Ẩn dụ từ vựng và hoán dụ từ vựng
ẨN DỤ VÀ HOÁN DỤ TỪ VỰNG TRONG TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU)
I. Khái niệm ẩn dụ và hoán dụ từ vựng
1. Ẩn dụ
-Khái niệm: Là hình thức chuyển đổi tên gọi (gọi tên lại, định danh lại) cho sự vật, hiện tượng trên cơ sở so sánh ngầm, trong đó các sự vật, hiện tượng có thể giống nhau về vị trí, chức năng, cảm giác.
Vd: cổ chai, chân bàn, lá phổi, răng cào, lưỡi dao,...
Có 4 loại ẩn dụ thường gặp :
+Ẩn dụ phẩm chất
+Ẩn dụ cách thức
+Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
+Ẩn dụ hình thức
Một nhà nghiên cứu đã từng nói: "Chúng ta sống bằng các ẩn dụ" (We live by metaphor). Khó có thể tưởng tượng được một giao tiếp bằng ngôn ngữ nào mà lại không sử dụng các ẩn dụ. Tuy nhiên trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày chúng ta không thể sử dụng ẩn dụ tu từ để nói một vấn đề gì đấy. Việc sử dụng ẩn dụ tu từ trong giao tiếng, sinh hoạt hằng ngày sẽ dễ dẫn đến hiện tượng "Ông nói gà, bà nói vịt" chẳng hạn như:
"Người cha ấy rất yêu thương con cháu"
Trong câu nói ấy chúng ta chỉ hiểu rằng "Người cha" ở đây để chỉ người đã sinh thành và nuôi nấng chúng ta nhưng khi dùng trong văn học:
"Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm"
(Đêm nay bác không ngủ - Minh Huệ)
Thì hình ảnh người cha ở đây là hình ảnh ẩn dụ tu từ lấy "Người cha" để chỉ Bác Hồ bởi cùng chung phẩm chất như: tuổi tác, tình yêu thương và sự chăm sóc đối với con...
Tuy nhiên ẩn dụ cũng được dùng nhiều trong giao tiếp và phổ biến, được nhiều người sử dụng mà không cần giải thích thêm như: cổ chai, lưỡi dao, chân tường,... Kiểu ẩn dụ này là ẩn dụ từ vựng. Vậy liệu ẩn dụ từ vựng có được sử dụng trong văn học hay không hay chỉ sử dụng trong giao tiếp? Để làm rõ vấn đề này trước hết chúng ta cần phân biệt được ẩn dụ tu từ và ẩn dụ từ vựng.
-Phân biệt ẩn dụ từ vựng và ẩn dụ tu từ (Ẩn dụ nghệ thuật)
+Giống : Đều gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác do có nét tương đồng với nó
+Khác:
Khái niệm
- Ẩn dụ từ vựng : Là hình thức chuyển đổi tên gọi cho sự vật, hiện tượng tên cơ sở so sánh ngầm, trong đó các sự vật, hiện tượng có thể giống nhau về vị trí, chức năng, cảm giác
- Ẩn dụ tu từ(Ẩn dụ nghệ thuật) : Là biện pháp tu từ ngữ nghĩa nhằm xây dựng hình tượng thẩm mĩ (không chỉ gọi tên sự vật hiện tượng mà còn gợi ra những liên tưởng có liên quan đến đời sống của con người)
Trong đời sống
- Ẩn dụ từ vựng: thường được sử dụng nhiều trong đời sống qua lời ăn, tiếng nói, giao tiếp hằng ngày của con người
Vd:
Chân : là một bộ phận tiếp xúc với đất trên cơ thể động vật dùng để nâng đỡ cơ thể và di chuyển. Nhưng khi nói:
-"Cái chân bàn này gãy rồi" chúng ta đều hiểu được dụng ý muốn nói mà không cần phai giải thích gì thêm. Ở đây người nói đã sử dụng biện pháp ẩn dụ hình thức dựa trên nét tương đồng về hình thức "chân" và "chân bàn" đều là bộ phận tiếp đất, nâng đỡ cho phần ở phía trên.
- Ẩn dụ tu từ: Ít được sử dụng trong đời sống hằng ngày
Vd: Ngày ngày mặt trời (1)đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời (2) trong lăng rất đỏ
1: mặt trời tự nhiên, mặt trời của thiên nhiên
2: mặt trời chỉ bác, bác như là một mặt trời của dân tộc Viện Nam. Ở đây tác giả sử dụng ẩn dụ phẩm chất : đều mang lại ánh sáng, đều to và vĩ đại
Nhưng đó là trong văn thơ còn trong cuộc sống nếu chúng ta chỉ nói mặt trời thì ai cũng nghĩ là mặt trời của thiên nhiên mà không có thêm bất kì một nghĩa nào khác.
Trong văn học
- Ẩn dụ từ vựng: ít được sử dụng trong văn học nhưng có nhưng đóng góp nhất định trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật cũng như thể hiện cảm xúc, tâm trạng của tác giả.
- Ẩn dụ tu từ: được sử dụng nhiều trong văn xuôi lẫn thi ca. Ẩn dụ tu từ giúp người đọc, người nghe hiểu rõ hơn vấn đề mà tác giả diễn đạt và tăng sức gợi hình, gợi cảm cho tác phẩm văn học.
Tác dụng
-Ẩn dụ từ vựng: Tạo nghĩa mới cho hệ thống từ vựng – ngữ nghĩa của dân tộc
-Ẩn dụ tu từ: Tăng sức gợi hình gợi cảm cho các tác phẩm văn học.
2. Hoán dụ
- Khái niệm: Là phương thức chuyển đổi tên gọi dựa trên cơ sở của các mối quan hệ đi đôi bộ phận –toàn thể, vật chứa – vật bị chứa, dấu hiệu sự vật – sự vật, cái cụ thể - trừu tượng.
Phân loại : có 4 kiểu hoán dụ thường gặp:
+Hoán dụ lấy bộ phận chỉ toàn thể
+Hoán dụ lấy vật chứa đựng gọi vật bị chứa đựng.
+Hoán dụ lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật
+Hoán dụ lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.
Từ khái niệm ẩn dụ và hoán dụ chúng ta thấy chúng có điểm chung đều là gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác bởi vậy khá nhiều người không phân biệt được ẩn dụ và hoán dụ trong văn học. Chẳng hạn như câu thơ:
"Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm"
"Ngựa xe" và "áo quần" ở đây là hình ảnh hoán dụ lấy vật chứa đựng: xe, ngựa, áo quần để chỉ vật bị chứa đựng :con người. Tuy nhiên có người lại cho rằng hình ảnh ngựa xe là hình ảnh ẩn dụ lấy ngựa xe để chỉ con người là bởi chưa hiểu rõ và phân biệt được ẩn dụ và hoán dụ. Vậy với ẩn dụ từ vựng và hoán dụ khác nhau ở điểm nào và làm thế nào để phân biệt được? Chúng ta cùng phân tích những điểm dưới đây.
-Phân biệt ẩn dụ từ vựng và hoán dụ từ vựng
+Giống: đều là hình thức chuyển đổi tên gọi( gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác) dựa trên cơ chế liên tưởng
Tác dụng: Tạo sự bóng bẩy cho văn học nghệ thuật; tạo nghĩa mới cho hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa của dân tộc do đó sự chuyển nghĩa đó là sản phẩm của toàn dân, được cố định hóa trong kho từ vựng tiếng Việt, được ghi vào từ điển như một nghĩa sẵn có, được tái dụng một cách tự do trong lời nói.
+Khác:
Cơ chế chuyển nghĩa
- Ẩn dụ từ vựng : Dựa trên cơ sở 2 đối tượng giống nhau ở phương diện nào đó. Trong trường hợp này sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi tên gọi thuộc 2 phạm trù khác nhau hoàn toàn. Do đó ẩn dụ mang nhiều sắc thái chủ quan hơn
- Hoán dụ từ vựng : Dựa trên cơ sở hai đối tượng có quan hệ gần gũi với nhau. Chủ yếu mối quan hệ này được xác định trong không gian: đối tượng ở sát nhau, đan vào nhau hoặc bao chứa nhau, cái này là bộ phận, kết quả, biểu hiện cụ thể của cái kia. Mối quan hệ giữa sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi tên gọi là có thật chứ không hoàn toàn dựa vào suy luận chủ quan của con người. Do đó ẩn dụ mang tính khách quan nhiều hơn
Ý nghĩa từ vựng
- Ẩn dụ từ vựng: Trong ẩn dụ, từ ngữ được sử dụng thường chỉ là một trong những biến thể từ vựng, ngữ nghĩa của từ đó được hiện thực hóa, tức là ý nghĩa của từ bị thu hẹp
- Hoán dụ từ vựng: Trong hoán dụ ý nghĩa từ vựng của từ được sử dụng nhận được một ý nghĩa bổ sung mới, tức là nghĩa gốc từ đó được mở rộng
Trong văn học dân gian lẫn văn học viết ta bắt gặp nghệ thuật ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ khá nhiều
II. Ẩn dụ và hoán dụ từ vựng trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời một khối lượng tác phẩm văn học đồ sộ. Trong đó có tác phẩm Truyện Kiều. Truyện Kiều không chỉ mang giá trị nội dung sâu sắc mà cả nghệ thuật độc đáo . Bên cạnh ẩn dụ tu từ (ẩn dụ nghệ thuật) và hoán dụ tu từ ( hoán dụ nghệ thuật) như ta thường thấy trong văn học thì Truyện Kiều còn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ từ vựng và hoán dụ từ vựng. Vậy ẩn dụ từ vựng và hóa dụ từ vựng trong tác phẩm Truyện Kiều như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu.
1. Ẩn dụ
Nghệ thuật ẩn dụ là một trong những hình thức nghệ thuật được sử dụng nhiều trong tác phẩm truyện Kiều. Ngoài ẩn dụ tu từ tác giả còn sử dụng ẩn dụ từ vựng. Ẩn dụ từ vựng trong Truyện Kiều được chia làm các kiểu như sau: ẩn dụ hình thức, ẩn dụ cách thức, ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng,....
Ẩn dụ hình thức là những ẩn dụ dựa trên hình thức giống nhau giữa các sự vật. Kiểu ẩn dụ này rất quen thuộc chẳng hạn như : chân trời, chân mây, mặt biển, ...
Ví dụ:
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Như trên đã đề cập, ẩn dụ hình thức là phương thức ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật. Vì vậy, trong thơ Nguyễn Du đã sử dụng chân trời, góc bể để chỉ sự xa xôi, lạc lõng, bơ vơ của kiều nơi đất khách quê người. Kiều phải bán mình chuộc cha, phải "Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần" bởi vậy nên nàng phải tha hương. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ hình thức xa tít chân trời nơi mà không ai có thể đi đến, tận cùng góc bể nơi mà chưa một ai có thể thấy để chỉ tình cảnh hiện tại của Kiều. Hoặc như:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Bể dâu ở đây là chỉ sự chìm nổi trong cuộc sống của một con người hay nói đúng hơn chính là tác giả. Vốn dĩ bể hay còn gọi là biển: là đại dương nước mênh mông, không bến bờ, nhiều bão lớn và sóng gió nhưng Nguyễn Du đã dùng nghệ thuật ẩn dụ hình thức "bể dâu" để chỉ cuộc đời mênh mông, không biết kết thúc và nhiều sóng gió của bản thân mình. Nguyễn Du cũng là một con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Có lẽ vì thế ông rất cảm thông cho những kiếp người giống mình : Thúy Kiều (Truyện Kiều), nàng Tiểu Thanh (Đọc Tiểu Thanh ký). Một nàng Tiểu Thanh thông hiểu các môn nghệ thuạt cầm kỳ thi họa lại có phon tư lộng lẫy hơn người nhưng chịu số phận làm lẽ người ta rồi ra đi khi chưa đầy mười tám tuổi. Không những thế những vần thơ gửi gắm tâm sự của nàng cũng bị đốt đi chỉ còn lại một phần rất nhỏ mà sau này Nguyễn Du đọc được từ đó ông viết lên bài "Độc Tiểu Thanh ký" nhằm thể hiện tâm trạng đồng cảm xót thương của mình với những kiếp người nhỏ bé,tài hoa nhưng bạc mệnh. Và ở đây ta thấy được cuộc đời Kiều cũng bất hạnh, nhiều sóng gió, nổi trôi y như cánh bèo:
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Mặt nước dùng để chỉ phần bên trên của nước, cánh bèo chính là những cánh bèo nổi trôi trên dòng nước không biết bến bờ. Trong ca dao hình ảnh bèo cũng là hình ảnh ẩn dụ để chỉ thân phận người con gái:
Thân em như thể bèo trôi
Sóng dập gió dồi, biết tấp vào đâu.
HÌnh ảnh ẩn dụ "mặt nước" dùng để chỉ cuộc đời của Kiều như mặt nước "người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân" không biết sẽ phải gặp loại người gì trong xã hội. Bên cạnh đó ẩn dụ hình thức "cánh bèo" dùng để chỉ thân phận nổi trôi, bập bềnh, không biết bến bờ, phụ thuộc vào xã hội, vào kẻ khác của nàng Kiều hồng nhan bạc mệnh.
Không chỉ có ẩn dụ hình thức mà ở truyện Kiều còn nghệ thuật ẩn dụ cách thức.
Ẩn dụ cách thức là kiểu ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa hai hoạt động chẳng hạn: cắt hộ khẩu, nắm tư tưởng, hỏi xoáy vấn đề,...
Ví dụ:
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
Hình ảnh ẩn dụ "rút ngược dây oan" cho ta thấy nỗi oan mà gia đình Kiều phải gánh là do bọn quan tham, "ruồi xanh" đổ lỗi. "rút" là một hành động của con người – đại diện cho động vật có tri thức thực hiện như: rút tiền, rút dây,.. nhưng ở đây là "Rút ngược dây oan" có nghĩa là gia đình Kiều bị người ta đổ oan nhằm "Vơ vét cho đầy túi tham" và chính vì bị oan nên gia đình Kiều rơi vào vòng lao lí, dẫn đến một cuộc đời nàng Kiều nổi trôi, đầy bất hạnh.
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
"Đứt" là hành động mà một sợi dây, sự vật nào đó bị đứt chẳng hạn như " sợi dây ấy đứt rồi" Nhưng ở đây Nguyễn Du đã dùng nghệ thuật ẩn dụ "đứt gánh tương tư" ý chỉ mối tơ duyên hẹn ước của Thúy Kiều và Kim Trọng đã hết. Từ đây mối tình Kiều – Kim bị đứt giữa chừng, Kiều trao duyên cho em 'cậy' Thúy Vân nối tiếp sợi dây ái tình ấy còn mình thì bán mình chuộc cha, theo Mã Giám Sinh đến một nơi xa lạ. Nguyễn Du ví tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng là một gánh tương tư, một tình yêu không thể dùng lời ẽ và từ ngữ tả hết. Có người ví "tình là sợi tơ" sợi tơ mỏng manh, dễ bị đứt dù chỉ một dao động nhẹ nhưng ở đây tình của kiều là một gánh tương tư. Tình cảm ấy sâu nặng, chiếm một vị trí to lớn trong lòng Kiều nhưng rồi cuối cùng cũng bị đứt đoạn do sóng gió cuộc đời.
Ngoài ẩn dụ hình thức, ẩn dụ cách thức ở "Truyện Kiều" ta còn thấy được tác giả Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng
Ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng là ẩn dụ lấy vốn từ tước đây chủ dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động hay đặc trưng, tính chất cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Ví dụ như: nho chín và nghĩ chín trong tiếng Việt, soft( mềm mại) và soft winter( mùa đông ôn hòa, dễ chịu) trong tiếng Anh.
Trong "Truyện Kiều" kiểu ẩn dụ này ta gặp ở một số câu thơ ví dụ như:
"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương"
"Lòng bốn phương" là hình ảnh ẩn dụ về ý chí và suy nghĩ về sự nghiệp vĩ đại của anh hùng Từ Hải. Bằng cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ là dùng sự vật cụ thể "lòng người" Nguyễn Du chỉ cái trừu tượng "lòng bốn phương" của Từ Hải. Nhờ vào biện pháp ẩn dụ này Nguyễn Du càng khắc họa rõ nét một nhân vật có đầy đủ "chí khí anh hùng" và vóc dáng hiên ngang"Đội trời đạp đất" của Từ Hải.
"Nàng rằng phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi"
Ở trên "quyết lòng" cũng được nhà thơ Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng đó là "quyết định" và "lòng" để chỉ ý chí quyết tâm một lòng theo Từ Hải đây đó của Kiều. Một nàng Kiều sống trong chế độ xã hội
"Tại gia tòng phụ
Xuất gia tòng phu"
Bởi vậy nên hành động của Kiều càng chứng tỏ phẩm chất và tấm chân tình của Thúy Kiều.
Bằng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ từ vựng kết hợp với ẩn dụ tu từ, bút pháp ước lệ tượng trưng, nghệ thuật chấm phá và sử dụng nhiều điển tich điển cố các nhân vật trong "Truyện Kiều" được Nguyễn Du miêu tả rõ nét và mang đầy đủ phẩm chất, tính cách riêng biệt.
Qua những phân tích và ví dụ trên ta thấy ẩn dụ từ vựng xuất hiện trong tác phẩm tuy không nhiều bằng ẩn dụ tu từ nhưng cũng có những đóng góp nhất định trong việc xây dựng hình tượng thơ cũng như thể hiện cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ và xây dựng hình tượng nhân vật của tác giả.
2. Hoán dụ
Thành công của tác phẩm truyện Kiều bên cạnh các nghệ thuật ẩn dụ, ước lệ tượng trưng, so sánh, nhân hóa, dùng điển tích, điển cố, ..còn phải kể đến nghệ thuật hoán dụ. Tương tự ẩn dụ, hoán dụ cũng có hoán dụ tu từ ( hoán dụ nghệ thuật) và hoán dụ từ vựng.
Hoán dụ từ vựng trong truyện Kiều gồm có những kiểu: lấy bộ phận để nói toàn thể ví như lấy bàn tay để chỉ cơ thể:
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
(Bài ca vỡ đất – Hoàng Trung Thông)
Ở đây bàn tay là lấy bộ phận "bàn tay" để chỉ con người và sức lao động nhằm tạo ra miếng cơm, manh áo.
Ở truyện Kiều thì:
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Các từ tay, mặt, gan không phải mang nghĩa đen chỉ đối tượng như cái tay, khuôn mặt, bộ gan mà dùng để chỉ con người trong nghĩa bóng của nó. Như vậy bộ phận của con người dùng để chỉ chính con người. Ở đây là lời lẽ của Kiều dành cho Hoạn Thư. Ý của Kiều người cay nghiệt, mưu kế thâm sâu, ác độc như Hoạn thư không có nhiều, đời xưa ít, đời này cũng vậy. Nhưng quy luật của xã hội luôn là thế, "Gieo nhân nào gặp quả đó" hay như Kiều nói "Càng cang nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
Không chỉ có kiểu hoán dụ lấy bộ phận để nói toàn thể mà trong tác phẩm còn sử dụng hình thức lấy vật chứa đựng để chỉ vật bị chứa đựng:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Hình ảnh "ngựa xe", "áo quần" không chỉ đơn giản là những đồ vật thường dùng để di chuyển, ăn mặc mà còn là hình ảnh ẩn dụ để chỉ con người. Ở câu thơ bên trên tác giả đã sử dụng 'tài tử, giai nhân" nên ở câu thơ bên dưới không thể lặp lại hình ảnh đó. Do vậy hình ảnh 'ngựa xe', 'áo quần' chính là chỉ những tài tử giai nhân ấy và tất cả những người tham gia lễ hội đạp thanh trong tiết thanh minh. Cách sử dụng hình ảnh hoán dụ đã gợi lên một phong cảnh đông đúc mà hài hòa, sắc nét của những người tham gia lễ hội đạp thanh năm ấy
Không những thế truyện Kiều còn sử dụng kiểu hoán dụ lấy dấu hiệu để gọi sự vật:
Đầu xanh đã tội tình chi?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi
Ở đây "đầu xanh" và "má hồng" ngoài dùng để chỉ con người mà còn để chỉ tuổi xuân, tuổi trẻ của cong người mà ở đây cụ thể là Kiều. Một nàng Kiều đang ở độ tuổi xuân sắc: mái đầu xanh – chỉ tuổi còn trẻ, má hồng – chỉ người phụ nữ đẹp vậy mà đã phải chịu nhiều ngang trái trong cuộc đời.
Bằng cách kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật Nguyễn Du đã xây dựng nên tác phẩm truyện Kiều thành công. Để lại cho đời sau một công trình văn hóa có giá trị to lớn.
Kết luận: Ẩn dụ và hoán dụ từ vựng được sử dụng nhiều trong ngôn ngữ. Không chỉ có tác dụng thẩm mĩ đó là tạo sự bóng bẩy cho văn học nghệ thuật mà còn mang ý nghĩa từ vựng: Phát triển nghĩa cho từ, từ 1 từ đơn nghĩa phát triển thành đa nghĩa. Như vậy ẩn dụ và hoán dụ từ vựng giúp làm phong phú hóa hệ thống ngữ nghĩa của văn học nghệ thuật và hệ thống ngôn ngữ Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro