Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với văn học Việt Nam
Việc chữ Hán trong nhiều thế kỷ được dùng làm ngôn ngữ viết chắc chắn đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Việt Nam, đến mức văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, ở nhiều phương diện, không thể tự phân biệt. Cho đến trước khi chữ Nôm ra đời - một việc làm đánh dấu sự cố gắng đầu tiên nhằm văn tự hóa tiếng Việt - thì toàn bộ văn học Việt Nam đều dùng chữ Hán còn tiếng Việt bị giới hạn trong phạm vi nói năng. Hình thức mới của chữ viết dân tộc bắt nguồn từ chữ Hán1 này không bao giờ được coi trọng trong cung đình trừ thời kỳ ngắn ngủi dưới triều Hồ Quý Ly đầu thế kỷ 15 và dưới triều Quang Trung đầu thế kỷ 18.
Hơn thế hình thức chữ viết này không bao giờ có thể đáp ứng được khát vọng của những người mong muốn xóa bỏ ranh giới phân chia giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết vì để có thể dùng được chữ Nôm trên thực tế phải biết chữ Hán. Mặc dù vậy hình thức chữ viết mới này đương nhiên rất được những người trong giới trí thức hoan nghênh. Họ dùng nó để làm thơ cũng như viết tiểu thuyết bằng thơ (truyện thơ) thường lấy cảm hứng từ văn học Trung Quốc. Hai hình thức chữ viết chủ yếu là của riêng các sĩ phu này dần dần bị thay thế bởi chữ quốc ngữ, thứ chữ viết xuất hiện vào thế kỷ 19 gắn với việc Pháp xâm lược quân sự Việt Nam. Chữ quốc ngữ xuất hiện không thể không vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của những người yêu nước phản đối lại việc chiếm đóng đất nước họ. Năm 1865 xuất hiện tờ báo quốc ngữ đầu tiên, tờ Gia Định Báo, ra hàng tháng do người Pháp lập ra, còn năm 1919 chính những kẻ đi xâm chiếm này đã chấm dứt chế độ khoa cử Hán Việt và đặt ra hệ thống giáo dục mới.
Chúng tôi sẽ tìm hiểu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với văn học chữ Hán và chữ Nôm của Việt Nam, và sau đó đặc biệt chú ý đến ảnh hưởng đối với văn học bằng chữ La tin hóa (quốc ngữ) bởi vì nền văn học quốc ngữ này được đặc tả bằng trào lưu dịch tiểu thuyết Trung Quốc. Đáng chú ý hơn cả là mục đích của Pháp khi thay chữ Hán bằng chữ La tin hóa cốt để cắt đứt văn hóa Việt Nam ra khỏi văn hóa Trung Hoa.
1. Tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam
Việc dùng chữ Hán ở Giao Châu (nay là Việt Nam) có thể đi ngược về tận đời Hán. Đời Đường có những người Việt Nam sang học tại Trung Quốc và sau đó ở lại làm quan, nổi tiếng nhất là Khương Công Phụ từng làm đến Gián nghị đại phu trong triều đình Trung Quốc2. Năm 939 Việt Nam lần đầu tiên tuyên bố là một quốc gia độc lập nhưng vẫn chưa làm thay đổi được địa vị của chữ Hán, nó vẫn là thứ ngôn ngữ quan phương cũng như Nho giáo vẫn là hệ tư tưởng chính thống. Và tiếp đó, qua các bản dịch chữ Hán, người Việt Nam được khai tâm về Phật giáo.
Cũng như Trung Quốc trong thời kỳ này văn xuôi nói chung gắn với sử. Những đoạn văn xuôi sớm nhất là chỉ dụ do chính nhà vua viết, là bản tấu của các quan đại thần và lời bàn của các sĩ đại phu chứ không phải là các tác phẩm hư cấu. Có lẽ phải đến thế kỷ 13,14 mới xuất hiện các tác phẩm thuộc một thể loại mới: đó là những câu chuyện thuộc loại sử chịu ảnh hưởng của chí quái Lục triều và truyền kỳ đời Đường. Trong số đó văn bản cổ nhất hiện còn là Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên có niên đại 1329. Tác phẩm này gồm 27 truyền thuyết theo lối truyện ký3. Một tác phẩm nữa cùng loại là Lĩnh nam chích quái (1493) của Trần Thế Pháp. Bộ sưu tập những quan sát kỳ dị này nằm giữa sử và hư cấu. Dường như chỉ với Truyền kỳ mạn lục chúng ta mới đặt chân thật sự vào địa hạt của hư cấu lịch sử. Tác giả của nó là Nguyễn Dữ, sống vào đầu thế kỷ 16, xuất thân từ một gia đình có học. Bản thân ông đã đỗ kỳ thi Hội và từng làm tri huyện ở Thanh Toàn. Nhưng chán nản vì chính sự rối ren, buồn phiền vì vận nước ông đã quyết định về ở ẩn, lấy cớ là phải chăm sóc mẹ già. Đó chính là thời kỳ ông viết tác phẩm của mình dựa theo Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1347-1433)4 Trung Quốc, chúng ta đều biết Tiễn đăng tân thoại rất phổ biến ở Trung Quốc, tác phẩm mô phỏng đầu tiên là Tiễn đăng dư thoại của Lý Xương Kỳ xuất hiện vào năm 1420 và ngay sau đó còn có thêm nhiều tác phẩm khác mà Mịch đăng nhân thoại của Thiệu Cảnh Chiêm (1592)5 nằm trong số đó. Chắc chắn loại tác phẩm “Tiễn đăng” này được đón chào không kém nồng nhiệt ở Việt Nam. Việc mô phỏng của Nguyễn Dữ cho chúng ta thấy rõ tác phẩm này đã nổi tiếng ngay đầu thế kỉ 166. Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm sớm nhất hiện còn của tiểu thuyết phúng thích Việt Nam. Nó được tái bản vài lần và đáng chú ý là có một bản in thú vị với lời tựa viết năm 1783 có chú giải bằng chữ Nôm và những lời bình khác nhau7. Tác phẩm này được đánh giá rất cao trong giới học thuật, những người này đã coi tác giả của nó là người phát ngôn cho tầng lớp trí thức thời đại mình, thể hiện sự bất bình của họ đối với những rối ren xã hội và dự cảm được sự trỗi dậy của một tầng lớp xã hội mới ở Việt Nam thế kỷ 16. Nhờ vào sự thần kỳ để cho hồn ma chồn cáo biến thành văn nhân khuyên răn tầng lớp thống trị, biến thành người đẹp dùng miệng lưỡi đưa ra những lời giáo huấn Nho giáo có thể giúp tác giả phê phán được mà không bị phiền toái. Tác phẩm này có phần tục biên là Truyền kỳ tân phả do Đoàn Thị Điểm (1705-1748) viết. Bà làm nghề dạy học và cũng nổi tiếng với bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm do Đặng Trần Côn viết bằng chữ Hán (đầu thế kỷ 18).
Cũng theo lối mô phỏng Trung Quốc, một số học giả đã viết tiểu thuyết văn xuôi lịch sử lấy bối cảnh là xã hội Việt Nam. Trong số đó có Hoàng việt xuân thu, đã được dịch ra quốc ngữ (Sài Gòn, 1971). Họ cũng viết loại văn xuôi ký sự. Sản phẩm văn chương này bị xem thường khá lâu và chỉ gần đây mới được các học giả chú ý8.
2. Truyện hay tiểu thuyết văn vần viết bằng chữ Nôm (Truyện Nôm - ND)
Truyện Nôm rất phổ biến và cho đến đầu thế kỷ 20 được lưu truyền theo lối chép tay hoặc dưới dạng những cuốn sách khổ nhỏ khắc ván. Việc sử dụng rộng rãi chữ quốc ngữ khiến cho loại sách này mất dần. Mặc dù các bản quốc ngữ với phần chú giải của phần lớn những văn bản này đến nay vẫn có thể tìm được nhưng nguyên tác bằng chữ Nôm thì không dễ tìm. Hơn thế cũng chưa có một danh mục hệ thống của tất cả những tác phẩm văn chương này và phần lớn những bản in khắc hiện còn đều không có niên đại sớm hơn nửa sau thế kỷ 19, thậm chí có thể nói không thể tìm được những bản đầu tiên nữa, ngoài ra đa số những tiểu thuyết này đều khuyết danh, tình trạng này càng tăng thêm khó khăn cho việc xác định niên đại9.
Trong khi thời kỳ hoàng kim của tiểu thuyết văn vần ai cũng rõ là rơi vào thế kỷ 17 và 18, thì cội nguồn của thể loại, ngược lại, rất khó xác định và các nhà chuyên môn đôi khi có những quan điểm bất đồng về vấn đề này. Hình thức thơ thay đổi theo thời gian và ngôn ngữ có thể giúp xác định thời kỳ ra đời của các tác phẩm. Tiếp thu các hình thức dân ca các nhà thơ cách tân đã thay thế những nguyên tắc nghiêm ngặt của thể Hàn luật10 rất khó hiểu với công chúng bình dân và gây trở ngại cho việc biểu hiện những tình cảm phức tạp và sự việc tinh tế bằng thể thơ lục bát và song thất lục bát. Đây là những thể thơ bình dị hơn rất nhiều, dễ ghép vần và không hạn định số lượng câu thơ. Chúng cho phép nhà thơ có thể diễn đạt những cảm xúc của mình tự do hơn và miêu tả sự việc phong phú đa dạng với độ dài tùy ý. Rất nhiều tiểu thuyết lớn của thế kỷ 18, 19 do vậy đã được sáng tác bằng các thể thơ này, một số tác phẩm dài đến vài ngàn câu thơ.
Mặc dù hình thức thơ ca dần dần thoát khỏi sự mô phỏng Trung Quốc nhưng mối liên hệ giữa văn học Trung Quốc và loại văn học mới này của Việt Nam vẫn rất mật thiết. Vì phần lớn những truyện Nôm này đều bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa, đôi khi đó là những giai thoại trong sử biên niên Trung Hoa như truyện về Tô Vũ (Tô Công) thời Hán được phái đi sứ Hung Nô và đã bị đầy ở đó 19 năm hay như câu chuyện về công chúa Vương Chiêu Quân (Vương Tường) cũng vào đời Hán bị gả cho Hung Nô, hoặc có thể mượn từ truyền kỳ đời Đường như truyện về Viên thị là một con vượn trắng biến thành một cô gái đẹp khiến chàng Tôn Các phải lòng; hoặc có thể từ tạp kịch đời Minh Thanh, như chuyện tình Phan Sinh-Kiều Liên lấy từ Ngọc trâm ký của Cao Liêm đời Minh. Cuối cùng, những truyện thơ này còn có thể lấy cốt truyện từ thoại bản và tiểu thuyết Minh Thanh. Việc nghiên cứu đa diện những tác phẩm đặc biệt này giúp chúng ta có thể đặt mỗi tác phẩm Việt Nam trong mối liên hệ với cội nguồn Trung Hoa hoặc nguồn cảm hứng của tác giả. Chẳng hạn, ngày nay người ta biết rằng Cần chính điện học sĩ triều Nguyễn là Nguyễn Du (1765-1820) - tác giả của tuyệt tác văn chương cổ điển Việt Nam Kim Vân Kiều - trong thời gian đi sứ Trung Hoa từ 1813 đến 1814 đã tìm thấy nguồn cảm hứng trong Kim Vân Kiều truyện, tiểu thuyết văn xuôi 28 hồi của một tác giả mà chúng ta chỉ còn biết với bút danh Thanh Tâm tài nhân. Niên đại ra đời của của tiểu thuyết này vẫn chưa rõ song chúng ta biết rằng nó được du nhập vào Nhật Bản năm 1754 và rất được hoan nghênh11. Có thể tác phẩm đã được sáng tác vào cuối thế kỷ 17 hoặc đầu thế kỷ 18. Chúng ta cũng không biết gì hơn về thời gian Nguyễn Du mô phỏng tác phẩm này. Tất nhiên ý kiến phổ biến cho rằng ông làm công việc này sau khi đi sứ về. Thời gian tác phẩm Trung Hoa này vào Việt Nam chưa được xác định chắc chắn mặc dù mọi người đều biết rằng tác phẩm đã được đọc ở Việt Nam trước khi Nguyễn Du cải tác12.
Nhìn chung, có rất ít thông tin về sự lưu truyền của tiểu thuyết Trung Quốc ở Việt Nam. Có thể giả định rằng các di dân Trung Quốc, hoặc những người buôn sách đem theo chúng vào Việt Nam. Năm 1734 tập đoàn chúa Trịnh (phía Bắc Việt Nam hiện nay) ra một chỉ dụ yêu cầu các địa phương phải ra nhiều sách hơn và cấm đưa sách từ Trung Quốc sang. Biện pháp đó cho thấy có một số lượng sách trao đổi nhất định giữa hai nước. Hơn nữa, trong 40 năm cuối cùng của thế kỷ 19 ngay cả những tác phẩm chữ Nôm đôi khi còn được in tại Quảng Đông, nhất là ở thị trấn Phật Sơn. Nhiều sách trên trang bìa đã ghi tên và nơi xuất bản ở Trung Quốc cũng như tên nhà phát hành ở Sài Gòn.
Những nghiên cứu gần đây về truyện thơ chứng tỏ rằng những truyện ra đời sớm nhất, xét theo hình thức vần luật, như Truyện Vương Tường nói về nỗi đau khổ của công chúa Vương Chiêu Quân và có người cho rằng ra đời vào thế kỷ 15 hoặc 16 không lấy cảm hứng trực tiếp từ một tiểu thuyết. Trong dẫn chứng vừa đưa ra tác giả khuyết danh Việt Nam lấy cảm hứng từ hai nguồn: một số tình tiết truyện trong Tây kinh tạp ký (thế kỷ 4) và đặc biệt là một tạp kịch Hán cung thu của Mã Chí Viễn đời Nguyên viết. Tương tự, Truyện Tô Công phụng sứ mà có người đã cho là ở thế kỷ 16 hoặc 17 thuật lại cuộc sống lưu đày của Tô Vũ ở xứ Hung Nô dường như lấy cảm hứng hoàn toàn qua tiểu sử Tô Vũ trong Hán thư. Truyện Lâm truyền kỳ ngộ (còn có tên là Bạch Viên Tôn Các truyện) gồm 150 khổ thơ thất ngôn bát cú và được giả định là ra đời từ thế kỷ 16 hoặc 17, rất có thể là truyện sớm nhất bắt nguồn trực tiếp từ một truyện truyền kỳ đời Đường nay được đưa vào một tập truyện đời Tống là Thái Bình Quảng ký (Tôn Các truyện, truyện 445). Truyện cải biên của Việt Nam giữ được sườn truyện Trung Hoa, chỉ thay đổi một số tên đất tên nhân vật, đặc biệt, truyện cho nữ nhân vật Viên thị mang lốt người là một cô gái héo hon vì thương nhớ người yêu Tôn Các đã không hề do dự khi xuống trần lần nữa để đoàn tụ hạnh phúc với chồng con. Hơn thế, cuốn tiểu thuyết này còn mở đầu cho các tiểu thuyết thơ trữ tình xuất hiện vào các thế kỷ tiếp sau. Do tầng lớp văn nhân Việt Nam có hứng thú rõ rệt với những tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc; các nhà văn Việt Nam lại có sở trường miêu tả tình cảm, đặc biệt chú trọng kỹ xảo ngôn từ, cú pháp, và tu từ như những phương tiện bộc lộ tài năng cá nhân nên họ ít băn khoăn về việc vay mượn từ các tác phẩm khác: tất cả đều là bột cho họ gột thành hồ. Trên thực tế, cách suy nghĩ này cũng có sự tương đồng với các tác giả Trung Hoa. Nhiều tác phẩm của họ có chung đề tài. Đồng thời các tác giả Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo lý Khổng giáo cũng truy cầu mục tiêu “văn dĩ tải đạo”.
Ở đây việc khảo sát tỉ mỉ toàn bộ những tiểu thuyết này là điều không còn phải nghi ngờ. Truyện đầu tiên mà chúng tôi xem xét là Hoa tiên truyện của Nguyễn Huy Tự (1743-1790) xuất thân từ một gia đình học vấn xuất chúng, bản thân ông từng đỗ kỳ thi Hội thi Đình. Tác phẩm có đôi chút không bình thường này của ông bắt nguồn từ một tiểu thuyết văn vần (ca bản - ND) khuyết danh sáng tác theo phong cách Quảng Đông Hoa tiên ký. Văn bản sớm nhất được biết đến của tác phẩm này có lời tựa ghi năm 1713. Truyện kể về mối tình của một cô gái là Dương Dao Tiên và một chàng trai là Lương Phương Châu văn võ song toàn. Bản Việt Nam theo thể thơ lục bát gồm khoảng 1800 câu thơ, về cơ bản vẫn giữ lại toàn bộ các nhân vật của nguyên tác. Tương tự, Nữ tú tài truyện của một tác giả khuyết danh, theo sát cốt truyện Nữ tú tài di hoa tiếp mộc trong tập Nhị khắc phách án kinh kỳ của Lăng Mông Sơ (1580-1644). Truyện kể về một cô gái dùng mũi tên kén một trong hai chàng trai làm chồng. Ví dụ cuối cùng là Ngọc Kiều Lê tân truyện của một tác giả người Việt gốc Hoa, Lý Văn Phức (1785-1849) giữ một chức quan cao đồng thời là một nhà văn lớn sáng tác cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Tác phẩm này cải biên theo Ngọc Kiều Lê một tiểu thuyết nổi tiếng trong loại sách tài tử giai nhân13.
Chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo suốt cuộc đời, các tác giả Việt Nam thiếu hứng thú đối với tiểu thuyết lịch sử và thậm chí với cả tiểu thuyết chí quái vốn rất được công chúng đô thị yêu chuộng. Hiện nay chỉ tìm thấy rất ít bản mô phỏng loại tiểu thuyết này, và thậm chí những bản này còn được viết theo một phong cách có phần không trang nhã khiến người ta có thể nghĩ rằng chúng không phải do các bậc đại danhviết ra mà do những nhà nho bình dân. Điều này có thể đúng với các bản mô phỏng Tây du ký, và Quân âm xuất thân Nam du ký là những tác phẩm lưu truyền rộng rãi. Dù là sáng tác khuyết danh, Tây du ký, có tên là Truyện Tây du, xét theo phong cách, có niên đại từ thế kỷ 18. Tác phẩm chỉ giữ lại một số tiết đoạn của nguyên tác nhưng lại theo sát lối trình bày sự kiện. Còn bản Quan âm xuất thân Nam du ký (có nhiều tên trong đó có một tên là Phật bà Quan âm truyện) để thích ứng với độc giả Việt Nam đã phải xa rời nguyên tác, đặc biệt bản cải biên thay đổi địa danh và biến Quan âm thành nữ thần Việt Nam. Ngoài ra còn có ít nhất một bản mô phỏng bộ tiểu thuyết lịch sử do Nguyễn Kiều thực hiện. Tác giả này chúng tôi chỉ có rất ít thông tin về ông14. Tác phẩm của ông là Quân trung đối ca bắt nguồn từ Tùy Đường diễn nghĩa15. Thực tế, chúng ta không thể nói chắc rằng văn nhân Việt Nam không ưa thích tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc. Những tiểu thuyết này sau khi du nhập vào Việt Nam đã được các tác giả thế kỷ 17, 18 mô phỏng lại bằng chữ Nôm. Và có lẽ khảo sát phạm vi mô phỏng những tác phẩm đó là một việc cần làm. Dẫu sao, ở cuối phần trình bày sơ giản này chúng tôi không thể kết luận rằng tất cả các tiểu thuyết viết bằng chữ Nôm đều bắt nguồn từ Trung Hoa. Thực tế là có những tác phẩm khác, mà đại bộ phận là bình dân, không mắc nợ gì với nguồn văn hóa Trung Hoa16.
3. Các bản dịch tiểu thuyết Trung Quốc sang chữ quốc ngữ
Để đánh giá đầy đủ trào lưu dịch tiểu thuyết Trung Quốc rầm rộ sau khi chữ quốc ngữ trở nên thịnh hành, tác giả bài viết này đã lập một danh mục các bản dịch xuất bản thành sách (xin xem dưới đây) dựa theo thư mục đã in của Cordier và Boudet17 cũng như thư mục vi phim của bà C. Rageau bao gồm tất cả các tác phẩm bằng chữ quốc ngữ lưu giữ tại Thư viện quốc gia Pháp từ khi thiết lập hệ thống lưu trữ mang tính pháp lý năm 1922 cho đến 1954. Những tài liệu này được bổ sung bằng một tập tiếp theo gồm tất cả các sách vở có trước 1922 của Thư viện quốc gia18. Hơn thế, nhờ sự cộng tác với bà C. Salmon, tác giả bài này lại được tiếp xúc gián tiếp với các phiếu tư liệu của thư viện Pháp ghi các ấn phẩm xuất bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và phiếu tư liệu của Viện nghiên cứu quốc gia về ngôn ngữ và văn minh phương Đông. Thư mục, gồm 316 bản dịch (không kể sách tái bản) này chỉ ghi những tác phẩm đã xác định được nguyên tác. Hiển nhiên con số ở đây là rất nhỏ so với thực tế. Tuy vậy tác giả tin rằng nó đại diện trung thực cho trào lưu dịch thuật bắt đầu dấy lên vào quãng 1905 và kéo dài cho đến khi Nhật chiếm đóng. Chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo nên một đứt đoạn rất rõ rệt trong hoạt động xuất bản, song thư mục này không tiêu biểu lắm cho con số thực các bản dịch, bản in lại những ấn phẩm trước Chiến tranh thế giới thứ hai và các bản dịch mới19.
Để hiểu trào lưu dịch thuật đã bám rễ và trưởng thành như thế nào cần phải nhớ rằng việc dùng văn tự Latin hóa, mà không lâu sau đó đã được chính người Việt, như nhóm Đông kinh nghĩa thục chẳng hạn, cổ súy, khiến cho số lượng độc giả tăng lên nhanh chóng20. Đồng thời cũng cần nhớ rằng những sáng tác bằng chữ quốc ngữ lúc đó không nhiều. Báo chí, ngay từ khởi thủy đã phụ thuộc vào những phán quyết của người Pháp, đóng vai trò sống còn trong giai đoạn dịch thuật này. Nhiều tác phẩm dịch từ tiếng Pháp tiếng Anh xuất hiện đầu tiên trên báo. Điều này cũng có nghĩa là các nhà báo Việt Nam nói chung đóng vai trò dịch giả trong khi báo chí trở thành diễn đàn của văn học Việt Nam mới. Song song với tình hình đó sự phát triển của in ấn hiện đại đã có ảnh hưởng nhất định đến sự trưởng thành của xuất bản. Để khuyến khích thói quen đọc, các nhà xuất bản đã cho ra đời các tiểu thuyết các bản dịch từng kỳ bán hết ngay. Sự phát triển các dịch phẩm từ chữ Hán biểu hiện qua các con số ghi ngay trong các bản sách từ 1.000 đến 3.000 bản đã lý giải vì sao thường xuyên có sự tái bản, thậm chí xuất hiện cả những bản dịch mới.
Phan Kế Bính (1875-1921), nhà nho đồng thời là nhà báo21 đã giải thích rất rành mạch vì sao ông thấy cần phải dịch thật nhiều tác phẩm sang tiếng Việt. Bản thân ông đã dịch Tam quốc chí diễn nghĩa (Thư mục số 177) đầu tiên. Trong lời tựa ông nói: “Người An Nam chúng ta hiện nay đã có rất nhiều người học chữ quốc ngữ, thật là một việc đáng mừng! Trước kia đàn ông nước ta phải trải qua cố gắng gian khổ nhiều năm, tốn kém nhiều tiền của cha mẹ mới có thể đạt đến chỗ tay cầm sách ngâm ngợi bổng trầm mà thực ra chưa hẳn đã lĩnh hội được tinh thần sách. Nhưng hiện nay, chẳng kể nam giới, ngay cả nữ giới, thậm chí các cô gái và những đứa trẻ thơ ngây đều có thể cầm sách đọc, mà đọc một chữ hiểu một chữ, đọc một câu có thể hiểu ý vị trong đó, có thể nói là lĩnh hội được tinh thần của sách... Song đáng tiếc là chữ thì dễ đọc, người người đều hiểu nhưng biết tìm sách ở đâu mà đọc ? Đọc hết Cung oán ngâm khúc lại đọc Truyện Kiều, tất cả cộng lại cũng không quá mấy chục loại, người đọc nhanh chỉ ba ngày là hết sạch... Vì những nguyên nhân trên, chúng tôi mới quyết định xuất bản những tập sách này, gọi là sách nước ngoài dịch nôm, mỗi tuần ra một tập”.
Những truyện đầu tiên bằng chữ quốc ngữ thường được phiên âm từ những văn bản bằng chữ Nôm ra đời vào những năm 1880. Còn đối với tiểu thuyết Trung Quốc dường như những bản dịch đầu tiên chỉ ra đời từ đầu thế kỷ này. Chúng tôi tìm thấy bản duy nhất năm 1905 (Thư mục số 299). Tác phẩm được gán cho một Phùng Hoàng Sang nào đó mà chúng tôi không biết gì về ông. Chúng tôi tìm thấy 9 dịch giả của những năm sau đó, trong số họ đáng chú ý có Trần Phong Sắc, giáo sư chữ Hán của trường Tân An (ở Đông Dương) và Nguyễn Chánh Sắt (1869-?) chủ bút báo Nông cổ mín đàm (ra mắt ở miền Nam năm 1990). Trong vòng ít năm xuất hiện rất nhiều bản dịch tiểu thuyết lịch sử lưu truyền rất rộng rãi, chẳng hạn sự phổ biến của Tam quốc chí diễn nghĩa có thể được xác định qua việc gần như đồng thời tác phẩm được dịch cả ở Hà Nội (Phan Kế Bính) và Sài Gòn (Nguyễn Liêm Phong và Nguyễn An Cư). Quả thật người Việt Nam rất giống người Trung Quốc trong việc sùng bái Quan Vũ, một trong những nhân vật chính của tiểu thuyết này. Đền thờ ông được lập ở nhiều nơi, nhiều gia đình có tượng Quan Vũ. Cuốn tiểu thuyết này cả về khung cảnh lẫn chân dung nhân vật đều để lại ấn tượng đặc biệt trong tâm trí người bình dân Việt Nam. Những nhân vật này quen thuộc với người Việt Nam đến mức trong lời ăn tiếng nói hàng ngày tên tuổi họ được dùng như những biểu trưng tính cách22. Gần đây, học giả Việt Nam, ông Đặng Thai Mai, đã kể lại ấn tượng mạnh mẽ mà tác phẩm Tam quốc gây ra cho ông khi ông đọc nó lúc còn nhỏ: “ Ông tôi đã từng nói với các chú tôi Kim Thánh Thán giỏi bình tiểu thuyết, người ta bạc bẽo với ông ta. Nhưng tôi phát hiện những ông lớn vẫn thích đọc tiểu thuyết,cho nên tôi cũng xem tiểu thuyết”. Đầu tiên, tôi tiện tay tìm được Tam quốc, rất tuyệt, tôi hoàn toàn bị nó cuốn hút !... Nhớ một lần, đêm đã khuya, tôi vẫn đang đọc. Bà tôi tỉnh dậy cất sách đi, buộc tôi lên giường mới chịu đi ngủ... Tôi còn nhớ, lần thứ nhất tôi đọc đến đoạn Quan Vân Trường chết, tôi khóc đau đớn và bỏ sách mấy ngày23.
Chẳng riêng Tam quốc còn có những tiểu thuyết lịch sử và truyện tình tài tử giai nhân khác cũng được các tầng lớp dân chúng ưa thích. Điều tra kỹ các nhà xuất bản đã cho ra mắt các bản dịch này cho thấy họ trước hết là những viên chức của chính quyền thực dân và sau đó là thương nhân. Số trước gồm Nguyễn Hữu Sanh, viên chức thuộc hội nghiên cứu Đông Dương, Huỳnh Khắc Thuận và Đỗ Văn Hòa thư ký văn phòng chính phủ. Thương nhân gồm Huyền Trí Phú nhà buôn ở Mỹ Tho, Nguyễn Thành Ký buôn đá quý ở Tân An và Đinh Thái Sơn - còn gọi là Phát Toán, thợ sửa xe đạp kiêm buôn bán sách báo quốc ngữ ở Sài Gòn24. Thời kỳ đầu các nhà in cả miền Bắc lẫn miền Nam đều nằm trong tay người Pháp.
Sự gia tăng dân số thành thị vào những năm 1920-1930 đã kéo theo việc bùng nổ công nghệ in ấn địa phương và sự ra đời của một thể loại văn chương mới là tiểu thuyết võ hiệp vào khoảng 1925. Một trong những dịch giả chủ chốt của tiểu thuyết võ hiệp là một Lý Ngọc Hưng nào đó, còn gọi là Hoa Nhân (nghĩa là người Hoa - ND). Việc dùng bút danh này chứng tỏ dịch giả là người gốc Trung Hoa. Những năm 1927 và 1941 ông đã dịch không dưới 16 tiểu thuyết võ hiệp (Thư mục số 62, 103, 124, 129, 155, 159, 173, 258, 263, 266, 278, 280, 300, 312). Niềm say mê tiểu thuyết võ hiệp này cũng giống như người Hoa ở các thành phố lớn của Trung Quốc. Tương tự, đến Chiến tranh thế giới thứ hai, nhu cầu đối với tiểu thuyết tình cảm, cả sách tài tử giai nhân mà độc giả vốn quen thuộc qua các ác phẩm cải biên bằng chữ Nôm lẫn tiểu thuyết bình dân theo kiểu “uyên ương hồ điệp” lan truyền đến Thượng Hải đầu thế kỷ 20. Đại diện nổi tiếng nhất của loại tiểu thuyết này Từ Chẩm Á. Ít nhất đã có 3 tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Việt (Thư mục số 277, 291 và 294). Trong số các dịch giả của thời kỳ này có Nguyễn Đỗ Mục (1866-khoảng1948), một nhà nho viết cho từ nhật báo Trung Bắc tân văn (ra năm 1913). Dịch phẩm của ông xuất bản trong những năm 1922 và 1935, gồm đủ các thể tài (Thư mục số 1, 10, 26, 46, 52, 257 199, 206, 270 và 302). Sau Chiến tranh thế giới thứ hai theo phán đoán thì tiểu thuyết tình cảm nhường đường cho tiểu thuyết lịch sử vốn luôn thịnh hành và tiểu thuyết võ hiệp. Có thể tìm được những bản in lại một số tác phẩm trước kia của Nguyễn An Khương (Thư mục số 63) và của Nguyễn Chánh Sắt (Thư mục số 28), còn nói chung đều là các bản dịch mới hay chí ít thì cũng là những bản dịch trước đó được sửa sang rồi gắn cho những dịch giả mới. Chỉ cần nghiên cứu so sánh các bản khác nhau là có thể tìm được mối liên hệ giữa chúng. Ví như bản dịch sớm nhất đã được phát hiện (Thư mục số 299), là chuyện về viên tướng Nhạc Phi đời Tống, do Phụng Hoàng Sanh hợp tác với Nguyễn Chánh Sắt xuất bản năm 1928, lại đề tên ông là dịch giả duy nhất nhưng điều này không có nghĩa là ông không sử dụng bản dịch 1905 trước đó.
Do đó có thể thấy rằng, vượt lên trên sự thay đổi về ngôn ngữ và chữ viết, người Việt Nam vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với văn chương Trung Quốc. Trước hết đó là nguồn cảm hứng sáng tác cho các tác giả viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Sau đó, khi chữ quốc ngữ đã thịnh hành, văn chương chữ Hán được coi là bộ phận của di sản văn hóa cần được giữ gìn cẩn trọng bằng các bản dịch. Việc rất nhiều bản tác phẩm Trung Quốc được dịch sang văn xuôi tiếng Việt đã ảnh hưởng rõ rệt đối với sự phát triển của tiếng Việt hiện đại giống như tác động của các bản dịch tác phẩm tiếng Pháp. Rõ ràng cần phải có sự nghiên cứu lịch đại ngôn ngữ dịch qua các bản dịch khác nhau. Tam quốc và Tam hạ Nam Đường là những tư liệu hàng đầu cho hướng nghiên cứu đó.
4. Thư mục tạm thời các dịch phẩm tiểu thuyết bình dân Trung Quốc sang chữ quốc ngữ
TT
TÊN HÁN
TÊN VIỆT
TÁC GIẢ
XUẤT BẢN
1
Ái chu tình hải
Thuyền tình bể ái
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, 1926
2
Bát quái đạo
Bát quái đạo
Hải Bằng
Hà Nội, 1938
3
Bát hiệp liên minh
Bát hiệp liên minh
Lương Giang
Hà Nội, 1928
4
Bát tiên Đông du
Bát tiên Đông du
Trúc Lâm
Hà Nội, 1929
5
Bạch hồ điệp
Bạch hồ điệp
Bích Ngọc
Hà Nội, 1938
6
Bạch xà thanh xà
Bạch xà thanh xà
Cao Hải Đế
Sài Gòn, 1915
7
Bạch xà thanh xà
Bạch xà thanh xà
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1930
8
Bạch xà thanh xà
Bạch xà thanh xà
Tô Chẩn
Sài Gòn, 1951
9
Bạch xà diễn nghĩa
Bạch xà diễn nghĩa
Đinh Văn Đẩu
Sài Gòn, 1906
10
Bạch xà diễn nghĩa
Bạch xà diễn nghĩa
Đinh Văn Đẩu
In lần thứ ba, 1917
11
Bách tử kim đan
Bách tử kim đơn
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, lần thứ hai
12
Bao Công xuất thế
Bao Công xuất thế
Trần Hồng Loan
Hà Nội,1950
13
Bao Công kỳ án
Bao Công kỳ án
Ngô Văn Triện (Trúc Khê)
Hà Nội, 1925
14
Bao Công kỳ án
Bao Công kỳ án
Ngô Văn Triện
Hà Nội, 1927
15
Bao Công kỳ án
Bao Công kỳ án
Ngô Văn Triện
In lại, 1928
16
Bao Công kỳ án
Bao Công kỳ án
Ngô Văn Triện
In lần thứ tư, 1931
17
Bao Công kỳ án
Bao Công kỳ án
Trần Văn Bình
Sài Gòn, 1954
18
Bao Công tra Quách Hòe án
Bao Công tra Quách Hòe án
Khuyết danh
Hà Nội, 1936
19
Bao Công tra Quách Hòe án
Bao Công tra Quách Hòe án
Khuyết danh
In lại, 1941
20
Bao Công chính sử nghĩa hiệp kỳ thư
Bao Công chính sử nghĩa hiệp kỳ thư
Nguyễn Xuân Mai (Thanh Khương)
Hà Nội (trước 1942)
21
Bao Công nghĩa hiệp chính sử kỳ thư
Bao Công nghĩa hiệp chính sử kỳ thư
Nguyễn Xuân Mai (Thanh Khương)
In lại, 1968
22
Bắc Tống toàn truyện
Bắc Tống toàn truyện
Nguyễn Kim Đĩnh
Gia Định, 1930
23
Bắc Tống diễn nghĩa
Bắc Tống diễn nghĩa
Huỳnh Công Giác
Sài Gòn, 1906
24
Bắc Tống diễn nghĩa
Bắc Tống diễn nghĩa
Nguyễn Văn Hiến
Sài Gòn, 1929
25
Bắc Tống diễn nghĩa
Bắc Tống diễn nghĩa
Nguyễn Văn Hiến
Sài Gòn, 1951
26
Bắc du diễn nghĩa
Bắc du diễn nghĩa
Lê Duy Thiện
Sài Gòn
27
Bắc du Chân Vũ truyện
Bắc du Chơn Võ truyện
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1909
28
Bắc du Chân Vũ truyện
Bắc du Trấn võ
Nhật Quang
Hà Nội, 1931
29
Bắc Du Chân Vũ truyện
Bắc du Chơn Võ
Lê Duy Thiện
Sài Gòn, 1957
30
Tàn Đường diễn nghĩa
Tàn Đường diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1906-1914
31
Tàn Đường diễn nghĩa
Tàn Đường diễn nghĩa
Trần Xuân
Sài Gòn, 1928
32
Trường Giang quái nữ
Trường Giang quái nữ
Nguyễn Nam Thông
Hà Nội, 1937
33
Song tiền cô ảnh
Chiếc bóng song the
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, 1928
34
Đại bát nghĩa
Đại bát nghĩa
Tùng Nông
Hà Nội, 1929
35
Đại hồng bào hải thụy
Đại hồng bào hải thoại
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1907
36
Đại hồng bào hải thụy
Đại hồng bào hải thoại
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1910
37
Đại hồng bào hải thoại
Đại hồng bào hải thoại
Thanh Phong
Sài Gòn, 1952
38
Đại minh hồng vũ
Đại minh hồng võ
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1911
39
Đại minh hồng vũ
Đại minh hồng võ
Thanh Phong
Sài Gòn, 1953
40
Đại minh kỳ hiệp
Đại minh kỳ hiệp
Đào Khắc Hưng
Hà Nội, 1928
41
Đại minh anh liệt
Đại minh anh liệt
Nguyễn Thúc Khiêm (Hoàng Sơn)
Hà Nội, 1935
42
Đại bàng hiệp
Đại bàng hiệp
Mậu Ngữ
Hà Nội, 1937
43
Đãng khấu chí
Đãng khấu chí
Du Trung Hòa
Hà Nội, 1935
44
Đông Hán diễn nghĩa
Đông Hớn diễn nghĩa
Nguyễn Ân Linh, Hồ Văn Trung & Trần Văn Me
Sài Gòn, 1907
45
Đông du bát tiên
Đông du bát tiên
Dương Mạnh Huy
Sài Gòn, 1934
46
Đông du bát tiên
Đông du bát tiên
Tô Chẩn
Sài Gòn, 1957
47
Đông du bát tiên
Đông du bát tiên
Bát Quái
Sài Gòn, 1968
48
Đông du bát tiên
Đông du bát tiên
Thanh Phong
Sài Gòn, 1952
49
Đông Chu liệt quốc
Đông Châu liệt quốc
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn (1911)
50
Đông Chu liệt quốc
Đông Châu liệt quốc
Nguyễn Công Kiêu
Sài Gòn, 1914-19
51
Đông Chu liệt quốc
Đông Châu liệt quốc
Trần Đình Nghi
Sài Gòn, 1928
52
Đông Chu liệt quốc
Đông Châu liệt quốc
Đào Trinh Nhất
Sài Sòn, 1928
53
Đông Chu liệt quốc
Đông Châu liệt quốc
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, 1933
54
Đông Chu liệt quốc diễn nghĩa
Đông Chu liệt quốc diễn nghĩa
Hy Chương
Hà Nội, 1935
55
Đông Chu liệt quốc
Đông Chu liệt quốc
Vũ Minh Trí
Sài Gòn, 1953
56
Ân tình tiểu thuyết
Ân tình tiểu thuyết
Nguyễn Quang Sánh
Nam Định, 1932
57
Nhị độ mai
Nhị độ mai
Nguyễn Văn Bân (Kim Giang)
Hà Nội, 1929
58
Nhi nữ tạo anh hùng
Nhi nữ tạo anh hùng
Võ Lộ
Sài Gòn, 1931
59
Nhi nữ tạo anh hùng
Nhi nữ tạo anh hùng
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, 1935
60
Phản Đường hậu chinh Tây
Phản Đường hậu chinh Tây
Nguyễn Tân Chiểu
Hà Nội, 1934
61
Phản Đường diễn nghĩa
Phản Đường diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1906
62
Phản Đường diễn nghĩa
Phản Đường diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
In lại, 1923
63
Phản Đường diễn nghĩa
Phản Đường diễn nghĩa
Lê Sum
Sài Gòn, 1914-15
64
Phản Đường diễn nghĩa
Phản Đường diễn nghĩa
Trần Quang
Sài Gòn, 1916
65
Phản Đường diễn nghĩa
Phản Đường diễn nghĩa
Hoàng Minh Tự
Sài Gòn, 1934
66
Phản Đường diễn nghĩa
Phản Đường diễn nghĩa
Hoàng Minh Tự
In lại, 1951
67
Phi kiếm kỳ hiệp
Phi kiếm kỳ hiệp
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1939-40
68
Phi Long kiếm nhị nương tam hiệp
Phi Long kiếm nhị nương tam hiệp
Huyền Châu
Hà Nội (1935)
69
Phi Long diễn nghĩa
Phi Long diễn nghĩa
Huỳnh Công Giác
Sài Gòn, 1906-14
70
Phi Long diễn nghĩa
Phi Long diễn nghĩa
Trưởng Minh Chánh
Sài Gòn, 1933
71
Phi tiên thiên bảo diễn nghĩa
Phi tiên thiên bảo diễn nghĩa
Lý Ngọc Hưng (Hoa Nhân)
Hà Nội, lần thứ hai
72
Phấn trang lâu diễn nghĩa
Phấn trang lầu diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1908
73
Phấn trang lâu diễn nghĩa
Phấn trang lầu diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
In lại, 1918
74
Phấn trang lâu diễn nghĩa
Phấn trang lầu diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
In lại, 1952
75
Phong ba đình
Phong ba đình
Lê Xuân Khôi (Thạch Tâm)
Hà Nội, 1938
76
Phong trần kiếm khách
Phong trần kiếm khách
Bát Quái
Hà Nội, lần thứ hai
77
Phong trần tam kiếm
Phong trần tam kiếm
Vũ Như Hải
Hà Nội, 1936
78
Phượng hoàng đao
Phượng hoàng đao
Lê Xuân Khôi (Thạch Tâm)
Hà Nội, 1930
79
Phong kiếm xuân thu
Phong kiếm xuân thu
Trần Công Hiến
Sài Gòn, 1917
80
Phong kiếm xuân thu
Phong kiếm xuân thu
Phan Như Tiệp
Sài Gòn, 1930
81
Phong kiếm xuân thu
Phong kiếm xuân thu
Quảng Nghiêm
Hà Nội,1935
82
Phong kiếm xuân thu
Phong kiếm xuân thu
Đinh Gia Hân (Cảnh Viêm)
Hải Phòng, cùng năm
83
Phong thần diễn nghĩa
Phong thần diễn nghĩa
Trần Chánh Sắt
Sài Gòn, 1906-07
84
Phong thần diễn nghĩa
Phong thần diễn nghĩa
Vũ Như Khôi
Hà Nội, 1927
85
Phong thần diễn nghĩa
Phong thần diễn nghĩa
Vương Quốc Sung
Hà Nội, cùng năm
86
Phùng Ngọc Tường tiểu sử
Lịch sử Phùng Ngọc Tường
Mai Sơn
Hà Nội, 1929
87
Phong nguyệt hiệp nghĩa
Hiệp nghĩa phong nguyệt
Nguyễn Chánh Sắt (Bá Nghiêm)
Hà Nội, 1928
88
Cam phượng trì
Cam phượng trì
Hiệp Hồn
Hà Nội, 1928
89
Quảng Châu nữ hiệp đoàn
Quảng Châu nữ hiệp đoàn
Hận Nghi
Hải Phòng, 1935
90
Khuê tú anh tài
Khuê tú anh tài
Ngô Văn Triện
Hà Nội, 1928
91
Hợp Phố châu
Hợp Phố châu
Tùng Nông Vũ Kính (Đào Viên)
Hà Nội, 1929
92
Hồng Quang đại hiệp
Hồng Quang đại hiệp
Thanh Đình
Hà Nội, 1936
93
Hồng gia nữ hiệp
Hồng gia nữ hiệp
Lê Xuân Khôi
(Thạch Tâm)
Hà Nội, 1936
94
Hồng lâu mộng
Hồng lâu mộng
Nguyễn Đức Vân
Hà Nội, 1963
95
Hồng nhan điên đảo
Hồng nhan điên đảo
Lạc Khổ
Hà Nội, 1934
96
Hồng y nữ hiệp
Hồng y nữ hiệp
Lương Giang
Hà Nội, 1928
97
Hậu tam quốc diễn nghĩa
Hậu tam quốc diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1906
98
Hậu tam quốc diễn nghĩa
Hậu tam quốc diễn nghĩa
Danh Nho
Sài Gòn, 1929
99
Hậu tam quốc diễn nghĩa
Hậu tam quốc diễn nghĩa
Danh Nho
Sài Gòn, 1954
100
Hậu Hán tam hợp bảo kiếm
Hậu Hán tam hợp bửu kiếm
Trần Công Danh
Sài Gòn, 1906
101
Hậu Hán tam hợp bảo kiếm
Hậu Hán tam hợp bửu kiếm
Trần Công Danh
In lại, 1917
102
Hậu Tây du
Hậu Tây du
Thanh Ngọc Duyên
Hà Nội, 1924
103
Hậu anh hùng (Tục anh hùng náo tam môn giai)
Hậu anh hùng (Tục anh hùng náo tam môn giai)
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1951
104
Hậu anh hùng náo tam môn giai
Hậu anh hùng náo tam môn giai
Tô Chấn
Sài Gòn, 1951
105
Hậu tái sinh duyên
Hậu tái sinh duyên
Thanh Phong
Sài Gòn, 1953
106
Hồ điệp hoa
Hồ điệp hoa
Nghiêm Xuân Lãn
Hà Nội, 1928
107
Hoa hòa thượng
Sư hổ mang
Nguyễn Tử Siêu
Hà Nội, 1935
108
Hỏa thiêu Hồng Liên tự
Bọn võ hiệp đốt cháy chùa Hồng Liên
Ngô Văn Triện (Trúc Khê)
Hà Nội, 1935
109
Gia đình chuyên chế chi minh giám
Mảnh gương chuyên chế trong gia đình
Ngô Văn Triện (Trúc Khê)
Hà Nội, 1927
110
Kiếm quang nữ hiệp
Kiếm quang nữ hiệp
Lê Xuân Khôi (Thạch Tâm)
Hà Nội, 1936
111
Giang Đông tam hiệp
Giang Đông tam hiệp
Văn Tuyền*
Hải Phòng, cùng năm
112
Giang hồ hắc kiếm
Giang hồ hắc kiếm
Vũ Hầu
Hà Nội, 1941
113
Giang hồ nữ kiếm hiệp
Giang hồ nữ kiếm hiệp
Lê Xuân Khôi (Thạch Tâm)
Hà Nội, 1936-37
114
Giang hồ nữ hiệp
Giang hồ nữ hiệp
Nguyễn Chánh Sắt (Tân Châu)
Sài Gòn, 1938-39
115
Giang hồ kỳ văn
Giang hồ kỳ văn
Bách Lữ
Hải Phòng
116
Giang hồ nghĩa hiệp
Giang hồ nghĩa hiệp
Lý Ngọc Hưng (Hoa Nhân)
Hà Nội, 1928
117
Kim cổ kỳ quan
Kim cổ kỳ quan
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1910-11
118
Kim cổ kỳ quan
Kim cổ kỳ quan
Trần Thanh Đạm
Sài Gòn, 1957
119
Cân quắc anh hùng
Cân quắc anh hùng
Thành Ngọc Duyên
Hà Nội, 1924
120
Giang Nam kiếm hiệp
Giang Nam kiếm hiệp
Đông Quang
Hà Nội, 1936
121
Kim Lăng tam kiệt
Kim Lăng tam kiệt
Nguyễn Nam Thông (Đông Quang)
Hà Nội, 1937
122
Kính hoa duyên
Kính hoa duyên
Nguyễn Xuân Lâm
Hà Nội, 1928
123
Cứu khổ kiếm
Gươm cứu khổ
Nguyễn Tử Siêu
Hà Nội, 1928
124
Cửu mỹ kỳ duyên
Cửu mỹ kỳ duyên
Phạm Quang Sáng
Hà Nội, 1924
125
Cửu châu thần kiếm
Cửu châu thần kiếm
Châu Hưng
Hà Nội, 1936
126
Không Đồng kỳ hiệp
Không Đồng kỳ hiệp
Trần Tuấn Khải
Hà Nội, 1935
127
Côn Luân ngũ hiếm hiệp
Côn Lôn ngũ kiếm khách
Thạc Quân
Hà Nội, 1936
128
Lý Tồn Hiếu diễn nghĩa
Lý Tồn Hiếu diễn nghĩa
Ngô Văn Triện (Trúc Khê)
Hà Nội, 1928
129
Lý Tồn Hiếu diễn nghĩa
Lý Tồn Hiếu diễn nghĩa
Ngô Văn Triện
(Trúc Khê)
Hà Nội, 1934
130
Lê Nguyên Hồng tiểu sử
Lịch sử Lê Nguyên Hồng
Mai Sơn
Hà Nội, 1929
131
Liêu trai chí dị
Liêu trai chí dị
Nguyễn Chánh Sắt
(Tâm Chân)
Sài Gòn, 1916-18
132
Liêu trai chí dị
Liêu trai chí dị
Huyền Mạc Đạo Nhơn
Sài Gòn, 1933
133
Liêu trai chí dị
Liêu trai chí dị
Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà)
Hà Nội, 1939
134
Liêu trai chí dị
Liêu trai chí dị
Nguyễn Hoạt
Sài Gòn, 1959
135
Liệt nữ kiếm
Liệt nữ kiếm
Học Hải
Hà Nội, 1923
136
Lĩnh Nam dật sự
Lĩnh Nam dật sự
Nguyễn Hữu Tiến
Hà Nội, 1925
137
Lĩnh Nam dật sự
Lĩnh Nam dật sự
Bùi Đàn
Sài Gòn, 1968
138
Lăng Vân kiếm khách
Lăng Vân kiếm khách
Lý Ngọc Hưng
Hải Phòng, 1935-36
139
Lục kiếm đồng
Lục kiếm đồng
Lữ Văn Tuyền
Hải Phòng, 1935-36
140
Song phượng tái sinh duyên
Song phượng tái sinh duyên
Tình Liễu
Hà Nội, 1934
141
Long đồ công án
Long đồ công án
Nguyễn Ngọc Thơ
Sài Gòn, 1906
142
Long đồ công án
Long đồ công án
Nguyễn Ngọc Thơ
In lại, 1927
143
Long đồ công án
Long đồ công án
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1916
144
Long hình quái khách
Long hình quái khách
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1937
145
Lỗ Hoa nương
Lỗ Hoa nương
Vương Quốc Sung
Hà Nội, cùng năm
146
Lục lâm bát kiếm
Lục lâm bát kiếm
Hải Bằng
Hà Nội, 1939
147
Lục mẫu đơn
Lục mẫu đơn
Nguyễn Trọng Quyển
Sài Gòn, 1908
148
Lục mẫu đơn
Lục mẫu đơn
Trần Văn Bình
Sài Gòn, 1953
149
Lục dã tiên tung
Lục giã tiên tung
Nguyễn Khắc Hanh
Hà Nội, 1931
150
La Thông tảo Bắc
La Thông tảo Bắc
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1906
151
La Thông tảo Bắc
La Thông tảo Bắc
Trần Phong Sắc
In lại, 1915
152
La Thông Tảo Bắc
La Thông Tảo Bắc
Vũ Hi Tô
Hà Nội, 1926
153
La Thông tảo Bắc
La Thông tảo Bắc
Tô Chẩn
Sài Gòn, 1950
154
Ma phong kiếm khách
Ma phong kiếm khách
Kỹ Hà
Hà Nội, 1936
155
Man hoang kiếm hiệp
Man hoang kiếm hiệp
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1938
156
Mai Lương Ngọc diễn nghĩa
Mai Lương Ngọc diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1909
157
Mai Lương Ngọc diễn nghĩa
Mai Lương Ngọc diễn nghĩa
Phạm Văn Cường
Sài Gòn, 1927
158
Mộng trung duyên
Mộng trung duyên
Đinh Văn Đẩu
Sài Gòn, 1907
159
Mộng trung duyên
Mộng trung duyên
Cảnh Chi
Sài Gòn, 1926
160
Minh Thế Đức diễn nghĩa
Minh Thế Đức diễn nghĩa
Ngọc Liên Hoàng
Hà Nội, 1921-22
161
Minh châu duyên
Minh châu duyên
Đinh Gia Hân
Hải Phòng, 1927
162
Mộc Lan tòng quân
Mộc Lan tòng quân
Nguyễn Tứ Lãng
Nam Định, 1929
163
Ma y nữ
Ma y nữ
Bát Quái
Hà Nội, 1968
164
Nam du hoa quang
Nam du huệ quang
Tô Chẩn
Sài Gòn, 1951
165
Nữ bá vương
Nữ bá vương
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1937
166
Nữ báo phục thù
Gái trả thù cha
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1925
167
Nữ quân tử diễn nghĩa
Nữ quân tử diễn nghĩa
Nguyễn Khắc Hạnh
Hà Nội, 1923
168
Nữ anh hùng
Gái anh hùng
Khuyết danh
Hà Nội, 1934
169
Nữ anh hùng
Nữ anh hùng
Nguyễn Văn Bân
Hà Nội, in lần thứ hai (trước 1942)
170
Nữ hiệp hồng nương tử
Nữ hiệp hồng nương tử
T. Thanh Chúc
Hà Nội, 1935
171
Phạ thê nhật ký
Nhật ký sợ vợ
Lạc Khổ
Hà Nội, 1928
172
Bồng lai hiệp khách
Bồng lai hiệp khách
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1936
173
Phiêu lưu hiệp sĩ
Phiêu lưu hiệp sĩ
Lý Ngọc Hưng (Hoa Nhân)
Hà Nội, 1937
174
Bình Sơn lãnh yến
Bình Sơn lãnh yến
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, 1927
175
Bình Dương kỳ hiệp
Bình Dương kỳ hiệp
Đỗ Thủy
Hà Nội, 1935
176
Thất quốc chí diễn nghĩa
Thất quốc chí diễn nghĩa
Lý Ngọc Hưng (Hoa Nhân)
Hà Nội, 1929-30
177
Thất quốc chí diễn nghĩa
Thất quốc chí diễn nghĩa
Lý Ngọc Hưng (Hoa Nhân)
In lần thứ hai, 1931
178
Thất quốc chí diễn nghĩa
Thất quốc chí diễn nghĩa
Lý Ngọc Hưng (Hoa Nhân)
In lần thứ ba, 1932
179
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Nguyễn Văn Dược
Sài Gòn, 1924
180
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Phạm Văn Diễu
Sài Gòn, 1931-32
181
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Hy Chương
Hà Nội, 1934
182
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1935
183
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Phạm Văn Diễu
Sài Gòn, 1931-32
184
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Thất kiếm thập tam hiệp diễn nghĩa
Phạm Văn Diễu
In lại, 1951
185
Thất hiệp ngũ nghĩa
Thất hiệp ngũ nghĩa
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1934-35
186
Thất hiệp ngũ nghĩa
Thất hiệp ngũ nghĩa
Phạm Văn Diễu
Sài Gòn, cùng năm
187
Càn Long hạ Giang Nam
Càn Long hạ Giang Nam
Huỳnh Trí Phú
Sài Gòn, 1908-10
188
Càn Long hạ Giang Nam
Càn Long hạ Giang Nam
Sơn Nhân&Nhật
Nam thư xã
Hà Nội, 1933-34
189
Càn Long hạ Giang Nam
Càn Long hạ Giang Nam
Thanh Phong
Sài Gòn, 1952
190
Tình hải phong ba
Bể tình nổi sóng
Nguyễn Tử Siêu
Hà Nội, 1927
191
Thanh xà bạch xà
Thanh xà bạch xà
Tân Sơn
Sài Gòn, 1935
192
Tình sử
Tình sử
Nguyễn Quang Oánh
Hà Nội, 1931
193
Thanh thiên đại hiệp
Thanh thiên đại hiệp
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1936
194
Quần anh kiếm hội
Quần hùng kiếm hội
Đỗ Văn Lâm (Thanh Đinh)
Hà Nội, 1936
195
Quần anh kiệt diễn nghĩa
Truyện quần anh kiệt
Trịnh Hoài Nghĩa
Sài Gòn, 1906-07
196
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Nguyễn Liên Phong, Nguyễn An Cư
Sài Gòn, 1907
197
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Phan Kế Bính & Nguyễn Văn Vĩnh
Hà Nội, 1909-1918
198
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Phan Kế Bính & Nguyễn Văn Vĩnh
In lần thứ tư, Sài Gòn, 1928
199
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Phan Kế Bính & Nguyễn Văn Vĩnh
Sài Gòn, 1949
200
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Đinh Gia Hân (Cảnh Viêm) & Vũ Giáp
Hải Phòng, 1928-30
201
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Nghiêm Xuân Lâm
Hà Nội, 1931-32
202
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Hiền Lương
Hà Nội, 1934-35
203
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Vũ Hi Tô
Hà Nội, 1937
204
Tam quốc chí diễn nghĩa
Tam quốc chí diễn nghĩa
Hồ Hải Lãng Nhân
Paris, 1952
205
Tam hợp bảo kiếm
Tam hợp bửu kiếm
Thanh Phong
Sài Gòn, 1954
206
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1906
207
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Trần Phong Sắc
In lần thứ hai, Sài Gòn, 1916
208
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Trần Phong Sắc
In lần thứ ba, Sài Gòn, 1918
209
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Trần Phong Sắc
In lại, Sài Gòn, 1928
210
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Trần Kim Đĩnh
Gia Định, 1929
211
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Trần Kim Đĩnh
In lại, Sài Gòn, 1930
212
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1934
213
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Vương Thọ Hoa (Tô Sinh)
Hà Nội, 1937
214
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Vũ Xuân Mai
Hà Nội, cùng năm
215
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Đinh Gia Hân (Cảnh Viêm)
Hải Phòng, cùng năm
216
Tam hạ Nam Đường
Tam hạ Nam Đường
Tô Chẩn
Sài Gòn, 1951
217
Sơn Đông kiếm khách
Sơn Đông kiếm khách
Lê Văn Giới (Thanh Đình)
Hà Nội, 1937
218
Thiếu lâm trường hận
Thiếu lâm trường hận
Hải Bằng
Hà Nội, 1937
219
Thiếu lâm nữ hiệp
Thiếu lâm nữ hiệp
Nghiêm Xuân Lâm
Hà Nội, 1935
220
Thần long vũ kiếm
Thần long vũ kiếm
Lỗ Công Tài
Hà Nội, 1937
221
Thần đồng xuất thế
Thần đồng xuất thế
Bát Quái
Hà Nội, cùng năm
222
Nhị thập quả phụ chinh Tây
Nhị thập quả phụ chinh Tây
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1918
223
Nhị thập quả phụ chinh Tây
Nhị thập quả phụ chinh Tây
Trần Phong Sắc
In lần thứ hai, Sài Gòn, 1923
224
Thập quốc anh hùng
Thập quốc anh hùng
Hòe Đình
Hà Nội, 1935
225
Thạch đầu hồn
Thạch đầu hồn
Trần Tuấn Khải
Sài Gòn, 1933
226
Song phượng kỳ duyên
Song phượng kỳ duyên
Nguyễn Đỗ Mục
Lần thứ hai, Hà Nội, 1922
227
Song phượng kỳ duyên
Song phượng kỳ duyên
Nguyễn Đỗ Mục
Lần thứ ba, Hà Nội, 1924
228
Song phượng kỳ duyên
Song phượng kỳ duyên
Nguyễn Đỗ Mục
In lại, 1928
229
230
Song phượng kỳ duyên
Song phượng kỳ duyên
Nguyễn Đỗ Mục
Lần thứ năm, 1931
231
Song phượng kỳ duyên
Song phượng kỳ duyên
Lan Hương
Hà Nội, 1924
232
Song quang bảo kiếm
Song quang bửu kiếm
Dương Tấn Long
Sài Gòn, 1934
233
Song mỹ lương duyên
Song mỹ lương duyên
Nghiêm Xuân Lâm
Hà Nội, 1926
234
Song hiệp phá gian
Song hiệp phá gian
Nghiêm Xuân Lâm
Hà Nội, 1927
235
Thủy hử diễn nghĩa
Thủy hử diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1906-10
236
Thủy hử diễn nghĩa
Thủy hử diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1911
237
Thủy hử diễn nghĩa
Thủy hử diễn nghĩa
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, 1933
238
Thủy hử diễn nghĩa
Thủy hử diễn nghĩa
Võ Minh Trí
Sài Gòn, 1953
239
Thuận Trị quá giang
Thuận Trị quá giang
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1908
240
Thuận Trị quá giang
Thuận Trị quá giang
Trần Văn Bình
Sài Gòn, 1951
241
Thuyết Đường diễn nghĩa
Thuyết Đường diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1908-19
242
Thuyết Đường diễn nghĩa
Thuyết Đường diễn nghĩa
Phan Như Tiếp
Sài Gòn, 1930
243
Thuyết Đường diễn nghĩa
Thuyết Đường diễn nghĩa
Dương Mạnh Húc
Sài Gòn, 1930
244
Tống Từ Vân diễn nghĩa
Tống Từ Vân diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1906
245
Tống Từ Vân diễn nghĩa
Tống Từ Vân diễn nghĩa
Nguyễn An Khương
In lại, 1914
246
Tống Từ Vân diễn nghĩa
Tống Từ Vân diễn nghĩa
Đào Phố
Hà Nội, 1927
247
Tống Từ Vân diễn nghĩa
Tống Từ Vân diễn nghĩa
Thanh Phong
Sài Gòn, 1925
248
Tống Nhạc Phi
Tống Nhạc Phi
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1934
249
Tùy Đường truyện
Tùy Đường truyện
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1910
250
Tùy Đường diễn nghĩa
Tùy Đường diễn nghĩa
Nguyễn Gy
Hà Nội, 1933
251
Đài Loan nữ kiếm khách
Đài Loan nữ kiếm khách
Đông Hương
Hà N ội, 1936
252
Thái Ất thần đao
Thái Ất thần đao
Bằng Côn
Hà Nội, 1939
253
Thiết hoa tiên sử
Thiết hoa tiên sử
Nguyễn Văn Bân (Kim Giang)
Hà Nội, 1939
254
Vạn hoa lâu diễn nghĩa
Vạn huê lầu diễn nghĩa
Nguyễn Minh Bạch
Sài Gòn, 1906-11
255
Vạn hoa lâu diễn nghĩa
Vạn huê lầu diễn nghĩa
Nguyễn An Khương và những người khác
Lần thứ ba, 1915-17
256
Vạn hoa lâu diễn nghĩa
Vạn huê lầu diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1917
257
Vạn hoa lâu diễn nghĩa
Vạn hoa lâu diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
In lại, Sài Gòn, 1929
258
Vạn hoa lâu diễn nghĩa
Vạn hoa lâu diễn nghĩa
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1933
259
Vạn hoa lâu diễn nghĩa
Tống Định Thanh (Vạn Hoa Lầu)
Đinh Gia Hân (Cảnh Viêm)
Hà Nội, 1933
260
Vạn lý kỳ duyên
Vạn lý kỳ duyên
Chu Hồng Nguyên
Hà Nội, 1942
261
Vạn niên thanh
Vạn niên thanh
Phùng Huy
Hà Nội, 1923-28
262
Ngũ hổ bình Liêu
Ngũ hổ bình Liêu
Lê Xuân Lôi
Hà Nội, 1930
263
Ngũ hổ bình Liêu
Ngũ hổ bình Liêu
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1933
264
Ngũ hổ bình Nam
Ngũ hổ bình Nam
Trần Hữu Quang &Trần Quang Xuân
Sài Gòn, 1907
265
Ngũ hổ bình Nam
Ngũ hổ bình Nam
Nguyễn Như Hoàng
Sài Gòn, 1907-11
266
Ngũ hổ bình Nam
Ngũ hổ bình Nam
?
Gia Định, 1929
267
Ngũ hổ bình Nam
Ngũ hổ bình Nam
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1934
268
Ngũ hổ bình Nam
Ngũ hổ bình Nam
Đinh Gia Lam
Hải Phòng, 1934
269
Ngũ hổ bình Tây
Ngũ hổ bình Tây
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1906
270
Ngũ hổ bình Tây
Ngũ hổ bình Tây
Nguyễn Chánh Sắt
In lại, 1914-16
271
Ngũ hổ bình Tây
Ngũ hổ bình Tây
Nguyễn Chánh Sắt
In lại, 1923
272
Ngũ hổ bình Tây
Ngũ hổ bình Tây
Nguyễn An Khương
Sài Gòn, 1907
273
Ngũ hổ bình Tây
Ngũ hổ bình Tây
Nguyễn An Khương
In lại, 1914
274
Ngũ hổ bình Tây
Ngũ hổ bình Tây
Tô Chẩn
Sài Gòn, 1951
275
Ngũ hồ hiệp khách
Ngũ hồ hiệp khách
Thượng Văn
Hà Nội, 1937
276
Ngũ hoa kiếm diễn nghĩa
Ngũ hoa kiếm diễn nghĩa
Nguyễn Tử Siêu
Hà Nội, 1937
277
Ngũ kiếm triều vương
Ngũ kiếm triều vương
Đức Lưu Phương
Hà Nội, 1940
278
Ngũ kiếm tiểu bát nghĩa
Ngũ kiếm tiểu bát nghĩa
Nguyễn Tử Lãng
Nam Định, 1928
279
Ngũ nữ hưng Đường
Ngũ nữ hưng Đường
Đinh Gia Hân (Cảnh Viêm)
Hà Nội, 1927
280
Ngũ nữ hưng Đường
Ngũ nữ hưng Đường
Trần Văn Liêm
Sài Gòn, 1931
281
Ngô Việt xuân thu
Ngô Việt xuân thu
Ngô Tất Tố
Sài Gòn, 1928
282
Ngũ Nhạc kỳ hiệp
Ngũ Nhạc kỳ hiệp
Hoàng Đạo Thăng
Hà Nội, 1936
283
Võ Tắc Thiên tứ đại kỳ án
Võ Tắc Thiên tứ đại kỳ án
Nguyễn Khắc Hanh
Hà Nội, 1927
284
Ngũ Tử Tư
Ngũ Tử Tư
Phi Tùng Tử
Hà Nội, 1928
285
Tây Hán diễn nghĩa
Tây Hớn diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, lần thứ hai, 1908
286
Tây Hán diễn nghĩa
Tây Hớn diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
In lại, 1912-15
287
Tây Hán diễn nghĩa
Tây Hớn diễn nghĩa
Lê Xuân Lộc
Hà Nội, 1931
288
Tây Hán diễn nghĩa
Tây Hớn diễn nghĩa
Thanh Phong
Sài Gòn, 1952
289
Tây Thi truyện diễn nghĩa
Tây Thi chuyện diễn nghĩa
Đào Phổ
Hà Nội, 1924
290
Tây du ký
Tây du ký
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1914
291
Tây du ký
Tây du ký
Lạc Khổ
Hà Nội, 1933-35
292
Tây du ký
Tây du ký
Nguyễn Công Kiêu
Sài Gòn, 1917
293
Tây du diễn nghĩa
Tây du diễn nghĩa
Hoàng Minh Tư
Bến Tre, 1935
294
Tây du diễn nghĩa
Tây du diễn nghĩa
Tô Chẩn
Sài Gòn, 1951-52
295
Tiên kiếm
Thanh kiếm tiên
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1935
296
Tiểu hồng bào hải thụy
Tiểu hồng bào hải thụy
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1910-11
297
Tiểu hồng bào hải thụy
Tiểu hồng bào hải thụy
Nguyễn Chánh Sắt
In lại, 1930
298
Tiếu lâm tân thuyết
Tiếu lâm tân thuyết
Trần Quang Nhiễu
Sài Gòn, 1908
299
Tiểu nữ hiệp
Tiểu nữ hiệp
Bích Ngọc
Hà Nội, 1936
300
Tiểu ngũ nghĩa
Tiểu ngũ nghĩa
Phạm Văn Điêu
Sài Gòn, 1930
301
Tiểu hiệp phục thù
Tiểu hiệp phục thù
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1936
302
Tân nữ học sinh
Tân nữ học sinh
Song Động
Hà Nội, 1929
303
Tân Tam quốc chí
Tân Tam quốc chí
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1910
304
Tục Thất kiếm thập tam hiệp
Tục Thất kiếm thập tam hiệp
Lý Ngọc Hưng (Hoa Nhân)
Hà Nội, 1928-29
305
Tục Thủy hử
Tục Thủy hử
Tân Hiên
Hà Nội, 1935
306
Tục Tiểu ngũ nghĩa
Tục Tiểu ngũ nghĩa
Phạm Văn Điêu
Sài Gòn, 1931
307
Tục Anh hùng náo tam môn giai
Tục Anh hùng náo tam môn giai
Vũ Đình Long
Hà Nội, 1925
308
Tục Tái sinh duyên
Tục Tái sinh duyên
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, 1924
309
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1907
310
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
311
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Trần Phong Sắc
In lần thứ hai, 1918
312
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Nguyễn Dương Quan
Sài Gòn, 1907
313
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1914-18
314
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Tiết Đinh Sơn chinh Tây
Nguyễn Chánh Sắt
Lần thứ ba, Sài Gòn, 1928
315
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Trần Hữu Quang
Sài Gòn, 1907
316
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Trần Hữu Quang
In lại, 1910-11
317
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Trần Hữu Quang
Lần thứ tư, 1918
318
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Nguyễn Kim Đĩnh
Gia Định, 1929
319
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Tiết Nhân Quý chinh Đông
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1933
320
Tuyết Hồng lệ sử
Tuyết Hồng lệ sử
Nguyễn Quang Sánh
Hà Nội, 1932
321
Yên hoa kỳ sử
Yên hoa kỳ sử
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1931
322
Dương Văn Quảng bình Nam
Dương Văn Quảng bình Nam
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1908
323
Giao trì hiệp nữ
Giao trì hiệp nữ
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1939
324
Nhất Chi Mai đại hiệp sĩ
Nhất Chi Mai đại hiệp sĩ
Lê Xuân Khôi (Thạch Tâm)
Hà Nội, 1936
325
Âm thanh kiếm
Âm thanh kiếm
Điệp Hùng
Hà Nội, 1936
326
Ẩn hiệp sĩ
Ẩn hiệp sĩ
Ngươn Long
Hà Nội, 1938
327
Anh liệt diễn nghĩa
Anh liệt diễn nghĩa
Nguyễn Tân Chiểu (Ninh Xuyên)
Hà Nội, 1928
328
Anh hùng náo tam môn giai
Anh hùng náo tam môn giai
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1907
329
Anh hùng náo tam môn giai
Anh hùng náo tam môn giai
Vũ Đình Lợi
Hà Nội, 1924
330
Anh hùng náo tam môn giai
Anh hùng náo tam môn giai
Quảng Nguyên
Hà Nội, 1935
331
Anh hùng náo tam môn giai
Anh hùng náo tam môn giai
Nguyễn Mân Châu
Hà Nội, 1950
332
Anh hùng náo tam môn giai
Anh hùng náo tam môn giai
Tô Chẩn
Sài Gòn, 1951
333
Vĩnh Khánh thăng bình
Vĩnh Khánh thăng bình
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1910-11
334
Du long hý phượng (xem Chính Đức du Giang Nam)
335
Ngọc lê hồn
Ngọc lê hồn
Ngô Văn Triện (Trúc Khê)
Hà Nội, 1930
336
Ngọc đường xuân
Ngọc đường xuân
Vũ Kính
Hà Nội, 1929
337
Ngọc uyên ương
Ngọc uyên ương
Ngô Văn Triện
Hà Nội, 1928
338
Dư chi thiếp
Vợ lẽ của tôi
Nguyễn Nam Thông
Hà Nội, 1939
339
Oan hồn kiếm
Oan hồn kiếm
Bát Quái
Hà Nội, 1939
340
Nguyên sử diễn nghĩa
Nguyên sử diễn nghĩa
Đào Xuân Trinh
Hà Nội, 1935
341
Uyên ương kiếm
Uyên ương kiếm
Thanh Đình&Tuấn Lang
Hà Nội, 1937
342
Nhạc Phi diễn nghĩa
Nhạc Phi diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1928-29
343
Nhạc Phi diễn nghĩa
Nhạc Phi diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
In lại, 1952
344
Nhạc Phi truyện
Truyện Nhạc Phi
Phụng Hoàng Sang
Sài Gòn, 1905-09
345
Vân Thiên Lãnh
Vân Thiên Lãnh
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1938
346
Tái sinh duyên
Tái sinh duyên
Trần Công Đông
Sài Gòn, 1920
347
Tái sinh duyên
Tái sinh duyên
Nguyễn Đỗ Mục
Hà Nội, 1923
348
Tái sinh duyên
Tái sinh kỳ duyên diễn nghĩa
Phạm Thị Phương
?, 1928
349
Tái sinh duyên
Tái sinh kỳ duyên diễn nghĩa
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1929
350
Tái sinh duyên
Tái sinh kỳ duyên diễn nghĩa
Lê Duy Thiện
Sài Gòn, 1930
351
Tái sinh duyên
Tái sinh kỳ duyên diễn nghĩa
Thanh Phong
Sài Gòn, 1950
352
Chính Đức du Giang Nam (Du long hý phượng)
Chánh Đức du Giang Nam
Trần Phong Sắc
Sài Gòn, 1907
353
Chính Đức du Giang Nam (Du long hý phượng)
Chánh Đức du Giang Nam
Trần Bá Thời (Vạn Phước)
Sài Gòn, 1932
354
Chính Đức du Giang Nam (Du long hý phượng)
Chánh Đức du Giang Nam
Trần Văn Bình
Sài Gòn, 1953
355
Chinh Tây diễn nghĩa
Chinh Tây diễn nghĩa
Vũ Hi Tô
Hà Nội, 1923-24
356
Trung Hoa nữ phi tướng Trịnh Dục Tú
Trung Hoa nữ phi tướng Trịnh Dục Tú
Nguyễn Học Hải
Hà Nội, 1927
357
Chung Nam huyết hận
Chung Nam huyết hận
Lý Ngọc Hưng
Hà Nội, 1938
358
Chung Vô Diệm
Chung Vô Diệm
Nguyễn Chánh Sắt
Sài Gòn, 1909-11
359
Chung Vô Diệm
Chung Vô Diệm
Đào Phổ & Đinh Gia Hân
Hà Nội, 1934
360
Chu long kiếm
Chu long kiếm
Văn Tuyền*
Hải Phòng, 1935
361
Tẩu mã xuân thu
Tẩu mã xuân thu
Đào Phổ
Hà Nội, 1928
CHÚ THÍCH:
1. Chữ Nôm do một hoặc nhiều chữ Hán tạo thành. Khi dùng một chữ Hán thì tác dụng duy nhất của chữ Hán là biểu âm. Khi tổ hợp nhiều chữ Hán thì một chữ trong đó là biểu âm, còn các chữ khác biểu ý. Ví dụ: chữ chợ thì chữ Hán phía trên (trợ) biểu đạt âm chợ, còn chữ ở dưới (thị) biểu đạt nghĩa. Về thời điểm ra đời của chữ Nôm, hiện còn nhiều thuyết khác nhau. Có điều, những tác phẩm chữ Nôm đầu tiên lại không còn lưu giữ được. Có người cho chữ Nôm ra đời vào thế kỷ 8, có người lại cho là thế kỷ 12. Song dù thế nào chăng nữa, chắc chắn chữ Nôm vào thế kỷ 13 đã được sử dụng rộng rãi.
2. Xem Tân Đường thư, quyển 152, Khương Công Phụ.
3. Về bản dịch không đầy đủ, xin xem “Receuil des puissance invisibles du pays de Việt” (“Việt điện u linh tập” của Lý Tế Xuyên) của Maurice Durand trong tờ Dân Việt Nam - Le Peuple Vietnamien, số 3, tháng 8.1949, tr.3-19.
4. Không có bản dịch đầy đủ tác phẩm này sang một ngôn ngữ phương Tây nào mà chỉ có tóm tắt các câu chuyện trong “Eine Novelllensammlung der fruhen Mig-zeit Das Chien-teng hsin-hua des Ch’u Yu”, Zeitschrift der Deutschen Morgenlandischen Gesellschaft, số 108 (năm 1958), tr.338-382.
5. Song Tiễn đăng tân thoại lại bị cấm ở Trung Quốc năm 1442, vì một viên quan đã phàn nàn rằng sau khi đọc xong tác phẩm này, nho sĩ xao lãng học hành.
6. Về ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại ở Triều Tiên và Nhật Bản, xin xem các bài nghiên cứu trước bài này.
7. Xin xem bản dịch Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ) sang tiếng Pháp Vaste recuile de légends merveilleuses của Tiến sĩ Nguyễn Trần Huân, Paris, Gallimard, Đông phương tri thức, Danh tác tùng thư của UNESCO, 1962.
8. Đương thời có một trào lưu sôi nổi xuất bản các tiểu thuyết chữ Hán và tiểu thuyết văn xuôi do các nhà văn ở các nước láng giềng viết.
9. Thư mục các tác phẩm Hán Nôm lưu trữ tại các thư viện Pháp đang được biên soạn ở Trường Viễn Đông bác cổ Pháp theo đề nghị của ông Trần Khánh Hạo.
Cách đây vài năm một hợp đồng đã được ký kết giữa Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) với Trường Viễn Đông bác cổ về việc biên soạn một thư mục di sản Hán Nôm. Công trình này đã được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1993 với cái tên Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu, 3 tập (Chú thích của ND).
10. Hàn luật dùng những nguyên tắc của thi luật đời Đường.
11. Xem Hatanénaka Toshio, “Kim Vân Kiều” tại Trung Quốc, Việt Nam hòa Nhật Bản” (“Kim Vân Kiều” ở Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản), Đạm Giang chu báo (Tuần báo Đạm Giang), quyển 2, số 2 và quyển 3, số 1, Đài Bắc, tr.94-95.
12. Xin xem Mélanges sur Nguyễn Du réunis à l’occasion du bi-centenaire de sa naissance (1975) (Tập văn kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du) do Maurice Durand chỉ đạo, EFEO xuất bản, Paris, 1966, tr.317 .
13. Lý Văn Phức còn mô phỏng một tạp kịch đời Nguyên là Tây sương ký thành Truyện Tây sương.
14. Một số người cho rằng năm sinh của ông là 1694, lại cũng có người cho rằng ông sinh năm 1765.
15. Chi tiết hơn về truyện Nôm chịu ảnh hưởng Trung Quốc, xin xem Trần Quang Huy, Việt nam Nôm truyện dữ Trung Quốc tiểu thuyết quan hệ chi nghiên cứu. Đây là luận án in trên giấy nến, hiện lưu giữ tại Đại học quốc lập Đài Loan (1973, 2 quyển, 307 trang). Tác giả nghiên cứu khoảng 20 truyện Nôm Việt Nam dựa theo nguyên tác Trung Quốc. Trong luận văn này có một thư mục rất phong phú các tác phẩm Việt Nam, Trung Quốc, Pháp và Anh. Đáng tiếc là những tác phẩm Việt Nam nhắc đến trong thư mục đó lại chỉ là những ấn phẩm ở miền Nam Việt Nam trước đây.
16. Maurice Durand (Imagerie populaire vietnamiene - Truyền thuyết dân gian Việt Nam, do EFEO xuất bản, Paris, 1960, tr.35) đã dẫn Thạch Sanh truyện làm ví dụ. Có một số nhà bình luận Việt Nam cho rằng ở Campuchia cũng có câu chuyện này và nó bắt nguồn từ Tripitaka. Song cần lưu ý ở đây là nhân vật dũng sĩ này cũng xuất hiện ở Trung Quốc rất sớm. Chàng là hình tượng rất được rất được hoan nghênh trong kịch mục của tỉnh Triết Giang Trung Quốc (Phương Hải Như và Ngô Triệu Thiên đã cải biên thành vở kịch hiện đại Vân trung lạc tú hài- Hài thêu lạc trong mây, Triết Giang văn nghệ xã ấn hành, 1984, 58 trang). Đồng thời, nhiều truyền thuyết về nhân vật này cũng được lưu truyền rộng rãi trong các dân tộc thiểu số Vân Nam. Từ những ví dụ giản đơn này chúng ta thấy những cuộc thiên di văn học có thể phức tạp hơn chúng ta hình dung rất nhiều.
17. Henri Cordier, Bibliotheca Indosinica (Văn khố Đông Dương) có Tự điển về các tác phẩm của bán đảo Đông Dương, Paris, 1915, quyển 4, tr.2328-2382.
P. Boudet & R. Bourgeoir, Bibliographi de l’Indochine Francaise (Thư mục Đông Dương thời thuộc Pháp), Hà Nội, Nhà in quốc gia, quyển 3-4 (1) năm 1932-1934, quyển 4 (2) do bà Boudet xuất bản năm 1967, Paris, Adrien Maisonneuve.
18. Christiane Rageau, Catalogue du fonds indochinois de la Bibliothèque Nationale (Thư mục sách Đông Dương trong Thư viện quốc gia), quyển 1, sách Việt Nam in bằng chữ quốc ngữ, 1922-1954, Paris, Thư viện quốc gia, 1979.
19. Hiện có những bản dịch xuất bản trước đây tại Sài Gòn được tái bản ở Pháp và Mỹ.
20. Đây là một trường tư thục hoạt động dưới sự điều hành của các trí thức tiến bộ, như Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc... Mục đích của nhà trường là truyền bá tri thức mới, và tiến hành những cải cách văn hóa xã hội. Đông Kinh nghĩa thục tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi (1907-1909) nhưng đã có những ảnh hưởng nhất định. Nhà trường có các phân hội tại nhiều thị trấn ở Bắc kỳ, xin xem Đào Trinh Nhất, Đông Kinh nghĩa thục, Hà Nội, Nhà xuất bản Mai Lĩnh, 1937.
21. Ông là bỉnh bút cho các tờ Đăng cổ tùng báo (1907) và Đông Dương tạp chí (1913).
22. Chẳng hạn trong các thành ngữ sau đây: nóng như Trương Phi, đa nghi như Tào Tháo, và mưu lược như Gia Cát...
23. Đặng Thai Mai, Trên đường học tập và nghiên cứu, Hà Nội, Văn học, 1969, tập 2, tr.191-192.
24. Xem Cordier, Đã dẫn, tr.2328-2382.
*Thực tế đây là những sáng tác của một nhà văn Việt Nam là Phạm Cao Củng (sinh năm 1913, hiện sống tại Mỹ; tác giả của nhiều tiểu thuyết trinh thám xuất hiện vào những năm 30, 40 của thế kỷ 20), nhưng khi xuất bản lại đề là “dịch” để thỏa mãn thị hiếu chuộng truyện Tàu của độc giả lúc bấy giờ. Nhân đây xin bày tỏ lời cảm ơn đến PGS. TS. Phạm Tú Châu về đính chính này và những tư liệu của bà về Phạm Cao Củng (ND).
.................................................................
Theo Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20), Claudine Salmon biên soạn, Trần Hải Yến dịch. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro