thực, và nhất là nụ cười của nàng, bao giờ nó cũng đưa Levin vào một thế giới huyền diệu trong đó chàng cảm thấy lòng mình xúc động và dịu lại, y hệt lúc chàng nhớ đến những ngày thơ ấu.

- Anh ra đã lâu chưa? - Kitti nói, chìa tay cho chàng. - Cảm ơn anh, - nàng nói thêm, khi chàng nhặt chiếc khăn tay từ bao tay nàng rơi xuống.

- Tôi ấy à? Không, tôi mới ra hôm qua, hay nói đúng hơn, hôm nay, - Levin đáp, trong lúc bối rối, không hiểu ra ngay câu hỏi. - Tôi tính đến thăm cô, - chàng nói, và chợt nhớ chủ đích của việc muốn gặp nàng, chàng đâm lúng túng và đỏ mặt. - Tôi không biết là cô vẫn trượt băng mà lại trượt giỏi đến thế.

Nàng chăm chú nhìn chàng, như muốn tìm hiểu nguyên nhân sự bối rối của chàng.

- Lời khen của anh thật quý hoá. ở đây, mọi người vẫn truyền tụng anh là nhà trượt băng vô song, - nàng nói, bàn tay nhỏ nhắn đeo găng đen phủi những nhánh băng nhọn đọng trên bao tay.

- Vâng, trước kia tôi mê trượt băng lắm; tôi muốn đạt tới trình độ hoàn hảo.

- Hình như anh làm việc gì cũng say mê, - nàng mỉm cười nói. - Em ao ước được xem anh trượt băng quá. Anh đi giày trượt vào và ta cùng trượt với nhau đi. "Cùng trượt với nhau! Có thể như thế được chăng?" - Levin vừa nghĩ vừa nhìn nàng.

- Tôi xong ngay đây, - chàng nói.

Và vội vàng ra đi giày trượt băng.

- Thưa ngài, lâu lắm không thấy ngài, - người cho thuê giày trượt nói với Levin, vừa giữ chân chàng để vặn cái ốc ở gót giày. - Từ khi vắng ngài, các vị kia, không ai trượt cừ cả. Thế này đã được chưa ạ? - bác ta vừa hỏi vừa thắt chặt dây da.

- Được rồi, được rồi, bác làm nhanh lên cho, -Levin đáp, gắng kìm nụ cười sung sướng bất giác vẫn ngời lên trên mặt chàng. "Phải, chàng nghĩ thầm, cuộc đời là thế đó, hạnh phúc là thế đó! cùng với nhau, nàng bảo thế, ta cùng trượt với nhau đi. Mình nói luôn với nàng bây giờ chăng? Nhưng chính nói ra bây giờ mới đáng sợ vì lúc này mình đang sung sướng, ít ra cũng sung sướng trong hy vọng...

Còn như... Nhưng cần phải thế! Cần phải thế! Không được yếu đuối!".

Levin đứng lên, cởi áo ngoài ra, sau khi đi thử trên mặt băng gồ ghề quanh nhà bát giác cho thuê giày trượt, chàng lao mình trên sân băng nhẵn lì và lướt đi không chút khó nhọc, dường như việc tăng, giảm tốc độ hoặc điều khiển hướng đi hoàn toàn là do ý mình. Chàng rụt rè đến bên Kitti, nhưng một lần nữa, nụ cười của nàng lại làm chàng vững tâm.

Nàng chìa tay cho chàng và hai người cùng lao đi, vai kề vai, dồn bước gấp hơn: hai người càng trượt nhanh, nàng càng nắm chặt lấy tay chàng.

- Cùng trượt với anh, em sẽ học mau hơn; không hiểu sao, em thấy tin ở anh lắm, - nàng nói.

- Tôi cũng thế, tôi cũng tin ở tôi, khi cô dựa vào tôi, - chàng nói; nhưng lập tức, chàng hốt hoảng vì điều mình nói và đỏ mặt lên. Và, quả thực, chàng vừa thốt ra câu đó, mặt Kitti đã mất hết vẻ thanh thản, như thể mặt trời lẩn vào sau đám mây, và Levin nhận ra cái nét quen thuộc đối với chàng, nó chứng tỏ nàng đang suy nghĩ mông lung lắm: một nếp nhăn làm cau vầng trán đang bằng phẳng của nàng.

- Cô phật ý ư? à mà tôi chả có quyền hỏi cô vậy, - chàng vội vàng nói.

- Tại sao lại thế?... Không, có gì mà phật ý, - nàng lạnh lùng trả lời; và liền sau đó, nàng nói tiếp: - anh chưa gặp cô Linong à?

- Chưa.

- Anh hãy đến gặp cô ấy đi, cô ấy mến anh lắm đấy.

"Có chuyện gì vậy? Mình đã xúc phạm đến nàng chăng? Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp tôi!", Levin nghĩ thầm và hấp tấp đi về phía bà già người Pháp búp tóc bạc trắng đang ngồi trên một chiếc ghế dài. Bà nhe cả hàm răng giả ra cười, chào đón chàng như một người bạn cũ.

- Phải, người ta ngày một lớn khôn? - bà ta nói với chàng, vừa đưa mắt chỉ Kitti... - và mỗi tuổi một già. Gấu con(2) đang lớn bổng lên! - bà già người Pháp nói tiếp, nhắc lại câu Levin gọi đùa ba cô gái là ba chú gấu con, trong chuyện cổ tích Anh.

- Cậu có nhớ dạo ấy cậu vẫn gọi họ như vậy không?

Chàng đã quên tiệt, vậy mà mười năm rồi, bà lão vẫn cười về câu nói đùa đó và lấy làm khoái trá.

- Thôi, đi trượt băng đi. Cô Kitti nhà ta trượt đã khá rồi đấy, có phải không?

Khi Levin theo kịp Kitti, nàng không còn giữ vẻ nghiêm nghị nữa; cặp mắt nàng lại chân thực và trìu mến, nhưng trong sự hòa nhã đó Levin thấy như có một cố gắng làm ra bình thản. Điều đó khiến chàng buồn buồn. Sau khi trao đổi vài câu về bà gia sư già và tính nết kỳ quặc của bà ta, nàng bèn hỏi về đời sống của chàng.

- Anh ở nông thôn mà không buồn à? - nàng hỏi.

- ồ! Không, tôi rất bận, - chàng nói và cảm thấy đang bị nàng gò vào cái giọng thản nhiên mà có lẽ chàng sẽ không còn đủ sức từ bỏ nữa, cũng như hồi đầu mùa đông này.

- Anh còn ở lại lâu nữa không? - Kitti hỏi.

- Tôi không biết, - chàng đáp và không hề nghĩ đến điều mình đang nói. Nhưng chàng tự nhủ nếu cứ chịu bó mình với giọng bè bạn bình thản đó, chàng ắt sẽ phải trở về không nên công chuyện gì và quyết định phải vùng lên.

- Thế nào, anh không biết à?

- Không. Cái đó còn tuỳ ở cô, - chàng nói và lập tức lại hoảng lên vì câu nói của chính mình.

Nàng có nghe thấy câu đó không, hay là nàng không muốn nghe?

Nàng bước trật một cái, suýt ngã và vội vã lánh xa Levin. Nàng lại gần cô Linong, nói vài câu với bà và đi về phía nhà ván, chỗ các bà đang tháo giày trượt.

"Lạy Chúa! Tôi đã làm gì vậy? Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp, soi sáng cho tôi!". Levin cầu nguyện và cảm thấy phải vùng vẫy thật mạnh, chàng lượn hết bên này sang bên kia sân băng thành những vòng tròn tiếp giáp nhau, lúc bên trong, lúc bên ngoài.

Giữa lúc đó, một thanh niên, vô địch mới về môn trượt băng, ra khỏi quán cà phê, chân đi giày trượt, mồm ngậm thuốc lá, chạy về phía cầu thang và bắt đầu nhảy xầm xầm từng bước xuống các bậc.

Thoáng một cái, anh ta đã ở chân cầu thang và tay vẫn để nguyên như cũ, anh ta lao ngay mình trên mặt băng.

- A! Một ngón mới! - Levin tự bảo và lập tức chàng leo lên cầu thang để bắt chước tay kia.

- Khéo không ngã chết đấy, phải quen mới được! - Nicolai Serbatxki quát to bảo chàng.

Lên tới trên, Levin đi thử vài bước trước khi vào cầu thang và bắt đầu xuống, dùng cánh tay giữ thăng bằng trong tư thế bất bình thường đó. ở bậc cuối cùng, chàng bị vướng chân, nhưng chỉ hơi chạm tay xuống mặt băng, chàng cố sức dướn mình dậy và lại cười vang tiếp tục lao đi.

"Một chàng trai cừ thật!", Kitti nghĩ thầm, lúc đó nàng vừa ra khỏi căn nhà ván cùng cô Linong và nhìn chàng với nụ cười bình thản, trìu mến, như nhìn một người anh rất thân yêu. "Có thể là mình đã có lỗi, mình làm một điều gì không tốt chăng? Người ta bảo thế là điệu. Mình biết người mình yêu không phải là anh ta: nhưng dù sao ở cạnh anh ấy, mình cũng thấy vui thích, anh ấy dễ thương quá! Tại sao anh ấy lại nói thế nhỉ? ...", nàng ngẫm nghĩ.

Nhìn thấy Kitti đi khỏi và mẹ nàng đến tìm nàng, Levin dừng lại suy nghĩ, mặt còn đỏ bừng sau cuộc tập dượt mãnh liệt. Chàng tháo giày trượt băng và đuổi kịp hai mẹ con ở cổng Vườn thú.

- Tốt rất hài lòng được tiếp cậu, - quận công phu nhân nói. - Chúng tôi vẫn tiếp khách vào thứ năm đấy.

- Tức là hôm nay ạ?

- Chúng tôi sẽ rất vui mừng được tiếp cậu, - quận công phu nhân khô khan nói.

Cái giọng khô khan đó khiến Kitti chạnh lòng và nàng thấy cần làm dịu bớt thái độ lạnh lùng của mẹ. Nàng quay về phía Levin và mỉm cười chào:

- Tạm biệt.

Giữa lúc đó, Xtepan Arcaditr, mũ đội lệch một bên, vẻ mặt phấn khởi và cặp mắt long lanh, đi vào khu vườn với tư thế kẻ chiến thắng hoan hỉ. Nhưng khi gặp bà nhạc, ông liền tạo bộ mặt buồn bã và phạm lỗi để trả lời câu hỏi của bà về sức khỏe Doli. Sau khi nhỏ nhẻ nói chuyện với quận công phu nhân một lát, vẻ ủ rũ, ông lại dướn người lên và khoác tay Levin.

- Thế nào, ta đi chứ? - ông hỏi Levin. - Lúc nào mình cũng nghĩ đến cậu và mình rất sung sướng thấy cậu tới đây, - ông nói với một cái nhìn đầy ý nghĩa.

- Nào đi, - Levin đáp, lòng rộn ràng sung sướng, vẫn giữ nguyên trong trí nhớ lời "tạm biệt" và nụ cười kèm theo.

- Đến khách sạn "Anh Quốc" hay "Lầu ẩn Dật"?

- Mình thì đâu cũng thế.

- Vậy thì khách sạn "Anh Quốc", - Xtepan Arcaditr nói, ông chọn hiệu ăn này vì ông nợ ở đây nhiều hơn ở "Lầu ẩn Dật" và do đó, ông thấy nếu mình lờ nó đi thì kể cũng khiếm nhã. - Cậu có xe ngựa đấy không? Tốt lắm, vì mình cho đánh xe về rồi.

Suốt dọc đường, đôi bạn ngồi yên lặng, Levin cứ tự hỏi vẻ mặt thay đổi của Kitti có nghĩa gì; khi thì chàng tự thuyết phục là còn có thể hy vọng, khi lại đâm nản và thấy rõ có họa là điên, mới ôm khư khư lấy mối hy vọng. Tuy nhiên, chàng vẫn cảm thấy như trở thành một người khác hẳn, từ khi người ta mỉm cười và chào: "tạm biệt".

Xtepan Arcaditr thì ngồi nghĩ đến thực đơn bữa ăn.

- Mình chắc cậu thích món cá chim chứ? - ông bảo Levin khi tới nơi.

- Cái gì kia? - Levin hỏi, - cá chim ư? ừ, mình mê món cá chim lắm.

-------------------------------

(1) Một trò chơi của người Nga. Những người tham gia ngồi xe trượt và trượt trên những ụ đất nhỏ nối tiếp nhau.

(2) Tini bear (tiếng Anh trong nguyên bản).

CHƯƠNG 9

Khi Levin bước vào tiệm ăn cùng Oblonxki, chàng không thể không nhận thấy một vẻ đặc biệt, một vẻ rạng rỡ cố nén trên mặt và khắp toàn thân Xtepan Arcaditr. Oblonxki cởi áo ngoài, và mũ đội lệch sang bên, đi thẳng vào phòng ăn, sai bảo những gã Tacta quần áo chỉnh tề, khăn vắt cánh tay, đang tất tả xung quanh ông. Ông quay bên trái, bên phải, chào người quen gặp ở lối đi, và, cũng như ở mọi nơi khác, những người này đều tỏ ra mừng rỡ khi thấy ông.

Oblonxki đến quầy rượu, uống một cốc vôtka với ít cá nướng và nói vài câu với người đàn bà Pháp mặt bự phấn, toàn thân đầy dải băng, đăng ten, búp tóc giả, ngồi sau quầy, làm mụ ta rũ ra cười thích chí.

Còn Levin, chàng từ chối không uống, vì thấy ngứa mắt trước cái mụ người Pháp dường như làm toàn bằng những mớ tóc giả, phấn bột gạo và dấm xoa mặt(1). Chàng vội lảng xa mụ như lảng xa một nơi xú uế.

Tâm hồn chàng đang tràn ngập hình ảnh Kitti, và trong mắt chàng ngời lên nụ cười đắc thắng và hạnh phúc.

- Xin mời quan lớn ngồi đây ạ, chỗ này sẽ không có ai làm rầy quan lớn cả, - một lão già người Tacta nói, lão ta tóc vàng, rất khúm núm, vạt áo xoè ra trên cái mông bè bè. - Xin mời quan lớn, - lão nói với Levin cũng rất lễ độ, để tỏ lòng kính trọng Xtepan Arcaditr.

Trong nháy mắt, lão đã trải khăn bàn sạch lên trên chiếc bàn tròn có phủ sẵn khăn, kê ở dưới cây đèn vách bằng đồng đen; lão kéo mấy chiếc ghế nhung lại gần và đứng cạnh Xtepan Arcaditr, tay cầm bảng món ăn và cắp chiếc khăn, chờ sai bảo.

- Nếu các quan cần phòng riêng thì hoàng thân Golitxun và một phu nhân sắp sửa ra khỏi một phòng trong chốc lát đấy ạ. Chúng tôi đã nhận được sò tươi.

- à phải! Sò!

Xtepan Arcaditr chợt có vẻ suy nghĩ.

- Hay ta thay đổi thực đơn chăng, Levin? - ông vừa nói vừa đặt ngón tay lên bảng món ăn. Và mặt ông lộ vẻ phân vân nghiêm trọng.

- Sò có ngon không? Liệu hồn nhà anh đấy!

- Bẩm quan lớn, sò Flenxburg ạ. Chúng tôi không có sò Ôxtăng.

- Sò Flenxburg cũng được. ít ra cũng còn tươi đấy chứ?

- Chúng tôi mới nhận được hôm qua ạ.

- Cậu thấy thế nào? Ta bắt đầu bằng món sò chăng? Hay là ta thay đổi tất cả thực đơn?

- Thế nào cũng được. Mình thì mình thích xúp bắp cải và kasa(2) hơn. Những món đó không thấy có ở đây.

- Quan lớn muốn dùng xúp nấu à la riousse(3) ạ? - lão già Tacta nói, cúi xuống Levin như vú nuôi cúi xuống đứa bé.

- Không, mình không nói đùa đâu, cậu cứ việc chọn món gì cậu ưng. Mình vừa trượt băng xong và đang đói. Đừng tưởng, Levin nói tiếp, khi thấy mặt Oblonxki có vẻ không bằng lòng, cậu đừng tưởng mình không biết đánh giá đúng sự lựa chọn của cậu đâu. Mình sẽ thú vị được chén một bữa thật sang.

- Mình rất mong thế! Cậu muốn nói gì thì nói, đó vẫn là một trong thứ khoái trên đời, - Xtepan Arcaditr nói. - Vậy thì, người anh em cho chúng tớ hai tá, à mà không, chừng ấy chả đủ được, ba tá sò, một xúp rau...

- Pretanière(4), - lão già Tacta tiếp lời.

Nhưng rõ ràng Xtepan Arcaditr không muốn để cho lão ta cái thú kể tên các món ăn bằng tiếng Pháp.

- Một xúp rau, anh rõ chứ? Rồi đến cá chim với nước xốt đặc, rồi...

thịt bò quay, nhưng phải chú ý là chín tới đấy. Một gà thiến và hoa quả hộp.

Lão già Tacta, chợt nhớ Xtepan Arcaditr vốn kiểu cách hay đặt cho các món ăn những tên khác với tên trong thực đơn, nên cứ để ông ta nói, nhưng lão cũng tự dành cho mình cái thú nhắc lại tất cả thực đơn bằng những tên trong bảng món ăn: "Xúp mùa xuân, Cá chim xốt Bomarse, Gà mái ghẹ nấu rau thơm, Nộm rau quả(5)... rồi tức thì, như có lò xo điều khiển, lão đặt tấm bảng món ăn có đóng bìa xuống và lấy ra một bảng khác kê đồ uống chìa cho Xtepan Arcaditr.

- Ta uống gì bây giờ nào?

- Cậu muốn gọi gì thì gọi, mình chỉ thích làm tí sâm banh, - Levin nói.

- Sao? Ngay từ đầu bữa à? Kể ra thì tại sao lại không được nhỉ?

Cậu thích nhãn hiệu trắng chứ?

- Loại nhãn hiệu trắng(6), - lão Tacta đỡ lời.

- Cho chúng tớ thứ ấy nhắm với sò. Sau sẽ hay.

- Bẩm quan vâng. Các quan ưng dùng rượu vang gì ạ?

- Rượu vùng Nuy. Không, tốt hơn là cho chúng tớ vang trắng Sabli thường uống ấy.

- Vâng ạ. Có cần dọn món phó mát của ngài không đấy ạ?

- ừ, phó mát vùng Parmo ấy, hay là cậu thích phó mát khác?

- Không, mình thì món nào cũng thế thôi, - Levin nói, không còn đủ sức để nín cười nữa.

Lão già Tacta đi khỏi, vạt áo phe phẩy sau lưng. Năm phút sau, lão bưng ra một đĩa sò, vỏ óng ánh màu xà cừ và chai rượu trong tay.

Xtepan Arcaditr vò nhàu khăn ăn hồ bột, luồn vào áo gi lê và điềm đạm đặt tay lên bàn, bắt đầu ăn sò.

- Sò cũng không đến nỗi tồi, - ông nói, tách những con sò mềm ra khỏi vỏ màu xà cừ bằng cái dĩa bạc nhỏ, và ăn hết con này đến con khác. - Không đến nỗi tồi, - ông nhắc lại, vừa đưa đôi mắt long lanh ướt, hết nhìn Levin lại đến lão Tacta.

Levin cũng ăn sò, tuy chàng thích bánh mì trắng và phó mát hơn.

Nhưng chàng thán phục Oblonxki. Ngay cả lão Tacta, sau khi mở chai, rót rượu vang lấp lánh vào những chiếc cốc mỏng mảnh và rộng miệng, cũng nhìn Xtepan Arcaditr với nụ cười mãn nguyện ra mặt, tay sửa lại ngay ngắn chiếc cravat trắng.

- Cậu không thích sò lắm à? - Xtepan Arcaditr vừa hỏi vừa cạn cốc rượu, - hay là cậu đang có chuyện gì lo lắng? Nói cho mình nghe nào?

Ông ta muốn Levin phải vui. Nhưng Levin tuy không buồn, vẫn thấy bứt rứt khó chịu. Với điều mang nặng trong lòng, chàng thấy không thoải mái trong tiệm ăn này, xung quanh toàn những phòng riêng người ta chui vào ăn nhậu với các phu nhân, giữa những sự đi lại và náo động này; tất cả những vật phu trang như đồ đồng đen, gương, đèn hơi, những bồi bàn người Tacta, đều khiến chàng chướng tai gai mắt. Chàng sợ làm ô uế những gì đang tràn ngập tâm hồn.

- Mình ấy à? Phải, mình đang có điều lo nghĩ; và hơn nữa, mọi thứ này khiến mình khó chịu. Cậu không tưởng tượng được mọi cái đó kỳ dị đến mức nào đối với một anh nhà quê như mình đâu. Thật y như mấy cái móng tay của cái anh chàng mình gặp ở chỗ cậu...

- ừ, mình nhận thấy là những móng tay của anh chàng Grinevitr đáng thương ấy làm cậu rất quan tâm, - Xtepan Arcaditr vừa vười vừa nói.

- Mình biết làm thế nào được, - Levin đáp. - Cậu hãy gắng một chút tự đặt mình vào địa vị một anh chàng ở nông thôn xem. ở nông thôn, chúng tôi cố sức biến bàn tay thành một công cụ làm việc tiện lợi: chúng tôi cắt ngắn móng tay, và thỉnh thoảng lại xắn tay áo lên.

Còn ở đây, người ta lại cố tình để móng tay mọc càng dài càng tốt và đeo những khuy măngsét to bằng cái đĩa rồi không thể làm được gì bằng hai bàn tay cả.

Xtepan Arcaditr vui vẻ cười.

- Nhưng điều đó chứng tỏ họ không cần làm việc bằng tay; chính là trí tuệ họ làm việc...

- Có lẽ... Nhưng, dù sao đi nữa, mình vẫn thấy điều đó là kỳ dị.

Mình còn thấy điều này nữa, cũng kì dị, là ở nông thôn, bọn mình gắng ăn cho nhanh để còn làm việc, trong khi cái đó càng lâu càng tốt; cho nên chúng mình mới ăn sò...

- Tất nhiên, - Xtepan Arcaditr tán thành. - Nhưng chính đó là mục đích của văn minh. Phải biến tất cả thành thú vui.

- Nếu như đó là mục đích của văn minh, thì mình thích là người man rợ hơn.

- Thì cậu đã là người man rợ rồi đó. Họ hàng Levin nhà cậu, tất cả đều man rợ hết.

Levin thở dài. Chàng càng nghĩ đến ông anh Nikolai, cảm thấy hổ thẹn và cau mày; nhưng Oblonxki đã chuyển sang chuyện khác, lái ngay sự chú ý của chàng về một hướng mới.

- Thế nào, tối nay cậu có đến nhà bọn mình không, mình muốn nói là nhà Serbatxki ấy? - ông nói, gạt những vỏ sò sần sùi ra, kéo đĩa phó mát lại và đưa cặp mắt long lanh nhìn chàng đầy ý nghĩa.

- Có, nhất định mình sẽ đến, - Levin trả lời, - tuy mình cảm thấy hình như quận công phu nhân mời mình không thật tình cảm lắm.

- Cậu nói gì vậy? Ngốc thế! Đó là lối kiểu cách của bà ta. Nào, cho chúng tớ món xúp, người anh em!... Đó là lối kiểu cách đại phu nhân(7) của bà ta thôi, - Xtepan Arcaditr nói. - Mình cũng sẽ đến, nhưng mình còn phải đi dự buổi tập hát ở nhà nữ bá tước Bonin. Thế mà cậu còn không tự nhân là man rợ ư? Cắt nghĩa cái việc cậu đột nhiên biến khỏi Moxcva ra sao đây? Gia đình Serbatxki cứ hỏi mình về tin tức cậu mãi, làm như mình biết rõ ngọn nguồn ấy! Mình chỉ biết mỗi điều là bao giờ cậu cũng làm cái mà chẳng ai làm cả.

- Phải, - Levin chậm rãi nói, vẻ bối rối. - Cậu nói đúng, mình là một kẻ man rợ. Nhưng sự man rợ của mình không phải ở chỗ mình bỏ đi mà ở chỗ bây giờ quay về... Mình đã trở về.

- ồ! Cậu thật sung sướng! - Xtepan Ackađich nói tiếp, vừa nhìn thẳng vào mắt Levin.

- Tại sao?

- "Xem tướng ngựa bằng vào dấu vết. Nhìn mắt người, ắt biết đang yêu", - Xtepan Arcaditr ngâm nga. - Trước mặt cậu, có tất cả.

- Còn cậu, tất cả đã ở sau lưng cậu rồi hẳn?

- Không, nhưng cậu, cậu có tương lai; mình thì chỉ có hiện tại và cái hiện tại ấy, lúc thì trắng lúc lại đen ngòm.

- Có chuyện gì vậy?

- Mọi việc đều hỏng bét. Nhưng mình không muốn nói về mình và cũng không thể giãi bày hết mọi chuyện với cậu được, - Xtepan Arcaditr nói. à, tại sao cậu lại trở về Moxcva?... Này, lại dọn đi! - ông gọi lão già Tacta.

- Cậu không đoán ra ư? - Levin đáp, cặp mắt long lanh một ánh nội tâm chằm chằm nhìn Xtepan Arcaditr.

- Có chứ, nhưng mình nói ra trước thì không phải lối. Chỉ cần nói thế cậu cũng đủ hiểu mình đoán đúng hay không, - Xtepan Arcaditr nói và nhìn Levin với một nụ cười ranh mãnh.

- Vậy cậu thấy thế nào? - Levin nói tiếp, giọng run run và cảm thấy tất cả bắp thịt trên mặt mình giật giật. - Cậu thấy chuyện đó thế nào?

Xtepan Arcaditr đủng đỉnh uống cạn cốc rượu vang Sabli, mắt vẫn không rời Levin.

- Mình ấy à?... - ông nói. - Mình không mong muốn gì hơn thế trên đời! Đó là điều tốt đẹp nhất có thể xảy đến!

- Nhưng cậu không lầm đấy chứ? Cậu biết rõ điều chúng ta đang bàn đấy chứ? - Levin nói tiếp, đôi mắt ngấu nghiến nhìn kẻ đối chuyện mình. Cậu tin là có thể được ư?

- Phải. Tại sao lại không được chứ?

- Không, cậu có thật sự tin rằng có thể được không? Cậu hãy nói với mình tất cả những điều cậu nghĩ đi! Thế ngộ nhỡ mình vấp phải sự từ chối?... Thậm chí, mình còn tin chắc là sẽ như thế...

- Tại sao cậu lại tin là thế? - Xtepan Arcaditr nói, mỉm cười về sự xúc động của bạn.

- Đôi khi mình có cảm giác ấy. Nếu thế thì thật kinh khủng: cả đối với mình, cả đối với nàng.

- Dù sao đi nữa, chuyện đó cũng chẳng có gì kinh khủng đối với một cô thiếu nữ đâu. Tất cả các cô gái đều tự hào khi người ta đến hỏi xin cưới mình.

- Đúng, tất cả các cô gái nhưng trừ nàng.

Xtepan Arcaditr mỉm cười. Ông biết rất rõ tình cảm Levin. Ông hiểu là đối với chàng, các cô gái chia làm hai loại: loại thứ nhất gồm tất cả các thiếu nữ, trừ Kitti, các cô gái đó có tất cả các nhược điểm của con người và là những thiếu nữ rất tầm thường; loại kia thì chỉ có mình nàng: nàng không hề có nhược điểm nào và hơn hẳn tất cả loài người.

- Khoan đã, cậu lấy nước xốt đi, - ông nói, ngăn bàn tay Levin đang đẩy đĩa xốt ra.

Levin ngoan ngoãn lấy nước xốt nhưng không để Xtepan Arcaditr kịp ăn.

- Không, cậu nghe đã, - chàng nói, - cậu nên hiểu, đối với mình, đây là vấn đề sinh tử. Mình chưa bao giờ nói chuyện này với ai cả. Và mình chỉ có thể nói với cậu được thôi. Hai đứa mình hoàn toàn khác nhau: sở thích, ý kiến, tất cả đều ngăn cách chúng mình; nhưng mình biết cậu mến mình và hiểu mình, và cả mình nữa, mình cũng rất mến cậu. Nhưng lạy Chúa, cậu hãy hết sức thành thật với mình.

- Mình nói những điều mình nghĩ, - Xtepan Arcaditr mỉm cười nói.

- Nhưng mình sẽ còn đi xa hơn thế nữa, vợ mình là người đàn bà hết sức kỳ diệu. - Nhớ đến chuyện xích mích với vợ, Xtepan Arcaditr thở dài và nín lặng một lát, rồi lại nói tiếp: - Vợ mình có cái nhìn rất tinh đời, cô ta đọc thấu tận gan ruột mọi người. Hơn thế nữa, cô ta còn đoán được hậu vận, nhất là những chuyện thuộc về cưới xin. Chẳng hạn, cô ta đã nói trước là nàng Sakhovxcaia sẽ lấy Brenten... Chẳng ai tin cả, ấy thế mà lại thành. ấy, vợ mình đứng về phe cậu đấy.

- Sao kia?

- Không những vợ mình có thiện cảm với cậu, mà cô ta còn nói Kitti nhất định sẽ là vợ cậu nữa kia.

Nghe nói vậy, mặt Levin sáng ngời lên một nụ cười tưởng như sắp biến thành những giọt nước mắt xúc động.

- Chị ấy bảo thế à! - chàng kêu lên. - Mình vẫn bảo vợ cậu là một thiên thần mà. Nhưng thôi, ta đừng nói đến chuyện ấy nữa, - chàng nói và đứng dậy.

- Được, nhưng hãy ngồi xuống đã.

Nhưng Levin không thể ngồi yên chỗ được. Chàng đi đi lại lại quanh căn phòng hẹp hai ba lần, bước chân chắc nịch, mắt chấp chới để giấu những giọt nước mắt, và sau đó mới ngồi xuống.

- Cậu nên hiểu mình, - chàng nói, - đây không phải là tình yêu.

Mình đã yêu, nhưng đây không phải chuyện như thế. Đó không phải là tình cảm, mà là một sức mạnh bên ngoài xâm chiếm lấy mình.

Mình bỏ đi vì tin chắc không thể thế được, một hạnh phúc như vậy không thể có được trên đời; mình đã đấu tranh với bản thân và thấy rõ không có nàng, mình không sống nổi. Cho nên cần phải có một quyết định...

- Nhưng tại sao cậu bỏ đi?

- Khoan, khoan đã! Mình có biết bao ý nghĩ trong đầu, biết bao điều cần hỏi cậu! Cậu nghe đây. Cậu không thể biết được cậu đã đem lại gì cho mình khi nói ra điều đó đâu. Mình sung sướng đến trở thành ích kỷ: mình quên hết. Hôm nay mình được biết anh Nicolai...

cậu biết chứ... đang ở đây... và mình đã quên khuấy anh ấy! Và mình thấy hình như cả anh ấy cũng sung sướng. Thật cứ như là điên ấy.

Nhưng có điều đáng sợ... cậu đã có vợ, cậu hẳn biết cảm giác ấy... thật kinh khủng khi ở tuổi chúng ta, với một quá khứ... không phải một quá khứ yêu thương, mà là quá khứ tội lỗi... chúng ta bất chợt đến gần một con người trong trắng, thơ ngây... thật gớm ghiếc! Làm sao tránh khỏi cảm thấy mình không xứng đáng được?

- Thôi đi, lương tâm cậu đâu có mang nhiều tội lỗi gì cho cam.

- à, dù sao đi nữa, - Levin nói, - dù sao đi nữa: "Ôn lại cuộc đời một cách kinh tởm, tôi run lên, tôi nguyền rủa và cay đắng thương cho phận mình...". Phải.

- Biết làm thế nào, sự đời vốn như vậy, - Xtepan Arcaditr nói.

- Niềm an ủi độc nhất là lời cầu nguyện này mà mình ưa thích:

Xin Chúa tha thứ cho con, không phải vì đức độ của con, mà tùy ở lòng lành của Chúa. Chính nàng cũng chỉ có thể tha thứ cho mình theo cách đó mà thôi.

----------------------------------

(1) Poudre de riz và vinaigre de toilette (tiếng Pháp trong nguyên bản).

(2) Một loại thức ăn lỏng nấu bằng lúa kiều mạch, rất phổ biến ở nông thôn Nga.

(3) Trong nguyên bản: à la riousse, chính là: à la russe (theo lối Nga), lão già Tacta phát âm sai.

(4) Nguyên văn pretanière, chính ra là: Printanière (mùa xuân).

(5) Soupe printanière, turbot sauce Beaumarchais, poularde à l'estragon, macédoine de fruits (tiếng Pháp trong nguyên bản).

(6) Cachel blane (tiếng Pháp trong nguyên bản).

(7) Grande dame (tiếng Pháp trong nguyên bản).

CHƯƠNG 10

Levin uống cạn cốc rượu và họ ngồi yên lặng một lúc.

- Mình phải nói với cậu một điều nữa. Cậu biết Vronxki chứ? - Xtepan Arcaditr hỏi Levin.

- Không. Tại sao cậu lại hỏi mình điều đó?

- Cho một chai nữa, - Xtepan Arcaditr bảo lão già Tacta đang rót rượu đầy cốc hai người, lão cứ lăng xăng bên cạnh họ, nhất là vào lúc người ta chẳng cần gì đến lão.

- Bởi vì đó là một trong những tình địch của cậu.

- Anh chàng Vronxki đó là ai vậy? - Levin nói, vẻ mặt trẻ con và phấn khởi mà giây phút trước đó Oblonxki rất ưa, bỗng trở nên cáu kỉnh.

- Vronxki là một trong những con trai của bá tước Xyrin Ivanovitr Vronxki và là một mẫu mực ưu tú trong đám thanh niên quyền quý ở Peterburg. Mình quen hắn ở Tve, hồi mình làm việc ở đó: hắn đến đấy để tuyển binh. Hắn rất giàu, điển trai, lại là sĩ quan cận vệ; hắn quen thuộc những kẻ có thế lực, tuy thế hắn vẫn là gã thanh niên trung thực và đáng yêu. Gọi là một thanh niên tốt cũng chưa đủ. ở đây, mình được biết thêm: hắn có học thức và thông minh; đó là một người có triển vọng.

Levin cau mày, chẳng nói chẳng rằng.

- Hắn tới đây sau khi cậu đi khỏi ít lâu, và hình như chết mê chết mệt vì Kitti. Cậu biết là bà mẹ...

- Xin lỗi mình không hiểu gì hết, - Levin nói, mặt sa sầm. Chàng chợt nhớ đến ông anh Nicolai và tự trách mình đã quên phắt anh.

- Khoan đã, - Xtepan Arcaditr mỉm cười nói và với tay về phía Levin. - Mình đã nói với cậu những điều mình biết và xin nhắc lại là trong vấn đề tế nhị này, theo chỗ mình nhận định, triển vọng vẫn nghiêng về phía cậu.

Levin ngửa người ra trên ghế tựa; mặt chàng tái nhợt.

- Nhưng mình khuyên cậu nên thu xếp chuyện ấy thật sớm đi, - Oblonxki nói tiếp, vừa rót đầy rượu vào cốc Levin.

- Không, cảm ơn, mình không thể uống được nữa, - Levin nói và đẩy cốc rượu ra. - Mình say mất... Này, thế còn cậu, chuyện cậu ra sao? - chàng nói tiếp, rõ ràng muốn chuyển sang chuyện khác.

- Một câu nữa thôi: dù sao đi nữa, mình cũng khuyên cậu nên sớm giải quyết vấn đề đi. Hôm nay thì đừng nói vội, - Xtepan Arcaditr nói.

Sáng mai, cậu hãy đến hỏi cưới theo đúng tục lệ và cầu Chúa che chở cho cậu...

- Trước đây, cậu muốn đến chỗ mình đi săn. Sang xuân, cậu tới nhé, - Levin nói.

Lúc này, trong thâm tâm, chàng thấy hối hận đã khơi mào câu chuyện này với Xtepan Arcaditr. Tình cảm sâu kín của chàng bị câu chuyện về mưu toan kình địch của viên sĩ quan thành Peterburg, bị những lời ủng hộ và khuyên nhủ của Xtepan Arcaditr làm ô uế.

Ông này mỉm cười. Ông hiểu những điều đang diễn ra trong tâm hồn Levin.

- Thế nào cũng có hôm mình đến, - ông nói. - Phải, người anh em ạ, đàn bà là cái trục làm xoay tít thò lò tất cả. Đối với mình cũng thế, mọi việc đều hỏng, hỏng bét. Và lần nào cũng chỉ vì đàn bà. Cậu hãy thành thật cho mình biết ý kiến của cậu, - ông nói tiếp, một tay rút điếu xì gà, và tay kia cầm chân cốc rượu sâm banh.

- Về vấn đề gì?

- Thế này nhé. Giả thử cậu đã có vợ, cậu yêu vợ, nhưng cậu lại để một người đàn bà khác quyến rũ.

- Xin lỗi, nhưng mình thật hoàn toàn không hiểu sao người ta có thể... cũng như giờ đây, mình vừa ra khỏi bàn ăn, lại đánh cắp bánh mì trắng khi đi qua hiệu bánh vậy.

Đôi mắt Xtepan Arcaditr càng sáng hơn thường lệ.

- Tại sao lại không thể như thế? Đôi khi bánh mì trắng thơm đến nỗi khó mà cưỡng lại sức cám dỗ.

Tuyệt diệu biết bao khi chiến thắng Những khát khao dung tục tầm thường; Ví như lòng dục khôn dập tắt, Thì vẫn nồng lạc thú dương gian!(1) Vừa ngâm nga, Xtepan Arcaditr vừa mỉm cười ranh mãnh. Cả Levin nữa, chàng cũng không nhịn cười được.

- Thôi không đùa nữa, - Oblonxki nói tiếp. - Cậu nên biết người đàn bà đó là một con người thuỳ mị, dịu dàng, đa cảm; cô ta nghèo nàn, cô quạnh và đã phải hy sinh tất cả. Giờ đây, việc đã lỡ rồi, có nên bỏ rơi người ta chăng? Cứ cho rằng cần phải đoạn tuyệt để khỏi tổn thương đến đời sống gia đình, nhưng ta có quyền thương xót, nghĩ đến tương lai nàng, làm dịu bớt cảnh ngộ nàng không?

- Mình xin lỗi cậu, nhưng cậu vốn biết đối với mình, đàn bà chia làm hai loại... hay thật ra không phải thế... nói đúng hơn là: có những người đàn bà và có... Mình chưa từng thấy những phụ nữ đồi trụy mà lại có sức quyến rũ; mụ người Pháp bự phấn với những búp tóc ngồi sau quầy kia, làm mình phát khiếp và tất cả phụ nữ trụy lạc làm mình sợ như thế.

- Còn đàn bà ngoại tình thì sao?

- à! Xin đủ! Chúa hẳn không bao giơ thốt ra tiếng đó nếu biết người đời sẽ lạm dụng nó như thế nào! Trong toàn bộ kinh Phúc âm, người ta chỉ nhớ có mỗi đoạn ấy thôi. Vả chăng, mình không nói điều mình nghĩ, mà nói điều mình cảm thấy. Mình cảm thấy ghê tởm những người đàn bà trụy lạc. Cậu sợ nhện, mình lại sợ giống sâu bọ đó. Chắc chắn là cậu không nghiên cứu loài nhện và cậu không biết thói quen của chúng: mình cũng vậy.

- Cậu nói thế thì dễ thôi: thật y như nhân vật của Dickens(2) lấy tay trái ném qua vai phải tất cả những vấn đề rắc rối. Nhưng phủ định một sự việc đâu phải là câu giải đáp. Làm thế nào? Cậu hãy nói cho mình nghe phải làm thế nào kia? Vợ anh già đi mà anh thì còn đầy sức sống. Chưa kịp ngoái lại đằng sau, anh đã cảm thấy không còn có thể yêu vợ với tấm tình chân thật, mặc dầu anh tôn trọng nàng đến đâu chăng nữa. Và đột nhiên tình yêu ập đến và thế là đi đứt, đi đứt, - Xtepan Arcaditr nói, giọng tuyệt vọng.

Levin cười nhạt.

- Phải, thế là mình đi đứt! - Oblonxki nói tiếp, - làm thế nào đây?

- Đừng có ăn trộm bánh mì trắng.

Xtepan Arcaditr phá lên cười.

- Ôi! Nhà đạo đức! Nhưng cậu nên hiểu: đây là hai người đàn bà:

một người cứ nằng nặc đòi quyền lợi của mình và những quyền lợi đó... là tình yêu mà anh không thể nào dâng cho cô ta được nữa, người kia thì hy sinh tất cả cho anh và không đòi hỏi gì hết. Làm thế nào? Nên có thái độ xử sự ra sao? Thật là một tấn bi kịch xé lòng.

- Nên cậu muốn mình phát biểu thành thật, thì xin thưa rằng mình không tin trong chuyện đó có gì là bi thảm cả. Và lý do là thế này. Theo mình, tình yêu... hai loại ái tình mà Platon(3) định nghĩa trong bài "Tiệc"(4) của ông, hẳn cậu còn nhớ, hai loại ái tình đó dùng làm đá thử vàng cho mọi người. Một số người chỉ hiểu được loại ái tình thứ nhất, một số khác hiểu được loại thứ hai. Và những kẻ nào chỉ hiểu được loại ái tình không theo kiểu Platon(5) thì không có quyền nói đến chuyện bi kịch. Thứ ái tình đó không thể gây ra bi kịch nào cả. "Rất cám ơn về cuộc tiêu khiển, xin đa tạ...", đấy tất cả tấn bi kịch là thế. Và đối với tình yêu đó, tất cả đều trong sáng và trinh bạch, bởi vì...

Đến đây, Levin chợt nhớ đến những lỗi lầm và cuộc đấu tranh nội tâm của mình. Và chàng kết luận hoàn toàn bất ngờ:

- Vả lại, có lẽ chính cậu nói đúng. Rất có thể... Mình không biết gì về chuyện đó cả, hoàn toàn không biết gì hết.

- Cậu ạ, - Xtepan Arcaditr nói, - cậu thật là con người thuần nhất.

Đó vừa là ưu điểm vừa là khuyết điểm. Bản thân cậu chính trực và cậu muốn tất cả cuộc đời cũng phải bao gồm những sự kiện không pha tạp, vậy mà sự đời đâu có như thế. Cậu khinh miệt công việc trị dân mang danh nghĩa là hoạt động xã hội, vì cậu muốn mỗi hành động bao giờ cũng phải phù hợp với một mục đích, điều đó cũng không hề có trên đời. Cậu còn muốn hoạt động của một con người phải hướng về một mục đích, tình yêu và cuộc sống vợ chồng phải hòa làm một... tuyệt không có thế đâu. Tất cả cái muôn màu muôn vẻ, tất cả cái huyền diệu, tất cả cái đẹp của cuộc đời đều do bóng tối và ánh sáng tạo nên.

Levin thở dài, không trả lời. Chàng nghĩ đến những lo lắng riêng và không nghe Oblonxki nói. Và đột nhiên cả hai đều cảm thấy tuy là bạn với nhau, tuy vừa mới cùng ăn, cùng uống với nhau - điều này lẽ ra phải khiến họ thêm gắn bó - vậy mà mỗi người chỉ nghĩ đến riêng mình và rất ít bận tâm đến người kia. Oblonxki đã nhiều lần nhận thấy sự xa cách như vậy sau một bữa ăn đáng lẽ phải làm người ta gần gũi nhau hơn, và ông biết rõ nên làm gì trong những trường hợp đó.

- Tính tiền! - ông nói to, và đi sang buồng bên; ở đây, gặp một viên sĩ quan cận vệ vốn là chỗ quen biết, ông liền bắt chuyện trao đổi về một cô đào hát và người bao cô ta. Cuộc đàm tiếu khiến Oblonxki nhẹ nhõm và thanh thản hẳn lên: nói chuyện với Levin, ông luôn luôn phải gắng vận dụng trí tuệ quá nhiều.

Khi lão Tacta trở lại, cầm tờ biên lai tính tiền lên tới trên hăm sáu rúp, không kể thù lao hầu bàn, Levin, giá như mọi khi, quê mùa như chàng, hẳn sẽ thất kinh lên dù chỉ phải trả mười bốn rúp, lần này lại chẳng mảy may để ý đến. Chàng thanh toán tiền và trở về nhà thay quần áo để đến nhà Serbatxki, nơi sẽ quyết định số phận chàng.

---------------

(1) Tiếng Đức trong nguyên bản.

Himmlish ist' s wenn ich bezwungen

Meine irdische Begier;

Aber doch wenn's nicht gelungen,

Halt ich auch recht hubsch Plaisir!

(2) Charles Dickens (1812-1870) nhà văn lớn của Anh, có khuynh hướng hiện thực và xã hội, tác giả David Copperfield, Chuyện phiêu lưu của Pichuych, Olivo Tuyxt v.v...

(3) Platon là nhà triết học cổ Hy Lạp (429-347 trước Công nguyên), học trò Socrate và thầy học của Aristote. Học thuyết của ông là biện chứng pháp, cuối cùng chuyển thành thuyết ý niệm, chủ trương rằng chân lý - đối tượng của khoa học - không phải nằm trong những hiện tượng riêng biệt và phù phiếm, mà ở trong ý niệm, cái điển hình trong sáng nhất của mỗi nhóm sinh vật, trên tất cả là ý niệm về điều thiện.

(4) Banquet (tiếng Pháp trong nguyên bản). Đấy là một bài đối thoại của Platon trong đó ông để Socrate nói về tình yêu, ca ngợi cái đẹp của tâm hồn và cái đẹp hoàn hảo, vĩnh viễn. Trong bài này, Platon đã phác họa một chân dung Socrate tuyệt vời.

(5)Tình yêu phàm tục, tiếng Pháp là non-platonique. Trong tiếng Pháp chữ Platonique (thuộc về Platon) đã được hiểu rộng ra là những cái gì lý tưởng.

CHƯƠNG 11

Tiểu thư Kitti Trerbaxcaia mới mười tám tuổi. Đây là mùa đông đầu tiên cô tiếp xúc với giới xó giao. Cô đó thành công trong giới thượng lưu hơn các chị; ngay cả mẹ cô cũng không ngờ tới điều đó.

Không những mọi chàng trai hay khiêu vũ trong các buổi dạ hội ở Moxcva đều phải lòng Kitti, mà ngay từ mùa đông đầu tiên, hai chàng phò mó thật sự đó ra mắt: Levin, và ngay sau khi chàng về quê, bá tước Vronxki.

Sự xuất hiện của Levin vào đầu mùa đông, việc chàng năng lui tới nhà Kitti và mối tình lộ liễu của chàng đối với cô là duyên cớ của những cuộc chuyện trò nghiêm túc đầu tiên giữa cha mẹ Kitti về vấn đề tương lai cô và của những cuộc cói lộn giữa quận công(1) và phu nhân, quận công đứng về phía Levin và nói ông không mong muốn gì hơn cho Kitti. Theo thói quen đặc biệt của các bà thường hay lật lại vấn đề, phu nhân cho rằng Kitti còn trẻ dại quá, rằng Levin tuyệt nhiên không tỏ vẻ gì là có ý định đứng đắn, rằng Kitti không yêu anh ta và đưa ra những lý lẽ khác nữa; nhưng bà không hề nói ra điều chủ yếu: bà hy vọng kiếm cho Kitti một tấm chồng danh giá hơn; bà không có thiện cảm với Levin và không hiểu nổi chàng. Cho nên khi Levin đột nhiên biến mất, phu nhân mừng lắm, nói với chồng đầy vẻ đắc thắng: "Mình xem, tôi nói có đúng không!". Và khi Vronxki bước vào cuộc, bà lại càng món nguyện và chôn chặt trong đầu cái ý nghĩ là không những việc cưới xin của Kitti sẽ tốt đẹp mà còn danh giá nữa.

Đối với bà mẹ, không thể có sự so sánh nào giữa Vronxki và Levin khả dĩ đứng vững được. Điều bà không bằng lòng ở Levin, là những ý kiến kỳ quái và quyết đoán của anh ta, sự vụng về của anh ta giữa đám thượng lưu mà bà cho là thói hợm hĩnh, và cuộc đời man rợ mà bà phỏng đoán anh ta đang sống ở nông thôn giữa đám gia súc và bọn nhà quê. Anh ta còn làm bà phật ý vì nỗi mặc dầu phải lòng con gái bà, nhưng trong sáu tuần liền lui tới nhà bà, anh ta vẫn ra vẻ chờ đợi, quan sát, kiểu như sợ ngỏ ý ra thì sẽ đem lại cho gia đình bà một vinh dự quá ư lớn lao vậy. Anh ta lại không biết rằng khi lui tới một nhà có con gái đén tuổi lấy chồng, thì phải cho ngoười ta biết ý đồ của mình chứ! Thế rồi anh ta lại đùng đùng bỏ đi chẳng nói nửa lời.

"May mà hắn cũng chẳng có vẻ gì quyến rũ cho lắm và Kitti cũng không mê hắn", bà mẹ nghĩ thầm.

Trái lại, Vronxki có thể thoả món mọi ước muốn của bà: rất giàu, thông minh, xuất thân gia đình quý phái, một sự nghiệp xán lạn ở triều đình và trong quân đội đang mở ra trước mặt, thêm vào đó, lại vô cùng tuấn tú, thật không thể mơ ước gì hơn thế nữa.

Vronxki công khai theo đuổi Kitti: chàng nhảy với cô trong các buổi khiêu vũ, đi lại nhà cô, ý đồ của chàng rõ như ban ngày. Tuy nhiên, suốt mùa đông, phu nhân đó trải qua bao nỗi lo lắng ghê gớm.

Bản thân bà lấy chồng từ ba mươi năm trước, do một bà dì làm mối. Khi chàng phò mó, mà ai nấy đều biết từ trước, đến xem mặt vợ chưa cưới đồng thời để trình diện, bà dì rất lo nhưng sau đó cho đôi bên biết là cuộc chạm ngõ đó gây ấn tượng tốt. Rồi đến ngày đó định, chàng rể đến xin cha mẹ vợ cho cưới và được chấp thuận. Mọi sự đều diễn ra rất trôi chảy, rất giản đơn. ít ra đó cũng là ý nghĩ của phu nhân. Nhưng đến khi lo cho các con gái, bà mới hiểu ra rằng cái công việc bề ngoài có vẻ rất giản đơn ấy, thật khó khăn nhường nào. Biết bao nỗi dằn vặt, suy nghĩ, biết bao món chi tiêu, biết bao cuộc cói cọ giữa hai ông bà về chuyện hôn nhân của hai cô lớn, Daria và Natalia!

Bây giờ là lúc cần xếp đặt cho cô thứ ba có nơi có chốn, bà lại sắp phải trải qua những nỗi lo âu, thấp thỏm như vậy và lại cói nhau với chồng kịch liệt hơn những lần lo cho các cô lớn! Cũng như mọi người làm bố, lóo quận công đặc biệt rất dễ động lòng về những gì có liên quan đến danh dự và trinh bạch của con gái; ông cưng các cô đến mức vô lý, nhất là cô con gái rượu Kitti và luôn luôn to tiếng với vợ, trách vợ làm hỏng con cái mình. Thời kỳ các cô lớn ở riêng, phu nhân đó quen với những chuyện đó, nhưng bây giờ bà cảm thấy tính dễ giận dỗi của chồng có cơ sở hơn. Bà thấy ít lâu nay trong xó hội có sự thay đổi lớn về tập tục và do đó bổn phận người làm mẹ lại càng khó khăn hơn. Bà thấy các cô gái cùng lứa tuổi Kitti thường lập những nhóm riêng biệt, theo học lớp này lớp nọ, đối xử với nam giới phóng túng, ra phố một mình bằng xe ngựa, một số lớn các cô không còn chào theo kiểu cúi rạp mình và nhất là, tất cả đều một mực đinh ninh trong dạ rằng việc kén chồng là việc của mình chứ không phải của cha mẹ.

"Bây giờ người ta lấy vợ lấy chồng không như ngày xưa nữa", tất cả các cô thiếu nữ và thậm chí cả người đứng tuổi đều nghĩ và nói thế.

Vậy thì người ta lấy nhau như thế nào? Không ai nói cho phu nhân biết điều đó cả. Cái phong tục Pháp cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đó bị gạt bỏ rồi. Cái phong tục Anh để cho con gái hoàn toàn tự do cũng bị trả về nốt, coi như không thể thừa nhận trong xó hội Nga. Phong tục Nga cưới xin theo kiểu mối lái bị coi là bỉ ổi; mọi người đều chê cười phong tục ấy và phu nhân cũng phụ họa theo. Thế thì lấy chồng như thế nào, gả bán con cái mình ra sao? Chẳng ai biết gì cả. Tất cả những người được phu nhân bày tỏ nỗi lòng, đều trả lời: "Tôi xin bà, đó đến lúc phải bỏ những hủ tục đi! Bọn trẻ nó lấy nhau chứ có phải là bố mẹ chúng đâu, phải để cho chúng tự ý thu xếp lấy". Nhưng khi người ta không có con gái thì nói như vậy cũng dễ đấy! Phu nhân cứ nơm nớp lo, trong khi chơi bời với bọn thanh niên, nhỡ con gái bà lại phải lòng một gó không hề có ý định lấy vợ hoặc không xứng đáng làm chồng thì khốn. Và mặc cho người ta hoài công nói xa nói gần cho phu nhân hiểu là, ở thời này, thanh niên phải tự quyết định lấy đời mình, bà vẫn không tin, cũng như bà không thể tin rằng đồ chơi thích hợp nhất cho trẻ con lên năm lại là những khẩu súng lục lắp đạn sẵn, cho dù ở thời đại nào đi nữa. Và chính vì thế mà phu nhân càng lo cho Kitti hơn cho các cô kia.

Bây giờ bà sợ Vronxki chỉ tán tỉnh suông con gái mình thôi. Bà thấy rõ Kitti phải lòng anh ta, người vững tâm tự nhủ Vronxki là người trọng danh dự và sẽ không làm thế. Nhưng đồng thời bà cũng biết với lối tự do phóng khoáng đang ngự trị trong cách sống hiện nay, việc mê hoặc một cô thiếu nữ thật rất dễ dàng và thường thường bọn đàn ông vẫn coi đó là chuyện chẳng quan trọng. Tuần lễ trước, Kitti có kể lại cho mẹ nghe cuộc trò chuyện giữa cô và Vronxki trong khi nhảy mazuyếcka. Cuộc nói chuyện đó khiến phu nhân chắc dạ thêm một chút, nhưng bà vẫn không thực sự yên tâm. Vronxki nói với Kitti là hai anh em chàng đó quen phục tùng mẹ về mọi vấn đề nên họ không bao giờ quyết định một việc gì quan trọng mà không hỏi ý kiến mẹ. Chàng nói: "Và hôm nay, tôi chờ mẹ tôi từ Peterburg đến, như chờ một hạnh phúc rất đặc biệt".

Kitti nhắc lại lời chàng, cho đó chẳng có gì là đặc biệt quan trọng.

Nhưng mẹ cô lại hiểu cách khác. Bà biết rằng ngày một ngày hai bá tước phu nhân có thể đến, và chắc là phu nhân sẽ hài lòng về sự kén chọn của con trai. Nhưng bà vẫn ngạc nhiên về việc Vronxki không dám tự ý cầu hôn, sợ làm phật lòng mẹ. Tuy nhiên, bà hết sức mong muốn cuộc nhân duyên này và nhất là ao ước chấm dứt mọi lo lắng, cho nên bà sẵn sàng tin là thế. Mặc dầu phu nhân rất khổ tâm về nỗi bất hạnh của cô con gái cả Doli đang một hai định rời khỏi nhà chồng, những lo lắng cho số phận cô út vẫn thu hút toàn bộ tình cảm của bà.

Việc Levin đến Moxcva càng làm bà thêm lo ngại; bà sợ con gái mình một dạo đó có đôi chút tình ý với Levin, nay có thể vì quá trung thực mà từ chối Vronxki, cho nên sự có mặt của anh ta ở Moxcva lúc này sẽ khiến tình hình trở nên rắc rối và có thể trì hoón đoạn kết thúc đó gần kề.

- Anh ta đến đây lâu chưa? - bà hỏi con gái, khi hai mẹ con trở về nhà.

- Thưa mẹ, hôm nay ạ.

- Có một điều mẹ muốn nói với con... - phu nhân mào đầu và chỉ mới nhìn bộ mặt nghiêm nghị, kích động của mẹ, Kitti đó đoán được bà sắp nói chuyện gì. - Thưa mẹ, - cô nói, đỏ mặt và quay phắt về phía mẹ, - con xin mẹ, con xin mẹ, mẹ đừng nói gì cả. Con biết, con biết hết rồi.

Cô thông cảm với mong ước của mẹ, nhưng những động cơ của bà làm cô khổ tâm.

- Mẹ chỉ muốn nói với con là sau khi đó để cho một người hy vọng...

- Mẹ ơi, lạy Chúa, xin mẹ đừng nói gì cả! Con sợ nói chuyện đó lắm.

- Thôi được, - bà nói khi thấy Kitti rơm rớm nước mắt, - mẹ chỉ nói một câu thôi, con gái xinh đẹp của mẹ: con đó hứa là không giấu mẹ điều gì phải không? Có đúng thế không?

- Không bao giờ mẹ ạ, không bao giờ con giấu mẹ đâu... - Kitti trả lời, mặt đỏ bừng và nhìn thẳng vào mẹ. - Nhưng bây giờ con không có điều gì nói với mẹ cả... Ngay cả nếu con muốn... con cũng không biết nòi gì với mẹ và nói như thế nào... con không biết...

"Không, với đôi mắt kia, nó không thể nói dối được", bà mẹ nghĩ thầm, mỉm cười trước nỗi bối rối và hạnh phúc của con gái. Bà mỉm cười vì thấy những diễn biến trong tâm hồn con gái đang trở nên to lớn và quan trọng biết bao đối với cô bé tội nghiệp.

-----------------

(1) Chữ KHязb trong tiếng Nga (cũng như chữ Irince trong tiếng Pháp và tiếng Anh) ngoài những nghĩa:

hoàng tử, hoàng thân... còn chỉ một tước phong trong chế độ Nga hoàng tương đương với công tước hoặc hơn một chút. Trong trường hợp Serbatxki, chúng tôi nghiêng về nghĩa này hơn, vì toàn bộ cuốn tiểu thuyết không có dấu hiệu gì chứng tỏ gia đình này có quan hệ hoàng tộc. Chúng tôi tạm dụng chữ quận công

CHƯƠNG 12

Sau bữa ăn chiều, trong khi chờ đợi buổi tối, Kitti thấy có cảm giác tương tự như cảm giác của một chàng trai trước giờ xuất trận. Trống ngực cô đập thình thình và đầu óc cô không thể nghĩ đến chuyện gì dứt khoát. Cô cảm thấy tối nay sẽ quyết định số phận mình khi hai chàng trai lần đầu gặp nhau. Và cô luôn hình dung thấy họ, khi riêng từng người, khi cả hai một lúc. Ôn lại quá khứ, cô thích thú và trìu mến ngẫm ngợi những kỷ niệm về quan hệ của mình với Levin. Kỷ niệm về thời thơ ấu, về tình bạn giữa Levin với người anh mất sớm của cô mang lại cho những quan hệ đó một vẻ đặc biệt huyền diệu và thơ mộng. Mối tình của chàng, mà cô biết chắc, làm cô thinh thích và vui sướng. Cho nên nghĩ đến Levin, lòng cô dịu xuống. Trái lại, cô luôn luôn cảm thấy thế nào ấy khi nghĩ đến Vronxki, mặc dầu chàng là một trang phong lưu công tử trọn vẹn và rất tự chủ; dường như có một cái gì giả tạo len vào, không phải trong con người Vronxki (chàng rất giản dị và đáng yêu), mà trong cô, còn như ở bên Levin thì cô lại thấy hoàn toàn giản dị, hoàn toàn trong trắng. Nhưng khi mơ đến tương lai bên cạnh Vronxki, những viễn ảnh hạnh phúc sáng ngời mở ra trước mắt cô; với Levin, tương lai dường như mù mịt.

Cô lên buồng để thay quần áo và sau khi soi gương, cô vui sướng thấy hôm nay mình rất đẹp và hoàn toàn tự chủ, điều đó rất cần thiết cho cô lúc này; cô cảm thấy tâm hồn thư thái và cử chỉ duyên dáng thoải mái.

Vào khoảng bảy rưỡi, cô vừa xuống phòng khách thì người hầu đã vào báo: "Ông Conxtantin Dimitrievitr Levin". Quận công phu nhân hãy còn ở trên buồng và lão quận công cũng chưa xuống. "Đến lúc rồi đây", Kitti nghĩ thầm và máu trong người dồn cả về tim. Cô soi vội vào gương và hoảng lên vì thấy mặt mình tái nhợt.

Lúc này, cô biết chắc là Levin định đến trước để gặp cô một mình và tỏ tình. Lần đầu tiên, vấn đề hiện ra trước mắt với khía cạnh khác hẳn. Cô chợt hiểu đây không phải chỉ là chuyện riêng của cô, chuyện hạnh phúc, chuyện tình cảm của cô, mà một lát nữa, cô sẽ phải làm tổn thương đến người đàn ông cô từng quý mến. Và làm tổn thương một cách tàn nhẫn nữa... Tại sao? Vì chàng thanh niên trung thực đó yêu cô. Nhưng biết làm sao, đó là chuyện không thể tránh được, thế tất phải như vậy.

"Lạy Chúa tôi! Chính mình sắp phải nói với anh ấy điều đó!". Cô nghĩ thầm. "Dù sao mình cũng không thể nói với anh ấy là mình không yêu! Nói vậy là không đúng... Mình sẽ nói gì với anh ấy đây?

Nói mình đã yêu nhưng khác chăng? Không, không thể được. Mình bỏ đi thôi".

Cô ra gần đến cửa thì chợt nghe thấy tiếng chân Levin. "Không, thế là không ngay thẳng. Mình chả việc gì mà sợ. Mình chả làm việc gì xấu cả.

Việc phải đến, ắt sẽ đến. Mình sẽ nói thật với anh ấy. Với anh ấy, có thể không đến nỗi khó nói lắm. Anh ấy đây rồi". Cô tự nhủ khi thấy chàng trai cao lớn, khỏe mạnh và rụt rè ấy, cặp mắt long lanh đăm đăm nhìn cô. Cô nhìn thẳng vào mặt chàng, như van xin tha lỗi, và bắt tay chàng.

- Hình như tôi đến quá sớm, - chàng nói và đảo mắt nhìn khắp phòng khách vắng ngắt. Khi thấy mọi sự đúng như dự định và không có gì ngăn trở cuộc tỏ tình nữa, mặt chàng đâm u ẩn.

- ồ, không sớm đâu! - Kitti nói và ngồi xuống cạnh bàn.

- Chính vì tôi muốn gặp cô một mình, - Levin mở đầu, chàng vẫn đứng và tránh nhìn Kitti để khỏi nhụt mất can đảm.

- Mẹ em sắp xuống ngay bây giờ đấy. Hôm qua, mẹ em rất mệt.

Hôm qua...

Cô nói mà không biết môi mình đang thốt ra điều gì, mắt đăm đăm nhìn chàng, vẻ van xin, trìu mến.

Cặp mắt Levin dán vào Kitti: cô đỏ mặt và im bặt.

- Tôi có nói với cô là không biết tôi có ở lại đây lâu hay không... điều ấy còn tuỳ cô.

Kitti càng cúi gằm mặt xuống, không biết sẽ trả lời ra sao những điều Levin sắp nói với mình.

- Điều đó còn tuỳ ở cô, - chàng nhắc lại. - Tôi muốn nói với cô... tôi muốn nói với cô... Tôi đến đây để... Cô hãy là vợ tôi! - chàng kết luận, chính bản thân cũng không biết mình vừa nói gì; nhưng chàng cảm thấy điều đáng sợ nhất đã được nói ra; chàng dừng lại và nhìn Kitti.

Kitti như nghẹn thở, mắt cụp xuống không nhìn chàng. Cô cảm thấy một niềm vui mênh mông. Tâm hồn cô tràn ngập hạnh phúc. Cô không ngờ lời tỏ tình đó lại khiến cô xúc động mãnh liệt đến thế.

Nhưng nó chỉ kéo dài trong chốc lát. Cô nhớ đến Vronxki. Cô ngước cặp mắt trong sáng ngay thật nhìn Levin, thấy vẻ mặt tuyệt vọng của chàng và hấp tấp trả lời:

- Không thể được... anh tha thứ cho em.

Một phút trước thôi, Kitti gần gũi, cần thiết cho đời chàng biết mấy! Giờ đây, chàng cảm thấy cô vô cùng xa lạ.

- Hẳn nhiên là thế, không thể khác được, - chàng nói, không nhìn Kitti. Chàng cúi chào và định đi ra.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: