Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Ác chiến trên những cụm đồi Khe Sanh

Khe Sanh chiếm một vị thế chiến lược rất quan trọng trên bản đồ chiến sự tại Việt Nam. Là một cửa ngõ thiên nhiên mở rộng, Khe Sanh nằm giữa vùng núi đồi hiểm trở sát vùng ranh giới của hai quốc gia Việt Nam và Lào. Về phía Bắc, Cộng quân xử dụng đèo Mụ Già và Ban Karai để chuyển vận các các lực lượng bộ chiến cùng vũ khí vào Nam. Theo nhiều như bạn đọc đã biết, hệ thống chuyển vận này thường được gọi là hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh.

Lao Bảo --giao điểm nơi Quốc Lộ 9 cắt ngang ranh giới Việt-Lào-- đã từng là địa danh rền vang nằm trên con lộ xâm lược của lịch sử. Khoảng năm 1282, các sắc tộc người Chàm ở Việt Nam đã một lần dùng nơi này làm bàn đạp cho công cuộc "tây chinh." Đến 1966, lực lượng người Chàm lớn mạnh bên Lào. Nhưng năm 1827, người Thái mở cuộc đông chinh và đẩy lực lược Chàm ngược về Việt Nam đến một địa danh mà ngày nay được gọi là Cam Lộ. Năm 1904, đường số 9 được thiết lập. Đây là một con đường chạy dài từ tỉnh Quảng Trịở vùng cực Bắc của Nam Việt Nam đến thị trấn Tchepone của vương quốc Lào. (Ghi chú: Ở Việt Nam, đây là "Quốc Lộ 9," nhưng bên Lào, cũng một con lộ đất này nhưng lại được dân bản xứ cũng như trong quân đội đều gọi là "đường số 9").

Hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh ngày càng lớn mạnh, tháng 5 năm 1961, bộ đội Bắc Việt nới rộng cuộc xâm lăng. Họ tấn công rồi chiếm thị trấn Tchepone, một thành phố nhỏ nằm sâu trong lãnh thổ Lào. Ở nơi này, đường số 9 nếu đi thẳng về hướng Đông thì sẽ đụng cửa ngỏ Lao Bảo trong tỉnh Quảng Trị của Việt Nam Cộng Hòa.

Quanh vùng Lao Bảo, sắc tộc người Bru sinh sống rất nhiều. Người Mỹđã từng đến đây để thâu thập tin tức về hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh. Cuối năm 1962, quân đội Việt Nam Quốc Gia (miền Nam Việt Nam) thiết lập một phi đạo quân sự nho nhỏ. Rồi về sau, nơi này được cải tiến thành một căn cứ quân sự Hoa Kỳ với tên gọi rất quen thuộc: Căn Cứ Khe Sanh.

RỒI ĐẾN NĂM 1964

Ngày 26 tháng 3, Đại Úy Floyd Thompson (chỉ huy trưởng của lực lượng A-Team tại Khe Sanh) bị Cộng quân bắt. Ông là người tù binh bị giam giữ lâu dài nhất trong cuộc chiến.

Cuối năm 1964, Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thiết lập thêm nhiều công sự chiến đấu. Về sau, nhiều người đã nhầm lẫn và cho rằng những công sự chiến đấu này là người "Tây" xây cất.

Ngày 22 tháng 12/1965, Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tại Khe Sanh chạm súng và tiêu diệt một toán thám kích Cộng Sản Bắc Việt. Ngày 3 tháng 1 (1966), Cộng quân trả đũa với một loạt cối-120 ly rót vào căn cứ. Đây là lần đầu tiên hỏa lực pháo kích hùng hậu cỡ 120 ly được xử dụng trong cuộc chiến.

Dần dà, Khe Sanh trở thành một địa danh quan trọng. Nhưng sự quan trọng ởđây không phải là để ngăn chận một cuộc xâm lược của bộ đội phương Bắc. Nhưng ngược lại, Khe Sanh giống như một bàn đạp để người Mỹ có thể đưa các điệp vụ thám thính đi sâu vào lãnh thổ Lào. Những điệp vụ bí mật ngày càng gia tăng. Năm 1964, toán Thám Báo Truyền Tin dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Alfred M. Gray, Jr., đã hoạt động mạnh mẽ tại chân núi Móng Hổ.

Từđó về sau, nhiều hoạt động thám thính lần lượt xuất hiện quanh vùng Khe Sanh. Nào là Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ với mạng lưới tình báo, rồi toán đặc nhiệm Không Quân xử dụng loại phi cơ "chong chóng" Tigerhound, cho đến cơ quan tình báo CIA của Mỹ với một toán Cố Vấn Chiến Lược hợp tác với các cựu hồi chánh viên Bắc Việt. Và cuối cùng, năm 1966 nhóm SOG (Special Observation Group, tạm dịch "Toán Quan Sát Đặc Biệt") Hoa Kỳ đóng ở Phú Bài quyết định dùng Khe Sanh làm nơi xuất phát các cuộc hành quân đi sâu vào vùng đất địch.

Với kết quả tình báo quân sự khả quan, Đại Tướng Westmoreland muốn tân trang phi đạo tại Khe Sanh. Đồng thời, ông ra lệnh cho Tiểu Đoàn 1/3 (đọc là "Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 3") đến tăng cường cho Khe Sanh vào tháng 10 năm 1966. Trong năm này, chỉ có 3 quân nhân Hoa Kỳ trong chiến dịch DELTA --hoạt động quân sự của Mỹ về phía Nam của vùng Phi Quân Sự và về phía Đông biên giới-- bị mất tích. Từ 19 đến 25 tháng 12/1966, Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ dời căn cứ đến Làng Vei. Đây là một ngôi làng nằm về phía Tây gần căn cứ Khe Sanh.

CÁC VỤ CHẠM SÚNG NGÀY CÀNG GIA TĂNG

Ngày 18 tháng 1/1967, trong một cuộc chạm súng với Bắc quân, Trung Sĩ Michael John Scanlon của toán 3 Thám Kích là binh sĩ Cọp Biển (Cọp Biển: tiếng lóng thay thế danh từ "Thủy Quân Lục Chiến") đầu tiên hy sinh tại Khe Sanh. Rồi trong hai ngày giao chiến từ 26 đến 27 tháng 1 bốn chiếc trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (TQLC) bị bắn rớt. Ngày 6 tháng 2/1967, Tiểu Đoàn 1/9s đến Khe Sanh. Ngày 25 tháng 2 họ đụng độ quân Bắc Việt tại một địa điểm 1,500 mét về phía tây của phi đạo. Các toán thám kích Hoa Kỳ cho biết quân Bắc Việt đã tập trung một lực lượng đông đảo về vùng này.

Ngày 16 tháng 3, Đại Đội E/219 (đọc là "Đại Đội E thuộc Tiểu Đoàn 219") lâm chiến. Mười tám (18) binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến không may đã bỏ mình trong trận này. Lúc ấy, Không Quân Hoa Kỳ với các phi cơ Tigerhound cho

http://tieulun.hopto.org - Trang 2

biết họđã thấy có nhiều dấu vết hoạt động của Cộng quân gần một ngọn đồi cách Khe Sanh không xa mấy. Nhưng viên sĩ quan Hoa Kỳ, chỉ huy trưởng của lực lượng phòng thủ tại Khe Sanh đã không quan tâm đến vấn đề này.

24 THÁNG 4

Ngày 24 tháng 4, hai trung đội 1 và 3 của Đại Đội B/1/9 (đọc là "Đại Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1 của Trung Đoàn 9") mở cuộc hành quân lục soát quanh vùng (Trung Đội 2 ở lại Khe Sanh để phòng thủ căn cứ). Một trung đội hoạt động về phía Tây của Đồi 861, còn trung đội kia di chuyển trong một khu vực 1 km về phía Tây Bắc. Nhiệm vụ của họ là kiểm soát một hệ thống hang động đã được phát hiện vào chiều ngày hôm qua. Các diễn tiến trong cuộc hành quân này đã được Tom Ryan, một binh sĩ thuộc Trung Đội 3 kể lại như sau:

Viên đại tá chỉ huy trưởng tại Khe Sanh nói rằng ông muốn cử hai trung đội đi lục soát hệ thống hang động này. Theo dự án hành quân, ông muốn hai trung đội tiến song song với nhau, rồi sau đó sẽđánh ập vào để tiêu diệt quân địch. Lúc đó, tôi nhớ lại thật là ghê gớm...

Khoảng 18 giờ, Trung Đội B-1 (đọc là "Trung Đội 1 của Đại Đội B") và B-3 nhập lại thành một và dừng quân nghỉ qua đêm. Nhưng không một ai có thể ngủ yên. Thượng Sĩ Michael A. Brown --xạ thủ đại liên và toán trưởng của Trung Đội 3-- thuật lại như sau:

Chúng tôi lập vòng đai phòng thủ. Nhưng mọi người đều như lo sợ và thiếu mất niềm tự tin. Chúng tôi biết mình đang đi vào vùng kiểm soát của quân Bắc Việt. Trung đội của tôi đóng quân ở vùng hoang vắng, ngay cạnh bên nơi đóng quân của Trung Đội 1.

Năm giờ 30 sáng ngày 24, hai trung đội di chuyển theo đội hình hàng dọc song-song cách nhau 300 mét. Trong âm thầm, họ tiến quân về hướng Đồi 516. Lúc ấy trời đổ cơn mưa. Trong lúc di chuyển, vài binh sĩăn các đồ hộp C-Rations với nước mưa. Thượng Sĩ Michael A. Brown kể tiếp:

Đến giữa vùng hoang vắng, không một bóng người, cũng không có chạm súng. Các nẻo đường khó đi, nhưng chúng tôi cũng cố gắng để vượt qua nhiều chướng ngại vật. Tiếp tục di chuyển lên đồi. Tôi cũng không rõ đó là ngọn đồi nào, dường như là Đồi 861 thì phải. Đến một nơi có nhiều cỏ lau cao và dầy đặc, chúng tôi cũng không rõ là sẽ có một cuộc chạm súng nào sẽ xảy ra không đây. Vài binh sĩ trong nhóm nói, "Thôi, có lẽ khi mình đến mục tiêu thì mình cũng chẳng tìm được gì ởđó." Riêng phần tôi thì tự nhủ là ởđó chắc cũng không có an-bình hay yên-lặng, mà lại là tử thần và chết chóc đang rình đợi chúng tôi.

Lúc Trung Đội B-1 đến gần hệ thống hang động, một binh sĩ thuộc Tiểu Đội 3 của B-1 phát hiện khoảng 4-5 bộ đội Bắc Việt mặc quân phục khaki đang di chuyển về vị trí của toán Thủy Quân Lục Chiến. Thiếu Úy James D. Carter, Jr. --trung đội trưởng-- ra hiệu cho trung đội chuẩn bị sẵn sàng.

Khi khoảng cách giữa toán quân Bắc Việt và các binh sĩ Mỹ chỉ còn 50 mét, một người bộ đội trông thấy đối phương. Họ liền khai hỏa. Phía bên kia, các Cọp Biển Hoa Kỳ cũng bắn trả lại. Một rừng đạn đồng xé gió bay veo véo. Một lúc sau, Thiếu Úy Carter cùng vài binh sĩ rời vị trí để thám sát trận địa. Họ tìm được một cán binh Cộng Sản đang nằm trên băng ca. Người này lập tức bị giết chết. Sau đó không lâu, một cán binh Bắc Việt khác cũng bị nhóm của Thiếu Úy Carter bắn hạ dưới chân đồi.

Trong khi đó, Tiểu Đội 1 bị mất một thượng sĩ. Anh chính là Gerald Pomerlea (tiểu đội trưởng của Tiểu Đội 1). Trong lúc tiến quân, có lẽ hấp tấp và không cẩn thận nên Pomerlea đã bị một quả lựu đạn làm anh chết tại chỗ. Các binh sĩ của Trung Đội B-1 cố mang thi thể của Pomerleau lên đồi. Họ tiến về hướng Đồi 861. Nhưng mới đi được 300 mét thì trung đội này đã bị đối phương phục kích.

Trong khi đó, tình hình bên Trung Đội B-3 cũng không mấy khả quan. Hai bên chiến tuyến bắn nhau giữ dội. Để yểm trợ cho đồng đội, Hạ Sĩ Eric G. Wilk đem khẩu bích-kích pháo 60 ly đến một vị trí mà anh có thể quan sát rõ ràng. Khẩu súng cối bắn liên tục làm nhiều tổ súng của địch quân phải tạm thời câm miệng. Nhờ thế, Trung Đội 3/B mới đủ thời gian di chuyển qua rặng núi tránh tầm hỏa lực của Cộng quân.

Bắc quân lập tức tập trung hỏa lực về phía trước. Đủ loại súng lớn nhỏ đều nhắm vào vị trí mới của Trung Đội B-1. Họ cũng cố tiêu diệt luôn khẩu bích-kích pháo của Hạ Sĩ Wilk. Từ nãy đến giờ, "cây 60" đã làm cho họ nhứt đầu không ít. Hạ Sĩ Wilk liền dời khẩu bích-kích pháo đến một vị trí khác. Từ nơi đó anh có nhiều lợi thế hơn. Và rồi công việc bắn yểm trợ lại tiếp tục. Lúc ấy, đồng đội của Wilk mới đủ thời gian để chỉnh đốn hàng ngũ và tổ chức lại đội hình.

Hạ Sĩ John Wayne Skelton, Jr., cũng bận rộn không kém. Anh tự mình chạy đi chạy lại để bổ sung đạn dược cho súng cối của Wilk. Trong đường tơ kẽ tóc, và băng ngan các đường bay của lửa đạn, Skelton nhanh nhẹn phóng từ nơi này đến nơi kia để lấy thêm đạn đem về vị trí.

Mặc cho mọi chết chóc và hiểm nguy kề cận trên chiến trường, Hạ Sĩ Wilk vẫn tiếp tục tạo áp lực với khẩu bích¬kích pháo duy nhất. Anh bỏ từng viên đạn vào nòng, né sang bên, đợi tiếng "phụp" vang lên, rồi quả đạn bay khỏi nòng. Cứ thế làm đi làm lại như vậy cho đến khi Hạ Sĩ Wilk bị một viên đạn xuyên thẳng vào cánh tay.

Hạ Sĩ Wilk bị thương, quỵ xuống, nhưng người bạn Skelton đã lập tức bổ sung. Anh dằn lấy khẩu bích-kích pháo rồi tiếp tục công việc. Nhưng rồi Hạ Sĩ Skelton cũng bị trúng đạn. Tình thế lúc đó chẳng khác nào như thập-tử nhất-sanh.

Khi ấy, mọi việc đều diễn ra gần vị trí của Hạ Sĩ Dana Cornell Darnel (người tải đạn súng cối cho Trung Đội B-1). Chính anh đã nhìn thấy xạ thủ súng cối ngã gục trong những giây phút đầu của cuộc phục kích. Trong tình thế nguy ngập, Darnel vẫn bình tĩnh để cố thu hồi các viên đạn súng cối trên mặt đất. Anh quát tháo bảo các đồng đội hãy tiếp tế thêm đạn súng cối (đạn súng cối được phân chia cho nhiều người trong trung đội để mang phụ lẫn nhau). Nhưng vì địch quân bắn rát quá. Không một ai dám ôm đạn chạy đi chạy lại khắp nơi.

Không kể gì đến sự an toàn của chính mình, Darnel đứng thẳng người. Anh chạy đến vị trí của người ngày và người nọ để có thể lấy thêm đạn súng cối. Vì vị thế của khẩu bích-kích pháo vừa lộ thiên, vừa nguy hiểm, nên người hạ-sĩđã phải dùng nón sắt để làm bàn chống, rồi kẹp luôn khẩu súng cối vào giữa đùi anh. Đạn cối được "câu" liên tục, nổ ì ầm, khóa họng vài ổ súng cá nhân và cộng đồng của địch.

Tuy nhiên, vì mức độ tác xạ quá nhanh và quá nhiều nên nòng súng cối trở nên đỏ ửng. Nhưng vẫn phải tiếp tục bắn để đàn áp hỏa lực của Cộng quân. Nếu không ngừng, hoặc không có nước lạnh xối vào, nòng súng nở to và sẽ bị bất khiển dụng. Một binh sĩ Cọp Biển gần đó rất nhanh trí. Anh tuột quần xuống rồi "rưới" thẳng lên trên nòng.

Khi bắn hết đạn, Hạ Sĩ Darnel cho khẩu lệnh bảo các đồng đội cố gắng chờ đợi. Sau đó, như một con nai nhanh nhẹn, anh tiếp tục chạy từ nơi này đến nơi khác để vác thêm đạn về. Cứ như thế, khẩu súng cối 60 ly tiếp tục bắn yểm trợ cho đến khi hỏa lực của địch quân hoàn toàn bị dập tắt.

Trung Đội 1 được lệnh rút lui. Nhưng có 2 binh sĩ TQLC bị đại liên của đối phương quật ngã. Không chần chừ, Hạ Sĩ Darnel nhào đến tiếp cứu, băng bó, rồi kéo hai người thương binh này đến nơi an toàn. Mắt của anh bị mờ vì bụi mù chen lẫn với những mảnh đạn. Nhưng Darnel không sờn lòng. Chỉ trong vòng gần một tiếng, anh đã cứu giúp thêm được vài đồng đội khác. Một lúc sau, khi thấy máy truyền tin bị bỏ trên mặt đất (người lính hiệu-thính viên của trung đội đã tử trận), Hạ Sĩ Darnel nhặt máy mang lên vai rồi mới cùng trung đội rút lui khỏi chiến trường.

Trận đánh tạm thời kết thúc, nhưng nỗi lo sợ vẫn làm nặng lòng mọi người. Hạ Sĩ Brown (trưởng toán đại liên của Trung Đội B-3) cho biết: Lúc hành quân, chúng tôi cũng không rõ mục tiêu sẽ nằm nơi đâu, và cũng chẳng biết mình sẽđóng quân ở nơi nào. Cả trung đội tiến quân vô trật tự. Đến lúc lọt vào ổ phục kích, thì mạnh ai người nấy lo."

Trung Đội 1/B được lệnh phải để các xác chết của đồng đội lại cho B-3 trông chừng. Rồi lệnh-lạc cho biết họ phải tiếp tục di chuyển để bắt tay với BRAVO-6 (Đại Đội B của Tiểu Đoàn 6) của Đại Úy Sayers. Nhiệm vụ mới của là tăng viện cho B-2 vì lúc đó B-2 đã bị thiệt mất 4 binh sĩ.

Sáng 24 tháng 4, Thiếu Úy Thomas G. King được lệnh dẫn 30 binh sĩ trực chỉ Đồi 700 (khoảng một cây số về phía Nam của Đồi 861). Nhiệm vụ của họ là bảo vệ hai Trung Đội B-1 và B-3 đang hành quân gần đó. Nhóm Thiếu Úy King gồm 30 người, cộng thêm một tổ súng cối 81 ly với 120 quả đạn. Cùng đi với họ là Trung Úy Phillip H. Sayer, chỉ huy trưởng lực lượng thiết giáp Ontos tại căn cứ Khe Sanh.

Đến một nơi nọ, Thiếu Úy King ra lệnh cho tổ súng cối bố trí và nhắm vào một khu vực hang-động gần đó. Rồi một giờ sau, một toán tiền sát viên gồm 5 người bắt đầu hoạt động. Họ len lỏi theo các nẻo đường mòn di chuyển lên Đồi 861. Nhóm người này tìm một cao điểm để ghi nhận tọa độ của các mục tiêu.

Khi các tiền sát viên còn cách đỉnh đồi chừng 300 mét, họ bị một nhóm bộ đội từ 20 đến 30 người phục kích. Người lính đi đầu trúng đạn. Anh ngã xuống đất và la lớn lên, "Tao bị rồi!" Trong khi đó, Trung Úy Sayer và một

Binh Nhì William Marks kịp thời nhảy vào ẩn náu trong một hố đất. Một số binh sĩ khác gồm một người mang máy

truyền tinh bị kẹt lại khoảng 15 feet ở phía sau.

Trong tình huống thập phần nguy hiểm đó, Trung Úy Sayer chỉ có một khẩu súng lục. Còn khẩu súng trường của Binh Nhì Marks thì lại không xài được vì bùn đất nghẹt đầy. Cả hai người quyết định rút lui. Trung Úy Sayer bắn che để Binh Nhì Marks chạy về vị trí của các đồng đội. Sau đó Sayer chạy theo sau.

Binh Nhì Marks kể lại: "Tôi nhảy ra khỏi hố. Lúc đó là lần cuối cùng tôi còn thấy anh ta (Trung Úy Sayer). Khi chạy về vị trí của các đồng đội, tôi quát tháo mọi người hãy cấp tốc rút lui. Rồi chúng tôi dùng hết sức mình để chạy ào xuống đồi. Lúc đó, địch quân bắn theo ào ạt từ phía sau. Mọi người phải nằm xuống để tránh đạn, nhưng sau đó chúng tôi liền đứng lên để chạy tiếp. Bọn Cộng quân cũng nhanh không kém. Một cánh quân của chúng xuất hiện về phía bên phải. Lúc ấy thật hãi hùng. Ai cũng đều sợ sệt và nghĩ là nhóm của mình đã bị địch bao vây. Chắc mọi người sẽ bỏ mạng tại nơi này."

Người lính hiệu-thính viên trúng đạn ở ngực, té xuống. Còn một người lính khác với nhiệm vụ giữ an ninh thì tôi không thấy đâu cả. Lúc đó Binh Nhì Marks còn lại một mình. Anh chạy như một người mù trong cơn điên, vừa loạng choạng vừa té trên bùn đất, mà trong khi đó hàng chục viên đạn của địch quân cứ rít lên veo véo xung quanh. Giữa lúc nguy ngập, Binh Nhì Marks may mắn đâm đầu vào một toán binh sĩ của nhóm An Ninh Hành Quân (đang di chuyển về phía trước để tìm toán lính của Marks). Gặp được họ, Marks liền gào lên:

-"Chết hết rồi! Bốn người lính kia đã chết! Họ chết hết cả rồi!"

Khi Binh Nhì Marks được mang về vị trí của đơn vị, các đồng đội cho anh vài viên thuốc aspirin và họ bảo anh hãy nằm xuống tịnh dưỡng. Nhưng Binh Nhì Marks không thể nào nằm yên được. Anh rên rỉ: Những khuôn mặt của các đồng đội xấu số kia vẫn tiếp tục hiện lên trong đầu tôi."

Thiếu Úy King lập tức cử một tiểu đội trở lại vị trí lúc nãy để mang xác chết của bốn người lính kia về. Nhưng họ chỉ tìm được thi thể của hai người. Còn hai người kia thì coi như mất tích. Lúc ấy hỏa lực của địch quân vẫn còn mạnh và đang tiếp tục uy hiếp chiến trường. Tiểu đội "hốt xác" đành phải rút lui. Sau đó Thiếu Úy King dùng máy truyền tin xin pháo binh bắn vào Đồi 861, nơi mà anh nghi ngờ có quân Bắc Việt đang cố thủ.

Đột nhiên trên máy truyền tin có tiếng nói của Đại Úy Sayers. Ông cho Thiếu Úy King biết là trực thăng của ông đang bay đến chiến trường. Khi chiếc trực thăng còn đang vần vũ, vài tràng đại liên 12.7 ly của quân Bắc Việt bay ào ào lên uy hiếp. Nhưng chiếc trực thăng cũng cốđáp xuống để Đại Úy Sayers cùng một người lính hiệu-thính viên nhào ra. Sau đó, chiếc trực thăng lập tức bay lên rời vùng nguy hiểm.

Thiếu Úy King lập tức "trả lời." Anh điều chỉnh khẩu bích-kích pháo, rồi nhắm về phía vị trí của khẩu đại liên 12.7 kia và khai hỏa. Từ đằng xa, thi thể của một cán binh Bắc Việt như bị sức ép của trái nổ hất tung lên trời. Một toán lính liền được cử đến nơi đó, nhưng họ không tìm thấy được gì cả.

Khi toán lính này trở lại, Thiếu Úy King quyết định dẫn một nhóm gồm 9 binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến trở lại vị trí lúc họ bị phục kích trên Đồi 881. Lần này không bị địch quân bắn sẻ, nhưng họ tìm được thi thể của hai người lính đã chết (không tìm được lúc đầu) và kéo trở về vị trí của trung đội. Một trong hai xác chết đã bị quân Bắc Việt lột sạch, chỉ trừđôi giầy trận, quần lót và chiếc áo khoác với nhiều túi. Xác chết thứ nhì thì thê thảm hơn vì bị Cộng quân lột không còn một thứ gì ngoại trừ chiếc áo giáp, hai bình nước và một xâu đạn. Tiếp theo đó, tiểu đội tiếp tục chia nhau đi tìm hai binh sĩ khác vẫn còn bị mất tích. Tuy nhiên không ai tìm được gì. Có thể hai người lính ấy đã bò đến một nơi an toàn nào đó.

Thiếu Úy King xin Đại Úy Sayers cho phép rút lui. Về sau khi nhớ lại vụ này, King nói: "Tôi chẳng thích chỗ này. Chỗ gì mà yên lặng thấy mà sợ. Yên lặng như tờ, đến nỗi mấy con côn trùng cũng chẳng buồn rên rỉ. Tôi nghĩ địch quân chắc còn đóng đô tại nơi này."

Phần trên là lời tường thuật của Đại Úy Nick, người phi công gan-lì dũng cảm trong phi vụ trực thăng

tải thương "Nhất Chín Nhì Mười" để tiếp cứu các binh sĩ của B-1 và B-3 tại đồi 861. Hình chụp tác giả

James Wodecki đứng nhìn về phía Đồi 861. (HÌNH ẢNH: James Wodecki)

Khi toàn thể trung đội di chuyển đến một vị trí an toàn, Thiếu Úy King gọi trực thăng đến để triệt thoái các xác chết. King nói: "Tôi vào được tần số của trực thăng. Viên phi công bảo tôi hãy đánh dấu vị trí bằng lựu đạn khói. Tôi "pop" một trái khói. Chiếc trực thăng H-34 đảo một vòng trên cao. Viên phi công lại xin hãy cho thêm một trái khói nữa. Tôi lại đánh dấu vị trí bằng một trái khói khác. Sau khi quan sát kỹ càng, chiếc H-34 sà xuống bãi đáp. Lúc bánh xe trực thăng vừa chạm mặt đất thì đột nhiên từ phía sau rặng cây ngay trên Đồi 861, địch quân đồng loạt khai hỏa. Họ bắn tới tấp vào nơi đóng quân của chúng tôi."

Thiếu Úy King lập tức trở về vị trí của khẩu bích-kích pháo. Với khẩu 81-ly, anh bắn yểm trợ cho hai Trung Đội B-1 và B-3, và tạm thời cắt đứt phần nào cơn hỏa tập của Cộng quân. Một binh sĩ tiền sát viên thuộc Trung Đội B-1 lên tần số cho biết những viên đạn bích-kích pháo đã rơi trúng vào vị trí tập trung của khoảng một đại đội Bắc Việt. Người lính này truyền khẩu lệnh rằng hãy tiếp tục bắn (bích-kích pháo) đi.

Trung Đội B-1 được lệnh phải tiến về phía Đồi 861. Nhưng trên đường đi họ bị rơi vào ổ phục kích của Bắc quân. Đạn đại liên của quân Cộng Sản nổ vẫn tiếp tục nổ. Vài binh sĩ ngã gục tại trận địa. Một số khác bị thương. Trung đội B-1 thối lui và di chuyển đến một bãi đáp gần đó. Trực thăng liền được gọi đến để chở các thương binh đi ngay.

Nhưng rồi bãi đáp này cũng bị Cộng quân pháo kích. Toàn thể Trung Đội B-1 liền chạy sang một bãi đáp khác. Một chiếc trực thăng đến hiện trường, nhưng không đáp được vì bị quân Bắc Việt bắn như vũ bão cuồng phong. Chỉ

http://tieulun.hopto.org - Trang 7

trong khoảng khắc đã có một người lính bị trúng đạn chết cùng 3 binh sĩ khác bị thương. Nhớ lại trận phục kích này, Thượng Sĩ Al Koppel của B/1/9 (đọc là "Đại Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1 của Trung Đoàn 9") cho biết: "Lúc đó trời đang mưa, rất lạnh lẽo. Tình hình thì tối đen như mực. Tôi cũng đã từng tham chiến tại Triều Tiên. Nhưng bây giờ nghĩ lại tôi cũng không biết phải nói chiến trường nào ghê gớm hơn."

Trong khi đó, tình hình bên Trung Đội B-3 cũng không khá hơn gì. Lúc Trung Đội B-1 để lại thi thể của Hạ Sĩ Pomerleau và di chuyển đến một nơi khác, Hạ Sĩ Brown nhớ lại: "Chúng tôi cứ đứng quanh quẩn, và chẳng biết mình phải nên làm cái gì bây giờ." Đội nhiên khoảng ba đến bốn phút sau đó, từ rặng đồi đối diện, quân Bắc Việt bắn vào chúng tôi. Hỏa lực của họ gồm đủ loại, nào vũ khí cá nhân cho đến súng cộng đồng, nào bích-kích pháo cho đến đại liên 7.62 và 12.7 ly. Các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của B-3 lập tức chạy đến phía sau một rặng cây ở gần đỉnh đồi. Từ vị trí này, họ tập trung phản pháo.

"Không một ai còn nhớ lúc đó họđã làm những gì để phản pháo. Chúng tôi chạy vào một cụm cây rừng, ngồi xuống rồi bắt đầu khai hỏa. Lúc đang bắn nhau, tôi có thấy vài tia chớp từ các họng súng địch quân trong những bụi rậm ở gần đó. Nhưng cũng khó mà nhận diện chính xác cho được. Có lẽ địch quân đã ẩn náu trong các công sự chiến đấu rất vững vàng."

"Hai bên bắn nhau dữ dội. Vài loạt đạn của địch quân bay thật gần sát, nhưng may mắn chúng tôi không sao. Chúng tôi cũng có chướng ngại vật để che chở. Nhưng một khi tiếng súng đã nổ rồi thì Cộng quân có thể nhìn thấy đạn đạo và phát hiện vị trí của những người bắn. Vài binh sĩ trúng đạn bị thương gào lên inh ỏi. Tiếng la của họ là giao động tinh thần chiến đấu của chúng tôi. Lúc đó chúng tôi cũng chẳng còn hồn vía đâu để mà suy nghĩ dài dòng. Mọi người tiếp tục ào ạt bắn và cứ bắn mãi không ngừng."

Một lúc sau, trung đội được lệnh rút lui. Lệnh lạc còn nói thêm là các binh sĩ có thể để phân nửa đống 'phụ tùng' lại. Chúng tôi không muốn bỏ lại một thứ gì. Nhưng nếu mang hết tất cả theo thì nặng nhọc quá và không thể chu toàn việc chuyển quân được. Lúc ấy, các y sĩđang băng bó cho những thương binh. Nhưng rồi sau đó chúng tôi quyết định sẽ để lại hết tất cả 'đồ phụ tùng' của tổ bích-kích pháo."

Trong lúc đi xuống đồi, trung đội gặp khó khăn trong việc thuyên chuyển các thương binh trên cán gỗ. Một người lính với trách nhiệm giữ khẩu đại liên liền đưa khẩu súng nặng nề này cho một người khác giữ hộ. Sau đó anh ta vác cả thân thể một thương binh khác lên lưng mình. Toàn thể trung đội tiếp tục di chuyển để tìm một bãi đáp an toàn khác. Trong khi ấy, quân Bắc Việt tiếp tục dùng súng cối bắn đuổi theo. Nhưng vì quá xa nên những quả đạn bích-kích pháo đã rơi không chính xác.

Hạ Sĩ Brown nhớ lại như sau: Chúng tôi hầu hết đều có cảm giác rất sợ. Khi lui binh ra khỏi khu vực đó, ai nấy cũng đều mừng và thở phào nhẹ phõm. Nhưng chúng tôi cũng chưa hoàn toàn ra khỏi được vùng nguy hiểm. Thật sự ra chúng tôi cũng vẫn đang là một đàn cá còn đang nằm trong rọ."

Trong khi di chuyển, trung đội "Cọp Biển" gặp trục trặc từởđoàn người phía sau. Tất cả phải dừng lại vì một viên y sĩđã quá mệt khi phải giúp dìu dắt các thương binh. Lúc ấy đột nhiên vài chiếc máy bay xuất hiện trên trời và bắt đầu đánh bom vào một ngọn đồi sát nơi dừng chân của Trung Đội B-3.

"Những quả bom từ các phi cơđã được thả lầm vào vị trí của chúng tôi. Chỉ riêng tiểu đội của tôi mà đã có đến sáu người thiệt mạng. Hỏa lực không tạc bao phủ cả ngọn đồi. Những người lính bảo với nhau là phải chạy khỏi nơi này ngay lập tức. Các phản lực cơ vẫn tiếp tục đánh bom. Một toán lính trong tổ tác-xạ của tôi bị bom đánh tan xác. Tôi nghĩ chắc những phi công trên trời cao đã cho rằng chúng tôi là quân Bắc Việt họ thấy cả một đoàn quân đang di chuyển xuống triền đồi."

"Thêm hai quả bom nữa lại rơi xuống nổ bùng. Đường giây liên lạc với vị sĩ quan trung đội trưởng bị cắt đứt. Vài người báo cáo với tôi (lúc đó tôi đang đi ở khoảng giữa đoàn quân) là một số binh sĩđã bị thương nặng vì mảnh bom, và họ cần viên y sĩ đến băng bó gấp. Một khẩu lệnh được truyền xuống. Thế là viên y sĩ lập tức có mặt để chăm sóc thương binh. Khi quay trở lại vị trí của trung đội vừa bị trúng bom, chúng tôi thất có nhiều quân cụ bị văng tứ tung khắp nơi. Xung quanh đó, các "đồ phụ tùng" dính đầy máu như tay, chân, thân thể, v.v. đều nằm la liệt trên mặt đất."

"Chúng tôi được lệnh phải lập tức rời khỏi chỗ này. Một binh sĩ bị thương nặng và có lẽ anh đã sắp chết đến nơi rồi. Viên sĩ quan trung đội trưởng lập tức có mặt ngay bên cạnh. Ông an ủi người lính hấp hối. Tuy nhiên, người lính này vẫn không chết ngay. Anh được đồng đội đặt lên băng ca và di chuyển khỏi trận địa."

Vào lúc 17 giờ 00, đang bay một phi vụ tiếp tế trên trời cao, Đại Úy J.A. House thuộc toán HMM-265 đột nhiên nhận được một khẩn lệnh tiếp cứu. Đại Úy House và viên phi công phó là Đại Úy J.J. Dalton, cùng với một chiếc trực thăng khác của Đại Úy Nick, liền tìm đến vị trí của hai Trung Đội B-1 và B-3 để di tản các thương binh.

Đại Úy Nick lái chiếc trực thăng đến một bãi đáp trên đỉnh đồi 861 để tải thương cho Trung Đội B-1. Vừa đáp xuống mặt đất, hỏa lực của quân Bắc Việt liền đổ ụp xuống bao phủ xung quanh chiếc trực thăng.

"Trong lúc vội vã, chúng tôi đẩy vội được ba thương binh lên trực thăng. Tất cả các cửa kính trên chiếc tàu bay này đều đã bị Cộng quân bắn vỡ. Bộ phận máy móc của cánh quạt bự phía trước cũng bị một viên đạn xuyên phá bắn thủng. Nhưng rồi chiếc trực thăng cũng bay về và đáp an toàn tại Căn Cứ Khe Sanh. Sau khi đáp được an toàn thì bộ cơ phận của cánh quạt trực thăng mới hoàn toàn hư hỏng. Nhưng may mắn hơn, không một ai trong nhóm chúng tôi bị bắn chết. Chỉ có một binh sĩ bị thương khi khuỷu chân của anh bị một viên 12.7 ly bắn vỡ."

"Chiếc trực thăng đã chở một thương binh cùng hai thi thể ra khỏi vùng nguy hiểm. Nhiệm vụ của tôi, người phi công phụ, là quan sát chiến trường để coi chừng hỏa lực địch và hạ cánh cửa phía sau (trực thăng) xuống. Khi ấy vì tình thế nguy ngập, tôi liền xin hỏa lực pháo binh bắn yểm trợ. Từ trong trực thăng tôi thấy rõ mình đang nhìn thẳng vào cái 'móng ngựa' của triền đồi trên ngọn 861. Đột nhiên từng chùm đạn pháo binh (của quân bạn bắn yểm trợ) từđâu bay tới. Những tiếng nổ ì ầm vang dội bắt đầu chạy dài từ phía bên trái của vành móng ngựa, rồi đi một vòng cung sang đến phía bên phải."

Trở lại tình hình tại chiến trường, Đại Úy House đang dẫn đầu một lực lượng trực-thăng vận đi tiếp ứng cho B-3. Lúc ấy Trung Đội B-3 đã kiệt sức... tả tơi vì một trận phục kích của Bắc quân, sau đó lại còn bị các anh bạn Không Quân nào đó vô ý thức ...đè ra "bề hội đồng."

Khi trực thăng chở toán quân của Đại Úy House đến được bãi đáp gần nơi dừng quân của B-3 thì quân Bắc Việt từ ở triền đồi phía bên phải lập tức khai hỏa. Trên chiến trường lúc này có rất nhiều chướng ngại vật với đủ loại cây lớn, cây nhỏ và các thân cây mục. Hướng tác xạ của Cộng quân được xác định là từ góc 3 giờ (tức là nếu người lính đang nhìn thẳng về phía trước, thì họ bị địch quân bắn vào từ phía bên phải). Lúc ấy, đội trưởng Hạ Sĩ Daniel Douglas Dulude liền chụp lấy khẩu đại liên 50 để bắn trả lại.

Một đội viên trực thăng khác, Trung Sĩ G.L. Logan, quan sát và thấy rằng ở góc 9 giờ (tức là phía bên trái) rất yên tĩnh và không có hỏa lực của địch quân. Và địa thế gập ghềnh của triền đồi bên phía trái đã làm cho địch quân không muốn bố trí các vị trí súng ở nơi này. Đang bận rộn nạp đạn đại liên cho viên đội trưởng, thì Trung Sĩ Logan thấy một viên y sĩ từ bên ngoài đang dùng tay và khuỷu chân bò vào khoang trực thăng.

Hạ Sĩ Dulude liền cuối xuống kéo giúp người y sĩđang bị thương kia vào trong khoang trực thăng. Đồng thời anh cũng ra hiệu cho Trung Sĩ Logan đến giữ hộ anh khẩu đại liên để tiếp tục tác xạ. Phía bên ngoài, vì không có ai giúp đỡ nhóm thương binh nên họđành nương tựa lẫn nhau để cố tiến về phía chiếc trực thăng. Mọi việc đang xảy ra trước mắt Hạ Sĩ Dulude. Anh thấy nhóm thương binh kia đang di chuyển chậm chạp cách nơi anh khoảng chừng 25 mét.

Không lo lắng cho bản thân mình, Hạ Sĩ Dulude từ trực thăng nhảy xuống đất. để cố chạy đến giúp đỡ nhóm thương binh kia. Ở xung quanh, đạn liên-thanh của địch quân rít lên veo véo nghe rợn người. Vùng cỏ lau rậm rạp cao hơn đầu người đã làm Hạ Sĩ Dulude không thấy được đường đi. Cỏ rậm và cao đến nỗi sau khi chạy một đoạn ngắn độ chừng 15 mét, người hạ sĩ này quay đầu lại thì anh cũng không còn thấy chiếc trực thăng ởđâu nữa. Tuy thế, một lúc sau Dulude cũng tìm được phương hướng để quay trở lại. Anh lại còn mang được theo một người thương binh, và để rồi sau đó trở lại vị trí lúc nãy để tiếp tục dìu dắt những thương binh còn lại.

Lúc này, quân Bắc Việt đột nhiên điều chỉnh tầm tác xạ. Có đến sáu quả bích-kích pháo của Cộng quân rơi và nổ thật gần bên cạnh chiếc trực thăng tải thương. Hạ Sĩ Dulude coi thường mọi hiểm nguy. Anh ra đi, trở lại, chuyến thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, rồi đến chuyến thứ tư...

Khi chỉ còn lại người thương binh cuối cùng, Hạ Sĩ Dulude mang theo cả người này sau khi quan sát thật kỹ càng. Anh không muốn bỏ sót một ai ở lại trên chiến trường. Sau khi đưa người thương binh cuối cùng lên trực thăng, Hạ Sĩ Dulude liền báo cáo với viên phi công để họ có thể cho chiếc trực thăng cất khỏi mặt đất. Mệt mỏi, kiệt sức, nhưng người hạ sĩ can trường kia vẫn không muốn nghỉ ngơi. Anh lôi các dụng cụ y tế ra và bắt đầu băng bó cho các thương binh đồng đội.

Đêm hôm đó hai Trung Đội B-1 và B-3 đàn phải đóng quân giữa vùng hoang giã. Công sự phòng thủ được thiết lập trong vạn sự mệt mỏi. Hố chiến đấu được đào bằng ly uống nước và lưỡi lê (dao lê). Trước khi hành quân, họ

http://tieulun.hopto.org - Trang 9

được lệnh mang theo quân trang thật nhẹ. Nên không một ai có ba lô to để chứa nhiều đồ ăn, nước uống. Bây giờ

chỉ còn lại đạn dược mà thôi.

Một trung sĩ của B-3 bị thương ởđùi cứ mãi nói với mọi người rằng "Chắc chắn là chúng ta sẽ chết hết!" Nhưng lạ

thay, suốt cảđêm Bắc quân không hề tất công một lần nào. Hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến tại Đồi 861 được một rừng bom đạn từ phi cơ không-yểm và pháo binh liên tục bảo vệ. Phía bên B-2, đạn 81-ly cho tổ bích-kích pháo đã hết cạn. Đại Úy Sayers đành cho cho toàn thể trung đội rút hết

về Khe Sanh trước khi trời tối.

Kết quả cho các chiến cuộc trong ngày 24 tháng 4:

Hoa Kỳ:

14 binh sĩ tử trận

18 bị thương

• 2 mất tích Cộng Sản Bắc Việt:

5 tử thi bộ đội (xác nhận)

100 cán binh chết (ước lượng)

Về hỏa pháo và phi pháo yểm trợ cho ngày 24 tháng 4, có tổng cộng 660 quả đạn 105-ly được bắn đi và 8 phi vụ không-yểm với 6,500 cân bom được xử dụng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro