anhdai16
Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 1)
Kẻ giết người hàng loạt, "tác giả" của những vụ án chấn động thế giới luôn gây ám ảnh lớn với cả dư luận và cảnh sát điều tra. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết "chân dung" những kẻ giết người hàng loạt đầu tiên tại Mỹ.
Khu vực nguy hiểm
Vào khoảng cuối thế kỉ 17, Tennessee là một vùng đất hoang sơ và rậm rạp. Những nhà thám hiểm, người lái thuyền, các lái buôn cũng như người dân trong khi di cư đã tìm thấy lối đi qua những khu rừng rậm tại địa hạt này. Một trong những con đường chính thời kì đó là Natchez và Chickasaw Trace nối khu vực hạ lưu sông Mississippi và vùng trung tâm Tennessee. Ban đầu, Trace chỉ là một đường mòn rất nhỏ dành cho hươu, nai hay người bản xứ đi qua. Nhưng từ khi được nhiều người biết đến, nó đã được mở rộng. Đường mòn Trace được sử dụng nhiều nhất trong khoảng thời gian từ năm 1785 đến năm 1820. Tuy nhiên chỉ 10 năm sau đó, nó đã bị lãng quên và rừng hoá. Hiện nay, đường mòn Trace chính là xa lộ Natchez Trace với tuyến đường gần như không thay đổi. Thực tế, rất ít lái xe biết được khu vực này đã từng nguy hiểm thế nào dưới bàn tay của những tên giết người hàng loạt.
Natchez Trace được người ta miêu tả như một xa lộ quỷ. Trước đó, những người Mỹ gốc Âu chưa quen với sự rộng lớn của vùng này đã tiến hành những cuộc trinh sát tại các vùng như Choctaw, Chickasaw, hay Cherokee. Do vậy, nhiều trạm mậu dịch của người da trắng đã được mở ra dọc theo tuyến đường này. Nhiều người nổi tiếng cũng đã từng qua đây như Aaron Burr, Andrew Jackson, và nhà thám hiểm Meriwether Lewis (ông đã mất và được chôn cất tại đây vào năm 1809). Những nhà truyền giáo du hành và các thương gia đi tìm vận may làm giàu cũng sử dụng con đường này. Có lẽ vì vậy, nơi đây trở thành khu vực làm ăn béo bở của những tên cướp. Một trong những điểm đen là Natchez - dưới chân đồi, cửa sông Mississippi.
Những kẻ giết người hàng loạt đầu tiên tại Mỹ
Mặc dù có nhiều nhà nghiên cứu về tội phạm cho rằng kẻ giết người hàng loạt đầu tiên ở Mỹ là H.H Homes vào cuối thế kỷ 19 nhưng thực tế đã có nhiều vụ giết người hàng loạt xảy ra trước đó chừng 100 năm. Những tên đầu tiên được biết đến là Micajah và Wiley Harpe, những kẻ giết người để mua vui hay vì tiền. Những "chiến tích" của chúng được ghi chép đầu tiên bởi một thẩm phán có tên là James Hall của Shawneetown. Vào năm 1828, ông đã miêu tả những cái chết liên tiếp chúng gây ra trong vòng 9 tháng tại Tennesee và Kentucky. "Lịch sử của chúng thật tuyệt hảo" ông viết, "từ số lượng và sự đa dạng cho đến sự hung tợn của chúng". Sau đó vào năm 1855, T.Marshall đã đưa ra các câu chuyện về những năm điên loạn trước đó của chúng.
Rất ít người được biết những câu chuyện đầu tiên của anh em nhà Harpe, nhưng ngay cả khi còn trẻ, bộ dạng của chúng đã báo hiệu một nỗi khiếp sợ. Một nhà sử học đã nhắc tới chúng như là những con quỷ đầy thú tính của loài người. Theo ghi chép, quyển sách của Rothert được coi là cuốn sách có đầy đủ thông tin nhất về về anh em nhà Harpe.
Trong giai đoạn lịch sử đầu tiên của Bắc Mỹ, người Anh đã thiết lập 13 thuộc địa dọc theo đường bờ biển phía Đông. Sau khi người Anh thất bại dưới tay người Pháp vào năm 1763, những thuộc địa này phải chịu sự cai trị hà khắc do những luật lệ của Hoàng đế George đệ tam, đặc biệt việc tăng thuế. Sự căng thẳng tăng lên khi những lãnh đạo như Benjamin Franklin và John Adams tập hợp những thuộc dân bỏ trốn khỏi sự trị vì của Vua George và thành lập một quốc gia mới.
Để được công nhận về mặt pháp luật và kinh tế, họ đã trải qua cuộc chiến tranh năm 1775, chiến đấu với tất cả mọi thứ. Họ đã chống lại "đội quân áo đỏ" và cuối cùng bắt người Anh đầu hàng vào năm 1781. Tuyên bố độc lập, người Mỹ đã soạn thảo hiến pháp. Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ được đưa ra như một ý tưởng tinh hoa của phần đông dân Mỹ và là nền dân chủ đầu tiên của thế giới ngày nay, người dân đã bầu ra người lãnh đạo. Trong khi chính quyền mới này có những vấn đề riêng của nó, có những kẻ tận dụng khai thác sự hỗn độn trong thời kì chuyển tiếp, đặc biệt những kẻ phá rối miền Tây. Như Breazeale nêu ra "Chúng ta đang có một câu chuyện để kể lại, nó phải gây sốc và làm kinh hãi tâm hồn của tất cả những ai đang sở hữu những cảm xúc đơn thuần của xã hội và lòng thương cảm của nhân loại".
Đặc biệt những người phụ nữ, ông nói, "sẽ rùng mình khi thoáng qua trong đầu những hình ảnh bi thương của sự tàn sát, chết chóc. Những người đàn ông sẽ cảm thấy phẫn nộ về cách mà kẻ giết người đã thực hiện hành vi tội ác để thỏa mãn sự thèm khát đáng ghê tởm bằng việc tàn sát và sự khoái cảm vô nhân tính về nỗi bất hạnh của người khác". Breazeale chắc chắn đang ngụ ý nói đến anh em nhà Harpe.
Musgrave nói rằng chúng di cư từ Scotland khi còn là những đứa trẻ và là những anh em họ đầu tiên, là con trai của John và William Harpe, những người đã định cư tại Quận Cam, Bắc Carolina. Nhưng nhiều tài liệu khác chỉ ra rằng chúng sinh ra tại Mỹ và cha chúng nhập cư vào Mỹ khoảng năm 1761. Ở một vài nơi người ta biết đến chúng với những cái tên khác là Micajah và Wiley. Thay bằng việc trở thành những người nông dân, chúng tham gia chiến tranh nhưng không về phe của những người bảo vệ vùng đất mới. Ngược lại, chúng là những đảng viên trẻ Đảng bảo thủ, trung thành với Anh, và chúng đã tích cực tham gia vào nhóm những kẻ khủng bố và cướp bóc của những người yêu nước. Micajah sinh năm 1768, cao, to và vạm vỡ với khuôn mặt của kẻ đồi bại. Mặc dù hắn trông rất bẩn thỉu nhưng mọi người vẫn nhận ra mái tóc đỏ của hắn. Hắn thích mang theo mình những vũ khí nguy hiểm như: con dao đi săn, chiếc rìu của người da đỏ và một cây súng trường. Micajah không quan tâm đến việc hắn làm bị thương ai hay giết ai.
Cuối cùng anh em nhà Harpe thấy rằng cuộc sống quân ngũ không hề thú vị, vì thế trước khi chiến tranh kết thúc, khi mọi thứ dường như tồi tệ hơn với người Anh, chúng đã không hề có ý định quay lại. Khi các thuộc địa giành chiến thắng và tuyên bố độc lập, anh em nhà Harpe trở thành những kẻ ngoài vòng pháp luật. Lúc bấy giờ thay vì việc quay trở về nhà, chúng tham gia một nhóm trộm cướp, sau đó chuyển hướng sang miền Tây.
Dọc đường, Micajah đã bắt cóc Maria Davidson và ép cô phải cưới hắn, sau đó là Susan Wood (một vài tài liệu cho rằng tên của họ là Betsy và Sally). Bọn chúng luôn tìm cách hành hung phụ nữ và đến quận Knox của Tennessee một vài lần trong khoảng thời gian từ năm 1795 đến 1797. Cho đến lúc đó, theo tài liệu của Doris Lane, chúng đã giết người 5 lần trong đó có cả 4 đứa con của chính mình.
Mang trong mình dòng máu sát thủ, những kẻ giết người hàng loạt lấy vợ chỉ để thỏa mãn nhu cầu tình dục, sinh con chỉ để giết. Mời các bạn đón đọc Những kẻ giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 2) vào lúc 10h30 thứ 4 ngày 20/5/2009 trong mục Vụ án nổi tiếng.
Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 2)
Bọn chúng không tìm kiếm một gia đình thực sự, bởi vì những đứa con được sinh ra bao giờ cũng bị chúng ra tay giết chết. Vợ chỉ là những nô lệ tình dục để thỏa mãn nhu cầu.
Về mặt pháp luật Wiley đã cưới một người phụ nữ có tên là Sarah Rice, người vùng Knoxville (một tài liệu khác gọi cô là Susanna). Không nhiều người biết bằng cách nào những người phụ nữ này đã thích nghi với người chồng mới của họ, nhưng dường như hai tên này không quan tâm lắm đến điều đó. Thực tế, Micajah Harpe sống với cả Betsy và Sally như những người vợ theo phong tục thông thường. Bọn chúng không tìm kiếm một gia đình thực sự, bởi vì những đứa con được sinh ra bao giờ cũng bị chúng ra tay giết chết. Vợ chỉ là những nô lệ tình dục để thỏa mãn nhu cầu.
Chúng và đại gia đình chuyển đến ở trong một cabin trên đường Old Maidensville. Những người phụ nữ này dường như không cố gắng gắng trốn thoát và học cách chấp nhận tất cả hành vi của người chồng. Ngay cả khi có cơ hội để trốn thoát, họ vẫn quay trở về đoàn tụ với chúng. Một vài tác giả cho rằng những người phụ nữ này thậm chí còn bắt đầu giúp đỡ anh em nhà Harpe thực hiện các hành vi tội ác.
Họ đã từng có ý định định cư lại Tennessee, đã cố gắng trồng cây và thân thiện với những người dân trong vùng. Tuy nhiên, vẫn chứng nào tật đấy, không lâu sau chúng bắt đầu ăn trộm gia súc của láng giềng để giết thịt và bán kiếm tiền. Đầu tiên, không ai nhận ra điều này, nhưng cuối cùng khi thấy chúng liên tục có thịt để cung cấp, một vài người bắt đầu nghi ngờ về nguồn gốc của chỗ thịt đó.
Khi những con ngựa của gia đình Edward Tiel biến mất, thay bằng việc tìm kiếm, Edward đã đến thẳng nhà Harpe. Thấy không có ai ở nhà, người đàn ông này đã tổ chức một nhóm người đi tìm kiếm. Họ đi vào rừng lần theo dấu vết nơi những con ngựa bị trói đến vùng núi Cumberland, ở đây họ không chỉ thấy những con ngựa mất tích mà còn có đại gia đình Harpe. Lập tức, chúng bị bắt và áp giải về Tennesse nhưng đã trốn thoát được. Không lâu sau đó, bàn tay chúng bắt đầu "nhuốm máu" người.
Những tên cướp biển
Anh em nhà Harpe trở thành hai trong số những tên ngoài vòng pháp luật đáng sợ nhất, chúng trốn trong khu vực núi đá vôi ở phía Nam Illinois được biết với tên gọi Cave-in Rock. Theo như Nash, khu vực này là một pháo đài tổ ong tự nhiên với những lối đi bí mật rất rộng vì vậy anh em nhà Harpe đã giấu bầy gia súc và ngựa tại đây.
Trong nhiều thập kỉ, một nhóm những tên cướp sông đã coi đây là địa bàn hoạt động và trong một giai đoạn ngắn anh em nhà Harpes đã gia nhập đội ngũ này. Vì Cave-in Rock nằm trên vách đá qua sông Ohio, nên những tên cướp dễ dàng phục kích khách qua sông bằng thuyền. Hoặc, giả dạng thành người dẫn đường hay lái thuyền và đưa khách cùng hành lí của họ đến nơi dễ dàng tấn công, những tên còn lại sẽ nhảy ra cướp hàng hóa. Với mục đích làm giàu cho bản thân, chúng liên tiếp ra tay trấn lột tiền bạc của khách qua đường nhưng tuyệt nhiên không hề có ý định làm hại những con người này.
Trong khi đó, anh em nhà Harpe lại nghĩ ra những trò khác trong đầu. Một dịp, chúng nổi hứng bắt một nạn nhân cởi quần áo rồi đưa nạn nhân xấu số đó cùng một con ngựa bị bịt mắt qua vách núi. Người đàn ông và con vật đã rất khó khăn mới đứng được trên những mỏm đá phía dưới. Hành động này đã làm những tên cướp khác sững sờ vì sự tàn ác. Chúng quyết định tuyệt giao với anh em nhà Harpe và yêu cầu rời đi ngay lập tức. Thậm chí những tên cướp này còn so sánh hai anh em chúng như lũ chó sói man dại. Sau đó, một trong những tên này còn có dịp "giáp mặt" với anh em nhà Harpe và đã xảy ra nhiều điều tệ hại.
Những tên cướp đưa khách qua sông
Vào năm 1798, gia đình nhà Harpe chuyển đến Kentucky và bắt đầu một loạt những chiến dịch phạm tội chớp nhoáng. Trong ghi chép của tờ Gleaner, Jenkins nói: "Chúng đã tìm thấy một bé gái ở cửa sông Green, để gửi thông điệp đến những người dân trong vùng, chúng đã đập đầu đứa bé vào cầu dẫn đến thiệt mạng". Breazeale cũng miêu tả một vụ án mạng mà anh em nhà Harpe đã giết chết một cậu bé tên Coffey khi đang xay lúa. Nạn nhân tiếp theo là một người đàn ông tên là Johnson bằng một phát đạn vào đầu song chưa thỏa mãn, chúng còn mổ bụng và nhét đầy đá vào đó. Để che giấu hành động tội ác, chúng đã buộc thêm đá và ném xác Johnson xuống sông Holston. Nhưng mọi chuyện bị vỡ lở khi cái xác đang trong thời kỳ phân hủy được mọi người phát hiện.
Nhưng cái xác này chỉ là một phần của câu chuyện. Rất nhiều cái xác nữa tiếp tục được phát hiện để minh chứng cho đam mê... giết người của những tên này. Mời các bạn đón đọc Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 3) vào 10h30 thứ Năm ngày 21/05/2009 trong mục Vụ án nổi tiếng.
Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 3)
Chúng là những kẻ đam mê giết người. Chúng không có sự phân biệt giữa trẻ em, phụ nữ với đàn ông, giữa những người tự do với những người nô lệ, tất cả đều có thể là nạn nhân của tội ác.
Một thủ đoạn khác cho thấy rõ ràng sự biến thái của anh em nhà Harpe. Chúng sẽ đi cùng những người vô tình gặp trên đường với vai diễn là người cần được bảo vệ hoặc sẽ bảo vệ họ. Thông thường có sự góp mặt của các bà vợ. Sau đó những tên sát nhân sẽ rớt lại phía sau cho đến khi thời cơ thuận lợi, chúng sẽ ra tay giết chết nạn nhân. Một lần có hai người đàn ông từ Maryland, anh em chúng giả vờ như không tìm thấy nơi nào hợp lí để cắm trại nghỉ qua đêm cho đến khi trời tối đen. Sau đó hai người này đã chết dưới tay chúng.
Tại quận khác, cả hai đã sát hại Hugh Dunlap, người đã đe dọa bắt chúng. Ông rất muốn đưa những tên sát nhân ra trước công lí dù có bất cứ điều gì xảy ra. Vì thế Hugh Dunlap đã phải nhận cái chết. Cùng thời gian đó, một người đàn ông tên là Ballard đã trở thành nạn nhân xấu số tiếp theo và chúng lại nhét đá vào người trước khi ném xuống sông. Một người đàn ông và con trai đã bị tàn sát khi làm vụ mùa. Chỉ duy nhất một người sống sót và chạy thoát. Trong khoảng thời gian này Micajah cũng giết chết đứa con gái 4 tháng tuổi của chính hắn bằng việc cầm mắt cá chân cô bé, đập đầu vào cây cho đến chết.
Chúng không có sự phân biệt giữa trẻ em, phụ nữ với đàn ông, giữa những người tự do với những người nô lệ, tất cả đều có thể là nạn nhân của tội ác. Chúng chỉ đơn giản chửi bới, cướp bóc và giết người khi có cơ hội.
Sau đó chính phủ bang Kentucky đã treo thưởng 300 USD cho ai bắt được một trong hai hoặc cả hai tên trong bọn chúng. Để tránh sự truy bắt này, chúng đã rút vào vùng núi Cumberland nằm ở vùng tiếp giáp giữa hai bang Kentucky và Tennessee. Dọc con đường này, chúng tách ra để trộm cướp và giết người nhiều hơn. Những người dân trong vùng chống lại chúng bằng bất cứ cái gì họ có, một vài người ở lại để bảo vệ gia đình trong khi những người khác thoát khỏi sự đeo bám của nhà Harpe.
Dọc theo đèo Cumberland, hai anh em nhà Harpes và vợ chúng đi trên đường mòn Boon, con đường đưa chúng đến Kentucly. Tại đây, chúng gặp một người bán rong tên Peyton đang mang hàng hóa bằng ngựa đến nhiều miền đất mới. Đống hàng hóa của Peyton là một "món quà" béo bở cho anh em nhà Harpe, chính vì thế chúng không ngần ngại ra tay giết chết người bán hàng rong để chiếm đoạt mọi thứ. Sau đó, chúng nhắm về phía quán trọ cho những khách lữ hành của một người đàn ông có tên là Pharris (hoặc Farris).
Đến quán trọ với bộ dạng bẩn thỉu và rách rưới, cả hai gọi bữa ăn điểm tâm. Song sau khi "đổ đầy bụng" chúng bắt đầu giở trò tranh cãi về giá cả các món ăn và khăng khăng không chịu trả tiền. Một người khách có tên Langford thấy "chướng tai gai mắt" đã can thiệp bảo vệ vợ chủ quán, chính vì thế anh em nhà Harpe đã chuyển cơn thịnh nộ sang anh ta. Nhưng Langford vẫn đứng vững trên lập trường của mình và quyết định bảo vệ lẽ phải.
"Các anh không có lí do gì để tranh cãi với người phụ nữ này cả" Langford nói. "Nếu anh khó khăn tôi có nhiều tiền và tôi sẽ trả cho các anh". Chính vì câu nói này mà Langford đã rơi vào tầm ngắm của hai tên xảo quyệt. Chúng giả vờ làm hòa và chấp nhận lời để nghị thậm chí còn gợi í Langford để chúng hộ tống như một sự bảo vệ chống lại những nguy hiểm trên đường. Không chút đắn đo, anh ta chấp nhận ngay.
Langford phải chịu hậu quả thế nào cho sự ngây thơ của mình? Một cái chết thê thảm chăng? Mời các bạn đón đọc Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 4) vào 10h30 thứ sáu ngày 22/05/2009 trong mục Vụ án nổi tiếng.
Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 4)
Vì sao anh em nhà Harpe giết người? Cũng có lúc vì tiền nhưng thông thường, chúng giết người không phải để cướp bóc mà vì sự ham thích nhìn thấy máu chảy. Chúng sẽ tiếp tục gây tội ác nếu chúng cảm thấy không đủ sự đổ máu.
Sau bữa sáng, họ cùng lên đường, khi đi được vài dặm đến lúc không ai nhìn thấy họ. Ngay lập tức, anh em nhà Harpe giết Langford, lấy hết tất cả số tiền của nạn nhân, quăng xác bên đường và giấu vào bụi cây.
Cái xác đang phân hủy và được phát hiện khi những người điều khiển gia súc đi ngang qua. Đầu tiên bầy gia súc ngửi thấy mùi và bỗng dưng lồng lên như bị sư tử đuổi và rồi chúng tha cái xác khắp nơi. Những người trông bầy gia súc không hiểu vì sao chúng lại như vậy, song họ có quá ít thời gian để tìm nguyên do. Họ chỉ kịp chạy ra để giữ lấy đàn gia súc và bắt chúng lại. Trong khi thu đàn gia súc về, một trong số họ đã tìm thấy thi thể của Langford và gọi những người khác đến. Thu hết sự dũng cảm họ đã tiến đến gần hơn cái xác và tìm thấy một vài đặc điểm nhận dạng của Langford. Thông qua quần áo họ biết tên anh ta là: Thomas Langford.
Họ đã dùng một chiếc chăn để cuộn những phần còn lại và mang nạn nhân đến quán trọ gần nhất, cố gắng tìm sự giúp đỡ. Quán trọ nhà Pharris đã nhận ra vị khách quen thuộc và đã hình dung ra câu chuyện của nạn nhân xấu số. Thủ phạm không ai khác chính là anh em nhà Harpe, chúng giết người để cướp tài sản mà nạn nhân có.
Một đội cảnh sát được tập hợp để tìm kiếm gia đình Harpe, Micajah và Wiley đã bị bắt một lần nữa vào lễ giáng sinh năm 1798. Chúng bị nhốt trong nhà tù Banville, tại quận Lincoln, chờ ngày áp giải đi. Tuy nhiên, trí thông minh của chúng đã được chứng tỏ bằng việc trốn thoát khỏi những bức tường chắc chắn của nhà tù và biến mất. (Breazeale có kể rằng một viên cai ngục đã nghỉ việc ngay sau đó và xuất hiện khỏe mạnh, có một sự nghi ngờ được đưa ra rằng gã đã bị anh em nhà Harpe mua chuộc bằng số tiền của Landford và y đồng ý). Theo tài liệu, những bà vợ nhà Harpe cũng bị bắt nhưng họ không trốn thoát theo chồng vì đang mang thai và đã sinh con ở trong tù. Khi được phóng thích, có cơ hội tìm kiếm cuộc sống mới, song họ đã trở về với những người chồng tàn ác. Không một ai trong số họ muốn trốn thoát khỏi anh em nhà Harpe.
Địa bàn giết người
Biên giới giữa Tennessee và Kentucky khá yên bình, điều này đưa ra nhiều cơ hội cho anh em chúng bởi vì dân cư ở vùng này khá thưa thớt, và cô lập với bên ngoài.
"Chúng sát hại tất cả các tầng lớp không phân biệt nam hay nữ", một quyển sách bình luận, "Không phải để cướp bóc mà vì sự ham thích nhìn thấy máu chảy". Điển hình nhất là khi anh em Harpe đập đầu cậu bé da đen vào cây cho đến chết nhưng không hề lấy bất cứ thứ gì của nạn nhân.
Tại lúc này, không có FBI, thậm chí không có một cơ quan cảnh sát ở những nơi này. Không có tiền lệ nào trước đó về những kẻ sát nhân như anh em nhà Harpe, đặc biệt dùng cách nào để bắt và ngăn chặn những tội ác của chúng lại.
Anh em nhà Harpe nhanh chóng quay trở lại Kentucky, chúng đi dọc theo đường mòn Kentucky trở lại vùng núi Cumberland, và khi vượt qua sông Emory, những tên sát nhân đã tình cờ gặp hai người đàn ông. Chúng đã giết một, đập đầu nạn nhân vào cây và một người may mắn trốn thoát mang theo thông tin về anh em nhà Harpe. Sau khi tìm thấy thi thể người đàn ông kia, những người dân quyết định đem những tên sát nhân này ra pháp luật cũng như mang lại tự do cho công đồng thoát khỏi nỗi khiếp sợ và những vụ giết người hàng loạt.
Để tránh bị bắt, anh em nhà Harpe tiếp tục sống trong rừng và các hang động ở các vùng núi. Thỉnh thoảng chúng cũng liều lĩnh đi ra ngoài vì đã am hiểu địa hình nơi đây.
Chính hoàn cảnh sống như này, bản năng phạm tội của chúng đã ngày càng phát triển hơn. Trước khi kết thúc chuỗi tội ác của chúng còn rất nhiều người vô tội bị thiệt mạng. Đón đọc Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 5) vào 10h30 thứ Bảy ngày 23/05/2009 trong mục Vụ án nổi tiếng.
Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 5)
Giúp đỡ người gặp hoạn nạn luôn được khuyến khích nhưng người đàn bà tốt bụng Sregall đã phải trả giá đắt khi giúp đỡ nhầm những kẻ giết người hàng loạt.
Lấy oán trả ơn
Một ngày cuối tháng 08/1799, cặp anh em sát nhân đến hạt Stegall của Moes Stegall, một người đàn ông xấu tính, người đã định cư tại khu vực dân cư thưa thớt ở quận Henderson. Hắn ta chỉ cho chúng vài khu vực có thể "kiếm chác" và đổi lại phải trả hắn khoản tiền và bỏ đi.
Theo lời chỉ dẫn, anh em nhà Harpe tìm đến nhà bà Sregall và hỏi xin một bữa ăn. Bà ta bảo chúng rằng mình đang trông đứa con bốn tháng tuổi, và chúng phải chờ. (Một tài liệu khác nói rằng chúng yêu cầu nghỉ lại qua đêm và đã được nhét vào một cái kho cùng với một người đàn ông tên là William Love, người đã bị giết trong đêm đó vì anh ta ngáy quá to).
Chúng đề nghị bà đặt đứa bé vào trong nôi để có thể trông giúp lúc bà nấu ăn. Không ngần ngại, Sregall đồng ý và đi vào bếp. Nhưng trong suốt thời gian làm bếp, bà cảm thấy ngạc nhiên bởi không nghe thấy bất kỳ tiếng khóc nào của đứa con. Và đến khi mang bữa sáng phục vụ hai người đàn ông lạ mặt sau đó đến xem đứa bé thì một cảnh tượng hãi hùng hiện ra ngay trước mắt. Người làm công tên William, ở trong vườn với hai người phụ nữ đã nhìn thấy tất cả mọi diễn biến trong nhà. Bà Sregall đứng bên cái nôi và la lớn. Anh em nhà Harpe liền xông tới, bịt miệng và đâm xối xả vào người bà Sregall bằng con dao thái thịt, cũng chính là con dao chúng đã sử dụng để cắt cuống họng đứa trẻ để khiến nó yên lặng. Sau đó chúng vào cabin, theo chỉ dẫn của gã đàn ông và tìm được số tiền được cất giấu rồi nhảy lên ngựa chạy mất.
William cũng chạy, bảo vệ những người phụ nữ gần đó và cảnh báo những người khác trong vùng. Moses được báo tin động trời ngay lập tức trở về nhà với người vợ và đứa con đã bị sát hại. Mặc dù rất choáng váng với những việc xảy ra với gia đình, song Moses quyết tâm tìm ra những tên thủ ác, tập trung một số người đàn ông để giúp đỡ, bao gồm cả cảnh sát trưởng John Leiper và bảy người khác đi tìm anh em nhà Harpe. Họ đã đi tìm suốt cả ngày hôm đó và cả ngày tiếp theo.
Dồn gia đình Harpe vào chân tường
Những đám khói từ một hang đá lớn được cho là nơi anh em nhà Harpe đang trú ngụ. Nhóm người đuổi bắt đã ngạc nhiên khi chúng vẫn ung dung tự tại. Một trận đấu súng đã xảy ra và Micajah bị thương. Anh em chúng nhảy lên ngựa chạy về hai hướng khác nhau bỏ lại những bà vợ ở hang động. Vì nhóm tìm kiếm quá ít người để chia ra đi tìm cả hai anh em nhà chúng, một vài người đuổi theo Micajah Harpe trong khi những người còn lại trông chừng những cô vợ của chúng. Họ đã trói những cô vợ của chúng vào cây và tiếp tục đuổi theo hai anh em.
Micajah Harpe cho ngựa phi nước đại, họ đã rượt đuổi trong khoảng 8 dặm qua những vùng hoang vu, khúc khuỷu, khe núi hiểm trở, qua đồi, qua rừng và các bụi rậm. Cuối cùng, khi ngựa của Micajah bắt đầu mệt và giảm tốc độ. Một người trong đội tìm kiếm đã đuổi kịp, vì biết Macajah không có vũ khí trong người, rất thận trọng người này tiến tới và giơ súng bắn.
Harpe không thể tiếp tục sống đề tàn sát thêm được nữa. Nhưng điều dư luận quan tâm chính là cách Harpe bị hành quyết. Mời các bạn đón đọc Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 6) vào 10h30 Chủ nhật ngày 24/05/2009 trong mục Vụ án nổi tiếng.
Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 6)
Đôi bàn tay không ngần ngại dùng đủ mọi cách dã man nhất để giết nạn nhân thì cũng có ngày kẻ giết người hàng loạt chịu cảnh hành quyết đau đớn như vậy.
Viên đạn trúng vào cánh tay của Harpe và làm hắn bị thương. (theo như tài liệu của Breazeale). Harpe ngã từ trên lưng ngựa xuống và trườn về phía một thanh gỗ nhằm kháng cự lại. Nhưng vì mất máu, gã đánh rơi khẩu súng và chống cự yếu ớt khác hẳn với sức mạnh dữ tợn thường thấy. Gã vẫn còn một con dao nhưng không còn đủ sức để cầm. Leiper, người trong đội tìm kiếm, không lập tức tóm hắn mà từ từ kiểm tra súng và tiến chậm về phía tên sát nhân.
"Nếu mày cử động bất kì ngón tay nào, tao sẽ tặng mày một băng đạn" anh ta cảnh cáo.
Leiper nhắm súng thẳng vào tim Harpe, nhận thấy dao thái thịt là vũ khí duy nhất của Harpe. Anh ta cố gắng thuyết phục gã bỏ vũ khí xuống. Khi anh ta cảm thấy tên tội phạm nguy hiểm không còn đáng sợ, Leiper đã hỏi " Sao mày làm thế? Sao mày giết những người đấy?"
Có thể nói câu trả lời của Harpe thuộc vào hàng kinh điển cho rất nhiều những tên giết người hàng loạt sau này. Hắn nói rằng mình và em trai lớn lên với sự ghê tởm loài người và đồng ý với nhau rằng sẽ giết người nhiều nhất mà chúng có thể. Micajah thừa nhận rằng bản thân gã biết có một ngày sẽ phải trả giá cho những hành động này nên đã cố gắng giết càng nhiều người càng tốt trước khi ngày đấy đến. Một số tài liệu chỉ ra rằng, chúng nổi điên vì một sai lầm nào đó với chúng, hoặc vì việc bị bắt nhầm và tống giam và một người tên Bladwin là nguyên nhân dẫn đến những việc làm mất hết tính người của chúng.
Một vài nguồn cho rằng số nạn nhân của anh em Harpe là 17, số khác nói là 20 hoặc 28, một số ít khác lại cho rằng 40, song trong tất cả số đấy Micajah thừa nhận rằng chỉ một nạn nhân duy nhất làm mà hắn cảm thấy ăn năn hối hận nhất chính là đứa con của chính hắn. Không có ý định ra tay với con mình nhưng do nó khóc quá nhiều và làm phiền hắn.
Leiper biết rằng Micajah đã có liên quan đến rất nhiều vụ án mạng mà mọi người chưa phát hiệ̣n ra. Leiper ép Harpe kể hết tất cả tội ác của mình. Tuy nhiên, đến lúc này, những người khác trong nhóm truy lùng đã đuổi kịp đến nơi và không quan tâm đến những gì Harpe nói. Họ chỉ muốn trả thù.
Đặc biệt Stegall đã tức giận khi nhìn thấy Micajah Harpe và lập tức cho hắn "thưởng thức" mùi vị đau đớn mà hắn đã gây ra. Anh ta chụp lấy con dao mà Harpe đã giao cho Leiper và lao về phía hắn, túm tóc và bắt đầu cứa từ lưng cho đến nách. Nhưng với bản tính lì lợm, Micajah không hề kêu ca, thay vào đó, hắn ta nhìn chòng chọc vào Stegall với vẻ mặt giận dữ và ác quỷ, kêu to "Mày là đồ ác thú, sẽ bị đầy xuống địa ngục" .
Câu nói như dầu đổ thêm lửa, Stegall càng mạnh tay hơn, vì vậy sau khi vẽ một đường dao xung quanh cổ Harpe, anh ta cắt sâu đến xương cổ cho đến khi cổ gã lìa khỏi xác. Nó giống như cách mà người ta đã dùng với một con vật. Lúc đó, Micajah Harpe tròn 31 tuổi.
Ngay cả khi đã chết, Harpes vẫn để lại giai thoại với chiếc đầu lâu của mình. Mời các bạn đón đọc Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 7) vào 10h30 thứ hai ngày 25/04/2009 trong mục Vụ án nổi tiếng.
Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ 7)
Thi thể của Micajah Harpe bị bỏ lại nơi hoang vu làm thức ăn cho động vật, trong khi đầu của hắn được đặt trong một chiếc túi. Nhờ được "bảo vệ", chiếc đầu lâu của tên sát nhân đã tạo nên một giai thoại.
Quả báo
Thi thể của Micajah Harpe bị bỏ lại nơi hoang vu làm thức ăn cho động vật, trong khi đầu của hắn được đặt trong một chiếc túi.
Tất cả quay lại nơi trói những người vợ của anh em nhà Harpe, áp giải đến sân của vùng Rusellville và bị thẩm vấn vì sao lại tham gia cùng những kẻ như anh em nhà Harpe. Một số người thành thật còn một vài không, những người phụ nữ này nói rằng họ không hề biết về sự thú tính của anh em nhà Harpe khi lấy chúng. Nhưng khi bắt đầu thấy nghi ngờ, họ sợ rằng nếu chạy trốn sẽ gây nguy hiểm cho cuộc sống của bản thân, cũng như gia đình họ, "đến những đứa con dứt ruột đẻ ra chúng còn dám giết chứ chúng tôi là cái gì đâu, chỉ là nô lệ tình dục của anh em nhà Harpe thôi".
Một trong số họ, Sarah, đã nói rằng cô ấy đã cố gắng chạy trốn nhiều lần, nhưng bị bắt lại và bị đánh "lên bờ xuống ruộng". Khi bị hỏi họ biết gì về những nạn nhân mà Micajah đã sát hại, những người phụ nữ này xác thực rất nhiều thông tin chi tiết. Họ nói rằng động cơ để giết người của anh em nhà Harpe là do những sự bất công mà nạn nhân đã đối xử với chúng. Họ nói rằng Micajah Harpe từng muốn giết ba đứa trẻ còn lại sau sự tàn sát tại nhà Stegall để họ có thể "nhẹ chân tay" khi trốn tránh sự truy đuổi của mọi người.
Các nhà chức trách cho rằng, những người phụ nữ bị ép sống cùng hai tên máu lạnh và phải chịu đựng tháng ngày đau khổ nhất là khi chứng kiến cảnh đứa con đẻ bị chính người cha đập đầu vào thân cây đến chết. Vì thế họ quyết định trả tự do cho những người phụ nữ này để làm lại cuộc đời. Có người lo ngại cho họ khi phải chịu tổn thương từ cái chết của đứa con, từ nỗi sợ hãi thường nhật và điều quan trọng là Wiley Harpe vẫn còn sống.
Những người đàn bà này tìm kiếm sự che trở từ những người dân địa phương khác ở Kentucky, và vợ Wiley, Sarah, đã được chào mừng về nhà bố đẻ. Những người còn lại ở lại ở Kentucky và bắt đầu cuộc sống mới.
Quay trở lại câu chuyện về chiếc đầu của Micajah Harpe, một năm sau những người đi qua nơi giao nhau của các đường Morgenfield, Henderson và Maidensville tại quận Union nhìn thấy cái đầu người, đã biến thành đầu lâu. Một chiếc biển ghi lại ngắn gọn về "sự tích" chiếc đầu được dựng trên đường nhằm mục đích cảnh báo rằng điều tồi tệ nhất sẽ đến với những kẻ xấu xa. Chính vì thế khu vực này được đặt tên là Harpe's Head (đầu của Harpes), và con đường được đặt tên là Harpe Head Road.
Vì lòng dũng cảm của mình, Leiper đã nhận được một khoản tiền thưởng là 250 USD. Những người khác hy vọng sẽ bắt được Wiley Harpes để có được số tiền thường, nhưng không ai nghe thấy tin tức của hắn trong nhiều năm sau. Sự cảnh giác đã giảm đi một chút do cái chết của Micajah nhưng mọi người biết rằng sự nguy hiểm chưa hết mà vẫn đang dình dập xung quanh.
Mặc dù một tên giết người hàng loạt đã bị giết nhưng chưa ai yên tâm vì Wiley Harpe vẫn còn sống sót và đe dọa tính mạng của người dân. Wiley Harpe sẽ làm gì? Mời các bạn đón đọc Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ cuối) vào 10h30 thứ ba ngày 26/05/2009 trong mục Vụ án nổi tiếng.
Những tên giết người hàng loạt đầu tiên (Kỳ cuối)
Hắn di chuyển từ Natchex, Mississippi đổi tên thành Setton, và giả vờ là kẻ ngờ nghệch, song vẫn tiếp tục giết người. Vậy kết cục nào đang chờ tên giết người hàng loạt còn sống sót?
Wiley Harpe đã may mắn thoát được sự truy bắt của nhóm người truy đuổi và chẳng lo lắng gì vì hắn biết nhiều hang động trong rừng có thế trú ẩn an toàn. Tuy nhiên, khi biết được điều gì đã xảy đến với người anh, hắn quyết tâm không để điều này lặp lại với mình. Hắn di chuyển từ Natchex, Mississippi đổi tên thành Setton, và giả vờ là kẻ ngờ nghệch, song có tài liệu ghi rằng trong thời gian này hắn đã dụ dỗ rồi đánh đập giết chết một người phụ nữ trẻ, đồng thời tham gia băng cướp do Sam Mason cầm đầu trong một thời gian ngắn.
Được biết, Sam trước đây là một người trồng rừng, từng thực hiện cuộc khủng bố vùng Mississippi khoảng năm 1800 và thu nạp "đệ tử" thành lập băng nhóm. Mỗi lần phạm tội, Sam thường để lại dấu hiệu của mình tại hiện trường. Hắn bị bắt đầu năm 1803 nhưng đã tổ chức trốn thoát trong một trận bão và tiếp tục cướp bóc. Sau hàng loạt những phi vụ cướp táo tợn, chính quyền treo thưởng cho cái đầu của Sam và Wiley xem đây là một cơ hội kiếm tiền của mình.
Bây giờ, ưu tiên của Wiley Harpe là giết chết Sam và tránh rơi vào tình trạng như Micajah. Cuối cùng, cơ hội đã đến với hắn, cùng với một gã trong bang tên là Sam Mays, bọn chúng đã giết Mason bằng một cái rừu. Hắn cắt đầu Mason và bọc nó trong đất sét để mang đi và chính hàm răng dài như chó sói của Mason là dấu hiệu mà bất cứ ai từng nhìn thấy gã đều có thể nhận ra. Tiếp theo việc chuyển cái đầu đi và nhận tiền là một hành động hết sức nguy hiểm. Nhưng vì tiền chúng vẫn liều song so bị nghi ăn trộm ngựa nên đã bị người dân nhốt lại.
Cùng lúc đó, những toán quân từ phía tây đi ngang qua Tennessee đến bang Loisiona và bang Mississippi. Một vài người nhận ra được Wiley Harpe. Một người nói rằng "tên giết người không ghê tay" có một vết sẹo dưới ngực trái và quả nhiên đúng như vậy. Lúc đó, Mays cố gắng trốn thoát nhưng bị bắt lại và cả hai bị giam giữ chờ ngày tử hình.
Cả hai tên đều chịu chung mức án chặt đầu và treo lên sào, đầu Harpes ở phía bắc và Mays ở phía nam, nhằm cảnh cáo cho những kẻ ngoài vòng pháp luật khác đồng thời răn đe người dân không nên "nhúng tay" vào tội ác.
"Cuối cùng cũng chấm dứt sự nghiệp của những con quỷ khát máu ngoài vòng pháp luật", một tài liệu viết: "những việc làm nhẫn tâm, trái tự nhiên của anh em nhà Harpe đến tận bây giờ vẫn làm người đọc phải sửng sốt khi nghe về tội ác trắng trợn và tàn ác của chúng".
Vụ án tiếp theo: Vụ sát hại Theo Van Gogh (6 kỳ)
Theo Van Gogh, 47 tuổi, chắt trai nhà buôn tranh Theo Van Gogh và chắt họ của danh họa đại tài Vincent Van Gogh, chính điều này đã dẫn đến một cuộc sống khác thường so với bạn bè đồng trang lứa... Đón đọc:
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 1)
Không phải duy nhất một vụ án mạng mà hàng loạt vụ giết hãm hiếp, giết người chỉ do một tên tội phạm gây ra đã "đi vào lịch sử nước Úc" với thủ đoạn tàn bạo và cách che giấu tội ác kín kẽ của mình.
Trời cao trong xanh, không khí thoáng đãng của tiết trời mùa xuân, đó là một ngày rất thích hợp để đi vào rừng, hoà vào cuộc sống thiên nhiên hoang dã. Ken Seily đứng trầm ngâm, hít sâu để cảm nhận không khí trong lành len vào từng ngóc ngách trong cơ thể. Nơi đó cách xa sự ồn ào và ô nhiễm của thành phố Sydney sầm uất 2 tiếng đi xe về phía Bắc, nơi ông sống và làm việc. Giống như bao năm qua, đây là quãng thời gian ông chờ đợi nhất trong tuần để chạy bộ thư giãn đầu óc sau những ngày làm việc căng thẳng. Bình thường, Ken đi bộ hoặc chạy tới nơi đã định trước một mình, song vào thứ bảy, ngày 19/09/1992 đó, CLB ông tham gia lại lên kế hoạch cho một buổi ngoại khoá đặc biệt bằng việc băng xuyên qua khu rừng Belangalo State rộng 160 hecta. Còn Ken chẳng có mấy thiện cảm với rừng. Mọi thứ xung quanh đều là màu xanh của bạch đàn, bụi rậm và sự hoang dã luôn khiến ông cảm thấy cái gì đó bất an.
Sau khi nghe lời chỉ dẫn ngắn ngủi trước giờ lên đường, Ken và đồng đội, Keith Caldwell bắt đầu những bước chạy đầu tiên. Môn thể thao này không giống như đua xe đường trường, nội dung mà người chơi được khảo sát địa hình kỹ lưỡng trước khi vào cuộc. Đầu giờ chiều, họ đã tiến vào sâu trong rừng và có chỗ địa hình rất hiểm trở với con đường gần như dốc đứng. Sau khi vượt qua những vị trị được định ra trong cuộc thi (nửa dặm lại có một cột mốc tính điểm), cả 2 chuẩn bị đi tới khu vực thứ 4, được đánh dấu bằng một tảng đá lớn. Khi tiến lại gần tảng đá, Ken ngửi thấy mùi khó chịu. Anh ta nghĩ rằng đó là mùi của động vật chết, một điều không có gì lạ bởi khu rừng này là nơi rất nhiều động vật hoang dã trú ngụ.
Loại bỏ chúng ra khỏi suy nghĩ, Ken cố gắng tìm kiếm vị trí đánh dấu. Cách đó không xa, Keith cũng nhận thấy có gì đó bất thường và hỏi: "Cậu có ngửi thấy mùi đó không?". Mùi bốc lên càng mạnh khi họ đi về hướng Tây của tảng đá lớn. Bên dưới một mô đất nhô lên, họ thấy một đống đổ nát rộng chừng 2m và cao 60cm. Tiến lại gần hơn, 2 người đàn ông nhìn thấy một mảnh xương và một mảng tóc. Họ không chắc đó là một người đàn ông cho đến khi nhìn thấy một phần của chiếc áo phông màu đen. Cả 2 đi thật chậm xung quanh đống đổ nát cho tới điểm cuối cùng, họ dừng lại và nhìn chằm chằm xuống mặt đất, cố gắng hiểu xem điều gì đã xảy ra. Ở đó, một chiếc gót giày nhô ra.
Lúc đó là 3h45 phút chiều. Cả khu rừng chẳng mấy chốc bị bóng tối bao phủ khi mặt trời bắt đầu xuống núi. Họ cẩn thận đánh dấu vị trí này ở trên bản đồ, cách 243m về hướng Tây Nam của con đường mòn. Một quyết định được đưa ra, quay trở lại nơi xuất phát hay tiếp tục cuộc hành trình. Cuối cùng, họ quyết định đi tiếp và chỉ nửa giờ sau đã nhập lại với đám bạn. Tất cả đồng ý rằng sẽ phải báo cáo vụ này cho chính quyền càng sớm càng tốt. Họ liền gọi tới đồn cảnh sát ở Bowral, một thì trấn nhỏ xinh đẹp, ẩn mình ở phía Nam tiểu bang New South Wales. Seily, một người trong đoàn nói với nhân viên trực điện thoại: "Tôi tìm thấy một cái xác ở khu rừng Belangalo".
Nơi phát hiện xác nạn nhân
Khi cảnh sát tới nơi, ánh sáng ban ngày gần như đã tắt hẳn. Họ phải dùng đuốc để đánh dấu đường đi. Chẳng bao lâu sau, các thám tử địa phương cũng tới và yêu cầu sự trợ giúp của đội trọng án từ Goulburn, thị trấn ngay kế bên về hướng Nam. Không ai lúc bấy giờ có thể nghĩ rằng xác chết tìm thấy khi đó sẽ dẫn đến một vụ điều tra giết người lớn nhất trong lịch sử nước Úc.
Khu vực được phong toả điều tra nhiều ngày sau đó, 2 nhân viên cảnh sát Roger Gough và Suzanne Roberts đã tìm được thi thể thứ 2, nằm cách thi thể thứ nhất khoảng 30m về hướng Đông. Theo thông báo từ phía chính quyền cho hay, đó là thi thể của 2 khách du lịch người Anh, Caroline Clarke và Joanne Walters. Họ đã mất tích 5 tháng sau khi rời Kings Cross đi về phía Nam để tìm việc. Tuy nhiên, cảnh sát vẫn chưa khẳng định thông tin trên. Các cơ quan truyền thông đã vào cuộc để giúp sớm tìm ra tung tích nạn nhân. Nhờ đó ở Úc và nhiều nơi khác trên thế giới, một vài gia đình đã nghe được thông tin về sự việc đã liên lạc với chính quyền để xác định chính xác thông tin về các nạn nhân.
Những nhát dao tàn bạo, điên cuồng trên áo của nạn nhân Joanne Walters
Ở Đức, Manfred và Anle Neugebauer cho hay con trai họ Gabor và bạn gái cậu ta Anja bị mất tích từ Giáng sinh năm 1991. Herbert Schmidl, sống tại Regensburg, gần Munich cũng nghe tin và mong rằng trong số các xác chết không có cô con gái độc nhất của anh, Simone, mất tích kể từ khi rời Sydney năm 1991. Cách vài trăm cây số về phía Nam Belangalo, ở Frankston Victoria, Pat Everist cũng thông báo về sự biến mất của con gái bà, Deborah và bạn cô bé, James Gibson từ năm 1989. Có rất nhiều thông tin xác nhận được chuyển tới nhưng đến cuối buổi chiều ngày Chủ nhật, 20/09, cảnh sát đã khẳng định hai thi thể đó là của Caroline Clarke và Joanne Walters. Bố mẹ Joanne, Ray và Jill Walters cũng tới Úc được chừng 1 tháng để tìm kiếm đứa con gái của mình song vô ích. Cảnh sát liên lạc với họ và thông báo tin xấu. Chính quyền cũng gọi điện cho Ian và Jacquie Clarke, hiện sống ở Anh và cho họ biết tin về cái chết của cô con gái Caroline.
Nạn nhân Joanne Walters
Bên cạnh việc xác định nhân thân của 2 thi thể, hồ sơ vụ giết người cũng được đẩy lên hàng đầu bởi mức độ nghiêm trọng cũng như tàn nhẫn. Joanne Walters bị đâm xuyên tim và phổi cũng có vết cắt sâu tới tận cột sống. Caroline Clarke cũng bị đâm và bắn nhiều phát súng vào đầu. Các thanh tra thuộc tổ trọng án, Bob Godden và Steve McClennan được phân công chỉ huy vụ điều tra. Sau khi tới hiện trường vụ án, với kinh nghiệm của mình, McClennan cho biết các thi thể được tìm thấy ở khu vực biệt lập, bởi vậy không loại trừ khả năng hung thủ biết rất rõ nơi này và sống ở gần đây.
Đây mới chỉ là "mở màn" cho hàng loạt cái chết đau thương khác. Mời các bạn đón đọc Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 2) vào 10h30 Chủ nhật ngày 10/05/2009 trong mục Vụ án nổi tiếng.
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 2)
Có tới 10 vết đạn được bắn vào đầu nhưng chỉ tìm được 4 đầu đạn ở bên trong. Cả 4 đều là loại 22mm. Phía trước mặt, quai hàm bị vỡ, có thể là do tác động khi bị bắn. Caroline chỉ bị chém một nhát phía sau lưng và vết thương cũng giống như nạn nhân đầu tiên. Đó chưa phải là tất cả sự tàn bạo mà nạn nhân phải hứng chịu.
Các thanh tra xem xét hiện trường hàng giờ liền và cũng yêu cầu chụp hình từng chi tiết xung quanh đó. Thi thể của Joanne Walter vẫn còn đeo trang sức ở cả 2 tay và cô mặc một chiếc quần jean xanh, đi giày màu đen. Lạ một điều là chiếc khoá quần đã bị mở ra nhưng cái khuy trên cùng vẫn được đóng chặt. Cách cái xác của Caroline Clarke chừng 4 mét, 6 mẩu đuôi xì gà cùng loại được tìm thấy. Điều này chứng tỏ đã có người ở lại hiện trường một khoảng thời gian tương đối lâu.
Cách đó không xa, một viên đạn cỡ 22mm được tìm thấy bên cạnh một mảnh nhựa màu xanh lá cây có kích thước lớn hơn đồng xu. Các chuyên gia về súng cũng sử dụng máy dò tìm kim loại trong khi kiểm tra hiện trường và tìm được 9 vỏ đạn khác cách xác của Caroline hơn 3 mét. Ngoài ra, trong đầu thiếu nữ xấu số này cũng tìm được 3 đầu đạn. Các điều tra viên thuộc đội súng tự tin khẳng định với những gì tìm được tại hiện trường, họ có thể sẽ biết chúng được bắn ra từ khẩu súng nào. Ngoài ra, một vài điều lạ cũng được tìm thấy ở sâu trong rừng.
Trong 5 ngày sau đó, 40 cảnh sát được huy động tìm kiếm ở phạm vị rộng 152 mét và sâu một dặm rưỡi nhưng không tìm thấy thêm được thi thể nào hay những vật dụng cá nhân của 2 cô gái. Sau khi tìm kiếm, cảnh sát thông báo với giới truyền thông rằng gần như chắc chắn không còn thi thể thứ 3 ở trong rừng. Đó là thông báo chứng tỏ rằng sở cảnh sát New South Wales đang rất lúng túng trong vụ việc này.
Khám nghiệm tử thi
Bác sĩ Peter Bradhurst, pháp y được chỉ định tiến hành khám nghiệm tử thi, một công việc không hề dễ dàng khi xác chết đã phân huỷ. Tử thi được đưa ra khỏi rừng và chuyển về nhà xác ở Glebe, ngoại ô Sydney. Ban đầu, ông tiến hành cân sau đó chụp x-quang cơ thể của Joanne để tìm xem có đầu đạn hay mảnh kim loại nào ở trong người không. Xác của Caroline cũng được khám nghiệm như vậy nhưng công việc khó khăn hơn nhiều bởi các bộ phận bị phân huỷ rộng hơn Joanne. Họ phải bọc xác cô gái lại mới có thể tiến hành chụp x-quang và 4 đầu đạn được tìm thấy chứ không phải 3 như phán đoán ban đầu.
Kế đó, bác sĩ Bradhurst mới bắt đầu kiểm tra phía bên ngoài cơ thể để xác định những chứng cớ giúp cảnh sát điều tra. Trên áo và tay Joanne có một vài sợi tóc đen. Một miếng vải dùng để bịt miệng cô gái được lấy ra và trong cổ họng cũng phát hiện miếng vải khác, khiến người ta đưa ra giả thuyết nạn nhân bị chết ngạt. Ngoài ra, không có dấu hiệu nào cho thấy Joanne đã bị cưỡng bức trước khi chết, tuy nhiên, cơ thể đang ở giai đoạn phân huỷ nên chưa thể khẳng định chắc chắn được điều này. Bởi vậy, cuộc phẫu thuật âm đạo được tiến hành vì tinh trùng vẫn có thể nằm trong cơ thể vài tuần, thậm chí vài tháng. Joanne bị đâm 3 nhát vào ngực phải, 1 vào ngực trái và 1 nhát ở cổ. Những chi tiết đó đủ cho mọi người thấy nạn nhân đã bị tấn công dã man đến thế nào. Không chỉ có vậy, 2 vết chém khác được tìm thấy bên hông trái, 5 vết khác ở bên phải và 2 vết kéo dài từ gáy cho tới dọc cột sống. Tổng cộng 14 vết thương được tìm thấy. Kết quả mổ tử thi cho biết 5 vết đâm ở trên đều xuyên từ đằng trước và chạm tới cột sống. Bác sĩ Bradhurst khi đó khẳng định đó là những đòn chí mạng cướp đi mạng sống của cô gái trẻ xấu số.
Một chi tiết nữa được chú ý: bàn tay và cánh tay của nạn nhân không hề có một vết chém nào, điều này bất bình thường bởi khi bị tấn công bằng dao, thông thường con người ta sẽ theo phản xạ giơ tay ra đỡ. Cộng thêm miếng vải bịt mồm và dải dây buộc cổ, rõ ràng hung thủ hoàn toàn kiểm soát tình hình trong khi ra tay sát hại. So sánh độ dài và rộng của những vết thương, bác sĩ pháp y cho hay đó có thể xuất phát từ một cái mác (vật dụng người ta dùng để đi săn) hay những con dao tương tự như vậy.
Còn 2 tay của Caroline Clarke thì bị trói vòng qua đầu và bị chùm bằng một miếng vải đỏ. Lỗ thủng do đạn gây ra được nhìn thấy dễ dàng. Bác sĩ pháp y nhẹ nhàng gỡ miếng vải ra và kiểm tra những vết thương được nhìn thấy bằng mắt thường. Có tới 10 vết đạn được bắn vào đầu nhưng chỉ tìm được 4 đầu đạn ở bên trong. Cả 4 đều là loại 22mm. Phía trước mặt, quai hàm bị vỡ, có thể là do tác động khi bị bắn. Caroline chỉ bị chém một nhát phía sau lưng và vết thương cũng giống như nạn nhân đầu tiên. Các đầu đạn được tìm thấy trong người cô gái được chuyển cho trung sĩ Gerard Dutton để đưa tới kiểm tra tại khu đạn đạo học. Anh ta tin rằng chúng hoàn toàn trùng khớp với những vỏ đạn được tìm thấy tại hiện trường và cùng được bắn ra từ một khẩu súng.
Theo kinh nghiệm của pháp y, các vết thương cho thấy nạn nhân bị bắn từ 3 hướng khác nhau, song cả 10 vết đạn đều rất gần nhau. Trung sĩ Dutton đưa ra giải thuyết hung thủ chỉ đứng một chỗ và bắn trong khi Caroline đang cố gắng chạy thoát.
Ở bên ngoài nhà xác, giáo sư John Hilton thuộc viện kiểm sát không tiết lộ cho báo chí về mức độ thương tích cũng như tính tàn bạo mà các nạn nhân phải hứng chịu.
Vài tuần sau khi phát hiện ra 2 nạn nhân, thanh tra Godden và McLennan vẫn tiến hành thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, những manh mối ít ỏi tìm thấy khiến họ không thể khoanh vùng đối tượng và trên thực tế, vụ án khi đó đã đi vào ngõ cụt. Song các điều tra viên quyết tâm không bỏ cuộc bởi dư luận đang rất quan tâm về vụ giết người dã man này. Trong quá trình tìm hướng đi cho vụ án, tiến sĩ Rod Molton, một bác sĩ khoa tâm thần với hơn 20 năm kinh nghiệm với những tội phạm giết người đã được hỏi để có sự tư vấn trong việc điều tra. Ông từng tham gia vào vụ truy lùng tên tội phạm giết người liên hoàn gây chấn động phương Bắc, John Wayne Glover, kẻ đã giết chết 6 phụ nữ lạ mặt cao tuổi vào năm 1989.
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 3)
Cảnh sát "khoanh vùng", khẳng định rừng sâu chính là địa điểm lý tưởng cho tên tội phạm hành động. Người dân nơi đây rất hoang mang, thậm chí còn không dám đặt chân vào rừng. Nhưng có một người... không thể hiểu tại sao lại dám đặt chân vào động quỷ. Và thế là...
Hồ sơ tiến sĩ Milton đưa cho cảnh sát hoàn toàn có ích ngoại trừ lứa tuổi. Ông cho hay hung thủ có thể chỉ là một thiếu niên bởi trong lịch sử điều tra tội phạm dạng này, hầu hết những kẻ giết người đều dưới 20 tuổi. Song đó chỉ là giả thiết xuất phát từ kinh nghiệm và sách vở.
Các thanh tra đưa Milton tới Belangalo theo yêu cầu của vị tiến sĩ. Giải thích về điều này, ông cho hay mặc dù mình được cung cấp đầy đủ thông tin và hình ảnh mà cảnh sát có, nhưng ông vẫn muốn tới hiện trường để có thể cảm thấy được cách mà hung thủ tấn công các nạn nhân. Milton xuống xe, tiến gần lại nơi 2 cái xác được tìm thấy. Sau khi bước đi chậm rãi xung quanh khu vực đó một vài lần, ông nhẹ nhàng ngồi xuống và suy nghĩ tại sao hung thủ chọn vị trí này. Tại sao hắn lại để các nạn nhân ở đây và động cơ là gì?
Suy nghĩ đầu tiên Milton để ý chính là hung thủ rất thân thuộc với địa hình nơi đây, ông biết những tên giết người rất hiếm khi ra tay ở những khu vực xa lạ. Tiếp tục đi giữa khu vực 2 nạn nhân chết, Milton hỏi cảnh sát chi tiết về vụ việc. Những thứ gì đã được tìm thấy và ở đâu? Ông suy nghĩ về sự khác nhau giữa 2 cái chết.
Caroline Clarke bị giết trong khi đang mặc quần áo rét. Với những chi tiết bị trói chùm qua đầu, rõ ràng hung thủ đã kiểm soát được cô gái. Nhiều khả năng, phát súng đầu tiên được bắn ra trong khi Caroline đang quỳ. Quần áo của cô không hề bị xộc xệch ngoại trừ chiếc áo lót chưa cài. Và ở thời điểm nạn nhân chết, trang phục của cô cũng không có dấu hiệu bị cởi bỏ. Bởi vậy, Milton khẳng định nạn nhân không bị giết vì động cơ tình dục. Và ông cũng tin rằng vết chém cuối cùng phía sau lưng như thể hung thủ khẳng định mình hoàn toàn kiểm soát nạn nhân, hay cũng có thể đó là việc làm của kẻ tòng phạm. Với những nhận xét của tiến sĩ Milton, cảnh sát bắt đầu tính đến chuyện có hơn một tên tham gia vào vụ giết người.
Với cách lập luận này, thi thể của Joanne Walter là minh chứng hùng hồn cho sự điên loạn của tên tội phạm. Không giống như Caroline, quần áo của Joanne lộn xộn bởi vậy không loại trừ khả năng cô gái bị cưỡng bức. Áo sơ mi và áo lót đã bị đẩy lên nhưng cái chốt phía sau lại không được cởi ra. Khoá quần bị kéo xuống nhưng cúc vẫn còn nguyên. Không có chiếc quần lót nào được tìm thấy trên người nạn nhân hay ở khu vực xung quanh. Tiến sĩ Milton liền đưa ra lập luận rằng do giày vẫn còn trên chân nạn nhân nên chiếc quần jean vẫn chưa thể cởi bỏ. Cũng có thể hung thủ chỉ làm vậy để thoả mãn khát khao tình dục trong hắn trước hoặc sau khi nạn nhân chết. Chiếc quần lót có thể đã bị cắt và lấy đi như thể một chiến lợi phẩm.
Khi cảnh sát hỏi về nguyên nhân cơ sở dẫn đến những hành động này, tiến sĩ Milton chỉ trả lời: "Sự thích thú". Ông tin rằng nếu có 2 kẻ sát nhân cùng liên quan, một tên lớn hơn sẽ chi phối mọi chuyện cho dù mức độ tàn bạo là như nhau. Không loại trừ khả năng đó là anh em và chúng đều có những sở thích về súng ống, săn bắn và tư tưởng lệch lạc về tình dục. Cuối cùng tại văn phòng cảnh sát ở Sydney, tiến sĩ Milton đưa ra hướng điều tra hung thủ cho các cơ quan chức năng:
- Sống ở ngoại ô thành phố trong một vùng nông thôn
- Được thuê làm những công việc chân tay
- Có liên quan tới mối quan hệ nào đó không ổn định hoặc không thoả mãn
- Có tiền sử về những quan hệ đồng giới
- Có tiền sử về việc chống đối chính quyền
- Tuổi chỉ khoảng trên dưới 30.
Cuối năm đó, đội ngũ điều tra đã thu hẹp được phạm vi khoanh vùng tội phạm. Tuy nhiên, họ cũng biết rằng, cần có chút gì đó may mắn để làm sáng tỏ những điều bí mật trong vụ giết người ở Belangalo.
Bruce Pryor nhiều năm nay có thói quen vào rừng Belangalo kiếm củi. Anh ta biết rất nhiều lối mòn trong khu rừng đó song không phải khu vực nào cũng thử đặt chân đến. Là một người dân địa phương, Bruce cũng nghe nhiều đến vụ giết người man rợ và luôn cảm thông cho những gia đình có nạn nhân xấu số. Anh không tài nào bỏ được suy nghĩ đó ra khỏi đầu và trong những chuyến đi rừng sau đó, Bruce luôn tự mình đi tới những khu vực mình chưa bao giờ đến mà không hiểu lý do tại sao. Kể từ khi cảnh sát cho triệu tập dân cư quanh vùng để thông báo về cái chết của 2 vị khách trẻ tuổi ở Toà thị chính Bowral và cho biết hung thủ nhiều khả năng biết rất rõ khu rừng này. Nhiều ngày sau đó, suy nghĩ về những xác chết trong rừng luôn hiện hữu trong công việc cũng như giấc ngủ.
Một buổi sáng, Bruce thức dậy và tới Belangalo, việc làm mà anh không hề lên kế hoạch. Bruce lái chiếc xe tải tới đó. Nhưng không đi hết con đường lớn như thường lệ, anh rẽ xuống một lối nhỏ có tên gọi "Morice Fire Trail". Khi đến một ngã 3, Bruce biết rõ lỗi đi bên tay phải sẽ dẫn tới con đường được gọi "Cearly's Exit Fire Trail", còn anh chưa bao giờ rẽ trái, hướng đi dẫn tới một khu vực chỉ toàn đá.
Bruce ra khỏi xe rồi thơ thẩn đi loanh quanh đó mà vẫn không thể hiểu nổi tại sao mình lại có mặt ở đây. Khi cách chiếc xe khoảng 45 mét, anh ta dừng lại và nhìn chằm chằm xuống đất, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Bruce giẫm lên một cái xương lớn, trông như của người. Anh ta sốc và cố gắng động viên mình có thể đó chỉ là của kangaroo. Ngập ngừng một lúc, anh nhấc cái xương lên và ướm thử vào đùi mình rồi nhận ra chúng dài gần như nhau. Nhưng cũng có thể đó chỉ là xương động vật. Bruce đặt nó xuống rồi đi tiếp về phía trước. Người đàn ông này đi từ từ, ngó nghiêng xung quanh với hy vọng sẽ tìm được phần còn lại của bộ xương kangaroo. Khi tới đỉnh đồi, anh quyết định quay trở lại chiếc xe ô tô nhưng lại đi hơi chếch sang hướng khác. Và rồi một cảnh tượng hãi hùng đã diễn ra ngay trước mắt khiến Bruce dựng tóc gáy. Chưa bao giờ trong đời anh ta lại thấy một cái đầu lâu ở ngay trước mắt mình. Nó nhỏ, có thể là của đứa trẻ mới lớn hoặc một người phụ nữ. Một phần của hàm dưới đã bị vỡ và nhìn kĩ hơn, anh ta thấy một vết cắt nhỏ ở trên trán. Trông giống như một vết dao cắt.
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 4)
Một vết đâm bị xuyên từ ngực đến đốt sống thứ 3. Cũng giống như những nạn nhân trước đó, đòn chí mạng đó sẽ khiến đối tượng tê liệt và không thể chống cự. Đương nhiên, để làm được đòi hỏi hung thủ phải có sức mạnh rất lớn khi ra đòn. Đây không phải nạn nhân cuối cùng bị giết tàn bạo như thế này.
Quá hoảng hốt trước những việc đang diễn ra, Bruce không biết mình nên làm gì tiếp theo. Lo sợ không có ai tin mình, anh ta mang chiếc đầu lâu quay trở lại xe, bọc trong một túi vải rồi đi ra khỏi rừng. Khi ra gần tới cổng, Bruce nhìn thấy một chiếc xe đỗ ngay cạnh chiếc lều nhỏ, thứ thường được các thành viên CLB chạy định hướng sử dụng. Bruce tới lều và nói chuyện với John Springett, một chủ thầu người địa phương.
"Anh có điện thoại ở đây chứ?", Bruce hỏi.
"Có, nhưng trên xe kia. Có chuyện gì vậy?", người đàn ông kia trả lời.
Bruce liền kể lại câu chuyện mình đã gặp. "Tốt hơn hết chúng ta nên báo với cảnh sát", nói xong, John ra lấy điện thoại đưa Bruce gọi cho thám tử khu vực Bowral nhưng không ai nghe máy. Rồi anh ta thử gọi đến đồn cảnh sát: "Tôi tìm thấy một phần bộ xương người ở rừng Belangalo".
Nửa tiếng sau, 2 nhân viên cảnh sát tuần tra gần đó đã tới chiếc lều.
"Các anh có gì cho chúng tôi vậy?", một viên cảnh sát hỏi.
"Trong xe ô tô đó", Bruce trả lời rồi đưa họ đến chiếc xe, mở cái bọc mình đã tìm thấy. Dường như tới thời điểm này, cảnh sát mới tin vào những gì người đàn ông kia nói trong điện thoại và lập tức họ cũng mở bộ đàm gọi cho 2 thám tử Peter Lovell và Steven Murphy tới giúp đỡ. Sau khi có mặt, 2 người này lệnh cho Bruce chỉ cho họ nơi anh ta tìm thấy cái đầu lâu.
Tới hiện trường, thám tử Murphy đi sâu vào rừng thêm 36 mét rồi dừng lại, nhìn xuống. Anh ta quay trở ra nơi người đồng sự của mình đang đứng nói chuyện với Bruce Pryor về cái đầu lâu: "Có một đôi giày ở bụi cây đằng kia". Nói xong, cả 2 đều nhìn Bruce với thái độ thận trọng và thắc mắc tại sao anh ta lại có mặt ở khu vực này. Một vài cuộc gọi đã được thực hiện và cuộc truy tìm lại bắt đầu.
Thông tin phát hiện thêm được thi thể trong rừng được lan đi rất nhanh. Trực thăng của vài hãng thông tấn bay lượn lờ bên trên khu vực hiện trường. Các phóng viên và quay phim cũng tới để cố gắng thu thập tin tức. "Liệu đó có phải cặp đôi người Đức hay họ tới từ Victoria?", các phóng viên dồn dập đặt câu hỏi cho các thám tử song không nhận được câu trả lời nào từ phía nhà chức trách. Đơn giản là bởi chưa ai có thể đưa ra câu trả lời chính xác hay chí ít là tất cả vẫn đang rối bời với chính những thắc mắc của mình: Liệu có sớm quá khi quyết định dừng cuộc tìm kiếm trước đây? Phải chăng họ đã tìm sai địa điểm? Còn bao nhiêu người chết nữa ở trong khu rừng này?
Ở cuộc tìm kiếm sau đó, một chiếc áo đen đã được tìm thấy gần một trong những khu vực có xác chết. Văn phòng chuyên nhận những thông tin báo về người mất tích ở Sydney đã tra lại các tài liệu và cho rằng có thể thi thể đó là của James Gibson, một chàng trai trẻ tới từ Victoria, lần cuối cùng được nhìn thấy khi bắt xe tới phía Nam khu rừng với cô bạn gái Deborah Everist. Họ bị mất tích từ năm 1989.
Nạn nhân James Gibson
Không lâu sau, cảnh sát cũng nghiêng về giả thiết Gibson là nạn nhân bởi cái ba lô và máy quay của cậu ta đã được tim thấy bên cạnh đường ở phía Bắc Belangalo cách đó 78 dặm, trong một khu rừng nhỏ khác có tên Galston Gorge. Nhưng câu hỏi lại được đặt ra. Nếu đó là Gibson thì tại sao đồ đạc của anh ta lại nằm ở một khu khác của Sydney, nơi có nhiều người qua lại. Phải chăng hung thủ cố tình đánh lệch hướng điều tra của cảnh sát về phía Nam khu rừng. Ở hiện trường vụ án, các nhà chức trách làm việc tới nửa đêm để hoàn tất những điều tra sơ bộ và cắt cử một đội ở lại sau khi ra về. Những ngày kế tiếp đó, hai cán bộ khoa học Grosse và Goldie quay trở lại hiện trường với bác sĩ Bradhurst và nha sĩ của toà án Chris Griffiths.
Cả 2 xác chết chỉ còn trơ xương nhưng vẫn khá hoàn thiện. Một vài chiếc xương nằm rải rác xung quanh đó, có thể do động vật tha đi. Bên cạnh thi thể đầu tiên, Grosse tìm thấy một sợi dây chuyền bạc, một chiếc vòng tay nạm ngọc và một cây thánh giá với hình chua Giê Su trên đó. So sánh kích thước của những vật được tìm thấy, đó có thể là của một người phụ nữ. Cái xác thứ 2 to hơn và vẫn còn nguyên 2 chiếc giầy ở trên chân. Bác sĩ Griffiths kiểm tra bộ xương, làm sạch những vết bẩn trên đó, xem xét hàm răng để sớm gửi kết luận cuối cùng cho cảnh sát. Qua nghiên cứu, họ chắc chắn thi thể đó là của James Gibson, còn cái xác kia là Deborah Everist. Sau đó, cả 2 bộ xương đều được mang về nhà xác Sydney để tiến hành xây dựng lại và kiểm tra chi tiết. Cùng với những thi thể, một vài chiếc túi đựng một vài thứ thối rữa ở khu vực đó cũng được đem về bởi họ cho rằng đấy là rau, quần áo hay cả hai thứ đó. Một vật dụng trên xác chết của James Gibson dễ dàng được nhận ra, đó là cái phéc mơ tuya từ chiếc quần bò. Cái khoá được mở ra, trong khi khuy quần vẫn còn đóng chặt.
Hôm sau, bác sĩ Bradhurst bắt đầu khôi phục lại bộ xương theo nguyên tắc giải phẫu cơ thể. Những chiếc xương được đưa vào một dung dịch đặc biệt để làm sạch và những vết thương sẽ dễ dàng được phát hiện ra. Ông bắt đầu với James Gibson. Ngoài xương tay, chân và một vài đồ trang sức, những chi tiết quan trọng đã được phát hiện, đặc biệt là những vết bị đâm chém bắt đầu xuất hiện. Một vết đâm bị xuyên từ ngực đến đốt sống thứ 3. Cũng giống như những nạn nhân trước đó, đòn chí mạng đó sẽ khiến đối tượng tê liệt và không thể chống cự. Đương nhiên, để làm được việc này đòi hỏi hung thủ phải có sức mạnh rất lớn khi ra đòn. Một vết đâm khác xuyên thủng xương ức. Ngoài ra, phần ngực trước và lưng cũng có khá nhiều thương tích. Người ta đếm được có tổng cộng 7 vết chém trên bộ xương. Rất có thể vẫn còn nhiều cú đâm khác xuyên vào người mà không chạm vào xương nên không thể phát hiện ra. Kích thước và hình dáng của những vết thương cũng tương tự như của Joanne và Caroline.
Bộ xương nhỏ thứ 2 ở trạng thái tồi tệ hơn. Một phần xương hàm đã vỡ vụn, một vài mảnh được tìm thấy ngay cạnh thi thể. Trên chiếc đầu lâu tìm thấy 4 vết chém hiện rõ. Hai vết ở cạnh đầu nhưng không đủ sâu để lấy đi mạng sống của nạn nhân.
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 5)
Chánh thanh tra Bob May phân chia khu vực chính của khu rừng trên bản đồ thành những ô vuông, mỗi khoanh tương đương với 200 mét vuông. 40 nhân viên được cử đi kiểm từng khu như vậy một cách kỹ càng. Từng mét rừng bị xới tung lên, không bỏ sót bất cứ chi tiết nào. Nhưng thay vì tìm ra manh mối, cảnh sát lại phát hiện ra nạn nhân mới.
Trong khi Bradhurst tiếp tục công việc của mình, tại hiện trường vụ án, các nhân viên điều tra tìm thêm được một vài manh mối mới. Cách khoảng 9 mét từ chỗ nạn nhân, họ tìm thấy chiếc áo lót nữ màu đen có một vết đâm xuyên qua ngực. Sau đó, một chiếc quần bó của phụ nữ cũng được tìm thấy ở dưới đám lá ngay gần xác chết của người con gái. Đến cuối ngày hôm đó, sau những kiểm tra về bộ xương, người ta khẳng định đó chính là Deborah Everist.
Sĩ quan Clive Small được thám tử Tony Lauer cử ra chỉ đạo cuộc điều tra. Công việc đầu tiên của ông là tập hợp tất cả những người từng tham gia điều tra vụ án này thành một khối thống nhất. Với kinh nghiệm và sự cống hiến của mình trước đây, Clive được hết thảy mọi người tôn trọng. Ông có khả năng phân tích rất tốt dựa trên những chi tiết dù là nhỏ nhất hay những điểm mọi người cho rằng chẳng hề quan trọng, viên sĩ quan này cũng có thể dùng làm bằng chứng. Cuộc điều tra được đặt cho cái tên "Task Force Air". Song đương nhiên, Clive Small không thể một mình bao quát tất cả, bởi vậy ông chọn thanh tra Rod Lynch làm trợ lý cho mình. Công việc của Lynch là phối hợp và điều hành quản lý ở trụ sở chính của vụ điều tra tại Sydney, trong khi đó Small trực tiếp giám sát tìm kiếm chứng cớ ở gần khu rừng thuộc Bowral. Lynch phải đối mặt với thử thách gần như từ đầu. Toà nhà được sử dụng làm trụ sở cuộc điều tra là một nhà máy cũ, nơi từng được dùng làm văn phòng cho tổ chức điều tra tội phạm của Sydney (C.I.B).
Sau khi tìm được mặt bằng rộng lớn hơn, C.I.B bỏ lại nơi này trong tình trạng nghèo nàn, không điện thoại, điều hoà, máy tính, đồ đạc, thậm chí đường nước cũng tậm tịt. Giải quyết xong mọi vấn đề cơ bản như vậy, ông mới bắt đầu chọn các thám tử làm công việc phân tích hàng ngàn những chi tiết, thông tin đã và sắp nhận được. Kế đến, một đường dây nóng được thiết lập nhằm thu thập những điều nhỏ nhặt nhất mà người dân trong vùng có thể biết. Với kinh nghiệm lâu năm trong nghề, Lynch biết việc này sẽ vất vả và khó khăn, tuy nhiên, đây là giai đoạn quan trọng nhất để phân tích những "bằng chứng thực tế", giúp đỡ rất nhiều cho quá trình phá án.
Trong khi đó, Small không tiến hành ngay các cuộc khảo sát trong rừng mà dành vài ngày để nghiên cứu bản đồ và địa hình của khu vực này để lên kế hoạch mở rộng khu vực điều tra. Chánh thanh tra Bob May tới từ đơn vị hỗ trợ kĩ thuật được chọn làm phụ trách đội tìm kiếm. Ông phân chia khu vực chính của khu rừng trên bản đồ thành những ô vuông, mỗi khoanh tương đương với 200 mét vuông. 40 nhân viên được cử đi kiểm từng khu như vậy một cách kỹ càng. Từng mét rừng bị xới tung lên, không bỏ sót bất cứ chi tiết nào. Tất cả những gì đáng quan tâm được tìm thấy, họ sẽ phải hét lớn: "Thấy" và cán bộ khoa học sẽ ngay lập tức tới điểm nóng, chụp ảnh, đánh dấu trên bản đồ và những chứng cứ đó vào túi mang về nghiên cứu.
Cuộc tìm kiếm nâng cao hơn khi một đội chó nghiệp vụ được huấn luyện đặc biệt được đưa tới để phát hiện những gì chứa phốt pho và nitơ ở trong đất bởi những thi thể thối rữa sẽ để lại những hợp chất này thời gian rất lâu sau khi chết. Cách thức này đã được người ta sử dụng để đánh hơi những ngôi mộ trong cuộc nội chiến ở Mỹ. Song song với cuộc tìm kiếm trong rừng, tại trụ sở bên pháp chứng, đầu đạn và vỏ đạn được tìm thấy ở hiện trường đã được xác định đều được bắn từ một khẩu súng trường tự động. Chi tiết này có thể sẽ giúp ít nhiều cho việc khoanh vùng kẻ giết người. Ngay lập tức, cảnh sát đã xem lại sổ sách, liệt kê ra hơn 50.000 khẩu súng trường được nhập khẩu tới Australia từ năm 1964 đến năm 1982. Các nhà sản xuất đã cung cấp một bản danh sách những người phân phối tại Australia. Tuy nhiên, theo luật pháp nước này, các cửa hàng súng chỉ lưu lại giấy tờ liên quan lúc bấy giờ, còn sau này người mua đi đâu, làm gì, không ai hay biết. Điều này chẳng khác nào mò kim đáy bể. Thế nhưng, một tia hy vọng dù là nhỏ nhất cũng không thể bỏ qua. Một danh sách tất cả những vũ khí của cư dân quanh khu rừng sẽ được thu thập lại để bắn thử nhằm tìm kiếm khấu súng trùng khớp với vật chứng thu được. Kế hoạch này bị rò rỉ đến tai báo chí. Đương nhiên các điều tra viên hết sức tức giận bởi họ tin rằng hung thủ nếu nghe được thông tin này sẽ phi tang khẩu súng gây án.
Mọi thành viên thuộc câu lạc bộ súng địa phương đều được liên hệ và vũ khí của họ đều được đem đi kiểm tra. Một thành viên nói với các thám tử rằng bạn của ông đã chứng kiến việc đáng ngờ trong khu rừng cách đây vài năm. Cảnh sát đã tìm đến người đàn ông đó để rồi nhận được sự miêu tả rất chính xác về 2 chiếc xe ô tô. Một chiếc Ford Sedan và chiếc khác 4 bánh đã xuất hiện tại một lối mòn trong khu rừng. Ông kể rằng khi chiếc đầu tiên vượt qua mình, ông nhìn thấy ngoài tên lái xe, còn 2 gã khác ngồi phía sau. Giữa họ là một cô gái bị nhét miếng vải vào mồm. Trong chiếc thứ 2 có 2 gã, một tên lái và người đàn ông còn lại ngồi cạnh một cô gái đang bị trói. Người đàn ông đó miêu tả chi tiết cho cảnh sát tất cả mọi thứ từ quần áo, màu sắc và ước chừng độ tuổi. Ông nói rằng ở thời điểm đó, ông đã ghi lại biển số xe của chiếc thứ 2 nhưng đã làm mất nó. Cảnh sát đã ghi lại tất cả lời khai và đưa ông đọc lại, nếu đồng ý hãy kí tên vào. Và ông đã kí: "Alex Milat".
Hai mươi sáu ngày đã trôi qua kể từ khi thi thể của Deborah Everist được tìm thấy trong rừng, những người tìm kiếm đã thấm mệt. Họ rà soát hầu hết mọi khu vực được đánh dấu và bắt đầu bước đến khu vực cuối cùng cách nơi tìm thấy xác cuối cùng hơn 4 kilômét về hướng Đông. Thời điểm bấy giờ, cảnh sát đã chuẩn bị công bố với báo chí rằng không có phát hiện thêm nào ở rừng Belangalo. Dẫn đầu đội tìm kiếm, hạ sĩ Jeff Trichter, cùng một nhóm rà soát ở khu đất trống nhỏ. Một chiếc quần bò màu hồng của phụ nữ, một sợi dây thừng dài màu xanh dương và vàng được nhìn thấy.
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 6)
Thêm vào đó, góc độ của vết cắt cho thấy, nạn nhân khi đó có thể đang quỳ, đầu cúi về phía trước khi bị chém. Mọi dấu hiệu như thể đã diễn ra một nghi lễ chặt đầu như những vụ xử tử hình hồi xa xưa.
Bên cạnh quần áo của nạn nhân là 22 vỏ đạn rỗng. Nhưng những vật dụng này không có gì lạ bởi trong quá trình tìm kiếm gần 1 tháng qua, họ đã tìm được khá nhiều thứ tương tự nhưng dường như chẳng liên quan đến vụ án. Đi sâu hơn vào bãi đất trống, họ tìm thêm được một số vật phẩm. Một chiếc lon rỗng bị bắn xuyên thủng, một sợi dây thép dài, một hộp vỏ đạn và vài cái chai rỗng. Cuối bãi đất trống, hạ sĩ Trichter loé lên một suy nghĩ: đây là nơi tập bắn.
Biết rằng đây có thể sẽ là manh mối quan trọng, Trichter cho đội của ông nghỉ trưa và dành thời gian còn lại trong ngày để rà soát thật kĩ khu vực đó. Chẳng lâu sau khi họ quay trở lại công việc, một người lại hét lớn: "tìm thấy". Trichter rảo bước tới một khoảng đất toàn đá lởm chởm nổi lên, nơi một viên cảnh sát có tên Rullis đang đứng đó chỉ về vật gì đó, một chiếc xương, giống như của con người. Cách đó chừng 3 mét, họ phát hiện thêm được 1 chiếc đầu lâu. Lập tức vị trí được đánh dấu lại, hiện trường được dựng lên và các đội khác cũng được triệu tập đến bằng radio.
Nhóm tìm kiếm mở rộng khu vực rà soát xung quanh hiện trường, tuy nhiên, họ chẳng tìm thêm được gì ngoài một mảnh xương khá to được gói trong một tấm da thuộc màu nâu. John Goldie, người khám xét hiện trường cho hay đấy là của một người phụ nữ. Một dải băng buộc đầu màu tím được tìm thấy ở trên chiếc đầu lâu. Cùng với quần áo được tìm thấy gần thi thể, sau khi so sánh với những báo cáo về người mất tích, các nhà chức trách khẳng định bộ xương đó chính là cô gái người Đức, Simone Schmidl. Trong bản báo cáo người bị mất tích, một chiếc ba lô lớn và những đồ dùng để cắm trại đã không được tìm thấy. Bác sĩ Chris Griffiths, pháp y thuộc bên toà án đã được triệu tập đến hiện trường. Sau khi kiểm tra tổng thể, ông cũng khẳng định đó chính là Simone.
Cô gái trẻ thích phiêu lưu mạo hiểm được gia đình và người thân gọi với cái tên âu yếm "Simi" xuất hiện lần cuối vào 20/01/1991, tại Liverpool, phía Tây Sydney, chuẩn bị có chuyến đi bộ đường dài xuống phía Nam. Chính sở thích chinh phục thử thách đã khiến cô kết thúc cuộc đời của mình trong khu rừng cách mái ấm gia đình tới hàng ngàn cây số. Ở Đức, bố mẹ Simone đã nghe thông tin đau buồn này trên sóng radio. Họ đã liên hệ với cảnh sát Đức để xác nhận lại mọi chuyện. Thi thể của Simone được chuyển về nhà và chôn cất 2 tuần sau đó.
Nạn nhân Simone Schmidl
Về cơ bản, cảnh sát Australia vẫn tin trong rừng còn thi thể chưa được tìm thấy bởi vẫn còn tới 2 khách du lịch người Đức nữa mất tích. Còn xác Simone được tìm thấy với quần áo xộc xệch, áo lót đẩy cao lên phía cổ, chiếc quần soóc màu xanh bị kéo tụt xuống. Đồ trang sức và hai đồng xu được tìm thấy ngay bên cạnh thi thể. Chiếc quần jean màu hồng không phải của Simone nhưng khá trùng hợp với sự miêu tả của một thiếu nữ người Đức khác, Anja Habschied. Cô gái và bạn trai Gabor Neugebauer bị mất tích kể từ tháng 12/1991.
Hai ngày sau, cuộc tìm kiếm được tiếp tục, còn bộ xương được chuyển về Sydney để tiến hành kiểm tra. Người trực tiếp làm việc không ai khác là bác sĩ Bradhurst và ông tin hung thủ đều là một người. Công đoạn kiểm tra cũng giống như những nạn nhân khác. Không có vết thương nào ở phần hộp sọ. Lưng và ngực lại có khá nhiều vết chém. Hung thủ ra tay tàn nhẫn như những vụ trước. Chẳng lâu sau khi hoàn thành công việc của mình, ông lại nhận được thông tin báo lại từ khu rừng: "Chúng tôi đã tìm thêm được 2 xác chết nữa". Bác sĩ Bradhurst và đồng nghiệp Griffiths được đưa ngay tới hiện trường bằng máy bay trực thăng của cảnh sát. Thi thể được cho là của Gabor nằm dưới một bụi cây và bị một thân cây lớn đè lên. Phải nhờ tới một vài viên cảnh sát to khoẻ mới có thể nhấc nó ra. Với những tài liệu có trong tay, bác sĩ Griffiths xác nhận đó chính là thi thể của Gabor
Bạn trai Anja Habschied, Gabor Neugebauer
Bộ xương khá hoàn thiện với đầy đủ quần áo, bao gồm cả chiếc quần jean với khoá và khuy đã được mở ra. Ở xác chết thứ hai, các pháp y cho biết đó không phải của Anja, một người phụ nữ trẻ. Trên người thi thể này chỉ còn độc chiếc áo lót đã bị cởi nút và kéo cao lên vai, còn quần áo được tìm thấy gần đó. Chiếc quần jean màu hồng lại được phát hiện ra cách đó khá xa. Một điểm nữa khiến người ta quan tâm tới thi thể người phụ nữ này, đó là đầu và 2 đốt sống đầu tiên đã bị mất. Ngoài ra không có vết chém nào nhìn thấy bằng mắt thường. Kiểm tra kĩ càng hơn, bác sĩ Bradhurst khẳng định phần đầu bị chém lìa khỏi cơ thể bằng một công cụ rất sắc bén, có thể đó là thanh gươm. Thêm vào đó, góc độ của vết cắt cho thấy, nạn nhân khi đó có thể đang quỳ, đầu cúi về phía trước khi bị chém. Mọi dấu hiệu như thể đã diễn ra một nghi lễ chặt đầu như những vụ tử hình hồi xa xưa.
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 7)
Một người đàn ông tới Úc ngắm nhìn phong cảnh hùng vĩ. Khi đi nhờ của người khách lạ, anh phát hiện ra điều gì đó không ổn và tìm cách chạy trốn. Câu nói kinh khủng nhất lúc đó chính là "Dừng lại không tao bắn".
Người chỉ đạo vụ điều tra, thám tử Clive Small sau đó đã có buổi trả lời phỏng vấn nhỏ ở ngay gần hiện trường vụ án. Ông trả lời báo chí rằng đã tìm thêm được các thi thể mới và cảnh sát đang tập hợp mọi dữ liệu để đi tìm tên giết người liên hoàn.
Quay trở lại nhà xác, bác sĩ Bradhurst kiểm tra thi thể Gabor một cách tổng quát. Mồm nạn nhân được nhét 2 vật gì đó. Là người trực tiếp tiến hành mổ xác tất cả nạn nhân từ đầu tới giờ nên ông nhớ mọi chi tiết dù là nhỏ nhất. Vật nhét vào miệng Gabor có nhiều điểm tương đồng giống như của Joanne Walter. Xương cuống họng có dấu hiệu nứt, nhiều khả năng hung thủ đã bóp cổ nạn nhân. Ngoài bộ hàm bị vỡ, trên sọ có tới 6 vết đạn. Chuyên gia đạn đạo học Dutton cho biết có tới 4 viên xuyên qua đầu.
Ngoài ra, với phân tích của mình, ông đã lập giả thuyết về góc độ ra đạn khi bác sĩ Bradhurst khẳng định 3 viên trúng vào góc trái, còn đâu là bên phải và từ dưới lên. Nhưng thực tế, với kinh nghiệm của mình, Dutton cho hay Gabor dính tới 7 viên đạn vào đầu chứ không phải 6 như với báo cáo ban đầu. Tuy nhiên, cảnh sát không tìm thấy bất cứ vỏ đạn nào cho dù đã bới tung khu vực tìm thấy nạn nhân. Giả thiết Gabor không bị giết ở đó đã được đặt ra. Nhưng cách đó không xa, cảnh sát đã tìm thấy một vài đầu đạn và vỏ đạn rỗng. Tổng cộng có tới 9 viên đạn được bắn ra và tất cả đều trùng khớp với những gì tìm thấy ở nơi Walter bị giết. Với những gì thu thập được, cảnh sát khẳng định Joane Walter và Gabor bị bắn từ một khẩu súng. Bác sĩ Bradhurst cũng tiến hành kiểm tra phần xương của Anja nhưng không tìm được vết thương nào.
Thực tế cho thấy, 7 nạn nhân đều chết với những cách thức rất khác nhau. Người bị đánh, bị bóp cổ, bị bắt, bị chém và chặt đầu; hầu hết đều có những dấu hiệu tình dục ở cả nam lẫn nữ. Với những điểm này, rõ ràng hung thủ đã giành cho mỗi nạn nhân khá nhiều thời gian chứ không hề tiến hành theo kiểu "hạ gục nhanh, tiêu diệt gọn". Ngoài tính hung bạo, hung thủ thực chất là một kẻ rất có tính toán và tự tin.
Paul Onions tới Australia chỉ vì mong muốn được tận mắt ngắm nhìn đất nước mà mình được nghe kể qua nhiều sách báo. Anh ta nghỉ tại một nhà nghỉ rẻ tiền dành cho những khách du lịch tự túc tại Kings Cross, Sydney. Phần lớn thời gian ở đây, Paul đều sử dụng để đi ngắm cảnh và tiệc tùng với bạn bè. Với cuộc sống như vậy, số tiền mang theo mình dần dần chẳng còn bao nhiêu và anh quyết định đi tìm một công việc làm thêm. Visa của Paul có thời hạn 6 tháng nhưng tiền của anh ta chắc chắn không thể đủ sống tới thời gian đó. Paul đi hỏi khắp nơi trong thành phố nhưng kiếm việc thực sự không dễ dàng chút nào. Một người bạn của anh ta giới thiệu cho việc thu gom hoa quả tại quận Riverina, cách đó vài trăm dặm về hướng Nam.
Anh quyết định dùng số tiền còn lại để bắt tàu tới Liverpool, nằm ở phía Tây Nam Sydney, sau đó đi nhờ xe tới đó. Ngày 25/01/1990, Paul tới Liverpool chờ xe để vẫy. Hành lý Paul mang theo chỉ là một chiếc Sony Walkman, một chiếc máy quay và một vài vật dụng cá nhân khác. Anh ta đi bộ về hướng Nam trong khi vẫn cố gắng bắt xe. Dừng lại trước một trung tâm mua sắm nhỏ, Paul mua đồ uống và bắt đầu nghĩ tới việc quay về khách sạn. Nhưng rồi một người đàn ông khá vạm vỡ, giọng đặc người dân Australia đã lại gần và hỏi: "Cậu muốn đi nhờ xe chứ?".
Paul liền nói ngay nơi mình muốn đến và đồng ý lời mời một cách sung sướng. Hai người đàn ông leo lên một chiếc xe 4 chỗ thẳng tiến về hướng Nam. Điều đầu tiên khiến Paul ấn tượng với người lạ mặt kia là thân hình đô con với bộ ria khá dài. Họ nói chuyện với nhau. Paul giới thiệu về bản thân mình còn người đàn ông lạ bảo mình tên là Bill. Người bạn mới của Paul giành cho anh hàng tá câu hỏi:
"Cậu tới từ đâu?"
"Khi nào thì cậu quay lại?"
"Có ai biết cậu ở đây không?"
"Nghề nghiệp của cậu là gì?".
Rồi Paul cũng hỏi lại tương tự và Bill trả lời khá rành mạch. Gã nói rằng mình làm việc trên đường, tới từ Nam Tư, sống gần Liverpool và đã li dị. Họ lái xe khoảng 1 giờ đồng hồ và Bill bắt đầu thay đổi. Lời lẽ của ông ta trở nên tục tĩu và hung hăng hơn khi cả hai nói chuyện về "phân biệt chủng tộc". Sau đó Bill lại yên lặng và từ chối nói chuyện. Đến giữa buổi chiều hôm đó, cả 2 đã ra khỏi thị trấn ở phía Nam Mittagong, Paul nhận thấy Bill bắt đầu có những cử chỉ lại: thay đổi tốc độ lái xe và liên tục nhìn qua gương chiếu hậu về phía sau. Paul cảm thấy mệt mỏi, khát nước và bắt đấu cảm thấy bất an. Bill điều chỉnh chiếc radio và nói: "Tôi nghĩ tôi đã để hết băng ở phía sau rồi". Sau đó, gã dừng xe, đi vòng ra phía sau. Trong khi đó, Paul nhìn xuống phía dưới ngay giữa 2 ghế ngồi thế một khay đựng toàn băng casset. Thấy có gì đó không ổn, anh ta quyết định ra khỏi xe.
"Quay trở lại xe đi", Bill nói với giọng đầy hăm doạ. Paul tuân theo bởi không muốn mọi chuyện tồi tệ hơn. Ngay sau khi cả hai vào xe, Bill liền với xuống dưới chiếc ghế lái, lôi ra một khẩu súng lục lớn và chĩa vào mặt Paul nói: "Đây là một vụ cướp". Sau đó gã với ra đằng sau ghế ngồi để lấy một sợi dây thừng. "Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra thế này? Ông muốn gì?", Paul lo sợ nói.
"Câm mồm. Thắt đai an toàn của mày vào". Ngay lúc đó, Paul đã đạp tung cánh cửa, phi ra ngoài. Trong khi cố gắng chạy thật nhanh, anh ta nghe thấy tiếng hét vọng lại từ phía sau: "Dừng lại không tao bắn".
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 8)
Đến ngày 17/11/1993, cảnh sát đã kết thúc những cuộc tìm kiếm trong rừng và thông báo không tìm được thêm thi thể nào. Nhưng thật bất ngờ, ngay khi cảnh sát mệt mỏi với cuộc điều tra thì thông tin về "ác quỷ rừng sâu" lại xuất hiện.
Không quan tâm, Paul lao ra đường nhằm trốn thoát khỏi "gã điên" kia nhưng vẫn không quên ngoái lại xem Bill có đuổi theo không. "Quay lại đây, con trai", gã hét lớn. Paul vẫy một chiếc xe tải đang tiến lại gần và lao vào đầu xe để chắn nó lại. Joanne Berry, người chủ xe chưa biết chuyện gì xảy ra, Paul đã nói với giọng sợ hãi: "Hắn có súng, cứu tôi!".
Joanne lưỡng lự bởi trong xe khi đó có em gái và 4 đứa trẻ con. Cô lo sợ cho sự an toàn của mọi người nên đề nghị Paul hãy ra khỏi đầu xe. Joanne nhìn vào khuôn mặt đầy vẻ sợ hãi của anh ta và rồi quyết định đưa người đàn ông này tới đồn cảnh sát gần nhất, ngược với hướng mà mình đang đi. Cô ta quay xe và nhìn thấy gã đàn ông vạm vỡ chạy trở lại chiếc xe của hắn để lấy thứ gì đó. Không chần chừ, Joanne liền cho xe tăng tốc.
Khi họ tới đồn cảnh sát Mittagong, nó đã đóng cửa. Joanne điều khiển xe tới thị trấn Bowral kế tiếp. Tới nơi, Paul thuật lại tường tận câu chuyện cho nữ cảnh sát trực Janet Nicholson về kẻ đã tấn công mình, về chiếc xe và không quên nói rằng hành lý của anh ta đã để hết lại đó, bao gồm hộ chiếu và vé máy bay khứ hồi quay lại Anh. Sau khi điền đầy đủ thông tin vào bản báo cáo, Nocholson thông báo về đặc điểm nhận dạng của người đàn ông lạ và chiếc xe ô tô trên sóng radio rồi đưa Paul trở về khách sạn. Anh ta phàn nàn rằng đã mất tiền và nữ cảnh sát đó liền đưa anh 20 đô la. Ngoài ra, cô cũng giải thích rằng việc không nhớ được biển số chiếc xe kia khiến cuộc tìm kiếm gã đàn ông vạm vỡ là rất khó.
Hôm sau, Paul tới cơ quan đại diện của Vương quốc Anh ở Sydney để thay hộ chiếu khác và vay tiền. Tuy nhiên, anh ta chỉ nhận được hộ chiếu, còn tiền mặt thì không. Một người phụ nữ đứng chờ ngay phía sau thông cảm với hoàn cảnh và dúi cho Paul 20 đô la khiến anh vô cùng sững sờ trước sự rộng lượng của bà. Nhiều tuần sau đó, sau khi quyết định ở lại Australia, Paul đã kiếm được công việc khá tốt. Bạn gái anh đã bay từ Anh sang và họ đã đi du lịch vòng quanh phía Bắc Australia trong vài tuần trước khi trở về nhà. Paul cố gắng tìm lại cuộc sống bình thường vốn có của mình nhưng căn bệnh mất ngủ đã hành hạ anh nhiều năm sau đó. Nhất là khi Paul nghe đến những xác chết được tìm thấy gần nơi mình bị tấn công, những hình ảnh rùng mình khi xưa lại hiện về.
Quay trở lại với vụ án, cuộc điều tra vẫn đang được tiếp tục. Hơn 200 cảnh sát được phân công rà soát mọi ngóc ngách trong rừng. Ở sở chỉ huy, hàng ngàn cuộc gọi điện tới trong đó đang chú ý nhất có 2 lần. Thứ nhất là một người phụ nữ kể rằng bạn trai mình từng làm việc cùng với một người đàn ông mà bà nghĩ rằng có liên quan đến vụ án. Gã là chủ một trang trại ở gần rừng, lái xe 4 chỗ, có rất nhiều súng tên là Ivan Milat. Còn cuộc điện thoại thứ 2 là từ Joanne Berry, người đã cứu Paul Onions trong vụ tấn công cách đây 3 năm. Giống như những cuộc gọi khác, tất cả đều được lưu vào dữ liệu máy tính. Trong khi đó, Paul cũng gọi tới Đại sứ quán Australia tại Anh để hỏi về đường dây nóng. Ngày 13/09/1993, anh đã kể chi tiết cho người trực điện thoại về vụ tấn công năm 1990. Đến ngày 17/11/1993, cảnh sát đã kết thúc những cuộc tìm kiếm trong rừng và thông báo không tìm được thêm thi thể nào.
Tháng 12/1993, 10.000 trang giấy được ghi chép lại từ hàng ngàn cuộc gọi tới đường dây nóng đã được lọc ra và cảnh sát đã lên danh sách gần 2000 người gọi điện được cho là có thể cung cấp những thông tin bổ ích về vụ án. Trong đó, chi tiết trong câu chuyện của Paul Onions và Joanne Berry là được quan tâm nhất. Ngay từ những ngày đầu năm mới, 37 thám tử thay phiên nhau làm việc 24/24 để phân tích vụ án, chủ yếu tập trung theo dõi những nghi can sở hữu nhiều súng và có khả năng gây án. Còn 2 thám tử Gordon và McCluskey được giao nhiệm vụ tổng hợp các thông tin được ưu tiên và tìm tất cả mọi điều liên quan tới cái tên "Milat".
Còn về người phụ nữ kể rằng có bạn trai làm cùng Ivan Milat lại không hề cho biết tên mình là ai. Bởi vậy, Lynne Butler và Paul Douglas quyết định tới công ty qua lời kể để hỏi thăm về Milat. Richard và Ivan Milat làm việc ở đó cùng một thời gian. Theo như lời kể của các đồng nghiệp, Ivan là một công nhân chăm chỉ và nhận được rất nhiều sự tôn trọng của mọi người. Còn Richard lại được miêu tả như một kẻ điên cuồng và không thể đoán trước người đàn ông này sẽ làm gì. Hai thám tử yêu cầu công ty cung cấp thời gian làm việc của cả 2 người đàn ông và so sánh với khoảng thời gian mà họ nghi ngờ diễn ra các vụ án. Một phát hiện khá thú vị: Richard thời điểm đó vẫn làm việc đều đặn. Còn Ivan thường xuyên vắng mặt trong khoảng thời gian cảnh sát tính toán nạn nhân bị giết. Gordon cảm thấy Ivan Milat có vấn đề nhưng khi quay trở về báo cáo với cấp trên, anh chỉ nhận được câu trả lời: "Hãy tìm thêm chứng cớ".
Tin rằng sự nghi ngờ của mình là hoàn toàn chính xác, Gordon tìm kiếm hồ sơ tố tụng hình sự và tìm thấy Ivan Milat đã từng có vài năm ngồi tù. Tuy nhiên, không có những hành vi tội phạm nào chỉ ra hắn sẽ trở thành một tay sát thủ liên hoàn. Sau khi "lục" thêm nhiều tài liệu lưu trữ khác, Gordon đã tìm ra được chi tiết hết sức quan trọng. Năm 1971, Ivan bắt 2 cô gái đang thực hiện chuyến đi bộ đường dài từ Liverpool đến Melbourne và cưỡng bức một trong số đó. Cả 2 cô gái khai rằng hắn có một con dao rất lớn và một sợi dây thừng dài.
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ 9)
Vì cách giết người nhanh gọn và không để lại chứng cứ nên mặc dù bị cảnh sát nghi ngờ nhưng hung thủ vẫn ung dung tự tại. Chiến đấu với "ác qủy" quả thật không hề dễ dàng.
Ivan Milat được triệu tập đến cơ quan điều tra nhưng sau được cho về vì cảnh sát không thu thập đủ chứng cứ để kết tội. Gordon và McCluskey một lần nữa đề nghị lên cấp trên để đặt máy nghe trộm trong nhà và xe hơi của Ivan. Nhưng họ không thể thuyết phục được cấp trên, Clive Small. Clive hoàn toàn đúng bởi luật pháp quy định rất rõ ràng về chuyện sử dụng các thiết bị điện tử để giám sát đối tượng tình nghi. Nó chỉ được dùng khi tất cả các biện pháp thu thập chứng cứ đều không hiệu quả và họ phải chắc chắn là đó là đối tượng tình nghi chính xác.
Một vài ngày sau, Clive chỉ định 4 thám tử, bao gồm cả Gordon và McCluskey, làm việc suốt ngày, lập một đội theo dõi Ivan Milat và nhà anh ta 24/24. Sau khi nhận nhiệm vụ, họ bắt đầu tiến hành kiểm tra, rà soát và thu thập tin tức liên quan đến Ivan Milat. Trong khi đó, thám tử Gordon cho dù đang bực tức về những hoài nghi của cấp trên, song anh ta vẫn tin rằng mình đã tới rất gần tên sát thủ.
Để tăng cường đội ngũ điều tra, Clive Small bắt đầu tập hợp một nhóm chuyên gia làm nhiệm vụ phân tích các động cơ và trạng thái tâm lý của những người có khả năng trở thành tội phạm. Bác sĩ chuyên khoa tâm thần, Rod Miltin và trưởng khoa nhân loại học của trường ĐH Sydney, Richard Basham đã được Clive Small mời đến để trợ giúp trong quá trình điều tra đang gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, Clive vẫn tin rằng hung thủ sống đâu đó ở phía Nam Belangalo. Bởi vậy, ông đã đề xuất kế hoạch tới từng ngôi nhà để kiểm tra, rà soát những người có vũ khí. Tuy nhiên, ý kiến này không được sự đồng thuận từ phía các đồng nghiệp. Lý do họ đưa ra chính là cảnh sát không đủ nhân lực để tiến hành công việc này. Người phản đối kịch liệt nhất là tiến sĩ Basham bởi ông khẳng định thế chẳng khác nào "tìm kim đáy bể".
Nhóm nghiên cứu lục lại mọi thông tin trong hồ sơ bởi họ rất quan tâm đến lời khai của Alex Milat, người đàn ông đã nhìn thấy 2 chiếc xe ô tô bắt cóc và uy hiếp các cô gái trẻ ở trên xe. Clive khẳng định, sau bao nhiêu năm như vậy, người đàn ông đó phải có một trí nhớ siêu phàm mới có thể tả lại khung cảnh lúc bấy giờ một cách chi tiết và mạch lạc. Basham lại tin rằng điều đó hoàn toàn có thể xảy ra nếu như người đàn ông kia tham gia vào sự việc. Kể từ đó tiến sĩ khoa nhân loại học tin vào giả thiết có hơn một người dính líu vào vụ việc và họ có thể là anh em trong một gia đình.
Cuộc thảo luận bắt đầu chuyển hướng sang nơi ở của hung thủ. Milton đưa ra giả thuyết tên giết người có thể không sống ở khu vực này nhưng lại thường xuyên qua lại nơi đây bởi một lý do nào đó. Sau khi nghiên cứu bản đồ khu vực, họ suy luận và tin rằng hung thủ nhiều khả năng sống ở khu vực phía Nam, gần với đường quốc lộ Hume. Bởi trên thực tế, tất cả các nạn nhân đều từng được nhìn thấy ở đó hoặc gần Liverpool. Và xác chết được tìm thấy đều nằm trong rừng Belangalo càng khiến giả thuyết đó trở nên có lý hơn.
Bên cạnh đó, cảnh sát bắt đầu tìm kiếm thông tin về gia đình Milat, tuy nhiên, trong các tài liệu đều không có nhiều về tên tuổi hay lý lịch của họ. Clive Small thì hiểu rằng đội điều tra còn cả một chặng đường dài để đến được cái đích cuối cùng, nhưng vướng mắc hiện nay là phải làm sao ráp nối được những giải thuyết đến với gia đình Milat.
Cảnh sát liên tục tìm kiếm bằng chứng cho tới tháng 03/1994. Một đội chuyên tập trung vào gia đình Milat đã thu được hồ sơ về đất đai, tài sản và xe hơi mà gia đình Milat từng sở hữu. Một chi tiết khá thú vị khi 3 anh em Milat cùng làm chủ một mảnh đất ở trên đường Wombeyan Caves, cách 25 dặm với Belangalo. Ngoài ra, một chiếc xe Nissan Patrol 4 chỗ màu bạc cũng được xác định người đứng tên đăng kí là Ivan Milat.
Người chủ sở hữu mới của chiếc xe được triệu tập và cảnh sát đã tìm thấy một viên đạn ở dưới ghế lái. Nó có cỡ 22mm và hoàn toàn trùng khớp với những vỏ đạn ở khu vực A, nơi tìm thấy xác của Clarke và Walters. Được biết, Milat đã bán chiếc xe 2 tháng sau khi 2 cô gái người Anh này mất tích.
Ác quỷ rừng sâu (Kỳ cuối)
Trước những bằng chứng rành rành, Ivan Robert Marko Milat bị kết tội đã ra tay sát hại 7 khách du lịch. Nhưng cũng giống như quá trình truy tìm Milat, việc xét xử hắn cũng diễn ra không suôn sẻ.
Thám tử Gordon và đội của anh đã giải đáp được khá nhiều thắc mắc nhưng vẫn cần một điều gì đó kết nối chúng lại với nhau, đại loại như là những nhân chứng đã thấy Ivan Milat và chiếc xe của hắn ta ở khu vực hiện trường cùng với thời gian diễn ra vụ án. Họ rà soát lại tất cả những thông tin thu thập được từ đường dây nóng. Sau nhiều tuần làm việc, cuối cùng vào 13/04, Gordon đã tìm ra những lời khai của Paul Onion gọi tới đường dây nóng 5 tháng trước. Anh ta đọc lại báo cáo mô tả lại sự việc xảy ra vào tháng 01/1990 và tin rằng người đàn ông có tên Paul sẽ là một nhân chứng rất quan trọng. Sự miêu tả về chiếc xe, khu vực xảy ra sự việc và tên lái xe, những lời khai này sẽ giúp ghép nối mọi thông tin lại với nhau. Gordon liền mang phát hiện mới này đến cho người trực tiếp điều hành vụ điều tra, Clive Small. Ngay lập tức, Clive Small gọi điện lại để lấy bản báo cáo gốc của cảnh sát ở Bowral nhưng tài liệu đã bị thất lạc. Rất may, nữ cảnh sát trực hôm đó, Janet Nicholson vẫn lưu lại tất cả trong cuốn sổ tay của mình về những lời khai của Paul Onion. Sau đó, đội điều tra ngay lập tức đến thu thập thông tin trực tiếp từ những người chủ lao động của Richard và Ivan Milat.
Và thông tin đã được xác nhận: Richard vẫn làm việc vào đúng ngày Paul Onion bị tấn công còn Ivan thì không. Ngoài ra, qua kiểm tra, người ta còn biết được rằng Ivan từng lại việc tại khu vực Galston Gorge vào đúng khoảng thời gian túi đồ của James Gibson được tìm thấy. Cảnh sát đã phỏng vấn nhiều đồng nghiệp của y và đều thu được thông tin: hắn rất thích súng. Một người bạn của Ivan, Tony Sara kể lại rằng Ivan sở hữu một chiếc xe máy, một chiếc ô tô Nissan 4 chỗ và một kho vũ khí ngay tại nhà. Thêm một chi tiết nữa, hắn thường xuyên đi xuyên qua rừng trên đường đi làm.
Đến cuối tháng 4, Paul Onions nhận được cú điện thoại từ Australia. Thám tử Stuart Wilkins nói rằng anh ta là một nhân chứng hết sức quan trọng và liệu có thể bay ngay tới Sydney càng sớm càng tốt hay không. Paul lúng túng bởi nghĩ rằng câu chuyện của mình khi xưa không khiến cho cảnh sát Australia quan tâm đến. Vậy mà bỗng nhiên, họ lại nói anh là nhân chứng quan trọng. Một tuần sau đó, Paul có mặt tại Sydney và được cảnh sát lái xe đưa đến những nơi liên quan đến lời khai khi xưa trước khi phỏng vấn. Đầu tiên là một cửa hàng nhỏ, nơi anh ta gặp người có tên Bill. Đó là một sạp báo có tên Lombardo. Sau đó, họ đi xuống xa lộ ở phía Nam và Paul nói: "Sai rồi. Chúng tôi đi xuyên qua một thị trấn". Tuy nhiên, cảnh sát đã khẳng định không có bất cứ một thị trấn nào ở trên con đường này. Nhưng rồi họ nhớ ra rằng vào tháng 1/1990, thời điểm Paul Onions bị tấn công, đường cao tốc này vẫn chưa được hoàn thành và đường quốc lộ Hume là con đường đi qua Mittagong. Sau đó, cảnh sát đưa cho Paul 13 bức ảnh để nhận diện ra người đã tấn công anh khi xưa. Và không chần chừ, Paul chọn ngay tấm số 4.
"Chính hắn ta đó, tấm số 4", Paul quả quyết cho dù cảnh sát có yêu cầu anh xem kỹ những tấm khác. Và gã đàn ông trong tấm hình chính là Ivan Milat.
Ivan Milat bị áp giải ra tòa
Clive Small đã được thông báo về phát hiện mới và ngay lập tức, sau khi tham khảo ý kiến với Lynch, ông quyết định ra lệnh bắt giữ Ivan Milat vì họ đã đủ chứng cứ để kết tội gã hành hung Paul Onions. Bên cạnh đó, cảnh sát lục soát nhà của Ivan Milat ở Eaglevale, gần quốc lộ Hume và cách Liverpool vài dặm. Dựa vào giả thuyết Ivan không hành động một mình, cảnh sát cũng tới nhà của mẹ và anh em hắn, Richard, Walter và Bill để tìm kiếm chứng cớ. Tài sản của họ ở trong rừng cũng bị lục soát. Không chi tiết nào được bỏ sót.
Cuộc tấn công được lên kế hoạch rất chi tiết với hơn 300 cảnh sát tham gia. Để giữ bí mật, họ không được để lộ ra bất kì thông tin nào về thời gian và địa điểm của các cuộc tấn công cho tới khi nó diễn ra. Cuộc đổ bộ nhắm vào nhà của Ivan được đặt mã "Air-1". Do giờ làm việc của Ivan Milat rất thất thường, nên cuộc tấn công được xác định sẽ tiến hành vào 6h30 sáng Chủ nhật, ngày 22/05/1994. 50 cảnh sát bao gồm cả lực lượng vũ trang, các viên chỉ huy và cảnh sát được tập trung tại đồn cảnh sát Campbelltown từ 2 giờ sáng.
Đúng 6h30, tất cả đã vào vị trí để sẵn sàng tóm gọn đối tượng. Tuy nhiên, thám tử Gordon sử dụng cách thương thuyết, yêu cầu Ivan Milat ra hàng để tránh việc nổ súng. Phải sau tới 2 lần gọi điện buộc Ivan ra hàng, gã và bạn gái Chalinder Hughes mới chịu giơ tay chịu trói.
Ngay sau đó, cảnh sát bắt đầu tiến hành lục soát nhà Ivan. Một vài tấm bưu thiếp, một viên đạn được tìm thấy trong phòng ngủ song hắn chối bay rồi khẳng định mình không sở hữu khẩu súng nào và rằng đó chỉ là viên đạn gã mang về khi đi săn cùng anh trai. Sang đến phòng kế bên, các nhân viên thuộc đội pháp chứng tìm được túi đồ nghề của Ivan trong đó có một con dao dài 30 centimét. Ngoài ra, còn một cuốn sách mà trung sĩ Dutton hết sức quan tâm. Đó là quyển hướng dẫn sử dụng khẩu Ruger 22 li. Mọi chuyện dần trở nên sáng tỏ. Tất cả những đồ vật trong nhà đều giúp những nghi vấn của cảnh sát được giải thích. Trong một cuốn album ảnh gia đình, họ lại thấy xuất hiện một khẩu Colt 45 li, giống hệt như miêu tả của Paul Onions. Đáng chú ý hơn, bạn gái của Ivan, Chalinder Hughes đã xuất hiện trong bức ảnh khi khoác trên mình chiếc áo hiệu Benetton, giống như chiếc của Caroline Clarke.
Kế đến, cảnh sát tiếp tục lục soát gara nằm ngay cạnh nhà chính. Và ở nơi này, đội pháp chứng đã tìm được thứ mà họ cần, đó là khẩu Ruger 22 li được tháo thành nhiều phần và giấu trong một chiếc túi nilong treo trên trần nhà. Cho dù liên tục chối cãi rằng chưa bao giờ nhìn thấy những đồ vật đó trong nhà tại đồn cảnh sát Campbelltown sau khi được giải đi, song bằng các phương pháp nghiệp vụ, nhóm nghiên cứu súng đạn khẳng định những viên đạn tại hiện trường hoàn toàn trùng khớp với khẩu Ruger 22 li được tìm thấy ở nhà Ivan.
Tên "ác quỷ" dùng dao cắt ngón tay để kháng cáo
Trước những bằng chứng rành rành, Ivan Robert Marko Milat bị kết tội đã ra tay sát hại 7 khách du lịch và chờ ngày toà phán quyết. Đáng lẽ ra, phiên toà xét xử Ivan dự định sẽ diễn ra vào tháng 02/1995, nhưng do một vài rắc rối trong việc tập hợp giấy tờ, ngày phán xét đã hoãn lại cho tới tháng 06/1996. Cuối cùng, sau nhiều ngày chờ đợi, người dân Australia đã được nghe bản cáo trạng tuyên bố mức hình phạt gã sát nhân gây chấn động quốc gia này vào ngày 27/07/1996. Với tội danh tấn công Paul Onions, Ivan Milat phải chịu mức án 6 năm tù. Còn với tội giết Caroline Clarke, Joanne Walters, Simone Schmidl, Anja Habschied, Gabor Neugebauer, James Gibson và Deborah Everist, hắn phải chịu một án tù chung thân cho mỗi tội danh giết người. Được biết, cho đến nay, Ivan Milat vẫn sống và đang bị giam tại Goulburn Gaol, nhà tù dành cho nam giới được bảo vệ nghiêm ngặt nhất Australia. Hồi tháng 01/2009 vừa qua, hắn đã dùng dao tự cắt ngón tay út của mình để gửi lên toà án tối cao với mục đích kháng cáo. Nhưng tất cả chỉ là những cố gắng bất thành của tên tội phạm đã đi vào lịch sử đất nước "chuột túi".
Sát nhân ăn thịt người (Kỳ 1)
Sau khi hãm hiếp và giết chết những đứa trẻ tội nghiệp, tên sát nhân còn coi nạn nhân như những món ăn hấp dẫn. Ăn một lần không hết, hắn bảo quản xác nạn nhân trong tủ lạnh để ăn dần.
Laar là vùng ngoại ô Duisburg, một thị trấn nằm trong khu công nghiệp Ruhr Valley của nước Đức. Hầu hết những đứa trẻ trong vùng lân cận Friesenstrasse đều biết "bác Joachim", một người đàn ông hình dáng thấp bé, đầu hói. Chúng gọi một cách thân mật như vậy bởi ông hay cho ăn và khi đến nhà chơi có thể nghịch thoải mái mà không bị cấm đoán điều gì. Người đàn ông sống một mình song lại sở hữu một bộ sưu tập búp bê. Joachim là một người rất đàn ông khác lạ, khuôn mặt tròn, tai chuột, và đeo một chiếc kính to, dù vậy những đứa trẻ rất thích bởi ông luôn biết cách dỗ dành và làm cho chúng cười. Toàn cảnh ngôi nhà của "bác Joachim"
Tuy nhiên, những đứa trẻ quá nhỏ để nhận biết rằng những con búp bê được bơm căng trong căn hộ được dùng để quan hệ tình dục, đôi khi tên chủ nhà khác người này còn dùng chúng để luyện kỹ năng bóp cổ. Có lẽ do bề ngoài không được ấn tượng cho lắm nên hắn luôn thất bại trong việc tiếp cận với những người phụ nữ xung quanh. Bởi thế, ngay từ khi còn trẻ, trong đầu gã luôn có ham muốn được hãm hiếp ai đó. Hắn sống tách biệt với hàng xóm và chẳng bao giờ để ý những việc diễn ra ở khu vực nơi mình đang ở.
Vào ngày thứ bảy, 03/07/1976, Marion Ketter, 4 tuổi, biến mất khi đang chơi ở khu dành cho trẻ em mang tên Duisburg. Từ trước tới nay, nơi này chẳng bao giờ xảy ra những vụ việc tương tự, nên cô bé dễ thương có mái tóc vàng thường chơi cùng các đứa trẻ khác mà bố mẹ không bao giờ phải lo lắng. Nhưng đến một ngày, không thấy đứa con gái trở về nhà. Người mẹ lo lắng đi tìm ở khắp mọi nơi nhưng chẳng có bất cứ ai nhìn thấy. Ngay lập tức, hai vợ chồng báo cảnh sát và ngày hôm sau một nhóm điều tra đã đi hỏi thăm tất cả các khu vực lân cận, song vẫn không có chút tin tức nào về cô bé. Mọi manh mối đều không rõ ràng khiến công việc tìm kiếm trở nên khó khăn.
Cùng lúc đó, một vài chuyện lạ thường đã diễn ra ở nơi "bác Joachim" sinh sống. Oscar Muller, một người hàng xóm đã gặp mặt Joachim Kroll khi người đàn ông này cảnh báo cho Oscar không nên sử dụng nhà vệ sinh vì nó bị tắc. Tuy nhiên, Oscar cho rằng đây chỉ là một trò đùa của người hàng xóm nên ông đã đi vào trong mà chẳng hề lưỡng lự. Một cảnh tượng hãi hùng hiện ra trước mắt, một cái bát đựng thứ nước màu đỏ, giống như máu và mùi hôi thối bao trùm khắp căn phòng. Bịt chặt mũi và nhìn kỹ, Oscar run lên khi nhận ra thứ đỏ đỏ trong bát là máu tươi. Không chần chừ, Oscar chạy ngay ra phố để tìm cách thông báo với cảnh sát. Đúng lúc đó, cảnh sát khu vực đang đi mọi khu nhà để tìm kiếm thông tin về vụ bé gái mất tích. Khi nghe Oscar thuật lại, họ lập tức theo chân đến để xác nhận. Một tội ác man rợ đã được khám phá ra, với kinh nghiệm trong nghề họ nhận ra rằng đây là một phần cơ thể của cô bé bị mất tích và có thể cả những đứa trẻ bị giết quanh khu vực này.
Lập tức, nhà vệ sinh bị niêm phong, một thợ ống nước được gọi đến để kiểm tra các đường ống của khu nhà. Ngoài ra, nhân viên giám định y khoa cũng được điều đến hiện trường vụ án. Sau khi tiến hành xét nghiệm, họ đã tìm thấy các cơ quan của một đứa trẻ: phổi, thận, ruột, một quả tim và những mẩu thịt được cắt từ cơ thể của nạn nhân.
Khu nhà bếp đáng sợ
Oscar kể cho cảnh sát về người đàn ông vui tính, dáng người thấp bé thường được gọi với tên "bác Joachim". Không chậm trễ, họ lập tức đến căn hộ của người đàn ông này. Tuy nhiên, gã chẳng có vẻ gì bối rối với sự xuất hiện của những viên cảnh sát. Khi được hỏi có biết trong nhà vệ sinh chứa gì không, hắn nhận rằng đã giết, lột da thỏ để hầm và vứt nội tạng vào trong hố xí rồi giật nước. Nhưng do quá nhiều nên chúng không thể trôi đi hết khiến ống thoát nước bị tắc nghẽn. Cùng lúc đó, mùi thịt hầm đang tỏa ra từ trong bếp, và theo kinh nghiệm phá án, họ biết rằng những gì trong nhà vệ sinh không đơn giản như lời khai của gã. Ngoài ra, đứa trẻ nhỏ bị mất tích vẫn chưa có đầu mối nào vì vậy các cảnh sát quyết định lúc soát xung quanh ngôi nhà.
Joachim đồng ý cho cảnh sát vào tìm kiếm ở ba phòng trong căn hộ của mình. Khi vào phòng bếp, họ phát hiện ra những cái nồi có chứa những mẩu thịt của bé gái mất tích. Mặc dù đã tham gia phá án nhiều vụ, song cảnh sát vẫn cảm thấy kinh hãi về những điều chứng kiến vậy mà tên hung thủ lại tỏ ra thờ ơ với mọi việc đang diễn ra. Ngoài một bàn tay nhỏ được nấu chín trong nồi với khoai tây và cà rốt, họ còn tìm thấy có nhiều miếng thịt dự trữ trong tủ lạnh được đóng gói rất kỹ.
Sát nhân ăn thịt người (Kỳ 2)
Cũng như bao tên tội phạm khác, không phải bỗng dưng Joachim có máu sát nhân, hãm hiếp và ăn thịt người. Một biến cố lớn trong cuộc sống đã biến hắn từ người bình thường thành quái vật.
Vậy là sự thật đằng sau "bác Joachim", người luôn được bố mẹ các em nhỏ tin cậy cuối cùng cũng được khám phá. Dường như đã biết trước kết cục sớm muộn cũng xảy ra, nên người đàn ông này chẳng có bất cứ hành động chống cự nào khi bị cảnh sát bắt giữ.
Joachim Georg Kroll sinh ngày 17/04/1933 trong một gia đình thợ mỏ ở Hindenburg, vùng Upper Silesia của Đức (nay là một phần của Ba Lan). Cậu em út Joachim ngay từ nhỏ đã là cậu bé yếu ớt mắc chứng tè dầm. Không những sức khỏe có vấn đề, việc học hành của cậu cũng dang dở khi chỉ học hết lớp 3 (ở thời điểm bị bắt, các chuyên gia đo được chỉ số IQ của Joachim là 76). Sau chiến tranh thế giới, năm 1947, gia đình Joachim chuyển đến Bắc Rhine-Westphalia.
Năm 1955, Joachim được 22 tuổi cũng là lúc người mẹ qua đời. Có lẽ điều này đã ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý vốn đã không bình thường của hắn. Chỉ 3 tuần sau cái chết của mẹ, Joachim lần đầu tiên thực hiện hành vi giết người, hiếp dâm. Năm 1957, Joachim chuyển đến Duisburg và kiếm được công việc dọn dẹp nhà vệ sinh cho khu vực Mannesmann. Nhưng mọi công việc với hắn chẳng bao giờ tồn tại lâu. Chỉ được một thời gian, gã lại bị đuổi hay đôi lúc là tự ý nghỉ việc. Joachim thường xuyên tham gia các chuyến đi đến các thị trấn xa trung tâm "săn" đối tượng. Để khống chế những con mồi, hắn thường xuyên sử dụng ngón nghề rất đơn giản song hiệu quả: bóp cổ.
Joachim bắt đầu hiếp dâm, giết phụ nữ và các em nhỏ từ khi 22 tuổi. Do trí nhớ không được tốt nên hắn cho rằng số nạn nhân khoảng 14 người và có thể hơn thế nữa. Nạn nhân đầu tiên bị giết vào ngày 08/02/1955 là Irmgard Strehl, 19 tuổi, thi thể được tìm thấy 5 ngày sau đó. Joachim nhớ rằng đó là một cô bé tóc vàng, mặc một chiếc áo choàng xanh và mang cặp sách. Khi Irmgard đang đi trên đường, hắn gọi lại và đến bắt chuyện rủ cô bé cùng đi bộ trong rừng, hứa hẹn nhiều điều. Khi nạn nhân chống cự, tên hung thủ liền lôi vào một ngôi nhà bỏ hoang, đâm vào cổ rồi bắt đầu thực hiện hành vi đồi trụy với cô bé tội nghiệp. Sự việc diễn ra gần thị trấn Walstedde. Chưa hết, để chắc chắn cô bé chết hẳn, tên thủ ác còn dùng dao rạch bụng, moi ruột. Muốn thử hương vị thịt người nên mỗi lần ra tay sát hại, hắn xẻo từng bộ phận cơ thể để chế biến, thấy ngon nên từ đó trở thành món ăn khoái khẩu và danh sách các nạn nhân cũng tăng dần theo năm tháng.
Các nạn nhân xấu số
Ngày 16/06/1959 hắn ra tay với nạn nhân thứ 2, Klara Frieda Tesmer, 24 tuổi. Vụ án mạng xảy ra trên đồng cỏ của khu vực Rhine gần Rheinhausen. Khi đó, các cảnh sát tập trung nghi ngờ vào Heinrich Ott, một thợ cơ khí và người này đã bị bỏ tù khi mọi bằng chứng đều chống lại anh ta.
Một tháng sáu, Manuela Knodt, 16 tuổi, bị giết và bóp cổ ở công viên thành phố Essen, tên hung thủ còn xẻo thịt ở đùi và mông của nạn nhân.
Năm 1962, Barbara Bruder 12 tuổi, bị bắt cóc tại Burcheid, có thể tên bạo dâm đã ăn hết thịt của nạn nhân nên thi thể xấu số của cô bé không bao giờ được tìm ra.
Cùng năm đó, vào ngày 23/04, Petra Giese, 13 tuổi, bị hiếp dâm và bóp cổ đến chết tại Dinslaken-Bruckhausen. Vụ án này cảnh sát đã nghi ngờ và bắt giam tù Vinzenz Kuehn.
Đây là nạn nhân thứ 3 xảy ra trong năm 1962, ngày 04/06, Monika Tafel bị giết tại Walsum, thịt ở phần mông cũng bị cắt thành lát mỏng. Walter Quicker bị bắt giữ, sau đó đã được phóng thích.
Ba năm sau, ngày 22/08/1965, Hermann Schmitz và bạn gái Marion Veen bất ngờ bị tấn công khi đang ngồi "tâm sự" trong ô tô. Nhưng may mắn đã đến với Marion khi thoát chết trong gang tấc, người yêu cô đã trở thành "vật thế mạng". Hermann là nạn nhân nam duy nhất của Joachim.
Ngày 13/09/1966, Ursula Rohling bị siết cổ ở công viên Foersterbusch gần Marl. Khi bị tình nghi liên quan đến cái chết của bạn gái, Adolf Schickel đã tự tử.
Ngày 22/12/1966, Ilona Harke, 5 tuổi, bị hiếp dâm và dìm chết tại một con mương ở Wupprtal.
Nạn nhân xấu số Ilona Harke
Ngày 12/07/1969, bà Maria Hettgen là nạn nhân lớn tuổi nhất của hắn (61 tuổi). Joachim sau này nói rằng hắn cảm thấy thú vị khi nói chuyện với người đàn bà này. Nhưng vì Hettgen muốn đi, nên hắn đã đánh bà té xuống đất và lôi vào bụi cây để bóp cổ sau đó hãm hiếp.
Ngày 21/05/1970, Jutta Rahn, cô bé 13 tuổi bị bóp cổ khi rời khỏi trạm xe lửa ở Breitscheir và bắt đầu đi bộ về nhà. Tương tự một số trường hợp trước, trong vụ này, người đàn ông tên Peter Schay cũng bị tình nghi và thậm chí đã bị giam một thời gian trong xà lim.
Đến năm 1976, hắn lại hãm hiếp và bóp cổ cô gái 10 tuổi tên Karin Toepfer tại Voerde. Ngày 03/07/1976, sau 21 năm giết người không gớm tay, thậm chí còn ăn thịt của các nạn nhân, tên hung thủ với biệt danh "Ruhr Hunter" đã bị bắt giữ khi đang nấu món ăn ưa thích của mình bằng thịt của cô bé xấu số mới 4 tuổi, Marion Ketter.
Sát nhân ăn thịt người (Kỳ cuối)
Mặc dù phạm tội tày đình với "thành tích" 21 năm giết người và ăn thịt đồng loại, nhưng Joachim Kroll vẫn có lòng tin rằng mình sẽ được tha bổng trong suốt quá trình xét xử vì hắn lấy "bia đỡ đạn" mắc bệnh tâm thần để đối phó với pháp luật. Liệu Joachim có thành công?
Biệt danh "Ruhr Cannibal" và "Duisburg Man-Eater" thường được các phương tiện truyền thông sử dụng để ám chỉ những tên sát nhân hàng loạt ăn thịt đồng loại, ở Đức cũng có một số lượng không nhỏ. Đầu tiên phải kể đến Karl Denke, kẻ đã ăn thịt hơn 30 người, Georg Grossman thì chặt chân tay ăn và bán thịt không biết chính xác bao nhiêu phụ nữ (theo ước tính khoảng 50 người) và Fritz Haarman, kẻ đã bán thịt của khoảng 27 đến 40 người đàn ông trẻ tuổi đã bị y hãm hiếp và giết chết bằng cách cắn vào cổ. Ở Mỹ thì có Jeffrey Dahmer, người đã ăn các bộ phận cơ thể của 17 nạn nhân, hầu hết là những thanh niên trẻ bị hắn rủ về nhà đánh thuốc mê, giết chết rồi chặt ra từng khúc.
Ông Vernon Geberth
Trên thực tế, những người này bị mắc chứng rối loạn tình dục mà đến giờ chưa có một nguyên nhân nào chính xác để giải thích, các chuyên gia vẫn tìm hiểu về vấn đề này.
Trong cuốn "Sex-Related Homicide and Death Investigation", ông Vernon Geberth, cựu sĩ quan cảnh sát và hiện là một trong những chuyên gia hàng đầu của thế giới về lĩnh vực điều tra tâm lý kẻ giết người, đã thảo luận về đặc tính của cách ứng xử lệch lạc tình dục. Ông Vernon giải thích rằng cách ứng xử tình dục được phân loại theo chuẩn mực của các nền văn hóa-xã hội. Một số nền văn hóa, xem hành động xoa nhẹ vào người một kẻ lạ để bày tỏ sự thiện cảm là điều có thể chấp nhận được, trong khi những nền văn hóa khác xem cách ứng xử này là một sự lạm dụng tình dục. Ông cho rằng con người có những nhu cầu về tình dục khác nhau do đó họ hành xử cũng khác nhau. Chuyên gia tâm lý còn giải thích rằng "mầm mống của sự sai lệch tình dục được "nuôi dưỡng" từ lúc nhỏ trong con người của kẻ tội phạm tình dục". Tuy nhiên các sự sai lệch tình dục này không được biểu lộ sớm cho tới khi kẻ phạm tội tới tuổi dậy thì.
Trong suốt quá trình thú tội, Joachim khai rằng tự nhiên hắn nảy sinh ý nghĩ trong đầu là nếm thử thịt của một trong những nạn nhân đầu tiên. Và sau đó hắn đâm ra "nghiện". Do đó, hắn luôn rình rập những bé gái và phụ nữ vì cho rằng thịt của họ sẽ mềm và ngon hơn. Tên bạo dâm chấp nhận rằng mình bị mang bệnh và muốn cứu chữa để nhanh chóng trở về nhà. Hắn ngây thơ tin rằng, nếu thay đổi những suy nghĩ lệch lạc trong con người sẽ được tha bổng. Và Joachim chờ đợi để đến ngày đó.
Joachim Kroll che mặt khi ra tòa
Tuy nhiên, gây tội thì phải đền tội, dù tình nguyện xin được chữa trị để giảm thôi thúc tình dục, trở thành "một người an toàn trong xã hội" song với hàng loạt danh sách nạn nhân, tên bạo dâm ăn thịt người đã chịu 8 tội giết người và 1 tội mưu sát, còn một số trường hợp xảy ra quá lâu nên rất khó thu thập được chứng cứ để thành lập tội danh.
Điều đáng nói ở đây chính là hung thủ không hề thông minh (chỉ số IQ 76), các hành động phạm tội có nhiều nét tương đồng và khu vực gây án không rộng lớn, chiều dài ít hơn 50 dặm và chiều ngang chỉ có 20 dặm song cảnh sát không thể liên kết các vụ án lại với nhau để lần tìm ra đầu mối, để bao nhiêu người vô tội mất mạng trong vòng 21 năm.
Phiên xử bắt đầu từ ngày 04/10/1979 ở Saal, Duisburg và kết thúc vào tháng 04/1982, sau 151 ngày. Tại đây, hắn thú nhận đã giết Marion Kettner đồng thời kể lại tỉ mỉ việc phạm tội và xẻo thịt của 14 nạn nhân khác trong vòng hai thập kỷ qua với hy vọng được phóng thích sau khi chữa khỏi bệnh. Với 9 tội danh được thành lập, Joachim phải nhận bản án chung thân và bị giam trong nhà tù ở Rheinbach. Tuy nhiên, hắn đã không thọ được lâu để "tận hưởng" cuộc sống sau chấn song sắt. Vào năm 1991, tên giết người mệnh danh "Ruhr Hunter" đã chết vị bệnh tim.
Vậy là cuộc đời của tên bạo dâm ăn thịt người đã chấm dứt, hắn trở nên "nổi tiếng" ở Tây Đức với nhiều tội ác trong khoảng thời gian dài nhất.
Sát thủ bom thư (Kỳ 1)
Bom thư không phải là chuyện lạ nhưng thủ phạm thực hiện trót lọt hàng chục vụ án trong suốt 20 năm trời thực sự là thử thách với FBI. Thủ phạm được coi là một trong những mục tiêu săn đuổi "tốn kém" nhất trong lịch sử của FBI.
Bom thư lần đầu tiên được gửi vào ngày 25/05/1978, một gói bưu kiện bọc cẩn thận được đặt trên hành lang khu nghiên cứu kỹ thuật của trường đại học Chicago. Bên ngoài là giấy màu đỏ trắng, con tem màu xanh tưởng nhớ đến nhà soạn kịch thiên tài Eugene O'Neill, địa chỉ người nhận là giáo sư E.J. Smith của Học viện Bách khoa Rensselaer, New York. Do bưu kiện không chuyển được tận tay người nhận nên đã hoàn trả lại cho người gửi, giáo sư Buckley Crist của đại học Northwestern, gần với Evanston Illinois. Nghi ngờ một gói thư mình chưa bao giờ gửi đi mà nhận trả lại, Christ báo cảnh sát Terry Marker. Trước khi mở ra họ còn đùa với nhau "Có thể là một quả bom", thật không may câu nói đùa vu vơ trở thành sự thật. Khi mở ra, nó phát nổ, rất may viên cảnh sát bị thương nhẹ và trở thành nạn nhân đầu tiên của "Sát thủ bom thư". Theo nghiên cứu của tổ chức ATF, quả bom được chế tạo một cách nghiêp dư, một số thành phần được thay thế bằng những đồ dễ kiếm.
Vào 09/05/1979, John G. Harris, một sinh viên có bằng thiết kế xây dựng, quyết định kiểm tra một chiếc hộp có hình chóp nhọn, dùng để đựng đồ dùng cá nhân, "bị" bỏ rơi ở trong phòng 2424 của trường đại học Northwestern mấy ngày. Chiếc hộp được làm bằng gỗ và buộc chặt với một cuộn băng. Khi nắp vừa được mở ra, bỗng một tiếng nổ chát chúa vang lên, rất may John chỉ bị một vết cắt do mảnh gỗ gây ra và bỏng nhẹ. Theo như nhận định của chuyên gia, quả bom này được chế tạo với mục đích gây hoảng sợ với những tiếng nổ to chứ không có tính sát thương và người tạo ra nó đã áp dụng một cơ chế hiệu quả, tinh vi hơn lần trước, có thể nói là đã "lên tay".
Trên chiếc máy bay mang mã số 444 của hãng hàng không American Airlines hành trình từ Chicago tới Washington D.C, hành khách bỗng nghe thấy một tiếng "huỵch" từ khoang hành lý. Cùng lúc đó, một tiếng nổ vang lên khiến những người có mặt hoảng hốt. Hành khách cùng các phi hành đoàn tháo chạy theo lối thoát hiểm và 12 người được đưa vào bệnh viện. Theo điều tra, nguyên nhân gây ra vụ nổ do một quả bom tự tạo, cũng được đặt trong một hộp gỗ. Cơ quan có chức năng cho rằng đây là vụ tấn công nhằm vào hãng hàng không American Arilines. Ngay lập tức, hai cơ quan, đối thủ trong việc kinh doanh, bị dính líu vào vụ việc. Bởi vì quả bom được chuyển bằng thư, cơ quan điều tra cũng cho dịch vụ bưu điện Mỹ vào diện tình nghi. Vụ án mang tầm quốc gia nên các nhân viên FBI với bề dày kinh nghiệm được chỉ định tham gia vào vụ án.
Việc điều tra gặp rất nhiều khó khăn, mỗi điều tra viên theo đuổi những ý nghĩ của riêng mình và chắc chắn thông tin thu thập được không phải lúc nào cũng trao đổi ngay lập tức. Vấn đề lãnh thổ cũng là một trong những trở ngại nhất, mỗi nhóm đều muốn có đầy đủ thông tin về các tội phạm, trong thời gian này, hơn 5.000 các nghi phạm được thêm vào diện đáng ngờ.
Năm 1996, vở kịch có tên "Sát thủ bom thư: Một câu chuyện có thật" được dựng lên và biểu diễn. Một người đàn ông mất 11 năm để tìm kiếm về "Sát thủ bom thư", đó là cựu chiến binh Tony Muljat và ông cho rằng mối liên hệ của tên tội phạm nguy hiểm với chiếc hộp gỗ đó chính là dấu hiệu của hắn, như một loại chữ ký, không thể nhầm lẫn với ai được. Mỗi quả bom thư được gửi đi đều có khắc 2 chữ FC. Muljay cũng cho rằng những quả bom có cơ chế hoạt động khá hiệu quả, đúng theo suy nghĩ của chủ nhân. Hầu hết các các quả bom đều không tạo ra cú nổ vang trời mà cháy âm ỉ. Ông cũng tìm thấy chất hóa học bari, nitrat trong quả bom và chính nó là nguyên nhân khiến quả bom ít gây ra tiếng nổ. Hắn thường cho "những đứa con cưng" có làn khói màu xanh lá cây. Những bí mật xung quanh "Sát thủ bom thư" đang được FBI triển khai để tìm ra bộ mặt thật của kẻ này
Sát thủ bom thư (Kỳ 3)
Sau nhiều vụ giết người bằng bom thư thành công, thủ phạm tiếp tục mở rộng phạm vi hoạt động. Thậm chí "Unbomber" còn đe dọa sẽ làm nổ một máy bay cất cánh từ sân bay quốc tế Los Angeles năm 1995.
Sau khi phục hồi, giáo sư James McConnell đã nói "Có người thì mất ngón tay, mắt thậm chí là mất cả mạng sống, tôi may mắn hơn họ. Hậu quả nặng nhất chính là thính giác của tôi, bởi vì tiếng nổ quá lớn ở trong ngôi nhà nên tôi hoàn toàn mất đi khả năng nghe. Nhưng sau thời gian điều trị 3 tháng, tai tôi đã trở lại bình thường. Ơn chúa!".
Thiệt hại không chỉ dừng lại ở giáo sư James McConnell, tai của người trợ lý cũng bị mất đi chức năng, có thể nói đây là một tổn thất lớn với một người rất yêu âm nhạc,
Sự việc ngày càng phức tạp khi tên Unbomber mở rộng khu vực hoạt động. Hugh Scrutton, chủ cửa hàng máy tính ở California trở thành nạn nhân bị chết đầu tiên của tên sát nhân này, khi bị giết bởi một quả bom đặt ở bãi đậu xe, mảnh bom găm vào tim dẫn đến tử vong. Rồi một vụ đánh bom tương tự cũng nổ ra vào năm 1987 tại một cửa hàng máy tính ở Salt Lake City, bang Utah và Gary Wright là người gánh chịu hậu quả, nhưng may mắn hơn là Gary giữ được tính mạng của mình.
Hugh Scrutton, nạn nhân bị mất mạng đầu tiên của tên Unbomber
Sau 6 năm "nghỉ ngơi", "kẻ hủy diệt" tiếp tục đánh bom trở lại vào năm 1993. Bom thư được gửi đến cho David Gelernter, một giáo sư chuyên khoa máy tính ở Đại học Yale. Cùng năm này một vụ đánh bom khác đã làm bị thương nhà di truyền học Charles Epstein. Hắn gửi một lá thư đến cho tờ The New York Times tự nhận rằng "nhóm vô chính phủ" FC của mình chính là kẻ đã gây ra các cuộc đánh bom trên đây.
Năm 1994, một chuyên viên quảng cáo bị giết bằng một bom thư khác. Trong một lá thư, y bào chữa vụ giết người này bằng cách chỉ ra rằng lãnh vực quan hệ công chúng là một hoạt động nằm trong các kỹ năng phát triển nhằm bóp méo thái độ sống của mọi người. Tiếp đến là vụ Chủ tịch Hiệp hội lâm học California Gilbert B. Murray ở Sacramento, California bị thiệt mạng. Trong thời gian này, Kaczynski cũng bắt đầu gửi nhiều thư, bài viết của mình đến các báo nhằm công bố "những nguyên lý" đằng sau các vụ tấn công khủng bố. Đến khi "Unabomber" đe dọa sẽ làm nổ một máy bay cất cánh từ sân bay quốc tế Los Angeles năm 1995, FBI thực sự xem việc bắt giữ "kẻ hủy diệt" này là ưu tiên hàng đầu. Một chân dung phác họa nghi can với khuôn mặt có vẻ hăm dọa, mũ trùm đầu, đeo kính râm được đăng tải rộng rãi trên các phương tiện truyền thông.
Sát thủ bom thư (Kỳ cuối)
Sau một thời gian vất vả điều tra, cuối cùng các nhân viên FBI cũng tìm tung tích thật sự của tên Sát thủ bom thư.
Hắn chính là Theodore John Kaczynski sinh ngày 22/05/1942, được biết đến với biệt danh "Unbomber" (Sát thủ bom thư). Ted luôn ấp ủ những âm mưu lớn hơn mà mục tiêu của hắn là chính những chuyến bay với hàng trăm hành khách. Theodore có một người em trai tên là David. Mẹ hắn trở thành góa phụ vào năm 1990 khi người chồng, ông Richard bị ung thư giai đoạn cuối và rời bỏ cuộc đời. Bà phải đối mặt với tội ác chế tạo bom thư đầu tiên gây ra cái chết và thương tật cho một nạn nhân gần 18 tuổi.
Ted và cậu em trai, David (trái) hồi nhỏ
Y sinh ra ở Chicago, Illinois, nơi nổi tiếng với những đứa trẻ có trí tuệ thông minh. Bản thân Theodore cũng học hành giỏi giang đến nơi đến chốn và tốt nghiệp trường Đại học Harvard, một trường đại học nổi tiếng bậc nhất vào năm 1962 và lấy được bằng tiến sỹ trong ngành toán học ở trường đại học ở Michigan sau đó trở thành người trợ lý cho giáo sư đại học tại California, Berkeley năm 25 tuổi nhưng 2 năm sau "thình lình và đột ngột" viết đơn xin thôi việc.
Ted thời kỳ làm trợ lý cho giáo sư đại học tại California, Berkeley
Mùa hè năm 1969, Theodore đến ngôi nhà nhỏ của bố mẹ ở Lombard, Illinois. Nhưng 2 năm sau, hắn chuyển đến một nhà gỗ tự tay dựng lên ở Lincoln, Montana nằm tách biệt với cộng đồng, ở đây y sống đơn giản hầu như không tốn tiền vào chi phí sinh hoạt, thậm chí chẳng có điện và nước máy. Hàng ngày, Theodore làm những công việc vặt và đều đặn nhận được tiền trợ cấp từ gia đình, song số tiền đó y dùng để mua đất, sau những nơi này đều trở thành nhà kho để chuẩn bị cho chiến dịch gửi bom thư của gã. Năm 1978, hắn đến làm việc cùng bố, ông Theodore Richard Kaczynski và anh trai ở một nhà máy cao su trong thời gian rất ngắn.
Ngôi nhà gỗ nằm biệt lập ở bên ngoài Lincoln, Montana
Nhưng gã không ưa gì cuộc sống bên ngoài và lại trở về nơi ở hẻo lánh của mình. Theodora cũng tự trang bị cho mình những kỹ năng sống trong thiên nhiên, và làm các công cụ săn bắn. Song cuộc sống như trên thiên đường của hắn không kéo dài được lâu khi các vùng đất hoang dã ngày càng thu hẹp bởi sự phát triển của ngành công nghiệp. Từ đó hắn bắt đầu tính đến việc dùng bom để phá hủy những nơi phát triển xung quanh nơi mình sống.
Không bằng lòng với những cải tiến của nền văn minh, hắn thấy chúng có rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Theodroe nói rằng mình bị mất lòng tin vào các ý tưởng cải cách xã hội, hệ thống và dùng bạo lực là cách duy nhất để giải quyết nhằm ngăn chặn, thu hẹp phạm vi cải cách đồng thời làm giảm sự phát triển của ngành công nghiệp hóa.
Tìm kiếm tung tích
Kaczynski đưa ra yêu cầu nếu báo chí đồng ý công bố "bản tuyên ngôn" dài 35.000 từ của hắn, hắn sẽ chấm dứt trò chơi giết người này. Yêu cầu này cuối cùng cũng được đáp ứng do 2 tờ báo: The New York Times và The Washington Post. Nội dung chính của bản tuyên ngôn "Xã hội công nghiệp và Tương lai của nó". Tuy nhiên, người em trai của Ted Kaczynski là David Kaczynski đã phát hiện ra văn phong của anh trai mình trong bản tuyên ngôn liền báo cho cảnh sát với điều kiện không kết án tử hình Ted Kaczynski.
"Bản tuyên ngôn" của tên Sát thủ bom thư trên tờ New York Times
Trước khi bản tuyên ngôn được xuất bản, FBI đã nhiều lần tổ chức cuộc họp báo với báo chí để thảo luận việc xác định tung tích Unbomber và treo thưởng 1 triệu USD cho những ai cung cấp thông tin quý giá. Họ đoán chắc rằng tên này đến từ khu vực Chicago (nơi hắn bắt đầu thực hiện việc gửi bom thư), đã từng làm việc hoặc có một số mối quan hệ với thành phố Salt Lake, và những năm 1990 từng có kết giao với khu vực vịnh San Francisco.
Với mức tiền thưởng cao "ngất ngưởng" như vậy đủ thấy tên Unbomber khiến FBI đau đầu và "tốn kém" về hắn như thế nào, và cũng chính vì món tiền này FBI nhận được hàng nghìn cuộc điện thoại mỗi ngày. Bên cạnh đó, còn có một số lượng lớn các bưu kiện cũng được gửi đến.
Sau hai tháng theo dõi, cuối cùng FBI đã bắt được Theodore Kaczynski vào 03/04/1996 tại nhà gỗ nằm biệt lập ở bên ngoài Lincoln, Montana trong trạng thái "đầu bù, tóc rối". Ngoài các chứng cứ tìm thấy trong ngôi nhà gỗ để chế tạo bom, các điều tra viên cũng tìm được bản gốc viết bằng tay của "bản tuyên ngôn". Tên Unbomber trở thành là một trong những mục tiêu săn đuổi "tốn kém" nhất trong lịch sử của Cục Điều tra liên bang (FBI).
Ted Kaczynski tại tòa án
Năm 1998, Ted Kaczynski ra tòa và bị kết án tù chung thân không quyền kháng án vì tội giết người bằng bom thư đồng thời trở thành người bị cả xã hội ghét bỏ. Họ cho rằng hắn là một gã điên. Y lãnh án trong nhà tù ở Florence, bang Colorado.
Kẻ khát máu đồng tính (Kỳ 1)
Hắn thú nhận thêm rằng trước khi hãm hiếp đã còng tay nạn nhân thật chắc để dễ bề hành động. Hắn nhét quần lót vào mồm để bịt miệng họ và sau đó ra tay giết hại bằng cách dùng sợi dây hoặc tấm ván thắt chặt vào cổ họng cho đến chết.
Đó là cách mà tên sát nhân khát máu đồng tính "xử lý" nạn nhân.
Nạn nhân hiếm hoi sống sót
Không ngạc nhiên gì khi hầu như những người biết John Wayne Gacy, Jr đều khâm phục và yêu quý anh ta. Gã là một nhà kinh doanh sắc bén, người đã dùng thời gian của mình xây dựng công phu những ngôi nhà trọ cho bạn bè và láng giềng mà không có bất cứ hợp đồng giao kèo nào, đóng giả anh hề vui đùa với những đứa trẻ ở bệnh viện địa phương, làm nhiều việc để tạo không gian sống tốt hơn cho những người quanh khu phố. Những người biết Gacy đều cho rằng đó là một người hào phóng, thân thiện, chăm chỉ, tận tâm với gia đình và khu phố.
Vào ngày 22/05/1978, Jeffrey Ringall trở về nhà ở Chicago. Đây là thời gian tuyệt vời để nghỉ ngơi và thư giãn. Anh quyết định đi tới New Town, một khu vực nổi tiếng với nhiều quán bar và sàn nhảy disco. Trong khi đi dạo qua khu vực đó, Jeffrey bị một chiếc ô tô hiệu Oldsmobile màu đen chặn lại. Người lái xe to lớn vươn người ra khỏi cửa xe và muốn ngỏ ý xin Ringall chia sẻ điếu cần sa và lên xe đi vòng quanh thị trấn. Không một chút ngại ngần, Ringall vui vẻ vào xe và thưởng thức những điếu thuốc với những người bạn mới. Khi đang mải mê với những hơi thuốc, bỗng nhiên người đàn ông đó kéo Ringall về phía mình và tiêm Chloroform gây mê. Ringall lịm đi và chỉ tỉnh lại vài lần trong suốt quá trình trên xe ô tô. Song mỗi lần cố gắng gượng dậy để quan sát quang cảnh đường phố xung quanh và tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra với mình, anh lại bị người đàn ông lạ mặt tiêm một mũi Chloroform.
Sau khi tỉnh lại, Ringall chỉ nhớ đã ở trong một ngôi nhà và nhìn thấy một người đàn ông to lớn cởi trần đứng trước mặt mình cùng với một số dương vật giả với nhiều kích cỡ. Rồi kẻ lạ mặt đã sử dụng một trong những chiếc đó để cưỡng hiếp anh dã man như một tên tù nhân.
Không phải nạn nhân nào cũng may mắn thoát chết
Buổi sáng tiếp theo, Rigall thức dậy với đầy đủ quần áo trên người và nằm dưới chân tượng trong công viên Lincoln ở Chicago. Anh thấy ngạc nhiên vì mình vẫn còn sống sót sau khi bị hành hạ như vậy. Ringall tìm đến nhà bạn gái, sau đó tới bệnh viện kiểm tra và nằm lại đó 6 ngày. Trong suốt thời gian nằm viện, Jeffrey báo cho cảnh sát những thông tin ít ỏi về người đã hãm hiếp mình. Không chỉ bị rách da, bỏng và gan bị tổn hại vĩnh viễn do chất Chloroform gây nên, Ringall còn bị tổn thương nghiêm trọng về mặt tinh thần.
Điều may mắn là Ringall chưa chết. Anh là một trong số ít nạn nhân của John Wayne Gacy, Jr còn sống sót. Trong suốt khoảng thời gian 3 năm, Gacy ngày càng lún sâu vào tội ác, cưỡng dâm và giết người. Theo các số liệu điều tra, thi thể của hơn 30 người đàn ông trẻ đã được tìm thấy dưới sàn nhà của y và trong các dòng sông ở địa phương.
Kẻ khát máu đồng tính (Kỳ 2)
Có cô vợ đẹp và một gia đình sung túc hoàn hảo nhưng John Wayne Gacy, Jr đã đạp đổ tất cả vì thú vui bệnh hoạn, quan hệ đồng giới với những chàng trai trẻ làm việc cho gã. Không chỉ có vậy, gã còn giết hơn 30 nạn nhân xấu số.
Năm 1942, ông bà John Wayne Gacy và những kiều bào Ireland ở Chicago đã tổ chức liên hoan kỷ niệm ngày đứa con trai đầu tiên của họ ra đời tại bệnh viện Edgewater. John Wayne Gacy, Jr được sinh ra sau cô chị Joanne 2 năm. Và cũng 2 năm sau đó, cô em út Karen cũng ra đời. Tất cả những đứa trẻ nhà Gacy đều lớn lên và đi học tại các trường ở Catholic, miền Bắc Chicago.
Họ và những người hàng xóm đều thuộc tầng lớp trung lưu. Và như bao cậu bé trai đồng trang lứa khác, Gacy cũng cố tìm lấy cho mình công việc bán thời gian mỗi khi tan học. Ngoài thời gian bận bịu với công việc kiếm thêm (phát báo, làm trong tiệm tạp phẩm...), cậu còn là một hướng đạo sinh tích cực. Mặc dù không phải là một đứa trẻ được ngưỡng mộ trong trường, song Gacy luôn được thầy cô giáo, những người chủ và bạn bè trong nhóm hướng đạo sinh yêu quý.
Năm lên 11 tuổi, Gacy đã gặp một vụ tai nạn trong khi chơi đùa và hậu quả là cậu đã bị một cục máu tụ ở trong não. Tuy nhiên, không ai biết chuyện này cho đến khi cậu bé được 16 tuổi. Trong 5 năm đó, đôi lúc Gacy bị rơi vào trạng thái mất trí nhớ tạm thời và căn bệnh này chỉ được chữa trị khi các bác sỹ phát hiện ra nguồn gốc vấn đề và làm tan vết máu tụ.
Nhưng bệnh tật dường như không buông tha cậu. Năm 17 tuổi, Gacy được chuẩn đoán là mắc một số vấn đề về tim. Tuy nhiên, dù đã đi khám ở rất nhiều nơi song không bác sỹ nào biết rõ chính xác bệnh tật mà chàng trai đang trưởng thành này mắc phải. Song kể cả khi bị bắt sau này, Gacy cũng không lần nào phải trải qua cơn trụy tim hay đau nhức nào.
Trong thời gian cuối của tuổi thiếu niên, Gacy có một số bất đồng với cha mình, mặc dù các mối quan hệ với mẹ và chị, em gái vẫn tốt đẹp. John Wayne Gacy, Sr là một người nghiện rượu luôn chửi bới vợ và con cái thậm tệ. Mặc dù đó là một người cha khó ưa, song hồi trẻ Gacy rất yêu ông và muốn hết lòng chăm sóc. Thật không may, cậu bé lại không bao giờ nhận được điều đó ở cha mình trước khi ông qua đời, chính điều này làm toàn bộ cuộc sống của Gacy thay đổi.
Sau khi học tới 4 trường trung học trong năm cuối mà không được tốt nghiệp, Gacy quyết định bỏ nhà để tới Las Vegas. Trong thời gian ở đó, hắn làm việc bán thời gian tại nhà tang lễ. Nhưng cuộc sống ở đây chẳng vui vẻ chút nào bởi Gacy không tìm được công việc ra hồn. Gã chỉ cố gắng kiếm cho đủ số tiền để quay trở về nhà nhưng với một thanh niên chưa tốt nghiệp trung học, điều này thật sự rất khó. Phải mất tới 3 tháng, Gacy mới kiếm đủ tiền mua vé quay trở lại Chicago cùng với mẹ và 2 chị em gái đang nóng lòng chờ đợi.
Đó là vào khoảng đầu những năm 1960, Gacy tự đăng ký theo học kinh doanh ở một trường cao đẳng và cũng tốt nghiệp. Quả thật, hắn ta theo ngành này như thể là được sinh ra chỉ để làm việc đó. Với sự nỗ lực không ngừng, Gacy cũng được nhận vào làm tại công ty Nunn-Bush Shoe. Song đó cũng là thời gian sức khỏe của Gacy trở nên tồi tệ, gã bắt đầu phải chịu những vấn đề về quả tim không tốt của mình. Dù có lúc phải nằm viện vì bệnh tim quái ác, thậm chí cả một lần bị chấn thương cột sống, tuy nhiên hắn ta không từ bỏ công việc hay bất cứ hoạt động nào khác.
Trong khi ở Springfield, Gacy tham gia vào một số tổ chức phục vụ cộng đồng: chủ tịch thành viên câu lạc bộ Chi Rhon; thành viên hội đồng câu lạc bộ Công giáo thành phố; phòng dân dụng Liên bang Illinois; chỉ huy phòng dân dụng quốc phòng ở Chicago và tổ chức Jaycees, nơi gã dành rất nhiều tâm huyết để rồi nhận được thành quả: trở thành phó chủ tịch đầu tiên và được trao cho danh hiệu "Người đàn ông của năm".
Gacy dành phần lớn thời gian rảnh rỗi của mình để tham gia vào các tổ chức cộng đồng quan trọng. Những ai biết Gacy đều hiểu rằng hắn là một người đầy tham vọng và rất muốn tạo tên tuổi của mình trong cộng đồng. Gã làm việc quá chăm chỉ đến mức phải nhập viện vì bị kiệt sức.. Tuy nhiên lại một lần nữa, hắn ta chủ quan với sức khỏe của mình và để những vấn đề này tồn tại song song với cuộc sống và hạnh phúc.
Kết hôn
Tháng 09/1964, Gacy kết hôn với người đồng sự Marlynn Myers, con gái của ông bà chủ chuỗi nhà hàng Gà Rán Kentucky tại Waterloo, Iowa. Fred W. Myers, bố vợ Gacy quyết định giao cho gã quản lý "mắt xích" trong hệ thống của ông. Và rồi gã đã cùng vợ tới Iowa để làm công việc kinh doanh được ủy thác. Gacy dành rất nhiều tâm huyết với mong muốn đưa tên tuổi nhà hàng ăn nhanh này trở nên nổi tiếng khắp vùng. Ngoài thời gian làm việc, hắn ta vẫn tham gia vào các hoạt động tại Waterloo, Iowa, Jaycees, và nhận được sự kính trọng của rất nhiều bạn bè. Trong cuốn sách của Clifford L. Linedecker có tên "Kẻ sát nhân đã giết những cậu bé" có viết: "Anh ta muốn trở nên thành công và được tán dương về những dự án mình đã dành rất nhiều thời gian để làm. Anh ta nguyện dâng hiến tất cả sức lực cho Jaycees".
Tuy nhiên, Gacy vẫn dành thời gian bên vợ mỗi khi rảnh rỗi. Chẳng bao lâu sau khi tới Iowa, Marlynn đã hạ sinh được 1 cậu con trai. Niềm vui chưa dừng lại ở đó, chỉ chừng 1 năm sau, họ lại hân hoan đón nhận 1 bé gái chào đời. Những năm tháng đầu tiên ở Iowa thật là tuyệt với với gia đình Gacy. Họ cùng sống tại một ngôi nhà ở ngoại ô với sự ấm cúng của 1 gia đình hạnh phúc. Marlynn ở nhà chăm sóc những đứa con còn Gacy rất vui với công việc của mình. Quả thực, mọi chuyện diễn ra quá tốt đẹp.
Mọi thứ dường như đang rất tốt với John Wayne Gacy, Jr song cuộc sống hạnh phúc này không kéo dài quá lâu. Tin đồn về sở thích khác thường của Gacy trong đời sống tình dục nhanh chóng lan rộng ở thị trấn và trong tổ chức Jaycees. Tất cả mọi người nghe được những câu chuyện về Gacy quan hệ đồng giới với những chàng trai trẻ làm việc cho gã tại cửa hàng phục vụ đồ ăn nhanh. Song, một số người không tin và coi đó là những lời đồn thổi. Nhưng họ đã ngã ngửa khi điều này được chứng thực vào tháng 05/1968.
Kẻ khát máu đồng tính (Kỳ 3)
Hàng xóm luôn khó chịu về mùi khủng khiếp xung quanh ngôi nhà của Gacy. Tuy nhiên, gã giải thích rằng do ẩm mốc ở ao nuôi cá dưới ngôi nhà gây nên. Đương nhiên đó không phải là mùi ẩm mốc, Gacy là người biết rõ nhất nguyên do thực sự là gì và y đã giữ được bí mật này trong nhiều năm.
Vào mùa xuân năm 1968, Gacy bị bồi thẩm đoàn ở tỉnh Black Hawk kết tội về hành vi giao cấu với trẻ vị thành niên, cậu bé xấu số đó tên là Mark Miller. Miller khai với tòa đã bị Gacy lừa gạt trong khi đến thăm nhà của hắn một năm trước đó, và bị y cưỡng dâm. Tuy nhiên, Gacy đã phủ nhận tất cả những lời buộc tội và khẳng định cậu bé tự nguyện quan hệ tình dục với anh ta với mục đích kiếm tiền.
Song Miller chưa nhận được bất cứ đồng nào từ Gacy. Bốn tháng sau, Gacy thuê được cậu bé 18 tuổi có tên Dwight Andersson. Hắn trả cho Andersson 10 đô la cộng với hơn 300 đô la để đi thuê chiếc xe để đi đánh Miller. Cậu bé dụ dỗ Miller lên xe của mình, đèo nó đến một khu rừng nhỏ rồi bắt đầu ra tay đánh đập. Nhưng Miller cũng chẳng vừa, nó đánh trả làm gãy mũi Andersson rồi chạy tới báo công an. Andersson bị bắt và khai ra Gacy, kẻ đã thuê mình này làm việc này.
Một thẩm phán quyết định cần có một cuộc kiểm tra tổng thể về thần kinh đối với Gacy. Và sau đó các bác sỹ cho biết hắn ta hoàn toàn tỉnh táo. Chỉ khi đó, gã mới nhận tội và giải thích về việc làm sai trái của mình. Với hành vi đó, Gacy đã phải nhận án 10 năm tù giam ở nhà lao dành cho nam giới tại Iowa. Đó là khung hình phạt tối đa cho những kẻ phạm tội như vậy. Khi đó John Wayne Gacy, Jr mới có 26 tuổi. Và chẳng bao lâu sau khi Gacy vào tù, vợ chồng hắn đã "đường ai nấy đi" vì người phụ nữ thùy mị kia không thể chịu đựng được con người bệnh hoạn như vậy.
Trong tù, Gacy tỏ ra là một tù nhân khá "gương mẫu", chấp hành mọi quy định bởi gã mong sẽ được thả trước thời hạn. 18 tháng sau, hi vọng của Gacy trở thành sự thật: hắn được phóng thích. Ngày 18/06/1970, hắn được trả tự do và trở về Chicago.
Sự khởi đầu mới
John Wayne Gacy, Jr trở về Chicago để bắt đầu "làm lại cuộc đời". Gã biết không thể xóa bỏ quá khứ song cũng không chịu ngồi im để những điều đó ảnh hưởng đến tương lai. Điều duy nhất khiến Gacy thấy xao động chính là sự qua đời của người cha khi gã đang ngồi tù. Có lẽ cú sốc khiến hắn bị trầm cảm. Gacy ân hận khi không được gặp mặt cha lần cuối. Hắn nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ còn cơ hội để cải thiện mối quan hệ với cha mình, ông John W. Gacy, Sr. Sau khi ra tù, Gacy đã phải rất khó khăn để vượt qua được chứng trầm cảm. Hắn chuyển về ở với mẹ và làm đầu bếp tại một nhà hàng ở Chicago, công việc mà hắn rất yêu thích.
Sau bốn tháng chung sống với mẹ, Gacy quyết định ra ngoài ở riêng. Mẹ của hắn cảm thấy hài lòng về cậu con trai của mình khi quyết chí làm lại cuộc đời nên đã giúp mua cho căn nhà riêng ở ngoại ô thành phố Chicago. Nửa ngôi nhà mới ở 8213 đại lộ phía tây Summerdale trong thành phố Norwood thuộc sở hữu của Gacy, còn mẹ, hai chị, em gái ở một nửa còn lại.
Gacy rất hài lòng với hai phòng ngủ mới, phong cách và vị trí của ngôi nhà rất đẹp, sạch sẽ. Gã nhanh chóng kết bạn với hàng xóm, Edward và Lillie Grexa, những người sống ở khu phố từ thời gian đầu tiên nó được xây dựng. Sau bảy tháng sống ở căn nhà mới, gã đã đi chơi cùng Lillie trong đêm Giáng Sinh và mời cô nàng về nhà ăn tối với mẹ của mình. Những người hàng xóm nhanh chóng trở thành bạn bè và tụ tập nhau uống rượu hoặc chơi bài poker trong sự thoải mái của gia đình. Tuy nhiên, 2 chị em nhà Grexa không hề nghĩ Gacy từng là tội phạm giết người hay chịu sự trừng phạt của pháp luật cách đây không lâu.
Hơn một tháng sau khi chị em nhà Grexa đến dự bữa tối ở nhà Gacy trong đêm Giáng Sinh, gã đã bị buộc tội cưỡng ép một cậu bé quan hệ tình dục với hắn ta trên xe bus.
Và tình yêu mới
Ngày 01/06/1972, Gacy cưới Carole Hoff, người phụ nữ đã có một đời chồng và hai con gái. Trong khi Gacy đang bị tổn thương, Carole xuất hiện và 2 người trở nên gắn bó với nhau. Cho dù biết hắn đã từng vào tù ra tội, song cô vẫn tin vào sự hoàn lương, tin vào phần thiện trong mỗi con người.
Carole và hai cô con gái nhanh chóng ổn định cuộc sống trong ngôi nhà mới với Gacy. Cặp vợ chồng này duy trì mối quan hệ với hàng xóm xung quanh, thường xuyên tổ chức những bữa tiệc của gia đình. Nhưng hàng xóm luôn khó chịu về mùi khủng khiếp xung quanh ngôi nhà của Gacy. Gã giải thích rằng do ẩm mốc ở ao nuôi cá dưới ngôi nhà gây nên. Đương nhiên đó không phải mùi ẩm mốc, Gacy là người biết rõ nhất nguyên do thực sự là gì và y đã giữ được bí mật này trong nhiều năm.
Kẻ khát máu đồng tính (Kỳ 4)
"Chính trị gia" Gacy luôn cố gắng còng tay những đứa trẻ vì cho rằng đó là cách chắc chắn nhất, rồi hắn bắt đầu cởi hết quần áo của chúng. Rất nhiều cậu bé đã trở thành nạn nhân của yêu râu xanh đội lốt chính trị gia này.
Mặc dù nhiều bạn bè, thành viên trong gia đình và hàng xóm đều phàn nàn về mùi lạ bốc lên từ nhà của Gacy, song điều đó không ngăn cản họ tới dự những buổi tiệc tùng ở đó. Hắn luôn mời tất cả những người thân thiết nhất tới nhà. Lần kỷ lục là có hơn 300 người tới dự buổi tiệc thịt nướng do Gacy tổ chức. Tất cả đều thành công mỹ mãn. Mọi người được mời tỏ ra vui vẻ sau những buổi liên hoan và hắn cảm thấy điều đó rất quan trọng.
Khát vọng trở lại
Năm 1974, Gacy quyết định muốn dấn thân vào con đường kinh doanh. Hắn bắt đầu những hợp đồng kinh doanh về vẽ tranh, trang trí, bảo trì hay nhà thầu... Điều đặc biệt là gã luôn thuê các chàng trai trẻ làm việc.
Gacy nói với những người bạn về lý do thuê họ là bởi nhân công rẻ. Tuy nhiên, đây không phải mục đích duy nhất. Nhu cầu sinh lý đã thôi thúc hắn làm việc đó: thuê những chàng trai trẻ để quan hệ tình dục. Mọi chuyện dần dần rõ ràng hơn với mọi người xung quanh, đặc biệt là vợ gã.
Khoảng năm 1975, mối quan hệ giữa Carole và Gacy đã có những rạn nứt. Đời sống chăn gối không được duy trì thường xuyên, tâm tính của Gacy trở nên thay đổi. Hắn thường xuyên tức giận, ném đồ đạc. Gacy bị mắc chứng mất ngủ, điều này càng làm vấn đề của hắn trở nên nghiêm trọng hơn. Buổi tối, Gacy rất hiếm khi về nhà và nếu có về, hắn cũng loay hoay làm việc gì đó ở bên ngoài ngôi nhà hoặc trong gara. Và Carole vô cùng lo lắng về những biểu hiện đó của chồng.
Đã có thời gian gã đi đóng các vai hề để mua vui cho trẻ con
Không những buồn vì chồng chẳng thiết tha chuyện phòng the mà Carole còn đau lòng hơn khi tìm thấy những cuốn tạp chí có hình đàn ông và trai trẻ khỏa thân trong phòng. Cô biết rằng Gacy đọc và lựa chọn nó do có ham muốn xác thịt với đàn ông. Trên thực tế, hắn cũng đã nói với Carole mình thích con trai hơn những người phụ nữ. Đương nhiên, Carole chẳng muốn tiếp tục gắn bó với con người này và cuộc hôn nhân của họ chấm dứt vào ngày 02/03/1976.
Dù vấn đề tình cảm gia đình không thực sự suôn sẻ nhưng song Gacy không vì thế mà từ bỏ những giấc mơ của mình. Là một người đàn ông làm ăn phát đạt được công nhận và chú ý, Gacy nhìn rõ tầm quan trọng của chính trị trên thế giới, gã hy vọng rằng sẽ có danh tiếng trên đấu trường này. Với tham vọng lớn lao, Gacy còn muốn có chức vụ trong cộng đồng.
Hoài bão chính trị
Gacy nhận ra rằng để có được tên tuổi trong lĩnh vực này cần phải tình nguyện tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Lấy được lòng mọi người chính là chìa khóa của sự thành công. Chúa đã ban tặng cho Gacy khả năng thuyết phục người khác, luôn sáng tạo trong công việc và rốt cuộc, những cố gắng của hắn cũng được công nhận. Gacy gây được sự chú ý của Robert F. Matwick, một quan chức trong thành phố.
Không biết quá khứ của Gacy và ấn tượng với ý thức trách nhiệm, sự cống hiến cho cộng đồng, Matwick giao cho Gacy vào nhiệm vụ bật tắt đèn đường. Năm 1975, hắn trở thành thủ quỹ trong uỷ ban thành phố. Dường như, ước mơ của Gacy bắt đầu trở thành sự thật, song sự nghiệp chính trị của y chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Rắc rối bắt đầu khi những thông tin về việc Gacy thích quan hệ với trẻ vị thành niên xuất hiện.
Một trong những nguyên nhân của tin đồn bắt nguồn từ trong thời gian Gacy tham gia làm sạch trụ sở Đảng dân chủ. Tony Antonucci, một trong những đứa trẻ vị thành niên từng làm việc với gã trong dự án, đã tố cáo Gacy có hành vi đồi bại: "Ông Gacy tiến về phía tôi, đe dọa khiến tôi khiếp sợ. Sau đó, ông ta đẩy tôi lên ghế và bắt đầu làm tình". Gacy cười lớn và giải thích tất cả chỉ do thằng bé bịa đặt ra và trong vòng 1 tháng, hắn đã không động chạm tới Tony.
Tuy nhiên sau đó, Gacy lại tiếp cận cậu bé tội nghiệp. Hắn luôn cố gắng còng tay những đứa trẻ vì cho rằng đó là một chắc chắn nhất rồi hắn bắt đầu cởi hết quần áo của chúng ra.
Kẻ khát máu đồng tính (Kỳ 5)
Tuy nhiên trong 1 lần bất cẩn, hắn đã trói Tony không được chặt và cậu bé thoát ra, hạ đo ván kẻ dâm ô. Tony còng tay Gacy lại cho đến khi y hứa sẽ không bao giờ đụng vào người cậu 1 lần nữa. Sau vụ việc đó, chàng trai trẻ này vẫn tiếp tục làm cho hắn chừng 1 năm nữa.
Mất tích
Johnny Butkovich là một người đam mê xe ô tô và chàng thanh niên 17 tuổi này rất tự hào với chiếc xe 1968 Dodge của mình. Cậu ta chăm chút "xế hộp" rất cẩn thận. Song chi phí để nuôi dưỡng niềm đam mê này quá sức với một thanh niên 17 tuổi. Vậy nên cậu ta bắt đầu đi kiếm việc làm.
Johnny làm bắt đầu làm việc cho Gacy. Cả 2 phối hợp với nhau trong công việc rất tốt nhưng mối quan hệ này bất ngờ sụp đổ khi Gacy từ chối trả cho chàng thanh niên 2 tuần lương (gã vẫn thường xuyên quỵt tiền của người lao động để bỏ túi mình). Tức giận với những gì ông chủ mình đã làm, Johnny đã cùng 2 người bạn tới nhà gã để đòi tiền. Cậu ta dọa sẽ đưa vấn đề này ra pháp luật, khiến Gacy vô cùng tức giận. Dường như nhận ra cơ hội thành công là rất nhỏ, Johnny và bạn đã rời khỏi nhà gã. Cậu thanh niên 17 tuổi này đưa các bạn về nhà rồi mới lái xe đi và đó là lần cuối cùng người ta thấy Johnny Butkovich xuất hiện trên cõi đời này.
Michael Bonnin cũng chịu số phận không khác là bao so với Johnny. Chàng thanh niên 17 tuổi luôn mê mẩn với chiếc bào và thường xuyên bận bịu với nghề mộc. Song cậu chẳng bao giờ có thể đạt được những ước mơ với nghề của mình. Vào tháng 06/1976, trong lúc bắt tàu để tới gặp đứa em trai cùng mẹ khác cha, Bonnin đã biến mất.
Billy Carroll, Jr là một đứa trẻ luôn dính vào những rắc rối. Năm lên 9 tuổi, cậu chịu sự quản dưỡng khi dính líu vào một vụ cướp. Chỉ 2 năm sau, Carroll lại tiếp tục bị bắt khi mang theo mình một khẩu súng. Tuổi ấu thơ của cậu bé chỉ gắn liền với những vụ ẩu đả, gây lộn trên đường phố tại Uptown, Chicago. Khi 17 tuổi, Carroll kiếm tiền bằng cách dẫn mối cho những nam thanh niên quan hệ đồng tính với khách hàng. Cuộc sống của cậu khác hẳn với Johnny Butkovich và Michael Bonnin, song tất cả đều chịu chung 1 số phận. Vào ngày 13/06/1976, Carroll rời khỏi nhà và không bao giờ quay trở lại.
Những manh mối đầu tiên
Gregory Godzik rất yêu quý công việc tại nhà thầu PDM của Gacy và cậu không bao giờ bận tâm đến những công việc vặt vãnh mà ông chủ giao cho như dọn dẹp... Tiền kiếm được từ công việc đã giúp Godzik mua được từng bộ phận của chiếc xe 1966 Pontiac. Và đương nhiên cậu ta cũng rất tự hào về chiếc xe. Vào ngày 12/12/1976, như thường lệ, Godzik đi chơi cùng bạn gái sau đó lái xe trở về nhà. Vài hôm sau, cảnh sát tìm thấy chiếc Pontian, song chủ nhân của nó đã mất tích. Khi đó Gregory Godzik mới 17 tuổi.
Gregory Godzik
Ngày 20/01/1977, John Szyc cũng mất tích giống như những chàng trai trẻ Gregory Godzik. Cậu thanh niên 19 tuổi này ra khỏi nhà cùng với chiếc 1971 Plymouth Satellite và đó là lần cuối cùng mọi người thấy sự xuất hiện của cậu. Nhưng chỉ vài ngày sau vụ mất tích bí ẩn của John Szyc, một thanh niên khác đã bị cảnh sát tóm được khi đang cố gắng rời khỏi trạm đổ xăng trên chiếc 1971 Plymouth Satellite mà không chịu trả tiền. Cậu ta cho hay người đàn ông sống cùng nhà có thể giải thích vấn đề này. Và kẻ đó không ai khác, chính là Gacy. Gã khai với cảnh sát rằng mấy hôm trước, Szyc đã bán lại cho hắn chiếc xe đó. Thậm chí hắn còn đưa ra giấy tờ ký kết bán xe. Sơ suất của cảnh sát chính là không kiểm tra chữ ký đó có phải là của Szyc hay không.
Robert Gilroy lại là người ưa thích cuộc sống không bị gò bó. Cắm trại, du lịch và ngựa là những thú vui của cậu. Vào 15/09/1977, gia đình cứ tưởng rằng chàng thanh niên 19 tuổi này đã đi cùng mấy người bạn tới một trại nuôi ngựa nhưng sự thực không phải như vậy. Khi nghe tin con trai mất tích, bố của Robert, một cảnh sát ở Chicago, ngay lập tức tổ chức tìm kiếm. Dù đã mở một cuộc truy tìm rộng lớn trên khắp khu vực, song Robert Gilroy vẫn bặt vô âm tín.
Hơn 1 năm sau, một chàng trai trẻ khác là Robert Piest cũng biến mất một cách bí ẩn. Các nhà chức trách quyết tâm phá bằng được những vụ mất tích kỳ lạ này. Đó chính là bước đột phá mang lại cú sốc thực sự với thành phố Chicago và toàn thể nước Mỹ.
Robert Piest mới chỉ 15 tuổi mất tích sau khi đi khỏi cửa hàng dược phẩm nơi cậu làm việc. Piest nói với mẹ hãy chờ mình nói chuyện với ông chủ thầu về công việc mới trong tương lai, tuy nhiên, cậu đã không bao giờ trở lại. Đợi con quá lâu, bà đâm lo và đi tìm khắp khuôn viên xung quanh cửa hàng dược phẩm nhưng mọi cố gắng chỉ là vô vọng. Ba tiếng sau khi Piest mất tích, cảnh sát ở Des Plaines đã được thông báo và ngay lập tức Lieutenant Joseph Kozenczak đã mở cuộc truy tìm tung tích. Bằng các phương pháp nghiệp vụ, họ không mất quá nhiều thời gian để biết được tên tuổi người chủ thầu đã nói chuyện với Piest. Điều tra viên Kozenczak tới nhà người đàn ông đó. Và người ra mở cửa không ai khác chính là Gacy.
Kozenczak yêu cầu Gacy tới đồn cảnh sát để lấy lời khai. Tuy nhiên, hắn cho hay mình không thể rời khỏi nhà lúc này bởi gia đình mới có người mất. Vài giờ sau, Gacy mới đến trình diện cảnh sát. Hắn khẳng định mình không hay biết về sự mất tích của Robert Piest và được trở về nhà sau khi đã trả lời trau chuốt những câu hỏi của cảnh sát. Không chịu bỏ cuộc, Kozenczak quyết định trở lại nhà Gacy vào ngay hôm sau. Viên cảnh sát này đã thực sự bất ngờ khi chứng kiến hắn ta đang quan hệ đồng tính với 1 thanh niên. Và ngay lập tức ông xin lệnh khám nhà Gacy với hy vọng tìm được Robert Piest.
Kẻ khát máu đồng tính (Kỳ 6)
Với sự kiên trì của các điều tra viên, bí mật về ngôi nhà hôi thối của Gacy đã được hé lộ.
Bằng chứng
Vào ngày 13/12/1978, cảnh sát lục soát nhà của John Wayne Gacy, Jr trên đại lộ Summerdale. Hắn không được phép ở nhà của mình trong suốt quá trình điều tra. Thanh tra Kautz, người chịu trách nhiệm khám xét, đã kiểm kê những chứng cớ được tìm thấy trong ngôi nhà. Tất cả đều bị tịch thu:
- Một hộp trang sức và một số vòng bao gồm một chiếc có khắc tên lớp học của trường trung học phía tây Maine năm 1975 và chữ viết tắt JAS.
- Một hộp đựng cần sa và nhiều cuốn giấy tờ.
- Bảy bộ phim khiêu dâm có xuất xứ từ Thụy Điển.
- Các viên thuốc bao gồm Armyl, nitrite và Valium (thuốc làm giảm căng thẳng thần kinh).
- Một con dao dọc giấy.
- Một thảm trải sàn.
- Một số bức ảnh màu chụp nơi chế thuốc và nơi chứa chất gây nghiện.
- Một cuốn sổ địa chỉ.
- Một cái cân.
- Những tác phẩm nói về tuổi thanh thiếu niên, các quyền của người đồng tính, tình dục giữa người đàn ông và trai trẻ, 20 vụ án sex khác thường...
- Hướng dẫn quan hệ đồng tính.
- Cặp chìa khóa mở còng tay.
- Một tấm ván dài với 2 cái lỗ ở mỗi đầu.
- Một khẩu súng lục bắn đạn 6mm.
- Huy hiệu cảnh sát.
- Một dương vật giả dài 18 inch được tìm thấy dưới gác mái.
- Một kim tiêm và một chai nhỏ màu nâu.
- Bộ quần áo quá nhỏ so với Gacy.
- Biên lai mua một cuộn phim.
- Dây ni lông.
Ba chiếc ô tô của Gacy bị tịch thu bao gồm: chiếc 1978 Chevrolet, 1979 Oldsmobile Delta 88 và 1 chiếc xe tải. Bên trong một chiếc xe đó cảnh sát tìm được sợi tóc, theo điều tra nó phù hợp với tóc của Rob Piest.
Ngoài ra họ còn muốn thu thập thêm chứng cứ về ao cá ở dưới ngôi nhà. Điều đầu tiên mà những điều tra viên cảm nhận thấy đó chính là mùi hôi thối, họ cho rằng do nước thải ở cống rãnh. Song cảnh sát không tìm được thứ gì trong cuộc điều tra đầu tiên, rốt cuộc, họ phải quay về trụ sở để nghiên cứu và thử nghiệm một số bằng chứng.
Gacy được cảnh sát gọi vào và đưa cho xem các bằng chứng mà họ đã tìm thấy. Hắn nổi giận và ngay lập tức gọi cho luật sư của mình. Khi cảnh sát đặt câu hỏi về sự mất tích của cậu bé Piest, Gacy đã phủ nhận tất cả. Vì không có bằng chứng xác thực nào nên cuối cùng họ đành phải cho Gacy về nhà sau khi bị giam 24h.
Các thi thể của những nạn nhân xấu số được phát hiện
Rùng rợn
Trong suốt những ngày cảnh sát lục soát, một vài người bạn của gã đã gọi đến trụ sở và muốn biết cặn kẽ câu chuyện. Gacy đã nói với người bạn của mình rằng, cảnh sát muốn tìm bằng cớ để kết tội giết người cho hắn. Từ các cuộc thẩm tra, các nhà chức trách thu thập được rất ít thông tin về mối quan hệ giữa Gacy và Robert Piest. Bạn bè cũng không tin hắn là thủ phạm giết những đứa trẻ vị thành niên.
Không nản lòng thu thập bằng chứng về sự mất tích bí ẩn của Piest, họ quyết định bắt giữ Gacy về tội tàng trữ cần sa và thuốc Valium. Cảnh sát không hề biết rằng trước khi bị bắt giữ, Gacy đã kể với một người bạn rằng mình thực sự giết người. Gacy còn nói rằng mình giết khoảng 30 người, họ rất xấu xa vi đã hăm dọa tống tiền.
Trong khoảng thời gian Gacy bị bắt, Ringall đến tố cáo người đã hãm hiếp mình. Nhờ vào trí nhớ của Ringall trước khi bị đánh thuốc mê, cảnh sát đã buộc tội được chính Gacy là gã đàn ông đó. Vì thế, gã phải chịu thêm tội cưỡng dâm và nộp các khoản phí cho vụ việc trên.
Cuối cùng, sau khi xét nghiệm một số bằng chứng tìm được ở nhà Gacy, cảnh sát phát hiện ra một trong những chiếc vòng của Johnny Szyc, mất tích một năm trước đó. Họ cũng tìm được răng của 3 thanh nhiên từng làm việc cho Gacy, những người đã biến mất một cách rất bí ẩn. Biên lai của các cuốn phim tìm thấy trong nhà Gacy cũng được xác định là của Robert Piest. Với những thông tin mới, các điều tra viên dần nhận thức được điều ẩn chứa sau đó là một tội ác đáng sợ.
Rất nhanh chóng, cảnh sát quay trở lại nhà của Gacy để điều tra. Với những phương pháp nghiệp vụ, cuối cùng, Gacy cũng nhận tội nhưng biện minh rằng đó chỉ là những hành động tự vệ. Hắn chỉ cho cảnh sát phía dưới nhà để xe, nơi hắn chôn những xác chết. Nhưng họ không bắt đầu ngay ở đấy mà muốn tìm hiểu hết bí mật ở ao nuôi cá dưới ngôi nhà này. Không lâu sau họ phát hiện ra đống đất và cho người đào lên. Quả đúng như dự đoán, các điều tra viên đã tìm ra những bộ phận còn sót lại của các thi thể.
Kẻ khát máu đồng tính (Kỳ 7)
Gacy khẳng định hắn đã hãm hiếp và giết tối thiểu 30 chàng trai. Và từ "tối thiểu" được khẳng định khi con số nạn nhân tăng lên 32 trong một cuộc điều tra mới của cảnh sát.
Tối đó, tiến sĩ pháp y, Robert Stein gọi điện đến xin giúp đỡ điều tra. Sau khi đến nhà của Gacy, ông lập tức nhận ra một mùi quen thuộc, đó là mùi của sự chết chóc.
Tiến sĩ Stein bắt đầu tổ chức tìm kiếm thi thể bằng cách đánh dấu tất cả vùng đất có thể khai quật như trong ngành khảo cổ học. Với kinh nghiệm của mình, ông biết rằng phải đào những xác chết đã phân hủy này một cách thật cẩn thận nhằm bảo toàn những chứng cứ quan trọng này. Suốt đêm và cả những ngày sau đó, việc đào bới được xúc tiến dưới sự theo dõi thận trọng của tiến sĩ Stein.
Số tử vong
Thứ 6, ngày 22/12/1978, cuối cùng Gacy cũng phải thú nhận với cảnh sát rằng mình giết tối thiểu 30 người và hầu hết đều chôn nạn nhân ở dưới ao nuôi cá trong ngôi nhà. Theo cuốn sách Killer Clown: Kẻ giết người John Wayne Gacy của đồng tác giả Sullivan and Maiken, Gacy nói rằng: "Nạn nhân đầu tiên tôi giết vào tháng 01/1972. Tới tháng 01/0974 thì ra tay lần thứ hai". Hắn thú nhận thêm rằng trước khi hãm hiếp đã còng tay họ thật chắc để dễ bề hành động. Hắn nhét quần lót vào mồm để bịt miệng nạn nhân, sau đó ra tay giết hại bằng cách dùng sợi dây hoặc tấm ván thắt chặt vào cổ họng cho đến chết. Hắn còn khai rằng còn để những xác chết dưới gầm giường, tầng áp mái trong vài giờ trước khi chôn cất ở đó.
Vào ngày đầu tiên mà cảnh sát bắt đầu tiến hành đào bới, họ tìm được hai thi thể. Một trong số đó được xác định là John Butkovich, được chôn dưới nhà để xe. Thi thể còn lại được tìm thấy trong ao cá. Ngày qua ngày, các thi thể cũng vì thế tăng lên. Một số nạn nhân còn nguyên những chiếc quần lót của mình trên cổ họng. Các nạn nhân khác được chôn cất rất gần nhau, theo kết luận của cảnh sát họ có thể bị chôn cùng lúc hoặc bị giết cùng một thời gian. Gacy cũng xác nhận với cảnh sát có khi hắn ra tay nhiều hơn một người trong ngày.
Vào 28/12, cảnh sát đã di chuyển hết 27 thi thể ra khỏi nhà của Gacy, còn những nạn nhân không được chôn ở đây cũng sớm được tìm ra. Xác chết trong trạng thái lõa thể được tìm thấy dưới dòng sông Des Plaines được xác định là Landingin. Thời gian này, cảnh sát vẫn chưa khẳng định Gacy đã đẩy xác nạn nhân xuống sông. Nhưng, các điều tra viên đã tìm thấy bằng lái xe của Landingin trong nhà của Gacy và ngay lập tức họ kết nối với cái chết của những thanh niên trẻ. Landingin không phải thi thể duy nhất được tìm thấy dưới sông.
Ngoài ra, vào ngày 28/12, cảnh sát đã cho di dời thi thể của James "Mojo" Mazzara ở sông Des Plaines, người vẫn còn quần lót trong cổ họng. Các điều tra nói rằng những chiếc quần lót đó được nhồi vào cổ họng khiến nạn nhân nghẹt thở. Đây cũng chính là nguyên nhân gây ra cái chết của Mazzara.
Gacy nói với cảnh sát những nguyên do hắn bỏ xác nạn nhân xuống sông, bởi vì họ muốn chạy trốn và hắn cũng không muốn đào bới để chôn nữa. Mazzara là nạn nhân thứ 29 được tìm thấy, nhưng đây vẫn không phải là cuối cùng.
Một số xác chết được tìm thấy trong nhà của John Wayne Gacy, Jr
Những khám phá mới
Cuối tháng 2 năm đó, cảnh sát tiếp tục đào bới căn nhà của Gacy. Họ đã xới tung tất cả xong không thể tìm thêm được thi thể nào. Và thời gian thu thập chứng cứ và điều tra diễn ra dài hơn dự kiến khi mùa Đông lạnh lẽo ập đến, mặt đất đóng băng và việc đào bới trở nên khó khăn. Song họ không bỏ cuộc. Những điều tra viên tin rằng vẫn còn nhiều nạn nhân chưa được tìm thấy và họ đã đúng.
Khi các công nhân đào đến bên ngoài hành lang nhà Gacy, họ đã phát hiện ra những điều thật kinh khủng. Xác của một người đàn ông vẫn được bảo quản rất tốt trong 1 khối bê tông. Nạn nhân mặc một chiếc quần jean ngắn và đeo nhẫn cưới. Như vậy, đối tượng của Gacy không chỉ dừng lại ở những chàng trai trẻ hoặc đồng tính. Ngay cả những người đàn ông đã có gia đình cũng là nạn nhân của hắn.
32 thi thể đã được tìm thấy. Trong đó có một người đàn ông trẻ tuổi mang hình xăm "Tim Lee" trên cánh tay phải. Tên thật của nạn nhân là Timothy O'Rourke, quen Gacy tại quán bar dành cho người đồng tính ở New Town. Ông là fan hâm mộ của diễn viên võ thuật nổi tiếng Bruce Lee. "Tim Lee" chính là từ ghép tên ông với thần tượng của mình.
Ngoài ra, còn rất nhiều xác được kéo lên từ dưới sông Illinois. Vị trí vứt xác nằm ngay dưới phòng tập thể thao trong căn hộ của Gacy. Sau khi thu thập đủ chứng cứ, ngôi nhà tội lỗi này đã bị phá hủy. Tuy nhiên, trong 32 nạn nhân được tìm thấy vẫn không có tung tích của Robert Piest.
Kẻ khát máu đồng tính (Kỳ cuối)
Nếu bị điên, Gacy sẽ được vào chữa trị trong trại tâm thần mà không phải ngồi tù cho những hành động của mình. Liệu đó có phải cách luật sư bào chữa dùng để bảo vệ cho tên sát nhân giết chết 32 người?
Vào cuối tháng 04/1979, thi thể của Piest cũng được tìm thấy trong lòng sông Illinois. Thi thể đã bị dòng nước cuốn trôi đi khiến đợt tìm kiếm trước không đạt kết quả. Theo khám nghiệm tử thi, Piest đã chết vì tắt thở khi chiếc khăn giấy bịt miệng chui xuống họng. Cho dù đã rất cố gắng xác định danh tính, song có 9 nạn nhân vẫn chưa tìm được nguồn gốc xuất xứ.
Sau đó không lâu, Gacy bắt đầu bị đưa ra xét xử.
Xét xử
Thứ tư ngày 06/02/1980, John Wayne Gacy bắt đầu bị xét xử tại tòa án hình sự ở Chicago, Illinois. Thành viên hội thẩm đoàn bao gồm 5 phụ nữ và 7 nam giới. Luật sư Bob Egan, đại diện cho bên nguyên trình bày về cuộc đời của Robert Piest, cái chết khủng khiếp của anh và cách mà Gacy ra tay với 31 chàng trai trẻ. Egan còn nói về kết quả của cuộc điều tra, những tử thi được tìm thấy trong ngôi nhà và tất cả những việc này đều được Gacy tính toán trước trong tình trạng hoàn toàn khỏe mạnh.
Còn luật sư bào chữa cho Gacy, ông Robert Motta cho hay những lời cáo buộc của Egan về những hành động của thân chủ mình là không có căn cứ. Ông khẳng định Gacy có vấn đề về thần kinh và không kiểm soát được hành động của mình.
Nếu bị điên, Gacy sẽ được vào chữa trị trong trại tâm thần mà không phải ngồi tù cho những hành động của mình. Hơn nữa, không có thời gian giới hạn ở trong tù đối với một người như vậy và trong nhiều trường hợp còn được tự do khi tinh thần ổn định để hòa nhập lại với xã hội. Đây là những điều tốt nhất mà Robert Motta có thể làm được lúc này cho khách hàng của mình. Nhưng điều đó thật sự không dễ dàng.
Trước khi bản án được kết luận, ông Marko Butkovich, bố của nạn nhân John Butkovich lên làm chứng đầu tiên. Ông là một trong số rất nhiều gia đình có con cái bị giết hại trong vụ án này. Một số người không kìm được những giọt nước mắt, một số người buồn rầu kể lại lần cuối cùng nhìn thấy con của mình.
Theo điều tra của các nhà tâm lý học, tên hung thủ đầy thú tính này thần kinh rất minh mẫn, nhận thức được việc mình làm trong suốt thời gian giết người. Trước khi bản án được tuyên, đã có 60 người làm chứng trước tòa.
Lời biện hộ
Vào 24/02, ngày biện hộ cho bị cáo đã diễn ra và tại phiên tòa xét xử đã có rất nhiều điều bất ngờ. Nhân chứng đầu tiên được gọi tên là Jeffrey Ringall. Nạn nhân may mắn thiết khỏi lưới hái tử thần này tin rằng Gacy là kẻ không thể kiểm xuất được những hành động của bản thân. Ngay cả người thân của hắn cũng cố gắng nói tốt dẫu biết những lời đó không thể làm giảm tội kẻ sát nhân mất hết tính người này.
Hàng trăm nhân chứng đã lần lượt lên trả lời các câu hỏi của luật sư bào chữa. Sau gần 5 tuần xử án, cuối cùng các vị bồi thẩm đoàn cũng đưa ra những phán quyết cuối cùng. Cả căn phòng im lặng. Thư ký phiên tòa đã đứng lên phá bỏ những phút giây yên tĩnh: "Chúng tôi, ban hội thẩm đã đưa ra những quyết định cuối cùng. John Wayne Gacy, Jr có tội".
Hình phạt cho kẻ giết người hàng loạt này là tử hình. Và ngày 10/05/1994, John Wayne Gacy, Jr đã bị xử tử
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro