Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ab-Lenghiabkxd05

Giết Chó

( Truyện ngắn) 

Mới tinh mơ ở cái ao đầu xóm đã diễn ra một quang cảnh rộn rịp y như quang cảnh hôm ba mươi Tết. Mấy cái cầu bắc chung quanh ao đông nghịt những người, và người nào cũng bận một công việc giống nhau: làm thịt chó. Mặt ao loáng màu máu đỏ, và ngầu lên những bọt bẩn. Vài túm lông vàng, đen, trắng trôi lập lờ trên mặt nước. Một mùi tanh tanh khăn khẳn xông lên, dính trong không khí ẩm ướt như không chịu tản đi. Nhưng có vẻ không ai ngửi thấy. Họ vẫn mải miết làm, bàn tay thoăn thoắt rất thành thạo. Dao đưa đến đâu màu da trắng tái gần như xám xanh trên thân mình con vật lộ dần đến đấy. Những người ra sớm xong công việc làm lông rồi thì họ làm đến bộ lòng. Mớ ruột dơ cao lên ngoằn ngoèo, họ lấy tay tuốt từ trên xuống, những vật dơ bẩn trong ruột phòi ra, họ vẩy tay, hất xuống ao. Nước ao động đậy, những chú cá bé dạn dĩ ngoi lên đớp đớp.

Trên bờ ao, đó đây vài đống rác được nhóm lên thui những con chó đã làm lông và cọ rửa sạch sẽ. Trong mùi khói khét lẹt từng lúc lại sực nức mùi thịt thơm. Những cái hít ra hít vào, thưởng thức. Mỗi người nói một câu:

- Chà! Thơm điếc mũi.

- Tớ chảy nước rãi rồi.

Anh Hương đang dúng mình con chó xuống ao, bỗng hốt hoảng kêu lên:

- Bỏ mẹ! Quên không dặn nó đi lấy rượu. Hôm nay cả làng "mộc-tồn" thế này thì rượu bà Tư Gù đủ bán thế chó nào được. Có ai về bảo hộ mẹ cu nó nhà tôi chạy đi lấy rượu ngay cho tôi không? Hết mẹ nó rồi cũng nên.

Anh ta nhìn ngang nhìn ngửa. Rồi gọi rối rít:

- Cu Tời ơi! Mày về bảo hộ tao cái, chóng chốc tao cho khúc dồi.

Thằng Cu nguây nguẩy:

- Tôi chả ăn. Nhà tôi hôm nay cũng khối dồi.

Nó điềm nhiên ngoặt hai tay ra phía sau ôm lấy gáy, đứng xem anh nó làm con chó của nhà nó.

- Mẹ kiếp, làm bộ! Bên bác Trưởng mua rượu chưa? Chưa mua thì mua dùm em nửa chai nhân thể nhé.

Bác Trưởng vừa nghiêng đầu, cúi xuống vai áo chùi đôi mắt ướt chàn chụa vì khói vừa oang oang đáp trong khi hai tay vẫn lăn giở mình con chó trên ngọn lửa cho vàng đều.

- Bu nó mua từ hôm qua kia chứ ạ. Chứ hôm nay đông người mua thế này thì gọi là bà Tư Gù bà ấy bỏ muối vào mắt mà lấy tiền.

Bác Hương làm vội làm vàng cho xong công việc, đặt con chó vào rổ, đứng lên, lách sau lưng những người ngồi liên tiếp hàng dài trên cầu ao, đi lên bờ. Những người ngồi dưới lại dồn vào phía trong, nhường chỗ ngoài cùng cho người khác ở trên bờ bước xuống. Chiếc cầu tre kẽo kẹt rún lên rún xuống!

Từ trong xóm luôn luôn những chân người huỳnh huỵch chạy ra phía ao, tay người nào cũng ôm một cải rổ đựng toàn một thứ chó. Có con vừa chọc tiết xong máu chưa đông kịp rỏ dòng dòng xuống đường, điểm những vết đen thẫm trên đất và đỏ tía trên cỏ xanh.

Bờ ao thì mỗi lúc một đông thêm. Người đứng chờ trên bờ dục* người ngồi dưới cầu.

- Phiên phiến một tí anh em ơi. Còn cho người khác làm chứ!

Tức thì dưới cầu nhao nhao đáp lại:

- Không làm thì chơi đấy à? Rét bỏ mẹ cóng cả tay, ai còn thèm ngồi găm cơ chứ.

Những người đã có chỗ ngồi yên trí rồi, chuyện nở như gạo rang:

- Ừ! Sao các ông ấy không để thong thả làm dần, lần lượt từng xóm. Ai lại cho có 24 tiếng đồng hồ bao giờ! Mà bao nhiêu là chó.

Người khác phụ họa:

- Giá cứ để làm lần lượt có phải hay bao nhiêu không. Gọi là cứ chén hàng tháng. Nay nhà bác, mai nhà tôi, ăn đụng. Chứ thế này thì ăn dốn!

- Ấy có thế này thì vợ con mới được một vài miếng. Chứ lần lượt mời nhau ăn đụng thì chỉ chui vào mồm các bố cu cả.

Mọi người cười ha hả, rồi lại tiếp tục:

- Bắt giết gấp thế này thì có nhà dễ phải giết đến bốn năm con một lúc ấy nhỉ.

- Của nợ! Ai làm thế. Bán bớt đi chứ. Không trông phiên chợ sáng qua đấy à? Trên thì người dưới thì chó.

- Gớm? Cái bác phải gió! Ví với von!

Câu chuyện quanh quanh mãi về mấy con chó mà không hết. Cho đến xế trưa, ngoài ao vẫn còn người mang chó ra làm. Trong xóm tiếng dao thớt lát chát nghe mãi như hình có âm điệu đáp gọi lẫn nhau. Trẻ con thì thụt như đèn cù trên đường xóm. Chúng được sai đi vay củ giềng, xin nắm lá, mua cút rượu. Mấy anh cùng đinh trong làng không có lấy con chó để giết với thôn xóm làm vui, hôm nay tha hồ mà ăn ghẹ, ăn phò, đem những chuyện chó béo chó gầy, dựa mận nấu khéo, nấu vụng, kháo hết nhà này sang nhà khác. Tiếng cười nói vang vang khắp mọi nhà. Họ quên trong chén rượu, miếng thịt, những tiếng súng đại bác, liên thanh mỗi ngày một nghe rõ hơn như tiến dần về phía làng.

2.

Bác Hương giã cơn say rượu thì đã gần nửa đêm. Bác mở mắt, thần trí đê mê không nhận rõ được mình nằm đâu. Bác quơ tay chung quanh. Trong bóng tối tay bác đụng phải thằng cu Tí, con trai bác, nằm uốn cong người, co quắp như con tôm để lấy thêm hơi ấm. Bác đã bắt đầu tinh tỉnh, nhớ bữa chén hồi chiều, bữa chén còn lại của bữa chén buổi sáng. Và lúc ấy bác mới biết cổ họng bác khô nóng và lưỡi thì cộm lên. Bác nghĩ đến tích nước dưới gậm bàn thờ để giải cái khát đang đốt cháy họng. Bác ngồi dậy, đặt hai chân xuống đất. Nhưng bác bỗng giật mình, đờ đẫn cả người. Sao mà lại im lặng thế này. Không phải chỉ im lặng ở trong khu nhà bác, xóm bác mà bác có cảm tưởng cái yên lặng ấy từ đâu đâu lan đến, bao trùm khắp làng, khắp cả thiên hạ. Bác rờn rợn quơ tay sờ đứa con như để tìm một cái gì là sinh khí, một cái gì thủ thân. Bác nghĩ đến vợ nằm trong buồng, bác đặt chân xuống đất, rón rén men dần vào buồng, bước đi thật êm, thật nhẹ như sợ khua động những cái gì rất ghê rợn lố nhố rình nấp trong cái yên lặng dị thường này.

Bác đến sát bên giương vợ, sẽ lay vợ đang ngáy đều đều. Tiếng ngáy quen thuộc khiến bác thấy vừng lòng đôi chút. Bác gái từ từ thức giấc, làu nhàu :

- Cái gì thế. Gớm hơi rượu sặc lên, không ai chịu được.

Tuy nói thế nhưng bác cũng giở mình, nhích vào phía trong nhường chỗ cho chồng. Bác Hương còn lòng dạ nào mà nằm xuống. Bác chỉ ghé ngồi khe khẽ bảo vợ:

- U mày ạ! Dậy! Tao bảo cái này.

Giọng thầm thì ẩn dấu một sự gì quan trọng và sợ hãi. Bác gái chột dạ nghĩ ngay đến chuyện cướp, chuyện trộm; chuyện mặt trận đã tới làng. Bác vùng trở dậy rất ý tứ cho cái dát giường khỏi loạt soạt. Trống ngực đập thình thịch, bác ghé sát mặt bác giai:

- Làm sao hở! Nhà nó?

- U mày nghe xem.

Bác gái lắng tai đợi nghe tiếng khoét vách, đào ngạch, tiếng chân người rồn rập ngoài hè, ngoài vườn. Chẳng thấy gì cả. Bác chỉ thấy một sự yên lặng như tờ. Một sự yên lặng lạ lùng chưa từng thấy bao giờ. Bác nói, giọng tự nhiên thầm thì trong hơi thở, gấp khúc:

- Có gì đâu. Mà đêm nay trong làng làm sao ấy nhỉ. Im phăng phắc!

Bác bỗng nhớ đến lệnh tản cư đã rao từ mấy hôm nay và chợt có ý nghĩ trong khi bác ngủ tất cả làng đã bốc đồn đi rồi còn trơ lại gia đình bác giữa một cái làng bỏ hoang. Bác hốt hoảng rên nho nhỏ:

- Làm thế nào bây giò? Nhà nó châm đèn lên cho tôi nhặt nhạnh rồi ta cùng kéo đi thôi, chứ ở đây chịu chết à?

Bác Hương cố nghĩ, mới hiểu vợ định nói gì. Bác đáp:

- Không phải thế. Cả làng nhà nào vẫn ở yên nhà ấy. Nhưng u mày nghe mà xem. Thin thít như cái năm động giời ấy. Tao rợn quá!

- Phỉ thui! Chỉ nói dại! Bỏ mắm bỏ muối vào miệng ấy!

Nhưng bác cũng lây cái rợn của chồng rồi. Bác tưởng tượng như ngoài ngõ vắng, các bà, các cô đang đi gieo hoa rắc đậu, những đoàn âm binh đang đi bắt lính trần gian. Bác rợn tóc gáy. Đúng là cảnh tượng năm xưa làng có dịch-khí ngày chết năm, mười người. Đêm đến, làng xóm cũng lặng tờ như thế này. Không một tiếng chó sủa. Người ta bảo những con chó sợ đoàn âm binh núp cả vào một chỗ im thin thít. Nghĩ đến những con chó, bác chợt liên tưởng [...?] thoắt trút hết sợ hãi trong lòng bác. Bác nằm kềnh xuống giường, cười:

- Rõ nợ! Giết hết cả chó rồi thì làm gì đường ngõ, làng xóm chả im phăng phắc kia chứ. Thật thần hồn nát thần tính, phương ngôn nói không sai.

Bác Hương nghe rõ từng lời của vợ. Bác bỗng tức mình. Ừ sao bác không sớm nghĩ ra thế mà lại để cho vợ nghĩ mất trước. Bác thèn thẹn cho sự yếu bóng vía của mình, nên khi bác gái dục *:

- "Thôi nằm xuống ngủ đi", bác gắt:

- Cứ việc ngủ. Tao còn thức.

Tuy biết vợ nói đúng. Nhưng cái yên lặng khác thường vẫn làm bác ngạc nhiên như hình chưa quen. Bác lại lần ra nhà ngoài sờ soạng tìm cái đĩa đựng dầu rồi lấy đóm hút một điếu thuốc lào. Ánh lửa phập phùi, tiếng điếu lọc sọc, gợi cho bác một cảnh tượng ấm cúng. Nhưng bác vẫn không thấy vững lòng. Bác cảm như thiếu một cái gì, nhớ một cái gì, không đầy đủ như mọi đêm bác vẫn hay thức giấc để hút điếu thuốc: Thiếu cái gì? Nhớ cái gì? Bác nghĩ ra rồi. Bác nhớ một tiếng động rất quen thuộc, mật thiết với bác như một phần đời của bác. Tiếng động của con chó rùng mình vẫy đầu vẫy tai trong bóng tối khi thấy chủ thức giậy hút thuốc thì lách mình qua liếp cửa mà vào, lấy chân gãi lông soàn soạt rồi gừ gừ nhàu nhàu nằm bẹp dưới chân chủ.

Chả bao giờ bác chú ý đến những con chó bác đã nuôi cả, những con Vàng, con Vện, con Mực, con Bông không biết bao nhiêu con đã sống, đã chết, đã bị làm thịt trong gian nhà bếp của bác. Nhưng đêm nay, những cử động của những con vật ấy bỗng linh hoạt hiển nhiên trong trí bác. Bất giác bác nhìn ra phía cửa liếp hồi hộp cho một sự xuất hiện tất nhiên phải có, thì đêm mới là đêm, cũng như đêm thì phải có bóng tối vậy. Nhưng im lìm cả. Lờ mờ bức cửa liếp đứng sừng sững, bất động như một cái gì đã chết. Phía ngoài cái liếp cũng là sự chết nữa. Bác cảm xúc rõ rệt như thế. Một tai họa lớn lao sắp sửa gieo xuống làng bác, đang bắt đầu gieo như là kinh mạt-kiếp năm kia năm kìa bác đã nghe: "Gà không gáy, chó không sủa, rắn rết bò ra đầy đường".

Ba tiếng "chó không sủa" gợi lên trong tưởng tượng bác tất cả sự hoang vắng rùng rợn, sự hủy hoại thảm thê, những tai nạn không phải sẽ chỉ do người gây ra, mà ghê gớm hơn, là lại do cả những sức mạnh huyền bí âm u nào giáng xuống. Những chuyện quái đản, tai trời ách đất ở đâu cứ nhắc dần trong trí nhớ bác, những chuyện của các bô lão kể ở những quán nước đầu làng, giữa khói thuốc lào và khói nước chè tươi nghi ngút. Và nghe kể thì những chuyện ấy xẩy ra bao giờ cũng có điềm gở báo trước. Cái việc giết chó này chính là một điềm gở. Bác bỗng giận sao người ta lại dại dột thế, lại bắt giết chó dại "y như là người tự dưng xé khăn trắng trong nhà vậy". "Rồi mà xem, còn là vô khối thiên tai". Bác thầm đe thế và tự mình lại đâm lo với lời mình đe.

Bác vớ chiếc điếu châm đóm hút. Điếu thuốc này sao mà say, say nhè nhẹ thôi, trí nhớ bác còn đủ sáng suốt nghĩ ngợi lờ mờ. Bác lại nghĩ đến con chó, con chó bác giết hồi sáng. Kể từ khi biết cầm con dao chọc vào cổ con chó, bác giết đã nhiều chó rồi, giết hộ hàng xóm, giết chó nhà bác nuôi. Nhưng bây giờ bác mới động lòng thương đến con chó này là một. Bác nhớ tiếng kêu ằng ặc, hai con mắt thảm thiết của nó hồi sáng. Lòng bác se se. Bác khó chịu với cái cảm giác ấy và thấy cần phải tợp một ngụm rượu. Người ta đến là lạ. Con chó làm hại thế quái nào được nước được non mà phải giết đi. Giết hết giống rồi, thì còn lấy đâu ra chó. Con chó dùng để giữ nhà, dùng để dành, khi giỗ, tết, có công, có việc thì lôi ra mà làm chén. Nó cũng như con lợn. Bao nhiêu là ích lợi. Mới lại từ nãy suy nghĩ bác cứ quanh quẩn mãi với điều nhận xét này mà chắc chẳng bao giờ bác dám nói với ai là con chó cần cho một cái làng và một cái nhà hơn cả con người ta nữa. Không có chó, hình như cái nhà không ra cái nhà, cái làng không ra cái làng. Trong sân nhà, hay ngoài ngõ xóm có mươi con chó nhùng nhằng có phải vui biết chừng nào! Rõ là một cái làng, một cái nhà có vượng khí. Chứ thế này, quạnh quẽ, lạnh lẽo như nhà thiếu-chủ sau đám tang vậy.

3.

Bác cứ rờn rợn, nơm nớp không sao yên tâm đi nằm được nữa. Bác mong cho trời chóng sáng, cho gà lên tiếng gáy. Sốt ruột quá, bác lại muốn chạy ra nhòm qua kẽ liếp xem phương đông trời đã hung hung tí nào chưa. Nhưng ngồi đang ấm chỗ, bác ngài ngại. Bỗng bác giật mình nhổm hẳn người lên. Tiếng chó ở đâu oăng oẳng sủa, sủa từng gióng một. Con chó có vẻ vừa sủa vừa nghe ngóng đợi chờ những tiếng sủa đáp lại của các bạn đồng giống.

Phút ngạc nhiên thoáng qua, nghe tiếng chó sủa bác Hương thấy tỉnh táo cả người vững lòng vững dạ. Bác mạnh bạo đứng lên, ra nhấc cánh cửa liếp ra hè. Tiếng chó sủa lên như đã xua đuổi hết cái yên lặng rợn người của thôn xóm. Bây giờ thì bác thấy quang cảnh lại y nguyên như mọi đêm, bình tĩnh và ấm cúng. Nhưng rồi bác chợt nghĩ ra một điều gì, bác cúi xuống nhặt một hòn đất ném vào phía chó đang sủa, bác lẩm bẩm:

- Mẹ kiếp! Chó của nhà nào?

- Ừ chó của nhà nào? Bác tự hỏi.

Cả làng đã giết sạch chó rồi kia mà. Bác chắc chắn thế. Gọi là một con chó nhách cũng không còn. Thế thì chó của ai mới được chứ? Bác phừng phừng tức giận cái kẻ nào mà lại dám giữ một con chó trong khi chó của tất cả mọi nhà đều đã bị bắn, bị thịt? Phía chó sủa là phía chợ Nhà, nhưng ai ở xóm chợ? À thôi, bác nghĩ ra rồi. Chính là con chó của lão ăn mày đêm đêm vẫn nằm nhờ trong quán chợ. Bác cáu lắm, hậm hực quay vào khép cửa liếp rồi đi thẳng vào buồng vợ. Bác thấy vợ đã ngồi lù lù trên giường.

- Bố nó đấy à? Chó đâu sủa thế?

Bác đáp:

- Chó của lão ăn mày ngoài chợ. Láo quá. Cả làng đến chết về con chó ấy chứ không chơi. Phải giết ngay mới được.

Bác gái yên trí lại nằm xuống, bảo chồng:

- Gớm có mỗi con chó mà làm như là con hùm con beo không bằng! Giết chó của ông lão thì ông lão còn biết đằng nào mà lần. Giời cho mình còn có mắt.

Bác gắt vợ:

- Thôi đừng nhân đức bà tú Đễ! Để rồi chết cả làng ấy à. Việc nước không phải chuyện đùa. Không thương lão ăn mày mù thì gọi là cứ bắn nốt cả lão ấy chứ lị! Muốn làm phản à?

Bác nói thì lại nghe một mình chứ. Bác gái nói rứt miệng, đã lăn ngay phò phò ngáy được rồi. Bác Hương ngả lưng bên cạnh vợ, vẫn tức tối con chó thỉnh thoảng lại cứ tiếng một mà sủa. Bác nghĩ có thể vì một con chó này mà cả làng chết hết chứ không còn một mống. Không biết những người có phận sự giữ an-ninh cho làng có nghe tiếng chó sủa không? Bác mong cho mau sáng để bác đi báo các nhà chức trách. Phen này thì bác "hặc" cả họ ấy chứ? Làm việc sơ sót đến thế à? Tự dưng bác thấy mình thành quan trọng lạ. Con chó vẫn sủa, dáng chừng tưởng đã nghe thấy tiếng bạn đồng giống trong cái vang âm rội lại của chính tiếng của mình sủa, nên tiếng sủa, lần này có vẻ hí hửng lắm.

Bác Hương cười:

- Ừ sủa đi con ạ! Cứ sủa đi. Mai thì con vào nồi con ạ!

Bác liên tưởng ngay đến món dựa mận, rồi lang bang cố nhớ xem con chó của lão ăn mày mù béo hay gầy. Đôi khi qua chợ bác vẫn gặp lão ăn mày và con chó. Nhưng bác để ý làm gì. Chhắc là phải gầy. Lão ăn mày còn chả có đủ ăn thì con chó béo với ai. Nhưng cũng có thể béo! Lão đi xin khắp mấy làng ở vùng này. Ăn sao hết! Con chó của lão béo hẳn đi chứ. Bác đã dịu dịu. Bác nghĩ đến mai sớm bác sẽ bảo Trương Sóc, Tư Thu cứ việc ra chợ mà tịch thu con chó của lão ăn mày! Thế là bác làm ơn làm nghĩa cho làng đấy, chứ tưởng! Còn lão ăn mày mù? Ngỏ cho lão biết là tốt. Không thì thí cho lão vài đồng bạc. Bác Hương khoái trá như đã giải quyết xong một vấn đề quan trọng rắc rối. Bác thiếp đi trong khi đang dở tính đến chỗ mai có nên nước vài gắp chả hay cứ dựa mận tuốt... tuốt cả.

BỨC TRANH THỜ

1.

Cuộc chuyển trại diễn ra đột ngột. Không một dấu hiệu báo trước. Tịnh không. Mà ai, chứ tù thì tinh lắm lắm. Một động thái bé nhỏ nhất, mơ hồ nhất của Ban Giám thị, chỉ cần khác thường một tí thôi, không cần nhiều, lập tức được các bình luận gia ghi nhận, phân tích, và cho ra ngay một kết luận, trong phần lớn trường hợp nêu không đúng hẳn thì cũng gần đúng.

Vậy mà không một ai biết trước cuộc chuyển trại ấy. Mọi sự đều diễn ra bình thường trong những ngày trước đó. Ðùng một cái, tai học ập đến. Mọi người tá hỏa tam tinh, nhớn nhác, mặt xám ngoét, nhưng đến lúc ấy thì không còn gì để làm nữa rồi, không kịp nữa rồi.

Ðối với người tù, chuyển trại là một tai họa to lớn vô cùng. Người chưa từng ở tù không thể hình dung cái tai học ấy lớn thế nào. Cuộc sống thường nhật, dù rằng ở trong chốn giam cầm, lâu ngày đã ổn định, đã thành nếp, cho dù tồi tệ đến mấy cũng vẫn cứ là bình thường rồi, đâu vào đó rồi; đùng một cái bị lộn tùng phèo. Mất mát đủ thứ. Tan đàn xẻ nghé. Trước mặt là một sự tù mù trên hết mọi sự tù mù, tốt xấu không biết.

Trong khắp các nhà được bố trí thành hàng lối đều đặn như những cục gạch xám nếu nhìn từ trên cao, tù nhân xôn xao. Ðã tới giờ mở cửa cho tù ra làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng, để đi lao động, mà cửa các nhà giam vẫn đóng im ỉm.

Mãi hơm một giờ sau, mới thấy từ cổng tò vò dẫn vào trại một toán đông quan quân, bộ điệu trầm trọng, súng cầm ngang lăm lăm.

- "Loại?" - một người trong đám đông chen chúc bám vào song sắt cửa sổ quay đầu lại - Hầy, dám lắm.

Qua cổng trại, toán công an tản thành nhóm nhỏ đi về phía các phòng.

- Dễ không phải. - người khác, cũng trong bọn họ, yếu ớt phản bác - Chắc chuyện gì khác. Ðể xem.

Khi lo lắng, người ta hay phản bác lại chính mình bằng cách nói ra miệng cái hy vọng mong manh chợt đến.

- Thôi chết rồi, - người thứ ba giật thót - điệu này chuyển trại đây, trông kìa ...

- Hừm, chưa chi đã rối tinh rối mù cả lên. - giọng thứ tư, kẻ cả - Chuyển trại ấy à, ắt cánh tự giác phải biết trước, có lần nào tự giác không biết đâu? Chuyển trại thì các ông ấy đã sai dọn tủ dả, khuân vác hồ sơ từ mấy hôm rồi. Các ông ấy đời nào chịu khuân lấy...

- Hay là thanh tra? - ai đó xướng lên một câu hỏi bâng quơ, không chờ câu trả lời - Bộ về cũng nên?

Gì thì gì, cái sự bất thường này chắc chắn là nguy hiểm, lành ít dữ nhiều. Mấy anh tự giác thuộc toán lâm sản hối hả chạy đi thủ tiêu những đồ vi phạm nội quy. Cẩn tắc vô áy náy. Chỗ thủ tiêu tốt nhất, ai cũng biết, là hố xí cuối phòng. Chỉ có chỗ ấy là chưa bao giờ bị lục đến. Những viên cai tù trẻ buồn đời vì cuộc sống rừng núi rất mẫn cán trong sự mò mẫm các xó xỉnh để tìm cớ trừng phạt lũ tù nhân khốn khổ cũng chừa chỗ ấy ra. 

Ðồ bị cấm thì nhiều lắm. Cái chính là người ta kiểm tra để thu tất tật mọi vật nhọn hoắc bằng kim khí, là thứ có thể suy diễn thành dụng cụ cưa cắt chấn song cho một cuộc trốn trại, hoặc hung khí cho một cuộc thanh toán lẫn nhau ...

. . . .

Trong căn phòng tối, mờ mịt khói thuốc lào, mấy cái bóng xám vọt vào vọt ra nơi cửa chuồng xí. Trong khi đó ở bên ngoài đã vang lên tiếng khóa mở lạch xạch, tiếng then rít ken két.

- Ê, ra sân tập họp! Nhanh lên! Mang theo đồ đoàn. Tuốt. Không để lại một thứ gì!

Tiếng mấy ông cán bộ vang lên nơi cánh cửa vừa được mở rộng. Không khí trong lành của ban mai ùa vào thế chỗ cho bầu không khí ngột ngạt mùi khai thối, mùi thuốc lào khăn khăn, mùi chua nồng mồ hôi người.

Một tiếng ồ ngạc nhiên khe khẽ lan nhanh trong đám tù nhốn nháo. Người ta quýnh quáng:

- "Loại" rồi! Không trật vào đâu được.

- Chuyển trại đấy.

- Thường, đến trại mới người ta mới "loại" mình cơ mà.

- Loại trước thì mới thu được nhiều thứ chứ. Ðể trại mới hưởng không à?

- Chết cha, con dao mày để đâu rối?

- Nhét ở cái hốc mọi khi.

- Tao cầm bằng mất toi cái tàu bò.

- Suỵt! Giấu không kịp đâu. Vứt. Chớ mang theo đấy.

- Ðến nơi khác tính. Trời sinh voi trời sinh cỏ.

- Khéo chỉ "loại" thôi. Chắc gì chuyển trại ...

. . . 

Hầu như người tù nào cũng sở hữu một cái gì đó vi phạm nội quy trại, nhẹ nhất thì cũng bị coi là trái với nó, nếu trong nội quy chưa ghi đủ. Một cái áo rách xé ra bện thành bùi nhùi giữ lửa có thể bị coi là thừng bện để vượt tường. Một tờ giấy viết dở cũng có thể bị nghi là sự thông tin với bên ngoài chưa kịp chuyển

2.

. . .

Già Lương, ông hàng xóm của tôi, ngồi xếp bằng tròn trên giường, mặt lạnh tanh, bình chân như vại. Trong lúc thiên hạ bấn loạn, chỉ có mình già là tỉnh khô, nhìn đời bằng con mắt bàng quan. Thật vậy, già thì có quái gì mà phải lo. Người ta sợ mất thứ này thứ khác, cuống cuồng giấu giấu giếm giếm. Chứ già chỉ có độc một cái tay nải ...

Già Lương là tù "số lẻ" tức tù chính trị. Tôi nằm cạnh ông hơn một năm, nhưng không biết ông già phạm vào tội gì trong cái sự chính trị rất chi là tù mù ở nước ta. Ðáp lại câu hỏi của tôi: ông có phải Ku Dét không? Ông lắc. Có phải ông là Ðờ Vờ không? Ông lắc. Hay ông bị quy địa chủ cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân? Ông cũng lắc. Lại hỏi: có phải ông lỡ lời nói xấu chế độ, hoặc lỡ tay chống người nhà nước không? Ông cũng lắc nốt. Tóm lại, tại sao già Lương là tù "số lẻ" là câu hỏi không có lời giải đáp. Chỉ biết tội danh của ông là "phản động, chống chế độ," tức là i xì cái tội danh rất chung chung của hơn hai trăm tù "số lẻ" trong trại. Ấy là thân rồi tôi mới dám hỏi già. Chứ trong tù mà hỏi tội danh của nhau là điều tối kỵ. Người ta chỉ tình cờ biết về nhau vào dịp tổng điểm danh, mỗi năm một lần. Chỉ vào dịp ấy cán bộ trại mới gọi tên từng người, mới công khai xướng lên giữa bàn dân thiên hạ rằng ai phạm tội gì, án phạt bao nhiêu năm.

Cuộc lục soát bắt đầu.

Tù ngồi thành từng toán trên sân điểm danh. Mỗi quản giáo trông hai anh tự giác lục bới đồ đoàn của từng người. Giờ thì không ai dám thì thào với ai nữa. Sân trại im phăng phắc. Những người tù, mặt chảy dài, theo dõi đôi tay quen việc thoăn thoắt của kẻ khám đồ. Chẳng còn cách nào giấu kịp những thứ cầm bằng bị thu. Ở trong tù cái gì cũng là của quý cả. Từ sợi dây thép uốn làm cái ngoáy tai. Từ mẩu đai thùng được mài sắc làm dao chẻ tăm, cắt móng chân móng tay.

Thường, trong cuộc tổng "loại" như thế này, cán bộ chỉ thu đồ vi phạm nội quy chứ không phạt kẻ sở hữu. Muốn phạt cũng không xuể. Số người vi phạm nội quy thường quá đông, mà trại chỉ có một khu kỷ luật với vỏn vẹn một tá xà lim. Trừ phi phát hiện ra vũ khí, đại loại như dao găm hoặc dùi, búa, cưa sắt, tức là phạm tội nặng, nặng nhất tính từ trên xuống dưới, người ta mới tống kẻ vi phạm vào u tì quốc, cùm chặt.

Của thu được dần dần được chất thành đống.

3.

Người trông cuộc tổng "loại" là trung uý Tằng, biệt hiệu "Tằng ác ôn" phó giám thị. Lùn một mẩu, cằm bạnh, môi thâm, mắt trắng dã. Tằng có tính đặc biệt là rất thích ra oai với tù. Biết thế nên khi đứng trước mặt y, anh tù nào vô phúc có chiều cao nhỉnh hơn y một tí là phải lập tức khuỵu hai đầu gối xuống, cổ rụt lại, hai tay bỏ thõng tối đa. Thấp đi được chừng nào hay chừng ấy. Bản năng sinh tồn mách bảo họ làm thế.

Già Lương thản nhiên nhìn trời. Mọi sự diễn ra chung quanh chẳng làm già động tâm. Cái lối nhìn trời như thế đã nhiều lần bị các quản giáo bắt tội: này, cái anh già vênh vênh cái mặt kia, anh định thách thức ai đấy? Anh còn cãi láo hả? Cụp cái mặt xuống!

Khốn nạn thân già. Nào già có định thách thức cái gì đâu. Tôi biết cái tật ấy của già lắm. Già mải suy cái nghĩ của già, vậy thôi. Có lần mải suy nghĩ và nhìn trời, già đã ăn mấy báng súng vì tội không thèm trả lời cán bộ. Rồi chứng nào tật nấy, già vẫn cứ thế, cứ vênh vênh, không chừa.

- Tránh voi chẳng xấu mặt nào, bác ơi! - trong những trường hợp như thế chính tôi cũng phải khuyên già - Mình là thằng tù. Một thằng oắt con đáng tuổi cháu gọi bằng ông cũng có quyền cầm roi vụt mình, bác chớ có dại ...

- Khốn tính tôi cả nghĩ, ông ạ - già chép miệng - Mà đã nghĩ là cứ lan man, dứt không ra. Thí dụ tôi nghĩ tới các cụ tôi ngày xưa dạy tôi thế nào, các cụ dữ lắm, đòn luôn luôn, có lần tôi mải nghĩ, gặp ông mõ không chào, thế là bị các cụ cho một trận vì tội khinh người ... Ông biết đấy, mõ là thứ cùng đinh trong thiên hạ, trong làng mõ đứng hạng chót, không ai coi mõ là cái thứ gì, nhưng các cụ tôi khác, các cụ dạy con cái phải trọng mọi người, từ ông mõ trọng đi. Trận ấy tôi oan quá, tôi nhãng đi không nhìn thấy ông mõ, chứ không phải tôi dám khinh ông ấy. Chao ôi là dữ, cái trận đòn ấy ...

Già bắt đầu kể, rồi bất thình lình chìm nghỉm trong những hồi tưởng, già im bặt.

Lần này cũng vậy. Trung uý Tằng đến trước mặt già mà già vẫn không hay. Già cao hơn Tằng hẳn một cái đầu. Phải ngước lên mới nhìn được vào mắt già, Tằng đã khó chịu lắm.

- Anh kia, nhìn nhìn cái gì?

Tôi đứng bên già Lương. Tôi huých già một cái. Già choàng tỉnh. Cúi xuống nhìn Tằng, già nghiêng đầu chậm rãi hỏi ông cán bộ đáng tuổi con út mình:

- Cán bộ hỏi nhà cháu, phải không ạ?

- Còn hỏi thằng chó nào nữa? Anh nhìn nhìn cái gì?

Cặp mắt kéo màng của già mở to hơn một chút, đôi lông mày rậm với những sợi lông dài bạc trắng của già hơi nhướng lên một chút.

- Dạ? Tằng nạt: - Dạ cái con khỉ. Tôi hỏi, anh phải đứng nghiêm trả lời, rõ chưa? Anh nhìn cái gì?

Già Lương đến lúc ấy mới vỡ câu hỏi. Theo thói quen, già vuốt râu một cái, rồi mới thủng thẳng đáp:

- À, thưa cán bộ, - giọng hiền lành, với nụ cười móm mém già nói - nhà cháu đang nhìn đám mây kia ạ.

Tằng nhăn mặt:

- Ðám mây thì có gì mà nhìn? Anh dở người hử?

- Dạ, không ạ ...

- Thế sao đang khám trại không nhìn gì lại nhìn mây?

- Dạ, nhà cháu thấy nó giống cái kiệu bát cống ạ.

Không hiểu kiệu bát cống là cái gì, Tằng gườm gườm nhìn già Lương: "thằng già này có định xỏ xiên gì mình không đấy?" Rồi hất hàm gọi tay trật tự trại và tay nhà bếp vừa khám xong một người ở cách đấy mấy bước:

- Hai anh kia lại đây. "Loại" thằng này cho tôi!

4.

Già Lương lúc ấy mới tỉnh hẳn khỏi những suy nghĩ. Già lòng khòng ngồi xuống, chậm chạp mở nút buộc tay cái nải màu xanh xám, chắc hẳn khâu bằng những mảnh quần áo tù. Những ngón tay khô xác của già run run. Cái đó lại càng gây ra sự nghi ngờ ở Tằng ác ôn. Không có gì vi phạm thì sao lại run? Có tật thì giậc mình. Nhưng cả tay trật tự lùn tịt, còn lùn hơn Tằng nữa, lẫn tay nhà bếp rỗ hoa, đều biết tỏng già Lương là người thế nào. Ông già hiền như cục đất, cam chịu mọi bề, không mua bán đổi chác với ai, thì có gì để vi phạm nội quy cơ chứ? Biết thế, họ chỉ thò tay vào bọc khua khoắng lấy lệ.

Khi lôi từ trong tay nải ra từng thứ một: bộ quần áo tù, cái áo trấn thủ, mẩu khăn mặt hôi rình và rất nhiều mụn vải, mũi họ chun lại.

Khám xong, anh trật tự đứng lên, lễ phép bẩm:

- Báo cáo ông, không có gì ạ.

- Chắc không? - Tằng trề môi

- Còn cái áo bông kia, sao anh không khám?

Y hất hàm ra lệnh cho già Lương cởi áo bông ra.

Ðúng vào lúc ấy già Lương phạm một sai lầm không thể sửa chữa được - thay vì lễ phép đưa áo cho anh trật tự thì già lại bực dọc quăng nó xuống đất. Thái độ ấy của già đã làm cho tay trật tự nổi quạu. Trật tự là chức sắc hạng nhất ở trong tù. Mà chức sắc thì ở đâu cũng vậy. Nó đòi được kính nể, được trọng vọng. Coi thường nó là không xong.

Tay trật tự lừ mắt nhìn già, rồi chẳng nói chẳng rằng, y hằm hằm nắn bóp cái áo bông. Bỗng, mắt y sáng lên. Y giật mạnh đôi tay cũn cỡn xé toạc lớp mền bẩn thỉu cái roạt, đoạn lôi từ trong đó ra một khúc nứa tép.

- Cái gì thế này, bố? - bằng giọng lạnh tanh, y hỏi già.

- Thì anh cứ xem đi, - thay vì ăn nói "lễ phép" với y, già lại khinh khỉnh

- Chả có gì vi phạm nội quy đâu.

Tằng nheo mắt nhìn ống nứa tép. "Không biết thằng già giấu gì trong đó?" - cái nhìn của y nói.

Mở cái ống không được, nắp của nó gắn liền với thân bằng một thứ nhựa quỷ quái gì không biết, rất chặt, tay trật tự bèn đặt nó lên đầu gối, bẻ gãy đôi. Tiếng nứa vỡ kêu đánh toác. Bên trong ống nứa là một tờ giấy cuộn tròn.

Tằng bĩu môi hỏi:

- Anh này gớm nhỉ? "Quả tớm" nhá. "Yểm" cái gì đấy? Không phạm nội quy thì việc gì mà "yểm" kỹ thế?

Sống với tù lâu. Tằng thuộc mọi tiếng lóng của lưu manh.

Ðến lúc ấy mặt già Lương mới biến sắc. Tay trật tự mở tờ giấy, giơ ra trước mặt. Ðó là một bức tranh vẽ bằng bút chì. Tranh chân dung. Trong tranh là hình một ông già quắc thước, trán cao, chòm râu thưa phơ phất.

- Cái gì đây, hử? - Tằng hỏi già, giọng nghiêm khắc.

Già Lương bắt đầu lúng túng. Giọng già trở nên lí nhí:

- Báo cáo cán bộ: chẳng có gì đâu ạ. Nó ..., dạ ...

- Cái gì? Già Lương cúi gằm mặt:

- Dạ, báo cáo cán bộ ... là cái ... tranh thờ của nhà cháu ạ ...

Tằng ra lệnh:

- Ðưa tôi!

Tay trật tự cung kính đưa bức tranh cho phó giám thị bằng hai tay.

- Hừm! - Tằng nghiêng ngó ngắm bức tranh, rồi xẵng giọng - Anh này láo. Láo quá! Anh có biết anh phạm tội gì không?

Già Lương còn lúng túng hơn nữa.

- Dạ, nhà cháu không biết ...

- Lại còn vờ vĩnh! - Tằng gắt - Không biết? Hay cố tình?

Ðến lúc ấy thì già Lương mới quýnh lên:

- Dạ, thưa cán bộ, nhà cháu ...

Khi Tằng ác ôn đã nói tới tội thì không thể chạy đâu cho thoát.

- Nói đi, cái gì?

- Nhà cháu ..., thưa cán bộ, không có ý giấu giếm gì đâu ạ. - ông già lắp bắp - Chả là nhà cháu sợ sơ ý để cái tranh bị ướt, nhà cháu mới cất cẩn thận ...

- Nhưng anh phải thấy rằng anh có tội.

Tằng vừa nói vừa nhìn bức tranh chằm chằm, gật gù cái đầu húi cua.

- Dạ, xin ông cán bộ chỉ bảo ...

Tằng cất giọng nghiêm nghị:

- Anh còn chưa biết tội anh đâu. Nghe cái giọng anh tôi biết. Ðể tôi giảng cho anh nghe. Tội của anh là thế này: nhân dân ta ai cũng có lòng thành kính đối với lãnh tụ. Thờ Bác không có tội. Nhưng chỗ thờ phụng bác phải là nơi tôn nghiêm, tinh khiết ...

- Dạ!

Tằng dừng lại một giây cho không khí chung quanh thêm quánh đặc rồi mới tiếp:

- ... Vậy mà anh dám cả gan thờ bác ở trong tù! Lại còn bảo không biết! Anh phải nhớ anh là cái thằng nào chứ! Anh là thằng tù, hiểu chưa? Thằng tù không có phép được thờ bác, nhất là lại thờ trong cái chốn nhơ nhuốc này, hiểu chửa?

Già Lương lắp bắp:

- Dạ, nhà cháu hiểu ... Nhưng, ông xét cho ...

Tằng dằn từng tiếng:

- Im ngay cái mồm. Dỏng tai lên mà nghe. Còn xin ông xét, xét cái gì? Ðừng có mà ngụy biện với tôi. Không có nhưng nhiếc gì hết. Tôi lại không đi guốc vào bụng các anh ấy à. Mười anh bị bắt vào đây, chín anh rưỡi kêu oan. Có mà oan Thị Mầu! Tội lỗi đầy mình còn ngoạc mồm ra kêu Ðảng kêu Bác đèn trời soi xét ...

Mặt già Lương thượt ra. Ông thở dài:

- Dạ, quả thật nhà cháu không dám thế ...

- Có im không thì bảo? - Tằng quát - Anh hay đứa nào dám vẽ ảnh Bác?

Già Lương quýnh lên:

- Dạ, thưa ông ... đây không phải là ảnh cụ Hồ đâu ạ ...

- Tôi đang hỏi anh: thằng nào vẽ? Khai ra.

Mấy cán bộ trông nom việc khám xét chạy lại. Mọi người chú mục nhìn Tằng, cả đám công an lẫn tù.

Ðôi mắt Tằng quắc lên. Tình hình coi mòi nghiêm trọng. Không phải chuyện chơi. Mặt già Lương rịn mồ hôi.

Anh trật tự nói khẽ với già, giọng thương hại:

- Khốn nạn, bố ngu như bò í. Có gì cứ khai thật, ông cán bộ thương, ông tha cho. Ông tiếng vậy thôi, chứ giơ cao đánh sẽ ...

Cái giọng khẽ ấy đủ để cho Tằng nghe. 

- Nhưng ... - già Lương phác một cử chỉ không đồng tình - Tôi ... tôi ...

- Còn nhưng nhưng cái gì? - Anh trật tự nhăn tít cái mặt - Ngu thế. Thậm ngu. Chí ngu. Nghe con khuyên: cứ thưa thật với ông cán bộ đi. Muốn chết hử?

- Anh đừng lên mặt với tôi. - già Lương đáp bằng giọng bực bội - Anh cũng là thằng tù như tôi thôi. Anh tốt hay xấu với anh em, mọi người biết cả. Anh là thằng miệng nam mô, bụng bồ dao găm.

5.

Quay lại với Tằng, già nói:

- Báo cáo ông cán bộ, nhà cháu xin khai thật ... Nó là ... là bức tranh thờ của nhà cháu ...

Tằng cắt ngang:

- Của anh thì rõ rồi, không phải của anh thì anh "yểm" kỹ thế làm gì. Anh vẫn chưa trả lời tôi: thằng nào báng bổ, dám vẽ bác để cho anh thờ bác trong tù? Anh thì không phải rồi, anh thì vẽ vời cái đếch gì. Sao? Anh không muốn nói hử? Ðịnh che giấu cho nó hử?

Già Lương cúi gằm mặt. Vẻ mặt của ông là vẻ mặt người tuyệt vọng.

Tằng gặng:

- Thằng nào? Nói mau!

Những người tù đứng gần quên cả mối lo lục soát, nhìn vào mặt già. Ai cũng lo thay cho già. Ðã rơi vào tay Tằng ác ôn khó tránh khỏi kỷ luật. Cùm là cái chắc.

Với vẻ tuyệt vọng ấy, già Lương ngước nhìn Tằng đứng chàng hảng trước mặt:

- Thưa ông, ... không phải ảnh cụ đâu ạ ...

- Anh nói cái gì?

- Dạ, nhà cháu không dám nói sai: ảnh nhà cháu ạ.

Tằng cao giọng:

- Hử? Lại còn chối?

- Thật ạ. - già Lương nói như khóc - Nói có trời đất, nhà cháu không dám dối ông. Chả là nhà cháu năm nay gần tám mươi rồi. Cũng chẳng còn mấy nả nữa ... Nhà cháu muốn có một tấm hình để lại, mà đang tù thế này thì chụp ảnh ở đâu?

Chung quanh im phăng phắc. Mấy giây qua, già Lương lấy lại được giọng nói bình thường. Già đằng hắng một cái, tiếp tục lời phân trần:

- Tức là, thưa ông cán bộ, nhà cháu sắp xuống lỗ rồi, ở tuổi nhà cháu thì còn dối trá làm gì, ông xét cho ... Lúc nhà cháu đi trại, mười lăm năm rồi chứ không phải ít, chỉ mỗi bộ quần áo trên người, không một hình tích để lại, con cái cháu chắt nhớ được cái tên chứ không biết mặt ... Vậy nên nhà cháu mới cậy người ta họa cho một bức ...

Tằng có vẻ chưng hửng. Y hoàn toàn không nghĩ tới điều đó.

- Hừm.

- ... để khi nào người nhà được phép lên thăm thì nhà cháu đưa chúng nó mang về ...

Tằng nheo mắt, chăm chú nhìn lại bức hình:

- Tức là, anh nói hình này là hình anh? Hử?

- Dạ, đúng vậy. Nhà cháu nghĩ: nay mai nhà cháu có chết đi, thưa ông, thì cũng còn tấm hình để lại, cho con cháu chúng nó nhìn thấy khi giỗ khi Tết ...

Tằng gật gù:

- Khó tin. Ðúng là hình anh không?

- Dạ, thưa ông cán bộ, có trời đất thiên địa chứng giám cho nhà cháu ...

- Không cần anh thề. Anh thề tôi cũng không tin. Thề cá trê chui ống. Bây giờ anh trả lời tôi câu này: đứa nào vẽ?

Già Lương ngần ngừ một giây. Rồi đáp:

- Thưa ông, anh Ca ạ.

Tằng nhíu cặp lông mày rậm:

- Ca nào?

- Cái anh xương người, Ban vẫn thường gọi lên kẻ bảng với làm vườn hoa ấy ạ. Anh ấy được tha năm ngoái. Không biết ông còn nhớ anh Ca không ạ? - Như chết đuối vớ phải cọc, già Lương nói một thôi một hồi

- Thưa ông, anh ấy có hoa tay lắm, nét vẽ rất chi có tinh thần ...

- Cái thằng Ca nhà anh xem chừng có vấn đề đây. Chuyện này tôi sẽ cho điều tra cho ra. Không phải chuyện chơi. Hừm, vẽ anh mà lại hao hao giống bác. Hẳn nó có âm mưu gì? Ðồ xỏ lá ba que! Nói để tất cả các anh ở đây biết: đừng có tưởng cầm được tờ lệnh tha là xong mọi chuyện đâu, đừng khỏi vòng cong đuôi. Còn khuya nhé! Các anh có đi đâu cũng vẫn là trong đất đai của Ðảng, của Bác. Lưới Ðảng lồng lộng, con ruồi chui không lọt.

Già Lương thấy có trách nhiệm bảo vệ tác giả bức hình:

- Thưa ông, anh Ca bị tội ăn trộm cửa hàng mậu dịch, có án xử đàng hoàng, không phải tập trung cải tạo như nhà cháu đâu ạ. Anh ấy không phải là phản động, không phải kẻ thủ của nhân dân ạ. Anh ấy lại còn thuộc diện cải tạo tốt đấy ạ. Chả là nhà cháu thấy anh ấy có hoa tay, mới nhờ anh ấy họa cho một bức ... Thưa ông, xin ông xét cho, kẻo tội anh ấy, người hiền lành tử tế. Anh ấy vẽ tinh thần lắm, giống nhà cháu lắm, ông cứ xem kỹ cho. Anh ấy không dám báng bổ cụ Hồ đâu ạ ...

- Hừm, anh dám bảo thằng Ca là hiền lành tử tế, hử? Người hiền lành tử tế không ai ở đây. Lại còn bảo bức vẽ của nó giống nhà anh, là có tinh thần. - Tằng vẫn giữ giọng nghiêm khắc, nhưng đến lúc ấy không còn gay gắt như trước - Vẽ anh mà lại hóa ra giống Bác, bậy. Phải có ẩn ý gì nó mới vẽ ra thế chứ?

- Thưa, ông xét cho, - già Lương nói - người già mà lại gầy thời hao hao giống nhau, thường là vậy ạ. Ông chớ nghi anh Ca phải tội ...

- Nghi đứa nào, nghi cái gì, là quyền của chúng tôi. - Tằng cắt ngang - Ngay cái chuyện nó vẽ hình cho anh để thờ cũng đáng phải trừng phạt rồi. Anh là thằng nào? Hử? Anh là thằng nào nào?

- Dạ .. Nhà cháu là tù ạ.

- Anh còn hơn thằng tù. Anh là thằng phản động. Có phải thằng phản động không?

- Dạ, báo cáo cán bộ, đúng thế ạ.

Tằng gật gù: - Thế thì anh phải biết: nhân dân ta anh hùng, không đời nào thờ phản động, bất kể thằng nào con nào. Con cháu anh cũng vậy, không đứa nào muốn thờ thằng ông, thằng cha phản động đâu, anh cứ hỏi chúng nó xem. Ðừng có tưởng bở. Ðứa nào thờ phản động thì đứa ấy cũng phản động. Anh muốn cả nhà anh kéo nhau vào đây, hử?

- Dạ, nhà cháu hiểu ạ.

Giọng Tằng "ác ôn" bỗng dịu hẳn:

- Thôi được, nói thế thôi, chứ tôi tha cho anh lần này.

- Nhà cháu cảm ơn ông.

- Là tôi thương cái tuổi già của anh.

- Dạ, nhà cháu đội ơn ông cán bộ.

Mọi người chung quanh thở phào. Trong toàn trại bói không ra một người nào mong muốn điều xấu cho già Lương.

6.

Tằng đã định bỏ đi, nhưng sực nhớ ra cái hình cầm trong tay, y bảo:

- Nhưng cái này thì tôi thu.

Già Lương nín lặng một giây. Rồi tiến lên một bước ngập ngừng về phía Tằng:

- Thưa ông ...

Tằng ngước mắt nhìn già:

- Còn thưa bẩm cái gì nữa?

- Xin ông cho lại nhà cháu cái hình. - già Lương đánh bạo nói - Không phải dễ gì nhà cháu được gặp người như anh Ca. Thật tình trong cả gia tộc không còn cái hình nào của nhà cháu cả ... Trâu chết để da, người chết cũng phải để lại cái hình cái bóng ...

Ðến nước ấy thì Tằng không chịu được nữa. Thương chó, chó liếm mặt, chắc y nghĩ thế. Ðồ không biết điều. Y quát:

- Im ngay! Không lằng nhằng!

Tôi thúc cùi chỏ vào mạng sườn ông bạn già. Cái thúc vội vã quá mạnh, làm ông nhăn mặt. Tằng nhìn tôi, lừ mắt.

- Dạ. - giọng già Lương run run - Xin ông ...

Bỗng Tằng đăm đăm nhìn vào mặt già Lương. Tôi chăm chú theo dõi cái nhìn của y. Thằng khốn nạn, y còn định làm gì ông già khốn khổ nữa đây? Mọi người ở quanh chúng tôi cũng chú mục nhìn y. Hay là y nghĩ lại?

- Hừm. - Tằng nhìn bức hình, rồi nhìn già Lương - Hừm.

Già Lương cúi mặt, lấm lét liếc lên nhìn y. Già vẫn còn phấp phỏng chờ đợi, già vẫn còn hi vọng, có vẻ thế. Biết đâu đấy, dù sao Tằng cũng là người, rõ ràng y vẫn là người cơ mà, y ác đấy, ai chả biết, nhưng là con người ta, cũng có lúc y nhớ y là người chứ, y sẽ xử sự theo cách con người chứ, chưa biết chừng ngay giờ đây y sẽ nghĩ lại cho già cũng nên. Rất có thể y sẽ trao lại cho già chân dung để thờ kia, với một câu quát lấy lệ, không quát không được, không quát không phải là Tằng ác ôn, nhưng y sẽ trả lại nó cho già. Tôi đoán già Lương nghĩ thế.

Trong phút đó tôi hình dung ra bức hình của già được đặt trang trọng trên bàn thờ, mờ mờ trong khói hương.

Nhìn vào mặt già Lương, Tằng nói, giọng thương hại:

- Anh chậm trí khôn lắm. Là loại ngu lâu, khó đào tạo. Loại như anh biết bao giờ mới được trên đánh giá là cải tạo tốt để được hưởng lượng khoan hồng của Ðảng ...

- Dạ, thưa ông, nhà cháu biết thế ạ, nhà cháu cải tạo không tốt, nhà cháu không dám nghĩ tới ngày về đâu ạ ... - có vẻ già Lương xúc động vì giọng nói ôn tồn của Tằng - Vì thế nhà cháu mới muốn có bức hình, để đến nỗi vi phạm nôi quy trại ...

- Anh nghĩ thế cũng không đúng. Ðã vào đây rồi, phải an tâm cải tạo, biết mình cải tạo chưa tốt thì cố gắng để tốt, nhưng phải nghĩ tới ngày được Ðảng thương đến, Ðảng cho về vối vợ con ...

- Dạ. Cảm ơn ông chỉ bảo.

- Hừm.

Ðúng là Tằng suy nghĩ. Với loại người như Tằng, những phút suy nghĩ là hiếm hoi. Tôi cho rằng cơn nóng đã dịu, chưa biết chừng y sẽ cho ông già được phép giữ bức hình thật. Tại sao y lại không thể làm như thế, như một con người, dù chỉ trong một phút?

Vẫn bằng giọng ôn tồn, y nói với già Lương:

- Tôi khuyên anh điều này.

- Dạ, nhà cháu xin nghe.

- Ðừng có phút nào quên anh là thằng tù, mà lại là thằng tù phản động, tức là một thằng tù mạt hạng, còn kém cả thằng giết người, thằng hiếp dâm. Khi được tha rồi cũng chớ có quên. Hồ sơ anh còn đấy, nó theo anh mãi mãi. Suốt đời. Ðời này sang đời khác. Chúng tôi giữ hồ sơ rất cẩn thận. Chúng tôi không quên các anh đâu, thằng nào cũng vậy. Cho nên anh phải ghi vào lòng: phàm đã là thằng tù phản động thì không được phép sống như người bình thường. Bất cứ trong hoàn cảnh nào.

- Dạ, nhà cháu xin nghe lời ông dạy.

- Vừa rồi anh ăn nói như thế là phạm thượng đấy. Anh dám bảo người già thường giống nhau. Giống nhau là thế nào? Nói thế là hỗn. Tù nào cũng thế, tù hiếp dâm, tù ăn cướp, tù giết người, tù phản động chống chế độ, tuốt mo, không được ví von cái kiểu đó.

- Dạ.

- Còn điều này nữa: các anh không được phép giống lãnh tụ tối cao. Nghĩ thế cũng không được phép. Không được là không được. Hiểu chửa?

Già Lương nuốt nước bọt đánh ực. Tằng gập bức hình làm tư, đút vào túi quần.

Ðoạn, y vẫy tay gọi anh văn hóa trại đang lui cui khám đồ của một người tù ở gần đấy:

- Ê, văn hóa!

- Dạ, thưa ông gọi!

- Phải. Bỏ đó đã. Mang tông đơ lại đây!

Thoắt cái, anh ta chạy lên phòng văn hóa, cách đấy khá xa, thoắt cái đã đứng nghiêm trước mặt Tằng "ác ôn", tay phải lăm lăm cái tông đơ.

- Húi trụi cả râu lẫn ria anh này cho tôi! 

Nhìn vào mặt già Lương, Tằng xin xít nói qua hai hàm răng nghiến:

- Vào đây rồi mà còn để râu. Lại còn dám nói: hao hao giống Bác. Láo! Láo đến thế là cùng! Húi! Anh văn hóa trại kiêm phó cạo vội vã đưa tông đơ lên.

7.

Tôi nhìn xuống. Tôi không muốn chứng kiến cảnh tượng ấy. Trong tầm mắt của tôi, tôi nhìn thấy những sợi râu bạc trắng rơi xuống. Tôi nhìn thấy đôi chân gầy của già Lương kiễng lên, kiễng lên mãi. Ấy là khi cái tông đơ rúc lên hai lỗ mũi già.

Tằng "ác ôn" lững thững rời khỏi chỗ già Lương đứng, tiếp tục chỉ huy cuộc lục soát.

Trong cuộc chuyển trại diễn ra sau đó, khi cuộc tổng "loại" kết thúc, mọi người trên xe chở tù đều im lặng, lắc lư, không ai nói với ai một câu.

Già Lương ngồi bên tôi, im lặng như hóa đá. Không một lời than thở. Ngay một tiếng thở dài cũng không.

GIỮA CHÓ Và NGƯỜI

Mùa hè 1975 Tư Thoáng và  Cai Hổ gặp nhau mừng lắm. Họ cứ nghĩ một trong hai đứa thế nào cũng có đứa chết hoặc lưu lạc giang hồ; thì nay gặp lại tưởng như chết đi sống lại. Họ kéo nhau vô chợ, ngồi trệt xuống đất húp tô cháo lòng mụ Ký, nước ’xít’ nồi cháo bốc hơi cuộn vào không gian nghe mùi cứt heo bay phất phới hay là cục dồi nồi trường đặc trên chiếc rá khô phản lại. Họ húp cạn nước cháo còn đọng trong tô nghe reo trên môi. Đoạn hất vô họng ly rượu đế dầm rể cỏ cú một cách cảm khoái. Buổi gặp ’phục sinh’ tưởng như lâu dài, nhưng sau đó lại chia xa bởi vận nước; thế rồi mỗi người mỗi phương chả biết đi về đâu.                                                               

Tư Thoáng đi trình diện đàng hoàng như nhiệm vụ công dân đối với chính phủ lâm thời. Nghe tiếng loa đầu chợ; Thoáng ăn vận chỉnh tề, chải lại mái tóc và bước ra khỏi nhà, nở nụ cười trên môi, lê bước đến trụ sở đình làng.

-         Bác cần việc gì chúng cháu giúp. Bộ đội giải phóng nói.

-         Tôi đi trình diện với Ủy Ban Quân Quản. Tư Thoáng nói.

Qua phong cách của Tư Thoáng người ta thầm cười cái tư chất ít học của ông Tư. Tư Thoáng ngơ ngẩn mỉm cười vì không ai hiểu tinh thần đối xử của hắn, Tư nằng nặc đòi trình diện  để được học tập cải tạo sớm trở thành người mới, việc mới trong một xã hội mới.

-         Bác đâu phải Ngụy mà trình diện. Cán bộ nói.

-         Uạ! Sao lạ thế? Ngụy quân, Ngụy quyền, Ngụy dân đều phải học tập mà lị. Tư Thoáng nói.

-         Bác không Ngụy. Bác về và tiếp tục đi cày. Bác là nhân dân tốt. Cán bộ nói.

Tư Thoáng ra về mà lòng buồn rười rượi bởi không ai hiểu lòng yêu nước của mình. -Không Ngụy! vậy thì ngụy ở đây là Ngụy thời chiến quốc bên Tàu hay ngụy quân tử, ngụy tặc đời nay? Tư Thoáng tự vấn. Khi đi thì hồ hởi đến khi về thì mặt mày như đưa đám. Rõ khổ cho thằng dân ngu!

Cai Hổ đi kinh tế mới tận trong Nam sau một năm đất nước thống nhứt. Tất cả gia trang chất lên xe bò đi theo chính sách kêu gọi của nhà nước. Vợ chồng con cái Cai Hổ chấp hành; nói cho ngay gia cảnh Cai Hổ trên răng dưới dế khới cái gì đây. Thôi thì đi cho khuất con mắt, gở cục đất khô nầy có ngày chết không kịp ngáp. Binh cái chiêu nầy Cai Hổ nắm chắc chín chết một sống. Nhưng liều ba bảy cũng liều. Nghiến răng ăn củ chuối, củ môn. Vợ chồng nai lưng cày thế trâu, nạy từng cục đá tảng, biến rừng sâu nước độc thành nương rẫy và rồi xây trang trại chế biến khoai mì thành phẩm trao đổi đến những phố thị xa xuôi. Cảnh nhà Cai Hổ trở nên tư sản mại bản, ăn nên làm ra, sanh chứng tráo trở, đút lót. Được 10 năm tang gia bại sản, khánh tận vì sâu mọt đục khoét, vợ chết, con điên. Cai Hổ bơ vơ như hổ lạc rừng. Từ đó Cai Hổ không còn một đồng dính túi, tinh thần, thể xác như kẻ điên, tiều tụy, xuống sắc không còn oai phong lẫm liệt, xưng hùng xưng bá, tay hô tay quát, bao che lộng hành như trước đây. Hổ đi lang thang khắp phố phường, ngủ đình ngủ chợ, đêm đêm khóc thầm vì thấy đời bạc bẽo, khi sa cơ thất thế nó hùa nhau đạp xuống hố, bạn bè khi đói thì hắn giúp, khi no thì lại tránh hắn, Cai Hổ đau đớn vô cùng phải dung thân vào cái xã hội mục nát, lưu manh, Hổ nhập cuộc  cho nên bây giờ Hổ ngậm đắng, cúi mặt mà đi. Hổ biết đi đâu và về đâu.

Mười lăm năm sau Cai Hổ qui cố hương, vát cái mặt mo về làng Vẹm, ngó không được với bà con chòm xóm. Hổ cúi đầu đi như con chó đói, bụng cào, họng khô chớ chi có một cụm rượu làng Chuồn đẩy vô thì đời Hổ sướng biết chừng nào. Hổ không dám nhìn đám bạn cũ; nhìn chi nổi, thằng Đẽo thọc huyết heo ngày nào giờ cũng hai ba căn hộ, cái ở, cái cho thuê. Nghe đâu Đẽo công tác ở huyện đội. Đẽo thoáng thấy Cai Hổ một lần ở chợ Đũi, Đẽo tránh mặt sợ vạ lây. Cai Hổ còn một thằng bạn cố tri mà không ở chợ, mặc dù thằng bạn cũ xưa là kẻ chợ. Không biết giờ này hắn còn sống hay chết. Cai Hổ húp bát chè xanh mà nước chè không chịu chảy xuống họng muốn ngừng lại để trào ra. Hổ nhắm mắt suy tư.

Tư Thoáng nghe con Nghĩa sủa đầu ngõ, vói miệng kêu Nghĩa để ngăn tiếng sủa. Giây lát sau Cai Hổ xuất hiện đứng trước căn nhà lá, phên tre trét đất bùn non trộn với cứt trâu phết lên thế vôi, phên tre khô, nứt để lại những lỗ thủng, ánh sáng uà vào, chiếu sáng như khách sạn ngàn sao giữa bãi vắng. Cai Hổ đằng hắng xem chừng chủ nhân có nhà hay không. Nghĩa không có ở đó. Nghĩa đánh hơi Hổ là kẻ ’sát nhân’ có hơi chó, Nghĩa sợ chạy trốn sau bụi tre.

-         Về hồi nào?Nghe cụ lúc nầy làm ăn khắm khá lắm phải hôn?Tư Thoáng nói.

-         Khá cái con khỉ mốc. Đói muốn chết đây nè! Cai Hổ nói.

Hai bên hàn huyên tâm sự, mắt nhìn lắu liêng xem bốn bề có gì nhấm nhắp. Trong căn nhà lá của Tư Thoáng ngoài cái chõng tre, lu nước, cái bếp tàn, trên kệ kê vài cái ve chai đầy mồ hóng khó nhận ra muối hay ớt. Ấm nhôm nằm im lặng trên cái kiềng từ sáng đến giờ chờ đun lửa nóng. Tư Thoáng nhớ ra trong khạp còn đâu chừng chưa tới một lon gạo. Nếp ăn ở Tư Thoáng đơn sơ sau khi vợ Tư qua đời; thằng con trai 35 tuổi có vợ, con ở trên chợ huyện, đạp xích lô, thỉnh thoảng về thăm cha với vài ba con cá biển và gói thuốc rê. Tư Thoáng nghèo sát đất nhưng tình cảm bạn bè cao qúy lắm. Vắng bạn mười mấy năm, thấy bạn cơ hàn mà thân mình cũng cơ hàn không nói nên lời, biết lấy gì mà trải tấm lòng. Suy nghĩ mông lung, không có lối thoát, nói cho ngay Tư Thoáng lâu nay trong người cũng khô dòng rượu. Vậy lấy đâu ra rượu để thiết bạn qúy. Vô phương! bỗng nghe tiếng Nghĩa sủa. Tư Thoáng đưa mắt nhìn ra ngoài xem Nghĩa ở đâu. Đứng dậy; tay cầm con dao giấu sau đít, lần mò đến bên cạnh Nghĩa, Tư Thoáng nhìn Nghĩa bằng đôi mắt ủ dột. Nghĩa đến gần vẫy đuôi, vuốt ve Nghĩa đoạn đưa con dao cứa vào cổ Nghĩa, Nghĩa đau nhói, búng mình chạy tẩu thoát vào luống bắp, thở ì ạch, hai con mắt hớt hải, Tư Thoáng quyết chìu tình bạn quên tình chó, ra tay hạ Nghĩa để đánh chén cùng bạn. Cảnh trời xuống chiều, mây xám đầy đặc gây u ám, khó cho Tư Thoáng lùng kiếm Nghĩa. Tư đứng trước gió và mây, đảo mắt nhưng không thấy Nghĩa động tĩnh. Tư Thoáng bỏ cuộc; chó chạy luôn không còn trở về. Tư Thoáng nghe tiếng xào xạt của lá, đứng lại và thấy lạnh ở đôi chân. Nghĩa gục đầu liếm đầu chân Tư Thoáng, ngước nhìn Tư với hai hàng nước mắt. Tư Thoáng nghe như tiếng cầu xin của chó. Tư qùi xuống ôm Nghĩa vào lòng, đứng dậy dương hai tay lên trời và thề rằng : ’Không ăn thịt chó! Không ăn thịt chó!’. Hắn chém phập lát dao vào thân cây. Tư Thoáng chậm rãi bước, chó đi sau lưng, cổ còn rướm máu đỏ.

Về sau người ta không thấy Cai Hổ ở làng Vẹm. Hắn ra đi như đã ra đi và không biết ngày mai có làm ăn khắm khá hơn không ? Tư Thoáng chết vài năm sau đó và thường thấy con chó đốm ngồi trên lưng mộ chủ vào những buổi hoàng hôn

MỘT LẦN THỊT CHÓ GIỮA RỪNG VỚI NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC

          Lần đầu tiên tôi đến thị trấn Dân Chủ là cùng cặp bài trùng Nhà văn - nhân vật: cố anh hùng Núp và nhà văn Nguyên Ngọc. Tôi vinh dự được hộ tống hai ông đi thăm lại chiến trường xưa. Các ông thì là trở lại còn tôi là lần đầu tiên đặt chân đến. Kết quả của chuyến đi ấy là một cơn sốt rét ác tính như nghiêng rừng sầm sập đổ vào tôi. Cũng may là có bà vợ làm ngành y nên sau 3 phác đồ điều trị thì tôi dứt đến tận bây giờ...

          "Dân chủ", cái tên nghe quen mà lạ. Từ giữa năm 1972, tỉnh Gia Lai chủ trương xây dựng một thị trấn giữa trung tâm căn cứ đầu não của tỉnh tại rừng già Kon Ka King trên đỉnh Trường Sơn hùng vĩ. Khu vực được chọn là một thung lũng rộng cỡ hai chục ha thuộc xã Kroong và được bao bọc bởi 3 dãy núi Bok Kang, Kbang và Mơtrong. Ðây là một vị trí rất thuận lợi cho một thị trấn kháng chiến nằm giữa lòng địch. Thị trấn nằm ở một ngã 3 đường mòn và trước khi nó được mang tên là Dân Chủ thì đã được mang ra thảo luận trong khá nhiều cuộc họp. Cuối cùng còn 2 tên được mang ra để quyết là Cao Bằng, tên một tỉnh kết nghĩa với Gia Lai, thể hiện tình cảm, mơ ước của những người kháng chiến đối với "một chế độ xã hội tốt đẹp đã thành hiện thực trên miền Bắc XHCN". Và Dân Chủ là tên mật danh cũ của tỉnh Gia Lai đồng thời cũng là một khát vọng của những người Tây Nguyên đang kháng chiến gian khổ trong lòng địch (Và cả đến bây giờ). Thị trấn Dân chủ thời đó đã có 250 m đường đất, có khoảng gần trăm căn nhà tranh vách nứa nằm dưới tán rừng già gồm nhà dân, đồn công an, trường cấp 1, cửa hàng mậu dịch... đã trở thành một đầu mối giao lưu quan trọng cung cấp một phần nhu yếu phẩm từ đồng bằng lên trao đổi, mua bán góp phần cải thiện đời sống cán bộ bộ đội, đồng bào vùng căn cứ và cả các đoàn khách qua lại trên tuyến hành lang này, tạo nên một sự sầm uất giữa đại ngàn núi non hùng vĩ. 

          Tôi đã từng đến thị trấn Hậu Hiền, "thủ đô" kháng chiến một thời ở Thanh Hoá, trong tiềm thức của tôi trước khi đến, thị trấn Dân Chủ nó cũng nhang nhác như thế. Nhưng té ra không phải vậy. Khoảng 4 giờ chiều mà thị trấn đã lờ mờ tối vì sự bao phủ của rừng già. Ngửa cổ chỉ thấy cao vút những thân cổ thụ với vài chú sóc tinh nghịch đang bám vào những cành ngang thoắt ẩn thoắt hiện. Lá mục phủ thành thảm. Ẩm ướt và thâm u. Sự nhộn nhịp (qua lời kể) của những ngày kháng chiến không còn, thay vào đó là sự tĩnh mịch của một xã vùng sâu. Ông Núp xục vào làng tìm người quen. Cũng phải cách thị trấn vài ba cây số. Trong chiến tranh ông đã từng làm bí thư huyện này. Chừng 7 giờ tối thì mấy cụ già cởi trần đóng khố mồm ngậm tẩu phập phù tới cùng một nhóm du kích khiêng một... con chó. Trong khi chủ nhà hàn huyên với ông Núp và ông Nguyên Ngọc, tôi và lái xe của ông Núp thành... đồ tể và đầu bếp bất đắc dĩ khi mà toàn bộ đồ dùng và gia vị chỉ có một con rựa của dân làng, một con dao găm của lái xe, lá lốt hái tại chỗ, muối và... mắm cái (mắm cá). Thế nhưng tôi dám bảo đảm rằng, trong đời chưa bao giờ tôi được thưởng thức một cuộc thịt chó hoành tráng đến như thế. Ăn rồi cứ thòm thèm mãi, vì con chó cũng đã luống tuổi ấy khi chúng tôi làm xong thì đã hơn 10 giờ đêm trong sự chờ đợi của khoảng... bốn chục người đều bụng đang réo sùng sục. Nhà văn Nguyên Ngọc tấm tắc mãi: Tớ không ngờ cậu... tài thế. Ðêm ấy có vẻ như ông Nguyên Ngọc và ông Núp không ngủ. Ký ức về với các ông như nó vừa mới dứt qua đây còn tươi hoanh hoảnh. Ngọn đèn bão lắc lư theo nhịp võng. Đi chuyến này các ông đều mang theo võng để nhớ những giấc ngủ rừng một thuở. Tôi nằm lẫn với anh em du kích dưới nền nhà ủy ban và cũng không tài nào chợp mắt. Rừng âm u và thăm thẳm. Tiếng thú rừng ăn đêm xạc xào gần lắm khiến mấy cậu du kích nhấp nhổm vào ra. Những cây cổ thụ hàng mấy người ôm như một chiến luỹ vững chắc chở che cách mạng những ngày kháng chiến gian khổ. Cái câu thơ của Tố Hữu mà ai cũng thuộc lòng "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù" phải vào đến đây mới thấm hết cái hồn của nó. 

           Theo tài liệu thì thị trấn Dân Chủ không chỉ là căn cứ của tỉnh Gia Lai kháng chiến mà còn là nơi che chở cho một số cơ quan của liên khu V, của các tỉnh bạn trong những lần địch càn quét mạnh ở đồng bằng. Cũng chính từ nơi đây, nhiều đơn vị chủ lực của tỉnh và mặt trận Tây Nguyên (B3) đã ra đời và lớn mạnh, là nơi giao điểm của 2 tuyến hành lang trung ương Bắc - Nam và đường hành lang đông tây song với quốc lộ 19. 

           Bây giờ trở lại, phải cay đắng mà thú nhận rằng, thị trấn Dân chủ đã hoàn toàn không còn như xưa, nó đúng là một thị trấn hiện đại, phố thị miên man... không thấy đâu rừng già như hồi tôi tới với ông Nguyên Ngọc và ông Núp chứ đừng nói khi nó còn là thị trấn kháng chiến. Tài thật, tài đến thế là cùng, tiên sư anh... Tào Tháo...

CHUYỆN CHÓ

Truyện ngắn: Hồ Tĩnh tâm

Cách đây mấy chục năm, tôi đọc được trên một tờ tạp chí khoa học, thấy có nói rằng, trên thế giới có bảy loài chó săn(xin nhắc lại là chó săn) thông minh, dũng cảm, thì ở Việt Nam ta có tới hai loài được liệt vào danh sách đó. Một là loài chó Lài của người Mường; loài chó này có sắc lông vàng, to như con bê, có con dám chống chọi cả với cọp. Hai là loài chó Phú Quốc, có sắc lông màu xám, và có một đường xoáy dựng lông, chạy dài từ bả vai xuống tận đuôi, chân có móng đeo, giữa các ngón có màng nối như màng chân vịt. Thú thật tôi đọc sao biết vậy, chứ trong bụng cũng nghi nghi hoặc hoặc. Chó ta sao hơn chó Tây được. Đến cái lịch treo tường, ông Tú Hà Nam còn vịnh một câu chí tử nữa là: “Ngày Ta nằm dưới đít ngày Tây”. Nói vậy là tôi nói chuyện thời trước cho vui, chứ không hề có ý mặc cảm tự ti. Nước Việt mình thời hiện đại đã có tới hai người cưỡi tàu vũ trụ:  một là ông Trinh, người Việt quốc tịch Mỹ, hai là ông Tuân, người Việt chánh hiệu từ đầu đến chân, đã từng cỡi mây đạp gió, bắn rớt tàu bay B52 trên trời Kinh Bắc. Chừng đó cũng đủ để tự hào phần nào về nòi giống tiên rồng của mình rồi, cần gì phải nói thêm về một ông quê Hà Tây đang làm việc cho Nasa Hoa kỳ, đã vạch quỹ đạo đường bay, cứu con tàu Apolo trở về trái đất. Còn chuyện chó thì khác. Muốn biết đích xác ngọn ngành thì phải điều tra, phải so sánh, đối chiếu. Ra nước ngoài, tiền máy bay không có là cái chắc. Lại còn thủ tục đăng ký hải quan, khám sức khẻ… Ôi thôi! Rách việc lắm!

Nhưng đêm nằm ngủ, nghe tiếng chó nhà hàng xóm giật mình sủa trăng, tôi lại cựa mình trăn trở: Có đúng nước mình có hai loài danh khuyển cỡ đệ nhất hành tinh?! Áy náy mãi, chịu hết nổi, tôi lò dò mò sang nhà ông hàng xóm.

- Ai đó? Đêm hôm ai tới có chuyện chi đó?

Ông hàng xóm ốm nhách, vừa hỏi bằng cái giọng khào khào của kẻ nghiện, vừa mở cửa cho tôi vào.

- Ủa, bác tới có chuyện chi?

Tôi trình bày tất tật nghi vấn của mình. Nghe xong, ông hàng xóm vừa gải gải chỗ kín của mình, vừa kéo ghế mời tôi ngồi xuống kế cái bàn đá hình bán nguyệt.

- Má thằng Sơn ơi! Chăm giùm bình trà coi!

Gần nửa đêm mà uống trà thì chỉ có chết. Nhất là trà của tía thằng Sơn; cứ gọi là trắng dờ con mắt cả ngày hôm sau. Nhưng mà thây kệ, ông ta đã chịu chăm trà, tức là cũng chịu luận về chuyện chó với mình. Cũng bỏ công thức với nhau.

- Chuyện chó săn thì tui hổng rành, chớ chuyện chó thịt thì đố nước nào qua nổi An Nam! Chỉ cần một miếng đùi cầy tơ thôi, luộc đơn giản với nước dừa, đủ chứng minh chó thịt của ta đúng là số dách.

Sợ ông ta sa vào chuyện cầy tơ bảy món thì bỏ mẹ cái đêm tiếc ngủ, tôi tìm cách lái lại cái miệng ưa dồi nướng, nhựa mận của ông.

- Tháng rồi đi Phú Quốc, tôi có nghe kể chuyện về cái Am con Xám. Là chuyện về cái Am thờ con chó Xoáy Xám Phú Quốc chánh cống. Nghe xong cũng phần nào tin tin cái thông tin trên tạp chí. Bác biết không, con chó một mình quần nhau nát đất với con hổ mây to bằng cổ chân, nhờ nó mà con ông chủ của nó chạy thoát được vô nhà. Chừng người lớn xách rựa, xách gậy chạy ra, thì con chó đã ngoạm được ngang cần cổ con rắn. Con rắn quấn xiết lấy con Xám mà riết, tiếng xương gãy nghe răng rắc. Mọi người chỉ còn cách đứng chờ cả hai con lăn ra chết. Con chó họ chôn cất. Con rắn họ chặt khúc hầm sả, xào lá cách. Bác thấy chó Phú Quốc mình có gan trời không? Phong vào hàng danh khuyển cũng phải.

- Đã nhằm gì!( ông hàng xóm vừa vấn một điếu thuốc rê trảng tổ bố như ngón tay, vừa nói). Ba chuyện chó cỡ đó ý mà, có mà vô thiên lũng! Hồi trẻ tui sống ở quê, một hôm ra đồng chăn vịt, trời hây hẩy gió, lại mây ken dày dựng lên như núi, đã trong người, tôi lăn ra ngủ. Đang ngon trớn, chợt nghe tiếng con phèn sủa dắng dỏi. Trời đất! Một con rít to hơn ngón tay cái, đang quằn quại dưới bàn chân trước con Phèn, cách cần cổ tui có gang tay. Mèng đéc ơi! Thử dính nó một miếng coi, có mà trào đờm. Tui choàng ngay dậy, quơ chiếc dép mủ, huýt gọi con Phèn nhấc chân lên để đập con rít đem về ngâm rượu làm thuốc cho gà. Ai dè con Phèn đè chặt quá, con rít bị mắc vô móng chân của nó, khi nó nhấc chân lên, con rít cũng đeo theo lên. Tổ cha con rít ác địa đó, nó chích có một phát, mà con Phèn tuyệt hảo của tui lăn ra chết ngay tức khắc.

- Bác chôn nó chứ?

- Ngu gì mà chôn. Chết rồi coi như hết. Tui hú đám bạn qua, tẩn liệm nó hết nghiến năm lít Sơn Đông. Cứ là ấm chân răng tới mấy ngày.

Chiêu một ngụm nước. Vấn thêm một điếu sâu kèn tổ trảng, ông hàng xóm tỏ ra hứng khẩu, cao giọng:

- Bác đã mặn chuyện, tui cũng xin thành thật thưa rằng, chó xứ mình tiếng nhỏ thó mà trung thành, gan dạ ít có chó nào sánh đặng. Bên quê ngoại tui, có ông lão ăn mày, đi đâu cũng dắt theo con chó. Từ khi con chó bằng cầm chân tới khi con chó già cóc kẹ. Lúc bấy giờ, ông lão đã lòa câm hai con mắt, việc đi lại cứ phải nhờ vào con chó. Nó đi trước, ông lão lẻo đẻo theo sau. Hệt như cái dấu chấm hỏi cong vòng, và cái dấu chấm dòng cụt lủn, lê lết kéo nhau trên mặt lộ. Thương lắm bác à. Tới nhà nào hay cho của bố thí thì con chó đứng lại, dụi dụi cái mũi ướt rượt vào cẳng chân ông già báo hiệu. Ai cho thì nó vẩy đuôi. Ai chưa cho thì nó ngước nhìn bằng cặp mắt ướt nước dấp dính. Ai đuổi mắng sổ sàng thì nó chồm lên sủa. Ai cũng nể nó. Chừng ông lão quy tiên, cả đêm nó ngồi canh xác, miệng không ngớt cất tiếng tru ai oán. Nó tru cả đêm cả ngày, nhờ đó mà lối xóm biết ông lão đã về trời. Họ tới đưa ông đi, nhưng hễ ai đụng vào thây ma là con chó chồm lên cắn; mắt ngầu như lửa. Mấy tay trai tráng lực lưỡng phải lừa thế, dùng đòn vông dằn nó xuống trói lại, mới đưa được nắm xương tàn của ông lão ra đồng. Rồi thì từ đó ngày nào cũng như ngày nào, con chó cứ nằm rũ phủ phục trên nấm mộ ông chủ mà khóc tru lên. Tiếng tru thảm thiết rợn người. Nhứt là từ nửa đêm về sáng. Rồi thì nó cũng chết thôi, nhưng không biết có kẻ nào vì động tâm thương nó đang chết dần chết mòn mà đập chết, hay vì mất ngủ bởi tiếng tru ai oán của nó mà đập chết. Chỉ biết, một buổi sáng, người ta thấy đầu nó nứt toác, phọt cả óc trắng nhờ nhờ trên mộ chủ. Có người đơm chuyện, kháo phứa lên rằng, con chó quá đau khổ, tự đập đầu vô đá mà chết. Làm như người chứ không phải chó không bằng.

*

Sau cái đêm nhàn đàm chuyện chó ấy, tôi vẫn tiếp tục cuộc điều tra của mình. Tôi mua và cắt tất cả các bài báo, bài chí viết về chó, đóng thành một tập hồ sơ lưu trữ. Ai có chuyện gì về chó, liên quan tới chó, tôi cũng ghi chép. Lúc túng cùng, tôi cắt lén cả tư liệu chó trong sách mượn của người ta, của thư viện(Về chuyện này ấy mà, chẳng biết thế đếch nào, tay phó phòng tổ chức biết được, voa thọt lên thượng cấp, tôi bị hăm một phen ra trò). Ngoài ra, tôi còn sưu tập cả một bộ chân dung chó, gồm đủ thứ ảnh đen trắng, ảnh màu. Chó Tây, chó Ta. Vớ được anh chó, chị chó nào tôi cũng gom tuốt vào tập an bum ngân hàng chó của mình. Nghĩa là tôi lao vào công việc say sưa, liều mình như chẳng có. Đầu óc tôi quay cuồng toàn những chuyện chó. Bởi vậy, bộ lưu trữ độc nhất vô nhị của tôi, theo thời gian, đã chất đầy mấy hộc tủ. Đó là một bảo tàng tư liệu chó. Tôi bán cả ti vi, đầu máy cát xét, tủ lạnh… để lao vào công cuộc sưu tầm tư liệu. Cho dù vợ tôi khóc đầy hàng thau nước mắt về việc của cải đội nón ra đi. Cho dù bạn bè mai mỉa tôi là ông hấp(Nói nhỏ nhé! Lại vẫn cái tay phó phòng ấy thọc gậy bánh xe. Y rêu rao khắp nơi là tôi bị hội chứng nhiễm tiền chó dại, phải cho hưu non mới dứt cơn). Như một Rô Bin Xơn, tôi cứ lao vào công cuộc điều tra khoa học với tất cả máu huyết của mình. Tôi đã có ý đồ của tôi. Nếu quả thật giống cho Lài của người Mường, giống chó xoáy xám của Phú Quốc đích thị là giống chó săn nổi tiếng toàn thế giới, thiên hạ sẽ biết tay tôi. Bấy giờ tôi sẽ làm một luận án phó tiến sĩ- mà cũng có thể là tiến sĩ- về chó. CHÓ SĂN VIỆT NAM VÀ THỊ TRƯỜNG CHÓ THẾ GIỚI. Tôi sẽ trình Hội đồng Nhà nước một luận chứng kinh tế về việc thành lập tức tốc một Trung tâm chó Việt Nam, mang tên TRUNG TÂM PHỐI VÀ LAI TẠO KHUYỂN VINAMEX. Ái dà! Biết đâu tôi lại chẳng được cử làm Giám đốc hay Tổng Giám đốc gì đó. Chẳng gì tôi cũng đã có trong tay hàng hộc hộc ngăn kéo tư liệu chó.

Tôi biết rõ đặc điểm sing lý giống chó xi lùn Nhựt Bổn khác xi lùn Bắc Kinh ra làm sao. Tôi biết rõ tính nhõng nhẽo của giống phốc Thụy Sĩ, tính chây lười của giống xồm Na Uy, tính ngổ ngáo của giống mặt cọp Hoa Kỳ… Còn như bạn cần chọn một bẹc giê Đức đáp ứng tiêu chuẩn huấn luyện nghiệp vụ? Sẵn sáng! Tôi có đủ tài liệu. Bạn muốn hỏi về giống Poite Ăng Lê? Có ngay! Bạn muốn xin chỉ dẫn để chọn một con chó làm cho căn nhà lộng lẫy trở nên lộng lẫy hơn? Xin mời! Hãy chọn giống Lesvie của Nga. Bạn muốn mua một con Boxer thật quý? Vâng, đừng tốn tiền mua những con màu nâu- thứ đó ê hề trên thị trường chó đầy biến động- hãy tìm bằng được một con lông trắng lốm đốm đen trên người. Bạn đã đọc Gavrain1 chưa? “Bim trắng tai đen” ấy mà. Chính nó đấy!...

Đấy! Tôi đã tập trung cơ man nào là tư liệu về chó. Kể cả tư liệu y khoa dạy cho chó nhảy đực thế nào đạt hiệu quả phủ nọc. Cách đỡ đẻ khi chó lâm bồn. Cách cung cấp dinh dưỡng trứng, sữa cho chó hộ sản. cách cho chó uống thuốc tiêu chảy, long đờm, sổ mũi… Nói chung là đủ các kiểu tư liệu, tài liệu. Nhưng toàn là tư liệu, tài liệu bên Tây, bên Tàu; còn tài liệu bên ta thì…hiếm như lá mùa thu, mặc dù chợ trời của ta có thể mua đủ phụ tùng ráp chiếc phi cơ phản lực. Có chăng cũng chỉ là những câu nói dân gian dạy cách chọn chó nuôi giữ nhà, với chức năng là sủa đổng, là cắn trộm. Những câu như tứ túc mai hoa, huyền đề, trường lưng, rộng ức, mõm nhọn, trán vuông… hay móng đeo chẳng hạn, cũng chỉ nhằm vào ba giống chó miệt vườn, chưa thể gọi là tài liệu khoa học được. Có vậy mới biết người Tây, người Tàu họ giỏi chơi chó hơn ta nhiều, nhiều lắm.

*

Trong khi tôi đang vùi đầu vào công tác sưu tầm tới mất ăn mất ngủ thì ông hàng xóm của tôi, chẳng biết ai chỉ vẻ, đã chuyển sang nuôi chó kinh doanh. Đầu tiên ông nuôi chó thịt, theo phương châm nhất bạch, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm. Chó đẻ ra chó. Chó con, con nào tốt mã ông bán cho người ta nuôi, con nào xấu mã ông để nuôi trong nhà, chờ lớn lên “hạ cờ Tây” chế đủ bảy món “A đây rồi!”, vừa bán vừa nhậu lai rai. À, mà món tiết canh chó của ông ta thì phải biết. Cứ gọi là nhức răng hăng cật. Bên Tây họ giỏi chuyện lai tạo, điều trị, săn sóc chó, chứ sử dụng chó làm thực phẩm cao cấp chống suy dinh dưỡng thì họ cứ phải kiếng bên ta làm sư phụ. Nay mai, cơ chế thị trường mở rộng, người nước ngoài họ vác, họ khuân hàng hàng va li vàng bạc, đô la đổ vào xứ ta để kinh doanh sản xuất, biết đâu họ chẳng được người Việt Nam khai hóa cho biết ăn thịt chó. Chừng đó ông hàng xóm của tôi, không khéo lại trở thành Giám đốc nhà hàng chó đặc sản năm sao.

Một hôm, nhân trời mưa lắc rắc, ông hàng xóm cho cậu út sang mời tôi qua lai rai chút đỉnh món nai đồng quê nức tiếng của ông. Rượu vào được vài ly, nghe tôi khen tài kinh doanh chó tài tình của ông, ông xua tay nói:

- Nhằm nhè gì ba cái lẻ tẻ hả bác. Phải biết hy sinh cho khoa học chó như bác mới gọi là đáng mặt anh hào. Kỳ này tui tính đổi nghề.

- Trời đất! Nói thiệt hay nói chơi? Bác nhờ chó, đang làm nên ăn ra?!...

- Phải làm ăn lớn cà- ông hàng xóm nhấp nháy con mắt ra chiều khoái trá- Vậy chớ bác còn nhớ vụ tay gì ở Hà Nội, tổ chức đám ma chó linh đình, hàng trăm xe hơi chở vòng hoa đưa đám, bị kỷ luật cách về làm phó thường dân không?

- Vụ đó nức tiếng như cồn, tôi còn lưu hàng chồng bài viết của các tay săn tin.

- Đấy! Sự đời nó vậy! Hồi đó người ta mê bẹc giê hơn mê người tình. Giờ thời buổi xoay vần, các nhà giàu có sang trọng đua nhau nuôi chó kiểng. Tui tính vầy, bác với tui như anh em, tui có vốn, bác có học vấn, ta hùn hạp nuôi chó xi lùn, chó phốc, kiếm tiền làm giàu với thiên hạ chơi.

Thật là ngán cho tấn trò đời. Mình đang lao vào khẳng định tiếng tăm của nhị vị danh khuyển để trình luận án thì… hắn lại rủ kinh doanh chó kiểng. Mà… cũng được, khoa học phải có hậu phương cấp vốn, mới triển khai nghiên cứu được những đề án tầm cỡ thế giới chứ. Bao nhiêu đồ đạc đã bán ráo, mà cái chốt nhất của vấn đề là giá trị đích thực của giống chó Lài, chó Phú Quốc vẫn chưa tìm ra. Suy cho cùng cũng tại ngành khoa học tự nhiên của ta, trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, còn thiên lệch quá, hạn chế quá, chỉ nặng về trâu bò, lợn gà, chưa đoái gì tới chó. Bao nhiêu chó đều ném cả vào chai rượu, có ai biết nuôi chó để nghiên cứu khoa học như ông Páp Lốp đâu. Họa chăng cũng chỉ vài người làm trên Cục, trên Viện, bị coi là hâm tỉ độ mới ghé mắt dòm qua loáng thoáng về chó. Ấy thế mà cũng không biết lòng tự trọng dân tộc về chó quý hiếm của ta, chiếm được tỉ lệ bao nhiêu phần trăm trong đầu của họ. Thôi thì… liều một phen xem nó thế nào. Chẳng qua là một bước lùi hai bước tiến như sách Tôn Tử. Biết đâu bắt cá hai tay lại hốt bạc ào ào.

Ngay đêm đó, tôi nài nỉ rót vào tai bà vợ những lời ngọt nhạt. Đại loại: em ráng tiếp anh một lần này nữa thôi. Thiên hạ đầy trời đang đua nhau chơi chó kiểng. Giá mỗi con xi lùn xấu nhất, cũng trên chỉ rưởi khi vừa mở mắt. Một con chó giống đẻ mỗi lứa ba, bốn con, làm gì mà lỗ được. Với nữa, ông hàng xóm bao gần chín phẩy chín chín phần trăm số vốn, mình có là cái đinh gì. Ngon ngọt suốt đêm, bà xã cuối cùng cũng lột cho tôi đôi bông tai và cái nhẫn cưới. Hai chỉ cả thảy. Phần hùn hạp cổ phần của tôi chỉ có thế.

Vậy mà ông hàng xóm rước về một hơi ba con chó cái giống. Mỗi con giá trên hai cây vàng. Tôi nhìn chúng mà hoa cả mắt. Đến ẵm chúng lên nựng nựng vào mũi cho quen hơi như trong tài liệu hướng dẫn, tôi cũng không dám. Mình hút thuốc, uống rượu, ăn rau dưa, lỡ làm chúng nhiễm trùng một cái có mà khuynh gia bại sản. Đến cả việc chúng nhảy phốc từ trên sa lông xuống nền gạch bông tôi cũng lo cóng ruột, sợ chúng lỡ trợt chân té bị què. Rồi thì… ngày mưa nhiều, tôi nơm nớp lo chúng lạnh bụng. Ngày oi bức, tôi nơm nớp lo chúng cảm nắng. Trước đây, khi bà xã lần đầu vượt cạn, khi con cái sốt phát ban nóng nứt môi chảy máu, tôi cũng chưa bao giờ lo đến thế. Ôi chao! Đủ cái lo tự dưng lại rước vào người. Cứ hễ rảnh việc cơ quan, đạp xe về tới nhà là lập tức tôi xách tập hồ sơ y khoa chó, qua ngay nhà ông hàng xóm, chúi mũi nghiên cứu hàng giờ. Có bữa mãi mê quá, tôi đến sở chậm gần cả tiếng. Giám đốc phải cho mời tôi lên uống trà.

- Đồng chí có biết thế nào là tha hóa lập trường giai cấp công nhân không?- Giám đốc nói với tôi- Đất nước còn nghèo, vậy mà đồng chí hùn hập với tư nhân kinh doanh chó. Đồng chí tính dạy cho đồng bào ăn chơi hàng cây vàng một lúc sao?!

Ông ta viện dẫn kinh điển một thôi một hồi, đủ cả Xôcrat, Phrớt, Hêghen, Cácmác… khiến tôi đã tính đầu hàng, nếu như chiều đó ông hàng xóm không thông báo:

- Động đực rồi! Cái hoa đỏ như búp lựu, sưng lên đẹp như múi mít. Chủ nhật tốt ngày ta cho nhảy.

(vậy là tôi quên béng hết, kể cả quên cục tức nghẹn họng bởi tay phó phòng đeo dính tôi, săn từng tiểu tiết việc tôi hùn hập nuôi “chó nái”).

*

Hôm con xi Pháp tam sắc chịu đực, lần đầu tiên trong đời, tôi thấy có điều gì đó vô cùng hệ trọng, trong cuộc sống vốn nhuốm màu công chức tẻ nhạt của tôi, mà khi vợ tôi chuyển bụng đi nhà bảo sanh sanh thằng hai với con ba tôi không hề thấy. Chúng tôi tẩm bổ cho anh chị chó đầy đủ nào sữa, nào hột gà, nào phôi hột vịt lộn. Vậy mà còn nơm nớp lo chúng đuối sức, làm tình không đến nơi đến chốn. Mỗi lần chó chịu nọc, tốn cả hai chỉ vàng bốn số chín chứ ít à. Mà cái thứ chó Tây nó làm tình cũng đài các lắm. Anh đực cứ nằm ườn ra. Chị cái thì khủng khỉnh dim mắt ngồi liếm bộ lông dài mượt. Cả tiếng đồng hồ chảnh chẹ ra vẻ không thèm chuyện ấy, chúng mới xáp lại gần nhau. Lại còn dềnh dàng hít hít, liếm liếm nhau mãi. Chừng con đực chịu nhảy, nó điệu như một nghệ sĩ. Cái lưng cong tớn, giần giật từng cơn theo nhịp rên ư ử. Ông hàng xóm chỏi đôi mục kiểng dòm một hồi, rồi nói:

- Điệu nghệ quá tay! Lứa này cầm chắc tứ khuyển. Vô lút rồi bác hà.

Vô lút, nhưng là vô lút cái của hái ra tiền cho chủ của con xi đực, chứ còn hai cúng tôi thì… vô trắng con mắt. Con xi Pháp có bầu tới bốn cái thai mà đẻ không được. Tôi chỉ là nhà sưu tầm chó, chứ đâu phải nhà đỡ đẻ chó, ông hàng xóm phải cho cậu út rồ máy chiếc java230 đi rước bác sĩ thực hành; nhưng hăm ba năm tuổi nghề lo cho heo đẻ heo bệnh của ông ta, cũng không giúp gì được cho sản phụ chó đang lâm bồn. Cũng là vì nền y học súc vật của ta chuyên hướng quá nhiều về heo, về gà, vịt, trâu, bò hơn là về chó. Cả ba chúng tôi bó tay ngồi chết trân, gần giống như Từ Hải chết đứng. Riêng tôi, mỗi lần con chó  rặn đẻ là tôi nhót cả ruột, tim gan phèo phổi cứ cuộn cuống lên, xoắn nùi lại. Chừng con xi Pháp lả ra chết, ông hàng xóm móc chiếc khăn mùi xoa ra lau mồ hôi trán, nói với tôi:

- Coi như thí nghiệm. Bác đừng buồn, ta còn hai cơ hội gở bàn thua. Lo gì!

(Vậy mà tay phó phòng sáng hôm sau đã săn được tìn này. Gặp tôi ở chân cầu thang, y nói: Sao? Nghiên cứu tài liệu không kĩ hay sao mà để chó chết tức tửi vậy. Cả một đống tiền chứ ít à. Hoang vừa vừa thôi!).

*

Ai mà biết trước sự đời thiên biến vạn hóa. Trong họa có phúc. Với chúng tôi, phúc trùng lai lia lịa. Có thờ thần tài có khác. Hai con chó giống còn lại đẻ giỏi như hai cái máy đẻ ra vàng. Sáu con. Tám con. Rồi lại tám con. Con nào con nấy đẹp như công chúa xứ Ba Tư, hoàng tử xứ Hy Lạp. Ông hàng xóm của tôi suốt ngày cứ nằm bò ra nền nhà mà nhìn ngắm đắm đuối từng cô cậu khuyển.

- Bác ạ- ông nói với tôi- phần săn sóc bác cứ để tui, tui mát tay lắm. Bác rành nghề sưu tập, bác chịu khó săn lùng người mua, ca cho thiệt mùi vô lỗ tai thiên hạ . Kiến thức về chó bác thiếu gì.

Trong chớp mắt, tôi thành người săn khách. Mà lạ thiệt, tôi không cần hít ngửi giỏi như chó, cũng săn được khách hàng dễ ợt.

Chẳng biết giống chó Lài, chó Phú Quốc thế nào, chứ với  chó Tây thì… tôi săn đâu dính đó. Khách đến thăm nom, ngả giá, đặt cọc nườm nượp, đông nghịt như thiên hạ xếp hàng đăng ký xin vô các công ty liên doanh với nước ngoài, như các cô thôn nữ tơ măng chen chúc đăng ký cho dân Hàn Quốc, Đài Loan thay nhau sờ nắn chọn về làm máy đẻ. Chúng tôi chưa dám nhận lời bán cho ai, bởi vì cuộc mua bán chó đã trở thành cuộc đấu xảo chó tại gia. Giá chó leo thang vòn vọt. Đồng tiền phá giá như chong chóng. Từ chỗ người săn khách, tôi trở thành đối tượng bị săn đuổi của những ông bà đang cuống lên, vì sự thèm khát chó, làm cho đồng tiền mua chó chẳng còn là gì, khi mà họ vẫn chưa rước được chó về nhà. Vinh quang đã thuộc về chó, thuộc về chó kiểng. Con đẹp mã đã lên tới cả cây,mấy cây vàng . Con xấu nhất cũng tròm trèm năm chỉ. Vậy mà hôm giáp Tết Tây, ông hàng xóm nói với tôi một câu xanh rờn:

- Bác có muốn quậy tay phó phòng không? Cái tay hay săn tin nói xấu ấy. Bác cứ ẵm con cún đẹp nhất này này, biếu cho ông giám đốc, chắc ổng mừng lắm. Nhà ông ta vừa có đứa con gái đi học bên Tây về, nó không mê chó thì chớ kể tui làm người.

Mọi người biết không, gần tuổi về hưu mà đùng một cái, đang từ chân nhân viên trị sự, tôi nhảy tót lên ghế trưởng phòng tổ chức. Con chó năm cây vàng đã làm nên phép nhiệm màu, hay là sự sống lâu lên lão làng đã giúp tôi mọc cánh? Ngồi lên ghế trưởng phòng, tôi bỗng thấy công việc thật thơm tho nhàn nhã. Đồng nghiệp trước đây coi tôi có cũng như không, giờ gặp tôi, tới ho cũng không dám. Ai đi xa về cũng tìm đến thăm tôi, tình thân như ruột thịt.

*

Một chiều tôi đang ngồi gật gù đọc lại tập hồ sơ về giống chó chăn cừu Bắc Âu, bất chợt tay phó phòng(xin nói rõ là chính tay phó phòng ấy), rụt rè bước vào. Thấy tôi đang chú mục vào chân dung một con chó đốm đen tai cụp, hắn vặn vặn hai bàn tay, cố rặn ra  nụ cười nhạt hoét.

- Anh Hai, biết anh có bộ sưu tập quý hiếm về chó, em đã trao đổi với bên Tòa soạn một tờ báo, họ đã nhận còm măng một loạt bài viết về chó của anh.

Thấy tôi lột mục kỉnh ra dòm, anh ta đưa tay trái măn măn giái tai, nói tiếp:

- Vấn đề là danh dự và uy tín anh ạ, chứ tiền thì đáng là bao.

Chà, hắn nói chí phải. Tội gì mình để cả đống tư liệu, tài liệu về chó ngủ im trong hộc tủ. Vậy là viết. Viết say sưa như chưa bao giờ được viết. Với sức học lớp bảy bổ túc văn hóa ban đêm mà bài của tôi vẫn được báo đăng rầm rầm. Tên tuổi tôi nổi như cồn như sóng. Chưa hết đâu, tay phó phòng còn săn cho tôi vô vàn những miếng mồi béo bở. Y móc nối với các cơ quan đoàn thể, mời tôi đến nói chuyện về chó như một nhà tư vấn chó. Y gạ gẩm họ thù lao cho tôi theo thang bậc giáo sư cấp I. Y trung thành lùng sục khắp nơi để tôi có thể trổ hết các ngón hiểu biết về chó của tôi. Tới mức, ông hàng xóm một hôm đã nói với tôi:

- Này! Hình như lóng rày bác đã chứng minh được đức tính tuyệt  hảo của giống chó Phú Quốc rồi chứ?

- Chưa đâu- tôi đáp.

- Vậy nó là giống chó Lài à?

Vừa nhồi một mồi thuốc Tiên Lãng vào nỏ điếu, tôi vừa thủng thẳng nói với ông hàng xóm.

- Lâu nay tôi theo bác kinh doanh chó Tây, đã biết thế nào được tài khí hai loài danh khuyển Việt Nam. Mà phàm cái gì chưa biết thì chớ có mà nói ẩu. Nói ẩu dễ xúc phạm danh dự người ta lắm, dù là danh dự chó.

- Vậy thì- ông hàng xóm gải gải chỗ kín(ông ta mắc tật hay gải chỗ ấy)- bác thử xin nghỉ phép, đi một vòng điều tra thêm chuyện chó Phú Quốc, chó Lài mà viết một thiên phóng sự về hai giống chó ấy, không chừng ăn tiền đó nghe.

(ay phó phòng không biết bằng cách nào đã săn được tin tôi vừa hoàn thành thiên phóng sự. Anh ta tìm đến tận nhà riêng của tôi, chúi mũi đọc. Đọc xong khen rối rít: viết thế này mới là viết, phải thế chứ, cứ như Quan Thế Âm Bồ Tát tái thế trần gian. Không phải lối viết theo kiểu văn học chuyên hư cấu. Lại càng không phải lối viết theo kiểu báo chí chuyên moi tin. Đây là lối viết tổng hợp, đầy năng lực sáng tạo của một nhà báo, một nhà văn, một nhà khoa học, một nhà tổ chức. Em đắc ý nhất là cái đoạn bác khuyên bà con dưới quê, không nên để chó dọn vệ sinh cho con trẻ, vì lỡ nó táp nhằm cục cưng của cậu trai, thì lấy đâu ra thỏi vàng mà triển khai nòi giống. Nói thật chứ, chó ta là ẩu lắm, phẩn vừa mới lò ra nó đã lăm le chực  đớp, sơ sểnh là toi. Còn chó Tây, ăn uống no nê phè phởn, nó có thèm gì những thứ hôi thối vứt đi. Tây chứ có phải ta đâu há anh?. (Mẹ kiếp! Nó nịnh ngu còn hơn chó! Tôi viết phóng sự về hai loài chó săn Việt Nam nổi danh toàn thế giới, nó lại cứ chó Ta chó Tây mà hát đầy tai tôi! Chó thiệt! Chó thiệt!! Đúng là chó thiệt!!!).

*

Xin lỗi bạn đọc một phút nhé! Có ai gỏ cửa nhà tôi.

- Ai đó?

-Tôi đây- à, ông hàng xóm tri kỉ của tôi- báo bác hay, con phốc Ăng Lê đã chuyển bụng.

Phải dừng viết thôi, bởi chuyện này hệ trọng vô cùng.

Chết vì thịt chó

15/11/2012

                                                                                                                                              Vũ Thế Long

 Xưa nay các cụ vẫn nói:

“Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó

Chết xuống âm phủ biết có hay không?”

Khác với thịt gà thịt lợn, thịt trâu thịt bò, trứng, cá tôm, cua ốc là những thứ mà người ta vẫn ăn hàng ngày hoặc dăm bữa nửa tháng trong bữa ăn lại có bổ xung chất đạm cho nó cân bằng cùng với rau dưa chủ lực, hầu như chẳng có ai bữa nào cũng ăn thịt chó. Với người này thì thịt chó là  đệ nhất ẩm thực. Thậm chí có kẻ ăn thịt chó xong còn để mấy ngày không xỉa răng để giữ lại cái dư vị trong từng kẽ răng. Ngược lại, có người nghe thấy nói thịt chó đã sởn gai ốc. Nhiều ông Tây bà Đầm thấy con chó thui nằm nhe răng trên phản thịt ngoài chợ Việt hay trong quán nhậu mà nhắm mắt chạy cho rõ nhanh. Tôi tôn trọng sở thích cá nhân của mỗi người. Không bao giờ có thành kiến với người ăn thịt chó và cũng không coi thường những người không ăn dược thịt chó,  không vào hùa bỉ báng  những người ham ăn món đặc sản cầy tơ này. Bản thân tôi, không phải người quá ham món đặc sản ẩm thực này nhưng quả thật, những gì xảy ra trong mấy năm gần đây khiến tôi phải xét lại chính bản thân mình. Có nên ăn thịt chó nữa không? Miếng ăn mà đem lại bệnh tật, chết chóc, đem lại nỗi kinh hoàng cho mọi người xung quanh thì ta có nên tham gia vào các cuộc nhậu nhẹt kiểu như thế nữa chăng?

Tôi có ông bạn người Mỹ sang Việt Nam cùng nhau lặn lội trong rừng trong núi để tìm hiểu cuộc sống của người nguyên thủy. Ông cùng tôi thu thập những mẫu xương chó trong đống di cốt của người nguyên thủy bỏ lại trong hang động hàng chục nghìn năm, cũng tò mò muốn hiểu xem cái tục ăn thịt chó ở cái xứ sở này ra sao. Câu hỏi đầu tiên của tất cả dân Âu , Mỹ luôn là “Cái giống chó ấy có phải là chó nuôi như mọi gia súc khác để giữ nhà, là bầu bạn với con người hay không? Đã là con vật thân thiết với người, sao lại nỡ ăn nó?”. Khi được hỏi câu ấy, nhiều người đánh trống lảng, xua tay “Không phải đâu. Đây là giống chó khác, nó sống trong thiên nhiên, nó cũng như con hươu con nai mà người ta săn trong rừng vậy”. ..Thế rồi ông  bạn Mỹ của tôi cũng có lần vui cùng dân bản làm mấy miếng thịt chó,  khen ngon và cảm nhận món nhựa mận, giả cầy, dồi nướng quả là có một cái vị tuyệt vời. Thậm chí liên hoan chia tay, ông còn nhờ bà con trong bản làm một bữa tiệc cầy tơ để khoản đãi cả Bản.

Con chó đúng là bầu bạn của con người thật. Chó sống có thủy có chung và được người ta nuôi với nhiều mục đích. Nó khác con gà con lợn vì chó hiểu được chủ và rất trung thành với người. Không kể các giống chó hoang được thả rông trên rừng trên núi, con chó sống trong gia đình người Việt xưa nay vẫn được coi như một thành viên trong gia đình. Ở Nông thôn thủa xưa, con chó còn dọn vệ sinh cho trẻ con mỗi lần chúng đi ị . Chó canh cửa giữa nhà và con người vẫn chăm chút cho nó như một thành viên. Tuy nhiên, khi có dịp, người ta vẫn làm thịt chó đụng nhau cả xóm cùng chia sẻ. Thường thì khi thịt chó, người ta có quan niệm là để hóa kiếp cho chó lên làm kiếp người, đỡ khổ như con chó. Ít khi chủ chó tự tay hóa kiếp con vật thân thiết của mình nuôi mà việc hóa kiếp ấy lại mượn tay  người khác thực hiện,  khuất mắt trông coi.

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của  Nam Cao, nhà quá nghèo, vợ chết sớm, tài sản chỉ có mấy thước vườn và một con chó lão nuôi để khi thằng con trai lấy vợ thì ngả ra làm cỗ cưới . Con Lão Hạc khốn cùng phải đi làm phu đồn điền cao su, để lão lại một mình với con chó thân thiết đến nỗi như Nam Cao đã viết:

“Bây giờ thì tôi hiểu sao lão không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây. Vợ lão chết rồi. Con lão đi bằn bặt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút. Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó, hay đem nó ra ao tắm. Lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu. Lão ăn gì cũng chia cho nó cùng ăn. Những buổi tối, khi lão uống rượu, thì nó ngồi ở dưới chân, Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng, như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như với một đứa cháu bé về bố nó. Lão bảo nó thế này:

-         Cậu có nhớ bố cậu không? Hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm không có thư về. Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy... Hơn ba năm... Có đến ngót bốn năm... Không biết cuối năm nay bố cậu có về không? Nó mà về, nó cưới vợ, thì nó giết cậu. Liệu hồn cậu đấy!

Con chó vẫn hếch mõm lên nhìn, chẳng lộ một vẻ gì: lão lừ mắt nhìn trừng trừng vào mắt nó, to tiếng dọa:

- Nó giết mày đấy! Mày có biết không? Ông cho thì bỏ bố!

Con chó tưởng chủ mắng, vẫy đuôi mừng, để lấy lại lòng chủ. Lão Hạc nạt to hơn nữa:

- Mừng à? Vẫy đuôi à? Vẫy đuôi thì cũng giết! Cho cậu chết!

Thấy lão sừng sộ quá, con chó vừa vẫy đuôi, vừa chực lảng. Nhưng lão vội nắm lấy nó, ôm đầu nó, đập nhè nhẹ vào lưng nó và dấu dí:

-         À không! à không! Không giết cậu Vàng đâu nhỉ!... Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi... »

Rốt cuộc, túng quẫn quá Lão Hạc cũng phải thắt ruột mà bán đi con chó của mình cho người ta thịt

« Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...

- Khốn nạn... Ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiển, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết! Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi: nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng: "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này?". Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!

Tôi an ủi lão:

- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt? Ta giết nó chính là hóa kiếp cho nó đấy, hóa kiếp để cho nó làm kiếp khác.

Lão chua chát bảo:

-         Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!... »

Thì ra dân mình xưa nghèo khổ là thế nhưng cái tình cảm của con người với con vật nó vẫn khắng khít. Tuy thời ấy người ta có quan niệm « Ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt » nhưng cái tình cảm giữa con người với con chó thì nó vẫn sâu đậm, không man rợ như lối hành hình  con vật một cách dã man bây giờ.

Ngày nay, nông thôn và thành thị đã đổi khác. Xưa dân ăn thịt chó không nhiều. Hầu như ở Miền trung, dân trong Nam và người tu hành chẳng ai ăn thịt chó cả. Thời thế đã đổi thay. Riêng hai xã ở Hoài Đức (ngoai ô Hà Nội) , nơi cung cấp đến 70% lượng thịt chó  cho Thủ Đô và các vùng lân cận mỗi ngày cũng đã tiêu thụ đến 4-5 tấn thịt chó. Vùng Hố Nai (Biên Hòa) trong 40 khu chợ, đâu đâu cũng có bán cầy tơ bẩy món. Chó bán đầy các phản thịt ở chợ Ông Tạ Quận Tân Bình và các quán nhậu khắp nơi trong Thành phố HCM.

Dân ta nhậu thịt chó ngày càng đông và chó từ đủ mọi nguồn trong nước và cả bên Lào bên Thái được tập trung về các lò mổ mà chẳng qua kiểm dịch. Bất kể nguồn gốc chó đem về từ đâu, có mang theo mầm bệnh hay chó bị bọn trộm cướp đánh bả đều được thu về các đầu mối, lò mổ và tung ra thị trường.

Thịt chó có giá nên lũ cướp chó nghiện ngập ở nông thôn và cả thành thị  lộng hành chẳng coi ai ra gì. Chỉ mấy tháng gần đây thôi, biết bao vụ từ bắt trộm rồi ngang nhiên xông vào nhà dân cướp chó không kể ngày đêm. Thậm chí chúng còn chém giết chủ chó, bắt cóc con trẻ làm con tin. Cướp chó xảy ra làm náo động làng quê. Dân kẻ cướp bắt chó bị đuổi đã chém, bắn chết người ngay giữa ban ngày . Dân làng phẫn nộ bắt dược cướp thì đánh hội đồng cho hả giận, thậm chí đánh chết, thiêu sống cùng chiếc xe ăn cướp. Người ta còn rào làng cắt cử nhau canh gác để chống nạn cướp chó, hành hung người. Thời bình mà thôn xóm náo loạn như có giặc. Mạng người không bằng mạng chó !

Tôi cứ băn khoăn không hiểu nguyên nhân gì mà ẩm thực chó bây giờ nó tha hóa, đồi bại đến thế ?

Nhìn cả một đống chó thui nhe răng xếp ở tủ hàng  ngoài quán bia giữa thủ đô Hà Nội, tôi không thể cầm lòng nghĩ đến những cái chết thương tâm vì nạn cướp chó, giết người đã xảy ra mà chưa bị trừng trị. Những vụ ngộ độc cấp cứu hàng loạt, thậm chí tử vong vì ăn phải chó bệnh, chó đánh bả, chó nhặt về từ bãi rác...  Làm thế nào để chấn chỉnh cái tệ nạn ẩm thực chết người man rợ này bây giờ ?

Chó chết chưa hẳn đã là hết chuyện

m thực và quê hương: Thịt chó, đậu phụ, mắm tôm và gạo tám xoan

Đặng Hồng Nam

Nhiều anh có tiền mà ăn uống ngu tệ. Thịt rừng nướng lại đi chấm với nước mắm. Ăn thịt chó lại kiêng ăn mắm tôm. Vào hàng phở lại đòi chủ hàng cho xin ít xì dầu. Ăn tiết canh thì dở bia Heineken ra uống….

Đã thịt chó là phải mắm tôm. Nếu anh đã không ưa được mắm tôm thì tốt hơn hết đừng ăn thịt chó, vì như thế là phí mất thịt chó của người ta đi.

Không nói đến thì thôi, nói đến thịt chó là đã thấy thèm, nếu nội trong ngày không cho vào mồm lấy một miếng thì bứt rứt không yên. Ấy thế nhưng đến khi ăn miếng thịt chó mà không có mắm tôm thì chẳng khác nào ta đang dỏng tai lên nghe một nghệ sĩ tài ba đang mở phím so dây, hứa hẹn một bản nhạc tuyệt hay, dây đàn vừa so xong đã đứt phựt một cái. Thịt chó mà không có mắm tôm thì cũng giống như Thuý Kiều không có Kim Trọng. À không, Thuý Kiều không có Kim Trọng thì chưa nguy bằng Kim Trọng không có Thuý Kiều. Ta phải ví thế này, thịt chó mà chấm với muối chẳng hạn, thì cũng buồn như Kim Trọng lấy Thuý Vân vậy.

Mấy người đi Tây về bảo: “Tây họ không ăn thịt chó.” Tây không ăn thì kệ Tây chứ. Những người Việt Nam sống ở Đức về nhận xét rằng ở bên ấy quý nhất là phụ nữ, thứ hai là con chó, cuối cùng mới là đàn ông. Có những bà chồng chết thì không khóc nhưng con chó chết thì khóc than khóc vãn, khóc nỉ khóc non. Đối với dân ta, con chó cũng như con lợn, con gà là những vật nuôi trong nhà. Nuôi một con chó là để nó trông nhà, ăn cơm thừa, cơm hớt, khi có việc thì ngả ra làm thịt, hoá cho nó sang kiếp khác.

Mấy bà đi chùa bảo: “Không nên ăn thịt chó.” Vì lý do sát sinh thì không phải. Chả nhẽ sát chó thì tội nặng hơn sát lợn, gà, trâu, bò chắc? Có lẽ người ta e rằng ăn thịt chó khó giữ giới hơn. Thế thì chưa phải là chân tu. Kẻ không chân tu dầu là ăn chay cũng vẫn phạm giới như thường.

Dẫu sao thì cũng phải công nhận rằng thịt chó là thứ hấp dẫn nhất trên đời.

                             Sống trên đời ăn miếng dồi chó

                             Chết đi rồi biết có nữa hay không.

Đem một miếng ăn mà đánh bằng với chuyện sống chết, liệu còn có thứ gì hơn thế không? Gì chứ nhìn thấy những miếng thịt chó luộc tươi roi rói xum xuê trên đĩa, bên cạnh là bát mắm tôm vắt chanh đánh sủi bọt thì đến Thượng toạ cũng phải cầm lấy đũa, vươn tay ra mà gắp. Tây họ không biết ăn thịt chó chắc vì thịt chó Tây không thể ăn được. Con chó Tây to xác cũng thế mà con chó Nhật bé con con cũng thế, thịt chúng đều nhẽo và gây. Các ông Tây, bà đầm cho ăn thịt chó mấy bữa có khi lại nghiền, xin ở lại Việt Nam, không muốn về Tây nữa cũng nên.

Người ta bảo: “Gà lọt dậu, chó sáu bát.” Những anh chị chó đang tuổi hoa niên, lúc ấy đem mà làm thịt mới ngon. Con chó thui rơm, da nó vàng ươm, lớp bì mỏng tang, cái đuôi ngắn một mẩu, nhọn hoắt, dựng thẳng đơ, thật là ăn miếng nào biết miếng ấy. Khi thui chó người ta phải kén rơm sạch, rơm mới đã đành rồi, người ta còn nhét vào trong bụng nó một nắm lá ổi nữa cho thơm. Miếng nạc cắt ra ở đùi ngon một kiểu, miếng thịt cắt ra ở lưng có nhiều bì ngon một kiểu, miếng đuôi ngon một kiểu, miếng nầm, tức là phần có nhiều sụn ở ức nó lại ngon một kiểu. Bốn cái chân cho vào nồi nước xáo. Trước khi ăn bún với nước xáo mà được một cái chân ấy mà gặm thì thật đã đời.

Không biết con chó có quan hệ gì với cây đậu xanh mà ngày xưa hễ có ai  bị chó dại cắn thì người ta dùng hạt đậu xanh để thử. Người bị chó cắn cho ăn mấy hạt đậu xanh, nếu thấy tanh thì chưa sao, nếu lại thấy ngon thì chắc chắn là đã bị nhiễm dại rồi. Nhìn bằng con mắt khoa học thì chuyện đó hơi buồn cười. Nhưng mà dồi chó thì nhất định phải làm bằng đậu xanh. Đậu xanh rang lên, xiết vỡ, thêm ít búp ổi, lá mơ lông, trộn với tiết. Dồi luộc xong, hơ qua lửa cho se lại, cho thêm ngậy, thêm thơm. Miếng dồi cắt ra đẹp như một miếng bánh. Những hạt đậu xanh nổi hoa mịn màng, ăn bùi nghìn nghịt, thật là danh bất hư truyền. Dồi chó mà làm với lạc thì ăn chẳng ra cái khỉ khô gì cả.

Đã nói đến thịt chó là phải nói đến riềng, mẻ, mắm tôm. Đó là công thức bất di bât dịch. Khi mắng yêu một con chó, thường người ta nói: “Cho mày ăn mẻ, mắm tôm nhé!” Hoặc: “Đeo một củ riềng vào cổ nó kia.” Có người đã phân tích câu ca dao:

                   Con gà cục tác lá chanh

                   Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi

                   Con chó khóc đứng khóc ngồi

                   Bà ơi bà hỡi mua tôi đồng riềng.

Con gà cục ta cục tác, thế nghĩa là cần, nhưng không có cũng còn có thể chịu được. Đến con lợn ủn ỉn thì có vẻ tha thiết với hành hơn. Thịt không hành, canh không mắm. Nhưng đến con chó khóc đứng khóc ngồi, cái miếng riềng lại thành ra vấn đề của chàng Hamlet, to be or not to be.

Khởi đầu bữa thịt chó là miếng luộc. Bát mắm tôm chanh, thả vào đấy vài nhát ớt tươi, cho vào đấy lưng chén rượu trắng, chỉ cua hai vòng đũa là bát mắm tôm nổi bùng lên, dậy thơm ngào ngạt. Một đĩa húng chó, có thêm mấy cọng ngổ, mấy nhát riềng tươi, một cái bánh đa vừng. Chấm miếng thịt luộc vào bát mắm tôm, nhắp rượu một cái, nhâm nhi với miếng riềng, cọng húng, miếng bánh đa. Miếng riềng đẩy âm hưởng lên cao trào, lá húng giữ lại ở thế quân bình, bánh đa tạo nên sự lan xa. Ta bỗng thấy cuộc đời sao mà sung sướng thế, mọi chuyện ưu phiền bỗng chốc tiêu tan, những chuyện ta vốn tưởng to như cái đình bỗng trở nên bé mọn làm sao. Ấy thế cho nên người ta cứ tin rằng mỗi khi gặp chuyện xui xẻo thì ăn một bữa thịt chó để giải đen. Một miếng ăn, không biết có thay đổi được vận hạn trong đời của một con người không, nhưng chắc rằng nó có thể giúp người ta tăng thêm sinh khí để tiếp tục sống ở giữa cuộc đời này, phấn đấu cho tròn ý nghĩa của một con người.

Ăn thịt chó phải uống rượu trắng. Anh uống bia đã là không hay, uống rượu thuốc hay rượu nếp cẩm, nếp cái đều chẳng ra làm sao. Nếu anh sính rượu ngoại thì nên dùng Vodka. Xách một chai Cognac hay Whisky vào hàng thịt chó thì dở hơi hết chỗ nói.

Nhưng có một thứ rất hợp với bia, ấy là món chả chó. Chả chó là thứ dậy mùi nhất trong tất cả các thứ chả. Nếu nhỡ có bắt gặp mùi chả chó bay ra từ một cái chậu than hồng nào đó thì người ta không thể nào mà bước qua cho đặng. Chả chó trước khi nướng đã được ướp riềng, mẻ mắm tôm; quạt chín, bày ra đĩa người ta còn rắc lên đấy một ít sợi riềng khô. Bia hơi và chả chó hợp nhau lạ lùng. Chắc trên thế giới chẳng có thứ nào hợp với bia hơn là chả chó.Muốn ăn món nhựa mận phải làm thịt chó ở nhà và tự nấu lấy. Ăn ở hàng rất ít khi được ưng ý, vì món này nấu rất hao thịt và mất nhiều công. Phải đun liu riu đều lửa cho đến khi bắc ra, các miếng thịt đều sậm màu như màu mận chín, nước sánh lành lạnh. Món này kèm với bánh đa mà nhắm rượu hay ăn bún đều khoái. Thường người ta phải nấu bằng nồi gang, hay hơn cả là đun bằng nồi chã, úp vung vùi tro nóng, đốt rạ ở bên trên.

Người ta bảo nhựa mận phải nấu hai lửa mới ngon. Thực ra không hẳn như vậy. Khi thèm thịt chó mà ăn nhựa mận không thôi thì không thoả. Dứt khoát là phải miếng thịt luộc. Ăn luộc, ăn nầm, ăn dồi, ăn hầm rồi kết thúc bằng một bát bún chan nước sáo, một chu trình như thế là vừa đẹp, đủ cho người ta sướng âm sướng ỉ suốt một ngày, đĩa nhựa mận chen ngang vào hơi có phần vô duyên. Nhưng sang đến ngày hôm sau, cái dư âm của thịt chó vẫn còn lai láng, ta tiếp nối nó bằng nồi nhựa mận đã có sẵn, đấy là khúc vĩ thanh tuyệt hay. Các nhà hàng không chú tâm lắm đến món nhựa mận cũng vì một phần như thế.

Không biết làm sao trên thế giới hầu như ở đâu cũng ăn cá tôm và các loại thuỷ sản, thế mà dường như chỉ có dân ta là biết ăn và làm nước mắm. Người ta bảo rằng khoảng thế kỷ thứ hai, thứ ba ở vùng biển thuộc đế quốc La Mã cũng  từng có một sản phẩm tương tự như nước mắm. Đối với dân ta, cơm-rau-mắm là ba yếu tố sơ khởi để hình thành một bữa ăn. Ăn cơm với mắm mà ngắm về sau. Cơm không rau đánh nhau không chửi. Ba thứ đó đủ làm thành một bữa ăn thanh đạm.Thịt, cá nhiều, sự chế biết cầu kỳ đều xoay quanh ba cái trục ấy. Cái bánh chưng ngon bắt đầu từ hạt gạo. Giò lụa ngon phải có nước mắm ngon quyện vào với thịt khi giã; khi ăn phải chấm với nước mắm ngon. Làm chả bánh đa dầu ngon đến mấy rồi mà khi ăn không có rau sống, rau thơm, không pha được bát nước chấm ngon thì ăn chẳng khác nào ăn rơm. Một nồi cơm gạo tám xoan và một bát nước mắm ngon nhiều khi còn hơn cả những cỗ bàn sang trọng.

Ngày xưa, nói đến gạo tám là quí lắm.

                             Tiếc thay hạt gạo tám xoan.

Chỉ đến ngày giỗ, ngày Tết mới được ăn gạo tám. Ngày giỗ, gia đình đông người chỉ dám thổi một nồi cơm gạo tám để cúng, thừa lộc bát cơm cúng trước tiên dành cho người cao tuổi. Bây giờ lúa năng suất cao, người ta ăn gạo tám suốt quanh năm cũng được. Cái gạo tám bây giờ đã nhạt, đã mất hương đã đành, lại thổi nồi cơm điện, gạo tám thành ra cá mè một lứa với bao thứ gạo khác lúc nào cũng đầy ắp trong các cửa hàng.

Giống lúa tám có nhiều thứ: Tám dâu, tám xoan, tám nghển, tám ấp bẹ, tám dựa bờ,… Nói chung cứ gạo tám là người ta gọi là tám xoan. Hình như chữ xoan và chữ xuân có nghĩa gần nhau. Có nhà nghiên cứu bảo hát xoan, hát ghẹo ở Phú Thọ, chữ xoan là chữ xuân mà ra.

Mùa xuân cũng là mùa của hoa xoan .

                   Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

                   Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy…

Lâu lắm rồi tôi không còn được bước chân trên những con đường làng ngập cánh hoa xoan, không khí đặc quánh mùi hoa xoan. Có lẽ chữ xoan luôn gợi nên cảm giác tươi trẻ và hấp dẫn, nó cụ thể và hữu hình hơn chữ xuân thiên  về khái niệm chỉ thời tiết. Khuôn mặt trái xoan là khuôn mặt đẹp. Tuổi xoan là tuổi đầy sức sống. “Trai ba mươi tuổi đang xoan”. Gạo tám xoan. Đã là gạo tám là phải xoan.

Chữ xoan còn gần với chữ xanh. Trồng lúa tám người ta phải thu hoạch  lúc chín non. Trồng lúa tám người ta phải trồng vào chân ruộng trung, có độ nước thế nào đó, độ pH thế nào đó, nghĩa là mỗi vùng chỉ có một số mảnh cấy được lúa tám thôi. Lúa tám chỉ trồng được vào vụ mùa, ở vụ này nắng ít, cây lúa lớn từ từ, trỗ hạt đâm bông cũng từ từ, hạt không nhiều không to, nhưng mà thơm, mà dẻo. Lúa nếp cũng phải trồng vào vụ này mới ngon. Gạo nếp chiêm ăn vô duyên thượng hạng. Ngày xưa chưa thuỷ lợi hoá nhiều vùng chỉ cấy được một vụ lúa chiêm. Bụt Nam Xang chê oản chiêm có nghĩa là như thế. Nam Xang nay thuộc huyện Lý Nhân, xưa cũng là vùng đồng chiêm trũng. Cứ độ tháng Bảy, tháng Tám năm nào nước cũng ngập trắng đồng. Dân không trồng được lúa mùa thì đến Bụt cũng phải chịu khó mà xơi nếp chiêm vậy. Cứ bảo sao gạo nếp trong Nam không quí; vì nó không có cái rét, cái ẩm của thời tiết ngoài này.

Nói đến gạo tám phải kể đến gạo tám Xuân Đài. Xuân Đài là một xã nhỏ của huyện Xuân Trường. Không biết thổ nhưỡng như thế nào mà chỉ duy có xã ấy trồng được lúa tám ấp bẹ. Cây lúa cao ngang đầu người, đến khi thu hoạch bông lúa hãy còn nằm ấp trong bẹ, phơi khô hạt lúa đỏ sậm lại, mỗi hạt đều có hai sợi dâu dài nghêu. Cũng những hạt lúa ấy đem trồng sang thửa rộng gần đấy của mấy xã bên , cây lúa ngắn lại, hạt lúa không đỏ bằng và cơm ăn cũng kém ngon đi. Ai đã từng được ăn gạo tám Xuân Đài một lần thì thật là nhớ đời. Nấu một nồi cơm gạo tám mà nức mũi cả xóm. Hạt cơm, hạt nào hạt nấy tròn mọng như  con ong non, vừa đưa vào miệng nó đã dậy lên một mùi cốm mới. Đến cốm Vòng cũng không thơm ngon được như thế. Cơm gạo ngon như thế thì thức ăn nhiều làm gì cho phí hạt cơm đi. Cho đến cơm nguội để từ sáng đến tối ăn cứ vẫn sướng mê đi, thật là mỗi hạt cơm mỗi quí.

Gạo tám Xuân Đài phải ăn với nước mắm Sa Châu. Thôn Sa Châu nay thuộc xã Giao Châu huyện Giao Thuỷ. Nước mắm Sa Châu vốn nổi tiếng và được bán ở khắp các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Thái Bình. Giờ đây người ta vẫn còn truyền tụng nhau về hũ nước mắm “tiến cha”, hũ nước mắm chắt được chôn ủ trong lòng đất hàng hai mươi năm, nó sánh như mật ong, trong như hổ phách, lấy đầu đũa chấm một giọt vào đầu lưỡi đã thấy ngọt từ trong cổ họng, râm ran khắp người. Ngày xưa những người đi biển, những người thợ lặn trước khi nhảy xuống nước, phải làm mấy ngụm nước mắm. Có mấy ngụm nước mắm vào người là có thể coi cái rét không ra gì, ngoi lên ngụp xuống cả ngày không biết mệt. Nước mắm phải thật ngon thì mới như vậy được chứ nước mắm vớ vẩn uống vào có mà muối ruột.

Thói quen ăn nước mắm ngấm vào máu của dân ta truyền đời bao thế hệ. Dù mắm ngon, mắm không ngon, xào nấu cái gì, không có mùi mắm, màu mắm là không chịu được. Thịt không hành, canh không mắm. Các cụ đã bảo thế rồi.

Người ta cho rằng quí nhất là mắm rươi. Mắm rươi quí vì nó không có nhiều, chỉ dành cho những người biết ăn, nó quả là thứ mắm tao nhã và sang trọng bậc nhất. Nhưng mắm rươi dẫu có nhiều cũng không thể ăn được nhiều, mỗi năm cũng chỉ nên ăn một hai lần và tùy từng lúc. Cũng như con rươi, ai đó một năm mà không được một miếng rươi vào mồm thì coi như là một sự thất thiệt lớn, nhưng vào mùa rươi mà ăn đến bữa thứ ba là hơi nhiều.

Mắm tôm mới là thứ gia dụng hơn cả. Trong bếp mỗi gia đình thường xuyên phải có tối thiểu: thùng đựng gạo, hũ muối, chai nước mắm, liễn mỡ hoặc chai dầu ăn, lọ mắm tôm và lọ mẻ.

Mẻ là thứ gia vị không có thứ gì thay thế được đã đành, việc nuôi giữ nó trong gia đình được coi như một niềm hi vọng. Người ta tin rằng hễ mẻ chết là thế nào gia đình cũng có chuyện không hay. Nhớ một lần tôi đưa mẹ tôi đi chơi Sài Gòn, nhà phải gửi hàng xóm. Vào đến Sài Gòn bà mới chợt nhớ đến lọ mẻ, lúc ấy chưa có điện thoại, bà liền viết thư ra chỉ để dặn cô em gái tôi thỉnh thoảng đến chăm sóc lọ mẻ. Tôi biết một ông già năm nay ngoài bảy mươi tuổi, hai đời vợ được bốn đứa con, ông bảo tổng cộng bốn đứa con khi sinh ra ông không bế chúng được hai tiếng đồng hồ, thế mà không có ngày nào ông không mở lọ mẻ ra xem một hai lần, ông chỉ cho mẻ ăn cơm mới nấu, cơm gạo ngon, chứ không phải bằng cơm nguội, tự tay ông cho mẻ ăn chứ không cho bất kỳ ai tham gia vào cái công việc ấy, thế thì bảo rằng ông chăm sóc lọ mẻ còn hơn chăm con mình cũng không ngoa.

Lắm lúc tôi cứ nghĩ, cuộc đời mà không có mắm tôm chắc là buồn đi biết bao. Gọi là một nồi canh suông rau muống hoặc rau đay, chí ít anh cũng phải cho một thìa mắm tôm vào hoà với nước, đun sôi lên rồi cho rau vào. Anh thử cho nước mắm và mì chính không xem sao, ăn chẳng ra cái gì cả. Anh thích sạch lòng nhẹ dạ, buổi sáng anh làm mấy lá bún hay mấy miếng bánh đúc, anh thấy té ra sống ở trên đời người ta cũng không cần nhiều lắm. Các nhà dinh dưỡng bảo rằng nếu mỗi tuần ăn hai bữa đậu phụ trở lên người ta có thể loại trừ được nhiều thứ bệnh. Vậy nếu anh là người được mời mọc nhiều, trong một tuần anh cũng nên cố gắng khước từ lấy vài bữa để về nhà ăn cơm với vợ con và để uống rượu với đậu phụ chấm mắm tôm.

Đậu phụ và mắm tôm cũng là hai hợp nhau đến lạ lùng.

Ngày xưa có đôi bạn thân tên là Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình cậy mình giỏi giang nên ham vui, chểnh mảng học hành. Dương Lễ chú tâm vào đèn sách, lấy cần cù bù khả năng. Qua kỳ thi, Dương Lễ đỗ cao, một bước lên quan, Lưu Bình thì vẫn nguyên phận hàn nho. Lưu Bình tìm đến thăm người bạn thân cũ. Giàu đổi bạn, sang đổi vợ; Dương Lễ lánh mặt, chỉ cho một tên hầu ra tiếp. Tên hầu trông thấy dáng vẻ tiều tuỵ của Lưu Bình thì tỏ khinh ra mặt và nói:

          - Ông nói ông là bạn học của quan tôi thì ông có biết đối không? Ông đối được câu này thì tôi cho ông vào gặp quan tôi, nếu không đối được thì mời ông đi.

          Cực chẳng đã, Lưu Bình đành phải nhận đối với tên lính hầu của bạn. Tên lính hầu ra:

•Nướng đậu phụ cho cha ăn.

Lưu Bình coi là chuyện vặt liền đối luôn:

•Sắc ích mẫu cho mẹ uống.

Cứ tưởng như thế thì tên hầu phải chịu cứng, nào ngờ hắn cười ầm lên chê anh ta là dốt. Theo tên hầu, vế đối hoàn chỉnh phải là:

•Mua mắm tôm cho mẹ chấm.

Ở đời nhiều khi dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng. Trong câu chuyện này tên hầu có cái lý của hắn. Đã nói đến đậu phụ thì phải nói đến mắm tôm cũng như nói đến cha thì phải nói đến mẹ chứ đậu phụ và ích mẫu thì có ăn nhập gì với nhau. Lưu Bình chào thua và quyết tâm học hành thành đạt để rửa hận

Sao mà nhiều thứ duyên nợ với mắm tôm đến thế. Thịt chó, đậu phụ đã đành rồi, lòng lợn, thịt luộc cũng yêu mắm tôm nốt. Không biết từ bao giờ người ta có câu: Trai tơ lấy phải nạ dòng, như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu. Trong thực tế không phải cứ trai tơ lấy nạ dòng là dở, nhiều khi còn hay nữa là đằng khác. Lòng lợn là miếng ruột non, miếng cổ hũ, miếng tràng, miếng dồi… Làm một đĩa lòng ăn chơi, có mấy lá húng, anh chấm nước mắm cũng được, chấm mắm tôm thì đậm đà hơn. Nhưng nếu đi vào bữa, ăn bát tiết canh xong, ăn lòng mà chấm với nước mắm thì tức hanh hách, anh phải chấm mắm tôm để nâng cung bậc của bữa ăn lên để sau đó kết thúc một cách có hậu bằng bát cháo nóng. Thịt luộc chấm mắm tôm được, chấm nước mắm cũng được nhưng không hay bằng chấm mắm tép.

Rau muống xào mà không có ít mắm tôm với mấy nhánh tỏi ăn chẳng ra làm sao. Rau cần xào cũng thế.

Nấu riêu cua dứt khoát phải có mẻ, mắm tôm. Nấu riêu cá, dù đã có dưa chua, cà chua, quả dọc, quả me vẫn cứ phải cho thêm vị chua của mẻ, vị gắt của mắm tôm.

Đã mắm tôm là phải gắt. Nó là âm thanh chát chúa của tự nhiên. Giống như tiếng chầu gõ vào tang trống gỗ, tiếng phách cật tre già trong giàn hát cô đầu, tiếng ngâm, tiếng hãm, ừ….ư…..ứ….hự….

                   Giang sơn một gánh giữa đồng

                   Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng.

Đã là mắm tôm phải có màu …..mắm tôm. Cái màu ấy vẫn được dùng để chỉ xe cộ, quần áo….Mắm moi, khách đi nghỉ ở Sầm Sơn hay được chào mời mua mắm moi, một loại tép biển. Mắm moi có màu hồng, ăn bún được, ăn thịt luộc được nhưng ăn thịt chó chắc là không được. Vùng Nghệ An - Quản Bình thường có mắm ruốc, có màu sậm hơn và tơi vụn hơn. Nhớ một lần uống rượu ở  nhà Phùng Quán, ông lấy ra một bát mắm Huế để chấm cà. Ông bảo ông vẫn phải nhờ người gửi mắm Huế ra. Mắm có màu đen ghé nâu, chấm cà muối được nhưng không chắc ăn thịt chó có được không.

Riềng - mẻ - mắm tôm, bộ ba luôn cặp kè bên nhau này là một điển hình của tư duy ăn uống người Việt. Gia vị chỉ góp phần giữ lại và tôn vinh những mùi vị tự nhiên của từng loại thực phẩm chứ không áp chế nó, quân bình hoá nó.

Riềng - mẻ - mắm tôm khẳng định vị trí của mình trong món nhựa mận, chả chó, nó lại phát huy thắng lợi sang món chân giò nấu giả cầy, lươn - cá om mẻ- nghệ….. Lươn, ốc, ba ba nấu chuối xanh cũng dứt khoát phải có mẻ mắm tôm. Chả cá Lã Vọng dù làm bằng cá chiên, cá lăng thực thụ nếu không có riềng - mẻ - mắm tôm chắc chắn không thể thành được đặc sản bậc nhất của Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Hình như Vũ Bằng có kể rằng khi ướp chả cá người ta còn ướp với mật chó. Điều này có lý, vì nồi nhựa mận thể nào cũng phải có mật chó. Mua thịt chó sống ngoài chợ về nấu kiểu gì cũng vẫn thấy thiêu thiếu một cái gì đó, ấy là vì không có mật.

Xung quanh con chó vẫn còn lắm chuyện. Ăn thịt chó phải có húng, mà cái húng ấy phải là húng chó. Có hai loại húng, một loại mọc bò lan dưới đất gọi là húng dũi và một loại mọc thành cây, ra cành, ra lá, ra hoa, gọi là húng chó. Đến đây cả các bà nội trợ, các bà bán hàng la ghim cũng không thống nhất trong việc phân biệt đâu là húng quế. Người thì bảo húng quế là thứ bò lan dưới đất, lá nó nhỏ, cuộng nó tía, có mùi thơm nức như miếng quế. Người thì bảo ấy là cây húng mọc cao, trồng lâu vỏ cây sần sùi ra như là vỏ cây đại thụ ở trên rừng đại ngàn . Khi ăn thịt chó phải ăn húng chó đã đành rồi, ăn lòng lợn tiết canh người ta cũng ăn với thứ húng ấy nhưng trong khi ăn người ta không gọi là húng chó mà lại gọi là húng dổi. Ăn  rau sống, ăn chả bánh đa, ăn phở…. thì ăn húng dũi. Húng dũi, ngọn húng phải cùn quằn bò sát đất thì mới ngon chứ lại tốt bời  bời thì hoặc là có vị bạc hà hoặc là chẳng có vị gì cả. Húng dũi ngon được trồng nhiều ở Láng nên người ta vẫn quen gọi là húng Láng. Cách đây năm bảy năm đi trên đường Láng còn trông thấy mấy mảnh đất to hơn cái chiếu trồng húng, bây giờ nhà cửa lấp hết, chẳng biết húng Láng còn đất mà sống hay không.

N ói thì nói thế thôi chứ dẫu sao thịt chó vẫn là âm thanh náo nức của cuộc đời, nó biểu hiện sự xô bồ, tung hoành và tháo cởi. Dù rằng biết rõ lúc sinh thời các cụ cũng rất thích thịt chó nhưng đố ai dám đưa đĩa thít chó lên bàn thờ cúng ông bà ông vải nhà mình. Mâm cơm cúng gia tiên nhất thiết phải có gà. Gà và xôi, sau đó mới tính đến các món xào, nấu, giò, nem, ninh mọc. Xôi nếp và thịt gà là biểu hiện những thứ quý giá nhất  trong những sản phẩm của người nông dân. Trong mâm cỗ, đĩa thịt gà luộc luôn ngời lên vẻ thơm thảo và trang nhã. Chính vì thế mà ăn thịt gà người ta không bao giờ chấm nước mắm mà chỉ chấm muối. Đĩa muối trắng hoặc muối tiêu, rắc vào đấy mấy sợi lá chanh thái chỉ. Ăn thịt gà thích nhất là ăn với xôi đỗ xanh, mà xôi đỗ xanh cũng hợp nhất là ăn với thịt gà. Màu vàng của mỡ gà, da gà hoà với màu vàng của đỗ, cái thơm của thịt gà quyện với cái thơm của hạt xôi thành ra khoái khẩu. Ăn hai thứ ấy mà lại ăn bốc nữa thì sự thích thú lại tăng lên một bậc. Cỗ lòng gà không gì hợp hơn là đem nấu miến cùng với nước luộc gà. Uống rượu với thịt gà xong làm một bát miến nấu cùng với nứơc luộc ta thấy sự mát dạ và ấm lòng tăng lên rất nhiều. Tâm thành cúng giỗ tổ tiên và sự thừa lộc hoan hỉ của con cháu cũng chỉ cần đến thế là đủ. Mùi xôi đỗ, mùi miến nấu và mùi khói hương trầm hoà quyện với nhau thành mùi vị rất đặc trưng trong ngày cúng giỗ. Là người Việt Nam, dù đi xa mãi đâu, đến chết thì thôi chứ không thể nào quên được mùi vị như thế.

Cũng trong ngày cúng giỗ, thứ không thể thiết được là chuối. Thứ chuối ngon nhất, thơm nhất là chuối tiêu, đặc biệt là cuối thu trở đi chuối mới có màu vàng trứng cuốc. Mùi chuối tiêu cũng hợp với mùi xôi đỗ và khói hương đến kì lạ. Quả chuối tiêu bóc ra vàng ươm, ăn một miếng cứ thấy thơm ngát ở trong miệng, sự thơm tho ấy dường như không thể có gì sánh được. Chuối là thứ dễ trồng cho nên sẵn, cũng vì thế nên lâu nay người ta coi rẻ nó và hướng tới những thứ đắt tiền và có nguồn gốc xa lạ mà quên rằng chuối bao giờ cũng là một bà hoàng của các loại hoa quả.

Con gà ri ngày xưa chỉ to bằng vốc tay, thịt nó thơm phưng phức, ăn một miếng là nhớ suốt cả năm. Con lợn ỉ cũng thế, da nó đen chùi chũi, nuôi suốt một năm khéo lắm mới chỉ được hơn ba chục cân, đến cái miếng tóp mỡ của nó cũng ngon. Được cái miếng tóp mỡ ấy mà kẹp với bánh đa, uống rượu thì phải biết. Những giống như thế giờ đây gần như mất hẳn, chẳng biết người ta có còn giữ được trong các bảo tàng giống gia súc, gia cầm nữa hay không.

Đồng quê mình kể cũng lạ. Trời không nóng lắm mà cứ bức chảy mỡ ra, trời không rét lắm mà cứ buốt thấu tận xương tuỷ, đương giữa mùa đông mà nhiều khi phải bật quạt, đã sang mùa hè mà còn có thể mặc áo bông, cây cối quanh năm xanh tốt mà thường thứ gì cũng chỉ bé tẻo bé teo. Từ quả ớt, quả chanh, củ hành, củ tỏi, quả na, quả táo cho đến con gà, con vịt, con ngan, con cua, con ốc, con hến đều thế hết. Hoá ra là những thứ cây thứ con ở ta lớn lên cũng nhọc nhằn như cuộc sống của những người nông dân mình vậy, cho nên hương vị quê hương của chúng càng nặng đầy và không đơn chiều.

Yêu những thức ăn của quê hương cũng là yêu đất trời của quê hương ta vậy

CHUỘT ĐẠI GIA

 Tuổi thơ tui từng lang thang khắp vùng Đồng Tháp Mười. Mùa nước nổi, chống xuồng đi vớt cá linh lặt  bông điên điển nấu canh chua chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ. Bắt chuột đồng, rắn hổ mang, hổ đất từng cần xé mang dìa... cũng là chuyện chưa có lớn. 

Chuyện mà tui muốn kể ở đây tuy chẳng lớn nhưng cũng không nhỏ vì không chỉ liên quan tới loài chuột mà còn là loại thuộc về “quý tộc chuột”, đại gia chuột, hay còn có thể gọi là “vua chuột”.

Có một loài chuột chuyên sống trên ... trời. Chúng béo ục ịch và to tướng như những con chuột cống ở thành phố nhưng lại cực kỳ sạch sẻ và óng ả như những đại gia quý tộc. Lông của chúng đen tuyền, mượt mà như nhung, chúng di chuyển nhẹ nhàng êm ái với những con đường dành riêng trên cao chót vót.

Bọn này từ khi sinh ra cho tới lúc tàn đời có lẽ chưa bao giờ nhìn thấy thảm cảnh của đồng loại ở trong khu... ổ chuột thuộc các thành phố, đô thị chen chút nhau mưu sinh vất vả, khổ nhọc và mang trên mình biết bao là vi rút, vi trùng truyền nhiễm... Chúng sung sướng quen thân ăn trên ngồi tróc..

Tuy vậy, chúng cũng phải kiếm ăn. Cái vụ này thì chúng rất giống đồng loại. Tuy nhiên, chúng chỉ ăn và uống có một thứ lúc nào cũng sẵn có xung quanh đế chế của chúng: đó là trái dừa. Vì vậy, chúng còn được gọi là chuột dừa.

ừng dừa bạt ngàn của Bến Tre chính là vương quốc mênh mông hầu như vô tận của loài chuột đại gia này.

Chúng ăn tàn phá hại vô kể. Đôi khi chỉ cần một chút nước dừa để giải khát thôi chúng có thể đục khoét tan nát nhiều trái dừa. Mỗi buổi sáng đi dạo trong rừng dừa, tui ghét nhất là nhìn thấy hàng loạt trái dừa đang vào tuổi cứng cạy (sắp thành dừa khô nhưng chưa khô hẳn, cơm dừa còn dẻo như cơm nếp và nước dừa còn ngọt như mía lùi) rơi rụng khắp nơi với những cái lổ nhỏ trên thân tròn vo lớn hơn đồng xu một chút.

Bà con quê tui đều là dân trồng dừa đương nhiên là ghét nhất cái lũ chuột này. Do vậy có chủ trương khuyến khích và động viên hết mực những ai xung phong đi bắt lũ chuột dừa, nhất là những đứa trẻ còn hăng tiết vịt như tui.

Hồi đó tui có rất nhiều cái bẫy chuột dừa được làm bằng ống tre lồ ồ to tướng, đường kính cũng ít nhất là hơn một tấc rưỡi, chiều dài gần bằng cái đốt lóng tre, khoảng chừng ba bốn tấc tây. Một đầu đốt tre được để nguyên, đầu kia cắt ra làm cửa để chuột chui vào, cái sập cửa được làm như một cái cánh cung nối với miếng mồi gắn trong ống tre. Khi chuột dừa chui vào gặm  mồi, cửa sẽ sập lại đóng kín đốt tre khiến chuột bị nhốt bên trong.

Vì chuột dừa chỉ sống trên ngọn cây dừa, không bao giờ xuống đất và hầu như chỉ đục khoét dừa vào ban đêm nên bọn bẫy chuột dừa như tui ai cũng cũng có một cây sào tre dài ngoằn xâu lấy hàng chùm lống tre bẫy chuột gánh trên vai bắt đầu đặt bẫy từ chiều tối.

Bọn tui dùng cây sào đưa bẫy đã cài sẵn miếng mồi và giương sẵn cánh cung như cánh cửa mở rộng mời chào lũ chuột lên tận ngọn các cây dừa. Đặc biệt chú ý cây dừa nào mà trước đó có nhiều trái dừa bị lũ chuột dục khóe rơi rụng đầy vườn.

Mồi bẫy chuột đơn giản cũng chính là một miếng cơm dừa khô nhưng được nướng lên thơm lừng, ngon ơi là ngon. Mỗi lần nướng dừa như vậy tui cũng thấy thèm huống chi là lũ chuột.

Sau môt đêm, trời vừa sáng là lũ chúng tui đi tháo bẫy. Hôm nào trúng mánh thì mười chiếc bẫy sập được từ bảy tới tám con. Hôm nào xui xẻo thì cũng được an ủi dăm ba con. Đáng khích lệ là lũ chuột dừa con nào con nấy đều mập ú, lông mướt rượt mới nhìn đã phát thèm.

Lũ chuột bị sập bẫy sau đó sẽ được chế biến thành nhiều món ăn dân dã ngon ơi là ngon, bây giờ nghĩ tới mà tui vẫn còn thấy thèm chảy nước miếng.

Đơn giản và nhanh nhất là món thui rơm, tất nhiên sau khi đã làm lòng làm lông cẩn thận. Cầu kỳ hơn là món chuột xào lăn với lá cách, cho thêm chút nước cốt dừa béo ngậy.

Tuy nhiên tui vẫn thích nhất là món chuột khìa với chính nước trái dừa xiêm. Chuột làm lông bỏ lòng cẩn thận, tẩm ướp xong cho vào chảo mở chiên giòn lên, xong đổ nước trái dừa xiêm vô rồi để lửa nhỏ áp chảo cho tới khi khô nước, thịt chuột vàng rực thơm lừng là xơi được rồi. Lúc đó mà có thêm mấy chai xị đế, với vài thằng bạn tâm giao nữa thì thật là cuộc đời quá hoàn hảo.

Món chuột khìa nước dừa xiêm này ngẫm ra thấy số phận những con chuột đại gia này giống như một vòng tròn khép kín theo luật nhân quả. Sống bằng cơm dừa, nước dừa trú ẩn trên ngọn cây dừa, khi lên dĩa cũng được tẩm ướp bằng nước dừa… Sống nhờ cây dừa khi thành món ăn đặc sản cũng phải có sự tham gia của cây dừa.

Giờ đây xa quê đã quá nhiều năm, không biết bọn vua chuột còn hoành hành như xưa nữa không? Đôi khi muốn quay trở dìa để được đi bẫy chuột dừa như thuở thiếu thời.

Song bác Tư tui vừa nghe thấy ý định đó liền can ngăn khẩn cấp: “Thôi đi mầy, bọn chuột bi giờ khôn ranh hơn thời mầy còn nhỏ lắm rồi... Cái lũ chuột thành tinh rồi, mày về chẳng bẫy được con nào, có khi còn bị tụi nó hùa nhau cắn chạy không kịp đội nón đó nghen!”.

Nghe vậy tui sợ quá, thôi đành chỉ ôn lại chuyện bắt bọn vua chuột vào cái thời xa xửa, xa xưa, xa lắc xa lơ thôi cho đã cái thèm.

Tình hờ

Chiến mò mẫm sửa chữa chiếc Min-xcơ bùn đất đỏ quạch, ra sức đạp máy mấy chục lần toát mồ hôi chiếc xe vẫn ỳ ra như trêu gan. Anh bực mình lau đôi tay đầy dầu mỡ, bỏ vào quán bà Tám ngồi nghỉ. Đang xắt chuối cây cho vịt ăn, bà Tám quay sang hỏi:

- Từ sáng giờ mày chở khách khá không?

Chiến thở dài nhìn mặt trời đang xuống thấp, nghiêng ngó qua căn nhà lợp lá bên kia đường:

- Chán quá bà Tám ơi! Bữa nay đen quá, được có bảy tám ngàn đồng, muốn bỏ nghề xe ôm phứt. Nhưng biết làm gì bây giờ?

Thấp thoáng bóng chiếc áo hồng bên rào dâm bụt, mắt Chiến sáng lên, lên tiếng gọi to:

- Cô Đào ơi!

Người đàn bà trạc tuổi bốn mươi, vóc dáng đầy đặn, trông vẫn còn xuân sắc, nhoẻn cười bước qua, lấy ở mâm kẹo bánh hai cây cốm nếp, đưa Chiến một cây:

- Mặt ỉu xìu thế kia chắc ế khách rồi. Ăn dằn bụng miếng bánh đi!

Chiến cầm cây cốm nói mát mẻ:

- Thân tôi lam lũ ế khách là phải, làm sao được kẻ đón người đưa như cô! Hồi đêm hôm đi chơi công viên thị xã với Bảy Mập lái heo, chắc cô vui lắm?

Liếc bà Tám đang lom khom cho vịt ăn, Đào nguýt dài:

- Ủa… vụ này lạ nghen! Tôi làm gì mặc tôi, mắc mớ chi tới anh mà anh thở ra giọng ngậm ngùi, cay đắng vậy?

Chiến trầm ngâm nhìn khói thuốc:

- Tôi buồn nói thế thôi quyền gì dám trách cô?

Đào đổi giọng an ủi:

- Anh nghĩ thương giùm tôi, một thân một mình, chồng theo vợ bé từ lâu, con gái gả chồng xa xứ, chuyện tình cảm riêng tư trống vắng, ai thật lòng bù đắp cho tôi? Còn anh dù sao cũng đủ đôi đủ bạn…

Chiến nghe lời dịu ngọt chân tình thấy dịu lòng, định ngồi nhích lại gần người phụ nữ thì vừa lúc bà Tám bước vào. Đào trả tiền cốm, nhét vội tờ bạc mười ngàn vô túi áo Chiến, cười nói lớn tiếng khỏa lấp:

- Trả tiền xe hôm nọ, tôi sợ mang nợ lắm!

Chiến ngượng nghịu đưa tiền trả lại Đào:

- Chỗ quen biết, tôi chở giúp cô thôi!

Đào xua tay, bước nhanh ra cửa:

- Tôi nói trả là trả, tiền bạc phải sòng phẳng. Thôi tôi về lo cơm nước, chiều anh không về nhà thì qua tôi ăn cơm, tối muốn ngủ giữ quán giùm bà Tám thì ngủ!

- Chớ tôi còn chỗ nào khác để ngủ hay sao?

Nhìn theo bóng người đàn bà vừa đi khuất, dáng chắc đậm đầy sức sống, Chiến thở dài nói với bà chủ quán:

- Hoàn cảnh cô Đào thật đáng thương quá, phải không bà Tám?

Bà Tám móm mém cười:

- Mày chạy xe ôm không tìm bắt khách, cứ đậu miết ở đây chờ thời, coi chừng tao bị vạ lây. Mày nghĩ vợ mày cũng thương con Đào như mày vậy hay sao?

Đúng như lời cảnh báo của bà Tám, ba ngày sau vợ anh xe ôm tìm tới đúng “bến đỗ” của Chiến, sau một hồi nặng nhẹ trách móc Chiến, thấy chồng vẫn sầm mặt im lặng, chị ta nổi xung:

- Tôi phải qua coi con… Đắc Kỷ đó bóng sắc cỡ nào mà mê hoặc anh đến mức như vậy. Anh đã không về nhà hai ngày nay rồi.

Chiến cố tìm cách thanh minh:

- Chuyện làm ăn ế ẩm tôi buồn đi đây đó tìm phương cách khác. Bà làm tôi bực mình, tôi đi theo luôn tụi bạn phụ hồ xây dựng cho yên thân - Ngưng một chút rồi Chiến nói tiếp - Nói gì tôi thì nói, hồ đồ đụng chạm tới người ta là không yên được với tôi đâu nghen!

- À, anh mặt dày mày dạn bênh vực nó hả?

Vợ Chiến qua bên đường vừa xỉa xói mấy câu thì Đào bước ra đáp trả lại điềm tĩnh, cứng cỏi:

- Tôi cùng là đàn bà nên không giận chị đâu, chị nghe người ta đơm đặt, vẽ chuyện chị tới đây chớ gì? Nếu tôi cũng tự ái, nóng nảy như chị thì sao đây?

Đang cơn giận vợ Chiến định phản ứng nhưng Đào đã nhẹ nhàng nói tiếp:

- Chị nghe tôi nói hết đã, có bà Tám, chú Mười, cô Nhạn ở đây làm chứng giùm, thấy anh Chiến vất vả lo cho vợ con dạo sau này chạy xe ế khách, ăn uống thất thường, thỉnh thoảng tôi có mời ảnh bữa cơm, không có tình ý gì đâu. Bà Tám thấy đúng vậy không?

Bà Tám bối rối gật đầu. Vợ Chiến đã hơi bình tâm chịu để cho Đào cầm tay. Đào thừa cơ nhẹ giọng nói tiếp:

- Chị vô nhà tôi uống nước nói chuyện, rồi chị em sẽ hiểu nhau hơn. Tôi một thân một mình, không bị ràng buộc chuyện vãn với đàn ông có phần tự nhiên, dễ dãi khiến nhiều chị em hiểu lầm. Nói thiệt với chị, nhiều người đàn ông góa vợ, nhà khá giả gạ gẫm chấp nối với tôi tôi còn chưa chịu.

Hai người đàn bà vào nhà chừng nửa giờ thấy vợ Chiến sánh vai Đào trở ra, nét mặt dịu hẳn:

- Mai mốt kêu ông Chiến chở lại tôi chơi cho biết nhà…

Đào tươi tỉnh gật đầu, liếc cái nhìn sắc lẻm sang Chiến đang bực dọc ngồi bó gối trước quán bà Tám. Vợ Chiến rụt rè lại gần chồng:

- Đưa tui về được không?

Chiến gạt chống xe, giả lả:

- Nghề xe ôm sống kiểu bến gió cầu sương, tôi có miếng đất này làm chỗ quen biết làm ăn. Thôi bây giờ bà hiểu ra rồi, bỏ qua hết đừng quậy tôi nữa nghen?

Vợ Chiến xẻn lẻn ngồi sát vào chồng, chiếc Min-xcơ chạy xa rồi bà Tám cười nói với những người chung quanh:

- Thấy nhỏ Đào ngoại giao khéo chưa? Đàn ông lơ mơ gặp nó hồn xác dễ bay theo mây theo gió lắm!

Sau vụ đó độ mươi ngày, chẳng biết ma xui quỷ khiến ra sao hai vợ chồng Chiến cùng “con ngựa sắt” già nua bay tuốt ra Vũng Tàu làm cho một ông thầu xây dựng một khu chung cư. Đó là về sau người ta mới biết được, còn khi ấy vợ Chiến bôn ba tìm chồng cả tuần lễ không ra tông tích, cho đến lúc có thư của Chiến gởi về mới chịu phép đợi chờ. Ngày trở về sau gần hai tháng giang hồ, anh cựu xe ôm đưa vợ ba trăm ngàn, giao sửa chiếc Min-xcơ tơi tả mất hơn trăm ngàn. Rồi nhân có ông chú vợ ở Cà Mau ghé thăm, Chiến xin theo luôn nhận chân bảo vệ đầm nuôi tôm. Vợ Chiến ấm ức nhiều điều cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt cho yên nhà yên cửa!

Buổi tối mọi người tụ họp tại quán bà Tám, ai nấy cười từng chập khi nghe Đào kể lại chuyện. Cô không che đậy, e dè như thói thường những người phụ nữ khác, kiểu người ruột để ngoài da nói huỵch toẹt ra hết cả, hư thực lẫn lộn:

- Mình tính ra ngoài ấy kiếm đại ông nào tình cảm một chút để chia tay ông Chiến cho rồi, có khi giúp được cả ông ấy nữa. Ai dè mới quen sơ sơ một chú “cai”, thân mật đôi chút ông Chiến lại sinh sự, tối ngủ ở lán trại xây dựng Chiến mò qua đòi “tâm sự”, tôi cự không chịu, sáng ra lúc đang làm phụ hồ thằng chả bỗng nổi khùng tuyên bố tụi này chỉ là họ hàng giả hiệu, thật ra là bồ bịch với nhau. Chết cửa tứ không?

Cô Nhạn bụm miệng cười:

- Anh Chiến nói vậy cho rõ ràng ra, như vậy là đúng quá rồi còn gì?

- Sao lại đúng? Thằng chả tuyên bố tôi là bồ ruột, thằng nào lạng quạng sẽ cho ăn… xà-beng.

Bà Tám hỏi:

- Rồi bây làm nơi đó lâu không?

- Dạ, phải đổi chỗ ba lần! Đi đâu ông Chiến cũng kè sát, thấy… thương thương nên không nỡ dứt, đi đâu cũng có đôi có cặp, làm con nhỏ xách hồ, bưng gạch mấy tháng trời chẳng tìm được tấm chồng!

- Thì đuổi thằng Chiến về với vợ con, mình lo thân mình.

Bỗng dưng Đào ngồi thừ ra, nói như để riêng mình nghe:

- Anh Chiến thật thà, tốt bụng, chăm lo con từng chút mà chưa bao giờ vịn vào hoàn cảnh để làm ngặt hoặc lợi dụng con. Tình cảm của ảnh con biết… Mà thôi bà Tám ơi… thà như vậy mới bền, mới nhớ…

Mọi người chợt yên lặng nghe tiếng phụ nữ ru con ở nhà bên, giọng trầm buồn man mác…

“Ngó lên Châu Đốc, Vàm Nao

Thấy buồm đang chạy…

Ầu ơ…

Thấy buồm đang chạy… như dao cứa lòng…

Kẻ câu chiều

Con đường dẫn ra bờ sông mềm mại bởi dày đặc lau màu hoe đỏ. Những tia nắng cuối ngày rọi lên dòng sông lấm tấm ánh bạc. Minh bắt đầu kiếm một khúc cây gần mép nước để ngồi, bắt đầu cuộc sống của một kẻ câu chiều sau khi kết thúc công việc trên đồi cà phê. Ngày tàn dần sau rặng núi già bên kia sông…

Những thứ Minh mang theo chỉ là một cây cần câu bằng tre rừng, một lon sữa bò đựng giun đất làm mồi cho cá và một cái thùng nhôm để rọng cá. Những con sông trên núi luôn đầy ăm ắp cá từ thượng nguồn. Minh đợi những con cá chép trong hành trình trở về khúc sông. Những con cá chép con, Minh hay thả lại dòng sông để chúng bơi đi và lớn lên. Khi trời chiều tắt nắng, Minh xếp cần, cởi áo và nhảy xuống lòng sông, làm vài vòng nước rổi lên bờ, men theo con đường đất đầy tiếng lau reo trở về nhà. Cảm giác ngâm mình trong lòng nước khiến Minh mê mẩn như một thói quen không chối bỏ được. Minh dừng lại ở ngôi quán xộc xệch đầu làng, sang cá cho thương lái, đổi gói thuốc ngựa(*), ít kẹo chuối cho thằng em trai,còn lại chút tiền để bọc dằn túi. Cuộc sống của một kẻ câu chiều như Minh chỉ đơn giản và kiêu bạc như vậy…

Miền núi buồn hiu. Những ngôi nhà gần núi buồn hiu. Không gian tĩnh lặng đến buồn bã. Đêm nằm, Minh nghe cả tiếng lá rơi, cạ vào không gian một thứ âm thanh cô độc. Minh đốt liên tục những điếu thuốcngựa và ngắm khói thuốc trôi đi. Thỉnh thoảng, Minh hay chạy xe ra thị trấn chỉ để ngắm những ánh đèn đường và uống một ly cà phê trong một quán nhỏ thường mở những bản nhạc cũ. Trong những đêm tĩnh mịch, Minh cũng muốn rời làng núi để đến những nơi có nhiều cột đèn đường nhưng Minh không thể rời dòng sông. Dòng sông vắt ngang qua những rặng núi thoai thoải dài trở thành một điều thiêng liêng đối với Minh từ những ngày thơ ấu. Dòng sông luôn đầy đặn và hiền hòa trong mắt Minh…

Lại một buổi câu chiều kiêu bạc bên bờ sông…

Minh ung dung thả cần xuống lòng sông yên lặng, làn nước nhăn nhúm chảy như gương mặt của một ông lão về chiều. Bụi lau màu hoe đỏ như reo vui khi những cơn gió chiều lướt nhẹ qua. Minh nghe tiếng tách rõ rệt từ phía sau lưng. Minh buông lỏng cẩn câu, ngoái cổ lại nơi phát âm thanh. Cô gái bỏ máy ảnh xuống và làm bộ rụt rè nhìn Minh. Minh lặng yên nhìn, mắt hơi trợn, tỏ vẻ bối rối.

- Cá cắn câu kìa! – Cô gái reo lên khi thấy chiếc phao trên sông lặn xuống rồi trồi lên mặt nước. Minh bắt đầu lấy lại cảm giác cá ăn mồi khi thấy đoạn cần câu trong lòng bàn tay mình run nhẹ. Minh giựt cần câu một cách vụng về, một con cá chép béo núc giãy đành đạch trên bãi cỏ. Mùi cá phả nhẹ, làm Minh thấy tỉnh táo dần:

- Cảm ơn cô đã nhắc nhở, cả chiều nay chỉ có con này là được nhất…

Chiều bắt đầu ngả trên sông. Không gian vắng ngắt phủ lên hai người xa lạ trên bến sông chiều, tư duy ngôn từ dần biến mất. Cô gái tiếp tục lia máy ảnh về lòng sông, nơi những ánh bạc trên sông đang dần lụi tàn và chiếc thuyền độc mộc đang bồng bềnh, muốn thoát khỏi dây neo để trôi ra sông. Hình ảnh cô gái chụp ảnh trên bến sông đầy dần trong lòng Minh, choáng đi cả những con cá chép. Buổi câu chiều chỉ được một con cá chép có thể bán được cho thương lái. Minh chần chừ:

- Chào cô, cô có ăn cá không?

Cô gái bỏ máy ảnh xuống, ánh chiều rọi lên làm Minh thấy cô gái có vẻ đẹp hiền lành.

- Có, nhưng anh còn phải bán mà…

- Hôm nay thì không, có mỗi con to, cô thích thì đem về ăn. Hồi nãy mà không có cô chắc con này rỉa hết mồi tôi mất… - Minh bắt đầu thấy thoải mái khi nói chuyện với cô gái xa lạ này.

- Anh nướng cá cho tôi ăn được không, trời cũng lành lạnh, tôi muốn có lửa để sưởi.

Minh gật đầu, râm ran vui, dần thấy buổi câu chiều lạ thường và chệch hành trình buồn bã vốn mặc định của một kẻ câu chiều.

- Cô ngồi canh cá ngen, coi chừng xổng thùng nhảy xuống sông, tôi đi kiếm củi nhóm lửa.

Minh đi lòng vòng bờ sông, gom những nhánh cây khô nằm vương vãi, đi lại chỗ cô gái đang ngồi. Bùn đất bám trên những nhánh cây bốc lên thứ mòi oi nồng quen thuộc. Đống lửa được đốt lên mau chóng, tiếng tí tách rõ rệt như tiếng những nhánh cây khô bị gãy ra từng khúc nhỏ. Minh ra mép sông rửa cá, chọn những đoạn cây cứng cáp xiên cá. Cô gái đều đều cho củi vào đống lửa, vẻ mặt yên lặng đến buồn bã. Cá nướng phả lên thứ mùi thơm tho. Minh đưa cho cô gái xiên cá đầu tiên:

- Mời cô, nếu còn mùi tanh thì bảo tôi hơ lại…

Tiếng cảm ơn nhỏ nhẹ của cô gái bị át bởi những con gió sông đêm thổi mạnh.

- Cô đến đây làm gì? Nghe giọng thì cô không phải người ở đây! – Minh vừa trở những xiên cá còn lại vừa hỏi, giọng Minh nhẹ tênh. Cuộc gặp gỡ bất ngờ khiến Minh quên đi những câu chào hỏi đơn thuần.

- Tôi chỉ muốn đến một bờ sông, vậy thôi - Cô gái nhìn lên khu làng núi, chỉ thấp thoáng những ánh đèn cũ mờ, cảm thán - Nơi anh sống buồn quá nhỉ!

Minh im lặng, cảm giác trống trải như những đêm anh nằm hút thuốc một mình. Minh ngước nhìn về dòng sông:

- Làng núi mà cô, âm u lắm. Thỉnh thoảng, tôi cũng muốn rời làng nhưng dòng sông không khiến tôi cô đơn.

Dứt câu, cô gái nhìn Minh bằng đôi mắt lạ thường nhưng gần gũi. Cảm tưởng như những ngày thơ ấu đang rần rật trong đầu cô. Đống lửa bắt đầu cháy yếu dần, Minh vội đứng dậy đi kiếm thêm cây để đốt. Tiếng xào xạc rõ mồn một. Gió càng lúc tạt từ lòng sông vào lạnh lẽo.

“Bùm!” – Minh nghe âm thanh như có ai đó vừa nhảy xuống sông. Cô gái, Minh nghĩ đến cô gái và buông hết mớ củi trên tay chạy vụt về phía bờ sông, mặc cho những bụi gai đâm vào chân đau rát. Qua ánh sáng của đống lửa, Minh thấy chiếc máy ảnh, áo khoác và đôi giày màu xanh đục của cô gái nằm gọn trên bờ. Minh run rẫy, đưa mắt về lòng sông, dòng sông vẫn tĩnh lặng.

- Cô gái! Cô gái! – Minh hét to. Tiếng hét dội lại trong đêm rõ nét.

- Tôi đây! – Cô gái trồi lên khỏi mặt sông, cười đầy hứng khởi – Xuống bơi với tôi đi. Nước sông ở đây không lạnh lắm nhỉ!

Minh cũng nở một nụ cười. Hạnh phúc len lỏi khắp da thịt. Minh nhảy xuống sông ngụp lặn tựa những buổi câu chiều khác.

- Cô cũng biết bơi à? – Minh vừa đạp chân cho người trồi lên khỏi mặt nước vừa hỏi.

- Ừ, tôi một thời sống bên bờ sông mà… - Giọng cô gái nhỏ dần – Tôi rời xa dòng sông ấy cũng mười mấy năm rồi. Dù gì, anh cũng hạnh phúc vì luôn ở lại cùng dòng sông.

Dứt đoạn, cô gái tiếp tục bơi trên sông. Minh cảm nhận những sãi bơi đầy hạnh phúc của cô gái. Những sãi bơi trở về kí ức…

Cô gái lên bờ trước Minh, ngồi hơ hơ tay trên đống lửa dần tàn. Minh vội lên bờ, gom lại những nhánh cây vứt vương vãi lúc nãy để đốt lại đống lửa cho cô gái hong khô quần áo. Cô gái vẩy vẩy mái tóc bết đầy nước sông.

- À, tối cô ngủ ở đâu? – Minh hỏi khi thấy trời đã tối đen.

- Tôi ngủ bên bờ sông. Tôi muốn ngửi mùi cỏ đêm bên sông… - Nói rồi, cô gái bật cười. – Nói đùa thôi, tôi đi bộ ra đường, sẽ có xe đêm thôi. Lúc chiều, trên xe, nghe người ta bảo có sông nên tôi mới xuống và quá giang những người ở làng núi vào đây…

Con đường ra quốc lộ xa mù và nhiều hỏm đất xối sạt. Tiếng xe máy chạy rù rù trong đêm, phá tan không gian vốn vắng lặng ở ngôi làng núi bên sông. Cô gái ngồi sau xe Minh, chốc chốc lại khẽ run lên vì nước sông đã thấm vào da thịt. Quốc lộ buồn thiu, chỉ những chuyến xe đêm cô độc và buồn bã. Cuối cùng cũng có một chuyến xe chạy dọc cao nguyên về thành phố. Trước khi lên xe, cô gái nhìn Minh lần nữa và nói thật rõ rệt:

- Tôi sẽ trở lại dòng sông…

Minh chạy xe trở về làng núi. Quán đầu làng vẫn mở để kịp mua cho cậu em út vài viên kẹo chuối và gói thuốc ngựa cho đêm buồn bã nằm trên tấm ván trước hiên nhà.

Những buổi chiều tiếp theo. Minh lại ra bến sông bắt đầu hành trình bình thường của một kẻ câu chiều và đợi cô gái mà mình không hề biết tên. Minh hay ngoánh lại khi nghe một tiếng tách nhẹ tựa như tiếng chụp ảnh sau lưng. Những tiếng động làm mình cồn cào hạnh phúc. Minh không hề biết rằng, bức ảnh Kẻ câu chiều của cô gái đã được giải thưởng của một cuộc thi ảnh quốc tế. Những bức ảnh cô cố ý chụp trước đó để dự thi, cô xếp lại trong một thư mục và chẳng bao giờ mở ra xem lại...

Xóm ven núi Diên

Đã lên phường gần chục năm, nhưng người ở đây vẫn quen gọi xóm. Ngày xưa chỉ lơ tơ mơ chưa đầy trăm nóc nhà rải từ triền núi Diên xuống cánh đồng Thơm dọc lộ lớn, băng qua con đê là thấy biển. Biển không có bãi cát, lội qua bãi Quạ sình non, thò chân ra là xuống ghe liền nên hai chục năm đổ về trước, người ta vẫn chọn điểm vượt biên ở đây. Vừa kín đáo, vừa kín gió. Còn rừng thì hồi đó mênh mông cây gỗ, đóng cả đoàn tàu Nô-ê còn được huống gì mấy chiếc ghe nhỏ như cái giường vợ chồng son. Giờ thì rừng đã trọc, có một ngôi chùa mọc lên bên con suối nhỏ. Khách thập phương ghé thăm Phật thưởng thức non nước hữu tình ngày càng đông, thế là mọc theo bao nhiêu là hàng quán. Lâu lâu con nước lũ về, mà toàn là chọn lúc nửa đêm về sáng, hôm sau người ta thấy bao nylon và đủ thức rác treo hờ hờ trên đầu ngọn cây.

Lần này tôi về, không chỉ để thăm nhà mà chỉ vì muốn trốn cái náo nhiệt oi bức Sài gòn trong những ngày thất nghiệp. Xe đò thả ngay ngã ba vào xóm. Con đường lên núi đã trải nhựa phẳng phiu nhưng chưa có hành lang, vỉa hè gì cả. Nhà dân chỗ đập dỡ dang, nơi còn nguyên vẹn chườn mình ra sát mép đường. Chắc là đền bù giải tỏa chưa ổn. Tôi vác ba lô về gần tới nhà thì nghe thấy tiếng gọi sau lưng.

- Giàu có chức tước sao rồi mày !?

Một khuôn mặt trờ tới sát bên. Thằng Hân! Thằng bạn thời đồng ấu cho tới cấp ba đây mà.

- Sao mày biết tao về ? – Tôi làm bộ ngạc nhiên.

- Vậy mới là tao chớ. Lên xe.

Không để tôi kịp phản ứng gì. Nó lôi ba lô trên vai tôi xuống để sau tay lái chiếc honda cà tàng. Nhà tôi chỉ cách chỗ đứng này chưa đầy 100m nữa.

- Đằng nào cũng về. Nhà mày còn đó chớ có chạy đi đâu mà lo! – Thằng Hân chắc nịch với nụ cười hiền lành y chang ngày nào.

Nó chở tôi ra quán nhậu phía tây núi. Bà chủ quán tóc đã bạc nhiều. Trước, bà là cô giáo của cả đám con nít xóm này. Người của ngày xưa.

- Con chào cô.

- Ô…

Tôi cứ đứng im lặng nghiêm ngắn trước mặt cô giáo cũ.

- Thằng Sơn con ông Bảy Râu phải không? Ô…

Tôi nhớ như in tiếng “ô” đặc trưng của bà, giờ đã xen nhiều âm khàn hơn 30 năm trước. Ngày đó, mỗi khi khen/mắng học trò hoặc lúc đọc một đoạn Kiều (bà yêu Kiều lắm thì phải), thì luôn “ô” đầu câu, giữa câu, cuối câu bất cứ lúc nào có thể. Có khi, bà chỉ “ô” một tiếng mà chẳng nói gì. Bọn trẻ yêu bà như mẹ, có đứa nghịch ngợm gọi thân mật “bà giáo Ô” – bà nghe được chỉ cười hiền hậu. Riết, người ở đây quen với cái tên dễ nhớ dễ thương này, lâu dần họ quên luôn bà giáo Ô tên thật là chi.

- Dạ, thằng Sơn con ông Bảy Râu đây, cô ạ.

Người khác nghĩ sao khi bị gọi tên chỉ mặt cùng với tên cha/ông mình tôi không rõ, riêng với tôi, mỗi lần nghe ai nhắc kèm tên ba mình lại không kiềm được sự thổn thức tự hào bừng lên trong đầu. Ba tôi là ông cai xây dựng nhiều công trình của Mỹ ở Nha Trang, con út trong gia đình mười bảy người con của một kỹ sư đường sắt học Pháp về. Từ trẻ, ông đã thừa hưởng từ ông nội tôi hàm râu quai nón tuyệt đẹp – ai cũng nói vậy cả. Sau này, đọc lại nhiều cuốn sách cũ tôi mới nhìn thấy mặt ông nội mình, chứ lúc anh em chúng tôi ra đời, ông nội đã bỏ thế giới này đi lâu rồi. Giải phóng, ba tôi đi cải tạo, 5 năm về, vượt biên ở Hòn Khói, ghe chạy lạc rồi chết máy nửa chừng, trôi dạt cả chục ngày cũng thấy được đất liền. Ông kể, ai thấy đảo cũng mừng cả, như kẻ sắp chết vớ được cọc, dốc sức chèo tay vào bờ. Vừa cập đảo, đã thấy bộ đội biên phòng lăm le súng ống chờ sẵn. Ôi, Côn Đảo! Tôi được đẻ ra ở đây, tới năm 2 tuổi thì chính quyền cho đoàn chúng tôi về mảnh đất này. Kinh tế mới. Lại tiếp tục sống với rừng để nuôi giấc mơ vượt biển. Ba tôi là bậc thầy trong việc xẻ ván đóng ghe, sửa chữa máy móc và tập lái cho thanh niên thời ấy. Một chút ký ức thoáng lướt qua tâm trí, khiến tôi ngồi thừ ra. Thằng Hân nhắc:

- Cụng ly đi mày! Làm ăn sao rồi?

- Ừ, dzô.

Nhấp hết ngụm rượu gạo, tôi mới trả lời nó.

- Làm ăn con khỉ gì được chớ! Ở phòng trọ, ăn cơm bụi, è lưng ra cày cho người ta hưởng,… Nản lắm rồi…

- Nản sớm vậy? Mày không nghe “thất bại vì ngại thành công” hả? Năm này chưa được thì năm sau làm tiếp. Có sao đâu.

- Tao chỉ e “thất bại là bà ngoại thành công” mà thôi! Thôi, dzô đi. Còn mày thì sao?

Thằng Hân cụng ly nhưng không uống. Ánh mắt sáng linh lợi của nó vừa có vệt tối nào đó bay qua. Cái thằng giỏi văn, hết phổ thông lại thi bách khoa, học nghề lập trình. Ra trường, mở công ty phần mềm, cũng sáng chế cũng sản xuất  rùm beng ồn ào một thời gian dài. Tự nhiên mất bóng. Về nhà, trông coi con, phụ vợ bán giày dép quần áo trẻ em ngay đầu xóm.

- Mày biết rồi đó, từ ông nội tao, đến ba tao, mẹ tao, chú tao, anh hai tao đều bị người ta gọi là ngụy quân ngụy quyền. Mà, cả cái xóm này có ai không “ngụy” chứ, nếu gọi theo cách của họ. Đi cải tạo người nhiều thì mười năm, kẻ ít thì cũng 5-7 năm, về tưởng yên ổn làm ăn, lại luôn bị theo dõi thập thò. Thấy mình có thịt cá ăn thì dèm pha “quân địa chủ”. Mình ăn rau muối thì lại bảo “đồ lười biếng, chống đối, không chịu lao động kiếm cái ăn”. Tao lớn lên, xã hội thay đổi nhiều, cái tư tưởng mạt thị ấy có giảm bớt đi nhưng chẳng hề biến mất.

Ông bố vợ tao là một cựu chiến binh, gia đình nghèo nát. Thằng con rể hết sức chu toàn cho nhạc gia, từ xây dựng lại nhà cửa cho khang trang nhất xóm, nuôi nấng đám em vợ theo đại học rồi xin cho việc làm tử tế. Đùng một cái, tao sẩy chân trong một vụ đấu thầu vì bị một thằng đại gia khác cạnh tranh đểu. Ông già vợ đã không hề động viên an ủi thằng con rể tiếng nào, lại còn lôi con gái về ở rịt bên nhà: – Ba đã nói mà con không chịu nghe, giờ vỡ mặt ra thấy chưa? Cái thứ ngụy cụt đầu ấy không bao giờ nên người được đâu… Bao nhiêu hằn học gì với thế sự, kể cả đường binh nghiệp của ông không được suôn sẻ, bị đồng chí của mình phe cánh hạ bệ – ông cũng ném vào thằng rể, ném vào cái lý lịch sui gia mà giờ đây – gần hết những cái tên ấy đã chầu trời hoặc ở một vùng đất nào xa xôi. Thằng Hân biết chuyện, chẳng nói gì nhưng tính tình trở nên cáu bẳn khác hẳn sự linh hoạt, dí dỏm thường trực trước kia. Nó chẳng bao giờ đặt chân vào ngôi nhà bên vợ được xây lên bằng tiền của nó. Hai vợ chồng gom góp vốn liếng còn lại, mở một cửa tiệm nho nhỏ cũng đủ sống qua ngày.

- Có khi, chính ông nhạc của mày cũng chẳng hiểu được cái nghĩa của từ “ngụy” nữa. May mắn là vợ chồng mày vẫn sát cánh bên nhau. Vậy là còn hạnh phúc chán! – Tôi không biết nói gì hơn – À, mà ông cụ nhà mày sao rồi ?

- Ba tao hả ? Từ ngày tao lụn bại, thêm sự cố từ phía sui gia như vậy, ba tao suy sụp luôn. Bây giờ chỉ còn cái xác không hồn, chẳng ra khỏi cửa một bước trừ phi phải đi cấp cứu vì lao phổi hoặc ngày chủ nhật ông muốn dự lễ nhà thờ.

- Tao muốn ghé thăm ông cụ. Ba tao mỗi lần gọi về, đều nhắc ông, “Sao bác Hoài không chịu qua Mỹ hả con?”…

Ba thằng Hân nguyên là Trung tá Đinh Văn Hoài – dạy võ bị nhiều năm ở trường sĩ quan Đà Lạt. Khi sự cố 75 đến gần, dù có nhiều cơ hội đi Mỹ tỵ nạn, ông khăng khăng không đi. Bị chính quyền mới đưa đi cải tạo gần chục năm. Thằng Hân ra đời khi ba nó vẫn còn trong tù, trong một lần má nó lên thăm, đút lót 1 cây vàng cho cán bộ quản giáo để họ cho ông Hoài ra đồng chăn trâu một buổi trưa – cái duyên sót lại để níu kéo người tù chính trị vượt qua bệnh tật, khổ ải, đòn roi để về sum họp gia đình. Ra tù, ông tạo dựng được một sự nghiệp đáng nể: một trang trại cả trăm hecta ngay chân núi Diên. Cây thuở ấy nếu còn tới giờ, hẳn đã xanh bao kín rừng kín núi. Trong xóm, ba tôi và ông thân nhau như anh em. Hai ông thường ngồi uống trà, hút thuốc rê kể chuyện đời. Lúc ấy, tôi với thằng Hân còn lon ton ngoài đồng ngoài bãi chơi trò đánh trận. Ba tôi nhiều lần khẩn khoản mời, thậm chí là van xin ông cùng vượt biển, nhưng ông nhất định “không là không”. Khi chính phủ Mỹ mở cánh cửa HO, ông Hoài có giấy mời gọi đàng hoàng, nhưng cũng chẳng hề hấn gì với suy nghĩ sắt đá ông đã gìn giữ từ ngày tao loạn. Ông làm kinh tế giỏi. Ông mở lớp dạy võ, dạy thuốc, dạy chữ cho thanh niên trai tráng trong xóm. Ông vận động mọi người kè đê đắp đập ngăn mặn, trồng lại rừng ngăn đá núi bắt đầu xói lở nhiều. Người ta gọi ông là Thầy Hoài một cách kính cẩn, từ cụ già tóc bạc cho tới đứa con nít vừa biết khôn.

Ông đổ bệnh từ khi nhà nước ra quyết định lấy không khoảng rừng mà bao nhiêu mồ hôi nước mắt ông còn ấm nóng với đất đai, cây cỏ. Dân tình lúc ấy nhốn nháo cả lên, họ bênh vực ông, săn sàng đứng sau lưng ông để chống đối lại cái sự ăn cướp giữa ban ngày ấy, nhưng ông trầm ngâm không nói không rằng câu nào. Lẳng lặng giao đất, giao trang trại cho Hợp tác xã “Tôi chỉ xin các người một điều, chỉ một điều duy nhất này, là hãy giữ rừng, đừng ham lợi trước mắt mà cả xóm này phải lãnh hậu quả về sau…”. Họ đã không giữ lời. Mấy tháng sau khi tiếp nhận, xe ủi xe cuốc cùng tiếng cưa máy ầm ồ gào thét suốt ngày đêm. Ông Hoài ôm ngực, hộc máu, phải đi cấp cứu. Ông chưa ra viện thì đã nghe tin lũ trên nguồn đột ngột tràn về xóm, bờ đê vỡ, một gia đình có bà mẹ quá với hai đứa con côi đêm ngủ mê chạy không kịp bị lũ cuốn mất xác. Bao nhiêu năm về sống ở mảnh đất hiền lành này, người ta mới lần đầu chứng kiến một cơn giận dữ của rừng núi ngàn năm.

Buổi trưa ông Hoài ra viện, vừa về đến nhà đã nghe tin bà con trong xóm đang kéo nhau lên phản đối Hợp tác xã tiếp tục phá rừng. Buổi tối, nhiều người lạ mặc thường phục ập vào chỉa súng, còng tay ông Hoài lên xe bít bùng chở đi mất. Mấy tháng sau, ông trở về mang thêm cái mác “Fulro” trên lồng ngực hóp háp thở khó nhọc, tiếp tục bị quản chế.

Thằng Hân tính tiền để về. Bà giáo Ô mới hỏi tôi:

- Con đang làm cho cơ quan nào? Ô, trên Bộ hay Sở, ô, nghe nói lớn lắm phải không?

- Dạ, con đang thất nghiệp, ăn bám bạn bè đây, cô ơi!

- Ô, học hành đàng hoàng như con mà còn thất nghiệp ô? Không làm ở đâu được thì, ô, về đây bán quán nhậu với cô. Sống cũng được lắm. Đừng lang bang xứ người làm gì. Ô…

Tôi tin, bà giáo Ô đang nói thật. Có thể, ngày nào đó tôi sẽ phải về đây mà tá túc trên chính mảnh đất cha anh mình đắp bồi bằng cả cuộc đời họ mà thôi.

Thằng Hân rón rén mở cửa phòng ba nó. Hình như, ông đang thiu thiu ngủ. Hơi thở nặng nề, ngắt quãng như thanh âm mệt mỏi phát ra từ một dây đờn cò sắp đứt. Chúng tôi dơm chân bước ra thì ông Hoài trở mình, chầm chậm lên tiếng:

- Hân hả con? Lại nhậu nữa hả?

Thằng Hân đỡ ông ngồi tựa lưng vào gối.

- Có thằng Sơn bạn con về ghé thăm ba đây.

- Đâu? Thằng Sơn nào?

- Dạ, con là thằng Sơn con ông Bảy Râu, bác Hoài ơi!

Không nén được cảm xúc trước sự gầy yếu đã xâm chiếm gần hết cơ thể người đàn ông mạnh khỏe, cường tráng, tốt bụng ngày xưa vẫn hay bế thốc mình lên vai đi chơi, tôi ngún nước mắt.

- Lại gần đây cho bác coi rõ mày chút nào. Ừ, hơi ốm nhưng mà khỏe mạnh là tốt. Mày cũng uống rượu hả? Bảy Râu với tao có ai biết uống rượu đâu mà đẻ con ra toàn là dân ăn nhậu say xỉn vầy hả…

Vừa nói, ông vừa nắn nhè nhẹ bàn tay tôi. Thằng Hân sợ ba nó nói nhiều sẽ mệt nên can.

- Tụi con lâu quá mới gặp nên uống mấy ly mừng thôi mà ba.

- Mày ra lấy nước. Để ba hỏi thăm thằng Sơn chuyện bác Bảy.

Tôi kể cho ông nghe về cuộc sống của ba mình ở Mỹ. Ông chăm chú, đôi khi môi nhoẻn cười, mắt ánh lên thứ ánh sáng của những con đom đóm lúc tàn đêm.

- Kể ra, ở bển sống cũng khỏe. An sinh xã hội người ta làm tốt hơn xứ mình, con hả. Nhưng, ba mày chắc là buồn lắm.

- Sao bác không đi, hả bác Hoài?

Ông lắc đầu. Có phải cái lắc đầu quen thuộc ông đã từng dành cho ba tôi ngày xưa?

- Bác thì coi như xong rồi. Còn thằng Hân, nó đang bất đắc chí, cứ ăn nhậu rồi đi kiếm chuyện với quá khứ. Cứ muốn đòi lại đất đai, cứ muốn dành lại công lý. Con ơi! Mình có thể làm giàu hoặc chết đói, có thể thay đổi cả thế gian này, nếu muốn, nhưng làm sao chối bỏ được nguồn cội, dân tộc, đất nước mình. Màu da chớ có phải màu áo đâu mà muốn thay thì thay. Có qua Mỹ, bác cũng chỉ là thằng lính già hết thời, ăn bám vào chế độ người ta ban phát. Nên mấy chục năm trước đã không đi, có khi cũng lung lạc cũng muốn đi, nhưng rồi vẫn quyết tâm ở lại.

- Chuyện người ta nói bác là Fulro, có thật không?

- Nếu tụi con là bác ngày mới về đây khai hoang lập nghiệp, xây dựng đời sống mới sau quãng dài thanh niên chìm trong chiến tranh, con có muốn gây thêm một cuộc đổ máu nào nữa không? Con có thể lại ôm súng bắn vào đồng loại đau khổ, đói nghèo của con được không?

Tôi ngồi với ông gần 2 tiếng đồng hồ. Hình như, lâu lắm ông chưa nói chuyện nhiều với ai. Ngày ấy, chàng thanh niên Đinh Văn Hoài đang học năm cuối trường thuốc thì được mời lên Trường võ bị Thủ Đức giảng dạy về các phương pháp cấp cứu, trị thương chủ yếu bằng lá cây, thảo dược trong rừng cho binh lính trước khi ra trận. Do có nhiều hiểu biết về Đông y, Dịch số, đưa ra nhiều thông điệp có ích cho mạng người trong chiến tranh lúc đó nên ông lại được mời lên Trường sĩ quan Đà Lạt giảng dạy. Ông dạy võ, dạy triết, dạy nghề thuốc, dạy tiếng Pháp tiếng Anh cho nhiều lớp sĩ quan mà sau này nhiều người trở thành tướng lĩnh. Cấp hàm Trung tá là họ phong cho ông như một sự kính trọng và biết ơn. Oái oăm thay, cái lon ông từ chối nhận nhiều lần này lại là cái họa về sau.

- Cả cuộc đời bác, chưa hề bắn một viên đạn nào, chưa biết giết một người nào, con ơi!

Đó là câu nói cuối cùng ông thả khỏi lồng ngực gầy tóp của mình. Tôi bước ra ngoài, thấy thằng Hân đang phả khói thuốc lên trời. Hai mắt nó ràn rụa nước. Nãy giờ nó đã nghe tất cả những lời ba mình nói. Đã nghe và đã khóc.

Tôi đi bộ lững thững về nhà. Hơn mười giờ đêm. Trăng treo nửa nón chênh chếch phía đông bắc ngọn núi Diên. Sương bắt đầu nhiều. Không khí trong lành đến lạ.

Người chị gái duy nhất của tôi còn trụ ở xóm này, vẫn ngồi chờ cơm.

- Sao trễ vậy Sơn? Chị lo.

- Em kẹt việc nên về muộn. Chị chờ từ chiều tới giờ à?

- Ừ. Lần này em về thăm nhà được lâu không?

- Chắc sáng mai em đi sớm rồi…

Chị buồn thấy rõ. Khi lên xe về đây, tôi đã nghĩ mình phải ở nhà ít nhất là nửa tháng. Leo núi Diên. Thăm bãi Quạ. Dạo đồng Thơm. Theo ghe đi câu biển… Để cái tâm mình chững chạc lại rồi mới tính tiếp. Nhưng, ngay giờ này, tôi biết mình không thể để thời gian trôi qua hờ hững như thế nữa khi cuộc đời mình đã lắm sự hững hờ chưa cắt nghĩa hết được. Sáng mai, lại con đường mới trải nhựa chưa có vỉa hè dẫn ra ngã ba quốc lộ, chuyến xe đò nào đó sẽ ghé lại đón gã thanh niên vác trên vai nằng nặng giấc xóm giềng đã mốc meo bởi thức trắng với thời thế chưa kịp lành lên thành phố chật chội. Lời ông Hoài còn gấp khúc trong tai: – Ai muốn phá thì mặc họ, cái giá phải trả không từ chối người nào cả, mình cứ xây. Nếu mình cũng phá thì xóm làng này, đất nước này mãi mãi chẳng nên hình. ./.

Soi qua nhánh lá

Nhà anh Khâu còn duy trì tục lệ cúng bò trâu. Việc cúng bái này do bố anh buộc phải làm. Ông bảo gay gắt: “Xưa bày nay làm, không lôi thôi!”. Và, bàn cúng lúc nào cũng treo một nhánh lá bất kỳ.

Nhánh lá gợi nhớ một ký ức di truyền để Sơn Lâm Chúa Xứ (tức ngài Cọp) hoảng sợ. Mục đích nhánh lá này, răn đe ngài Cọp rằng, khôn hồn hãy trốn biệt xứ, đừng rắp tâm mò đến bắt trâu bò mà toi mạng!

Lúc này, khoảng 5 giờ chiều. Khâu vừa treo nhánh lá Vú Sữa vào một chiếc cần câu, cho thòng xuống mặt bàn, anh vừa nhớ bố… Một ông bố quanh năm gầy đét, đen đủi, cứng ngắt như que sắt. Một ông bố có thể gỉ sét, nhưng khó mà đau bệnh. Vì ông không có khái niệm nói láo, nên ai càng láo càng tin. Càng phi lý càng tin. Ông vững vàng ngay trong sai lầm. Càng thua càng vững! Lúc nào cúng trâu bò, ông cũng giọng chắc nịch, kể rằng: “Ngày lắc lư xưa, nơi hòn Hèo quê mình, sản sinh ra một ngài Cọp dữ dằn kinh thiên động địa. Một hôm vì quá đói, ngài men ra bìa rừng, tính bắt trâu bò để xơi. Trâu bò nhiều vô kể, nhưng lúc nào cũng lác đác con người chăn giữ. Cọp ta sợ lộ, ngài bẻ nhánh lá che mặt. Nhưng… lạ lùng thay, khi soi qua nhánh lá, ngài Cọp hòn Hèo thấy bò trâu vẫn là bò trâu, nhưng riêng con người chăn giữ, không phải con người mà là quỷ sứ! Một loại quỷ gớm ghiếc, nanh vuốt lòng thòng, máu tanh rỉ khoé miệng, bụng lòi tua tủa dao nhọn, tiếng nói xịt ám khí đất bằng nổi sóng gió! Loại “quỉ người” này, ngài Cọp chưa từng nom thấy, nay diện kiến ngài lạnh toát xương sống. Ngài hoảng sợ, cong đuôi phóng tuốt vào rừng sâu trốn biệt! Tụi bay biết không, hả Khâu? Ngài Cọp sợ con người là chí lý vô chừng kể. Chính bố mày đây, con người ròng hiệu 4 số 9, thế mà vẫn nơm nớp sợ hãi con người! Quái, con người là cái cục chó gì nhỉ? Tao sắp mãn hạn làm người, thế mà vẫn mù tịt! Tối thui như đêm 30!”. Những lúc ấy, anh thường cười lén, không dám công khai, sợ bị bố bộp. Những lúc ấy, anh có ý nghĩ lạ lùng rằng, cọp hòn Hèo rất ngán bố mình, bởi bố mình là đại diện nhân loại chính cống! Úi cha, anh lại cười lén…

Treo nhánh lá Vú Sữa xong, Khâu sửa ngay ngắn mấy đĩa cốm, thắp hương vái nhưng không khấn. Đoạn anh khom người dòm vào nhánh lá. Anh bắt chước ngài cọp hòn Hèo, nhưng rõ ràng chẳng thấy gì cả! Rồi, chợt nhận ra trò trẻ con của mình, anh cười hì hì, một kiếu cười chế giễu, nhưng tầng sâu lại là sung sướng khi rõ sự u mê đáng yêu của mình. Đột nhiên, anh thương ngài Cọp vô cùng. Một tình thương anh chưa trải nghiệm, cứ dâng lên xót xa sâu thẳm nhưng lại nhạt như nước ốc, nguội lạnh tro than! Đúng là ngài Cọp quá non nớt khi trực diện với con người!

Anh bỗng nhớ, thượng tuần tháng trước, bác An ở thành phố có xe máy về đây, vội vã bảo anh: “Cháu Khâu à! Cháu gần hòn Hèo, phát hiện chỗ nào có cứt cọp, dấu chân cọp, hãy mách bác nhé! Công chỉ chỗ cho cháu là 2 triệu, việc bắt sống là bọn bác. Thế, thế nhé! Số điện thoại của bác đây.” Nói xong, bác ấn tấm cạt vào tay anh, tức tốc quay lưng đi về, không vào nhà cho dù đang đứng sát cửa, không hớp một hột nước cho dù anh đã bưng ra! Đấy, bác An đấy, chính anh cũng hoảng, huống chi loài Cọp! Ừ, có lẽ chỉ nhắc sơ “Đấy là con người” là loài cọp rụng hết bộ lông hoành tráng!

Khâu đứng ngay ngắn trước bàn cúng, lại chắp tay xá ba xá. Đúng lúc này, anh nghe nhột nhột, đau đau nơi mu bàn chân. Anh nhìn xuống…Đó là chục chú vịt con mà vợ anh đã mua hôm qua, nuôi thả trong vườn nhà. Chúng đang lăng xăng rúc rỉa vào hai bàn chân anh. Ngắm chúng, anh mỉm cười. Anh biết chúng đang đói, đang đòi ăn. Bọn vịt nom ngộ nghĩnh quá, lưng mốc xì, bụng vàng rơm, lông như lông chó. Có đến ba chú tranh nhau đứng cao nơi mu bàn chân anh, vậy mà chẳng nghe một tí sức nặng nào! Dòm kỹ chúng, anh mỉm cười lần nữa. Cái mỉm cười từ bụng tuôn ra, nghe mát cả người. Lập tức, anh bươn ra hè sau, tìm cuốc đào giun cho chúng ăn. Anh muốn đãi chúng một bữa ra trò…

Vừa cuốc được một nhát, giật đất lên, anh không thể cuốc tiếp được nữa. Mười chú vịt con đã xúm xít chỗ ấy, rối rít tranh nhau ăn mồi. Chỗ này đất lẫn rơm mục nên nhiều giun. Có những con giun ánh lên màu thép, có con lại màu ngói mới. Chúng cong thân, bung lên, giãy giụa rối loạn. Chẳng con nào thoát khỏi bọn vịt! Đối với loài giun, bọn vịt quả là quỉ dữ! Còn mình - Khâu mỉm cười, tự chế giễu - lại nuôi bọn quỷ dữ ấy để xơi! Anh lại nghĩ đến ngài Cọp thất thần, cong đuôi chạy trốn con người… Anh tặc lưỡi, nhấc cao cuốc, bọn vịt con nghểnh cổ, chờ chực lưỡi cuốc bổ xuống. Rõ ràng chúng không biết nguy hiểm là gì! Nguy hiểm không có đối với chúng. Chúng chỉ biết con giun! Trong khi giơ cao cuốc mà không bổ xuống được, đột ngột trong đầu anh loé một giải pháp giải quyết tình trạng bế tắc này. “Hừ, tuyệt vời!”. Lập tức, anh xoay nhanh người sang trái, bổ phập cuốc xuống, giật nhanh vào người, lật đất lên. Ái chà, quả là như ý! Bọn vịt con liền túa sang trái, giẫm đạp lên nhau tranh mồi. Nhìn chúng tham ăn, anh cười giòn tan… Có chú bị té ngửa, hai chân nhỏ xíu cứ bơi lên trời rối rít, miệng vẫn cố nuốt con giun, trông buồn cười quá chừng! Thích chí, anh lại nhấc cao cuốc, xoay nhanh người sang phải, bổ mạnh xuống, giật nhanh vào người, lật đất lên. Bọn vịt con lại ào sang phải, rối ren tranh mồi. Cứ thế, Khâu cuốc một nhát bên phải, một nhát bên trái, bọn vịt cứ như đám con thoi chạy qua chạy lại, rối rắm cả mắt… 

Lúc này, tiếng đại hồng chung của Hương Trì Tự vang lên. Ồ, đã 5 giờ rưỡi chiều rồi nhỉ! Sư Bản đã công phu chiều. Tiếng chuông vang rền, chật cả không gian. Anh cảm nhận rõ ràng nỗi khoẻ khoắn của lạc thú điền viên. Anh liền huýt sáo một bài nhạc tào lao có nhịp điệu Fox nhanh, trong lúc hai tay vẫn cuốc một nhát bên phải, một nhát bên trái. Chà, giun tha hồ, cho bọn bay tập thể thao một bữa. Chỗ đất đang cuốc này, anh dự định sẽ rắc phân bò, trồng một vạt rau thơm. Anh lại huýt sáo, tăng nhanh tốc độ cuốc… Đột ngột, Khâu giật thót. Anh sững người. Tiếng huýt sáo ngừng bặt. Tiếng đại hồng chung trong không gian biến mất! Trời! Hỡi trời! Nhát cuốc phía trái anh vừa bổ mạnh xuống, đã phập đứt lìa làm hai một chú vịt con! Lưỡi cuốc mới rèn rất bén, còn cắm sâu vào đất. Hai bên lưỡi cuốc là hai nửa chú vịt con, máu xịt ướt cả quai cuốc! Phần thân đứt lìa có đầu, vẫn còn lòng thòng một con giun nuốt dở! Một con giun màu ngói mới, vẫn còn sống, cố vùng vẫy thoát ra khỏi mỏ chú vịt đã chết! Khâu thả rơi cán cuốc. Cán cuốc vẫn đứng yên thoai thoải. Cán cuốc vẫn chưa hoàn hồn! Anh há mồm, chong sững mắt vào hai nửa chú vịt con, máu tươi đã chảy ra yếu dần! Anh nghe đau nơi ngực trái, chỗ trái tim vẫn đập. Đột ngột, anh mím môi, cắn chặt hai hàm răng để chịu đựng một ý tưởng vừa tiến tới trong đầu. Một ý tưởng có chân, giày xéo, dẫm đạp anh, lại vừa có miệng thốt nên lời: “Mày có biết không, hả Khâu? Đây là chú vịt con thông minh nhất bầy! Nó đã biết được quy luật cuốc chết tiệt của mày! Nó đã không thèm làm con thoi phí sức! Đây không phải tai nạn! Lưỡi cuốc tổ bố cùng thằng người khổng lồ của mày, hai món ấy không xứng với cái chết bé bỏng này!”.

Anh thẫn thờ, khom người, mỗi tay nhặt mỗi nửa xác chú vịt con. Anh cẩn thận ráp lại. Ôi, lưng nó màu tro bếp, bụng màu giấy cũ, mỏ viền một đường vàng non nớt, hai mắt không có sự sợ hãi… Đây có lẽ là chú vịt con ban nãy tranh đứng cao nhất nơi mu bàn chân anh. Nó đấy, nó ban nãy đấy, không sai trật chỗ nào! Thế mà bây giờ…! Hai mắt anh cay xè…

Khâu quyết định đào lỗ chôn chú vịt, thay vì đem bỏ vào nồi cháo heo. Trước khi làm việc này, anh cẩn thận kéo nhẹ con giun còn sống ra khỏi mỏ của xác chú vịt. Anh thả con giun ra đất. Nó nằm bất động một chặp, rồi bò đi chậm chạp… Bọn vịt con cứ ngơ ngác nhìn con giun bò đi. Tiếp, chúng ngơ ngác nhìn anh. Anh quay mắt nhìn chỗ khác! Và kìa, có mấy chú vịt con nấp trong bụi rào, đang run sợ, soi qua nhánh lá, nhìn anh…

Khách miệt vườn

Giữa ánh sáng lờ mờ của buổi hừng đông, Tư Kiên đẩy chiếc ghe tam bản ba chục giạ ra khỏi con mương cặp hông nhà, chống lại bến. Anh vừa buộc dây vào cây sào vừa kêu vọng lên:

- Má mày dọn đồ đạc rồi chưa, đem xuống ghe đi.

- Còn sớm mà ông hối như chạy giặc – Vợ Tư Kiên làu bàu.

- Đi bây giờ cho kịp nước xuôi. Đợi mặt trời mọc chèo ngược nước thấy mẹ à!

Chị Tư không trả lời, tất tả đi xuống bếp bưng cái thúng xoong chảo, chén đũa lên để trên tấm vạt tre, cạnh hai giỏ đệm chứa đầy mùng mền và quần áo.

- Ông đem cái lò xuống ghe dùm tui đi. Con Nhân đâu, lấy mấy cái lưỡi hái giắt trên vách cho má. Thằng Ái rửa mặt rồi vô thay đồ đặng đi nè!… Nhân à, ở nhà coi chừng bầy gà mái đẻ, cắt dây chuối dìa ủ cho heo. Tối kêu con Bé Hai con dì Út qua ngủ. Gái lớn rồi, đêm hôm khuya khoắt một mình không tiện. Bọc khô cá sặc với hủ mắm cá linh má để trên giàn bếp. Má đi chừng nửa tháng má dìa.

- Má mày chuyển vận cái gì mà lâu dữ vậy? Mặt trời lên cả sào mà chưa rồi nữa hà!

Giọng Tư Kiên có vẻ bực. Con Nhân khệ nệ bưng cái thúng xuống bến, chị Tư xách giỏ đi theo. Thằng Ái chạy trước, nhảy vội lên ghe, chui tọt vào cái mui hình bán nguyệt được chằm bằng lá dừa nước. Chị Tư đứng trước mũi ghe, nhổ sào lui ra khỏi bến. Dưới những giọt nắng xuyên ngang buổi sáng, chị Tư nhìn ngôi nhà nhỏ bé trống huơ trống hoác đã quá mùa thay lá lợp mới, chị ngó con Nhân một mình đứng trên sàn nước tới khi anh Tư chèo khuất sau hàng mù u mới thôi.

*

Như đã thành thông lệ, khi gió chướng thổi về, mùi thơm nồng đượm của hương lúa chín không còn bị bó hẹp trên những cánh đồng vàng ươm hạt mà ùa vào các làng quê, thôn xóm, thốc vào các ngõ ngách miệt vườn, ngấp ngé lan tỏa ở các thị trấn ven đô, ven thành thì những đoàn ghe bầu, ghe cui, ghe lườn, tam bản từ Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp… theo nước xuôi về Cần Thơ, Rạch Giá, Bạc Liêu. Những con người nghèo nàn, gắn cuộc sống với đồng ruộng lam lũ quanh năm đi tha phương cầu thực, rày đây mai đó gặt lúc mướn như những kẻ hải hồ lang bạt lênh đênh trên sông nước ở trăm nẻo xa xôi. Người địa phương ít học, quê mùa gọi thẳng đuột họ là dân mần mướn. Còn kẻ hiểu biết tí chút về ngôn ngữ văn chương, thích dùng chữ nghĩa thì tặng cho họ một cái tên mỹ miều là khách miệt vườn. (Có lẽ vì họ đến từ miệt vương sông Tiền!). Nhưng cho dù mang một cái tên nào đi chăng nữa, bản chất và tập tính của họ không hề thay đổi. Có gia đình, có dòng họ đời này kiếp kia làm khách miệt vườn. Tuy nhiên, khách miệt vườn không phải vì đói khổ mà đi, vì cơ cực mà giong ruổi khắp miền khắp chốn. Bởi có khi, đủ ăn đủ mặc họ vẫn đi. Hình như cái dòng máu lang bạt kỳ hồ đã nhập vào hồn người trong những lần tắm sông từ thuở lên năm lên bảy, để sau này, mượn cớ khách miệt vườn xuôi ngược trên mạng sông ngòi chằng chịt của miền châu thổ Cửu Long để đi chơi, hay thăm bà con, người xưa, chốn cũ. Khách miệt vườn đi từng đoàn, có khi năm – ba chiếc ghe, có khi hơn chục chiếc, cứ chèo tình tang xuôi về phía hữu ngạn Hậu Giang rồi thẳng tiến. Mỗi chiếc ghe là một gia đình với hai vợ chồng và mấy đứa con, hoặc vài thanh niên trai tráng ở cùng xóm rủ nhau đi. Thường thì họ chèo ban đêm, trời dịu mát, không khí trong lành, nước lững lờ trôi nhẹ nên có ngược dòng cũng chẳng chậm mấy. Còn ban ngày, họ ghé chợ ven sông mua thịt cá, rau cải, rồi chèo đến khi mặt trời lên cao, họ tấp vào bờ, đậu lại dưới tán dừa nước hay những bụi bần cặp mé sông để nấu cơm, ngủ trưa, chờ tới lúc mặt trời nghiêng về phía tây, họ tiếp tục hành trình.

Ở cái đất Hòa Hưng này, có thể khẳng định chỉ mỗi nhà Năm Cương là đông khách miệt vườn nhất. Không phải vì Năm Cường giàu có, cũng không phải vì đất ruộng mênh mông, mà vì tính tình vui vẻ của vợ chồng Năm Cường, cái nết lễ phép của hai đứa con gái. Vã lại, Năm Cường có cái sân rộng lắm, lớn hơn mười chiếc đệm phơi lúa. Cái sàn nước lát gạch dài tới ba mét, trụ đổ xi-măng cốt thép. Khách miệt vườn cứ đậu ghe dưới bến, khiêng cái mui lên sân để che nắng che mưa, như một mái nhà di động. Họ lãnh gặt lúa của ai cũng được, không riêng gì của Năm Cường. Sáng sớm họ vội vã gói cơm đem đi và tối mịt thì mệt mỏi quay về chuẩn bị cơm chiều. Gia đình Năm Cường rất hiếu khách nên ai cũng mến. Năm nay cũng không khác mấy, độ khoảng tháng chín âm lịch, khách miệt vườn lần lượt đổ về đây, rải rác neo đậu dọc theo các ngã sông, kênh rạch. Trong đoàn ghe đó, có ghe của Tư Kiên.

Tư Kiên tấp ghe vào bến nhà Năm Cường, cạnh sáu chiếc ghe khác của “đồng nghiệp” đến trước. Vừa gặp nhau, Năm Cường vui vẻ:

- Tui thấy anh là lạ. Bộ anh mới tới đây lần đầu hả?

- Dạ! Mùa rồi tui với anh Tám Khỏe ở miệt Hòn Đất. Năm nay định đổi hướng thử coi sao.

- Vậy anh Tám Khỏe gì đó không đi nữa à?

- Đâu có, ảnh cũng xuống đây. Đang kẹp lãnh bốn công lúa chưa cắt xong nên một hai ngày nữa ảnh mới tới.

- Đi mấy ngày đường chắc mệt, thôi anh lên nhà uống trà chơi!

Hai người đàn ông tuổi ngoài bốn mươi bắt tay chân tình, cười nói vui vẻ, ngỡ rằng đã quen biết từ lâu, chứ đâu hay họ mới gặp. Họ cùng đi vào nhà, ngồi đối diện ở cái tràng kỷ như thể thói quen thường khi đã trở thành nếp.

- Anh… - Năm Cường ngập ngừng.

- Tui tên Kiên, thứ tư.

- À, anh Tư. Anh tới đây mấy người?

- Dạ, vợ chồng tui với thằng con trai sáu tuổi. Chắc bả đang nấu cơm dưới bến, để tui kêu lên chào anh chị.

- Thôi, từ từ đã – Năm Cường xua tay, đoạn quay vào trong – Bà nó ơi, coi làm món gì tui với anh Tư nhậu lai rai chơi.

- Lúa mùa này đỡ không anh Năm?

- Thất hơn mùa trước, độ khoảng ba mươi lăm giạ một công. Tốt là cái giống này kháng rầy nâu và chịu phèn cao. Mấy bữa nay tính làm cho xong nhưng gần tới đám cưới con Lụa, lu bu quá.

- Chừng nào cưới vậy anh?

- Ngày kia.

- Anh gả cháu Lụa về đâu vậy?

- Thằng này tuốt trên Mộc Hóa, xuống đây cắt lúa mướn. Thấy nó hiền lành, chất phác, lại giỏi giắn, tui kêu ở ở rể.

- Cháu Lụa có chịu không? – Tư Kiên thoáng đâm chiêu.

- Sao lại không! Nó giống như má nó hồi đó.

- Vậy anh…?

Đêm đó, trên sạp ghe bồng bềnh, dưới ánh trăng non huyền hoặc, Tư Kiên, Năm Cường cùng mấy người khách miệt vườn khác uống rượu đế với cá lóc nướng trui. Sau mấy ly “chào sân”, Năm Cường thổ lộ:

- Tại mấy ông không biết, hai mươi năm trước tui cũng như mấy ông thôi. Quê tui ở Gò Công. Năm bảy tám, bảy chín, hạn hán dữ lắm, mùa màng thất bát triền miên, cái đói khổ chồng chất lên nhau. Do đó mà cả nhà tui bồng bế nhau chạy về đây kiếm sống. Đứa em gái tui được người ta thương nhận làm dâu… đổi lấy năm táo gạo để tui nuôi ông bà già – Giọng Năm Cường nghèn nghẹn – Sau đó, hễ tới vụ là xuống ghe xuôi về dưới này cắt lúa mướn. Lúc đó tui cắt giỏi lắm, từ sáng tới trưa là tui làm đứt một công. Ông già vợ tui bấy giờ thấy tui siêng năng có nhã ý gả vợ tui cho tui. Chuyện đời nghĩ cũng lạ. Nhiều khi tự mình không thể tính được mà ông trời ổng tính dùm. Mấy ông nghĩ coi, tui đang nghèo chết mẹ chết cha, một cục đất chọi chim cũng không có, lang thang lứ thứ làm thuê làm mướn lấy tiền đâu cưới vợ. Đùng một cái, có vợ con, nhà cửa đàng hoàng, có đất đai để mần ruộng. Bởi vậy mới nói, con người ta sống cốt ở cái tình, cái nghĩa, cái đạo đức mới thơm lâu, cho dù có vàng lu vàng hủ cũng không đổi được.

- Chị chịu lấy anh à? – Người đàn ông ực xong ly rượu, khà một tiếng rõ to, hỏi.

- Nghĩ lại hoàn cảnh của mình tui ngại lắm! Sau này cưới nhau rồi, tui hỏi cổ không chê tui nghèo hả. Cổ nói: Nghèo gì, nghèo thì em đâu có lấy anh!

Giọng hài hước của Nam Cường làm mọi người bật cười lớn như đánh thức cả một khúc sông xa. Và, câu chuyện về anh cũng kéo họ xích lại gần nhau hơn. Họ nâng ly chúc mừng. Chẳng biết mừng cái gì, nhưng chắc chắn rằng trong đó có sự đồng cảm, có một lối đi chung. Tư Kiên ngập ngừng:

- Có điều này… tui hỏi nhưng anh đừng giận!

- Giận cái gì? – Năm Cường nhíu mày.

- Thì anh hứa đi!

- Hứa.

- Có phải vì… anh như vậy nên… đối xử tử tế với bọn tui?

Im lặng. Tiếng gió chướng vi vu bên tai. Tiếng sóng vỗ vào mạn xuồng ọc ạch. Cả tiếng hò, tiếng hát ngêu ngao của khách miệt vườn từ xa vọng tới. Một khắc chờ đợi câu trả lời trôi qua, Năm Cường trầm ngâm:

-Tui không biết nói sao nữa. Vì tui không thể nói đúng, cũng không thể nói sai. Nhưng chắc anh Tư với mấy ông đây thấy những người cố cụ ở đây từ đời này sang đời khác, đâu có ai khinh rẻ tụi mình. Họ không nghĩ đồng tiền là trên hết. họ biết sống lắm!

-Hay! Phải đó, anh nói chí lí, rất chí lí. Nè, ly rượu này cạn nghen. Một trăm phần trăm.

Tiếng vỗ tay lốp bốp, vỗ đùi đen đét và tiếng cụng ly lóc cóc vang lên nối tiếp nhau tạo thành một âm thanh kỳ lạ đến mê hoặc, níu kéo những người khách lạ. Họ vừa uống vừa rỉ rê tâm sự cho tới khi ngà ngà say, họ bắt đầu hò. Ban đầu thì một người hò, sau đó thì năm bảy người cùng hò. Giọng hò không hay lắm, không nhuần nhuyễn lắm, nhưng chứa đựng tất cả nỗi lòng của những người khách miệt vườn cứ trôi dài trên dòng sông lạnh vắng:

“Đạo nào vui cho bằng đạo đi buôn

Xuống bể lên nguồn gạo chợ nước sông”

“Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng

Nước xao, trăng dợn biết rằng về đâu?!”

*

Chẳng hiểu sao khách miệt vườn khi đã đến nơi thường hay ngã bệnh, không biết có phải do lạ chỗ, lạ nơi, không quen với thời tiết khí hậu; hay vì mấy ngày đi đường dầm mưa dãi nắng cho chuyến hành trình; hoặc sau thời gian nhàn rỗi công việc đồng áng, nay ra ngoài đồng “nắng không ưa, mưa không chịu, ghét gió, kỵ mù sương”… nên ngã bệnh?! Nhưng dù cho thế nào đi nữa, những cơn bệnh xoàng như: cảm, ho, sổ mũi, sốt… cũng làm cho khách miệt vườn khốn khổ lắm rồi. Khi ấy, không thể đi làm mướn được, nghĩa là không làm ra tiền, thiếu cái ăn, hụt cái khoảng để dành đi về xứ. Trên mặt họ lại hằn lên những vết chân chim và tóc trắng trên đầu cũng tăng lên gấp bội. Nếu người xưa gặt lúa dưới trăng có phần tao nhã và đưa duyên trai gái thì với khách miệt vườn, đặc biệt là những gia đình có người bệnh, thì đó là thời gian quý báo để tăng thu nhập, một kiểu “tăng ca” bất đắc dĩ để kiếm tiền. Nhớ hồi tết năm ngoái, chú Chín Bún không có tiền về quê do thiếm Chín bị sốt, bao nhiêu tiền bỏ ra trị bệnh, trong khi đó phải nuôi thêm ba đứa con nhỏ. Vợ chồng Năm Cường năn nỉ riết chú thiếm Chín mới chịu lên nhà ăn tết với gia đình. Cũng bánh trái no nê, cũng nhậu nhẹt li bì, cũng ca múa rình rang trong mấy ngày xuân. Anh chị Năm Cường xem chú Chín Bún như người một nhà, như anh em xa cách lâu ngày mới trở về, những mong xoa dịu phần nào nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ bàn thờ gia tiên lạnh lẽo trong lòng chú Chín!

Nhưng, với gia đình Tư Kiên thì hoàn toàn không. Ngót hai mươi năm xuôi ngược, dù nắng - mưa - sương - gió cũng chẳng hề hấn gì. Đã có lần Tám Khỏe khen: “Gia đình anh có phước thiệt, mần vậy mà mạnh cùi cụi, khỏe như trâu!”.

Sáng nay, vợ chồng Tư Kiên cắt lúa cho bác Bảy Thòn. Bác Bảy được mười công tầm đứng, trồng lúa hết, chín vàng ươm một lượt. Bác chia cho ba “mối”, riêng Tư Kiên ưu tiên bốn công, vì kỹ thuật gặt lúa bằng lưỡi hái trên ruộng lúa ngắn ngày của anh gần như tuyệt đối, gấp đôi người ở đây. Mấy đứa nhỏ đi mót lúa gặp đám lúa của anh gặt thì ngày đó về tay không, chả lượm được bông nào cả. Còn vợ Tư Kiên “chân yếu tay mềm” cũng ngang ngửa với chồng, cũng một chín một mười. Từ năm giờ sáng tới giờ, mặt trời lên được chừng hai sào, vợ chồng Tư Kiên đã cắt đứt một công, gom lại từng bó đàng hoàng. Tư Kiên ngồi nghỉ mệt vấn thuốc trên bờ mẫu, chị Tư lấy chén rót nước trong ấm đưa cho chồng.

- Đằng này có hố bom, cá ục nhiều lắm. Để tui lấy tay lưới thả xuống kiếm vài con cá dìa ăn.

Nói là làm. Chị Tư xắn quần lên tới đầu gối, lội vòng theo mé hố bơm. Được vài bước, bỗng chị giật nay người rồi nhảy lên bờ, ngồi bẹp xuống ruộng.

- Gì vậy? – Tư Kiên vừa nói vừa đi về phía vợ.

- Miểng.

- Miểng gì?

- Không biết.

Tư Kiên bồng vợ đưa lên bờ mẫu. Máu dưới bàn chân dính đầy sình của chị chảy ra, rớt dài theo lối đi. Tư Kiên vội lấy ấm nước rửa chân cho chị. Những mảng sình đất trôi đi, dần dần lộ ra vết cắt rấn bén, sâu huấy, thịt lòi ra trắng huế giữa màu đỏ ối của máu. Da bị đứt giạc ra hai bên tạo thành “cái miệng” dài khoảng ba phân, nằm giữa lòng bàn chân. Năm ngón chân co rút từng đợt làm cho những đường nét nhăn nhó đau đớn trên gương mặt rám nắng của chị càng thêm khắc khổ. Mấy người cắt lúa gần đó chạy xúm lại rối rít:

- Trời ơi! Máu ra nhiều quá, kiếm vải băng đi.

- Vải ở đâu đây! Nè, tháo cái quay nón lá kia.

- Khoan khoan, để tui nhổ cỏ cứt heo cầm máu mới được.

- Lá lúa thì có. Thôi băng đỡ đi, vô nhà kiếm thuốc bó sau.

- Anh Tư cõng chị về trước, đồ đạc lát nữa tui xách vô cho…

Mọi người lo lắng vậy nhưng rồi cũng đâu vào đấy, hình như với họ mấy chuyện tương tự như vầy đã quá quen, đã gặp nhiều nên xem ra rất bình thường.

Tư Kiên kề vai cõng vợ đứng dậy bước đi chậm chạp. hai cái bóng chồng lên nhau ngã nghiêng trên đám ruộng vừa gặt trơ gốc rạ.

*

- Thịt chị Tư độc quá, mới qua một ngày mà sưng húp hết trơn. Anh có đưa chị Tư đi chích ngừa chưa? Coi chừng bị phong đòn gánh đó.

- Bác Bảy nói để bác lo cho.

Tư Kiên thở dài. Tiếng thở rõ hơn tiếng thì thầm của sóng, tiếng reo của gió và tiếng kêu của côn trùng. Tiếng thở làm cho đêm cựa mình trở giấc.

- Hay là anh đưa chị lại nhà tui! Nhà rộng, vợ tui chăm sóc tiện hơn. Bác Bảy lớn tuổi rồi.

- Bữa qua chị Năm có gợi ý, nhưng bác Bảy không chịu. Vã lại, ngày mốt đám cưới cháu Lụa, khách khứa đông, phiền phức lắm!

- Có gì đâu. Mọi việc tụi nhỏ lo hết, mình rảnh tay rảnh chân mà!

- Bữa hổm anh nói mướn… cái gì… dàn đờn dàn điếc gì đó, được chưa?

- Ờ. Ở đây là vậy đó. Phải có trống đờn, ca hát suốt đêm mới là cưới. Tụi thanh niên khoái lắm, vừa nhậu vừa ca mấy đêm liền cũng không thấy mệt. Bữa thằng Tân con anh Tám Lượm cưới vợ, nó mướn dàn đờn ngoài xã gần triệu bạc mà không hay. Mấy tay đờn dở ẹt, tui ca bài xàng xê mà mấy chả cứ rao hòai vô không được! Kỳ này tui dành dụm mót tái kiếm hai triệu chơi dàn đờn trên huyện, có mấy tay đờn chuyên nghiệp giỏi lắm. Tới bữa đó anh coi, mê chết luôn!

   - Hai… triệu?

Tư Kiên đang vấn thuốc bỗng trố mắt nhìn Năm Cường. Rồi Tư Kiên cúi đầu như để che giấu sự hổ thẹn với chính mình vì suy nghĩ đó. Năm Cường vỗ vai Tư Kiên, cười giả lả:

- Mới lần đầu ngồi sui ngồi gia cũng phải cố gắng chứ anh!

Trăng giữa tháng lên đến đỉnh đầu. Màu sáng huyền dịu vỡ òa trên mặt sông. Ghe của khách miệt vườn chèo vội, rẽ sóng lấp lánh. Bất chợt, một chiếc ghe tam bản có mui dừng lại cặp sát ghe Tư Kiên.

- Anh Tư Kiên phải không?… Dìa trển liền đi, con Nhân mổ ruột thừa trong bệnh viên ớ.

- Cái gì? Anh nói… nói… cái gì, anh Tám? – Tư Kiên nhổm dậy như ngồi phải lửa.

- Nửa đêm hôm kia, con Bé Hai chạy qua kêu tui nói con Nhân đau bụng dữ. Tui qua thấy nó ôm bụng oằn oại, tui liền đưa nó lên xã. Xã nói nó bị đau ruột thừa nên phải chuyển nó lên huyện cho người ta mổ. Hiện giờ dì Út đang ở trỏng với nó.

- Dì Út! – Tư Kiên lẩm bẩm như kẻ vô thức ngồi bệt xuống sạp ghe.

Khốn khổ thay, chuyện này chưa qua chuyện khác đã tới. Cái nghèo nàn đã bám víu còn vướng cái khó khăn. Vợ nằm một nơi, con nằm một chỗ như cái đòn gánh đè nặng trên vai. Lục túi lấy tiền, mấy chục ngàn đem theo làm lộ phí đã hết. Lúa mới cắt hai công được ba giạ nhưng chủ chưa tuốt hạt làm sao đong? Chẳng lẽ phải dắt díu nhau về quê để rồi ba ngày tết lấy đâu thịt cá, bánh mứt cúng ông cúng bà, lấy gì mua quần áo mới cho con? Mà chèo ghe cũng mất hai ngày đêm, con Nhân ra sao? Dì Út thì nghèo, lại thêm sáu đứa con nheo nhóc, què quặt! Tư Kiên ôm đầu, vò đi vò lại mớ tóc khét nắng.

- Tui còn gần trăm ngàn nè, anh lấy sáng mai đi xe dìa trển coi tình hình sao.

Tư Kiên ngước nhìn Tám Khỏe. Anh không cầm lấy tiền cũng không trả lời, lại cúi đầu như thể kìm nén cái yếu đuối của thằng đàn ông sắp tràn ra khóe mắt. Hồi lâu, bờ vai Tư Kiên run lên nhè nhẹ. Khi có một bàn tay đặt lên vai, anh như bừng tỉnh.

- Anh cầm hai triệu dìa lo cho cháu Nhân, để chị với thằng Ái ở lại đây. Khi nào xong anh trở xuống.

- Năm… Cường!

- Anh đừng ngại. coi như tui mướn xong dàn đờn cho con Lụa… Cầm đi! Anh là ba, tui cũng là ba mà!

Tư Kiên ôm chầm Năm Cường, mắt ngân ngấn nước. Chiếc ghe chao nghiêng tạo nên những con sóng lăn tăn chạy vào bờ như dòng sông đang lặng yên bỗng giật mình thổn thức, nghẹn ngào!

Đói ăn rau - Đau uống thuốc

Chạng vạng. Nghe điện thoại reo, dì Hai lập tức nhìn đồng hồ. Chưa tới giờ các con gọi về. Dì không phấn khởi lắm, nhấc điện thoại a lô. Đầu dây kia vọng lại giọng nói vừa ồ ề vừa nhão nhoẹt.

- Mẹ…

Thì ra con gọi về. Biết ngay thằng này là thằng nào mặc dù ba đứa con trai có giọng nói giống nhau. Anh và em của thằng này luôn nói câu đầu tiên là “Con nè mẹ”. Riêng thằng này nhề nhệ nhõng nhẽo gọi mẹ trước rồi nói gì nói sau.

- Kêu về sớm vậy? May mà mẹ mới ra khỏi toa-lét. Bằng không ở trỏng nhấp nhổm khổ sở.

Con cười hí hí:

- Ai biểu mẹ không xài di 

động chi.

- Thôi thôi. Chú Năm Vũ của con làm nghề sửa điện thoại di động nói phần nhiều di động hư vì bị lọt vô bồn cầu, con quên hả? Ngày qua bình yên. Mẹ khỏe. Con ăn cơm chưa?

- Đang ăn. Con đang ăn ở 

P-H đây.

Dì Hai kêu lên:

- Ủa, mắc mớ gì con ăn ở đó nữa? Mẹ đã nói rồi, con làm nghề tự do, đồng lặn đồng mọc, bữa đực bữa cái. Ăn xài lớn hối không kịp.

 - Mẹ, hôm nay xong công trình, chủ nhà đãi khách mời con luôn. Con bận nhiều việc mà từ chối không được.

- Ứ hự. Nghe nói kinh tế khó khăn mà thiên hạ cứ ăn 

xài lớn.

- Mẹ đừng lo. Người ta giàu có vô thiên lủng. Nhà xây to như đền đài, tiền trang trí nội thất lại hơn hẳn tiền xây cất. Một bữa tiệc này chẳng nghĩa lý gì đâu.

Dì Hai nhớ ngay cái ngày cách đây hơn hai mươi năm, dắt con lên Sài Gòn cho nó thi vô Đại học Mỹ thuật trong khi bạn bè nó ùn ùn kéo theo ngành kinh tế như cá tép theo đăng vô nò. Thằng nhỏ từ ba bốn tuổi đã đụng đâu vẽ đó, vẽ đủ thứ, vẽ gì giống nấy, làm sao cản không cho nó đi học vẽ? Thời may, thầy cô trường vẽ đều là nghệ sĩ, yêu thương học trò bất kể… lý lịch, dìu dắt học trò qua thời kỳ khó khăn cùng tột bằng bản chất nghệ sĩ cao cả. Thằng con giúp đỡ gia đình tận vùng kinh tế mới ngay khi còn ngồi ghế nhà trường.

- Mẹ ơi, cô dắt tụi con đi làm.

- Mẹ ơi, thầy kiếm việc cho tụi con làm.

Mùa thực tập bạn bè trường vẽ rủ nhau về nhà ta để vẽ quê hương đổi mới. Đêm ngủ chen chúc trên gác xép, sáng dậy một đứa xướng lên: “Bây chừ mình đi đến một nơi đầy thơ mộng đây!” Cả bọn nhao nhao: “Cho theo với, cho theo với!”. Con dặn: “Ra xưởng của ba tao lấy mỗi đứa một cái xẻng.”

 Từ khi ra trường đến nay, vốn siêng năng, không bao giờ con thất nghiệp. Người giàu luôn cần con đem đến cho họ cái đẹp. Nghề nghiệp của con giúp con gần gũi người giàu. Dì Hai luôn lo con mình học đòi hoang phí. Cái hay cái tốt khó bắt chước, thói hư tật xấu tiêm nhiễm lúc nào không hay.

- Mẹ ơi mẹ, rau choại mọc đầy trước nhà mình đã vô nhà hàng năm sao rồi. Tên của nó trên mơ-nu là “rau cọng dài”. Con đang ăn món “rau cọng dài xào bơ tỏi”.

Dì Hai trở về hiện thực.

- Ờ ờ… Họ đặt tên như thế chắc để người ngoại quốc dễ hiểu.

- Mẹ ơi, nhưng mà rau cọng dài xào bơ tỏi không ngon bằng rau choại luộc chần của mẹ. Mẹ nhớ hái, luộc chần bỏ bịch ni-lông để tủ lạnh, tụi nó về thì gởi cho con. Tháng này con ăn chay cầu nguyện cho vong hồn bà ngoại.

- Ờ ờ…

 Dì Hai ậm ừ, buồn rũ.

*

Từ khi có lũ, vùng Đồng Tháp Mười đẹp hơn với những con đê uốn lượn bên những bờ kênh. Kênh đào tất nhiên thẳng tắp, mà đê thì uốn lượn bởi chỗ cao chỗ thấp. Rặng tràm bông vàng ven đê cũng nhấp nhô theo như cây rừng trên cao nguyên. Đôi lúc đi qua một khúc quanh dày đặc tràm bông vàng, không khí chợt mát lạnh không khác Đà Lạt. Rau choại cũng mọc theo triền đê, ngút ngàn, vô số kể. Thời xưa nhà tre vách lá, ông bà mình còn rút dây choại phơi ngâm để chằng, để cột. Bây giờ nhà tôn cột bê-tông, không ai cần loại dây siêu bền này nữa. Chột choại lủi nhanh như rắn, tới đâu, làm choại phát triển tới đó. Lá xanh mơn mởn, đọt mập ú mỗi ngày mỗi trồi lên, thành món rau ngon cho người thôn quê thời buổi bắt cá bằng “xiệt điện”, bẫy chim bằng cát-sét khiến chim trời cá nước bặt tăm. Mua gói mì giá rẻ mỏng tang, chế nước sôi vào phải độn nắm rau mới tạm no lòng. Người ta đã thử dùng đủ loại rau vườn, rau dại: rau lang, rau muống, rau má, rau đắng, rau ngót, càng cua… đến rau choại thì A! đây rồi! Mì gói trụn rau choại ngon nhất, cọng rau giòn rụm, ngọt vị cá thịt. Từ đó mỗi khi đi làm về, ai cũng tranh thủ càn vào bờ choại, ngắt một nắm. Người nào phát hiện chột choại lủi dưới đất thì la lớn vui mừng “Chột choại thì chấm nắm nêm…” (ca dao).

Cho đến một hôm kia…

Trong xóm có người ra nghề hái đọt choại bán. Ai cũng ngỡ ngàng khi vắng mặt người đó trong mấy tốp công làm cỏ khóm, còn bờ choại thì liên tiếp mấy ngày trụi lủi không còn cái đọt nào. Thông tin nhanh chóng cho biết, chị Bảy Quýt hái một ngày mười ký đọt choại, cân tại chỗ cho lái bảy ngàn một ký, còn nếu chịu khó chở ra chợ Bưng thì cân được mười ngàn một ký, đếm tiền cả trăm ngàn. Tiền công làm cỏ khóm một ngày ít hơn số tiền đó.

Lập tức chị Bảy Quýt được tập thể làm việc ngay trên hiện trường. Tốp làm cỏ khóm về sớm, bắt gặp con người nhạy bén với kinh tế thị trường đang thoăn thoắt hái rau choại 

trên đê.

- Ê bà Bảy, bà làm coi hổng được nghen. Bà mua đứt khúc đê này hồi nào vậy? Rau mọc ở đây để mỗi người hái một nắm về ăn, tự nhiên bà hái bán! Bà chơi cha người ta hả?

Chị Bảy Quýt cúi xụ mặt. Hôm sau đạp xe đạp đi hái chỗ khác xa hơn, chừa khúc đê gần xóm cho tập thể bà con.

Dì Hai lâu lâu cũng ra bờ đê hái một nắm vừa đủ ăn. Sở dĩ có rau chần dành gởi cho con là nhờ, một đôi khi, trời tối mịt rồi mà dì để ý thấy đọt rau hãy còn nhiều. Khi ấy, lập tức dì Hai thi triển khinh công, sử dụng liên tiếp nào lăng ba vi bộ, nào thần hành bách biến, thân pháp vô cùng ảo diệu, tay xách bịch ni-lông, tay kia dùng sở học của tổ sư phái Kiếm tông Phong Thanh Dương, vừa ngắt ngọn rau vừa đập muỗi, nhanh như điểm kiếm, chỉ mấy khắc sau đã được một bao đầy. Coi như tập thể dục sai giờ, cộng với niềm hưng phấn, vui vì món “đặc sản” làm quà cho con, có khi đêm đó dì Hai thức trắng.

*

Rồi lại đến một hôm…

Lúc đó độ bảy giờ sáng. Công lao động ngoài bờ đi làm từ sáu giờ, còn với người già loay hoay trong nhà làm việc vặt thì bảy giờ thấy gì xong. Đang lu bu với đủ việc không tên thì dì Hai bỗng nghe tiếng trẻ con bập bẹ, ư e hát trước đê. Dì chạy ra xem thì thấy một đứa bé mới biết đi, bận bộ đồ thun quá khổ, ý chừng bận khín, không rõ trai hay gái, đang chạy lững chững trên đê, vừa chạy vừa hát bằng những âm thanh ngọng nghịu.

- Ủa, con ai đây?

Vừa lúc dì thấy đàng xa, một chiếc xe đạp cùi không chống nằm mẹp bên lùm choại, còn lùm choại nhúc nhích, rột rẹt khác thường. Một người đàn bà bụng bầu sắp đến ngày sanh, đội cái nón vải cũ, áo quần lam lũ đang lầm lũi hái đọt choại bỏ vô giỏ đệm.

- Cháu ơi, cháu phải coi chừng con. Đường này có xe máy chạy ẩu lắm đó.

Người hái rau nghe nói thế, hấp tấp chạy lên để ẵm con vào lòng.

- Con ơi là con, má đã dặn ngồi kế bên cái xe đạp mà.

Dì Hai giật mình vì “bà bầu” quá trẻ. Xem chừng nhỏ tuổi hơn đứa con út của dì.

Đứa bé măng vú mẹ đòi bú.

- Í ẹ, xấu quá. Đã nói vú của em bé. Mắc cỡ lêu lêu…

Đứa bé không sờ vú nữa, sờ xuống bụng mẹ:

- Em… em…

“Đứa thôi nôi, đứa đầy tháng”. Dì Hai nghĩ.

- Cháu uống nước không? Vô nhà uống nước, nghỉ một chút.

- Dạ cháu có đem theo nước uống.

- Cháu ở đâu lại đây hái rau vậy?

- Dạ ở ngoài chợ.

- Sao biết trong này có rau mà 

vô hái?

- Dạ thấy người trong này đem ra chợ bán.

Dì Hai hạ giọng:

- Chừng nào sanh?

- Dạ chắc hơn tháng nữa.

Dì Hai nhắc lại:

- Phải coi chừng con. Đường quê người ta tưởng vắng nên phóng xe ẩu lắm. Sao không để nó ở nhà.

Bà bầu trẻ cụp mắt:

- Ở nhà ai coi? Ảnh làm phụ hồ, ba tháng trước té thang, bây giờ nằm một chỗ.

Gương mặt non choẹt đầy vẻ cam chịu.

*

Không ai dám nói với bà bầu trẻ chở con theo hái rau choại những lời đã nói với chị Bảy Quýt. Ai nấy giả đò không biết có người mua đứt khúc đê rau của họ. Họ thỏa hiệp:

- Thây kệ, thấy thì hái ăn. Ai hái hết thì thôi.

Tính vậy dễ rồi. Đâu ai biết có trường hợp khó xử như vầy: Người trong xóm vừa hái rau xong thì cái xe đạp cọc cạch vô tới. Bà bầu trẻ ẵm con đứng nhìn bờ choại trụi lủi, buồn hiu.

Dì Hai lại gặp cảnh tệ hơn. Dì đang hái nắm rau thì mẹ con con nhỏ xuất hiện. Tự nhiên dì chết trân, ngượng nghịu lúng túng như mình vừa làm việc quấy. Dì ấp úng:

- Thấy cháu không vô nên dì mới hái nắm rau.

- Sáng nay ảnh bệnh, cháu phải nấu cháo, rước thầy chích thuốc cho ảnh rồi mới đi.

 Dì Hai không dám tự ý hái rau ăn như trước nữa. Chờ cho con nhỏ bụng bầu hái xong, dì mua lại.

- Cháu để cho dì nửa ký. Cứ lấy bằng giá như cháu bán cho người ta.

Con nhỏ vừa cân vừa nói:

- Dì, cháu mới chia lại. Chứ cân cho lái phải đủ số mỗi ngày. Không đủ rau là không đủ sở hụi của người ta, khó lòng lắm. Bà bầu trẻ cắt nghĩa thêm:

- Nè, cháu hái xong đem ra chợ cân cho lái, lái gửi xe giao cho mối Sài Gòn, lái Sài Gòn mới phân phối cho nhà hàng, quán sạp. Nay mai cháu sẽ dắt em chồng cháu theo để khi cháu sanh thì nó đi hái để giữ mối lái cho cháu. Bây giờ thì nó còn phụ bán quán cơm cho người ta.

Rồi nó dặn dì Hai:

- Hễ thấy ai lạ tới hái rau thì dì nói bờ choại này có người hái rồi 

nghen dì.

Con hoang

Chị trả cho tui năm ngàn đồng!

- Tiền gì mà trả?

- Tiền công tui lụm (thay vì lượm) cái nón cho chị đó.

Cô gái tròn xoe mắt nhìn thằng bé lem luốc, ốm tông ốm teo, đen thui lui. Giọng cô gái vẫn ngọt ngào:

- Chị đâu có nhờ em lượm đâu nè. Tự em…

Nó trợn tròn mắt, vênh mặt lên:

- Sao hồi nãy tui lụm chị hổng cản, bây giờ tui đã lụm rồi thì chị phải trả tiền cho tui chứ!

Cô gái chưa kịp trả lời, nó đã ứa nước mắt, thút thít:

- Chị hổng trả tiền, tui đói, mẹ tui cũng đói. Hồi sáng tới giờ hổng có gì để ăn.

Thấy cô gái ngạc nhiên, anh Tùng chạy xe honda ôm đầu chợ giải thích:

- Em ơi, nó là thằng Con Hoang đó em, con của con điên đằng gầm cầu Bằng Lăng kia kìa. Trả đại cho nó năm ngàn đi, coi như bố thí làm phước hén.

Cô gái móc bóp đưa cho nó mười ngàn đồng. Nó cầm tờ tiền rồi chạy vụt vào chợ, mất hút.

Hồi sinh thằng Con Hoang, mẹ nó hổng có đặt tên. Người đàn bà điên sinh con thì làm gì mà biết đặt tên cho con. Hồi mẹ nó chuyển dạ, dì Năm bán hột vịt thấy tội nghiệp nên đưa mẹ nó vào trạm xá. Sinh xong, dì Năm đặt tên cho nó là thằng Hoàng hay thằng Hoang gì đó, lâu quá rồi cũng hổng ai còn nhớ. Dì Năm cũng quên, ai hỏi dì hồi đó đặt tên cho thằng con của con điên là gì, dì cười khì, lắc đầu bảo ai mà nhớ. Dì Liên bán chuối chiên nói bâng quơ: "Tên của một con người, nhiều khi cũng khó nhớ quá hén!". Còn cái tên Con Hoang ai đặt cho nó, đặt hồi nào thì cũng hổng ai nhớ. Đời mà, biết bao chuyện phải lo, phải làm, ai nhớ chi ba cái chuyện như chuyện tên, tuổi của một thằng nhóc con của một người điên.

Cái tên do dì Năm đặt cho thằng Con Hoang thì hổng ai nhớ, nhưng cái nguyên cớ để xuất hiện thằng Con Hoang thì ai cũng nhớ vanh vách, từ chị bán vàng cho đến chị bán rau đều biết và có thể kể lại rành mạch. Lâu lâu, có người ở xa tới, thấy thằng Con Hoang, hỏi cái thằng con của ai, sao tèm lem tuốt luốt, ốm nhách ốm nhom thì thế nào cũng có người kể rành rẽ, khúc chiết. Mà kể có chính xác hay không thì cũng hổng ai biết. Nhưng ngộ là ai cũng tin. Rồi họ lại kể cho người chưa biết nghe về câu chuyện của thằng Con Hoang. Mà kể lại thì phải sắp xếp ý tứ cho gọn ghẽ, có đầu có đuôi, đôi khi còn thêm, bớt cho câu chuyện hấp dẫn. Lẽ đương nhiên mà.

* * *

Câu chuyện về thằng Con Hoang và mẹ của nó được chắp vá lại như thế này…

Ở chợ Bằng Lăng, lâu lâu xuất hiện một người bệnh tâm thần là chuyện hết sức bình thường. Nhưng kể từ khi con điên xuất hiện trong cái chợ Bằng Lăng này thì mọi việc không còn bình thường nữa. Người ta gọi nó là con điên vì hổng biết nó tên chính xác là gì. Chị Sáu bán xôi vò hỏi, nó nói tên Cát Phượng, hôm sau cô Bảy bán chè hỏi tên gì, nó nói tên Hằng Nga. Cô Bảy cười ngất, nói: "Con nhỏ điên mà biết chọn toàn tên đẹp không hà. Điên gì khôn quá trời hén!". Con điên sống nhờ vào sự đùm bọc của mấy chị tiểu thương trong chợ. Thấy cái áo nó rách, đưa ra những phần nhạy cảm, mấy chị bán rau trong chợ rỉ tai nhau bàn tán, rồi hùn tiền lại mua cho nó cái áo mới. Thấy cái mùng của con điên lủng lổ chổ, sợ muỗi vào cắn, mấy dì bán bánh mì nói với nhau, rồi hùn tiền lại mua cho nó cái mùng mới. Ban ngày, con điên cứ ngồi ủ rũ, đôi mắt vô hồn và nói lảm nhảm cái gì đó mà không ai nghe được. Nhiều lần chị Sáu bán bánh cam rình sau lưng con điên để nghe xem nó nói cái gì, nhưng nghe rồi cũng hổng hiểu. Nhiều người thấy chị Sáu đứng rình cả buổi, nên gặp chị Sáu hỏi: "Ê, con điên nó nói cái gì dạ?". Chị Sáu lắc đầu: "Tui hiểu nó nói gì chết liền!".

Con điên đói bụng cũng hổng chịu nói với ai, cứ ngồi khóc. Mới đầu, thấy con điên khóc, hổng ai biết vì sao nó khóc. Người ta nghĩ điên mà, biết bao chuyện buồn, nhiều khi ngồi nhớ lại, khóc vu vơ vậy thôi. Chị Hoa bán bánh canh hỏi: "Ủa, chuyện cũ là chuyện gì vậy?". Chị Hồng bán bún riêu nói vói qua: "Mầy đi hỏi nó á, ở đây hổng ai biết". Thêm một trận cười nữa từ chủ đề con điên. Một lần con điên ngồi khóc đã rồi ngã lăn ra xỉu, mặt mày xanh lét. Mấy chị bán trong chợ xúm lại, cạo gió rồi đổ sữa, nó mới tỉnh lại. Từ đó, thấy con điên khóc là người ta biết nó đói bụng nên đem cho khi thì gói xôi, khi thì ổ bánh mì chan nước sốt. Còn tối, con điên ngủ dưới gầm cầu Bằng Lăng. Vậy mà con điên vẫn cứ mơn mởn xinh tươi, da trắng ngần, đôi mắt đen huyền, đôi môi đỏ tươi, mái tóc dài đen óng. Điên vậy chứ kỹ lưỡng lắm, ngày nào cũng tắm rửa, suốt ngày cứ lấy kiếng ra soi để chải tóc. Đi đâu ra khỏi gầm cầu là trùm khẩu trang, đội nón, bao tay kín mít. Mấy đứa học trò đi ngang thấy bụm miệng cười khúc khích: "Điên mà cũng sợ xấu nữa kìa, ngộ quá trời hén!". Vậy mới lạ, mới có chuyện để nhiều người bàn tán, suy đoán đủ thứ. Có người nói chắc nó điên vì bị bồ bỏ. Có người lập luận, hổng phải điên vì bồ bỏ đâu, đẹp vầy thằng nào khùng mới bỏ. Nó điên chắc là tại học hành căng thẳng quá hay sao đây nè.

Nhiều cô gái trong chợ cứ tiếc hùi hụi, ước gì mình có được làn da xinh tươi, đôi môi đỏ mọng, đôi mắt to đen như con điên để mấy thằng con trai trong chợ thèm chơi. Còn thằng Bình "bợm" bốc vác dưới bến chợ tấm tắc tiếc hùi hụi: "Đẹp vậy mà sao điên uổng vậy trời!". Cái thằng nói mới lạ, bộ chỉ có người xấu mới bị điên hả?! Đẹp mà điên, vậy mới có nhiều thằng đàn ông đi ngang qua chỗ con điên hay nằm ngủ trưa giả đò ngó chỗ khác, nhưng trong bụng thì hổng phải vậy. Nói có sách, mách có chứng à nghen. Ban ngày, mấy cha đàn ông đi ngang chỗ con điên hay nằm ngủ trưa, cha nào cũng nhắm thẳng một đàng mà đi, nhưng mắt có liếc hông thì hổng ai biết. Có ông còn ngoảnh mặt sang bên khác, như vô tình nói: "Chỗ dạ cầu bộ để cho mấy thằng đái bậy hay sao mà khai chịu hổng nổi". Mắc cười, khai thì sao hổng chịu khó băng ngang lộ mà qua đường, chui xuống dạ cầu chi cho khai nước đái hả trời?! Chị Hồng bán bún riêu có lần đi ngang qua quán cà phê, thấy mấy cha đàn ông ngồi đánh cờ tướng, chị nói bâng quơ: "Mấy cha đàn ông thề là hổng có nhìn lén con điên đi, dám hông? Hổng có nhìn lén sao biết mấy đêm trời nóng nực, con điên phạch áo để ngực trần ngủ? Mấy cha còn tả cái ngực con điên tròn lẳng, cái núm vú nhỏ xíu như hạt đậu đỏ. Hổng nhìn mà biết tới cái núm vú của người ta, lạ quá hén!". Kiểu này thì ban đêm mấy cha nội đi ngang rọi đèn pin vào mùng nhìn người ta ngủ nè (cái này thì mấy chị kể với nhau nói là suy đoán ra vậy thôi chứ hổng chắc).  

Có lần thằng Bình "bợm" nhậu ngà ngà, mấy thằng bạn bốc vác của nó thách: "Mầy mà dám đè con điên hun nó, tụi tao bao mầy nhậu một tuần". Tưởng nó sĩ diện hổng dám làm, ai dè thằng Bình "bợm" làm thiệt. Thằng Bình "bợm" đến tốc mùng con điên, rồi lón lén chui vào. Nó đè con điên ra hôn. Mới đầu nó còn e dè, ngại ngùng nhưng sau vài cái hôn vô hồn, nó bắt đầu vồ vập. Mấy thằng bạn bốc vác của nó thấy vậy vỗ tay bốp bốp ra hiệu cho nó dừng lại: "Thôi vậy được rồi mầy, coi chừng con điên la lên là xấu mặt cả đám nghen". Ai biết nó hôn do rượu hay do cái tính "bợm" gái của nó à nghen. Sau lần đó, thằng Bình "bợm" kết luận: Con nhỏ này điên vì tình!? Mấy thằng bạn bốc vác của nó hỏi sao mầy biết? Thằng Bình "bợm" cười cười: "Vậy mà tao biết mới hay. Tụi bây tin đi!".

Chuyện thằng Bình "bợm" hôn con điên rồi cũng đổ bể. Lúc đầu là mấy anh chạy xe honda ôm ở đầu chợ biết nên chiều, họ rủ thằng Bình "bợm" đi nhậu rồi hỏi: "Ê, mầy hun con điên nó có cự hông?". Vài hôm sau tới mấy anh làm công trong dãy vựa trái cây rủ thằng Bình "bợm" nhậu rồi khai thác: "Ê, con điên nó có hun lại mầy hôn?". Rồi đến anh Thanh chủ quán cà phê Mây Tím, anh Hùng hớt tóc, thằng Bằng con của dì Hai bán thịt heo cũng rủ thằng Bình "bợm" đi nhậu để "chất vấn" về chuyện nó hôn con điên. Thằng Bình "bợm" thích nhậu, nên lúc đầu thấy ai mời thì khoái lắm, cứ nhậu vô tư. Nhưng ai cũng hỏi cái vụ hôn con điên riết nó đâm ra bực mình, thấy quê quê nên ai mời nhậu, nó rào đón trước: "Ok! Hổng hỏi vụ hun con điên thì nhậu vô tư!". Thấy thằng Bình hổng thích chuyện hôn con điên bị đem ra bàn tán, người ta lại càng tò mò, soi mói. Anh Liêm sửa đồng hồ gặp thằng Bình đi ngang ghẹo: "Ê Bình, hun con điên sướng hông mậy?". Thằng Bình độp lại liền: "Ông đè nó ra hun thử là biết liền chứ gì!".

Từ khi cái vụ thằng Bình "bợm" hôn con điên bị đổ bể, đến sáu, bảy tháng sau thì cái bụng con điên lùm lùm. Người có công phát hiện đầu tiên là chị Sáu bán xôi vò. Hôm đó chị Sáu bưng thau xôi đi ngang gầm cầu, chị ghé lại cho con điên gói xôi ăn sáng. Chị Sáu thấy con điên ôm bụng vò vò nên hỏi, nó nói: "Kỳ quá, có con gì trong bụng cứ nhúc nhích hoài hà. Bực mình quá!". Chị Sáu nhìn kỹ thì thấy cái bụng nó lùm lùm, tại nó mặc áo rộng nên khó thấy. Chị Sáu tá hỏa chạy đi nói cho cô Bảy bán chè nghe. Cô Bảy bán chè nói với chị Hồng bán bún riêu: "Con điên có bầu rồi!". Chỉ trong vòng buổi sáng, hầu như cả chợ Bằng Lăng biết con điên có bầu. Mấy chị, mấy dì bán trong chợ hoang mang không phải vì chuyện con điên có bầu, mà họ bị sốc vì không biết ai làm cho nó có bầu?! Có thằng đàn ông nào đó lấy con điên thì nó mới có bầu được chớ. Nhưng mà ai lấy con điên? Ai vậy trời?

Dì Năm bán hột vịt sốt sắng chạy te te đi tìm con điên. Với cặp mắt của người đàn bà đẻ đến bảy lần, dì Năm chỉ cần nhìn vào cái cổ của con điên là biết nó có bầu liền. Dì Năm dỗ dành con điên: "Con ngoan nè, nói cho Năm biết coi, thằng nào làm con có bầu vậy?". Con điên tròn xoe mắt, ngơ ngác: "Năm nói gì dạ, con hiểu chết liền!". Dì Năm nói huỵch tẹt: "Năm hỏi là thằng nào đè mầy làm cho cái bụng mầy có bầu như vầy nè?". Con điên vẫn vô tư: "Có tới mấy thằng đặng Năm ơi". Dì Năm hỏi tới: 

"Là thằng nào, nói Năm nghe coi". Con điên hồn nhiên, tay cầm nhánh trứng cá phe phẩy: "Để coi, một thằng lùn lùn, mập mập; một thằng ốm ốm, cao cao; một thằng to cao gần gấp đôi con vầy nè; còn nữa mà con quên rồi. hi…hi…i.". Dì Năm kêu trời: "Quân nào ác ôn vậy hổng biết!? Con người ta khùng điên vậy mà đành đoạn nào hại cho đến bụng mang dạ chửa". Con điên vẫn hồn nhiên: "Đâu có ai hại con đâu Năm! Thằng nào cũng nói thương con hết á. Mà con thích nhứt là cái thằng cao to đó nghen. Nó đè con muốn nghẹt thở luôn, nhưng mà thích lắm. hi…hi…i".    

Nghe dì Năm kể lại, chị Hoa bán bánh canh giật mình vì chồng chị cũng ốm ốm, cao cao. Chị Hoa có cái máu ghen bóng ghen gió nên bỏ hàng bánh canh cho con gái coi, chạy về nhà. Chị chóng nạnh hai quai, lườm mắt hỏi chồng: "Con điên có bầu kìa, ông!". Anh chồng đang cho heo ăn, nạt: "Nó có bầu thì kệ nó. Ủa mà sao nó có bầu vậy?". Chị Hoa sừng sộ: "Tui hổng biết nên mới về hỏi ông nè!". Chồng chị Hoa trợn mắt: "Bà này ngộ! Bà hổng biết thì bộ tui biết hả?!". Chị Hoa liếc chồng một cái sắc lẹm: "Tui tưởng ông biết là ông chết với tui!".

Con điên coi vậy mà thương con lắm. Ai xin con, nó cũng hổng cho. Có lần chị Sáu bán bánh cam giả bộ ẵm thằng Con Hoang chạy đi, con điên rượt theo bắt lại, khóc bù lu bù loa. Mà trời cũng thương, ngày nào nước lớn, con điên cũng bồng thằng Con Hoang xuống mé sông tắm cho nó, vậy mà nó vẫn lớn và khỏe mạnh xân xẩn, hổng có tốn viên thuốc nào. Từ lúc thằng Con Hoang ra đời, mấy chị tiểu thương trong chợ lại tha hồ bàn tán, suy đoán tùm lum. Chị Hồng bán bún riêu rỉ tai với chị Hoa bán bánh canh: "Tui thấy cặp mắt thằng Con Hoang to, đen, lông mày rậm coi bộ giống thằng Bình "bợm" dữ à nghen!". Hổng hiểu sao, thằng Bình "bợm" nghe được. Nó nhậu vô ngà ngà, đứng giữa chợ chửi bâng quơ: "Đ.M. con nào nói thằng Con Hoang giống tao, ngon bước ra đây tao vả cho tét miệng! Cái thứ đàn bà nhiều chuyện, lo mà giữ chồng mình kìa!". Từ bữa đó, hổng còn chị nào dám nói thằng Con Hoang giống thằng này, thằng nọ nữa.

* * *

Một sớm mai, trời còn tờ mờ. Thằng Con Hoang hớt hải chạy vào chợ. Thấy dì Năm bán hột vịt ngoài đầu chợ, thằng Con Hoang mếu máo:

- Bà Năm ơi, bà thấy mẹ con đi đâu hông? Mẹ con mất 

tiêu rồi!

Bà Năm hổng thấy, mà cả cái chợ Bằng Lăng cũng không ai thấy con điên đâu. Thằng Con Hoang ngồi khóc hu hu, kêu mẹ ơi, mẹ hỡi nghe não ruột. Dì Năm mua gói bánh bò, dỗ cho nó nín. Nhưng thằng Con Hoang nói không có mẹ, nó hổng ăn gì hết, rồi cứ ngồi khóc rưng rứt. Dì Năm bán hột vịt kêu mấy anh chạy xe honda ôm có chở khách đi thì nhớ để ý giùm coi có thấy con điên đi lang thang đâu đó hông.

Một ngày trôi qua. Hai ngày trôi qua. Con điên vẫn bặt tăm. Thằng Con Hoang cứ đi lang thang, lùng sục hết mọi ngóc ngách trong chợ Bằng Lăng, nhưng cũng không thấy mẹ đâu. Nó khóc kêu mẹ ơi, mẹ hỡi làm mấy dì, mấy chị tiểu thương trong chợ nghe mà rớt nước mắt. Dì Năm theo năn nỉ nó hết lời mà nó cũng hổng chịu ăn uống gì, nó nói nhớ mẹ lắm, ăn hổng nổi.

Sáng ngày thứ ba, không ai nghe tiếng khóc của thằng Con Hoang gọi mẹ nữa. Dì Năm hỏi dì Liên bán chuối chiên: "Hồi sáng tới giờ bà thấy thằng Con Hoang đi tìm mẹ nó ngang qua đây hông?". Dì Liên nói hổng thấy. Chị Bích bán rau cải bên cạnh cũng nói vói qua: "Ừa hén, hồi sáng tới giờ tui hổng thấy thằng Con Hoang à nghen". Dì Năm bỏ mấy thúng hột vịt kêu dì Liên ngó chừng giùm rồi chạy te te đi tìm thằng Con Hoang. Nhưng nó đâu mất tiêu rồi. Cái thằng mới có sáu, bảy tuổi đầu mà biết đi đâu? Ôi cuộc đời, có những thứ thấy tầm thường, nhưng khi mất đi rồi mới thấy nó là một phần trong cuộc sống của mình. Như mẹ con thằng Con Hoang, vắng mẹ con nó rồi mọi người mới thấy sao mà thương họ đứt ruột!

Mấy anh chạy xe honda ôm chia nhau đi kiếm mẹ con thằng Con Hoang, nhưng vô vọng. Đến ngày thứ năm, vẫn không thấy mẹ con thằng Con Hoang trở về. Dì Năm nói với dì Liên, ngày mai dì nghỉ bán để đi tìm mẹ con thằng Con Hoang. Dì nói bâng quơ: "Khi không mẹ con thằng Con Hoang mất tiêu, biệt tăm, biệt tích. Cái chợ Bằng Lăng này ngộ thiệt, biết nuốt người. Buồn chịu hổng thấu!".

Vị cá quê nhà

Nhà tôi nằm ở khúc đuôi miền Trung, thuộc một xã buồn thiu nằm kế biển. Trong vài cuộc cải cách địa giới, Chính phủ lại gom vào miền Nam. Nhưng trong tâm trí của những người quê tôi, họ vẫn là những người miền Trung dãi dầu nắng gió, ăn to nói lớn.

Tuy sát sườn bên biển nhưng xóm tôi không phải là xóm vạn chài mà là xóm Vườn, trồng lúa, thanh long và những thứ rau củ quả nhiệt đới lặt vặt khác. Thiên chức đánh cá và làm muối dành cho xóm Muối, một cộng đồng dân di cư, sát biển hơn. Sự giao lưu dân cư ở quê tôi diễn ra khá đậm đà, thi thoảng người xóm Vườn rỗi chuyện đồng điền vườn tược lại đạp xe xuống biển đi kéo trủ, tựa như những người kéo lưới thuê cho những chuyến đánh bắt gần bờ, để kiếm ít cá tôm mực ghẹ cải thiện bữa ăn. Còn những ngày trăng sáng, biển vắng cá, người xóm Muối chạy ngược lên xóm Vườn mua gạo và bầu bí, rau muống rọc. Thời gian cứ thế trôi qua trong bình yên.

Những ngày hè thiếu niên, tôi thường cọc cạch đạp xe xuống biển để kéo trủ theo phong trào đang dâng lên thành cao trào ở xóm Vườn. Tôi thường ra khỏi nhà từ khuya, sau khi ăn qua loa gói mì tôm có bỏ thêm bánh tráng mỏng, ít cơm nguội còn sót trong nồi và trở về khi trời đứng nắng với một bịch nilông tả pí lù cá tôm, mực ghẹ và cả sò. Tôi rửa sạch cát biển, bỏ hết vào xoong luộc tươi, sau đó vớt ra chấm muối ớt nướng, mùi biển khơi vẫn đọng đầy trên gai lưỡi. Những phút giây hưởng thụ thành quả lao động luôn làm tôi hạnh phúc. Đôi khi trúng lưới có cá mòi, tôi đem về cho má nấu canh chua măng.

Cá nục thì má đi chợ mua rau về hấp cuốn bánh tráng chấm nước mắm me. Những ngày hè của tôi trôi qua trong nồng nàn vị cá biển. Thịt heo đối với tôi và cả những người quê tôi là một loại thực phẩm giàu protein xa lạ và xa xỉ. Những miếng cá xuất hiện dày đặc trong những bữa cơm sáng trưa chiều trở nên quá đỗi bình thường, đôi khi là minh chứng cho một cuộc sống bình lặng và nghèo nàn ở những ngôi nhà kề biển.

***

Tôi xa biển trong những chuyến học hành dài dằng dặc. Những bữa cơm bụi qua loa nhưng tha hồ chọn món. Tôi thường chọn sườn nướng hay thịt kho tàu gì đấy. Tôi hơi bất ngờ rằng khách khứa chọn món cá biển thì phải trả thêm tiền so với những đĩa cơm chọn những món thịt. Tôi thầm nghĩ họ là những người ăn cơm bụi... dại khờ. Tôi ăn thịt như để bù đắp quãng đời thiếu niên ứ hự cá. Vị cá bắt đầu xa lạ trong những chiếc gai vị giác của tôi.

Những bữa cơm trong trường đại học, tôi không được quyền chọn món vì nhà ăn đã dọn sẵn thức ăn tinh tươm, chúng tôi chỉ việc bốn đứa sáp lại với nhau chung một mâm mà ăn. Những bữa thịt cá xen kẽ nhưng bữa thịt vẫn nhiều hơn bữa cá. Tôi bắt đầu ngán thịt và đâm ra thèm cá. Cá Sài Gòn hơi nhạt sau những chuyến vận chuyển, ủ ấp dài về không gian lẫn thời gian. Ấy vậy, tôi vẫn không tìm ra khoảng cách giữa vị cá quê nhà và vị cá xa nhà. Những lần về quê ít ỏi, khoảng cách ấy tôi cảm nhận bắt đầu rõ rệt dần.

Tôi trở lại thành phố, ăn những miếng cá nhạt và đầy màu sắc ướp đá đến buồn bã. Tôi thèm một miếng cá chính gốc quê nhà như thèm được cô bạn cùng lớp khen... đẹp trai, như thèm một lần được tỏa sáng về điểm số. Nỗi thèm trở thành nỗi nhớ. Nỗi nhớ trở thành nỗi buồn của một kẻ xa quê đang trong độ tuổi ý thức về cố hương.

Má lên thành phố, mang theo một thùng ăm ắp cá mòi, cá nục. Má lên lỡ cỡ tuần nhưng cuối tuần tôi mới được ra ngoài theo lệ của một ngôi trường quân sự. Má để cá trong ngăn đá của tủ lạnh nhà chị. Tôi bắt chuyến xe buýt cuối tuần đầu tiên lên gặp má. Má nấu một nồi canh chua măng cá mòi, hấp một nồi cá nục để cuốn bánh tráng như những ngày thiếu niên ở nhà. Má vẽ vào chén tôi đầy những miếng cá.

Tôi lật đật gắp bỏ vào miệng như sợ những con cá trong xoong sẽ búng đuôi về với biển. Cảm giác ngọt lự len đều trong lưỡi. Sự béo ngậy chạy rần rật trên vòm miệng. Bỏ tủ lạnh gần nửa tuần nhưng vẫn nguyên vẹn như lúc còn búng nhảy trong lưới của dân xóm Muối. Tôi nhắm mắt hít vào trong lòng như hít vào miền quê. Vị cá quê nhà lần đầu cảm nhận trọn vẹn. Trong lòng tôi cảm động như muốn bật khóc. Khóc như một kẻ xa quê được trùng phùng cố hương sau cả đoạn đời. Ký ức về một thời niên thiếu bỗng xô ào ạt.

Cuối cùng, không một con cá nào còn sót trong xoong. Má nhìn tôi đầy thương cảm...

Còn nhớ lão nông chăn vịt

Dăm con đường ngang dọc trong cái xã nhỏ bé, khoảnh khắc nào cũng khô khan.

Những trưa mùa hè, đạp xe xách lồng cơm xuống cho nội, nắng rọi thẳng lên đỉnh đầu, cảm tưởng như chỉ cần ai sờ nhẹ vào thì mái tóc... nghệ sĩ sẽ bể ra từng khúc nhỏ, rớt ngập đường như thước phim đầy cô đặc về miền Trung.

Ngày ngày, tạt trên những con đường, tôi đã nảy mầm về một giấc mơ... ôn đới. Đêm ra hàng ba nằm ngóng những phiên gió ít ỏi, ngó mảnh vườn thanh long cằn cỗi dưới ánh trăng, thấy kết cục cái nghèo đã len vào dòng tư duy hồn nhiên...

Miền đất khô khốc chỉ trở nên dìu dịu vào mỗi buổi sáng khi thanh long vô mùa. Đạp xe cộc cạch chở nước, xuyên giữa đồng hoa trắng muốt và huýt sáo véo von đợi ngày quả chín. Ngày quả chín, ngôi làng bỗng đậm nét phố chợ, thương lái từ khắp nơi đổ về, thường là một người đàn ông lái xe và một người đàn bà ngồi đằng sau, hai chân thò vô hai giỏ cần xé, hình ảnh chính thống về những người đàn bà buôn đường dài.

Những cần xé thanh long đỏ au tròng trành ngược xuôi trên con đường còn lởm chởm đất tạo ra sự sầm uất tạm bợ và hiếm hoi vốn chìm trong những cơn khô kéo dài. Ký ức của tôi vào mùa thu hoạch hồi những năm 1990 còn thêm chuyện ba ngồi gom những trái thanh long hàng chôm (bé như trái chôm chôm) cho bò và má ngồi thấm nước miếng để đếm xấp tiền mỏng dính khi chiếc xe cuối cùng của thương lái rồ máy vút đi.

Cánh đồng thanh long đẹp như tranh nhưng nhìn buồn hiu với những anh chị còn thanh tân, đã rát mặt, rát da vì những vết cấu của chùm gai thanh long hình vương miện. Có lẽ mọi người đang muốn một kết cục có hậu hơn của những vất vả triền miên thời thanh xuân.

Nỗi buồn nông sản dứt cơn sau cả thập kỷ dài khi những đóa thanh long nghịch mùa nở trắng đồng vào nông vụ đông xuân. Vòm thanh long nứt gai, quang hợp dưới ngọn nắng đêm sau một ngày ngủ dưỡng trái. Những ngọn đèn đêm thắp lên khắp các mảnh vườn và dàn rộng ra như một thị trấn ánh sáng để thay nắng tắm táp lên những sợi cây gai guốc và im lìm.

Những lúc chong đèn thanh long, tôi đem nia ra ngồi ở đầu mảnh vườn, đọc bài ro ro vì chữ chạy rõ quá, óng ánh trên tập. Ánh sáng như chảy dồn vào tim, hừng hực một giấc mơ về ánh sáng chữ nghĩa, ánh sáng trong những dự báo vô thức.

Khi dàn ánh sáng vừa tắt đi là bình minh ló dạng từ phía cánh đồng, ngôi làng những ngày cuối năm, chưa bao giờ chìm trong bóng tối. Thèm những bữa sáng nhìn hoa đáp bóng cánh xuống giếng nước và hoan vui chờ trái ngọt nghịch mùa. Ngoài chợ, ngoài phố chẳng có bè phái trái cây ngon ngọt rẻ rề như hồi mùa chính nên thanh long ngẫu nhiên trở nên có quyền bính, giá tăng gấp chục lần, nghe phấn chấn cả đầu óc và hừng hực ý chí ra vườn đầy gai guốc.

Trái nghịch mùa được ủ ấp, chăm bón kỹ, trái nào da cũng căng đỏ, bóng lưởng, tai cứng khừ nên tung ra toàn hàng xuất, hàng cồ, không bị thương lái chê ỏng chê eo, không bị liệng vào thúng hàng dạt, hàng chôm... Những hôm thanh long chín đỏ rực làng, thương lái cũng vô ra ồ ạt, ra giá, tự sát phạt nhau giành mua từng vườn - một hiện tượng xã hội kỳ lạ mà người trong xã duyên hải khô cát này lần đầu mới thấy, lần đầu bật cười... ra nước mắt. Vựa thu chuyển từ đẩu đâu về sát xã, xe tải đông lạnh ra vô tấp nập tựa hồ như thành phố lớn, dòm lồng lộng mắt.

Ước mơ về một thủ phủ thanh long thành hình trong những tâm hồn nhỏ tuổi lớn lên trong giao thời. Những trụ thanh long non mọc lên, nối dài bất tận mấy mảnh vườn thanh long già cỗi như nối tiếp những khát khao. Ruộng rộc ao vườn trong làng được san bằng phẳng cho một kế hoạch phủ xanh thanh long trên diện rộng.

Người ta bắt đầu mê làm thanh long. Người ta mê những lúc thương lái vừa ra đi, để cọc tiền có những lúc lên tới chín con số. Những con số có thể xây nhà lầu, sắm tủ lạnh, xe ga và nói chuyện kiểu nhà giàu... Chẳng hạnh phúc nào bất tận bằng ăn bát cơm ngon do mồ hôi đổ hột trên mảnh quê mình...

Tiếng xe máy ồn ã khắp con đường làng, nuốt đi sự yên ắng và nghèo nàn. Trên những chiếc xe ga êm như ru, những giấc trưa sâu giấc trên những ngôi nhà gạch men mát rượi..., chẳng biết có ai còn nhớ lão nông chăn vịt, mùa lạnh đã treo đèn bên gốc thanh long già sưởi ấm cho lũ vịt để rồi tình cờ “phát minh” ra trái thanh long nghịch mùa. Chẳng biết có ai còn nhớ?!

Ăn bông bí mắt thương vàng mật đậm ..

Như bạn đã biết, cái thời xa lắc xa lơ bà con quê mình khúm na khúm núm với liếp rau vườn cà đã không còn nữa, nền kinh tế thị trường đã tác động cực mạnh lên đời sống dân sinh nên nông sản nhà vườn đã có dịp hân hoan đầy tự tin bước chân lên phố làm thay đổi diện mạo, có thể dễ dàng nhìn thấy, từ tấm áo cơ hàn, sản vật quê đã tự khoác cho mình chiếc áo lụa, hay nói " mềm" hơn, từ " vịt con xấu xí", những món ăn dân dã của quê nghèo ra phố đã lột xác thành " thiên nga" tất.

Để minh chứng cho điều tôi vừa nói, có rất nhiều thứ để dẫn chứng ra làm ví dụ; nhưng cụ thể tôi muốn nói ở bài viết này đó là bông bí bạn ạ. Bao đời nay, từ cái màu vàng óng ánh của hoa bí trong bữa cơm rau quê nghèo, giờ đây hoa bí ra phố và trở thành món không dễ mua chút nào hết, bởi giá của nó khá đắt, cao hơn giá gạo ngon xuất khẩu, chưa hết, nó còn " mon men" đến nhà hàng và trở thành đặc sản thượng đẳng. Nói thật lòng, mừng cho bà con nông dân mình suốt ngày bán lưng cho trời bán mặt cho đất vì giá cả của hàng nông sản nói chung đã có lối ra khá bền vững; nhưng nỗi buồn cũng dài và rộng lắm, tôi vẫn muốn nét chân phương của quê lúa ruộng đồng luôn giữ được cái hồn như thuở ban đầu của nó mà thôi. Nói vậy thì thiệt cho con cua đồng, cho cây rau đay, đọt choại, bông bí quá ...Nhưng gặp hồn quê giữa phố mang dáng vấp kiêu sa đầy thách thức ( vì giá ) mà lòng tôi nghe thăm thẳm và rưng rưng nước mắt ...

Nếu có dịp, mời bạn thong dong miệt quê cùng tôi một chuyến. Có thể bạn đã rất nhiều lần ăn món bông bí luộc, bông bí nấu canh, nhúng lẩu, ngon và ngọt đến " mê tơi" phải không, thưa bạn ? Đã bao giờ bạn nghĩ mình thử tìm về và phóng tầm nhìn  bao quát ruộng rẫy để chiêm ngưỡng màu vàng tươm mật của bông bí nằm phơi mình trong cái nắng yên ả của đồng quê chưa ? Còn điều này nữa, tôi cam đoan có nhiều người giật mình : Món bông bí được bà con mình thu hoạch từ bông bí " đực" không thể đậu quả, bạn nên giữ thông tin này để về đồng với tôi nhé, tự tay tôi sẽ chống xuồng đưa bạn ra thăm lúa, trên con kênh nhỏ bèo cám sẽ nhấp nhô cười theo bàn tay bạn khỏa nước, bèo bám theo từng nhịp sào tôi chống vào lớp bùn non dưới đáy ao; xa xa, từng tán lá bông súng xòa ra như bàn tay ngửa lao xao đọng nước; thêm nữa, trên bờ, bạn sẽ được thỏa thích ngắm nhìn từng liếp rau của mẹ tôi, nào là diếp cá, húng cây, húng lủi, những dây bí bò ngoằn  ngoèo xanh thon như con gái mười bảy, riêng màu hoa thì vàng mượt mịn, bừng sáng cả khoảnh vườn xinh của mẹ ... Bạn ạ ! Như thế này đã đủ minh chứng vì sao tôi yêu quê đến cháy lòng mình chưa ?

Trong tôi luôn đau đáu về nơi mình cất tiếng khóc đầu đời. Tôi sinh ra từ đồng đất, những gì thuộc về miền dấu yêu tuổi dại luôn làm lòng tôi xốn xang, chạnh nhớ ...Như  cái màu hoa bí này nè, tâm hồn người viết mong manh lắm, mà tôi là người cầm bút, làm sao không nhói lòng khi chân  quê vén bùn nghêng ngang giữa phố cơ chứ ? Xin bạn đừng cho rằng tôi cực đoan, ngồi bên mâm cơm đầy hương đồng với cá kho trong cái nồi đất sứt một bên quai chứa bao nhiêu là kỷ niệm từ khi bà còn sống, tô canh bông bí nấu với tép như dòng sông kỷ niệm chảy ngược, dội xối xả vào từng mảng phố đã bám chặt hồn tôi, tôi nghe thời gian trầm mặc lắng lại và như thấy một trời vàng mật đậm nhớ thương ...

Từng buổi chợ sau giờ làm, bông bí vàng vẫn nằm chờ đợi những bàn tay nội trợ mặc cả và chọn lựa. Mà, dường như xa xăm lắm, tôi chỉ thích ăn bông bí mắt thương vàng mật đậm từ quê, không vướng bận hơi thở thị thành, bông bí phải còn nguyên sơ bước ra từ ao bùn, quê lúa ...Tôi biết rằng rất khập khiễng, nhưng vì tấm lòng da diết yêu quê, bạn cho tôi được nói, dù chỉ một lần : Nếu có dịp, bạn hãy cùng tôi về quê nhé ! Ở đó tôi sẽ chiêu đãi bạn món bông bí luộc chấm mắm kho hay canh cua đồng nấu với rau mồng tơi ...Bạn biết không, ăn bông bí ở phố, tôi có cảm giác đang xem các cô gái chân dài khoe đùi ở những sàn diễn. Tôi chờ đợi ở bạn cái gật đầu, về để cùng tôi ăn bông bí mắt thương vàng mật đậm ...

ẬU CÒNG ĐƠM ĐÓ TÉP

Lúc chúng tôi ra rả như cuốc kêu thuộc lòng bài "Bà Còng đi chợ mua rau...", tôi vô tình liếc sang phía thằng Công. Nó có vẻ bối rối, mặt đỏ nhừ, miệng lí nhí. Tan học, cả lớp ùa ra sân. không ai để ý Công vẫn ngồi trong lớp, gục mặt xuống bàn, thổn thức... Thằng Mật ngoái lại, thấy trong bọn thiếu người, kêu: "Thằng còng? Còn thằng còng. Chúng mày xem nó lẩn đi đâu". Cả bọn nhớn nhác tìm. Mấy đứa con gái, táo tợn nhất là cái Mít, réo:"Ớ còng...". Thằng Mật đã quay lại, giơ tay bịt miệng ra hiệu im, rồi trợn mắt, dọa: "Nó đang... Chúng mày có biết ngậm cái miệng cá ngão lại không?". Không rõ sợ nắm đấm của thằng Mật hay sợ Công tủi thân khóc to hơn, cả bọn im thin thít, rón rén quay lại, đứa đứng bên cửa sổ, đứa đứng ở bậc cửa ra vào, mắt thao láo... Một lát sau, tất cả lặng lẽ bỏ đi. Bấy giờ chỉ còn tôi đứng ngẩn tò te cạnh cửa lén nhìn Công đang đưa tay áo lên ngang mặt, dụi dụi lau nước mắt. Nó đứng dậy, bỏ cuốn học vần vào cái tay nải khâu bằng vải nâu cũ, đi ra cửa. Thấy tôi, Công hỏi: "Mày không a dua với chúng nó gọi tao là còng à?". "Ưừ, tao đợi mày về cùng. Mà sao mày lại khóc?". Hỏi vậy, nhưng bất ngờ nhớ tới dáng Công , cái lưng cong như con tôm, mặt như cứ úp xuống đất trên cái cổ cò bị đẩy ngang về phía trước, tôi biết mình đã lỡ lời. Hình như Công không để ý, nói: "Tao thương u tao quá. Cứ nhìn thấy tao là u tao khóc...". Nước mắt Công rỉ ra cùng tiếng nói cứ tắc nghẹn dần của nó.

    Buổi tối, ăn cơm xong, cả nhà ngồi ngoài sân uống nước. U tôi bất ngờ bảo: "Con không được gọi Công là thằng. Nó ít tuổi nhưng ở hàng u cơ đấy. Như vậy thì phải gọi bằng cậu". Bố tôi lừ mắt: "Ra thằng cu cá đối bằng đầu hả? Láo! Vậy là hỗn đấy con ạ ! Không gì thì cậu ấy...".

    Không hiểu sao bố tôi ngừng lời, bỏ lỡ một dịp nói tốt về cậu Công để làm gương răn chúng tôi. Nào là thằng bé bằng tuổi các con mà lần đêm mò hôm, đến con ma áo trắng ở cồn Rùa nó cũng không sợ, thả lờ bắt cá mú, đơm đó gom tôm tép; nào là nó vừa chăn trâu vừa mò cua bắt cáy ven sông... Người bé mà đã biết hiếu nghĩa vẹn tròn. Nuôi thân, nuôi mẹ già mù loà đã đành, giỗ chạp họ hàng, cưới xin này nọ, mẹ con Công đều có phong bao đỏ... "Lưng nó còng nhưng lòng nó thẳng, chí nó cao. Từ nay, hễ bố còn nghe nói con gọi cậu ấy là thằng, thì...", ông nhìn cái roi mây cuộn tròn giắt ở góc trái hiên nhà: "Đét, đét... Hai chục roi !".

    Bắt chước cậu họ, tôi nằn nì xin tiền mẹ mua mười cái đó tép. Hôm có đó, buổi chiều tôi ra đồng, nhè cánh ruộng gần cừ Dọc , be bờ, đặt đó, lắp trúm. Công việc xong xuôi, nghe tiếng tôm tép đi rào rào trong chạng vạng, tôi thơ thới đi về, vừ đi vừa huýt sáo. Âấy chết, sao lại "Bà Còng đi chợ...". Ôồ, chỉ có gió đồng nghe thấy. Chẳng có bố. Chẳng có cậu Công...

    Khuya. Tôi đeo một cái giỏ tre lớn ra đồng. Lạnh. Tiếng côn trùng nỉ non. Thi thoảng, một con ếch nhảy tõm xuống cừ từ một mô đất nhô lên trông rất giống ai đó đang ngồi. Tôi bấm hai ngón tay cái vào nhau, lấy can đảm, lò dò đi trên bờ cừ vốn đã thuộc lòng từ những buổi chăn trâu. Bỗng, "tõm". Nước cừ bắn lên người, lên mặt tôi. Ôối trời ơi ! Ma ! Một con ma áo choàng trắng, lênh khênh trên cặp cà kheo, đang huơ huơ một cái trúm tép trên đầu. Tôi trợn mắt, quay đầu chạy, ú ớ kêu. Chân ríu lại, tôi vấp vào một mô đất, ngất lịm. Tôi thét lên khi con ma chạm vào người tôi. Nhớp nháp, tanh lợm mùi tôm tép ươn... Rồi tôi lơ mơ nghe bố nói: "Cậu dọa cháu phải không?". "Em không biết là nó. Giá như bác bảo em trước...".

    Sáng sớm, tỉnh dậy, tôi thấy u tôi đang ngồi nhặt rác lẫn trong tôm tép. Aái chà, những một thúng đầy ! Cậu Công đi ngang nhà, gọi với vào: "Chị đưa lên Cổ Gia mà bán. Chợ Thượng ta tôm tép rẻ hơn cả bèo !". Nói, rồi thở dài, chập choạng đi. Tay vung lên trời. Tất ta tất tưởi...

    Càng lớn lên, chúng tôi càng ít dám chòng ghẹo Công. Từ ngàyê bà cụ mù loà mất, thấy Công hay ngồi thừ hàng giờ trước cửa, tôi rủ đám bạn trong xóm đến nhà cậu, chia làm hay phe nam nữ hát ví cho vui. Ơở đời ai học được chữ ngờ. Hôm cái Mít hát kết với Công, chẳng biết vô tình hay hữu ý , nó hát: "Anh về sắm trái cau vàng- Thì em kết nghĩa đá vàng cùng anh...". Công nghe xong, ứ miệng, chạy xuống bếp. Tôi biết cậu khóc. Thương cho cái phận nghèo mò tôm bắt tép ! Giận cái đứa chanh chua đỏng đảnh châm chọc kẻ cô đơn... Buổi hát tan, tiễn Mít về tới ngõ, tôi tỏ ý trách. Mít tát yêu vào má tôi, nũng: "Thì em tưởng hát thế cho vui. Ai biết trước anh ấy tủi...".

    Cậu Công không tủi mà hi vọng. Vào một buổi hát vui vẻ, cậu bỗng cao hứng nói: "Cô Mít hứa rồi đấy nhé. Tôi mà sắm được cau vàng thì...". Cậu liếc nhanh sang phía tôi, cười. Đang vui, mọi người cho rằng cậu đùa. Mít cũng cười ngặt nghẽo: "Thì em là vợ anh Công !". Cả bọn lại cười nữa, ngéo tay thay cho lời hứa.

    Chiến tranh lan rộng, tôi và đám trai làng lần lượt lên đường ra mặt trận... Trong một trận đánh, tôi bị bom mất cả hai bàn tay, trở về làng cũ với một tấm thẻ thương binh. Cậu Công đến thăm, buồn bã an ủi: "Vẫn còn đơm đó được. Chẳng chết đâu mà sợ !".

    Từ đấy, hai cậu cháu đi thả đó tép chung. Sáng sáng, đổ tép xong, tôi và cậu ra bến sông tắm. Tôi lấy một hòn cuội nhỏ ,cuội đầu nguồn Đạ Dâng, nhờ cậu cọ lưng hộ. Cầm hòn đá, cậu bảo: "Giống quả cau quá. Hỏi vợ đi !". Tôi cười. Hòn đá rơi tõm xuống sông. Hai cậu cháu mò mãi mới tìm lại được.

    Trai làng lần lượt trở về sau chiến thắng ba mươi tháng tư. Vẫn đủ để nhóm một cuộc hát ví. Lần này, cậu Công đòi bạn bè đến hát ở nhà tôi. Hình như nhớ lại lời hứa năm xưa, cậu Công nhìn lướt qua cả bọn, dừng lại ở Mít, hát: "Trầu cay nay đủ cau vàng- Hỏi nàng: Lời hứa với chàng, còn không?...". Mít run lẩy bẩy; tôi tái mặt; trai gái trong nhà cười nói ồn ào cả lên... Cậu Công vỗ vỗ tay, chờ mọi người im bặt mới nghiêm giọng nói: "Đề nghị chú ý: Tôi biết có một chàng đã sắm được cau...". Cả bọn hướng về phía tôi, nửa tin, nửa ngờ. "Đúng ! Cậu ấy...". Tôi chưa kịp ngăn cậu lại thì Công đã chạy vào góc nhà, lễ mễ đưa chiếc ba lô của tôi ra đặt giữa nhà. Cậu Công, sao cậu ác thế ! Cậu sẽ lôi hòn cuội Đạ Dâng thiêng liêng để chế nhạo tôi ư? Mà cậu chế nhạo tôi làm gì... Tôi nhắm mắt lại, kinh hãi tưởng tượng ra cảnh cậu thọc tay vào cóc ba lô và ánh mắt thất vọng của Mít lúc nhìn thấy hòn cuội. 

    "Đây rồi !", cậu Công reo lên đắc thắng. Vết thương nơi hai bàn tay bị mất của tôi đau nhói. Kiến bò theo cánh tay, lan khắp người , chạy dọc sống lưng tôi. Tôi cố chống đỡ sự yếu đuối, mở mắt chứng kiến cảnh người cậu ác độc mưu quật ngã mình... Ô ! Không phải hòn cuội ! Một quả cau ! Vàng chói. Quả cau ấy run rẩy trên lòng bàn tay đang mở ra của cậu Công. Cậu đặt nó vào tay Mít, rồi đẩy khẽ cô về phía tôi. Quả cau rỗng rơi xuống nền gạch,khẽ vang lên âm thanh của một quả chuông vàng. Đám bạn reo như vỡ cả trời đất. 

    Khi mọi người chợt hiểu, Công đã chạy ra ngoài từ lâu. Không có ai ngoài tôi biết cậu đang ở chỗ nào. Vào giờ khuya khuắt như thế này, các đó trúm đặt ngoài bờ ruộng đã ứ chặt tép.

Gã đồng hương

Mỗi lần nhìn thấy gã, tên Tuyển, đồng hương, Minh lại như trẻ con bị trớ, dạ dày như bị lộn ngược, thức ăn chỉ chực tuôn ra, chẳng đủng đỉnh mà sống được. Nhất là khi gã cởi trần, chỉ mặc quần cộc, dáng người nhỏ thó, cái miệng rộng với hàm răng trắng nhởn chuyên xách mé và luận bàn sự đời.

Ngay cả vợ gã cũng tỏ ra khinh thị khi nói chuyện về chồng. Qua câu chuyện của thị, gã hiện lên bần tiện, keo kiệt, làm được mười đồng muốn để dành chín đồng. Từ hay buôn chuyện, Minh đâm ra ghét thị. Chẳng hay hớm gì chuyện một người vợ đi nói xấu người chồng đầu gối tay ấp. Mà thị cũng có hào hiệp gì cho chăng, nên người cứ đét đẹt như con cá mắm.

Phòng của vợ chồng gã ngay lối cổng ra vào nên mấy lần đi về muộn, sà vào trêu đùa với thằng bé con gã, Minh đều bắt gặp vợ chồng gã đang cắm cúi bên mâm cơm. Gọi là mâm nhưng chỉ lèo tèo bát lạc rang, tô canh lõng bõng nước, một đĩa tép rang, cà muối, hiếm hoi lắm mới thấy con cá, miếng thịt.

Ở thành phố này có hàng nghìn người ngoại tỉnh thuê trọ nhưng có lẽ không ai kham khổ như vợ chồng gã. Ai đời vợ làm kế toán mà không sắm nổi cái máy vi tính, lâu lâu lại phải sang phòng “nhờ máy cô Minh một tẹo”. Mỗi thằng con trai đầu lòng hai tuổi đã gửi về quê cho ông bà nội ngoại thay phiên nhau trông nom. Vợ chồng gã cứ tưởng thế là phủi tay, chẳng vướng bận gì, họa hoằn lắm mới mang biếu ông bà đôi ba chục nghìn. Nhưng rồi đến ngày mùa, ông bà lại phải nhắn vợ chồng gã về rước con lên để rảnh tay làm mùa. Sợ mất công, mất việc, vợ chồng gã suốt ngày nạnh hẹ nhau ai xin nghỉ để ở nhà trông con. Có hôm Minh mệt nằm ở nhà, hai vợ chồng không phân thắng bại lại “gửi nhờ cô Minh một lúc”. “Một lúc” của vợ chồng gã là hơn nửa ngày. Vừa ốm sốt, mệt mỏi, lại gặp thằng bé hay quấy, Minh vừa phải trông chừng vừa than thân trách phận sao lại ở cùng xóm trọ với vợ chồng họ Kiết.

Cuối cùng vợ chồng gã cũng cắn răng mang thằng bé đi gửi cho người ta trông giúp. Vợ gã gặp Minh, mặt nhăn như cái bị, phàn nàn như cô vừa đánh cắp tiền tỉ mà thị tích góp cả đời “Chỉ trông chừng với cho ăn trưa mà mỗi tháng mất đứt hơn triệu. Thế này nghỉ làm ở nhà trông con cho xong”. Minh thắc mắc “Ô hay! Thế mà mãi giờ chị mới nghĩ ra à?”. “Dưng mà cái gã chồng chị ấy. Cứ tham công tiếc việc hộ chị cơ. Làm hợp đồng chứ viên chức gì mà lo. Chị chỉ đẻ thuê hộ nhà nó thôi. Đẻ được mà không nuôi được thì đừng có ham. Cái hạng người như thế khó mà khá lên được, Minh có công nhận không?”.

Minh chả công nhận, cũng chả phủ nhận. Vợ chồng gã cá mè một lứa, cùng hội cùng thuyền, xứng đôi vừa lứa thế còn gì. Không ai nói gì thì thôi, hễ tóm được người nào trong xóm trọ là gã cứ dông dài, phê bình, kiểm điểm, dạy dỗ, giáo dục như cán bộ quản giáo với tù nhân. Thấy Minh lầm lì, ít nói, không nể đồng hương, gã càng ra vẻ ta đây, lên mặt đủ điều. Bạn bè Minh đến chơi, nói chuyện cười đùa một lúc, vừa ra khỏi cửa, gã mắng thẳng mặt. Bật nhạc to một chút, gã khó chịu, cáu bẳn ồn lên. Giặt quần áo mang phơi, gã phạt phăng ra một góc, dành chỗ phơi chăn, còn cằn nhằn thiếu ý thức phơi lấn cả sang dây nhà gã. Người ta đi xe về tới cổng thì tắt máy dắt bộ vào, gã cứ trờ thẳng tận cửa, lắm bận tông vào cả đít xe Minh. Cả xóm chẳng ai coi vợ chồng gã ra cái cóc khô gì, gặp không thèm chào, bảo không thèm thưa.

Có lẽ chỉ con bé Dịu mới chuyển đến xóm là chào hỏi gã. Mà kể cũng lạ, con bé chỉ chào gã còn vợ gã thì tuyệt nhiên không. Dịu là sinh viên năm thứ hai nhưng đã ra dáng. Nó hay kẻ lông mày xếch lên kiểu nữ hoàng Ai Cập, điệu đi thì chẳng giống ai, lắc hông rất kiêu kỳ.

Chẳng hiểu lý do gì mà cô chủ nhà nhờ gã thu giúp tiền phòng của xóm. Được thể, gã càng tỏ vẻ. Vợ gã cũng được thơm lây, chĩnh chện như phu nhân. Một hôm, Minh đi làm về sớm, thấy Dịu bước ra từ phòng gã, trên tay cầm một xấp tiền. Nhìn thấy Minh, cô giấu vội sau lưng, lí nhí chào rồi bước vội vào phòng mình.

Thế là rõ. Những ngày sau đó, hễ nhìn thấy vợ gã, lòng Minh lại rộn nên một niềm thương cảm. Thị vẫn lắm lời như trước, vẫn chê chồng như chém chả sau lưng và vẫn phàn nàn chuyện cơm áo gạo tiền. Nhưng giờ Minh không còn thấy ác cảm như trước. “Cuộc sống nó xoay đảo con người như thế đấy con ạ. Giả câm, giả điếc, vô tâm, đủng đỉnh mà sống lại hóa hay”. Bà nội thường vuốt tóc Minh, bảo thế.

Minh đã cố gắng đủng đỉnh sống. Nhưng có những điều có cố cũng chẳng được. Nhất là cái chuyện Dịu và gã. Nghi ngờ càng được củng cố khi một lần khác Minh gặp gã đèo Dịu ngoài phố. Con bé ngồi một bên, gục mặt lên lưng gã. Không quen thân mật thiết chẳng ai như thế cả. Tối hôm ấy Minh về muộn nghe vợ gã chì chiết gã tội không nộp đủ tiền lương.

Một tuần sau, cái Dịu chuyển phòng. Hôm nó chào cả xóm để đi, mặt gã như đưa đám. Nhìn nó thất thểu xách túi đồ ra khỏi cổng, hông không còn lắc kiêu kỳ như trước, Minh bỗng thấy thương thương. Kết cục của những người thứ ba bao giờ cũng thê thảm cả, có lẽ con bé đã nhận ra điều này, trước khi bị phát hiện.

Gặp không thèm chào, bảo không thèm thưa, ấy thế mà một năm sau, tin lão chết lại khiến cả xóm trọ bàng hoàng. Gã gặp nạn trên đường chạy xe máy về quê. “Sống giữ của, chết một thân”, ai đó khẽ nói. Chuyện chưa ráo thì cô chủ nhà trọ chạy sang. “Cái Minh là đồng hương hả? Có thu xếp được về đưa tang không?”. Minh định cáo bận nhưng nghĩ thế nào lại gật đầu.

Đám tang gã vào một ngày ảm đạm. Ngoài vợ gã, con gã, nội thân, con bé đi cuối hàng người đưa đám, tay bế một đứa trẻ nhỏ xíu nằm ngoan trong vòng tay. Minh nháy cô chủ nhà.

Đón đứa bé từ tay Dịu, qua lời hỏi han của cô, Minh biết đó là đứa con do Dịu sinh ra. Dịu và gã, chuyện này lại có thể xảy ra sao.

- Ai cũng không vừa mắt với nó, nhưng không ai ngờ nó lại ngấm ngầm giúp đỡ Dịu khi con bé lỡ mang thai với thằng sở khanh. Nó cho con bé tiền để kiếm chỗ thuê trọ khác. Trước hôm đi, con Dịu có sang, khóc lóc, trình bày với cô. Thấy thương, cô sắp xếp cho một chỗ trọ khác. Thằng Tuyển mặc kệ người ta bàn ra tán vào, thỉnh thoảng vẫn sang thăm nom, cho tiền. Không biết nó nói gì mà con vợ cũng xuôi, tin tưởng, giúp đỡ con Dịu mẹ tròn con vuông. Ngay từ đầu, cô đã bảo nó là thằng đáng tin, thế mà chẳng ai đồng tình. Mà thôi, nói ra phải tội người chết.

Minh thắp cho gã một nén nhang, mắt cô cay xè, có lẽ không phải vì khói. Minh biết, trong đời, đôi khi đủng đỉnh mà sống sẽ khó nhìn thấy được những vẻ đẹp ẩn giấu trong những con người bình thường. Minh đã từng rất ghét gã. Nhưng giờ đây Minh thương và thấy mình thật nhỏ bé trước gã

Sư phụ

Gia đình nó giàu. Nó là con một nên được cưng như trứng mỏng. Kể trong nhóm bạn, nó là số một. Giàu số một, ăn xài số một, quậy số một và... học dở cũng số một. Tuy vậy, không thằng nào trong nhóm dám coi thường nó. Nó “chọc trời khuấy nước” từ hồi còn nhỏ. Đến nỗi nó tên thật là Lê Đại Quân mà bạn bè toàn kêu nó là “Lê Đại Quậy”.

Cha mẹ nó đi làm xa, nó ở nhà với ông bà nội. Ông bà nó cũng lớn tuổi đâu thể nào quản nổi nó. Nó quậy đến nỗi ai cũng biết danh. Ngay từ hồi lớp một nó đã dám giấu dép cô giáo hay lén cột đuôi áo dài của cô vô chân ghế. Lên tới lớp sáu nó dám một mình đánh ba thằng bằng tuổi nó gãy răng. Lớp bảy, nó dám lén gài chốt ngoài của cửa phòng khi thầy chủ nhiệm ngồi chấm bài một mình trong phòng. Tóm lại là đủ trò.

Sau khi thằng anh họ của nó ở quê “lỡ” cưới vợ, nó cũng thấy nôn nao. Lớp chín, gần thi chuyển cấp, nó không quậy dữ dằn như trước. Ai cũng mừng. Ngờ đâu một bữa, cha mẹ nó vừa về tới nhà, nó kêu cha mẹ và ông bà nó vào bàn giữa nhà ngồi nói chuyện. Nó nói thẳng:

- Con muốn cưới Hương làm vợ ngay lúc này?

Một câu nói trắng nhách, mặt ông bà nó cũng trắng nhách, còn mặt cha mẹ nó thì xanh lè. Chẳng ai nói nên lời. Tối đó cha nó kêu nó lại:

- Con còn nhỏ lắm, nghĩ tới việc cưới vợ làm chi. Mà đâu ai cho người mới 15 tuổi được phép. Con học hết đại học đi rồi cha mẹ cưới vợ cho con.

Nó nói “Không!” rồi bỏ về phòng nước một.

Đêm đó nó xách ba lô quần áo, đu cây ăng-ten xuống đất rồi bỏ nhà đi. Nó định tới nhà Hương nói chuyện nhưng nhà nhỏ Hương khó lắm, nhỏ cũng đâu có nói là nhỏ yêu nó đâu. Lỡ tới đó làm phiền nhà người ta. Hương sẽ buồn nó rồi sao? Nó quyết định không đến nhà Hương lúc này. Nó lang thang khắp nơi, nó thiếp một tí ở góc công viên rồi giật mình tỉnh giấc, đi tiếp. Sáng sớm nó đón nhỏ Hương ở đầu ngõ, chặn xe lại, nói:

- Quân bỏ nhà đi bụi nè!

Hương trố mắt nhìn nó:

- Sao vậy Quân? Quân về nhà đi học đi. Đi bụi vậy khổ lắm đó, biết không?

- Không! Quân không về? Chừng nào cha mẹ Quân đồng ý cưới vợ cho Quân thì Quân mới về.

Nhỏ Hương cười híp mắt:

- Trời! Thôi Quân về nhà đi. Không có nhỏ con gái nào chịu lấy thằng Quân quậy mà học dở vầy đâu. Quân về nhà đi, đi học lại, cố gắng học giỏi là người ta chịu liền...

Nó khoái chí:

- Thiệt vậy hả? Sao không nói sớm. Vậy Quân về nhà nha! (Nó cứ nghĩ nhỏ Hương đã hiểu tình cảm của nó và đã ra điều kiện với nó).

Nó về nhà, chui vào phòng đánh một giấc trong khi cha mẹ đi tìm nó đỏ trời. Đến khi phát hiện nó thì cả nhà mới thở phào nhẹ nhõm. Cứ nghĩ ông con này đang quậy một trò nào đó như mọi khi mà thôi. Không ai nghĩ nó đang muốn gì.

Cố gắng lắm nó mới đậu vào lớp mười với số điểm cao hơn điểm sàn không phẩy hai mươi lăm điểm. Hình như nó có cố gắng trong học tập nhưng quậy thì vẫn còn quậy. Một buổi học, nó phát hiện ra khóm hồng nở hoa đỏ tươi ở bên ngoài hàng rào, bèn quyết định leo rào qua hái cái bông đó. Hậu quả, nó bị bắt lên văn phòng. Cộng hết tội tình bấy lâu nay của nó. Nó bị mời phụ huynh vào trường để trao đổi. Nó làm gì dám đem thư mời cho ông bà nó đi họp. Lỡ ông bà nó tức quá lên máu rồi sao. Còn ba mẹ, nếu phát hiện nó quậy như vậy thì chắc chắn sẽ cắt năm trăm ngàn tiền thưởng “ngoan” hàng tháng. Nó buồn bực ra ngồi trên chiếc xe cà rem của ông già mà nó hay gọi là “sư phụ”. Nó nhờ “sư phụ” giả làm ông ngoại nó đi họp giùm nhưng ông già không chịu. Nó năn nỉ ông, nó khóc trước mặt ông. Giang hồ mà khóc lóc trước một ông lão bán cà rem nghèo mạt này thì còn gì là danh dự. Ông thấy thằng nhỏ tội nghiệp quá, bèn liều mình đi họp cho nó. Họp xong ra, nó mua cho ông hết xe kem để đãi bạn. Nó ăn mừng thoát nạn và đền đáp ông già vào vai y như thật... Ông già lắc đầu lấy từng cây kem một cách buồn bã và chậm chạp đưa cho nó.

Từ đó ngày nào nó cũng ghé xe kem của ông. Nó khoái ông già vui tính mà hiểu tâm lý nó vô cùng. Nó leo lên xe lắc chuông leng keng leng keng vang trời. Nó quậy ông hết chỗ nói. Nó kể ông nghe chuyện tình của nó. Nó nói cho ông biết những chuyện bực mình trong lớp và thậm chí cho ông biết trước lịch quậy của nó. Lần nào cũng vậy, ông già kể nó nghe những câu chuyện đời, chuyện ở trong tù, chuyện éo le ngang trái của những bậc đàn anh một thời lừng lẫy... Ông khuyên nó dằn cơn quậy xuống. Nó nghĩ ông già “hiền như ma-sơ” này làm sao rành được chuyện đời quá như vậy? Nó không tin ông là người từng trải sương gió giang hồ nhưng nó thấy ông nói đúng lắm. Nó thấm từng câu từng chữ chứ không như những “bộ kinh sám hối” mà ba mẹ nó thường hay tụng đi tụng lại cho nó nghe, tụng hoài không biết chán. Nó ghét kiểu đó nên chả thèm nghe chữ nào. Chính nó cũng không hiểu được tại sao thời gian gần đây nó không bày ra được trò quậy nào cho ra hồn ra vía cả. Toàn nói miệng rồi thôi. Ông già phá đám nó. Ông kể nó nghe, ông khuyên nó... Nó thừa sức làm những gì nó thích. Ông lão cà rem làm sao cản nó được, nhưng sau mỗi lần nghe ông nói, nó không muốn quậy chút nào. Nó phải học, học để không bán cà rem như ông già nhưng quan trọng nhất bây giờ là nó phải học giỏi để... cưới Hương.

Một buổi chiều, nó tìm ông lão:

- Sư phụ! Sao nhỏ Hương không chịu con vậy?

Ông lão cười:

- Mày học dở, còn quậy thầy chạy nữa, ai mà chịu mày.

- Hổm rày có quậy hồi nào đâu. Kiểm tra môn nào cũng trên năm điểm hết đó. Vậy còn đòi gì nữa?

- Đâu, mày thử đạt loại khá - giỏi năm nay coi. Nếu mày được vậy, tao sẽ chỉ mày cách lấy lòng nhỏ Hương.

- Sư phụ khi dễ tui đó hả?

Ông già biết nó nóng nhưng vẫn nhỏ nhẹ:

- Thì mày làm được đi rồi hẵng nói. Dân anh chị, đã nói thì phải làm cho bằng được. Mày mà làm được tao cho mày một xe kem và theo làm “quân sư tình cảm” cho mày.

- Ô kê sư phụ. Sư phụ đợi đó mà xem.

Ba tháng nay nó đi học từ sáng tới tối, ôn bài bù đầu đến nỗi quên cả quậy. Thi học kỳ hai vừa xong, nó thử nhẩm tính điểm. Chỉ còn thiếu không phẩy hai mươi lăm nữa thôi là đạt loại giỏi. Nó tức muốn ói máu. Nhưng nó đã quyết định rồi: năm sau nhất định sẽ đạt loại giỏi cho bằng được mới thôi. “Quân đạt loại khá, mừng ghê nè”- nhỏ Hương nói. Nó muốn tới xe kem của ông lão để báo công. Đồng thời quậy ông lão già khi dễ nó mới được. Nhưng lỡ ông lão không tin rồi sao. Nói chuyện với ổng phải có bằng chứng giấy trắng mực đen mới được. Nó nghĩ vậy nên qua thi nó chỉ ở nhà nghĩ trò quậy mà thôi. Nhưng bỗng nó thấy kỳ kỳ. Lỡ nhỏ Hương thấy nó quậy như thế rồi sao? Nó cảm nhận được nó đã lớn hơn những trò quỷ quái của nó nhiều. Nó không thể làm như vậy. Bây giờ nó rất vui. Nhỏ Hương không còn cằn nhằn nó nữa. Sư phụ cũng phải bái phục nó và theo làm cố vấn cho nó mà. Nghĩ vậy nên nó không quậy nữa!

Buổi lễ tổng kết vừa xong, nó cầm tờ giấy khen đến góc phố mà ông lão hay dựng xe kem. Nó ngồi chờ mãi nhưng không thấy ông. Nó hỏi anh bán thuốc lá kế bên:

- Anh thấy ông lão bán cà rem thường ghé đây đâu hông?

- Ổng chết rồi?

Nó hoảng hốt:

- Sao? Sao ổng chết vậy anh? Tại sao vậy?

- Bữa ông than nhức đầu, người ta đưa vô bệnh viện rồi ổng bị đột quỵ qua đời. Con cái ổng đưa ổng về chôn.

- Trời ơi! Sao ông lão nói với em ổng không có vợ con?

- Sao không nhóc! Ông già đó hồi trước là dân anh chị ở Sài Gòn. Ở tù ra, về đây sống đó.

Nó thấy tim nó nghẹn lại. Một giọt nước mắt nóng hổi thật to rơi trên má nó. Nó ngước mặt lên trời:

- Trời ơi!...

Hình như nó đau lắm, cái đau của nó không giống như cái đau vì ông già hứa mà chưa làm tròn cho nó. Cái đau đó giống như nó vừa mất đi một người thân. Người thân đó không phải là cha mẹ giàu có của nó, cũng không phải là thầy cô tri thức của nó. Người thân đó là ông già bán cà rem nghèo rớt mồng tơi mà nó hay gọi là sư phụ. Sư phụ mà nó nghĩ “hiền như ma-sơ” lại là dân anh chị một thời...

Nó khóc suốt đêm đó. Nó kể cho cha mẹ nó nghe chuyện ông lão sư phụ của nó. Sư phụ từng một thời ngang dọc giang hồ, vô tù ra khám, vậy mà rồi cũng phục thiện hoàn lương. Cái sự quậy bấy rày của nó đã thấm vào đâu. Phục thiện đi là vừa Quân ơi! Quân này mai đây dẫu có phải đi bán cà rem cũng sẽ bán bằng cái đầu đầy tri thức...

Máu bầm

Y ngả người ra ghế, tay trái buông xuôi, tay phải vẫn kẹp miếng dao lam bẻ đôi còn nham nhở máu và cặn thạch cao. Máu từ cổ tay Y chảy xuống nền gạch.

Mắt nhướng lên trần gác gỗ, Y rên rỉ: “Để tao chết còn sướng hơn, mày để tao chết...”. Ả quơ vội chiếc khăn gội đầu cho khách đêm qua còn vắt trên thành ghế rịt vào vết thương, mếu máo: “Mày chết thì chết bên nhà mày đi thằng khốn nạn, chỗ tao làm ăn tao còn nuôi con”. Rồi Ả cũng tìm ra thứ gì đó để cột chặt vết cứa trên tay Y. Ả đổ nước vào chai dầu gội Clear gần cạn, súc mạnh rồi chế vào chỗ máu đọng. Ả kỳ cọ vết máu của Y như thể sáng sớm mai Y lăn đùng ra chết thì cái tiệm gội đầu, làm móng của Ả không phải là hiện trường án mạng.

Bốn giờ ba mươi phút sáng, Ả gọi điện cho má Y: “Má đem nó về bển, đừng để nó chết chỗ con làm ăn kiếm tiền”. Năm giờ đúng ba Y có mặt trước cửa tiệm. Ả vỗ về: “Về bển đi không thôi sáng ra chủ nhà biết đuổi đi không có chỗ làm ăn”. Y ngoan ngoãn lên xe về nhà ba má Y. Ả chẳng buồn nhìn theo con người đốn mạt đó. Ả phải nguyền rủa thậm tệ, phải an ủi vỗ về, phải mếu máo van lơn, cầu khẩn con người đã từng đầu ấp tay gối từng đêm kể từ ngày Ả để nguyên mặt son phấn, tóc búi cô dâu theo chân Y đến khu Mả Lạng(*).

Ả mạt sát Y bằng những ngôn từ Y chưa bao giờ nghe được từ miệng của một đại ca, đại tỷ giang hồ nào. Mà cũng kệ, Y cần chở Ả theo sau để qua mắt trinh sát hình sự. Y khiến Ả sợ chết khiếp những gã chạy “xì-po” quần soọc, áo thun, dép lào đón lõng xe Y ngoài đầu hẻm khu Trần Đình Xu, Cống Quỳnh mà Y bảo với Ả đó là cảnh sát hình sự. Ả run lẩy bẩy khi hôm nào đó từ trong hẻm chạy ra Y và Ả bị dân phòng bố ráp, bắt xuống xe và đưa về phường X. Y khúm núm lại gần người có thẩm quyền (Ả nghĩ vậy) rồi lí nhí điều gì đó về sếp của Y. Rồi Y và Ả cũng được thả về. Ả bị vài lần như thế với lý do chồng Ả là con nghiện. Lâu ngày quen đến nỗi Ả không còn phân biệt được giữa Y và Ả, ai mới là con nghiện?!

Y khóc, bảo Y không muốn sống kiểu địa ngục trần gian như thế làm gì. Ả rít: “Thì chết đi”. Thế là Y chết. Hễ muốn chết thì quyết tâm mà chết bằng cách này hay cách khác. Đâm đầu vào xe cho nát bét để chả ai nhận ra Y mà mang về thiêu. Nhảy sông thì cũng chẳng được vì đội vớt xác của thành phố sẽ nhận ra Y. Chết ở nhà Y thì ba má Y sẽ nhục lắm, cứ như hàng xóm chưa ai biết ba má Y có thằng con nghiện vậy. Thì chết một mình, chết cho Ả biết Y đã nói là làm. Y đổ cái ly dao lam mà Ả hay cạo mặt cho khách ra kệ, lựa cái còn dấu thạch cao mới nhất rồi cứa mạnh vào cổ tay...

Y biết máu đang chảy ra khỏi cơ thể, Y ngả người ra ghế, nghiêng đầu nhìn thứ máu bầm bầm đang nhễu theo dòng xuống nền gạch ẩm. Y chờ cho thứ máu không còn trong sạch của mình cạn kiệt, hết máu thì có lẽ Y sẽ hết nghiện, sẽ chấm dứt những cơn đói thuốc, chấm dứt những tháng ngày len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm ở thành phố, vừa canh “Chèo”(**) vừa vờ như cặp tình nhân nào đó đi tìm nhà trọ. Chấm dứt những trận lôi đình mà hàng ngày, hàng giờ Ả dành cho Y. Máu cạn, má Y sẽ khóc một lần rồi thôi không khóc nữa. Ba Y và mấy đứa em sẽ nhục một lần rồi thôi không nhục nữa. Còn vợ Y? Y cần phải cho Ả biết Y đã cố gắng chết như thế nào. Ả cần phải được biết Y đã tự rút máu mình ra như thế nào. Thế là Y thều thào để Ả có thể nghe thấy: “Tao chết...”.

Rất nhiều ngày, nhiều đêm Ả muốn Y chết, chết theo kiểu Y tự mình làm tình làm tội mà chết đi. Không phải kiểu chết bất hợp lý nào đó mà Ả phải mất công giải trình với bên nội của con trai Ả, càng không phải kỳ công biện minh với bên gia đình Ả về cái chết bất thường của thằng chồng ốm trơ xương vì hen suyễn. Ả quen với việc lấp liếm mọi động thái khác thường của Y bằng một lý do nào đó hợp lý hơn. Chẳng hạn như chuyện Y bỏ việc để về tìm việc khác lương cao hơn thay cho chuyện Y tự ý đào ngũ. Ả giận mình hơn cả giận Y về chuyện đồng ý làm đám cưới với Y chỉ vì người yêu Ả đi nước ngoài không tăm hơi bóng cá. Ả phải thu dọn từ ống nước cất đến cái kim tiêm sau mỗi lần Y bước chân ra từ nhà vệ sinh chung của dãy phòng trọ bẩn thỉu. Ả nơm nớp sống như chính bản thân Ả là con nghiện chứ không phải Y.

Sau trận chết mà Y cho là “trời cứu” đó, Y đi đi về về căn tiệm tồi tàn của Ả chỉ để ngồi đợi Ả làm móng xong, lấy tiền rồi phóng đi. Có hôm Y đi biệt cả tuần, nửa tháng. Má Y bảo: “Nó dưỡng bệnh bên này...”. Mà nghe đâu hôm Y đi lấy “hàng”, bên Da Sà có một trận bắt bớ. Ả kệ, bắt đi hết cho người nhà họ sống khỏe. Ả không phải là người rứt ruột sinh ra Y nên ả không nợ nần gì mà phải lo lắng. Ả chửi thề, Ả chửi đổng, Ả cầm dao nhọn kề vào cổ Y: “Đ... mẹ mày, để tao thấy mặt lần nữa tao đâm chết mẹ”. Rồi Ả gọi cho má chồng: “Má sanh ra nó má đem nó về lo đi, ở bên này có ngày con giết nó chết”.

*

Tuyệt nhiên Ả không kể về đứa con. Đứa nhỏ mà lúc Y cứa tay đòi chết, nó đạp mạnh trong bụng. Ả lo sợ nếu đứa bé hiện diện trong cuộc sống rách bươm này thì ngày nào đó Ả sẽ giết chết Y. Ả không bao giờ muốn đứa bé đón nhận cuộc sống bằng sự kinh hãi khi chứng kiến ba mẹ mắng nhiếc nhau thường nhật. Ả lại sợ khi sinh con ra, Ả không thể làm người mẹ hiền hậu như các bà mẹ khác. Ả sợ ngày nào đó đứa bé lớn lên phải chịu cảnh sống tồi tàn của một đứa có cha nghiện ngập và bà mẹ đá cá lăn dưa.

Hôm thằng bé vừa được đúng bốn tháng hai mươi ngày, Ả nhỏ nhẹ khuyên Y lên trường cai nghiện vì con. Y gật, rõ ràng lúc ấy Y đủ thuốc, tỉnh táo. Y lơ mơ biết mình đã làm cha của một con người. Sáng hôm sau, Ả thở phào nhẹ nhõm như lúc vừa sinh con: Y được công an phường áp giải lên trường cai tận Đắk Lắk.

Ngay hôm đó, tiệm tóc trong xóm lao động nghèo đóng cửa. Ả bồng con bắt xe ôm ra tòa án quận sau khi nhờ người soạn cho mình một tờ đơn xin được đơn thân ly hôn. Kể từ đó về sau không ai biết Ả dọn đi đâu nữa. Chỉ nghe các mợ trong xóm kháo nhau: “Con nhỏ đó làm móng kỹ, cắt tóc khéo mà dọn đi uổng thiệt”.

Lỗi của tờ tiền polymer

TTCT - Chuyện bắt đầu vào buổi sáng sớm, có hai câu chuyện xảy ra đồng thời tưởng như chẳng liên quan gì nhưng chuyện này lại trở thành không thể thiếu của chuyện kia.

Chuyện thứ nhất là việc thằng Tèo được nhận lương tháng đầu tiên trong cuộc đời, những một triệu rưỡi đồng chẵn. Buổi sáng bà chủ tiệm sắt kiêm luôn chủ nhà lộn cái túi vải trong lưng quần ra kêu Tèo lại tao biểu, tao cho mày tiền công tháng này. Nghe ngộ, tiền công mà nói là cho, công này thằng Tèo cày cả tháng trời, mong ngóng đến từng giờ mà nay bà chủ nói giọng bố thí cho người nghèo.

Nhưng thây kệ, một triệu rưỡi toàn tiền polymer đã ngay ngắn trong tay Tèo. Việc đầu tiên khi có tiền công trong túi là nó cho mình quyền tự thưởng trong khả năng, mà điều này thì chỉ có quán hủ tiếu của bà Năm già là đáp ứng được.

Chuyện thứ hai là mụ cho vay trả góp ở đầu phố xộc vào hàng hủ tiếu mới bày của bà Năm đòi tiền đã ba ngày nay bà chưa chịu góp. Ba ngày là một trăm năm chục ngàn đồng, nội trong ngày phải có. Khổ nỗi, thời buổi vàng giá đã lên đến gần năm triệu đồng một chỉ bé cỏn con nhưng hủ tiếu vẫn bán tô năm ngàn thì hỏi nội trong ngày làm sao bà chủ quán nghèo có thể kiếm cho nổi. Mấy bữa trước bà Năm xin thiếu để góp dồn nhưng đến lúc này cũng chưa thấy le lói lối thoát cho cái tình huống nan giải mà chắc là buộc phải xử lý dứt điểm trong ngày này.

Dân tình bạc, lúc không tiền thì nó đến quán bà Năm ăn thiếu, lúc ít tiền thì đến ăn năm ngàn, mười ngàn, lúc có nhiều tiền đố đứa nào đến kêu tô hủ tiếu hai chục ngàn bao giờ. Tụi nó đi chỗ khác oai hơn, hoành tráng hơn.

Thằng Tèo đến gốc cây bàng, thủ phủ ăn sáng của cả xóm, gọi tô hủ tiếu hai mươi ngàn đồng gây sốc cho hết thảy đám người đang xì xụp cắm mặt vào tô. Mà trả tiền trước khi ăn hẳn hoi, để cho bà Năm và thiên hạ khỏi ngờ vực về độ chính xác của thông tin. Nó nhớ trong cái xấp tiền kênh kênh hết thảy là polymer trong túi thì tờ hai chục ngàn vốn sót lại của nó nằm ở bên trên, còn lại là giấy một trăm.

Vậy nên chẳng thèm nhìn, nó đứng thõng chìa đồng tiền trả cho bà Năm, còn thông báo rõ “con trả tiền bà nè”. Cũng chẳng thèm nhìn, bà Năm nhận đồng tiền thảy ngay vào cái miệng giỏ đệm mở toang hoác đặt ở dưới chân bởi bà còn lu bù lắm. Và sau đó thì thằng Tèo no nê, sung sướng với tô hủ tiếu đặc biệt của mình.

Lúc đã ấm bụng, thằng Tèo về cái phản gỗ nằm chỏng quèo giở tiền ra đếm. Đời, sướng nhất là đếm tiền, nghe đồng polymer sột soạt, để cái cạnh sắc bén của nó cứa cứa vào tay. Đặc biệt trong một buổi sáng ăn no, ăn ngon như vầy thì cái thú đếm tiền nó sướng lên gấp bội. Tiền này sẽ được phân ra làm ba phần: phần cho má và phần cho lũ em ở quê, còn phần nhỏ cho mình. Nhưng nó chợt sững lại: một, hai, ba, bốn... chỉ có mười bốn đồng, còn một đồng nữa đâu. Nãy giờ có đi đâu, làm gì đụng đến tiền ngoài đến chỗ bà Năm. Hay là đưa dư cho bả, hồi nãy nó nhớ mình đưa mà không thèm dòm nhưng nếu dư thì bà Năm đã trả lại rồi. Nó lại lộn ngược các túi, kéo ra kéo vô muốn rách mấy cái túi quần, túi áo mục.

Cũng vào lúc đó, quán tạm vắng khách, bà Năm làm cái công việc kiểm tiền thì phát hiện ra đồng tiền dư của thằng Tèo. Cũng ngay lập tức bà biết nó là của ai, bà cười thầm nhặt riêng bỏ vào túi áo để sẵn sàng trả về cho chủ nhân của nó. Nhưng ma xui quỷ khiến thế nào, mặt bà Năm bỗng đanh lại. Tiền vào tay quan là của quan, bà Năm lại đang cần tiền trả nợ chiều nay, đúng là gặp lúc. Thôi cứ cầm của nó rồi tìm cách bù lại cho nó sau cũng được, bà sẽ không để thằng Tèo chịu thiệt. Và bà cầm đồng tiền đi vào nhà, cẩn thận nhét vào trong gối. Hoàn thành một phi vụ trọng đại, bà ra vị trí quen thuộc của mình...

Bà Năm vẫn bán hàng đấy nhưng xem ra đôi bàn tay với những ngón xương xẩu lòng khòng ra chiều run run. Bà tiếp chuyện khách nhưng nghe ra nhạt phèo, sượng trân. Cái đồng tiền polymer màu xanh như đập vào mặt, xốn hai con mắt. Thôi trả thằng Tèo cho yên chuyện, cái thằng ốm tong, người ngợm thấy là biết khổ từ thời trứng gặp tinh trùng, tham của nó mà làm gì. Nhưng con quỷ trong người bà Năm cũng ghê gớm không kém: cái thằng đó tướng ngó nghèo lâu rồi, nay mất trăm ngàn đã sao.

Không tự đấu tranh được, bà Năm dùng những công cụ kiếm sống của mình để ngồi nhẩm “trả” hay “không trả”. Bà đếm chồng tô sạch còn lại: trả, không trả, trả... cái cuối cùng rơi vào không trả. Bà nhẩm bó đũa còn lại, đương nhiên là đũa trùng với tô vì bà có nhiều vốn đâu mà sắm cho nhiều đũa để làm kiểng. Bà nhẩm ghế, nhẩm bàn, nhẩm đầu khách đang ngồi ăn hủ tiếu... tất cả dường như bị con quỷ nào đó nhập vào hay sao mà đều cho kết quả không trả.

Quái lạ, nhất trí cao vầy thì đồng tiền thuộc bà Năm là chính đáng rồi. Mà bà có chôm chỉa gì của nó đâu, nó đưa cho bà chứ bộ; nó lại đang có nhiều tiền, nhiều hơn bà rất nhiều, mẻ đi một miếng đã sao.

Nhưng ông thiện trong lòng bà cũng không kém lý lẽ: Bà già rồi bà Năm ơi, bà lại chẳng để lại vết nhơ nào từ trước đến giờ. Con mẹ vay góp nói vậy, chiều bà chưa đủ, nó làm gì được cái thân già của bà. Trả nó đi bà, nó nhà quê, lây lất lên phố kiếm công việc lương thiện để làm, để sống qua ngày và giúp má, giúp em. Bà ăn được bao nhiêu nữa mà bà khổ ha bà Năm, mà bà có yên lòng không với cái sự gian dối của mình? Vô phước thằng Tèo nhớ số xêri hay đồng tiền được nó đánh cái dấu nào đấy, nó thấy thì nhục đó bà Năm à!

Thằng Tèo quả là đứa có số con ruồi. Giả như nó để ít phút nữa cho ông thiện ổng thuyết phục bà Năm thì chuyện đã khác, đằng này nôn quá nên nó lại chạy ra: “Bà Năm cho con hỏi”, “Chuyện gì?”, bà Năm trừng mắt trong trường hợp không cần thiết. “Hồi sáng con có trả dư đồng tiền 100 không bà Năm?”, “Trăm nào?”, tự dưng bà Năm nổi nóng bất tử, bà thảy cái giỏ tiền cáu bẩn mà trọng lượng của vật liệu làm ra nó chắc chỉ bằng nửa trọng lượng của những thứ bám vào: “Coi đi, có thì lấy về”. Thằng Tèo thụt lui xin lỗi, cảm ơn rối rít, có nước mật gấu trong uống ngoài thoa nó cũng không dám lục giỏ tiền của bà Năm, còn những kẻ hiếu kỳ thì đang nhìn nó lom lom.

Lúc thằng Tèo đi rồi, bà Năm còn quăng một câu chửi đổng: “Bà mẹ, sáng sớm có đứa đến quậy à!” mà không biết bà nói đứa nào.

Nhưng thằng Tèo thì đang ấm ức, ấm ức lắm! Không dưng bà Năm làm mặt giận, mà nó có nói gì quá đáng đâu, có nước bà làm động tác giả, có tật rục rịch thì có. Thật thà, thật thà cái con khỉ, không bả thì ai làm bốc hơi “đồng tiền xương máu của mình?”. Rồi nó tự nguyền độc: “Nếu bà Năm là người tham thì trời trừng trị bả, cho bả chết luôn đi cho rồi”.

Vậy mà bà Năm chết thật!

Bán hết nồi hủ tiếu hôm đó, gom đủ tiền trả cho con mẹ cho vay trả góp thì bà đổ bệnh. Cái bệnh thường thôi, mà cũng là bệnh quen, nó làm bà ngầy ngầy ngật ngật kiểu của người ngồi bên bếp than nóng, hít phải khói thải độc hại giữa cái khí hậu oi nồng của mùa khô. Bà Năm vừa nóng lại vừa lạnh. Mới kéo tấm mền đắp lên người lại phải tung ra vì nóng không chịu được.

Tung ra rồi lại run như con thằn lằn đứt đuôi vì lạnh, cái lạnh như từ trong tủy sống tỏa ra, nó lan vào khắp ngõ ngách cái cơ thể xương xẩu nhiều hố, nhiều lõm của bà. Còn đồng tiền polymer thì múa may quay cuồng trước mặt bà. Có khi nó bay đến sát, đâm sầm vào mặt bà làm nổ ra bao nhiêu là đom đóm. Quái lạ, tiền polymer mà cứng như đá, đụng vô thấy như nhá lửa dám mồi thuốc hút được lắm. Polymer ơi, mày làm khổ bà Năm rồi. Bà hình dung ra khuôn mặt thằng Tèo, méo mó, nhem nhuốc, ngơ ngẩn đến tội nghiệp.

Bà Năm lui về cái giường phía dưới bếp, thủ phủ của mình, nằm nghỉ ngơi. Nơi này mặc dù có tối tăm và ẩm thấp nhưng phù hợp với công việc của bà bởi bà còn phải canh mèo, canh chó và canh chuột luôn rình rập mấy cục xương, cục thịt làm vốn bán buôn của bà. Ờ, có bệnh có nghỉ, bằng không cái điệp khúc nấu, bán sẽ tiếp tục lặp lại.

Đám con cháu biết bà Năm bệnh đấy nhưng thấy bệnh chỉ thường thường. Mà chúng còn những việc của chúng, làm thuê, làm mướn, làm thời vụ cả dễ gì nghỉ, nghỉ nhiều có nước ông chủ cho nghỉ luôn thì húp cháo. Tác động lớn nhất của việc bà Năm bệnh đối với chúng là không có hủ tiếu ăn miễn phí mỗi sáng và cơm nước hằng ngày. Thôi thì tự lo, tùy nghi di tản.

Đứa con gái chuẩn bị hai trăm năm hạnh phúc (lấy chồng lần thứ hai) là đứa có trách nhiệm nhất. Nó đến bên giường bà, rờ trán thấy nóng, kêu thét lên như thể bà Năm là người không bệnh bao giờ, không được phép bệnh bao giờ. Bà an ủi nó, không sao đâu, chuyện trong người tao tao biết, ổn cả mà. Nó lấy khăn lạnh lau lau rồi xoa xoa cho bà. Nó nấu nồi cháo trắng, bà nói bà chỉ có thể ăn cháo trắng, ngán lắm. Nó nấu được ba nồi, cho ba ngày.

Lúc cả nhà đi vắng, bà Năm gượng dậy ăn cháo. Chà, cháo gạo sao mà đắng ngắt, ăn vào miệng chẳng thấy cảm giác gì chỉ thấy ngán, bà ráng một muỗng nữa, chỉ muốn ộc ra. Thôi, thủ tiêu nồi cháo xuống ống cống cho rồi kẻo tối tụi nó về thấy vẫn còn đầy tụi nó buồn lòng. Tối đứa con gái về nghiệm thu kết quả, thấy nồi cháo sạch trơn, còn bà Năm móm mém miệng cười thì cũng toe toét theo, bớt rồi ha má, lối xóm không có hủ tiếu ăn, sáng nào cũng nháo nhác hỏi bên ngoài!

Sang đến ngày thứ tư kể từ ngày đồng polymer biến mất khỏi túi thằng Tèo thì bà Năm thành nguy kịch thật. Buổi sáng bà nằm ở nhà một mình thấy khan khát. Rồi khát thật. Cái chai nước để đầu giường đã cạn từ hồi đêm. Bà ráng gượng, cái chân như chân mượn của ai đó, không phải chân của bà vì điều khiển một đằng nó đi một nẻo. Đã thế còn run. Cái đầu gối như chỗ bắt nhịp làm cho cái ống chân tong teo như cái ống đồng và cái xương đùi dài ngoẵng rung lên bần bật.

Ừ cũng phải, mấy ngày nay coi như đã ăn uống gì, cứ chờ bệnh nó tự hết như mọi lần, mà coi bộ lần này... Nhưng bà Năm đang khát, khát lắm, phải đi kiếm nước uống. Bà lết ra cái bàn kiểm tra cái bình tích, bình thủy, cái ấm, kể cả cái bình nước 20 lít trị giá mười hai ngàn đồng bà vẫn dùng để cho khách uống, tất cả đều cạn khô. Bọn này tệ, quen mẹ hầu hạ, đến miếng nước cũng không biết tự lo mà uống. Cứ cơm quán, nước quán... Cổ họng bà bắt đầu rát như phồng rộp lên, lại như có chùm lưỡi câu lởm chởm ai đó thả vào và kéo lên kéo xuống.

Khát, khát thật, mới biết người đi sa mạc khổ thế nào, biết tại sao người ta đánh nhau và thành chiến tranh vì nước. Đúng lúc ấy thì những giọt nước nhỏ tong tong ở cái vòi nước như nước mưa giọt gianh nhảy múa trước mắt bà. Cái vòi nước này lâu ngày quá thành ra hở, nước nhỏ ngày đêm, để tránh lãng phí bà Năm đặt dưới ấy một cái thau. Người của công ty cấp thoát nước nói đó là một trong những nguyên nhân làm hao hụt nước của công ty vì nhỏ giọt như thế thì đồng hồ nước không quay. Rõ là vẽ đường cho hươu chạy. Giờ này, bà Năm nhìn thau nước hao hụt thấy lung linh, huyền ảo. Bà lết lại, lấy cái ca cáu bẩn vục vào.

Ôi chao ôi, nước, nước chảy tới đâu bà Năm thấy tới đó, mới đầu nó chạy rân rân như kiến bò, sau nó ào ạt bà nghe âm âm tiếng sóng biển, cả vùng bụng mát dịu, cảm giác da bụng dính ngược vào xương sống không còn nữa, cái cổ họng êm ngay theo từng tiếng “ực” của bà. Hết đúng một ca nửa lít, bà Năm lên giường nằm phè, phút giây sung sướng sau ba ngày âm ỉ vì bệnh. Cố ngủ đi, ngủ đi rồi sẽ hết bệnh.

Nhưng cảm giác sung sướng không tồn tại lâu. Một tiếng sau khi bà Năm còn đang thiu thiu thì nghe cái bụng bắt đầu sôi nhè nhẹ, rồi tăng âm sôi mạnh nghe như có tiếng lục bục của nồi cơm nhiều nước mà quá lửa đang tiến đến giai đoạn cạn nước.

Rồi bà thấy như có con chuột chạy lên chạy xuống trong bụng bà, hình như nó đột kênh cả cái áo cũ bắt đầu ướt mồ hôi lên. Rồi cái bụng bà nó đau, đau quặn đau quăn, đau khúc dưới, đau lên khúc trên, đau như rứt ruột ra, lại như bị một kẻ vũ phu dùng lực toàn thân đấm thốc một cái, lại như muốn dồn cái khối gì đó lớn lắm ra bên ngoài. Không thể chịu được thật rồi. Đầu bà quay cuồng, i i như còn đàn ve sầu đang sôi. Bà bắt đầu “chạy”, vất vả vì chạy, nhưng bà Năm sức đâu mà chạy bởi cứ đi nhanh về chậm liên hồi thế.

Lúc đứa con gái về sớm tình cờ, xuống bếp thăm thì đã thấy bà Năm nhàu nát như cái lá nằm dính dưới đất. Vừa thổ vừa tả, quần áo người ngợm bê bết vì bà đã sang đến giai đoạn không thể kiểm soát. Thằng choai choai đi ngang qua được bổ làm xe cứu thương lưu động ngay sau khi đứa con gái thay đồ, lau sơ sơ cho bà. Tưởng gì, nhà bà Năm tới trạm xá gần xịt, còn bà Năm thì nhẹ hều hều, cõng hai bà cũng được. Cái thằng nói độc, một người bệnh đã là khổ rồi mày còn muốn có hai. Nó cười hì hì, hết bệnh lại nấu hủ tiếu con ăn... thiếu nha bà Năm! Bà Năm không muốn đùa nữa, bà Năm không nghe tiếng nói của nó nữa, không cười được nữa thật rồi, chỉ nghe loáng thoáng những âm thanh.

Cũng thật nhanh chóng, bà được chuyển lên bệnh viện đa khoa bằng xe taxi. Rõ có bệnh mới có dịp ngồi nhưng ngồi giờ này làm gì còn tò mò, còn gì sung sướng và hãnh diện nữa. Cái bụng đã ổn bởi đã “ra” hết rồi nhưng bà Năm thấy cơ thể mình như của một cậu chàng rôbôt đang bị người ta tháo ra, dỡ ra ở những chỗ có đốt.

Ngày hôm sau bà Năm mất. Bác sĩ kết luận dịch tiêu chảy cấp tấn công, bà già lại quá suy nhược và không được cấp cứu kịp thời nên không trụ nổi. Còn dặn gia đình cẩn thận vì vi trùng có thể tấn công cả nhà. Người ta mang bà Năm về, ngồi sau tay lái của anh xe ôm đầu hẻm, trước bụng thằng con trai lớn ngồi kè. Bà về, bình thản và nhẹ nhàng giữa hai người đàn ông, một người quen và một người thân, đầu ngoẹo vào vai con trai, tin tưởng và nhàn nhã.

Cáo phó dán trước cửa nhà, dưới tán gốc bàng sum sê, thủ phủ ăn sáng của cả xóm: Hưởng thọ 74 tuổi, thôi, thế cũng là dài.

Ngày đưa bà Năm đi hỏa thiêu, bà chủ tiệm cửa sắt cho tất thảy đám công nhân nghỉ làm một buổi đi đám ma bà Năm, một buổi nữa cho tụi bay xả hơi lại còn phát tiền cho từng đứa đi phúng điếu. Nhà bà Năm nghèo, coi như tụi bay góp sức với người ta. Còn đứa nào thiếu ăn, thiếu nợ thì nhớ thanh toán lại cho con bả, không trả là mắc nợ, là mang tội nghe bay! Thằng Tèo thực hiện theo đúng lời bà chủ dặn, tiền thì nó không còn thiếu nhưng chỉ còn thiếu bà một lời xin lỗi. Xin lỗi bà vì con đã nghĩ không tốt về bà, nó ngơ ngẩn, lầm rầm mãi lúc cầm que nhang xá xá trước tấm hình chụp bà Năm gượng gạo cười.

Lúc ông tổ trưởng tổ dân phố hay chữ đọc bài điếu văn viết vội, nghe tiếng thằng Tèo khóc nấc lên bắt nhịp cho một chuỗi âm thanh lục ục, à à như tiếng sôi.

Từ nơi hoang vắng

TTCT - Không hiểu vì điều gì, thay vì để tôi xuống X, họ đã để tôi xuống Y - một cánh đồng mía vắng bóng người ven theo quốc lộ.

Có thể người lái xe đã nghe không đúng điều tôi nói. Có thể giọng của tôi gây nên sự hiểu lầm chết người. Có thể người ta đã nhầm tôi với một ai đó trên xe. Thay vì gọi người đó, họ vứt vali tôi xuống. Và cuối cùng tôi phải đi theo. Tôi chưa kịp nói được điều gì chiếc xe đã vụt thoát như một bóng ma.

Ở đây đang là mùa thu thì phải. Cánh đồng mía vàng rực bốn bề.

Ở một nơi tuyệt đẹp như thế này...

Nếu không lầm thì tôi còn giữ số điện thoại nhà xe khi gọi anh ta vào chiều tối hôm qua. Nhưng tôi không còn nhớ đã gọi bằng chiếc điện thoại nào, của tôi hay của cô ấy.

Sao anh không đi bằng xe gọi, cô ấy nói với tôi.

Nhiều năm nay có một dịch vụ. Chỉ cần nhấc điện thoại hẹn ngày giờ địa điểm, sẽ có người đến đón bạn đi. Nếu bạn sợ ngủ quên, họ sẽ gọi điện nhắc nhở. Rồi cô ấy cho tôi một con số.

Gọi đi. Cô ấy nói.

Khi từ một nơi xa khuất như thế đến đây, tôi gần như làm theo những gì cô mách bảo. Giống như cách đó năm hôm, cô ấy bảo đi vịnh Hạ Long đi. Thế là tôi đi hai ngày. Thế rồi khi ở vịnh Hạ Long cô ấy nói cần phải cởi áo khoác ra để cảm nhận hơi nước và gió. Thế là tôi cởi áo khoác ra để cảm nhận hơi nước và gió. Thế rồi, trong một giây phút, cô nói đến X đi. Và tôi đã đến X. Cô nói gọi điện cho nhà xe M đi. Tôi đã gọi điện cho nhà xe M.

Điện thoại của tôi không có cuộc gọi nào được thực hiện vào chiều tối hôm qua. “Lịch sử cuộc gọi” trống hoác. Nhớ lần đầu sử dụng điện thoại, tôi đã rất ấn tượng với dòng chữ lịch - sử - cuộc - gọi, liên tưởng ít nhiều đến một cái gì đó thật sự trầm trọng đã xảy ra với mình. Thay vì đơn giản chỉ là “danh sách đã gọi”.

Theo định nghĩa của một ai đó mà tôi đọc được thì lịch sử được định nghĩa như là “một câu chuyện chúng ta nói chúng ta là ai”.

Có một cái gì đó đã xảy ra cho tôi, trong quá khứ của một - tháng - trước. Từ một nơi xa khuất đến thế, tôi đến đây và làm theo chỉ dẫn của cô ấy. Trước đó tôi không hề muốn đi đâu cả. Tôi sống gần như hết thời tuổi trẻ của mình ở đúng một nơi.

Rồi như một chuỗi domino “bắt đầu xáo trộn”, tôi lăn mình đi.

Vì có những điều tôi không thật sự tin ở mình nên tôi tin ở cô ấy. Dù tôi không tin cô ấy thì tôi vẫn tin có những điều vẫn xảy ra không theo cách của tôi, mà theo riêng nó.

Chuyện này có ít nhiều liên quan đến bà dì tôi theo cùng một nghĩa, dì lấy gã phụ hồ khi nhà tắm vỡ hoác. Gã phụ hồ đến nhà dì làm lụng trong hai tuần thì xong. Dì nói làm ơn xây thêm cho tôi cái giếng. Làm thêm đến hai tuần. Dì nhìn quanh nói làm thêm cho tôi cái chuồng bồ câu đi. Rồi những tuần tiếp theo là chỉnh sửa hàng rào, xây thêm cái bếp... Xây, xây và xây đến một hôm gã phụ hồ nhận ra có xây bao nhiêu vẫn không đủ, họ ăn ở với nhau. Có hai đứa con. Từ đó không còn cái gì đáng để xây nữa.

Người chồng trước của dì cũng là một phụ hồ, cho tôi một liên tưởng cũng bằng một cách, cách riêng nhất của dì. Không biết trong quá khứ trước đó dì đã nhờ anh ta xây cái gì, dì đã nói cái gì trong “lịch sử cuộc gọi” giữa họ?

Tôi gọi lại cho cô ấy lúc đi sâu vào cánh đồng mía. Không có người bắt máy, điện thoại vọng lại âm u như đang đi sâu trong một đường hầm. Có lẽ cô muốn làm khó tôi một chút đây mà.

Tôi có thể ở đây ăn mía và chờ cô gọi lại.

Tôi có thể đi sâu vào cánh đồng mía nếu tôi không mắc kẹt cái vali.

Tôi nhận ra mình đã vứt đi rất nhiều thứ trong một tháng nay. Nhưng điều đó vẫn chưa làm cái vali nhẹ. Tôi vẫn còn luyến tiếc rất nhiều thứ trong đó. Có thể sau chuyến đi này, tôi sẽ có cái nhìn chọn lọc hơn về những gì nên và những gì thì không nên mang theo.

Vào buổi chiều tối, lúc tôi đã ăn rất nhiều mía và hơi thiu ngủ, điện thoại đã run lên như thể trái tim tôi. Đó là số của cô ấy nhưng không phải cô ấy. Người ta thông báo cô ấy vừa chết sáng nay.

Đó là một câu chuyện đáng tiếc và rất buồn.

Có lẽ sau khi đưa tôi lên xe thì cô ấy chết.

Có lẽ, theo một cách nào đó của cô ấy, rất riêng, cô ấy chỉ chết khi đã chia tay với tôi.

Người đàn ông bắt điện thoại hỏi sau khi cô ấy chết rồi thì tôi có cần gì không?

Anh là ai thế?

Một người quen.

Nếu có thể, tôi nói, hãy đọc cho tôi nghe lịch sử cuộc gọi vào buổi chiều tối hôm qua trên điện thoại của cô ấy.

Có thật sự cần thiết nữa không khi mà cô ấy đã chết rồi? Người đàn ông rụt rè hỏi.

Cần chứ. Rất cần. Tôi mong anh hãy vì cô ấy mà làm điều này.

Người đàn ông im lặng một lúc lâu. Cuối cùng anh ta cũng nhắn cho tôi năm số điện thoại cuối từ cái gọi là “lịch sử” ấy.

Tôi không biết anh dùng những con số này làm việc gì, nhưng tôi mong là anh sử dụng nó một cách tốt nhất như lúc cô ấy vẫn còn sống. Người đàn ông nói.

Vâng. Tôi hứa.

Tôi cũng không tin anh ta là người quen của cô ấy. Tôi cảm thấy tình cảm của anh ta với cô ấy thật vô tận. Nó có vẻ như là tình yêu trong giọng nói của anh.

Người đầu tiên tôi gọi theo cái gọi là lịch sử cuộc gọi của cô ấy là một đứa trẻ 17 tuổi. Nó nói không gặp cô nhiều tháng nay, bất ngờ chiều tối qua cô ấy gọi. Có thể cô đã muốn thông báo một điều gì, nhưng rồi lại thôi. Con bé được cô ấy dạy học ở một thời điểm nào đó “trong quá khứ”. Tôi thông báo cô ấy đã chết. Cuộc gọi đó được xem như lần trò chuyện cuối giữa họ từ quá khứ cho đến tương lai.

Khi nghe tôi nói đến đó con bé bật khóc.

Người thứ hai trong lịch sử cuộc gọi là mẹ cô ấy. Họ đã nói với nhau về một bữa ăn. Cô ấy muốn ăn một cái gì đó mà “trong quá khứ” người mẹ đã đem đến. Người mẹ hứa sẽ chuẩn bị nó vào thứ bảy tuần sau. Cô ấy không ở chung với mẹ. Họ thường gặp nhau vào thứ bảy hằng tuần. Cô ấy về, ôm mẹ một ngày đêm, vòi vĩnh, kể chuyện, phục dựng một vài chi tiết cũ như một niềm vui nho nhỏ giữa họ rồi đi.

Cậu có phải là người yêu của con gái tôi? Người đàn bà rụt rè hỏi. Tôi chưa bao giờ nghe con bé nhắc đến bạn trai.

Có lẽ trong tương lai, hoặc sau chuyến đi này, tôi sẽ yêu cô ấy. Tôi nghĩ vậy. Cô ấy có những phẩm chất mà những người đàn ông theo lẽ thường phải yêu. Nhưng chúng tôi cũng chưa nói đến chuyện này.

Thật ra thì từ một nơi xa xăm như thế, tôi chưa rõ được chuyện gì. Chuyện gì đã thúc đẩy tôi đến đây? Tôi chưa từng có một lịch sử như thế.

Tôi có thể gặp cậu được không? Người đàn bà rụt rè đề nghị. Tôi cũng không biết gặp cậu để làm gì, nhưng có lẽ do tôi muốn nghe một ai đó nói về con gái tôi, tôi nghĩ cậu có một vài câu chuyện gì đó về nó, nó đã gặp cậu như thế nào, nó hay nói chuyện gì, nó có nỗi niềm gì chưa nói với tôi không?

Có lẽ tôi đã là lịch sử cuộc gọi của cô ấy trong suy nghĩ của người mẹ.

Người thứ ba là nhà xe, là người đã trò chuyện với tôi vào chiều tối hôm qua. Đã có một nhầm lẫn gì đó, tôi nói, người của các anh đã thả tôi xuống một nơi hoang vu.

Không, không thể có chuyện ấy được đối với nhà xe của chúng tôi. Người đàn ông phản đối. Chúng tôi đã xây dựng thương hiệu này từ rất lâu, và rất công phu. Chúng tôi không thể hủy hoại nó trong “trí nhớ” của khách hàng. Có lẽ tôi cần một ít thời gian để tìm hiểu việc này. Và tôi sẽ gọi lại anh ngay khi biết rõ mọi việc.

Người đàn ông cúp máy.

Một lần nữa tôi thấy mình như đang rơi vào một chốn hoang vu.

Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một cánh đồng mía. Hoặc nhìn thấy một cái gì đó tương tự như vậy. Một màu vàng óng trải dài trong ánh nắng chiều. Nếu có một người nằm chết ở đây, có lẽ anh ta tới thiên đường còn nhanh hơn là việc ai đó phát hiện ra anh ta và hô hoán lên.

Vào lúc mặt trời sắp tắt trên cánh đồng mía người đàn ông của nhà xe đã gọi điện trở lại. Người đàn ông xin lỗi vì sự chậm trễ. Người tài xế đã ngủ sau một chuyến đi dài, anh ta tắt điện thoại. Họ đã không cách gì liên lạc được với anh ta. Người đàn ông phải nhờ một người khác đến tận nơi anh ta ngủ. Và đập anh ta dậy. Người tài xế đó cho rằng chính cô ấy đã yêu cầu anh ta “hãy thả anh ấy xuống một cánh đồng mía” khi xe đã lăn bánh được một lúc qua điện thoại. Anh ta còn yêu cầu tôi hãy kiểm tra lịch sử cuộc gọi trên máy của cô ấy và của cả anh ta để làm bằng chứng nếu tôi không tin.

Anh ta đã hỏi lại hai lần, có thật vậy không, thả anh ta xuống cánh đồng mía, và cô ấy đã xác nhận. Vì cô ấy đã gọi bằng chính số điện thoại mà tôi đã gọi nên người tài xế đã nghe theo. Anh ta cũng thay mặt nhà xe xin lỗi khách hàng vì đã để chàng lơ xe chuyển đồ xuống một cách không được văn minh lắm.

Sáng nay là ngày sinh nhật của con gái anh chàng lơ xe, nên đã có “một điều gì đó” thôi thúc anh ta làm chuyện này một cách kém thận trọng. Ngày thường anh ta không phải là người như vậy, không phải là bản chất của anh ta. Có lẽ tâm trí của anh ta bị buộc chặt vào đứa con trong cái ngày trọng đại này. Và anh ta đã không còn nhận thức thấy những điều khác.

Đã có một cái gì xảy ra, người đàn ông nhấn mạnh, và nó đã xảy ra.

Thay mặt nhà xe, chúng tôi sẽ cho người đến đón anh. Người đàn ông trực tổng đài cam kết. Anh muốn đi đâu, chúng tôi sẽ đưa anh đi, xem như một lời xin lỗi chân thành từ phía chúng tôi.

Tôi sẽ đi đâu?

Anh có thể đưa tôi trở lại chỗ xuất phát được không? Tôi nói với người đàn ông.

Có vẻ như mục đích của tôi không còn. Từ đó tôi cũng sẽ đi ngược lại, theo con đường mà tôi đã đến đây. Tôi sẽ lưu lại vịnh Hạ Long hai ngày. Sau đó tôi sẽ quay lại nơi tôi gặp cô ấy trước khi cô ấy cho tôi lời khuyên đầu tiên, đi vịnh Hạ Long. Sau đó tôi sẽ lên chuyến bay mà từ một nơi xa xăm tôi đến đây. Tôi sẽ quay về đúng căn nhà của tôi, trước khi tôi đến đây. Và tôi sẽ làm mọi cách để xem như mình “chưa từng sống trong quá khứ” của một tháng qua.

Tất nhiên là được. Người đàn ông nói. Hãy chờ chúng tôi. Và trong lúc chờ chúng tôi, có lẽ ăn mía để giải khuây là điều anh nên làm nhất. Anh có nhớ câu chuyện người đàn ông lạc vào bãi mía đã buộc tiền vào thân cây khi ăn một lóng mía không? Hãy làm như vậy và chờ chúng tôi đến.

Anh ta thật là biết nói chuyện.

Nhưng tại sao cô ấy lại bảo hãy thả tôi xuống một cánh đồng mía cơ chứ? Tôi nói. Đến bây giờ tôi vẫn không tin nó là sự thật.

Tôi cũng không biết. Người đàn ông nói. Nhưng nếu là anh, tôi sẽ thích chuyện đó. Tôi sẽ đi sâu vào cánh đồng mía và không thôi nghĩ về cô ấy. Chẳng phải tuyệt vời hay sao.

Vẫn còn hai số điện thoại từ cái lịch sử ấy mà tôi chưa gọi. Nhưng có lẽ nó sẽ được sử dụng bằng một cách khác.

Dầu sao thì cũng đã có lúc tôi đã làm một việc gì đó khác hẳn cuộc đời mình.

Bỏ đi

TT - Trời nóng như đổ lửa. Hắn thở phào khi nghe ông lão đánh cá chỉ đường:

Ở đấy lúc nào cũng cần người, vất vả lắm đấy nhưng chú mày sẽ quen thôi.

Hắn xốc lại cái balô, lê đôi chân mệt mỏi theo hướng tay ông lão chỉ và nghe thấy những âm thanh chát chúa đang xích lại gần.

Lão thầu công vồn vã:

- Xin việc hả? Biết làm gì? Xây, trát, phụ hồ hay lắp ván khuôn?

Đoạn lão nhìn hắn một lượt khi thấy hắn tần ngần, mắt lão hơi nheo lại.

- Thư sinh thế này. Trăm tư một ngày, chịu không?

Hắn cẩn thận đặt balô vào góc lán tôn cũ nát.

- Xe cút kít ở đằng kia, ra lấy mà đẩy, đeo bao tay vào, mới đầu sẽ hơi rát đấy. Rồi sẽ quen! Mũ đây.

Lão thầu công vừa nói vừa ném cho hắn đôi bao tay vải và chiếc nón bảo hộ vàng. Hắn hể hả với suy nghĩ: góc lán hồi nãy tối tối sẽ là chỗ hắn ôn bài, một ngày trăm tư à? Quá nhiều với hắn, một năm nữa thôi hắn sẽ có đủ số tiền để thi lại, bốn năm sau đấy khi đã là sinh viên hắn sẽ đi dạy kèm, sẽ đi phát quà Noel, sẽ mặc thú bông quảng cáo, sẽ... để đủ tiền trang trải. Lão thầu công gắt:

- Sao, còn đứng ỳ ra đấy à?

Hắn cũng nhô vai, vươn cổ, choãi chân... Ngày ở công trường dài, nắng mưa không thương tiếc, việc ai nấy làm, đã phân công thế mà.

Tối. Hắn lủi vào góc lán, tựa vào balô đầy sách thở dài, chân tay hắn bủn nhủn, mắt hoa lên vì đói.

- Không ăn à? - một công nhân già, mặt mũi hốc hác quay lại hỏi.

Hắn nuốt nước bọt thật khẽ trong cổ họng.

- Cứ ăn đi, lát nữa đóng tiền ăn cho bác Ân kia kìa.

Người công nhân chỉ vào người đàn ông to béo đang thoăn thoắt chuyển thức ăn từ cái bếp xây tạm bợ. Một người khác dáng dong dỏng cao, đội nón bảo hộ trắng, tay cầm bản vẽ bước vào. Người công nhân già thẽ thọt:

- Anh Phụng đấy, chỉ huy trưởng ở đây. Tốt lắm!

Người gọi là anh Phụng đã đứng trước lán cười.

- Đói quá! Xin bát cơm nào!

Sau câu nói ấy, cả lán nhộn nhạo lên một hồi, tiếng cười, tiếng nói nghe xởi lởi hẳn. Hắn cũng cười.

Anh Phụng nhìn vào góc lán, hơi ngạc nhiên khi thấy hắn đang cầm cuốn sách.

- Lính mới hả? Qua ăn cơm... em!

Đại từ nhân xưng đầu tiên hắn nghe được từ khi khoác chiếc balô này lên vai. Thấy hắn tần ngần, anh vỗ vỗ xuống tấm tôn cũ được phủ bằng một tấm bạt rách:

- Ngồi xuống đây.

Đêm ấy, hắn rơi vào giấc ngủ mê man... những hình ảnh quen thuộc và ấm áp hun hút rơi xoáy vào khoảng không đen thẫm...

Sáng, nắng lọt qua những khe hổng của mái tôn ùa vào, hắn thấy rõ những tia nắng vàng ươm nặng trĩu màng bụi vẩn tròn trong không khí.

- Ngày đẹp trời, nay đổ bêtông anh em nhá!

Tiếng anh Phụng - hắn bật dậy, bước nhanh ra ngoài vốc nước táp lên mặt, cố hít no bầu không khí rộn ràng.

Ở chỗ cây cột treo quần áo, một người đàn ông nhỏ thó đang ra sức cầm chiếc quần quật liên hồi vào cây cột, bụi đất văng ra. Đoạn, ông ta cầm chiếc quần mặc lại. Ở một góc khác cũng một người gầy gò đang cầm cái nồi sứt quai đen nhủi nuốt vội mấy cọng mì. Máy ủi, máy xúc đã ì ùng chạy, xe chở cát đá bêtông nhộn nhịp ra vào át tiếng nói nho nhỏ của một anh thanh niên đang ngồi bứt bứt mấy cọng cỏ khô an ủi vợ con mai mốt gửi tiền về.

Có lẽ không khí đổ bêtông hăng say đến mức làm bác Ân quên mất chuyện tiền ăn của hắn. Hai ngày hai đêm, ngủ chốc ngủ lát, những tấm lưng gầy gò dường như bị rút giãn xương sống, có những người nằm vật trên nền đất mà thở mặc cho anh Phụng chạy qua chạy lại, chỉ chỗ này, đo chỗ kia, kêu nắn bên này, lắp ván khuôn bên nọ, vừa làm vừa động viên liên hồi:

- Thôi anh em cố gắng, làm đêm lương nhân ba. Sắp xong rồi, chục khối nữa. Nha!

Việc xong lúc bốn giờ sáng, ai nấy đặt lưng xuống là nặng nhọc thở, rơi sâu vào giấc ngủ. Riêng hắn cứ trằn trọc mãi, sáng hôm sau anh Phụng vẫy hắn lên lán kỹ sư bảo:

- Hết tiền phải không... em? Đây, hai ngày đổ bêtông. Cầm trước nhé!

Hắn nhìn anh, rồi nhìn vào chiếc máy tính lưỡng lự:

- Cho em check mail được không ạ?

Anh khẽ gật.

- Mưa rồi! Thế là không cần bảo dưỡng bêtông. Được ăn chơi nghỉ dưỡng nhé! - bác Ân nói, giọng dài ra.

Mưa ầm ào trút xuống mái tôn, dột lung bung xuống nền. Hắn cố tập trung vào cuốn sách mà đọc mãi vẫn không thấm được một trang, tiếng xì, già, bồi sát phạt nhau hòa với tiếng mưa thành mớ thanh âm hỗn độn. Hắn gấp sách lại, tự nhủ: “Thôi, ngày mai bắt đầu ôn vậy!”.

Trời mưa suốt, hắn không nhớ đã bỏ quên bao nhiêu ngày hôm qua. Hắn tặc lưỡi ngồi xuống nền khi tụ bài cứ nằn nì vì thiếu tay... Ngày mai, hắn nhất định sẽ bắt đầu.

Anh Phụng ngồi xuống tụ của hắn, hắn thua nhẵn túi, anh đứng lên vô tư ném điếu thuốc lá ra ngoài nói to:

- Mai dỡ ván khuôn, đài báo nắng. Tuần sau có lương. Nha!

Lán lại sôi nổi lên một chặp, có người kêu: “Tốt lắm!”.

Lãnh lương xong, anh Phụng gọi lão thầu và hắn lại.

- Cho thằng bé nghỉ!

Hắn không tin vào tai mình, hắn đã làm gì sai. Chỉ có mỗi việc là anh “tốt lắm” vét sạch túi hắn. Hắn chưa kịp phản kháng thì anh “tốt lắm” đã đi vào lán, đóng cửa lại. Hắn đá văng cục đất dưới chân, lòng trào lên căm hận.

Lão thầu đuổi theo, dúi vào tay hắn cái gói nhỏ:

- Anh Phụng trả, anh ấy nhắn: Cậu không hợp với nơi này. Về đi. Mà số chú mày hên đấy, chứ ở đây nhiều khi hai ba tháng mới có lương.

Sau lưng hắn, chiều đang đổ xuống mênh mang.

Người nghèo không cần Giáng Sinh

A- A A+ ‹Đọc›

Hắn ghét Giáng Sinh.“Con người thời nay nhạt nhẽo đến thế cơ à?” Hắn luôn tự hỏi mình câu đó mỗi dịp này trong năm.

Họ sống nhạt đến mức phải bám vào cái ngày vốn chẳng liên quan gì đến họ, để được gặp nhau, được ăn uống, được tặng quà… trong khi bản thân họ thậm chí còn chẳng biết gì về Chúa. Cũng không trách được, bấu víu vào một điều có-vẻ-thú-vị khiến con người trải qua những ngày vô nghĩa một cách nhanh chóng và đỡ buồn chán hơn. Cảm giác giống như kẻ sắp chết đói lang thang trên đường. Cứ một quãng lại nhặt được vài xu lẻ khiến hắn hy vọng sớm muộn gì cũng đủ tiền để mua một cái bánh mỳ. Nhưng cuối cùng hắn vẫn chết đói mà thôi.

Một lũ người ngu xuẩn.

Hắn đưa điếu thuốc lên môi rồi rít một hơi thật dài, sau đó nhả ra làn khói màu xám đục như màu của ánh hoàng hôn lạnh lẽo cuối năm.

Với hắn, Giáng Sinh chỉ đơn thuần là một buổi làm việc xuyên đêm, cho đến khi ông già Noel đã chui ra khỏi cái ống khói cuối cùng. Hắn chưa từng có một món đồ chơi trong đời chứ đừng nói là Giáng Sinh. Thực ra, hồi nhỏ có lần hắn nhặt được một con cá sấu nhồi bông rách rưới bẩn thỉu dưới dòng kênh đen kịt gần nhà. Hắn đem nó ra sông giặt cho đến khi cái mùi tanh tưởi đã nhạt đi, rồi đặt tên cho nó là Ma Bư. Nhưng hắn không coi Ma Bư là một món đồ chơi, hắn coi con thú bông đó là bạn thân nhất của mình.

Bỗng dưng hắn muốn nhổ toẹt một bãi xuống mặt đường vẫn còn vương dấu tích cơn mưa ban chiều. Nhưng hắn kịp kiềm chế. Làm cái chuyện đó trước cửa quán café đông người sẽ khiến hắn bị đuổi việc ngay lập tức. Hắn đã sống rất cẩn trọng suốt bao nhiêu năm qua, không để mất lòng ai, không ngừng nỗ lực và không bao giờ phạm sai lầm. Hắn hiểu rằng xuất phát điểm của mình quá thấp nên sẽ mất nhiều thời gian vươn lên hơn những người khác, chỉ một chút sơ sẩy sẽ khiến hắn thụt lùi lại rất nhiều bước trong ván cờ của cuộc đời.

Hắn liếc nhìn đồng hồ treo trên quầy thu ngân, mười một giờ đêm. Mọi người đã phải làm việc rất vất vả suốt một tuần nay để trang trí cho lễ Giáng Sinh, và giờ Cu Long, cậu chủ trẻ tuổi, đẹp trai và phóng khoáng đang kiểm tra tất cả lại một lần nữa, để chắc chắn rằng sẽ không có sai sót gì xảy ra.

Mỗi người đều được gán cho một số phận từ trước khi xuất hiện trên cõi đời. Hắn thì quá rõ ràng là kém may mắn vì sinh ra đã được mang ngay kiếp con nhà nghèo. Cậu chủ Cu Long thì ngược lại, giàu có từ trong trứng nước, cả đời chưa từng phải thiếu thốn bất cứ một thứgì. Nước da anh ta trắng đến nỗi hãng Pond’s từng nài nỉ không biết bao nhiêu lần để mời về làm người mẫu mà không được. Mỗi lần anh ta nở nụ cười kiểu Tom Cruise, hàm răng thẳng tắp không bói đâu ra một vết ố lại tỏa sáng làm chói mắt cả những nàng công chúa chảnh chọe nhất. Lúc nào cũng vậy, anh ta ân cần và hòa nhã với tất cả mọi người theo kiểu một đức hiền nhân.

Thực ra hắn chẳng có vấn đề gì với Cu Long. Hắn nghèo thật, nhưng không bao giờ mặc cảm với cái nghèo hình thang của mình, cũng chẳng ghen tỵ với sự giàu sang của ai. Hắn không muốn phí phạm thời gian cho những việc vớ vẩn không thu được một xu vật chất hay một cắc kiến thức nào. Có lẽ nhờ đức tính đó nên hắn mới thuộc trường hợp hiếm hoi trong làng đỗ đại học. Không như những bạn bè tuổi ấu thơ của hắn, lũ con trai thì lên thành phố làm thợ xây, trộm cắp, đi tù, bọn con gái không bị bóc lột trong các khu công nghiệp thì cũng làm đĩ cả.

***

Nàng sống ở làng bên cạnh, ngăn cách với làng hắn bởi con mương dẫn nước và ngôi trường mái ngói bé nhất thế giới. Gia đình nàng còn nghèo hơn gia đình hắn. Nàng luôn luôn đi học với những bộ quần áo cũ của chị gái, cùng chiếc cặp rách nát khốn khổ cứ thi thoảng lại làm vương vãi xuống đường hết sách đến vở. Bù lại, nàng có một mái tóc rất đẹp và không bao giờ để quần áo mình bị vấy bẩn bởi bùn đất hay cái nghèo trải dài khắp mảnh đất miền Trung khô cằn.

“Khi nào lên Hà Nội học đại học, bọn mình sẽ sống cùng nhau nhé.” Nàng đề nghị. Họ đang ngồi trước sân trường, bàn về kỳ thi tốt nghiệp trung học sắp tới.

“Anh có được ngủ với em không?” Hắn hỏi bằng giọng tỉnh bơ như gà gáy mỗi sáng.

“Ngủ cùng thì được, thức cùng thì không.” Nàng ném cho hắn một cái lườm.

“Vậy thì chả có gì thú vị cả.”

“Sao lại không thú vị? Cuộc sống ở thành thị chắc chắn là phức tạp hơn nhiều cái con đường làng đầy ổ gà và phân bò của chúng mình. Nếu anh muốn có ngày em trở thành vợ anh, ok, em sẽ cho anh cơ hội để chứng tỏ anh là người chồng tốt.”

“Ngay cả khi chúng ta sẽ là cặp vợ chồng sinh viên nghèo nhất thế giới, đến mức không đủ tiền mua sự tự tin mà ngủ với nhau sao?”  Hắn thắc mắc.

Nàng cấu hắn một cú đau điếng.

“Ok, được rồi. Anh hứa sẽ chăm lo cho em cả đời.” Hắn thề thốt. Một con chim đang bện rơm cho cái tổ của nó trên cây cổ thụ đầu làng.

Kỳ thi đại học năm đó, cả hai đều đỗ vào những trường top đầu với số điểm rất cao. Hắn lang thang suốt một tuần mới tìm được nơi ở cho nàng và hắn. Một căn phòng rộng chừng mười hai mét vuông trong khu xóm trọ nhung nhúc sinh viên và chuột. Họ chẳng có mấy thứ để mang theo lên Hà Nội, trừ quần áo, dụng cụ học tập. Riêng hắn có thêm con cá sấu nhồi bông Ma Bư, người bạn thân nhất.

Nhờ vẻ ngoài dễ nhìn lại trắng trẻo nên nàng sớm kiếm được một công việc bán hàng mỹ phẩm, còn hắn bưng bê và rửa bát ở một quán ăn nhỏ. Ngày nào cũng đều như đồng hồ hẹn giờ, cả hai lên giảng đường để học như điên, rồi lại đi làm thêm, ai về trước thì lo cơm nước. Thường thì đến mười giờ họ mới thực sự xong tất cả công việc trong ngày với một cơ thể rã rời chỉ chực nhào xuống tấm đệm mỏng dính mà ngủ đến không biết trời đất gì. Tuy vậy, họ vẫn dành thời gian cho nhau, kể về những chuyện đã xảy ra trong ngày hôm nay, những điều mới mẻ mà chốn phồn hoa đã cho họ thấy. Theo như nàng phân tích, thì đó là chất xúc tác duy trì mối quan hệ “vợ chồng chay” không bao gồm tình dục của họ.

Vào những ngày được nghỉ hiếm hoi trong tháng, họ sẽ ra ngoài chơi, ngắm phố xá và in dấu giày lên tất cả những viên gạch lát đường của thành phố, như để cho bõ mười tám năm chỉ biết đến con đường làng ngập bùn và phân bò. Họ sẽ lên kế hoạch trước từ nhà: Định đi đâu, qua những con đường nào, nếu đi ăn thì sẽ không đi uống, nếu muốn đi uống một cốc sinh tố hay café thì phải ăn cơm trước ở nhà.

***

Hắn định rít thêm một hơi nữa, nhưng chợt nhìn thấy San San đang bước ra từ trong cửa hàng nên vội vàng vứt điếu thuốc hút dở xuống đất rồi di chân lên mấy lần như dẫm chết một con gián.

Xui cho hắn, cô đã nhìn thấy tất cả. Cô nói với hắn bằng giọng trách móc. “Em đã bảo là anh hãy dừng hút thuốc đi cơ mà.” San San đã nói câu này rất nhiều lần rồi, chẳng có chút tác dụng nào với hắn.

“Em làm gì mà lâu thế? Xong xuôi hết chưa?” Hắn hỏi.

“Anh Long vừa dặn dò em mấy việc. Giờ thì tụi mình đi ăn thôi.” Cô nở nụ cười ngoác đến tận mang tai, làm hai lúm đồng tiền hiện trên gò má đã tái đi vì lạnh, đôi mắt cô híp lại như hai đường chỉ sau cặpkính cận. Dù rất mệt mỏi khi phải trải qua tám tiếng làm việc, nhưng chẳng bao giờ nụ cười thôi hiện hữu trên gương mặt cô.

San San là người duy nhất trong số các nhân viên của quán chịu làm bạn với hắn, có khi là người duy nhất ở cái thành phố này. Quê cô ở gần biển, nên tính cách của cô cũng rộng rãi như biển cả. Cô không hề e ngại cái vẻ ngoài lạnh lùng đến mức khó ưa của hắn. Trái ngược với hắn, cô sống một cuộc sống vô lo vô nghĩ, hồn nhiên với cái tuổi hai mươi của mình. Tâm hồn cô lãng mạn bay bổng, trong lòng luôn cháy bỏng mơ ước trở thành một đạo diễn điện ảnh. Cô trích đến một phần ba số tiền lương làm bồi bàn mỗi tháng để mua đĩa phim. Trong đầu cô là một kho tàng kiến thức vô cùng phong phú về phim ảnh, bất kể là phim Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản cho tới Hollywood.

Cả hai lượn lờ khắp các con phố của Hà Nội. Gần mười hai giờ đêm nhưng ánh đèn vẫn sáng trưng trong các cửa hàng, người ra kẻ vào nhộn nhịp, hơi lạnh phả ra từ miệng của họ. Cứ mỗi khi đi qua một cửa hàng được trang trí đẹp mắt, San San lại chỉ về đó rồi reo lên thích thú như đứa trẻ con được đi thăm công viên khủng long, trong khi hắn thì khốn khổ vì gió tạt vào mặt chẳng khác nào những cái tát lạnh buốt.

Đến trước một quán ăn đêm vỉa hè, cô bảo hắn dừng xe. Họ chọn một bàn trong góc tường, gần nồi nước lèo bốc khói nghi ngút. Viên than tổ ong đỏ rực tỏa nhiệt từ trong lò, sưởi ấm cả một góc quán. San San gọi một bát phở tái nạm, còn hắn ăn mỳ tim cật. Cả hai đều rất đói nên tập trung vào ăn, chẳng ai nói với ai câu nào.

“Ngày mai anh sẽ đóng vai ông già Noel đấy.” San San đã ăn xong bát phở của mình, lau miệng bằng một tờ giấy ướt mang theo. Cô không bao giờ dùng giấy ăn của quán vì cho rằng chúng được làm từ nhựa trải đường.

“Có thể đổi cho ai khác được không? Anh chỉ muốn bưng bê thôi.” Hắn cau mày.

“Tại sao anh lại ghét làm ông già Noel nhỉ? Anh chỉ việc đứng đó để chào khách và chụp ảnh với họ thôi mà. Bao nhiêu người muốn mà chẳng được.” Cô thắc mắc.

“Anh thà bưng bê còn hơn. Anh không thích đứng một chỗ trong khi tất cả mọi người phải chạy ngược chạy xuôi. Cảm giác như anh là kẻ ích kỷ lười biếng trong cuộc cách mạng công nghiệp.”

“Mỗi người một việc, chẳng ai đánh giá anh đâu. Với cả đích thân anh Long phân công như thế, muốn thắc mắc thì đến gặp sếp nhé.” Cô đẩy cặpkính lên cao trên sống mũi.

Nghe đến tên “sếp Long” là hắn chấm dứt luôn hy vọng. Cậu chủ Cu Long là người đã muốn gì thì có trời cũng không cản được.

Hắn đã ăn xong bát mỳ tim cật, húp đến giọt nước lèo cuối cùng. Một bát mỳ chưa đủ để làm đầy một phần ba cái dạ dày lúc nào cũng rỗng của hắn, nhưng với hắn thế là sang lắm rồi. Chẳng bao giờ hắn cảm thấy ngon miệng khi nghĩ đến bố mẹ lam lũ và đứa em gái không có nổi bộ quần áo tử tế mặc đi học.

“Giáng Sinh này anh thích được tặng cái gì?” San San kéo hắn từ miền quê khốn khó trở lại với nồi nước lèo bốc khói.

“Em thừa biết là anh không quan tâm đến ông già Noel hay những mong ước vô bổ mà.”

Một đứa trẻ sinh ra ở cái mảnh đất chó ăn đá, gà ăn sỏi, cứ mỗi năm lại lũ lụt một lần, lại tang thương trắng xóm làng, lại hóp cái bụng xẹp dúm, vươn cái cổ dài như cây phi lao chắn đê biển lên mà hóng trực thăng chở hàng cứu trợ đi qua. Một đứa trẻ cả đời sống trong nghèo khó, ban ngày đi bê gạch vữa cho ông bố thợ xây, tối về thắp đèn dầu ngồi học bài, cái đói chui cả vào trong giấc ngủ, chưa từng được một lần xem phim của Disney. Một đứa trẻ như thế thì cần đếch phải biết Giáng Sinh là cái gì?

“Trẻ con tin vào ông già Noel vì ông mang cho chúng những món quà vật chất. Những đứa trẻ đã không còn bé như chúng ta thì tin vào những món quà tinh thần nhiều hơn. Nó khiến ta thấy vui, buồn, hy vọng... Dù sao có cảm xúc vẫn tốt hơn trạng thái trống rỗng.” Cô nói.

“Thế em mong ước gì trong đêm Giáng Sinh?” Hắn hỏi ngược lại cô.

“Em chỉ mong mình sớm nghĩ ra cái tình huống cho bài tập về nhà sắp phải nộp thôi.” Cô thở dài.

“Tình huống kịch bản phim ấy hả?”

‘Vâng. Em nghĩ nát óc mới ra một tình huống, hay để em thử trình bày cho anh nghe xem có hợp lý không nhé.” Cô chạm hai đầu ngón tay trỏ vào nhau, đưa chúng lơ lửng trước mắt.

“Nói thử anh nghe xem nào.” Hắn trả lời.

“Một cặp đồng nghiệp đang giờ làm việc thì rủ nhau vào nhà vệ sinh để hú hí. Không phải loại nhà vệ sinh công cộng có nhiều buồng đâu, mà là kiểu trong nhà nghỉ ấy, chỉ có một buồng duy nhất. Thế rồi khi họ đang “ABC” thì có tiếng đập cửa, một đồng nghiệp khác cố tình muốn chơi khăm cả hai.”

Hắn lặng lẽ suy nghĩ một hồi rồi nói.

“Anh thấy không ổn.”

“Không ổn chỗ nào?”

“Chẳng hợp lý chút nào khi nhà vệ sinh đang khóa mà lại có người đập cửa ầm ầm. Cho dù như vậy, chỉ cần một trong hai người nói vọng ra là có người rồi, thế là xong mà.”

‘Vậy đấy, em đúng là đồ vô dụng.” San San úp mặt vào hai tay, tiếng thở dài não nề xuyên qua các kẽ tay.

“Em có thể đổi ngược lại. Họ vào nhà vệ sinh hú hí với nhau. Khi xong việc mới phát hiện khóa cửa bị hỏng, không thể mở được từ bên trong. Nếu cầu cứu từ bên ngoài thì sẽ bị lộ, vậy là một tình huống dở khóc dở cười sẽ diễn ra.” Hắn phân tích.

“Anh quả là thiên tài. Tại sao anh không học một ngành nghệ thuật nào nhỉ?” Cô reo lên.

Hắn không trả lời. Nghệ thuật ư? Quá xa xỉ với kẻ phải lo lắng từng bữa ăn, từng đồng tiền đóng học như hắn. Mà cho dù gia đình có khá khẩm hơn, hắn cũng chẳng bao giờ mơ mộng đến những điều phi thực tế.

“Muộn lắm rồi, bọn mình về thôi. Sáng mai anh còn phải đi học nữa.” Hắn rút chiếc ví cũ rích đã bạc phếch bạc phơ, đường chỉ sút xiên vẹo từ trong chiếc áo khoác cũng cũ rích và bốc mùi lâu ngày không giặt.

“Để em trả, anh còn chưa lĩnh lương mà.” San San ngăn hắn lại.

“Lần trước em đã trả tiền rồi, đừng khiến lòng sĩ diện của anh bị cảm lạnh.” Hắn lắc đầu.

Hai người giằng co, không ai chịu nhường ai. Chỉ khổ cho chiếc ví già nua cà tàng của hắn, sau một hồi bị kéo qua kéo lại, nó không chịu nổi nên đứt toác làm đôi, giấy tờ và tiền thi nhau rơi xuống đất. San San nhìn thấy một tấm ảnh thẻ cỡ 4x6, cô nhặt nó lên và ngắm nghía với vẻ tò mò. Trong ảnh là một cô gái đang nhìn thẳng vào máy ảnh với ánh mắt kiên định. Cô gái đó có khuôn mặt ưa nhìn, mái tóc đen dài và rối giống Angelina Jolie trong phim Salt.

“Đây là ai vậy? Bạn gái của anh à?”

“Đã từng.” Hắn giật lại tấm ảnh một cách thô bạo.

“Kể cho em nghe đi.” San San nài nỉ bằng ngữ điệu háo hức như đứa trẻ chờ được kể chuyện cổ tích trước khi ngủ.

“Em sẽ phải đền bù chiếc ví cho anh đấy.” Hắn lạnh lùng đứng dậy, bất chấp thái độ giận dỗi của cô.

***

“Đôi lúc em cảm thấy mình như sắp nổ tung vậy.” Nàng vừa nói vừa nhâm nhi những hạt trân châu còn sót lại trong cốc trà sữa. Họ đã đi bộ một quãng đường dài từ Phố Huế lên Bờ Hồ, lượn một vòng hồ rồi lại xuyên qua Tràng Tiền, trước khi ngồi bệt dưới bậc cầu thang nhà hát lớn, uống trà sữa và ngắm dòng xe cộ qua lại.

“Anh hiểu. Chúng ta đang phải sống như những cỗ máy công nghiệp. Đôi lúc anh cũng lo sợ liệu mình có gục ngã không.” Hắn vỗ về nàng.

“Ý em không phải là về vấn đề sức lực. Em muốn nói về tinh thần cơ.”

“Tinh thần của em bị cảm cúm à?”

“Ngày xưa, em chỉ biết học, học và học vì cho rằng đó là con đường duy nhất để thoát nghèo. Như kiểu một tấm vé thông hành, còn cuộc đời là một sân bay. Em xuất trình vé, thế là người ta cho em lên máy bay và cất cánh đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng hóa ra em nhầm, ngay cả khi tốt nghiệp loại xuất sắc với tố chất thực sự, em vẫn có thể thất bại như thường.” Nàng nói. “Đó là trong trường hợp mọi thứ đều ổn nhé, thực tế cuộc đời đâu đơn giản vậy.”

“Em không nên bi quan như thế, bọn mình chỉ vừa mới ra khơi thôi mà.”

“Lúc phải xa gia đình, em tưởng rằng mình sẽ nhớ họ đến phát khóc, nhưng hóa ra em chẳng thấy nhớ nhung gì cả. Em cảm thấy cuộc sống bị đảo lộn quá nhanh, như kiểu đến một hành tinh khác ý, em sợ sẽ có một lúc nào đó em chẳng còn thuộc về nơi nào cả...Chẳng có gì đáng sợ bằng tự nghi ngờ chính bản thân mình.”

Hắn đặt cốc trà sữa sang một bên rồi ngồi xuống dưới một bậc cầu thang, đối diện với nàng.

“Nếu vậy, hãy nói với anh mỗi lần em thấy nghi ngờ chính mình, anh sẽ nói cho em vì sao anh chẳng bao giờ nghi ngờ tương lai tốt đẹp của chúng ta.”

Hắn những muốn nói một điều gì đó khiến nàng an tâm hơn, nhưng chẳng nghĩ ra được gì cả. Hắn yêu nàng và thực sự muốn cùng nàng vượt qua mọi khó khăn trong đời, nhưng hắn bất lực trong việc hiểu nàng. Thôi thì cứ tặc lưỡi mà nghĩ rộng ra rằng: Mọi thứ cuối cùng đều sẽ tốt đẹp. Nếu nó không tốt đẹp thì đấy vẫn chưa phải cuối cùng.

Đêm đó, nàng cư xử khác thường, thậm chí nàng đã gần như cho phép hắn đi vào mình. Thường thì khi ngủ nàng vẫn mặc quần áo và hắn cứ việc cho tay vào bên trong mà sờ soạng, nhưng chỉ như vậy, không được tiến xa hơn. Nàng có thể thay đồ trước mặt hắn, nhưng không bao giờ để hai đứa cùng trần truồng bên cạnh nhau. Nàng hiểu rằng chỉ một phút mất kiểm soát là đủ để bao công sức giữ gìn đổ hết xuống con mương dẫn nước cạnh ngôi trường làng.

Hắn cũng nhận ra thái độ khác lạ đó, nhưng chỉ nghĩ đơn thuần là một giây phút nông nổi thoáng qua của cô gái mới lớn đêm nào cũng phải kiềm chế khi nằm cạnh một gã con trai. Thậm chí hắn còn cho rằng nàng đang ngày càng tin tưởng mình hơn, và cái khái niệm về “vợ chồng chay” bắt đầu lung lay. Hiển nhiên là hắn muốn được quan hệ với nàng đến chết đi được. Ngay từ đầu hắn đã xác định sẽ sống cùng nàng trọn đời. Làm tình với nàng không chỉ để thỏa mãn nhu cầu sinh lý, mà sẽ còn là một sự khẳng định chủ quyền, củng cố niềm tin cho hắn về một tương lai hạnh phúc.

Một buổi tối giữa tháng mười hai mưa lạnh buốt, hắn trở về phòng trọ như thường lệ và thấy nàng đang nằm quay đầu vào tường, run rẩy, cố gắng tự ôm thật chặt cơ thể mình.

“Em bị ốm à?” Hắn nhẹ nhàng đặt tay lên trán nàng, không nóng cũng chẳng lạnh.

Nàng đang khóc, những giọt nước mắt âm thầm bám lấy bàn tay hắn.

Suốt cả ngày sau đó, nàng hoặc nằm quay lưng vào tường, tự ôm lấy bản thân mình hoặc ngồi co người trong góc phòng, chẳng nói với hắn lời nào, chẳng ăn chẳng uống, mặc cho hắn van xin, nài nỉ.

Đúng vào cái lúc mà hắn nghĩ rằng cần phải gọi bác sĩ thì nàng đột nhiên bừng tỉnh như đã trải qua một cơn mê dài.

“Em không muốn sống thế này nữa!!!”

“Chuyện gì đã xảy ra với em vậy?” Chưa bao giờ hắn thấy nàng bị kích động đến thế.

“Chẳng có vấn đề gì với em hết, vấn đề là ở cái quá khứ, cái hiện tại và cái tương lai này, cái phòng trọ bẩn thỉu này, đống sách vở khốn kiếp này, cái ánh đèn tuýp tù mù này. Em không muốn sống nghèo khổ thế này thêm nữa. Em không muốn lãng phí cả tuổi trẻ của mình nữa. Em không muốn các con em sau này cũng như em, như bố mẹ em.”

Nàng nấc nghẹn mấy lần, rồi lại nói tiếp.

“Anh nghĩ rằng em không muốn trao thân cho anh hay sao? Em cũng chỉ là một đứa con gái bình thường, cũng có những tò mò về thể xác. Em đâu phải khúc gỗ cành cây mà chịu đựng được mãi. Nhưng thậm chí chúng ta còn không đủ tiền mà mua bao cao su, đừng nói là một tương lai tốt đẹp.”

“Em muốn thoát khỏi đây. Thoát khỏi cái phòng trọ bẩn thỉu ẩm thấp này, thoát khỏi nỗi ám ảnh về cái nghèo đã bám riết em cả cuộc đời. Dù ngó lại đằng sau hay nhìn về phía trước, em cũng chỉ thấy sự bế tắc tuyệt vọng… Chúng ta sẽ làm thế nào bây giờ?!!”

Hắn chỉ im lặng, đợi cho đến khi nàng không đủ hơi để nói nữa mới ôm chặt nàng vào lòng.

“Em đang bị kích động. Chỉ là một khoảng thời gian tồi tệ, một đoạn ổ gà chết tiệt trên con đường đẹp đẽ mà thôi. Hãy bình tĩnh lại, hít thật sâu và em sẽ khá hơn.” Hắn thì thầm vào tai nàng.

“Em không thể khá hơn được, em biết mà.” Nàng dụi đầu vào vai hắn, run lẩy bẩy như một con vịt con yếu đuối.

‘Hãy suy nghĩ tích cực. Hãy nhắm mắt lại và tưởng tượng chúng ta của hai mươi năm nữa, cũng ngồi ôm nhau như thế này, trong một căn nhà khang trang, đúng nghĩa của một tổ ấm. Chúng ta sẽ ôn lại những năm tháng khốn khó xưa kia. Em sẽ thở phào vì ngày xưa đã không từ bỏ, nên chúng ta mới có ngày hôm nay. Con cái của chúng ta sẽ tự hào vì bố mẹ chúng đã nỗ lực đến nhường nào, để thế hệ của chúng không bao giờ phải đi trên con đường làng nghèo khổ, ở trong xóm trọ bẩn thỉu.” Hắn chạm nhẹ trán mình vào trán nàng, như để gửi những viễn cảnh tốt đẹp từ đầu hắn sang đầu nàng.

“Anh có để ý rằng chúng mình thậm chí còn chưa từng có một bức ảnh chụp chung không?” Nàng hỏi.

“Sắp đến Giáng Sinh rồi. Chẳng phải em từng nói muốn một lần được đi chơi đêm Giáng Sinh sao? Anh sẽ xin nghỉ việc hôm đó, nếu người ta không cho thì anh sẽ nghỉ hẳn luôn. Anh sẽ đưa em đến bất cứ nơi nào em thích, bọn mình sẽ chụp số ảnh mà nhét vào mười cuốn album cũng không đủ, được chứ?” Hắn dỗ dành nàng như một đứa trẻ.

“Em là người nghèo, em không cần Giáng Sinh.”

Nàng không cần Giáng Sinh, và cũng chẳng muốn chụp ảnh với hắn. Đúng vào cái đêm thánh vô cùng năm đó, nàng bỏ đi, không báo trước, không để lại thư từ, chẳng mang theo cái gì, trừ hơi ấm và tình yêu.

***

Đêm Giáng Sinh là khoảng thời gian ai cũng nhận ra mà không cần được thông báo. Đó là khi ba màu đỏ, xanh, vàng đã thực sự được quét lên từng viên gạch, từng gốc cây trong thành phố. Ông già Noel xuất hiện ở khắp mọi nơi. Tại một góc đường, hai mươi ông già đang chia nhau các gói quà trước khi lên xe máy phóng vù vù tới nơi những đứa trẻ đang chờ với hóa đơn của bố mẹ chúng. Một số bà già Noel mặc váy ngắn dưới cái lạnh mười độ để phát coupon giảm giá Lẩu băng chuyền. Bên trong phòng thay đồ của một quán café lớn sát nhà thờ, một gã con trai đang đứng trước gương, chỉnh lại bộ râu bằng bông trắng muốt được gắn với cằm của mình bởi băng dính.

Chưa bao giờ hắn tưởng tượng thân hình mình khi béo trông như thế nào. Hắn chỉ nặng có sáu mươi cân nhưng cao đến một mét bảy mươi lăm. Người ta đã phải nhồi cả một cái ruột gối vào bụng mới khiến hắn trông giống ông già Noel hơn một chút.

“Tôi biết là cậu rất hợp với bộ đồ ông già Noel mà.” Cậu chủ Cu Long đã đứng sau lưng hắn từ lúc nào. Anh ta mặc bộ vest sang trọng và chuẩn mực đến từng sợi vải, trên cổ thoang thoảng mùi nước hoa không hắc cũng không nhạt.

Hắn liếc nhìn anh ta trong gương, thay vì quay đầu lại.

“Cậu có biết hồi nhỏ tôi thường xin ông già Noel cái gì không?” Long đứng tựa vai vào cửa, khoang hai tay trước ngực.

“Là gì vậy, sếp?” Trong lòng hắn tự hỏi có cái gì trên đời mà bố mẹ không mua cho anh ta được chứ.

“Một con thú bông.”

Dù đã phủ kín mặt bởi râu và mũ của ông già Noel nhưng vẫn dễ dàng nhận ra cái nhíu mày khó hiểu từ hắn.

“Chắc cậu không biết nhưng tôi bị dị ứng với sợi bông. Vậy nên áo len, chăn bông, thú nuôi, thú bông là những thứ không được ở gần tôi quá một mét. Nói cho dễ hiểu là nếu bây giờ cậu chạy đến tặng tôi một cái ôm thắm thiết thì chắc chắn nơi tiếp theo tôi tỉnh dậy là bệnh viện.”

Anh ta ngừng lại một chút, như để cho hắn theo kịp câu chuyện.

“Tôi ghen tỵ mỗi khi thấy những đứa trẻ khác ôm thú bông trong lòng. Rất khó diễn tả tâm trạng đó, như kiểu bị tàn phế về mặt tinh thần. Tôi không được trải nghiệm cảm giác mà người bình thường có được. Cậu sẽ bị hụt hẫng khi nhận ra rằng có những điều trong đời ta không thể đạt đến hay cảm nhận.”

“Tôi hiểu, sếp ạ.” Hắn trả lời.

“Cậu hiểu là được rồi.” Long nhún vai. “Chẳng rõ tại sao tôi lại kể câu chuyện đó. Tôi quên khuấy lý do muốn gặp cậu. Thỉnh thoảng tôi lại nhớ trước quên sau vậy đó.”

“Sếp cần gì ở tôi?”

“Năm sau cậu tốt nghiệp phải không?”

“Vâng.”

“Cậu có muốn làm việc cho tôi không? Ý tôi không phải là cái quán café bé tẹo này. Tôi đang nói đến công ty của gia đình tôi.”

Lần này thì sự ngạc nhiên của hắn không thể giấu đi đâu được.

“Tại sao lại là tôi?”

“Câu hỏi hay đấy. Tại sao đó hả?” Long ra vẻ trầm ngâm suy nghĩ. “Bình thường nếu nhận được lời đề nghị tương tự, câu đầu tiên người ta hỏi tôi là “anh sẽ trả tôi bao nhiêu?” cơ.”

“Tôi chọn cậu vì cậu chẳng bao giờ tham gia vào những cuộc nói xấu gia đình tôi. Cậu luôn làm tròn công việc của mình, không xao nhãng, không than vãn một lời. Cậu dường như là một người có tham vọng rõ ràng và không bao giờ đi trật khỏi con đường mình đã vạch ra. Tôi thích những đức tính đó.”

“Cứ suy nghĩ thoải mái. Cậu có thể trả lời tôi sau kỳ nghỉ Tết âm lịch.” Anh ta nhún vai, đoạn quay lưng bước đi đầy kiêu hãnh, chẳng thèm ngó ngàng đến thái độ của hắn. Cằm của anh ta hếch lên, còn dáng đi oai vệ như thể vừa ban phát phép mầu cho cả một vương quốc và nói rằng “Không cần phải biết ơn ta, hỡi những kẻ khốn khổ vừa được ta cứu vớt”.

Hắn không biết điều gì khiến mình suy nghĩ nhiều hơn, bệnh dị ứng với đồ bông hay là cơ hội thoát khỏi cái nghèo đầu tiên trong đời. Thì ra trong mắt người khác, hắn là kẻ tận tụy và được việc đến vậy. Những công việc chân tay mà hắn đã làm đó, những công việc vắt kiệt đến chút sức lực cuối cùng của hắn. Chẳng đời nào hắn nghĩ có người ghi nhận công sức của mình, hắn chỉ đơn thuần coi công việc làm thêm này là những bậc cầu thang khiến hắn mải miết bước, mải miết dò dẫm để tìm thấy ánh sáng trên miệng hố.

Khỉ thật, cảm giác này là sao nhỉ? Hắn bỗng vui vẻ thấy lạ. Chưa bao giờ tâm trạng hắn phấn chấn đến thế. Lần đầu tiên trong đời, số phận đã mỉm cười với hắn. Hắn cần tìm một ai đó để chia sẻ niềm vui này. Hắn nghĩ đến San San, người bạn duy nhất của hắn ở mảnh đất xa lạ. Chắc chắn cô sẽ nhảy cẫng lên và hú hét vì sung sướng, thậm chí còn phấn khích hơn cả hắn cho mà xem. Không cần phải đoán mò nữa, hắn liếc vội mình trong gương lần nữa để chắc chắn trang phục đã chỉnh tề, rồi nhanh chóng bước ra ngoài sảnh. Phải kiềm chế lắm hắn mới không nhún nhảy và huýt sáo theo giai điệu bài Last Christmas của Taylor Swiff đang phát ra từ những chiếc loa gắn trên tường.

San San và toàn bộ các nhân viên đều đang tập trung tại sảnh chính. Cậu chủ Cu Long cũng ở đó, thân mật khoác tay một cô gái xinh đẹp. Cô vận chiếc áo măng tô cổ lông màu đen sang trọng, quần legging tôn đôi chân dài miên man được nâng niu trên đôi giầy cao gót đắt tiền. Hắn còn chưa kịp nhìn rõ mặt cô gái đó thì San San đã vội xen vào cản tầm nhìn của hắn, xua tay ra hiệu đừng lại gần.

***

Nàng đã ra đi rồi. Hắn nhận ra điều đó ngay từ bậu cửa. Căn phòng vẫn như mọi ngày, tuyệt nhiên không một sự thay đổi. Vẫn là chiếc hộp xi măng mười hai mét vuông, lát nền bằng loại gạch rẻ tiền bốc mùi hôi của đất. Trên tường là vô số poster các ban nhạc mà người thuê trước để lại. Sách vở xếp từng chồng ngăn nắp không lệch một xen-ti-mét. Xoong nồi, bát đũa nằm câm lặng trên chạn sắt. Bếp gas du lịch ám bụi đen xì. Tủ quần áo dã chiến thủng lỗ chỗ vết chuột gặm. Chăn màn mỏng dính in hình hoa mai gấp gọn gàng. Quần áo lót của nàng vẫn nằm trên dây phơi, co quắp lại vì bột giặt kém chất lượng.

Nhưng hắn chẳng còn cảm giác gì của nàng trên những vật dụng quen thuộc này. Hơi ấm. Đó chính là thứ đã biến mất. Không phải khi hắn mở cửa, gió lùa vào cuốn đi hơi ấm, mà nó đã biến mất từ trước.

Hắn quay ra, khóa cửa lại rồi tựa đầu vào tường, cầu mong mình đang lạc trong một giấc mơ quái ác nào đó, hoặc hắn đã vào nhầm phòng, một căn phòng tình cờ lại được bày biện giống hệt nơi của nàng và hắn.

Hắn mở cửa, lại bước vào, vẫn là cảm giác câm lặng. Nàng đã ra đi thật rồi. Nàng sẽ không bao giờ quay trở lại nơi đây nữa. Nàng đã đứng tại bậu cửa này vào sáng nay, nhìn quanh một lượt căn phòng lần cuối trước khi khóa cửa. Nàng đi khỏi xóm trọ, đi khỏi con ngõ. Có lẽ nàng đã không ngoảnh lại lần nào.

Hắn ném món quà định sẽ tặng nàng – chiếc dây chuyền bạc hình trái tim, mua bằng cả tháng lương của hắn vào một góc nhà, rồi ngồi phịch xuống góc nhà đối diện một cách vô thức, đúng vị trí mà nàng đã bất động mấy hôm trước.

Nàng đã nghĩ gì trong khoảng thời gian đó? Những câu hỏi từ nơi tối tăm bỗng ập đến, đè nén từng dây thần kinh, từng mạch máu trong cơ thể hắn. Ánh đèn tuýp tù mù phát ra tiếng kêu như đàn ong địa ngục, lũ thạch sùng gọi bạn tình bằng những âm thanh tành tạch, những chiếc chân đầy lông lá của bọn gián chạm vào bát đĩa trên chạn, tiếng bọn gặm nhấm mở tiệc trong tủ quần áo. Hắn thấy lạnh và sợ. Nếu không phải vì cánh cửa sắt hoen gỉ vẫn tồn tại ở đó một cách hiển nhiên, chắc hắn đã nghĩ mình đang ở trong một hầm mộ. Một ngôi mộ quá to với kẻ tầm thường như hắn.

Hắn muốn đắp chăn cho đỡ lạnh, nhưng thậm chí hắn không thể nhấc nổi tấm chăn bông xẹp dúm. Thế là hắn vớ lấy con cá sấu bông Ma Bư của mình, ôm chặt nó trong lòng như kẻ sắp chết đuối bám vào chiếc phao cứu sinh cuối cùng. Bên ngoài căn phòng, người ta háo hức chờ đến giây phút Chúa giáng sinh, bên trong này, hắn chờ đợi phút giây tận diệt.

***

San San thầm nguyền rủa cái trí nhớ tồi tệ của mình. Những việc cần phải nhớ thì cô quên bẵng đi, trong khi những chuyện vô bổ thoáng qua thì lại in hằn lên vỏ não. Cụ thể là việc cậu chủ Long đã nói đi nói lại với cô rằng sẽ đưa vợ sắp cưới về ra mắt gia đình trong đêm Giáng sinh này. Họ sẽ ngồi bàn VIP trên gác, ăn gà quay, uống vang đỏ và bàn về tương lai của đôi bạn trẻ. Nhưng trước đó, anh ta cần một nhân viên đóng vai ông già Noel để chụp ảnh chung với nàng, nhằm thể hiện sự mến khách và chuyên nghiệp của các nhân viên, cũng là để cậu chủ có dịp chứng tỏ năng lực quản lý của mình. San San đã quên khuấy không kể cho hắn chuyện này. Trong khi đó, cô mới chỉ kịp nhìn tấm ảnh thẻ bé tí có một lần, lại còn trong cảnh tăm tối nửa đêm, ấy thế mà lại nhớ rất kỹ. Ngoài ra cô còn là kẻ lắm chuyện và tò mò nữa. Lẽ ra đêm qua, cô không nên nằng nặc đòi hắn phải kể lại câu chuyện tình cảm đã tan vỡ từ thuở xa lơ xa lắc đó. Lẽ ra cô phải tránh xa chuyện thiên hạ, nhắm mắt làm ngơ trước thói đời, giống như cả xã hội vô cảm này đang làm rất tốt. Lẽ ra bây giờ cô đã không bị kẹt giữa tình huống khó xử này. Cô có thể vờ như không nhận ra cô chủ tương lai của mình chính là cô gái trong tấm ảnh thẻ. Cô có thể vin vào cái cớ tấm ảnh đã cũ, cộng thêm thời điểm nửa đêm khiến đầu óc cô không tỉnh táo, và nhất là cô gái trong ảnh với cô gái đêm nay chẳng khác nào vịt bầu với thiên nga, không một chút liên quan, ngoại trừ đôi mắt. Nhưng cô đã nhận ra trước cả hắn, thậm chí còn ngầm cảnh báo cho hắn nữa. Giờ thì muộn rồi. Cô hiểu rằng mình là người duy nhất có thể xoa dịu hắn lúc này, hoặc chí ít cũng có thể làm một điều gì đó.

Ca làm việc đã kết thúc được nửa tiếng, nhưng hắn vẫn ngồi bất động trong xó bếp, bộ quần áo ông già Noel vứt vo viên trong giỏ đựng đồ giặt. Tiếng củi ướt nổ lép bép trong lò nướng gần đó, thỉnh thoảng lại bắn ra những tia lửa nhỏ như pháo hoa. Đôi khi hắn gục đầu vào hai đầu gối, có lúc hắn nhìm chằm chằm vào ô cửa kính đối diện. Ngoài trời mỗi lúc một lạnh, mọi người đang chúc tụng nhau trước khi trở về nhà.

“Anh không sao chứ?” San San lặp lại câu hỏi đến ba lần nhưng hắn không trả lời.

Cô dúi hộp quà tự gói khá vụng về vào bàn tay đang thả lỏng như đã chết của hắn.

“Quà của anh đây. Giáng sinh vui vẻ.”

Đến lúc này hắn mới bắt đầu để ý tới sự xuất hiện của San San.

“Trong câu chuyện anh kể em nghe tối qua còn thiếu một đoạn. Anh không nhắc tới vì đó là bí mật của riêng anh, vả lại nếu anh nói ra chắc em sẽ cho là nhảm nhí.” Hắn cầm gói quà bằng cả hai tay, nửa muốn ngắm nghía, nửa muốn hờ hững.

“Em chưa bao giờ không tin anh điều gì cả.” Cô đáp.

“Vậy em có muốn nghe không?”

San San ngập ngừng một chút rồi mới gật đầu. Cô đã lún quá sâu vào câu chuyện này rồi, có thêm nữa cũng chẳng sao cả.

“Đêm Giáng Sinh cách đây ba năm, cái đêm mà người yêu anh bỏ đi đó. Anh đã ngồi đúng vị trí mà cô ấy đã ngồi, cố gắng tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, ngọn sóng nào đã xô ngã hết lý trí và nghị lực của cô ấy. Anh đã ngồi giống như tư thế hiện giờ. Có lẽ đâu khoảng hai hoặc ba ngày.” Hơi lạnh phả ra từ miệng hắn. Mặc dù rất muốn hút một điếu thuốc nhưng chẳng còn gì trong túi hắn lúc này.

“Ngày đầu tiên, chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh chỉ đơn giản ngồi đó, thu hết các giác quan vào bên trong, cố gắng không tiếp nhận những gì môi trường bên ngoài đưa vào. Anh vẫn cảm nhận được hơi lạnh dưới sàn nhà và bức tường sau lưng, mùi ẩm mốc, tiếng chuột chạy lạo xạo trên chạn bát đĩa.

Nhưng bắt đầu từ ngày thứ hai, mọi thứ xung quanh anh mờ dần đi. Anh không còn nhận ra các giác quan của mình nữa. Hồn vía anh đã rời khỏi thể xác, bay vô định trên trần nhà. Từ trên đó, anh nhìn được cả căn phòng. Anh thấy mình ngồi thu lu trong xó nhà. Anh thấy những vật dụng thường ngày của anh. Tất cả đều bế tắc đến tột cùng, và được trói buộc vào nhau bởi một sợi dây vô hình. Nút thắt của chúng chính là anh.”

Hắn ngừng lại một lúc, vuốt ve món quà của San San như một ngọn lửa ấm áp.

“Chính lúc đó anh nhận ra mình đã yếu hèn và kém cỏi đến nhường nào. Chẳng trách mà người yêu anh không tin vào anh. Bởi vì sẽ chẳng đời nào anh mang lại cho cô ấy cuộc sống tốt đẹp hơn. Mỗi lần anh vẽ ra cái viễn cảnh đó là anh đang lừa dối cô ấy và lừa dối chính mình.”

Hắn duỗi thẳng hai chân để giải tỏa cơn nhức mỏi, rồi nhìn sang San San.

“Sau khi tỉnh dậy, anh đã chấp nhận chuyện cô ấy bỏ rơi anh. Cô ấy muốn mưu cầu hạnh phúc, nhưng không phải bằng con đường anh đang đi, cũng không phải cái đích anh muốn đưa cô ấy đến. Vậy nên cô ấy rẽ sang một con đường khác. Điều duy nhất anh có thể làm là chúc cô ấy may mắn, và tiếp tục con đường của mình.”

San San bối rối tột độ. Cô không biết nên nói gì. Bộ não đầy ắp những lời hay ý đẹp trích dẫn từ các bộ phim Hollywood bỗng dưng trở nên kệch cỡm. Cô hổ thẹn nhận ra vốn sống của mình nghèo nàn quá, chưa trải nghiệm đủ để nói một câu cho ra đầu ra đũa, huống hồ đòi sáng tạo ra một câu chuyện xuyên suốt chín mươi phút với hàng tá nhân vật hỷ, nộ, ái, ố khác nhau.

Cuối cùng, cô quyết định không nói gì cả. Sự im lặng có lẽ là liều thuốc hữu hiệu nhất cho hắn lúc này. Cả bóng tối nữa.

“Sếp Long mời tất cả nhân viên đi ăn đêm. Dĩ nhiên là có cả phu nhân tương lai. Em sẽ nói là anh bị cảm lạnh, phải về trước. Anh cứ việc ngồi đó mà nhìn lại chính mình. Nhưng hy vọng sẽ chỉ một đêm thôi, không phải mất đến ba, bốn ngày. Nếu không thì lấy đâu ra chỗ cho đầu bếp làm việc.” Cô cố gắng nghĩ ra một câu bông đùa, nhưng đúng như dự đoán, chẳng có chút tác dụng nào.

“Nhớ mở quà của em nhé.”

San San bỏ đi. Mũi giầy cao gót của cô dẫm lên các cọng rau và hành vương vãi dưới sàn nhà tạo thành một thứ âm thanh khô khốc. Chỉ còn mình hắn với bóng tối xiêu vẹo trong căn bếp bẩn thỉu, với ánh lửa bập bùng từ lò nướng và gói quà nhỏ bé yếu ớt trên tay.

Hắn mở gói quà với thái độ hờ hững. Một chiếc ví mới cứng, ngăn đựng ảnh là hình chụp chung của San San và hắn. Dưới đáy hộp quà là tấm ảnh nàng chụp với hắn lúc tối, trong hình dạng ông già Noel.

Đến giờ hắn vẫn nhớ y nguyên cái khoảnh khắc đó, cả hình ảnh, tiếng động lẫn mùi vị. Nàng xinh đẹp, lộng lẫy như một cô tiểu thư đài các. Cơ thể nàng toát ra vị oải hương nồng nhiệt như ngọn lửa ấm giữa đêm đông. Cách nàng cười, cách nàng nhìn người khác, chẳng còn một chút gì của cô gái nghèo khó xưa kia. Thế nhưng hắn vẫn nhận ra nàng, thậm chí đến cả San San cũng nhận ra dù mới chỉ xem ảnh. Tội nghiệp nàng, chắc hẳn nàng đã rất vất vả trong những năm tháng qua, để gột rửa con người cũ của mình, xóa sạch quá khứ, thậm chí quên đi mình là ai. Nhưng cho dù có dành cả cuộc đời để chạy trốn, nàng vẫn không bao giờ thoát khỏi bản thể của mình. Không phải bây giờ hắn mới nhận ra điều đó, mà khoảng thời gian lơ lửng trên trần nhà đã cảnh báo hắn như thế. Vậy nên hắn mới không chọn con đường giống nàng. Hắn vẫn đi con đường của hắn, dài đằng đẵng và lạnh lẽo, nhưng được là chính mình.

Nàng đã khoác tay hắn. Chính xác là nàng khoác tay ông già Noel. Nàng cười tươi rạng rỡ, tiếng máy ảnh lấy ngay Polaroid đánh tách, chớp flash lóe sáng. Thật may mắn cho hắn khi không ai nhận ra cảm xúc thực sự ẩn sau bộ râu to đùng. Từ lúc đó cho đến khi quán đóng cửa, hắn đứng yên một chỗ, thậm chí không chớp mắt. Hắn vô cảm còn hơn cả cây thông Noel bên cạnh.

Hắn ngắm nghía mãi không dứt tấm ảnh đầu tiên của nàng và hắn. Vậy là cuối cùng họ cũng đã có một tấm ảnh chung. Hắn vuốt ve khuôn mặt nàng bằng những ngón tay đã tái đi vì lạnh và hồi hộp. Hắn vẫn nhớ rõ từng phần da thịt nàng, sự vụng về của đôi môi, cơ thể nhỏ bé run rẩy mỗi khi nằm trọn trong vòng tay hắn. Tình yêu của hắn dành cho nàng không hề thay đổi sau từng đấy năm trời, ngay cả khi nàng đã bỏ rơi hắn với lũ chuột bọ.

Không được!

Nếu hắn còn lởn vởn trước mặt nàng, sớm muộn gì mọi người cũng sẽ biết. Quá khứ mà nàng cố công chôn vùi sẽ bị lộ tẩy, con người mới của nàng sẽ sụp đổ. Cứ coi như nàng vẫn đủ bản lĩnh để giả vờ không quen biết hắn, nhưng Cu Long sẽ nhận ra. Trừ khi hắn muốn trả thù, hoặc nàng không bao giờ được biết đến sự tồn tại của hắn ở đây.

Hắn bật dậy, không một chút do dự ném tấm ảnh vào bếp lò đang cháy bừng bừng. Lửa nuốt lấy từng phần cơ thể của họ, biến tất cả thành một nắm tro tàn đen đúa. Hắn rời khỏi quán bằng cửa sau. Quên cái cơ hội được có một công việc tử tế vừa mới nắm lấy, quên cái bệnh dị ứng sợi bông quái đản, quên bữa tiệc Giáng Sinh không dành cho mình đi. Hắn phải rời khỏi đây, càng nhanh càng tốt.

Tiếng gió gào rú trong làn sương muối mờ ảo khiến hắn tối tăm mặt mũi còn chiếc xe Dream cũ rích khốn khổ thì loạng choạng chực muốn đổ nhào ra. Nhưng hắn không đi chậm lại. Hắn phải trở về căn phòng trọ, đốt tấm ảnh thẻ của nàng, đốt từng chiếc áo, từng chiếc quần lót, từng cuốn sách, vở của nàng trong chiếc chậu nhôm mà bà chủ nhà vẫn dùng để hóa vàng mã. Hắn đã từng hứa sẽ chăm lo cho nàng cả đời, và hắn sẽ giữ lời.

Người lái đò độc thân

A- A A+ ‹Đọc›

Giăng lưới xong, lão Ngũ khoát tay bơi vòng nữa rồi trườn vào bờ, nhẹ nhàng gối đầu lên vạt cỏ. Một khóm lục bình lừ lừ trôi đến, những cái rễ ram ráp, âm ấm cọ vào cổ, vào ngực. Lão chợt thấy có gì chộn rộn. Một cảm giác vừa gần gũi vừa xa xăm ùa về xâm chiếm tâm hồn lão

Hồi còn làm lính trinh sát, bao nhiêu lần dầm sông, đội lục bình đi trinh sát, lão không thể nhớ hết. Những khóm lục bình trở nên thân thiết với lão trong những đêm lẻ loi nơi sông lạnh. Chắc chẳng bao giờ lão có thể quên được cái cảm giác nhồn nhột, ngưa ngứa và sau đó là âm ấm, ran ran thật dễ chịu của rễ lục bình cà vào cổ, vào mặt… Đời lão có lẽ sẽ gắn bó suốt đời với sông nước như là định mệnh!

*

- Sáng ngày ra đã nhỡ đò. Bực hết cả mình! - Chị hàng chuối gầy như con chão chàng vừa loay hoay chống chiếc xe, thồ hai sọt chuối to tướng vừa làu bàu.

- Thế còn khá chán - Chị hàng cá đay đả - Hồi trước mụ Thuyên còn chở đò ở đây á. Bảnh mắt mụ vẫn chưa thèm dậy. Bao nhiêu lần chị em mình chả muộn chợ là gì.

- Cả bọn học sinh nữa, suốt ngày bị muộn học - Bà Béo góp lời - Mà này, cô có vẻ thích lão nhỉ? Lần nào qua sông cũng liếc lão đến lệch cả đò còn gì!

- Đây không thèm! - "Hàng cá" cong làn môi mỏng - Trông khỏe mạnh vậy mà có vấn đề. Ai đời thấy đàn bà mà cứ dửng dưng như không, mắt thì lạnh tanh, vô cảm!

- Đùa tí cho may, làm gì mà đã định nổi xung lên thế? - Bà Béo cười cười, giục - Đò sang đến rồi kìa!

Mọi người lục tục đứng dậy, ai nấy đều chuẩn bị sẵn tiền lẻ trên tay. Con đò ghé mũi vào mép nước. Lão Ngũ nhẩy lên bờ, quàng chiếc chão vào cây cọc ghim.

Con đò không còn trọng lượng khẽ chòng chành, chòng chành…

Nhìn lão vuốt vuốt mấy tờ bạc lẻ nhăn nhúm cho phẳng phiu rồi cẩn thận nhét vào chiếc ví đã cũ rích. "Hàng cá" liếc xéo một cái sắc như cật nứa, lẩm bẩm: "Đúng là cái đồ…Nom mặt cứ tưởng hiền lành, vậy mà…". Chẳng biết có nghe được hay không, chỉ thấy lão bình thản nhét cái ví vào túi quần, đến mép nước, khẽ đưa chân vừa hẩy nhẹ đuôi thuyền vừa bước xuống êm như mèo. Mái chèo khua nhẹ, làm chẻ ra hai bên mạn thuyền những làn nước xiết sâu xuống lòng sông. Con thuyền quay mũi, hướng sang phía bờ tả.

"Hàng cá" chắc "cay" lão Ngũ từ cái lần đầu tiên lão chở đò ở bến Gáo. Quen bắt nạt cô Thuyên hiền lành - người "tiền nhiệm" của lão Ngũ - nhiều lần đi đò nợ tiền, rồi lâu ngày lờ đi. Biết thừa khách đi đò, lão Ngũ đề tấm biển to tướng ở đầu bến: "Đề nghị khách cho xin tiền trước". Thế mà "Hàng cá" vẫn vờ như không biết:

- Lát về chợ trả một thể. Vừa mới sáng ngày ra…

- Không được! - Lão Ngũ vẫn từ tốn - Tôi đã quy định rồi. Ai cũng phải thực hiện, nếu muốn sang sông.

Biết có năn nỉ cũng vô ích, hơn nữa bị mọi người thúc vì làm chậm đò, "hàng cá" bực bội lần tay vào cạp quần, lôi ra cái túi rút màu cháo lòng. Đập mấy nghìn vào bàn tay to bè, thô ráp của lão Ngũ, bâng quơ: "Mấy ông Nhà nước mải làm gì không biết. Có con sông cỏn con mà không bắc nổi cái cầu. Thế này thì bằng giết dân à".

Chẳng cứ "hàng cá", mấy tay lái lợn cũng "cú" lão Ngũ lắm. Bắt được con lợn, dùng mọi thủ thuật, vật nài lên xuống, trả giá mới vớ được vài chục nghìn. Vậy mà qua sông, nhoằng một cái, lão "chém" gấp đôi, gấp ba lúc đi một mình. Thôi thì muốn được việc, cứ là phải "nôn" ra. Lão đã nói một là một, cấm nài nỉ, lay chuyển được. Nhiều tay máu mặt cũng có ý gầm ghè, song cứ nhìn cánh tay cơ bắp như chão bện, khuôn ngực vồng lên sau làn áo đông xuân và nhất là thân hình như tượng đồng của lão mà hậm hực.

Tức thì tức vậy, song ai cũng phải thừa nhận việc lão Ngũ có mặt ở bến Gáo này là cần thiết. Trước đây, thời cô Thuyên còn chở đò, cứ sâm sẩm tối, khách có van lạy cách mấy cô cũng nhất quyết không chở. Lão Ngũ thì ngược lại. Đêm hôm, mưa gió, bất kể lúc nào khách có nhu cầu qua sông, lão đều đáp ứng. Chỉ có điều giá cả cũng phải tăng lên gấp hai, gấp ba lúc bình thường. Công bằng mà nói, lão làm nghề có trách nhiệm, tay chèo vững, trang bị trên đò tốt, đủ đầy mọi thứ từ phao cứu sinh cho đến tủ thuốc "gia đình".

Bến Gáo chỉ cách làng non ba cây số mà cứ như vùng sâu vùng xa vậy, mới sâm sẩm tối đã vắng hoe, vắng hoét. Trăng mười hai như quả bưởi gầy lấp ló sau làn mây mỏng. Cơm nước xong, lão Ngũ mang chiếc võng dù ra mắc vào hai thân tre ở đầu bến nằm hóng gió. Hơi nước từ mặt sông thổi lên rười rượi. Mây dần tan, ánh trăng lại như vãi bạc xuống mặt sông óng ánh. Chẳng hiểu sao, cứ những đêm trăng sáng thì hầu như lại không có khách đi đò. Lão nằm ngắm trăng và chợt nhận ra đâu phải chỉ riêng mình lão lẻ loi giữa trời đất! Đúng rồi. Lão bật dậy. Trăng sáng thế này mà ngồi không cũng phí! Mình phải tranh thủ làm ít cỏ lúa mới được. Những rẻo đất đầu thừa đuôi thẹo, những thùng vũng, làn lém gần bến Gáo bỏ hoang lâu nay. Tranh thủ những đêm trăng sáng lão hì hục san lấp, cào cuốc thành những mảnh ruộng nho nhỏ. Phân hóa học không có, lão chỉ dùng toàn phân xanh được ủ từ lá chuối, lục bình bón cho lúa. Vậy mà lạ thay, những mảnh ruộng con con của lão cứ tốt bời bời, nhìn mát cả mắt! Thiên hạ bảo lão khác người! Cứ cho là như thế đi. Song lão cảm thấy làm cỏ lúa ban đêm cũng có cái thú riêng của nó. Những cây lúa về đêm như cũng muốn làm duyên với ánh trăng sóng sánh, bỗng trở nên mềm mại hơn thì phải! Từng lá lúa đẫm sương như mái tóc con gái vừa gội xong mát lạnh xõa vào má. Rồi cái mùi nồng nồng, ngai ngái rất đặc trưng của bùn ruộng xộc vào mũi, nhưng không gây khó chịu mà trái lại nó làm lão cảm giác bao nhiêu tinh túy, bao nhiêu đằm ngọt của đồng quê đang thấm vào từng tế bào, làm con người lão vô cùng sảng khoái. Tiếng côn trùng ri rỉ, tiếng ếch nhái ì ộp gọi bạn tình.  Thỉnh thoảng một con vạc giật mình bay vút lên "vạc vạc" hoảng hốt… Ai bảo đêm khuya tĩnh mịch? Đêm với lão thật sống động và trong trẻo. Có lần vừa cào cỏ lão vừa ư ử hát làm mấy tay choai choai đi chơi về khuya tưởng ma trêu chạy văng cả dép. Thực ra làm cỏ lúa ban đêm ngoài cái thú  trên, lão còn có một lý do nữa: Canh chừng bọn trộm chuối.

Dọc bờ sông gần bến Gáo, lão trồng toàn chuối "sài goòng". Cứ hai mét một cây. Khi cây thành khóm, lão chỉ để lại đúng ba cây đẹp nhất, còn chặt bỏ. Mỗi khóm tạo thành thế chân kiềng. Ba thân cây to tròn, nhẵn bóng, vươn cao. Dại nắng, dại gió chuối của lão lớn nhanh như thổi. Lão thường xuyên "làm cỏ" cho cây, chặt bỏ tầu già, tầu úa, vun bùn tươi vào từng gốc. Những cây chuối đều đặn, mập mạp, không bị sâu bệnh, nên ra buồng nào là được buồng đó. Những buồng chuối to, dài, quả đẫy đà, béo mập. Chị hàng chuối là khách thường xuyên của lão. Phải nói giá chuối của lão cũng hơi "chát". Song bù lại mã rất đẹp, nên bán chạy lắm. Nhất là ngày rằm, mồng một, nếu cất chuối của lão đi bán thì cứ gọi là đắt còn hơn tôm tươi!

Mấy tay chuyên đi trộm chuối kháo nhau: Lão Ngũ cứ như ma vậy. Rõ ràng lão đang lúi húi ở ruộng lúa. Vậy mà thuyền của bọn chúng vừa sà gần vào bờ chuối, đã thấy lão bơi thùm thùm dưới bến. Thế là khôn hồn thì chuồn cho sớm. Lão mà vớ được, cứ gọi là uống no nước!

Nhớ cái lần thằng bé con nhà Tuấn thợ thịt đi học qua đò bị đau bụng. Lão cõng nó chạy bộ gần chục cây số đến bệnh viện Huyện. Bác sĩ nói chỉ chậm nửa giờ nữa thì hết cứu. Ngày thằng bé ra viện, vợ chồng nhà Tuấn dắt con đến tạ ơn lão và muốn xin cho nó nhận lão làm bố nuôi. Lão Ngũ nhất định không chịu, lão bảo không thích có sự ràng buộc nào. Riêng hai đôi vịt bầu béo múp, lão nhận ngay. Hai đôi vịt ấy lão thả sông nuôi, vậy là thoải mái trứng ăn, lại còn được bán nữa!...

Làm cỏ chán, lão lại xuống sông thả lưới. Nhiều hôm nước ròng lão cũng bắt được vô khối cá. Để một ít ăn, còn lại sáng hôm sau lão bán cất cho "hàng cá", kiếm thêm ít tiền.

Thiên hạ xì xèo: Lão Ngũ nhiều tiền lắm. Gần hai chục năm chèo đò chẳng chi tiêu gì, ăn uống đơn giản, vợ con, gia đình lại không có, tiền để đâu cho hết. Thi thoảng cũng có thấy lão đạp xe đi đâu đó một hai tiếng rồi lại về ngay. Lão có ai thân thích đâu nhỉ? Mà cái khoản kia thì chắc lại càng không!

*

- Này, lâu nay bà có thấy lão Ngũ khang khác không? - "Hàng cá" vừa rảo chân vừa hỏi bà Béo.

- Khác là khác thế nào? - Bà Béo đang lạch bạch bước, hỏi lại.

- Thì đấy - Giọng "hàng cá" như chùng xuống - Lão chèo đò mà cứ như người mất hồn ấy. Có lúc chân loạng choạng, tay thì tí nữa trượt khỏi bai chèo… Hay lão ấy ốm nhỉ?

- Ôi giời - Bà Béo nhổ toẹt bã trầu - Ốm ốm cái nỗi gì. Ốm tiền thì có. Còn không, lão đã chẳng nghỉ đò. Lão ấy mà chê tiền có là chuyện lạ!

"Hàng cá" im lặng, nhưng những suy nghĩ không hiểu sao cứ vẩn vơ trong đầu… Đúng là lão có chuyện rồi!… Ánh mắt lúc thì đờ đẫn, khi lại buồn xa xăm, như thể lão đang nuối tiếc điều gì đó? Nước da bánh mật nom sạm lại làm lão trông  già hẳn đi…

Rồi một sáng như mọi sáng.

Bến Gáo hiện ra trong làn sương sớm mỏng mảnh. Con đò nằm im lìm nom mới cô đơn làm sao. Chẳng thấy bóng dáng lão Ngũ đâu. Chờ một lúc, sốt ruột, "hàng cá" mới đập cửa mà réo. Không có ai trả lời, sinh nghi "hàng cá" đẩy cửa, đã thấy lão Ngũ sóng soài trên nền nhà. Nghe tiếng "ối giời ơi", bà Béo lạch bạch chạy vào. Vừa lúc "hàng cá" xô ra, vừa chạy vừa la "Làng nước ơi, có người chết, lão Ngũ chết"…

Đội pháp y sau khi khám nghiệm tử thi kết luận lão bị một cơn đột quỵ chắc khá lâu, người đã lạnh cứng. Vì có vài điểm còn nghi vấn, họ lấy mẫu tế bào đi xét nghiệm. Hôm sau có tin lão Ngũ bị phơi nhiễm chất độc da cam. Và có thể đó là nguyên nhân dẫn đến cái chết bất ngờ của lão. Có người chép miệng: "Rõ khổ. Vợ con đã không có lại còn da cam với chả da quýt". Cũng có kẻ bạc mồm: "Ai bảo lão tham cho lắm vào. Làm ngày làm đêm. Ngu thì cho chết!".

Đám ma lão Ngũ khá đông. Cả cái làng Gáo này, ai mà chả hơn một lần được lão đưa sang bến. Thôi thì nghĩa tử là nghĩa tận. Vả lại thời gian này mùa màng cũng chưa tới.

Hàng cờ tang ủ rũ, hai chiếc vòng hoa của xã và thôn héo tóp dưới cái nắng đầu mùa oi ả. Không một vành khăn trắng. Bởi vậy, đám tang như chẳng có vẻ gì ai oán. Chỉ cái không khí oi nồng, ngột ngạt như báo hiệu điều gì đó không bình thường…

Gần đến giờ chuyển cữu, trai đinh trong làng đã rục rịch sắp xếp đòn khiêng, chợt ngoài đường có tiếng xe phanh gấp. Một chiếc xe con đỗ xịch trước nhà đám. Cửa xe bật mở, người phụ nữ cùng hai người đàn ông trung tuổi bước xuống.

Người đàn ông dong dỏng, dáng nhanh nhẹn bước ra sau xe mở cốp. Người phụ nữ tiến lại giúp anh ta nhắc chiếc vòng hoa có dòng chữ: "Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Giang Hưng kính viếng". Cả ba tiến nhanh về phía bàn tang lễ. "Chà. Lão Ngũ gớm thật. Chắc phải gửi nhiều tiền lắm, Ngân hàng huyện mới lặn lội về tận nơi phúng viếng như thế". Có tiếng xì xào vẻ ghen tỵ: "Chứ lại không à. Gần hai chục năm chở đò, không có tiền mới là chuyện lạ". Một giọng khác nghe ráo hoảnh: "Dưng mà tiền đó giờ ai hưởng?".

Người đàn ông thấp đậm, gương mặt cương nghị đặt lễ lên bàn thờ rồi quay ra đưa cho hai người đi cùng mấy thẻ hương đã châm sẵn. Cả ba thắp hương, thành kính cúi đầu. Mọi người chăm chú dõi theo từng cử chỉ, hành động của ba vị khách mới đến.

Người "thấp đậm" ánh mắt đượm buồn, cúi đầu thay cho lời chào, đón lấy micro, cất giọng từ tốn:

-  Kính thưa hương hồn ông Phạm Văn Ngũ! Thưa toàn thể bà con! Chúng tôi vô cùng bất ngờ khi nhận được tin ông Ngũ từ trần. Thật đúng là sinh có hạn, tử bất kỳ. Trong giờ phút đau buồn này, chúng tôi thay mặt toàn thể cán bộ, công nhân viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện có vòng hoa tươi, nén hương thơm, tưởng nhớ vong linh người quá cố.

"Lão Ngũ thế mà tốt số, được các sếp mãi trên huyện về thắp hương cơ đấy". "Chuyện. Bao nhiêu tiền của lão, giờ chắc sung công quỹ tất. Phen này ối anh vớ bẫm!" - Tiếng xì xào lại nổi lên.

- Kính thưa toàn thể bà con! - Ông "thấp đậm" lại cất tiếng - Trước vong linh người đã khuất, tôi xin được đọc bản di chúc ông Ngũ đã tin tưởng giao cho Ngân hàng chúng tôi…

Ồ. Thật là chuyện lạ chưa từng có ở cái làng Gáo này. Lần đầu tiên có người viết di chúc để lại. Mà không hiểu lão Ngũ viết gì trong đó! Đám ma im phăng phắc. Không gian như quánh lại, ngột ngạt. Mùi hương trầm quyện với hơi người, với cái nóng đã bắt đầu hừng hực, làm ai nấy đều cảm thấy bứt rứt, khó chịu. Vẻ nôn nóng, sốt ruột, hiện rõ trên từng ánh mắt…

- "Tôi là Phạm Văn Ngũ. Làm nghề chèo đò ở bến Gáo - Giọng  ông "thấp đậm" nghẹn nghào - Tôi đã coi làng Gáo như quê hương thứ hai của mình. Từ lâu, tôi đã ao ước bến Gáo có được một cây cầu thì hay biết mấy. Gần đây thấy sức khỏe không được tốt. Có lẽ vết thương cũ đã đến lúc giở chứng. Chắc tôi không thể thực hiện được mơ ước của mình. Tôi viết di chúc này, xin trao lại số tiền gom góp được trong thời gian qua để ủy ban xã làm chiếc cầu nhỏ để bà con đi tạm trước khi Nhà nước xây cầu kiên cố ở bến Gáo. Được như vậy tôi vô cùng mãn nguyện…".

Người đàn ông thấp đậm giơ cao tờ di chúc, vái ba vái rồi đặt lên trước bàn thờ. Có tiếng sụt sịt, rồi những tiếng nấc như bị kìm nén đã lâu, bật ra… Đoàn nhạc tang nổi hồi trống lệnh chuẩn bị cất đám. Bỗng bát hương trên bàn thờ bùng cháy. Khuôn mặt lão Ngũ chợt lung linh, lung linh, làm khóe miệng lão như đang mỉm cười hiền từ. Không gian oi bức chợt dịu đi. Một làn gió mát từ mặt sông òa tới. Những chiếc cờ tang ủ rũ như bừng tỉnh, bay phần phật. Dòng người đưa đám cứ dài mãi, dài mãi dọc triền sông

Giông gió đi qua

       Truyện ngắn của Trọng Bảo

          Từ rất lâu rồi làng Dương Cống đã có một lời nguyền truyền lại.

          Lời nguyền ấy khiến những thiếu nữ sinh ra ở làng đều kinh hãi. Theo lời nguyền gái làng Dương Cống luôn phải có những “trinh nữ chết già”. Nguyên do là làng Dương Cống địa hình rất đặc biệt, có một huyệt đạo rất hiếm. Đầu làng có một mỏm núi rất giống hình một con sư tử đực đang tung bờm đầu hướng về phương Bắc. Đó là một mỏm núi đá xanh liền khối. Phía dưới mỏm núi đầu con sư tử đá ấy có một cái am miếu nhỏ lúc nào cũng có khói hương. Nghe nói ngày xưa bọn giặc Tàu giấu vàng ở bên trong mỏm đá liền khối ấy. Tương truyền rằng là bọn Tàu thường bắt những trinh nữ cho ngậm nhân sâm, khâu miệng lại rồi chôn sống ngay tại những nơi giấu vàng để họ từ từ chết dần biến thành thần giữ của cho chúng. Những trinh nữ làm thần giữ của ấy sau một thời gian thì được đầu thai lại mà kho vàng vẫn cần người tiếp tục canh giữ nên đời đời sau này làng Dương Cống vẫn phải có những trinh nữ làm thần giữ của cho bọn người phương Bắc. Vì thế bọn Tàu đã yểm lại bùa chú gì đó nên sau này làng Dương Cống luôn có gái đẹp ế chồng, những “trinh nữ chết già” để truyền đời kế tiếp nhau làm thần coi giữ kho của cải cho chúng.

          Làng Dương Cống có năm họ lớn. Đó là họ Nguyễn, họ Phạm, họ Vũ, họ Trần và họ Đỗ. Năm dòng họ ấy lần lượt thay nhau có những “trinh nữ chết già” để làm ma cho ngoại quốc.

          Tôi còn nhớ khi mình đang học cấp 2 thì được kết nạp vào đội thiếu niên tiền phong. Phụ trách đội thiếu niên tiền phong làng Dương Cống ngày ấy là chị Thu, người dòng họ Nguyễn. Chị Thu rất đẹp. Đôi mắt chị sáng long lanh, má lúm đồng tiền. Nước da chị trắng hồng. Mái tóc của chị dài. Chị lại có giọng hát rất hay. Chị hay mặc cái áo cánh màu gụ bó khít người làm nổi bật lên những đường cong tuyệt mỹ. Chị có mặt ở đâu là đám thanh niên đều bồn chồn nuốt nước miếng vì thèm khát. Vậy mà một lần tôi nghe lỏm được bà mụ - là người đã đỡ đẻ khi chị sinh - nói chuyện với mẹ tôi. Bà chép miệng bảo:

          - Con bé đẹp như thế dễ thành “trinh nữ chết già” mất thôi!

          - Làm thế nào hoá giải được nguyền khốn khổ ấy không? - Tiếng mẹ tôi xót xa.

          - Khó lắm! - Tiếng bà mụ thở dài.

          Tôi không tin vào những điều mê tín, vớ vẩn.

          Khi tôi lớn lên nhập ngũ vào miền Nam chiến đấu. Năm tháng qua đi, mãi sau năm 1975 tôi mới trở về làng. Lúc đeo ba lô rẽ vào con đường ven núi thì gặp ngay một đám ma đang đi đến gần mỏm đá hình con sư tử. Tôi giật mình nhận ra có nhiều người quen đi đưa đám. Lại thấy đám ma toàn là vòng hoa trắng. Tôi hỏi thì một bà khẽ nói:

          - Đám ma cô Thu đấy!

          - Sao lại toàn là vòng hoa trắng hả bà?

          - Thì nó đã có chồng bao giờ đâu mà chả toàn hoa tang màu trắng?

          Tôi thầm nhẩm tính chị Thu năm nay cũng đã gần bốn mươi tuổi rồi. Chả lẽ là chị ấy lại trở thành một “trinh nữ chết già”, đúng như lời nguyền tiền định đã giành cho con gái làng tôi!

*

          Chuyện “trinh nữ chết già” ở làng Dương Cống rồi cũng lắng đi.

          Bây giờ con gái đẹp cũng nhiều, con gái sống độc thân cũng lắm. Nhiều cô đến tuổi gả chồng mãi vẫn không thấy động tĩnh gì bị dân làng xì xầm là “trinh nữ…” thì đùng một cái phải vào bệnh viện nạo hút thai. Có cô chẳng có chồng mà vẫn có con nên càng không phải là trinh nữ để trở thành thần giữ của cho bọn giặc trên mỏm sư tử đầu làng.

          Bẵng đi đến cả chục năm sau dân làng Dương Cống đã gần như quên hẳn chuyện “trinh nữ chết già” thì xảy ra một chuyện. Đó là có một người phụ nữ thuộc dòng họ Đỗ từ miền Nam trở về làng. Tên chị là Tho. Chị Tho theo gia đình đi khai hoang ở Tây Nguyên. Lúc ra đi chị vẫn còn bé tý vậy mà trở về đã ngoài ba nươi tuổi. Không thấy chị ta có chồng con gì. Nhìn khuôn ngực nhỏ gọn tròn căng, đôi chân, cặp đùi bước đi khin khít bọn con trai thì thào rỉ tai kháo nhau: “Có lẽ chị ấy vẫn còn “zin” đấy!”.

          Mấy bà có tuổi thì bấm ngón tay rồi khe khẽ thở dài. Theo họ tính toán thì đã đến chu kỳ thời gian và đến lượt họ Đỗ phải nộp trinh nữ làm thần giữ của kho vàng trên mỏm núi sư tử rồi.

          Chị Tho bỏ tiền mua một mảnh đất nhỏ gần đầu làng, ngay dưới chân núi. Chị làm một căn nhà tạm bằng tre nứa lấy nơi tập kết vật liệu gạch ngói, xi măng để chuẩn bị xây một ngôi nhà kiên cố. Chuyện về gia đình chị Tho ở Tây Nguyên cả làng rồi cũng biết rõ ngọn ngành. Hồi ấy sau khi vào đến Tây Nguyên, cả nhà chị Tho có bốn người bố mẹ, chị và đứa em trai. Tại vùng đất mới họ khai hoang trồng cà phê đời sống cũng khấm khá dần lên có của ăn, của để. Nhưng cứ ngỡ bỏ làng ra đi kiếm ăn nơi đất khách quê người thì thoát lời nguyền cay nghiệt. Vậy mà người con gái xinh đẹp họ Đỗ ấy vẫn không tránh được. Một lần, bố mẹ và em trai đi rẫy về gặp trận lũ quét. Em trai bị nước cuốn đi, bà mẹ nhảy xuống suối cứu cũng chìm luôn, ông bố nhào theo cũng mất tích trong dòng nước cuồn cuộn réo sôi sùng sục. Sau khi khóc cạn nước mắt tìm kiếm và làm ma cho bố mẹ và em, chị Tho bán hết tài sản và mấy héc-ta cà phê khăn gói trở về quê.

          Khi thấy chị trở về, các cụ già bốn dòng họ khác trong làng Dương Cống thấy đỡ lo lắng cho con gái họ mình hơn. Song họ cũng thấy ngậm ngùi thương xót người con gái họ Đỗ bao năm phiêu bạt trở về. Họ lo rồi sẽ đến một ngày lời nguyền ngày xưa sẽ lại trở thành hiện thực…

*

          Làng Dương Cống vài năm nay bỗng có một anh ở đâu phiêu bạt về mua đất dựng nhà. Anh này gốc gác quê tận Hải Dương. Vợ và con gái út anh ta bị tai nạn giao thông chết thảm trên đường 5. Anh đưa đứa con trai lớn bỏ quê lên đây. Anh nhận thầu mấy héc-ta ao hồ, thùng đấu, gò mả vẫn bỏ hoang ở cuối làng để nuôi trồng thuỷ sản và lập trang trại. Anh ta tên là Đồng Tiến Luân. Thế là làng Dương Cống có thêm một dòng họ nữa. Đó là họ Đồng.

          Hai bố con anh Luân hì hục cải tạo khu gò mả, ao tù, thùng đấu mà các lò gạch lấy hết đất đã bỏ hoang. Thằng con anh Luân mặt mày lấm láp thế mà học giỏi. Nó thi đậu đại học thuỷ lợi khăn gói lên thành phố học. Vậy là chỉ còn một mình anh Luân với căn lều cá ở khu gò mả cuối làng. Vốn là một người lính trinh sát nên anh Luân có tính gan lì. Khi nghe chuyện làng Dương Cống với một lời nguyền trinh nữ anh bực tức chửi đổng:

          - Đ… mẹ cái bọn Tàu khựa ám hại dân ta từ bao đời rồi. Tao đã từng moi tim chúng nó vứt cho lũ chó gặm đấy!

          Hóa ra anh Luân vốn là một người lính chiến. Tháng 2-79, chiến tranh biên giới xảy ra anh ở mặt trận Cao Bằng. Anh chiến đấu rất dũng cảm nhưng lại bị kỷ luật vì vi phạm chính sách tù binh chiến tranh. Một lần đi trinh sát bám địch anh đã chứng kiến chuyện bọn giặc ùa vào một bản đâm chém bắn chết hết đàn ông, lôi phụ nữ và cả các em gái nhỏ ra bãi đất trống sát chân núi. Chúng lột trần tất cả phụ nữ và các em gái nhỏ rồi thay nhau hãm hiếp. Tiếng kêu khóc thảm thiết rung động cả núi rừng âm u. Những tên giặc trần truồng man rợ như thời trung cổ lao vào đám đàn bà, trẻ em không vũ khí. Những người phụ nữ, những cô gái, những em bé bị làm nhục quằn quại bò lết trên mặt đất. Bọn giăc lần lượt đâm chết họ. Chúng mổ bụng moi gan. kéo ruột những người mà chúng vừa hãm hiếp rải trên mặt đất.

          Nằm trong bụi cây gai xấu hổ, anh Luân không thể làm gì được. Anh cắn môi đến bật máu nuốt hận. Đến đêm, anh dẫn đường cho đơn vị tập kích vào nơi trú quân của bọn giặc đã hãm hiếp giết hại phụ nữ, trẻ em lúc chiều. Anh bắn hết mấy băng đạn vào bọn xâm lược giòi bọ. Nhiều tên giặc bị giết và bị bắt. Anh Luân được chỉ huy giao nhiệm vụ dẫn hai tên tù binh lên núi để khai thác tin tức. Dẫn hai tên giặc bị trói đến một khe núi anh vít đầu một thằng kê vào mỏm đá rồi dùng một viên đá khác ghè chết. Trong khi thằng còn lại gào rống lên vì sợ hãi. Đạp tên giặc vừa bị đập chết bật ngửa ra, anh Luân rút dao găm rạch bụng nó một nhát thật dài. Anh định moi quả tim nó vứt cho mấy con chó đói khát lạc chủ từ ngày đầu chiến tranh xảy ra đang lởn vởn xung quanh. Có mấy chiến sĩ theo kịp thấy vậy vội ngăn anh lại.

          Sau lần ấy anh Luân phải nhận kỷ luật cảnh cáo. May mà anh không phải ra toà án binh. Sau chiến tranh một thời gian thì anh bị loại ngũ trả về quê hương. Lúc lên đường nhập ngũ, nhà nghèo, anh Luân chỉ có một bộ quần áo. Lúc trở về anh cũng chỉ có một bộ quân phục cũ mặc trên người. Bộ quần áo mới vừa được cấp sau chiến tranh anh để lại cho đồng đội mặc lên chốt. Anh xách chiếc ba-lô lộn lầm lũi cuốc bộ từ trong rừng ra thị trấn để bắt xe khách về xuôi. Về quê đang chí thú làm ăn thì nhà xảy ra hoạn nạn. Anh đưa thằng con bỏ làng lên Hà Nội làm thuê kiếm tiền rồi tình cờ mà phiêu bạt về tận vùng đồi núi quê tôi định cư. Tôi thân với anh Luân vì cùng là lính đánh trận ở Cao Bằng. Câu chuyện truyền đời về “trinh nữ chết già” và thần giữ của trên mỏm núi sư tử làng Dương Cống khiến anh Luân rất bức xúc. Một lần anh bảo tôi:

          - Nhất định tao sẽ đặt thuốc nổ phá tan tành cái miếu hoang của bọn Tàu trên mỏm sư tử!”.

          Tôi vội gàn anh:

          - Chuyện người làng ta vẫn đồn thổi thế thôi, làm gì có chuyện trinh nữ và thần giữ của? Đừng nên manh động anh ạ!

          Anh Luân lừ lừ nhìn tôi không nói thêm gì nữa.

          Sau đó mấy lần trèo lên núi tìm phong lan, tôi bắt gặp anh Luân lảng vảng ở chỗ mỏm núi đầu con sư tử…

Khi anh Luân bị công an bắt vì tội tàng trữ thuốc nổ trái phép thì tôi mới tin rằng anh quyết tâm phá tan tành cái miếu hoang của bọn Tàu khựa trên đỉnh núi đầu sư tử là có thật. Anh Luân bị giam vài tháng rồi được thả. Số thuốc nổ hơn một ki-lô-gam là do anh mua của bọn chuyên đánh cá không dùng lưới trên dòng sông Trùng Thuỷ. Bọn này đang dùng mìn đánh cá thì bị bắt. Vì muốn nhẹ tội nên chúng đã khai thêm việc anh Luân cũng đang có thuốc nổ. Tại cơ quan điều tra anh nói là mua để nổ phá đá đào giếng ở khu gò mả nhưng vẫn bị giam giữ để điều tra.

           Hôm được thả về gặp tôi anh bảo:

          - Mẹ kiếp! Không bị thu mất gói thuốc nổ thì tao đã cho tan tành cái miếu hoang để giải thoát cái lời nguyền cho làng ta rồi!

          Tôi cười:

          - Anh mà phá cái miếu hoang ấy có khi làng ta còn bị tai họa đấy!

          - Tai họa cái con khỉ! Để nó ở đấy chỉ tổ làm chỗ cho lão Tụng thầy cúng nó lòe bịp, dọa dẫm dân làng, đám nghiện hút nó trú ngụ tiêm chích. Hôm trước tao còn gặp mấy thằng lạ hoắc từ thị huyện trấn kéo về túm tụm ngồi trong miếu chơi xóc đĩa đấy!

          - Chết, thế thì phải báo ngay cho công an xóm họ kiểm tra anh ạ!

          - Kiểm kiếc quái gì! Bọn chúng ranh ma lắm, công an vừa xuất hiện dưới chân dốc chúng nó đã biến sạch mất tăm rồi… Mà mày đừng có lên đấy tìm cây cối vớ vẩn nữa nhé!

          - Tại sao hả anh?

          - Vì hôm qua tao còn thấy có cả mấy con mắt xanh, mỏ đỏ theo bọn cờ bạc về tụ tập trên núi đấy!

          Nói xong anh rẽ vào cái ngõ nhỏ ở ngay đầu làng. Đó là lối vào khu đất chị Tho đang thuê đào móng làm nhà. Hai bên con đường nhỏ um tùm những bụi cây xấu hổ. Tôi nheo mắt nhìn theo bóng anh mỉm cười.

*

           Mấy tháng liền tôi bận đi công tác ở cơ sở nên không về làng. Một hôm tôi vừa đi công tác về thì gặp thằng Tèo ở bến xe Gia Lâm. Tôi hỏi thăm chuyện làng thì nó nhăn nhở bảo tôi:

          - Anh đã biết chuyện gì vừa mới xảy ra ở làng ta chưa?

          - Chuyện gì vậy?

          - Chuyện ông Luân và chị Tho! Phen này ông Luân đi tù là cái chắc!

          - Tại sao thế?

          - Ông ấy hủ hoá với chị Tho bị dân quân bắt quả tang tại trận…

          Tôi thở phào:

          - Anh ấy vợ mất đã lâu, chị Tho chưa chồng, họ quan hệ với nhau thì việc quái gì mà phải đi tù?

          - Nhưng mà… công an đang nghi ông ấy đã dùng thuốc nổ đánh sập mỏm núi sư tử gây hoang mang cho cả làng ta đấy.

          Thằng Tèo kể chưa hết câu chuyện thì đã vội chào tôi rồi nhớn nhác chạy theo nhao người đu lên một chiếc xe đang rời bến. Nó lên Lạng Sơn để làm cửu vạn kiếm tiền. Quê tôi bây giờ thanh niên bỏ làng ra thiên hạ kiếm ăn rất nhiều. Có lần đi công tác ở Bình Dương tôi còn gặp mấy người làng Dương Cống đang đi thu mua sắt vụn, phế liệu ở đây. Câu chuyện của thằng Tèo làm tôi băn khoăn. Chuyện anh Luân với chị Tho thì tôi không lo mà chỉ lo là chuyện anh đã nổ mìn trên núi sư tử.

          Ngày chủ nhật được nghỉ tôi liền phóng xe máy về quê. Từ xa tôi đã trông thấy mỏm sư tử bị vỡ toác ra làm đôi giống như bị chém một đao chí mạng. Vừa đến đầu làng tôi đã chạm ngay anh Luân đang hì hục bốc vác mấy bao xi-măng đi vào ngõ nhà chị Tho. Tôi chặn anh lại hỏi chuyện. Tôi kể cho anh nghe về những gì tôi nghe được khi gặp thằng Tèo ở bến xe Gia Lâm. Anh Luân cười hề hề:

          - Cái thằng Tèo chỉ chuyên tung tin láo toét!

          - Thế không phải là anh đã dùng khối thuốc nổ lớn đánh vỡ mỏm sư tử à?

          - Tao nào đánh mà là trời đánh đấy! Ông trời đã hóa giải lời nguyền ác nghiệt cho dân làng ta rồi?

          - Sao nghe nói công an họ đang truy xét anh?

          - Thì… một mỏm núi vỡ tan, đất đá lăn xuống sập cả tường nhà văn hoá thì công an họ phải tiến hành điều tra chứ! Mà họ có điều tra ra cái gì đâu?

          - Nhưng… anh phải cẩn thận đấy!

          - Tao, một thằng lính chiến bị loại ngũ vì đã khử mấy thằng tù binh, bây giờ trên răng, dưới các-tút, không đoàn, không đảng, sợ đéo gì bố con thằng nào?

          - Anh không sợ, nhưng anh cũng phải nghĩ đến thằng Thường đang học trên Hà Nội…

          - Ờ… ờ… lần trước bị triệu tập “cải tạo không giam giữ” về mấy cái ao thả cá  bị bọn trộm nó kéo lưới vét sạch sành sanh. Mất mẹ nó mấy chục triệu tiền cá giống đấy… - Anh càu nhàu vẻ bực bội rồi chợt hỏi tôi: - Mà lâu nay hai chú cháu có hay gặp nhau không?

          - Thỉnh thoảng mới gặp! Hình như dạo này thằng Thường đang đi thực tập mãi trong Nghệ An.

          - Nó cũng ít gọi điện cho tao! Thôi mày về nhà tắm táp đi, tối này ra lán coi hồ, tao luộc con cá quả chấm muối ớt nhâm nhi rồi nói chuyện gẫu nhé!

*

            Câu chuyện của anh Luân kể về một đêm giông gió. Hôm ấy, áp thấp nhiệt đới từ phía biển đã tạo nên một vùng không khí biến động dữ dội vô cùng nguy hiểm. Bầu trời u ám và chứa đầy điện tích. Ánh chớp xé ngang dọc trên bầu trời. Tiếng sét ầm ầm khiến anh Luân nhớ lại cái buổi sáng xảy ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc khi anh đang là lính của một đơn vị đóng quân tại biên giới. Những tiếng nổ dữ dội. Bầu trời sáng rực lên bởi những luồng lửa của đạn pháo từ bên kia biên giới bắn sang. Trong tiếng đạn pháo đinh tai, chói óc là tiếng người gọi nhau thảm thiết, tiếng kêu khóc hoảng loạn, tiếng chó sủa, gà kêu, bò rống tan tác, vỡ đàn, tiếng tre nứa nổ lốp bốp từ những ngôi nhà trúng đạn đang bốc cháy rần rật. Mọi thứ âm thanh hỗn độn hoà vào nhau tạo nên sự vang vọng của thần chiến tranh, thần chết đang dần dần tiến đến. Khói lửa, cát bụi mù mịt. Mặt đất chao đảo liên tục xô những người lính chới với, ngả nghiêng. Ánh chớp nhoáng nhoàng tựa như một cơn giông bão lớn nhưng dữ dội hơn rất nhiều. Đó là ký ức của anh Luân về khoảnh khắc cuộc chiến tranh nổ ra hơn ba mươi năm về trước.

           Đêm giông gió dữ dội ấy khiến anh Luân chợt rùng mình. Anh chợt nhớ tới cái chết của hàng trăm, hàng ngàn người dân nơi biên ải năm nào. Hình ảnh những người phụ nữ bị quân giặc lột trần đang lăn lóc, tả tượi chợt hiện ra trong tâm trí anh.

           Những hạt mưa ném xuống rào rào một lát rồi lại thôi. Gió thổi quần quật vặn gãy gục hàng chuối hột trồng bên bờ mương nước. Đêm nay sẽ mưa rất to - Anh Luân nghĩ và vớ vội cái xẻng lao ra phía các ao thả cá. Chiều nay anh mới thả mấy triệu đồng tiền cá giống xuống cái ao sát bờ kênh. Một ánh chớp sáng loà. Mỏm núi đầu con sư tử hiện lên gớm ghiếc sừng sững giữa bầu trời. Anh Luân chợt nhớ ngay phía dưới mỏm sư tử là căn lán tạm của chị Tho. Chiều nay mới cho chuyển về gần bốn tấn xi-măng chuẩn bị ngày mai cho thợ đổ trần tầng một. Anh ném cái xẻng lao ra phía đầu làng.

            Chị Tho đang cuống cuồng bê những bao xi-măng xếp lên chỗ cao để che bạt. Thấy anh Luân lao đến chị mừng hú. Cũng chẳng nói được câu nào, chị chỉ ú ớ, hổn hển vì mệt quá. Anh Luân hối hả giúp chị Tho chồng xếp mấy chục bao xi-măng gọn vào góc cao của cái lán tạm rồi phủ bạt che kín lại. Khi hai người làm xong việc thì mưa to. Nước trút xuống ầm ầm. Chốc chốc ánh chớp lại lóe lên xanh lét. Tiếng sét nổ như muốn phá tung tất cả mặt đất bầu trời. Chị Tho và anh Luân ngồi co ro trên chiếc giường một kê ở góc lán. Chiếc bóng điện đỏ nòng nọc đung đưa lập lòe lúc tắt, lúc sáng, có lẽ là do chập dây dẫn điện ở đâu đó. Tiếng nước mưa ào ào như trút nước từ trên trời xuống đất. Anh Luân chợt nhớ và kêu lên:

          - Thôi chết! Mưa to thế này thì ao cá của tôi vỡ mất…

          Anh Luân vừa nhỏm dậy thì cái bóng điện nổ bụp một cái rồi tắt ngấm. Tối mù mịt. Chị Tho hét lên:

          - Ma… ma…

          Anh Luân giật mình nhìn ra phía ngọn núi sư tử. Trong ánh chớp sáng loà và trong màn nước mưa có một người con gái mặc quần áo trắng toát, đầu tóc rũ rượi đi như lướt trên ngọn cây từ trên đỉnh núi về phía làng Dương Cống. Anh Luân dụi mắt. Bóng ma biến mất khi ánh chớp lại lóe lên. Chị Tho lập cập nài nỉ: “Anh đừng đi… em sợ lắm!”. Anh Luân ngồi lại. Mưa vẫn ào ào. Khi ánh chớp loé lên soi rõ đám lau sậy ngả nghiêng giống như những bóng ma chập chờn vây bủa xung quanh căn lán tạm trống trải. Chị Tho ngồi sát lại bên anh Luân vì sợ. Vốn là một người từng trải qua bao nhiêu sóng gió cuộc đời mà sao bây giờ tự nhiên chị lại thấy sợ hãi đến thế.

          Mưa lạnh.

          Hơi thở ấm nồng nàn.

          Tiếng sét vẫn nổ ngang trời…

          Và điều gì tất sẽ xảy ra thì phải xảy ra. Chị Tho cố cưỡng lại nhưng không thể thoát khỏi vòng tay cứng như thép của anh Luân. Chị giẫy giụa một cách bất lực dưới sức nặng và sự hào hứng bột phát của người đàn ông. Chị cố chống hai gôi lên, hai tay chị đẩy ngược anh về phía cuối giường. Tiếng giây chun đứt “phựt” nghe rất rõ trong tiếng mưa và tiếng thở hào hển. Chị Tho giẫy giụa khiến anh Luân mãi vẫn chưa định vị được… Đột nhiên một tiếng sét kinh hoàng từ trên trời phóng xuống mặt đất. Mặt đất rung chuyển như đang vỡ toác ra. Có tiếng đá lở ầm ầm. Chị Tho giật nảy mình đơ người ra. Anh Luân ép chặt xuống. Chị Tho cảm thấy đau và bỏng rát như vừa bị tia sét đánh trúng. Cơ thể chị như vỡ vụn, tan ra thành nước chảy tràn lan ra mặt đất…

          Khi chị Tho tỉnh dậy thì trời đã tang tảng sáng. Anh Luân đang lúi húi xem xét lại tấm bạt phủ đống bao xi-măng ở góc lán. Chị Tho len lén nhét giấu chiếc quần ngủ loang lổ màu nâu đỏ xuống dưới chiếu. Cái cảm giác lâng lâng lạ lùng vẫn còn râm ran trên da thịt chị.

          Có tiếng ồn ào, nhốn nháo khắp làng.

          Anh Luân vội chạy ra. Mọi người đang tập trung ở nhà văn hoá đầu làng. Một hòn đá to nằm chềnh ềnh giữa sân. Nó đã lăn từ trên núi xuống trong cơn giông gió đêm qua. Hòn đá lăn đã phá vỡ bức từng hậu nhà văn hoá. Lại có tiếng kêu to sửng sốt. Mọi người cùng ngước mắt nhìn lên đỉnh núi sư tử. Mỏm núi đã bị vỡ làm đôi. Anh Luân cùng mọi người kéo nhau lên núi. Mỏm núi đá đầu con sư tử đã bị vỡ làm đôi. Vết vỡ phẳng như một nhát chém. Đất đỏ ở phía dưới tảng đá phòi lên theo nước mưa còn đang chảy giống như một dòng máu. Dân làng xôn xao bàn tán. Có người bảo tiếng nổ kinh hoàng đêm qua là do sét đánh trúng mỏm sư tử. Có người lại khẳng định là do ai đó đã kích hoạt một khối thuốc nổ lớn. Có nhiều ánh mắt lén nhìn anh Luân nghi ngờ. Lão Tụng lò dò chống gậy lên sau. Lão thở dốc đứng nhìn mỏm đá đầu con sư tử vỡ toác. Lão này vốn là một thầy cúng giải nghệ. Lão bị công an xã nhiều lần gọi lên kiểm điểm, giáo dục vì các hoạt động mê tín, dị đoan. Sau khi quan sát mỏm đá lão gật gù bảo đêm qua lợi dụng mưa to, gió lớn người Tàu đã mở núi lấy vàng.

          Mỗi người một ý, đang tranh luận sôi nổi thì công an xã và công an xóm kéo lên yêu cầu mọi người giải tán để họ phong toả hiện trường chờ công an huyện về khám nghiệm xem có dấu vết của thuốc nổ không.

           Mọi người kéo nhau xuống cái miếu hoang phía dưới. Họ ngạc nhiên thấy trong miếu phủ đầy một lớp muội tàn hương nhang. Càng ngạc nhiên hơn là các tăm chân nhang trong cái bát nhang to bằng sứ để trên bệ thờ đều cắm ngược lại tua tủa. Mọi người ngạc nhiên kinh hãi, như thể có ai đó đã lộn ngược cái bát nhang.

           Sau đêm giông gió ấy anh Luân bị công an gọi lên hỏi thêm về chuyện đã tàng trữ thuốc nổ dạo trước. Rồi chuyện “thiên đả” mỏm núi sư tử lan truyền việc trời giải hoá lời nguyền cho làng Dương Cống. Câu ca dao ám ảnh: “Bao đời trinh nữ chết già/Người làng Dương Cống làm ma cho Tàu…” dần dần rồi cũng phôi pha. Căn nhà hai tầng xinh xắn của chị Tho khánh thành. Hôm chị tổ chức tân gia cả làng đến chung vui. Chị đi từng bàn mời rượu mọi người. Ánh mắt chị lấp lánh, vạt áo chị hơi kênh kênh lên. Ở cái bàn góc rạp mấy người hò hét nâng ly. Anh Luân ngồi ở bàn ấy. Sau khi chúc mừng chị Tho khánh thành nhà mới, thằng Tèo chạm cốc với anh Luân giọng lâng lâng cợt nhả: “Chúc mừng anh nhá, phen này nuôi cá, cá đẻ, nuôi người, người… người… he… he…”.

          Chuyện ở làng Dương Cống chỉ có thế thôi. Nhưng mỗi lần về nhà khi nhìn thấy mỏm núi sư tử bị xẻ làm đôi tôi lại vấn vương nghĩ về cuộc đời của những người con gái trong làng mà tôi đã biết. 

Đợi mùa hoa cải năm sau

Truyện ngắn của Trọng Bảo

          Ông Mâu dẫn con gái xuống bến sông.

          Bây giờ đang là cuối mùa thu. Hoa cải nở trải một thảm vàng trên bãi phù sa non ven bờ sông. Gió thổi từ mặt nước lên hơi lành lạnh. Ánh nắng lăn dài lấp lánh trên mặt nước. Những con sóng nhỏ đuổi nhau vào bờ tạo nên những âm thanh óc ách, miên man. Cái Bông con gái ông theo bố đi xuống bến. Nó mặc cái áo dài màu thiên thanh. Tà áo dài của con bé bay bay trong gió nổi bật giữa màu vàng của hoa cải. Con bé trông thật tươi tắn. Nhìn con gái ông chợt thấy nao nao trong lòng. Ông thấy vui vì con bé càng lớn càng xinh đẹp. Nó rất giống mẹ. Nhưng ông cũng thấy lo lo, trong lòng vương vấn một nỗi ân hận. Hơn mười năm qua, ông vẫn nghĩ đến ngày này. Cái ngày mà con gái sẽ hỏi về mẹ của nó. Hơn mười năm qua ông lo lắng trước ánh mắt của con bé mỗi khi nhắc đến mẹ. Hôm nay, ông đưa con về nơi lần đầu tiên ông đã gặp người đàn bà - mẹ đẻ của con bé.

          Từ buổi tối hôm qua con bé đã bồn chồn lo lắng chuẩn bị cho chuyến đi. Nó mở tủ lôi ra hàng chục bộ quần áo mặc thử. Hết váy ngắn, váy dài lại đến quần bò, quần lửng. Cuối cùng nó chọn cái áo dài màu thiên thanh vì nó chợt nhớ có lần ông kể chuyện mẹ nó từng ước ao có một cái áo dài màu ấy. Dù biết chuyến đi chỉ là về nơi bố mẹ đã gặp nhau chứ không thể gặp được mẹ nhưng nó vẫn thấy hồi hộp, háo hức. Nó cứ nghĩ như là đang đi gặp mẹ.

          Con đường xuống bến phà bây giờ đã trải bê-tông phẳng phiu khác hẳn mười bảy năm về trước khi ông gặp người đàn bà sau này là mẹ đẻ của cái Bông. Dòng sông Hồng mùa thu hiền hòa nhưng hưu quạnh. Nước sông cạn nên thuyền bè không tấp nập như khi mùa lũ lớn.

          Ông chợt giật mình khi nhìn thấy một người đàn bà miệng bịt băng khẩu, khăn che mặt kín mít đang đẩy một cái xe thồ đầy đồ sành sứ từ dưới bến sông đi lên. Trông chị ta rất giống người đàn bà- mẹ đẻ của cái Bông- mà ông đã gặp năm xưa.

*

          Năm ấy cũng là mùa Thu. Vợ ông từ liên bang Đức trở về. Người đàn bà lam lũ thời bao cấp ngày nào bây giờ đã khác hẳn. Vẻ giàu sang, mặc đồ đắt tiền, mùi nước hoa thơm nức cũng không che dấu hết được những nỗi cực nhọc, đôn đáo kiếm ăn nơi đất khách quê người của vợ ông. Mùi nước hoa khiến ông khó chịu. Nhưng ông Mâu càng khó chịu hơn khi thấy bà tỏ vẻ coi thường những thứ mà một thời ông và bà gắn bó như chiếc xe đạp thống nhất cọc cạch, chiếc nồi nhôm méo mó đen thui, cái rá vo gạo ám khói… Chỉ một hai ngày sau khi bà về những thứ đồ từ thời bao cấp, những kỷ vật chiến tranh của hai người đã bị thanh lý tuốt tuột cho con bé chuyên thu mua đồ cũ ngày nào cũng giong xe đạp đi qua các khu tập thể. Bà vợ ông đi siêu thị lôi về nào là nồi cơm điện, bếp ga, lò vi sóng… Những thứ mà khi ấy ông chỉ thấy quảng cáo trên ti-vi. Căn hộ tập thể của ông cũng thay đổi. Nó được tân trang lại. Bốn bức tường dày đặc những hình vẽ chim cò mà thằng con ông đã “sáng tác” từ khi còn bé tý cũng bị xoá sạch. Bà gọi thợ co trát lại rồi sơn tường chứ không quét vôi như trước. Ông Mâu thấy hụt hẫng vì sự thay đổi. Tuy vậy ông cũng mừng vì bao năm bà ấy đi xuất khẩu lao động cũng biết tích cóp đem tiền về lo cho bố con ông ở nhà. Ông vui vì kể từ nay cả nhà ông đã đoàn tụ, có vợ, có chồng cùng chăm lo cho thằng con học hành tấn tới.

          Nhưng ông đã lầm. Mấy tháng sau khi trở về nước, vợ ông lại lên đường xuất ngoại. Nhưng lần này bà không đi một mình. Bà đem cả thằng con đang học lớp 8 vẫn ở cùng ông đi theo, nói là sang bên ấy nó có điều kiện học tập tốt hơn. Thế là hai mẹ con mất hút luôn. Hơn một năm sau ông nhận được một lá thư từ nước ngoài gửi về. Đó là một tờ đơn ly hôn bà vợ ông gửi về để ông ký. Một người bạn cùng đi xuất khẩu lao động về thăm nhà được vợ ông nhờ đem về. Anh này cho biết bên ấy bà đã sống với một người đàn ông khác. Họ đã có với nhau một đứa con gái một tuổi. Thế là ông Mâu mất tất. Ông mất cả vợ lẫn con. Ông buồn suy sụp. Lão Hỗ hàng xóm của ông nghe tin cầm chai rượu lò dò sang ngật ngưỡng bảo:

          - Cần đếch gì phải suy nghĩ nhiều hả bác! Làm một chén cho nó quên hết mẹ nó cái sự đời đi bác ạ! - Lão vừa nói vừa rót rượu ra cái chén cầm sẵn theo.

          - Uống thì uống… - Ông Mâu cầm cái chén ngửa cổ dốc rượu vào miệng ực luôn một phát.

          Lão Hỗ đón cái chén rót tiếp một chén rượu và cũng ngửa cổ ực một phát. Sau mấy lần quay vòng cái chén tống, chai rượu hết veo. Lão Hỗ cắp cái chai rỗng vào nách lè nhè hát: “Đời ơi đời, sao mà bạc như vôi, sao mà đen như mực, sao mà nhục như người… Đời ơi là đời… đ… ờ… i…”.

          Lão Hỗ cũng bị vợ bỏ. Vợ lão đi theo một thằng chuyển buôn bè gỗ trên sông Hồng. Lão gà trống nuôi con bao năm trời vất vả gian lao. Vậy mà cái Lĩnh con gái lão lại phụ công của bố. Nó càng lớn cành xinh nhưng lại càng hỗn láo, không nghe lời bố. Học chưa hết phổ thông nó đã bỏ lớp theo trai đi bụi. Lão Hỗ lần mò bao nhiêu tiệm hớt tóc, sạp nhảy tìm con. Lão gặp nó ở một quán cà-phê đèn mờ. Nó không chịu theo lão trở về đi học lại còn lỉnh đi rồi nháy một con bé cùng bọn ra chèo kéo lão uống cà-phê ôm. Sau bận ấy nó biệt tăm. Nghe nói nó vào tận Sài Gòn “làm việc”.

           Một buổi tối lão đang ngồi nhâm nhi chén rượu suông thì cái Lĩnh xuất hiện cùng một thằng con trai đầu tóc bù sù, mắt trắng dã nhìn ngang liếc dọc láo liên. Nó giới thiệu đó là chồng. Thằng con trai vớ ngay chai rượu của lão trên bàn ngửa cổ tu ừng ực. Lão trừng mắt quát nó là đồ vô lễ. Nó liền rút phắt con dao nhọn chọc tiết lợn ra kề vào cổ lão. Cái Lĩnh gạt con dao của thằng kia nhăn nhở xin lỗi bố. Nó làm như vậy là để vòi xin tiền lão. Lão bảo không có tiền. Mà đúng là lão không có tiền thật. Mỗi tháng lão chỉ có dăm trăm ngàn tiền trợ cấp thương tật. Hồi tháng chạp năm 1972, là tự vệ khi tham gia cứu hộ bệnh viện Bạch Mai trong trận B52 giải thảm xuống thủ đô Hà Nội, lão bị một tảng bê-tông rơi trúng gãy chân. Sau này người ta xem xét trợ cấp hàng tháng cho lão. Số tiền ấy chả đủ cho lão uống rượu làm gì có mà để dành chứ.

           Cái Lĩnh và thằng con trai lục lọi tìm kiếm khắp ngôi nhà của lão. Thằng con trai thọc tay vào túi áo của lão Hỗ. Nó vớ được mấy chục nghìn tiền lẻ. Nó giơ lên nhìn vẻ khinh bỉ nhưng rồi vẫn nhét nắm tiền lẻ ấy vào túi mình. Đoạn nó vẫy cái Lĩnh: “Đi thôi!”.

           Hai đứa kéo nhau đi một cách vội vã. Hình như chúng nó sắp đến lúc phải nạp bổ sung hợp chất heroin vào cơ thể thì phải. Vừa ra đến cửa cái Lĩnh bỗng như nhớ ra điều gì nó liền kéo thằng con trai quay lại. Nó đến bên cái giường gỗ cũ kỹ quan sát rồi bảo thằng con trai:

          - Nâng cái giường lên!

          - Làm cái gì thế hả?

          - Thì cứ nâng lên rồi khắc biết!

          Thằng con trai nâng lật nghiêng cái giường gỗ. Cái Lĩnh lần sờ từng chân chiếc giường. Chợt nó reo to:

          - Đây rồi… cụ bô cứ giả nghèo, giả khổ mãi…

          Nói đoạn nó lôi từ phía dưới một chân giường ra một cái gói nhỏ. Nó mở cái gói rồi giơ lên hai cái hoa tai bằng vàng. Lão Hỗ nhỏm dậy ú ớ:

          - Mày… chúng… mày… là quân ăn… cướp… Đấy là của mẹ mày để lại đấy…

           Nhưng lão chưa nói hết câu thì hai đứa đã vút ra cửa biến vào đêm tối mịt mùng. Lão Hỗ boải hoải ngồi xuống. Lão đã đục rỗng một cái chân giường để cất giấu hai chỉ vàng ấy. Bao lần thiếu thốn, ốm đau nhưng lão không bao giờ nghĩ đến chuyện bán đi hai chỉ vàng. Lão định khi nào cái Lĩnh lớn lên sẽ cho nó. Khi nó còn bé tý mấy lần lão lấy ra cho nó xem. Không ngờ hôm nay nó trở về và cướp đi như thế. 

           Sau này khi nghe tin cái Lĩnh phải vào trại cai nghiện ma tuý lão Hỗ càng buồn. Lão suốt ngày say sưa cùng rượu, lấy rượu thay cơm. Đêm đêm tiếng lão Hỗ lè nhè văng vẳng trong khu nhà tập thể: “Đời ơi đời, sao mà bạc như vôi, sao mà đen như mực, sao mà nhục như người… Đời ơi là đời… đ… ờ… i…”.

*

          Ông Mâu trở thành bạn rượu của lão Hỗ từ ngày ấy. Nhưng ông không uống rượu thay cơm hàng ngày như lão Hỗ. Ông có lương. Ông lại là cán bộ nhà nước, vợ ông trước khi đi cũng để lại một ít nên cũng không thiếu tiền. Ông chỉ buồn vì gia cảnh. Có bạn rượu chia sẻ ông thấy vơi bớt nỗi lòng.

          Một ngày nghỉ ông Mâu phóng xe lang thang ra ngoại thành. Ông mới mua được cái xe máy Honda 82 mới tinh. Ông phóng xe lên bờ đê. Lúc xuống dốc bến phà để sang sông do đường mới mưa trơn nên tay lái ông loạng choạng. Ông chống hai chân xuống đất nhưng chiếc xe vẫn bị rê đi. Đuôi chiếc xe máy của ông va phải chiếc xe đạp thồ đang đi lên. Đó là chiếc xe đạp thồ của một người phụ nữ. Chị ta đeo băng khẩu, cái khăn che kín mặt. Chiếc xe thồ chất đầy nhưng đồ gốm sứ quay ngang rồi lao xuống mương nước sâu. Người phụ nữ cố ghìm giữ chiếc xe thồ nhưng không được. Chị ta ngã sấp xuống mặt đất và đành buông cho chiếc xe lao xuống mương nước. Tiếng đồ sứ vỡ. Người đàn bà ngồi bệt xuống đất thở dốc. Ông Mâu lúng túng cố tìm cách dựng chiếc xe máy giữa dốc trơn tuột nhưng không được. Ông đành phóng xe xuống chỗ gần mép nước nơi có một bãi phẳng lát bê-tông để dựng xe. Người đàn bà tưởng ông gây tai nạn rồi bỏ chạy nên bật khóc hu hu.

          Ông Mâu dựng chiếc xe ở bãi cập phà lát bê-tông. Khoá xe cẩn thận xong ông quay lên chỗ người phụ nữ đẩy xe đạp thồ đang ngồi khóc. Ông ấp úng:

          - Đường trơn quá, tôi lại mới tập đi xe máy…

          - Vỡ… vỡ hết hàng của tôi rồi… bác đền cho tôi đi!

          - Vâng… vâng… tôi sẽ đền cho chị!

          Người phụ nữ ngừng khóc gỡ cái khăn che mặt. Ông Mâu giật mình. Đó là một người phụ nữ đẹp. Tại sao chị ta phải đi làm cái nghề vận chuyển, buôn bán gốm sứ nặng nhọc thế này?

          Ông Mâu cùng người phụ nữ hì hục lôi chiếc xe đạp thồ từ dưới mương lên. Các loại đồ sứ như bát đĩa, lọ hoa, cốc sứ đều bị vỡ gần hết. Ông Mâu và người phụ nữ nhặt nhạnh những thứ còn lành lặn xếp lại vào hai cái sọt xe thồ. Xong xuôi, ông Mâu mở ví. Ông lấy ra ba trăm nghìn đồng. Người phụ nữ mếu máo:

          - Xe hàng của tôi mua gần một triệu đồng, lại thồ từ làng gốm về tận đây…

          Ông Mâu ấp úng:

          - Tôi không mang theo nhiều tiền, chỉ còn có bấy nhiêu.

          Người phụ nữ giơ tay chùi mắt. Ông Mâu lúng túng. Ông chưa biết xử lý thế nào cho ổn thoả. Lỗi này là do ông gây ra nên ông không thể không bồi thường cho người bị thiệt hại. Ông đành bảo:

          - Nếu chị tin tôi thì bây giờ chị lên cái quán trên đầu dốc ngồi chờ. Tôi sẽ phóng xe về nhà lấy tiền đem sang bồi thường cho chị!

          Người phụ nữ thần mặt ra im lặng. Mãi sau chị ta mới nói, giọng nghèn nghẹn:

          - Tôi tin anh! Với lại cũng chẳng còn cách nào khác. Bác cứ đi đi, nhưng xin anh nhớ là hai đứa con nhỏ của tôi ở nhà đều trông chờ cả vào xe hàng gốm sứ bán rong của tôi…  

          Ông Mâu giúp người phụ nữ đẩy chiếc xe thồ lên đỉnh dốc rồi quay lại lấy xe máy phóng đi. Tắc đường. Mãi quá trưa ông mới về đến nhà. Lấy tiền xong ông phóng xe trở lại chỗ đầu dốc xuống bến phà ngoại thành. Cái quán đang đông người. Ông ngó nhìn quanh quất. Không thấy người phụ nữ đâu, ông đoán chị ấy chờ lâu quá nghĩ ông bỏ chạy luân nên đã bỏ đi rồi. Ông Mâu ngần ngừ do dự một lát rồi quành xe trở lại định phóng đi. Giữa lúc đó thì ông chợt nghe tiếng gọi:

          - Bác… gì ơi!

          Ông Mâu quay lại. Người phụ nữ ông đang tìm đang đứng lấp ló phía sau cái quán. Chị gò người dắt chiếc xe thồ ra. Ông Mâu rút ví định lấy tiền nhưng rồi lại bảo:

          - Chị đã chờ tôi từ sáng đến chiều thế này chắc cũng đã đói rồi! Chị đưa xe vào chỗ chợ đầu đê kia gửi, tôi chở chị đi ăn cơm trưa rồi tôi trả tiền bồi thường xe hàng cho. Tôi cũng chưa ăn gì nên đói lắm rồi…

          Người phụ nữ ngần ngừ rồi cũng làm theo lời ông Mâu. Ông Mâu chở người phụ nữ dọc theo bờ đê đến một quán cơm bình dân. Ông gọi hai xuất cơm, thêm một đĩa thịt gà. Hai người vừa ăn, vừa nói chuyện. Qua câu chuyện của người phụ nữ ông biết gia cảnh nhà chị. Anh chồng bội bạc chạy theo một người đàn bà nhiều tuổi hơn nhưng giàu có bỏ lại hai đứa con nhỏ cho chị, một đứa lên năm, một đứa lên ba. Chị phải lăn lộn làm đủ nghề để kiếm tiền nuôi con. Cứ vài ngày chị lại vào làng làm nghề gốm sự mua các loại sản phẩm đem đi bán rong. Ông Mâu tỏ ra thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của người phụ nữ. Không biết hai người đã chuyển sang gọi nhau là anh, là cô từ lúc nào. Người phụ nữ nói về hai đứa con nhỏ khi mẹ đi bán hàng rong thì tha thủi chơi với nhau ở nhà. Buổi trưa vét nồi chia nhau mỗi đứa một bát cơm nguội. Nghe người phụ nữ nói, ông Mâu chợt buột miệng bảo:

          - Cô cho tôi một đứa con để tôi nuôi cho nhà đỡ hưu quạnh thì tốt quá!

          Người phụ nữ ngạc nhiên nhìn ông Mâu. Mặt chị đỏ bừng lên. Chị đã hiểu sai câu nói của ông Mâu. Đã biết phần nào hoàn cảnh éo le của ông Mâu, người phụ nữ ngập ngừng nói, giọng nhỏ nhí:

          - Em đồng ý giúp anh có một đứa con… nhưng… nhưng… anh phải giúp em ít một vốn để em mua một cái máy khâu, mở hiệu may ở làng nhé!

          Ông Mâu giật mình khi biết người phụ nữ đã hiểu sai lời nói đùa của mình. Ông ấp úng định thanh minh thì người phụ nữ khẽ khàng đặt bàn tay mình lên tay ông. Ông thấy vương vướng trong cổ nửa như muốn, nửa như không... 

*

          Hai người rời khỏi cái nhà nghỉ khuất trong một cái ngõ vắng vẻ sâu hun hút khi trời đã gần tối. Mùa này trời thường tối sớm. Ông Mâu phóng xe máy về trung tâm thành phố mà lòng vẫn lâng lâng. Sau đó cô Miền - tên người phụ nữ- còn đến nhà ông Mâu một vài lần giúp ông dọn dẹp nhà cửa, mua sắm chuẩn bị đón tết. Ra riêng, hai người đưa nhau đi Hội Lim nghe hát quan họ…

          Rồi bỗng nhiên cô Miền biệt tăm tích sau khi báo tin cho ông Mâu biết mình đã có thai. Ông Mâu thấy hụt hẫng. Ông hối hận vì không hỏi rõ quê quán của người phụ nữ ở đâu. Mà ông cố hỏi thì người phụ nữ cũng không nói thật.

          Hơn một năm sau. Buổi tối hôm ấy trời mưa gió sụt sùi. Ông đang ngồi xem ti-vi thì có tiếng chuông gọi cửa. Ông mở cửa. Một người đội nón sùm sụp ôm cái bọc bước vào. Khi người này hất cái nón lên ông Mâu ngỡ ngành nhận ta Miền, người phụ nữ đã nhận sinh cho ông một đứa con hơn một năm về trước. Ông vội vã kéo cái ghế. Người phụ nữ trao cho ông cái bọc đang ôm trên tay nói, giọng nghèn nghẹn:

          - Nó là con gái, được hơn ba tháng rồi, em tạm đặt tên nó là Bông…

          Ông Mâu lập cập bế đứa bé. Người phụ nữ quay ra. Ông Mâu vội hỏi:

          - Cô Miền định đi đâu đấy! Chờ tôi chút đã…

          Ông Mâu một tay bế đứa bé một tay cuống quýt với cái ái tìm ví. Ồng muốn đưa cho người phụ nữ ít tiền đi đường nhưng cô đã bước ra khỏi cửa. Ông Mâu nhao theo. Một cơn gió lạnh thổi thốc vào nhà. Ông nghe rõ tiếng người phụ nữ nói vọng lại trong tiếng nấc:

          - Anh làm giấy khai sinh cho nó có bố, có họ nhé!

          Người phụ nữ biến vào màn đêm nhanh như lúc chị đến.

          Ông Mâu đã vất vả nuôi cái Bông từ khi mới lọt lòng như thế. Khỏi phải nói nỗi gian chuân của cảnh gà trống nuôi con. Cũng may, cái Bông ít ốm đau. Nó lớn lên trong niềm vui của người cha và ngày càng xinh đẹp giống mẹ. Cái Bông luôn hỏi ông về mẹ. Ông lẩn tránh câu hỏi của con mãi. Cái Bông ngoan ngoãn, học giỏi. Thi đại học nó đỗ luôn hai trường với điểm số khá cao. Đúng như lời hứa với con khi nó đã lớn ông Mâu quyết định kể lại cho con về mẹ nó. Kể lại câu chuyện cho cái Bông nghe ông Mâu thấy thấp thỏm lo lắng. Ông sợ nó sẽ oán trách ông. Cái Bông không nói một lời nào. Nó chỉ lặng lẽ khóc khi nghe ông nói. Hai bố con ngồi lặng lẽ. Một lúc sau cái Bông bảo ông:

          - Bố đưa con đến thăm nơi bố mẹ đã gặp nhau nhé!

          Ông Mâu ngẩn người. Bây giờ đã cuối mùa thu. Cũng đúng là mùa mà ông đã gặp mẹ cái Bông ở bến sông xưa. Và, hai bố con ông Mâu đưa nhau cùng trở về giữa một mùa hoa cải nở vàng trên bãi sông.

          Ông Mâu để cái Bông thoả thích ngắm nhìn bãi sông vàng rộm màu hoa cải, xanh mướt ngô non. Bến sông bây giờ nhiều hàng quán hơn trước. Ông Mâu và con gái vào một quán nước ven đê. Bà chủ quán phúc hậu rót hai cốc nước nhân trần cho hai bố con. Bà cụ cứ chăm chú nhìn cái Bông mãi. Khi hai bố con trả tiền định đi thì bà cụ ngập ngừng hỏi:

          - Tôi hỏi khí không phải, chú và cháu đây có quan hệ thế nào với hai mẹ con cháu gái hôm qua đã đến đây?

          Ông Mâu ngạc nhiên:

          - Cụ nói hai mẹ con nào ạ?

          - Chả là hôm qua có hai mẹ con đến đây cũng vào uống nước nhân trần. Con gái của cô ấy sao mà giống cháu gái này thế, cũng mặc cái áo dài màu thiên thanh như cháu này, nhưng có lẽ cô bé ấy nhiều hơn cháu gái này vài tuổi… Hai mẹ con cô ấy nói với nhau về đây mùa này may gặp bố và em gái. Hôm nay lại thấy cháu gái nói về đây may tìm thấy mẹ nên tôi mới hỏi thế!

          Cái Bông run run nói:

          - Có khi là mẹ và chị gái con đấy bố ạ?

          Ông Mâu chưa kịp trả lời con thì bà cụ bán hàng nước lại bảo:

          - Hai mẹ con cô ấy mùa thu năm nào cũng về đây, cũng vào quán của tôi uống cốc nước nhân trần rồi mới đi.

          Ông Mâu hỏi bà lão bán quán:

          - Mẹ con cô ấy thường về vào ngày nào trong tháng ạ!

          - Chả cố định! Tôi nhớ có năm thì trước rằm trung thu, có năm sau hôm rằm, năm nay thì mãi cuối mùa thu mới về…

          Cái Bông thắc mắc:

          - Nếu đúng là mẹ tại sao không đến nhà tìm bố con mình mà lại về bến sông này…

          Ông Mâu giải thích:

          - Mẹ con làm gì biết nhà của bố con mình ở đâu mà đến tìm. Khi mẹ con trao con cho bố thì nhà ta vẫn ở căn hộ chung cư cũ nát trong nội thành. Bây giờ chỗ ấy là một toà cao ốc siêu thị đồ sộ hơn hai mươi tầng. Bố con mình thì lại ở mãi khu đô thị mới ngoại thành…

          Cái Bông ỉu sìu khi nghe bố nói vậy. Ông Mâu an ủi, giục nó về. Nhưng cái Bông vẫn chưa muốn về. Nó nói:

          - Mùa hoa cải sang năm mình sẽ lại sang đây chờ mẹ bố nhé!

          - Ừ… - Ông Mâu đáp.

          Ông Mâu nghĩ cô Miền có ý đi tìm ông và con gái như thế chắc là cô ấy cũng thương nhớ con lắm. Ông cũng rất mong gặp lại người phụ nữ năm xưa đã sinh cho ông một đứa con xinh đẹp, ngoan ngoãn. Năm ấy cô ấy ra đi vội vã quá ông chưa kịp nói với cô ấy những điều cần nói. Ông không tin là sẽ gặp lại người phụ nữ năm xưa. Nhưng cũng giống như cái Bông, ông khắc khoải mong chờ đến mùa hoa cải năm sau…

Nước mắt phố phường

          Truyện ngắn của Trọng Bảo

           Mưa. Những giọt mưa mùa đông lạnh sắc như những mũi dao từ trên trời rơi xuống. Mưa không to nhưng con đường bê tông trong khu biệt thự Đình Mỹ chan chan nước.

          Cánh cổng sắt ken két tự động mở.

          Từ phía bên trong cánh cổng sắt ấy một người đàn bà bước ra. Trông dáng bà biết ngay đó là một người giúp việc từ nông thôn lên thành phố. Bây giờ nông dân mất ruộng lên thành phố làm thuê kiếm tiền đông lắm.

          Người đàn bà vừa ra khỏi cổng thì hai cánh cửa sắt đã đóng sập lại. Bà ngoái lại nhìn ngôi biệt thự rồi dụi mắt lặng lẽ bước đi. Bước chân bà nặng nề như lê đi trên nền đường xi-măng láng nước. Những giọt nước mưa vẫn từ trên trời rơi xuống xiên xiên, lạnh buốt. Người đàn bà cố thu mình lại cho đỡ rét rồi lủi thủi bước đi. Vừa đi bà vừa ho. Tiếng ho của bà nhỏ dần cuối con đường vắng trong khu biệt thự.

          Bên trong cánh cổng trong phòng khách ấm áp của ngôi biệt thự có một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi nghe nhạc. Anh chồng là một trí thức công tác ở một viện công nghệ. Cô vợ là một kế toán làm việc ở một tổng công ty lớn của nhà nước. Họ mới cưới nhau. Ngôi biệt thự là của hồi môn.

          Vừa nâng ly nước lọc lên uống, cô vợ vừa nhấm nhẳng nói:

          - Anh là chúa hay thương xót người dưng vô cớ!

          - Cho bà ấy hai trăm nghìn đồng có đáng là bao?

          - Không đáng là bao… nhưng em ghét mụ ấy nên không thích! Nghĩ mà càng bực…

          - Thôi mà em… bà ấy cũng như mẹ mình ấy mà!

          - Nhưng mà em ghét mụ ấy chậm chạp lại bẩn. Rửa rau thì tiếc, sợ tốn nước, đãi gạo thì không sạch cám, hết sạn. Ăn cơm mụ ấy nấu cứ thấy ghê ghê thế nào ấy.

          - Thế thì em cũng không được đánh bà ấy! Nhìn bà ấy khóc tội lắm…

          - Tại mụ ấy đãi gạo không kỹ làm em cắn phải sạn ê cà hàm, suýt nữa mẻ một cái răng đấy… Lúc ấy bực quá nên em mới hất bát cơm và lỡ tay tát bà ấy một cái!

          Anh chồng khe khẽ lắc đầu:

          - Em phải kiềm chế cái tính nóng nảy của mình lại.

          Cô vợ im lặng. Anh chồng cũng im lặng. Ngoài trời mưa thêm nặng hạt. Những giọt mưa mùa đông lạnh như những mũi dao từ trên trời rơi xuống. Nhìn qua cửa kính là một bầu trời xám xịt. Anh chồng lại lên tiếng:

          - Mưa to quá, lại rét nữa! Lẽ ra em không nên đuổi bà giúp việc đi trong lúc đang mưa rét như thế này!

          - Anh buồn cười thật! Hôm nay mới có được cơ hội tốt để sa thải mụ ấy đấy!

          - Cái bình thủy tinh bà ấy làm vỡ có đáng giá gì đâu?

          - Nhưng… nhờ thế mới có cớ để đuổi mụ ấy đi đấy anh yêu ạ! Với lại lát nữa là người giúp việc mới sẽ đến rồi.

          - Mà em cũng không nên trừ mấy trăm nghìn tiền công của bà ấy!

          - Lẽ ra anh cũng không nên cho mụ ấy thêm hai trăm nghìn đồng!

          - Bà ấy đang ốm, cho bà ấy chút tiền mua thuốc!

          - Anh thì…

          Cô vợ hơi đuối lý với lại trên tivi đang có quảng cáo mỹ phẩm mới nên im lặng theo dõi. Anh chồng chợt nhớ ra:

          - Lúc nãy bố em gọi điện nói tối nay cả nhà ta sẽ đi ăn tại một cửa hiệu mới khai trương trên phố cổ!

          - Em nhớ rồi, chờ chị giúp việc mới đến thì chúng mình đi luôn.

          - Bố mẹ em giàu thật! Tặng con gái cả một ngôi biệt thự!

          - Bố mẹ nuôi thương em lắm… nhưng em vẫn luôn nhớ tới người mẹ đẻ của mình. Em bị lạc mẹ từ năm hai tuổi. Hôm ấy theo mẹ lên thị xã lấy ảnh. Lúc ở bến xe may mà em còn đang cầm được cái ảnh của hai mẹ con nếu không thì bây giờ chả còn hình dung ra mặt mẹ đẻ mình nữa…  

          Cô vợ trẻ buồn trông mông lung ra ngoài cửa. Mưa vẫn nặng hạt. Những giọt mưa mùa đông lạnh lẽo, thê lương từ trời cao nhỏ dài xuống đất.

          Có tiếng chuông gọi cổng. Anh chồng vớ cái điều khiển từ xa bấm mở cánh cổng. Chị giúp việc mới bước vào. Sau khi chào hai vợ chồng trẻ, chị chìa ra một cái gói ni-lông rồi bảo:

          - Tôi nhặt được ở bên trong cổng!

          - Cái gì thế!

          Hai vợ chồng trẻ vội bật dậy lùi lại. Cô vợ tái mặt vẻ hoảng sợ:

          - Tại… tại sao chị lại cầm vào đây… lỡ là mìn thì chết…

          - Không phải đâu! Hình như là tiền.

          - Chị mở ra đi! - Anh chồng bình tĩnh bảo.

          Chị giúp việc mới đến mở cái gói. Đúng là tiền thật. Một tấm ảnh đen trắng nhỏ từ trong gói rơi xuống nền nhà. Chị giúp việc nhặt cái ảnh và đặt cả lên bàn. Hai vợ chồng trẻ cùng tiến đến xem. Anh chồng thốt lên:

          - Đó là của bà giúp việc vừa đi lúc nãy đánh rơi… là toàn bộ tiền công của bà ấy…

          - Ối… trời ơi… là trời…

          Cô vợ trẻ đột nhiên kêu lên và ngã xuống sàn ngất đi. Anh chồng và chị giúp việc hoảng hốt cuống quýt bế cô lên ghế xoa dầu gió sơ cứu. Anh chồng vớ máy điện thoại định gọi xe cấp cứu thì cô vợ tỉnh lại. Cô ú ớ chỉ vào cái ảnh nhỏ cạnh gói tiền:

           - Đó… chính… là… là… mẹ… đẻ… của… em…

           Anh chồng cầm cái ảnh nhỏ lên xem. Trong ảnh là một người đàn bà bế đứa bé gái độ hơn một tuổi. Anh chồng cũng thốt lên:

           - Giống hệt cái ảnh em phóng to đặt trên bàn trang điểm trong phòng ngủ! Thảo nào anh thấy mấy lần bà ấy vào dọn phòng cứ đứng  chăm chăm nhìn cái ảnh ấy mãi!

           - Thì ra là mẹ đã biết là con rồi sao mẹ không nói mẹ ơi! - Cô vợ bật khóc.

           Anh chồng định an ủi thì cô vợ lại cuống quýt hỏi:

           - Có địa chỉ của mẹ em không anh?

           - Không có! - Anh chồng đáp sau khi lật tấm ảnh lên xem.

           - Mẹ… ơi…

           Nước mắt lại trào ra trên khuôn mặt đẹp. Cô vợ trẻ lại muốn ngất đi.

           Ngoài trời vẫn mưa. Những giọt mưa mùa đông lạnh như những mũi dao từ trên trời rơi xuống. Mưa không to nhưng bốn bề chan chan nước.

                                                                                  Hà Nội, đầu đông 2012

Không thể làm người tốt

Truyện ngắn của Trọng Bảo

          Văn Ngô sinh ra vốn đã mang bản tính ngổ ngáo. Từ thời còn đi học cấp 1 hắn đã đánh nhau với gần hết lũ trẻ con trong xóm, trong lớp. Giáo viên gọi Lưu Văn Ngô lên bảng. Không thuộc bài hắn trợn ngược mắt lên khiến cô giáo trẻ mới ra trường cũng ngại không dám cho điểm kém. Hắn cắt trộm bó lúa nếp ở ruộng hợp tác để làm cốm bị ông bảo vệ bắt được. Trên đường dẫn giải hắn về sân kho hắn lừa miếng khèo chân làm ông bảo vệ ngã chỏng vó, lộn cổ xuống mương uống no nước.  

          Có lẽ tại cái tính ngổ ngáo nên cái tên cúng cơm của hắn bị thêm cho một cái dấu hỏi từ lúc nào. Song, hắn thích cái tên Ngổ hơn tên là Ngô vẻ ngô nghê hiền lành quá. Hắn chả bao giờ làm việc tốt nên thường bị liệt vào loại cá biệt. Học sinh cá biệt, rồi thanh niên cá biệt. Hắn phấn đấu mãi vẫn không được kết nạp vào đoàn thanh niên lao động nên chán. Cũng tại hắn tính tình ngông cuồng dám chê bai chị bí thư chi đoàn có bộ ngực lép kẹp là “cá rô đực”. Chị này có dáng người thẳng đuỗn, cằm chìa ra như cái lưỡi cày, mưa rơi ướt mồm không ướt ngực. Chị ta luôn giáo huấn đám thanh niên về tình yêu, lý tưởng cao quý của tuổi trẻ. Một lần, toàn chi đoàn đi lao động làm mương cho hợp tác xã. Hắn là thanh niên đang phấn đấu vào đoàn nên cũng tham gia. Lúc vét mương, hắn vớ được một con rắn mồng. Đó là một loại rắn nước rất hiền. Thừa cơ khi chị bí thư chi đoàn đang cúi người vét bùn, cái cổ áo bà ba trễ xuống, hắn nhanh tay thả con rắn mồng vào cổ áo của chị ta. Chị bí thư chi đoàn hét lên một tiếng kinh hãi rồi ngã lăn xuống vũng bùn đen hôi thối, bẩn thỉu. Bọn con gái không dám chạy đến cứu người bí thư chi đoàn. Mấy thằng con trai phải ra tay. Hai thằng phải lôi người nữ bí thư chi đoàn của mình gần như đã ngất đi lên bờ. Hai thằng lúng túng mãi mới tháo được cái thắt lưng to bản có cái bao đựng đạn CKC mà chị bí thư thắt ngang bụng. Chị này cũng là trung đội trưởng dân quân. Đoạn họ cởi khuy áo và lôi con rắn mồng đang ngọ nguậy trong ngực chị bí thư chi đoàn ra ném đi. Lúc này mấy nữ đoàn viên mới dám xô đến dìu chị bí thư lên lán chỉ huy để xoa dầu cấp cứu.

           Sau bận ấy thì con đường phấn đấu trưởng thành của hắn coi như tịt hẳn. Từ một kẻ vô tổ chức, một thanh niên chậm tiến hắn thành một phần tử bất hảo từ lúc nào không biết. Hắn vào tù là do lần bắt trộm cá ở ao hợp tác xã. Đang tóm con cá chép to câu trộm được thì ông công an xóm lù lù xuất hiện ngay sau lưng hắn. Ông này túm lấy cánh tay hắn bắt quả tang định lôi về sân kho để xử phạt. Con cá được ông ta ném trả xuống ao. Điên tiết vì mất món nhắm ngon lành hắn tống cho ông công an xóm một quả khá mạnh. Ông ta rụng mất mấy cái răng cửa. Hắn bị quy tội trộm cắp và đánh người gây thương tích. Vào tù hắn lại dùng mảnh kính vỡ đâm một thằng tù khác bị trọng thương, lòi và mù một mắt. Cũng tại thằng tù này tự xưng là “đại ca” thường bắt các phạm nhân phải cống nạp, phục dịch. Vậy nên, hạn tù của hắn dài thêm đến chín năm.

          Hắn ra tủ thì đất nước đã ở thời đổi mới. Mọi thứ đối với hắn đều lạ lẫm.

          Hắn quyết tâm cải tà quy chính trở thành một người tốt. Hắn luôn nhủ mình phải làm nhiều việc tốt. Bởi lẽ trong tù hắn đã được cảm hoá, học tập cải tạo để trở thành một công dân có ích. Quản giáo luôn kèm cặp, giúp đỡ hắn. Hắn cũng được giảm một ít thời gian bị giam giữ. Cũng còn một lý do khác là trong tù hắn gặp một lão thầy bói. Lão này bị đi tù vì tội giao cấu với trẻ vị thành niên. Lợi dụng “chuyên môn nghiệp vụ” bói toán của mình lão ngủ với rất nhiều phụ nữ. Chẳng may cho lão lại “làm thịt” một con bé phổng phao nhưng chưa đầy mười sáu tuổi. Bị gia đình cô bé phát hiện tố cáo nên lão phải vào nhà đá nghỉ ngơi mười năm.

          Khi đã thân nhau, lão thầy bói xem số cho hắn và phán:

          - Chú ra ngoài phải cố mà làm một người tốt…

          - Tại sao cứ phải như vây?

          - Vì hậu vận của chú rất lạ! Nếu trở thành một người tốt thì sẽ rất phát. Còn nếu vẫn làm những việc xấu thì hậu vận sẽ rất đen… đen lắm…

          - Hừ…

          Hắn không tin lắm chuyện bói toán. Ai chả biết làm người lương thiện là tốt. Quản giáo vẫn bảo thế. Hắn cũng từng nghĩ như thế. Cũng có lúc hắn muốn làm người tốt. Nhưng thời thế lại cứ xô hắn vào chỗ tối. Với lại bản tính hắn vốn đã ngông nghênh quen rồi. Ngẫm lại quãng đời đã qua quả là hắn đã làm toàn những việc chẳng hay ho gì. Vì thế được ra tù hắn quyết là phải làm người tốt, làm những việc tốt, lương thiện. Hắn nhớ lại thời còn thanh niên có bao nhiêu gương người tốt, việc tốt được in thành sách, được phát trên đài truyền thanh ra rả hàng ngày. Mà những việc tốt họ làm cũng chả có gì khó khăn, ghê gớm lắm, hắn cũng có thể làm được. Hắn càng quyết tâm làm việc tốt để trở thành người tốt, có ích cho xã hội như đám quản giáo trại giam vẫn thường giáo dục, nhắc nhở hắn.

           Rời khỏi nhà tù hắn liền về quê. Mẹ hắn đã già lắm rồi, cái lưng còng hẳn xuống. Tuy thế ngày ngày bà vẫn cặm cụi ra đồng. Khi thực hiện khoán quản mẹ hắn được giao một sào ruộng. Lúc hắn về thì ruộng đất đã được giao khoán hết. Thành thử hắn không có ruộng. Không thể ăn nhờ vào một sào ruộng khoán của mẹ, hắn quyết định lên thành phố kiếm việc. Bây giờ phong trào bỏ quê lên phố là thịnh hành. Ngày xưa ai bỏ làng ra đi làm thuê cũng coi như đồ bỏ đi. Giờ thì đám con gái thì lên phố làm ô-sin, bọn con trai đi làm cửu vạn. Có tiền là có tất. Đám con gái đi làm ô-sin về váy áo cũn cỡn, di động cầm tay hơn hẳn các nữ đoàn viên thanh niên đang thi đua cấy lúa cao sản dưới cánh đồng. Đám con trai làm cửu vạn trên biên giới về xe máy Tàu gầm vang nhả khói oách hơn cả các đồng chí dân quân đang tập bắn súng trên sân vận động. Thế nhưng cũng có đứa trở về con gái có đứa mắt xanh, mỏ đỏ nghe nói làm ở quán cà phê đèn mờ dính căn bệnh chết người. Con trai có thằng đi biên giới làm thuê dính nghiện trở về làng hôm trước hôm sau đã kề dao vào cổ bố đòi tiền mua ma tuý…

          Hắn nghĩ: “Bây giờ tốt xấu lẫn lộn! Thây kệ, mình cứ phải học để trở thành người tốt!”.

          Lên thành phố, hắn quyết tâm kiếm việc tu chí làm ăn. Ban ngày hắn đi lang thang, ngồi vạ vật ở “chợ người” kiếm việc. Ban đêm hắn ngả lưng khi thì quán chợ, lúc vỉa hè. Chỉ đến mùa đông rét mướt hắn mới thuê chỗ ngủ trọ ngoài bãi sông Hồng.

          Hàng ngày vào phố vừa tìm việc kiếm tiền, hắn vừa lo học làm người tốt.

          Hắn đi dọc đường phố. Vừa đi hắn vừa chú ý quan sát. Hắn mong nhặt được của rơi để đem đến đồn công an giao nộp để trả lại người mất. Thế là hắn sẽ trở thành người tốt. Hồi nhỏ khi hắn còn đi học có thằng bạn nhặt được mười lăm đồng đem trả lại cho người đánh rơi đã được toàn trường nêu gương, học tập. Buổi hội họp nào nó cũng được đứng lên phát biểu, báo công. Nó là người tốt suốt những năm đi học phổ thông. Hắn cũng luôn nghĩ nó là một người tốt. Thế mà không hiểu sao mới đây nó lại bị ra toà vì tội tham nhũng đến cả trăm tỷ đồng. Thế là tấm gương của bạn khiến hắn hơi phân tâm. Tuy vậy, hắn nghĩ việc “nhặt được của rơi trả lại người mất” vẫn là việc tốt dễ làm nhất.

           Hắn chỉ bỏ hẳn chuyện học làm người tốt thông qua việc “nhặt được của rơi trả lại người mất” khi vớ được cái băng vệ sinh của phụ nữ đã dùng rồi lại ngỡ là một gói tiền, nhất là việc hắn nhặt được mấy tờ 500 nghìn đồng và 100 đô-la bị đám trẻ ranh cười nhạo ầm ĩ bảo là một kẻ tâm thần. Hoá ra đó là tiền âm phủ của một đám tang rải xuống đường. Tại vì họ làm tiền giả giống tiền thật quá!

           Một hôm lang thang trên phố hắn chợt nhìn thấy mấy chồng gạch ai đó xếp ra gần giữa đường. Trên các chồng gạch để những cái chai thuỷ tinh như những chướng ngại vật khiến đám học sinh phải đạp xe vòng vèo né tránh. Thật là vướng cho xe cộ đi qua. Phải dẹp bỏ những chồng gạch đá nguy hiểm này. Đây đúng là một việc tốt cần làm ngay. Hắn hì hục bê những chồng gạch xếp giữa đường ném xuống bờ mương nước. Mấy cái chai thuỷ tinh thì hắn bỏ vào thùng rác tránh vỡ ra gây thương tích cho đám trẻ con. Hắn đang vui vì làm được một việc tốt thì có tiếng quát to:

          - Thằng kia! Tại sao mày dám ngang nhiên phá hoại “trạm xăng” của chúng tao?

          Không nghĩ là họ quát mình, hắn vẫn bước đi trong lòng mừng vui vì vừa làm được một việc tốt. Một thằng tóc nhuộm vàng hoe kiểu Hàn Quốc và một mụ đàn bà sồn sồn lao ra túm lấy hắn. Hắn chưa hiểu chuyện gì thì họ nhắc lại:

          - Mày là thằng nào mà dám phá hoại “trạm xăng” của chúng tao hả?

          - Trạm xăng nào? 

          - Thì là… những chồng gạch mày vừa ném đi đấy!

          Thì ra đây chính là những “trạm xăng” bán lẻ xăng dầu trên đường phố của họ mà hắn không biết! Hắn bực mình nhấm nhẳng:

          - Trạm chiếc gì! Xếp gạch ra giữa đường dễ gây tai nạn giao thông lắm!

          - A… thằng này láo nhỉ! Định dạy dỗ chúng tao hả. Chúng tao xếp gạch ở đâu mặc xác chúng tao, ai bị tai nạn thì mặc họ. Công an, thanh tra giao thông cũng không làm gì được chúng tao mà mày lại dám động vào hả… hả…?

          Mụ đàn bà giơ tay tát hắn một cái. Hắn thấy đau ê bên má. Thằng thanh niên cũng hùng hổ co tay định đấm hắn. Hắn lùi lại xắn tay áo lên. Mụ đàn bà và thằng thanh niên lập tức khựng lại khi nhìn thấy cánh tay hắn săm trổ những hình thù gớm ghiếc. Họ đứng rúm ró bên gốc cây xà cừ nhìn hắn. Mụ đàn bà lập cập nói với thằng thanh niên: “Một đại ca xã hội đen đấy đừng giây vào mà dại…”. Tiếng thằng thanh niên đầu tóc kiểu Hàn Quốc run run: “Đúng là dân xã hội đen nhưng sao nó lại làm việc tốt thế nhỉ! Hay là nó bị điên rồi…”.

          Không thèm chấp mụ đàn bà và thằng oắt con, hắn bước đi. Hắn hơi buồn. Vậy là việc tốt của hắn không được công nhận. Cũng chẳng sao, cốt tự mình biết mình là được.

          Đến gần một ngã tư, hắn chợt thấy một đám đông người đang đứng xúm xít bàn tán ồn ào. Hắn liền len vào xem có chuyện gì xảy ra. Giữa đám đông là một cô gái nằm sóng xoài trên mặt đường. Máu từ đầu và ngực cô gái chảy tràn ra. Bên cạnh là chiếc xe đạp gãy vành cong queo. Có ai đó nói: “Một thằng đi xe máy đâm vào cô gái rồi bỏ chạy!”. Hắn ngạc nhiên là xung quanh cô gái rất nhiều người, công nhân có, người mặc com-lê vẻ trí thức có, thanh niên, phụ nữ, cụ già, thiếu niên đều có mà chả có ai vào sơ cứu cho cô gái bị tai nạn. Họ bình thản đứng nhìn cô gái nằm giãy giụa vì đau đớn giữa đường. Bệnh viện chỉ ở cách vài trăm mét mà không ai có ý định đưa cô gái vào đó cấp cứu.  

          Hắn gạt đám đông ra lao đến chỗ cô gái đang nằm. Hắn bế xốc cô gái lên rẽ đám đông lao về phía bệnh viện. Cô gái bị tai nạn được cấp cứu kịp thời qua cơn nguy kịch. Hắn đứng chờ ở cửa phòng cấp cứu. Quần áo hắn còn thấm máu của cô gái. Khi biết chắc chắn cô gái đã thoát chết hắn mới quay ra. Hắn định bụng sẽ quay ra chỗ xảy ra tai nạn định tìm kiếm chiếc xe đạp cho cô gái. Hắn bước nhanh ra phía hành lang lối ra. Giữa lúc đó thì có nhiều tiếng người nhốn nháo. Một toán người hùng hổ lao vào bệnh viện hò hét:

          - Đâu… đâu… thằng nào… thằng nào… đánh chết bỏ mẹ nó đi…

          Hắn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì bị một gậy choảng luôn vào đầu đau điếng. Rồi một trận mưa đấm đá trút lên người. Hắn co người lăn xuống sân. Toán người tay dao, tay gậy lao theo. Có tiếng ai đó cố gào lên:

          - Không… phải… chú… ấy… đâu…

          - Không phải à? Gây tai nạn lại còn định bỏ chạy hả!

          - Chú ấy... chỉ là người... đưa đi... cấp cứu thôi...

          - Láo... láo... bây giờ làm gì có người nào tốt thế... đánh... đánh...

          - Đúng làm gì có ai hâm thế... đánh… đánh… đánh bỏ mẹ nó đi!

          - Bụp… bụp… bụp…

          - Ối… ối… ối…

          - Giời ơi… giết… người… rồi…

          Hắn giơ tay lên đỡ đòn. Những cú đấm đá làm hắn lảo đảo. Không ai bênh hắn ngoài một bà cụ bán nước chè xanh. Bà cụ mặt mày tái mét. Một tay xách ấm nước, một tay cầm hai cái bát bà cụ cố lao vào cản đám người đang lên cơn thịnh nộ. Tiếng cụ yếu ớt: “Chú… chú… ấy đã cõng… vào… cấp cứu… lúc cháu gái bị tai nạn... tôi... tôi cũng có mặt ở đấy… tôi biết… thằng đi xe máy nó chạy mất rồi…”. Không ai thèm nghe bà cụ nói. Một thằng thanh niên hung hãn đạp bà cụ văng ra phía mé sân. Hai cái bát trên tay cụ vỡ tan, cái ấm nước lăn long lóc. Tiếng bà cụ gào khóc vì đau đớn. Giữa lúc nhốn nháo ấy thì một thằng lao vút vào xỉa luôn một nhát dao về phía hắn. Hắn né người. Lưỡi dao đâm trúng cánh tay trái. Máu vọt ra. Đến nước này thì… Hắn gầm lên: “Ông… ông… đéo… cần… làm… người… tốt… nữa…”. Cùng với tiếng hét, hắn nén đau đảo người nhanh nhẹn tước ngay con dao đang ròng ròng máu trên tay thằng thanh niên ngoặt cổ tay đâm ngược lại. Thằng thanh niên ôm ngực lảo đảo. Máu từ ngực nó phun ra. Gã vứt con dao giằng cái gậy của một thằng khác rồi tả xung, hữu đột tẩn cho đám người thân của cô gái bị tai nạn một trận tơi bời. Sân bệnh viện biến thành một bãi chiến trường ngổn ngang gậy gộc, gạch đá, toe toét máu me.

           Cảnh sát 113 ập đến. Hắn bị khoá tay ngay lập tức. Các bác sĩ, nhân viên bệnh viện lúc này mới hoàn hồn. Thằng thanh niên ngã gục ở giữa sân bệnh viện được chuyển ngay vào phòng cấp cứu nằm ngay cạnh em gái của mình. Hắn bị dẫn giải ra xe chuyên dụng chở tội phạm. Hắn lê bước đi. Quần áo hắn tả tơi, thấm ướt máu. Ở góc sân bệnh viện bà cụ bán nước chè xanh cố nhỏm dậy thều thào:

          - Chú ấy đúng là người tốt... Giời ơi là giời! Làm phúc phải tội rồi… khổ quá...!

          Chả biết có ai nghe được tiếng của bà cụ bán nước không. Nhưng chắc chắn hắn - công dân Lưu Văn Ngổ sẽ không thể tiếp tục làm người tốt được nữa rồi…            

Người đàn bà điên

Phía bắc tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh khoảng bốn mươi ki-lô-mét, có con sông Bùng cắt ngang quốc lộ 1A. Dòng sông uốn lượn ôm lấy cả một vùng rộng từ làng Bùng, làng Vạn, làng Vích rồi đổ ra biển.

Thiên Sơn 

 Phong vận kỳ oan ngã tự cư

  (Nguyễn Du)

Trừ những ngày giông bão của tháng tám, nước sông Bùng thường trong xanh. Theo nhịp thuỷ triều, dòng sông có lúc đầy lúc vơi, nước sông có lúc mặn lúc lợ tuỳ vào sự thắng thế của biển hay của thượng nguồn.

Năm năm về trước vào những đêm trăng tháng tư có một người đàn bà da trắng như sữa, tóc đen và mượt, dài đến gót chân, thân thể loã lồ, lặng lẽ dầm mình, kỳ cọ, vẫy vùng trong nước cách gầm cầu Bùng chừng vài chục thước về phía Tây. Khuya! Đường vắng! Người đàn bà khoan thai bước lên bờ. Nhìn thẳng. Không một mảnh vải che thân. Trôi trên đường trăng xanh lét. Đôi bầu vú rung rinh. Khuôn mặt nhạt mờ nhưng hai con mắt man dại long lanh. Tay buông thõng xuống cặp đùi thon dài, mềm và hình như cũng xanh lét như ánh trăng. Thỉnh thoảng, người ấy đứng lại run rẩy, co giật. Rồi rẽ vào cánh đồng hoang phía tây nơi tiếp giáp với làng Hoa. Biến mất...

Cũng tháng tư ấy xuất hiện một người đàn bà điên khoảng ba mươi tuổi, không hiểu từ đâu đến. Khuôn mặt trái xoan, tóc chị dài, làn da nuột nà đã hoá thành xanh mét. Tầm bốn giờ chiều chị thường bước đi chậm chạp trên quốc lộ 1A từ cầu Bùng vào đến thị trấn Diễn Châu. Thỉnh thoảng chị đứng lại. Không nhìn ai. Lặng lẽ, nghiêm trang, khô héo như một gốc cây bên đường.

Người đàn bà đó là Mến. Không biết người nào đã đặt cho chị cái tên ấy và vì sao khi nghe gọi chị lại giật mình bỏ chạy. Loạng choạng. Đơn độc vô cùng.

Một lần chị đang đi trên đường, tay cầm nắm cỏ non đưa vào miệng nhai nghiến ngấu, có người đàn bà đôn hậu đã đưa cho chị một quả chuối. Bà thấy chị cười hiền nhưng không đưa hai tay ra, liền nhét vào túi áo cho chị rồi đi, miệng lẩm bẩm:

- Tội nghiệp! Người xinh rứa mà...

Nghe giọng nói bỗng chị ngước đôi mắt thoáng vẻ thẫn thờ nhìn theo bà. Một cái gì như trí nhớ bỗng động đậy trong cái màn quên lãng đục mờ nơi óc chị. Nhưng chỉ vài giây, nó tắt lặng đi như một tàn lửa trong đêm tối.

Một đứa trẻ độ mười hai tuổi, đầu trọc lốc, mắt lồi, mặc chiếc áo màu tro xám bết bùn xông đến trước mặt Mến:

- Mến điên, đưa đây cho tao.

Chị toan chạy thì nó đã thọc tay vào túi lôi quả chuối ra. Mến giữ tay nó lại, nhưng thấy đôi mắt lồi trừng lên, chị không chống cự nữa. Nó đút ngay quả chuối vào miệng.

- Ngon quá! - Nó toan cười sau khi nuốt trôi miếng đầu tiên. Nhưng nó nhận ra Mến đã không còn để ý đến nó nữa. Chị cúi gằm bước xiêu vẹo về phía trước. Tiếng cười của nó sắp bật ra bỗng nhiên bị chẹn lại biến thành một âm thanh khô khốc thảm hại như tiếng nấc. Nó nói tiếp:

- Nhưng Mến, chẳng lẽ tao ăn hết của con điên sao!

Nói xong nó nhét phần còn lại của quả chuối vào túi áo chị rồi bỏ đi thẳng.

Chị lại tiếp tục bước. Được vài trăm thước chị gặp một toán trẻ con đang chơi đùa trước sân một cái quán nhỏ. Mắt Mến long lên, như phấn chấn, như dịu hiền, như thù hằn... Kỳ lạ, khó hiểu, chị tiến đến gần lũ trẻ. Lập tức, không biết cơ man nào là ngói vỡ, gạch vỡ, đá răm, đất sét khô từ mấy chục cánh tay trẻ con bay túi bụi về phía Mến. Đồng loạt chúng thốt lên:

- Chạy! Chạy! Mến điên! Con ma! Con yêu tinh ăn thịt người... ối! ối!...

Đám trẻ biến sạch. Chỉ còn một đứa bé gái run rẩy, cuồng chân không chạy được, tay chới với, mặt tái nhợt kêu ré lên:

- Bố ơi! Bố... Bố...

Một gã đàn ông to béo, lùn, mặt lạnh, lông mày rậm, môi thâm xám, trông tàn ác bước nhanh ra khỏi quán. Thấy Mến, hắn cười gằn:

- Lại mày à? Biến!

Hắn xô Mến ngã xuống vệ đường. Chị ngước đôi mắt lờ đờ sầm tối nhìn hắn. Hắn đưa chân đạp lên hông chị mấy cái. Chị oằn oại như một con rắn bị thương, miệng phát ra những âm thanh eo éo như tiếng rên. Hắn túm tóc chị lôi dậy. Nửa quả chuối trong túi lăn ra cỏ.

- Hừ! Mày mà cũng để dành à! Đứa điên nào đã cho mày vậy?

Hắn xéo nát quả chuối.

Một mụ đàn bà béo phị từ trong quán bước ra, miệng xỉa xói:

- Mày hả? Sao không chết đi cho đỡ nhớp mắt tao.

Rồi mụ nhướn cổ phụt về phía trước một bãi nước bọt có pha những sợi đờm vàng.

Người đàn bà điên chậm rãi đứng lên. Chị nhìn mụ chủ quán một cách vô cảm. Hai giọt nước mắt trong vắt vừa ứa ra vì đau đã chảy tràn xuống má, lẫn với đất bụi bám trên mặt. Chị lại bước đi chậm chạp. Mắt nhìn thẳng. Tóc rối bời bay sau lưng, trước mặt, quấn quanh cổ, quanh ngực. Bầu vú lộ ra sau mảnh áo rách toác, rớm máu vì một vết gai xước.

* * *

Sông Bùng uốn thành một đường cong tiếp giáp với quốc lộ 1A ở hai điểm: Cầu Bùng và Cầu Diễn Thành. Phần giới hạn bởi con đường với dòng sông là một hình bán nguyệt có nhiều chỗ loang lổ, lau sậy um tùm. Cũng có chỗ cao ráo, tương đối bằng phẳng, có thể trồng ngô hay khoai đông. Nhưng nhìn chung đó là vẫn là vùng hoang, ít người đặt chân đến trừ những người chăn vịt, bắt ếch về mùa mưa và các chị cắt sậy. Gần với bờ sông, trong vùng hoang phía tây bắc của hình bán nguyệt có một chiếc lều cũ làm bằng tre, lợp rạ, bỏ hoang trên một mảnh đất không lớn nhưng cao, phẳng. Một lối nhỏ từ cửa lều trổ ra bờ sông. Xung quanh nhiều hang hố, nhiều vũng nước ngập bốn mùa. Không mấy người nhớ chiếc lều ấy là của ai, nó được làm từ bao giờ và để làm gì. Ven quốc lộ 1A ngày ấy còn thưa thớt nhà cửa, lèo tèo những quán hàng tạp hoá, bán xăng dầu, còn lại là những ngôi nhà nhỏ bé, im lìm vì không mấy khi có chủ nhân ở nhà.

Trong thời gian xuất hiện người đàn bà điên có những nét đẹp lạ, thường xuyên xuất hiện trên quốc lộ 1A và người đàn bà không rõ người hay ma hay xuống tắm dưới sông Bùng, người ta thường nghe thấy những âm thanh kỳ quái phát ra trong vùng hoang tiếp giáp làng Hoa ấy vào đêm khuya. Âm thanh lúc to lúc nhỏ, lúc trong suốt êm ái, lúc méo mó rùng rợn. Các gia đình xung quanh sợ sệt, lo lắng. Các ông già bà cả thì cho là ma quỷ, là yêu tinh quấy phá và sắp có hoạ lớn cho cả làng nếu không tìm cách diệt trừ. Người trẻ tuổi thì cho là âm thanh do mê mơ, do tưởng tượng cấu thành. Cũng có người cho đó là tiếng phát ra từ người đàn bà điên, họ quả quyết đã tận mắt thấy cứ tối đến người đàn bà điên lại tiến về cái lều hoang trong cánh đồng.

Tháng tư năm ấy, trẻ con đang chơi, đêm về bỗng nhiên bị sốt cao phải nằm li bì cả tuần. Nhiều ca phải đi viện. Người già cũng chẳng khá hơn. Họ thấy đau xương, kém ăn, mắt mờ đi. Thời khắc chuyển mùa ngột ngạt. Cái nắng lửa của mùa hè đang đổ đến kéo theo những trận gió Lào mạnh đầu tiên của năm. Mọi người bắt đầu xôn xao bàn tán, lưu tâm đến người đàn bà điên một cách đặt biệt. Trong lòng họ nảy lên những nỗi thù hằn, ghê tởm và sợ sệt.

Thực ra, trước cuộc hành hạ người đàn bà điên trên quốc lộ 1A của những nhân vật khác nhau ấy, những âm thanh kỳ dị kia cũng đã có rồi nhưng nhỏ hơn, ít rùng rợn hơn, thi thoảng mới xuất hiện một lần, không rõ đó là tiếng ru con hay tiếng khóc. Khi âm thanh đó đã thành thời sự cho cả làng thì người đàn bà điên đi đến đâu là các cửa sổ lập tức đóng lại, hàng quán lặng đi. Người ta hoặc tảng lờ, hoặc im lặng quan sát, hoặc đi vào nhà...

Đã hai ngày liền người đàn bà điên chỉ ăn cỏ. Hình như người điên cũng biết thế nào là đói dày vò, là cô đơn tội nghiệp, là đau đớn vì bị hành hạ. Nhưng lạ sao, tóc người đàn bà điên vẫn cứ dài. Da người đàn bà điên vẫn cứ nuột nà dẫu lấm lem bùn đất và bị gai xước. Thân thể người đàn bà điên vẫn cứ thon mảnh, duyên dáng một cách loã lồ và man dại. Mắt người đàn bà điên vẫn long lanh, trong cái lờ đờ hoang hoải vẫn như ánh lên nét đa tình thiên bẩm. Một cái gì lạc loài, siêu thường, xanh tốt bị dày xéo, băng hoại.

* * *

Có ai ngờ được rằng một đêm trăng tháng tư, trong cái lều hoang hôi hám mùi bùn, mùi mốc, mùi cỏ nát nơi cánh đồng, người đàn bà điên sau khi sung sướng đưa vào miệng vài nắm cỏ non, mấy cái vỏ chuối, trong chị bỗng dâng lên một nỗi khát thèm khác lạ. Chị không biết mình đang thèm khát cái gì. Nhưng rồi lý trí hình như có trở về trong khoảnh khắc. Hình ảnh quá vãng hình như lại ám ảnh ngự trị.

Những mảnh vải che thân cuối cùng nhanh chóng bị xé tung. Chị hiện ra nguyên hình cái vẻ đẹp phụ nữ tuyệt vời, cái trong sáng cuồng loạn, một vầng hào quang bị thương tổn. Đôi bàn tay chị lúc cuồng điên, lúc như dịu dàng xoa nhẹ vuốt nhẹ hoặc cấu véo vào mọi nơi trên cơ thể. Bắt đầu là vuốt nhẹ những sợi tóc rồi bứt mạnh từng nắm, từng nắm... Dần xuống cổ, xuống vai và dừng lại rất lâu trên đôi bầu vú đến căng cứng, đỏ thẫm... Cứ thế xuống bụng, xuống đùi... Cuối cùng chị vớ lấy chiếc cột lều ghì riết, giẫy giụa. Tấm thân chị nóng ran. Cả túp lều rung động. Đôi môi bỏng cháy quờ quạng một lúc rồi gắn chặt vào một điểm trên thân cột. Cứ thế một.. hai... ba... bốn... năm... mười... mười lăm phút trôi qua. Đôi bàn tay yếu dần, sự giãy giụa yếu dần... Đôi môi rời ra. Chị từ từ khuỵu xuống, ngã ra đất. Chị nằm ngửa, mắt nhắm nghiền, làn môi ứa máu cùng vài điểm khác trên cơ thể. Không biết chị ngủ hay là chết.

Chiều hôm sau chị tỉnh dậy. Mặt trời nghiêng xuống góc trời. Nắng héo úa. Mọi vật hư ảo, lung linh và nhoè động trong mắt chị. Gượng mãi, chị lồng vào người những tấm vải rách mà đêm qua chị đã vứt lung tung trong lều. Xong, chị thất thểu bước qua những ô lũng gồ ghề ra đường quốc lộ.

Một mụ đàn bà hét toáng lên:

- Con Mến điên, con yêu tinh, con ma đồng... Anh em ơi... ơ...i...!

- Đánh chết nó đi...! Đánh chết nó đi! - Một giọng ồ ồ từ sau vách nứa hùa theo.

Trước mặt Mến có một đứa bé khoảng năm tuổi đang cầm trên tay nửa chiếc bánh đa. Trông thấy Mến nó bỏ chạy, vừa chạy vừa khóc thét run rẩy. Mến chú ý đến đứa bé. Chị thấy vui vui. Chị bước nhanh theo nó. Khi bàn tay xanh lét của Mến vừa chạm vào lưng đứa bé thì cũng là lúc chiếc đòn gánh nghiêng cạnh từ tay một gã đàn ông nào đó chém phập vào lưng chị. Chị ưỡn người, oằn oại, không nhích thêm được bước nào nữa. Tiếp sau là những tiếng phầm phập, thình thịch của đòn gánh chém nghiêng, của gậy gộc tre nứa, của đá ném, của tay nện, chân đá xen với tiếng quát tháo, tiếng nguyền rủa của mọi lớp người từ già tới trẻ đang vây quanh Mến thành một đám đông lộn xộn, hỗn tạp, hung ác một cách say sưa.

- Giết chết nó đi... Con điên... Con ma... a...

- Đánh mạnh vào... Ném mạnh vào... ào...

- Nó sắp chết rồi...ồi...

- Thôi ... Thôi...

- Mày muốn cứu con ma...a... sao... ao...?

Lúc ấy, một chiếc xe con màu trắng đỗ ngay bên đường. Một người đàn ông râu tóc trắng, kính trắng, áo trắng, dáng người thanh, cao khiết bước vội ra khỏi xe. Người ấy tiến về phía đám đông.

- Mọi người dừng tay lại đã. Sao lại đánh một người đàn bà như vậy?

Giọng của người ấy trầm ấm, đầy uy lực. Đám đông ngừng lại, giãn ra. Kẻ hăng máu nhất cũng ngừng lại, sững sờ. Người tiến đến bên người đàn bà điên bấy giờ mình mẩy đầu máu, hai mắt trợn ngược, trắng dã hướng về người mới tới. Người nhìn sâu vào mắt kẻ bị hành hạ và nhận ra chị đã chết. Đôi mắt găm sâu vào mình như cầu xin, như van lạy, như nương tựa, như biết ơn, như trách móc... Người mặc đồ trắng cúi xuống hôn lên vầng trán của người chết và nhẹ nhàng vuốt mắt cho chị.

Bỗng người mặc đồ trắng thấy trong lòng lâng lâng, cảm giác xót đau xen với sự dịu dàng khó hiểu. Một luồng sáng nhẹ hình như toát ra từ khuôn mặt chị bay lên, loãng dần vào không khí. Mắt người mặc đồ trắng nhỏ lệ. Đám đông ngơ ngác, rối loạn...

Từ khi người đàn bà điên bị đánh chết, không còn ai xuống tắm ở sông Bùng vào những đêm trăng nữa. Cái âm thanh man dại từ cánh đồng hoang cũng tắt hẳn. Một thời gian sau, khi mùa mưa sắp đến, có hai người nông dân đi vào cái lều bỏ không, chẳng hiểu họ có ý định gì. Họ vô cùng ngạc nhiên trước một cảnh tượng kỳ lạ. Trong lều có một tấm chiếu cũ. Một con búp bê được gói trong chiếc áo cánh phụ nữ màu đen đặt nằm ngửa. Phía dưới gối có một cuốn nhật ký đã nhoè chữ. Họ sợ hãi bước vội ra khỏi lều. Phía sau - trong lều không khí như đang cuộn thành hình người đi lại, nói năng. Âm thanh man mác ngấm dần vào họ thành buốt nhói, rồi râm ran...

Xung quanh cỏ đã lên đầy...

Nghệ An 14-16 tháng 11 năm 1993

Rỗng

Chẳng biết từ khi nào, trước sân mỗi ngôi nhà đều có một bức tượng. Họ gọi chúng bằng cái tên chung: Nhân Tượng.

Lưu Quang Minh

Những Nhân Tượng này có vô số tư thế, cử chỉ khác nhau. Lúc thì đứng như trời trồng với vẻ ưu tư rõ rệt. Lúc cử chỉ hệt đang ngồi trước màn hình vi tính, tay còn đang bấm chuột, gõ bàn phím. Khi chỉ đơn giản một sự vô hồn không cảm xúc, cơ mặt và toàn bộ cơ thể hoàn toàn dãn duỗi…

Mọi người thường không chú ý đến chúng nó nhiều lắm. Những vật vô thưởng vô phạt. Như đám tượng được dựng đầy rẫy trong công viên đó. Người qua kẻ lại, chẳng ai màng ngó ngàng. Nếu có, cũng chỉ là một cái liếc mắt chiếu lệ, rồi thôi. Bận tâm làm gì. Nhà ai lo nhà nấy. Người nào cứ biết người nọ đi.

Trong sân nhà dì thì không có Nhân Tượng. Nhà có ba người. Dì, chồng dì, và con trai dì. Cũng giống bao nhiêu gia đình khác thôi. Buổi sáng dì ra sân phơi đồ, tình cờ ngó qua sân những nhà khác. Bấy giờ, trong đầu dì mới khẽ nhẩm đếm. Một, hai, ba…. Tám, chín, mười…. Trời, nhiều thế, những mười Nhân Tượng chung quanh. Mười nhà có Nhân Tượng. Chưa ai từng đặt câu hỏi: chúng từ đâu mà ra? Dì mang máng nhớ, hình như vào sáng đẹp trời nào đó, một Nhân Tượng bỗng nhiên xuất hiện trong sân một nhà. Rồi cứ thế, số lượng dần tăng lên, ở sân những nhà kế bên, theo sau nhiều sáng đẹp trời khác. Nhưng tuyệt nhiên không ai hỏi ai chúng ở đâu ra, và tại sao cả. Bận tâm làm gì. Nhà ai lo nhà nấy. Người nào cứ biết người nọ đi.

Ừ nhỉ, phải rồi. Việc của dì là phơi đồ. Hơi đâu mà để ý, thắc mắc ba cái chuyện không đâu. Chuyện nhà mình lo còn chưa xong, huống chi. Dì thở hắt ra. Chớm nghĩ tới thằng con là dì rầu thúi ruột.

Thằng con dì nghỉ học đã lâu. Nó bảo không muốn đến trường nữa. Dì giật mình. Không đến trường là thế nào? Là không đến trường. Là ở nhà luôn, má à!

 Từ dạo ấy nó ở lỳ trên phòng.

 “Sơn! Xuống ăn cơm!”

 Mỗi lần đến giờ cơm là y như rằng dì phải gọi như hò đò.

 “Sơn! Xuống ngay!”

 Vẫn không thấy động tĩnh gì.

 “Mày có xuống ngay không hả!”

Đến lần thứ ba thì dì nổi cơn tam bành. Dì leo lên tận phòng nó đập cửa rầm rầm. Đập đến nỗi tay dì tê rần, đau điếng mà nó chẳng thèm đáp lại cho một câu. Giận quá, dì đẩy cửa vào trong. Kia rồi. Bập vào mắt dì là bộ dạng thằng con trai lù lù một đống. Biết ngay mà. Tai nó đeo headphone mở lớn hết cỡ. Mắt dán chặt vào máy tính, tay thoăn thoắt bấm chuột, gõ gõ bàn phím.

  Dì kéo lấy vành tai nó, xoắn một cái thật lực.

  “Á… a… a… đau…a… a…”

  Cái headphone rớt khỏi tai nó, ngay lập tức dì nghe tiếng nhạc to đùng dội ra.

  “Má bỏ tai con ra… đau quá…”

  Dì xách tai nó lên, buộc cả thân người nó phải đứng dậy, bước khỏi ghế. Mặt nó méo xẹo, hai mắt hoen nước đỏ hoe, miệng mếu máo.

  “Bỏ tai con ra. Đau quá má ơi! Đau quá má ơi!”

  “Con với cái. Mày làm khổ má mày đến khi nào nữa! Con với cái!”

  Dì cũng chực khóc đến nơi.

  “Xuống! Rồi mày muốn làm gì thì làm!”

Dì bất lực với nó lâu rồi. Có khuyên răn, bảo ban, chửi bới, đập đánh bao nhiêu thì rồi nó cũng cứ trơ ra thôi. Trơ ra, lỳ ra… như đá. Một tảng đá sống trong nhà. Dì thở hắt ra, đau đớn. Mang nặng đẻ đau từng khúc ruột, cố sống cố chết nuôi cho khôn cho lớn để nó thành thế này đây. Còn thua cả Nhân Tượng! Nuôi Nhân Tượng còn hơn nuôi mày!

Ăn xong nó lại tót ngay lên lầu. Khi ăn thì lầm lỳ chẳng nói chẳng rằng. Dì trông cái cách nó nuốt cơm vội vàng cho có lệ, ánh mắt điệu bộ vô hồn không sức sống, cả thân thể xanh lè gầy gộc vì đã lâu chưa ra ngoài đón nắng đón gió mà cầm lòng không đặng.

“Con ơi là con! Con ơi là con!”

Còn mình dì với mâm cơm lạnh lẽo chén dĩa ngổn ngang, hức lên rồi gục mặt xuống bàn ăn mà nức nở một tràng dài.

* * *

Buổi sáng dì ra sân phơi đồ, mắt theo thói quen lia ngang những nhà khác. Nhà nào cũng có Nhân Tượng. Dì chợm nghe đâu đó trong cõi lòng vọng vang:

“Còn thua cả Nhân Tượng! Nuôi Nhân Tượng còn hơn nuôi mày! Nuôi Nhân Tượng còn hơn nuôi mày!”

Phải rồi. Dì mím chặt môi.

Hôm qua vợ chồng dì lại cãi nhau to. Thực ra chỉ có dì là người mở miệng. Người đàn ông được gọi là chồng là cha ấy, lâu nay về tới nhà là chẳng nói chẳng rằng. Đi tắm rồi ăn cơm. Hết đọc báo thì chuyển qua xem ti-vi. Tất cả đều được làm trong thinh lặng. Một lời ủi an yêu thương với vợ còn không có, thì thằng con trai độc nhất với ông ấy có tồn tại không?

Mình ông ấy biết.

“Tôi van anh. Lên phòng nó mà xem nó làm gì, cần gì. Trời ơi sao tôi khổ thế này!”

Đáp lại chỉ toàn tiếng thở phì phò đều đặn nghe rõ rệt trong cái không gian bốn bề tường gạch bao bọc lạnh lẽo này. Đây là cái nhà ư? Đây mà gọi là gia đình sao?

Dì tuôn ra vô số lời mắng nhiếc chì chiết để xả bay bao nhiêu đè nén kìm kẹp từ bấy lâu nay trong lòng. Tôi biết! Tôi biết anh chẳng yêu thương gì tôi. Lấy tôi nhưng hồn anh để nơi khác kìa, ở chỗ tình cũ của anh. Tôi biết tôi là người đến sau nên phải cam chịu. Nhưng anh ơi anh nhớ cho, tôi cũng là con người!

Trên gương mặt người đàn ông chỉ đơn giản một sự vô hồn không cảm xúc, cơ mặt và toàn bộ cơ thể hoàn toàn dãn duỗi.

Phơi xong cái áo cuối cùng, dì đứng ngắm kỹ bọn Nhân Tượng hơn.

Chúng nó cứ đứng mãi thế, mặc nắng mưa giữa đời, không than không thở một lời.

Dì thấy phát ghen với chúng.  

Phút chốc, cảnh vật chung quanh đã nhòe nhoẹt đi. Dì lấy tay quệt vội hai khóe mắt cay xè.

* * *

“Sơn! Xuống ăn cơm!”

Mỗi lần đến giờ cơm là y như rằng dì phải gọi như hò đò.

“Sơn! Xuống ngay!”

Vẫn không thấy động tĩnh gì.

“Mày có xuống ngay không hả!”

Đến lần thứ ba thì dì nổi cơn tam bành. Dì leo lên tận phòng nó đập cửa rầm rầm. Đập đến nỗi tay dì tê rần, đau điếng mà nó chẳng thèm đáp lại cho một câu. Giận quá, dì đẩy cửa vào trong. Kia rồi. Bập vào mắt dì là bộ dạng thằng con trai lù lù một đống.

Dì tiến sát nó, từ phía sau. Loáng thoáng trên màn hình máy tính là một nhân vật trong Game online đang di chuyển qua lại tới lùi. Nó mê mẩn những thứ này đến quên ăn quên ngủ. Quên luôn chuyện học hành. Quên luôn cả má cả ba. Quên luôn mình là người bằng xương bằng thịt. Quên sạch!

Đối với nó cái nhân vật ảo kia còn quan trọng hơn người thật. Thế giới trong kia ăn đứt ngoài này.

Dì kéo lấy vành tai nó, xoắn một cái thật lực.

Cứng như đá. Dì rùng mình.

Trước khi kịp nhận thức chuyện gì đang thực sự xảy ra, dì thấy từ đỉnh đầu cái đống lù lù kia xuất hiện một vết nứt càng lúc càng lan rộng. Vết nứt kéo dài xuống trán, qua mắt, bổ đôi sống mũi, chia hai khóe miệng.

Rắc… rắc. Phút chốc, cái đầu rồi đến cả thân mình nó nứt toác ra làm hai, như cây chuối bị chẻ dọc từ trên xuống dưới.

Trong cơn hoảng hốt đến tột cùng, dì nhìn vào bên trong. Phía trong… hoàn toàn trống rỗng. Chẳng có gì cả.

Một cơ thể rỗng không.

* * *

Khi người đàn ông của gia đình trở về nhà cùng với vẻ mặt vô hồn và sự lạnh lẽo tận đáy con tim, ông nhận ra trước sân nhà mình có hai bóng hình một lớn một nhỏ. Cơ mặt và cơ thể ông vẫn không biểu lộ bất cứ sắc thái cảm xúc nào, bất chấp nhận ra những dáng người quen thuộc đó. Một thì đứng như trời trồng với vẻ ưu tư rõ rệt. Một với cử chỉ hệt đang ngồi trước màn hình vi tính, tay còn đang bấm chuột, gõ bàn phím.

Chúng là Nhân Tượng.

Nhân Tượng nhỏ hơn có gì đó kỳ lạ. Ai đó đã đổ keo dán chắp vá hai nửa tách lìa nhau dọc từ trên xuống lại làm một.

Còn Nhân Tượng kế bên nữa. Nhìn vào nét biểu hiện trên gương mặt, có thể thấy sự chịu đựng đã lên đến tận cùng. Bức bối, kìm nén, nhẫn nhịn, đớn đau, cay đắng… không đủ từ ngữ để diễn tả hết dáng hình này.

Gia đình ông có ba người. Mỗi người một việc. Người nào biết người nọ. Không hỏi han. Không quan tâm. Không lo lắng. Với ông, đó cũng chỉ là một chỗ để đi về sau một ngày mệt nhọc. Nếu không về thì biết đi đâu? Tinh thần và tình cảm vốn là những thứ xa xỉ ông không đủ sức mượn vay để khoác lên. Càng mong muốn, thực tế càng phũ phàng. Khi ông hiểu ra lấy một người phụ nữ mình không hề thương yêu phải trả giá đắt thế nào thì tất cả đã quá muộn. Ông đã thành chồng thành cha, thành người đàn ông của một gia đình bên ngoài tỏ ra êm ấm. Nhưng bên trong thì rỗng tuếch. Phải rồi, rỗng không, vô vị, mục ruỗng như mối mọt gặm nhấm từng thớ tim ông đến khi hoàn toàn chẳng còn lại gì nữa.

Đâu có ai khuyên ông một câu: Bỏ quách đi! Cuộc sống như địa ngục thì bỏ quách đi, vương vấn làm gì. Không đâu. Không được đâu. Là một người đàn ông phải có trách nhiệm với gia đình và người thân, trước khi nghĩ cho mình. Thế mới là đàn ông. Thế mới là trụ cột gia đình.

Có đôi lần ông đánh liều định bụng bấm dãy số điện thoại của người ấy. Người mà giờ đây cũng đã yên phận bên chồng và các con. Người với ông ngỡ mãi là tình yêu duy nhất và tuyệt đối. Vừa cầm điện thoại lên lại lập tức thôi ngay. Càng mong muốn, thực tế càng phũ phàng. Cuộc đời không giống đằng sau màn hình vi tính, trong những Game online của thằng con trai ông, thoải mái là nhân vật ảo có quyền làm tất tần tật mọi điều mình đêm đêm hằng ước ao. Ông cũng muốn được như nó. Nhưng ông phải làm việc, phải kiếm tiền, phải nuôi sống cái gia đình này.

Đơn giản một sự vô hồn không cảm xúc, ông đứng kế bên hai dáng hình kia, ngây ra như tượng.

* * *

Họ gọi đó là phố Mười Ba Nhân Tượng. Vào một ngày đẹp trời, người ta nhận ra không thể tiếp tục gọi khu này là phố Mười Nhân Tượng nữa.

Trong sân một ngôi nhà, điều chưa từng có vừa mới xảy ra.

Đó là ngôi nhà duy nhất cùng lúc có ba Nhân Tượng.

Người qua kẻ lại, chẳng ai màng ngó ngàng. Nếu có, cũng chỉ là một cái liếc mắt chiếu lệ, rồi thôi.

Bận tâm làm gì. Nhà ai lo nhà nấy. Người nào cứ biết người nọ đi

Gió đồng se sắt (1/2)

Mười năm ăn Tết ở vùng không có mùa đông, giờ tôi về Tết quê nhà. Mẹ mừng tíu tít như thể tìm lại được vật quý vừa đánh mất. Các chị lấy chồng quanh xóm nghe tin, loáng một cái đã dẫn lô nhô, lít nhít gần chục đứa trẻ đến đứng chật cả sân.

Đỗ Tiến Thụy

Nào, đứa nào là Diễm Quỳnh, Hồng Liên, Tú Anh, Phương Trinh, đứa nào là Hồng Sơn, Việt Hoàng, Hữu Thắng... lại đây cậu cho quà nào. Gớm, các chị đặt tên con toàn là diễn viên điện ảnh với cầu thủ bóng đá thế này. Nào, lại đây! Ơ kìa, sao chúng mày cứ đứng giương dáo mắt như chão chuộc trông trăng thế? Cậu chúng mày đây cơ mà! Rốt cuộc phân phát hết một bọc kẹo to tướng mà không dụ được đứa nào chịu ngồi yên trong lòng cho cậu ôm một tý. Con cháu mất nết thật!

- Thì cậu chăm về quá mà. Quà nhiều thế chứ nhiều nữa chúng nó cũng nhìn cậu giống như ông bán quán đầu cầu thôi.

- Mẹ đúng là... Tại con bận công tác chứ đâu phải...

- Nhàm tai lắm rồi. Anh sợ cái làng này như sợ hủi. Giá tôi có chết anh cũng chẳng biết đấy là đâu.

- Mẹ thì... Mẹ cứ yên tâm, bao giờ ổn định con sẽ “cẩu” mẹ ra khỏi cái “làng Vũ Đại” này.

- Anh ở đâu mặc xác anh. Tôi đẻ ở đây, tôi chết ở đây.

Khổ quá đi mất. Gặp nhau mà mẹ con cứ nhấm nhẳng thế này, mất cả vui. May nhờ các chị mỗi người một câu xuê xoa đấu dịu mới tạm qua. ấy thế nhưng khi chỉ còn hai mẹ con thì lại có chuyện.

- Tôi điện cho anh về là để...

Mẹ chưa nói hết câu tôi đã nảy lên:

- Con nói với mẹ bao nhiêu lần rồi. Con không lấy vợ quê đâu.

Mẹ vẫn thủng thẳng:

- Tôi đẻ ra anh tôi lại chẳng biết à. “Bao giờ rau diếp làm đình...” Tôi chẳng thèm ép. Tôi điện anh về vì chuyện khác... Con Én nó về!

À... Én. Hằn sâu ký ức tôi là hình ảnh một con bé láng giềng gầy đét, tóc xơ tướp lông gà, cái áo gụ bị thằng em hai tuổi mũi dãi tèm lem trên lưng gặm rách lòi cả hai cục xương vai thô lố. Bốn con mắt chăm chắm vào bát cơm khoai vàng ệch như đất thó trên tay cậu học trò háu đói. “ơ cái con này, nhìn gì?” Cậu học trò xoay lưng lại. Miếng cơm đầu tiên chưa kịp nhai đã lại thấy bốn con mắt xoáy vào mồm mình. Chờ đợi. Thèm thuồng. Khó ăn quá. Len lén như loài mèo ăn giấu, cậu tha bát cơm vào xó cửa úp mặt nhai phồng phạo. Hết nửa bát cơm, cái bụng không còn ùng ục réo, cậu mới từ từ quay đầu lại. Sững sờ và nổi cáu: “Sao mày cứ ngõm ngọ ông ăn?”. Hai con mắt đen tròn rấn nước. Cái miệng nhỏ méo xẹo run run. Toàn thân con bé rung tít mà vẫn không tắt được tiếng “măm măm” đang giục giã trên lưng. Tự dưng cậu học trò thấy cái bụng ngang phè. “Cho mày”. Một ân huệ quá lớn làm cho con bé tròn mắt không dám tin, giật lùi một bước: “Cậu ăn đi... em...”. “Không. Tao no rồi”. Bàn tay khô khẳng gân xanh chìa ra đón nhận ngập ngừng: “Em xin”. Nhưng nó không ăn. Thằng em nuốt chửng hết nửa bát cơm rồi toét miệng cười nhệch nhạc. “Xoè!”. Tiếng đánh diêm làm cậu học trò giật mình ngước lên - ông nội ngồi trên sập gụ, sau lưng là những chồng sách chữ nho cao ngất, bên cạnh tủ thuốc bắc nhiều ngăn đen bóng màu sừng. Ông giữ khư khư se điếu nhìn cậu gật gật đầu nhè nhẹ, chòm râu bạc rung rung. Que diêm cháy sát tay ông mới giật mình xoè que khác...

- Con bé về một mình hở mẹ?

- Rõ thật... Anh đi bao năm rồi mà hỏi thế? Bé với bỏng gì nữa. Nó lớn tướng rồi, xinh xinh là. Nghe nói làm cô giáo. Nó về với chú Tình.

- Thế thím Tình không về hở mẹ?

Không ngờ câu hỏi của tôi khiến mẹ chùng giọng xuống:

- Thím không về nữa... Sao đời thím lại khổ thế thím ơi!

Mẹ kéo khăn chấm mắt, ngồi lặng nhìn qua bờ rào râm bụt. Bên đó có cả một thời quá khứ buồn đau...

Đêm ngày nhập nhoạng. Bờ ruộng thân cau. Người đàn bà nước mắt nước mũi ròng ròng trong gió mùa đông bấc tái tê, xiêu vẹo cùng chồng gánh cá đi bón ruộng. “Mình về trước nấu cơm cho con ăn!”. Người đàn ông khẽ khàng bảo vợ rồi cắn răng làm tiếp. Ì ọp đến nửa đêm vẫn chưa vùi hết cá xuống dõng cày. Sáu mươi gánh oằn vai chứ có ít đâu. Cái rốn hồ đặc ngẫn cá kia mà. Chỉ có ông bộ đội đặc công vẫy vùng sông nước một thời mới dám mạnh tay nhận thầu cái hồ hoang nằm giữa đồng với giá hai tấn cá một năm. Một năm, dân trong vùng tấm tắc khen cựu chiến binh giỏi, chỉ có ông mới nghĩ ra cách tháo cạn hồ cấy lúa, chỉ chừa cái rốn hồ để thả cá con. Lúa lên. Cá lớn, ông hãm nước từ từ. Một năm, ánh đèn măng-xông sáng choá loá giữa đồng, bao nhiêu cào cào, châu chấu, bướm rầy bướm nâu bắt đèn lao đến rã cánh rơi lả tả xuống hồ như vãi trấu. Tiếng cá đớp mồi tăm tắp, rồi bằm bặp, ủm oẳm... Mặt hồ cồn lên như một chảo mật mía khổng lồ sôi. Những câu chuyện một thời đánh tàu chiến Mỹ của chú bộ đội đặc công kể trong cái chòi chon von giữa hồ nước mênh mang và rập rờn sóng lúa dưới ngần ngận trăng quê đã mê hoặc cậu học trò ham hiểu biết. Một năm, lũ trộm cá trong vùng lắc đầu lè lưỡi. Vậy mà, ông cựu chiến binh đứng ngập bụng giữa lềnh bềnh cá chết, hai tay lẩy bẩy hai vỏ chai nồng nặc thuốc sâu. Mắt ông đỏ vằn, nghiến bành quai hàm, vết thương ở ngực tấy đỏ, căng cứng tưởng chừng bật miệng. Thuốc trong những lá đơn tố cáo xã bán cho xã viên phun lúa là thuốc giả, còn thuốc sâu ném xuống cái hồ vừa tháo cạn mới là thuốc thật.

Vùi hết chỗ cá, ông bã bượi trở về. Chưa kịp rã rời ông đã phải dựng chồm lên. Nồi cháo cá tanh lạnh giữa nhà. Cụ Đồ và cậu học trò hàng xóm đang cuống cuồng bên cạnh người đàn bà gập mình oằn oại, mắt trợn trừng, miệng sùi bọt trắng. Con cá chòi to như bắp tay vẫn còn ngớp miệng, bà giấu chồng mang về rửa sạch. Con Én ghì dịt em trong lòng nhìn cha mếu máo: “Mẹ không cho chúng con ăn... Để mẹ ăn trước...”.

Người đàn bà nằm im. Cụ Đồ bải hoải ôm tráp thuốc đứng lên nghiêm mặt dặn mọi người: “Chớ để lộ ra ngoài, nhục lắm!”.

Làng Bùi ồn ĩ tin đồn nhà Tình mất của đâm ra ngơ ngẩn, ngày nào cũng ra đồng ngửa mặt lên trời kêu “cá cá”. Xóm giềng nườm nượp tới thăm mang theo những bìa đậu phụ, những quả trứng gà kèm lời an ủi “hại nhân nhân hại”. Một đêm, cậu học trò đi giải thấy có một người khách đến thăm nhà chú Tình. Vòng vo mãi ông ta mới nhỏ to: “Anh nên một vừa hai phải. Chúng tôi đang có ý định đưa anh vào Hội đồng nhân dân và xét miễn giảm giá thầu hồ cá...”. Chú Tình đứng phắt dậy nói to: “Tôi không cần. Đến mùa tôi sẽ trả bằng lúa!”. Vị khách lủi thủi ra về, ngang qua chỗ cậu học trò đứng đái còn quay lại rít khẽ: “Được rồi, xem mày làm gì được ông”.

Mưa tháng tư. Ao hồ uôm oam tiếng chão chuộc, ộp oà tiếng ếch giao tình. Bờ thửa bờ vùng cua bò lổm ngổm, sùi bọt trắng nhả hàng triệu triệu con cua nhỏ li ti xuống ruộng. Lúa chiêm uống nước no nê bung đòng trắng xoá, hương nhả ngát đồng. Một đêm, làng Bùi đang ngủ ngon trong thanh bình bỗng bật thức bởi tiếng tù và thổi rúc. Sân đình náo loạn bởi tua tủa gậy gộc, dáo mác, đuốc cháy phừng phừng thịnh nộ. Hai kẻ lạ mặt bị tuần nông trói giật cánh khuỷu khiếp đảm giữa trùng trùng tiếng hét. Vòng vây giãn ra. Tiếng la ó lặng im khi cụ Đồ ra tới cất giọng vang vang như sấm: “Thứ nhất là tội phá đồng. Thứ nhì là tội cắm chông giữa đường! Cứ theo lệ xưa thì phải cắt gân gót!”. Tiếng hú hét lại rộ lên. Bắp tay trai làng huơ dao cuồn cuộn. Nhà Tình đâu? Nó phá ruộng nhà ông đấy. Ai đời lúa đang ngậm màu, hai thằng hai sào gạt bấy hết rồi. Giết chết mẹ quân ác nhân thất đức kia đi! Chú Tình đón con dao nhọn từ từ tiến tới. Phen này hai kẻ kia phải cù lìa bất toại. Con dao nhọn dí vào cái bụng còm nhom đang hi hóp thở cùng tiếng gầm: “Ai thuê chúng mày?”. Tiếng khóc rống lên như bò chọc tiết. “Khai hay là chê...ê...ết!”. “Ối giời ôi! Con có biết ai đâu mà khai... Đang thua bạc, có người dẫn lên ruộng bảo làm xong sẽ trả tiền... hu... hu”. “Quân chó má!”. Ánh dao hoa lên cùng tiếng rú rùng rợn của thím Tình: “Đừng làm điều thất đức anh ơi!”. Phựt! Phựt! Hai kẻ lạ mặt đổ ụp xuống như thân chuối bị dao lia ngang gốc. Thím Tình nhào tới ôm lấy hai cái xác không hồn mà lắc lay. Nhưng thím nhầm. Hai nhát dao chỉ cắt đứt hai sợi dây trói. Hai kẻ lạ mặt he hé mắt lấm lét nhìn lên. “Cu...u...út!”. Mũi dao chỉ ra đường. Hai kẻ lạ mặt vùng dậy lạy như tế sao rồi ù té chạy. Con dao quật mạnh xuống sân đình toé lửa. Chú Tình lảo đảo ra về bỏ lại sau lưng những lời bàn tán lao xao: “Sao không giao cho công an xã?”...

- Gì mà ngồi thừ thế con? Mẹ từ dưới bếp đi lên, mặt hồng màu lửa - Nước mẹ đun rồi đấy. Xuống tắm đi. Tí nữa thế nào con Én cũng sang. Từ hôm về nó nhắc mày suốt. Con bé nhớ đến tài. Miệng lúc nào cũng “ngày xưa cậu Thưởng thế này, ngày xưa cậu Thưởng thế kia...”.

Ngày xưa... Vâng, ngày gọi là xưa ấy mới hai chục năm chứ mấy. Vậy mà mỗi khi nhớ lại tôi lại thấy hãi hùng. Mùa mất liên miên. Suất cơm trưa của cậu học trò lớp sáu cũng bị cắt. Con Én không còn cõng em sang vào giờ đó nữa. Bi kịch xảy ra lại chính từ việc ấy. Một buổi chiều, chú Tình vừa quẳng phịch gánh củi xuống sân đã thấy cô Chung láng giềng bên kia tru tréo: “Ông Tình ơi là ông Tình, ông đẻ con ra ông phải biết dạy nhá. Ngày nào tôi cũng nẹn chặt một bát cơm, giấu vào trong chăn để phần thằng Tũn. Thế mà ngày nào cũng mất một nửa. Hôm nay tôi rình bắt được tận tay con Én ăn vụng nhá. Nghèo cho sạch, rách cho thơm nhá. Kiện cáo cho lắm vào để con ăn vụng nhá. Rõ dơ!”. Mệt mỏi. Nhục nhã. Trong cơn cuồng quẫn, người bố rút soạt cây củi vung lên, quạt ngang, xả dọc trong tiếng thét xé trời của người mẹ: “Cô Chung ơi, cô giết con tôi rồi!”. Khi hàng xóm xé rào sang kịp thì con Én đã tơ tướp như một mớ giẻ máu. Nằm thiêm thiếp trong tay Cụ Đồ nó khẽ rên: “Con không ăn... Tại em Đồng... đói... quá”.

Đêm ấy, gà gáy canh ba Cụ Đồ vẫn ngồi lặng phắc như pho tượng. Nước mắt thầm thĩ chảy qua râu rồi giọt giọt xuống chõng tre thon thót. Gần sáng thì Cụ Đồ lấy mực ra mài. Tiếng thỏi mực xoáy xìn xịt vào đêm đen kịt. Rồi cụ chấm bút. Ngọn bút lông ngần ngừ, nâng lên lại hạ xuống trầm ngâm trong nghiên, mãi sau Cụ Đồ mới bất ngờ phóng bút. Một chữ nho to tướng gục đầu bi phẫn trên nền tường trắng lạnh. Rồi chẳng hiểu sao cụ vung tay hắt cả nghiên mực đè lên chữ vừa mới viết. Những dòng mực chảy ngoằn ngoèo như những giọt nước mắt đen.

Sáng sau Cụ Đồ gọi người bán bức hoành phi gia bảo. Gã lái buôn hấp háy mắt cười: “Sao cụ không để dùng?”. Cụ Đồ thẫn thờ: “Cả làng cả nước đói, ta cầu phúc cầu lộc là tham. Trẻ con sinh ra chưa biết sống chết ra sao, ta còn lòng nào mà cầu thọ”. Số tiền bán được, Cụ Đồ cho hết thím Tình. Cụ lại sai các cháu mỗi bữa nấu cơm đong gạo vào nồi thì bóc ra một nắm, bỏ vào hũ như hồi “hũ gạo nuôi quân”. Cả làng Bùi làm theo, và chính cô Chung lại là người hăng hái nhất. Từ hôm con Én bị đánh, cô Chung ra đường gặp ai cũng len lén cúi đầu...

- Thôi, nghĩ ngợi làm gì, con. Đi tắm cho sạch sẽ rồi lau rửa bàn thờ cho mẹ!

Nghe lời, tôi miễn cưỡng đi tắm, cố gạt đi hồi ức đau buồn. Thế nhưng khi đối diện với hai bức ảnh trên bàn thờ thì tôi lại thừ người. Ảnh cha tôi quân hàm quân hiệu sáng ngời, nụ cười rạng rỡ, chắc hẳn lúc cắp súng lao vào bời bời lửa đạn cha tôi không thể nghĩ quê hương mình lại có thể xảy ra những điều khốn nạn. Ảnh ông nội tôi, Cụ Đồ áo the khăn xếp sống qua mấy thời kỳ, gặp thời Nho học suy vi, chuyển sang bốc thuốc cứu người, vậy mà cuối cùng lại ra đi tức tưởi...

Oăng oẳng trong đầu tôi là tiếng loa thúc thuế. Danh sách đứng đầu là nhà chú Tình. Hai tấn cá quy bằng mười tấn lúa, cộng thuế sản lượng là mười hai. Một ngày hè oi ả, đường làng nồng ải mùi rơm rạ, phân trâu, đội 203 ầm ầm kéo đến nhà chú Tình. Chú đi củi vắng, chỉ có thím Tình người xanh bủng đang ngồi đập rơm giữa sân, thỉnh thoảng lại ngửa cổ lên trời cười ngơ ngẩn “cá cá, lúa lúa”. Đội 203 xục xạo khắp nhà, dùng thuốn chọc vào cả các đống rơm đống rạ mà chẳng tìm thấy gì. Tài sản duy nhất chỉ có con lợn còm đang nhai trấu nhóp nhép trong chuồng. “Bắt lợn!”, sau cái khoát tay của đích thân ông Chủ tịch xã, một người nhảy vào xách tai con lợn quẳng ra định giá. “Hai mươi cân. Ký vào!”. Thím Tình cầm bút nắn nót viết một chữ “Nga” tròn như hạt gạo rồi lại ngửa mặt lên trời cười: “cá cá, lúa lúa, lợn lợn”. Chẳng hiểu có phải vì câu nói lảm nhảm từ miệng thím Tình hay không mà cậu học trò hàng xóm bỗng đánh liều lần tay giở nút sợi dây chun chằng ngang bụng con lợn đang thở è è trên gác-ba-ga xe đạp. Mọi người không ai nhìn thấy, duy có đôi mắt của Én, cái nhìn rất lạ, óng ánh như hai viên bi thuỷ tinh bắt nắng. Hành động của cậu đã gây nên một cuộc rượt đuổi náo loạn. Tiếng lợn kêu, tiếng hò hét, tiếng khóc dậy trời. Cụ Đồ không thể ngồi yên đọc sách, vén rào bước qua: "Các anh làm cái trò gì mà như cường hào ác bá ngày xưa thế?". Ông Chủ tịch sững người: "Loa mãi rồi, không chấp hành thì phải cưỡng chế. Cụ Đồ cười nhạt: "Anh như con vẹt nhại tiếng người rồi cậy thế làm càn. Thế anh có biết câu "Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên" không? Không à? Cục súc như anh làm sao biết được. Chả trách...". Cụ Đồ chắp tay sau đít thong thả ra về, bỏ ông Chủ tịch với cái mặt tía như cà trâu đực, bọt mép sùi trắng ởn, rít lên: "Thằng già, rồi biết tay ông"

Hễ cứ chợp mắt là thấy máu khiến cô la hét vùng dậy khóc nức lên: "Tại tôi trót làm điều ác nên Trời Phật phạt". Cô sang năn nỉ Cụ Đồ làm lễ cúng giải hạn. Cụ Đồ suy nghĩ rất lung rồi bảo: "Nhà Chung tự kỷ ám thị. Ta phải chiều, may ra...". Lễ giải hạn được bày, Cụ Đồ chưa đọc hết bài văn tế thì dân quân xã ập vào, giải đi. Đêm mưa phùn gió bấc căm căm, ông Chủ tịch bắt Cụ Đồ ngồi giữa sân, nắm râu cụ, cười sằng sặc: "Cúng xem có đổ được trụ sở hay không!". Gần sáng thì Cụ Đồ đổ. Dân quân khiêng cụ về trả cho gia đình. Gần một tháng trời Cụ Đồ chỉ nằm trân trân nhìn trần nhà, trước lúc chết chỉ nấc lên một tiếng, mắt vẫn mở trừng trừng. Đám ma Cụ Đồ to nhất làng Bùi. Chú Tình khóc không thành tiếng; truớc mộ, chú cắn môi hứa trong nước mắt sẽ đưa những kẻ giết người ra trước vành móng ngựa...

- Sao con khóc thế? Trời ơi, con tôi mệt mỏi quá đây mà... Thôi, để đấy mẹ làm. Ốm thì chết!

Tôi bơ thờ để mẹ dìu đến giường, đắp chăn kín mít. Thời quá vãng đau buồn vẫn không buông tha tôi...

Nhan nhãn trên các bức tường kho, đền chùa, miếu mạo và oang oang trên loa phóng thanh là câu vè của ông Chủ tịch:

"Quê ta đất chật người đông

Ai đi Sông Bé, Lâm Đồng thì đi."

Ai muốn đi? Không, không ai muốn bỏ quê hương bản quán, mồ mả ông bà mà đi cả. Xã phải điểm đầu. Chú Tình là số một. Lý do không chối cãi vào đâu được: Nợ đọng quá nhiều. Xã sẽ xoá nợ cho những người ra đi. Nhưng cái chính chú Tình là đảng viên phải gương mẫu chấp hành chủ trương. Con cá kình một thời vùng vẫy sóng nước Tiên Sa, đánh chìm bao tàu giặc, giờ lại không thoát khỏi những mắt lưới bủa vây ở chính quê mình. "Không, đất quê ta không chật, người quê ta chưa đông, chỉ có bụng dạ của một số kẻ vô lương chật hẹp!" - Chú Tình gào lên trong buổi tiễn đưa. Con Én ôm em khóc như ri, chới với gọi qua thành xe: "Cậu Thưởng ơi... Mai em lại về với cậu!...". Chỉ có thím Tình dường như vô cảm, vẫn ngửa cổ lên trời: "Cá cá...".

Tôi sốt. Sốt thật rồi. Người hâm hấp nóng. Đầu ong ong váng vất. Trong cơn mê sảng chập chờn tôi nghe loáng thoáng có tiếng mẹ tôi, tiếng chị tôi và những đứa trẻ. Tôi thấy tôi đang lang thang dọc bờ biển xanh cát cháy tìm mộ cha tôi. Cha tôi đâu không thấy? Tôi thấy mình lặn lội trên những nẻo đường cao nguyên đầy bụi đỏ, nắng lửa, gió Lào tìm những người thân quen nhưng vô vọng. Đúng lúc tôi cảm thấy rã rời trong cuộc kiếm tìm kỷ niệm, kiếm tìm tình yêu cho chính mình thì vẳng bên tai tôi có tiếng nói quen quen và mắt mờ nhoè hình ảnh. Chú Tình đây. Vẫn khuôn mặt chữ điền và đôi mắt sáng, nheo nheo nhìn tôi cười:

- Thế nào, yếu lính thế?

Én đây ư? Tôi không nhận ra em nếu không nhờ đôi mắt trong veo đã đóng ấn vào ký ức tôi. Khuôn mặt em không còn nét võ vàng thời đói kém, mà đẹp, đẹp thuần hậu gái quê nhưng rạng ngời tri thức. Mười mấy năm bươn chải trong dòng đời tấp nập, tôi đã qua mấy cuộc tình. Môi hồng Líp-ai, môi đen Hàn Quốc... đủ cả. Vậy mà nhạt. Mục tiêu kiếm tìm tưởng chỉ là ảo ảnh, giờ hiển hiện trước mắt tôi.

- Cậu... Em...

Bàn tay ấm mềm đặt lên trán tôi. Tôi muốn vùng dậy hét lên một tiếng nhưng đầu nặng chìm chìm, không ngóc lên được, đành nằm im mấp máy môi:

Một vốc thuốc đắng ngét vỗ vào cái miệng khô khốc. Tôi rơi vào cảm giác li bì, mộng mị. Lõm bõm bên tai là những lời đối thoại giữa mẹ, Én và chú Tình...

- Thím Tình làm sao mà?...

iếng nấc bật ra tức thì từ miệng Én:

- Thảm lắm bà ơi!... Vào Tây Nguyên, bệnh mẹ con đỡ dần, rồi khỏi hẳn. Ai ngờ... Hôm ấy có một đoàn khách đến tham quan trang trại nhà con. Bố con vừa giới thiệu xong, mẹ con lên cơn ngay tức khắc.

Chập chờn. Nức nở. Giọng Én, giọng chú Tình... một chuỗi miên man...

Người đàn bà tóc tai rũ rượi, lúc bò, lúc lết như con thằn lằn len lỏi qua gai góc bám sát theo đoàn người lạ mặt. Những cái chức sợ lắm! Những cái chức ghê lắm! Họ làm gì thế kia? Họ xăm xoi từng gốc cà phê. Họ lội cả vào ruộng lúa. Không! Không! Không được phá! Công lao mười mấy năm trời, mồ hôi nước mắt của nhà tôi! Mười mấy hộ vào đây sốt rét, đói ăn đã bỏ về hết, chỉ còn nhà tôi khiêng đá, phát cây, đào ao bám trụ. Mình ơi, đừng cho họ xem. Họ đến để phá đấy. Đừng, đừng cho họ ra chuồng lợn!... Đừng, đừng cho họ ra hồ cá! Trời ơi! Biết ngay mà. Chết rồi mình ơi!... Cái hồ lềnh bềnh cá chết. Nồi cháo cá tanh rợn thuốc sâu. Khu ruộng lúa trắng lốp phất phơ không uốn câu. Con lợn nhép bị dồn đuổi đến cùng... Trốn đi! Trốn đi! Họ đến đấy! Biết ngay mà! Trời ơi! Nhà tôi có làm hại ai đâu mà các người đang tâm ném thuốc sâu xuống hồ nhà tôi? Cứu! Cứu! Cứu! Ô, ai bịt mồm tôi thế này? Cái chai bập bềnh. Bập bềnh giữa ao. Bơi. Nhà tôi còn nợ bà con làng Bùi tám trăm năm mươi bát gạo. Bơi. Nhà tôi còn nợ làng Bùi mấy chục rổ khoai. Én ơi! Đồng ơi! Mình ơi! Còn sống trên đời phải nhớ cái ơn. Cố lên! Mấy sải nữa thôi. Hụp. Lặn. Chới với. Rướn tới. Được rồi! Chìm. Chìm. Chìm... Đàn cá táo tác, lượn vòng. Những mắt cá tròn xoe...

Mình ơi. Mình đâu rồi? Sao bỏ nhà cửa vắng tanh thế này? Đã dặn làm cơm đãi khách rồi mà? Nháo nhào. Cuống cuồng. Vườn cây vắng ngắt, u i tiếng ong. Mặt hồ sủi tăm. Ùm! Một hơi. Hai hơi. Giời ơi! Các ông giết vợ tôi rồi! Ai, ai ném cái vỏ chai nước khoáng xuống hồ? A.a.a.a.i? Choét, choét, choét! Đàn chim giật mình kinh hãi trên ngọn cây muồng. Người đàn ông đặt vợ xuống vạt cỏ cạnh hồ, rũ người như tàu lá héo. Lẩy bẩy vuốt mắt. Đôi mắt trợn trừng, u ám. Đừng nhìn đời như thế mình ơi!...

Trời ơi, mẹ! Mẹ làm sao thế này? Bóng áo dài trắng nhào vào. Gào thét. Ngất lịm... Tĩnh tâm, nhìn. Thi thể đẫm đụa nước, tay còn bóp chặt vỏ chai nước khoáng, mắt mở tròn kinh hãi nhìn đoàn người lạ mặt vây quanh ngơ ngáo... Cô gái chợt hiểu, reo to: Mẹ, mẹ ơi, mẹ tỉnh lại đi! Vườn nhà mình vẫn nguyên. Hồ nhà mình vẫn nguyên. Không ai phá cả. Họ chỉ vô tình mà, mẹ ơi! Lời diệu kỳ. Đôi mắt người đàn bà ánh lên tia nhìn ấm áp rồi từ từ khép ngủ, miệng phảng phất nét cười...

Thôi, thím đã chả may, chú cũng nên tĩnh lại. Đau buồn thím cũng chẳng sống lại được... Vâng, nhà em mất, em đau một. Nhưng chỉ vì vài thằng chó má mà nhà em nhìn đời như thế, em đau mười... Thôi mà, chú. Cái thời ấy đã qua rồi...

Tôi thấy cơ thể mình nhẹ dần, nhẹ dần rồi bay bổng trên cánh đồng tuổi thơ. Cậu học trò ngật ngưỡng trên lưng trâu đọc sách, nhưng hễ con trâu mộng no tròn như sim chín dạng chân, cong đuôi là vội tụt xuống, vơ một cọng rạ cắm ngay vào đóng phân nóng hổi xí phần cho Én. Con bé láng giềng dụt đầu dụt cổ gánh đôi quang dài lê thê trên bờ mạ xanh. Cái áo gụ rách vai bị gió thổi phất phơ, phất phơ...

Chị ạ, lần này bố con em về, trước là thăm xóm làng, sau là để trả cái ơn ngày xưa... Thôi mà, lúc hoạn nạn có nhau, chẳng ai nhớ đâu. Không, bà con không nhớ nhưng nhà em phải nhớ. Tám trăm năm mươi bát gạo. Mấy chục rổ khoai... Đã bảo không ai nhớ đâu mà. Bây giờ chú có trả cũng chẳng ai nhận. Vâng, em biết thế nên mua biếu mỗi người một túi tám thơm ăn Tết, chứ tình nghĩa thì trả bao giờ cho hết... Thế còn nợ xã, chú tính thế nào? Em đã mang trả nhưng uỷ ban không nhận. Em đã xin đưa hết vào quỹ đền ơn đáp nghĩa. Chú làm thế là phải. Vâng, Cụ Đồ ngày xưa vẫn nói “Làm ơn không nên nhớ, nợ ơn chớ nên quên.”...

***

Mùi cơm thơm lựng xộc vào mũi tôi.

- Cậu Xưởng mở mắt, bà ơi! - Giọng thằng cháu đích tôn ngọng nghịu. Nhà lại ríu rít tiếng cười.

- Gớm, cậu sốt xình xịch cả ngày cả đêm, làm chị lo lo là. Để chị hái lá đun nước cậu xông.

- Cậu Xưởng còm, bà nhể.

- Ờ, cậu mày mười mấy năm cơm thiên hạ...

Mâm cơm tất niên ú hụ mỡ màng. Tôi ngảnh ngót. Mẹ xót xa:

- Cậu mày mới sốt dậy, đắng miệng...

Chị Cả đon đả:

- Cậu thích ăn gì chị mua? À, nhớ rồi, ngày xưa cậu thích nhất món chân giò chấm muối.

Chị Hai đay lại:

- Không, cậu Thưởng thích nhất món cá chòi luộc. Nhà chị mới tát ao, có con cá hơn cân, để tối chị mang sang. Hay là... cậu thích ăn còng gà? Ngày xưa mỗi độ giỗ cha, thịt một con gà, có hai cái còng ba chị em tranh nhau khóc mấy ngày là gì...

Chuyện. Thời đói kém cái gì chả thèm. Ơ hay, thế anh thích cái gì? Tôi nói cái thích của mình ra, mẹ cười chảy nước mắt nước mũi. Cơ khổ, thèm gì không thèm lại đi thèm cái thứ lăn lóc đầy gầm bàn xó bếp, cho ăn mày còn chê nặng. Mẹ nói làm sao ấy chứ, bây giờ ở các bữa tiệc món khoai tây nấu cà-ry là nhất đấy. Ơ thế à. Vậy mà ngày xưa tôi nịnh mãi "ăn cơm béo dài, ăn khoai béo tròn" anh còn hấm hứ. Anh tuyên bố học thật giỏi để khỏi ăn khoai kia mà? Thì, mẹ tính, khoai, khoai, khoai, lúc nào cũng khoai. Cơm khoai. Canh khoai. Bánh khoai. Ròng rã mấy tháng trời, ai chẳng sợ. Ờ ờ, nhờ vậy mà qua được kỳ giáp hạt đấy...

Mùng 4 Tết mẹ con đã quang gánh ra đồng. Thích ăn nên kỳ nèo chứ đang kỳ khoai xuống củ, theo lịch phải qua tết Thượng Nguyên mới dỡ. Gió đồng đặc ngọt như có thể sắn ra thành từng vẩng. Cánh đồng mới cấy, hôm tôi về còn tía hơ tía hất, phải đưa nước vào dầm cho khỏi quắt rễ, vậy mà xuân hừng có mấy ngày đã lúp búp xanh. Mẹ đi trước bỏm bẻm nhai trầu. Tôi đi sau vung vẩy tay chân, ngửa mặt hít căng mùi lúa thơm non mâng mấng, ước ao: "Lạnh thêm chút nữa thì thích". Mẹ mắng yêu: "Giày da áo dạ thế kia, lạnh nó chui vào đâu được".

Cứ tưởng gò khoai chỉ có hai mẹ con, ngờ đâu Én đã đợi sẵn rồi. Ngày xưa, những mùa dỡ khoai, Én nhỏ thó như cái kẹo, mang cái giỏ to tổ bố, cái cuốc cao hơn đầu người đi mót khoai. Còn tôi, những ngày đó thực sự là ngày hội. Tôi được thoả thuê chạy nhảy để bắt chuột đồng. Sau vụ mùa, những con chuột thoát khỏi sự truy đuổi của lũ trẻ chăn trâu thường chạy lên ruộng khoai tị nạn. Khoai đầy ra đấy, chuột chỉ cần cào nhẹ sườn luống là có thể ung dung, trễ nải gặm vài nhát kiểu con nhà giàu chán thịt, rồi bỏ mặc củ khoai hở nắng xanh lét màu chàm. Thế nên mới ví "béo nuỗn nuột như chuột ruộng khoai.". Sướng quá hoá nhờn. Những con chuột cứ nhởn nhơ, thí tha thí thó trước cửa hang nông choẹt đã kích thích tính trừng phạt của tôi. Khi tôi mải mê trò săn đuổi thì Én lẽo đẽo bám sau mẹ tôi xấp xoải bổ cuốc tìm khoai sót. Không hiểu sao mẹ hay để sót, mà lại toàn khoai “gộc” mới lạ. Những củ khoai to như vốc tay bị lưỡi cuốc của Én xả làm đôi ứ nhựa, lem nhem đất cát. Mẹ xuýt xoa nhìn những củ khoai bị sát như bị lưỡi cuốc bập vào ngón chân mình. Thế rồi mẹ bảo Én: "Thôi, cháu đừng xới nữa, mất công. Đưa giỏ đây". Mẹ trút đầy giỏ khoai cho Én rồi bảo: "Mang về luộc cho em ăn mau, kẻo nó khóc hết hơi!". Én lí nhí "Cháu xin" rồi lệch người tha cái giỏ ra về. Tôi đứng nhìn theo cái dáng con cón, lun cun trên đồng, bỗng chán trò bắt chuột. Tôi vớ cuốc mót sau lưng mẹ. Cuốc cuốc, xới xới mỏi nhừ cả cánh tay mà tuyệt nhiên không tìm được củ khoai nào, dù là những củ khoai "bi"...

- Ngày đó cháu đâu biết bà cố tình bỏ khoai sót cho cháu - Én nói trong lúc thoăn thoắt cắt dây khoai. Mẹ cười cười, ngượng nghịu.

- Khi lớn lên cháu cứ nghĩ mãi. Quê mình khốn khó thật nhưng cũng tình nghĩa thật. Giá đừng có những kẻ khốn nạn kia thì...

- Ôi dào, những đứa sống bẩn đến chó cũng chê thời nào chả có, ở đâu chẳng có. Nhưng nhân nào quả nấy. Như lão Truy đấy. Từ ngày đi tù về giống nửa người nửa ngợm, gặp ai cũng cum cúp như chó cụp đuôi. Trời Phật có mắt cả.

- Mẹ thì lúc nào cũng trông vào Trời với Phật. Trời Phật mà có mắt thì đâu đến nỗi ông con chết oan chết ức, thím Tình phải sống khổ sống nhục rồi chết tức chết tưởi - Tôi bỗng nổi cáu. Chẳng ngờ mẹ tôi không mắng lại tôi mà lại thẫn thờ cam chịu:

- Chứ tôi còn biết trông vào ai bây giờ? Trông vào con học hành tử tế, có chút chữ nghĩa thì lại bỏ làng đi. Tôi tưởng anh bằng nọ bằng kia thì thấu hiểu lẽ đời, ai dè câu “con sâu bỏ rầu nồi canh” anh cũng chưa tường.

Tôi nín bặt trước lời trách cứ. Trước mẹ, tôi vẫn chỉ là cậu học trò lớn xác. Cúi mặt xuống luống khoai, tôi miên man bới tìm kỷ niệm. Mười đầu ngón tay bật máu, xon xót đất đồng. Giật mình nghe tiếng cuốc xới lại sau lưng. Tiếng mẹ bùi ngùi trong gió đồng se sắt: Sao bỏ sót nhiều thế, con ơi?

Hành lang phòng VIP

Chủ nhật, 11/11/2012, 01:15 (GMT+7)

- Tôi hiểu. Nhưng tôi đang rất bận. Mấy nay phải đi thực tế các huyện liên tục. Có gì hẹn cậu đầu tuần sau. Thế nhé!

Hắn chưa kịp phân trần mình cần gặp ông gấp trong sáng nay, bất kể ông ở đâu hắn sẽ lao xe đến tận nơi thì đầu dây bên kia chỉ còn nghe vọng lại những tiếng cụng ly đôm đốp rồi tiếng ông X. cúp máy nghe tít tít. Chán nản, chưa kịp nhét điện thoại vào túi quần thì nó đã lại rung lên. Là sếp gọi. Hắn cố tỏ ra bình thản:

- Dạ em nghe anh.

- Có lấy được ý kiến ông X. chưa? Bài như thế cơ bản hoàn chỉnh, chỉ cần thêm ý kiến… Làm gấp nha! - Sếp hắn chỉ đạo.

- Dạ. Em đang cố liên lạc. Ổng mới từ chối, nói bận suốt tuần này.

- Cứ liên lạc lại. Cuối buổi sáng phải hoàn thành. Thư ký tòa soạn chờ bài đến hai giờ chiều thôi đó!

- Dạ.

Hắn, một phóng viên thử việc tại tờ báo tỉnh, không nhớ đã rơi vào cảnh một bên ngọt ngào từ chối, bên còn lại thì lạnh tanh hối thúc như thế bao nhiêu lần. Không còn thời gian, hắn cầu cứu một anh phóng viên đài truyền hình tỉnh. Không hổ danh “thổ địa”, lời chỉ dẫn của anh luôn giúp hắn tìm được bất cứ một lãnh đạo nào, vào bất kể giờ giấc nào hắn cần. Có lúc anh nói đùa mà rất thật, rằng lịch ăn nhậu của quan chức thuộc nằm lòng hơn ngày sinh tháng đẻ của vợ con mình.

Lần này, lời chỉ giáo của anh cũng giúp hắn lao xe đến đúng nơi ông X. đang lọt giữa vòng vây của những tiếng cụng ly với ngập tràn lời chúc tụng từ các thuộc cấp. Dù lúc đó mới chỉ hơn 10 giờ sáng.

- Sếp X. ở phòng VIP số 1, tay nhân viên của nhà hàng có cái tên rất oách “Đặc sản rừng biển”, trả lời hắn.

Hai chữ “sếp X.” được tay nhân viên phát âm mới êm tai, đầy vẻ trân trọng làm sao. Hắn hơi “sến sồ” lắc đầu cùng ý nghĩ: “Khốn thay, sếp X. có lẽ chỉ là kẻ xa lạ với đa số dân đen nghèo khó ngụ ở những vùng sâu xa. Còn với nhân viên các nhà hàng, khách sạn hạng sang bậc nhất tụ tập ở trung tâm cái tỉnh này, sếp X. hiển nhiên là cái tên vị sếp sộp luôn cần phải chào đón tưng bừng dù đã quá nhẵn mặt!”.

Để khỏi trơ trẽn xuất hiện giữa phòng ăn nhậu đang náo nhiệt, ngập ngụa những lời tâng bốc lẫn nhau, hắn móc điện thoại gọi:

- Thưa anh X., giờ em đang ở ngoài hành lang phòng VIP số 1. Anh giúp cho em xin gặp năm phút được không ạ?

Năm phút ở dãy ghế nơi hành lang phòng VIP số 1, hắn ghi chép được nhiều hơn 200 chữ cho phần trích đoạn phát biểu của ông X. đăng trên mặt báo ngày mai. Nhiệm vụ xem như đã hoàn thành một nửa. Hắn nhẩm tính còn dư kha khá thời gian nhưng vẫn cố tìm lý do từ chối lời ông X. mời hắn ngồi chung bàn tiệc vẫn đang rầm rộ cùng các thuộc cấp.

- Chú phải vào đây, cứ tự do thoải mái. Có làm quen anh em thì mai mốt có cần ai phát biểu gì thì em trai cứ việc nhấc máy a lô là được - lời ông X. cuối cùng vẫn làm hắn bị thuyết phục.

Bước vào bàn tiệc ngập ngụa thức ăn đồ uống, đối diện với hơn chục gương mặt hoặc đỏ ké hoặc tái mét đang nhe răng cười nói hớn hở, hắn mất hết hưng phấn. Tận sâu trong lòng, hắn chợt thấy tiếc công mình dốc sức suốt mấy tuần lặn lội thăm đồng, thu thập đủ đầy chứng cứ về hiện trạng xuống cấp của hệ thống đê bao ngăn lũ ở khắp các huyện trong tỉnh. Thực trạng càng đáng báo động hơn khi mùa lũ đang về gần. Lũ có thể cuốn phăng vài trăm ngàn héc ta lúa đang vào mùa thu hoạch trong tích tắc. Thảm cảnh đang chực chờ! Vậy mà ở phần kết bài viết của hắn ngày mai sẽ là câu trả lời qua quýt, rặt mùi khẩu hiệu, sáo rỗng của vị cán bộ đầu ngành là ông X. ư?

Nhưng thường sau khi bài đăng, hắn sẽ nhanh quên cảm giác tiếc nuối đó. Bởi dù bài viết của mình bị “gọt” sạch những lý lẽ gay gắt cũng như những bằng chứng rất cụ thể thì sếp hắn vẫn luôn khen bài như thế đã đạt quá mức yêu cầu. Sếp còn an ủi hắn rằng việc các cán bộ lãnh đạo trả lời dù sâu sắc, hời hợt đến đâu cũng đều có giá trị ngang nhau. Bởi họ sẽ bị dư luận phán xét. Chỉ có điều từ lúc về làm ở tờ báo tỉnh này, hắn chưa từng nghe qua vị cán bộ nào đó bị dư luận phản ứng gay gắt sau khi họ đọc được những phát biểu nhăng nhít của ông trên mặt báo. Nhưng hắn vẫn phải kiên nhẫn chờ và cũng chỉ còn một con đường duy nhất là cần kiên nhẫn hơn trong việc chờ đợi sẽ có một ngày bài hắn viết mang lại một hiệu ứng tích cực nào đó. Vì dù gì hắn cũng mới chỉ là tay phóng viên thử việc. Nếu cãi sếp, muốn sếp thôi can thiệp quá sâu vào nội dung hắn muốn đăng tải trên mặt báo thì biết đến khi nào hắn mới được ký hợp đồng chính thức? Hắn cũng cần được công nhận là phóng viên chính thức để nâng lương, để lo cho cuộc sống cá nhân và gia đình nữa! Và hắn cũng biết, bản thân mình không muốn gặp rắc rối.

- Dưới em có rắn hổ hành, tôm hùm, mấy loại chim hiếm… không biết mấy nữa xuống công tác sếp ưng món nào nhất? Em sẽ chuẩn bị chu đáo - tay trưởng phòng nông nghiệp huyện Z. tỉnh bơ hỏi ông X. trước mặt hắn.

- Cấp dưới lúc nào cũng chào đón thế thì em trai bảo tôi từ chối sao đặng - ông X. quay sang hắn giả như “chữa cháy”.

Nhưng thật tình hơn là ông X. đang tỏ ra tự hào khoe mình là kẻ được kiêng nể và chào đón nồng hậu ở khắp nơi sau khi thấy hắn đã đủ thân thiết giữa cuộc nhậu. Dĩ nhiên ông X. trước đó đã “hỏi chơi” hắn là: “Cậu đã tắt máy ghi âm chưa?”.

Rất nhanh, hắn thông minh đột xuất bằng cách nâng ly:

- Em mời sếp X., cảm ơn sếp đã cho em những lời phát biểu quý báu vừa nãy.

Hắn tiếp tục nâng ly mời đến chủ tịch huyện Z, cán bộ nông nghiệp huyện Y… Loáng cái hắn đã nốc hết năm chai bia. Không dừng ở đó, hắn tiếp tục nốc cạn từng ly nhằm làm quen các nhân vật chức sắc nhỏ dần như các chủ tịch xã, cán bộ trạm thủy lợi, trạm cung cấp nước… Sau khi đi đủ một vòng, chẳng còn nhớ ông nào là bà nào ngoài người duy nhất không thể nhầm lẫn là sếp X., hắn đã tự nốc cạn một ly bia để mời lấy chính mình. Hôm nay hắn thấy cần phải mời chính hắn mà không rõ vì lý do gì.

Hắn sớm loạng choạng nên dù có đôi lần đi ngang hành lang để tìm đến phòng toilet “xả hơi”, hắn cũng không hay biết nơi hành lang phòng VIP, sếp X. sảng khoái buôn chuyện với sếp hắn.

- Thằng em chú dễ bảo đấy. Tôi nghĩ chú sắp xếp ký hợp đồng cho nó được rồi. Mà chú nhớ sửa bài nó viết cho ngọt vào nhá - giọng sếp X. đầy phấn khởi.

Bên bàn làm việc, sếp hắn rung đùi:

- Anh cứ gọi là yên tâm. Bài nó viết có đấm thì em cũng phải có xoa, có bóp thì anh mới sướng chứ!

- Đồng ý. Anh tin chú và anh quý nhất chú ở chỗ đó đấy.

Kết thúc cuộc nhậu, hắn chỉ vì bận về gõ cho xong 200 chữ gửi sếp nên từ chối lời mời đi tăng hai karaoke tại một khách sạn sang trọng nổi danh bởi có những đào đẹp nhất tỉnh.

Đêm nước nổi

Cuộc chiến đã quá xa, nhưng những lý do để một dân tộc biết vượt lên trong đau thương mà chiến thắng, sẽ vẫn là những bài học trân trọng, quý giá... Đêm nước nổi với ngôn ngữ tinh tế, dựng lại rất sống động câu chuyện cũ ở một vùng nước nổi, một mối tình non trẻ nhưng sâu đậm đã qua trong chiến tranh, vẫn day dứt mà không bi lụy, kéo người ta trở về với một thời mà ở đó, con người vô cùng yêu sống lại khó mà yêu thương trọn vẹn. Có độ lùi cần thiết để ngoái nhìn một cách khách quan những điều đã qua, Sương Nguyệt Minh làm cho người ta thêm quý cuộc sống thời bình, lý giải được phần nào điều sâu kín, ở góc độ tâm hồn người Việt, trong sự nghiệp giữ nước, những giờ khắc không thường... NDHT

Tôi về đến đầu ấp thì trăng đã nhô lên khỏi ngọn cây dừa. Ánh trăng vàng như mật lọt qua kẽ lá rót xuống làm mặt đất loang lổ vệt tối sáng. Gió ngoài bưng tràn tới thổi lá dừa xào xạc, một vài cánh hoa dừa bay rơi xuống vai tôi, tỏa mùi thơm dịu dịu. Tiếng khỏa nước lẫn tiếng cá đớp đớp trăng bum bũm. Tôi sững sờ, ngẩn người ra. Lấp ló bên kia bụi trâm bầu, dưới trăng mờ ảo là mái tóc và đôi vai trần người con gái đang tắm ở dưới sông. Sông Cái đang mùa nước nổi mênh mông.

Bất chợt có tiếng: bíp... bìm... bịp ở bên kia sông Cái vọng sang. Tiếng bìm bịp kêu khắc khoải cồn cào một nỗi nhớ, nỗi nhớ từ ký ức chưa gọi được tên. Tôi đã gặp cảnh này ở đâu đó. Rất xa, rất lâu rồi...

* * *

Nhà tôi ở gần sông Cái ngay đầu ấp. Nhà chỉ có hai má con ở chòi chọi trên một gò đất nổi. Thỉnh thoảng chị Ngàn con bác Tám từ trong ấp leo cầu khỉ rồi men theo bờ kinh nhỏ ra nhà tôi chơi. Mùa nước ròng chị bơi thuyền đến rủ tôi đi thả lưới chung. Cá bắt được, có lúc người ta bơi xuồng đến mua ngay lúc đang thu lưới, cũng có khi phải đem cá xuống chợ Cầu Ngang bán.

Ngày còn nhỏ, đâu quãng mười ba, mười bốn tuổi gì đó tôi cứ như con rái cá trên đồng. Tôi thuộc tiếng kêu từng loại chim, nhưng nhớ đau đáu nhứt là tiếng con bìm bịp kêu ở bụi trâm bầu mọc sát mép nước con sông Cái. Bìm bịp kêu, ấy là lúc con nước ròng lớn nhứt. Má tôi nghe tiếng bìm bịp kêu có thể đoán được thời tiết nắng hay mưa, được mùa cá hay thất bát. Và cũng biết được dân tình sẽ sống ra sao trong những ngày sắp tới. Tiếng bìm bịp kêu khắc khoải, sâu lắng chìm vào đêm nước nổi là y như có chuyện. Một dạo, tàu lính đi lại trên sông nhiều sục sóng xô tới tấp vào bờ trùm lên cả bụi trâm bầu. Rồi chúng xả súng bắn vào các lùm cây, bụi rậm hai bên bờ sông. Tiếng bìm bịp mất hẳn. Chẳng biết nó bị bắn chết hay sợ bỏ đi nơi khác. Vắng tiếng bìm bịp, đêm đêm hai má con nằm buồn khô.

Chị Ngàn hay đến rủ tôi đi thả lưới chung. Trời nhập nhoạng tối là chị từ trong ấp bơi xuồng ra gọi rồi đợi tôi ở cầu khỉ. Tôi xách giỏ leo lên xuồng nhà mình bơi theo xuồng chị đến cánh đồng cá. Gọi là cánh đồng cá dứt khoát phải nhiều cá hơn cánh đồng khác; bởi nó gần sông Cái, gần rừng tràm lại nhiều ao đìa nên cá thường tập trung vào các điểm. Nước từ sông Hậu trích một phần cho sông Cái, sông Cái đổ vào vô số các kinh rạch rồi tràn về. Nước lớn ròng tràn cả bờ kinh rạch vào đồng thì nước cũng chảy trong đồng như sông lớn vậy. Cánh đồng ngờm ngợp nước nổi minh mông xa tít tắp. Đồng nước nổi đó đây thấp thoáng các cây gáo trút lá gầy guộc thân, cành khẳng khiu. Thả lưới của tôi xong, thả tiếp lưới của chị. Cá vào lưới nào cũng là của chung. Khi các xuồng tản ra tìm chỗ cắm sào thì cái bóng mờ mờ còn sót lại của chiều hôm mất hút. Miệt đồng chầm chậm vào đêm. Trời hơi lành lạnh và sương bắt đầu giăng giăng trên mặt nước, vấn vít lên thuyền, quấn quyện vào người tôi và chị Ngàn. Tôi cảm nhận được hơi thở của đồng nước minh mông mùa nước nổi, cảm nhận được mùi bùn ngai ngái bị cây sào kéo lên. Chị Ngàn xắn quần cao trên đầu gối để lộ đôi bắp chân trần trăng trắng. Mắt đen huyền và gương mặt trái xoan luôn tươi rạng rỡ và tôi vẫn kịp nhìn rõ trước khi màn đêm buông tràn xuống cánh đồng. Lưới không may mắc vào cành cây dưới nước, chị Ngàn hơi cúi người cùng gỡ, tay chị chạm vào tay tôi, tay tôi chạm vào cái vòng đeo cổ tay chị. Cái vòng mà tôi kỳ cạch khoét, gọt từ mai con rùa to như thúng cái bắt được ở đìa. Tôi lóng ngóng bởi hơi thở ấm nồng và mấy sợi tóc mai của chị chạm vào má.

Bao nhiêu đêm, tôi cũng không còn nhớ nữa. Tôi và chị Ngàn đốt lửa trong lòng xuồng. Thường chỉ đốt ở một xuồng chớ chẳng bao giờ đốt mỗi xuồng một đống lửa. Chị Ngàn ngồi sát bên tôi. Đôi mắt sáng đen huyền của chị thỉnh thoảng lại bắt lửa ánh lên. Chị mặc áo bà ba màu đen bó sát người nổi rõ những đường cong và chỗ eo mềm mại. Hơi ấm từ lửa, từ chị truyền sang tôi ấm áp dễ chịu. Đêm vào khuya. Chúng tôi nướng cá ăn đêm cho đỡ đói. Chị Ngàn lấy cành tre tươi mang theo xiên vào miệng mấy con cá lóc. Lửa cháy bập bùng. Con cá trên than hồng giẫy đuôi một lát rồi duỗi thẳng ra. Ước chừng đã chín, chị đưa cho tôi một xiên. Chị và tôi lấy rơm vàng trong mui thuyền vo thành bùi nhùi cọ vào vảy cá cháy để lộ ra mình con cá lóc lọ lem. Cá nóng bốc khói, thơm ngon, ngọt, lòng cá ăn đăng đắng. Vừa ăn tôi vừa bảo:

- Trời chẳng giông gió gì mà có lúc em thấy có xuồng chui vô rừng tràm. Họ đi đâu, chị Ngàn?

- Họ vô bắt tôm hay làm chi đó. Mà Kiên để ý làm gì cho mệt xác.

- Bọn lính ở bót Cầu Ngang bắn cầm canh suốt đêm. Em chỉ lo bọn nó bắn cắc... bùm ra đồng cá.

- Nơi nè xa. Nhưng trước sau rồi bọn nó cũng sục tới. Thôi mà nói chuyện đó làm chi, Kiên.

Ăn cá nướng xong, chị bảo tôi:

- Kiên nằm nghỉ một lúc mà giữ sức.

- Hổng đâu. Em thích thức cùng chị.

- Một đêm còn được chớ đêm này qua đêm khác chịu sao nổi.

- Zậy thì chị ngủ trước. Em coi lưới cho.

- Chị thức đêm giỏi hơn em. Chị sẽ liệu thời gian gỡ cá. Đừng lo.

Vậy là tôi ngủ. Lúc đầu còn thao thức. Tôi he hé mắt nhìn trộm chị ngồi bên đống lửa đốt bằng củi gốc tre già. Quả thực! Chưa có lúc nào tôi được nhìn chị tự nhiên và thỏa thuê như vậy. Thế rồi đang sức ăn, tuổi lớn, tôi phiêu du trong các giấc mơ mà hôm sau nhớ lại tự nhiên ngượng ngịu, soi gương chắc mặt sẽ đỏ bừng. Tôi thấy mình nằm nghiêng úp mặt vào ngực chị Ngàn. Ngực chị lúc dềnh lên, lúc nén xuống, lại dềnh lên theo nhịp thở. Tôi nghe thấy cả tiếng tim mình đập bổi hổi bồi hồi và tiếng tim chị đập nhanh gấp gáp. Tôi cũng cảm nhận được hơi thở nóng ấm ở cổ và bên tai. Kỳ lạ! Giấc mơ của tôi lại y như thật. Sang nửa đêm về sáng, chợt thức giấc, tôi thấy mình đang nằm gọn trong lòng mẹ. Nhưng ngực mẹ tôi tong teo, gầy ốm chớ có rắn chắc, căng mẩy thế này đâu. Hóa ra là chị Ngàn, chị đang gối đầu tay nằm nghiêng quay mặt về bên tôi ngủ ngon say. Một bên chân tôi gác lên đùi chị mà tôi không hề biết mình gác từ lúc nào. Đùi chị mềm như nhung hơi ấm truyền sang người tôi làm tôi nôn nao, rạo rực. Sợ làm chị thức giấc tôi nhè nhẹ nhắc chân mình ra khỏi đùi chị. Và trong giấc ngủ tiếp theo của thằng con trai đang lớn tôi cũng xoay người lung tung, lại gác chân tiếp lên người chị; chẳng biết trời đất ở nơi đâu. Đột nhiên có tiếng cá quẫy rất to. Chị Ngàn thức giấc. Chị vội vã nhấc chân tôi ra khỏi người chị và ngồi dậy. Tôi cũng ngồi lên. Chị Ngàn vén tóc lòa xòa hai bên má, búi gọn ra sau gáy, chị có vẻ ngượng ngùng:

- Ấy chết. Chị tệ quá.

Tôi cũng lên tiếng bằng cái giọng khê nồng:

- Ngủ tiếp đi. Chị Ngàn.

- Có tính ngủ đâu. Mỏi lưng quá! - Chị nằm vươn mình thư giãn một chút mà thiếp đi lúc nào không hay. - Kiên thức dậy lâu chưa?

- Em cũng vừa...

Xa xa lửa đỏ cũng nhấp nháy, nhấp nháy trong các xuồng. Họ cũng người thức người ngủ. Tôi cứ miên man trong vô vàn suy nghĩ. Tôi và chị đã có đêm nước nổi như thế. Đêm nước nổi trải rộng trên cánh đồng bao la. Màn đêm giao hòa với màn nước pha loãng thành một không gian anh ánh bàng bạc, mờ mờ rộng ra xa tít tắp.

Bỗng nhiên có tiếng kêu: bíp... bìm... bịp... từ sông Cái vọng tới. Tiếng bìm bịp kêu chìm vào đêm nước nổi mênh mang. Lúc đầu tôi đã mừng rơn. Vậy là con bìm bịp đi tránh đạn đã trở về. Lúc sau, càng nghe, càng không thấy giống tiếng kêu của con bìm bịp ở bụi trâm bầu bên sông Cái mà giống như tiếng người bắt chước. Chị Ngàn cũng nghe bìm bịp kêu, chị bần thần cả người. Một lát sau, chị bảo:

- Chị thấy lạnh, có dễ ốm mất. Chị dìa sớm thôi. Kiên ở lại thả lưới một mình được hông?

- Em sợ gì mà hổng được. Nhưng sao bỗng dưng chị...

- À... Chập tối con út Nga khóc, quấy quá trời. Má chị mới sanh nó chưa đầy tháng tuổi. Khổ, má chị cũng thức đêm hoài. Chị sốt ruột lắm. Chị để lưới lại, Kiên à.

- Chị. Hay là...

- Đừng nghĩ ngợi gì hết. Kiên à.

Chị nói rồi bước sang xuồng của mình, rút sào. Tôi trút vội nửa giỏ cá sang lòng xuồng chị.

- Nhiều thế, Kiên. Chị dìa trước nghen.

Chị quẫy chèo bơi xuồng đi gấp gáp. Tôi nói với theo:

- Hay là em cùng dìa? Chị đau dọc đường thì sao?

- Kiên. Hổng cần đâu.

Từ lúc đó tôi chẳng thiết tha gì cá với lưới nữa. Chị Ngàn ốm đau gì đâu. Bộ đau ốm mà quẫy chèo dữ zậy? Nằm vắt tay lên trán, tôi nhìn sao trời mông lung mặc cho đống lửa đốt bằng củi tre bập bùng rồi tắt hẳn.

Sáng, tôi xách giỏ cá lặng lẽ bỏ ở sân rồi đi nằm. Má tưởng tôi ốm, nhưng khi thấy cái mặt lầm lầm lì lì của tôi, má bảo:

- Con Ngàn đâu? Hay nó bỏ mầy đi thả lưới chung với người khác.

- Dìa rồi. Má đi mà hỏi người ta.

- Cái thằng. Ăn nói chi mà kỳ cục.

- ...

Má tôi đi chợ Cầu Ngang bán cá về bảo:

- Mầy đi đứng cẩn thận. Tao thấy ở phố huyện áo lính đầy đường.

- Má còn thấy chi nữa, má?

- Cái bốt nó xây chình ình ngay cạnh đường xuống chợ. Thời loạn đến rồi con ạ.

- Thảo nào bọn lính đi xuồng sùng sục dưới sông Cái má à.

Tối. Không thấy chị Ngàn đến rủ đi thả lưới. Tôi chờ một hồi vẫn bặt vô âm tín. Chả đi thì thôi, cần gì. Tôi bỏ lưới của chị lên sân, dặn má khi nào chị đến lấy thì đưa. Tôi lại bơi xuồng ra đồng cá. Khác với nhiều đêm trước, tay chân tôi lóng ngóng, vụng về như lần đầu đi thả lưới. Gỡ cá cứ đánh sổng luôn xuống nước. Rất lạ, các xuồng bắt cá hình như ít hơn. Và thỉnh thoảng lại thấy một cái xuồng bơi nhanh mải miết rồi mất hút vào rừng tràm.

Tôi vẫn thả lưới mặc dù không hào hứng, nhưng tới sáng mới về. Má tôi bảo: “Con Ngàn sang thì mầy đã đi rồi. Nó lấy lưới quãng mầy đi ra đến sông Cái”. “Mặc. Của người ta, người ta lấy; mắc gì đến con”. “Cái thằng này kỳ cục”. “Con nói thiệt. Vừa gặp kìa. Người ta cũng đi thả lưới chứ bộ”. “Mầy coi kỹ không?”. “Lòng xuồng lưới dính bùn đất, tóc tai ướt nhèm; người ta đi thả lưới riêng suốt đêm. Má hổng biết đâu. Chỉ phải được vài con cá mè chết ươn. Cho chết”...

Lại một đêm... Hai đêm... Ba đêm, tôi đi thả lưới một mình trên đồng cá. Và cứ đến khi con nước lớn là lại nghe tiếng bìm bịp kêu. Tiếng kêu khắc khoải mà sao giống tiếng người bắt chước quá. Sáng tôi lại gặp chị Ngàn bơi thuyền về ấp. Tôi làm ngơ không thèm chào, bơi xuồng rẽ sang lối khác. Chị Ngàn bơi theo hình như định nói điều gì đó lại thôi không bơi đuổi theo nữa. Tôi giận, lối giận hờn của cậu bé ở tuổi trẻ con chưa qua người lớn chưa tới. Thì người ta bỏ tôi đi thả lưới chung với người khác, tôi cần chi người ấy.

Má tôi bảo:

- Thôi, đừng đi thả lưới đêm nữa. Má thấy có gì bất ổn quá.

- Nửa đêm ở đồng cá con nghe được tiếng ì ầm xa xa của bọn đầm già. Rồi thấy cả đường đạn lửa đỏ bọn lính bắn vạch lên trời ở phía bốt Cầu Ngang, má à.

Cho đến một đêm trên đồng cá không có ánh bàng bạc của không gian minh mang mà tối mờ mờ lại có tiếng bìm bịp kêu. Vẫn phía khu rừng tràm có bóng xuồng và mất hút vào tối tăm. Nửa đêm thì có tiếng súng rộ ở phía bốt Cầu Ngang. Tiếng súng nổ rất lâu rồi lửa cháy sáng một góc trời. Có dễ đánh nhau to. Gần sáng, trời vẫn mờ mờ, tôi đang lúi húi thu lưới thì nghe tiếng chèo khỏa nước gấp gáp. Tôi căng mắt nhìn qua ánh đèn soi cá và chợt kêu: “Chị Ngàn!”. Chị bảo: “Khe khẽ chớ Kiên”. Chị đội cái mũ tai bèo, mặc bộ đồ bà ba đen tối hôm thả lưới vẫn thường mặc. Dưới lòng xuồng là một người con trai mặc quân phục xanh lá cây. Cái mũ tai bèo đặt hờ trên bụng ảnh, trán quấn băng trắng. Tôi nhận ra có một cái gì đó rất hệ trọng. Chị nói vội vã: “Chị đi kẻo trời sáng”. “Thế ra chị là...”. “Thôi, giữ cho chị cái nè, cái ảnh chị đó, Kiên à”. Tôi cầm nhanh ấn vào túi ngực. “Còn cái nè đưa cho má chị khi nào con út Nga lớn nó dùng, cái vòng đeo tay làm bằng mai rùa Kiên cho chị đó”. “Chị Ngàn. Chị định đi luôn sao?”. “Chị sẽ dìa. Nói giùm má chị cứ yên tâm”. Chị xoa xoa tay lên đầu tôi rồi bất chợt kéo đầu tôi ôm vào ngực chị. Hai con xuồng chòng chành, chòng chành, chị buông tôi ra: “Thôi chị đi kẻo mấy ảnh chờ”.

Tất cả mọi chuyện đều bất ngờ, liên tiếp bất ngờ. Tôi ngẩn người chẳng biết nói năng chi. Đến khi bóng chị và con xuồng mất hút vào đêm tối mờ mờ, tôi mới sực tỉnh là mình chưa kịp nói gì. Tôi cầm chèo khỏa nước bơi xuồng gấp gáp, gấp gáp đuổi theo. Nhưng rừng tràm đã chặn trước mặt tôi với vô vàn cây, vô vàn lối đi...

Chị Ngàn đi một tháng không về, ba tháng không về, chẵn tám tháng thì giải phóng cũng không về. Tôi lớn lên, rồi vô bộ đội chủ lực, đánh đấm liên miên ở biên giới. Thư má tôi viết cũng nói chị Ngàn chưa thấy về ấp. Một thời gian nữa, má tôi biên thư báo tin gia đình bác Tám đã chuyển về phố huyện...

* * *

Má tôi ngồi lụm cụm ở thềm nhà ngoáy trầu. Tôi cởi trần ra bể nước mưa tắm, đổ nước ào ào. Lính tráng tắm bao giờ cũng vậy, ào ạt và chóng vánh. Má tôi đặt cho cái đèn soi ở bàn. Tôi mở cửa sổ cho thoáng và lúi húi mở ba-lô cất đồ ở trong nhà. Bất chợt lại có tiếng kêu: Bíp... bìm... bịp từ sông Cái vọng đến. Tôi giật mình:

- Má. Mấy lần trước con dìa không nghe thấy tiếng bìm bịp kêu?

- Là vì mầy dìa không trúng đợt con nước. Đêm nay nước nổi.

Đêm nước nổi. Tiếng má như đánh thức một lần nữa ký ức xa xôi của tôi. Rồi lại kéo luôn tôi trở về thực tại bởi tiếng cằn nhằn có vẻ sốt ruột của má:

- Mầy bày cơm dần đi. Chờ con út dìa ăn luôn thể.

- Út nào hở má.

- Con út Nga em con Ngàn ngày xưa con bác Tám đó. Nó dạy ở Đại học Cần Thơ dìa đây một tháng rồi, đâu bọn nó nghiên cứu nuôi tôm nuôi cá gì đó.

Cô gái săm sắm đi vào sân. Mái tóc buông xõa xuống bờ vai. Mùi hương bưởi - lại là mùi hương lá bưởi phảng phất bay ngây ngất. Tôi nghĩ đến lúc trăng lên ở đầu ấp. Và hình ảnh đôi vai trần dưới sông lấp ló bên kia bụi trâm bầu lướt rất nhanh trong đầu. Cô gái chợt sững người khi tôi từ trong nhà bước ra:

- Ủa. Hôm nay có khách hả bác Tư?

- Thằng Kiên đó. Nó dìa từ lúc trăng lên.

- Trời đất! Cô út lớn quá ha - Tôi nói bằng một giọng rất thân mật, khác với cái giọng vẫn oang oang thường ngày.

- Dạ. Em có nghe bác Tư kể. Gặp anh Kiên ngoài đường em cũng hổng nhận ra.

Cô gái để chậu quần áo xuống sân, ngồi se sẽ bên cạnh má tôi rồi đưa tay vén tóc ra đằng sau. Lúc này trăng cũng đã tràn xuống sân. Khuôn mặt cô gái sáng và cái cổ cao trắng ngần hiện lên rờ rỡ, áo bà ba đen ôm sát người, eo thắt lại nổi rõ vồng ngực đang căng mẩy. Tôi kìm lòng ý tứ không nhìn thẳng vào mặt cô gái và hỏi:

- Thế là cô út có biết tôi.

- Dạ. Ngày còn xíu xíu nè đã thấy anh Kiên khoác ba-lô dìa phép.

Má tôi nói chêm vào:

- Mầy đi tăm tăm biền biệt có mấy khi dìa. Mà có dìa thì chúng nó có con rồi, đứa nào chưa lấy vợ lấy chồng thì lên thành phố học hành làm ăn. Làng ấp trống hết trơn, Kiên à.

- Bác Tư nói trúng đó anh Kiên. Em dìa còn chả có bạn chơi nữa là anh, toàn phải chơi với bọn mới lớn lầng lầng.

- Thì anh cũng zậy.

- Da... dạ...

Tiếng dạ kéo dài nghe dễ thương quá.

Ăn cơm xong thì trăng lên cao, ánh vàng đổ lênh láng ngoài đường. Út Nga xin phép ra Trại nhân giống xem cá vật đẻ. Má tôi ý tứ bảo: “Để thằng Kiên chèo xuồng cho. Đi nhanh rồi dìa kẻo lạnh.”.

Lâu quá tôi không chèo xuồng, hai tay lóng ngóng quá làm tuột cả dây gai buộc bai chèo. Út Nga bước lại giành phần quấn lại dây cho chắc. Tay út chạm vào tay tôi, tay tôi chạm phải cái vòng đeo ở cổ tay út. “Anh Kiên thấy em kỳ không? Tụi bạn em thì đeo vòng ngọc, em thì đeo vòng làm bằng mai rùa. Của chị Ngàn em ngày xưa đeo đó, anh Kiên”. Tôi lặng người. Đúng đây rồi, cái vòng làm bằng mai rùa tôi gọt nhẵn tặng chị Ngàn ngày trước, giờ út đeo. Út bảo: “Má em kể, ngày chị Ngàn chưa vô rừng, đêm nước rong là bơi xuồng thả lưới ở đồng cá kia kìa, anh Kiên”. Tôi định nói: “Dạo đó anh đã giận hờn với chị”, nhưng lại thôi. “Má em cứ bảo em giống chị Ngàn. Nhìn ảnh chị, ảnh em giống nhau thiệt anh Kiên à”. “Ờ. Như đúc zậy”. “Lắm lúc em cứ nghĩ chị Ngàn còn sống đang ở đâu đó”. Tôi cũng định bảo: “Anh cũng thế. Anh đi tìm chị đến hơn hai mươi năm rồi”. “Quê mình nghèo quá anh Kiên à”. “Nghèo sao út dìa quê”. “Quê mình được cái tình người, tình người kéo em dìa. Bao giờ anh Kiên đi?”. “Cũng còn đang tính”...

Cứ như vậy, những câu hỏi, nói xen lẫn bâng quơ, rụt rè. Ký ức và hiện tại đan xen, đồng hiện, tôi miên man chìm trong hơi thở đêm đồng nước nổi. Bất chợt có tiếng bíp... bìm... bịp từ sông Cái vọng tới. Rõ là tiếng bìm bịp chớ không phải tiếng người bắt chước.

Đêm nước nổi. Đêm nước nổi như hơn hai mươi năm trước. Cũng gió nổi lên từ sông Cái, cũng con xuồng trên đồng nước nổi minh mang. Nhưng đêm nay có trăng sáng, đêm nay không có tiếng ì ầm của con đầm già và những viên đạn lửa vạch lên trời. Và út Nga mặc áo bà ba đen bó sát người, tóc buông xõa bờ vai, khuôn mặt đẹp rờ rỡ dưới trăng vàng.

Xe buýt

Trời lất phất mưa. Sương bảng lảng tràn vào tận cửa sổ. Thú quá. Tuyệt cú mèo. Tiết này ngồi uống rượu là đã nhất.

Đang lấy điện thoại tính rủ ai đó đến nhà tụ bạ thì chuông réo. Có việc cơ quan gọi họp gấp. Huyết áp tụt ngay vì mất hết cả hứng. Phải đi thôi kẻo bị trừ thi đua tính vào lương thì ốm xác. Kinh tế khó khăn lương bổng giảm sút đã thế từ Nhà nước đến cơ quan đều nghĩ ra những chiêu trò độc đáo đánh vào cái ví. Thật đúng là họa vô đơn chí. Thì đi. Nhưng đi bằng gì bây giờ. Lất phất nhưng cũng đủ ướt át nếu đi xe máy. Ôtô không ổn. Đường tắc lết được đến cơ quan thì lỡ hết việc. À phải rồi, xe buýt. Xe buýt, tại sao không?

Bến xe ngay gần nhà. Lại là bến đầu, tiện quá còn gì. Thỉnh thoảng có việc vẫn nhảy lên làm một chuyến xe buýt đổi gió. Nhiều cái tiện. Thứ nhất thay vì một cuốc taxi đắt lòi mắt hay một chuyến xe ôm phát bực vì bị bác tài bắt chẹt có được những chuyến đi rẻ như cho không. Thứ hai khi đã ở trên xe được chứng kiến nhiều chuyện mà bất kể người cầm bút nào cũng cần thu nạp. Nội chỉ hai điều đó đã kể như là lãi. Người thành phố chẳng mấy ai lạ lùng gì với thứ phương tiện này. Xưa Hà Nội chỉ có mấy tuyến buýt cố định nhưng nó đã là một cái gì đó quá đỗi quen thuộc với mọi cư dân. Dàn xe Karosa đỗ ở bến gần Nhà Hát lớn thành phố ngoài chức năng chở khách tuyến còn là dịch vụ sang trọng cho những đám rước dâu hoành tráng thời ấy. Giờ xã hội nhốn nháo phân hóa giàu nghèo một cách bất bình đẳng nên có những loại người phất nhanh nhìn xe buýt như con ghẻ còn thì đa phần đều coi nó như một giải pháp dẫu không tiện lợi lắm nhưng an toàn và quan trọng nhất là tiết kiệm.

Ra đến bến xe đã thấy cả cục người láo nháo ô dù, áo mưa đứng đợi. Đám này chắc là dân buýt chuyên nghiệp nên mới đủ đồ nghề thế chứ. Lên xe giành ngay được một chỗ ngồi gần cửa giữa. Không tiện lắm nhưng có ghế ngồi là tốt rồi. Lôi cuốn truyện ra cắm mặt tranh thủ đọc. Bỗng giật mình vì có tiếng quát và một phát đập khá mạnh vào vai:

- Đứng lên nhường chỗ cho người già.

Ngẩng lên thấy một phụ nữ tóc bạc chắc cũng xấp xỉ tuổi mình. Ô hay sao tay phụ xe lại quát mình. Tao cũng già đấy chứ bao nhiêu đứa trẻ ranh đang ngồi sao không bắt chúng nó đứng lên lại nhè đúng vào lão già bệnh tật này. Tay phụ xe nhìn và phản ứng rất nhanh:

- Ấy chết, cháu xin lỗi. Thấy cái đầu trọc tưởng thanh niên.

Ấm áp quá câu xin lỗi từ tay này. Mấy ghế bên vẫn yên vị không ai nhúc nhích. Thế thì đứng vậy. Dễ đâu nhận được lời xin lỗi đúng lúc ở thời buổi này. Lịch sự đứng lên khoát tay mời thiếu phụ tóc bạc nhưng mặt chưa đến nỗi dừ. Chị ta ngồi xuống ghế khẽ gật đầu cảm ơn. Tay phụ xe có lẽ vì sự nhầm lẫn vừa rồi phân tâm, quên phắt mất ý định tạo sự công bằng nên mấy cô cậu tre trẻ thoát cú nhường khi đã có kẻ khác thế thân. Được một tẹo thấy người chung chiêng. Đường đông xe chạy cà giật cà tèng lúc vọt lúc phanh khiến người như bị đánh võng. Níu chặt quai móc mà không ăn thua. Nôn nao mới chết chứ. Đang ngồi êm ái đọc sách ngon lành giờ đứng làm vật thí cho lắc cho rung. Rõ là dại. Biết thế thì đừng vội nhường kiểu gì chị kia cũng vẫn có chỗ ngồi. Già vẫn cứ hấp hoảng nhẹ não bé dạ. Sao thế này. Nhìn mấy nam thanh nữ tú ngồi ghế bình thản thấy trào lên nỗi căm ghét. Ừ thì nhìn mặt này chưa đủ độ nhăn quy định để lên lão nhưng chẳng nhẽ lại không đáng để các công dân trẻ của đất nước thấy mủi lòng nhường chỗ hay sao. Khốn kiếp. Nghĩ thế thôi nhưng phải im lặng cố mà giữ được thăng bằng. Chợt thấy một khuôn mặt quen quen ngồi ngay hàng ghế sát chỗ đang đứng. Đúng rồi cu cậu mới gặp hôm trước ở một hội thảo sách. Cậu chàng này là sinh viên văn khoa có đặt câu hỏi rất sắc sảo cho cử tọa nên nhớ. Quên béng mất là đang ở xe buýt và nó ngồi còn mình đứng nên cười cười vì cái sự nhớ bất ngờ vừa bật đến chứ không phải có ý gạ gẫm để nó nhường chỗ. Thấy nó lạnh te mới sực nhớ ra tình cảnh hiện tại. Có lẽ cu cậu cũng nhận ra nhau thì phải. Thì hôm đó ngồi trên bàn điều hành mà cái mặt không trộn đi đâu được từ trẻ đến già này làm gì nó chả nhận ra. Thấy mắt nó hơi nhiu nhíu. Không hiểu sao tự nhiên thấy ran ran gáy. Một ý nghĩ chợt đến. Hình như nó đang đấu tranh tư tưởng để nhường ghế hay không thì phải. Nghĩ thế nên thoáng phật lòng. Một chỗ ngồi chả nhẽ lại quan trọng đến vậy bèn nhìn thẳng vào mắt cậu chàng. Nếu là mình ở tình huống ấy chắc chắn không thể chịu đựng nổi luồng nhìn đầy ý đồ đó. Nhưng những gì xảy ra sau đấy thì dù là người đầy thế mạnh về tưởng tượng cũng chịu chẳng thể hình dung ra. Bạn biết không chàng sinh viên văn khoa đó nhắm mắt lại và làm như một giấc ngủ bất chợt tràn đến không thể cưỡng. Mỉm cười thán phục chiêu tuyệt cú này. Ngủ thì biết đếch gì nữa mà nhường với chả nhịn. Thôi tha cho mày không nhìn xoáy nữa chỉ chạnh nghĩ học văn mà kém tắm quá. Không nhường nổi một cái ghế trên xe buýt cho người hơn tuổi thì học thế học nữa cũng chẳng thể viết được gì ra hồn. Vô dụng thôi con ơi. Tự an ủi với kết luận này để quên đi thằng bé văn khoa không nhường ghế.

Xe dừng ở một bến khu trung tâm. Rất đông người lên xuống. Bỗng có tiếng thất thanh rồi ồn ã cả lượt:

- Thôi chết, cái ví của tôi.

- Đâu đâu…

- Tôi nữa, điện thoại…

- Có kẻ cắp trên xe.

Như có phép thần, rừng người bỗng chùng hẳn xuống nép vào nhau để lòng xe rộng ra. Hai người mất của ngơ ngác nhìn khắp xe như cầu cứu vô vọng hơn là kiếm tìm. Nhiều ánh mắt dồn vào hai thanh niên đang lơ láo đứng gần cửa. Nhìn kỹ hai thằng đó. Cảm giác đó chính là thủ phạm nhưng chẳng có chứng cứ gì cả. Lái phụ soát vé đi từ đầu xe xuống, mắt liếc vào hai gã kia. Anh này lấp lửng:

- Một mét vuông hai thằng ăn cắp. Có của phải cẩn thận.

Đúng lúc đó có tiếng chuông điện thoại kêu. Cô gái mất điện thoại phản xạ nhao đến bên hai gã lơ láo:

- Điện thoại của tôi.

Chắc là cô ta nhận ra chuông máy của mình đổ. Cả xe nhìn. Lặng không một âm thanh trừ tiếng chuông vẫn kiên nhẫn đổ. Bất ngờ gã lơ láo có điện thoại đổ chuông trong túi quần gầm lên:

- Mày nói gì?

- Điện thoại…

- Mẹ mày. Điện thoại nào của mày. Muốn chết hả.

Cô gái sau phản xạ tức thì, giờ run lên vì sợ. Gã kia hùng hổ như muốn ăn sống nuốt tươi cô gái. Không một ai động đậy. Cả tay phụ xe cũng đứng yên. Ngứa ngáy quá nhưng chưa biết hành xử thế nào. Có chắc đấy là chuông điện thoại của cô gái không. Ngần ngừ. Nhưng nếu đúng. Không đúng. Buột miệng:

- Thì cậu cứ bỏ ra cho cô ấy xem mất gì đâu.

Cả hai gã lơ láo gần như chồm người lên phía trước. Nhưng có lẽ cái đầu trọc khiến chúng phân vân khững lại chăng. Một thằng. Vẫn là thằng có điện thoại đổ chuông gầm gừ:

- Lão già im mồm. Biết gì.

Máu chạy rần rật bên mang tai rồi phót lên đỉnh tóc. Muốn vung một cú vả vào giữa cái mõm vừa nhả ra thứ ngôn ngữ bất nhã kia. Như điện giật. Nhỡ nó có dao. Súng nữa. Án mạng. Chỉ trong mấy tích tắc mà dồn ứ những nghĩ suy trái chiều. Chưa quyết được thì nghe thấy tiếng giật giọng:

- Chính mày.

Là cậu chàng văn khoa. Không hề ngủ nên mới có giọng tỉnh táo thế chứ. Vừa nói cu cậu vừa đứng phắt dậy. Bỗng thấy văn khoa loạng choạng víu cả tay vào ngang hông mình. Rất nhanh văn khoa gượng đứng thẳng trước thằng lơ láo:

- Bỏ điện thoại ra. Chính mày.

Thằng lơ láo không nói không rằng đấm một phát. Văn khoa tránh được. Lại loạng choạng. Lơ láo rút soạt con dao bấm huơ lên đe dọa.

- Hai thằng này ăn cắp ví và điện thoại, bà con hãy bắt chúng.

Tiếng của văn khoa rành rọt không hề run sợ. Lơ láo vung tay nhưng một trung niên đứng gần đã chụp được tay dao. Hiệu ứng đám đông hiệu quả tức thì. Vài người xáp đến. Tay bán vé đập chiếc cặp vé vào đầu thằng lơ láo cầm dao. Trong nháy mắt cả hai thằng đã bị mọi người bẻ quặt tay. Chiếc ví và chiếc điện thoại được lôi ra. Bằng chứng rành rành nhé. Xe đỗ trước cửa công an phường. Rất nhanh hai thằng kẻ cắp bị dẫn giải xuống đồn. Hai nạn nhân xuống cùng để nhận lại tài sản và làm chứng. Sự việc xảy ra quá nhanh. Thán phục nhìn cậu chàng văn khoa. Chưa kịp hỏi han thì xe dừng bến. Văn khoa đứng lên để xuống. Phụ xe đỡ người văn khoa. Ngạc nhiên. Sao lại thế nhỉ. Cửa đóng. Xe chạy. Phụ xe buông lửng:

- Sinh viên giờ khá thật. Mà cậu này tàn tật đấy. Chân thọt.

Hốt hoảng nhìn qua cửa kính. Văn khoa đang thập thễnh bước cao bước thấp trên hè, người chúi xuống khó nhọc. Như sét đánh. Thảo nào. Cu cậu không nhường chỗ là vì thế. Bất chợt thấy xấu hổ thấy ân hận vì những ý nghĩ chẳng hay hớm gì lúc trước. Chắc là nó có nhận ra mình. Nhận nhưng không tiện thanh minh nên phải vờ nhắm mắt. Hay là cậu chàng không thèm chấp khi đọc được cái ý nghĩ ác độc kia. Đúng vậy. Nghĩ không đúng về người khác chả ác độc là gì. Áp hẳn mặt vào cửa kính nhìn lại phía sau. Thân hình thập thõm của chàng sinh viên văn khoa lùi dần rồi khuất hẳn trong tấp nập phố thị.

Mưa vẫn lất phất. Sương trắng bảng lảng hè phố. Xốn xang nhiều lẽ. Mũi cay cay. Nước mắt bỗng tứa ra. Sống cả đời đến tận lúc già tưởng biết nhìn nhưng vẫn không hề thấy.

Hà Nội 2.12.2012

Căn hộ 1603

Cứ hình dung ra một phân cảnh thế này. Một người đàn ông đã có gia đình. Tất nhiên gồm vợ và các con. Người đàn bà cũng thế. Hạnh phúc tròn đầy, viên mãn lăn trong mắt họ.

Họ gặp nhau trong một buổi chiều có mưa bụi chùng chình giăng mắc tại Hà Nội. Quán cà phê trên đường Lê Thái Tổ. Một bên là nước hồ Gươm đang rỡn gió, gợn lăn tăn sóng. Một bên là một người đàn ông và một người đàn bà đang lơ đễnh nhìn ra mặt hồ, khuôn mặt đầy tâm trạng.

Nàng say sưa kể về chồng, về con trai. “Đấy là hai người đàn ông quan trọng nhất của đời em đấy anh ạ. Lúc tạm biệt hai bố con ở sân ga, em tưởng có thể chết được. Chỉ muốn bỏ tất cả để ở lại. Em đã chậc lưỡi, kệ vậy, đến đâu thì đến, cùng lắm là bị sếp kiểm điểm. Còi tàu réo rắt giục, rồi ông trưởng đoàn cứ nói như hét, nhanh lên, nhanh lên, trễ tàu bây giờ. Em quýnh quáng cả lên. Đợt tập huấn này kéo dài một tháng. Trời ơi, em nhớ ông con đến phát điên mất thôi”.

Anh ngồi lặng thinh, từng bụm khói nhả lên trời. Tan loãng. “Sài Gòn bây giờ cũng đang mưa. Mưa rào. Ào ào đổ xuống như trút nước rồi lại ào ào đi. Cu Bin sắp đến giờ tan học. Không có anh, bà xã lại phải vật lộn với thằng nhóc”.

Gió hồ đưa đẩy từng cơn mưa bụi mỏng manh, yếu ớt như là sương khói. Nàng xoay xoay tách cà phê, thấy trước mắt mình hai bố con đang ríu rít chuyện trò sau giờ tan lớp, hai bố con đang mê mải với một trò điện tử mới mà không sợ mẹ cà ràm, hai bố con đang giành nhau ôm mẹ mỗi khi lên giường… Yêu sao yêu lạ. Nhớ sao mà nhớ cồn cào. Tự dưng thấy sống mũi mình cay cay, nàng thở hắt ra: “Còn 5 ngày nữa cơ đấy”.

Anh nhìn sâu vào mắt nàng: “Ừ, còn 5 ngày”.

Cứ thế, trong quán cà phê đông đúc, có một người đàn ông và một người đàn bà đang độc thoại với nhau. Hai cốc cà phê vẫn còn đầy nguyên. Nguội ngắt.

Kịch bản sẽ không là gì cả khi hai nhân vật chính cứ thay nhau độc thoại rồi đối thoại, thay nhau hết thủ thỉ rồi lại cao trào mà không hề quan tâm đến người đối diện muốn nghe nữa hay không. Ý đồ của đạo diễn không chỉ có thế.

“Cắt. Chuyển cảnh”.

Đến đây thì ông đạo diễn đã cất chiếc bàn đang là vật vô duyên nhất giữa hai người để chuyển cảnh. Lúc này họ không còn chống cằm nhìn ra hồ nữa. Họ đắm vào mắt nhau. Chới với. Bối rối. Người đàn bà đã dựa hẳn vào người đàn ông. Vòng tay siết chặt dần. Bây giờ thì họ đang im lặng để nghe nhau.

“Thế là ổn”. Ông đạo diễn đã vã mồ hôi thở phào nhẹ nhõm.

“Cắt cảnh”.

Hơi thở của người đàn ông và người đàn bà dường như gấp gáp hơn.

“Ô kìa, tôi đã ra hiệu lệnh cắt cảnh”

Đố nhà biên kịch nào có thể tách họ ra khỏi nhau vào lúc này. Ông đạo diễn đành nhún vai quay đi. Ông không thể đoán được họ sẽ còn ôm nhau đến bao giờ, chỉ biết rằng khi hai người trưởng thành đã phải lòng nhau thì khát khao gần gũi là một điều rất thật.Và chắc chắn ông cũng không cần theo họ đến căn hộ 1603 để dựng thêm một phân cảnh kịch mới.

Căn hộ rộng 160m2, tầng 16 của một chung cư. Phòng khách khá bừa bộn. Một bộ salon gỗ Đài Loan, chiếc bàn kính hình chữ nhật còn lưu lại rất nhiều vết ố nước chè. Bộ ly uống nước không được sạch sẽ. Chiếc gạt tàn đầy ú ụ cặn nước, tàn thuốc và giấy gói kẹo caosu. Một vài cuốn tạp chí chuyên ngành đặt không được gọn gàng phủ một lớp bụi mỏng. Chai Whisky còn vơi nửa. Chiếc bật lửa hiệu Zippo đặt ngay ngắn trên bao thuốc 555. Trong đầu nàng bật ra thứ suy nghĩ kỳ quặc, giống như là so sánh, ít nhất cũng còn có thứ đang được nâng niu. Chủ nhân là một người nghiện thuốc lá. Không phải nàng muốn săm soi. Đơn giản vì đối diện với nàng lúc này chỉ có anh và chiếc bàn. Nàng thấy lúng túng. Cảm giác lúng túng đã rất hiếm hoi xuất hiện đối với nàng. Một chút bản lĩnh của một trưởng phòng tổ chức nhân sự, một chút vốn ngoại ngữ đủ để giao tiếp không cần cầu cứu đến phiên dịch trong mỗi chuyến công tác, một chút ngoại hình không quá rực rỡ nhưng đủ làm nàng nổi bật trước đám đông. Tất nhiên, với sự rèn luyện của bản thân, nàng còn có thêm khá nhiều những một chút, một chút nữa để cảm thấy mình luôn luôn tự tin trong giao tiếp. Nhưng ngay bây giờ, đối diện với  anh, thay vì ngồi run, nàng chỉ có thể tập trung săm soi từng mi li mét một trên chiếc bàn đầy cáu bẩn và bề bộn này. Sự tự tin vốn có bay biến đi đâu mất. Sự lúng túng hiện rõ trong nụ cười cực kỳ e ấp. Chết thật. Cả đến nụ cười này cũng xuất hiện rất ít ỏi. Phải bình tĩnh thôi. Nàng tự trấn an mình.

“Em thực sự thấy lúng túng, em cần một cốc nước ấm”.

Nàng ấp úng. Nàng thành khẩn. Nàng thấy mình nữ tính hơn bao giờ hết, ngoan hiền hơn bao giờ hết, yếu đuối hơn bao giờ hết. Nàng nghe thấy tim mình đang đập loạn xạ. Từng vi mạch đang rần rật chảy trong huyết quản.Với nàng đấy là một lời thú tội. Với anh, có thể đấy là bản lĩnh. Để thành thật được nhiều lúc cũng cần phải có bản lĩnh.

Anh cười. Nụ cười ấm đến nỗi nàng có thể tan ra. Giá như anh hiểu được, một phần vì điệu cười ấy, nàng sẽ lại chạy cả ngàn cây số để ra Hà Nội gặp anh, để lại được lúng túng một cách cực kỳ bản năng, run rẩy một cách cực kỳ bản năng, thành khẩn một cách cực kỳ bản năng.

“Anh không nghĩ thế, có thể em hơi mệt, nghỉ một lúc sẽ hết”.

Nàng hít một hơi thật sâu. Một cốc nước ấm. Nàng thấy mình đang được chăm sóc. Nàng thấy yêu thương đang ùa về ăm ắp. Hạnh phúc căng ngực. Căn phòng cũng như hóa yêu thương. Người đàn ông trước mặt nàng nửa như lạ lẫm, nửa như gần gũi lắm, nửa như không phải, nửa như đã thuộc về nàng từ rất lâu.

Nàng quan sát phòng bếp. Rộng rãi và ngăn nắp quá. Đồ vật đầy đủ cho sinh hoạt của một gia đình nhưng ít được sử dụng. Đọc được sự tò mò trong mắt nàng, anh cười như phân bua: Vì công việc, anh thường xuyên lưu trú tại Hà Nội. Anh mua căn hộ này cho tiện sinh hoạt. Thi thoảng bà xã và bọn trẻ ra chơi. Một mình, hầu như chẳng lúc nào anh vào bếp. Trước lúc vào Sài Gòn bà xã sắp xếp thế nào thì lúc ra Hà Nội vẫn còn nguyên thế.

Không chú ý mấy đến lời anh nói, mắt nàng đang dán vào góc tường cạnh bàn ăn, nơi treo một bức ảnh gia đình. Người đàn bà đang chằm chặp nhìn nàng. Ánh nhìn rắn rỏi cứ như đã đọc thấu tâm can nàng. Bất giác nàng thấy rùng mình. Nàng cố xua đuổi sự sợ hãi, hoảng loạn khi thấy mình đang dần dần bị tãi ra, bị bong tróc, bị đuổi chạy và dồn đến ngõ cụt, chới với đến muốn ngã khụy. Ớn lạnh, mồ hôi nàng rịn trán.

“Anh ơi, em sợ”. Nàng bấu chặt vào vai anh. “Em thấy rất sợ”.

Nàng không nhớ được anh đã dìu nàng đi qua nỗi sợ hãi như thế nào. Chuông điện thoại báo cuộc gọi đến làm nàng tỉnh giấc. Anh đang say ngủ, nụ cười ấm vẫn ấm. Nàng thấy mình đang bồng bềnh trôi. Dụi đầu vào ngực anh, nàng muốn mình cứ lại được trôi mãi như thế. Miên man, miên man.

***

Công việc cho nàng những chuyến đi. Những chuyến đi luống cuống đẩy nàng đến căn hộ 1603. Căn hộ 1603 ủ hương giấc yêu nàng tròn căng. Nàng thì thầm: “Thèm được làm vợ anh quá”. “Bậy nào, sao em ngốc nghếch thế?” “Em cũng không biết mình đang thế nào nữa”. Nàng cắn nhẹ vào môi anh “Thèm cứ mãi như thế này, anh ạ”.

“Có một gã nào đó đã ước rằng giá như chúng mình gặp nhau khi anh chưa bị ràng buộc và em chưa thuộc về ai, em có ước được thế không?”

Câu nói của anh vô tình kéo nàng ra khỏi những mộng mị yêu đương. Nàng nhìn xa xăm, thấy trong mình rỗng ruột. Nỗi buồn từ đâu kéo đến ken kín lòng. Chênh vênh, chênh vênh. Nàng trườn qua người anh, cài nốt chiếc cúc áo cuối cùng chiếc sơ mi anh đang mặc dở. Khung cửa sổ từ tầng 16 có thể nhìn bao quát một góc thành phố. Mùa đang đổ những cơn mưa bụi rất mỏng.

“Anh, dậy cùng em đi. Trời đang mưa”. Nàng rủ rê “cứ mưa xuống là nhớ Hà Nội, nhớ anh đến mềm môi”.

“Ôi hay, thế em yêu Hà Nội hay yêu anh?” Anh vòng tay ôm nàng từ phía sau, cố pha trò dỗi hờn để kéo nàng ra khỏi những day dứt.

Nàng vân vê trái tai trắng hồng của anh, thủ thỉ: Không biết sẽ là như thế nào anh nhỉ. Một cô gái sống cách xa thủ đô hàng trăm cây số đã phải lòng Hà Nội. Hà Nội lại xui người ta phải lòng một người đàn ông phương Nam. Có bao giờ anh tưởng tượng được thời sinh viên của em. Khi tàu vừa dừng bánh, em ùa vào Hà Nội như ùa vào vòng tay yêu thương. Những con đường, những góc phố, những ngõ nhỏ ngoằn ngoèo, Hương Ngọc Lan ngọt lịm, hương hoa Sữa nồng nàn, những hàng cây nhẫn nại che nắng mưa. Và hoa… yêu lắm những mùa hoa Hà Nội.Yêu lắm những cơn mưa bụi Hà Nội, những mùa đông Hà Nội lạnh xuýt xoa. Gặp anh em càng yêu hơn xứ lạnh này. Nhưng mà… Yêu anh, Hà Nội bỗng dưng biến mất. Chỉ còn anh, căn hộ 1603 và những đắm say.

Tưởng tượng đến ngày rời Hà Nội, cứ thấy se sắt lòng. Liệu một mai gặp lại, không có anh, Hà Nội có còn nguyên vẹn trong trái tim nàng. Hà Nội vẫn đấy, vẫn vậy. Căn hộ 1603 rồi sẽ đổi chủ. Chỉ có nàng hoang hoải với nỗi nhớ. Anh trở về với cuộc sống của anh. Sài Gòn xa thật là xa. Nàng chưa bao giờ đặt chân đến đấy. Nàng cũng không có ý thức muốn tìm anh ở mảnh đất xa lạ ấy.

“Hãy tha lỗi cho anh. Nếu trong một hoàn cảnh khác… anh sẽ nói: Hãy làm vợ anh, em nhé. Nhưng mà…”. Anh siết chặt nàng vào lòng, thấy cái thời khắc chia tay đang đến rất gần. Thật gần.

***

Anh chia tay Hà Nội vào một ngày rực rỡ nắng. Không có nàng. Không có mưa. Nàng nghẹn ngào “em không thể tiễn anh” rồi vội vã gác máy. Từng tiếng tút tút dài trơ khấc, khô khan, vô cảm. Anh sập cửa. Thấy tim mình như đang vỡ ra thành trăm ngàn mảnh.

***

Nàng trở lại Hà Nội. Cứ thấy trống hoang hoác trong lòng. Bao năm qua, mỗi lần nghĩ đến anh, nàng phải dằn mình lại. Tự nhớ, tự quên, tự yêu thương, tự bỏng rát. Căn hộ 1603 im ỉm đóng. Sẽ là một người chủ mới, hoặc không có ai. Nàng bần thần. Chỉ cần một nhấn chuông thôi mọi nghi ngờ trong nàng sẽ được giải tỏa. Nàng ngần ngại, tiếng thở dài bị nén lại cứ nhưng nhức trong lồng ngực. Nàng đang cố gắng để chấp nhận sự thật. Chẳng thể có phép nhiệm mầu nào đưa anh đến sau cánh cửa, ấm áp, nồng nàn mỗi lần nàng nhấn chuông. Nàng quay gót, thấy sau lưng mình ánh mắt anh đang dõi theo.

Người phụ nữ đi ngược chiều đăm đắm nhìn nàng. Đôi mắt đen. Nàng đã gặp ở đâu nhỉ. Nàng lục tung trí não. Nàng không thể nhớ, đành cúi đầu chào chiếu lệ.

Cô vừa rời căn hộ 1603?

…..

Căn hộ 1603. Chẳng lẽ… Một ý nghĩ mơ hồ lóe lên trong đầu nàng nhanh và nhói đau như một vết cắt. Linh tính mách bảo nàng một điều gì đó không bình thường. Đôi mắt đen nàng đã gặp. Đúng rồi, bức ảnh ở căn hộ 1603. Người phụ nữ đã nhìn xuyên thấu tâm can nàng, đã ám ảnh tâm trí nàng đang hiện diện trước mặt nàng.

Tôi biết rồi cô sẽ trở lại.

………..

Nếu có thể, tôi mời cô lên nhà.

………..

Vì lý do gì nàng không lý giải được, nàng ngoan ngoãn nghe lời người đàn bà là vợ anh cũng như đã từng ngoan ngoãn nghe lời anh mỗi lần đến căn hộ 1603. Nàng rón rén. Nàng nghẹt thở. Căn hộ 1603 ấm cúng, căn hộ 1603 tràn ngập yêu thương nàng đã thuộc lòng mọi ngóc ngách bây giờ trở nên âm u và lạnh lẽo. Người đàn bà giọng ấm và trầm, ánh mắt sâu buồn nhưng toát lên vẻ bình thản: Anh ấy đi rất vội, sau một cơn nhồi máu cơ tim. Chỉ kịp nhắn lại rằng đừng đổi căn hộ 1603, anh sẽ ở lại đây. Vĩnh viễn.

***

Này nhà văn kính mến, ông đã kéo nhân vật ra khỏi kịch bản của tôi rồi đấy. Ông đã cho nhân vật sống thật với những hoan hỉ yêu đương rồi lại ra tay giết chết khi ông không thể kết thúc.Việc làm này có vẻ như bất nhẫn với bạn đọc và thiếu trách nhiệm với ngòi bút của mình. Một kiểu làm văn hời hợt, cẩu thả và bế tắc.

Ai bảo chết là hết, trong trường hợp này chết nghĩa là đang sống lại.

Thôi, vứt mẹ cái ý tưởng hão huyền của ông vô sọt rác đi. Chết là chết. Chết là nỗi đau của người ở lại. Chết, trong một số trường hợp là một sự hèn nhát vì đã không đủ can đảm để sống. Ông đã không đủ bản lĩnh cho người đàn ông sống, để được dằn vặt, được day dứt, được yêu thương, được đau khổ.

……..

Đừng có nghển mặt ra thế chứ. Thế nhé, cứ thế nhé. Xử lý lại đi. Vẫn là căn hộ 1603 và những nồng nàn nhé. Vẫn cứ đắm say như thế nhé. Cứ yêu như thế, như thế nhé…

Lại chuyện tình. Tình đuổi bắt tay ba? 

Nhưng, trong thời buổi mọi giá trị tình yêu đều có khi bị đảo lộn này, người viết nào lại làm ngơ trước chuyện ngoại tình luôn thường xảy ra và thật éo le? Một khi hai nhân vật chính ngã vào nhau cứ như "ma dẫn lối quỷ đưa đường". May mà tác giả "ly khai" nhân vật, khi áp vào truyện một lối kể tưng tửng, lành lạnh, lại có chiều vân vi hài hước...

Có lẽ ấn tượng mạnh nhất từ truyện này là sự "lửng lơ con cá vàng" của chính người viết, trong lựa chọn giọng kể đã đành, và nữa, là lựa chọn chi tiết: ánh nhìn "chằm chặp", sau đó là "chăm chắm" xuyên thấu tâm can của người đàn bà có đôi mắt đen… Người đọc, cũng vì thế mà bị vướng vất, khi người viết cố ý cho cái kết truyện cũng lửng lơ: người đàn ông thì chết, song, hai người đàn bà vẫn sống và chạm trán nhau? Có khi, đấy mới là cách kết thúc đích đáng câu chuyện này chăng?  

Một chuyện hưu

. Bà Lan người vợ cám trấu của ông Đam đã gần bốn mươi năm nay nên rất thuộc tính chồng. Ăn ở với nhau mấy chục năm trời. Con sống, con chết có cả. Nên người ngoài coi ông thế nào bà không biết còn bà thì thuộc lý lịch đời ông trên lòng bàn tay.

Ông Đam tốt nghiệp trung cấp thú y. Hồi ông đặt vấn đề tìm hiểu bà. Cô Cầm bạn thân của bà Lan từ bé thấy ông cứ đều đặn ba ngày một lượt đến nhà bà vào những buổi tối đã thì thào hỏi bà.

- Cậu yêu lão hoạn lợn đấy à?

- Anh Đam là hoạn lợn? Bà Lan ngạc nhiên hỏi lại.

Cầm cười sằng sặc:

- Nỡm ạ. Trung cấp thú y tức là y sĩ chữa cho động vật mà ở nước mình chủ yếu là chữa lợn. Giống vật ấy đang là thứ giá trị nhất. Nó nhỡ làm sao thì mất cả đống tiền chứ bỡn. Tớ không ngờ cậu khôn thế. Chàng sắp ra trường đúng không. Cưới đi. Thời buổi này bác sĩ lợn tha hồ kiếm còn hơn chán vạn bác sĩ chữa cho người đấy. 

Bà Lan còn nhớ như in hôm anh chàng Đam đến nhà bà. Trông mới tội làm sao. Nhà bà bốn ngưòi dù đang ở trong căn nhà gần hai chục mét vuông nhưng lại là phố cổ. Bố mẹ bà người Hà Nội gốc. Đam ta lại dân tỉnh lẻ. Quê lúa, cói, đay. Thành ra anh càng hình như bị át vía. Thộn ra. Nói lúng ba lúng búng. Khi được bố vợ tương lai hỏi anh học nghề gì. Đam đỏ dừ mặt lắp bắp.

- Dạ, cháu học nông nghiệp ạ.

- Đại học à ?

 Đam ngúc ngắc cổ:

- Dạ trung cấp.

- Nhưng nông nghiệp nó mênh mông lắm. Cụ thể anh học môn gì? 

- Cháu... Cháu học thú y ạ …

- Thế có biết chữa lợn ốm không?

Mặt Đam chuyển màu tiết canh, rồi lẳng lặng gật đầu. Bố bà Lan nhô người ra đằng trước. Miệng gần như reo lên:

- May quá. Thực là trời cho. Vậy thì anh vào chỗ nhà xí kia xem hộ tôi hai con lợn. Không hiểu vì sao mấy hôm nay tự dưng chê cám. Mà thức ăn có phải xoàng như ở nhà quê đâu…

Không dè vì nhờ sự mát tay của Đam, hai con lợn nhà Lan khỏi ốm. Đam Lan nên vợ nên chồng cũng vì hai con lợn ấy. 

Ngẫm lại bà thấy đúng là vợ chồng bà tựa lợn mà đi lên thật. Nhờ tay nghề của chồng bà nên lứa lợn nào của vợ chồng bà rồi cả của hai cậu em bà đều lớn như thổi. Lứa nào ăn lứa ấy mặc dù sống giữa phố phường, trong những căn nhà chật chội, đến độ sáng ra đi vệ sinh còn phải chờ nhau mà con nào con ấy tăng trọng vùn vụt. Cám bã thì không phải lo vì Đam trong ngành lại khá có chuyên môn trong việc chữa trị lợn nên khối người phải nhờ vả. Chữa lợn giỏi nên sinh nhiều mối giao du rộng với đủ loại người trong xã hội. Lợn nó cũng như người có phải lúc nào cũng khoẻ mạnh, suôn sẻ cả đâu. Anh, chị ỉn đang nuôi ngúng nguẩy một chút là y sĩ Đam có giá ngay. Mà thời đó nhiều viên chức tử tế sống bằng đồng tiền sinh ra từ con lợn là chính. Cái giống cổ truyền ấy mới vững chắc chứ anh chó Nhật, vẹt Hồng Kông rộ lên một thời kiếm tiền triệu đấy nhưng cũng nhanh chóng xẹp như gián. Thế là trong một lần Đam đến chữa trị lợn cho một ông tổng biên tập một tờ báo loàng xoàng của một hội nghề nghiệp chẳng mấy tên tuổi.

Không biết hôm Đam đến nhà ông tổng biên tập thế nào chỉ biết sau này mỗi khi nhắc lại chuyện này chồng bà có vẻ rất tự hào và đắc ý lắm. Ông Đam kể rành rành. Vị tổng biên tập này tên là Ngao. Thân hình bộ dạng của ông thì ngược hoàn toàn với cái tên có vẻ to lớn, dữ tợn. Tổng biên tập Ngao thấp, lùn, mặt tròn như cà bát, thủng thỉnh ra nhìn Đam đang hoà thuốc vào cám. Nhìn bàn tay chùn chũn ngắn ngủn của Đam gang mõm lợn đổ gọn từng thìa thuốc vào mồm chú ỉn. Ông gật gù hỏi:

- Trông cậu khéo tay đấy. Chắc chuyên môn cũng khá.

- Thế ông trả lời thế nào?

 Nghe vợ hỏi, ông Đam vểnh mặt lên hứ một tiếng:

- Tôi biết ông này rất nể tay nghề và sự mát tay của tôi. Hơn nữa vợ ông này tham, nhà cửa trông qua cũng thấy giầu bự. Xe Phavôrít hai cái, đài Rigôngđa. Nhà rộng bét cũng năm mươi mét vuông không kém. Vậy mà bà ấy ngăn lại nuôi những năm con. Từng nấy con ấy mà đồng loạt đổ bệnh thì cứ gọi là đổ hàng đống của ra sông.

- Tôi hiểu rồi. Thảo nào ông ấy lấy ông về toà báo cũng có cái lý của nó.

- Chứ sao.

Đam ta được chuyển về làm biên tập chuyên giữ mục “Làm sao cho vật nuôi mạnh khoẻ” để trả lời bạn đọc là vì thế. Từ dạo Đam về giữ mục chăn nuôi của báo, tiền vào nhà ông tổng biên tập bằng con đường chăn nuôi ào ào. Đến nhà ông ngưòi ta tưởng đến trại chăn nuôi. Lợn dăm con trắng lôm lốp, mông to như mông đầm kêu eng éc, ủn ỉn. Mùi nước đái thỏ, chuột bạch nuôi để bán cho viện Vệ sinh dịch tễ khai mù. Vẹt Hồng Kông Tổng Ngao bảo nuôi để chơi chứ không kinh doanh cũng có dăm chục con vừa kêu loét choét vừa mổ nhau cheng chéc.

2. 

Khổ nỗi đời con người tưởng ngút ngát, vô hạn nhưng ngoảnh đi ngoảnh lại thấy ngắn tũn. Mới hôm nao đi đứng rung rung, ngực nổi bắp nhô ra phía trước. Bắp đùi sờ vào như quả lốp bơm căng. Bia rượu uống không biết say. Cơ cấu cơ quan còn là lực lượng kế cận thế mà thoáng một cái ngực lép lại, sờ vào đùi thấy nhẽo nhèo. Gặp bè bạn toàn hỏi “áp huyết, độ đường trong máu của ông thế nào” rồi đùng một cái cầm sổ hưu. 

Ngày đầu tiên về hưu, vì bà mải ru cháu nội cho bố mẹ nó đi làm kịp giờ nên không mấy để ý. Quá tám giờ xuống tầng một thấy ông chồng quần áo nghiêm chỉnh đang nhấp nhổm ngồi. Bà lặng lẽ đến gần chồng nhấc chiếc cặp sang một bên, rồi khẽ nói vào tai ông:

- Thế ông quên là đã về hưu rồi sao.

Nghe bà nói, ông trợn ngược mắt lên. Đứng sững giữa nhà một hồi lâu rồi lẳng lặng cởi quần áo dài treo lên mắc áo. Thở dài rồi lẩm bẩm khẽ khẽ:

- Ừ nhỉ. Tôi quên mất. 

Mấy tháng đầu ông Đam về hưu thì bà Lan thấy ông hơi buồn buồn. Bà nghĩ ông chưa quen với không khí về hưu. Đọc báo, xem ti vi chán. Ông ra ngắm con vẹt Hồng Kông. Nhìn cái đầu xanh lét của con vật gật gật như chào bà thấy mặt chồng bà tươi lên, đầu ông đà đận gật gật như đáp lại. Vả lại thời gian đó thỉnh thỏang ông lại được cơ quan cũ cho xe đến đón đi dậy lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nào đấy. Hoặc giả có doanh nghiệp, cơ sở chịu ơn hồi ông còn làm phó tổng biên tập.

Xe cơ quan cũ đến đón thì khỏi nói, vì mấy cậu lái xe ít nhiều cũng biết ông. Chuẩn xác về giờ giấc nên cứ đúng giờ là xe xịch trước cửa. Còn khi ông nghỉ rồi, xe chưa đến họ đã điện trước “anh, hay chú sửa soạn đi, cháu hoặc em đến là đi luôn”. Còn cánh doanh nghiệp đến đón ông thì bao giờ cũng khề khà uống nước. Chồng bà lại cười hề hề theo giọng anh hoạn lợn nhưng ai cũng bảo nhờ giọng cười ấy mà ông làm nên. Một giọng cười cố tạo ra sự choang choang, hể hả thường có ở những thủ trưởng xuất thân hạ tiện nhưng biết quảng giao, dễ tính tuy rất nguyên tắc theo kiểu lạt mềm buộc chặt. Nghe khách trần tình, ông nghiêng hết tai nọ sang tai kia không biết vì chăm chú hay nghễnh ngãng, xong lặp lại câu nói quen thuộc:

- Báo ấy có bài phê bình cậu hả. Để tí nữa tớ phôn cho tay tổng biên tập nhắc nó.

Ông doanh nghiệp nghe ông nói tròng mắt lộn lên ngạc nhiên:

- Anh nói được cả tổng biên tập cơ á.

Chồng bà cười điệu cười trăm lần giống một trăm với độ răng nhe, môi mở chuẩn mực tàu:

- Chứ sao. Thằng cha ấy trước tớ dậy nghề chứ ai. Nó coi tớ là sư phụ. Nói gì chả nghe. Yên tâm đi.

Rồi những năm sau xe đến đón ông thưa dần, rồi vãn hẳn. Ngày ngày ông đọc báo rồi nói một mình.

- Làm báo mà dốt thế không biết. Tin quan trọng hàng đầu mà để trang ba. Thế nào ban tuyên huấn kì này cũng có ý kiến cho mà xem. 

Ban tối ngủ gà ngủ gật lơ mơ nhìn lên truyền hình, chốc chốc ông lại choàng tỉnh, cau mặt chỉ lên ti vi, đầu lắc lắc, mồm lẩm bẩm:

- Bọn truyền hình dạo này dở quá. Quảng cáo chen ngang thế này hỏng hết nội dung. Thế mà các bố để yên được… Không cạo bọn này không sửa.

Nghe ông nói bà thoáng bùi ngùi thương chồng vì biết ông đang nhớ nghề. 

Đến năm thứ sáu khi chồng bà về hưu thì bà bất ngờ thấy lo. 

Sự lo này bắt đầu vào một đêm chớm đông. Thằng cháu nội học lớp hai chắc vì ban ngày mải chơi quá nên tự nhiên ngồi dựng dậy, khua chân múa tay, rồi cười sằng sặc. Rồi tiếng con trai bà nói to:

- Bố tắt đèn đi cho hai đứa ngủ chứ.

Bà Lan choàng tỉnh và giật mình khi thấy phòng khách sáng trưng. Tiếng lạt xạt, lào xào. Bà nhìn đồng hồ mới biết lúc đó là ba giờ kém mười lăm. Tiếng con trai bà lại vổng lên:

- Bố làm gì mà để đèn lâu thế?

- Tao phải đi?

- Bố đi đâu? Bây giờ mới có ba giờ sáng.

Nghe tiếng nhấm nhẳn của con trai, bà Lan lặng lẽ đi xuống phòng khách. Thêm một lần bà giật mình khi thấy chồng bà mặc quần áo tề chỉnh đứng trước gương ngắm nghía. Một lúc sau ông rút chiếc ca vát thắt sẵn màu tiết dê choàng vào cổ. Ông kéo nút ca vát, lấy lược chải đầu.

- Ông đi đâu bây giờ đấy?

Chồng bà không ngoảnh lại, giọng ông hơi gằn như bị làm phiền:

- Bà này hay thật. Hôm nay phải đi giao ban. 

Bà Lan đến bên chồng dịu dàng:

- Thôi thôi. Ông vào ngủ đi.

- Sao lại ngủ. Tôi nghe bà để trên cạo tôi trắng gáy à? Bà lạ thật.

- Nhưng ông về hưu rồi kia mà? 

Ông chồng bà cau mặt hỏi lại bà. Tay sờ nút ca vát. Mặt ngắn lại, mắt lồi ra 

- Về hưu… Thật thế à? Ừ nhỉ.

Bà Lan cố không cười:

- Ông xem kia. Đang đêm thế này.

- Bây giờ vẫn là đêm à? Thế thì bà tắt đèn đi.

Nói xong ông không nhìn vợ, thở dài, cởi quần áo, rồi lặng lẽ đi về phía giường mình. 

3. 

Phàm là đàn bà thì trong quan hệ bạn bè bao giờ cũng chia thành hai loại. Loại thứ nhất không ưa nhau thì gặp nhau lần đầu sau đó ba bẩy hai mốt ngày thành kẻ thù. Loại thứ hai thì từ bé đến khi về già luôn dính với nhau. Cái gì cũng thì thào chia sẻ. Tình bạn của bà Lan với bà Cầm thuộc loại thứ hai. 

Loanh quanh, dắt ríu nhau, lôi cả chồng con vào. Rút lại từ bạn bè thành thông gia. Thằng Đạo con trai lớn nhà Lan, Đam lấy con gái thứ hai nhà Cầm, Dũng ( tên chồng bà Cầm). Hai nhà gắn bó như một. Các thế hệ hàng phố nhìn vào sự thông gia của hai nhà đó mà thèm. Người già bảo “hai nhà ấy tốt phúc quá, đã thân lại càng thân. Tha hồ bù trì cho con cái”. Đám trẻ ghen với cu Đạo ”nó lấy được cả vợ xinh, nghề ngỗng ổn định lại được bố mẹ vợ coi như con đẻ. Gì cũng dúi cho”. Ấy vậy mà một việc thật vu vơ xẩy ra khiến nhà thông gia keo sơn như thế bỗng có chiều rạn nứt. Mặc dù bà Lan nói hết nước hết cái với bà bạn đã gắn bó với nhau gần sáu chục năm trời. Bà Lan cực chẳng đã vừa lào khào vừa xin lỗi bà Cầm vừa chê chồng:

- Bà bỏ qua cho ông ấy. Nói gì thì nói ông ấy cũng đâu có phải người Hà Nội gốc như tôi với bà. Chỉ có tôi với bà, tôi bảo thật. Người nhà quê ra tỉnh dù có ở Hà Nội đến khươm niên thì vẫn không thoát cái đuôi sĩ diện hão ấy. Bà nghe tôi bỏ qua cho ông ấy, cho các con các cháu nó đỡ tủi…

- Thì hãy biết thế. Dưng mà…

Bà Cầm hơi nhếch mép…

Đúng là chuyện chẳng có gì có thể xem là quan trọng, nó cũng như làn gió thoảng qua vậy mà…

Hôm ấy ngày sinh nhật thằng Bi cháu nội ông bà Lan, Đam - cháu ngoại ông bà Cầm, Dũng. Nhìn thằng cháu ba tuổi lũn chũn chạy. Mắt mở hết cỡ hết nhìn bố mẹ, rồi lại nhìn ông bà nội, ngoại xong chúm môi thổi ba ngọn nến cắm xung quanh con lợn làm bằng bơ trắng xoá. Mắt, môi điểm sô cô la thì bà Cầm nhoẻn cười hỉ hả nói.

- Đích tôn ông bà tuổi lợn. Ông nội cháu thủa hàn vi cũng nhờ lợn mà nên cơ nghiệp.

Ông Đam nghe bà thông gia nói giật mình, đặt chén nước vừa nâng lên:

- Bà nói thế là ý gì?

Bà Cầm vẫn vô tư:

- Thì ông học trung cấp thú y. Cái nghề tưởng vớ vẩn ai ngờ nó lại hay thế.

Mặt ông Đam đỏ hắt lên:

- Cái bà này. Thú ý là thú y thế nào. Tôi đường đường là Phó tổng biên tập báo chứ đâu phải hạng vớ vẩn mà mà… bà 

Bà Lan nghe chồng nói giơ tay nói nhẹ:

- Bà ấy nói thế có hệ trọng gì. 

- Ông đúng là Phó tổng biên tập, tôi có bảo gì đâu mà chỉ nhắc lại cái sự vượng nhà ông do con lợn mà nên.

Ông Đam đứng phắt dậy:

- Bà này đừng có gần chùa gọi bụt bằng anh bỉ mặt tôi như thế. Gì thì gì cũng phải có thang bậc, lớp lang. Thân thì thân thật những đừng vì thế mà xỏ lá, quàng xiên là không được. Tôi là tôi được cả thiên hạ vì nể, nên không thể… 

Thằng Bi nghe thấy ông nội quát ầm ầm oà ra khóc.Thằng Đạo xót con ôm chầm lấy thằng bé, lầu bầu:

- Thú y thì đã làm sao. Bố lạ thật, đang vui…

- Cái thằng này bố mày bằng thật mà mày lại bênh người ngoài sỉ nhục bố mày, rồi đời con mày nữa nó sẽ theo gương, mày sẽ lãnh đủ thôi. 

Ông Dũng thông gia cười hích một cái rồi bấm vợ đứng lên, lặng lẽ ra ngoài. Ông Đam cũng lẳng lặng đi lên gác.

Căn phòng đang rộn rã bỗng lạnh băng. Con lợn bơ trắng môi và mắt điểm sô cô la nâu nằm trơ khấc giữ bàn ngổn ngang cốc, đĩa… Hoang toàng như đám cưới đột ngột có cô dâu bỏ trốn. 

Quỳnh Mai 7.10.2012

Nổi nang làng nước

Năm giờ chiều tháng sáu ngột ngạt, dẫu biết chưa dịu nắng, nhưng bác Dày gái vẫn đẩy tung cửa sổ buồng.

Nắng xiên khoai chọc thẳng vào căn buồng nóng ẩm bốc mùi buồn chán cũ kỹ. Buồng ngủ cửa sổ hướng Tây nên vợ chồng bác hay cãi nhau, lục đục là phải. Nhưng mảnh đất cha mẹ chia cho xoẳn có thế, xoay vào đâu được, chả lẽ xây nhà úp mặt vào đít nhà hàng xóm?

Bác Dày gái vớ mấy bộ quần áo mốc xì bốc mùi mồ hôi chua lòm định mang đi giặt, thì mắt lại vướng phải cái sào ngang buồng treo quần áo giăng đầy mạng nhện và dày bụi, rồi còn những bao thóc chưa khô kiệt chờ phơi lại xong trút vào hòm, đống khoai lang củ thối củ lành, ngổn ngang dưới gầm giường… Có dọn mấy ngày cũng không xuể, mà tâm trạng bác Dày gái thì bấn loạn thế này. Bác cứ làm việc này được một lúc thì lại bỏ dở chạy sang vơ việc khác để làm, việc nào cũng dở dang ráo cả! 

Dạo này bác Dày trai lại giở thói tòm tem. Cả làng Ngọ đồn ầm chuyện bác Dày trai đi chơi gái, thậm thụt với cái đĩ Phên góa chồng ở ngõ Duối, mà lại toàn chơi sang, dẫn nhau đi nhà nghỉ mãi tận phố huyện. Cả đời bác chỉ hầu hạ chồng, sinh giống sinh má cho chồng mà chưa một lần được chồng cho nghỉ, dẫn đến nơi nào sạch sẽ thơm thoáng hơn cái buồng vợ chồng hướng Tây nóng nực ngột ngạt mùi mồ hôi chua, mùi mạng nhện mốc, mùi khoai thối, thóc mục này. 

Bác Dày gái bực bội ném vèo củ khoai thối qua cửa sổ. Bác phải nghĩ cách làm sao để cái đĩ Phên chịu nhục. Phải xé tanh bành nó ra. Nó dám hưởng cái giường nhà nghỉ trắng bóc thơm tho bằng tiền làm lụng cơ cực bán mặt cho đất bán lưng cho giời cả đời bà à.

Bác sẽ đến tận nhà đĩ Phên, vạch mặt chỉ tên con đĩ rạc cho cả làng Ngọ biết, (thực ra cả làng đã biết), cho cháy mặt với xóm giềng (nhưng nếu biết ngượng thì con đĩ đã chả dám ngang nhiên đi nhà nghỉ với chồng mình); sẽ phanh thây, đốt nhà con đĩ (nhưng sau đó con đĩ chết, nhà nó cháy thì mình phải đi tù là cái chắc)…

Suy đi tính lại quay cuồng mà cách nào cũng chưa phải tối ưu. Chửi chồng róc ráy ngày này qua ngày khác thì xấu mặt với con dâu, mà lão ý cũng chẳng chừa. 

- Từ ngày mai, vợ chồng mày gửi con Tép sang bà ngoại hay gửi nhà trẻ thì tùy. – Bác Dày gái tẽ đũa gắp quạc rau lang luộc to tướng bỏ bát mình, nói – Tao sẽ đi làm phu hồ, kiếm thêm tý tiền tiêu, phòng tuổi già.

- Ơ hay, - thằng Cả ngạc nhiên bỏ đũa – thầy, u có sổ tiết kiệm dăm chục triệu cơ mà, u còn tham thế!

- Sổ tiết kiệm thầy mày giữ, giờ chả biết còn đồng nào nữa không hay chơi gái tuột hết rồi! – Bác Dày gái thở dài – Tao phải tự lo thân thôi. Giờ còn tý sức phải kiếm mấy đồng để riêng. Già rồi mới biết dại!

- Thôi, u cứ ở nhà trông cháu cho chúng con – Cô con dâu táo tợn đề nghị - Chúng con sẽ gửi u mỗi tháng ít tiền, u không tiêu đến thì gửi vào sổ tiết kiệm riêng của u. Dù sao bà trông cháu vẫn tốt hơn người ngoài.

- Tao không lấy tiền của chúng mày, mang tiếng bà trông cháu lại đi tính tiền con cái thì chết không nhắm mắt! – Với lại tao cứ ở nhà mãi bí bích lắm! Trong lúc lão già đổ đốn kia vui thú gái gú bên ngoài. Tao chết vì tức mất thôi.

Hôm sau bác Dày gái đi làm phu hồ thật.

***

Rẽ vào ngõ nhà mình, lòng bác Dày nhẹ tâng, môi bác lấp ló nụ cười tủm. Bác nghĩ lần tới sẽ sắm cho người tình trẻ một cái áo lụa màu lòng tôm. Làn da nõn như lòng trắng trứng gà của đĩ Phên mà mặc hàng lụa thì ngon phải biết! Bác nuốt ực nước miếng, tự nhiên thèm điếu thuốc lào.

Đẩy cánh cổng sắt gỉ ngoèn rít ken két của nhà mình, bác Dày không khỏi liếc xéo một cái sang cổng nhà đối diện – cổng nhà Giò, em ruột bác. Em ruột cái chết tiệt! Bác nhổ toẹt bãi nước bọt về phía cái cổng to, nghênh ngang xây gạch vững chãi, với cánh sắt hoa sơn xanh đậm của nhà Giò. Nó sẵn tiền bán đất, xây cái nhà ba tầng cao vượt lên, ngạo nghễ nhìn xuống cái nhà một tầng lợp ngói của nhà bác. Cái cổng cũng xây hoành tráng hơn. Bác Dày giận dữ đá cánh cổng nhà mình khép lại, bước vào khoảng sân hẹp. Quái, sao nhà vắng như chùa Bà Đanh thế này? Chỉ có con chó Vện lao ra, hai chân chồm lên người bác, đuôi ngoáy tít, lưỡi thè ra liếm lấy liếm để tay bác. Bác gạt con chó ra, nhâng đầu gối lên dọa nó. Con Vện vẫn vừa ngoáy đuôi, vừa đi giật lùi tránh bác. Lẽ ra hai bà cháu nhà nó phải ở nhà chứ nhỉ, hay là sang hàng xóm chơi? Nhưng dù thế thì giờ này cũng phải về thổi cơm rồi.

Lôi cái điếu cày giắt sau cánh cửa, nhưng bác không vê thuốc ấn nõ điếu mà dựng cạnh hàng hiên rồi bồn chồn đi ra cổng.

Bác va phải bà Ngông, miệng bỏm bẻm nhai trầu, hai tay chắp sau hông, thong dong đi về phía cổng nhà Giò. Thoạt thấy con trai cả, bà Ngông vội lảng mắt, giả vờ không nhìn thấy. Bà thò tay vào trong cánh cổng, mở cái chốt sắt.

Nhưng bác Dày không để cho đấng sinh thành ra mình thoát đi dễ dàng. Nhanh như cắt bác lao ra, tóm lấy tay bà cụ.

- Bà đứng lại cho con hỏi đã. – Bác Dày cố tình nói oang oang. – Bà nói với vợ chồng thằng Giò chưa? Bao giờ nó giả phần tiền bán đất cho con?

Bà cụ giật mạnh cánh tay, cố thoát khỏi con trai:

- Nó sẽ giả mày, nhưng mày phải để nó có thời gian làm ra tiền đã chứ! Làm gì cứ sồn sồn như l… phải nước sôi thế! – Nói rồi bà Ngông nhổ toẹt bã trầu xuống rãnh nước bên cổng.

- Bà không thể nói thế được! – bác Dày buông tay ra nhưng cố tình dúi mẹ một cái vào cánh cổng – con gia hạn cho nó đến tháng sau, nó mà không nôn tiền thì con ném xăng vào nhà nó!

Loạng choạng lấy lại thăng bằng, bà Ngông điên tiết chửi:

- Tổ sư thằng tim la mất nết! Mày chơi gái hết tiền vợ rồi lại về nã tiền mẹ mày à. Đã thế đừng hòng tao chia phần tiền đất của tao cho mày. Tao để tiền tao ăn quà đến kiếp sau, nhé!

Hồi ông Ngông mất, theo di chúc của ông, mảnh đất tổ tiên để lại rộng năm sào được chia ba phần. Bà Ngông một phần, Dày một phần, Giò một phần. Còn bác Chả, phận gái lấy chồng hưởng phúc phận nhà chồng, không được tính vào đấy. Nhà bác Dày cất lên được một manh nhà lợp ngói, cách đây 15 năm kể ra thì cũng khang trang. Còn bà Ngông ở chung với nhà Giò trong ngôi nhà gianh cũ mà các cụ để lại bao đời, nhà cũ giột nhưng mọi việc yên ổn trôi qua. Nào ngờ dăm năm nay, đất làng cũng sốt lên sình sịch, do có mấy khu công nghiệp từ thành phố di dời về đây. Đất giải tỏa, đền bù xây nhà máy, rồi phong trào cho công nhân thuê nhà trọ… làm cả làng nhốn nháo. Nghe nhà Giò thậm thụt to nhỏ thế nào, mà bà Ngông đồng ý cho thằng Giò bán suất đất nhà nó, dùng tiền bán đất xây lên một ngôi nhà ba tầng ngạo nghễ trên đất bà Ngông. Âm mưu và lòng tham của thằng em thì bác Dày không khó gì mà đoán ra. Thế là bác sang nhà nó nói chuyện phải trái. Bác đòi nhà Giò phải chia cho bác nửa số tiền bán đất. Lý do ư? Bà Ngông trước sau gì cũng về với tổ tiên, phần đất của bà phải chia đều cho Dày và Giò. Nay Giò ở trên phần đất của bà Ngông, coi như chuyện chia chác chưa cần bà Ngông phải sang thế giới bên kia mới diễn ra, mà đương nhiên là phải làm ngay và luôn rồi. 

Nhà Giò tất nhiên hiểu cái lý lẽ ấy, nhưng thứ nhất là bà Ngông còn ở với nhà nó, thứ hai là nó bán đất có tiền thật, nhưng tiền đấy nó xây nhà hết rồi, không có đâu mà trả lúc này. Bác Dày quay sang đòi bà Ngông sang nhà mình ở, bà Ngông đời nào chịu. Anh em máu mủ dùng dằng mãi chuyện tiền nong ấy, thành ra khó nhìn mặt nhau.

Có tiếng xe máy bành bạch. Thằng Cả con bác Dày chạy cái xe Tàu tã tượi đâm thẳng vào cổng, chạy thẳng tới sân. Thấy cha về nhưng nó lỳ lỳ cái mặt, chẳng nói năng gì! Bác đành hỏi nó trước: 

- Sao chả có mống nào ở nhà thế này? U mày đâu?

- Gớm, thầy còn hỏi u làm gì? – Thằng Cả gạt chân chống xe cái tạch – Chim chuột no nê nơi khác rồi thì thôi chứ lị. U tôi chả phải bát cơm thiu.

- Tổ sư thằng mất dạy! – Bác Dày nổi đóa, nhưng nó đã vào nhà và chả thèm nói câu nào nữa. 

Ngồi bệt xuống đầu hè, bác kéo cái điếu cày ra, bắn một nõ. Giờ phải làm thế nào có món tiền kha khá, cuối năm giúp đĩ Phên sửa lại nếp nhà, chứ để ba mẹ con nó chui rúc trong mái gianh nát bấy ấy lòng bác không an. Hôm nọ bác đã bỏ ra ngót chục triệu khoan cái giếng cho đĩ Phên đỡ vất vả, sổ tiết kiệm giờ còn chưa tới năm triệu, vài lần cùng đĩ Phên hẹn hò trên phố huyện nữa là hết xoẳn! Ngước mắt coi cái nhà ba tầng đối diện của thằng Giò mà lòng bác lại uất hực lên.

***

Đều đều hắt từng xẻng cát lên cái sàng mắt lưới dựng nghiêng, bác Dày gái vẫn không nguôi nghĩ về cái sổ tiết kiệm chung bị lão chồng đổ đốn chiếm dụng đi chơi gái. Đúng là chả cái dại nào giống cái dại nào. Giờ già rồi mới biết dại! Hời ơi, buồn nẫu ruột! 

Một đôi ủng đen lép nhép dính vữa đẩy cái xe rùa chở cát lại gần, mũi bác Dày gái thoảng mùi mồ hôi đàn ông chua mặn khẳn. Không hiểu sao bác Dày gái lại thấy dễ chịu, bác chống xẻng nhìn lên. Lão Bò nháy mắt với bác, giọng hỉ hả:

- Còn khỏe gớm! Xúc cát nhoay nhoáy ăn đứt chán vạn đám thanh niên rơm rác. Này, chiều nay xong việc ta xuống giữa làng vào quán thịt chó nhà Nghênh làm tý cho vui?

- Phải gió nhà ông! – Bác Dày mắng, nhưng lòng bác nhẹ tâng như có gió thổi. – Đàn bà con gái vào quán rượu thịt chó để cả làng nó chửi cho à.

- Gớm! Già rồi sợ chó ai. Đến lúc xuống lỗ không được miếng dồi chó thì phí cả đời – lão Bò cười rinh rích đắc chí, rồi hạ giọng nhẹ nhàng – có bi đông nước nhân trần tớ để trên đống gạch, ra mà tu cho mát ruột, nhá!

Rồi lão đẩy cái xe rùa đi, tuyệt không vương hạt cát nào ra đường, người đâu mà khéo tệ! Bác Dày mỉm cười, lão Dày thổ tả nhà bác có bao giờ biết nói ngọt hay mời vợ được miếng nước nào đâu, kể cả khi vợ ốm. Rõ thật là… Hay tối nay cứ đi rượu thịt chó với nhà Bò? Cả đời bác giữ tiếng gái ngoan đàn bà chính chuyên, có bao giờ dám ngồi quán xá!

Mà gái hư thì sao chứ! Như cái đĩ Phên ấy, mặc làng trên xóm dưới xì xào, mặc cho những bà những cô tam tòng tứ đức dài môi bĩu mỏ chửi sau lưng nó là đồ đĩ, nhưng rút cục nó có làm sao! Con đĩ ấy lại còn tươi mơn mởn ra, được đàn ông chăm nom thèm thuồng đưa đón, còn được đến nhà nghỉ phố huyện nằm tênh hênh cho mát hĩm. Tặc lưỡi. Bác quyết định. Dẫu biết dở dang thì cũng mặc. Cùng lắm đến lúc buông tay rồi thì chỉ cần “lục bản mộc, nhị lạng đinh” là thăng chứ gì!

Miếng dồi chó nóng thơm, béo, bùi, ấm chân răng, một tợp rượu nếp ngòn ngọt cay cay xộc lên mọi ngõ ngách ngũ giác, thông cả tâm tình tắc tị bấy lâu. Cả đôi già tuôn chuyện như thác đổ, chuyện con cái, chuyện chồng vợ đểu như nhau, câu chuyện bện vào nhau chặt như vặn thừng. Dưới ánh đèn điện vàng vọt nhờ nhờ từ cái bóng nhỏ bằng hạt lạc, hai mái đầu đen bạc lẫn lộn khật vào nhau, hương rượu, mùi thịt chó gây gây ngậy ngậy quện vào câu chuyện nhừa nhựa. Chưa bao giờ Dày gái thấy đời nhẹ như thế, hay như thế, càng uống càng hay!

“Thi thoảng bà đi rượu thịt chó với tôi cho vui nhé”. Lão Bò nói ân cần trước khi liêu xiêu bỏ đi. Dày gái tần ngần đứng nhìn theo cái dáng liêu xiêu ấy một lúc thì về nhà. Giá lúc này, có một mái nhà riêng, bác về đó, lăn vào giường ngủ một mình trong hơi ấm cuộc rượu vương lại, không chồng, không con, không cháu, như thế có phải là cái hay được trọn vẹn không.

Nhưng bác lại phải về nhà, trong nỗi ước ao giá có một đêm được cô đơn trọn vẹn, đổi một đêm làm người đàn bà vô chủ, bác xin trả bằng những tháng năm còn lại. Cái kiếp đàn bà chồng con đề huề ấy đã tàn sau một cuộc rượu hay, sau một lần tuyệt vọng, nó vô nghĩa làm sao!

Bác phải về nhà, nơi có người chồng sống chung ba chục năm trời có lẻ, để lão chửi bác tơi bời vì dám đi uống rượu với giai, già rồi còn đổ đốn. Chẳng nói chẳng rằng, nương theo hơi men, bác vớ cái lu sành đầu hiên nhà ném thẳng vào đầu chồng. Lão né được, lu sành vỡ toang. Lão lao vào túm tóc vợ, giáng cho mấy cái tát như trời giáng. May mà thằng con giai xông vào lúc ấy, đạp bố nó ra, nâng mẹ dậy, bác Dày gái mới thoát.

***

Bác Dày gái lôi cái gương tròn nhỏ viền đồng từ thời con gái dưới đáy hòm lên, bước tới bên cửa sổ. Vệt tím trên má từ cái tát của lão già lang chạ còn hằn trên má rõ quá biết hôm nào mới tan, mà nhóm thợ xây hôm nay lại gọi bác rồi. Bác chải thật kỹ mái tóc đã khô, xơ và rụng vợi hơn nửa so với thời con gái, thở dài thườn thượt. Búi gọn tóc lại, bác chọn một cái áo cánh màu tươi. Kể ra đi làm phu hồ mà mặc áo này thì không tiện lắm, nhưng cái áo rõ đẹp, không bây giờ thì bao giờ? Và bác muốn trông mình tươi thắm hơn. May nó đã lâu, thích lắm nhưng bác có dịp nào để diện nó đâu, ngoài việc đi làm? Mấy hôm nữa cưới con nhà Giò, nhưng lão Dày đang thù thằng em thế thì mặt mũi nào đi ăn cỗ? Thôi cứ mặc cái áo này đi phu hồ vậy, được lúc nào hay lúc ấy.

Lão Bò giữ càng xe rùa, nháy nháy mắt:

- Áo mới hả? Trông giòn gớm!

- Mới gì! Mấy năm rồi, nhưng ít mặc. Chả có lúc nào muốn mặc!

- Ăn cho mình, mặc cho người! Phải vì ai thì mới mặc áo đẹp chứ! Lão Bò khoái chí rinh rích cười.

Công việc nặng nhọc bỗng hóa nhẹ nhàng vì những tiếng cười, lời qua tiếng lại, những cái ngắt véo xen những cử chỉ quan tâm.

Cuối chiều, lúc bác Dày gái và lão Bò vừa kịp ngồi vào bàn rượu thịt chó thì có kẻ không mong đợi xuất hiện.

- Gớm nhỉ, bà bắt quả tang thằng ngô con đĩ nhá! Già long già lở mà còn dám tìm dựa hơi giai à!

Bác Dày gái chưa kịp đối phó thì vợ lão Bò đã nhảy xổ đến, vơ bát mắm tôm trên bàn đổ ụp vào đầu bác, tối tăm mặt mày, nào bát, nào ghế túi bụi ném vào người bác.

Sau một hồi giằng xé, cuối cùng bác Dày gái cũng thoát được. Bác ù té chạy ra giếng làng, giúi đầu xuống gột mắm tôm, rồi bác vừa khóc vừa nhảy ùm xuống giếng làng, dìm ngập người một lúc, trôi lơ lửng như xác chết. Mặc cho nước mắt tan ra, mong nỗi cực nhục sẽ tan ra, hòa nhạt trong nước. 

Đêm ấy bác Dày khóc suốt, cả làng đã biết chuyện. Nhưng bác hận, hận chính mình. Lẽ ra bát mắm tôm ấy phải đổ lên đầu cái đĩ Phên với lão chồng đốn mạt của bác. Tại sao bác hèn thế, bác không dám đánh tung xác con đĩ Phên, mà lại để vợ nhà Bò đánh ghen bác tan tác xác thân thế này! Bác phải làm cái gì chứ!

Lòng u uất, bác Dày gái dậy sớm, đi bộ lên phố huyện. Cái đầu miên man đưa chân bác đi. Cái đầu thì mệt mà cái chân không biết mệt. Đây rồi, dãy nhà nghỉ! Chắc đĩ Phên và lão Dày thường lui tới sung sướng ở đây. Bác mong sẽ gặp chúng ở đây sáng nay, bác sẽ trút lên chúng đòn thù. Lúc đầu bác còn ngó nghiêng bên ngoài, sau thì bác vào hẳn bên trong nhà nghỉ, hỏi giá thuê phòng, lên tận phòng xem mặt mũi ruột gan phèo phổi cái nhà nghỉ nó ra sao mà đời bác chưa một lần tiến kịp tới cái giường của nó đã bị đánh ghen tơi bời.

Xế trưa nắng chói gắt, máy lạnh trong cái nhà nghỉ làm bác ngây ngấy sốt khó chịu. Bác Dày trả phòng, trả tiền rồi xót ruột đi bộ trở về làng. Bác mong cái mệt cái đau thân xác sẽ tới để cái đầu bớt nặng. Không nghĩ được gì sáng suốt trong lúc này, đôi chân theo thói quen đưa bác về nhà. Có lẽ bác cần ốm một trận thật nặng. Trong lúc nằm ốm, bác sẽ nghĩ cách thay đổi, nếu không nghĩ ra, bác sẽ cứ thế mà ốm chết thôi.

Giữa chiều, nhà vắng tanh. Vợ chồng thằng Cả đi làm, cháu đi nhà trẻ. Còn lão Dày thì… Bác chợt lắng tai nghe, cả cơ thể bác mở toang các lỗ để lắng nghe.

Bác đạp tung cửa buồng hướng tây. Chồng bác tơ hơ vội dừng điệp khúc dập dình trên thân thể trắng lôm lốp của cái đĩ Phên. 

Định thần lại, bác Dày gái ném bất cứ cái gì vớ được vào hai con sâu dục kia và cố hét thật to, nhưng chúng chỉ thoát ra thành tiếng nấc cụt.

Chỉ một loáng sau, bác Dày gái thấy mình đã bị nhốt lại trong cái buồng hướng tây của mình. Hai kẻ nọ khỏe hơn đã khống chế được bác. Trong cơn điên giận bất lực cuồng loạn, bác Dày gái run rẩy lôi chai thuốc sâu trong góc buồng ra, nốc cạn. 

***

Đám tang bác Dày gái phải ách lại một ngày sau đám cưới con nhà Giò. Cười trước khóc sau. Luật làng thế rồi. Bác Dày gái nằm buông kín màn, mặt phủ tấm giấy bản. Em gái bác ở làng dưới lên khóc lăn lộn nhưng cấm kêu to một tiếng, kẻo ảnh hưởng tới đám cưới bên kia.

Họ hàng hai bên nhà bà Ngông được cái tiện thể. Hôm nay đi ăn cỗ cưới, mừng cho nhà Giò xong thì tạt ngay sang cổng nhà đối diện, hỏi thăm đám ma luôn. Bên đám cười ồn ào xôn xao, bên đám khóc thì thào cố nín lặng. Nỗi đau này không thể ca hát lên, cũng không thể bù lu bù loa lên.

Việc ai nấy làm.

Chỉ có bà Ngông đi ra đi vào áy náy không yên. Còn lão Dày ngồi thừ lừ ở đầu hè suy tính chuyện tương lai…

Tiếng mì gõ “xực tắc” và manh chiếu cạp điều rách

Thằng con trai tôi – Dũng - hai mươi tuổi. Một hôm nó xin:

- Đêm nay con không ngủ nhà.

- Ngủ nhà ai?

- Đi theo thằng mì gõ.

- Được. Tôi cho phép.

Nhưng nó không đi một đêm mà đi suốt cả hai đêm.

- Sao? Tôi hỏi.

- Được lắm ba!

Sau đó nó lại đi lang thang, đêm nó ngồi viết, cũng viết gần sáng đêm. Nó đang học lớp Đạo diễn Điện ảnh đã đến năm thứ ba. Sắp hết kỳ một và đến hết kỳ hai thì nó ra trường. Nó đang làm bài tập.

…Sau mấy đêm thâm nhập thực tế, bây giờ nó ngồi viết.

Nhớ lại hơn 40 năm trước, cũng ở tuổi hai mươi, thì tôi bắt đầu viết. Tôi cũng thức trắng đêm. Sức trai mà. Mất sức vì nghệ thuật là niềm hạnh phúc.

Trước đây thấy nó thức khuya, tôi và mẹ nó bao giờ cũng nhắc nó đi ngủ. Bây giờ thì không.

Từ bốn, năm năm nay, tôi với nó thường hay bàn về thơ nhạc và điện ảnh. Tôn trọng nó, tôi chẳng bao giờ chen vào việc của nó, cái nào nó cho đọc thì đọc, cái gì nó giấu thì thôi.

Viết xong nó kể: Nhân vật chính là thằng Mì gõ (Nó gọi người bán mì gõ bằng thằng với giọng thân mật, theo cách gọi thông thường của dân Nam Bộ, miền Trung).

Điều này tôi không sát bằng nó. Nó kể:

- Trong hai đêm đi theo Mì gõ, nhờ đó mà con hiểu được cảnh sống của những người nghèo ở thành phố. Có lẽ không ai thấy và chứng kiến nhiều cảnh đời khác nhau bằng thằng Mì gõ. Theo nó, con chứng kiến một anh xích lô say xỉn chở vợ về. Anh xích lô cho vợ đi đêm nhưng anh lại ghen. Vừa đạp vừa chửi toáng lên cả con đường vắng. Xe đỗ lại dưới gốc cây, anh ta kéo vợ xuống, đánh đấm túi bụi. Người vợ chỉ biết ôm bụng khóc. Rồi sau đó hai người lại nằm ôm nhau trên tấm vải nilông dưới gốc cây. Vừa khóc vừa quấn lấy nhau.

Mì gõ lại đi qua một vỉa hè có hàng chục người nằm xếp bên nhau. Con dừng chân nhìn một người không thể đoán là bao nhiêu tuổi. Trên thân chỉ có một chiếc quần đùi. Trời lạnh, không có nổi một cái mền, một chiếc chiếu hay một tấm nilông mà mặc một chiếc áo mưa lè xè mỏng tanh, thấy hết thân người. Tất cả hình ảnh này sẽ nằm trong ống kính của con. Nhưng con nghĩ, đưa lên những hình ảnh như vậy không biết có bị chụp là bôi đen chế độ hay không?

(Nguyễn Quang Sáng, “Tô Mì gõ bài hát Hoa trắng rơi”, Văn Hhóa - Văn nghệ Công an số tháng 1 năm 1999; trang 39, 40) 

Chỉ trong một đoạn văn ngắn, Nguyễn Quang Sáng tạo cho tôi cùng lúc ba cảm xúc rất rõ rệt:

1. Nguyễn Quang Sáng thể hiện được phong cách “nhà văn, nghệ sĩ, trí thức” ở cư xử với con trai ông. Trong đó, có sự tôn trọng của một cá nhân này với một cá nhân khác. Dường như, đây là điều không phổ biến lắm ở giới cha mẹ Việt Nam sống trong nước vào lớp tuổi Nguyễn Quang Sáng. Hơn nữa, ở sự tôn trọng của ông dành cho con trai, còn ẩn tàng một lòng thương yêu săn sóc. (Ngược lại, giới cha mẹ Việt Nam ở hải ngoại thì lại mắc phải một hội chứng khác: Sợ con cái của mình.)

2. Mì gõ, mà dân Sài Gòn trước 1975 thường hay gọi là mì “xực tắc”. Mì chỉ bán về đêm. Một chiếc xe đẩy được trang bị lò bếp, một thùng nước lèo luôn bốc khói nóng hôi hổi. Trong “tủ” xe có ngăn để tô, muỗng đũa, rau hành gia vị v.v... Một người đẩy xe. Một thằng nhỏ đi theo cầm hai thanh tre đã lên nước đen bóng gõ vào nhau tạo ra những âm thanh liên tục như “xực tắc! xực tắc!”.

Thằng nhỏ phụ việc này vừa làm công tác rao hàng bằng tiếng gõ “xực tắc”; vừa sẽ là waiter (người phục vụ, bồi bàn…) chạy đi lấy order (đơn đặt hàng) khi có khách từ những ngôi nhà hai bên đường réo gọi.

Điều tất nhiên, những người bán mì “xực tắc” là những nhân chứng sống của những xóm lao động, những con hẻm, những góc phố. Mì “xực tắc”, là kỷ niệm một thời thơ ấu của tôi. Là món quà đêm mà tuổi nhỏ tôi rất yêu thích, và chẳng phải lúc nào đêm nào cũng được ba mẹ cho ăn. Yêu thích cùng với những xe mía hấp. Những gánh “chè đậu xanh bột bán nước dừa đường cát trắng”.

Tôi nhớ, đã có lần tôi hỏi mẹ tôi: Mẹ! Như vậy là có một thứ đường cát đen, sao con chưa bao giờ thấy? Câu hỏi tôi được mẹ trả lời kèm một nụ cười: Đường cát trắng là đường tốt. Không có đường cát đen đâu con. Chỉ có đường cát vàng mà người ta thường dùng để làm bánh phồng hay nêm nếm đồ ăn. Đối với mẹ tôi và hầu như “mọi người Việt Nam” thời đó, đường cát trắng mới là thứ đường tốt, quý, và nó đắt hơn đường cát vàng hay nâu. Bây giờ, vào Starbuck uống cà phê, tôi chỉ uống với đường cát vàng và sợ đường cát trắng. Vì đường cát trắng “xài” nhiều chất hóa học... để làm cho nó trắng!

Mì gõ, mì “xực tắc”! Nguyễn Quang Sáng đã khơi dậy trong tôi cả một thời tuổi nhỏ.

3. Hình ảnh ghen tuông và lối yêu thương trong sự đọa đày nghèo khó của cặp vợ chồng anh đạp xích lô say là một khắc họa rất đậm nét của xã hội Việt Nam! Không chỉ dưới thời bây giờ, mà hầu như thời nào cũng có những cảnh tương tự xảy ra ở những thành phố lớn của Việt Nam, đặc biệt là Sài Gòn (hay Hà Nội)... Tôi nghĩ vậy.

Nghèo, khổ, là hai thứ gia tài đặc trưng “của mẹ để lại cho con” người đất nước Việt Nam. Tháng hai năm 1974, một buổi sáng tôi có việc đến tìm người bạn ở đường Đinh Tiên Hoàng, Gia Định. Lúc ấy chừng khoảng sáu rưỡi, bảy giờ. Nhà bạn tôi nằm trong một khu phố trung lưu bình dân, kiểu hai bên đường là nhà hai tầng đấu mặt vào nhau, cách giữa là một con đường nhỏ vừa là sân chơi của trẻ em trong phố.

Trước sân nhà bạn tôi lúc ấy, ở góc nhà kề bên có hai đứa bé. Một đứa bé gái khoảng hai tuổi trên mặc chiếc áo thun màu cháo lòng, dưới cởi truồng đang bò lê la. Một đứa bé trai chừng ba tuổi cởi trần, dưới mặc quần đùi sọc mòn đang đứng vạch cu đái khơi khơi.

Ngay sân nhà bạn tôi, trên một manh chiếu hoa rách bươm là một đống giẻ rách nhấp nhô... Nhìn kỹ, mới thấy một người đàn ông đang nằm trên một người đàn bà trong tư thế làm tình. Phủ lên họ là một chiếc mền vá chằng vá đụp đủ màu. Họ đang làm tình một cách yên lặng, và dường như cả hai đều nhắm tịt mắt đê mê nên đã không nghe tiếng chân tôi cũng như không thấy tôi đang đứng ngay cửa nhà và sắp gõ cửa. Tôi đành nín thở và nhẹ bước qua một góc khuất gần đó, chờ... Tôi chờ cho hai vợ chồng (hay tình nhân gì đó) kia... làm xong công việc thiên nhiên của đàn ông và đàn bà với nhau, rồi mới gõ cửa để gặp bạn tôi...

Trong thời gian đứng chờ, tôi miên man suy diễn về cái cộng đồng bốn người: Một đàn ông, một đàn bà và hai đứa bé nheo nhóc. Họ là một gia đình ngày sống trên vỉa hè. Đêm về ngủ trước sân nhà ai đó hay một gậm cầu, hay bất cứ đâu... Gia tài của gia đình họ là chiếc chiếu hoa cạp điều rách bươm chẳng biết họ đã có được bằng cách nào và từ đâu....

Tô mì gõ “xực tắc”, chiếc chiếu hoa cạp điều rách bươm cũng là niềm  hạnh phúc? Có bạn vì tự ái dân tộc hay vì lòng yêu nước quá độ, sẽ xỉa xói tôi và nói rằng: “Chuyện! Người nghèo khổ ở đâu, ở đất nước nào mà chẳng có. Tôi đã từng đọc của ông trong truyện ngắn “Người đàn bà mặc áo măng tô màu xám”, ông cũng tả một cặp tình nhân đàn ông Mỹ đen đàn bà Mỹ trắng mùa đông ôm nhau làm tình trong một đống chăn ở hè phố New York... Đúng không?”

Dạ thưa, đúng như vậy! Đúng là người nghèo khổ ở đâu mà chẳng có. Ngay trên đất Mỹ văn minh giàu có bậc nhất thế giới đây cũng dẫy đầy những người nghèo khó sống trên vỉa hè, ngủ trong gậm cầu hay lề đường, công viên hay bất cứ đâu... Nhưng sự nghèo khổ của những người Âu châu, người Mỹ chắc chắn không phải là nét đặc trưng của quốc gia họ.

“Tình nghèo mà vui” quả là một điều đôi khi có thật. (Tôi phải đồng ý điểm này, nhưng chẳng phải mối tình ”nghèo” nào cũng “vui” và dĩ nhiên “tình giàu” chắc chắn... phải vui hơn. “Nghèo” mà “vui” hay “nghèo” mới “vui”... không phải là một định luật, chỉ là một lời an ủi hên xui!).

Anh xích lô say sau khi đánh vợ vì ghen, cả hai vừa ôm quấn lấy nhau vừa khóc. Hạnh phúc bình dân ít học.

Cũng như thế, cặp tình nhân chàng Mỹ đen với nàng Mỹ trắng trong đống chăn mền ở vỉa hè New York mùa đông và “gia đình” bốn người một manh chiếu hoa cạp điều rách trước sân nhà bạn tôi đường Đinh Tiên Hoàng không giống nhau.

Sự thê thảm không ở những đôi tình nhân hay vợ chồng nghèo. Nếu có, cũng in ít thôi. Cũng vừa phải thôi. Sự thê thảm thể hiện mãnh liệt từ hai đứa bé; đứa trần đứa truồng lê la trên hẻm phố vào một buổi sáng tinh sương... Trong khi cha mẹ chúng đang làm tình. Đang làm công việc tiếp tục sản sinh ra những đứa bé mà tương lai cũng sẽ trần truồng lê la trên vỉa hè đường hẻm!

Tiếng mì gõ. Tiếng mì “xực tắc”. Manh chiếu hoa cạp điều rách bươm. Những đống chăn mền hôi hám trên vỉa hè New York. Tấm mền rách vá chằng đụp ở phố hẻm Đinh Tiên Hoàng, Gia Định. Tôi đã đi một vòng trái đất để tìm một cái gì đó mà tôi chưa định hình định tướng được rõ ràng.

Văn chương, thi ca, hội họa... nghệ thuật nói chung của Việt Nam đang rất cần có rượu nồng, thịt béo và bàn trải khăn hồng khăn trắng.

Con trai Nguyễn Quang Sáng không bôi đen… chi hết! (Nay anh đã là một đạo diễn điện ảnh trẻ có tiếng tăm - Nguyễn Quang Dũng -có biệt danh là Dũng khùng). Trên trái đất này, ở bất kỳ xã hội nào mà không có rất nhiều những mảng khuất đen tối? Vấn đề là chúng ta phải biết theo chân những “thằng gõ mì xực tắc” để nhìn thấy được những mảng đen tối đó ở đâu và như thế nào thôi

Truyện ngắn "Bói trinh"

Khi tôi biết đóng thẳng chiếc đinh đầu tiên lên tường, má lắc đầu thở dài.

- Đàn bà, chỉ nên biết những thứ trong chừng mực mình cần biết. Đàn ông lấy một người đàn bà, chứ không ai tự cưới cho mình một người đàn ông nữa trong nhà đâu con.

Tôi cười, thấy mình chua chát với ý nghĩa nhân sinh của kiếp đàn bà.

- Con chỉ cố sống mạnh mẽ như má thôi mà.

- Đâu cần phải thế, hở con?

Má là người đàn bà từng trải, và má hiểu một người đàn bà cần những gì đủ chỉ để làm một người đàn bà. Nhưng tôi chỉ mới là một đứa con gái mới phát tướng làm thiếu nữ. Tôi đang đi theo một bản năng dẫn dắt. Đi theo thứ bản năng dư thừa cảm thức nhưng lại thiếu lý trí, nên có lẽ mọi thứ trở nên quá mù mờ.

***

Má nói đàn bà cần nhiều nhất là sự nhẫn nhịn. Tôi không có sự nhẫn nhịn lành tính của đàn bà. Mỗi lần bắt gặp tôi đánh nhau với một thằng con trai trong xóm, bao giờ má cũng mặc kệ tụi nó đánh tôi bầm tím tay chân. Má mang tôi về, vừa tha thuốc dấu, vừa cằn nhằn.

- Đàn bà con gái, chỉ nên nói những thứ người khác muốn nghe. Đừng có lắm lời, cãi nhiều chỉ khổ thân.

Má vừa xoa chỗ bầm, vừa lẩm bẩm khuyên nhủ. Những cục máu biến màu dưới da tôi tan đi. Lời của má nói cũng lảng vảng loang dần, như những bóng ma khói sương trong buổi chiều cô tịch, nắng đổ dài lên nóc tranh của ngôi nhà thiếu hơi đàn ông.

Tình yêu tới, đôi khi như một kẻ du lịch lạc loài và không được chào đón. Những bà thầy bói nửa thánh nửa tà phán, số tôi lấy chồng lớn tuổi. Người nói vía tôi nặng, nên cần người lớn tuổi hơn tôi gánh vác. Người nói tiền kiếp tôi sinh trong một nhà hiếm muộn, được phước lộc nhiều nên kiếp này phải đầu thai vào một gia đình chồng... muộn vợ để trả ơn. Má dẫn tôi qua từng ấy chỗ, mỗi cái Tết mỗi bà thầy. Lần nào má cũng chỉ thở dài, vắn tắt nói cảm ơn, vén tấm rèm bốc mùi nhang trầm hoai hoải.

- Về con. Chắc chỉ nói vậy thôi. Chồng con là duyên số!

Càng lớn, tôi càng thấy má lẩn thẩn. Nhưng niềm tin của má vào những lời phán u u mê mê hoặc, nửa trần thế nửa địa phủ kia càng lớn lên. Má dòm ngó những người xúm xít quanh tôi. Má dang cánh như gà mẹ che cho gà con trước mỏ diều hâu.

- Má à! Con lớn rồi mà.

- Ai mà biết lớn rồi thì còn chuyện gì nữa?

- Chuyện gì tới nó tới má à!

- Kệ tao. Lo kệ tao lo....

Má dỗi. Mái tóc trắng một nửa của má rung rung lấp ló những đốm sáng lanh chanh nhảy nhòa cả mắt.

***

Tôi yêu bạn cùng lớp đại học, hơn tôi hai tuổi, ma mãnh hơn, thông minh hơn, nhưng không đủ già để có thể trở thành chồng tôi như dự kiến của thánh thần và những thiên sứ mặc áo thụng đen, nói lào khào trong hương nhang khói mù mịt của họ. Tôi không kể cho Thức nghe về những lời phán nguyền về số phận đường tình duyên sau này của mình. Tôi đang yêu, yêu mãnh liệt và tự do, yêu không cần ngày mai sẽ còn có thế giới này hay không. Tình yêu không toan tính thường chỉ sống qua từng ngày, chứ không dài theo năm tháng và những kích thước có thể ước lược của không gian. 

Thức đóng những mắc đinh trên tường chắc chắn hơn. Những nụ hôn ngẫu hứng nồng nàn và ngọt. Thỉnh thoảng, Thức nếm những vá canh âm ấm trên bệ bếp cùng tôi, môi chạm môi.

Nhà Thức ở phố. Những hôm không học ở Thủ Đức, Thức rủ tôi lên Văn Khoa ở đường Đinh Tiên Hoàng ngồi. Từ khi trường xây khu mới, wireless tràn ngập khu giảng đường lát đá hoa cương màu nâu đỏ, Thức mang thêm laptop lên trường. Sau giờ học, hai đứa lẩn quẩn vào mạng, viết blog, comment qua lại và thỉnh thoảng lén hôn nhau khuất sau bệ đá đen bóng. Thức viết những entry rất trầm uất trên blog. Tôi đọc sau những nụ hôn, bàng hoàng thấy xa lạ và hình như là không hiểu được Thức bao nhiêu.

***

Tháng năm. Những buổi học cuối kỳ ồn ào co cụm trong nắng nóng. Thức đưa tôi về nhà Thức ở phố. (Với tôi, chỉ là con phố như mọi con phố khác). Hai đứa nằm lăn ngủ ngả ngớn bên nhau. Chạng vạng. Ba Thức đi làm về, thả cặp trên bộ salon, ngay cạnh chân con chó lười biếng đang nghếch mõm lên chân hai đứa tôi ngủ ngày.

- Ăn gì chưa mà ngủ hai đứa.

Thức gãi gáy, làu bàu trong cơn mê ngủ.

- Dạ rồi... Để con ngủ đi mà...

7 giờ tối. Thức đưa tôi về. Ngôi nhà u u sáng hai ô cửa sổ phòng phía Tây, như đôi mắt nhoài theo bóng đêm để bắt chân mặt trời ở lại.

***

Sài Gòn bắt đầu đẫm mình trong những cơn mưa. Thức chở tôi ào qua những khung kính lấp lánh nước no nê ánh đèn. Sau lưng, gió bị bỏ rơi hực lên những hồi vụt vụt không rõ là giận hờn hay tức tối.

Tôi ở nhà trọ cấp bốn. Thức ở nhà mặt phố có sân và những con chó lười biếng sủa dăm ba tiếng đáp lại chuông cửa rồi thôi. Đôi khi, hai đứa cứ chở nhau chạy đi chạy về giữa hai nơi. Tôi bảo, khi nào đoạn đường này ngắn bằng một centimet chúng tôi sẽ lấy nhau. Thức nhìn trừng trừng vào những khóm hoa má Thức trồng trong chậu kiểng của ba. Chúng chết khô, quẹo đầu vào nhau. Những lúc như vậy tôi thấy Thức xa xôi, như một cái bóng mờ trong những cơn ác mộng, cứ bám mãi sau lưng, nhưng tôi lại chẳng bao giờ với tới được.

***

Sinh nhật Thức hai mươi ba tuổi là một ngày mưa. Thức đến nhà tôi trong bộ dạng ướt sũng, mặt đầy nước. Không biết là nước mắt hay nước mưa.

- Đi chơi với anh nghen.  Giọng Thức run rẩy, ướt nhem.

Tôi lặng lẽ chui vào nhà tắm thay đồ. Thức đi theo, đứng ngay lưng cửa gấp khi tôi chéo tay cài móc áo ngực sau lưng. Những giọt mưa tròn trịa còn nhỏ giọt trên cánh mũi Thức. Chúng tôi nhìn nhau. Lưng trần. Mặt trần. Những nỗi đau trần trụi buông thả vào nếp áo chưa khép kỹ, rơi vào nhau ở một khoảng hõm mênh mông.

- Ba má anh ly dị rồi, hôm nay...

Thức đẩy tôi vào tường. Cánh tay trái còn nằm tréo dưới lưng, tưng tức. Thức úp mặt vào ngực tôi khóc. Những giọt nước mắt đàn ông lành lạnh cuốn trôi đời thiếu nữ của tôi vào dĩ vãng.

***

Tôi không còn cầm búa đóng đinh vào những bức tường trơ khốc những vụn cát không tô kỹ. Những cái móc treo tường vừa khít và chắc chắn. Tay tôi dành để Thức cầm. Thức thường tẩn mẩn đánh thức cảm giác đầy ắp trong tôi bằng những nụ hôn ngắn, chi chít khắp cánh tay, da mặt, trên vùng ngực tôi đã để Thức khóc trôi đời thiếu nữ của mình.

Khi những cảm giác bị đẩy lên đến định mức giới hạn cuối cùng, tan dần ra rồi rơi thõm xuống, lòng tôi rơi vào cảm giác trơ khấc khô khan. Ra vậy! Cứ nghĩ ngợi và tin tưởng mù quáng rằng tôi sẽ thành đàn bà bởi một người đàn ông khác, trong một khung cảnh khác... Nhưng rốt cuộc, cũng chẳng có gì khác nhau giữa người này và người kia. Cũng chẳng có gì liên quan giữa tôi và Thức trong việc tôi đã trở thành một người đàn bà. Đơn giản chỉ là như vậy. Như một cái giá tôi phải trả cho chuyện tình yêu, như cuộc sống này vốn dĩ nó vậy. Thế thôi!

***

Thức vẫn viết những entry xa lạ. Tôi vừa viết đề tài tốt nghiệp vừa comment hết câu này đến câu khác. Chúng tôi thôi gặp nhau, hệt như một mối dán bằng keo chưa kịp khô đã bị dính nước. Rã ra, rơi lả tả như những con thiêu thân thả mình vào đêm.

- Mình không gặp nhau một thời gian.

Tôi nói trong khi khuấy cà phê trong một góc quán khuất, không biết là mình đang đề nghị, đang hỏi hay đang tự trả lời cho chính mình. Thức không trả lời. Chỉ có tiếng đá chạm vào thành ly lanh canh. Không buồn, không vui! Bàn tay Thức để hờ trên ve áo tôi bất động. Đã hai tuần, giữa chúng tôi có cái gì đó lợn bợn, khó hiểu và lặng lẽ. Tưởng như thời con gái của tôi đã hóa ma, treo lơ lửng giữa tôi và Thức như một thứ trang trí. Với tôi, nó gần như chỉ là một thứ hình thức trá hình, nhưng cũng không đồng nghĩa là nó vô giá trị. Tôi không có cảm giác khác nhau giữa cuộc sống của một người đàn bà và một nàng trinh nữ. Nhưng tôi cũng không còn là tôi trước những ngày đó nữa. Cái cảm giác đó vô hình, bất động, nhưng nó có sự im lặng chứng minh rằng nó tồn tại. Nếu tôi và Thức không còn gặp nhau, có lẽ nó cũng sẽ tự biến mất.

***

Tôi mở chuỗi ca khúc Bài không tên của Vũ Thành An trên máy tính vào buổi đêm. Giữa tôi và Thức bây giờ là sự cô độc xa lạ. Thức cô độc trong cuộc sống của Thức. Tôi cô độc trong cuộc sống của tôi. Hai sự cô độc xa lạ với nhau. Kể cả khi thân xác chúng tôi gắn kết, bản thể của chúng tôi vẫn nằm rời như hai hạt cát bị sóng đánh tời trên bãi biển. Tôi đã nghĩ, trong lúc Thức suy sụp và đau khổ, chúng tôi có thể tiến vào trong tâm thức của nhau, tôi có thể lấy mảnh dằm vừa xóc vào lòng Thức. Tôi đã thử. Nhưng chúng cắm quá sâu. Sâu hơn sự thấu hiểu của một người con gái lần đầu tiên bước qua vùng tối thời thiếu nữ. Tôi chỉ không biết với tôi, nơi nào là dĩ vãng. Trước khi tôi trở thành người đàn bà của Thức, hay sau đó mới là bóng đêm không tên của thời gian?

***

Tôi kể má nghe về Thức, rất lâu sau khi chia tay. Tôi cũng không hẳn coi đó là sự chia tay. Tôi nói với má rằng hai đứa không còn gặp nhau lâu lắm rồi, không có cảm giác gì về nhau lâu lắm rồi. Vậy thôi!

Má thở dài, rất dài. Dài hơn cả những nụ hôn khi yêu của Thức. Tiếng thở dài của một người đàn bà có trả lại sự trinh trắng cho một người đàn bà khác không?

Chắc không.

***

Má không còn đi bói duyên cho tôi nữa. Tôi và Thức không gặp nhau. Cuộc sống chìm vào giữa những thói quen vô thức. Quên cũng là một thứ cảm thức vô giác. Thỉnh thoảng giật mình, như đi qua một vùng mộng du rất rộng rồi nhận ra rằng mình đang đi lạc. Nhiều khi, cái mà người ta nghĩ rằng khó quên nhất, thì lại là thứ chẳng khi nào họ nhắc nhớ được giữa những suy nghĩ bộn bề trộn lẫn vào nhau trong cuộc sống. Những thứ một nói quên, hai nói quên thì lại nhớ. Chẳng ăn nhập gì vào nhau!

Tôi không thuộc dạng thiếu nữ chính chuyên, không thuộc hẳn vào loại người hư hỏng. Giữa má. Giữa Thức. Tôi đứng giữa mọi thứ, lững lờ như một cái bóng chán nản vay mượn sự khổ hạnh để tự hành xác bản thân. Thỉnh thoảng, tôi đi một mình đến những điểm bói ngày xưa, rút những quẻ thăm rủi may và ngậm ngùi cười với những giọng phán xử lên đồng. Tôi về nhà, mang theo hương nhang trầm trong những căn phòng tối hù hù, hỏi má.

- Má không tin vào duyên số của con nữa sao?

- Thì duyên số nó vậy mà. Con gái không còn trinh bói không linh...

Má ngoảnh mặt, ngẩng đầu nhìn ngọn dừa đang lao xao hát, nói mà như an ủi chính mình.

- Cái gì tới sẽ tới.

Tôi đón xe về phố. Phố thường ồn và bụi. Những con phố tôi chỉ coi là phố. Phố nào cũng chỉ là phố. Không có gì khác nhau giữa một con phố còn con gái với một con đường dấu chân người đã giẫm nát nhan sắc. Ở đó, tôi chạy trốn được chính sự hoang hoải của bản thân mình.

***

Một buổi chiều, gặp Thức trong quán cà phê cũ. Thức ngồi viết blog một mình. Ly cà phê của thói quen đổ bóng dài lên chỗ tôi thường ngồi còn để trống. Tôi ngồi nhìn Thức, không gọi tên, không nhắc nhớ. Tôi pha cà phê, uống những ngụm nhỏ. Mái tóc Thức xõa che kín trán. Tôi cho thêm đá vào ly. Thức lúc lắc cho nước quanh thành ly rỏ hết xuống bàn, ngón tay trỏ dài miết trên ô vuông cảm ứng điều khiển con trỏ nhấp nháy trên màn hình. Những thứ nguyên vẹn, gần gũi vậy đó, mà ngồi nhìn từ phía sau lưng, lại thấy từ chỗ mình đang đứng, để quay lại với kỷ niệm, là cả một quãng đường ngun ngút xa xăm những thứ mịt mờ vô hình.

***

Những chiếc đinh trên tường long vữa, bóc hết lớp trát xi măng. Tôi đứng nhìn sự hủy diệt hằng ngày như đứng nhìn vào chính sự khô khốc và cô độc của một người đàn bà trót đi qua thời thiếu nữ quá sớm.

Tôi ngồi sau lưng Thức hằng ngày, thấy con đường dĩ vãng ngày càng xa đích về. Tôi nghe Bài không tên số 4: “Đời con gái cũng cần dĩ vãng, mà em tôi chỉ còn tương lai...”. Tôi tự hỏi: Chúa tạo ra đàn bà để làm đàn bà? Hay Chúa tạo ra đàn bà chỉ để đàn ông biến họ thành đàn bà?

Vậy, dĩ vãng của tôi có trước? Hay tôi có trước? 

Đất khách - Truyện ngắn của Dương Hướng

Trưa hè oi nồng. Gian quán liêu xiêu bên bến Vạn Gia. Tiếng nhạc sến từ nhà hàng karaoke đầu bến nghe não lòng. Gương mặt Chiều héo hắt khi nhìn người đàn bà bất ngờ xuất hiện trước cửa. Người đàn ông đang ngồi bên Chiều trong quán hàng ngỡ ngàng nhận ra vẻ hốt hoảng của Chiều.

Bữa nay cô em đã có đủ cho chị rồi chứ? Giọng người đàn bà lạnh như đá, mắt liếc láu người đàn ông ngồi cạnh Chiều. Em xin chị, thư cho em vài bữa, bán hết hàng em sẽ lo đủ cho chị. Chiều run rẩy. Người đàn bà nhẩy thách lên định xông vào Chiều nhưng chợt khự lại. Bà ta rít lên the thé: Rõ khốn khổ cho cái thân tôi chưa, cả nhà chỉ trông vào gian quán này để sống. Cho cô thuê mấy tháng rồi mà cô khất lần mãi, mấy mẹ con tôi ở trong làng ăn gì mà sống! “Mấy tháng nay quán vắng khách, hàng ế ẩm quá”. Chiều cuống cuồng cầu xin. “Thế cái ông khách này là thế nào hả?” “Dạ thưa chị, ông ấy chỉ là khách quen vào quán uống nước vài ba lần”. “Chủ hàng hả? Bà chủ có gian quán cho thuê nhận ra ông khách là người Trung Quốc liền bất ngờ đổi giọng. Mắt người đàn ông sáng lên thấy người đàn bà quan tâm tới mình. Người đàn ông nói: “Tôi sang đây thu mua hải sản à. Tôi có cả con tầu vào tới tận Thượng Mai, Hạ Mai Cẩm Phả Việt Nam lớ”.

Người đàn bà rướn mắt nhìn người đàn ông Tầu. Bà ta không ngờ người khách lại nói giỏi cả tiếng Việt. Trạc tuổi bốn mươi, dáng cao to, nước da ông ngăm ngăm, đôi mắt sâu, cặp mày rậm đầy sung mãn. “Sang Việt Nam làm ăn được không?”. Người đàn bà thăm dò. “Được chớ”. Người đàn ông Tầu cười hào phóng bảo Chiều lấy bia mời người đàn bà uống.

- Đã được mấy con rồi? Tên gì? - Người đàn bà thân mật. Người khách lặng đi trong giây lát rồi như bừng tỉnh nói với người đàn bà mà ánh mắt lại nhìn xoáy vào Chiều: - Tôi tên là Bằng, mới chỉ có một đứa con gái năm tuổi. Một con gái. Ông ta giơ một ngón tay, láy lại hai từ con gái và giải thích nước Trung Quốc mỗi gia đình chỉ được đẻ một đứa con. Ông Bằng hả hê nói về gia đình ông có đầy đủ mọi thứ nhà cao cửa rộng, chỉ thiếu mỗi đứa con trai nối dõi tông đường. Chiều xúc động bởi vẻ chân tình của người đàn ông Tầu. Đã tiếp mấy lần trong quán nhưng chưa bao giờ Chiều có dịp ngồi nói chuyện riêng với ông ta như bữa nay. Mỗi lần vào quán, ông ta lặng lẽ ngồi nhâm nhi cà phê và nhìn Chiều bằng ánh mắt đầy thiện cảm. Lúc này ông ta đã rõ hoàn cảnh Chiều đang bị bà chủ đòi nợ tiền thuê quán. Máu hảo hán nổi lên, ông ta bật bia uống liên tiếp, mắt mê mải nhìn Chiều thương hại. Ông nói với Chiều bằng tiếng Pạc Và, và lịch sự xin phép được trả cho nàng món nợ. Chiều ngỡ ngàng nhìn ông ta như một vị cứu tinh từ trên trời xuống. Chiều vừa hứa đại với bà chủ ít ngày nữa sẽ thanh toán tiền thuê quán nhưng thực tình không biết đến bao giờ nàng mới có đủ tiền để trả nợ. Từ ngày đất nước mở cửa, Chiều biết nói tiếng Pạc Và nên nàng đã đi theo các chủ hàng Việt Nam sang Trung quốc bán than. Nhưng khốn cho Chiều bởi chính cái nhan sắc rực rỡ của nàng lại luôn bị hết thảy những tay chủ hàng giở thói dâm ô đòi chiếm đoạt nàng. Bằng bản tính kiêu hãnh không chịu nhục, nàng quyết tâm thuê điểm mở quán kinh doanh tại bến Vạn Gia này hy vọng sẽ có ngày mở mày mở mặt. Nhưng ai ngờ chiếc quán Chiều thuê mỗi ngày qua đi, sổ nợ lại dày thêm. Tiền lãi không đủ chi phí cho ăn uống hàng ngày. Nàng đâu ngờ các quán bán hàng giải khát mọc lên dầy đặc trên bến lâu nay tồn tại được, chủ quán vẫn phải biết kết hợp cả việc kinh doanh karaoke và lén lút buôn bán cả ái tình. Trót đâm lao phải theo, nàng đã ký hợp đồng thuê quán dài hạn, hàng đã cất về, nàng không thể bỏ cuộc. Nàng đã phải vờ vịt thả mình cho vài gã trai lơ quấy quả tại quán để câu khách. Cứ cái đà này trước sau nàng cũng sẽ phải bán mình mới có tiền trả nợ. Nhiều lúc Chiều thấy ghê sợ cả chính mình. Lúc này gương mặt bà chủ và người đàn ông Tầu sáng rõ trước mắt nàng. Nàng biết đây là cơ hội duy nhất để giải thoát tình cảnh khốn khó. Nàng đành nhận những đồng tiền thương hại của người đàn ông hảo hán giang tay cứu nàng... Đêm ấy quán “Chiều Chiều” đóng cửa sớm. Khác hẳn mọi đêm, Chiều dọn dẹp mọi thứ xong, nàng vẫn ngồi mãi nhìn tấm màn gió khẽ xao động bởi chiếc quạt đang quay vo vo trong giường nàng. Nàng hiểu người đàn ông Tầu có tên là Bằng đang từng phút đợi chờ nàng bên kia tấm màn. Nàng hiểu trước sau gì nàng vẫn phải tự nguyện hiến dâng tấm thân này cho ông ta. Nàng đã trở thành con điếm sao? Nàng đâu muốn thế. Mọi chuyện cứ xô đẩy, nàng tránh không được. Nhưng dù sao chịu cặp với ông ta vẫn còn hơn là phải đi làm điếm. Chiều vẫn không quên giây phút nàng đã bấu chặt vào thành lan can trên cầu Ka Long chống đỡ sức lôi kéo của đứa em gái bắt nàng phải quay về nhà: Chị không được đi, thà em có phải nghỉ học. Không, nàng đầy tự tin tuyên bố với em gái: Em về đi, chị phải đi làm ăn chứ. Tình cảnh nhà mình khó khăn, chị không thể ở nhà nhìn các em thất học, nhìn cha mẹ lọm cọm mãi trên đồng đất chua mặn cả đời vẫn không đủ ăn. Em yên tâm, chị không làm điều gì xấu. Nàng muốn an ủi cô em gái đang còn non nõn trước cuộc đời. Một cơn gió thoảng qua, lòng nàng dịu lại, giây phút ấy nàng đứng nhìn dòng Ka Long êm đềm trôi trong đêm. Chiều vẫn luôn ghi nhớ lời hứa với cô em gái quyết tâm đi lập nghiệp cứu cảnh khốn khó của gia đình nàng. Và lúc này bên kia tấm rèm, tiếng người đàn ông Tầu thở dài cắt ngang dòng ký ức của nàng. Nàng không thể ngồi một mình hết đêm nay? Nàng đã nhận những đồng tiền của người ta. Nàng run rẩy khẽ vén tấm màn bước vào, thân hình người đàn ông mờ ảo trước mắt nàng. Một bàn tay khẽ kéo Chiều vào giường. Trái với sự tưởng tượng của nàng, người đàn ông không vồ vập xâu xé nàng. Ông ta run rẩy nhẹ ôm nàng nâng niu nàng như chú rể trong đêm tân hôn động phòng hoa chúc. Em đừng hiểu lầm tôi. Tôi không phải là kẻ đi tìm gái giải khuây. Tôi cũng biết em không phải hạng gái làm tiền rẻ rúm. Tôi cần ở em cái khác lớ, cái lớn hơn cả cuộc đời tôi lớ... Người đàn ông thủ thỉ bên Chiều, đưa nàng hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chính Chiều cũng không ý thức được tại sao người đàn ông lại khiến nàng xúc động. Từ lời nói đến cách biểu lộ tình cảm với Chiều, ông ta tỏ ra ngưỡng mộ mê đắm. Ông ta thực sự choáng ngợp trước thân hình gợi cảm và làn da mịn màng sống động ở nàng. Chiều bị khuất phục trước người đàn ông Tầu hào phóng cao thượng và từng trải. Ông ta không mảy may ép nàng làm điều nàng không muốn. Ông cho tiền nàng trả nợ không phải để được ngủ với nàng đêm nay. Ông khuyên nàng hãy bỏ cái công việc bán quán này. ở đây trước sau nàng cũng sẽ đi vào con đường nhơ nhớp. Ông ta nói đúng. Nàng cũng đang đi vào con đường nhơ nhớp rồi đấy thôi.

Bỏ công việc này em biết làm gì để trả nợ tiền hàng, tiền bồi thường hợp đồng thuê quán?

- Anh sẽ trả toàn bộ cho em số nợ và cung cấp cho gia đình em chút ít để cha mẹ và em gái đỡ vất vả.

- Anh thực sự muốn cứu giúp đời em? - Nàng băn khoăn hỏi.

- Em không tin sao? Ngay ngày mai em thanh toán mọi nợ nần và đi khỏi nơi này.

Anh sẽ cho tiền để em về nhà giúp bố mẹ và em gái.

- Anh không sợ em về rồi không muốn đi với anh nữa sao?

- Không, anh tin em. Dù em không muốn đi theo anh nữa cũng được.- Sáng ra người đàn ông hào phóng đưa tiền cho Chiều thanh toán mọi nợ nần rồi để cho Chiều về quê thăm bố mẹ và em gái. Ông ta hẹn ngày đón Chiều tại cầu Ka Long.

*

Theo đúng hẹn, Chiều rưng rưng tạm biệt bố mẹ, tạm biệt em gái để đến đúng nơi người ta đã hẹn nàng. Nàng đã nhận lời theo người đàn ông sang bên kia biên giới với một điều kiện vợ ông ta phải sang Việt Nam đón nàng về. Đi đẻ thuê hay đi làm lẽ cũng phải được sự đồng ý của vợ người ta. Nàng thấp thỏm khoác chiếc túi nhỏ chỉ đựng độc bộ quần áo bước lên dốc cầu Ka Long. Đây là bước ngoặt lớn lao nhất trong đời nàng. Lòng nàng chợt rưng rưng. Dòng Ka Long lóng lánh gợn sóng dưới nắng sớm. Xa xa phía bên kia biên giới, từng toà nhà cao tầng vời vợi. Một vài cánh chim bay lướt qua khoảng trời biên giới. Chiều không ý thức được mình. Nàng đang âm thầm đơn độc chuẩn bị về nhà chồng mà không người thân, không bạn bè đưa tiễn. Tới giữa cầu, nàng dừng lại chính nơi nàng đã đứng bên đứa em gái lần trước. Nàng chới với vịn lên thành cầu. Hàng lan can đã trải qua bao năm tháng, qua biết bao bàn tay con người bấu víu nhẵn bóng lên. Nàng chờ người ta tới đón nàng về làm lẽ. Bổn phận của nàng phải đẻ cho người ta một đứa con trai. Một đứa con trai. Nàng luôn ý thức, dù có phải làm lẽ người ta, phải đẻ thuê cho người ta vẫn còn hơn là phải đi làm điếm. Nàng thầm hứa sẽ làm được gì đó cho cha mẹ và đứa em gái còn non nớt của nàng ở quê nhà. Trước thiên hạ nàng có bị khinh bỉ nhưng cha mẹ nàng không phải khổ cực, em gái nàng không phải thất học. Nàng giật mình bừng tỉnh khi có bàn tay nắm chặt tay nàng. Người đàn bà đứng sững trước nàng cười thân thiện. Chị ta nói tiếng Pạc Và với Chiều.

- Chị là Hoài đây. Từ giờ phút này chúng ta cứ xưng chị em cho tình cảm. Anh Bằng đã nói nhiều với chị về em, chị không nghĩ em lại trẻ đẹp thế này. Gặp được em, chị mừng và tin em là người tốt. - Giọng người đàn bà xúc động rành rẽ từng lời.

Chiều tin cậy nhìn kỹ gương mặt chị Hoài. Chị cười mà vẫn không giấu được ánh mắt lo âu buồn khổ. Trước mặt vợ, Bằng tỏ ra khôn khéo bình thản bước tới bảo nàng từ giờ phút này hai chị em bảo ban nhau mà sống. Nàng bùi ngùi đi bên người đàn bà xa lạ - xa lạ tới mức rờn rợn. Từ giây phút này phúc phận đời nàng gửi cả vào người ta. Con đò chòng chành cập bến, nàng xúc động bước lên mảnh đất xứ người. Cả hai vợ chồng Bằng cố tỏ ra thân thiện động viên chăm sóc để nàng vui. Chị Hoài ân cần dắt nàng vào một nhà hàng gọi là ăn mừng bữa cơm đầu tiên đón nàng về. Hai chị em nhà ngươi từ bây giờ phải đoàn kết thì ta mới yên lòng lo toan mọi công việc. Bằng kẻ cả biểu lộ tình cảm gắp thức ăn vào bát cho cả nàng và chị Hoài.

Về bên này em sẽ quen dần với mọi tập tục, ăn uống, có gì trở ngại cứ nói với chị. Chị Hoài lấy chiếc khăn lạnh vỗ bốp một cái đưa cho Chiều. Khi cả ba người lên chuyến xe khách về thành phố, Bằng cười vui nhận ngồi ghế giữa, hai nàng hai bên. Chiếc xe lướt êm ru trên trục đường thẳng tắp. Bằng tự hào kể chuyện cho cả nàng và chị Hoài nghe: Hai người có biết làm cái nghề buôn bán hải sản của ta cũng có cái thú vui riêng. Ta hiểu rõ được đặc tính của muôn loài chim thu nhụ đé, ngừ nước lợ, ngừ đại dương chúng chung sống và sinh sản ra sao. Bằng cười hơ hớ, hoá ra háo sắc nhất lại là loài mực và chung tình nhất là loài sam. Thật đấy, người đi câu mực, quan trọng nhất phải kiếm được con mực mồi thật đẹp. Khi ta thả con mực mồi xuống biển, con mực mồi ve vãn làm duyên cuốn hút bạn tình đến nỗi ta lôi chúng khỏi mặt nước, chúng vẫn đắm say không hề biết đó là cái bẫy tình. Bằng say sưa thủ thỉ, mắt thi thoảng lại liếc sang hai bên. Bất ngờ Bằng lùa bàn tay nắm chặt tay Chiều. Bằng cao giọng, trong tất cả các loài vật, ta ngưỡng mộ loài sam hơn cả. Loài sam chúng sống với nhau có tình nhất. Chúng luôn sống có đôi, không bao giờ chịu rời nhau. ít khi ta gặp loài sam đi một. Sam đi một là loài sam độc, con người không dám ăn thịt chúng. Tiếng Bằng nhỏ dần, hành khách trên xe ngủ gà ngủ gật. Chị Hoài cũng nhắm mắt, Chiều không rõ chị ta ngủ hay thức. Bằng ngất ngư lúc gục vào vai chị Hoài, lúc ngả vào lòng Chiều. Chiều nhắm mắt nhưng nàng không ngủ được. Bằng bất ngờ cắn nhẹ vào cổ Chiều biểu lộ tình cảm riêng kín với nàng. Chiều biết ông ta phải kìm nén sự đam mê nàng. Xe về tới thành phố trời đã tối. Thành phố sáng rực đèn mầu. Bằng bảo sáng mai phải ngồi xe khách tuyến huyện hơn ba trăm cây nữa mới về tới nhà. Chị Hoài say xe người mệt lử, ăn tối xong, Chiều phải dìu chị Hoài theo Bằng vào khách sạn cao ngất tầng trời. Bằng chỉ thuê một phòng và một giường cho cả ba người. Vừa bước vào phòng, Bằng thản nhiên cởi quần dài nằm lăn ra giường khoái chí cười hơ hớ... Ta chẳng phải tiếc tiền thuê hai phòng mà ta thích ở thế này cho tình cảm. Giống như loài sam ấy, loài vật mà chúng còn biết thương yêu nhau chung tình như vậy huống chi con người. Bằng giơ hai cánh tay còn săn chắc lên gân cho bắp thịt nổi cuộn như võ sĩ. Ta muốn được nằm giữa hai chị em các người hớ hớ... hai chị em bây giờ là một - là một trên mọi phương diện cả vật chất lẫn tinh thần. Bằng nói và cong người bật dậy. Ta đi tắm trước hai chị em tắm sau. Bằng cởi phăng áo quần tồng ngồng lao vào phòng tắm xả nước xoe xoé. Chiều đỏ mặt nhìn chị Hoài. Em cứ thoải mái, chị Hoài cười gượng, rồi em sẽ quen dần thôi mà, kệ anh ấy. Anh ấy mà vui, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Chị Hoài nằm ra giường mơ màng, giờ này con Hà ở nhà chắc là mong ta về lắm đây. Trước khi đi chị bảo nó ở nhà ngoan, bố mẹ đi đón dì về đẻ em bé cho con. Con bé đã năm tuổi, nếu được đẻ chị đã đẻ em bé cho nó từ lâu rồi. Chị Hoài thân thiện kéo Chiều nằm xuống giường trò chuyện. Tiếng Bằng trong nhà tắm vọng ra: Chị Hoài còn mệt thì để em Chiều tắm trước kỳ lưng cho ta nào. Em vào với anh ấy đi, chị Hoài giục. Chiều miễn cưỡng vào phòng tắm. Hương dầu tắm thơm nức. Bằng trần trụi lao vào lột hết áo quần Chiều. Bằng bế bổng Chiều đặt nàng lọt thỏm trong bồn tắm. Chiều không sao cưỡng lại sự hưng phấn điên rồ của Bằng. Bằng rỉ tai Chiều, anh không bắt em phải kỳ lưng mà chúng mình vui thú với nhau sướng hơn. Chiều ái ngại cho chị Hoài nằm phòng ngoài. Bằng vần vò mơn trớn Chiều trong bồn tắm khiến Chiều sững sờ chạnh lòng bởi hành động gấp gáp của Bằng. Chiều vùng dậy đẩy Bằng ra khỏi phòng tắm. Anh tắm xong rồi đi ra để chị Hoài vào tắm. Chiều gắt lên. Bằng bước ra khỏi phòng tắm, Chiều nằm lặng, ngâm mình trong bồn nước. Phòng ngoài, Chiều nghe loáng thoáng tiếng chị Hoài và Bằng cãi nhau. Chiều khẽ hé cánh cửa phòng tắm thấy Bằng đang phũ phàng cởi áo quần của chị Hoài. Đã thoả thuận rồi cô còn ghen với người ta sao? Tôi không ghen, nhưng anh phải biết tôn trọng cô ấy. Tôi đã nói rồi, hai người bây giờ đã là một. Bằng nói và lôi chị Hoài ào vào phòng tắm. Hai người đã là một thì tắm chung cả với nhau đã sao hớ hớ... Bằng mở hết cỡ vòi sen xả nước vào chị Hoài. Chị Hoài sợ Chiều chạnh lòng liền ôm lấy Chiều thân thiện. Em để chị kỳ lưng cho em nào. Em quả là người phụ nữ tuyệt vời nhất mà chị biết. Anh Bằng có phúc mới gặp được em. Chị Hoài lấy lọ dầu tắm xịt vào ngực Chiều, hai bàn tay chị Hoài xoa lên khắp thân thể trơn nhẫy mịn màng mát rượi của Chiều. Đôi vú Chiều cương nây nẩy. Chị Hoài xuýt xoa: Vú này nuôi con tốt lắm đó. Chị Hoài lùa hai bàn tay vỗ bôm bốp vào hai mông tròn lẳn của Chiều khen đẹp: Các cụ xưa đã nói “To mông rộng háng đáng đồng tiền”. Chị cầu mong lần này em đẻ con trai. Có thế chứ, Bằng tơn tớn nói, đã bảo hai người là một thì cấm không được ghen tuông ích kỷ. Qua một ngày đi đường mệt nhọc, Bằng nằm giữa chị Hoài và Chiều tếu táo năm ba câu rồi tất cả ngủ vùi. Đêm đến Chiều giật mình thấy có bàn tay Bằng lần cởi nút áo nàng. Chiều không dám động cựa sợ chị Hoài tỉnh giấc. Bằng trườn lên Chiều êm như con rắn. Chiều âm thầm để cho Bằng rên xiết trên thân thể nàng. Chiều đâu ngờ Bằng cố tình công khai chuyện ân ái với nàng ngay cạnh chị Hoài. Em đừng căng thẳng quá, Bằng nói, chị Hoài ngủ say rồi. Chị Hoài cũng thích chúng ta thế này. Hai chị em đã là một. Với lại thế này càng gây hứng thú cho chúng ta. Anh càng hứng thú thì em mới sinh con trai. Chị Hoài cựa mình, trong đêm vắng, Chiều nghe rõ tiếng thở dài của chị Hoài lẫn tiếng rên như mèo hoang của Bằng. Chiều cảm nhận rõ thân thể nàng đang phơi bày trần trụi trong đêm đầu tiên trên đất khách xứ người. Sáng ra chị Hoài tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra. Gương mặt Bằng bơ phờ vì mất ngủ. Suốt chặng đường xe chạy về nhà, Bằng ngủ vùi trong lòng Chiều. Mỏi quá, Chiều lại đẩy Bằng vào lòng chị Hoài. Chị Hoài ân cần bảo Chiều, về nhà em phải điều độ để giữ sức cho anh ấy. Chiều đỏ mặt không dám nhìn thẳng vào chị Hoài. Chiều thầm cảm ơn tấm lòng chân thực của chị Hoài. Chiều là phận gái về với anh chị, cũng mong sao anh chị hạnh phúc.

Xuống xe, Chiều thấp thỏm theo sau chị Hoài và Bằng leo lên chiếc xe kéo tay của một người đàn ông râu tóc bù xù lóc cóc đi vào con phố nhỏ dài hun hút. Hai bên đường nhà dân ở dày sít. Chiếc xe kéo lúc rẽ trái lúc ngoặt phải khiến Chiều không còn nhận biết phương hướng. Em chưa quen, đi đâu phải có người dẫn đường. Chị Hoài căn dặn. Tới nhà, Bằng nhảy xuống mở cổng bảo người kéo xe đi thẳng vào trong khoảng sân hẹp vừa đủ cho chiếc xe quay đầu ra cổng. Cô bé gái từ trong nhà lao ra reo í ới mừng bố mẹ về. Bố mẹ dẫn dì về đẻ em bé cho con hí hí... Hai ông bà già lụ khụ, mắt kèm nhèm bước ra cửa nhìn Chiều chằm chặp. Cụ bà run rẩy nắm bàn tay Chiều rờ nắn vuốt ve như người xem tướng: Phúc cho nhà ta rồi ông ơi! Trông nó mát da mát thịt thế này chắc là đẻ con trai. Chả bù cho con mẹ Hoài, da thô như da cóc, đẻ con gái là phải. Chú chó đen giương mắt thô lố gầm gừ nhìn Chiều. Người phu xe kéo chiếc xe ra khỏi, Bằng đóng sập cánh cổng, lách cách chốt chặt chiếc then bằng gỗ. Ngôi nhà ba tầng sơn xanh lừng lững trong khuôn viên kín cổng cao tường. Chiều ớn lạnh, cảm giác mình bị cách ly với thế giới bên ngoài...

*

Vì chị, vì cả gia tộc họ Vương này, em cố mà uống thuốc cho đều đặn. Đợt này nữa chắc là đậu. Lời chị Hoài tha thiết. Chiều cầm bát thuốc đặc sánh còn nóng rẫy từ tay chị Hoài. Mùi thuốc nước xộc lên thơm nức mà khi uống Chiều thấy buồn nôn. Chiều đã uống quá nhiều loại thuốc nước đậu thai này mà không hiệu quả. Đã hai năm về nhà này, Chiều vẫn chưa một lần mang thai. Hai ông bà già và chị Hoài nhìn Chiều từng ngày. Họ mong từng ngày Chiều sẽ sinh cho dòng tộc họ Vương thằng con trai nối dõi.

Từ ngày có Chiều, Bằng thoả nguyện. Bằng an ủi Chiều, đối với anh bây giờ em là tất cả. Em sinh cho anh thằng con trai càng tốt, nếu không anh cũng vẫn coi em là tất cả cuộc đời anh. Chiều ái ngại vì Bằng tỏ ra quá đam mê nàng trước chị Hoài. Cùng là phận đàn bà, Chiều biết chị Hoài tủi thân. Chị Hoài tủi thân nhất trong lúc Bằng làm chuyện ấy với Chiều. Bằng đã vô tình bỏ rơi chị trong những cơn cuồng say với Chiều. Bằng muốn chứng minh sự công tâm của mình nên bắt ba người phải ngủ chung một phòng cho dù nhà còn có phòng bỏ không. Bằng luôn miệng bảo hai người là một. Không ai được phép ghen tuông đố kỵ. Đêm qua không hiểu sao Bằng làm chuyện ấy với Chiều quá mức bình thường khiến Chiều mệt lử ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy, Chiều nghe tiếng chị Hoài khóc tấm tức. Bằng khẽ vỗ về: Cô phải hiểu đêm đêm tôi ôm ấp em nó, có phải quay lưng lại với mình cũng là bổn phận của tôi với cái gia đình này. Tôi phải làm sao cho em nó đẻ được thằng con trai. Cả với cô nữa, cô cũng phải có trách nhiệm chăm lo cho em nó uống thuốc đều đặn, và bồi bổ sức khoẻ cho tôi thì tôi mới có sức mà thực hiện nhiệm vụ to lớn này. Nhưng tôi cũng là đàn bà, cũng cần tình cảm... đã lâu lắm anh không... Giọng chị Hoài thì thào. - Cho tôi xin lỗi, bây giờ tôi đền... Tiếng Bằng vuốt ve lẫn tiếng thổn thức của chị Hoài. Chiếc giường rung lên. Chiều khẽ trở mình quay mặt vào tường. Chiều khóc tấm tức trong lòng... Sáng dậy Chiều xách làn đi chợ, con Hà lẵng nhẵng theo sau. Từ ngày Chiều về nhà này con Hà quấn quýt luôn miệng dì Chiều đi đâu cho con đi với. Và lúc này nó lách nhách chạy theo dì Chiều. Nó ngây ngô hỏi Chiều mọi chuyện: Dì Chiều ơi, ông bà bảo con gái là con người ta, con dâu mới thực mẹ cha mua về. Con cũng là con gái thì con là con ai hả dì? Lớn lên con đi lấy chồng, con về làm dâu nhà nào thì con là con của nhà ấy. Chiều vui vẻ giải thích. Nó lại hỏi: Ông bà cha mẹ con không thích con là con gái nên mua dì về đẻ em trai. Sao mãi dì vẫn không đẻ em trai? Dì cũng chẳng biết nữa. Dì mà không đẻ, ông bà con lại mua người khác. Con ứ thích người khác, con chỉ thích dì thôi. Chiều và con Hà vừa về tới cổng, tiếng mẹ Bằng than vãn cay ca: Sao con bé mãi vẫn không thấy động tĩnh chi, hay chị cố tình cho nó uống thuốc rởm. Chị sợ nó đẻ con trai thì thằng Bằng đuổi chị ra khỏi nhà này sao? Mẹ lại không tin cả con? Chị Hoài thanh minh: Con đã phải cất công sang tận bên đó đón cô ấy về. Con còn mong hơn cả mẹ. Chị Hoài bỗng khóc tu lên. Chiều và con Hà bước vào sân, chị Hoài nín bặt, vội gạt nước mắt cười gượng: Em Chiều về đấy à, bà vừa mắng chị không cho em uống thuốc chu đáo. Em để chị làm cơm, đi uống thuốc kẻo nguội, chị đã gạn ra bát cho em rồi đấy. Chị Hoài tất bật xách làn thức ăn vào bếp. Chiều nhăn nhó cố uống hết bát thuốc trước mặt mẹ Bằng. Mẹ đừng mắng chị Hoài, chị luôn chăm lo cho con chu đáo. Chiều dịu dàng thanh minh cho chị Hoài. Bà già lầm lầm lạnh lùng: Các chị liều liệu, cơm gạo tiền của nhà này không phải nước sông nước biển. Có tiếng chị Hoài gọi dưới bếp, Chiều chạy xuống. Em không mua thứ chị dặn sao? Đắt lắm chị ạ, em không dám - Đắt cũng mua, rõ là ngốc. Chị Hoài ngập ngừng ghé sát vào tai Chiều, em có thấy đêm qua Bằng khỏe hơn mọi khi không? Chiều đỏ mặt. Chị đã cho hắn uống thứ đó đấy. Giống bào ngư ngâm rượu đủ ngày đủ tháng đàn ông dùng tráng dương lắm. Mai em nhớ mua, đắt cũng mua, chị mới ngâm thử có một chai, Bằng chỉ uống dăm bữa là hết. Tối nay bắt Bằng uống hai ly cho máu. Chị thấy hai người hăng hái, chị cũng...vui. Chị Hoài ngập ngừng tủm tỉm cười. Chị cũng chẳng biết nữa, từ ngày có em về chị cứ thấy mình thấp tha thấp thỏm rạo rực thế nào ấy. Em nghe bà nói rồi đấy, chị em mình không làm tròn bổn phận thì không yên đâu. Chị Hoài nói, trong mắt như có lửa nhìn xoáy vào Chiều. Chị công nhận em cũng có sức mê hoặc đàn ông. Từ ngày em về, Bằng đã quên hẳn chị. Chị phát ghen với em. Số phận đen đủi, trời không cho chị đứa con trai nên chị chịu thua thiệt. Em có thương chị không? Chị Hoài rơm rớm nước mắt. Chiều xúc động nắm chặt tay chị Hoài. Em không thương anh chị làm sao em về đây! Thế đã uống thuốc chưa? Em uống rồi! Em không biết đó thôi, từ ngày có em về, nhà này đối xử với chị cũng dễ chịu hơn nhiều. Trước kia hơi một tý là ông bà già réo chị là loại đàn bà không biết đẻ con trai làm tiệt dòng giống nhà này.

Đêm đến,cả nhà cơm nước xong, chị Hoài hơn hớn nhấm nháy với Chiều chuẩn bị tinh thần. Chị sốt sắng cho Bằng uống rượu bào ngư tráng dương. Chị đã chuẩn bị giường đệm ga gối xịt nước hoa thơm lừng. Chị làm như thể đêm tân hôn của chị. Chị rỉ tai Chiều, tối nay mình đi ngủ sớm nhé, em vào trước, chị dọn dẹp bảo con Hà học bài rồi chị vào ngay. Từ ngày Chiều về, theo thói quen, Bằng lên phòng ngủ là lăn vào ôm ấp Chiều: Xin phép chị Hoài cho chúng em yêu nhau. Bằng tý tởn nói vui cốt để thông báo cho chị Hoài hãy ngủ đi hoặc ý tứ nằm im để mặc cho Bằng với Chiều hú hí với nhau. Thường là Bằng chuyện tếu qua quýt với cả chị Hoài và Chiều rồi khò một giấc chập tối để lấy sức, qua nửa đêm tỉnh dậy Bằng mới lại quyết liệt thực hiện nhiệm vụ lớn lao của mình. Tối nay chị Hoài chủ động háo hức chăm lo sắp đặt chuyện này, Chiều ái ngại thấy thương thương chị Hoài. Chiều lên giường nằm im cố nhắm mắt vờ ngủ. Chiều nghe rõ bước chân Bằng bước vào. Tiếng chị Hoài nhỏ nhẹ: Tối nay chúng mình đi ngủ sớm nhé. Chiều lặng lẽ cười trong bóng tối. Mình nằm sát vào với em nó, Chị Hoài nói. Bằng được thể lăn vào ôm riết lấy Chiều. Đã bảo là ngủ sớm, hai ba nào, cấm động đậy, cấm nói chuyện. Chị Hoài ra lệnh mà nghe cứ rạo rực. Bằng buông Chiều ra nằm im thít. Căn phòng lặng phắc trong bóng tối. Chưa bao giờ Chiều lại thấy bóng tối vừa im ắng vừa sống động như lúc này. Thời gian như ngưng đọng, Chiều tin chắc chị Hoài vẫn chưa ngủ. Bằng bắt đầu trằn trọc thở ra mùi rượu bào ngư tanh nồng. Bất ngờ Bằng xoay người siết chặt lấy Chiều. Toàn thân Bằng nóng rẫy run bần bật. Ôi Chiều ơi anh không chịu nổi nữa rồi. Bằng rên lên khe khẽ. Chiều véo vào sườn Bằng rõ đau thì thào: Chị chưa ngủ đâu. Bằng vờ như điếc, phũ phàng lột thốc áo quần Chiều. Hoàn toàn bản năng của giống đực, Bằng rên xiết trên thân thể Chiều. Chiều âm thầm chịu đựng không dám cưỡng lại cơn hưng phấn điên cuồng của Bằng. Chiều có cảm giác vừa sung sướng vừa đớn đau cho thân phận đàn bà của mình. Chiều mơ hồ nghe thoảng có cả tiếng rên của chị Hoài cộng hưởng, chiếc giường rung lên chao đảo. Trong đêm tối như đang có bàn tay của thượng đế lùa vào giữa tấm thân nhớp nhúa của Chiều và Bằng giằng kéo. Chiều ngỡ mình tan thành sương khói khi cảm nhận rõ thấy chị Hoài đang ôm riết sau lưng Bằng. Chiều lấy hết sức lực tuột khỏi thân thể trơn truội đẩy Bằng sang chị Hoài. Vẫn trong cơn điên cuồng, Bằng lồng lộn, và chị Hoài cũng lồng lộn. Chiều úp mặt vào tường. Chiều thấy tủi hờn khóc âm thầm trong tiếng rên của chị Hoài. Có lẽ đã bao đêm chị Hoài cũng chịu đựng âm thầm khóc như Chiều trong lúc này. Chiều cũng chẳng rõ mình về đây mang lại hạnh phúc hay bất hạnh cho gia đình này. Suốt quãng đời lăn lộn kiếm tiền, chưa bao giờ Chiều thấy ê chề nhơ nhớp như lúc này - nhơ nhớp kinh tởm hơn cả con điếm...

Sáng ra Chiều dậy sớm hơn mọi hôm gấp vội áo quần cho vào trong chiếc túi. Chiều rón rén vừa bước ra tới cổng đã nghe bước chân bối rối của chị Hoài chạy tới: Chiều ơi, chị trăm ngàn lần van lạy em đừng đi. Em hãy thương chị, thương cái gia đình này. Em tưởng chị sung sướng lắm sao? Chị cũng nhục nhã khác gì em. Em bỏ đi, chị sống sao nổi trong cái gia đình này. Chị vì con Hà, còn em vì chị... Chị Hoài ôm lấy Chiều khóc tấm tức. Chị Hoài cầm làn quần áo của Chiều cất vào tủ. Chị tất bật chạy xuống bếp nấu bữa sáng. Chưa bao giờ bữa ăn sáng lại diễn ra nặng nề căng thẳng như lúc này. Mọi người nhìn nhau dè chừng không ai nói lời nào. Ăn xong, bất ngờ Bằng đứng dậy nói: Mọi người ở nhà, nay tôi phải đi lấy hàng ít ngày. Bằng lặng lẽ bước ra cổng.

*

Nửa tháng sau, Chiều và chị Hoài đang lúi húi dưới bếp nghe tiếng con Hà reo lên: Bố Bằng về! Mẹ Hoài dì Chiều ơi bố Bằng về. Hai người đàn bà bước ra cửa đứng lặng nhìn Bằng dắt về một cô gái còn non nõn. Cô gái ngơ ngác nhìn mọi người. Hai ông bà già run rẩy bước ra sân ngó mặt cô gái. Bà cụ lại đưa bàn tay run rẩy nắm tay cô gái giống y cái lần bà nắm tay Chiều. Chiều kinh hoàng đau đớn cho thân phận mình, đau đớn cho thân phận chị Hoài, và cả cô gái non nõn dại khờ. Hai người còn đứng ngây ra thế kia, không ra đưa em nó vào nhà à? Tiếng Bằng âm vang. Con chó mực lại gầm gừ nhìn cô gái. Bằng đưa chân đá con chó mực một cái rõ đau. Đồ chó! Cút! Con Mực cụp đuôi chạy. Chiều nhìn lên bầu trời cao vời vợi nghĩ về phương trời xa tít mù tắp, nơi có cha mẹ và em gái Chiều

ruyện ngắn "Người quê ở phố" của Lê Văn Thảo

Một người đàn ông tuổi trên sáu mươi, gầy gò hom hem, tóc hoa râm, quần áo xám xịt, giày da mòn vẹt không vớ, chiếc túi xách cũng cũ như quần áo, chiếc nón lưỡi trai dùng luôn làm khăn lau, đang rảo bước dọc theo hè đường có hàng cây sao râm mát. Ông đi hối hả tất bật, như có chuyện gì gấp lắm.

Nhưng đang sải chân ông chợt dừng lại cúi xuống nhìn chăm chú chiếc nắp cống sát bờ hè, cũ xì xám xịt, hàng chữ số nhìn kỷ lắm mới nhận ra: 1838. Một chiếc nắp cống tuổi hơn trăm, vậy thôi. Nhưng ông có vẻ quan tâm lắm, đứng nhìn mãi, ngồi thụp xuống lấy tay phủi đất để nhìn rõ hơn, ánh mắt phút chốc mờ đi. Ông nhìn thấy gì đằng sau chiếc nắp cống cổ xưa ấy? Tưởng tượng ra điều gì? Điều đó chỉ mình ông biết.

Ông đi tiếp. Là người đi bộ, nhưng đường đi của ông dài hơn những người khác. Mới hửng sáng ông đã đi băng qua cả nửa thành phố. Ông đi trên hè đường lát đá gồ ghề, bước thấp bước cao. Chợt có tiếng kêu: “Ghé uống cà phê ông già ơi!”. Ông nhìn lên. Hội quán văn nghệ thành phố, buổi sáng anh em văn nghệ sĩ tụ tập uống cà-phê trò chuyện. Ông đi thẳng vào. Bốn năm người trẻ tuổi ngồi quanh chiếc bàn vuông chân đế cao, phía trước có thành lan can treo dảy phong lan xanh đỏ. Một người trẻ tuổi ra vẻ quen biết gọi lớn vào trong:

“Cho ông già ly cà-phê đen không đường”. Rồi hỏi: “Bữa nay ông đi đâu?”.

Ông làm thinh. Làm sao biết được ông đi đâu? Người vừa hỏi chừng cũng biết vậy, nói tiếp:

“Là tôi muốn hỏi ông có cần đệ tử chở đi không?”.

“Không”, ông đáp. “Hôm nay không có chuyện gì, đi loanh quanh đây thôi”.

“Có tin gì dưới quê không?”.

Ông không đáp. Đây là nỗi niềm ông không muốn tỏ cùng ai. Ông ở thành phố đã hơn bốn mươi năm, đau đáu nhớ quê, bạn bè ai cũng biết. Ông khuấy cà phê uống, chìm đắm vào những hồi tưởng mông lung. Những người trẻ tuổi để ông yên, quay ra chuyện vãn với nhau.  Năm nay mưa nhiều, triều cường lên cao, miền Trung bị hạn hán. Bé gái 12 tuổi ở Đồng Tháp bị công an hỏi cung. Một hang sâu vùng núi Thanh Hóa có đàn cá thần, bà con giữ hàng trăm năm cho khách hành hương viếng thăm. Nam thanh nữ tú ở Hà Nội vặt trụi bông hội chợ hoa xuân. Nước Mỹ tưởng niệm mười năm ngày tháp đôi bị máy bay đâm đổ. ở Vĩnh Long có con gà chín cựa...

Ông ngồi một góc, lắng nghe chỉ một bên tai. Lâu lắm, người trẻ tuổi quen biết quay lại:

“Hôm nay ông không có chuyện gì kể hả?”.

Thường ghé bàn trà quán nhậu nào ông cũng có chuyện để kể, đi nhiều nơi nghe nhiều chuyện kể lại cho mọi người nghe vậy thôi, kể hoài thành ra như người nợ chuyện mọi người. Đôi khi không có chuyện kể ông tưởng tượng ra, thêm chỗ này bớt chỗ kia, chuyện thật trộn lẫn chuyện tưởng tượng, nhiều chuyện tưởng có đâu đó nhưng không có đâu cả. Đa phần chuyện kể của ông có địa chỉ tên làng tên xã ngày tháng hẳn hoi, giới học giả do vậy liệt ông vào hàng nghiên cứu, những trang ghi chép về đất đai thổ nhưỡng, mùa nắng mùa mưa, cảnh đốt đồng, gió mùa heo may, những sợi tơ trời bay xuống từ vùng Bảy Núi, được trích dẫn vào các công trình địa chí.

Hôm nay ông không có hứng, có gì đó bất an trong lòng, chưa nghĩ ra chuyện gì. Mấy bà vợ xích mích chăng? Đám con cần chứng giấy tờ lý lịch? Tờ báo đòi bài viết? Nỗi bất an cứ lớn dần. Ông thường có những lúc như vậy, đột nhiên thấy xốn xang, lẫn lộn chuyện đời thực với chuyện sách vở. Một buổi sáng thức dậy nhớ ra phải về quê thăm một bà má ơn nghĩa hồi trong chiến tranh, đang lâm bịnh nặng. Lát sau đi uống cà phê biết ra không phải như vậy, đó là nhân vật trong truyện ông đang viết, một bà má ơn nghĩa như vậy, “vinh qui bái tổ” rồi không ai về thăm.

Người bạn trẻ quen biết lại nói:

“Không có chuyện kể thì thôi. Nhưng nghe thằng em hỏi điều này: ông là người quê đâu? Cả đời ông ở thành phố, nhưng toàn viết chuyện Cà Mau với rừng U Minh. Thật ra ông ở đâu?”.

“Tôi là người nhà quê”, ông đáp.

“Đúng rồi”, người trẻ tuổi cười lớn. “Có triệu đô la trong túi ông vẫn là người nghèo. Nhưng ông học Tây, thông thạo chuyện Đông Tây kim cổ. Ông vừa viết truyện vừa làm công việc nghiên cứu, sưu khảo phong tục tập quán, ngôn ngữ địa danh không ai bằng ông. Nghe nói ông còn làm khảo cổ nữa. Ông có làm khảo cổ không?”.

“Là ốc mượn hồn vậy thôi”.

“Ông có ba bà vợ, làm sao quản?”.

“Thì phải thương gấp ba”.

Mọi người cười, ông cũng cười , như nghe chuyện người khác. Rồi cứ nhấp nhỏm đứng lên ngồi xuống, vừa muốn đi tới chỗ nào đó lại nấng níu đám người trẻ tuổi vui vẻ này.

“Thôi kể chuyện khảo cổ vậy”, người vừa rồi lại nói. “Nghe nói hôm rồi ông “trúng vố lớn” lắm phải không? Kể chuyện đó đi!”.

Được, nhưng để ông nhớ lại đã. Chuyện như vầy… Một bữa đi đường ông thấy bày bán một bức tượng đá cổ vừa đẹp lại vừa có nét thô kệch. Ông ngờ ngợ. Không lẽ người xưa non kém như vậy sao? Nếu không thì là cái gì? Ông rờ rẩm, cầm bức tượng lên ước lượng tỉ trọng, nhìn kỷ từng vân đá, thổi phù phù vào lớp bụi phủ của thời gian ngàn năm. Rồi bỏ đi, rồi trở lại cầm lên ngắm nghía. Mua hay không mua? Ông dành cho mười lăm phút suy nghĩ. Rồi quyết định mua. Năm ăn năm thua, như bất cứ cuộc phiêu lưu nào. Ông đánh cuốc tắc xi đem bức tượng về nhà cất vô tủ, điện kêu đám bạn chờ trúng lớn đãi nhậu. Đêm hôm đó giữa khuya mọi người ngủ cả, trong yên tĩnh ông lấy bức tượng ra gõ nhẹ, tin vào linh cảm của mình, nhà điêu khắc cổ xưa che giấu cái gì. Ông đã đoán đúng. Lớp bột đá phủ bên ngoài bễ ra, để lộ bức tượng người vũ nữ tuyệt đẹp….

Nói chưa hết câu ông đứng dậy cười lớn đi ra khỏi quán. Mọi người nhìn theo.

“Chuyện hay quá!”, một người nói. “Nhưng nghe như có nghe ở đâu rồi“.

“Thì chính ông ta kể mà”, người khác nói. “Tôi nhớ ra rồi, hôm nào ở đâu ông ta cũng kể chuyện y như vậy, chỉ có khác không phải cô vũ nữ đẹp tuyệt vời mà là một con rùa đá”.

“Khảo cổ là phải chính xác”, người khác nữa nói. “Không được khi vầy khi khác”.

“Nhưng ông ta là nhà văn, không phải nhà khảo cổ”, người trẻ tuổi quen biết cải lại. “Coi như không phải ta nghe một chuyện khảo cổ, mà nghe một truyện ngắn, được không?”.

Ông không nghe thấy những lời đó. Ông đã đi xa, sang bên kia đường, vẫn cười, xuôi theo hè đường có hàng cây me lá rụng lăn tăn. Trời còn sớm. Ông còn nhiều việc, còn đi xa đường lắm. Ghé Lăng Ông Bà Chiểu coi có chuyện gì không, ông có chân trong ban trị sự. Rồi ghé thư viện tra cứu chuyện gì ông quên mất. Sau đó đến nhà ông bạn già tiếp tục tranh luận về địa danh Bãi Voi ở quận Gò Vấp, tương truyền đó là bãi tắm voi của quân vua Gia Long. Cuộc tranh luận có từ lúc hai người còn trẻ, lùng sục các thư viện tàng thư sách cũ tìm chứng cứ chống lại nhau, người nói đúng người nói sai, đôi khi đổi bên cho nhau. “Cuộc chiến” bất phân thắng bại kéo dài đã hơn ba mươi năm, và có cơ kéo dài ba mươi năm nữa.

Không định nhưng ngẩng lên ông thấy mình đi ngang bịnh viện Chợ Quán. Ông có duyên nợ với nơi này. Đầu tiên là cái tên, Chợ Quán hay Chợ Oán? Có câu ca dao: ở đây chợ oán thêm sầu. Ông định xong chuyện Bãi Voi đem chuyện này tranh luận với ông bạn già. Câu ca dao đứt khúc, không có ý nghĩa gì, nhưng tên đất tên làng là linh thiêng, cần phải truy tìm căn nguyên gốc gác. Đây là bệnh viện người điên, lần đầu tiên đứng nhìn vào những người bận đồ trắng đi tới lui vật vờ ông không rời mắt ra được. Sau đó lần nào đi ngang ông cũng ghé, có chỗ nhìn riêng, sau một lô cốt đề năm 1920 còn trơ bốn bức tường mấy hốc đen ngòm, nhìn vào qua một khe nhỏ chỉ thấy được một khoảng sân. Ông không hề thấy những người điên là xa lạ, ngược lại cảm thấy gần gũi, có cảm giác trí óc họ dù chỉ còn le lói lại dường như hướng tới cái gì đó rất cao xa.

Ông đến nhà ông bạn già lúc gần trưa. Ông bạn không có nhà, bận nuôi thằng cháu nội trong bịnh viện. Chuyện tắm voi quân lính vua Gia Long đành gác lại. Ông đi thẳng đến ngôi chùa cạnh thảo cầm viên. Ngôi chùa không lớn nhưng nằm ở khu trung tâm, đông người viếng, sân bãi chật chội, có nấu cơm từ thiện buổi trưa mấy trăm suất cho người nghèo. Ông thường ghé ăn cơm trưa ở đó. Ông có chân trong ban vận động cúng tế, vị sư trụ trì là bạn vong niên, thấy ông đều mời cơm nhưng ông từ chối. Ông thích ngồi ăn chen với những người ăn xin, trẻ lang thang bán vé số, người nghèo và cả người không nghèo, ăn cơm chùa để lấy phước. Ông không nghèo cũng không mong được phước, chỉ muốn được ngồi trong đám đông nồng nặc mùi mồ hôi, tiếng cười nói ồn ào, những câu chuyện không đầu đuôi,  bàn ghế chật chội thức ăn đạm bạc, khách ăn nón đội trên đầu túi xách mang bên hông, không biết người ngồi bên là ai. Nhà chùa có lòng tốt đải cơm, ăn mau còn đi làm công chuyện của mình.

Ngồi đối diện ông là một ông già người nhỏ thó, trông lanh lợi như thanh niên.

“Ăn đi”, ông già nói, cắm cúi ăn, lùa cơm húp canh sùm sụp. Rồi nói tiếp: “Bữa cơm chiều kiếm được ở đâu chưa?”.

“Chưa”, ông đáp.

“Ráng ăn no”, ông già nói, vẫn không ngừng ăn, không biết tiếng nói thoát ra từ đâu. “Không ai thương mình bằng cơm. Thuốc nam thuốc bắc bú cặt cho cơm. Tôi ăn bữa trưa này no luôn tới mai. Bữa chiều uống trà đường quảng cáo đằng hội chợ, trà Tây tanh rình nhưng đường nhiều lắm, uống bao nhiêu cũng được”.

Họ tiếp tục ăn. Ông thấy mình cần phải góp chuyện:

“Người già không nên ăn nhiều đường”.

“Tôi không phải người già, tôi là người nghèo”, ông kia nói. “Còn ông?”.

“Tôi không giàu”.

“Biết rồi, đã ăn cơm thí ở đây mà. Nhưng sao phải lang thang như vầy? Con người ta sinh ra ai cũng có một mái nhà, đi lang thang là bị trời đày. Tối nay ngủ đâu?”.

“Tuổi này còn ngủ nghê gì nữa”, ông đáp cho qua.

Họ ăn mau, hối hả tất bật, như đánh giặc. Nón chưa kịp lấy xuống, những câu hỏi chưa kịp có câu trả lời, chén dĩa không cần phải dọn, không một hột cơm cọng rau còn sót lại vương vải trên mặt bàn. Và miếng cơm cuối cùng họ đứng dậy ra đi gần như cùng một lượt, cả gian nhà phút chốc trống trơn, lặng thinh không có cả tiếng ruồi vo ve.

Ông ăn mau nhưng không vội ra đi. Bên hông chùa có gian thảo bạc không vách che, bốn bề gió lùa. Một bộ ván gỏ dầy cả gang tay mát lạnh dành cho khách bộ hành lở chân nghỉ độ nhựt. Ông ra sau chào bà bếp, xin chén trà uống xì xụp, rồi ra thảo bạc ngủ trưa, gối đầu trên chiếc gối gỗ cứng ngắc, hưởng không khí yên tĩnh nhà chùa giữa lòng thành phố, thú vui của ông nhiều năm nay. Ông ngủ sâu hơn tiếng đồng hồ, không mộng mị, thức dậy ra dãy lu nước phía sau múc uống rồi đi luôn ra cổng, nhắm hướng bến sông, chuyến đi cuối cùng trong ngày. Đó là bến sông chạy dài theo chiều dọc của thành phố, ghe lớn ghe nhỏ đậu san sát, hàng hóa thực phẩm nông sản từ miền Tây đưa lên, miền Đông chở xuống, tiêu thụ ở thành phố hoặc làm trạm trung chuyển giữa hai miền. Việc trao đổi mua bán đã xong từ giữa khuya, bến sông im lìm vắng vẻ. Ông không quan tâm, ông đâu có mua bán gì. Ông chỉ cần nhìn ngắm. Những chiếc ghe từ miền Tây lên còn nồng mùi bùn đất, nhìn mủi ghe hình con cá biết ghe ở tỉnh thành nào, ghe chở chuối chở khóm, cam quít và khoai củ, gạo nếp và đậu các loại. Nhiều ghe chất đầy cần xé đựng khô mắm. Ghe chở cá chỉ còn những chiếc rộng nhẹ tênh. Ghe từ vùng tứ giác Long Xuyên, kinh xáng Xẻo Rô, rừng U Minh chua phèn, bán đảo Cà Mau ngập mặn còn bám những con hào, be ghe hà ăn lủng lỗ chỗ.

Một chiếc ghe chở nồi đất nhẹ hều nổi lều bều trên mặt nước, một ông già ở trần bận quần cụt ngồi chồm hỗm hút thuốc trước mũi ghe.

“Ghe có bán cà-ràng không?”, ông đứng lại hỏi vọng xuống.

“Ông mua cà-ràng hả?”, ông già hỏi vọng lên.

“Không”.

“Không mua hỏi làm chi?”.

“Ông không bán làm sao tôi mua?”.

Ông đi lần xuống. Ông già vô trong bưng bình trà ra rót mời khách. Ông uống trà, nói nhớ chiếc cà-ràng hỏi vậy thôi chớ mua bán gì. Ông già nói biết rồi, thời buổi này ai còn nấu cà-ràng nữa. Lò đất nồi đất cũng không. Ông nói vậy ông chở nồi đi đâu, ông nói. Ông già đáp đi lên đi xuống vậy thôi. Trên sông không có ghe chở nồi coi buồn lắm. Đúng rồi, ông đáp. Tôi ra đây là cốt ngó chiếc ghe nồi này. Hai ông già tiếp tục uống trà chuyện vãn, nhắc lại chuyện cũ, vui cho chuyện xưa buồn cho chuyện nay. Chuyển qua nấu nồi nhôm hết rồi, ông buồn bã nói. Nồi nhôm chỉ có sáng choang, khua rổng rảng chớ được tích sự gì, nấu cơm xảm xì không ngon. Ước chi được ăn bữa cơm nấu nồi đất trên chiếc cà-ràng, chụm bằng rơm lúa mới, bới cơm bằng chiếc đũa bếp, chén cơm bốc khói thơm lừng, miếng khô nướng, con ba khía bẻ đôi để lên trên. Biết rồi, ông già nói. Ông nói làm tôi bắt thèm. Còn đâu nữa, thời thế đã đổi khác. Người ta đổ xô ra thành phố sống chui rúc, ăn cơm trên dĩa nhôm chén nhôm muổng nĩa khua loảng xoảng, giữa trưa nắng từ dưới đường dội lên, mái tôn dội xuống, thở ì ạch quạt lấy quạt để, một ngọn gió lùa cũng không có. Chui rúc ở nhà rồi chui rúc vô nhà máy xưởng thợ. Vậy mà người ta cứ ùn ùn lên thành phố, không hiểu tại sao? Ông cũng vậy chớ gì? Nhớ quê sao không về? Ông già nói như quát vào mặt ông. Rồi lại thở dài nói tiếp, giọng buồn bã: Nói ông chớ tôi cũng vậy thôi. Quanh năm lênh đênh trên sông nước, đồng lúa lũy tre chỉ thấy lờ mờ xa xa. Tại sao?

Đâu biết tại sao, trời đày vậy thôi. Ông nói, uống vội chén trà chào từ giã, lên bờ tiếp tục đi dọc theo sông. Những chiếc ghe ghếch mủi đón chào. Trời chiều dần. Nắng đã tắt, bữa cơm chùa đã tiêu hóa hết. Nhưng ông không thấy đói, bước chân nhẹ tênh. Trước mặt rừng ghe kéo dài mãi, nối tiếp vào cõi mông lung. Ông đi mau hơn, như lướt trên mặt đường. Buổi chiều nghỉ ngơi thanh thản, bến sông thành chợ nổi của rừng ghe. Một đám trẻ nít chơi đùa trên bãi cát. Một ông già ngồi hút thuốc ở mũi ghe. Một cô gái chải tóc trên mui ghe. Ông vẫn đi, hôm nay ông phải đi cho tới cùng. Một đám con nít tóc ba vá kéo chơi chiếc mo cau, đứng lại nhìn ông:

“Tìm ai, ông già ơi!”.

“Có ông Từ Thông ở đây không?”.

 “Ông Từ Thông ở Hòn Cổ Tron phải không?”, đám trẻ cười rộ lên, chỉ tay ra ngoài xa. “ổng neo ghe ngoài kia kìa, đi chuyền theo dãy ghe này nè”.

Ông biết. Tục lệ chợ nổi cho phép mọi người đi chuyền từ ghe trong ra ghe ngoài.  Nhà cửa cũng vậy, hiên nhà là đường đi, thông thoáng từ nhà này sang nhà khác. Không rào chắn, kẽm gai lô cốt. Không như ở thành phố. Ông đi chuyền từ mũi ghe này sang mũi ghe khác, rừng ghe càng lúc càng ken khít, nối tiếp nhau kéo dài mãi. Tất cả xuồng ghe tụ họp về đây. Chiếc ghe cuối cùng neo đậu ngoài xa, chiếc đòn dài nổi lều bều trên mặt nước. Ông bước đi nhẹ nhàng trên chiếc đòn dài, không một chút nghiêng ngả. Chiếc ghe hiện ra sát bên, không mũi không lái, neo đậu vững chãi như có từ ngàn đời. Một ông già khô cằn ngồi giữa lòng ghe, chiếc đèn dầu cá đặt trước mặt.

“Ngồi xuống đi”, ông già gọi.

Ông ngồi xuống. Ông già nói tiếp:

“Ta đợi ngươi lâu lắm rồi, biết thế nào ngươi cũng đến”.

“Con nhớ ông lắm, nhớ quê lắm”, ông thổn thức.

“Ta biết. Nhưng vẫn bám thành phố, phải không? Lòng trần không dứt được. Cũng phải thôi. Ngồi xuống đi!”.

“Con ngồi rồi. Ông ăn uống gì chưa?”.

“Còn ăn uống gì nữa! Ta đã thôi ăn uống từ lâu rồi, đã trăm bốn lăm tuổi rồi, chắc ngươi còn nhớ. Ngươi còn nhớ không?”

“Dạ nhớ”.

“Dạo đó đang giặc Xiêm, Tây Xiêm đánh nhau mà dân mình khổ. Ta nghèo quá đi lang bạt mần ăn, không có giấy thuế thân phải nương náu ngoài hòn giữa biển, tiếng đồn ta ở truồng ăn toàn cóc nhái. Thật ra ta sống không đến nỗi gì, sung sướng nữa là đằng khác. Hòn có nước ngọt, cây trái có thứ ăn được. Dừa rất nhiều, xoài cũng có. Không có lúa nhưng có khoai củ, cá đầy dưới biển mặc sức bắt ăn. Ta mập ra, yên thân lắm rồi. Ngặt nỗi nhớ đất liền không chịu nổi. Cây có cội nước có nguồn. Ngày ngày ta ra bờ biển nhìn muôn lớp sóng cồn, thấy tủi phận mình không bằng con chim đổ quyên đêm hè kêu khắc khoải.

Cho đến dịp có thằng Tây ra hòn do thám, ta nịnh nọt cho nó nước ngọt trái cây, nhờ nó cấp giấy đưa về đất liền. Thật là một chuyến đi nhớ đời, vui buồn lẫn lộn. Không thể nói hết nỗi vui mừng ta gặp được bà con. Tôi là người chạy giặc lâu ngày về thăm bà con đây, gặp ai ta cũng tay bắt mặt mừng. Có đi xa một chút, dù chỉ ra ngoài hòn biển nhà thôi, mới thấy nhớ tình làng nghĩa xóm, tình quê hương đất nước quí giá dường nào. Đầu tiên ta gặp Ông già xay lúa ngộ quá chừng, cùng ở hòn Cổ Tron với ta nhưng người ở đầu hòn người ở cuối hòn không biết nhau. Ông ta có nghề xay lúa gia truyền, đứng xay từ sáng tới mười giờ đêm không nghỉ tay, sắc mặt luôn tươi rói, ai cần cứ gọi cho vui cửa vui nhà. Gặp ông ta vui lắm, nhờ vô đất liền mới gặp được nhau. Ta hỏi ông xay lúa làm chi, ở ngoài hòn cần chi tiền bạc. Ông đáp xay lúa trước mua vui sau làm nghĩa, sẵn dịp vô thăm bà con, ôn nghề kẻo thất truyền. Ta chia tay Ông già xay lúa vui quá là vui, tiếp tục con đường ngao du thăm hỏi, biết thêm nhiều chuyện quê hương đất nước mình. Dạo xưa còn ở đất liền ta có nghe nói có Cây huê xà ở núi Cấm là vị thuốc độc nhất vô nhị trong các bài thuốc rắn. Ta muốn biết chuyện này lắm, những bài thuốc cứu người độ thế là vốn quí dân tộc. Ta về vùng Rạch Giá – Cà Mau, vùng đất có nhiều thầy rắn tài ba, dùng toàn thuốc Nam dễ kiếm như gừng, cỏ ống, vôi, trầu, nhựa ống điếu, trứng rệp… ở đó người ta nuôi rắn như vật nuôi nhà, nhà nào cũng có vài con rắn để bắt chuột, ngồi uống trà nhìn lên thấy con rắn nằm vắt ngang trên đòn dông nhà nhìn xuống gục gặc đầu. Đêm nào có trăng thì rắn đi ngao du, lên tận trên ngọn lá dừa để bắt chim trong ổ, hoặc rình mổ mấy con dơi rượt muỗi bay qua chớp nhoáng. Ta đi xa hơn, xuống tận rạch Thuồng Luồng tìm ông thầy nghe đồn có bùa bắt rắn, được Phật Thầy Tây An ở núi Sam truyền lại, với bài thuốc Cây huê xà nổi tiếng. Ta đến đó chứng kiến cảnh ông thầy đến hang rắn vỗ tay, bầy rắn lổn ngổn bò ra cúi đầu qui phục, đưa ngón tay trước miệng con rắn ngoẹo đầu không dám cắn. Ta nhìn thấy như vậy rồi ra đi. Sau nghe có chuyện hai ông thầy tranh tài để đôi trẻ hai bên vừa mới bén duyên đã chia lìa lâm nạn, một bài học cho thói đời tị hiềm sĩ diện.

Ta đi tiếp về miệt Xẻo Bần coi nghề của ông Bác vật xà-bông, qua Hòn Đá Bạc tìm hiểu chuyện Đảng Cánh Buồm Đen, nghe nói tay chúa đảng có ngọn roi Lưu Thủy thần sầu quỉ khóc, đường quyền che kín tên bắn không lọt. Hắn hỏi: “Ông là ai?”. Ta đáp: “Tôi là Từ Thông ở Hòn Cổ Tron”. Hắn lại hỏi: “Người tu hành ở ngoài hòn vô đây hỏi han thắc mắc cái gì?”. Ta đáp: “ở đâu cũng quê hương xứ sở mình. Tôi không thắc mắc, chỉ muốn tìm hiểu chuyện cướp sông cướp biển này là như thế nào?”. Hắn nói: “Ta là Tư Hiền. Muốn biết việc ta như thế nào hãy đến hỏi chuyện người này”. Ta đến hỏi chuyện một người tên Năm Bùn, mới biết chính người này mới là cướp, bị Tư Hiền qui phục, giao Đảng Cánh Buồm Đen cho Tư Hiền làm bình phong làm công việc đánh Tây. Ta yên tâm ra đi, từ miền duyên hải xuôi hướng Nam, vòng qua mủi Cà Mau, ngược lên đến rạch Cái Cau là ngọn sông Cái Lớn ăn qua địa phận tỉnh Cần Thơ. Xa rời chuyện cướp bóc biển cả sóng cồn, ta đi vào vùng nước bạc mát lành, đổ tuôn ra Rạch Giá, mang mấy giề lục bình lá xanh bông tím trôi phiêu lưu từ sông Hậu Giang ra ngoài khơi vịnh Xiêm La xa thẳm. Sông rạch thông thương, vàm Cái Cau nhà cửa đông đúc. Ta đi thảnh thơi không màng dòm ngó. Ông hương ấp là ai cũng không cần biết. Chỉ mong được nghe giọng hát của Con Bảy đưa đò, nghe đồn vừa xa lạ vừa quen thân, ấm áp. Khi cất lên thì cao hơn tầm của con cò con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh, lúc trầm xuống thì như hơi gió xao động dòng sông, làm rung mặt nước khi thuyền đã xa khuất trong lớp mù sương mờ ảo, khách ngẩn ngơ nhìn theo không thấy gì nữa, tâm trí bâng khuâng giữa cảnh sông rạch âm u, “nhánh bần gie con đom đóm đậu sáng ngời”. Ta nghe được tiếng hát đó, trong đêm có “nhánh bần gie con đom đóm đậu sáng ngời”, một lần trong đời không thể nào quên. Ta tiếp tục ra đi lòng dạ yên bình, biết mình có được tiếng hát đem theo đến hết đời. Sau đó ta nghe nàng gắn bó với một chàng tráng sĩ, chuyện không thành chàng ra đi nàng vẫn đợi, như thông thường mọi chuyện tình trên thế gian. Nhiều năm sau gặp lại “con Bảy đưa đò” thành “dì Bảy luộc lòng heo”, ta cũng không lấy đó làm điều phiền lòng. Ta không bận tâm lắm đến những chuyện như vậy. Cũng như chuyện ông hương Cả nhà ở Bình Thủy – Cần Thơ gả con gái về dưới Cạnh Đền – Cà Mau. Ta có dự đám gả, cả nhà khóc như có tang. Cũng vẫn là chuyện bèo giạt mây trôi vậy thôi. Ta đi qua mau, không có thời giờ. Nghe nói chùa Sóc Ven ở Rạch Giá của lục cụ Tăng Liên đào được Chiếc ghe ngo cổ lắm, hàng mấy trăm năm. Ta vội đến đó ngay. Ghe ngo là hiện thân của rắn thần Naga, linh hiển lắm. Hồi đức Thích Ca ngồi thiền bên bờ hồ giữa rừng, mưa to gió lớn, đức Thích Ca cảm hóa được rắn Na ga là thần ác. Rắn quấn tròn chung quanh, ngẩng đầu lên cao để che mưa gió cho đức Thích Ca. Từ đó về sau người Miên khoét thân cây sao theo hình rắn, hằng năm bơi đua trên sông để mừng mùa nước nổi. Ta ăn uống trên đường, có hôm vừa đi vừa nhai khoai lang sống, đến nơi nước vừa dâng cao, mùa đua ghe ngo sắp bắt đầu. Năm nào ghe chùa Sóc Ven cũng dự đua và được thứ hạng cao, không ít lần được giải nhất. Năm nay nhà nước Tây đứng ra tổ chức đua. Ta được lục cụ Tăng Liên dẫn đi coi chiếc ghe ngo cổ vừa mới đào được, chưa vội nói cho ai biết, thời buổi nhiễu nhương không biết như thế nào. Ngày đua ghe đã đến, lục cụ phân vân mãi. Không đua thì mất mặt với làng xóm, đua cho nhà nước Tây được thưởng càng nhục hơn. Nhưng đành phải đua. Ghe chùa Sóc Ven được giải nhứt! Nhìn chú tiểu đem phần thưởng là lá cờ ba màu về chùa, lục cụ nghẹn ngào tủi nhục, bỏ cơm mấy ngày liền, ta khuyên bảo thế nào cũng không được. Mấy hôm sau giữa đêm lục cụ đánh thức ta dậy, hai người đi đến chỗ chiếc ghe cổ. “Lấp lại đi”, cụ nói. Hai người hì hục đào đất lấp lại. “Để khỏi bận hồn người xưa”, lục cụ nói. Ta thấy cũng phải. Nay mai rồi chiếc ghe ngo của chùa này cũng thành cổ vật thôi.

Năm đó ta đã già lắm rồi, còn bao nhiêu chuyện phải chứng kiến tận mắt, nghe tận tai. Ta đi băng đồng về vùng Bảy Núi mong được một lần nhìn thấy cảnh Mùa len trâu hùng vĩ, trâu lội nước năm ba trăm con, đen đầu, đặc nước. Đếm bạc trăm là dễ chớ muốn thấy được cảnh đó không phải dễ, giống như hồi thiên hạ sơ khai, càn khôn hổn độn… Mấy ông thầy chùa, bà vải ẩn mình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theo bầy trâu len dữ dội… Ta có người quen ở đó, vợ chồng chú thiếm Tư năm nào cũng gởi đôi trâu cho đám tằng khạo đi len trên Bảy Núi. Ta dự định sẽ đi theo đó. Nhưng đến nơi vợ chồng chú thiếm Tư đã gởi đôi trâu đi rồi, cho thằng Nhi đứa con mới lớn đi theo tập tành chuyện đồng nước. Ta ở lại chơi với vợ chồng chú thiếm Tư, sáng chiều ngồi trên sàn nhà ngắm cảnh đồng nước bao la. Nếu có cái gì đó đọng lại lâu dài hàng trăm năm trong trí não ta, ấy là hình ảnh quê hương đồng nước nổi. Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình dậy men thành bùn non, mớm hơi sức cho rễ lúa trắng phau. Gió thổi mạnh trôi nhà trôi cửa nhưng lúa non lì gan hứng chịu. Cứ qua ngày đêm, nước ngập lên một tấc, thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước vừa hấp hối ngộp thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống…

Nhưng yên ấm dài lâu không phải là mục đích của đời ta. Dấn thân vào chốn gian lao mới là điều ta mong mỏi. Ta nghe giặc Tây đóng binh ở ngoài huyện Kiên Giang, binh sĩ Nguyễn Trung Trực lén kéo về châu thành công kích. Ta đến nơi trận đánh vừa xong, đồng nước sóng gợn lăn tăn, bông điên điển nở vàng bên trên, bên dưới xương cốt chất đầy hết lớp này tới lớp khác. Ta đến Miễu Bà Chúa Xứ đốt nén hương tưởng niệm những người đã khuất. Tên Miễu Bà Chúa Xứ là do dân làng đặt ra để che mắt giặc, thật ra là đền thờ chiến sĩ trận vong. Ta đi tiếp, theo một chiếc xuồng lẻ loi giữa đồng. Đứa nhỏ chở người cha đang hấp hối đi tìm nơi chôn cất. Họ là ai, từ đâu tới, đi về đâu? Không ai biết. Đồng nước không có bắt đầu, không có kết thúc. Bầy trâu vô số kể đang lặn hụp. Trâu quậy, sóng nước chuyển nghe đùng đùng. Hơi trâu thở khì khì như cây rừng khi nổi gió. Hằng trăm cặp sừng cong vút, nhọn lễu như những trái ấu khổng lồ. Đó là bầy trâu đang len phía sau. Phía trước nước ngập tràn không có đâu là bến bờ. Một cuộc biển dâu, người chết nhiều hơn người sống! Người cha thấy cái chết đã gần kề rồi, khoát tay cho xuồng dừng lại, cởi chiếc áo đang mặc đưa cho con: “Ta để lại cho con chiếc áo này”. Xứ sở nghèo nàn, một chiếc áo cũng là gia sản. Xuồng tiếp tục đi giữa trời nước mênh mông. Một chiếc xuồng, một đứa nhỏ, một xác người. Chôn ở đâu? Nhưng rồi vẫn có xóm làng đùm bọc nhau. Một căn chòi hiện ra chênh vênh trên sóng nước, có chiếc cối đá là vật quí, cũng là vật có thể neo chôn. Tất cả được giải quyết nhanh chóng, trong lặng lẽ, người chết được neo lại, thịt da rã ra xương cốt chìm xuống đáy sâu. Đứa con tiếp tục ra đi, hướng về chân trời vô định. Ta trở về với Hòn Cổ Tron giữa biển khơi muôn trùng sóng vỗ, làm bạn với những con mòng biển và rùa biển, lần tràng hạt đếm ngày tháng trôi qua…

Một cuộc biển dâu!

Nhưng ta vẫn có điều chưa yên. Vẫn nhớ ngươi còn đang ở thành phố, bươn chải với công danh chật chội, ngày đêm nhớ về quê vẫn chưa dứt ra được. Năm tháng trôi qua, ngươi quên đi nhiều những rừng đước rừng mắm, những chang đước như những chiếc nơm khổng lồ, con kinh xẻo đất, cánh đồng năng lát, con cá thòi lòi lội trên bãi bùn, đáy sông và đáy hàng khơi... Sống làm sao được mấy chục năm ròng không nhìn thấy ổ chim dòng dọc trên ngọn cây bần, nghe tiếng nước chảy, tiếng lúa reo, con cò trắng đậu trên lưng trâu? Ta về đây đợi ngươi lâu lắm rồi, biết thế nào ngươi cũng đến, nghe ta kể đôi chuyện nhắc nhở đôi điều. Rồi ta sẽ trở về Hòn Cổ Tron của ta ngồi yên tâm tụng niệm, cho đến lúc thành đá thành cát. Rồi ngươi cũng vậy thôi, cũng sẽ trở về. Trời đất xoay vần, cuộc đời trần thế là một cuộc biển dâu!..

Xể vừa giật bung chiếc khăn tắm ra, mê man ngắm nhìn tấm thân trần trắng nuột của cô chân dài từng nằm trong tốp 10 cuộc thi người đẹp năm ngoái thì bỗng dưng hai mắt bị tối sầm lại, như bị một tấm vải đen đột ngột bịt lấy!

Xể hốt hoảng ngồi bật dậy dụi mắt lia lịa. Chỉ khoảng mươi giây, đôi mắt Xể bừng sáng trở lại, cảm giác sợ hãi lập tức bị đẩy lui bởi miếng ngon kề cận...

Nhưng đó chính là dự báo cho một tai ương tồi tệ. Sau hôm đó, mắt Xể bỗng dưng bị mờ dần. Như có một bức màn che phủ, đầu tiên chỉ như một lớp voan mỏng tang, rồi dày dần lên. Đi khám ở Viện Mắt bởi các chuyên gia hàng đầu, kết quả: Không phải bị cườm khô, cườm ướt. Nhãn áp tốt. Thủy tinh thể không thấy có vấn đề gì. Mắt chỉ bị lão nhẹ, hai độ. Cho thuốc nhỏ, thuốc bổ mắt. Vẫn không thấy đỡ hơn chút nào. Mắt cứ tối dần, giữa trưa mà thấy cứ như 5, 6 giờ chiều. Đi qua Sin, qua Tàu khám, cũng vậy. Chụp cắt lớp não, tất cả bình thường. Không phát hiện điều gì về hốc mắt và các dây thần kinh liên quan đến mắt. Không bác sĩ nào hiểu tại sao. Mọi thứ thuốc cùng hàng chục buổi châm cứu đều không chút tác dụng.

Mắt càng tối, Xể càng cuống cuồng sợ hãi. Hiện tại và tương lai Xể đang phơi phới. Ghế của Xể đang ngồi, biết bao người mơ ước? Xể lại sắp làm sui với một trong mười đại gia giàu nhất Việt Nam. Hai đứa nhỏ đi học ở trời Tây quen nhau, hai bên gia đình đã qua lại, hẹn qua năm làm đám cưới. Con dâu tương lai của Xể là con một, “cành vàng lá ngọc”. Xể biết nhà gái chịu kết thông gia là nhờ quyền lực của mình có ảnh hưởng đến công việc làm ăn của họ. Mai sau toàn bộ khối tài sản kếch xù của họ sẽ vào tay con Xể chứ còn ai nữa?

Sức khỏe Xể cũng đang hết sức dồi dào. Ăn uống bồi dưỡng dư thừa, chơi tennis đều đặn. Xể còn rất sung, với “hàng lạ” có thể chiến đấu liền suốt mấy đêm, hàng giờ liền chưa biết mệt. Hám gái là nhược điểm lớn nhất của Xể nhưng Xể che đậy rất giỏi. Nhân viên nữ nào đẹp, dù đã có chồng, cũng đều bị Xể quyến dụ bằng quà cáp sang trọng. Được thì cho lên lương, bố trí công việc nhàn hạ, khi đã chán chê thì nhẹ nhàng chia tay, cho chuyển công tác. Không được thì trù ếm, cho nghỉ. Ngoài tài “bắt gà trong chuồng” Xể còn thường xuyên “cơm hàng cháo chợ” với các em gái gọi cao cấp, vài tháng đổi món một lần. Thường đi công tác nước ngoài, bao giờ Xể cũng có “đồ chơi” đi cùng. Khác chuyến bay, sang đó mới gặp, có trời mới biết...

Mù mắt sẽ là dấu chấm hết cho tất cả những gì Xể đang có!

Căn phòng tối tăm, lạnh lẽo. Tiếng máy lạnh chạy rì rì. Ngọn nến, nguồn sáng duy nhất, đặt sau lưng ông thầy khiến mắt Xể đã yếu càng không thể nhìn rõ mặt ông. Mùi nhang trầm thoang thoảng càng làm căn phòng thêm vẻ kỳ bí.

Xể đang ngồi trong phòng khám của một ông thầy được bạn Xể giới thiệu là “thần y”. Ông này chuyên cứu chữa những trường hợp “bác sĩ chê, thầy chạy” và mỗi năm chỉ xem xét cứu cho đúng một người, tùy duyên. Vị thần y này có phương pháp chữa bệnh rất lạ. Ông sẽ gây mê bệnh nhân bằng phương pháp thôi miên, rồi làm gì đó không biết mà khi tỉnh dậy, bệnh nhân sẽ khỏi hẳn. Ông làm việc một mình, trong phòng riêng, không phụ tá, không thân nhân người bệnh và tuyệt đối không tiết lộ “cách thức chữa bệnh” của mình. Chỉ cho biết là việc điều trị có thể sẽ làm thay đổi một số thói quen. Thí dụ, người bị ung thư phổi, sau khi được ông trị lành, bỗng dưng chỉ ngửi thấy mùi khói thuốc lá là đã ho sặc sụa, ngạt thở. Người bị ung thư gan sau khi trị xong chỉ nhìn thấy ly rượu là muốn nôn mửa... Ai sắp chết mà không chấp nhận điều kiện của ông? Dù ông lấy thù lao đôi khi cực kỳ cao và ngược lại cũng có lúc hoàn toàn miễn phí.

Lúc đó mắt của Xể đã gần như mù. Xể cố gắng che giấu nhưng làm sao có thể?

Đến lúc đã mù hẳn một con và con còn lại tiếp tục tệ dần, Xể đành tìm đến ông.

Khám qua và hỏi lý lịch bệnh nhân xong, thần y chịu chữa, ra giá... một triệu đô, bảo đảm sẽ làm cho mắt Xể bình thường trở lại.

Xể than quá mắc, ông nói thẳng:

 - Chuyện nhỏ! Ông vừa mua cái nhà một triệu đô bên Mỹ, cho hai đứa con ở đi học và thỉnh thoảng qua thăm. Đó chỉ là số tiền ông kiếm được từ mỗi một phi vụ làm dự án với nước ngoài. Mắt sáng thì còn ghế, còn kiếm được nhiều lần hơn. Và xin nói thẳng với ông là tôi sẽ dùng số tiền đó làm từ thiện để trả lại cho người dân vốn đã quá khổ sở vì những người như ông.

Ngưng lại một chút, thần y nói tiếp lẽ ra ông không cứu Xể vì Xể có nhiều tội nghiệt nhưng lộc Xể còn dày, vả lại cứu Xể ông sẽ còn gián tiếp cứu được nhiều người khác. Xể khẩn khoản xin ông cho biết nguyên nhân bệnh của mình và ông sẽ làm gì để chữa trị. Ông nhắc lại nguyên tắc trị bệnh, rồi đột ngột hỏi:

- Thôi thì tôi cũng phá lệ một phần. Ông có là một quan tham không?

 - Không.

 - Ông nói dối! Nếu không là quan tham thì với tiền lương, ông làm sao có mấy căn nhà kể cả ở nước ngoài, hàng chục khu đất, vàng và đô đầy tủ, con cái đi du học? Xin mời ông đi về.

 Xể ấp úng thú nhận:

 - Vâng, tôi có... hơi tham. Nhưng do cơ chế, hệ thống...

 - Tôi không cần biết lý do. Tôi hỏi ông: Người Việt mình thường nói “cái gì làm mờ mắt con người”?

Xể suy nghĩ một lúc - dù gì Xể cũng có bằng tiến sĩ nhờ có người làm luận án hộ sau khi đã qua phổ cập cấp 2, cấp 3 và đại học tại chức - rồi reo lên:

 - Lòng tham! Lòng tham làm mờ mắt con người.

 - Rất đúng! Bao nhiêu vụ lừa bịp trên đời đều dựa trên việc biết khai thác lòng tham. Tôi sẽ lấy lòng tham ra khỏi người ông. Ông sẽ hết mờ mắt. Đúng không?

Xể lo lắng:

- Nhưng lòng tham của tôi nằm ở đâu? Làm sao lấy được? Lấy đi có ảnh hưởng gì đến lục phủ ngũ tạng của tôi không?

- Tôi không tiết lộ cách thức chữa trị. Và lòng tham nằm ở đâu thì còn tùy người. Nhưng tôi xin đảm bảo việc lấy đi lòng tham sẽ không ảnh hưởng gì đến lục phủ ngũ tạng của ông. Kể cả cái đầu, hai tay hai chân.

Xể yên tâm, bắt ông thầy làm giấy cam kết rồi chịu chi. Xể mới 52 tuổi, còn đến tám năm mới về hưu, dư sức làm ra tiền gấp bao nhiêu! Đến ngày chữa trị, ông thầy thôi miên cho Xể ngủ rồi làm việc rất nhanh. Tỉnh lại, Xể mừng rỡ thấy hai mắt sáng choang và cơ thể hoàn toàn bình thường, liền trả tiền rồi ra về.

Ngay tối hôm đó, Xể phát hiện mình hoàn toàn không còn ham muốn với phụ nữ. Không thể “lên” được. Nhiều ngày sau cũng vậy. Bất lực, y như một quan thái giám. Cô bồ hiện tại có thân hình phổng phao đẹp như tượng Vệ nữ, làm đủ cách vẫn không thể giúp “em bé” của Xể cục cựa. Hải cẩu hoàn, Viagra, Cialis... cùng bó tay chào thua.

Xể đứng trước gương lục lọi toàn thân. Nhờ vợ vạch từng sợi tóc, xem xét kỹ sau lưng. Không một dấu vết gì khác lạ. Mày mò chỗ kín, Xể phát hiện dưới mỗi túi đạn có một đường rạch nhỏ. Vết thẹo mảnh như một sợi chỉ và rất mờ. Ngoài ra tất cả đều có vẻ bình thường.

Xể đến kiện, bắt ông thần y phải phục hồi khả năng đàn ông cho mình. Ông thần y đưa ra tờ cam kết: không hề nói gì đến... chỗ đó. Ông nói có loại quan tham chỉ vì có gien mê tiền thuần túy. Lại có loại như bệnh xã hội lây lan, ai sao tôi vậy. Có loại quan tham vì... vợ tham. Và có loại quan tham vì mê gái. Muốn được dâm, nhất là với loại gái đẹp cao cấp, phải có tiền. Xể chính là người thuộc loại này.

Ngừng một chút như chờ cho Xể thấm, thần y nói thêm:

- Ông có biết dân ta còn có câu thành ngữ gì cho biết nguyên nhân làm mù con mắt không? Câu đó có hai vế, như một câu đối, mỗi vế ba từ. Vế thứ hai là hậu quả “mù con mắt”. Vế thứ nhất là nguyên nhân. Tôi đã giải quyết nguyên nhân làm ông mù mắt và thay vào đó... hai viên gân nai. Những gì tôi lấy ra đã hư thối hết rồi. Tôi chịu, không phục hồi cho ông được.

Xể ngẩn người, nhớ ra câu mà một thủ trưởng ngày xưa đã từng cảnh báo mình: “Mày hám gái quá, coi chừng có ngày sướng con c..., mù con mắt!”. Bần thần một lúc, Xể hỏi gặng:

- Ông nói cứu tôi là sẽ gián tiếp cứu được nhiều người khác là sao?

- Ông sẽ bớt tham, như vậy tốt hơn là thay ông bằng một người khác, mới lên nó sẽ “ăn uống” nhiều hơn. Hơn nữa, đã có nhiều phụ nữ đẹp và có thể cả gia đình của họ bị ông hại. Giờ ông đâu hại ai được nữa.

Xể trừng mắt:

- Ông không sợ tôi sẽ giết ông?

Thần y đặt nhẹ một tay lên tay Xể. Xể chợt thấy mình buồn ngủ một cách kỳ lạ, không thể nhướng mắt nổi.

Tỉnh dậy, Xể thấy mình đang nằm ở nhà. Không còn nhớ gì về thần y nữa.

Từ đó, Xể được tiếng thanh liêm, đạo đức.

Chuyến tàu cuối năm

QĐND - Thứ Năm, 13/12/2012, 21:55 (GMT+7)

QĐND - Gói ghém xong vài bộ quần áo, một túi quà Tết cho vào chiếc túi xách, hắn lặng lẽ khóa cửa phòng trọ, rồi lao ra ga Sài Gòn. Ga tàu ngày giáp Tết nhộn nhịp khác thường. Người vào ra, chen lấn, xô đẩy; hàng hóa xếp tràn ra cả lối đi. Phía cửa ga, người đàn ông mù với chiếc kính đen quá khổ ôm gần hết nửa trên khuôn mặt gầy gò, ôm cây đàn ca những bài ca não nuột. Hắn thầm nghĩ: Năm hết Tết đến rồi, ca chi những lời buồn đến vậy ông lão ơi… Một thoáng tần ngần, hắn dừng lại, rút những đồng bạc lẻ thả vào chiếc mê nón tả tơi trước mặt đứa trẻ vô hồn ngồi bên cạnh ông lão. Năm đầu tiên xa nhà, hắn được nghỉ Tết từ hăm mốt. Không đủ tiền về, lại có mối quen mà hắn vẫn phụ đưa hàng mỗi buổi chiều nên hắn ở lại làm thêm cật lực mấy ngày.

Qua cửa soát vé, bước lên tàu, hắn lúi húi xếp đồ rồi ngả lưng lên chiếc ghế gỗ cứng đơ đánh một giấc thật ngon lành. Chỉ đến khi nhân viên toa đi soát lại vé hắn mới giật mình tỉnh giấc.

    - Cháu về đâu? Cho chú kiểm tra vé!

    - Dạ, cháu về ga Thanh Hóa ạ.

     - Ừ, được rồi. Khoảng 4 giờ sáng ngày kia thì tàu về đến Thanh Hóa. Cháu nhớ để ý thông báo trên loa mà xuống cho đúng ga.

     - Vâng ạ. Cháu cảm ơn chú!

     Hướng vào ghế bên trong, nhân viên soát vé hỏi:

     - Hai ông cháu về đâu.

     Người đàn ông im lặng rồi đưa tấm vé qua:

     - À, cũng về Thanh Hóa hả. Bác ở huyện nào?

Người đàn ông vẫn im lặng. Giọng đứa trẻ lí nhí:

     - Cháu ở...

Hắn dụi mắt, lật người sang bên, vươn vai ngáp một cái thật dài. Chợt hắn giật mình, bởi người đàn ông và đứa bé ngồi ngay ghế bên trong hắn không phải ai xa lạ mà chính là ông lão mù ở cửa ga ban nãy. Điều làm hắn ngỡ ngàng là ông lão không hề bị mù và thậm chí cũng không già lụ khụ như hắn nghĩ. Bàn tay thô ráp của ông ta đang nhặt, vuốt và xếp những tờ bạc lẻ ngay ngắn thành từng xập. Hắn nhổm dậy nhìn ông lão rồi nhìn vào từng xếp tiền lẻ trên chiếc mê nón mà hắn dám chắc những đồng tiền thấm mồ hôi của hắn vẫn còn nằm trong đó. Hắn giận giữ đứng phắt dậy, định mắng lão già lừa đảo một trận. Nhưng chỉ kịp vung tay theo phản xạ, hắn vấp phải ánh mắt sợ sệt của đứa trẻ giữa khuôn mặt lem luốc đang trân trân nhìn lên. Trên tay đứa bé cầm chiếc bánh mì dai nhách cắn dở, mồm đứa bé vẫn phồng to bỗng nhiên khựng lại, đôi môi xám ngoét mím chặt. Hắn ngồi phịch xuống ghế, nhắm nghiền mắt lại.

Chuyến tàu cứ lặng lẽ đi ngược dải đất hình chữ S mang theo những nhánh mai vàng từ Nam ra Bắc. Toa tàu khách ngày Tết không còn ghế trống. Một tốp khách trải chiếu giữa sàn tàu ngồi đánh tá lả. Hai ngày một đêm trên tàu, hắn cứ loay hoay trở đi trở lại, trong đầu lởn vởn những suy nghĩ chẳng đâu vào với đâu. Đêm thứ hai thì bụng hắn cồn cào. Bầu trời đêm cuối năm qua những mắt lưới cửa sổ tàu vẫn đen kịt. Bên cạnh, “lão già lừa đảo” và đứa trẻ nằm gọn trong lòng lão vẫn say ngủ, mấy vị khách trẻ còn nhao nhao cùng những cây bài đen đỏ, hắn đi ngược từng toa tàu tìm đến toa ăn. Lẩm nhẩm một phép tính nhanh với số tiền còn lại, hắn gọi một tô phở nóng rồi xì xụp húp lấy húp để. Toa ăn sạch sẽ với những hàng ghế dài. Đôi mắt díp lại, hắn đặt lưng xuống ghế rồi chìm vào giấc mơ về ngôi nhà nhỏ, một cành đào phớt, những cặp bánh chưng, mâm ngũ quả và nụ cười đầm ấm của cả gia đình.

Giật mình tỉnh giấc, ngoài ô cửa sổ hắt vào những tia nắng chói chang. Nhưng hắn vẫn cảm nhận được thật rõ cái se lạnh của khí xuân miền Bắc. Hắn lãng du đôi mắt qua cửa sổ tìm đến những thảm cỏ đầy nắng ven đường. Chợt tấm biển xanh lét đập ngược vào mắt “Trung tâm Hà Nội 20km”, thoáng chút hắn ngỡ ngàng rồi hoảng hốt chạy dọc theo các toa tàu về toa cũ. Im ắng, mọi người đâu hết rồi? Phía cuối toa chỉ còn hai người đàn ông tối qua vẫn đánh bài đang gà gật ngủ. Thôi chết, túi đồ, quà cáp, giấy tờ cá nhân của hắn. Khua tay lên giá để đồ, tay hắn rơi vào một khoảng không trống rỗng. Chiếc túi xách đã không cánh mà bay. Đầu hắn nghĩ ngay đến ông lão ăn xin.

Hắn tái mét mặt, nắm tay đấm vào thành tàu thùm thụp. Tàu cập ga Giáp Bát khi kim đồng hồ ở nhà ga chỉ 8 giờ 30 phút. Nhân viên trên tàu biết chuyện, gửi hắn lên một chuyến tàu chở hàng đang chuẩn bị từ Hà Nội vào Thanh Hóa. Bốn tiếng đồng hồ trên chuyến tàu chợ, hắn ân hận vì đã ngủ quên. Đáng lẽ giờ này hắn đang giúp mẹ dỡ nồi bánh chưng. Và hơn cả là giờ này hắn không phải tức sôi lên vì bị mất túi đồ, vì căm hận “lão già lừa đảo”.

Giữa trưa Ba mươi Tết, ga Thanh Hóa đã thưa vắng. Một vài quán hàng đã đóng cửa. Không khí Tết đã gần lắm rồi. Hắn lao như điên đến mấy bác xe lai hỏi về người đàn ông và một đứa trẻ tầm 8 tuổi, rách rưới. Nhưng mọi người đều lắc đầu. Càng nghĩ đến gia đình hắn càng nóng ruột. Chợt bà cụ trong quán nước ven đường vẫy tay gọi hắn lại. Bà lão hỏi như thăm dò: 

     - Cháu đang tìm ai à?

Hắn nói cho bà lão bán nước biết hắn đang tìm một ông lão ăn mày và một đứa trẻ đã lấy cắp túi đồ của hắn. Bà lão nhìn hắn từ đầu đến chân ngạc nhiên. Rồi bà lão chậm rãi đưa cho hắn một mẩu giấy. Trên đó ghi rõ mấy dòng: “Bác Bảo, Làng Đông, Thiệu...” và một vài vạch chỉ đường nguệch ngoạc. Bà lão bán nước nói:

Ban sáng có hai ông cháu xách theo cái túi xách màu đen cứ ngồi ở hàng nước của bà mãi. Bà hỏi thì ông chỉ nói chờ một người quên túi đồ để trả lại. Hai ông cháu ngồi chờ ở đây từ 5 giờ sáng đến tận hơn 11 giờ mới về. Ông ta gửi túi đồ cho bác nhờ đưa lại cho một thanh niên để quên trên tàu nếu đến hỏi nhưng bác không dám nhận. Bác đã bảo ông ta cầm về rồi để lại địa chỉ đây này.

Hắn mừng cuống quýt cảm ơn bà lão. Lòng vòng hồi lâu, hắn cũng tìm đến được căn nhà lá lụp xụp ở cuối con đê. Hắn nhận ra ngay đứa bé đi cùng ông lão trên chuyến tàu. Đứa bé đang ngồi bên một người phụ nữ nằm bất động, héo hon như tàu lá. Hắn đứng như chôn chân ở cửa.

Goá phụ lấy chồng

QĐND - Thứ Năm, 11/10/2012, 23:5 (GMT+7)

QĐND - Sáng thứ hai. Giao ban phòng, hai chục con người ngồi xúm thành từng nhóm trong căn phòng chừng hơn ba mươi mét vuông. Xúm quanh bàn nước ở ngay cửa ra vào là cánh đàn ông, họ sì sụp chén nước cứ như thể ở nhà chưa kịp uống. Ngồi chiếm vị trí chính giữa căn phòng là mấy chị "u bốn mươi" nói cười không dứt. Mấy cô mấy cậu trẻ hơn tranh thủ dán mắt vào màn hình máy tính. Với họ, chuyện họp không quan trọng bằng việc "lướt web" cơ quan.

Sáng nay có hai điều quan tâm. Một là sếp trưởng phải lên gặp sếp tổng có việc gấp nên duy trì cuộc họp do sếp phó đảm nhiệm. Và hai là trên chiếc bàn chỗ mấy chị "u bốn mươi" đang nói cười rổn rảng có đĩa to đựng đầy kẹo bánh.

- Của Lâm Oanh đấy. Nó được lên lương. Mời cả nhà.

Chị Ngọc "phát thanh" nhanh nhẩu tuyên bố. Nghe vậy tức thì sếp phó dù đang mải nặn mụn trứng cá vội nói chữa.

- Của cậu Tuấn. Vì cậu ấy còn "tân" nên "nộp phạt" bằng kẹo.

- Cái gì. (Chị Ngọc "phát thanh" dài mồm ra cự lại). Ừ thế mới đáng "tân" chứ. Đâu như ai kia mang tiếng là "tân" mà chẳng "vô lăng" chút nào. Tân gì cái thứ "tân" mà không "cương" ấy. Có mà đồ bỏ đi.

Sếp phó biết mình nói lỡ, lại bị đốp nên khuôn mặt đầy mụn cá đỏ nhừ. Anh thùn thụt sát thành ghế như muốn giấu mặt, nói lấp.

- Chúng ta họp nhề.

Vì là sếp phó duy trì họp đầu tuần của Phòng thay sếp trưởng nên cuộc họp đánh ào là kết thúc. Bấy giờ Lâm Oanh mới đứng lên.

- Em. Em... báo cáo các anh các chị.

Mọi ánh mắt vội dồn hết về phía Lâm Oanh. Sáng nay cô mặc bộ đồ công sở khá hợp. Áo màu kem nhạt, cổ to được bẻ nếp. Chân váy màu đồng tông nên dáng cô khá thanh thoát. Lâm Oanh ngập ngừng, cô nhìn suốt lượt như để thăm dò thái độ mọi người hay là cách để cô vào đề. Mấy chị "u bốn mươi" sốt ruột, với họ chuyện gì hơn chuyện lúc này là tranh thủ vắng sếp trưởng chạy vù ra cổng cơ quan mua ổi găng đầu ngày. Họ khôn lắm, chọn sớm được quả ngon, chậm chân là ta thán.

- Em xin báo cáo các anh các chị là.... là.... chúng em sẽ cưới nhau ạ.

- Ôi thế thì mừng rồi. (Những tiếng vỗ tay tán đồng). Nhưng chàng nào có được vinh hạnh ấy vậy?

Lại vẫn cái nhanh nhẩu của chị Ngọc "phát thanh". Lâm Oanh thoáng bối rối, mặt cô hồng lên trông càng hấp dẫn. Sếp phó nghe vậy vội ngừng tay nặn mụn cá. Mặt sếp phó đần ra căng thẳng.

- Dạ, em và... và Tuấn ạ.

- Sự kiện Hà Nội đây. Thảo nào sáng mai các báo đều giật tít lớn. Mà hai đứa chúng mày thân nhau cũng phải một năm rồi Lâm Oanh nhỉ?

Chị Ngọc "phát thanh" nổ liên tiếp. Vừa nói chị Ngọc vừa liếc xéo sếp phó đang ngồi nặn mụn. Trông vào cách nói của chị Ngọc ai cũng hiểu chị muốn lỡm sếp phó. Sếp phó đỏ rần mặt. Cho chết. Khi cả phòng xúm vào cho lại "ư hừ", chê người ta trẻ mà góa chồng, nói mặt ấy tướng "sát phu". Giờ trông kìa, cứ đần thối ra như mất số điện thoại.

Ở trong Phòng nghiệp vụ cơ sở này, chị Ngọc được mệnh danh là "phát thanh" bởi lẽ mọi thứ âm thanh một khi đã lọt vào lỗ tai của chị sẽ tức khắc phóng nhanh ra đằng mồm. Mọi thứ âm thanh một khi để chị nghe thấy sẽ tức khắc được chị loan báo rộng rãi. Kín đâu thì kín chứ kín sao nổi chị Ngọc. Lâm Oanh nói xong thấy nhẹ hẳn người. Cô đưa mắt nhìn về phía Tuấn ý nhắc "nói thêm gì đi". Tuấn đứng dậy, cậu nhìn Lâm Oanh rồi tự tin nói.

- Dạ đúng đấy ạ. Chắc thu tới là bọn em cưới.

Đến lúc này bộ mặt của sếp phó mới thực sự nhão ra. Cái nhão ra thể hiện sự vô vọng. Vậy là cô Lâm Oanh góa chồng của phòng ta sắp đi lấy chồng. Lấy ai xa xôi gì, cậu Tuấn trai tân cùng phòng này. Đúng là "sự kiện Hà Nội" rồi.

***

Buổi trưa hôm đó. Tuấn đưa Lâm Oanh đi mua sắm. Căn phòng hơn ba chục mét vuông mọi trưa thiu thiu những giấc ngủ vội bữa nay ồn ã hẳn. Vẫn là chị Ngọc "phát thanh" chủ động đề tài.

- Mọi người thấy thế nào chứ tôi thấy hai đứa đó được đấy. Dám vượt qua dị nghị.

- Hay gì. Trai tân lấy gái nạ dòng. Nói thật nhé, không mắc ngải bùa thì cũng ăn bùa ngải.

- Mốt thời thượng đấy. Bây giờ "phi công trẻ" nhiều lắm. Đấy nhìn sang bên kia phố mà xem. Có bà bốn mươi cặp chàng hai mươi tám đấy, cứ dính nhau như cậu với mợ ấy.

- Đấy là cặp kè kiểu "chị cho em cái chị thừa, em cho chị cái chị thiếu" ấy mà. Còn đây khác kia.

- Khác gì?

- Đôi này đẹp. Tôi cá là họ sẽ làm thay đổi "nước Mỹ" cho mà xem.

- Chưa biết được. Ở đời còn có chữ "ngờ" mà.

- Kể thì "giai tân" thế... cũng thiệt.

Cả phòng ồn lên không ai chịu ai. Đúng là chín người mười ý. Sếp phó ngồi tư lự. Mặt anh ngơ ngác. Vậy là Lâm Oanh sẽ lấy Tuấn. Không nghi ngờ gì nữa vì chính họ đã mời mọi người ăn kẹo trước và tuyên bố còn gì.

- Này. (Chị Ngọc "phát thanh" vỗ mạnh vào vai sếp phó). Tôi hỏi thật ông nhé. Ông có thấy tiếc không?

Sếp phó lắc lắc. Chẳng hiểu là tiếc hay không tiếc. Cả phòng lại dồn hết sang phía sếp phó. Chủ đề đã được chuyển đối tượng.

- Cứ chê ỏng chê eo lắm vào. Gần năm sọi rồi, không chừng tịt hẳn.

- Già rồi. Thua cánh trẻ là chắc. Bây giờ á, tán gái phải tấn công trực diện chứ, cứ thập thụt làm thơ nữa thì chờ tới mùa quýt nhé.

- Người ta góa bụa thật nhưng còn trẻ...

Nghe mãi những lời qua lại đến nhức cả đầu. Bấy giờ sếp phó mới đứng dậy từ tốn nói.

- Dù sao cũng mừng cho hai bạn ấy.

- Ái chà. Sàn giao dịch bắt đầu đảo chiều? (Chị Ngọc "phát thanh" nghi ngờ).

- Các bạn ạ. (Sếp phó bắt đầu bằng cái giọng rất từ tốn). Tôi xin thưa với các bạn là chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin. Tức là chúng ta đang sống trong một xã hội không thể giấu giếm. Giấu giếm ham muốn ư? Không được. Giấu giếm thực tại ư? Không được. Giấu giếm tình cảm ư? Không được. Giấu giếm tức là chúng ta đang tự đầu độc cái con người trong mỗi chúng ta. Con người là cuộc sống. Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi những nhu cầu được thỏa mãn. Một khi nhu cầu được thỏa mãn là một khi con người đạt tới cái đích của cuộc sống. Con người phải có đích tới. Đích tới chính là nguyện vọng, là mơ ước. Sao chúng ta lại không biến ước mơ thành hiện thực nhỉ. Hãy để ước mơ lên tiếng.

Tất cả những người có mặt trong phòng đều sững sờ. Họ không ngờ sếp phó ăn nói vừa rành rẽ vừa thật lòng đến thế. Xưa nay cứ ngỡ "lão hâm". 

Quá khứ rượt đuổi

ND - Hết giờ làm, nhân viên lũ lượt kéo nhau ra về, hắn vẫn còn ngồi nán lại. Quá nửa nhân viên cơ quan gọi hắn là Sếp. Hắn thường đáp lại bằng nụ cười, cái gật đầu có nhịp điệu.

17 giờ 30 phút, hắn nhìn đồng hồ, thở dài, khoác chiếc áo vét và bước ra khỏi phòng làm việc. Ở nhà, vợ hắn - một phụ nữ đẹp và đài các, hai đứa con sạch sẽ, béo tốt - học sinh xuất sắc của những trường điểm trong thành phố đang đợi hắn về dùng bữa. Mâm cơm của một số nhà giàu là biểu hiện của sự dư thừa tiền bạc, sự cầu kỳ trong chế biến và là niềm an ủi của những bà vợ sống nhờ bổng lộc của chồng.

Lẽ ra hắn đã về, nhưng khí trời se lạnh xúi giục hắn phóng xe ra bờ hồ tìm một chiếc ghế đá. Ngồi nhìn thành phố lên đèn và dòng người hối hả bon chen trong cuộc vật lộn mưu sinh cũng có cái thú. Đang trầm tư chiêm nghiệm trước những biến đổi dữ dội và lặng lẽ của đời, thì hắn nhận ra phía bên kia đường có một người quen.

Đúng là một người quen...

Cách đây ba hôm, hắn cũng rời cơ quan rất muộn, trên đường về hắn ghé vào một quán bia cùng mấy đồng nghiệp. Cả hội đang thưởng thức khẩu vị trái mùa thì một thằng bé ở đâu lò dò tiến lại. Thằng bé đen nhẻm, tay đầy vết muỗi đốt, da dẻ tím tái, xách một chiếc hộp gỗ nhỏ có đôi dép nhựa rách kẹp phía trên. Đồng nghiệp của hắn vui đùa hỏi thằng bé.

 - Gì đấy ông tướng?

- Đánh giày không chú? - Thằng bé trả lời bằng một câu hỏi.

Hắn liếc xuống chân thấy đôi giày đang đi không phản chiếu một tí ánh sáng nào, hắn nhìn thằng bé thương hại:

- Đánh cho cẩn thận, tí tao cho thêm.

Thằng bé vui vẻ xách đôi giày hiệu Fugi ra góc quán. Những cốc bia vơi dần, chủ quán có vẻ hài lòng vì tửu lượng của mấy ông khách. Hắn và đồng nghiệp tranh nhau rút ví. Thanh toán xong, hắn mới nhớ đến thằng bé đánh giày.

- Mẹ kiếp! biến đâu rồi.

Hắn buột miệng khi nhìn về góc quán chẳng thấy có ma nào. Sau đó, chợt nhớ ra mình là một trí thức, hắn thận trọng và lịch thiệp hơn:

- Nhìn xem thằng bé đâu các cậu?

- Xong rồi - Đồng nghiệp hắn trả lời và tiếp: - Lần trước tớ cũng bị chôm mất một đôi, quên hôm nay không nhắc cậu.

- Hai trăm đô của tớ đấy!

Hắn nói như rên. Bạn bè nhìn hắn chia sẻ, rồi cả bọn kéo nhau về.

Đúng là đôi giày bị mất trị giá 200USD - kỷ niệm lần xuất ngoại gần đây nhất của hắn đến nước Mỹ.

Của đi thay người, hắn tự an ủi vậy, nhưng vẫn thấy tiếc và bực bội.

Chuyện xảy ra đã ba ngày. Lẽ ra hắn đã cho qua. Nhưng oái ăm thay, không mong mà gặp. Ngay lúc này đây, thằng bé ăn cắp đang lững thững đếm bước bên kia đường, cách chỗ hắn ngồi chừng hai ba chục mét.

- Phải túm cổ thằng bé, thử đòi lại đôi giày, nếu không đòi được cũng phải quạt cho nó một trận, để lần sau chừa thói ăn cắp. Nếu thằng bé không chịu thừa nhận và còn láo toét thì cứ xách cổ về đồn công an cho họ đưa nó đi cải tạo. Hắn nghĩ thế và lên xe, rẽ ngang đường tiến về phía thằng bé. Khi chỉ còn cách thằng bé mấy bước chân, qua ánh đèn xe gắn máy hắn chợt thấy đít quần thằng bé có một lỗ thủng, hai gót chân đen thui, tay phải xách hộp gỗ, tay trái cầm một túi nilon, hình như bên trong đựng cơm và thức ăn, trông lẫn lộn khó phân biệt. Hắn thay đổi ý nghĩ: không nên tóm nó vội, để xem nó đi về đâu, vào tận hang ổ mà tóm cũng không muộn, vả lại chẳng lẽ mình comle, cà vạt thế này mà lại đi giằng co với một đứa bé trông như ăn mày giữa đường. Thiên hạ không hiểu chuyện, họ coi mình ra cái gì. Nghĩ vậy và hắn quyết đi theo.

Đi hết con đường lớn, thằng bé rẽ vào một ngõ nhỏ, sau đó đi ra phía bờ sông. Ngay giữa lòng thành phố, vẫn còn không ít khu ổ chuột - sự mỉa mai đối với những cao ốc chọc trời. Thằng bé đi về phía xóm lao động nghèo ven sông. Hắn bước theo thằng bé và bỗng nhiên nhận ra mình đang lạc vào một thế giới không thân thuộc với mình, những căn nhà lụp xụp, thấp bé với giấy dầu, pờrôximăng và những mái tôn hoen gỉ, ánh sáng trong nhà tung tóe theo những chỗ rách nát.

Nhà thằng bé ở phía cuối con đường chật hẹp và lầy lội. Hắn đoán là vậy khi thấy thằng bé dừng lại trước một cái cổng được rào chắn sơ sài bằng một bó tre gai. Nhưng đột nhiên một sự việc đã xảy ra ngoài sự kiểm soát của hắn, thằng bé bổng dưng quay ngoắt lại nhìn hắn, rồi như không hề có ý định bước vào căn nhà trước mặt, nó quay ra, rồi co cẳng chạy cật lực.

Trước tình thế cấp bách trên, hắn không kịp suy xét, chỉ còn biết bỏ chiếc xe gắn máy lại rồi lao theo thằng bé. Xóm nhỏ phút chốc trở nên ầm ĩ bởi tiếng chó cắn và tiếng bước chân người chạy. Mấy người trong khu dân cư nghèo đang ngồi phân loại những đống rác rưởi gom nhặt trong ngày, ngơ ngác trước cảnh tượng một người đàn ông sang trọng đuổi theo một thằng bé rách rưới, họ không biết chuyện gì đã xảy ra, họ ùa ra đường nhìn theo hai người.

Thằng bé lao như điên xuống bờ sông, lau sậy trở thành vị cứu tinh của nó. Hắn bất lực đứng nhìn thằng bé biến mất trong một dãy dài những cỏ cây hoang dại.

Về nhà nó xem sao... Hắn nghĩ vậy và lững thững quay về phía căn nhà có bó tre gai khép cửa. Trong nhà không có ánh đèn, hắn khẽ kéo bó rào bước vào.

- Có ai ở nhà không?

Trả lời hắn chỉ có sự im lặng. Cửa nhà không khóa, hay nói đúng hơn là không có khóa. Bên trong, một chiếc bàn mất một chân, đã được một chủ nhân vụng về thế vào bằng những viên gạch không cùng cỡ, một cái tích sứt quai, vài ba chiếc cốc. Hình như có hơi thở người, hắn giật mình quay lại góc phải căn nhà, một người đang nằm trên giường. Tối quá, hắn bật màn hình chiếc Iphone. Trên giường, một người đàn ông nằm bất động, thân hình co quắp, hình như không biết đến sự có mặt của hắn. Bên cạnh giường, một nồi cháo không đậy nắp, vài con gián đang tự do ra vào. Rùng mình, hắn toan bước ra ngoài thì bỗng dưng ánh sáng từ căn nhà bên cạnh xuyên qua một lỗ hổng của bức vách nơi người đàn ông nằm, chiếu thẳng vào bức vách đối diện, nơi có một chiếc bàn thờ được đặt cao quá đầu người. Trên bàn thờ, bát hương nguội lạnh, phía sau bát hương là một bức ảnh đen trắng. Hắn không nhìn rõ mặt người đàn bà trong bức ảnh nhưng thấy rất quen.

Khi tiến lại gần hắn mới đọc rõ được dòng chữ: Lê Thị Mây hưởng dương 27 tuổi. Hắn ngã khụy khi thấy đôi mắt to đen của người đàn bà trong ảnh đang trừng trừng nhìn hắn.

...

Hắn vội bước ra khỏi căn nhà như thể có một bóng ma xua đuổi.

Trong đầu hắn phút chốc bao nhiêu hình ảnh nát vụn xô về. Đó là những phần chắp nối khập khiễng, rách rưới của ký ức. Một ký ức không xa.

Hình như trong những vụn vỡ ký ức ấy hắn nhớ có một cô gái tên Mây.

Rồi lại nghe văng vẳng lời mẹ hắn: - Cái gì? Mày nói gì? Không phải mày định nói mày sẽ lấy nó chứ? Một con nhà quê, không cha mẹ. Sao cơ? Có thai? Mà có thai thì đã sao? Cứ có thai là rước về thì tao phải cưới vợ cho mày bao nhiêu lần rồi hả con? Sao tự dưng mày lại dở chứng thế?

Hắn nhớ rồi hắn lại quên. Đầu hắn quay cuồng.

- Mọi việc để đấy tao lo. Thu xếp hành lý mai lên đường. Bố mày đang chờ bên ấy.

Hình như đó là câu nói cuối cùng của mẹ mà hắn nhớ trước khi lên đường đi du học.

Rồi hắn lại nhớ ở xứ người đã có lúc hắn thấy dằn vặt về những lỗi lầm của mình.

Nhưng rốt cuộc sau 5 năm du học trở về hắn đã quên hết, đã xóa sạch hết ký ức về một thời mà hắn cho là nông nổi.

Người đàn bà tên Mây đã chết sau khi sinh. Đứa bé lớn lên bằng sữa đi xin. Người đàn ông đang nằm liệt trong ngôi nhà kia là ân nhân của mẹ con nó. Chính anh ta đã cứu vớt mẹ con Mây lúc chị ta bụng mang dạ chửa không nơi nương tựa. Ba tháng trước anh ta ngã dàn giáo, giờ bị liệt toàn thân. Đến lượt thằng bé trả ơn người đàn ông. Hằng ngày nó cần mẫn đi đánh giày để lấy tiền nuôi thân và trang trải thuốc men cho bố nó. Dù nó biết người đàn ông mà nó gọi là bố không cùng dòng máu. Đó là một phần câu chuyện mà hắn được người hàng xóm của cha con thằng bé kể lại.

Sau khi nghe xong câu chuyện, hắn lặng lẽ đi ra phía bờ sông. Vẫn không hề có một chút động tĩnh. Định cất tiếng gọi thằng bé. Nhưng bỗng dưng hắn hoảng sợ. Bởi trong chốc lát hắn như trông thấy cả một thành phố giàu sang và lộng lẫy phía bờ bên kia đang dần bị nhấn chìm xuống đáy sông.

Con bọ

QĐND - Thứ Năm, 10/05/2012, 21:30 (GMT+7)

QĐND - Hắn nghĩ trong đầu mình có một con bọ. Chính xác hơn là một con bọ cánh cứng màu đen, nhiều chân, nhiều râu và nhiều cánh. Dù vẫn biết bọ cánh cứng tùy từng loài sẽ có số chân cố định, hai cánh và hai râu. Nhưng hắn vẫn nhất quyết con trong đầu hắn là một con khác biệt, dị thường. Bởi nếu không khác biệt nó làm sao có thể chui vào trong đầu hắn được. Một điều nữa, con bọ trong đầu hắn có thể đổi màu. Nó giờ đây, ngay lúc này, hiện tại không còn là màu đen nữa, nó đang đổi sang vàng rồi tím. Một kiểu ngụy trang của loài thằn lằn.

Từ lúc hắn biết trong đầu mình có một con bọ tính đến nay đã được mười hai ngày. Nói chính xác hơn là mười hai ngày năm tiếng khổ sở sống chung với một cá thể nữa trong một cơ thể hoàn hảo. Có nghĩa là thân thể này từ nay không chỉ của riêng hắn nữa. Cái ý nghĩ hắn không còn là của riêng hắn khiến hắn đau khổ tột cùng. Hai mươi tám năm hắn sống cho riêng hắn, giờ đây niềm vui nhỏ nhoi ấy được chia sẻ. Mà chia với ai đã đành, đằng này lại chia với một con bọ cánh cứng. Ví như việc ăn uống từ nay sẽ phải chia đôi. Dù cái phần dinh dưỡng nuôi thân thể hắn lớn hơn nhưng phần thực phẩm nhỏ bé nào đó vẫn dành để nuôi con bọ. Hắn không thể sở hữu nguyên vẹn tất cả niềm vui thân xác và niềm vui tinh thần.

“Không thể nào khác được. Nó bắt đầu tham gia vào hoạt động sống của mình bằng những hành động âm thầm nhất. Rồi nó sẽ lớn lên, quẫy đạp, chi phối trí óc, thân thể mình. Nó sẽ không im lặng nữa. Trước cơn bão lớn bao giờ cũng có những giây phút bình yên. Mình phải tranh thủ giờ phút ít ỏi này tìm cách loại trừ nó”.

Hắn nói lẩm nhẩm một mình. Con bọ như hiểu hắn đang nghĩ gì, nó khe khẽ cựa quậy vài cái chân để nhắc nhở. Đầu hắn nhói buốt như có hàng vạn mũi kim châm vào.

Việc đầu tiên hắn nghĩ đến trong việc loại trừ con bọ ra khỏi đầu là ngừng suy nghĩ. Đây là một việc khá khó. Nó có thể ví với việc điên rồ đi chân trần vượt qua Bắc Cực vậy. Gấu trắng, chim cánh cụt hẳn sẽ cười thương xót cái kẻ ngàn lần dại dột ấy. Kẻ ấy sẽ chết ngay giờ phút đầu tiên (cùng với sinh vật trong đầu, nếu có).

Hắn kéo rèm cửa, lên giường, tắt đèn, nhắm mắt. Cũng may là hắn sống độc thân. Các cô nhân tình thì thường đến vào buổi chiều và về trước mười giờ tối, không mấy cô ở lại qua đêm. Tất cả sẽ tốt đẹp, thú vị nếu không có cái vật biết suy nghĩ, cử động mang tên bọ trong đầu.

Khi không quan sát mọi thứ thì trí óc sẽ yên ổn hơn. Không có hình ảnh đưa vào, sẽ không có phân tích, đánh giá. Tất cả là một bầu trời tối, không có sao, trăng, gió và mưa. Chỉ có bóng tối, bóng tối cuốn lấy tất cả, nuốt chửng tất cả vào bụng. Trong cái bóng tối dài đằng đẵng ấy không hề có vật gì được sinh ra và hình thành. Hắn thấy cảm nhận của mình mê mải, vô định đi mãi, đi mãi. Tất cả mênh mông, rộng lớn. Sự im lặng nuôi dưỡng tất cả.

Hắn? Không phải là hắn? Bọ? Không phải là bọ? Bóng tối? Không phải là bóng tối? Im lặng? Không phải là im lặng? Gió? Không phải là gió?...

Các định nghĩa, khái niệm trong miền này đều trở nên hết sức vô nghĩa, ngớ ngẩn. Nếu vậy thì hắn còn cần phải tranh đấu làm gì nữa. Con bọ là hắn hay hắn là con bọ cũng vậy cả. Hư vô sinh ra hư vô.

Giật mình, mở choàng mắt. Cuống cuồng chạy ra phía cửa sổ, giật mạnh tấm rèm, mở toang cửa. Ánh đèn đường vàng vọt chiếu thẳng vào mắt khiến hắn cảm thấy ấm áp, dễ chịu. Hắn đã mất một khoảng thời gian dài đằng đẵng để dứt ra khỏi bóng tối. Còn con bọ, hẳn giờ này nó vẫn đang say ngủ.

                                     ***

Hai tháng sau khi con bọ xâm nhập vào trong đầu hắn bắt đầu cảm thấy mình có những biểu hiện rất lạ không sao lý giải nổi. Như việc hắn cảm thấy thèm bay kinh khủng. Đây không phải là mơ ước của trẻ em còn rơi rớt lại. Bởi năm nay hắn đã gần ba mươi tuổi, sống đầu óc, thực tế và vô thần. Hắn biết con người tiến hóa từ loài nào, có thể làm được những gì và không thể làm gì.

Lần đầu tiên việc thèm bay ấy đến trong vô thức, có nghĩa là khi hắn ngủ mà không hề mơ mộng gì. Một giấc ngủ trưa ngày chủ nhật cùng cô nhân tình có mái tóc vàng uốn xoăn cùng mùi nước hoa oải hương khá đậm nơi cổ.

“Dậy, dậy. Anh làm gì mà đập tay, đập chân, rít lên dữ vậy”.

Hắn choàng tỉnh. Hắn không nhớ gì cả. Chỉ có mùi hoa oải hương vẫn nồng nàn tỏa khắp căn phòng. Từ trước đến nay hắn ngủ khá lành, không mấy khi ngáy chứ đừng nói gì đến đập chân đập tay, lại còn rít lên nữa chứ.

“Chắc tại mùi nước hoa đậm quá”.

Hắn trả lời bâng quơ trước ánh mắt tò mò, dò hỏi của cô nhân tình. Dù nghi ngờ con bọ nhưng hắn vẫn phải đổ tất cả cho mùi oải hương.

Lần thứ hai là việc hắn hẹn một người bạn cũ thời đại học uống cà phê. Hắn gọi một nâu đá. Người bạn vẫn chưa đến. Anh ta vừa gọi lại báo đến muộn mười lăm phút vì tắc đường. Trong lúc chờ cà phê được mang ra hắn ngồi ngắm tòa tháp ở giữa hồ. Rồi cơn gió ùa đến, những chiếc lá úa trên cành chỉ đợi có thế để bay la đà khắp con đường, bay cả xuống hồ. Đột nhiên hắn thèm bay kinh khủng, hắn thèm tung người lên chao lượn giữa những đợt gió mới. Cánh tay, trong mắt hắn lúc này là đôi cánh. Hắn đứng dậy, tiến đến phía lan can cao lưng chừng người, thò một chân bước ra ngoài, đứng đợi đợt gió mới để nhoài xuống. Nếu bạn hắn và anh bồi bàn trẻ không kịp giữ lại, kéo vào thì có lẽ hắn đã nằm bẹp dúm nơi nền đất phía dưới.

Bạn hắn không nói gì, không hỏi gì. Anh ta tránh nhìn trực tiếp vào mắt hắn. Nhiều người khách nhìn hắn ngầm dò hỏi, phán đoán, trách cứ, nguyền rủa. Câu chuyện giữa hai người diễn ra khá tẻ nhạt. Tất cả chỉ xoay quanh những kỷ niệm cũ rích thời còn đi học. Cuối buổi chia tay anh ta nắm tay hắn rất chặt như thầm an ủi một chuyện mà anh ta không biết, không dám hỏi, chỉ cố đoán định qua hành động hắn định nhảy xuống. Con bọ trong đầu hắn lúc ấy xoay người từ bên trái sang bên phải, chuyển từ màu đen sang màu đỏ. Lạ thay, hắn không thấy đau đầu, hắn thấy rõ con bọ.

Giờ đây, hắn quên hẳn khái niệm thời gian, giờ giấc, ngày tháng. Đồng thời hắn còn phải thay đổi cả thói quen ăn uống, sinh hoạt hằng ngày. Những món đồ ăn nhanh hắn thấy ngon như gà rán cùng Coca-cola, Pepsi giờ đây đã không còn ngon nữa. Hắn chỉ thèm mật ong và rau bắp cải sống.

Người tình của hắn, tóc vàng, tóc đen, tất cả trong mắt hắn giờ đây đều khoác lên mình bộ vỏ dày cộm, hai râu, sáu chân của một con bọ cái. Hắn cố điều khiển ý nghĩ biến họ trở lại thành người bình thường. Nhưng họ thành người thì hứng thú trong hắn lại biến mất. Hắn nhận ra giờ đây hắn chỉ hứng thú với những con bọ cái mà thôi.

Con bọ bắt đầu tấn công trực diện vào cuộc sống của hắn để từ đấy điều khiển nó theo ý mình. Hắn đã suy nghĩ rất nhiều về việc chống đỡ. Khốn nỗi, mỗi lần suy nghĩ đến cực điểm là đầu hắn lại đau như có muôn vàn con ong bò vẽ đang vo ve đốt. Con bọ cánh cứng biết hắn đang nghĩ gì, hắn không thể nào lừa dối được nó.

“Chỉ còn cách sống chung. Thỏa hiệp. Sự tranh đấu luôn dẫn con người ta đến sự đổ vỡ, bất hạnh, u sầu”.

Hắn ăn những món con bọ thích, cầu mong cho con bọ buông tha cho hắn vài tiếng tự do mỗi ngày. Con bọ đáp lại tiếng cầu xin bằng tiếng kêu rì rì, rì rì vô nghĩa. Tiếng kêu của con bọ khiến hắn liên tưởng đến tiếng chuông của thần chết. Cái gã thần chết bé con ấy đồng thời đang lớn lên từng giây, từng phút trong đầu hắn. Đến khi nó choán hết khoảng không gian của cái đầu là xong, chấm dứt. Hắn không cam chịu nhưng không thể không cam chịu. Bởi con bọ đại diện cho một thế lực mạnh hơn hắn.

***

“Trí tưởng tượng của con người có mạnh hơn thế giới tự nhiên?”. Hắn hỏi tôi-người được nghe hắn kể trạng thái hoang tưởng của hắn, để viết thành câu chuyện phi lý bắt chước truyện “Hóa thân”-người hóa thành bọ của nhà văn Franz Kafka, mà các bạn đã đọc từ nãy giờ.

Tôi im lặng, không sao trả lời được.

Hắn cười khẩy, rồi trút bỏ lớp da ngoài của con người thành một con bọ cánh cứng bay đi.

Mưa rừng

QĐND - Thứ Năm, 26/04/2012, 21:15 (GMT+7)

Q ĐND - Thế là tới nơi rồi…Anh kỹ sư vừa mở cửa nhảy xuống vừa kêu lên. Ông Tân ngó quanh quất. Cái thị trấn miền núi này thay đổi nhiều quá. Cũng đường một chiều rải nhựa hẳn hoị Nhà cửa cũng bốn năm tầng choáng lộn. Ông Tân chợt nhớ những năm còn đóng quân ở đây, hầu như tháng nào cũng có mặt ở thị trấn này chờ nhận gạọ Con đường ngày xưa đất đá lổm ngổm, lăn lóc phân ngựạ.. 

      Bác Tân ơi! - Tiếng cậu kỹ sư lại réo lên: - Có người của phòng nông nghiệp huyện ra đón đấy! 

      Ông Tân giật mình trở lại với thực tiễn. Mọi người theo cô gái ra đón vào phòng nông nghiệp. “Cả phòng đi vắng” - Cô bé ra đón nói vậỵ Ông Tân uể oải ngồi xuống ghế. Cô gái vừa xăng xái đi pha nước vừa nói thêm: 

      - Anh trưởng phòng dặn cháu thưa với bác và các anh chị cứ nghỉ ngơi, lát nữa về sẽ trao đổi thêm. 

      Ông Tân vừa đỡ chén nước, vừa hỏi: 

      - Cháu là cán bộ của phòng nông nghiệp à? 

      - Ấy chết! - Cô gái giờ mới sực nhớ: - Cháu quên chưa giới thiệu với bác và các anh chị, cháu tên là Huyền, cán bộ của phòng nông nghiệp huyện, cháu vừa tốt nghiệp trung cấp nông lâm. Cháu được phân công giúp đỡ đoàn trong thời gian công tác ở trên nàỵ 

      - Thế hả! Đoàn chúng tôi có bốn người, giờ thêm cháu nữa là năm. Năm anh em trên một chiếc xe tăng, mạnh phải biết...

    * *

*

      Ông Tân bùi ngùi nhớ lại những năm tháng khó khăn của đất nước. Sau năm bảy lăm, đơn vị Tân rời đồng bằng lên vùng rừng núi này làm nhiệm vụ mở đường. Ngày ấy, các phương tiện cơ giới còn ít ỏị Lính mở đường chủ yếu bằng sức người với phương tiện cuốc xẻng, xà beng là chính. Tuyến đường mới mở chạy bên bờ con sông Bạc - một nhánh nhỏ của sông Lộ Trong những ngày gian khổ đó, Tân đã làm quen được với Len - một cô gái Tày ở bản Cốc Vường, gần nơi đơn vị đóng quân. Len là một cô gái đẹp. Cô là người duy nhất ở bản học hết cấp 3. Cô mơ thi đỗ vào trường trung cấp nông nghiệp. Giữa hai người có lẽ vẫn chỉ là tình bạn. Len hay cùng chi đoàn đến đơn vị Tân trong những buổi giao lưu văn nghệ hay sinh hoạt chung. Họ càng thân với nhau hơn khi cung đường của đơn vị Tân thi công qua bản của Len. 

      Một bữa, Tân được thủ trưởng đơn vị giao cho nhiệm vụ ra trạm quân bưu đặt tại thị trấn Bắc Quang để nhận thư báọ Đường xa, Tân đi từ sớm, vượt qua sông Bạc, nước nông, lội chỉ đến đầu gốị Đến thị trấn, nhận thư báo xong, Tân rẽ qua chợ. Phiên chợ vùng cao rực rỡ sắc màu, réo rắt tiếng khèn bè, rậm rịch tiếng vó ngựạ Tân bất ngờ gặp Len giữa chợ. Cô ra thị trấn cắt thuốc cho mẹ. Len kéo Tân đi “xem” chợ. Quá trưa, trời bắt đầu đổi gió, tiếng sấm đầu mùa lục bục phía chân trờị Hai người vội vã trở về bản. 

     Mưa rừng. Cơn mưa như vỡ òa từ bầu trời căng mọng nước. Đầu tiên là những hạt mưa ném xuống ràn rạt trên tán lá câỵ Sau đó là nước trút ào ào trên sườn núị Tiếng sông suối chảy ầm ầm. Con sông Bạc buổi sáng còn trong veo nhìn thấy cả cá lượn lờ trong khe đá giờ đây đục ngầu, sủi bọt. Nước lũ dâng lên nhanh quá. Chiếc cầu bằng mấy mảnh bìa gỗ bắc giữa hai hòn đá chỗ khúc sông hẹp bị cuốn phăng. Những thân cây bị bứng cả rễ lao vun vút giữa dòng nước xiết.

   Tân và Len chạy ào vào một cái chòi coi ngô trên sườn núị Quần áo hai người ướt rượt. Nhưng may, thư báo bọc trong mảnh ni lông mỏng vẫn còn khô nguyên. Len gỡ cái túi đang đeo bên sườn rạ Nước chảy tong tong xuống sạp nứạ Áo quần Len dính sát vào người làm nổi lên những đường nét căng tròn của người thiếu nữ. Len e thẹn. Cô kín đáo tìm cách kéo lớp vải tách ra khỏi da thịt. Nhưng bộ quần áo ướt không chiều theo ý ngườị 

      Sắp tốị Cơn mưa rừng hình như chưa thể ngớt. Tiếng mưa ầm ầm cả một vùng rừng núi đại ngàn. Tân bảo: 

      - Có lẽ chúng mình không vượt được qua suối đâụ Phải đốt lửa lên hong khô quần áo thôị 

   Len khẽ gật đầụ Tân gom bẹ ngô khô và mấy gộc củi đốt dở trong lều lại chụm bếp. Ánh lửa bùng lên khi trời đã sụp tốị Hai người ngồi bên đống lửạ Len lúng búng bảo Tân quay mặt đi để cô cởi áo vắt bớt nước. Không khí trong lều ấm lên. Hơi nước từ quần áo tỏa ra tưởng hai người như sắp sửa bốc cháỵ Tân đùa: 

      - Cơn mưa bất ngờ lại hóa hay! 

      - Sao lại hay! Đêm nay mà không về đến bản thì bố em mắng chết! 

      - Thế sao lại dám đi chợ một mình? 

      Len cười không nóị Cơn mưa rừng vẫn ngân lên điệu nhạc ngàn đời của rừng núị Tiếng mưa rơi triền miên không dứt. Câu chuyện của hai người rời rạc vô đề không liền mạch. Nhưng mỗi lúc họ ngồi xích lại gần nhau hơn. Hơi ấm của lửa hay hơi ấm của cơ thể con người thật khó phân biệt. Đêm về khuyạ Trời và đất như hòa vào với nhau trong cơn mưa rừng dữ dộị Len và Tân cùng nhặt những mảnh bẹ ngô đẩy vào bếp nuôi ngọn lửạ Những sự đụng chạm tưởng như vô tình nhưng không vô ý. Rồi như một lẽ thường tình mà tạo hóa đã ban tặng cho con người, họ hòa vào nhau trong sự kỳ diệu của thịt da mà cả hai lần đầu tiên mới biết, mới cảm nhận được. Mưa rừng vẫn rả rích. Nước vẫn réo sôi ồn ào tràn trề, sung mãn… 

      Hồi lâu, Len áp khuôn ngực trần ấm nóng vào vai Tân khe khẽ hát: 

Sông Bạc ơi, 

Nước chảy về xuôi 

Về nơi phương trờị 

Lòng sông có như lòng ngườị 

Dù gập ghềnh bao lũ thác. 

Song, chẳng bao giờ đổi khác 

Nước ơi, chảy mãi đá mòn. 

Nước đi rồi lại về non 

Người đi có còn trở lại… 

Sông Bạc ơi, 

Nước chảy về xuôi, 

Về nơi phương trời…

     * *

*

      Sau cái đêm mưa rừng ấy, đơn vị ông Tân lật cánh sang hướng Cao Bằng. Chiến tranh biên giới nổ rạ Ông Tân bị thương nặng được chuyển về xuôi điều trị. Mấy lần ông viết thư cho Len nhưng không có hồi âm. Có lẽ địa chỉ không rõ ràng. Kỷ niệm về một đêm mưa rừng trong ông dần dần nguôi quên. Rồi ông chuyển ngành, lấy vợ. Vợ ông đi xuất khẩu lao động ở Đức. Ông vất vả nuôi con một mình, chờ vợ. Khi đứa con đang học lớp 5 thì vợ ông về đón nó đị Cả hai mất hút luôn. Theo những người quen từ Đức về thăm quê cho biết, thì ra vợ ông đã có gia đình riêng ở bên ấỵ 

      Ông Tân trở thành kẻ không gia đình. Nhiều lúc ông chẳng buồn về căn hộ trống vắng. Bữa tối, ông làm một gói mì tôm rồi ngủ ngay tại cơ quan. Chuyến đi công tác lên miền núi trở về nơi năm xưa từng đóng quân khiến ông chợt nhớ lại kỷ niệm của một đêm mưa rừng… 

      - Bác ơi! Cháu mời bác xuống nhà ăn dùng bữa chiều ạ! 

      Ông Tân bừng tỉnh. Huyền nhanh nhẹn đỡ cái túi đựng hành lý của ông Tân. Ông hỏi: 

      - Hôm nào thì đi Khau Vaỉ 

      - Thưa bác! Tối nay mời đoàn nghỉ ở nhà khách Ủy ban. Nếu lũ rút, ngày kia cháu sẽ đưa đoàn đi kiểm tra việc thi công đập nước Khau Vaị 

      - Thế cũng được! 

      Ông Tân nóị Tự dưng ông thấy cô bé này có vẻ gần gũị Huyền thì tất bật lo nơi ăn, chỗ nghỉ cho đoàn công tác của bộ. Tính tình cô vui vẻ, dễ mến, ai cũng quý. 

      Công trình thủy lợi Khau Vai được đầu tư hơn chục tỷ đồng theo chương trình 135 sắp hoàn thành. Một con đập chặn ngang thung lũng, tạo nên một hồ chứa nước. Đây là một công trình thủy lợi, thủy điện nhỏ. Nước từ sông Bạc sẽ được dẫn về tích trong hồ đảm bảo tưới tiêu cho một vùng đồng ruộng mấy trăm héc-ta phía hạ lưu và chạy máy phát điện đủ thắp sáng cho hai xã vùng caọ 

      Ông Tân và đoàn công tác kiểm tra việc thi công đắp đập, đào mương dẫn và dọn dẹp, giải phóng lòng hồ chứa, chuẩn bị tích nước vào mùa mưạ Huyền hướng dẫn ông làm việc với từng bộ phận kỹ thuật và đi thị sát hiện trường. Cô bé rất thích khi được chụp ảnh chung với đoàn công tác ngay trên đập nước đang thi công. 

      Mọi việc diễn ra suôn sẻ. Nhưng khi đoàn công tác chuẩn bị về Hà Nội thì có chuyện không maỵ Buổi đó, Huyền dẫn ông đi kiểm tra mương dẫn nước thì xảy ra tai nạn. Trận mưa đầu mùa đã gây ra sạt lở. Khi hai người đang đi dưới lòng mương, một hòn đá mồ côi lỏng chân bất ngờ rời khỏi vị trí trên ta-luy lăn xuống. Đi sau ông Tân, Huyền hét lên một tiếng rồi lao lên xô ông về phía trước. Huyền ngã sấp xuống lòng mương. Hòn đá rơi trúng chân trái của cộ Máu từ chân cô ứa ra ướt đẫm cả nền đất mới đàọ Ông Tân cuống quýt bế xốc cô gái cố chạy xa chỗ ta-luy đang có nguy cơ đổ ụp xuống. 

      Cũng không hiểu bằng cách nào ông Tân đã lấy được dây rừng ga-rô vết thương và cõng Huyền về đến chỗ lán đám công nhân đang nghỉ trưạ Nghe tiếng ông kêu cứu, cánh công nhân chạy túa rạ Họ dìu ông vào lán và nhanh chóng đưa cô gái đi cấp cứụ 

      Huyền nằm điều trị ở Bệnh viện đa khoa huyện. Cô bị gẫy xương chân, phải bó bột. Cô bé xinh đẹp luôn có người đến thăm. Đám công nhân công trường chưa vợ được dịp bày tỏ sự quan tâm đối với người đẹp. Hằng ngày nếu không bận việc gì, ông Tân đều đến thăm Huyền. Một hôm, ông đến thì cô bé bảo: 

      - Bố mẹ cháu vừa đến thăm cháu đấy! 

      - Bố mẹ cháu đâu rồỉ 

      - Bố cháu chở mẹ xuống bằng xe máy rồi phải về ngay vì còn các em ở nhà. Mẹ cháu còn ở lại với cháu vài hôm. 

      - Thế mẹ cháu đi đâủ

      - Mẹ nói ra chợ mua cho cháu miếng thịt quaỵ Cháu rất thích thịt lợn quay với lá mắc mật!

      Cô gái nói và che miệng cười vẻ xấu hổ vì vô tình để lộ tính háu ăn của mình. Ông Tân ngồi nói chuyện với Huyền hồi lâu mà bà mẹ cô gái vẫn chưa về. Ông có ý nấn ná muốn chờ gặp người nhà của Huyền để nói vài câu cảm ơn. Hôm đó nếu không có cô thì tảng đá ấy đã rơi trúng đầu ông rồi cũng nên. Hôm sau vừa thấy ông đến, Huyền đã dớn dác:

- Mẹ cháu nói muốn gặp bác đấy!

Huyền ngó quanh:

- Ơ! Mẹ vừa quanh quẩn đâu đây cơ mà… Mẹ! Mẹ… ơi… 

Huyền gọi và định tụt khỏi giường. Ông Tân vội đỡ cô ngồi dựa vào tường: 

- Chân chưa tháo bột, cháu không được cử động mạnh!

 - Nhưng mẹ đâu rồi…

- Chắc mẹ cháu lại loanh quanh đâu đấy thôị 

- Không hiểu sao từ hôm qua đến giờ mẹ cháu lạ lắm bác ạ! 

Huyền lại ríu rít kể chuyện mẹ, chuyện nhà. Ông Tân đã hứa sẽ theo Huyền về thăm nhà cộ Nhưng ấy là lúc Huyền chưa bị gãy chân. Bây giờ thì không được rồi bởi vì chỉ vài ngày nữa ông cùng đoàn công tác sẽ trở về Hà Nộị 

Hôm sau nữa, ông Tân đến bệnh viện để chia tay với Huyền trước khi về xuôi, kết thúc chuyến công tác. Vừa thấy ông đến, Huyền nói ngay, giọng cô có vẻ tiếc:

- Mẹ cháu về rồi bác ạ! Bố cháu vừa xuống đón xong!

- Bác Tân này! Mẹ cháu có gửi cho bác một bức thư đấy!

Ông Tân ngạc nhiên. Huyền thò tay xuống dưới gối tìm lá thư đưa cho ông Tân. Lá thư được dán kín. Ông Tân ngồi xuống mép giường bóc thự Càng đọc, mặt ông càng tái đị Thư viết:

“Anh Tân!

Chắc là anh sẽ bất ngờ khi đọc thư nàỵ Bởi vì người viết thư cho anh chính là con bé Len năm xưa ở bản Cốc Vường. Tháng trước, xem bức ảnh con gái mang về chụp với đoàn công tác ở đập nước Khau Vai, tôi đã ngờ ngợ. Khi nhìn thấy anh ở bệnh viện thì tôi mới chắc là mình không nhầm. Tôi cũng định gặp anh nhưng sau lại thấy không nên. Sau cái đêm mưa rừng năm ấy, tôi cứ chờ anh mãi, chờ mãị Nhưng con gái vùng cao làm sao có thể chờ người miền xuôi một cách vô vọng mãi được. Tôi đã gặp và xây dựng gia đình với anh Tụ. Anh ấy là người tốt, hết lòng thương yêu vợ con. Tôi bằng lòng với cuộc sống hiện tại nhưng thấy cần phải viết thư này cho anh. Bởi lẽ, tôi muốn để anh biết một điều đó là cái Huyền chính là con gái của anh. Chuyện này trước sau gì cũng phải nói với con. Tôi muốn tự anh sẽ nói với nó. Từ lâu nó cũng đã biết không phải là con đẻ của bố Tụ, nhưng chắc là sẽ rất bất ngờ vì chuyện này…”.

Mặt ông Tân trắng bệch đị Huyền hốt hoảng: 

 - Bác… bác… bác bị làm sao thế?

Ông Tân lập cập, buông rơi lá thự Huyền cố gượng cúi xuống nhặt lá thư lên xem. Đọc thư, mặt cô cũng tái đi, hai tay cầm lá thư run cầm cập. Nước mắt Huyền chảy giàn giụa trên má. Hồi lâu, cô mới thốt lên được một câu: “Bố… bố ơi! Sao mãi đến tận bây giờ…”

BỮA TIỆC TRONG BỆNH VIÊN TÂM THẦN 

Bạn thân của tôi từ thủa hai đứa cứ trưa hè nắng chang chang trong khi mọi người rủ nhau trốn vào bóng dâm trong nhà, dưới tán cây thì lại í ới gọi nhau quàng giỏ ra đồng bắt cua. Trời càng nắng to thì cua càng ra nhiều. Gã bạn cua cáy đó giờ đây là bác sĩ của một bệnh viện tâm thần. Báo, đài thỉnh thoảng lại loan tin “bác sĩ Lại Kông đại diện ngành y tế Việt nam đi dự đại hội nghiên cứu trí tuệ Stốckhôm”. “Bác sĩ Lại Kông đựơc viện nghiên cứu tâm thần Soóc Bon công nhận công trình nghiên cứu thần kinh phân liệt dạng cấp tính”. “Tại Hội nghị nhân kỉ niệm ngày sinh của Frớt bác sĩ Lại Kông …”.

Tóm lại thằng bạn Lại Kông của tôi giờ đây thực sự là một thầy thuốc danh tiếng. Không biết tiếng chân cua lạo xạo, và những đám bọt trắng nhểu ra từ hàm cua trong những trưa nắng chảng không biết có tác động gì đến trí tuệ của nó không, nhưng theo sự hiểu biết đơn giản của tôi về chất dinh dưỡng thì tôi tin những bát canh cua đặc quánh gạch thơm lừng mùi mẻ đã ít nhiều góp phần làm nên trí tuệ của anh chàng này.

Theo đề nghị của tôi và cũng là nể tình bạn từ thời cua cáy đó nên Lại Kông đồng ý cho tôi vào thăm bệnh viện của gã. “Cậu là nhà văn, nhà báo thì theo tớ nghĩ bộ óc phải luôn luôn sáng suốt chứ u ơ, ngất ngây như đám bệnh nhân của tớ thì điều khiển chữ nghĩa làm sao được. Nhưng cậu đã thích thì tớ đặc cách, chỉ có điều sau này trí óc cậu có vấn đề gì thì đứng trách tớ. Tâm thần là bệnh hay lây. Và Cậu nên nhớ danh ngôn kinh điển về ngành mình. Ấy là trong mỗi người bình thường đều có những phút giây, triệu chứng tâm thần và điều kiện để đẩy lên thành căn bệnh”. …

Tôi chọn một ngày lòng dạ thật thư thái để rẽ vào bệnh viện của Lại Kông. Vừa nhìn thấy tôi, gã bạn thời cua cáy kéo ngay tôi phía cửa sổ nhìn ra sân bệnh viện. 

-Cậu cứ nhìn dưới gốc cây bàng ở chỗ kia kìa.

Theo hướng tay gã chỉ, tôi nhìn thấy bốn người đang châu đầu vào nhau, người thì mặt mũi hớn hở, người thì mặt mũi khó đăm đăm như đang suy tính chuyện gì, người thì đang gật đầu đều đặn, người còn lại thì đưa mắt nhìn xa xôi. Trong tay người nào cũng khum khum một chiếc lá bàng như kiểu cầm chén.

- Bệnh nhân đúng không?

- Không có bệnh thì vào đây làm gì - gã bạn tôi có vẻ xem thường câu hỏi của tôi.Tớ đố cậu họ đang làm gì đấy. 

Thấy tôi ngơ ngác Lại Kông tủm tỉm nói ngay:

-Mấy bố ấy đang ăn tiệc đấy.

-Ăn tiệc 

-Chứ sao nữa.

 Nói xong Lại Kông hạ giọng như để tôi chăm chú nghe hơn. Gã bảo trông bốn ngưòi thế thôi nhưng khi bình thường họ toàn có chức sắc ngihêng thành lệch đất đấy. Cao nhất là thứ trưởng, còn một vụ trưởng, một vụ phó, bét nhất là một trưởng phòng. Ngừng đoạn giới thiệu tóm tắt thân thế sự nghiệp bốn bệnh nhân, Lại Kông mím chặt mồm rồi bật ra :

-  Cậu mà nghe đựơc nguyên nhân vì sau họ vào đây thì tớ tin cậu đủ tư liệu để viết đựoc một cuốn tiểu thuyết. Nhưng bây giờ ra dự tiệc với họ đã .

Không nén đựơc sự hồi hộp bởi cách nói hấp dẫn của Lại Kông, tôi nhanh nhẹn theo chân gã lại gần bốn bệnh nhân . 

-Ở tỉnh nào mà đến muộn thế? Bệnh nhân có cái trán hói bóng hất hàm hỏi 

-Báo cáo thứ trưởng, ở Cà Mau 

-Tốt tốt. Nhân danh vụ trưởng vụ kế hoạch tôi đánh gía cao sự tham gia của tỉnh các vị. Bệnh nhân có cặp mặt phồng to với những tia máu li ti ngoằn ngoèo.

-Đưa giấy mời cho bộ phận tổ chức rồi chứ? Ông có cái nhìn xa xăm hỏi Lại Kông. Có đưa thì mới bố trí đựoc chỗ ăn chỗ ở và tiêu chuẩn hội nghị.

-Ông là trưởng phòng mà cứ hay chỉ thị quá .Thôi ngồi xuống bàn sáu mới có bốn vừa đẹp. Kìa ông rót rượu đi chứ .

- Vâng,vâng. Có ngay, có ngay. Bệnh nhân trưởng phòng vơ mẩu gạch ở cạnh chận mình, rồi chạy vội ra lấy hai chiéc lá bàng vừa rơi cuộn lại lần lượt đưa chúng tôi. Chạm cái cho khí thế đã nào. Rượu Mác ca lần của thứ trưởng vừa đi Ca na đa xách tay về đấy 

- Bên ấy mấy cậu ở đại sứ quán gọi là rượu mắc sai lầm. Bệnh nhân thứ trưởng chìa bàn tay cầm lá bàng lên. Chỉ thiếu chút nữa tôi bật cười nên không giơ tay ra. Gã bạn cua cáy của tôi nháy mắt nói khẽ “cứ giơ ra theo họ”. Thấy tôi ngập ngừng, bệnh nhân vụ phó tay vẫn giơ gật gật đầu nói . 

-Rượu mắc sai lầm hả.Tài, tài thật. Ngôn ngữ Việt Nam mình bợm thật. Còn ông kia giơ chén ra đi, đừng nghĩ là địa phương mà khiêm tốn. Trên bàn tiệc là bình đẳng hết, có thế ăn, uống mới ngon miệng. Đây, đây. Mời ông cái đùi gà này. Ưu tiên vùng xa. Thịt gà, phụ nữ cứ phải là tay trực tiếp đúng không. Vừa nói ông ta vừa nhặt viên sỏi đen xì đặt vào tay tôi.

- Kìa vụ trưởng cho thì cầm lấy. Lại Kông hích vào mạnh sườn tôi đau nhói .

-  Gặm vào tỏi gà này có mà gẫy răng. Sợ thật, sỏi mà lại cho là thịt gà thì thật là. Tôi cười sặc sụa. Đang cười tôi chợt thấy lưng tôi bỏng rát. Bênh nhận vụ trưởng trợn cặp mắt có những tia máu  ngoằn ngoèo.

- Tay này như trên trời rơi xuống ấy. Sỏi là sỏi thế nào. Ông nhìn cho kĩ đi. Đây là đĩa tôm hùm. Giá bây giờ triệu rưởi. Ông nhặt chiếc que lên đưa cho tôi xem

- Báo cáo anh. Bây giờ là hai triệu rồi ạ.

- Ừ tuần trứơc tớ đi dự tiệc có cả ông đấy còn gì nghe các cậu bên uỷ ban tỉnh nói thế thì biết vậy. Còn đây là chân giò lợn mường nuôi tự nhiên trên đồi đấy. Ông giơ mảnh cát tông vừa lôi ra từ dưới mông lên .

- Gà này cũng là gà đồi đấy. Lại còn món vòi voi này nữa chứ. Con này các ông công nhận là tươi không. Tôi làm kế haọch mãi tôi biết. cứ nhìn mâm cơm thì biết gia chủ làm ăn có phát đạt hay không. Phải có tiền thì mới có nổi những thứ này. 

- Chứ sao. Ông vụ phó đầu gật gật tự đưa chiếc lá cuốn vào môi như động tác nhấp rồi cũng khà một tiếng nói to 

- Giống vòi voi ta chưa có, phải nhập hết. Tòan nhập Trung Quốc hết đấy.

- Dạo này tôi thấy có cả của Singapo rồi. Ông xem này. Xem kĩ đi. Bệnh nhân trưởng phòng làm ra vẻ sành sỏi. Ông giật chiếc que từ tay ông vụ trưởng ra đưa cho tôi.

- Cậu là trưởng phòng mà cũng được ăn uống ghê nhỉ. Thôi đựơc rồi. Đây ông xứ sở của hải sản ăn đi rồi cố mà nuôi cho được cái giống này chứ nhập mãi phụ thuộc lắm. Ăn đi. Ăn đi.

Thấy ông cứ dí mãi vào tay tôi khiến đọn que đâm vào tay đau điếng, nên mặc dù bác sĩ Lại Kông liên tục nháy và huých nhưng tôi vẫn phải gạt tay bệnh nhân vụ trưởng vụ kế hoạch ra nói to:

- Khổ quá. Đây là cái que. Sao cứ chọc vào tôi thế đau quá .

- Tôi chưa kịp dừng thì tay thứ trưởng đứng phắt dậy chỉ thẳng tay vào mặt tôi mặt xanh xám vì giận dữ 

- Thằng cha này láo nhỉ. Đây là vòi voi. Hai triệu một cân thế mà dám bảo là cái que. Lộng ngôn, lộng ngộn quá thể. Thế thì còn là kỉ cương, trật tự nữa .

- Đúng thế. Đúng thế. Phải kỉ luật. Phải đuổi hắn ra khỏi bàn tiệc này.

- Đuổi. Đuổi - ba bệnh nhân còn lại hùa theo hưởng ứng. Những cánh tay cầm đủ thứ nhằm vào tôi xua xua. 

- Được rồi. Được rồi. Ông bị loại khỏi mâm tiệc rồi. Lại Kông nắm tay tôi kéo nhanh thoát khỏi sự cáu giận cuồng nộ của bốn bệnh nhận.

Vào được phòng rồi, thằng bạn cua cáy của tôi tủm tỉm cười bảo tôi:

- Cậu không làm được bác sĩ tâm thần rồi. Với những người điên người ta nói gì thì minh cứ tin như thế đã. Nói ngược lại thì dễ mang hoạ lắm.

Tôi phá ra cười, đầu vô tình cũng gật gật như tay bệnh nhân vụ trưởng vụ kế hoạch.

TRƯỚC HẾT PHẢI BÌNH TÌNH CÁI ĐÃ

1. Nếu chuyện này xẩy ra ở nước khác thì chí ít có hai người liên quan sẽ bị cơ quan pháp luật đụng đến. Hình phạt ra sao còn tuỳ thể chế của mỗi quốc gia. Người thứ nhất là ả gái điếm. Mặc dù biết mình đang bệnh tật rề rề  vẫn hành nghề. Người thứ hai là gã bác sĩ. Lợi dụng sự lo lắng của bệnh nhận để bịp bợm, moi tiền ...Nhưng ở nước ta thì mọi sự ngược lại. Chỉ có thằng tôi, nhân vật chính trong sự việc này nếu ở xứ sở ngoài Việt Nam thì về luật pháp tôi có thể được xem là vô can ngoài sự lăn tăn, ân hận về đạo đức đối với vợ, với gia đình. Còn ở nước ta riêng thằng tôi nếu sự việc lộ ra thì ngoài sự lên án, khinh rẻ thậm chí đi đến tan vỡ hôn nhân thì hai người kia đều không bị một sự trừng phạt nào về pháp luật và cả sự lên án nào của dư luận quần chúng.

Cũng dễ hiểu thôi. Ở cái xứ này hễ nhà nước ra một điều lệnh cấm nào đấy thì dường như quyết định (hay nghị định ) lại có tác dụng như một chất xúc tác khiến việc đó càng phát triển hơn. Kiểu như ngay sau khi lệnh cấm hút thuốc lá ở đám đông có hiệu lực thì một gã oắt con vừa có lông tơ trên mép có thể phun khói thuốc vào mặt một người đáng tuổi bố gã mặc cho người đó chỉ cho gã xem cái biển cấm hút thuốc. Hoặc khi đèn đỏ bật lên anh, hay chị dừng lại thì ngay lập tức có ba thằng chíp hôi không đội mũ bảo hiểm, vọt qua mà không quên trợn cả sáu con mắt về phía anh chị mà quát to “rõ là người hâm”. Còn trong xã hội chắc chắn sẽ có đến hơn 90% người biết việc tôi kể sẽ bĩu mồm, có vị bộc trực có thể nói rống lên, vị đằm tính lầu bầu khẽ những câu nói có thể khác nhau về kết cấu ngữ pháp nhưng tựu chung vẫn là nội dung “cho chết, ai bảo rửng mỡ chơi bời”. Cũng vì bức xúc quá nên tôi mới buộc lòng kể câu chuyện chẳng hay ho cho mọi người biết và hi vọng ai trót nghe được thì cũng xin nhớ lời chú thích của tôi giống như lời yêu cầu mở đầu của vị chuyên nói chuyện thời sự thời bao cấp trước một hội trường chứa gần một nghìn người  “chuyện này hoàn toàn bí mật vì được trích từ một tài liệu quan trọng, xin các vị đừng lan truyền rộng rãi”.

Chuyện có thể coi là rất đau khổ và khó nói của tôi là như thế này. Tôi năm nay vừa bước qua tuổi ba lăm. Vợ tôi kém tôi tròn năm tuổi. Như vậy có thể khẳng định vợ chồng tôi đang độ tuổi sung sức. Nếu căn cứ vào lý thuyết dân gian đặt lịch cho sinh hoạt vợ chồng với chỉ số 3 nhân 9 thành 36. Tức là một tuần về mặt lý thuyết vợ chồng tôi có hai lần tình tang. Sau khi sinh được hai con. Đứa đầu là con gái, đứa sau là con trai thì vợ chồng tôi được bố mẹ tôi đánh giá rất cao với sự hoan hỉ chân thành. Cánh bạn bè, nhân viên của hai cơ quan của tôi và vợ tôi đều lấy sự đẻ của chúng tôi là một điển hình. Không ít cặp đã đến hỏi kinh nghiệm. Còn đối với đất nước thì vợ chồng tôi cũng thật hoàn thiện vì không bị xếp vào diện làm mất cân bằng giới tính khi Việt Nam ta đang lo sợ tỉ lệ 100 con gái mà có đến 113 con trai. Còn món kia vợ chồng tôi đều có thể coi là mỹ mãn. Vậy mà đột nhiên, từ lịch sinh hoạt đều như vắt chanh bỗng ngoắt một cái hơn một tuần nay mặc dù rất ham muốn nhưng vì tình yêu thương vợ vô cùng nên tôi nát cả óc để trì hoãn, kéo dài càng xa càng tốt sự hấp dẫn kia đến khi … Vâng, xin các vị đừng lộ chuyện này tới người khác nhỡ vợ tôi biết được thì thật khốn nạn chẳng những cho tôi mà cả hạnh phúc, sự yên ấm của gia đình. Hai con tôi mai kia lớn lên biết chuyện thì chắc chắn sự kính trọng của nó đối với tôi ở vị trí là bố sẽ chỉ còn còn số không. Đó là không tính đến sự khinh bỉ đau đớn tôi sẽ nhận được từ chúng.

Ngồi tĩnh tâm nhớ lại những gì bố mẹ tôi kể mới thấy cái thời bao cấp thật tuyệt vời. Ngay đến thứ nuôi sống con người như gạo, thực phẩm người ta còn qui định, phân cấp bằng tờ bìa giấy lạnh te phẳng lì mua đúng ở các cấp cửa hàng sang trọng có vai vế như Tôn Đản, Quan Thánh đến các quầy thực phẩm quần chúng èng èng dành cho đám công chức ba cọc ba đồng, đám công nhân bạc mặt vì ca ba ở Chợ hàng Da, chợ Yên phụ bất chấp sức khoẻ, nhu cầu, tuổi tác của con người. Quần áo cũng thế. Trừ các vị lãnh đạo cao còn lãnh đạo thường thường môi khi đi nước ngoài còn được mượn com lê của Bộ Tài Chính còn cứ bổ đầu ra từng ấy mét cho một đầu người một năm. Ăn mặc là những thứ cốt lõi cho con người còn quản được huống hồ món tình cảm. Vì thế dù yêu nhau đến sắp thành vợ thành chồng cũng đâu dám cầm tay trước đám đông. Con gái nông thôn véo von một cách chân tình theo điệu sa lệch chênh câu vè có lẽ sinh ra từ một cái đầu lẩm cẩm bất chấp nhu cầu sinh lý, tình cảm“hoa huệ cắm với hoa hồng. Rằng em chỉ thích lấy chồng thương binh”. … Cái thời tử tế muôn năm đó đã qua đi một cách luyến tiếc để thay thế vào cái thời cứ có đồng tiền là muốn làm gì thì làm. Từ việc có tội thành vô tội, từ việc chẳng học hành gì cũng có bằng, muốn ngồi vào vị trí nào thì cũng ổn nếu anh có bộn tiền... Những việc lớn như vậy còn làm được bằng tiền chứ cái món không phải vợ chồng, người yêu mà thấy hay hay mắt muốn được ôm ấp cùng giường giữa một gã đàn ông già mõ, xấu xí thậm chí tàn tật với một đứa con gái trẻ măng, mơn mởn đều là chuyện nhỏ như thò tay lấy đồ vật trong túi mình. Thế cho nên …. Xin nhắc lại trước khi nghe tôi kể tiếp các vị giữ kín hộ cho tôi, ngộ ngỡ…

2.Trong các bộ phận của con người về mặt giải phẫu học và chức năng thì đều bình đẳng nhưng về mặt ngôn ngữ thì bộ phận thực hiện chức năng tạo ra nòi giống và nói một cách văn hoá là phương tiện tột cùng của tình yêu đôi lứa quả là đa dạng. Trong nghệ thuật, và khi cao trào xuất hiện trữ tình thì bộ phận ấy được ám chỉ bằng những ngôn từ cực kì hoa mỹ. Bé thì là chim, là bướm lớn lên khi có đối tác tình cảm thì được phong “dòng suối thiên thai “,“ phượng hoàng trong bão”. “đỉnh  Vu Sơn”, “ ngọn quạt thần tiên “vv và vv nhưng cũng chính bộ phận ấy khi trở lại tên nguyên thuỷ, chính gốc của nó theo ngôn ngữ nôm lại là ngôn từ sắc sảo, mạnh mẽ và không kém phần sắc sảo với độ châm biếm sâu cay, đối địch mạnh mẽ để ném vào mặt đối thủ, hay những kẻ đáng khinh bỉ … Khổ cái bộ phận quan trọng bậc nhất ấy của tình yêu, luôn luôn phải dấu kín nếu là kẻ tỉnh táo, thứ bộ phận được gọi bằng các loại danh từ đối nghịch giữa cao sang và thấp hèn của tôi lại xẩy ra sự cố bất ngờ làm tôi nát óc vì âu sầu và toan tính.

Duyên do là như thế này. Hôm ấy là ngày tổng kết cơ quan. Thủ trưởng cơ quan tôi năm vừa rồi thành công trong hàng loạt dự án và tuy đã 59 tuổi khai sinh, còn tuổi mụ tròn 60  nhưng do tài năng nhiều mặt, nhất là sự xử dụng lợi thế nguồn tài chính của cơ quan đối với cấp trên nên vẫn được giữ lại thêm nhiệm kì nữa. Theo lời của ông thì Bộ trưởng bảo “ngoài việc ông có bằng tiến sĩ thì việc ông về bây giờ làm cơ quan lâm vào tình trạng nguy hiểm vì không ai thay thế được”. Là nhân viên, tôi thây kệ việc bàn ra tán vào vị trí, ghế ngồi của lãnh đạo. Thằng bé ăn cái bé thằng lớn chén cái lớn có gì mà bộn. Tôi chỉ biết hôm ấy tổng kết rất xôm. Ăn, uống ngất ngư ở cơ quan rồi, trong túi lại rủng rỉnh tiền thưởng. Mấy đứa đồng điệu hứng lên bấm tay nhau đi hát. Hát rồi đến mát xa là qui trình vô tình ai cũng phải chấp nhận kiểu như trước đại hội chính thức phải có đại hội trù bị. Cô nhân viên mát xa giọng nói ngọt ngào, êm dịu, hình như vẫn giữ vẻ ngây thơ và dễ xúc động nữa chứ. Tôi một gã trai đương thì lại đang trong trạng thái trữ tình, thương yêu và rộng lượng. Năm trăm nghìn đưa cho cô bé như một quà tặng gọn gàng, thuận tiện của người đàn ông ga lăng. Trong ánh đèn chập choạng của phòng mát xa tôi thấy hẳn hoi hai giọt lệ long lanh trên mí cô ấy ... Buổi tối hôm đó thấy ngay tác động của thứ tình yêu mua bán, vụng trộm có chút ít ngọt ngào kia ngay. Cảm giác ngứa và nóng dấm dứt khiến tôi bất an. Hoảng hốt, bần thần tôi bèn kêu rống lên vì đau bụng. Vợ tôi mắng yêu “ăn cho lắm vào. Đồ ăn nguội bây giờ khó an toàn lắm”. Bôi tí dầu, thoát và bảo vệ được vợ đêm hôm đó.

Sáng hôm sau tôi lệnh khệnh đến cơ quan, kéo tay đồng nghiệp trong dây chuyền ca rao kê, mát xa ra. Gã đồng nghiệp hoảng hốt thật sự bảo “sao liều thế ?” khi nghe tôi thông báo nhưng gã làm tôi thất vọng bởi lẽ gã không có kinh nghiệm khi lâm vào tình trạng bi đát đó vì chưa bao giờ chất trữ tình của gã lên cao đến độ làm mờ mịt trí tuệ. Mặc dù rất thương tôi gã vẫn lầm rầm thông báo tin chết người rằng rằng từ bé đến giờ gã không mắc phải thứ bệnh oái oăm đó nên chẳng biết cơ sở nào đáng tin cậy và có thể giữ bí mật trong chuyện chữa trị sai lầm chết người đó của tôi cả. Để kết thúc khúc tâm sự u buồn về một tai nạn xã hội như vậy gã còn tỏ ra ân tình dặn dò “tao sẽ không nói với ai đâu nhưng mày cũng phải thật khéo mà giữ bí mật nhất là với vợ không có vừa hại cô ấy vừa tan cửa nát nhà”.

Tôi thất thểu về bàn làm việc của mình. Điều đầu tiên là nghĩ cách thật hợp lý để cách ly vợ càng lâu càng tốt mà không bị nghi ngờ trước khi “máy bay địch đã bay xa”như câu nói của ông bố tôi ưa nhìn về quá khứ. Nghĩ mãi, nghĩ mãi tôi chợt phát hiện ra mẹ tôi dạo này hay dán Cốc thống linh để chữa tê thấp. Mường tượng đến hai đầu gối u lên vì miếng dán ăn da và sự gãi liên hồi kì trận của mẹ, tôi mừng rú lên thầm cám ơn bậc sinh thành của mình. Thế mới biết, dù bi đát đến đâu thì mẹ hiền vẫn luôn luôn là người cứu tinh của ta hiện ra đúng lúc nhất. Biện pháp này chắc chắn hữu hiệu để đối phó với vợ trước khi tìm được nơi tin cậy chữa trị. Mẹ tôi thấy tôi dán Cốc Thống Linh thương hại “khổ, giống máu mẹ rồi. Tội nghiệp, tê thấp ở con phát sớm quá”. Vợ tôi thấy tôi như vậy hình như có cớ để bộc lộ tình yêu với chồng hơn “thôi từ này đừng xách xô quần áo lên sân thượng nữa, em sẽ  cố. Phải giữ khéo vào chứ mới hơn ba mươi tuổi đã thế mai kia tuổi cao thì …”.  Tôi đẩy thêm gam nhăn nhó, sầu khổ để phù hợp với nỗi xót thương của vợ và tiện thể cũng tăng thêm động tác để minh hoạ cho sự tác động của Cốt  thống Linh. Ngay khi màn của vở kịch (tôi biết chắc không thuộc thể loại kịch ngắn) thành công tôi vẫn lặng lẽ để chuyển biện pháp làm sao mau chóng kết thúc mâu thuẫn kịch để cụôc sống trở lại bình thường. Nói nôm là đi tìm cho được nơi chữa trị căn bệnh quái quỉ với ba nguyên tắc “nhanh chóng, bí mật và hiệu quả”

3. Kể cũng khổ, khi lành lặn, bình thường thì bộ phận tình yêu trong cơ thể con người được ca ngợi, nâng niu, yêu chiều còn khi lâm bệnh nhất là bộ phận ấy lại ở thằng người chưa phải là bợm bãi lắm mà còn biết xấu hổ và biết ân hận như tôi thật khốn khổ. Loại người dở dương như tôi khi phổi tim dạ dày, thần kinh có vấn đề có thể công khai kêu rống lên để có được sự thương hại còn bộ phận này khi trục trặc thì quả là chỉ có mình thương lấy mình, ngay vợ hay người yêu thường được hưởng niềm vui từ đó cũng đành phải dấu nhẹm, không thể tiết lộ. Tôi không thể công khai cầm y bạ, đến bệnh viện đúng tuyến hay sai tuyến bảo hiểm để chữa trị. Vì thế …để thực hiện ba nguyên tắc “nhanh chóng, bí mật, hiệu quả” nên hễ cứ có thời cơ là tôi rời nhà, rời cơ quan lang thang lướt xe trên phố. Tay nắm chắc ghi đông, mắt chĩa ra tăm tia hai bên đường phố để phát hiện ra địa điểm khả dĩ cứu tôi ra khỏi nỗi khổ trầm luân và cứu vớt được hạnh phúc gia đình mình.

Dòng dã sau ba buổi trưa, hai buổi quá chiều mắt tôi loé lên khi thấy ở góc khuất một con đường nơi giao nhau của hai con phố trong đó có con phố có hẳn cả một lò mổ lợn quốc doanh mà bố tôi thường gọi theo âm tiếng Pháp là ba toa. Tôi xuống xe, chầm chậm dắt xe cố làm vẻ như tìm số nhà mình đang cần để ngộ nhỡ gặp người quen mà nhất là vợ thì có đường mà nói thác đi. Khi đứng trước tấm biển nhỏ khiêm tốn bởi kích thứơc và mầu sơn xanh nhạt như kiểu không muốn để ai nhìn thấy tôi suýt rú lên khi lướt dòng chữ “khám và chữa trị từ 18 giờ tối”.Thôi đúng rồi. Ông bác sĩ này không chỉ là một thầy thuốc giỏi về y thuật mà còn là một nhà tâm lý sâu sắc. Tôi đọc trong tiểu thuyết thủa Nam Cao với Ngô Tất Tố thấy bảo người đàn ông ăn chơi đúng nghĩa cũ của Hà Nội cổ là phải thập thành xóc đĩa, cô đầu, là phải trải qua bẩy lần tim la ba lần lậu… Nhưng đấy Hà Nội của thời thực dân đế quốc, thời mà các bà vợ chỉ biết cúc cung nghe theo chồng, thấy chồng chơi bời chỉ dám nói “ông cẩn thận đừng mang bệnh về cho tôi “. Còn thời nay nam nữ bình đẳng, nên đàn bà, con gái ở thành phố khi đã thành vợ thì chỉ sau ba tháng lấy nhau đã bộc lộ quyền sở hữu tối thượng đối với gã chồng với câu răn đe mang âm hưởng  tục  ngữ  “lành làm gáo vỡ làm muôi “. Biển của ông bác sĩ này treo lên đúng là báo hiệu một cách kín đáo về một cơ sở chữa căn bệnh được xem là một tai nạn xã hội bất ngờ mà cánh đàn ông cơ bản là chân chính do hoàn cảnh, môi trường có nhiều thú vui được tạo ra bằng đồng tiền xô đẩy gặp phải. Tấm biển cũng thật sự tiêu biểu cho sự ngụỵ trạng khôn khéo của giới mày râu trước sự thông thái của giới làm vợ.

Tôi thở phào phấn khích hơn cả hôm được công bố tăng lương trước thời hạn. Hôm sau về nhà đúng từng phút sau khi tan công sở. Thấy tôi bỏ buổi cầu lông rất được ưa thích để vừa cố tình gãi thật mạnh chỗ dán Cốc thống Linh một cách công khai vừa chui vào nhà tắm vợ tôi dịu dàng hỏi “có việc gì mà tắm sớm vậy “.”À quên, 18 giờ có đối tác từ Sài Gòn ra. Cơ quan cử anh ra đón ở sân bay ”.”Thế á. Vậy thì đi mau kẻo không kịp “”Yên chí có xe cơ quan rồi”. Ông bác sĩ chữa bệnh kín đúng là người lành nghề và có kinh nghiệm. Ngôn ngữ của ông chuẩn, hầu như không có từ thừa hao hao như kết cấu chuẩn xác trong truyện trinh thám của Coócnanđôi. ” Nằm xuống, cởi ra. Được rồi. May ở giai đoạn đầu. Tiêm ba mũi. Mỗi mũi năm trăm ngàn. Cách nhau hai ngày một mũi “.”Thưa bác sĩ sau đó thì …”. “ Sau mũi thứ ba một hôm khỏi hoàn toàn, sinh hoạt vô tư. Không ảnh hưởng đến người khác. Đến thế này là đúng chỗ, đúng độ. Chậm vài ngày nữa sẽ khó hơn. Tốn hơn “.  Đi tắc xi về nhà lòng phơi phới vì viễn cảnh được trở lại bình thường, không lo vợ nghi ngờ, tra khảo mặc dù bên mông vẫn dấm dứt nỗi đau nhủng nhẳng do kim tiêm và thuốc gây ra. 

… Lịch trình sáu ngày tiêm ba mũi đã xong. Tôi khấp khởi mừng thầm vì theo như ông bác sĩ tài ba và tâm lý kia thì chỉ cần thêm một ngày nữa tôi có thể đường hoàng, hể hả trở lại vị trí của người chồng yêu vợ đang sung sức. Tay đồng nghiệp bạn thân của tôi khi nghe tôi kể lại nhất quýêt bảo tôi phải lấy bằng được số điện thoại di động của ông ta để biết đâu đấy có lúc dùng. Không cho mình thì làm phúc chỉ cho bạn bè cũng quá tốt. Hắn bảo tôi với giọng của gã đàn ông tốt bụng biết đánh giá kịp thời cống hiến của mỗi cá nhân cho dù nhỏ nhất “cậu như thế mà lại hay. Xấu mặt xin tương cả nhà cùng húp. Chứ thời buổi này, gì thì gì chứ việc cánh đàn ông có tiền đang sung sức dễ mắc món ấy lắm. Biết chỗ chữa vẫn hơn”. Nghe hắn nói tôi càng cảm thấy thanh thản...

Nhưng ngày thứ nhất đã qua, rồi ngày thứ hai, thứ ba sau mũi kim thứ ba hình như tôi vẫn thấy áy náy vì sự rậm rựt, bất an mơ hồ thỉnh thoảng vẫn quay lại. Tra vào goolg tìm chỉ định liên quan thấy rõ như vậy là thứ bệnh quái quỉ của tôi chưa tiệt hẳn hoàn toàn. Sáng ngày kia lại đi công tác rồi. Thế mới chết chứ. Thôi dù sao cũng phải phá qui tắc giờ giấc của viên bác sĩ chữa bệnh kín này, đến hỏi ông ta một chút cho chắc ăn. May quá hôm nay vợ tôi nói sáng làm việc ở cơ quan, trưa thì đến nhà cô bạn thân từ hồi phổ thông mừng sinh nhật con cô ta. Hai chị đàn bà là bạn thân từ thủa ấu thơ nay có gia đình mà gặp nhau thì chuyện buôn của họ đủ cho nhà văn chỉ cần chép lại đã thành một tiểu thuyết bán khá chạy rồi. Tôi nhìn đồng hồ treo tường cơ quan, thấy tròn hai giờ. Cố không nhăn mặt vì cái dấm dứt loáng thoáng vừa xuất hiện.

Tôi dắt xe ra khỏi cơ quan lao đến nhà viên bác sĩ. Vừa đến đầu ngõ. Tôi bất chợt nhìn lên tấm biển màu xanh nhạt. Không biết gió hay đứa trẻ con tinh nghịch, hoặc chính ông bác sĩ cẩn thận đã cất đi chỉ còn trơ lại thanh dóng ngang bằng gỗ không được bào cẩn thận. Vừa xuất hiện trong đầu vì sự thiếu vắng của tấm biển thì tôi bất ngờ dừng lại khi nghe thấy tiếng nói, tiếng cười lao xao trong đó có một giọng mà mới thoáng nghe tôi đã rùng mình, sởn gai ốc toàn thân  Đó hính là giọng người vợ yêu quí nhưng cũng đang là nỗi khiếp đảm của tôi nếu tôi chưa dứt hẳn căn bệnh quái ác này. Nghĩ bao giờ cũng nhanh hơn hành động. Tôi đang mải tư duy chưa kịp tìm cách thoát hiểm thì đã thấy vợ tôi cùng cô bạn thân bế con chó Phốc gầy nhẳng gõ đôm đốp bốn đế giầy cao gót bước ra.

- Kìa anh đi đâu thế này?  Ông xã mình đấy. Thuỷ ạ. Vợ tôi reo lên giới thiệu với cô bạn thân từ thủa ấu thơ một cách tự hào. Cô bạn Thuỷ phốp pháp động đậy cặp má phinh phính in một nụ cười xã giao gật đầu chào. Tôi cố nén sự lúng túng, hỏi lấy lệ:

- Em đi đâu mà lại …

Thấy tôi chỉ vào con chó, vợ tôi nhanh nhảu:

- Sinh nhật con cái Thuỷ. Ả chiều con quá nên mua cho thằng bé con Mun này. Ả lại cẩn thận trước khi tặng cho con, lại bảo em đèo đến đây bảo ông bác sĩ thú y tiêm cho một mũi. 

-Trong ngõ này có bác sĩ thú y … Tôi lắp bắp 

- Chứ sao. Ông này nổi tiếng ra phết đấy. Mấy đứa bạn em ở cơ quan còn biết nữa là. Chỉ vì nhà mình không nuôi động vật nên không biết đấy thôi. Chắc xếp của anh có nuôi động vật nên bảo anh đi tìm bác sĩ thú y chứ gì. Vaò đi, vào đi. May mà đang vắng khách. Vào xong về sớm. Mãi anh đi công tác rồi đúng không?

Có ai xuôi Vạn Lý. (Truyện ngắn trào phúng)

________________________________________

Tặng những cặp vợ chồng hay lục đục. 

"Sống trên đời người giàu sang cũng như người nghèo khó ..." Lão Quân bữa nay say bí tỉ như thường lệ. Sau bản này đến bản "tiền thua cháy túi có ai hiểu ta" thì mửa thốc mửa tháo như mọi bữa. Chẳng sai bữa nào. Từ lúc cái thằng Bin Biếc gì đó giựt sập cái nhà ở Newyork thì lão được nằm nhà nhậu thả ga. Chẳng phải đi làm mà cũng chẳng phải nấu cơm. Thằng bé Meta, mới 14 tuổi phải chui vào bếp ngày 2 bận. Nấu xong, bày ra bàn cho bố thì mới được cẵm cái Hằng đi chơi. Hai anh em lêu lổng ngoài đường cho đến khi mẹ về thì mới về. Đứa nhớn địu đứa bé. Thôi thì quần áo nhếch nhác, thằng lớn thò lò mũi xanh thì con bé cũng mũi xanh thò lò. Thằng lớn thì thỉnh thoảng hít một phát, hai dòng mũi thụt biến như ảo thuật. Con bé thì chỉ việc dụi mũi vào tóc của anh là sạch bởi lúc nào con bé cũng được cõng trên cái lưng mốc thếch của thằng lớn. Vậy mà mỗi lần khách khứa lão lại hay tâm sự : đời tôi khổ vì vợ con. Thế mới quái. 

Tới cái đoạn : Người nhớ cho ta là cát bụi xin người nhớ cho thì lên cao quá lạc cả giọng. Chữ cho nghe thành chữ chó. Tới lúc này thì chị bước vào. Lão Quân nằm đong đưa trên võng, đang gân cổ hát. Thằng Meta đang chấp tay sau đít, chờ bố sang bài: Tiền thua cháy túi ... thì chạy đi lấy cái chậu cho bố mửa. Còn những 15 phút nữa mới tới cái đoạn ấy. Hẵng thưởng thức giọng ca truyền nhiễm của bố cái đã. Cái Hằng thì bò quềnh quàng dưới đất. Cứt đái be bét dây lên cả mặt mũi. Chị sấn xả ẵm con bé lên : 

-Xương quá! Bữa nay con của mẹ "xơm"(thơm) quá. 

Thực ra thì bữa nay con nhãi thối quá. Ngồi nhậu một mình, ăn toàn những thứ quái đản. Những đuôi lợn, khô mực, đầu vịt, lá sách ... Tinh những thứ mà hồi Việt Nam ta chưa sang khai hoá xứ này, Mỹ dùng để cho ... chó. Đến bây giờ, chợ Mỹ cũng đủ cả, từ phao câu, chân gà, bao tử, lá sách đủ quẻ nhưng chỉ để bán cho Việt Nam, đặc biệt là dân nhậu. Lão có tật, miếng gì nhằn không được thì lè ra đưa cho con bé Hằng lúc nào cũng bò quềnh quàng dưới đất. Ăn vào sinh iả chảy. Trẻ bụng dạ nó thế. Trót sai thằng Meta ra tiệm bà Chùm mua bia cho bố, còn bao nhiêu thì cho nó bắn game mãi đến giờ này chửa về rửa đít cho con bé, cho nên con bé mới nhếch nhác thế. Bà Chùm chủ tiệm ngoài ngõ thì khỏi nói. Hễ tiền vào thì ai cũng bán, bất kể trẻ con người lớn. Rượu, thuốc lá mà cứ chìa tiền ra thì bán ngay, chẳng luật lệ gì ráo. Huống hồ thằng Meta mua về cho bố chứ nó có uống rượu đâu? Hít hà mấy cái, chị sinh cáu : 

-Meta đâu. Cha tiên nhân thằng ranh lại đi bắn game rồi. 

Đang ca tới đoạn gay cấn, cần phải tập trung tư tưởng, lão Quân nhấm nhẳng : 

- Làm cái gì mà nhặng lên thế. Có ắng đi không nào. 

Nhìn ông chồng vô tích sự đang đu đưa trên võng, chị gằn giọng. Trong cái giọng có cái gì như uất hận. Hẳn là chị đang "phê" vì cái vụ thất tình yahoo hôm nay ở sở. 

- Người ta gọi con không được hả? 

A cái quân này láo. Cổ nhân dạy rằng xuất giá tòng phu rồi còn tòng cái gì tùm lum nữa mà nó dám trả treo với lão. Thế gian này loạn cả rồi. Còn đâu là văn hoá tổ tiên. Quên hẳn cơn say, lão ngồi hẳn dậy : 

- Cha tiên nhân cái con bố láo. Ăn nói thế hả ? 

Không vừa, chị cẵm con bé vào phòng tắm, nói chõ ra : 

- Ườn xác ra đấy mà hát với hỏng. Mai mốt hết tiền thất nghiệp có mà uống nước đái thay rượu nhá. 

Thế này thì quá phép. Loạn cả rồi. Thứ đồ đàn bà ... vũ phu. Ý lão muốn nói là đàn bà lăng loàn nhưng cáu quá nghĩ không ra chữ. Làm quần quật mười mấy năm mới bị thất nghiệp chứ đây đâu phải là cái thứ ăn không ngồi rồi. Con này nói thế quả là hết tình hết nghĩa. Ai mua nhà mua cửa ? Ai sắm xe Toyota cho mà đi ? Sắm ở đây có nghĩa là đứng tên. Lão chỉ đứng tên thôi còn tiền bạc thì lão không biết. Từ lâu, lão cứ tự nhận là tậu nhà tậu cửa, con vợ đần độn, kém ăn kém nói chả cãi. Lâu ngày thần hồn nát thần tính, lão tưởng mình bỏ tiền ra mua nhà mua xe thật. Hoá cho nên lão cáu lắm : 

- Tao ... 

Ít khi lão xưng tao lắm. Chỉ khi nào nhậu xỉn. Có điều lão nhậu suốt ngày, suốt tháng. 

- Tao giờ hồn cho con què biết. Cái trí tuệ này ... 

Lúc này lão chỉ tay vào đầu mới húi tinh những sẹo, hậu quả của một thời hoa niên toàn ghẻ chốc : 

- Cái trí tuệ này mà ngơi ra 1 phút là mẹ con chúng mày đói rã họng ra chứ đừng có mà ... 

Lão chẳng biết đừng có mà cái gì nữa. Chị Duyên lúc này đã thay quần áo cho con nhãi, tắm rửa sạch sẽ, bước ra sấn sổ : 

- Ừ đấy. Đây què mà nuôi thằng lành đấy. Chân cẳng hẳn hoi sao không giỏi đi làm đi. Ở nhà nhậu nhẹt tối ngày. 

Ráng chừng nghĩ thêm được một câu độc địa, chị thêm : 

- Nốc cho lắm rượu vào, phải gió chết đi cho con này rảnh nợ. 

Thế có tức không hở giời? Bề gì thì cũng là "hoa khôi" của một ban nhạc chứ chẳng bỡn. Lại còn kiêm thêm chức trưởng ban giao dịch ngoại vụ. Nghĩa là mỗi khi ban nhạc có độ, phải gãi đầu gãi tai xin tiền chị để mua rượu, con gà con qué, rau cỏ lá lảu cho ban nhạc bồi dưỡng. Đừng khinh thằng này. Rượu bất khả ép, ép bất khả từ . Einstein có chịu nổi mấy chai? Hay là chỉ vài "quận" là vật chất năng lượng cũng bay biến, ngay đơ cán cuốc? Ngày xưa. Nhắc đến ngày xưa mà lão thêm tủi. Ngày lão còn thơ sinh áo trắng, tóc lộng gió Phila, cắp sách đi học ở cái trường gì đó lão quên mất tên rồi, thì cũng là hoàng tử của biết bao nhiêu em gái Việt Nam chứ bộ. Cái trường tinh Mỹ đen, được có 3 mống Việt Nam, một thằng thì già khú đế, một thằng thì hôm nào nóng quá, lên cơn kinh phong, tay chân cà giựt. Còn mỗi một bợm nhậu có giá nhất là lão. Bích Quân, tên như thế có chết con gái người ta không? Đã nhất là nụ cười có bịt hai cái răng vàng của lão. Nghe nói ca sĩ Nguyễn Hưng cũng có 2 cái răng vàng điệu nghệ này. Tiếng lành đồn xa tiếng dữ đồn xa. Vẻ đẹp "kiêu sa đài các" của lão chẳng những lọt vào cặp mắt xanh của chị mà lại còn lọt vào cặp mắt của thằng Trịnh Công Không, nhạc sĩ trưởng ban nhạc Mây Đen. Với con mắt nhà nghề, nhạc sĩ Trịnh Công Không sau khi nắn bắp thịt tay chân, vạch mồm xem răng lợi rồi nhận lão vào chân đánh trống cho ban nhạc. Ban nhạc này tếu lắm. Có hai cách tính tiền. Một là tính theo bản. Một bản 100, mười bản 1000. Cứ thế mà tính. Sau này nhận thấy đám cưới tính ra chỉ hơn kém 20 bản, đổ đồng được 2000 đồng . Chia ra mà nếu chia đều thì mỗi thằng cũng vài trăm nhưng mà nào có chia đều. Thằng lead guitar bảo : 

- Tao cực nhất. Mỗi khi chúng nó hát trật tông, chúng mày cứ thế mà gõ, chỉ có tao là cuống cuồng lên thôi. 

Mấy em ca sĩ cũng nói : 

- Giời ơi ! Chỗ khác cát sê nhiều lắm mà em không thèm. Em chọn ban nhạc này vì nghệ thuật. Cho em có trăm rưởi thì em sang ban Tình Xa nhá. Nó trả em 300 một "ván" đấy. 

Thế là có bao nhiêu chúng nó lấy tuốt tuồn tuột. Thằng đánh trống thì còn bao nhiêu lấy bấy nhiêu. Có hôm lão chìa cho vợ xem tờ 20 đồng, ra cái điều tài ba lắm, rồi lại đút tiền vào túi. Chẳng khi nào đưa hẳn cho vợ . Có lần, nghĩ đến chị vẫn còn tức . Bạn nhậu đến chơi. Cũng chẳng ai xa lạ. Toàn nhạc sĩ trong ban nhạc Mây Đen của nhạc sĩ Trịnh Công Không. Giữa độ thằng thổi kèn tên Elvis Phúc tuyên bố hết bia. Lão bèn sai vợ sang tiệm bà Chùm ghi sổ vài két. Một lúc sau mới biết chúng nó chia nhau tiền chơi nhạc tuần trước. Đứa nào cũng có ít nhất là một trăm dằn túi. 

- Mình là trưởng ban ngoại vụ mình phải lo. Lão nói với vợ thế. 

Nếu mà lão không nói thêm câu này thì chị cũng chẳng tức đâu : 

- Thằng Elvis nó thổi kèn tốn hơi. Mỗi lần thổi là nó phải đi bác sĩ Nguyễn Văn Luân cũng hết cả trăm mua thuốc bổ phổi. Bắt nó bỏ tiền mua bia tội nó. 

Về sau, ban nhạc chuyển sang đánh theo rượu, không cần tiền nữa. Bia đánh theo bia, rượu đánh theo rượu. Nghĩa là đám cưới đãi Hennessy thì chơi khá hơn đãi bia nhì nhằng. Tiền nào của nấy. Sòng phẳng. Hôm nào không có độ đám cưới thì cũng lại chuyển tông sang chính trị. Lão dở dói sang chuyện tưởng niệm cố tổng thống Ngô Đình Diệm. Cũng bạn bè nườm nượp, đánh đổ mấy chai henessy cực kỳ phản động rồi ai về nhà nấy. Có lúc muốn gầy độ, lão tưởng niệm cả Hồ Chí Minh nữa. Chị Duyên ức lắm. Trong đầu óc đen tối phi chính trị của chị, chị biết thừa rằng lão Hồ Chí Minh với tổng thống Ngô Đình Diệm không "ăn rơ" với nhau, hễ tưởng niệm ông này là chửi bố ông kia, có đâu mà tưởng niệm búa xua thế. Ấy thế vẫn cứ phải móc tiền cho chồng làm chính trị. Của đau con xót. Gần đến ngày tưởng niệm bất cứ ông nào, chị lại sinh lo lắng. Tài hoa như lão mà vợ rủa phải gió chết tiệt thì nền nghệ thuật Việt nam hải ngoại còn gì? 

- Ai dậy mày ăn nói thế hả con đĩ kia. 

Tới đây chị Duyên bù lu bù loa : 

- Ối giời cao đất giải ơi. Ối thày ơi, u ơi. Vểnh tai lên mà nghe thằng rể nó chửi kìa. Thày u đẻ con, dạy con ra làm sao mà để chúng nó nhiếc thế hả thày ơi là thày ơi, u ơi là u ơi. 

- Tao chửi cái thằng không biết dạy con đấy. Làm gì tao? 

Lão đang xỉn, chẳng ý tứ gì nữa, quạc mồm ra chửi cho khoái miệng. Có điều chửi như thế giã rượu lắm. Chẳng buồn mửa như mọi khi. 

Thằng Meta đứng chắp tay sau đít nãy giờ, ráng chừng chán, đủng đỉnh bước ra cửa, cái bụng ỏng lặc lè theo bước chân, để lại một tiếng ngáp dài thườn thượt. Chị Duyên hỉ mũi cái rột, vẩy 1 cái : 

- Hu hu hu tôi què thế đấy sao không tìm đứa lành mà lấy. Đêm nào cũng tí toáy như chó. 

Miếng nước mũi đành hanh văng trúng con mắt lão, dính từ chân mày xuống, nom tựa dấu cộng. Chẳng biết tí toáy như chó là sao mà lão Quân cáu lắm rồi : 

- Mày chửi ông là chó hả con đĩ què? 

Chẳng qua mới dăm bữa trước chị dẵm phải “xôi”. Gọi là “xôi” cho nó lịch sự chứ thực ra chị dẵm phải cái gì thối lắm. Dẵm phải “xôi” thì chẳng bao giờ què nhưng khổ nỗi chị cởi giầy ra, chùi chân vào đám cỏ. Chùi chân vào đám cỏ cũng chẳng què nhưng khổ nỗi trong đám cỏ lại có đám miểng chai do anh chồng yêu quý vứt ngoài hè. Thế là què! 

Lão hùng hục chạy lại định thụi cho chị vài quả thì lúc này thằng Meta dẫn một đám nhi đồng vừa đen vừa trắng đến xem. Vụ này nó có một mớ tiền. Nó có khiếu buôn bán. Có lần nó thỏ thẻ với mẹ : 

- Lúc nào mẹ với bố có show, pha cho Meta 1 bình nước chanh, bán cho bạn. 

Đông người thế lão chùn ngay lại. Thằng nhãi nào gọi cảnh sát thì có mà bỏ bu. Say nhưng mà khôn lắm. Đã nói Einstein chịu đời lão cũng không thấu. 

Dừng chân trước mặt vợ, lão quát : 

- Ông giết hết mẹ con chúng mày cả lũ rồi ông đi ở tù. Ông sửa thằng kia trước. 

Lão săm săm bước về phía thằng Meta đứng lẫn lộn với tụi nhãi. Trên tay có cầm 1 con dao. Cả bọn chạy tứ tán. Nhoáng một cái chẳng còn đứa nào cả. Trong nhà chỉ còn một mình chị với con bé Hằng. Cả hai mẹ con đang mũi rãi nhễ nhại, khóc thút thít. Ngoảnh đi ngoảnh lại chỉ còn mình ta, chị thấy rằng mình còn nán lại, dám nó cho mình về với ... cát bụi chứ chẳng chơi, nên cũng phóng ra ngõ. Con bé con bên hông ngặt qua ngặt lại theo bước chân chị trông như tàu chuối rách trong giông gió. 

- Mày về đây rồi mày biết tay ông. Ông bắt được đứa nào ông giết chết tươi, ăn năn tội chẳng kịp. Mả cha chúng nó vợ với con. 

Thì cứ chạy luôn sang nhà cái Thi cho đỡ tội. Đàng này, chị đứng ngoài ngõ ông ổng chửi vào : 

- Tiên sư cái thằng chó dái. Mày có giỏi bước ra đây. 

Thế có uất lên không kia chứ. Hễ lão co giò phóng ra cửa thì chị lại co giò phóng về phía nhà cái Thi, con em gái. Luật về chuyển động có ghi nếu hai vật tử có cùng tốc độ, chuyển động cùng chiều thì luôn luôn khoảng cách ban đầu không thay đổi. Huống chi lão đang say quáng quàng. Lão chạy như rắn, vẹo qua vẹo lại. Chóng mặt cả người xem lẫn người chạy. Cho nên được vài bước lão lại thụt vào trong nhà. Hồng hộc, hồng hộc. 

Dạo trước, quen mui đuổi theo vợ, hăng tiết vịt sồng sộc vào nhà cái Thi bị nó túm gáy lẳng một cái ngã chổng vó. Cũng què ! Chống gậy cả tháng. Thuốc tây thuốc ta mãi chả khỏi. Tưởng thành tật. Cái "luân xa" đóng bố nó lại. May có ông thầy nhân điện ở Oklahoma chuyên chữa bằng điện thoại, chữa mãi cái "luân xa" mới chịu mở ra. Đến bây giờ mỗi lần vợ chạy đến nhà cái Thi, lão sinh hãi. Bỗng lão nẩy ra một ý : Đốt nhà. Phải ông đuổi đếch được thì ông đốt nhà. 

- Ông đốt nhà cho chúng mày ra đường mà ở. Quân ăn cháo đái bát. 

Chửi là chửi thế chứ nhà lão ít khi ăn cháo mà cũng chẳng bao giờ đái vào bát cả. 

Lão sục sạo một hồi rồi bước ra : 

- Cái bật lửa của tao để đâu? 

Y như cái vụ những người tình không chân răng trong Yahoo doạ tự tử. Chẳng đứa nào tự tử thiệt mà cũng chẳng bao giờ lão đốt được nhà cả . Thuốc lá thuốc lảu hút như ống khói tàu thì có bao giờ quên cái bật lửa mà cứ mỗi lần doạ đốt nhà thì lão lại hỏi vợ cái bật lửa để đâu. Các cụ có câu : Đại phú do thương tiểu phú do cần. Cần đây không phải cần kiệm mà là cần sa. Không chừng lão hút cả ... cần sa nữa chứ chẳng chơi. Lão có tiếng điêu từ thuở còn đi học. Chả thế mà lắm cô mới ở Việt nam qua, sự đời chưa biết cóc gì, mê cái mồm nói dối như cuội, lấp lánh hai cái răng vàng bá cháy của lão như điếu đổ. Có cô mê coi bói lại bảo số mình sau này lấy nhạc sĩ . Cũng may giời đổ cơn mưa. Lão chẳng phải đóng kịch lâu. Ướt át thế này đốt thế chó nào được ? Lão phóng xe đi mất. Áo bỏ trong quần, đầu chải bẩy ba . Bây giờ lão mới nghêu ngao bài : Tiền thua cháy túi ... Chị Duyên bấy giờ mới dám vào nhà, vẫn còn sụt sịt khóc. Hai con mắt đỏ như cua luộc. 

oOo 

Đã hai hôm nay "thằng chó dái" không về. Đêm đầu tiên chị hãy còn sùng lắm. Chắc lại chết dấm chết dúi bên nhà lão Trịnh Công Không hay cùng lắm lại rủ nhau chè chén ở nhà hàng Vạn Lý chứ gì. Rồi say sỉn ngủ luôn nhà người ta. Nhà hàng này nguyên là Vạn Lý Trường Thành, bảng hiệu có vẽ cái trường thành bên Tàu. Lâu ngày chữ Trường Thành rơi bố nó mất 2 chữ T, lão chủ tiệm tháo luôn 2 chữ Trường Thành cho gọn. Vì thế chỉ còn trơ 2 chữ Vạn Lý. Bợm nhậu quen gọi là Vạn Lý, chuyên môn cua rang muối. Bao lần rồi, giận vợ là đi nhậu. Có hôm chẳng biết làm sao, mặc mỗi cái quần sà lỏn để chị và cái Thi, đứa tả đứa hữu vác ra xe chở về. Vợ chồng giận nhau, lão càng nhậu tợn. Thế nhưng đêm thứ hai trôi qua, chị đâm lo. Gọi lên nhà lão nhạc sĩ Trịnh Công Không thì máy trả lời : 

- Đây là đệ nhất ban nhạc Mây Đen. Quý vị vui lòng để số phôn và địa chỉ. Chúng tôi sẽ gọi lại. 

Chị cũng bế cái Hằng đứng tựa cửa ngóng ra ngoài lộ để ... "có ai xuôi Vạn Lý thì nhắn đôi câu giúp nàng", tuy đã gọi cho nhà hàng Vạn Lý từ sáng đến giờ dăm bẩy bận đến nỗi nhà hàng phải lớn tiếng : 

- Ở lây ngộ puôn pán. Gọi hoài mệt quá xá. 

Đọc tờ báo hôm nay chị đâm lo thêm. Chẳng biết sở thú chúng nó làm ăn ra sao lại để sổng chuồng 1 con gấu đực. Cảnh sát thông báo là nó lảng vảng ở khu vực nhà chị, hiện chưa tìm thấy. Thế có chết người ta không kia chứ. Thuế má mình đóng đủ mà chăn giữ mấy con gấu cũng không xong. Rõ là cái chế độ này hỏng bét. Hai hôm nay cái Thi phải sang ở để trông hai cháu bé. Nhà tinh những đàn bà trẻ con, đêm nghe tiếng sột soạt chỉ biết đưa tay làm dấu. Nghe nói Mỹ đen sợ dấu thánh giá. Chả biết có đúng không ? Đến trưa chị sốt ruột quá. Giở album coi lại hình "anh ấy" mà ruột thắt từng cơn. Anh ấy đi nhậu hay con gấu "nhậu" anh? Hu hu hu ối anh ơi là anh ơi. Nhà có cây súng cũ xì mất cả tên hiệu dùng để bắn thỏ. Hôm nào thiếu mồi, anh ấy mặc bộ đồ rằn ri ra giữa vườn nằm thẳng cẳng như cái thằng phải gió rình bắn thỏ . Khẩu súng này nó làm sao ấy. Rõ ràng bắn trúng ngay đít mà con thỏ chả hề hấn gì, chỉ hơi giật mình vì tiếng nổ. Nhưng cũng có khi cả nhà được ăn thịt thỏ. Chắc con thỏ này thuộc loại thất tình yahoo chả thèm chạy chứ đạn ấy ăn thua gì. Đánh cho chồng được đĩa tiết canh thì hai mẹ con cũng mút mát được tí gọi là lộc của đồng nội. Có bữa xách súng về không lại bị chó nhà người ta ngoạm cho mấy phát rách cả đũng quần. Thôi thì cũng có hôm may hôm rủi. 

Chị Duyên diện bộ đồ rằn ri trông oai ra phết. Tay xách cây súng cà là gỉ lên đạn soành soạch. Cái Thi sau khi mang bé Meta, bé Hằng gửi u bên nhà cũng thủ theo cái ... kìm nhổ đinh làm khí giới. Phen này hai bà Trưng nhà ta quyết đi tìm Thi Sách ... chó dái. Dù là phận nữ nhi trước nợ nước thù nhà hai chị em nào quản ngại. Gấu mà "nhậu" chồng bà thì bà cũng bắn cho vỡ mõm chứ sợ gì. Hai chị em hăm hở đi sâu vào rừng. Cái Thi mang theo mấy ổ bánh mì với dăm cục chả lụa, dao thớt lỉnh kỉnh. Tất cả bỏ gọn trong cái giỏ mua ở Nordstrom. Riêng trên tay vẫn lăm lăm cái kìm nhổ đinh, ra cái điều quyết tử cho ... tổ quốc hồi sinh. 

Giời hôm nay đẹp lắm. Xanh thăm thẳm. Cỏ cũng xanh rì. Đó đây lốm đốm hoa đủ loại, đủ màu. Thỉnh thoảng gió ngàn tận đẩu đâu đưa về phả vào mặt mát rượi. Chim hót, vượn kêu rõ một cảnh nên thơ hoang dã. Giá như thằng chồng mắc dịch đừng giở quẻ thì vui biết mấy. Cái Thi bỗng hốt hoảng bíu tay chị, lạc giọng: 

- Chết rồi chị ơi. Chết anh tôi rồi chị ơi. 

Theo ngón tay chỉ của nó, tít ngoài xa là một đốm màu lạ lắm. Chả có hoa nào màu ... ca rô cả. Đúng là cái áo ăn nói của anh ấy. Thôi chết chị rồi Thi ơi là Thi ơi. Hai chị em quính quáng chạy lại. Súng ống vứt đâu chẳng biết. Khóc. Thi nhau khóc. 

Hai chị em khóc lâu lắm. Vừa khóc vừa kể. Nhân dịp này cái Thi thú nhận là đã mai mối cho anh rể vài cuộc tình lẻ tẻ. Lại còn hối tiếc lúc còn sanh tiền đã hơn một lần xúi con bé Tuyết lên xe hoa bỏ anh rể bơ vơ sầu khổ. Chị Duyên cũng hối hận ra phết. Cái phone tay mỗi tháng tốn cả trăm bạc cho những người tình yahoo nếu không có nó cũng mua được cho anh ấy mấy chai hennessy chứ ít ỏi gì. Hồi tưởng lại ngày còn yêu nhau, chị đã hứa với anh ngày hai bữa cơm gà cá gỏi, rượu thì vào ba ra bẩy cho trọn đạo phu thê mà có bữa nào anh ấy được ăn uống phủ phê đâu? Tợp ngụm rượu nào chị nhiếc móc như moi họng người ta ra chứ ăn uống ngon lành gì. Càng ngày anh ấy càng rạc người đi. Xương sườn xương sống đốt nào đốt ấy giơ ra hết trọi. Nghĩ đến cái số phận long đong của anh từ lúc lọt vào cái mái nhà của chị lúc nào cũng cãi nhau như mổ bò, ăn uống thì bữa đực bữa cái, nước mắt chị lại tuôn ra như suối. Khổ thân anh thế này ối anh ơi là anh ơi. 

Đang khóc ngon trớn chị giật mình. Mới hôm nào thằng Tí Cận gọi đến bán bảo hiểm nhân thọ, chị mắng như tát nước: 

- Này tôi truyền đời cho cái nhà anh nhé. Giời đánh tránh bữa ăn. Bán bảo hiểm chứ gì ? Cám ơn nhà tôi không có mả chết non. Ai cũng ngoài trăm tuổi cả. Gọi cho đứa nào chóng chết mà bán nghe chửa. Tôi bận ăn cơm. 

Chả biết thằng Tí Cận có bán bảo hiểm cho ... người chết rồi không nhỉ? Mai phải năn nỉ nó may ra gỡ được ít tiền đám ma anh ấy. Hu hu hu ối anh ơi là anh ơi. 

Cái Thi thực tế : 

- Về thôi chị ơi. Tìm khắp cả rồi. Đến cả hàm răng vàng con gấu cũng nhá sạch. Còn gì nữa đâu mà khóc với sầu. Còn gì nữa đâu mà buồn với nhớ. 

Chị Duyên rũ người ra mà khóc. Chả còn thằng chó dái nữa. Một điều anh ơi hai điều anh hỡi rất ư là gia giáo con nhà. Biết bao điều phải lo. Không tìm thấy xác đỡ khoản mua hòm. Tiền ấy dùng vào việc mướn Nguyễn Ngọc Ngạn, Nguyễn Cao Kỳ Duyên đến làm MC cho tang lễ. Ban nhạc Mây Đen cũng được, chỉ tốn ít rượu. Gay nhất là cái khoản nhà thờ. Thời trang bây giờ người ta không làm lễ mình ên nữa. Xoàng lắm . Phải đồng tế. Phải cha chính hiệu Cali mới được. Cha địa phương chỉ thủ chân giúp lễ, chạy ra chạy vào điếu đóm nhì nhằng. Ấy cái đám cưới con Châu mướn có 4 cha Cali, 6 cha Texas mà thiên hạ xầm xì mãi cho đến bây giờ. Họ bảo nhà ấy keo kiệt, Chúa nào chứng. Mười cha Cali mỗi cha là ngàn rưởi. Giá cả có sẵn trong kinh thánh chứ có ai bày vẽ gì đâu. Tí Cận mà không bán bảo hiểm cho người chết rồi thì đến lại phải đi vay nợ mất thôi. Lạy Chúa lòng lành. Nghĩa tử là nghĩa tận. Rồi còn in thiệp, đăng báo cáo phó, mua hoa, đãi khách khứa, ban đêm lại phải ...dạ vũ nữa. Như Quỳnh, Trường Vũ bây giờ phải vài ngàn đô một trự. Rồi lại còn nhà hàng. Xoàng xĩnh lắm cũng là 30 bàn. Lúc sống anh ấy nhậu ở đâu thì phải đãi ở đấy. Lại phải có ai xuôi Vạn Lý. Trăm chuyện. Chuyện nào cũng tiền. Đào ở đâu ra? Một dòng khí uất xông lên sống mũi buôn buốt. Chị chạnh thương cái thân mình. Chị em người ta chồng con đâu ra đấy, gọi dạ bảo vâng. Còn mình thì rạc cái thân cò lặn lội. Hết khổ vì chồng lại đến khổ vì con. Nghĩ tới đây chị lại khóc. Cái Thi cũng vừa sang số xe vừa khóc. Chiếc xe rời bìa rừng để lại 1 vệt khói xanh lam vật vờ. Vệ đường vài con sóc ngừng chân, ngơ ngác. 

Về đến trước nhà đã nghe thấy tiếng hát ồm ồm vọng ra : 

- Sống trên đời người giàu sang cũng như người nghèo khó ... 

Con chó mực hàng xóm nghe giọng ca đã quen, ấy thế mà cũng cúp đuôi đi thẳng. Chó nghe tiếng hát "anh ấy" cũng không được. Lúc nãy cái radio trong xe có đọc một thông cáo của sở cứu hoả nói rằng đã tìm lại được con gấu đực. Ấy là con gấu con mới đẻ độ một tháng, chả hiểu làm sao lại sổng chuồng, đi lang thang hết vài bữa. Gấu ấy làm sao ăn được anh ấy? Anh ấy ăn gấu thì có. Thế còn cái áo, bữa nào phải hỏi cho ra nhẽ. Ăn nhậu làm sao áo sống lại cởi phăng, vứt ở bìa rừng. Mả cha cái thằng chó dái. 

Xô cửa bước vào, nước mắt nước mũi bây giờ khô ráo, chị cao giọng : 

- Này đi chơi sướng chưa? Có giỏi thì đi nữa đi. 

Chị định hôm nay phải cãi nhau một mẻ nữa

Tiến sĩ tập đếm 

Tôi mở tung cửa sổ, nắng ban mai ùa vào soi rọi trên tấm bằng tiến sĩ còn thơm phức mùi mực như soi rọi vào bầu nhiệt huyết khoa học của tôi, tôi mải mê với thành tựu mà mình đạt được bằng tài năng và sự lao động đến quên mình nên không hay biết ông trưởng phòng tổ chức đang mỉm cười sau lưng:

- Xin chúc mừng tiến sĩ trẻ nhất Viện ta!

Tôi ấp úng:

- Dạ, em cũng đã 40 tuổi rồi chả còn trẻ gì nữa ạ!

- Nhưng dẫu sao cậu cũng là tiến sĩ có tuổi đời trẻ nhất, dù cái nhất ấy có là U50 hay U70.

Ông nháy mắt cười thân thiện với tôi rồi bật mí cho tôi biết cái tin bí mật mà mới chỉ ông và ông viện trưởng được biết:

- Cậu sắp được đề bạt làm Phó viện trưởng!

 Tôi nhổm dậy hỏi ông:

- Sao? Anh nói gì em không hiểu? 

Tôi há mồm, giương đôi mắt qua cặp kính cận năm đi-ốp lên nhìn ông trưởng phòng tổ chức. Rồi như để tăng thêm sự hồi hộp trong tôi, ông bảo tin mật, tuyệt mật, chớ hé miệng với ai kẻo nhiều kẻ đố kỵ tìm cách phá thối. Ông bảo tôi vừa đỗ tiến sĩ thì có ngay tiến sĩ  phù hộ, tôi hỏi ông tiến sĩ nào phù hộ tôi. Ông trưởng phòng, à à, chả là vừa rồi  ông viện trưởng có đưa cháu nội vào sờ đầu cụ rùa ở Văn miếu- Quốc tử giám để lấy may trong kỳ thi đại học, ông rất tâm đắc lời cha ông khắc trên bia đá” Hiền tài là nguyên khí quốc gia...” nên ông đã dự định đề bạt tôi làm Phó viện trưởng. Ôi, thì ra là các tiến sĩ ngày xưa đã ủng hộ tôi- ông tiến sĩ ngày nay là như vậy. Tôi cũng đã từng đến Văn miếu- Quốc tử giám, cũng đã thắp hương cho Khổng Tử và đại thần- nhà giáo Chu Văn An, tôi chỉ vái để tỏ lòng thành kính mà tuyệt nhiên không cầu xin điều gì, kể cả cái chức Phó viện trưởng mà có nằm mơ tôi cũng chẳng dám mơ đến. Vậy mà tấm bia khắc ghi lời của tiến sĩ triều Lê - cụ Thân Nhân Trung đã làm cho ông viện trưởng trọng dụng tôi. Tôi quá bất ngờ và xúc động, đi lên phòng ông viện trưởng để cảm ơn. Ông viện trưởng vỗ vai tôi thân mật nói rằng tôi là một tài năng trẻ. Tuổi trẻ thông minh, nhiệt huyết, đầy hoài bảo nếu không biết trọng dụng thì sẽ phí phạm; còn già rồi mới được trọng dụng thì khác nào cây gỗ già đã mục rỗng lại đem ra tạc tượng? Rồi ông xòe bàn tay, xoa xoa ngón tay cái vào mấy ngón kia:

- Nhưng ở đời cũng phải biết hài hòa cậu ạ!

Tôi nghĩ hai tiếng hài hòa ông chỉ bảo có nghĩa là đã làm viện phó rồi thì phải biết đối nhân xử thế sao cho hài hòa trên- dưới nên tôi đáp vâng ạ. Ông bảo tốt lắm, tốt lắm, sẽ có quyết định ngay!

Chủ nhật, vợ tôi thuê hẳn một chuyến xe chở cả nhà về quê để ra mộ cụ tổ đặt lễ tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho tôi được công thành danh toại. Mộ tổ họ Bùi của tôi đặt ở cánh đồng làng, vợ tôi lấy gà luộc, xôi, hoa quả, giấy tiền, rượu mang sẵn từ thủ đô đặt lên mộ tổ. Tôi thắp hương, vợ và hai con đứng hai bên. Tôi khấn thầm trong miệng, rằng con là Bùi Thanh, hiện ở số nhà 99, ngõ 198, phố P , Hà Nội xin có nén hương thơm kính dâng lên cụ tổ đã linh thiêng phù hộ độ trì cho con được đỗ tiến sĩ, được bổ nhiệm làm Phó viện trưởng. Tôi chỉ khấn có vậy, còn vợ tôi khấn dài hơn, tôi nghe loáng thoáng thấy kính mong cụ tổ phù hộ cho vợ chồng con cái chúng con được luôn luôn mạnh khỏe, mọi tai qua nạn khỏi, chồng con khỏi được bệnh trĩ mãn tính; gia đình làm ăn phát đạt giàu sang phú quí, chồng con làm viện phó yên ổn được vài năm thì thăng  lên chức viện trưởng.

Tôi suýt kêu lên, ôi trời viện phó còn chưa chắc đã đòi đến viện trưởng. Đúng là lòng tham của đàn bà còn sâu hơn cả vực thẳm. Không chỉ đánh giá về lòng tham mà tôi có thể khẳng định rằng trong việc tín ngưỡng thì phụ nữ là bậc thầy của nam giới, chính vì vậy mà ngay sau khi trở về Hà Nội, vợ tôi đã giục tôi đi xe máy đến Văn miếu- Quốc tử giám để thắp hương cho các tiến sĩ tiền bối. Vợ tôi bảo ngoài việc tổ tiên phù hộ thì chính các tiến sĩ trong Văn miếu cũng đã gián tiếp phù hộ cho tôi, vì nếu không có tấm bia đá khắc ghi lời dạy của tiến sĩ Thân Nhân Trung thì làm sao ông viện trưởng của tôi lại nảy ra sáng kiến trọng dụng tôi trong cái thời buổi ghế thì ít mà đít thì nhiều này. Tôi bảo bây giờ đi xe máy lên Văn miếu mệt lắm, để mai hãy đi. Vợ tôi bảo không thể thế được, để đến mai nhỡ các cụ tiến sĩ giận, bảo tôi coi các cụ nhà mình hơn các cụ tiến sĩ, các cụ tiến sĩ sẽ đòi lại cái chức phó viện trưởng, thậm chí tước luôn cái bằng tiến sĩ cũng nên. Tôi bảo cái chức thì các cụ tiến sĩ có thể thu hồi còn cái bằng tiến sĩ tôi làm nên bằng năng lực của mình như các cụ ngày xưa chứ không phải bằng tiền nên các cụ không thể vô cớ thu hồi của tôi thông qua con đường tâm linh được. Tôi đi lên tầng hai, chưa đầy mười phút đã thấy xe tắc-xi lù lù đầu cổng. Mọi khi dù có đưa vợ đi khám bệnh, vợ tôi cũng bảo tôi đèo đi bằng xe máy cho tiết kiệm, thế mà bây giờ gọi ngay tắc-xi thì tôi chỉ còn nước leo lên xe cho nó chở đến Văn miếu.

Quả là có thờ có thiêng, sáng thứ hai ông trưởng phòng tổ chức gọi tôi lên phòng chìa cho tôi xem quyết định bổ nhiệm; tôi dán mắt và đọc mấy dòng chữ trong quyết định và dừng lại rất lâu ở dòng chữ “ Căn cứ vào năng lực và phẩm chất đạo đức của ông Bùi Thanh...”. Ông trưởng phòng bảo ổn rồi, quyết định sẽ được trao trong một ngày gần đây.

Buổi chiều đi làm về tôi nói với vợ đã có quyết định chính thức và được trao vào ngày gần đây, khuôn mặt vốn héo hắt vì lo toan của vợ tôi rạng rỡ hẳn lên. Rồi vợ tôi ra một quyết định đến tôi cũng ngạc nhiên là gọi tắc- xi đưa cả nhà đi ăn chả cá Lã Vọng. Mười mấy năm lam lũ, bóp mồm bóp miệng rồi, nay nhân thể tôi được thăng quan tiến chức cũng phải xem cái thứ đặc sản Hà Nội này nó thế nào. Chưa hết ngạc nhiên vì chả cá Lã vọng thì hai hôm sau tôi đón tiếp sự ngạc nhiên hơn nữa. Đúng cái lúc tôi mặc quần đùi, áo may ô đi ngủ thì vợ tôi mang từ dưới  lên hai bộ comle mới tinh, một bộ màu mận chín, một bộ xanh đen, kèm theo hai chiếc càvạt, một màu đỏ, một màu kem. Không cần vợ giải thích, tôi hiểu ngay, vợ tôi chuẩn bị mọi thứ để tôi bước vào cuộc sống quan chức. Tôi vốn có thói quen đến công sở  với bộ quần áo khi thì quần bò, áo phông, khi thì quần áo không đóng thùng cho nó thoải mái. Giờ phải thường xuyên comle, càvạt, khó chịu đây nhưng phải hài hòa thôi. Tôi mặc thử hai bộ comle, vừa in, thì ra trong lúc tôi ngủ say, vợ tôi đã bật đèn ngủ, lấy số đo chuẩn xác của tôi. Thắt xong chiếc càvạt, vợ tôi bắt tôi xoay bên trái, xoay bên phải, khen tôi mặc comle, đeo càvạt trông trí thức, đẹp trai hơn. Tôi thật sự cảm động trước sự quan tâm của vợ, hai bộ comle loại vải ngoại tốt thế này không dưới năm triệu một bộ, mà lương hai vợ chồng tôi cộng lại cũng chỉ sem sém mười triệu, vợ tôi phải co kéo lắm mới đủ sống. Thế mà cùng một lúc may cho tôi hai bộ comle, tôi định hỏi vợ lấy tiền đâu ra để may comle cho tôi nhưng lại thôi, sợ làm vợ mất đi cái hân hoan khi ngắm chồng bảnh bao trong bộ comle mới. Không hỏi nhưng trong đầu tôi vẫn suy đoán, chắc là vợ tôi vay mượn hoặc ky cóp tiết kiệm. Đêm ấy tôi ân ái với vợ, vợ tôi hạnh phúc, mãn nguyện hơn cả trong đêm tân hôn

Tôi bắt đầu đi đến cơ quan với trạng thái đi nhẹ, nói khẽ, mỗi khi ho hay hắt xì hơi là phải lấy tay che miệng chứ không được tự do như trước kia. Gặp lãnh đạo, từ cấp trưởng phòng trở lên là tôi cúi đầu chào từ xa; gặp đồng nghiệp, nhân viên từ anh bảo vệ tôi vốn khinh bỉ đến chị dọn vệ sinh tôi cũng nở nụ cười với cái bắt tay thân thiết. Mặc dù tôi đã tuyệt đối tuân thủ theo lời dặn dò của ông trưởng phòng tổ chức là phải bí mật đến phút chót để tránh bị phá thối, điều này tôi cũng thấy rất quan trọng bởi trong thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp cười ra nước mắt khi được đề bạt. Anh bạn tôi làm ở tỉnh nọ, tài đức vẹn toàn, được dự kiến đề bạt lên Phó sở thế là đơn nặc danh gửi tới tấp lên sở nội vụ, ủy ban nhân dân tỉnh, ban tổ chức tỉnh ủy kiện vì tội nghe nói trước kia đi nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Mỹ đã từng yêu một cô gái con một Việt kiều thuộc thành phần chống đối hồi trước năm 75. Đơn chỉ là nặc danh, chuyện lại không có thật nhưng ai sang Mỹ mà xác minh được? Thế là việc đề bạt bị đình lại. Mà xa xôi gì, đứa em họ tôi cũng tiến sĩ, làm ở văn phòng cơ quan Bộ, được đề bạt làm trưởng phòng thôi nhưng tai bay vạ gió, chả hiểu kẻ nào trong cơ quan viết một cái tiểu phẩm đăng báo nói về tật hay ngủ gật của chánh văn phòng, ký tên K.T, mà em họ tôi lại tên là Bùi Khánh Thành nên bị qui vào tội bôi xấu lãnh đạo. Và đương nhiên cái chức trưởng phòng của cậu em tôi cũng mãi mãi chỉ là dự kiến.

Tôi đã rất bí mật nhưng thông tin về việc tôi sắp được đề bạt làm phó viện trưởng cũng vẫn bị lò rỉ. Thông tin róc rách đến đâu thì sự tác động cũng lan theo tới đó. Trước đây, ông trưởng phòng của tôi thù ghét tôi đến độ không năm nào bình bầu tôi là lao động tiên tiến, cũng không bao giờ có việc gì quan trọng mà ông giao cho tôi mặc dù tôi thừa năng lực để làm  tốt những việc đó. Chính vì rỗi rãi thế nên tôi bí mật xin đi ôn thi nghiên cứu sinh, lúc đầu nghĩ đi thi cho biết chứ nào ngờ mình thi đỗ, lại đỗ hàng đầu, thế là đi học. Ông trưởng phòng ghét tôi vì có lần tôi nói với mấy người trong phòng rằng, không thể hiểu nổi một tiến sĩ, một trưởng phòng lại ngu đến mức không viết nổi một cái báo cáo khoa học. Mọi người cười ầm lên, lúc đó ông trưởng phòng từ phòng ông đi sang, thấy có tiếng cười nói, ông đứng thập thò ngoài cửa nên ông nghe thấy được lời tôi nói, thế là từ đó ông căm thù và trả thù tôi. Nhưng dạo này ông hay gọi tôi sang phòng ông uống trà lắm, thậm chí còn rủ tôi đi ăn trưa. Trong những lúc tà dư tửu hậu ông khen tôi là người thông minh, quyết đoán, sống ngay thẳng hay quan tâm đến mọi người, đó là những tố chất của một người lãnh đạo rất cần trong xã hội hiện đại ngày nay. Ngay cả anh bảo vệ cũng có sự thay đổi đến ngạc nhiên. Anh bảo vệ là người dân quê miền Trung, học mới chỉ hết lớp bảy, ở nhà hay rượu chè cờ bạc nên được ông thứ trưởng là cậu ruột gửi vào cơ quan tôi để tránh tệ nạn xã hội. Cơ quan tôi là cơ quan khoa học, toàn những người có học thức, tưởng gần” đèn’ thì sáng nhưng anh bảo vệ vẫn chứng nào tật nấy, vẫn văng tục, ngồi xổm, nhổ nước bọt đánh toẹt trước mặt mọi người; anh cậy thế là cháu của thứ trưởng nên ngoài hai ông viện trưởng và viện phó, anh nể sợ còn thì anh coi thường tất. Nhiều người góp ý với ông viện trưởng nhưng ông chỉ ừ hữ mà chả dám kỷ luật anh bảo vệ vì ông không muốn mất lòng ông thứ trưởng. Mặc dù chỉ làm chân bảo vệ nhưng mọi người trong cơ quan đều bảo, anh bảo vệ là người có quyền lực thứ ba. Ai vào cổng mà quên tắt xe máy là anh quát; ai dựng xe không vừa mắt anh là anh quát; khách đến liên hệ công tác, chưa kịp xuất trình giấy tờ là anh hất hàm: Hỏi ai? Đến làm gì?  Đã có lần tôi chỉ thẳng vào mặt anh bảo vệ, mắng anh ta là kẻ vô học, cậy con ông cháu cha muốn làm gì thì làm à? Anh bảo vệ nhếch mép cười. Chiều ấy, hết giờ làm, tôi ra chỗ để xe máy dắt xe ra. Ô, sao cái xe nặng thế này? Nhìn xuống mới hay bánh xe trước bị xẹp lốp, dắt xe qua cổng thì thấy anh bảo vệ cười đểu đắc thắng. Vậy mà bây giờ, mỗi khi tôi dừng xe trước cổng, anh đã vồn vã chạy ra bảo để anh dắt xe vào hộ.

Chẳng cứ gì ở cơ quan mà thông tin về sự đề bạt của tôi còn bay cả về  quê. Hôm về thắp hương cho mộ tổ, tôi chỉ nói với ông trưởng họ là để tạ ơn các cụ đã cho đỗ tiến sĩ chứ không nói gì đến việc sắp được lên chức viện phó. Thế mà chả hiểu sao, ông trưởng họ cùng với hai người nữa lên nhà tôi ở Hà Nội bảo ngày xưa làng có người đỗ trạng nguyên, tiến sĩ phải đem kiệu rước về. Nay tôi không những đỗ tiến sĩ mà còn được phong chức viện phó, họ Bùi sẽ thuê hẳn một chiếc xe hơi đưa tôi về làng rồi làm một trăm mâm cỗ mời cả làng đến ăn mừng; tiền nong cả họ sẽ đóng góp. Tôi nói với ông trưởng họ chớ làm thế cho tốn kém, ông gạt đi, bảo họ Bùi coi trọng cái chữ hơn tiền. Ông đã nói thế thì tôi là bậc cháu chắt sao dám cãi lại lời ông.

Một tuần, rồi một tháng không thấy gì, sang tháng thứ hai thì cơ quan họp về vấn đề nhân sự. Đúng là công tác tổ chức, bí mật và tuyệt đối bí mật đến thế là cùng, tôi hồi hộp bước vào phòng họp. Tôi nghĩ mọi người sẽ nhìn tôi mỉm cười hoặc không cười thì cũng tỏ ra thân thiện vì tôi sống thẳng thắn, hay giúp đỡ bạn bè đồng nghiệp; vì tôi có được ngày hôm nay là do năng lực chứ không phải do ô dù, chạy chức chạy quyền.

Ông trưởng phòng tổ chức tuyên bố lý do cuộc họp. Ông phó viện trưởng đọc quyết định bổ nhiệm. Ông viện trưởng trao quyết định. Tôi chết lặng người khi người được bổ nhiệm phó viện trưởng không phải là tôi mà là cử nhân tại chức Lê Tiền, người từng bảo vệ luận án thạc sĩ với cái giá trọn gói ba trăm triệu. Ông viện trưởng nói rằng việc đề bạt ông Tiền ở cái tuổi năm nhăm là cái tuổi có nhiều kinh nghiệm mà kinh nghiệm như một thứ vàng ròng tạc bức tượng sừng sững vào khoa học và cuộc sống. Sau buổi họp, tôi lên phòng ông trưởng phòng tổ chức truy hỏi. Ông xòe bàn tay, xoa xoa ngón cái vào những ngón kia bảo tại tôi không biết hài hòa, đến như đứa cháu ngoại của ông muốn vào được lớp chọn, trường điểm mẫu giáo Mầm non, muốn cạnh tranh được còn phải biết đếm mà phải đếm bằng tiếng Anh: one, two, three... huống hồ tôi học đến tiến sĩ mà không biết đếm thì làm sao trở thành lãnh đạo được?

Tôi quay ra, đầu óc âm âm u u, rồi khi bước xuống cầu thang, chả hiểu sao tôi lại đếm:

- Một bậc, hai bậc, ba bậc...

Cậu tôi là nông dân - Truyện ngắn của Vũ Đảm

[27.09.2012 01:53]

Dòng dõi tổ tông bên ngoại nhà tôi trước đây đều là nông dân. Ba đời gần đây cũng vậy; cụ ngoại tôi là nông dân lấy vợ nông dân, sinh ra ông ngoại tôi là nông dân; ông ngoại tôi lấy vợ nông dân, sinh ra mẹ tôi trước rồi sinh cậu Hàm tôi sau mười ba năm chữa chạy, cúng bái.

Cậu Hàm tôi sinh ra ở làng; cậu lớn lên bằng hạt thóc, củ khoai. Cậu cũng đi cày bừa, gánh phân, vạc bờ, cuốc góc, đi gặt; cậu lại chẳng học hành ra gì, học có đến lớp chín rồi bỏ ngang thành ra cậu tôi cũng là nông dân chính hiệu. Chết nỗi cậy mình có tí đẹp trai, lại có nhiều kẻ hay tâng bốc để được cậu mời ra quán nhậu nên nhiều khi cậu cũng thích làm người thành thị cho oai! Một lần cậu và mấy người bạn rủ nhau phóng xe lên thị xã chơi; người thành thị hay uống càphê nên cậu và bạn cậu cũng tạt vào một quán càphê. Chủ quán hỏi uống cà phê gì? Đen hay sữa? Người nói đen, kẻ bảo sữa, có người bảo người thành thị hay uống cà phê đen hơn thế là cậu uống cà phê đen. Vừa phì phèo thuốc lá vừa chờ cà phê nhỏ giọt tí tách, mặt cậu vênh cả lên nhưng đến khi đưa lên miệng uống thì cậu nhổ ra phì phì. Thì ra quán cà phê này có bán cả đồ ăn sáng, đĩa muối tinh cậu tưởng là đường trắng nên tranh thủ lúc không ai nhìn thấy, cậu lấy thìa xúc lấy xúc để cho vào ly cà phê! Lúc ra về, nhìn thấy một cô gái đèm đẹp đang lúi húi sửa xe đạp ven đường, không biết có phải do cái cổ áo của cô trễ cả ngực ra hay cậu thấy người thành thị galăng nên một mình cậu nhảy xuống giúp đỡ. Về đến nhà, cậu sờ túi thì ôi thôi hơn năm trăm ngàn bán lợn của bà ngoại mà cậu mang theo đã đi theo người đẹp!

Đất đai nhà ông bà ngoại tôi rộng lắm, phần do các cụ để lại, phần do ông bà ngoại tôi tích góp mua được. Cái đợt xã dồn vườn đổi thửa, nhiều gia đình thấy cấy lúa chẳng có lãi bằng đi buôn nên muốn sang nhượng để lấy vốn làm ăn, ông bà ngoại tôi đứng tên cậu Hàm mua được thêm mười sào, tương đương với ba nghìn sáu trăm mét vuông. Nhà cửa, đất đai rộng rãi lại chỉ có hai người già và một trẻ nên ông bà ngoại tôi rất muốn cậu tôi lấy vợ để có cháu nội bế ẵm. Hơn nữa làng tôi, người ta lấy vợ lấy chồng sớm lắm; con gái mười sáu, mười bảy; con trai mười tám, mười chín đã có con bồng con bế nhưng cậu tôi mải chơi, lại chê con gái quê dù cho xinh mấy nhưng cứ đẻ con ra là trông đã như bà già nên cậu có ý định muốn lấy vợ ở thị xã hoặc thị trấn để vợ được trẻ, được đẹp lâu. Bây giờ đã ba mươi tư tuổi mà cậu vẫn chưa tìm được cô vợ ở phố. Ông bà ngoại tôi than ngắn, thở dài, tổn thọ vì cậu; còn mẹ tôi cứ hễ đi đâu, gặp được cô gái nào kha khá là lại mai mối. Mấy lần đầu cậu tôi còn hăng hái đi, sau cậu chán, mẹ tôi cũng chán mặc cậu muốn lấy ai thì lấy. Dạo này cậu Hàm hay đi lên thị xã lắm, tôi nghĩ không khéo mà cậu đang chạy xin việc ở thị xã để trở thành người thành thị, nhưng không, chú Đồng, bạn thân của cậu Hàm bảo cậu tôi đang phải lòng con bé cave ở quán Karaoke trên thị xã. Tôi không tin, lẽ nào cậu tôi lại đi yêu cái loại gái bán trôn nuôi miệng ấy? Tôi đang định đạp xe sang nhà ông ngoại để hỏi cho ra nhẽ thì cậu tôi đã dẫn cô cave về giới thiệu với ông bà ngoại tôi đây là người yêu của cậu, làm nghề uốn tóc ở trên thị xã và yêu cầu ông bà tôi tổ chức đám cưới trong tháng tới!

Người yêu của cậu Hàm hơn tôi ba tuổi, có cái tên rất thành thị, cũng mang tên một loài hoa - Thủy Tiên, khác với cái loài hoa mang tên tôi - Nhài. Chẳng biết có phải do di truyền hay do cái tên mà người yêu của cậu Hàm trông xinh lắm; mắt sắc, lông mi cong, mũi dọc dừa, miệng trái tim, chân dài có nhiều lông. Lần đầu tiên về nhà ra mắt bố mẹ chồng tương lai mà mặt người yêu cậu cứ lạnh tanh lạnh ngắt, gặp ai cũng giương mắt lên nhìn mà chẳng thèm mở miệng chào hỏi lấy một câu. Tôi bảo với cậu Hàm, sao người yêu của cậu khinh người thế? Thì cậu quát tôi dân nhà quê biết cái gì, người thành thị họ phải thế chứ không như con gái quê chưa chi đã toét miệng ra nói cười!

Không ai trong gia đình ông ngoại tôi đồng ý với cô con dâu thành thị này. Ông ngoại tôi bảo, lấy nó về thì nó sẽ làm chồng cậu tôi. Bà ngoại nói, đẹp chẳng gặm ra được mà ăn, sướng không muốn sướng, muốn khổ thì cứ đi mà lấy. Mẹ tôi van nài cậu tôi nên lấy cô Thắm, giáo viên trường làng, cô tuy không xinh như người yêu của cậu nhưng có duyên và nhất là đảm đang. Ngay cả bố tôi, tuy chỉ là rể, lại rất ngại can thiệp vào chuyện riêng của nhà ngoại nhưng cũng lắc đầu bảo rằng cậu Hàm đang tự giết chết đời mình! Cậu Hàm tôi mọi khi hiền hiền là thế mà chẳng hiểu do ăn phải bùa mê thuốc lú gì của người yêu, hằm hằm cái mặt tuyên bố với ông bà ngoại tôi rằng, nếu không cho cậu lấy cô Thủy Tiên thì cậu sẽ bỏ nhà ra đi! Tất nhiên ông bà ngoại tôi có mỗi mình cậu là con trai nên đành ngậm đắng nuốt cay mà chiều theo ước nguyện của cậu.

Vợ cậu là người thành thị nên theo ý cậu phải tổ chức đám cưới theo nghi lễ thành thị. Nghĩa là phải có xe hơi đón dâu chứ không phải là xe máy như ở quê; có ban nhạc sống chứ không phải là mở băng; thuốc lá không thể là thuốc du lịch mà phải là ba con năm; nước uống không thể là chè xanh mà phải là chè mạn ướp hoa Sen; đồ uống là bia chai Hà Nội chứ không thể là rượu quê nấu. Đặc biệt là cỗ, ngoài các món thông thường ở quê còn phải có các món ở thành phố như chim câu quay, gà tần thuốc bắc, cá quả hấp muối, nho Mỹ tráng miệng. Để khoe với vợ xinh thành thị rằng mình quan hệ rộng rãi, có nhiều bè bạn nên bạ ai cậu cũng mời; có người cậu gặp đúng một lần chỉ nhớ tên mà không nhớ mặt, cậu cũng mời. Tôi được cậu Hàm giao làm tổ trưởng tổ viết thiếp mời gồm bốn người mà viết liên tục trong ba hôm, rã rời cả ngón tay mới xong. Mỏi tay, mờ mắt nhưng dẫu sao tôi cũng mừng cho cậu đã có vợ thật sự; ở làng, vào cái tuổi của cậu, khối người đã có cháu ngoại gọi bằng ông rồi đấy thôi! Tôi mừng cho cậu nhưng trời không mừng cho cậu. Hôm cưới, trời mưa sầm sập từ sáng sớm đến hai giờ chiều, chỉ có ba bảy mâm cỗ được tiêu thụ còn hơn một trăm mâm nằm la liệt trong nhà, ngoài sân. Toàn bộ cháu, chắt họ hàng bên ngoại nhà tôi được huy động bê cỗ đến từng nhà trong làng để biếu. Sau đám cưới cậu Hàm, cả ông bà ngoại tôi lăn đùng ra ốm, may mà có tiền thuốc thang chứ không, khéo hai cụ đã rủ nhau sang bán cỗ ở thế giới bên kia!

Hưởng tuần trăng mật ở thành phố xong, cậu mợ tôi xách vali về quê sinh sống. Mợ Thủy Tiên cũng trương cái tấm biển” Uốn tóc môđen!” bên cái quán ven đường trước cửa nhà ông ngoại nhưng được đúng ba tuần thì cất biển. Nguyên nhân, mợ quen hát karaoke chứ không quen uốn tóc; ba cái đầu mợ uốn thì hai cái bị cháy khét lẹt còn một cái suýt nữa thành sọ dừa vì bị điện giật!

Không làm được nghề thành phố nhưng cậu cũng không cho mợ làm nghề nhà nông; cậu sợ móng chân, móng tay của vợ bị màu ăn vàng khè, sợ mái tóc xanh mướt của vợ bị quăn đi vì nắng, sợ cái dáng đi thanh tú người thành thị của vợ chuyển thành thình thịch vì bị gồng gánh nặng. Mọi cái từ cày, cấy, gặt hái cậu đều thuê hết. Không phải làm gì nhưng vợ chồng cậu mợ vẫn sống an nhàn từ lúa má, hoa màu trên vườn, trên ruộng của ông bà ngoại tôi.

Năm sau, vợ cậu đẻ con gái thiếu tháng, nhưng vẫn nặng ba cân rưỡi . Cậu đặt tên con là Thành - Hoàng Thị Thủy Thành. Cậu đã lớn tuổi, lại khát có con trai nối dõi nên cái Thành mới được bảy tháng đã phải cai sữa vì vợ cậu lại mang thai. Đứa con thứ hai của cậu là con trai. Cậu sung sướng lắm, đặt tên con là Phố. Hôm mẹ tôi và tôi đến thăm, cậu Hàm giải thích về cái tên của con, cậu bảo chị nó tên là Thành, em nó tên là Phố để sau này chúng nó lớn lên sẽ trở thành thị dân chứ cứ mãi cái kiếp nông dân này vừa nghèo vừa khổ; hơn nữa... cậu Hàm nói đến đây thì ngập ngừng, tôi và mẹ đều hiểu, cậu muốn khoe “hơn nữa” vợ cậu là người thành thị. “ Vâng vợ cậu là người thành thị, ăn trắng, mặc trơn, để bà ngoại phải tự giặt quần áo của mình và của ông”, tôi đang định nói ra câu này thì vội kìm được; tôi sợ mẹ tôi sẽ mắng mình là kẻ hỗn láo? Lúc mẹ tôi ra cầu ao tranh thủ giặt quần áo cho ông bà, cho vợ con nhà cậu, cậu Hàm vỗ vai tôi:

- Mày cố mà học để thoát khỏi cái kiếp nhà quê! Có lẽ lứa lợn tới tao sẽ bán cùng với hai tấn thóc, dùng tiền chạy việc hay buôn bán ở thị xã rồi mua nhà, đưa dần vợ con ra, nâng cấp cái thành phần nông dân của mình thành thị dân cho nó văn minh!

Tôi bĩu môi:

- Cậu đừng có nghe vợ bán nhà lên thị xã kẻo có ngày đứng đường đấy! Cậu không có trình độ, không có nghề nghiệp lên thị xã mà ăn xin à?

- Mày đúng là dân quê, tầm nhìn không vượt qua nổi lũy tre làng!

Tôi hứ một tiếng rồi bỏ đi, tôi chẳng muốn tranh luận với cậu; ngày cậu chưa lấy vợ tôi còn hay trò chuyện với cậu nhưng từ ngày cậu lấy vợ, nghe vợ nên tôi thất vọng về cậu. Vốn hay được bạn rượu nịnh cậu là người hào hoa phong nhã giống người thành phố; cậu thích. Nay lại được vợ xui bán nhà, bán ruộng lên thành phố cho nó nhanh giàu, nhanh văn minh; cậu muốn, nhưng ông bà ngoại tôi kiên quyết không cho nên vợ chồng cậu hậm hực lắm!

Ông bà ngoại tôi không cho cậu Hàm trở thành thị dân nhưng cậu, con cậu, ông bà ngoại tôi và cả làng tôi bỗng dưng trở thành người thành thị ở cấp thành phố đàng hoàng chứ không thèm ở cấp thị xã! Cậu Hàm đứng chắp tay sau đít oang oang thông báo cho cả nhà cái tin đặc biệt mà cậu mới nghe được, mấy tháng nữa thị xã sẽ được mở rộng và nâng cấp thành thành phố; cái làng giáp ranh này sẽ trở thành một phường của thành phố, rồi một khu công nghiệp sẽ mọc lên ở đây!

Đúng là làng tôi từ làng biến thành phường thật rồi; ngay cái tên làng Thông có từ hàng trăm năm, gắn với cái đồi Thông nổi tiếng quanh năm rì rào gió thổi cũng biến thành cái tên phường Quyết Thắng. Thế làng tôi, à quên phường tôi sôi động hẳn lên. Này nhé đường làng không tên, không đèn sẽ thành phố mang tên một danh nhân, có đèn cao áp chiếu đêm đêm. Ngõ có số, nhà có số hẳn hoi! Nước máy sẽ thay nước ao! Nhất là đất, giời ơi là đất, người khắp nơi ùn ùn đổ về mua đất làm cho giá đất tăng chóng mặt. Những quí ông, quí bà bước từ xe hơi xuống, chỉ tay chỗ nào là chỗ ấy mấy tháng sau mọc lên ngôi nhà đẹp đẽ hoặc bán sang tay kiếm vài trăm triệu chênh lệch. Người dân làng tôi thi nhau bán đất thổ cư, bán ruộng để xây nhà to, mua xe máy, ti vi, tủ lạnh, máy điều hòa đắt tiền ... toàn những thứ xa xỉ mà mấy tháng trước đây, người nông dân quê tôi chỉ có thể nhìn thấy trong siêu thị trên thị xã!

- Ha, ha, ha! Giàu nhất phường là tao!- Cậu Hàm tôi vỗ ngực trong cái quán thịt chó, bia hơi mới mở ở cạnh phố. Không cần phải bán đất thổ cư và cái ao rộng, chỉ nguyên ba ngàn sáu trăm mét vuông ruộng mà ông bà ngoại tôi mua thêm hồi nào nay nằm trúng trong khu qui hoạch công nghiệp, lại là mảnh đất đẹp nhất mà một ông chủ nước ngoài xây nhà máy nên được đền bù khá thỏa đáng. Hai triệu một mét vuông nhân với ba nghìn sáu trăm mét vuông thành bảy tỷ hai trăm triệu đồng! Một số tiền có nằm mơ cậu Hàm cũng không dám mơ tới? Có lẽ thế mà hôm ký giấy nhận tiền đền bù, nhìn đống tiền lù lù trước mắt, cậu phải vả vào mặt mình mấy cái, thấy đau, cậu mới biết là mình không mơ! Ở đời có tiền mua tiên cũng được thành ra cậu Hàm tôi bắt đầu công cuộc chuyển đổi thành phần; từ nông dân thành người thành phố thì đã có quyết định hẳn hoi, giờ chỉ cần biến đổi cái chất cho mạnh mẽ nữa là ổn! À, cái nhà cổ hơn một trăm năm, gỗ lim, lợp ngói rêu phong mát mẻ kia, nơi mà cậu đã được sinh ra và lớn lên sao mà bây giờ trông nó lạc lõng so với những ngôi nhà bêtông, cao tầng san sát đến thế? Phá, lừa cho ông bà ngoại tôi đi Hạ Long nghỉ mát với tôi và bố mẹ tôi, cậu Hàm đã cho rỡ ngôi nhà cổ, rồi thay vào đó là cái mẫu thiết kế ngôi nhà bốn tầng, chín phòng. Ông ngoại tôi đi nghỉ mát về, nhìn thấy ngôi nhà mà bố mẹ mình và vợ chồng con cái mình đã từng sống gắn bó cả đời, nay chỉ còn là một đống gỗ, đống ngói, ông ngoại đã tuyên bố không nhìn đến mặt cậu Hàm nữa. Cầm một tỷ rưỡi đồng bán đất mà ông bà giữ lại, ông về làng Sâm- quê bà ngoại mua một thửa đất có cả ao, dựng lại ngôi nhà gỗ lim cũ. Ông cho mẹ tôi hai trăm triệu, mua tặng tôi chiếc xe máy và chiếc điện thoại di động mừng tôi thi đỗ vào đại học, còn bao nhiêu ông gửi tiết kiệm để hàng tháng lấy lãi chi dùng cho ông bà.

Xây xong ngôi nhà cao to lừng lững giữa phường, cậu tôi mua một loạt trang thiết bị đắt tiền của Mỹ, Nhật, Ý. Cậu cũng mua liền một lúc hai chiếc xe máy của Nhật trị giá gần một trăm triệu cho cậu và mợ. Xe của cậu thì sáng sáng cậu đèo vợ và con ra quán ăn cách nhà hai trăm mét để ăn phở, bún, bánh mì batê hay để cậu lượn lờ đến nhà bạn bè uống bia, chơi bài ăn tiền. Còn xe của mợ thì để mợ đi chợ cách nhà hai trăm ba mươi mét để mua thức ăn hay đi đến các đền chùa để hương khói. Lúc đầu vợ cậu còn đi chợ, nấu ăn, sau kêu mệt nên cậu phải thuê một cô ôsin về giúp việc chợ búa, cơm nước, quét dọn.

Mợ đi chùa nhiều nên hay gặp thầy bói bói bài ở trước cửa chùa. Một thầy đeo kính đen, nhìn vào cặp đùi mỡ màng sau làn váy mỏng của mợ vẫy mợ lại bảo rằng số mợ không là phu nhân thì cũng rất giàu có. Mợ thở dài nói rằng lấy chồng thích đái bụi chuối hơn đái bồn thì phu nhân cái nỗi gì? Thầy xoa đùi mợ rồi bảo:” Giai cấp nông dân à? Nhưng sắp giàu to nhờ có lộc lớn!”. Đôi mắt mợ lóe sáng, hỏi thầy làm thế nào để lấy được lộc? Bàn tay thầy lùa vào trong váy, mợ chặn lại. Thầy bảo không muốn lấy lộc thì thôi, bàn tay mợ lại lỏng ra. Mãi rồi thầy bảo chiều nay đánh con đề bốn mươi. Mợ chưa từng đánh đề, lại cũng chẳng tin lắm nên về nói lại với cậu thử ra quán nước bà Lại ghi năm mươi ngàn xem nào? Quả nhiên tối đó đề về bốn mươi. Cầm ba triệu rưỡi, cậu tiếc ngẩn ngơ; mợ xỉ vả mình ngu như chó, thầy cho lộc giàu có không biết đường mà ăn, biết thế rút một trăm triệu tiền tiết kiệm ra ghi đề, ghi lôtô thì có phải được bảy tỷ, gần bằng tiền bán đất không? Tối hôm sau, hôm sau nữa, rồi tối nào cũng vậy, cứ đến giờ tivi thông báo kết quả xổ số là cậu mợ lại nín thở xem đề, lô về bao nhiêu? Được thì ít mà thua thì nhiều, đã thua, cậu lại càng đánh to để hòng gỡ lại, càng đánh càng thua.

Không làm, miệng ăn đến núi cũng lở; nhà cậu Hàm trừ ôsin ăn theo định mức nông dân còn vợ chồng, con cái ăn theo tiêu chuẩn thượng lưu của người thành phố, không những thế mà còn lô, đề “ăn” nữa nên hơn ba tỷ bán ruộng gửi tiết kiệm để lấy lãi sinh sống đã rút đến đồng cuối cùng. Thế là đồ đạc trong nhà dần dần đội nón ra đi, bắt đầu từ máy điều hòa, máy giặt rồi đến tivi, tủ lạnh, bàn ghế salông, chiếc xe máy của cậu và cuối cùng là chiếc xe máy của mợ. Đồ đạc mua thì đắt, bán thì rẻ nên chẳng mấy tháng, nhà cậu lại hết tiền!

Trước đây còn có ruộng, có lúa gạo để ăn, nay không còn ruộng, nhà cậu chỉ còn cái xác không. Chẳng thể gặm bêtông mà ăn được, cậu đành rao bán nhà, đi mua mảnh đất be bé để xây nhà, số còn lại lấy vốn làm ăn! Nhưng bây giờ đất đai, nhà cửa đang vào giai đoạn đóng băng nên chẳng có mấy người ngó ngàng đến nhà cậu. Có mấy người hỏi mua thì họ trả giá quá rẻ, chỉ bằng tiền mà cậu đã xây nhà. Họ bảo mua là để mua đất chứ cái nhà xây kệch kỡm nửa ta, nửa Tây thì chó nó mua!

Nhà cậu đã bắt đầu phải đi vay nặng lãi 3% một tháng để ăn. Đang lúc túng quẫn thì cậu Hàm gặp được vận may, chính ông chủ Tây đã mua đất ruộng của cậu đến mua tiếp ngôi nhà của cậu với mức giá cao nhất so với những người đã từng trả. Ông chủ Tây mua, cải tạo lại ngôi nhà của cậu Hàm để làm kho chứa hàng, chả là sản phẩm băng vệ sinh phụ nữ, siêu mỏng, siêu thấm, siêu khuyến mại của công ty ông đang bán rất chạy. Vậy là lần thứ hai trong cuộc đời, cậu Hàm phải hàm ơn ông chủ Tây!

Bán được nhà, cậu Hàm đi tìm mua đất; đất không đắt nhưng cũng không rẻ, chỉ chững lại thôi nhưng giá cả vật liệu xây dựng như ximăng, sắt, gạch, công xây thì lại tăng gấp đôi thời kỳ cậu xây ngôi nhà to vật. Nếu mua đất, cho dù be bé để xây nhà thì số dư còn lại chẳng là bao. Còn ra ngoại thành đất đai rẻ hơn thì lại trở thành nông dân, cậu mợ chẳng thích. Bàn đi, tính lại, cậu quyết định mua căn hộ chung cư hiện đại đang xây. Cậu phải nộp trước một trăm triệu, số còn lại nộp khi giao nhà nhưng tính theo giá vàng. Cậu phải đi thuê nhà, hai triệu đồng một tháng. Đến lúc nhận nhà chung cư thì giá vàng đùng đùng lên cơn sốt, từ một triệu một chỉ nhảy phắt lên một triệu tư. Nộp nốt tiền, nhận nhà xong, cậu còn đúng hai trăm bốn mươi triệu. Cậu dùng một trăm triệu mua sắm đồ dùng, xe máy, còn một trăm bốn mươi triệu lấy vốn mở cửa hàng bán bia hơi. Theo như quan sát của cậu thì người dân phường cậu bây giờ nghiện bia hơi và nghiện đề nhiều nhất. Làm chủ đề thì cậu không đủ vốn, vậy nên mở nhà hàng bia hơi là thượng sách!

Nhờ có nhan sắc của vợ mà nhà hàng bia hơi Thủy Tiên của cậu rất đông khách. Nhưng cậu Hàm, tuy đã là người thành phố mà vẫn thật thà như người nông dân, cậu cho rằng đến ông chủ Tây còn được ưu đãi huống chi cậu là người Việt Nam; hơn nữa cậu đã đóng thuế đầy đủ theo qui định của pháp luật thì cứ đàng hoàng mà làm ăn nên mỗi khi có thuế vụ, quản lý thị trường đến kiểm tra, cậu chỉ chiêu đãi vài vại bia mà không có phong bao. Thậm chí ông phó phòng thuế còn gợi ý cho cậu Hàm rằng có muốn nộp thuế ít đi một nửa không, ông sẽ vẽ đường cho bằng cách chỉ khai báo doanh thu thấp đi một nửa, tất nhiên một nửa này cưa đôi như tất cả các doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước khác đã từng hợp tác với các ông! Lợi cả đôi bên là thế song cậu Hàm nói rằng ông làm vậy là tham nhũng. Thế là tháng sau, nhà hàng của cậu phải nộp gấp đôi tiền thuế. Cậu làm đơn khiếu nại thì thanh tra thuế về làm việc, kết luận gia đình cậu trốn thuế năm mươi triệu đồng, phải nộp truy thu và nộp tiền phạt nếu không sẽ bị truy tố ra tòa!

Cậu Hàm rất sợ bị đi tù, vừa khổ cực, vừa bị người đời khinh rẻ, lại mất vợ đẹp như chơi nên cậu bán tống bán tháo cái nhà hàng bia hơi và rút chút tiền tiết kiệm còn lại để nộp phạt!

Tránh được tù tội, cậu Hàm lại rơi vào cảnh tù túng. Ở quê, hết gạo, cậu Hàm có thể chạy sang hàng xóm để vay vài bơ gạo; hết cái ăn, có thể chạy ra ao cá, thả cái vó xuống là có cá ăn, chạy ra vườn hái nắm rau là có rau ăn, bẻ cái que tre là có tăm xỉa răng. Nhưng mà cậu đang ở thành phố, cái gì cũng phải tiền, từ cái tăm, mớ rau, cân gạo, ngay cả nước sinh hoạt - một thứ thừa mứa ở nhà quê nhưng ở thành phố cũng phải mất tiền mà nhiều khi cũng chẳng đủ hoặc đủ thì nước đục, vàng, có cả giun. Cái nỗi nhục lớn ở đời là phải đi vay tiền, kể cả vay tiền anh em, chính cậu Hàm tôi đã từng bảo với tôi vậy khi mà cậu đã từng đi vay bạn bè không được đành phải đi vay nặng lãi để có tiền ăn. Hết tiền, lại ở chót vót trên tầng bảy của chung cư, gia đình cậu tôi như chim nhốt trong lồng. Ông bà ngoại tôi và bố mẹ tôi vẫn hay gửi gạo và tiền lên tiếp tế cho gia đình cậu nhưng gia đình cậu vốn đã quen với lối sống thị thành phong lưu nên không thể hạ cấp mà ăn cơm rang hay khoai lang luộc buổi sáng mà phải là phở đặc biệt có thêm một quả trứng gà; ăn trưa, ăn tối phải có thịt quay, giò chả, có bia non vậy nên một lần nữa đồ đạc trong nhà cậu lại đội nón ra đi. Hôm tôi mang gạo đến cho nhà cậu Hàm, chung cư mất điện, tôi phải gửi bao gạo ở chỗ nhà gửi xe, leo lên tầng bảy, bảo cậu xuống lấy gạo. Nhà cậu giờ trống trơ trống hoắc, cậu giữ tôi ở lại ăn cơm, tôi từ chối phải về ngay để chuẩn bị đồ đạc sáng mai còn lên Hà Nội bắt đầu vào học năm thứ ba.

Ông bảo vệ lấy tôi hai ngàn tiền gửi xe, tôi dắt xe máy ra, đi loanh quanh mãi mà vẫn chưa ra được đến phố chính; không những thế, ở những chỗ khuất nẻo, tôi rùng mình trước những kim chích ma túy vứt chỏng chơ. Mới có mấy năm mà nhà cửa san sát, chen chúc xô đẩy lẫn nhau; tôi bị lạc, lạc ở chính cái làng tôi xưa kia. Làng đã biến mất, mất hết rồi, ngay cả hai cái biểu tượng vốn là niềm tự hào của làng cũng không còn nữa. Đó là cây đa cổ thụ gần hai trăm năm nằm cạnh đường làng bị chặt hạ để nắn đường cho nhà ông trưởng phòng nhà đất ra mặt phố. Đó là đồi thông vi vu gió thổi bị chặt hạ cả trăm cây để nhường chỗ cho nhà hàng Karaoke Đồi Thông cao cấp; toàn thấy những VIP và dân ăn chơi giàu có đi xe hơi, xe máy đắt tiền đến giải trí với những cô gái chân dài, đẹp như người mẫu.

Tôi đã lên thủ đô, đã vào học được hai tuần nhưng nỗi buồn về cậu Hàm, về mất làng lúc nào cũng chập chờn trong đầu tôi. Nhiều lúc tôi buồn quá, phóng xe máy từ nhà trọ ra vườn Bách thảo để thèm được nghe lại một tiếng chim hót trên cây. Chiều nay, trời đã vào thu nhưng vẫn còn nắng chang chang, ngày mai thi hết môn rồi mà tôi chẳng nhét được chữ nào vào đầu. Tôi đứng lên, chụp chiếc mũ lên đầu rồi dắt xe máy đi ra; tôi thèm được ngồi bệt xuống đám cỏ tựa lưng vào gốc cây râm mát, bứt mấy cọng cỏ đưa lên mũi ngửi cái mùi hăng hắc; thèm được lắng nghe tiếng chim Chích kiếm mồi.

Tắc đường, người và xe vón cục trước mặt, tôi lao xe lên vỉa hè, suýt đâm vào mấy người đàn ông đang đứng ngồi quanh gốc cây:

- Mả mẹ mày, mù hả?

Một người đàn ông chửi tôi, nghe tiếng rất quen, tôi dừng xe quay đầu lại. Quái lạ, người thì ngồi thụp xuống, người thì quay mặt đi, người thì kéo mũ sụp xuống mặt? Ơ, ai như chú “yêu xe hơn yêu vợ?”, đó là biệt danh mà mọi người đặt cho chú Khoái; chuyện là nhà chú có chín sào ruộng, được đền bù tám triệu, chú bán thêm đất vườn, dồn tiền mua chiếc xe máy hai mươi triệu. Trước chú Khoái thường ngủ với vợ nhưng từ ngày mua xe máy, chú ra ngủ với xe có tới ba cái khóa, khóa cổ, khóa càng và khóa xích vào chân giường của chú. Tôi dắt xe đi lại. Ơ, cả bác Toàn, chú Tiện, chú Kim nữa? Tôi chào mọi người, họ ngượng ngập hỏi tôi đi học về đấy à? Tôi đáp:

- Chiều nay cháu nghỉ. Các bác, các chú đi đâu đấy?

- À, à, bọn tao lên Hà Nội du lịch xem thủ đô thế nào!- Chú Kim bảo.

Đi du lịch mà quần áo lôi thôi như nông dân đi làm ruộng thế này? Mà sao lại mang cả xà beng, xẻng, quang gánh? Thấy tôi nghi ngờ, bác Toàn nói toẹt ra:

- Sĩ diện cái đếch gì , chúng tao không còn ruộng nữa, có mấy chục triệu đền bù thì xây nhà, mua xe máy hết rồi; bây giờ còn cái xác nhà không, lên đây đi cửu vạn kiếm tiền cho con ăn học.

Tôi thấy ngực mình như có ai bóp ngẹt. Tôi đã học xong môn Triết học và môn Kinh tế chính trị nên tôi phần nào hiểu được rằng muốn chuyển đổi từ cái cũ lên cái mới, từ cái thấp lên cái cao thì phải có đầy đủ cơ sở hạ tầng và thượng tầng kiến trúc. Những người nông dân quê tôi ngủ một đêm, sáng ra biến thành người thành phố chỉ thông qua cái quyết định nóng vội, chạy theo thành tích của một số cán bộ tỉnh; thấy người ta lên thành phố mình cũng lên thành phố; thấy người ta có các nhà đầu tư nước ngoài, mình cũng ưu đãi đặc biệt vượt cả chính sách của Chính phủ, trải thảm, rạp người mời gọi. Người nông dân không được trang bị kiến thức, lối sống, văn hóa của người thành phố và đặc biệt không có công ăn việc làm gì thì chỉ góp phần làm cho họ bần cùng đi.

Nhìn thấy mồ hôi đang chảy nhễu nhại trên mặt những người nông dân làng tôi xưa kia, nay là dân phố phường tôi, tôi thương họ quá, tôi đang phân vân không biết có nên mời họ vào cái quán giải khát trước mặt kia, chiêu đãi mỗi người một ly kem ăn cho mát ruột không thì chuông điện thoại di động của tôi đổ liên hồi. Tôi rút máy ra nghe, giọng mẹ tôi hốt hoảng, đau đớn. Chiếc điện thoại tuột khỏi tay tôi rơi xuống đất, tôi quỵ xuống hè. Bác Toàn vội bế xốc tôi lên, lúc sau tôi mới tỉnh lại, mọi người xúm vào hỏi tôi bị làm sao? Mãi, tôi mới nói cho mọi người biết rằng cậu Hàm tôi nhảy lầu tự tử. Chú Khoái trèo lên chiếc xe máy của tôi, giục tôi ngồi lên rồi lượn lách thoát khỏi đám đông, phóng ngay về quê.

Cậu Hàm tôi tự tử thật, cậu nhảy từ chính căn hộ chung cư của cậu xuống đất. Cậu Hàm tự tử vì tiếc ngẩn tiếc ngơ, trước được thừa kế bao ruộng đấy mà nay không còn tấc đất cắm dùi!

Cậu Hàm tự tử vì vợ cậu lại ngựa quen đường cũ, đi làm cave ở nhà hàng Karaoke Đồi Thông và bán dâm bị công an bắt được. Đau đớn hơn, đứa con gái đầu lòng của cậu, sinh thiếu tháng với cậu nhưng lại đủ tháng với người ta. Thế mà ngày đầu gặp cậu, nàng Thủy Tiên bảo mình là thợ uốn tóc, chỉ đến đây hát vui vẻ chứ tấm thân vẫn còn trong trắng!

Cậu Hàm tôi tự tử nhưng may mắn thay cho cậu, cậu chỉ bị gãy ba rẻ xương sườn và gãy tay trái mà không tan xác. Cậu đã được chính mảnh đất làng xưa còn sót lại cứu sống. Đó là một vũng bùn lầy trên cái nền sân bêtông do bị rút ruột quá nhiều mà tạo thành. Cậu rơi trúng vào đấy! Lúc tôi vào thăm cậu trong phòng cấp cứu ở bệnh viện tỉnh, cậu đã tỉnh lại, nhìn thấy tôi, cậu hối hận:

- Cậu muốn trở lại thành thằng nông dân, lấy một con vợ nông dân..!

- Cậu ơi! thật ra cậu vẫn là ...

Tôi còn chưa kịp nói hết câu thì một bà y tá đi vào quát nhặng lên:

- Con nhà quê này, ra ngoài!

Hừ, ai cũng sinh ra ở quê nhưng vừa bước ra khỏi làng đã quay lại chửi quê nhem nhẻm! Tôi làu bàu trong miệng, bước nhanh ra ngoài, bắt gặp sáu, bảy người đang nói chuyện với bà ngoại và mẹ tôi ở hành lang; người xách cam, chuối, người xách cái làn có con gà mái tơ. Họ là những người nông dân ở làng Sâm, cạnh nhà ông bà ngoại tôi; nghe tin, vội vã lên thăm

Nắng sớm ngập tràn 

Chị đấy! Chị đang gánh mạ từ cánh đồng trở về nhà trong ráng chiều hôm chạng vạng.

Nắng cuối ngày làm khuôn mặt trái xoan xinh đẹp của chị ửng đỏ. Gió đồng lồng lộng tung bay làn tóc đen mượt mà ngang vai chị. Nghe có tiếng người trò chuyện phía trước, chị ngước đôi mắt tròn, đen láy nhìn lên. Chị nở một nụ cười tươi tắn, hàm răng trắng đều tăm tắp khoe chiếc răng khểnh duyên dáng:

- Con chào hai cụ, hai cụ đi chợ về đấy ạ!

- Vâng, chào cô, cô đi cấy về đấy à?

- Dạ, vâng!

- Ối!

Chị quay đầu nhìn lại, một bà cụ bị vấp ngã, chị vội vã đặt gánh mạ xuống chạy lại đỡ bà cụ lên, miệng xót xa hỏi bà có bị làm sao không? Nhìn thấy ngón chân cái của bà bị mảnh chai đâm vào chảy máu, chị không ngần ngại đưa cánh tay áo bên trái lên miệng, tay phải cầm đầu tay áo xé toạc một miếng; miếng vải nâu dời ra để lộ cánh tay thon thả hồng hào. Chị cúi xuống buộc vết thương cho bà cụ, dặn bà về đến nhà rửa sạch bằng nước muối rồi bôi tí thuốc mỡ tra mắt vào để tránh nhiễm trùng.

Kẽo kẹt, kẽo kẹt; đôi chân trần xắn đến đầu gối phơi phong làn da trắng muốt của chị lại thoăn thoắt bước đi dưới cái nặng của chiếc đòn gánh trên vai. Gánh mạ nặng là vậy mà dáng chị vẫn mềm mại, uyển chuyển như đang tập múa ở sân đình. Chị đã đi được một quãng nhưng vẫn thấy văng vẳng bên tai lời hai bà cụ:

- Con bé đẹp người đẹp nết, thắt đáy lưng ong vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con thế mà vẫn không có ai lấy. Tội nghiệp nó!

Chị dừng bước, vừa thở vừa lấy tay gạt mấy giọt mồ hôi lấm chấm trên trán. Trời chiều mênh mang, gió chiều lồng lộng tạc vào lòng chị một nỗi buồn nhân thế.

Mẹ chị, người con gái xấu nhất làng được sinh ra cũng từ một người đàn bà xấu nhất làng. Vì quá xấu, bà vốn đã bị người làng coi thường, nay lại không chồng mà chửa nên bà càng bị khinh rẻ; bà đã đưa mẹ chị ra thẻo đất ở rìa làng dựng một ngôi nhà đất, lợp rạ để mẹ con sinh sống. Bà đi làm thuê, mót lúa, mò cua, bắt ốc để duy trì sự sống của hai mẹ con.

Càng lớn, mẹ chị càng trở nên xấu xí, cái xấu hội tụ cả của mẹ, cả của người đàn ông sinh ra mình. Biết thân phận mình là kẻ xấu xí, không cha nên mẹ chị chăm chỉ lam làm, hay giúp đỡ những người nghèo khó, kính trọng người già, hòa nhã với trẻ nhỏ hòng dùng cái nết đánh chết cái đẹp; kiếm được một tấm chồng dù cụt chân, mù mắt nhưng có cưới xin hẳn hoi để chấm dứt cái dòng dõi  “không chồng mà chửa” của gia đình. Song từ lúc dậy thì đến cái tuổi bốn mươi, mẹ chị không có một người đàn ông nào đến dạm hỏi. Thậm chí những câu trò chuyện bình thường mà đàn ông trong làng dành cho mẹ chị cũng có thể đếm được trên đầu ngón tay. Không đủ sức khỏe và lòng kiên nhẫn chờ đợi con mình có được một tấm chồng; vào một đêm mưa gió, bà chị đã lặng lẽ ra đi không một lời trăng trối.

Bước sang cái tuổi bốn mốt, mẹ chị bắt đầu đi tìm kiếm cho mình một đứa con. Những người đàn ông trong làng xa lánh chị còn những người đàn bà trong làng thì cảnh cáo chớ có dụ dỗ chồng họ kẻo sẽ bị gọt đầu bôi vôi! Cứ đến thời kỳ giữa của chu kỳ kinh nguyệt, trong vai người đi mua đồng nát, mẹ chị đi đến các làng xa xôi, tìm đến những người đàn ông góa vợ để xin con nhưng vừa nhìn thấy khuôn mặt bèn bẹt với chiếc mũi tẹt dí, đôi mắt xếch, hàm răng vổ vàng khè như răng cải mả của mẹ chị, họ đã lắc đầu. Có lần đúng vào ngày trứng rụng, mẹ gặp một người đàn ông say rượu đang nằm một mình trong nhà, chân gã ghếch lên, cái “kia” thò cả ra ngoài quần đùi. Mẹ phát cuồng, lấy tiền cho gã mua rượu uống, xin gã thương tình đoái hoài đến mình. Gã cầm tiền đút vào túi rồi xua đuổi mẹ :” Xấu quá, xấu hơn cả Thị Nở, cút đi, cút đi!”. Đêm ấy, nước mắt mẹ ướt đầm chiếc gối, gần sáng mẹ nghĩ ra được một sáng kiến. Cả ngày hôm ấy mẹ chị thấp thỏm trong lòng, mong sao trời mau tối để thực thi cái sáng kiến của mình.

Chiều tối, lùa vội bát cơm vào bụng, mẹ đạp xe lên thị xã, tìm đến một gốc cây tối om trong công viên ngồi chờ. Người khách đầu tiên tìm đến là một gã đàn ông lùn tè lùn tẹt, gã hỏi mẹ đi ”tàu nhanh” giá bao nhiêu? Mẹ ngớ người không hiểu, hỏi lại gã tàu nhanh là gì? Gã văng tục: “Đ... mẹ, làm đĩ mà không biết tàu nhanh!”. Mẹ nói với gã lần đầu tiên đi bán mình nên chưa biết, gã giảng giải cho mẹ, đi tàu nhanh nghĩa là “làm” một cái thôi, giống như ăn bánh trả tiền, còn đi” tàu chậm” là qua đêm, “làm” bao nhiêu cái thì “làm”. Mẹ bảo với gã không cần trả tiền cũng được. Sự thật thà của mẹ đã không mang lại kết quả, giá như mẹ cứ phát ra một cái giá bằng mớ ốc mà mẹ vẫn bán ở chợ làng thì gã đàn ông thấy rẻ mà đồng ý ngay nhưng khi nghe mẹ nói không cần phải trả tiền cũng được thì gã nghĩ mẹ bị HIV! Gã chuồn thẳng.

Mẹ chị còn chưa kịp hiểu tại sao gã đàn ông lại vội vội vã vã chạy mất thì bị giật tóc, đấm đá túi bụi. Mẹ không kêu được một tiếng, chỉ mãi đến khi mẹ đổ gục xuống thì trận đòn mới dứt. “Lần đầu tao cảnh cáo, lần sau mà còn dám xâm phạm địa bàn làm ăn của chúng tao thì chúng tao xẻo l ...”, tiếng đe dọa của hai ả gái điếm chuyên nghiệp giúp mẹ hiểu rõ thì ra đi làm cái nghề nhơ nhấp này cũng có sự cạnh tranh!

Mẹ lồm cồm bò dậy, dắt xe đạp ra khỏi công viên. Hai chân mẹ bị đá, bị quật đau nhức, mẹ gắng sức đạp nhưng cũng chỉ đến nửa đường thì cả người lẫn xe lao sầm ruộng lúa sắp gặt ven đường. Mẹ mê man. Nửa đêm, một người đàn ông đi xe máy phát hiện ra mẹ nhờ ánh đèn xe, ông vội vã nhảy xuống ruộng lay gọi mẹ. Mẹ tỉnh lại, người đàn ông hỏi mẹ có phải bị cướp không? Mẹ đáp không và kể lại tất cả. Người đàn ông thinh lặng, lúc sau quả quyết:” Tôi sẽ cho chị một đứa con”. Trong đêm tối, họ không nhìn thấy mặt nhau, mẹ cuống cuồng tụt quần ra. Người đàn ông đổ người lên người mẹ. “Mẹ ơi! Đau quá!”, mẹ thét lên.

Về đến nhà, mẹ mò mẫm bao diêm, thắp hương lên ban thờ mẹ, khấn:” Mẹ ơi! Hãy phù hộ cho con đẻ được một đứa con trai. Còn nếu là con gái thì nó giống một người xinh đẹp nào đó bên đằng cha nó để nó lấy được một tấm chồng có cưới xin hẳn hoi!”. Lời cầu khấn của mẹ đã ứng nghiệm; chín tháng, ba ngày sau, chị được sinh ra bụ bẫm và đẹp đẽ như trong tranh.

Lại không chồng mà chửa! Đúng là dòng dõi tổ tông! Không chịu được những lời miệt thị của người làng, cộng với ước vọng xóa bỏ được cái dớp mà mẹ mình và bản thân mình đã từng gánh nạn; một đêm, mẹ bế chị ra khỏi nhà, lấy ra một ít đồ đạc rồi châm lửa đốt ngôi nhà, lửa cháy đùng đùng, thiêu rụi tất cả. Mẹ đặt bát hương mẹ, hai cái soong nồi, bốn cái bát, ba bộ quần áo và năm bơ gạo lên cái thúng bên này; đặt con lên cái thúng bên kia rồi gánh ra cái chòi vó bè bỏ hoang ở cạnh bãi tha ma làng, sửa chữa nâng cấp thành nhà để mẹ con có chỗ chui ra chui vào.

Ở cạnh người chết, mẹ nghiệm ra rằng chỉ có người sống mới hay nói xấu, ganh tỵ với người sống và cả với người chết nữa còn người chết thì không nên mẹ con chị rất bình yên. Mẹ tận dụng những mảnh đất đầu thừa đuôi thẹo quanh các ngôi mộ để cấy lúa, trồng khoai. Khi chị chưa biết bò, mẹ lấy cái quần vải cũ buộc chị trên lưng mỗi khi cấy lúa, làm cỏ; xa xa nhìn mẹ con chị nhấp nhổm như con cua đồng đang bò trên ruộng. Lúc chị biết đi, chị tha thẩn bên những ngôi mộ, bắt cào cào, châu chấu; chị lấy cả xôi, thịt, chuối trên những ngôi mộ mới chôn để ăn. Lần đầu nhìn thấy, mẹ sợ tái mặt, vả vào mồm chị mấy cái, bóp cổ để chị lè thức ăn ra rồi dẫn chị đến ngôi mộ mà chị lấy cắp thức ăn, quì lạy người chết tha thứ. Từ đấy, chị sợ mẹ nên không dám bén mảng đến những ngôi mộ nữa.

Nó thèm được ăn thịt? Không có thịt thì mẹ lội xuống con sông cạnh nhà, cạnh bãi tha ma để mò cua, bắt ốc và tôm tép. Để phòng tránh chị không bị ngã xuống sông, mẹ lấy sợi dây vải buộc chân chị vào gốc thông hay phi lao; vừa mò, mẹ vừa trông chừng chị chơi trên bờ. Hết đoạn sông này, mẹ lại lên bờ dẫn chị đến đoạn sông khác, lại buộc chân chị vào gốc cây rồi tiếp tục mò mẫm sự sống của sự sống nơi đáy sông. Một lần, có con cá trê to bằng cổ tay chui ở trong hang, nó trơn quá, lại có ngạnh nhọn nên mẹ phải lừa lựa để bắt được nó; mải mê với cá, đến lúc bắt được con cá trê thì mẹ kinh hoàng khi thấy chị đã biến khỏi mặt đất! Chị nhặt được một cái liềm ở gốc cây thông, ra sức cứa đứt sợi dây buộc chân; sợi dây đứt, chị hả hê bò xuống sông tìm mẹ! Mẹ lao lại phía sau cuống cuồng mò tìm con. Túm được tóc chị, mẹ bế chị lên bờ, cầm hai chân chị dốc ngược lên vai vừa chạy quanh bãi tha ma vừa gào khóc; tiếng gào rách cả cổ họng, trào cả máu. Nước từ miệng chị ồng ộc tuôn ra. Chị khóc thét lên một tiếng, mẹ sung sướng đặt bừa chị lên một ngôi mộ mới chôn, chất đầy vòng hoa tươi rồi rập đầu khấn vái người dưới mộ hãy cứu sống con chị. Từ đấy, mẹ sợ không dám đi ra sông mò cua, bắt ốc nữa và chính mẹ lại là người tiếp tục tranh phần ăn của người chết.

Những ngày đầu, mẹ cũng sợ lắm, trời vừa sập tối mẹ đã cửa đóng then cài. Mỗi tiếng gió lay, cửa động, mẹ lại thon thót ôm chặt chị vào lòng, lầm rầm khấn rằng, mình phận xấu xí, hèn kém không cạnh tranh được với người sống nên đành tranh phần với người chết; mong hồn ma tha thứ! Mọi cái rồi cũng thành quen, thấy ma không bắt, thấy con ăn ngon, ngủ ngon, mẹ cũng hết sợ hãi. Mỗi khi có đám ma, ngày giỗ, ngày tết hoặc ngày thanh minh, mẹ lấy ra những đồng tiền cũ nát đêm đếm trước mắt chị, nhốt chị trong nhà, khóa trái cửa lại rồi cắp thúng đi chợ! Mẹ đi đến những ngôi mộ, thấy có xôi, có thịt, có chuối, mẹ chắp tay khấn xin rồi bỏ thức ăn vào thúng đi về; xôi thì hấp lên, thịt thì thái ra kho mặn. Rồi mẹ mở rộng địa bàn kiếm ăn, mò tìm đến những bãi tha ma, nghĩa địa làng khác, xã khác xin lộc của người chết. Để tránh người sống phát hiện, và để tránh cả sự cạnh tranh mà mẹ đã có bài học trả giá bằng trận đòn thừa sống thiếu chết ở công viên năm nào, mẹ thường đi vào những lúc giữa trưa vắng người hoặc vào lúc đêm tối.

Thời buổi bây giờ, cõi dương đang lấy lòng cõi âm nên người ta đua nhau xây mộ tổ, mộ ông, mộ bà, mộ bố, mộ mẹ thật nguy nga tráng lệ; cúng giỗ thật linh đình để tỏ lòng thương nhớ mặc dù khi còn sống, người chết bị người sống mong cho chết nhanh đi để họ còn được thừa kế tiền bạc, đất đai, nhà cửa. Nhờ vậy mà mẹ cũng được thường xuyên cắp thúng “đi chợ”. Cõi âm đã nuôi chị phổng phao, mỗi ngày mỗi xinh đẹp nhưng cõi âm cũng góp phần làm cho nỗi buồn nhân thế của chị tăng lên. Một trưa bị mẹ đánh, chị đã chui vào ngôi mộ cụ tổ họ Trịnh do con cháu ở Hà Nội về xây; ngôi mộ hình tháp nhọn kiểu châu Âu, xây bằng đá cẩm thạch có giá trị gấp hai mươi lần ngôi nhà của mẹ con chị đang ở; nó sạch sẽ, mát mẻ quá, thế là chị ngủ quên trong đó đến tận chiều, mấy đứa trẻ trâu nhìn thấy tưởng ma, kêu ré lên chạy về làng thông báo. Người làng lại bảo bà nó xấu xí, mẹ nó xấu xí còn nó lại đẹp như hoa hậu, chắc nó là con ma hoặc hồ ly tinh!

Là dòng giống” không chồng mà chửa”, là con ma, là hồ ly tinh nên mặc dù chị càng lớn càng xinh đẹp và nết na; chị cũng là người thông minh sáng dạ, năm học nào chị cũng là học sinh giỏi song nhà nghèo không có tiền đi thi đại học nên học xong cấp ba chị ở nhà để lấy chồng theo nguyện vọng của mẹ; thanh niên, đàn ông trong làng đều thầm yêu, trộm nhớ nhưng không ai dám cưới chị làm vợ. Không dám lấy chị nhưng họ cũng không cho chị đi lấy chồng; họ sợ mất chị, mất đi biểu tượng sắc đẹp ở làng!

Chị gánh mạ sắp về đến nhà thì bắt gặp một người thanh niên và một đứa trẻ từ bãi tha ma đi ra, nhìn thấy chị, người thanh niên sững sờ trước vẻ đẹp hương đồng gió nội của chị.

- Này em, em có lửa không cho xin tí, anh ra thắp hương cho các cụ mà quên bật lửa!- Người thanh niên kiếm cớ.

- Dạ, nhà em kia, để em về lấy diêm cho anh!- Chị dịu dàng đáp lời.

- Thôi để anh vào lấy.

- Vâng, mời anh vào!

Thấy có khách là đàn ông, mẹ mừng lắm, chào đón khách như người thân ở xa mới về. Người thanh niên giới thiệu tên là Tân, cháu ông Thoại, anh đang sống với bố mẹ ở Sài Gòn, lâu rồi mới có dịp về thăm quê. Ai chứ ông Thoại thì mẹ con chị chả lạ gì, ông là cán bộ huyện mới về hưu, ông vừa xây ngôi nhà to và đẹp nhất làng. Duyên số trời se chăng? Mẹ khấp khởi trong lòng. Tân cao to, đẹp trai, lại có học thức, làm kỹ sư ở thành phố văn minh, chắc không có cái nhìn lạc hậu như người ở quê. Con gái chị đẹp, ngoan, thật là đẹp đôi. Chỉ thoáng qua, mẹ chị cũng biết là Tân đã phải lòng con gái mình.

Những cuộc đến thăm hàng ngày của Tân càng làm cho mẹ hy vọng sẽ dứt bỏ được quá khứ “không chồng mà chửa” của gia đình. Tân cũng đã thề rằng nếu không lấy được chị thì bãi tha ma kia sẽ có một chỗ dành cho Tân. Ấy là Tân thề lúc gia đình ông Thoại chưa biết Tân đến tìm hiểu chị, đến khi biết tin, cả gia đình ông Thoại đã họp, đã gọi điện thoại vào cả Sài Gòn cho cha mẹ Tân để khuyên răn Tân từ bỏ cái tình yêu sét đánh điên rồ của mình.

Trước hôm bay vào Sài Gòn, Tân đến nhà chị, vòng vo một lúc, Tân hỏi chị:

- Bà em, mẹ em đều không có chồng à?

- Vâng!- Chị đáp.

- Thế em có biết bố em là ai không?

- Không!

Tân thở dài, lúc sau nói lời đau khổ:

- Anh rất yêu em, nhưng bố mẹ anh không cho anh lấy vợ ở quê! Nếu em cũng muốn có được một đứa con như bà em, như mẹ em, anh luôn sẵn sàng. Gì thì gì anh cũng là một trí thức, con chúng ta sẽ thông minh như anh và đẹp đẽ như em. Hàng tháng anh sẽ gửi tiền về nuôi con, đây anh gửi em trước mười triệu.

- Bốp!- Một cái tát của chị làm Tân tối tăm mặt mũi. Tân rít lên:

- Dòng dõi nhà đĩ lại còn làm phách!

Chị đi ra bờ sông, bỏ mặc Tân một mình. Chị buồn nhưng không đau khổ, những người đàn ông như Tân cũng như nhiều người đàn ông ở làng không đáng để chị bận tâm. Gió từ mặt sông thổi lên mát rượi làm chị sực nhớ đã đến giờ chị phải đi vào trong làng, đến những nhà có các em bị tàn tật vì chất độc da cam để dạy các em phục hồi việc đi lại và cả học chữ nữa. Chị làm việc này một cách tự nguyện, chị cảm phục trước sự hy sinh của bố mẹ các em, chị thương các em vô tội nhưng vì bị di truyền chất độc da cam từ người bố nên các em bị câm điếc, mù lòa, bại liệt, thần kinh.

Khi Tân về đến nhà thì cũng là lúc giọng nói trong trẻo của chị cất lên:

- Bờ a ba huyền bà!

- Bờ bờ a a ba ba khuềnh bà bà- Con bé Tâm méo mồm đánh vần theo chị. Chị lại kiên trì, từng chữ, từng chữ. Đến lần thứ bảy thì con bé đọc được hẳn chữ bà tròn trịa, chị xoa trán khen nó giỏi lắm. Con bé cười tít mắt. Gọi nó là con bé vì thân hình nó còm nhom, tay bị khòe, mắt trái chỉ là một cái hõm sâu, đầu óc ngẩn ngẩn ngơ ngơ, chứ thật ra nó đã bước vào cái tuổi mười tám; nghĩa là cái tuổi đủ để đi lấy chồng nếu nó không bị nhiễm chất độc da cam từ bố. Bố nó là anh Bấc, anh đi bộ năm 1972, đóng quân ở Quảng Trị. Anh bị nhiễm chất độc da cam do uống nước suối đã bị máy bay Mỹ rải thảm chất độc hóa học. Ngày hòa bình, anh Bấc về quê, anh cưới chị Nhãn, một người con gái khỏe mạnh, đảm đang. Những tưởng hạnh phúc của họ sẽ nhân lên khi anh chị sinh đứa con trai đầu lòng nhưng lên ba tuổi, đứa con đang hồng hào, khỏe mạnh của anh chị bị teo cơ chân, cơ tay rồi nằm liệt trên giường. Đứa con trai thứ hai của anh chị cũng bị bệnh giống như người anh. Anh chị cầu trời, khấn phật xin một đứa con thứ ba khỏe mạnh để có người nối dõi tông đường và chăm sóc hai người anh khi anh chị chết đi nhưng đứa con gái thứ ba là cái Tâm bây giờ.

- Ẹc, ẹc, ẹc!

Tiếng lợn kêu? Không đó là tiếng kêu của người anh cái Tâm báo hiệu muốn trở mình. Chị Nhãn đã ra đồng, còn anh Bấc được giao nhiệm vụ trông con, cậy có chị nên anh tranh thủ cho lợn ăn. Đàn lợn kêu rống lên eng éc, nhảy bổ ra cửa chuồng để chào đón chậu cám của anh Bấc. Ẹc, ẹc, eng, éc, tiếng người và tiếng lợn hòa quyện vào nhau, dội vào trái tim thương người của chị một nỗi nghẹn ngào. Nước mắt chị ứa ra, chị vội đứng dậy đi đến bên chiếc giường kê bên cửa sổ, bế thân hình còm nhom, cứng đơ của người thanh niên đặt nghiêng sang bên trái rồi tiến hành xoa bóp đôi chân teo tóp của cậu.

Có tiếng người ồn ào ở ngoài sân, chị nhìn ra, thấy anh Bấc tay còn đang lấm lem cám lợn dẫn mấy người Việt Nam và một ông người Mỹ đi vào. Bốn người kia là cán bộ của Sở, của Phòng Lao động & Thương binh- xã hội, người phiên dịch và ông chủ tịch xã, còn người đàn ông Mỹ là tiến sỹ Jonh, anh sang Việt Nam để nghiên cứu về ảnh hưởng của chất độc da cam do quân đội Mỹ đã rải thảm xuống Miền Nam Việt Nam. Bố Jonh đã từng là người lính tham chiến ở Tây Nguyên; được tận mắt chứng kiến những cái chết vô tội của người dân và sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn; lại được một người dân cứu sống khi ông bị thương và bị đồng đội bỏ rơi, khi về Mỹ ông mắc chứng bệnh trầm uất. Trước khi chết, ông đã trăng trối với Jonh hãy làm một cái gì đó để tạ lỗi và tạ ơn người dân Việt Nam. Và giờ đây, Jonh đang đứng chứng kiến chị xoa bóp cho người con của anh Bấc. Lúc đầu Jonh tưởng chị là vợ anh Bấc nhưng sau nghe giới thiệu, Jonh à lên một tiếng đầy ngạc nhiên, thán phục.

Một người con gái tuyệt đẹp, đẹp về cả hình thể lẫn nhân cách! Đó là suy nghĩ đầu tiên của Jonh về chị. Jonh hỏi chị rất nhiều về bệnh tình của những người con của vợ chồng anh Bấc. Có sao chị nói thế còn Jonh vừa mở máy ghi âm vừa ghi ghi chép chép. Rồi Jonh chụp ảnh, đủ các góc độ. Trước lúc ra đi, Jonh bất ngờ hỏi chị bằng một câu tiếng Việt lơ lớ:

- Chị...chị có c..ó mong ước gì hông?

Không cần suy nghĩ, chị đáp ngay:

- Em mong ước có một ngôi nhà, có đủ phương tiện để chữa bệnh và phục hồi chức năng cho thanh thiếu nhi bị tàn tật vì chất độc da cam và cả bị bẩm sinh, bị tai nạn.

Jonh khen sáng kiến của chị rất hay rồi hỏi chị tiếp nếu có cái trung tâm đó thì hoạt động thế nào? Suy nghĩ một lúc, chị bảo trước hết phải đi xuống tận những gia đình có các em bị chất độc da cam rồi phân loại bệnh tật, thần kinh, chân tay, câm điếc; tùy theo loại bệnh mà có phác đồ điều trị và phục hồi chức năng riêng. Bệnh của các em là bệnh kinh niên, khó chữa nên ngoài chữa tây y phải trồng cây thuốc đông y trong vườn để chữa lâu dài. Bệnh nhân đông thì cũng nên có sự ưu tiên, em nào gia cảnh khó khăn và có khả năng phục hồi nhanh thì tuyển trước, đợt này ra, đợt khác vào. Ngoài ra cũng cần dậy thêm văn hóa và cả dậy nghề cho những em có khả năng lao động. Nghe chị nói, Jonh liên tục gật đầu. Chiều tàn, Jonh và mọi người ra đi, chị cũng tất tưởi về nhà.

Cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Jonh lùi dần trong tâm trí chị vì chị bận phải cày cấy, chăm mẹ ốm, chăm những đứa trẻ bị tàn tật. Nhưng Jonh thì không quên; dáng hình chị, mong ước của chị mỗi ngày mỗi đầy đặn lên trong tâm trí Jonh. Ngay sau khi về nước, Jonh rút tài khoản cá nhân; đi quyên góp các tổ chức xã hội, các cá nhân có tấm lòng hảo tâm được gần ba trăm ngàn đôla. Jonh bay ngay sang Việt Nam.

Chị đi làm đồng về, thấy chiếc xe hơi sang trọng đỗ ở trước nhà, ngỡ là xe của ai ở thành phố về thăm mộ, nào ngờ Jonh đến. Vừa nhìn thấy chị, trái tim Jonh đã đập mạnh, còn chị thì đỏ mặt khi thấy quần mình xắn cao tít trên đùi. Chị vội vã ra bờ sông rửa ráy chân tay.

Sau vài câu thăm hỏi, Jonh vào cuộc ngay, anh thông báo cho chị biết cái ước mong của chị đã thành sự thật. Tỉnh, huyện, xã đã đồng ý cho xây dựng một khu nhà hai tầng trên diện tích hai ngàn m2 để làm nơi chữa bệnh và phục hồi chức năng cho thanh thiếu niên bị tàn tật do chất độc da cam trong tỉnh và Jonh đề nghị chị làm giám đốc trung tâm.

- Làm giám đốc?- Chị sửng sốt- Tôi chỉ biết cấy cày, trông nom người ốm chứ biết giám đốc là gì?

Jonh bảo anh đã kể về chị cho nhiều người nghe, họ nói nên chọn chị làm giám đốc trung tâm, đây là trung tâm nhân đạo chứ không phải là kinh doanh vì vậy trước hết phải có tấm lòng nhân ái. Còn những việc khác như quản lý con người, tài chính, điều hành các hoạt động, Jonh cũng đã từng làm nhiều giám đốc dự án nên anh sẽ giúp chị. Nếu trung tâm hoạt động có hiệu quả, sẽ có nhiều tổ chức tài trợ thêm. Những cán bộ đi theo cũng động viên chị nên nhận chức giám đốc để giúp đỡ các em bị tàn tật, duy có ông chủ tịch xã là bằng mặt mà không bằng lòng. ai đời lại đi lấy một người có dòng dõi chửa hoang làm giám đốc?

Thuyết phục và chờ đợi mãi, chị cũng chỉ dám nhận chức phó giám đốc trung tâm còn chức giám đốc, Sở Lao động & Thương binh- xã hội tỉnh điều một người thương binh đang công tác ở Sở về làm giám đốc.

Ngày cắt băng khánh thành trung tâm cũng là ngày mà Jonh ngỏ lời cầu hôn chị. Jonh phải chờ đợi và nhằm vào đúng cái ngày trọng đại này của chị để cầu hôn thì mới mong thành công. Sống ở Việt Nam nhiều năm, Jonh hiểu văn hóa tình yêu ở phương Tây có nhiều điểm khác phương Đông. Người phương Tây yêu đương tự do hơn nhưng sự bền vững của tình yêu và tổ ấm gia đình cũng lỏng lẻo hơn; người ta đang trả giá cho cái sự tự do này và đang mong muốn học theo truyền thống phương Đông. Đã nhiều lần Jonh muốn ngỏ lời cầu hôn với chị nhưng Jonh sợ sự vội vã sẽ làm chị nghi ngờ tình yêu của mình. Chị ngượng ngùng đón nhận cái hôn đầu tiên trong cuộc đời. Những lần được cùng Jonh đi xuống cơ sở, chị đã chứng kiến nhiều việc làm bất ngờ của Jonh; Jonh đã từng rửa đít cho một em gái bị liệt trong khi đó những cán bộ của ta đi cùng thì bịt mũi, nôn ọe; Jonh đã từng cõng một em bị sốt chạy bộ hai cây số lênh bệnh viện huyện để điều trị. Jonh cũng hay bóng gió xa xôi với chị rằng, Jonh rất yêu mảnh đất, con người Việt Nam, anh muốn có một người vợ Việt Nam để được gắn bó cả đời với Việt Nam. Nhiều lúc chỉ có hai người, Jonh nắm lấy bàn tay chị, nhìn vào mắt chị chờ đợi. Chị đã yêu Jonh từ những việc làm cao cả của anh; còn mẹ chị thì bảo đấy là cái duyên cái số!

Trước đây mẹ chị và chị chỉ cầu mong có một người làng lấy chị làm vợ có cưới xin hẳn hoi, chẳng cần mâm cao cỗ đầy, vài ba mâm cơm rau dưa mời họ hàng là được; chỉ thế thôi là mẹ và chị đã mãn nguyện lắm rồi. Thế nhưng thanh niên, đàn ông trong làng chỉ thích ngủ mới chị mà không thích hoặc thích nhưng không dám cưới chị vì sợ dư luận. Thế mà Jonh- một nhà khoa học người Mỹ giàu có lại khát khao cưới được chị làm vợ! Chị xúc động lắm, nhưng chị cũng không muốn phải xa cái nơi chôn nhau cắt rốn của mình; nó còn nghèo khó, còn nhiều điều thị phi nhưng chỉ một làn gió đồng quê, chỉ một ánh mắt em thơ trong veo là cõi lòng chị lại yên ả! Jonh hiểu chị, anh bảo nếu chị đồng ý, Jonh sẽ đưa tiền cho chị đứng tên mua một căn nhà trên Hà Nội để tiện cho công tác của anh và sẽ xây cho mẹ con chị một ngôi nhà đẹp nhất làng để ở. Jonh sẽ xin hẳn sang Việt Nam làm việc để cùng chị làm dịu bớt đi nỗi đau của chiến tranh.

Chuyện chị nhận lời cầu hôn của Jonh dù mẹ và chị cố giữ bí mật nhưng rồi cũng nhanh chóng được người làng biết. Thế là làng ầm ầm ĩ ĩ. Như đã nói, nhà chị ở cạnh bãi tha ma, trời vừa nhá nhem tối đã không một bóng người qua lại thế mà bây giờ tối đến, nhà chị lại đầy tiếng trai làng, tiếng những người đàn ông bị góa vợ, bỏ vợ hay bị vợ bỏ. Anh Ninh, một chủ đại lý đồng nát thì tuyên bố sẽ giao cho chị toàn bộ vốn liếng hơn một tỷ để chị quản lý nếu chị đồng ý làm vợ anh. Còn Khảm, người đã từng đi ăn hỏi chị thì quì cả trước mặt chị xin lỗi và hứa nếu chị đồng ý hôm trước, đám cưới sẽ được tiến hành ngay hôm sau tại một khách sạn sang trọng nhất tỉnh! Từ Sài Gòn xa xôi, Tân cũng gửi thư về, Tân bảo Tân đã cưới vợ, một cô vợ con nhà giàu có nhưng cuộc sống như địa ngục; ngày nào Tân cũng mơ tưởng đến chị và nếu chị đồng ý, Tân sẽ ly dị vợ, về quê cưới chị rồi đưa chị và mẹ vào Sài Gòn sinh sống. Chị từ tốn chối rằng, chị rất cảm ơn tình cảm của mọi người dành cho chị nhưng tiếc rằng chị đã nhận lời cầu hôn của Jonh.

Kìa! ai như Jonh đang về làng! Đúng là Jonh, anh đang vừa lái xe vừa ngọng nghịu hát bài Việt Nam quê hương tôi. Jonh đang tràn đầy hạnh phúc vì chiều qua, chị gọi điện thoại thông báo cho Jonh biết rằng, sau cái lần chị dâng hiến cho Jonh, chị đã mang thai. Jonh về làng để bàn với chị, tuần tới anh vào Quảng Trị nghiên cứu ảnh hưởng của chất độc da cam đối với hệ sinh thái trên những vùng đất bị máy bay Mỹ rải chất độc hoá học, sau đó sẽ quay ra, cùng chị đi làm thủ tục đăng ký kết hôn trên Sở Tư pháp tỉnh rồi tổ chức đám cưới ngay tại cái trung tâm mà hai người đã khai sinh. Chiếc xe hơi vừa chớm đến cổng làng thì có hai người ra chặn lại. Jonh xuống xe, một người đàn ông dáng phong độ nói:

- Ông Tây đừng lấy con ấy, nó là con hoang, mẹ nó cũng là con hoang đấy!

Người thanh niên trẻ dịch sang tiếng Anh. Jonh mỉm cười, bước lên xe. Người đàn ông kéo tay Jonh lại:

- Nó đã ngủ với tao và nhiều đàn ông trong làng, phải đi nạo thai mấy lần rồi, không có con được nữa đâu!

Đến lúc này thì Jonh không nhịn được nữa, anh nổi cáu, người thanh niên liến thoắng dịch:

- Tại sao người Việt Nam cứ hay đi nói xấu, ganh tỵ với nhau? Phải nhìn lên để phát triển chứ!

Người đàn ông cúi mặt. Jonh bước vào xe, đóng sầm cửa. Chiếc xe không còn phải đi qua bãi tha ma nữa vì Jonh đã xây cho mẹ con chị một ngôi nhà ngay trên nền đất ngôi nhà ở rìa làng mà mẹ chị đã đốt năm nào. Theo nguyện vọng của chị, Jonh từ bỏ việc xây ngôi nhà đẹp nhất làng mà chỉ xây ngôi nhà ba tầng xinh xắn, số tiền còn lại ủng hộ cho quĩ xóa nhà tranh vách đất của xã.

Vào ngày thứ năm, sau khi Jonh vào Quảng Trị, mắt phải chị máy liên tục, tâm can chị bỗng dưng xáo động cứ như thể có ai đó đang nhắc đến mình. Chị chẳng làm được gì, gọi điện thoại di động cho Jonh thì không có tín hiệu, chị đang định phóng xe lên Sở Lao động & thương binh xã hội hỏi xem thì một chiếc ôtô con đã đỗ xịch bên cổng trung tâm. Jonh đã về ? Chị chạy bổ ra, ba người đàn ông đi vào với nét mặt lo âu, họ thông báo cho chị cái tin sét đánh, trong lúc lấy mẫu đất để nghiên cứu, một quả mìn của Mỹ còn sót lại đã phát nổ cướp đi sinh mạng của Jonh. Chị loạng choạng, ngã vào chiếc ghế, khóc nấc nâng từng hồi. Mất ba ngày nằm bẹp giường, chị mới gượng dậy được, mẹ chị xót xa:

- Con ơi! Lại không chồng mà chửa, hay là con đi nạo thai !

Chị lắc đầu:

- Không, đứa con trong bụng con là đứa con có giá thú- giá thú của tình yêu vĩnh cửu, con sẽ sinh nó, nuôi nó lớn khôn để nó tiếp tục con đường mà cha nó còn dang dở. 

Chị đứng dậy bước ra ngoài sân, nắng ban mai đang tràn ngập làng quê yên tĩnh.

…Tiền sự! 

Mỗi lần nghe thấy ai nhắc đến cụm từ: Tiền án, tiền sự…là tôi cứ muốn cãi lại. Bởi theo tôi, là phải nói: Tiền sự, tiền án…thì mới đúng. Cái lý mà tôi đưa ra đơn giản là như thế này: Ai đó đã làm một việc gì không đúng pháp lý hay đạo lý, thì bị đưa ra tòa xét xử. Tùy theo sự sai sót đến đâu, thì tòa tuyên án đến đó. Nghĩa là nhất định phải có SỰ trước, mới có ÁN sau. Vậy Tiền sự…Tiền án là phải đạo! Nhưng thôi, chuyện đó khi nào có dịp, tôi sẽ viết hẳn một tham luận hẳn hoi, gửi lên tận bộ Tư pháp đề nghị sửa đổi cụm từ này. Còn bây giờ, tôi phải trở lại Tiền sự…của tôi, kẻo mọi người lại cho là đồ rỗi hơi, hoặc cầm đèn chạy trước ô tô…tóm lại là dở hơi…cũng nên. 

Tôi đồ rằng, tất cả mọi người chúng ta, thuở thiếu thời đều có…Tiền sự  cả. (Nếu ai đó phản đối điều này, thì tôi cũng xin lỗi, nhưng trong thâm tâm, có đánh chết, tôi cũng cứ tin như thế.) Tất nhiên, những tiền sự mà tuổi thơ chúng ta mắc phải, có thể là chưa đến mức phải đưa ra tòa, nhưng mỗi khi nhớ lại cũng thấy hơi mắc cỡ một chút. (Mà nói theo tiếng của người Huế, tôi cho là rất hay và rất lạ. Âý là: Ốt dột…Cứ mỗi lần nghe hai tiếng này, tôi cứ thấy gai gai ở sống lưng). Có thể đó là những lần ta nói dối cha mẹ, thầy cô. Có thể đó là những lần ta lấy trộm một thứ vặt vãnh gì đó mà không ai biết, hoặc bị bắt quả tang, nhưng được khổ chủ tha cho...Mọi Tiền sự ấý, tưởng như chúng ta lãng quên, nhưng thực ra chúng mãi mãi nằm trong hành trang, đi theo cùng ta trong suốt cuộc đờì. Nhiều khi nó đóng góp rất tích cực vào sự hoàn thiện nhân cách của con người, nếu những tiền sự ấy được nhìn nhận dưới những ánh mắt hiểu biết, bao dung và những tấm lòng cảm thông, yêu thương, vị tha của người lớn.

Tôi sinh ra và lớn lên ở một xóm nhỏ vô cùng nghèo khó, giữa vùng đất đồng chiêm trũng Bắc Bộ. Cùng trang lứa với tôi có đến chục thằng con trai. Chúng tôi nghịch ngợm, phá phách thì quỷ còn lè lưỡi, đứng từ xa mà nhìn. Mọi người trong xóm gọi chúng tôi là: Bọn giặc cỏ. Cái thời cách đây gần nửa thế kỉ, chúng tôi đi học rất chi là nhàn nhã. Mỗi thằng chỉ vài ba cuốn vở, ba thằng chung nhau một bộ sách giáo khoa. Chỉ học một buổi, còn một buổi tha hồ đi chơi, đá bóng hoặc chăn trâu, chăn vịt, cắt cỏ, bắt cua, mò cá…nô đùa thỏa thích. Trong vô vàn những kỉ niệm tuổi thơ ấy, có một kỉ niệm tôi không thể nào quên. Bởi nó là một kỉ niệm vô cùng đặc biệt, và tôi liệt nó vào hạng…Tiền sự trong tuổi thơ của mình.

Dạo đó, tôi luôn là thủ lĩnh của đám giặc cỏ trong xóm. Mà đã là thủ lĩnh thì phải luôn nghĩ ra những trò hấp dẫn, mới lạ bọn thuộc hạ mới phục. Nhưng tôi chỉ là con cháu ngàn đời của cụ Đinh Bộ Lĩnh nên chỉ nghĩ ra toàn những trò nghịch ngợm dại dột. Đại loại như chia đám giặc cỏ ấy ra làm hai phe, mỗi phe chiếm một phía của bãi tha ma rồi tấn công nhau, bằng những cục đất vẫng cầy cứng như đá. Kết thúc cuộc chiến, mỗi phe thế nào cũng có vài thằng u đầu sứt trán. Những chiến binh này, nhất định sẽ còn phải nhận vài cán quạt nan vào đít, khi chúng chiềng cái mặt thâm tím ấy ra trong bữa cơm cùng gia đình, vì không sao giải thích một cách lọt tai, cái nguyên nhân xuất hiện những vết thương đó. Chiến tranh mãi thì cũng phải hòa bình. Chúng tôi đã chán trò ném nhau, và muốn tìm kiếm những trò chơi khác. Cái này là nhiệm vụ của tôi, trách nhiệm thiêng liêng và cao cả của một thủ lĩnh…

Nằm sát cạnh nhà tôi, là nhà ông Th làm nghề thợ may. Ngôi nhà ba gian, tường xây gạch, mái lợp ngói của ông lúc đó, đối với chúng tôi tựa một biệt thự tráng lệ. Ông chắc chắn là người giàu có và hiểu biết nhất xóm tôi lúc đó. Bằng chứng là ở gian nhà trong cùng, ông treo toong teng cái xe đạp (Cứ như ông nói là của Pháp và lúc đó cả xóm tôi chỉ có cái đó là duy nhất) lúc nào cũng láng coong, sạch như lau như lia. Trên khung xe treo một tấm biển đăng kí hình chữ nhật màu trắng có đến mấy con số màu đen. Ông Th bảo đó là “cái chứng minh thư” của xe đạp. (Chúng tôi cũng gật gù ra vẻ biết, chứ thực ra chúng tôi chả hiểu chứng minh thư nghĩa là gì !!!) Cái chúng tôi thích nhất vẫn là cái chuông xe, chỉ cần bấm nhẹ, là nó ngân lên kính coong… du dương như một bản nhạc. Trên tường nhà ông, treo nhiều tấm ảnh mà chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ. Ấy là những tấm ảnh chụp khi ông đứng trước cổng chợ Bến Thành, bên hồ Hoàn Kiếm… Còn tấm ảnh bán thân ông mặc com-lê, đầu đội mũ phớt, tay cầm điếu thuốc lá, mắt đăm chiêu nhìn khói thuốc ngoằn ngèo bay lên, thì y hệt một minh tinh màn bạc nổi tiếng vậy. Những bức ảnh ấy, ông bảo là ông chụp tại Sài Gòn, Hà Nội đầu những năm năm mươi. Cứ như cách Mẹ tôi nói: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn…thì ông hẳn là một người từng trải, lịch lãm khôn ngoan có thừa. Tuy vậy ông lại rất thích và quý bọn giặc chúng tôi. (Chắc ông không có con trai nên ông quý chúng tôi cũng nên. Ấy là tôi nghĩ vậy).Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn kéo cả lũ đến nhà, xem ông may quần áo, xin ông cho mỗi đứa bấm chuông xe đạp một lần, rồi thu nhặt những miếng vải đầu thừa đuôi thẹo, bó lại thành quả bóng, mang ra sân đình tranh cúp. Một lần, thấy chúng tôi kéo đến, ông ngừng chân đạp máy, lôi trong cái túi vải treo trên cánh tủ một quả bóng cao su đỏ au, to bằng quả bưởi rồi nói:

- Đây! Tặng cho bọn giặc cỏ quả bóng cao su thiệt. Tha hồ mà đá nhé.

Lần đầu tiên, chúng tôi chứng kiến quả bóng bằng cao su hẳn hoi. Từ xưa tới giờ, chúng tôi toàn đá những quả bóng bằng vải, hoặc bằng những quả bưởi nướng lên, nên bây giờ mục kích quả bóng bằng cao su, chúng tôi không tin vào mắt mình nữa. Cả bọn chuyền tay nhau quả bóng, sờ sờ, nắn nắn rồi đưa lên mũi hít hà. Chà! quả bóng mới thơm làm sao!!!

- Ông cho chúng cháu thật ạ! Tôi rụt rè hỏi?

- Ừ! Ông mất cả buổi chiều hôm qua, tìm hết cả thành phố Nam Định, mới mua được quả bóng này cho các anh đấy.

- Chúng cháu cảm ơn ông ạ! Bọn tôi nhao nhao cảm ơn, rồi ném quả bóng xuống sân nhà ông đá thử.

- Ấy khoan đã!

Ông giơ tay ngăn chúng tôi lại, rồi chỉ vào tôi nói:

- Anh cu L vào đầu giường, bê cái hộp giấy ra đây cho ông!

Theo tay ông chỉ, tôi tìm ngay được cái hộp giấy mà ông đã nói, bê ra sân. Cả lũ chúng tôi vây quanh lấy cái hộp, phấn khích đến vô cùng. Ông từ từ mở nắp hộp, tôi thấy mấy gói kẹo lạc, hàng chục quả cam mọng căng.

-  Liên hoan hả ông???…Tôi hỏi trong trạng thái gần như là ngộp thở!!!

- Có bóng mới thì phải liên hoan chứ. Đây là kẹo lạc ông mua ở phố hôm qua, còn đây là cam ông hái trong vườn nhà. Các anh mang ra sân đình liên hoan, rồi đá bóng. Bây giờ ông phải làm việc.

Chúng tôi tranh nhau cảm ơn ông rối rít, rồi rầm rập chạy ra sân đình cứ như đi cứu hỏa vậy.

Cuộc chơi với quả bóng cao su phải kéo dài hàng tháng. Suốt thời gian đó, chúng tôi không còn thiết tha với bất kì trò gì khác. Hễ rảnh lúc nào là chúng tôi tập trung đá bóng lúc đó. Nhiều khi chỉ có hai đứa, cũng chia đôi đá chí tử. Chúng tôi càng đá thì càng khỏe, nhưng quả bóng thì mỗi ngày lại tả tơi thêm một ít. Cái gì thì cũng có giới hạn cả. Qủa bóng cao su quý giá của chúng tôi cũng thế. Một buổi chiều, khi hiệp một của trận đấu đang ở tỷ số 0 – 1 (nghiêng về đội bên kia) thì xảy ra sự cố. Khi tôi dẫn bóng đến trước khung thành của đối phương, thì thằng B hậu vệ, xông thẳng vào tôi với một cú ngáng chân như trời giáng.Tôi ngã lộn đến mấy vòng.Tất nhiên là một quả phạt đền trực tiếp xuất hiện. Cay cú vì đang thua và nhất là vì cái ngáng chân kia, tôi đã sút quả phạt với một một sức mạnh kinh hoàng. Không biết là vận tốc quả bóng đạt mấy mét một giây, mà thằng T, thủ môn của đối phương chỉ biết đứng há hốc mồm, nhìn quả bóng bay vút vào gôn như một tia chớp, và đập vào tường nghe” bốp” một phát, y hệt tiếng đập của một cục đá vậy. Cả đội tôi nhảy cỡn lên vì quả gỡ hòa 1-1 vô cùng ngoạn mục. Nhưng niềm vui sướng của chúng tôi chưa kéo dài được mấy giây, thì đã bị tiếng thét thất thanh của thằng T thủ môn, dập tắt trong chớp mắt:

- Vỡ rồi!!!

- Vỡ cái gì??? Tất cả chúng tôi như đồng thanh hỏi cùng một lúc rồi chạy dồn về phía nó.

- Bóng vỡ rồi!

Tất cả chúng tôi đứng chết lặng. Thằng T giơ quả bóng lên cao. Qủa bóng gần như rách đôi. Chúng tôi chuyền tay nhau vĩnh biệt quả bóng vỡ, với tất cả nỗi buồn thê thảm. Kỉ nguyên bóng cao su đã chấm dứt. Ngày mai chúng tôi lại trở về với những quả bóng bưởi và bóng vải…muôn năm cũ.

Trong thời khắc đen tối ấy, trong đầu tôi bỗng lóe một quyết định:

-  Tối mai, bọn mình sẽ chơi trò: Đưa ma quả bóng. Thằng T chuẩn bị đào huyệt cho quả bóng ngoài ruộng mạ. Thằng B thì chuẩn bị 10 cái thăm.

Cả bọn nhao nhao bàn tán, nhưng cuối cùng cũng thống nhất một trăm phần trăm. Cái trò “đưa ma” của chúng tôi rất đơn giản. Một thằng giả vờ chết, nằm thẳng đơ trên mặt đất, hai tay chắp lên bụng. Chín đứa còn lại thì bố trí đội hình như sau: Một đứa nâng đầu, chia mỗi bên bốn đứa, đứng đối xứng với nhau. Tất cả chỉ dùng một ngón tay trỏ bên phải để nâng thằng chết. Chuẩn bị nâng, thì đứa khênh phía đầu thằng chết, quay sang phía tay phải hỏi thầm: Ông đi đâu đấy? Đứa được hỏi trả lời: Tôi đi đưa đám đây. Cứ lần lượt hỏi đáp vô cùng trang nghiêm như thế cho đến hết. Khi thằng cuối cùng vừa trả lời dứt, thì đồng loạt nâng thằng chết lên, im lặng di chuyển đến chỗ gọi là lỗ huyệt thì hạ xuống. Trò chơi nàỳ, chẳng thằng nào muốn làm thằng chết, rất hay cãi nhau, nên phải sinh ra trò bốc thăm là như vậy. Tối mai, thằng nào bốc phải lá thăm ghi chữ “chết” thì sẽ đặt quả bóng lên ngực để khênh đi.

Đang định giải tán ra về thì thằng B đột ngột nêu ra một câu hỏi:

- Thế mai chôn quả bóng thật, mà lại không có lễ gì à?

Một câu hỏi thật khó trả lời. Cả bọn bàn đi tính lại, rốt cuộc cũng chẳng nghĩ được cái chi. Gần hai chục con mắt tự dưng chăm chú nhìn vào tôi. Tôi hiểu ngay là chúng muốn gì! Giữa phút gay cấn đó, tự nhiên hình ảnh những quả cam căng mọng trong vườn nhà ông Th thợ may hiện ra thấp thoáng trong đầu tôi. Nhưng lập tức tôi vội xua chúng đi. Một cảm giác tội lỗi dâng lên làm tôi tự nhiên toát cả mồ hôi trán. Thật xấu hổ, nếu mò vào vườn vặt trộm mấy quả cam, mà ông Th tóm được…thì chỉ có cách là độn thổ, chứ làm sao mà còn có thể vác mặt nhìn ông được. Bí quá, tôi đành phải nói thật với cái lũ đang dương mắt nhìn tôi kia:

- Tao vừa nghĩ là đêm nay lủi vào vườn nhà ông Th, vặt trộm mấy quả cam để tối mai làm lễ. Nhưng tao sợ, ông ấy mà tóm được thì chết bỏ mẹ!!!

Nghe tôi nói, bọn chúng không nhìn tôi nữa mà quay sang nhìn nhau, có vẻ suy nghĩ lung lắm. Thấy bọn chúng im lặng, tôi bàn lùi luôn:

- Thôi không cần lễ nữa, chôn quả bóng không cũng được!

Chẳng thấy thằng nào nói gì, tôi đang định thở phào thoát nạn, thì thằng B thủng thẳng lên tiếng:

- Mày sợ, thì cùng chúng nó chờ bọn tao ở đây. Chín giờ tối tao, với thằng T sẽ bơi qua ao vào vặt. Lúc đó ông ấy đang mải nghe Ga-len… tiếng thơ, làm sao mà biết được!!!

Trời ơi, cái thằng thiên lôi đả này, lúc nào nó cũng muốn ngáng chân tôi cho bằng được!!! Nó định làm mất uy tín thủ lĩnh của tôi đây! Tôi bực bội nghĩ bụng. Nhưng cách phân tích của nó cũng chấp nhận được. Thời chúng tôi, chín giờ tối đã khuya lắm rồi. Lúc đó, trên sóng đài tiếng nói Việt Nam thường là chương trình “Tiếng thơ”. Xóm tôi lúc đó, không nhà nào có rađiô, chúng tôi biết được điều này cũng chính nhờ cái Ga-len của ông Th. Bây giờ nói đến hai từ Ga-len (hoặc là đại loại như thế…tôi chỉ nghe người ta nói mang máng như vậy rồi phiên âm ra đây, chứ đích thị viết như thế nào, thì tôi chịu!) chắc chẳng mấy ai còn nhớ. Nó như thế này: Người ta căng một sợi dây kim loại dài khoảng 15 đến 20 m qua hai cái cột cao, rồi dùng một dây kim loại khác nối từ dây kim loại trên cao xuống nhà. Cái dây ấy nối vào một đầu cục sắt hình hộp chữ nhật đen sì (nó là cái gì chúng tôi không biết) rồi đầu bên kia cắm một cái tai nghe có hai núm đen nhỏ. Khi nghe, đút hai cái núm đó vào hai tai, nghe được đài. Lúc đó có trống đánh bên tai cũng chẳng nghe thấy gì…Thằng cu B cũng có lý. Thôi thì một liều ba bẩy cũng liều, nếu không tham gia với cái thằng thiên lôi đả này, kể ra cũng mất uy tín thủ lĩnh thật.

Sau một hồi suy sét, tôi quyết định:

-  Thôi được. Tất cả chúng mày về nhà đi. Chín giờ tối, tao với thằng B, thằng T sẽ tìm cách. Mà mỗi thằng chỉ vặt một, hai quả thôi, đừng tham mà chết…

Tôi cố gìm sự ham hố của hai thằng kia lại.

 Sau bữa tối, chờ cho mẹ tôi nấu xong nồi cám lợn (ngày nào mẹ tôi cũng làm công việc cuối cùng này vào tầm chín giờ đêm) tôi định đi tìm thằng B và thằng T, thì đã thấy chúng thấp thoáng ngoài ngõ nhà tôi.

Nhà ông Th quay mặt về hướng Nam. Trước nhà ông là cái sân đất nhỏ rồi đến khoảnh vườn có năm sáu cây cam sai trái. Tiếp theo là một cái ao hình chữ nhật, chiều ngang khoảng 20m, bờ ao phía ngoài là những bụi tre um tùm. Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ bí mật từ những bụi tre bên kia bơi qua ao, sang vườn nhà ông Th để trộm cam. Trời đêm cuối tháng tám không có trăng nhưng đầy sao, cộng với những đôi mắt sáng như mắt mèo của chúng tôi, nên không có cảm giác chi là tối. Chúng tôi nhẹ nhàng bơi qua ao, rồi leo lên vườn êm như bọn nhái bén. Gặp cây cam đầu tiên, thằng T xăng sái sờ lần, bứt ngay một quả và dúi vào tay tôi. Cầm quả cam trên tay, tôi biết ngay là cây này chưa ăn được, khô mà ít nước. Tôi kéo hai thằng lại gần nói thầm:

-  Cây này chưa ăn được, cây ở gần bể nước là quả ngon nhất.

Hai thằng tuân lệnh, chúng tôi nhằm cây cam phía bể nước dò dẫm đi tới. Mới bước được một hai bước, tôi bỗng thấy một tia sáng chói ngời, như một ánh chớp từ phía bể nước chiếu thẳng vào chúng tôi trong tích tắc rồi vụt tắt. Chúng tôi nằm rạp xuống đất, ba hồn bẩy vía bay đi đâu hết!!!

- Cu L, cu B, cu T phải không? Đứng yên đấy, để ông ra soi đèn cho mà đi. Cẩn thận không chết đấy.

Chúng tôi không còn ý thức được cái gì đang xảy ra, cứ răm rắp làm theo lời ông Th. Sau khi ba thằng chúng tôi đã yên vị ngồi xuống giữa sân, dúm dó như ba cái xác không hồn, ông vỗ vai tôi hỏi nhỏ: 

- Bọn giặc cỏ muốn ăn cam phải không?

Tôi như bừng tỉnh sau một chuyến mộng du, xấu hổ không để đâu cho hết, lí nhí trả lời:

- Dạ …không ạ…chúng cháu chỉ ….

Tôi muốn giải thích cái lí do bắt buộc chúng tôi đến trộm cam của ông chỉ là để làm lễ an táng quả bóng mà thôi, chứ chúng tôi không cố ý… nhưng lúc ấy làm sao mà cất lời lên được.

- Ông hiểu rồi. Lần sau cần, cứ đến xin ông hái cho. Lúc nãy chúng mày làm ông sợ vỡ cả tim. Trưa nay, ông mới tôi một hố vôi, ngay sát cây cam cạnh bể nước, vẫn còn sôi ùng ục. Ông có che mấy lá cót lên trên, phòng chó mèo sa xuống. Chúng mày không biết, cứ bước lên... thì ông chết mất!!!

Nghe ông nói mà tôi lạnh toát cả người. Biết là chúng tôi đang sợ và ngượng, ông cười nói:

- Thôi, bây giờ ổn rồi, đừng sợ nữa. Ông tha cho. Giờ ông soi đèn pin, ba thằng vào cây sát bể nước vặt lấy mười quả. Nhớ là phải vặt những quả ở cành la mới ngọt.

Chúng tôi không hiểu những điều mình đang nghe, không biết những gì sắp xảy xa, nên  cứ đứng ngây thổ địa như phỗng vậy. Thấy bộ dạng buồn cười của bọn tôi ông khích bác:

-  Các anh lúc bình thường thấy oai hùng lắm cơ mà, sao bây giờ trông giống như ba con gà rù vậy?  Dạo bằng tuổi các anh, bọn ông cũng nhiều lần chui vào vườn cụ Ba đầu làng vặt trộm mít. Một lần bị cụ bắt được, đã không bị đánh mà cụ còn vào nhà xách ra cho một quả mít to tướng thơm nức, bảo mang ra sân đình mà ăn. Lần sau nếu thèm cứ vào xin, chứ đừng leo lên hái trộm, nhỡ gẫy cành rơi xuống, gẫy chân gẫy tay thì khốn! Từ đấy bọn ông không đi ăn trộm nữa. À, cái này là bí mật giữa mấy ông cháu mình thôi, đừng kể cho ai biết nghe không?

Ông thì thào nói với chúng tôi như thể đồng đảng vậy. Tâm sự của ông rất ngắn, nhưng lập tức đánh tan mọi nghi ngờ trong tôi. Biết là ông thật lòng tha thứ, và thông cảm tôi mạnh dạn nêu thắc mắc mà từ nãy đến giờ tôi không sao lí giải được:

- Sao ông tài thế, tối thế này mà cũng biết bọn cháu vào trộm cam, lại đứng đợi sẵn cạnh hố vôi vậy???

Ông không trả lời ngay, mà hỏi ngược lại:

- Thế anh cu nào bẻ quả cam đầu tiên?

- Cháu ạ…Thằng T sốt sắng trả lời.

- Ờ…Trời tối thế này, làm sao ông trông thấy các cháu. Ông lại đang nghe tiếng thơ nên cũng chẳng thấy tiếng động gì. Nhưng đang có gió nồm nam, khi cu T bẻ quả đầu tiên, là gió đã đưa hương cam vào mũi ông rồi. Ông biết là thế nào các cháu cũng vào bẻ cam ở cây ngon nhất cạnh hố vôi, nên vội ra chờ sẵn ở đây thôi, tài tình cái gì…

Trời ơi! Ông đã nhận ra chúng tôi bằng mũi. Tôi biết tạ ơn ông, tạ ơn những cơn gió nồm nam và mùi hương của những quả cam quê tôi như thế nào đây cho phải! Nếu như không có chúng báo cho ông sớm, biết đâu chúng tôi đã tự sa xuống cái hố vôi nóng như núi lửa kia, không chết thì cũng tàn phế suốt đời rồi cũng nên.

Ông Th đã quy tiên từ lâu lắm rồi. Bây giờ tôi cũng đã gần bằng tuổi ông khi đó. Nhưng khi đang viết những dòng này, tất cả mọi thứ ngỡ như chỉ mới hôm qua. Đã bao lần tôi cứ tự hỏi: Có thật là lúc bé, ông Th và các bạn của ông cũng đi ăn trộm giống chúng tôi không? Chẳng còn ai có thể trả lời được câu hỏi ấy nữa. Nhưng có hay không thì bây giờ, có nghĩa gì nữa đâu. Cái ý nghĩa lớn nhất, là ông đã kể về cái Tiền sự…của ông vào thời khắc quan trọng nhất, nó như một cái phao cứu sinh được ném ra đúng vào lúc, chúng tôi sắp bị con sóng đầu tiên của tội lỗi cuốn đi. Viết đến đây, tự nhiên tôi nhớ đến một câu trong bài hát Để gió cuốn đi…của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn: Sống trong đời sống cần có một tấm lòng…Tôi thật may mắn đã được gặp một trong những tấm lòng nhân ái ấy, để quả cam trong Tiền sự…của tôi mãi mãi ngọt ngào thơm ngát, bởi nó không kéo theo hai từ Tiền án…đi cùng.

Chị Đào - Nguyễn Quang Lập

[20.09.2012 02:51]

Năm 1981 mình đóng quân ở đảo Cái Bầu (Quảng Ninh). Đảo Cái Bầu to đùng gọi là huyện đảo, chẳng thấy đâu “sóng biển dập dìu”chỉ thấy rừng là rừng. Cuốc bộ 25 cây số mới tới nơi đóng quân, đấy là sáu quả đồi nằm giữa âm u rừng già, buồn ơi là buồn. Sống đấy chỉ giải khuây bằng việc mang gạo vào nhà dân đổi chó đem về mổ thịt nhậu chơi. Mình với thằng Quí kết với nhau đi đổi chó mười mấy bản quanh khu vực đóng quân.

Thằng Quí  ở đại đội bộ, to cao phốp pháp như Tây, nó là giống tây lai dù bố mẹ nó đều người Việt. Nó kể ông nội nó là lính lê dương, hiếp bà nội nó đẻ ra bố nó.  Bố nó rất thuần Việt, chẳng lai tây chút nào nhưng đến thế hệ F2 là nó lại lai tây. Hồi nầy Tây có nghĩa là Liên Xô, các đơn vị tên lửa thường có chuyên gia Liên Xô về làm việc nên bất cứ ai nhìn thấy nó đều đinh ninh là chuyên gia Liên Xô.

 Cứ chiều thứ bảy nó đeo giày Ko Sơ Gin ( hay là giày gì đó  không nhớ, cũng chẳng nhớ nó kiếm đâu ra giày sĩ quan Liên Xô rất xịn đó), khoác cái áo bay Liên Xô cùng mình vác một, hai yến gạo đi về mấy bản gần đấy. Nói là gần chứ cũng phải đi chừng năm bảy cây số mới tới nơi. Tất nhiên mình vác gạo, nó đi không. Chuyên gia Liên Xô ai lại đi vác gạo, hi hi.

Nhác thấy nhà nào có con chó nào thịt được, hai thằng rẽ vào. Nó cười rất tươi, cúi chào rất lễ độ, nói rốp rít xốp xít. Tiếng Nga nửa tiếng nó chẳng biết, cứ rốp rít xốp xít loạn cả lên. Mình cũng “dịch” loạn cả lên, miệng mồm  như tép nhảy, nói đồng chí chuyên gia Liên Xô kính chào bố mẹ, chúc bố mẹ sức khỏe. Nó đế thêm cái tiếng Việt  ngọng của Tây, nói án khang thính vướng. Bố mẹ thích lắm, đón tiếp rất niềm nở, có gì ăn được trong nhà đem ra mời hết.

Thằng Quí nhìn con chó rất âu yếm nói một tràng rốp rít xốp xít. Mình dịch ngon trớt, nói đồng chí chuyên gia rất thích con chó này. Nó đế thêm, nói cón chò đép làm.  Mình nói người nước ngoài coi chó như bạn, sang đây không có bạn, đồng chí chuyên gia buồn lắm. Nó đế thêm, nói buốn làm buốn làm. Mình nói đồng chí  chuyên gia rất muốn mua con chó này nhưng đồng chí chuyên gia chỉ có tiền Liên Xô không có tiền Việt, không biết bố mẹ có đồng ý đổi gạo không. Bố mẹ nghe nói vậy thì ok liền, nói đồng ý đồng ý, ưu tiên đồng chí chuyên gia Liên Xô. Nó liền bắt tay bố mẹ, nói càm ớn bò mè càm ớn bò mè.

Xong việc, “đồng chí chuyên gia” tay không túc tắc đi về, “đồng chí phiên dịch” phải vác bao tải chó lúc cúc chạy theo sau, mệt bỏ mẹ nhưng chẳng dám kêu một tiếng. Hi hi. Nói chung khi “đồng chí chuyên gia” đã ngỏ lời đổi gạo lấy chó, nhà nào cũng vui vẻ ok. Có nhà tặng luôn con chó cho đồng chí chuyên gia không lấy một cân gạo. Duy nhất có một nhà bóc mẻ được thằng Quí là ông Liên Xô dởm, ấy là nhà chị Đào.

Năm đó chị Đào hai sáu tuổi, hơn tụi mình hai tuổi, xinh nhất bản ( bản gì cũng quên mất rồi). Tụi mình vào nói chuyện với bố mẹ, chị đứng nép vách buồng nghe lén, thỉnh thoảng nhóng cổ ra cười khúc khích, lúm đồng tiền sâu hoắm, tròn vo. “Đồng chí chuyên gia” thấy người đẹp thì ngẩn ngơ, mặt đực như ngỗng ỉa, mình phái hích cùi chỏ mấy lần nhắc nhở. Đến đoạn mình nói “đồng chí chuyên gia rất muốn mua con chó này nhưng đồng chí chuyên gia chỉ có tiền Liên Xô không có tiền Việt, không biết bố mẹ có đồng ý đổi gạo không” thì chị cười ré lên, nói tiền Liên Xô cũng được, đem tiền Liên Xô đây. Thằng Quí mặt tái như đít nhái. Mình giả bộ rốp rít xốp xít với thằng Quí rồi quay lại “dịch” cho chị , nói vì không nghĩ bố mẹ cần tiền Liên Xô nên đồng chí chuyên gia không mang tiền theo. Thằng Quí mừng quá, nói đùng rói đùng rói. Chị Đào cười ngất, nói thôi đi chú Quí chú Lập ơi. Chị biết các chú là ai rồi.

Té ra chị Đào là vợ anh Chiến lái xe cùng sư đoàn. Hôm liên hoan văn nghệ sư đoàn, tụi mình lên sân khấu hát hò chị có đến xem. Thằng Quí còn diễn kịch, thủ vai phi công Mỹ, làm sao chị không nhớ. May quá. Bố mẹ chị biết hai thằng cùng đơn vị anh Chiến nên cười xòa, cho luôn con chó, còn mời hai thằng ở lại ăn cơm. Bây giờ mới biết chị Đào là con dâu, quê chị ở Thái bình theo anh Chiến về đây đã sáu năm. Thằng Quí tiếc ngẩn ngơ, giá chị chưa chồng thế nào nó cũng sẵn sàng “ chết” với chị. Nó là giống tây lai muốn “chết” với cô nào mà chẳng được, hi hi.

Đang bữa cơm chợt nghe mấy tiếng è è ó ó. Chưa kịp định thần là tiếng gì thì chị Đào chạy vào buồng bế ra chú bé 4 tuổi. Hai thằng nhìn chú bé hết muốn ăn, sợ chết được. Chú bé bị liệt, hai chân mềm nhũn như là không có xương. Mặt như người bị down mắt ếch miệng cá ngão. Cái cổ nhỏ như cổ tay trong khi cái đầu to đùng, trán dô tai tóp. Chị Đào nhìn tụi mình tươi tỉnh, nói các chú cứ ăn đi, đừng sợ. Bố cháu bị nhiễm chất độc da cam hồi ở rừng Trường Sơn, sinh cháu ra đã thế này rồi. Bác sĩ khuyên nên bỏ đi nhưng chị không chịu, dù sao cũng là con mình, nó ra giống gì vẫn là con mình, có phải không các chú?

Chị lấy cháo đút cho thằng bé, cứ đút thìa nào là nó phun ngược ra thìa đó, mặt chị dính đầy cháo. Thằng Quí há hốc mồm, nói sao thế, cháu nó ăn kiểu gì thế? Chị cười, nói cháu ăn cơm không được, nó không biết nhai, có khi phải đút cháo cả đời. Nhưng đấy là chuyện nhỏ, cái chính là cháu lẫn lộn giữa nuốt vào và phun ra. Cho cháu ăn một bát cháo có khi mất cả chục bát. Xong bữa  mẹ con như trâu lấm. Cứ tưởng chị kể xong là òa khóc hóa ra không, chị cười rất tươi như  vừa kể một chuyện gì vui lắm. Bố mẹ chồng nghẹn ngào, nước mắt dàn dụa, chị thì cười rất tươi, đôi mắt đen nhánh lóng lánh, đôi lúm đồng tiền tròn vo. Lạ quá.

 Sau bữa cơm nhà chị Đào mình không gặp chị lần nào nữa. Tháng sau mình được quân chủng điều về Đà Nẵng, từ đó đến nay di chuyển chỗ ở ba bốn nơi, chẵn ba mươi năm thỉnh thoảng vẫn tính về thăm lại đảo Cái Bầu nhưng chưa một lần thực hiện.

 Năm ngoái thằng Sơn (Nguyễn Thanh Sơn) rủ bạn bè về Đà Nẵng chơi, gọi là kỉ niệm hai năm ngày cưới nó với Hồng Ánh. Hai năm chỉ vỡ có ba chồng bát với hai cái mobile gọi là thành công rực rỡ, hi hi. Đà Nẵng là chốn cũ, mình đã ở đây 4 năm. Nhậu nhẹt tưng bừng xong mình bỏ đám bạn gọi taxi đi lòng vòng quanh thành phố.

Mình về phố Ông Ích Khiêm, nơi có quán mì Quảng rất ngon và một quán cà phê nhỏ nhỏ dưới gốc bàng, mình và anh em văn nghệ Đất Quảng vẫn hay ngồi ở đó. Quán mì Quảng không còn, quán cà phê đã cơi nới rất hoành tráng, nhạc nhót ầm ĩ, đèn đóm lập lòe. Biết đó không còn chỗ của mình nữa, mình đành bỏ đi.

Bất chợt mình thấy một người đàn bà bán số bên kia đường. rất lạ: Chị nhỏ thó teo tóp lại gùi một người đàn ông to đùng. Chị Đào! Mình chạy đến chào chị, nói em là Lập đây, Lập phiên dịch cho chuyên gia Liên Xô đây, chị có nhớ em không. Chị nhìn mình hồi lâu rồi a lên một tiếng, chụp lấy tay mình, nói chú Lập, ui chao chú còn nhớ chị. Mình nhìn người đàn ông sau lưng chị, biết ngay là con trai chị, chú bé ba chục năm về trước bây giờ đã hơn ba chục tuổi rồi.

Chị em vào quán ngồi, nghe chị kể mới biết anh Chiến bị ung thư máu chết cách đấy mấy năm, bố mẹ chồng bố mẹ đẻ đều về trời hết cả. Chẳng còn ai nương tựa, chị đành gùi con đi bán vé số. Mình đưa chị ít tiền, chị kiên quyết không lấy, mình đành mua hết  mấy chục vé còn lại trên tay chị. Chị nói cười rổn rảng, nói ôi chao bữa nay may quá là may. Chợt thằng bé kêu è è ó ó. Chị vỗ vỗ thằng bé, nói thằng này nó biết đấy. Hễ chị bán được vé số là nó mừng lắm, kêu è è ó ó là nó đang hát đấy. Gương mặt nhầu nhĩ già nua của chị bỗng sáng trưng.

 Mình nói ngày nào chị cũng gùi thằng bé hơn năm chục cân, chịu sao thấu? Chị cười, nói không chịu cũng phải chịu chứ sao. Mình nói sao chị không kiếm cái xe lăn đẩy nó đi? Chị nói chị kiếm rồi nhưng cháu không ngồi được, cột dây ngang ngực nó khó thở, cột ngang bụng thì nó gập người xuồng, chúc đầu xuống đất. Thôi thì gùi vậy. Mình nói đến khi chị già yếu không gùi được nữa thì sao? Chị cười, nói ối dào, đến đó rồi hẵng hay.

Thằng bé lại è è ó ó. Mắt chị lại sáng lên, nói đấy đấy nó lại hát đấy. Khi nào nó hát là nó vui lắm đấy.  Chị cười rất tươi, tươi đến nối làm mình rùng mình nổi cả da gà.

Nguyễn Quang Lập: Chuyện tình anh cu Đom - 1

[02.09.2012 02:46]

Thuở bé đến giờ mình mới biết có người tên xấu như anh Đom. Mình hỏi anh, nói răng anh tên Đom. Anh kể nhà anh đã có 5 con trai, ba mạ anh ráng đẻ thêm một đứa nữa, hy vọng con gái. Ngày mạ anh có chửa, chả biết mấy cô y tá hộ sinh ở trạm xá khám xét thế nào, khẳng định là con gái. Ba mạ anh mừng lắm, mổ heo ăn mừng. Đến ngày sinh, ba anh chầu chực suốt đêm bên cửa sổ. Nghe tiếng trẻ khóc ông nhóng cổ thò mồm qua cửa sổ, nói trai hay gái? Nghe bảo con trai ông cười cái hậc, nói đom! Từ đó anh có tên là cu Đom.

Khi mình lên thung lũng Chớp Ri thì anh cu Đom đã học xong lớp 7, chuẩn bị vào học lớp sư phạm 7+ 2, tức lớp 7 cộng hai năm trung cấp sư phạm là ra trường đi dạy, dốt dạy cấp một giỏi dạy cấp hai. Thời chiến tranh giáo viên thiếu kinh khủng, có lẽ giáo viên nhập ngũ quá nhiều mới có tình trạng đào tạo cấp tốc kiểu đó. Có đợt còn đào tạo sư phạm 10+3, tốt nghiệp lớp 10 học thêm ba tháng là thành cô thầy giáo cấp 2. Kinh.

Anh cu Đom ở xóm Cá, sát ngay xóm của mình, anh chọn học sư phạm 7+2 vì Trường trung cấp sư phạm Quảng Bình sơ tán lên thung lũng Chớp Ri, đóng sát ngay sau nhà anh. Nếu học tiếp lên cấp 3 anh phải vượt đèo Cao Mại ra phố huyện  cách nhà hơn hai chục cây số. Anh học sư phạm như học phổ thông, khi nào cũng một cuốn vở cuộn tròn nhét túi, chẳng thấy túi, cặp gì. Học đựợc nửa buổi anh bỏ lớp tót về nhà chơi với tụi mình, lắm khi anh bỏ học hai ba ngày không tới lớp. Phần vì anh ham chơi, đi học chẳng qua vì đỡ phải đi làm chứ anh chẳng thiết tha gì việc học hành, phần vì anh mê cô Lý.

Cô Lý là cô giáo 7+2 thực tập lớp trường mình. Cô ở cùng xóm với mình, xưa gọi bằng chị nay gọi bằng cô. Gọi bằng cô cho cô mừng thôi chứ cô chẳng dạy dỗ gì mình. Cô Lý hiền lành nhu mì nhưng xấu chết, đen thui từ đầu đến đuôi. Chả hiểu sao anh Đom mê cô Lý. Anh đẹp trai, đánh bóng chuyền giỏi lại biết thổi kèn armonica. Học sau cô Lý nhưng anh Đom còn hơn cô Lý một tuổi vì anh đúp mấy năm liền mới qua được lớp 7.

 Một hôm thấy anh Đom đứng đái, mình chạy lại đái gần anh, tranh thủ chiêm ngưỡng con cu rất hoành tráng của anh. Anh nói nhìn cái chi, lên lớp 7 là bằng cu tau thôi mà. Mình nói anh yêu cô Lý à? Anh nói yêu chớ sợ chi không yêu. Mình nói răng anh yêu cô Lý, anh  nói con nớ bụ to. Chợt anh vỗ vai mình đánh bốp, nói  a nhớ rồi, mi biết mần thơ phải không, duyệt tao bài thơ. Anh lôi ra bài thơ vừa sáng tác tặng cô Lý. “Ôi cái tên Minh Lý/ Tên em đẹp hết ý/ Lý ơi yêu anh tí/ Đêm nào anh cũng bí.” Mình ôm bụng cười rũ, nói anh mần thơ như ẻ. Anh trợn mắt lên, nói thằng ni nói chi rứa bay, thơ tau gieo vần êm như nhíp.

Mình nói anh không biết mần thơ để tui mần cho. Anh ôm lấy mình ra sức nịnh nọt, nói mần giúp anh nghe, anh sẵn sàng cho mi tập giấy năm hào hai mới cứng. Mình nói anh đừng nịnh cô Lý, cô Lý ghét nịnh, phải dọa cô mới sợ. Anh hỏi dọa răng. Mình đọc ngay tức thì, nói nếu mà Lý chẳng yêu Đom/ thì Đế Quốc Mỹ thả bom xuống liền. Anh vỗ tay đánh bốp, nói oa chà hay chi hay ác! Anh chép ngay bài thơ. Hôm sau đưa mình tập giấy năm hào hai, nói cảm ơn mi, nhờ thơ mi tau sờ được bụ con Lý rồi.

Cô Lý ở gần nhà mình, chỉ cách một ngõ nhỏ. Mình vọt về kiểm tra xem anh Đom có nói láo hay không. Cô đang thái rau heo, mình chạy vào hỏi cô, nói cô đang yêu à. Cô cười, nói ừ. Mình hỏi cô yêu ai. Cô ngừng thái rau, mắt mơ màng, nói yêu một người đáng yêu.  Mình nhăn răng cười, nói em biết cô yêu ai rồi. Nghe vậy cô Lý tái mặt vội vàng ôm lấy mình, nói em đừng nói với ai cả nghe chưa. Ba cô ghét anh Đom lắm. Mình lại vọt đi tìm anh Đom, nói ba cô Lý ghét anh lắm đó.. Anh cười cái hậc, nói è he, mần cặc chi tau.

Mình đeo lấy anh Đom, đòi anh kể chuyện anh yêu cô. Anh kể hấp dẫn như các chú bộ đội kể chuyện đánh giáp la cà. Anh nói tau hun cái nghe chưa, hắn cho tau một tát nghe chưa, tau không sợ nghe chưa, tau đè hắn ra nghe chưa, hắn cho tau một đạp nghe chưa, tao xé đứt lai quần hắn rồi ngoạm hắn nghe chưa, hắn mềm dần như bún, he he rứa là xong om. Mình nói ngạm chỗ mô, anh nói chỗ hắn đi đái đó, thằng ngu. Mình nhăn răng cười, nói tởm tởm, anh ni tởm gớm bay. Anh đá đít mình, nói ngu, mi đúng là đồ con nít. Từ đó hễ gặp cô mình đều tưởng tượng anh Đom ngoạm cô thế nào. Nghĩ mãi không ra tại sao anh Đom ngoạm thì cô mềm dần như bún. Hi hi.

Một hôm đi học về thấy cô Lý ngồi bó gối dựa tường gạch, nước mắt hai hàng. Chắc ba cô vừa đánh cô. Hôm trước ba cô cầm dao rượt đuổi anh Đom, anh bỏ chạy vào rừng, chạy vòng vèo khiến ba cô đuổi đứt hơi. Anh lừa ba cô chạy vào khu rừng người ta hay bẫy heo. Ba cô sập bẫy, treo lủng lẳng suốt ngày trong rừng. May có người nghe tiếng kêu cứu không ông chết không ai biết.

Mình hỏi anh Đom, nói răng ba cô Lý ghét anh. Anh cốc đầu mình phát, nói thằng ni tò mò tọc mạch gớm. Mình túm áo anh, nói kể đi kể đi. Anh nói cả nhà con Lý căm thù nhà tau như căm thù Đế Quốc Mỹ, nghe chưa. Mình hỏi răng căm thù. Anh nói xưa ba con Lý tố cáo ba tau tham ô ba tạ thóc, ba tau trả thù bằng cách rặp cho được vợ ông ta, nghe chưa. Nay ông ta lên trường sư phạm tố cáo tố cáo ăn cắp mít nhà ông, tao trả thù bằng cách rặp cho được con gái ông ta, nghe chưa. Anh ngửa cổ cười he he he, nói  rứa đo rứa đo.

 Tất nhiên mình không dám kể chuyện này với cô Lý. Thấy cô khóc, mình cũng thương nhưng chẳng biết nói gì, không lẽ bảo cô bỏ quách anh Đom cho xong. Bỗng cô vùng dậy lao đầu đập tường liên tục, đập đến tóe máu đầu, vừa đập vừa hét chết đi cho rồi! Chết đi cho rồi! Mình sợ quá ôm lấy cô, khóc nói cô ơi đừng chết! Cô ơi đừng chết! Cô ôm đầu hét rất to. nói không, cô phải chết thôi, không ai cho cô sống đâu!

Mình nói với anh Đom, nói anh thôi yêu cô Lý đi cho rồi, tội cô lắm. Anh Đom cười, nói tại hắn yêu tau chớ, tau rặp được rồi, hắn bỏ càng khỏe xác tau. Tối mình về tìm các đọc trộm nhật kí cô, cô viết dài hàng chục trang. Bây giờ chẳng nhớ gì, chỉ nhớ câu: Đom ơi em không thể sống thiếu anh! Đom ơi là Đom ơi. Đom Đom Đom Đom…

Mình chạy tìm anh Đom, nói cô Lý nói không thể sống thiếu anh. Anh cười cái hậc, nói đàn bà con mô nỏ rứa, lẹo phát là dính như keo.. Mình không hiểu lắm, chỉ biết cô Lý coi anh Đom như người tình lý tưởng trong khi anh chẳng mấy quan tâm, chỉ kể chuyện làm tình với cô, đè cô ra sao, ngoạm cô thế nào và cười he he he.

Cô Lý thức trắng mấy đêm liền, rồi bỏ trốn, rủ cả anh Đom cùng đi. Thầy hiệu trưởng nói nhất định trốn vô rừng và huy động cả trường đi tìm. Mình vừa đi vừa gọi, nói anh Đom ơi anh Đom trốn mô ra đi, tụi em đói lắm rồi. Ba cô Lý cầm dao lùng sục khắp rừng, nói cha tổ mi vơ Đom, bắt được tau chặt mi ra ba khúc. Chuyện này ầm ĩ khắp thung lũng.

 Cuối cùng cô Lý và anh Đom cũng trở về. Cô Lý xanh như que củi, nằm ốm cả tháng trời, chỉ còn da bọc xương. Hết ốm thì bị chuyển trường, không đuổi dạy, chỉ chuyển trường thực tập  thôi. Mình hỏi anh Đom, nói cô Lý với anh trốn mô, sao tự nhiên bỏ về? Anh Đom nói chui vô hang Dơi chớ mô, ăn hết đồ ăn mang theo thì về chớ răng. Anh nói cô Lý mang theo bánh bích qui, thịt heo rừng nướng, xôi cả bọc to, ăn đã thôi. Anh khoa chân múa tay, nói chưa khi mô tau được ăn no như rứa, ngày sáu bữa, cơm no bò cưỡi ngày sáu phát, sướng cực, sướng cực. Anh lại ngửa cổ cười he he.

 Bỗng cái miệng anh dần ngậm lại, cô Lý như mọc dưới đất lên, nói anh vừa nói chi, nói lại nghe coi. Anh cười nhăn nhở, nói chi mô nói chi mô. Cô cho anh một tát nảy đom đóm rồi bỏ đi, đi mãi không thấy cô trở lại. Người ta bảo cô Lý ra suối Tranh tự vẫn nhưng không ai tìm ra xác

Người tử tù câm

Hắn bị giam ở cạnh buồng của tôi. Gần một tháng trời kể từ ngày tôi bị giam vào đây, hắn không nói một lời nào. Dãy buồng B lẻ lặng như câm, như điếc. Theo số suất cơm của người “tù tự giác” bê vào thì cả dãy chỉ có hai người, tôi và hắn. Thời gian lặng lẽ trôi đi như dòng nước chảy ngược. Tương lai chẳng thấy đâu mà chỉ toàn hiện lên quá khứ. Cái buồng giam bé hẹp chưa đầy 6 mét vuông, hai bệ xi măng lạnh ngắt, một bệ xí và một chiếc bể nước con khiến lồng ngực như khép lại, tức thở. Đêm đến, giấc ngủ chập chờn toàn những bóng ma và ác quỷ.

- Nó câm đấy! án “dựa cột”. Đang chờ ngày hành quyết.

- Trẻ lắm, mới 27 tuổi. Đẹp trai.

- Quê ở Thái Nguyên. Vừa cướp của, vừa giết người.

- Thỉnh thoảng khóc một mình. Tội nghiệp lắm!

Mỗi lần đưa cơm, người “tù tự giác” chỉ kịp thông tin từng mẩu về hắn như vậy. Cứ như người gom nhặt từng mẩu bánh mì rơi vãi để chắp thành một chiếc bánh mì, tôi mường tượng ra gương mặt và số phận của hắn.

***

“Có ai còn sống khô… ô… ông!”. Thình… Thình… Thình… Tôi giật mình tỉnh dậy. Đêm lặng ngắt, chỉ có tiếng o… o… của chiếc chấn lưu đèn ống mắc ngoài hành lang vọng vào. Cánh cửa sắt vẫn đóng im ỉm. Hình như có tiếng người, lại cả tiếng đập cửa? Không thể thế được. Đương nhiên không phải tiếng thằng câm. Vậy thì ai gọi? Vọng từ đâu đến? Hay là tiếng của những oan hồn?… Tim tôi đập thình thịch. Tôi khẽ nghiêng người, đưa mắt nhìn sang bệ xi măng bên cạnh. Không có gì. Không có bóng áo trắng nào nằm ở đấy cả. Người “tù tự giác” thỉnh thoảng nói với tôi rằng ở đây nhiều ma lắm. Hôm nào nghe tiếng chó tru lên ngoài xa là có ma về. Nhiều người tù đang đêm tỉnh dậy, thấy một bóng áo trắng nằm ngay bên cạnh mình. Rồi lại có người nhìn thấy ma đi lũ lượt ngoài hành lang, tay dắt cả chó ngao… Tôi không tin là trên đời này có ma và cũng chưa bao giờ gặp ma. Nhưng tôi vẫn cho rằng có một “thế giới vật chất phi truyền thống” nào đó, tồn tại ở một dạng sóng hạt nào đó mà chỉ một số người “bắt” được tần số mới cảm nhận được. Trường hợp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ngồi tại Hà Nội mà hướng dẫn người tìm mộ tận trên rừng Trường Sơn, nói đâu đúng đấy trong hàng trăm trường hợp thì đâu còn là sự ngẫu nhiên. Có lẽ ma đang nằm bên cạnh mình thật, đang nói, đang gọi thật, đang đập cửa thật mà mình chỉ cảm nhận được khi ngủ chứ không cảm nhận được khi thức. Tôi cứ tự an ủi mình bằng cách nghĩ như vậy và yên tâm quay mặt vào tường ngủ tiếp.

“Có ai còn số… ố… ống khô… ô… ông!”. Thình… Thình… Thình… Tôi lại choàng tỉnh. Song lần này khác với lần trước, sau tiếng “khô… ô… ông” cuối cùng ấy là một tiếng nấc vô vọng. Tôi tỉnh hẳn, ngồi bật dậy, lao ra cửa, tay nắm lấy song sắt. Ngoài hành lang vẫn vắng lặng. Ánh đèn nê-ông nhợt nhạt như màu của xác chết. Tôi lấy hết can đảm thì thào “Ai đấy! Có tôi đây!”. Tôi linh cảm thấy rằng đấy là tiếng gọi của thằng câm.

- Anh ở phòng nào? – Tiếng người reo lên nho nhỏ.

- B13! – Tôi thầm thì.

- Tôi B15. Tôi là thằng câm đây!

- Câm sao lại nói được?

Lặng đi vài giây, thằng câm khe khẽ:

- Chuyện dài lắm. Có lẽ tôi sắp phải “đi” rồi

Rồi thằng câm kể: Quê tôi ở Thái Nguyên. Anh đã lên Thái Nguyên bao giờ chưa? Vùng đất đồi núi, chó ăn đá, gà ăn sỏi ấy, chẳng có cái gì tồn tại được trừ cây chè và cái đói, cái nghèo. Nhà tôi có sáu người. Nói là sáu song thực chất chỉ có năm: bố, mẹ và ba anh em tôi. Tôi ở giữa. Còn đứng thứ sáu là một con chó. Nó tên Tu Tu, bảy tuổi. Nhà tôi nghèo, thiếu đủ thứ song không thể thiếu con Tu Tu. Nó cùng vui, cùng buồn với tất cả mọi người trong nhà, nó thân thiện với bạn bè, người thân của gia đình nhưng cực kỳ hung dữ với những kẻ có tâm địa ác độc. Ai đến nhà chơi, nếu con Tu Tu nằm ngay bên cạnh khách, thỉnh thoảng gầm gừ, ấy là báo hiệu người nhà phải cảnh giác người đang ngồi chơi đấy mà tâm địa tối tăm. Còn những người khác, nó lảng ra ngoài cổng. Nó biết cảm thông, chia sẻ cái nghèo với chủ. Nhà tôi một tháng, năm thì mười họa mới có một bữa cơm có thịt, và hôm ấy, bao giờ con Tu Tu cũng biến mất, không ngồi chồm hỗm, vui vẻ với chủ như những bữa khác. Chỉ khi cả nhà ăn xong, bưng cái mâm bát ra bờ giếng để rửa thì nó mới len lén xuất hiện, la liếm những mẩu xương thừa một cách ngon lành. Có lẽ nó hiểu rằng có nó trong bữa ăn, số thịt ít ỏi kia sẽ phải chia làm sáu chứ không phải làm năm. Hành động “nghĩa hiệp” của nó khiến cả nhà tôi càng thương nó hơn, gặm miếng xương cũng gặm dối hơn, miếng thịt cũng cấu lại một ít giả vờ là xương để lại góc mâm dành cho nó.

Thế mà một hôm, đến bữa cơm chiều không thịt, không cá, con Tu Tu biến mất. Cả nhà tôi bàng hoàng, biết sự chẳng lành đã xảy ra với nó. Một tai họa khủng khiếp mà gia đình tôi chưa bao giờ gặp phải. Không thể ai bắt trộm được nó vì nó rất khôn và rất dữ. Nó không thể bỏ chúng tôi được vì cũng như chúng tôi không thể bỏ nó. Thế mà suốt từ trưa đến lúc cả nhà ngồi quanh một mâm cơm toàn ngọn rau lang luộc với muối vừng, nó vẫn không về. Cả nhà chẳng ai nuốt nổi lưng bát cơm. Bố tôi ngồi thẫn thờ trên chiếc phản cũ kỹ giữa nhà, rít thuốc lào sòng sọc. Mẹ tôi kê đôi dép nhựa rách, ngồi đầu thềm vừa ngóng con Tu Tu vừa lau nước mắt. Thằng em trai tôi bưng mâm cơm ra bờ giếng, khóc ti tỉ. Chỉ riêng ông anh tôi, mặt lì lì, chẳng nói chẳng rằng. Cả nhà nặng nề như có tang.

Khoảng 10 giờ đêm, anh tôi lôi tôi ra đầu nhà, giọng lạnh sắc:

- Thanh! Mày còn giữ con dao găm hồi trước không?

Tôi hơi chột dạ:

- Còn. Nhưng anh cần làm gì?

- Đi cứu con Tu Tu.

Tôi mứng quýnh:

- Sao? Anh tìm được con Tu Tu rồi à? Anh biết chỗ con Tu Tu à? Nó bị bắt trộm hay sao?

- Lấy con dao găm ra đây – Giọng anh vẫn lạnh ngắt.

Tôi cuống lên:

- Thế thì phải cứu bằng được nó – Nói rồi, tôi vội chạy vào bếp, lấy con dao giắt trên mái, giấu trong một ống tre.

Anh tôi bảo:

- Phải mang theo cái kìm cắt nữa. Nó đang bị nhốt ở trong một chiếc cũi mắt cáo.

Chúng tôi chuẩn bị xong xuôi và lặng lẽ ra đi trong đêm tối, hướng về thành phố. Hôm ấy trời đầy sao. Từ nhà tôi ra đến thành phố chưa đầy 6km. Gió heo may mát lạnh của mùa thu không làm giảm khí thế hừng hực trong tôi. Song tôi có biết đâu rằng, đó là một đêm tối định mệnh, một đêm không bao giờ xảy ra lần thứ hai trong đời.

- Sao anh tìm ra đứa bắt trộm con Tu Tu?

- Nó không bị bắt trộm. Tao đã bán nó.

- Trời! – Tôi kêu lên và đứng sựng lại giữa lưng chừng dốc một quả đồi – Không thể có việc đó được. Anh nói dối.

Anh tôi kéo tay tôi lôi đi:

- Tao nói thật đấy.

- Anh không phải là người vô lương tâm. Nếu vô lương tâm, con Tu Tu nó đã biết, nó sẽ không bao giờ chơi với anh. Nhưng đằng này, nó quý anh nhất nhà…

Anh tôi vẫn lầm lũi đi về hướng thành phố. Đường đồi gập ghềnh, mấp mô, chỗ lồi chỗ lõm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bị vấp ngã chúi mũi.

- Anh bán cho nhà nào?

- Tuấn thịt chó.

Mấy tiếng “Tuấn thịt chó” khiến tôi choáng váng. Con Tu Tu mà vào tay nhà ấy chắc gì giờ này còn sống. Như hiểu được tâm trạng của tôi, anh nói:

- Hôm nay đầu tháng, khách ăn thịt chó ít, nó chưa bị giết đâu. Tao vừa đi quan sát về.

- Sao anh lại bán nó? – Tôi hỏi và hồi hộp đợi câu trả lời.

Bóng đen bên cạnh tôi vẫn lầm lũi di chuyển, rồi phát ra những âm thanh cục mịch, khô khốc như những viên sỏi ném vào màn đêm:

- Tao cần tiền. Thằng Tiến bị tai nạn gãy chân. Không có tiền chạy chữa. Tao chẳng còn cách nào khác.

Tôi thở dài và thấy thương anh tôi. Anh Tiến là bạn nối khố của anh tôi từ nhỏ, cùng học với nhau, cùng đi làm thuê với nhau và cùng cảnh nghèo với nhau. Chỉ khác một điều bố mẹ anh Tiến mất sớm, để lại 3 đứa em nhỏ, nhà nghèo đến sát tận xương tủy. Quả thật, đối với anh tôi, giữa anh Tiến và con Tu Tu, chẳng thể phân biệt bên nào hơn bên nào, chỉ có điều một bên là con chó và một bên là con người. Anh Tiến hơn phân có lẽ là vì cuộc sống của 3 đứa em nhỏ. Anh Tiến sống thì chúng nó sẽ sống…

Nhà Tuấn thịt chó ở ngoại thành, bên con đường đá lẫn nhựa lổn nhổn. Đằng sau nhà là một cái ao lớn, xung quanh trồng chè lúp xúp. Trong bóng đêm, anh tôi chỉ cho tôi chỗ nhốt con Tu Tu, phần chái nhà sau bếp. Từ chỗ hàng rào bên hông nhà, qua vườn chè là tới bếp. Cũi chó đặt ở đó. Tôi được phân công đứng ngoài hàng rào nghe ngóng.

Anh tôi như một con mèo, nhẹ nhàng nhảy qua hàng rào cao ngang lưng, lom khom vượt qua vườn chè, tiến về phía bếp. Có tiếng “ư ử” khe khẽ của con Tu Tu. Nó đã đánh hơi được chủ. Tim tôi như muốn vỡ ra. Con Tu Tu vì vui mừng mà làm lộ thì không còn cách nào cứu thoát. Thật may, con Tu Tu đã im bặt, chỉ còn tiếng thở của nó. Rồi tiếng lách cách kìm cắt dây thép… Bỗng có tiếng kẹt cửa. Tôi nín thở. Cửa nhà trên mở. Ông chủ thịt chó từ từ tiến về phía nhà bếp. Nguy mất rồi, ông ta đã chặn đường ra. Nếu lộ, chỉ còn một nước là nhảy xuống ao, mà xuống ao là đường tử.

Có tiếng vật nhau uỳnh uỵch. Tiếng kêu thất thanh. Tiếng ú ớ. Tiếng chân người chạy sầm sầm trong nhà, ngoài bếp. Tôi đang loay hoay chưa biết làm thế nào thì thấy bóng con Tu Tu vút qua hàng rào. Tiếp là anh tôi vụt qua theo, ngay chỗ tôi ngồi náu. Một bóng đen đuổi sát. Theo phản xạ tự nhiên, tôi vụt dậy, lao ra ôm chặt lấy bóng đen. Sau mấy giây vật lộn, giằng ra không được, bóng đen liền ôm chặt lấy tôi và hô lớn: “Cướp! Cướp! Bà con ơi, bắt lấy nó”. Dân chúng vây quanh tôi, đèn pin loang loáng. Tôi bị đánh một trận nhừ tử. Mặt mũi, tay chân chỗ nào cũng sưng húp, đau nhừ. Họ dùng dây thừng trói gô tôi lại như bó giò, kéo lê tôi tới đồn công an…

* * *

Cửa sắt nhà giam ken két mở. Tiếng kể chuyện của thằng câm im bặt. ở trong nhà giam này, mọi người ai mắt cũng kém đi và tai lại thính lên, thính nhạy không kém gì tai chó, tai mèo. Chỉ nghe tiếng chân người đi ngoài hành lang là biết đó là ai, quản giáo hay “tù tự giác”, người chữa điện hay người đưa cơm. Tiếng mở cửa, đóng cửa sắt cũng như giới thiệu được tên người, tính cách. Hôm nay, đang nửa đêm có cán bộ quản giáo đi tuần thế này, chắc là có vấn đề nghiêm trọng.

Tiếng giày của người cán bộ quản giáo rõ dần. Tôi vội chui vào màn, nằm im giả vờ ngủ. Ông quản giáo này tên là Duy, quê ở Bắc Ninh. Ông có gương mặt đầy đặn, phúc hậu, song đôi mắt hơi buồn, khi nói chuyện, đôi chân mày hơi nhíu lại. Người ta bảo những người như thế thường đa cảm, thương người, số sẽ vất vả. Riêng với ông quản giáo Duy, tôi có cảm tình với ông ngay từ đầu, không phải chỉ vì tướng mạo mà vì cách cư xử. Ông quan tâm đến tù nhân như bác sĩ quan tâm tới bệnh nhân, hỏi han, chăm lo từng tí một. Chính ông đã khiến tôi xoá hết những gì ác cảm từ xưa đến nay về nhà tù. Thì ra, nơi nào cũng có những người tốt, thậm chí rất tốt nữa là đằng khác.

Quản giáo Duy đến trước cửa buồng giam chúng tôi thì dừng lại, nghe ngóng một hồi rồi lẩm bẩm:

- Quái, rõ ràng có tiếng người rì rầm ở chỗ này. Chẳng lẽ lại có ma?

Ông nghé vào buồng tôi, sang buồng thằng câm đứng một lúc, lẩm bẩm thêm vài câu gì đó rồi quay trở lại phòng trực ban.

Một lát sau, tiếng thằng câm thì thầm:

- Anh vẫn còn thức đấy chứ?

- Còn! Tôi vẫn nghe đây. Anh không giết người sao lại nhận án tử hình?

- Tôi không giết người nhưng anh tôi giết. Tôi không thể ngờ được rằng anh tôi đã đâm chết ông chủ hiệu thịt chó. Đêm hôm ấy, họ hỏi cung tôi. Tôi nói tôi là người qua đường, thấy tiếng í ới, nhộn nhạo, rồi thấy có người nhảy qua hàng rào. Tôi nghĩ là kẻ trộm nên ôm chặt lấy người đó. Tôi không hề biết đấy là con trai ông chủ hiệu thịt chó. Cũng không biết là trong nhà có vụ giết người. Nói rồi, nói mãi, công an họ vẫn không tin. Họ cho xét nghiệm hiện trường, xét nghiệm tất cả những thứ trên người tôi có. Họ nói rằng mấy sợi tóc rơi trên nền bếp nhà ông chủ hiệu thịt chó chính là của tôi. Vết máu trên áo tôi là máu của ông chủ hiệu thịt chó. Tất cả mọi chứng cứ đều chống lại tôi. Vợ chồng con trai ông chủ thịt chó quyết tâm trả thù cho cha bằng cách dựng hiện trường giả. Ngay sau khi tôi bị dẫn lên đồn công an, nó lập tức về mở tung cửa tủ, vứt mấy cái nhẫn vàng vung vãi khắp nhà. Lấy ngay cái gậy mà nó đã đánh vào đầu tôi làm tang vật để lấy mẫu máu và tóc của tôi tại hiện trường. Vết máu trên áo tôi chính là vết máu trên áo nó dây sang. Khi vật lộn trong bếp, máu của bố nó đã thấm đẫm vào nó. Rồi khi vật lộn với tôi, máu ấy lại dây sang tôi. Cái bản tự khai của vợ chồng nó mới ác độc. Nó mô tả rằng khi nghe tiếng cạy cửa, vợ chồng nó đã biết là kẻ trộm, song khi thấy tay tôi lăm lăm cầm dao, nên không dám động tĩnh gì. Đến khi tôi cạy tủ, lấy hết vàng bạc nhà nó chuồn ra sau bếp thì chẳng may đúng lúc ông bố ở nhà dưới dậy ra vườn đi tiểu đêm bắt gặp, thế là tôi bỏ của chạy lấy người, đâm chết bố nó. Chạy ra đến hàng rào thì nó đuổi bắt được tôi.

Trong vụ việc này, chỉ có hai người biết chắc chắn tôi không phải là kẻ giết người, cướp của, đó là con ông chủ thịt chó và anh trai tôi. Tôi đã từng hy vọng lương tâm con ông chủ thịt chó sẽ cắn rứt, sẽ tự đứng ra rút lời khai bịa đặt kia. Nhưng việc ấy đã không xảy ra. Tôi không trách gì anh ta. Nỗi đau mất cha của anh ta quá lớn. Đời anh ta lại quá quen với mùi tanh của máu, dù đó là máu chó. Nếu một chút nào vô lương tâm, độc ác và tàn nhẫn thì cũng là điều dễ hiểu. Còn anh trai tôi, sau khi nghe tôi bị kết án tử hình, anh trở nên điên loạn, lúc khóc, lúc cười, thỉnh thoảng lại đập đầu vào bất cứ thứ gì có thể đập được và kêu đến khản tiếng: “Tôi giết em tôi rồi! Tôi giết em tôi rồi!”. Một ngày kia, anh viết đơn tự thú kể lại tất cả. Từ việc bán con Tu Tu, đi cứu con Tu Tu, rồi bị dồn vào tình thế quẫn bách, vô thức nên đã vô ý giết người. Trong đơn, anh xin chịu tội chết thay cho tôi vì tôi không có tội. Tôi không hiểu cái đơn tự thú ấy có làm ai tin không, song tại buổi thẩm vấn gần đây nhất, tôi đã viết bản lời khai xác định rằng tôi là kẻ giết người. Anh ấy thương tôi mà nghĩ ra câu chuyện ấy. Lời khai của tôi được các cơ quan pháp luật tin ngay lập tức, vì tất cả các sự kiện được khớp vào nhau đến mức không thể còn một khe hở nghi ngờ nào lọt qua. Người tố cáo có, người làm chứng có, người nhận tội có, vật chứng có… tất cả đều y như thật.

Tôi làm việc này vì đã nghĩ kỹ lắm rồi. Ở đời, ân oán phải sòng phẳng. Nhà mình đã giết chết một người của nhà người ta thì nhà mình phải có một người đền mạng. Mình không đền rồi cuộc đời cũng sẽ bắt mình phải đền. Việc đã lỡ rồi, làm sao bây giờ. Cả nhà tôi bây giờ chỉ có tôi là đáng đền mạng nhất. Bố mẹ tôi thì già rồi, bao nhiêu năm nuôi chúng tôi khôn lớn, vất vả nhọc nhằn từ mờ sáng đến tối mịt, không đáng phải chịu đựng thêm bất cứ một bất hạnh nào của cuộc đời. Em trai tôi còn nhỏ dại, nó cần phải được học hành nên người. Còn anh tôi. Anh ấy lại càng đáng được sống hơn, vì anh ấy đã mất cả cha lẫn mẹ. Từ nhỏ đến lớn, nỗi đau mất mát luôn luôn đeo đẳng anh ấy mặc dù gia đình tôi, kể cả con Tu Tu, đã dành cho anh tình thương lớn nhất.

***

Lại có tiếng lách cách khoá cửa sắt phía đầu hành lang. Vẫn tiếng giày của quản giáo Duy. Chúng tôi im bặt và chui vào màn giả vờ ngủ. Tiếng ngáp dài và tiếng lầu bầu vọng vào: “Đúng là có ma. Hay mình mơ ngủ. Vớ vẩn thật”. Tiếng giày xa dần, xa dần.

* * *

Câu chuyện của chúng tôi lại tiếp tục.

Bố tôi và bố anh ấy cùng chung đơn vị bộ đội. Trong một trận chiến đấu, bố anh ấy bị thương nặng. Trước khi mất, ông nắm tay bố tôi vừa nói vừa ứa nước mắt: ”Tôi chỉ có duy nhất một đứa con trai. Nó mất mẹ từ nhỏ. Nó không thể không có bố. Anh hãy là bố nó thay tôi”. Nói rồi, ông tắt thở. Anh tôi lớn lên trong gia đình tôi như người con đẻ. Anh thương bố mẹ nuôi, thương các em, thương con Tu Tu hơn cả thân mình.

Anh sống tự tin và hiếu thảo. Anh chưa làm điều ác với ai bao giờ. Với bạn bè, anh không tiếc một thứ gì. Như việc của anh Tiến đấy, anh đã phải đứt ruột bán con Tu Tu để cứu lấy bạn, cứu lấy cuộc sống của ba đứa em nhỏ của bạn. Rồi lại phải làm cái việc vô cùng độc ác để cứu con Tu Tu. Anh ấy đang có người yêu. Anh ấy sẽ lấy vợ, và sẽ có con. Bố anh ấy dưới suối vàng chắc sẽ mãn nguyện lắm…

***

Câu chuyện của thằng tử tù câm cứ thì thầm, thì thầm như một huyền thoại. Lời kể của hắn tuôn như suối chảy, rì rào, trong vắt, thanh thản, không giận hờn, không nuối tiếc. Cuộc sống bình dị của một gia đình nghèo vùng bán sơn địa thấp thoáng trong trí tưởng tượng của tôi. Một mái nhà tranh thưng ván gỗ nằm nép dưới chân một đồi chè. Từ đỉnh đồi, những hàng chè mềm mại như sóng biển lan dần xuống chân đồi. Nắng sớm nhuộm vàng xanh những đồi chè lô xô. Nhìn màu nắng, người ta liên tưởng đến bát nước chè xanh cắm tăm, đượm chát và ngọt hậu. Nếu không có câu chuyện của thằng câm, tôi không thể nghĩ rằng ở đó có những con người sống cao nghĩa đến như thế. Tôi hỏi vọng sang:

- Thế anh bị câm từ khi nào?

- Ngay tại phiên tòa, sau khi nghe tuyên án: “Chịu mức hình phạt cao nhất: Tử hình!”. Tôi muốn thốt lên một lời nào đấy song lưỡi cứng lại, cổ họng nóng ran như bị đứt một cái gì đó. Và từ đấy, âm thanh duy nhất của tôi có thể phát ra được là tiếng ú ớ. Bản năng sinh tồn đã khiến có một phần nghìn tia hy vọng loé lên trong tôi, rằng sự thật và sự trong sáng của lương tâm sẽ phán quyết tại tòa. Thế nào tòa cũng tìm ra được một dấu vết nào đấy của sự thật. Chân lý sẽ được khẳng định, nhưng tôi đã nhầm. Tất cả đã được định sẵn. Đã sáu tháng rồi, không hiểu tại sao hôm nay tôi lại nói được. Có lẽ điềm trời báo trước là tôi sắp đi rồi.

***

Quả đúng như thằng câm dự đoán. Khoảng 4 giờ sáng, tiếng khóa hành lang lách cách. Tiếng chân rậm rịch, toàn người lạ, đi về phía chúng tôi. Cửa buồng giam thằng câm được mở. Tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng trao đổi thì thầm. Tôi nhổm dậy, nhìn qua song sắt và nổi gai khắp người: “ Đội thi hành án”.

Thằng câm đi qua buồng tôi, gương mặt trẻ trung, cương nghị, thông minh hiện ra trước mắt tôi. Trong giây lát, tôi thoáng thấy hai giọt nước mắt lăn trên gò má như còn lông măng của hắn. Tôi hai tay nắm chặt chấn song sắt nhà tù, muốn hét lên một câu: “Thả người ta ra, người ta không có tội” nhưng không phát ra được lời nào. Lưỡi tôi cứng lại, cổ họng tôi nóng ran như bị cứa đứt một cái gì đó. Tôi gục vào cánh cửa. Nước mắt cứ thế trào ra…

Chú thích: Tác giả Nguyễn Hoàng Linh, nguyên Tổng biên tập tờ Doanh Nghiệp, tích cực chống tham nhũng, các dây gần 15 năm, do một lỗi tác nghiệp nên phải ở tù hơn một năm. Đây là thời gian tác giả được tiếp xúc với nhiều thân phận tù éo le. Truyện ngắn trên được tác giả dựa trên một câu chuyện có thật, được đăng trên Báo Văn nghệ trẻ năm 2007

Ăn mừng

Cái xóm núi heo hút yên bình đến mức buồn tẻ từ bao đời nay bỗng nhộn nhịp sôi sục hẳn lên nhờ cái đám khao thượng thọ chín mươi của bà cụ Vẹo, mẹ ông giám đốc Cty Xây dựng Vùng Cao. Cái đám ăn mừng này nó to nhớn, sôi sục không phải chỉ vì hiếu đễ của ông giám đốc với bà mẹ sắp bước qua cái tuổi cửu thập, mà nó còn là cái lễ ăn mừng kép được ông tổ chức để mừng khánh thành cả ngôi "Ngô tộc Gia trang" này nữa. 

Tấm biển "Ngô tộc Gia trang" sơn son thiếp vàng bằng Hán tự viết theo Khải thư dạng phồn thể, dưới lại có dòng chữ in hoa dịch ra Quốc ngữ, vừa được gắn lên phía trên hai cánh cửa sắt nặng trịch bởi đôi sư tử vờn hai quả cầu được đúc bằng gang hàn liền trên cổng, trông còn "hoành tráng" hơn cả bức hoành phi cổ ngoài đình làng.

Cái lễ ăn mừng kép này được tổ chức thật to nhớn và "hoành tráng" là phải, bởi ông giám đốc đã "xoá sổ" không thương tiếc toàn bộ những cái gì thuộc về dấu tích của thời phong kiến và cả của thời dân chủ nhưng "vưỡn còn bao cấp lạc hậu" nữa. Nó gồm một gian nhà thờ họ lợp ngói móng hài, bên trong có đủ hoành phi, câu đối, được làm toàn bằng gỗ tứ thiết do cụ Lý Chắt, bố chồng bà Vẹo, tức ông nội ông vậy, xây dựng từ cái thời phong kiến, đế quốc sài lang còn sót lại và cả cái cơ ngơi hai tầng lầu tường ngoài được trát bằng đá rửa - mốt thời thượng của đầu thập niên 80 thế kỷ trước - được chính ông mời thợ tận Đà Nẵng ra làm, cùng toàn bộ vườn cây ăn quả xum xuê nào cam, quýt, bưởi bòng, hồng xiêm, nào vải, nhãn, chuối, xoài, na, mít v.v…dều bị ông "phăng teo" hết. Trước hôm "hoá kiếp" cái cơ ngơi "đồ cổ" này, ông đã cho dựng rạp mời cả làng đến ăn uống thoả thê và hát Karaoke miễn phí cả ngày bằng cái "lễ Tống cựu" rồi. Hôm nay là "lễ Nghênh tân" ắt phải "hoành tráng" và "lai rai" hơn là cái chắc. Cả cái xóm núi này, mấy khi đã được ngửi khói xe hơi chạy qua, ấy vậy mà hôm nay có đến mấy chục cái ô tô du lịch sang trọng bóng lộn đỗ dọc từ sân đình vào vào tận cổng nhà ông trông như đàn bọ hung đang chờ tấn công bãi phân trâu vậy.

Cái công trình "Ngô tộc gia trang" này của ông có đến vài ba hạng mục chính và dăm hạng mục phụ trợ. Nó gồm khu nhà ở một tầng, vâng toàn bộ một tầng theo lối cổ Trung Hoa - chứ nhà hộp xếp tầng chồng đống lên nhau thì còn gì gọi là sang trọng nữa? - làm thuần bằng gỗ lim Nghệ An và gạch ngói Giếng Đáy. Tiếp đến Khu vui chơi gồm phòng tập thể thao đa năng khoảng ba trăm mét vuông được thiết kế theo mẫu hình Kim Tự Tháp Ai Cập; cuối cùng là khu nghỉ ngơi xây theo lối Nga, nhà tròn, mái chóp tròn hình nấm được sơn những sọc xanh, đỏ, đen, trắng uốn lượn theo chiều dọc, trên nữa còn có chóp nhọn chọc vút lên trời. Các hạng mục phụ trợ gồm bể bơi, sân ten nít, đường rải bê tông át phan từ đình làng vào đến cổng "Ngô tộc Gia trang" và chương trình " rừng hoá" tức là trồng các loại cây cổ thụ làm cây cảnh được dùng xe cầu chở từ trên rừng về trồng dọc hai bên đường, suốt từ đình làng vào và toàn bộ trong sân, vườn nhà ông, thay thế cho những loại cây vừa bị hoá kiếp kể trên. Nói tóm lại "Ngô tộc Gia trang" được kết hợp tinh hoa của các phong cách cổ, kim, Đông, Tây đủ cả. 

Cái trị giá của "công trình gia đình" vĩ khụ này có tầm cỡ ngang với "công trình trọng điểm Quốc gia", nên đã có kẻ xấu bụng nghi ngờ ông là tham ô, tham nhũng. Nhưng thực tình thì ông không hề tơ hào một chinh một cắc nào từ ngân sách nhà nước duyệt cấp cho công ty của ông để phát triển giao thông miền núi cả. Bằng chứng là các đoàn thanh tra, kiểm toán mấy lần đến kiểm tra đã ký biên bản xác nhận bằng giấy trắng mực bút bi hẳn hoi. Lợi nhuận chính đáng mà ông được hưởng đều từ tài năng "biết làm việc" và "sáng kiến cải tiến kỹ thuật" của chính bản thân ông đem lại. Này nhé như khối lượng san lấp mặt bằng tạo nền đường những đoạn qua thung lũng, khe suối đều do bên lập dự án tính toán, rồi được cấp trên phê duyệt, công ty ông chỉ thực hiện thi công chứ ông có vẽ được ra số liệu đâu.

Nhưng khi làm xong nó dư dôi ra cho ông được vài vạn mét khối, đơn gía mỗi mét khối chỉ có 150 ngàn đồng bạc là ông đã dư dôi ra được đôi ba chục tỷ đồng rồi; hay như hệ thống cọc tiêu, cọc chắn hai bên ven đường phải làm bằng bê tông cốt thép, nhưng ông đã có "sáng kiến cải tiến kỹ thuật" thay bằng bê tông cốt gỗ lim, mà gỗ lim thì kém gì thép, lại không han gỉ được, ông chỉ việc phái công nhân vào rừng cưa chặt miễn phí, lại dư dôi ra được đôi ba chục tỉ đồng nữa, và còn bao nhiêu là cái "sáng kiến" khác của ông nữa chứ! Đều đen lại các khoản dư dôi rồi ông tích cóp lại mà thôi. Lợi nhuận có được ông đều đã phân phối hài hoà cả ba lợi ích là đóng nộp vào ngân sách Nhà nước, bồi dưỡng cho người lao động theo chính sách qui định xong rồi, còn lại cá nhân ông được hưởng là lẽ đương nhiên, chính đáng lắm chứ, sao bảo ông là tham ô, tham nhũng được?

Trở lại cái lễ ăn mừng hôm nay, lẽ ra phải vài tháng nữa mới được diễn ra, đợi cho hoàn công tất cả các hạng mục chính, phụ mới tổ chức thì mĩ mãn hơn nhiều. Nay các hạng mục đều chỉ hoàn thiện được từ 80 đến 90 % mà ông đã phải tổ chức gấp gáp là bởi bà cụ Vẹo, mẹ ông ốm nặng quá, đã mấy ngày nay bón cháo mà cũng không nuốt được nữa, phải cho ngậm sâm rồi. Cứ kể thì còn non hai tháng nữa cụ mới cập cái tuổi cửu trùng thượng thọ, tức là chín mươi. Nhưng với bệnh tình này chắc là cụ khó chờ đến được cái ngày đại phúc đó nữa. Mà theo nhời thầy tướng dạy thì năm nay ông đang tuổi kim lâu, cấm kỵ việc xây cất làm nhà, ông đã trót phải mượn tuổi bà cụ để làm công trình này từ hồi đầu xuân, nên cụ phải sống qua cái nấc cửu tuần thì mới để phúc lộc dồi dào cho con cháu được, cụ phải chứng kiến và "phê duyệt, công nhận" cho cái cơ ngơi "Ngô tộc gia trang" đã "đăng ký" tên tuổi cụ với Thổ địa thần linh rồi, thì sự nghiệp của con cháu họ Ngô mới tiếp tục hanh thông, thẳng tiến, chứ cụ mà đi trước cái ngưỡng ấy, khi chưa "phê duyệt, công nhận công trình" là sẽ xui xẻo lắm. Cái dòng Ngô tộc nhà ông và cả cái "Ngô tộc Gia trang" này nữa cũng sẽ "chết yểu" theo cụ mà lụn bại dần thôi. Vì cái nhẽ ấy nên ông phải tổ chức gấp gáp cái lễ ăn mừng kép này, để ngày mai còn đón đoàn các nhà sư dưới chùa Phúc Ấm lên, tổ chức tiếp cái lễ tụng kinh cầu siêu gia thọ cho cụ thì mới kịp.

Ông cũng muốn nhân dịp này mà khuếch trương, quảng bá cho cái thương hiệu Công ty Xây dựng Vùng Cao của ông, để tạo uy tín, lấy đà làm ăn, nên ông đã phát đi hàng trăm giấy mời đến các vị chức sắc hàng tỉnh và cả ngành dọc cấp trên dưới Hà Nội nữa rồi. Ông còn thân chinh đến tận tư gia các vị Bí thơ, Chủ tịch, Tỉnh uỷ, uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân tỉnh để mời, nhưng ai cũng nói "hôm đó có tí việc bận nhưng thế nào cũng cử đại diện đến mừng", cho nên ông dự đoán tân khách to nhất của nhà ông hôm nay chắc cũng chỉ giám đốc hoặc trưởng, phó phòng, ban các Sở của tỉnh là cùng. Chính vì vậy ông đã phải lệnh cho cô em gái có chồng làm vụ phó ở một bộ dưới Hà Nội và ông anh rể là đại tá về hưu mời cao thân quí hữu của họ đến cho thêm phần long trọng. Còn toàn bộ công nhân của công ty tại các công trường xây dựng ông đều ban lệnh "xá tội gia ân" cho nghỉ làm được hưởng lương để về nhà ông ăn cỗ. Không ngờ cái sáng kiến thế chỗ của ông cho hai ông anh và em rể lại có hiệu quả bất ngờ.

 Đoàn của ông đương kim vụ phó ngoài Hà Nội về ba xe có cả một vị nguyên bộ trưởng, ba vị nguyên thứ trưởng. Khách của ông anh rể đại tá có đến ba bốn tướng một đến hai sao từ cấp nguyên sư đoàn trưởng, đến nguyên tỉnh đội trưởng. Đoàn nào, vị nào cũng đem theo đồ mừng gồm những bao gói bọc giấy đỏ, chất đầy cả hai cái chiếu trải giữa nhà. Nhưng với ông những thứ vật chất ấy tầm thường quá ông chẳng khoái. 

Ông khoái nhất là những câu đối bằng nhiễu đỏ viền chỉ vàng đều có nội dung ca ngợi gia chủ sống lâu, nhiều tài, nhiều lộc hay là ngôi nhà sang cảnh quan đẹp sẽ có nhiều phúc, nhiều lộc… đại loại như "Thọ tỷ Nam Sơn, phúc như Đông Hải", "Đắc thiên đắc địa đắc cảnh, tăng tuế tăng phú tăng tài", "Niên phong nhân thọ phúc mãn, điểu ngữ hoa hương tình nồng" v.v… Ông sẽ cho treo khắp các phòng trong nhà để mọi người cùng chiêm ngưỡng dài lâu. Ông thích nhất đôi câu đối bằng Hán tự của ông đại tá nhà báo, bạn thân ông anh rể tặng. Tuy ông không hiểu ý nghĩa thế nào vì ông không thuộc dòng dõi nho học, nhưng chắc đã bằng chữ nho mà lại của đại tá nhà báo tự làm thì phải hay ho và thâm thuý phải biết. Ông mạnh dạn không dấu dốt mà chắp tay thỉnh giáo nhà báo rằng:

- Thưa bác đồng chí đại tá nhà báo, hôm nay bác đã bớt chút thời gian vàng ngọc mà hạ cố đến bổn tệ xá mừng cho cụ em và nhà em thế này là quí hoá vô vàn rồi. Bác lại cho món quà tinh thần rất văn hoá và dân tộc là đôi liễn này làm em vui mừng khôn xiết và cảm kích bội phần. Dám xin nhờ bác đọc và giảng nghĩa cho em ghi lại thì quí hoá hơn nữa ạ!

Được nhời như cởi tấm lòng, ông đại tá nhà báo rất hoan hỉ có phần dương dương tự đắc bảo rằng:

- Cái hôm được ông bạn tôi chuyển giấy mời của chú đến, tôi mừng quá, chỉ trong mấy phút tôi đã hứng khởi nghĩ ra câu đối này để mừng thọ cụ và chúc cho chú. Tôi phải đi thuê may thêu gấp để kịp cho hôm nay đấy. Câu đối là thế này- ông hắng giọng đọc thật to như có ý muốn cho nhiều người cùng thưởng thức tài trí uyên thâm của mình:

- Mẫu thọ cửu tuần, phúc mãn khoan thưởng cao lầu

Bằng trình vạn lí, danh dương mạn trường đại đạo.

- Nhưng diễn nôm ra thì nghĩa là gì ạ? - Chủ nhà sốt ruột hỏi và đang cầm giấy bút muốn ghi lại.

- Nghĩa là – Ông đại tá nhà báo giảng giải:

- Nhà cao cửa rộng, mẹ an khang tuổi thọ chín mươi xuân

Phúc nhiều nhà lớn, con thành đạt đường dài vạn dặm.

Vừa nghe xong, ông giám đốc sa sầm mặt, không còn hào hứng tán thưởng nữa mà kéo tay ông đại tá anh rể nói:

- Bác vào đây em nhờ một tí.

Ông anh rể theo vào gian trong thì ông giám đốc hầm hầm hỏi:

- Quan hệ giữa anh và tay nhà báo này thân thiết đến mức nào mà để hắn làm câu đối chửi bới xỏ xiên em quá thế?

- Câu đối hay đấy chứ, tôi có thấy chỗ nào là chửi bới xỏ xiên đâu nhỉ?

- Thì chắc là bác phô với hắn hai thằng con mất dạy nhà em đứa thì phải đi tập trung cai nghiện, đứa thì đua xe tai nạn bán thân bất toại, nên vế trên thì hắn giả vờ ca ngơị "mẹ an khang tuổi thọ", rồi vế dưới đối bằng câu mỉa mai đểu giả là "con thành đạt đường dài" thì chả là chửi thằng con đua xe máy đường dài nhà em còn gì?

Ông anh rể cười phá lên, bảo:

- Cậu hiểu nhầm ý tốt của người ta rồi, hôm nay chẳng phải mừng thọ mẹ và mừng tân gia của cậu à? "Con" ở đây là chỉ chính cậu đấy, chứ chỉ chúng nó thì phải là "cháu" chứ! Còn "thành đạt đường dài vạn dặm" là ý ông ấy muốn ca ngợi nghề làm đường của cậu xây dựng cho đất nước hàng vạn cây số đường đẹp, đường mới, chứ nào ông ấy biết đâu cậu có mấy con và chúng nó làm gì?

- Ra thế hả bác? Chết thật em tối dạ quá, phải ra xin lỗi ông ấy ngay thôi!

Hai anh em vừa định trở ra thì bị bà vợ ông đại tá hốt hoảng chạy đến báo:

- U nguy mất rồi cậu với thầy nó ạ, chân cứng đờ rồi, tôi véo vào cũng không biết gì nữa. Mấy lại cậu cho vặn nho nhỏ mấy cái loa hát hổng đàn phách lại cho tôi nhờ, nhức đầu quá đi mất thôi!

Ông giám đốc bảo:

- Em biết rồi, cứ cho u ngậm sâm, mai các nhà sư sẽ đến làm lễ cầu siêu tụng kinh xin gia thọ là khoẻ lại ngay ấy mà!

Mặc cho bà chị đứng đấy âu sầu lo lắng, ông giám đốc quay ra phòng khách rót đầy hai chén rượu cầm đến trước mặt ông đại tá nhà báo:

- Xin lỗi, anh em nhà em có tí việc gấp phải trao đổi về sức khoẻ mẹ em. Bây giờ em xin chúc bác một chén để đa tạ bức câu đối tuyệt vời của bác ạ!

Ông đại tá phấn khởi cùng cạn chén với chủ nhà. Ông giám đốc lại cầm mi-cờ-rô ý kiến:

- Thưa ngài cựu bộ trưởng, thưa ba ngài cựu thứ trưởng, thưa các vị tướng lĩnh cùng các quí khách kính mến, hôm nay tôi vô cùng xúc động trước tấm thịnh tình của mọi người đã không quản ngại đường xá xa xôi mà hạ cố đến đây mừng cho mẹ tôi và gia đình tôi, tôi xin vô cùng cảm ơn và chúc quí vị an khang, hạnh phúc, kính mời quí vị cùng cạn ly!

Ông đại tá hô "một, hai, ba". Mọi người cùng hô lớn: " dzô!"

- Thưa quí vị - Ông Giám đốc nói tiếp – Trong các cuộc vui mọi người đều đã thưởng thức ca nhạc lối mới nhiều rồi, hôm nay cũng là để chào mừng cho sự kiện nước nhà vừa được UNESCO công nhận ca trù và quan họ là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại nên tôi đã mời được cả câu lạc bộ ca trù và làng quan họ đến phục vụ. Xin mời bác đại tá nhà báo đây sáng tác ngẫu hứng cho một câu ca để các đào nương thể hiện hầu quí vị ạ!

Ông vừa dứt lời thì bị cô em gái, vợ ông vụ phó sồng sộc chạy ra nắm tay khóc rống lên:

- Ới anh ơi!...

Ông giám đốc vội vàng lấy tay bịt mồm em gái, rồi quát:

- Có việc gì vào trong bình tĩnh nói tao nghe, làm gì mà rống lên thế? - Rồi ông vội kéo em vào trong, rít hai hàm răng quát khẽ:

- Mày có câm ngay cái mồm đi không nào? Mày định phá đám phỏng?

- U đi rồi… anh ơi!... – Cô em sụt sùi nói.

Ông giám đốc lại rít khẽ lên:

- Tao biết từ sáng rồi, nhưng u chết rồi thì mày khóc liệu u có sống lại được không? Tao van mày hãy ngậm cái mồm cho tao nhờ hết hôm nay, rồi mai sẽ khóc được khô…ô…ông?

Rồi ông quay gót trở ra, lại vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra, tươi cười nói với mọi người:

- Xin lỗi đã làm quí vị mất hứng! Chả là thằng cháu con cô ấy nghịch nước sôi bị bỏng nhẹ một tí, nhưng không sao. Nào xin mời mọi người tiếp tục cạn ly!

Loa cứ oang oang hát, bia rượu cứ thoả mái rót, chủ và khách cứ tiếp tục vô tư "trăm phần trăm", lời hát cứ được hết người này đến người kia tranh nhau sáng tác, đào nương và liền anh liền chị cứ thay nhau trổ tài ca trù, quan họ đan xen, cuộc vui cứ vui như thế và kéo dài thêm nữa…

Ông rể đại tá thấy em vợ say lảo đảo rồi thì kéo tay nói khẽ:

- Cậu vào trong anh bảo – Rồi ông lôi tuột giám đốc vào trong.

Gian trong có bà chị cả, vợ ông đại tá, hai vợ chồng ông vụ phó và bà vợ ông giám đốc đang nước mắt ngắn nước mắt dài sụt sùi khóc lóc. Thấy vậy ông giám đốc vung tay nói lè nhè giọng xay xỉn:

- Tôi đã bảo rồi… mọi người hãy chờ ngày mai phát tang rồi khóc thoải mái… còn bây giờ… bây giờ hãy … cứ vui vẻ đã, nghe không?

- Nhưng mà cậu ơi! - Vợ ông đại tá thuyết phục em - Thầy chùa bảo u đi vào giờ thìn, thì ngày hôm nay phải liệm vào chính mùi tức là 2 giờ chiều thì mới tốt, chứ để giờ khác là độc lắm em ạ!

Ông giám đốc lại vung tay lè nhè:

- Độc, độc cái con khỉ. Độc nhà tôi chịu, việc đếch gì đến chị là nữ nhi ngoại đạo…Thôi nhé! Tôi phải ra tiếp khách đây… mà cấm có ai được khóc đấy nhé!

Ông lại lảo đảo đi ra, vừa ra đến cửa thì nấc lên và nôn thốc nôn tháo như đổ cám lợn vào máng, rồi gục xuống giữa đám quan khách đang vui vẻ ồn ào. Vợ ông vội chạy ra xốc nách dìu vào trong, vừa đi vừa nói:

- Khổ chưa, nốc cho lắm vào!

Ông đại tá anh rể, mặt đỏ như quan công giật phắt chiếc mi-cờ-rô của một đào nương đang rên rỉ bài ả đào "hồng hồng tuyết tuyết". ông nói lớn:

- Rất xin lỗi quí vị, vì cậu nó quá say. Tôi thay mặt gia đình làm quyền huynh thế phụ tuyên bố cuộc vui đến đây là kết thúc để chuẩn bị tang lễ cho cụ tôi.

Nghe vậy mọi người đều ngơ ngác, chẳng hiểu ông đại tá nói thật hay ông cũng đang quá say mà nói nhảm. 

NGƯỜI ĐÁNH TRỐNG NGŨ LIÊN 

Công an huyện về làm việc với Ban Thanh tra Nhân dân. Đô ra oai mình là Chủ tịch xã bắn tin doạ những người không ăn cánh có mồm thì cắp có nắp thì đạy. Trước khi Đại hội Thanh tra mở rộng ra toàn dân bàn luận về việc thực thi Luật đất đai, Chủ tịch Đô xin nghỉ công tác để kiểm tra sức khỏe. Đô vắng mặt, nhưng không ngăn cản được tiếng nói trung thực và bất bình của những người nông dân mất ruộng đất bị đói khó cột chặt vào bờ dậu gai.

Thầy thuốc Bệnh viện Việt Nam-Thụy Điển chẩn đoán Đô bị bệnh gút, một thứ bệnh thừa đạm, tứ chi đau nhức, đi không vững. Bác sỹ điều trị Tô Hạnh là chỗ thân tình với Đô, chỉ định những loại thuốc đặc hiệu, nhờ vậy bệnh tình của Đô nhanh chóng thuyên giảm.

Bài liên quan: >>> Sân golf 36 lỗ

Ở bệnh viện điều trị, Đô có điều kiện và thời gian lo công việc riêng. Là một người biết phải đến đâu khi cần thiết, biết nên làm gì khi cần làm, Đô không khó khăn trong việc tiếp cận phu nhân Trưởng Ban Tổ chức Huyện uỷ. Đó là một người đàn bà đứng sau lưng chồng can thiệp vào công việc của chồng, vượt cả quyền ông. Bà thường thay mặt chồng thực hiện những việc thuộc phạm vi tổ chức của huyện. Việc đề bạt người này, chuyển người kia, hoặc cho đi học dài hạn, đến xử lý kỷ luật cán bộ, không ít trường hợp do ý kiến của vợ ông trưởng ban quyết định. Bà nhận quà biếu của những người được ban ân huệ.

Đô có ý định xin chuyển công tác về huyện để thoát khỏi những bê bối. Trực tiếp gặp trưởng ban không được, phải mua đường sang cậy cửa bà. Bà hứa sẽ điều Đô về Ban kinh tế huyện, nếu điều được ông phó ban sang Công ty Xổ số, Đô sẽ lên thay ông ta. Đáp lại thịnh tình của bà, Đô hứa nhận được quyết định về Ban kinh tế huyện sẽ biếu bà 2.000 USD. Đấy mới chỉ là lời hứa. Khi nào cầm quyết định trong tay, Đô thề có trời đất không dám đơn sai…

Bà rất sành sỏi, biết phân biệt tiền thật, tiền giả như máy. Một lần, lấy uy chồng bảo Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giúp Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu Thủy sản vay ba tỷ đồng. Dự án vay tiền được duyệt, bà buộc Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu Thủy sản lót tay 3000 USD. Ông này ma lanh kẹp 10 tờ 100 USD giả lẫn vào xấp bạc thật, đưa bà. Rất nhanh, bà loại ngay được 10 tờ tiền giả và điện gọi Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu Thủy sản sang. Hai người to tiếng, không ai chịu nước mắm thối cả. Rốt cuộc hòa cả làng. Bà chợt nhớ câu nói bất hủ của Brecht: Nếu dũng cảm là mẹ đẻ của thành công thì thận trọng là người thầy của nó. Bà bảo Đô:

- Hồi này đô Mỹ giả nhiều lắm. Ông phải cẩn thận, kẻo mang vào nhà tôi những tờ giấy lộn.

Tuy đã ngã giá với phu nhân Trưởng Ban Tổ chức Huyện uỷ nhưng nguyện vọng của Đô không thực hiện được do đang bị theo dõi sát sàn sạt về những vi phạm Luật đất đai.

Thua keo này bày keo khác. Nghĩa là, phải bằng mọi cách, sau khi xuất viện, dứt khoát Đô thoát khỏi cái cổng làng tăm tối, dù có phải tốn kém bao nhiêu cũng không xá!

*

Thời gian điều trị ở Bệnh viện Việt Nam-Thụy Điển, Đô may mắn làm quen với Tị, cán bộ thanh tra huyện. Theo lời bác sĩ nội khoa, ông cán bộ thanh tra có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim. Ông này gặp Đô. Hai người mới gặp nhau lần đầu đã tỏ ra tâm đầu ý hợp như đôi bạn tri kỷ.

Đô nhận xét:

- Ông là một người lịch lãm, biết cách nói và biết lúc im lặng.

Ông cán bộ thanh tra nói:

- Tôi cũng thấy ông là một người tinh ý, dễ gần, dễ mến, có thể kết thân được.

Ông cán bộ thanh tra Tị đưa Đô về chơi nhà thăm cảnh điền viên chim hót, cá lượn, tùng bách giao duyên trong khuôn viên xanh. Họ uống trà tuyết nước Tàu chế xuất chính hiệu vào buổi sáng dưới tán cây thoang thoảng hương nhài, điểm tâm bánh mì với pho mát, bơ và gan cá thu sau khi khai vị một ly rượu thuốc ngâm theo bài thuốc Minh Mạng nổi tiếng.

Sáng hôm sau, Đô ngồi xe máy ông cán bộ thanh tra Tị lên gặp Giám đốc Ban Dự án Tiến. Đô không hay biết ban này đang có chuyện lục đục. Lãnh đạo chia làm hai phe kiện cáo, nói xấu, lật đổ nhau để giành lấy cái ghế hái ra tiền. Giám đốc Tiến. ỷ vào thế bà Giám đốc Sở Công Thương, lại còn dựa vào thế ông Đảng ủy Dân chính nữa. Gớm thật. Tả có bà giám đốc Sở Công thương, hữu có ông Đảng uỷ Dân chính thì Giám đốc Tiến chắc chăn mãi mãi giữ cái ghế Giám đốc Ban Dự án như chuột chui chĩnh gạo. Khổ người vạm vỡ, nước da trắng, khuôn mặt hồng hào, tuy đã vào tuổi ngũ tuần, Giám đốc Tiến chưa thấy xuất hiện một vết nhăn trên trán.

Biết Đô có nguyện vọng xin chuyển công tác về Ban Dự án, ông ra điều kiện:

- Chắc là ông rõ, thời buổi bây giờ, nhận một người ngành khác về, không có chuyên môn dễ bị dị nghị, thậm chí kiện cáo lôi thôi lắm.

Đô đi ngay vào vấn đề:

- Trước hết tôi cảm ơn đã có nhã ý giúp tôi được chuyển về giúp việc ông. Ông có thể bố trí tôi làm bất cứ việc gì cũng được. Còn điều kiện thì, xin ông cứ dạy, tôi sẵn sàng. Tôi hiểu thời buổi cơ chế thị trường bây giờ khắc nghiệt, muốn có công việc làm, không thể nói suông.

Giám đốc Tiến đỡ lời:

- Thôi được.Ông cứ nộp hồ sơ về phòng tổ chức. Trong hạn một tháng, tôi sẽ ra thông báo tiếp nhận ông. Nhưng tôi cứ phải nói trước với ông, nếu trường hợp đặc biệt mà bản thân tôi không thể vượt quyền tôi được thì ông cũng phải thông cảm vậy.

Đô ra về, lòng khấp khởi mừng. Một tháng sau có trong tay 2.000 USD, Đô nóng lòng chờ cú phôn của Giám đốc Tiến, một cú phôn đưa Đô từ một cán bộ quèn đang bị săn lùng, rất có thể bị loại ra khỏi biên chế, khi chính người làng Đông rờ đến những việc làm khuất tất bỗng nhẩy phốc lên vị thế hái ra tiền. Nhưng sự đời thật lắm éo le.Giẫm mòn ngõ nhà bà Trưởng Ban Tổ chức Huyện uỷ mất cả chì lẫn chài không ăn giải gì lại giẫm phải vết xe đổ khác.

Lưng Đô đã còng, đôi chân tuy mới dặt dẹo, nhưng đã phải nằm liệt giường cả tuần lễ, cứ tình trạng này tiếp diễn không khéo chân Đô  phải đóng đinh trên cái phản ông cố nội hắn để lai, thì vô vàn cực nhọc. May được con mẹ vợ hai lấy chui hồi làm Bí thư Đảng uỷ xã chăm ẵm không thì ngoẻo lâu rồi

Tới nơi, Đô mới biết Giám đốc Tiến đi làm bằng ô tô bốn chỗ màu én bạc, đến đâu cũng có kẻ đón người đưa vì lệnh chi, lệnh xuất bất cứ lúc nào, bất cứ đâu, khiến Đô cứ cuống lên. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, cái thông báo tiếp nhận Đô, Giám đóc Tiến chưa kịp ký để giáp con triện đỏ vào thì đã có lệnh dừng, không được báo lý do. Thế là Đô lại lần nữa thất vọng.

Bị thất vọng tâm bất an, lại ăn uống nghỉ ngơi không điều độ, đặc biệt là những vụ việc ở làng xã đang bị phanh phui, lên án khiến cho sức khỏe Đô suy kiệt rất nhanh.Vốn người nhàng nhàng, da lúc nào cũng tái xám, mặt lúc nào cũng cau cau có có trông hom hem thiểu não đến tội nghiệp, Đô bị hạn chế đi lại và bắt buộc phải tuân thủ các chỉ định

của thầy thuốc về chế độ thuốc men, chế độ ăn uống, nghỉ ngơi để chờ hội chẩn. Đô rất khổ tâm vì chẳng mấy ai đến thăm hỏi động viên kể cả những kẻ Đô cắt đất công cho nuôi tôm càng xanh phất lên giàu có, kể cả những kẻ Đô cho ức này chức nọ quyền uy cả làng phải nể sợ.

*

Thuở cơ hàn, vô gia cư, bữa đói bữa no bị người đời khinh như mẻ, dân làng Đông gọi Chủ tịch huyện là Cu Bần. Cu Bần thuở ấy vật vờ đầu đường xó chợ lang bạt kỳ hồ kiếm sống bằng đủ mọi thứ việc nặng nhọc. Tuy không phải cái khố kéo háng như cha, nhưng áo vá vai, quần xắn móng lợn, làm quần quật cũng chỉ tay vày lỗ miệng. Giữa lúc ngặt nghèo ấy, Đô đã giang tay ra đỡ. Vốn là người nhạy cảm với nỗi khổ của cha của mẹ, Cu Bần nung nấu ý chí rửa hận cho ông, cho cha để lập nghiệp giàu có nhất làng Đông, thề không chịu lép vế bất cứ người làng Đông nào.

Năm đến tuổi đoàn, Đô nói với mẹ cho Cu Bần về ở nhà mình, cho sinh hoạt trong Chi đoàn xóm Nam. Đô dìu dắt Cu Bần từ phong trào làm phân xanh mà lên. Người thanh niên sức vóc ấy đã làm một việc kỳ diệu: Đưa bèo dâu đan cánh vào đồng ruộng làng Đông. Thời ấy, làng Đông chưa ai biết làm bèo dâu để bón ruộng. Cu Bần đã đi đầu phá kỷ lục năm mẫu bèo dâu đan cánh, trở thành kiện tướng làm phân xanh của huyện, được ghi tên vào bảng vàng danh dự của Huyện đoàn. Chiến Thắng đi vào lịch sử làng Đông từ cánh bèo dâu đan cánh cho đến bây giờ thì sáng danh Chủ tịch huyện. Đô giới thiệu Chiến Thắng vào Đoàn và cũng là người đầu tiên nặng ký giới thiệu Chiến Thắng vào đảng. Sự giúp đỡ của Đô, Chiến Thắng ghi sâu trong tim trong óc, nhưng khi thuộc câu danh ngôn bất hủ: “Nếu bạn thi ân thì đứng nhớ nó, nếu bạn thọ ân thì đừng quên nó,”mặc dù biết rõ Đô bị tứ chứng an y, đang nằm điều trị tại Bệnh viện Việt Nam-Thuỵ

Điển, Chủ tịch huyện Chiến Thắng không sang thăm hỏi để cảnh báo ân nhân đang bị xem xét trách nhiệm về vấn đề vi phạm Luật Đất đai. Vả lại Chiến Thắng không muốn dây vào của hủi bởi gần đây dân làng Đông mới khui lại chuyện mười lăm năm trước, hồi ông còn làm Chủ tịch xã. Nghe Đô nịnh nọt, ký tọet vào văn bản gạt ông Phạm Kha, người có công lớn trong phong trào hợp tác hóa, người duy nhất trong xã bán mười tấn thóc lấy tiền mua công trái xây dựng đất nước ra khỏi danh sách Chiến sĩ thi đua để suy tôn Dương Thị Thé, càng khiến dân làng Đông bất bình. Có người bạo mồm bảo:

- Nhà chị Dương Thị Thé vốn tự có phây phây ra thế, làm gì mà chẳng đậu Chiến sĩ thi đua.

Ông Phạm Kha bị thiệt đơn thiệt kép do một chữ ký của Chủ tịch xã. Mất danh hiệu Chiến sĩ thi đua, năm năm sau, ông Phạm Kha mất thêm khoản kinh tế lớn, khi được thanh toán tiền công trái mười tấn thóc đong không nổi một tấn. Chị Dương Thị Thé chẳng mài danh hiệu Chiến sĩ thi đua ra mà ăn, đã thế, cuối năm ấy, lại treo cổ tự tự vì trót có bầu với ông cán bộ nào đó, xấu hổ không muốn sống.Không hiểu cái danh Chiến sỹ thi đua và cái chết của nhà chị Thé có liên đới đến Đô không, nhưng chuyện đã vùi sâu dưới bãi tha ma mười lăm năm rồi, bỗng bị khui lên. Trần Đô sớm hiểu ra điều ấy, không trách cứ Chủ tịch huyện Chiến Thắng không tới thăm hỏi là vì sự bất tiện đối với ông. Bấy giờ Đô thực sự hiểu mình đang ở vị trí nào, càng sinh nghĩ ngợi về mọi mối quan hệ với họ hàng, làng xóm, với đồng chí, bạn bè. Chỉ tiếc là khi nhận ra cái chân,cái thiện thì đã quá muộn. Lần đầu tiên Đô sám hối về lỗi lầm của mình đối với dân làng Đông.

Đô ở trong ngôi nhà hai tầng bề thế. Tầng dưới có phòng khách sang trọng đủ bộ tứ: tủ chè, sập gụ, bộ tràng kỷ và một cái gương lớn khung chạm long chầu nguyệt; tầng trên là phòng nghỉ của vợ chồng hắn khép kín, buồng tắm nóng lạnh lúc nào cũng sẵn nước hoa, xà phòng hảo hạng.

Ở làng Đông này chẳng mặt nào sánh được, nhưng không biết tại đâu, lâu nay Đô chẳng thiết tha gì đến nhà cửa, vợ con. Ông Pháp Đáy bảo người mà dửng dưng với tổ ấm gia đình là điểm báo gở. Đô quên đi thì thôi, hễ nghĩ đến giọng nói như dao chém vào gỗ của lão nông dân choăn choắt trong cuộc họp  nhân dân xây dựng Đảng và Chính quyền thì lòng dạ lại như ràu muối.

- Nhà tôi và nhà ông Đô số nhân khẩu bằng nhau. Ruộng cấy lúa, trồng màu nhà tôi đều nhích hơn nhà ông Đô năm thước cả thảy. Sản lượng lương thực năm ít nhất nhà tôi cũng thu được hơn tấn, hơn đứt nhà ông Đô. Còn khoản thu về chăn nuôi thì nhà ông Đô thua xa nhà tôi. Nhà tôi lúc nào cũng có năm con lợn cấn, hai con lợn sề, năm xuất chuồng ít ra cũng được mười triệu, cho là bằng khoản lương cán bộ huyện tăng cường ba cọc ba đồng của ông Đô. Thế mà nhà tôi không lát nổi cái sân, vợ chồng con cái đầu tắt mặt tối. Nhà ông Đô thì cả nhà nhàn nhã. Bà vợ ngày hai lần đánh cầu lông rồi đi bộ nhanh để giảm béo, còn ông Đô đi làm bằng cái Dream II, con ông đi học bằng cái ISUZU mới toanh. Thử hỏi, ông Đô làm gì mà có thu nhập cao, ăn chơi sắm sửa khiếp thế? Chả trách người ta bảo: Chỉ có nghề làm quan là giàu nhanh thôi. Ông Đô làm quan cách mạng chứ đâu phải là người Nhà nước lấy việc điều hành công việc của dân thông qua hệ thống pháp luật?

*

Đô cảm thấy đau lòng nhất, vì không nói được điều gì để lý giải cho dân làng Đông biết cách làm giàu. Đô thở dài tự thán: Ta mất tất cả rồi ư? Vì sao vậy?

Dân làng không ai không biết Đảng bộ xã có nhiều cán bộ đảng viên không giữ được phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính. Bọn thoái hóa biến chất, mất lòng tin của nhân dân vẫn nghiện hành dân. Trong các cuộc họp phê bình và tự phê bình, cán bộ, đảng viên đều khẳng định khuyết điểm nghiêm trọng, nhưng việc sửa chữa khuyết điểm lại rất chậm vì không quy rõ được trách nhiệm người vi phạm và thiếu biện pháp chỉ đạo khắc phục. Bí thư Đảng ủy tự kiểm điểm thiếu đi sâu đi sát cơ sở, ít lắng nghe ý kiến cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên góp ý xây dựng một cách thiết thực, việc điều hành xử lý công vụ thiếu kiên quyết, tình trạng nể nang dẫn đến kéo bè kéo cánh vẫn còn tồn tại.

Cuộc đấu tranh chống tham nhũng nổ ra, người làng Đông mới có nơi, có chỗ để nói ý nguyện của mình với vị lãnh đạo cao nhất huyện do mình bầu ra. Chủ tịch huyện Chiến Thắng thay mặt đoàn đại biẻu Hội đồng Nhân dân huyện tiếp xúc với cử tri làng Đông với thái độ nghiêm túc, cầu thị, cẩn trọng ghi đầy đủ ý kiến phản ảnh sự không minh bạch của những người đứng mũi chịu sào gây thất thoát tài sản của Nhà nước và của nhân dân. Tại sao cán bộ làng, xã thì ngày càng giàu sụ lên, mà dân thì vẫn nghèo đói? Chủ tịch huyện Chiến Thắng hứa sẽ cử ngay cán bộ có trách nhiệm về xem xét từng vụ việc và sử xử lý những cán bộ vi phạm đạo đức, vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính. Nhưng ông về huyện rồi, mọi chuyện ở làng Đông lại đâu vào đấy.

Người làng Đông lo ngại cho cái Re khổ vì thằng chồng khốn nạn ruồng bỏ để lại cho nó một nách hai đứa con ăn chửa no, lo chửa tới đang ở yên ở lành trong cái nhà chẳng ra nhà trên thổ đất do bố Re vật ruộng phần trăm mà thành, cho con lấy chỗ nương thân ấy vậy mà mấy tay cán bộ làng, xã lại thúc bọn tay chân đến lẳng cho bằng hết những viên gạch xỉ nó ki cóp để có cái đổ nồi. Hỏi ra mới biết, lệnh trên xã bảo cái Re chiếm đất của làng, phải dỡ bỏ nhanh để làm gương cho những kẻ lấn chiếm đất công. Cái Re dắt díu con lên xã kêu oan. Đô bảo lên huyện! Cái Re không lên huyện mà nó vác cái trống đại treo giữa cổng Uỷ ban Nhân xã đánh năm hồi vang vọng khắp làng. Dân làng Đông đổ ra chật cả đường gây ách tắc giao thông.

Đô ra lệnh cho Công an huyện bắt cái Re, nhưng ông công an này không chấp hành mà chỉ thuyết phục nó về và hứa sẽ giải quyết yêu cầu của nó trong một tuần rồi cho nó hai triệu đồng về làm vốn khỏi tắt bữa. Cái Re về. Bà con dân làng Đông tự giải tán, ai về nhà nấy chờ cách giải quyết của công an xã.

Công an huyện biết bố nó hồi kháng chiến 9 năm đi làm Việt Minh giết tên tay sai Pháp là tổng Hường, giết cả thằng cai Sáng ở đồn Lân chuyên vào làng bắt gà, hiếp đàn bà con gái. Vậy ông là người có công với cách mạng, con ông phải được ưu đãi. Công an lập chuyên án điều tra vụ án phá hoại tài sản công dân. Đã tìm ra tung tích những tên làm theo lệnh Đô xông vào nhà cái Re lấy đi của mẹ con nó từ cái chổi cùn, rế rách. Mấy cây chuối đang ra hoa cũng bị chặt phá. Ổ gà mới nở mấy con nhiếp bị đập chết tươi. Mẹ con Re bị đuổi ra khỏi mảnh đất của bố nó là một Việt Minh gốc bị Tây treo giải thưởng một nghìn tiền Đông dương cho kẻ nộp đầu ông. Dân làng Đông mừng cho mẹ con cái Re gặp ông công an tốt bụng sẵn lòng cứu người dân oan ức. Nhưng còn bao nhiêu chuyện oan khuất khác của người này, người kia đã trình cả lên xã, lên huyện, lâu lắm rồi không thấy hồi âm. Làng khác thì họ đã kéo lên gặp Chủ tịch huyện Chiến Thắng. Dân làng Đông thì không làm vậy. Họ tin là mọi chuyện sẽ được giải quyết thấu tình, đạt lý

ANH EM KẾT NGHĨA

Cụ thân sinh ra giám đốc về với tổ tiên. Ông cán bộ kỹ thuật mỏ, anh em kết nghĩa với giám đốc về chịu tang cũng mặc áo sô, thắt lưng dây chuối, đội mũ rơm, mũ gậy đứng sau con trưởng. Một người nội tộc ngẫm: Quái thật, lúc sinh thời cấm thấy mặt đứa nào, ngoài thằng con trưởng thế mà khi nằm xuống, lại nảy nòi ra một thằng cu. Có lẽ thời trai trẻ cụ nhăng nhít, đẻ ra hắn, nhưng sợ mang tiếng, giấu bặt đi. Em kết nghĩa của giám đốc biết người ta dị nghị, cũng cảm thấy ngượng, nhưng vì đã trót, chả nhẽ...Ông đành nuốt nước miếng, đánh ực một cái rồi về chỗ mình, bên trái hương án, đáp lễ bà con viếng hương hồn cụ cố.

Ông con nhận cũng được bổ đầu chịu ba mươi triệu rưỡi tiền lo việc tang lễ cho người quá cố như những con ruột cụ. Vợ giám đốc bảo đã vào làm anh em với nhau thì bố mẹ là bố mẹ chung, phải có trách nhiệm.Vợ chồng chúng tôi biết chú là người tử tế.

Ông em kết nghĩa cảm động nói bụng em là tấm bánh, em bóc ra cho anh chị xem ngay. Xin anh chị hiểu cho. Sao lại không hiểu? Không hiểu mà khi có chủ trương cấm khai thác than trái phép, trái quy trình công nghệ để lập lại trật tự trong việc khai thác than trên địa bàn, lò "than thổ phỉ" của chú không những không bị đánh mìn sập, mà còn được chiếu cố ký hợp đồng trực tiếp với mỏ. Mỏ giám sát kỹ thuật và thu mua hết sản phẩm, tạo điều kiện cho chú nhanh thu hồi vốn. Nhưng cơ hội làm giàu không được bao lâu, ông em kết nghĩa phải ra sức bòn rút tài nguyên của đất nước bằng cách tranh thủ mở vỉa mới, mộ thêm lao động nông nhàn ở nhà quê với giá công rẻ mạt thì giám đốc lại phù phép cho thằng em kết nghĩa hốt bạc tỉ.

***

Trước kia, ông cán bộ kỹ thuật mỏ trả bọn công nhân đội than dưới lò lên 40.000 đồng một tấn thì bây giờ đánh tụt xuống còn 30.000 đồng. Ông bảo trên ra lệnh cấm. Tôi phải chạy cửa, biếu xén nhiều, chi phí lớn, vì thế anh em cũng phải gánh chịu với tôi, để ta có việc làm. Vả lại, ta còn làm ăn với nhau về lâu về dài. Những người nhà quê nhọc nhằn đói khát, không có việc làm phải dấn thân tìm đường ra mỏ kiếm miếng cơm manh áo, biết rằng mình bị bóc lột nặng nề, nhưng đồng tiền kiếm được so với ở quê nhà vẫn gấp nhiều lần và thật sự nó có thể cứu cánh khi cơ nhỡ nên đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Một năm, 87 con người cần mẫn đào lò, khoét than không đòi hỏi ở ông điều gì hơn là tháng chỉ trả lương một lần. Họ sẵn sàng ăn bốc ăn bả mang lại cho ông một khoản lợi nhuận 7 tỉ 400 triệu đồng. Khoản lợi nhuận đó, ở vùng mỏ này số người kiếm được cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Người ta liệt kê có các quan chức cỡ “bự,” có bà víp rót vốn mở cảng, lập đội tàu vượt phao số không, có các chủ mỏ đội lốt nhà nước ăn xuất tận thu than rơi vãi bằng cách cho xe lớn xuống sâu trong lòng đất...

Ông cán bộ kỹ thuật mỏ cũng hiểu là như thế, và ít nhiều lại biết chữ thánh hiền, biết cơ chế thị trường, biết đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết người đã giúp mình trong lúc cấn cái. Chính vì biết những việc đó, cho nên ông luôn luôn tâm niệm phải làm một việc gì đó đúng với cái nghĩa của đồng chia ba để báo đáp giám đốc, ông anh kết nghĩa.

***

Ông cán bộ kỹ thuật mỏ đến nhà lão nhà báo ở phường Lãn Ông, số 16, tận trong hẻm 8. Lão nhà báo lịch lãm mời ông chén trà. Ông chiêu một ngụm thưởng thức hương vị đồng nội mà cao sang của thứ trà chính tay chủ nhân sao tẩm, chính tay chủ nhân đun nước, tráng ấm pha trà. Ông thành thật: Thưa ông, ông là người của văn chương. Tôi rất quý trọng những thiên phóng sự điều tra của ông đăng tải trên các báo. Nhưng xin ông tha lỗi về sự đường đột và thất thố này của tôi, vì là...Lão nhà báo ngắt lời khách: Có chuyện gì xin ông cứ nói, tôi sẵn sàng nghe đây, không việc gì phải rào đón, vòng vo. Tính tôi, ông biết rồi đấy, cứ thẳng tuột. Bấy giờ ông cán bộ kỹ thuật mỏ mới chậm rãi thưa: Thưa ông. Tôi biết ông chưa cần tiền, chưa có ý định bán thổ đất ở phố Dã Tượng. Nhưng tôi thì lại rất thích thổ đất của ông vì thế rất nhiều thổ đất ở phố Đông Quan bán, đã đánh tiếng đến tôi với giá bán 2 chỉ một mét vuông. Nhưng tôi quên tuột, mà chỉ kết thổ đất của ông. Tôi xin được chồng 5 chỉ một mét vuông. Nhưng ông biết đấy, 5 chỉ một mét vuông là đắt gấp đôi giá thị trường hiện nay. Xin ông hiểu cho, tôi không phải kẻ hãnh tiến, cậy của mà chỉ vì tôi thích thổ đất của ông.

Lão nhà báo với cái điếu cày rít sòng sọc, rồi lên tiếng: Mạn phép ông, tôi xin được hỏi, ông thích thổ đất của tôi vì lẽ gì vậy? Ông cán bộ kỹ thuật mỏ đáp: Tôi xin ông cái lộc.

Vốn là người tự trọng, hiểu đời mà lại có một kẻ có thế, giàu có ở thị xã đến hạ mình xin lộc, sướng quá đi rồi còn gì. Ông ta đã cất lời khẩn cầu mà mình khước từ, thì còn ra cái quái gì đấng văn chương? Lão nhà báo nói như đinh đóng cột: Tôi đồng ý. Ngày mai ông nộp đủ tiền. Tôi giao đất và làm ngay thủ tục chuyển quyền sử dụng cho ông. Xin ông nhớ cho, công việc này chỉ giải quyết nội ngày mai.

***

Hai hôm sau, ông em nhận đặt trước mặt anh chị nuôi cái bìa đỏ. Chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà chị. Bà chị hỏi: Đây là quà chú tặng tôi? Ông em nhận đáp gọn: Vâng! Ông toan xin cáo từ ân nhân thì giám đốc vỗ vai ông bảo: Tôi có chuyện này cần nói với chú. Giám đốc mời ông một ly rượu mạnh: Kẻ thức thời là kẻ tuấn kiệt, phải không chú? Giám đốc rót rượu vào ly ông. Ta cạn đi chú, rồi anh em vào chuyện. Giám đốc ngả người tựa lưng vào thành chiếc ghế bành, đôi mắt đăm chiêu: Tôi nghỉ hưu. Ông em nhận giật mình thon thót, hỏi gấp gáp: Anh nghỉ hưu? Giám đốc gật đầu: Tình thế không cho tôi nán lại được nữa, vì rằng, không sớm thì muộn cấp trên sẽ kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nghe đâu, cấp trên quy kết tôi là “cai than.” Chà, chà... “cai than” là ai? Là tôi! Là chú! Đã kiểm tra thì chú biết đấy, cấp trên sẽ phát hiện ra những khuyết điểm. Khuyết điểm thì sẽ bị xử lý. Không xử lý thì cấp trên kiểm tra làm gì. Chú biết rồi đấy. Mấy năm vừa rồi, đơn vị mình hợp đồng thời vụ hàng trăm lao động nông nhàn và bộ đội nghĩa vụ. Than họ làm ra, đơn vị mình thu mua đem hoà mạng vào than mỏ sản xuất, đương nhiên là phải đội giá lên để có khoản chi ngoài. Tôi lo là lo ở chỗ ý. Về hưu cho yên chuyện. Hậu hoạ sau này thằng giám đốc thay mình nó gánh chịu. Tránh voi chẳng xấu mặt nào mà chú!

Nghe giám đốc nói về thân phận mai ngày tai hoạ giáng xuống đầu, khiến ông em nhận, cán bộ kỹ thuật mỏ ngao ngán. Ông thở dài não ruột. Giám đốc được ông chia sẻ nỗi lòng, lôi hết cả ruột gan ra: Năm ngoái công nhân đã lâm cảnh thiếu việc làm. Họ phải tự lo liệu kiếm sống. Nhiều thợ lò bậc 4, bậc 5 cũng phải xung vào đội quân “than thổ phỉ.” Chú còn lạ đếch gì. Rồi khoản tài chính rối tung rối mù lên. Khoản lỗ trong hai năm dồn lại. Khoản chi vào việc không đâu do "than thổ phỉ" các chú gây ra. Bao nhiều chuyện đau đầu không thể lý giải được. Do vậy, tôi tính ba mươi sáu chước, chước nghỉ hưu là thượng sách nhất chú ạ!

Ông em nhận thật sự cảm thấy lòng mình như có lửa, bởi vì, nếu như giám đốc về hữu thì ai là người đỡ đầu ông trong khi cơ nhỡ? Có việc, tiền nhiều cũng không giải quyết được.Tiền là cái đếch gì. Có ai bỏ tiền vào quan tài đem chôn đâu, nhưng tiền thì bỏ mạng sống con người vào áo quan là chuyện thường tình. Cho nên phải thức thời là vì thế. Ông em nhận nói với ông anh kết nghĩa: Bác tính là kín kẽ, nhưng em nói thật nhá, bác doạ em đấy thôi, còn lâu bác mới hạ cánh. Bác Đoành còn thì bác vẫn trụ vững.

***

Cấp trên quyết định loại chủ lò “than thổ phỉ.” Mỏ trực tiếp đứng ra hợp đồng thời vụ số lao động ông em nhận giám đốc đang sử dụng và, nhập hết than ông em nhận dồn đống lại. Giám đốc lại để cửa cho ông em nhận về chân chuyên viên kỹ thuật, trực tiếp theo dõi việc khai thác “than thổ phỉ” trái phép, trái quy định kỹ thuật. Ở vị trí công tác mới không chỉ có mầu do các lò “than thổ phỉ” bồi dưỡng mà qua đó, ông còn phát hiện ra 2 vỉa than lớn nục nạc, chất lượng tốt, khai thác thuận lợi hơn các vỉa than khác, để tính kế làm ăn khi có cơ hội. Ông khẩn trương tiến hành khảo sát thiết kế lập quy trình quy hoạch khai thác quý, năm, đồng thời lên hộ chiếu khai thác.

Qua số liệu thu thập được, ông khẳng định các lò trước đây ông tổ chức khai thác đã cạn kiệt, chỉ còn cách mỏ lộ vỉa sang cánh đông và đông nam thực hiện cơ giới hoá bằng máy xúc gầu ngược loại nhỏ, xe gạt Nhật 300 - 400 mã lực, xe vận tải chở đất, chở than 10 - 15 tấn và hệ thống quạt hút gió di động có thể xuống sâu dưới lòng đất từ 200 mét trở lên, trong thời gian 12 tháng, có khả năng khai thác 1 triệu tấn than. Nếu được cấp trên phê duyệt phương án tối ưu này và ưu ái bao tiêu sản phẩm, không phải bán trôi nổi trên thị trường, thì đã siêu lợi nhuận rồi. Đấy là chưa kể, nếu được cung cấp vật tư chuyên dùng theo định mức như gỗ chống lò, vât liệu nổ cộng với lực lượng lao động nông nhàn, bộ đội nghĩa vụ đảm nhiệm từ khâu đào lò, vận chuyển than trong lò đến sàng lọc cũng như các khâu làm đường, rửa sạch than v.v. và v.v. thì giá thành một tấn than còn có thể tụt xuống khoảng 25 - 30 phần trăm, lợi nhuận sẽ lớn hơn nhiều. Điều đó càng làm cho ông lo sợ giám đốc về nghỉ hưu.

***

Giám đốc cho gọi ông em nhận đến bảo: Tôi còn ngày nào làm giám đốc thì ngày ấy tôi còn lo cho chú. Hiện nay cơ may đã đến. Chú suy nghĩ kỹ đi. Nếu có khả năng kinh tế thì chú bỏ vốn ra đầu tư cơ giới. Khai thác than lộ vỉa. Bán cho mỏ. Lời ăn lỗ chịu, nhưng vẫn mang danh nghĩa khai trường của mỏ.

Quý độc giả kính mến! Bây giờ các mỏ đã được phân chia tài nguyên. Người ta cắm mốc biên giới cho từng đơn vị. Thị trường tiêu thụ đã được thiết lập lại thống nhất một đầu mối không có nguồn tài nguyên nào không có chủ. Một số mỏ dựa vào chủ trương này mời các ông có quyền thế, có tiền bỏ vốn ra đầu tư rồi thuê chủ lò và đám nhân công rẻ mạt khai thác, sản phẩm bán cho mỏ. Các ông vừa đá bóng vừa thổi còi thực hiện chủ trương cấp trên, các ông đâu có sai. Nhưng điều đáng nói là, mỏ mua than ngoài kế hoạch đem hoà mạng vào than sản xuất chính của mỏ, cộng chi phí bóc đất, đá mét lò chuẩn bị, để ăn chênh lệch giá.

Số đông “cai than” nhờ thế mà giàu nhanh. Những biệt thự lộng lẫy ở Vịnh Hạ Long, ở chốn kinh thành mà các ông tạo lập là nhờ những kẽ hở trong khâu quản lý này của nhà nước và sự khốn khổ của những người tha phương cầu thực để đào “than thổ phỉ” cho các“cai than.”Ông nhà báo họ Ngô, người đầu tiên cảnh báo "than thổ phỉ” là một đại dịch, nó sẽ gây ra những thảm hoạ khôn lường cho đời sống con người, hàng ngày sống với than và chết với than. Khi chạm trán "cai than” thì nỗi đau đến xé lòng, khiến ông phải mài sắc ngọn bút để sáng lên những trang báo. Nói trắng phớ ra là chỉ “đào mỏ” và “đào mỏ” mới nhanh giàu sụ.

***

Ông cán bộ kỹ thuật mỏ thầm nghĩ đến lão nhà báo “hâm” mới bán cho ông thổ đất ở phố Dã Tượng năm chục cây vàng mười. Lão máu phiêu lưu, đã một thời gian tham gia đội quân cán thép xây dựng, bị đổ bể, trắng tay. Lão dựng một túp lều ở ngay vệ đường hàng ngày ông Chủ tịch thị xã thường hay qua lại. Vợ chồng, con cái lớn nhỏ, năm mạng người chui rúc vào cái ổ chuột thảm hại. Từ chỗ khốn đốn cùng kiệt ấy, lão gượng dậy nhờ đem chất xám uốn cong ngòi bút phục vụ mấy “ôn” có quyền thế trong mỏ rồi phất lên chễm chệ ngồi trên thổ đất ở phố Dã Tượng, trung tâm thị xã. Ông biết lão nhà báo cả tin, nếu khai đúng huyệt, lão sẵn sàng rút cả gan ruột ra.

Cái gì đến nó sẽ đến. Chỉ một tuần, sau cuộc chạm cốc ở  Biển Mơ, lão nhà báo đưa lại cho ông cán bộ kỹ thuật mỏ nguyên xi năm chục cây vàng ông mua thổ đất ở phố Dã Tượng của lão với lời cam kết miệng: Liên doanh đầu tư khai thác than. Mỗi bên góp vốn năm mươi phần trăm (năm chục cây vàng). Lời ăn lỗ chịu. Lão cũng chẳng thèm bảo ông viết giấy biên nhận của lão năm chục cây vàng, vì lão vốn người quân tử. Năm chục cây vàng, to thật, đối với lão là máu, là thịt, nhưng một khi đã tin ông cán bộ kỹ thuật mỏ, không phải tên đốn mạt, lão sẵn sàng hơp tác vô điều kiện. Lão bảo ông cán bộ kỹ thuật mỏ: Khỏi cần phải nói dài dòng văn tự. Tôi tin ông. Làm ăn với ông. Ông gạt tôi thì trời đánh ông bể đầu. Vậy thôi. Ông cán bộ kỹ thuật mỏ đáp lời lão: Dẫu có bạc vàng ngàn vạn nén, chẳng bằng kinh sử một vài pho. Lão nhà báo vỗ đùi đánh đét một cái: Chí phải! Chí phải!

***

Ông cán bộ kỹ thuật mỏ đem đầy đủ giấy tờ giám đốc chứng nhận cái lò ông liên doanh với lão nhà báo bị cháy khí mê-tan buộc phải đình chỉ sản xuất. Thiết bị trong lò như quạt hút gió, máy bơm, đường điện v.v... không thể lấy ra được bất cứ thứ gì. Đương nhiên, vốn đầu tư của ông cán bộ kỹ thuật mỏ và lão nhà báo “hâm” bỏ ra, cả hai đều mất trắng. Lão giỏi văn chương chứ đâu thông hiểu chuyện hầm lò, nhất là khí cháy mê-tan thì lão chịu, làm sao dám đem cái thân gầy guộc, đen đủi vào lò để chuộc vạ vào thân.

Trước khi chung vốn “đào mỏ” lão nhà báo đã tham khảo ý kiến giám đốc, ông anh kết nghĩa của ông cán bộ kỹ thật mỏ. Giám đốc bảo, chúng tôi có trong tay cả một hệ thống kỹ thuật đầy đủ thiết bị đảm bảo an toàn tuyệt đối, ông lo quái gì cái cục vàng năm chục cây “bọ.” Tôi nghe nói, nạn cháy khí mê - tan ghê lắm. Lão nhà báo lo lắng. Thằng trên cây không sợ, thằng dưới gốc cứ quýnh lên là làm sao? Chúng tôi phải phòng cháy khí mê-tan trước đã rồi mới ra quyết định khai thác. Ông giám đốc nói thế. Và, hôm nay không ai khác chính ông ra quyết định đình chỉ khai thác ở cái lò lão nhà báo liên doanh với ông cán bộ kỹ thuật mỏ.

Cũng phải thôi. Lão nhà báo còn lạ gì những vụ cháy khí mê-tan chết vô thiên lủng cửu vạn đào “than thổ phỉ.” Lão sợ liên luỵ với chủ lò lo cho người chết, cho gia đình người chết lại còn phải lo cho các quan chức đến khám tử thi, đến khám hiện trường để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người sử dụng lao động. Chao ôi, vẫn phải đi tù đi tội nếu không chạy được cửa người ta đỡ cho. Thế là lão nhà báo may mắn lắm rồi, không phải liên luỵ gì hết. Còn 50 cây vàng, là cái đếch gì. Của đi thay người. Lão nhà báo sẽ làm lại từ đầu. Lão nhà báo sẽ lại có thổ đất đẹp hơn thổ đất ở phố Dã Tượng bán cho ông cán bộ kỹ thuật mỏ.

Lão nhà báo tin số lão sướng về cuối đời. Lão nằm khểch đọc thiên phóng sự điều tra về "Cái chết trắng" đăng trên tờ Thời Báo. Lúc này đối với lão nhà báo, thiên phóng sự điều tra về "Cái chết trắng" thật sự là chỗ dựa tinh thần cho lão để lão tiếp tục văn nghiệp. Lão nhà báo đâu biết cái lò lão liên doanh với ông cán bộ kỹ thuật mỏ không phải cháy khí mê-tan, không phải khí độc, không phải bục lò, buộc phải đình chỉ sản xuất mà vì cạn kiệt tài nguyên, khai thác không hiệu qủa người ta bỏ đi. Lão mất trắng 50 cây vàng. Lão đọc đến đoạn kết thiên phóng sự điều tra về: "Cái chết trắng" thì có tiếng chuông điện reo. Lão giương mục kỉnh lên cầm ống nghe. Đầu dây bên kia nói chuyện với lão là người đàn bà. Bà ta bảo lão: Tôi rất hoan nghênh bài báo ông đăng trên tờ Thời Báo. Viết như ông mới là nhà báo. Ông rất gây ấn tượng đối với tôi đây. Ông biết rồi chứ? Nếu ông bằng lòng thì ngay chiều nay, đúng 16 giờ mời ông cùng tôi ra Biển Mơ ta thưởng ngoạn món cá lẩu Tàu. Ông nhận lời rồi đấy nhé. Chào ông! Đúng 16 giờ tôi đón ông ở Bến Tàu. Lão nhà báo đặt máy ngẩn người ra trước sự cám dỗ của người đàn bà mà lão rất nể trọng bấy nay. Lão cố mường tượng lại những ngày lão gặp bà ta với giọng xởi lởi, chân tình. Bà ta khen lão hồi này béo ra, da dẻ hồng hào. Chắc là lão nhà báo viết khoẻ mới được tạng người thế!

Đó là một buổi chiều ghi dấu ấn trong đời làm báo của lão nhà báo. Ngồi vào bàn tiệc rồi, người đàn bà quý phái rút trong cạp quần ra mảnh giấy báo có bài viết của ông về vụ cháy khí mê-tan năm trước ở mỏ X đưa cho lão nhà báo và vặn hỏi, ông đã nói gì? Chính bài báo này mà tôi sạt cơ nghiệp, có con phải từ, có chồng phải bỏ, ông không biết sao? Lão nhà báo tịt ngòi, đành thưa với bà ta thông cảm cho.

 ***

Giám đốc đệ đơn xin nghỉ hưu. Ông em nhận bảo: Lúc này, theo em thì bác chưa nên. Giám đốc hỏi lại: Vì sao? Ông em nhận lại bảo: Cấp trên sắp thanh tra đơn vị. Giám đốc thở dài thườn thượt: Nếu có chủ trương nghỉ việc luân phiên cho khoanh các khoản nợ đến hạn, thì mình cũng chẳng báo cáo than tồn kho nhiều, lao động thừa do lịch sử để lại làm gì cho rách việc thêm. Chú biết bao giờ thanh tra về không? Ông em nhận đáp: Nghe đâu đầu tháng sau thì phải. Giám đốc bảo: Tôi định giao cho tay phó thường trực nó điều hành để mình có thì giờ nghỉ ngơi nhưng không khéo đã muộn phải không chú? Ông em nhận không nói gì thêm, mà chỉ cầm quyết định "giá than" rồi lui ra.

Ngày hôm sau có dư luận giám đốc có biệt thự ở Hà Nội. Nghỉ hưu sẽ lên thủ đô nghỉ cho thanh thản những năm cuối đời. Đúng là như thế. Nhưng cái biệt thự nguy nga của ông ở Hà Nội chưa một ai biết, kể cả lũ con ông, thế thì tại sao lại có thể lọt ra ngoài được? Nếu quả đúng đã có người biết ông xây biệt thự ở thủ đô, thì sớm muộn thế nào dư luận cũng đặt vấn đề. Ông lấy khoản tiền nào để xây biệt thự, nếu không phải là tiền "than thổ phỉ" tiền "cai than” nhà nước? Bởi vì hiển nhiên, ai cũng biết, lương giám đốc ba cọc ba đồng. Dẫu có tiền thưởng, tiền quà cáp mỗi độ tết đến xuân về cũng chỉ đủ nuôi mấy đưa con học đại học. Vậy lấy đâu ra? Giám đốc sẽ không thể lý giải được tài sản cố định của mình. Một người trong cánh hẩu với giám đốc, hỏi: Ông định bỏ chúng tôi chạy tháo thân à? Ông cứ trả lời chúng tôi về cái biệt thự của ông ở Hà Nội đã, sau đó hãy tính đến chuyện hưu trí. Giám đốc hỏi lại: Thế còn các sếp ở nhà cao cửa rộng ở Hà Nội, sao các ông không hỏi, lại cứ nhè vào tôi, cái anh tép riu. Ông kia cáu sườn vặn lại: Các sếp sẽ có người khác hỏi, còn chúng tôi, chúng tôi phải hỏi ông thì đã sao? Giám đốc không kiềm chế được, cáu nói sằng: Các ông có dám động đến lông chân sếp?

*** 

Hôm ấy, họ không ngồi uống rượu mạnh với nhau như mọi khi. Mỗi người một tâm trạng buồn vui khó tả. Ông cán bộ kỹ thuật mỏ trở về đến Cầu Chẻo thì trời vừa đổ mưa, sấm chớp đùng đùng. Ông phải dừng xe. Một luồng lửa xanh lè quấn lấy người ông. Ông lăn ra bất tỉnh nhân sự. May có bà cụ ăn xin mà ông vừa đặt vào cái bàn tay rúm ró tờ giấy bạc 500 đồng hô hoán người dân quanh vùng đưa ông đi bệnh viên cấp cứu. Hôm sau, trên chuyến xe chở công nhân đi công trường, người ta kháo nhau: Ông cán bộ kỹ thuật mỏ cao số giời đánh không chết, không biết có phải lời nguyền của lão nhà báo linh nghiệm không? Nếu đúng vậy thì ông “cai than” này nữa là hai ông “cai than” bị giời đánh và một ông “cai than” bị sập lò.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: