Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

aa-lenghiabk05

Cá rô khô

Những năm cuối đời, do sức yếu và hoàn cảnh chiến tranh không thể về bên ngoại được, bố tôi buồn lắm. Chiều chiều, khi uống rượu, người thường kể rất nhiều về quê mẹ tôi. Chuyện gần, chuyện xa, bao giờ cũng kết thúc bằng câu: “Bây giờ mà được nắm cá rô khô của bà ngoại đem rang lên uống rượu và ăn cơm thì còn gì bằng?”. Tôi hiểu nỗi nhớ ấy của cha tôi.

Quê ngoại tôi ở làng Yên, một làng quê hẻo lánh thuộc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Đất đồng mùa, nơi gặp gỡ của hai con sông (sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu ở cửa Tam Giang) sao mà lắm tôm, cá, cua, ếch đến thế, nhất là cá rô. Tháng ba mưa rào, cá rô lách đầy ngõ, khắp vườn, tha hồ nhặt! Tháng tám đi đánh rọ cứ là hàng thúng, con nào con nấy béo vàng. Làng rất xa chợ, bán không có người mua. Nhà nhà thường xây cái bể chứa, thả ếch, thả cá vào đấy, ăn dần. Nhà bà ngoại tôi thì khác. Ếch ăn xổi đã đành, cua bà làm mắm. Riêng cá rô, bà phơi khô. Bà bảo thế là giữ cái màu ngon, màu thơm của nó quanh năm.

Cách chế biến cá khô của bà tôi rất cẩn thận và độc đáo. Trước hết, bà nghe ngóng thời tiết xem có nắng bền hay không rồi gọi các dì, các mợ, con gái... đến làm cá. Đầu tiên phải đánh vảy từng con, mổ lấy hết ruột gan ra rồi phân loại to, nhỡ, nhỏ vào từng cái rổ. Bọn trẻ chúng tôi thì đi lấy mảnh sành, vỏ hến bỏ vào để người lớn mang ra ao xóc cho sạch nhớt rồi mang về để cho ráo nước. Bà tôi lo việc pha nước tương trong. Đây chính là khâu kỹ thuật và cũng là bí quyết chỉ riêng bà mới làm được, sao cho không mặn quá, không nhạt quá, không nhiều quá hay ít quá với từng mẻ luộc cá. Tất cả chỉ nhờ vào con mắt ước lượng và cách nếm.

Khâu đun nước, bà cũng không thể rời con mắt. Ngày ấy, nhà bà chủ yếu là đun rơm. Hai tay ba bếp, bà nhìn tăm nước sôi mà điều chỉnh lửa, nhìn da con cá biết là phải dừng đúng lúc. Non - con cá sượng; già - con cá nứt, đều không đạt yêu cầu. Cá vớt ra, bà rải đều trên những cái nong thưa mà ông tôi đan từ trước đã được cọ rửa thật sạch. Nắng lên, bà cho bắc thang phơi lên ngọn đống rơm và trên nóc nhà lợp rạ, rồi phủ lên lượt vải màn để tránh ruồi nhặng. Vất nhất và cũng khó nhất là khâu trở cá, sớm, muộn cá đều bị dính nong, trợt da mất đẹp, mất ngon. Khi con cá vừa se mình đến độ là bà bảo bắc thang lên, hạ từng nong xuống, khẽ dùng đôi đũa trở đều từng con, rồi lại phơi lên. Cứ thế, mỗi ngày bà đảo cá một lần. Phơi dăm sáu nắng cho đến lúc con cá khô cong, thơm phức thì để nguội mới cất vào chum. Chum đựng cá, phía dưới lót lá chuối tiêu khô, phía trên cũng vậy, vài lớp. Bà bảo: “Cái anh lá chuối khô này là ủ cả được cái nắng vào trong đấy”.

Năm nào bà tôi cũng làm được ba chum như thế. Mỗi chum một loại to nhỏ. Cách chế biến tuy đơn giản nhưng những ngày làm cá, phơi cá cứ như là ngày có cỗ. Cả nhà được huy động vào việc làm ếch, làm cá, ăn uống no say và đợi chờ sai bảo, cười nói râm ran, đi lại tấp nập.

Cách chế biến cá rô này, sau cả làng đều biết nhưng không ai khéo được như bà tôi. Có lẽ là do bà tinh tế và do món tương của bà khó có nhà nào sánh được độ ngọt. Bà tôi không biết chữ mà sao tài thế? Từng con cá của bà cứ nhẹ bấc, thơm phức, sáng màu. Khi ăn, đem rang lên cho hơi vàng và đủ độ nóng, đặt vào đầu lưỡi là tan vụn ra như bánh quy mới ra lò, nhưng mà đậm, mà ngọt, cái “màu” đậm ngọt của cá rô đồng và nước tương trong thật nhuần nhị, thấm dần vào đầu lưỡi, gây dư vị miên man như gọi miếng cơm thơm, gọi tớp rượu nồng.

Lúc tôi còn nhỏ, bà thường đe: “Một bát cơm, một con cá thôi nhé! Ăn mặn khát nước chết đấy!”. Nhưng dù bà cố ý xới bát cơm cho tôi thật ít và cho con cá thật to, tôi vẫn cứ chìa bát xin thêm cá. Những lúc ấy, bà lần nào cũng rộng lượng tiếp cho con nữa với câu mắng yêu: “Cái con mẹ mày! Trai kẻ Đình, con nhà Tú cử mà cứ ma thèm ma nhạt, ma đói ma khát nó nhập vào!”. Nhưng tôi chẳng khát nước tí nào! Cá của bà, giá cứ cho tự do, tôi có thể bốc chén như ăn lạc rang cả ngày không chán. Mỗi lần mẹ tôi về quê ngoại, bao giờ bà cũng gói cho vài đấu cá để “bố con nó ăn dần!”.

Bà tôi qua đời đã từ lâu. Mỗi khi cái rét đầu đông tới, vắng món cá rô khô của bà, cha con tôi lại nhớ, cho dù bữa rượu của cha tôi nào có thiếu thốn gì! Nay cha tôi cũng ra người thiên cổ và tôi cũng đã vào cái tuổi của người, tôi càng hiểu nỗi nhớ ấy. Cá rô khô chỉ là điểm đầu của nỗi nhớ, nỗi nhớ một miền quê đôn hậu, nỗi nhớ bà và người mẹ hiền tài đảm, làm nên hương vị giữa quê nghèo. Bà ơi! Bà của cháu chính là hồn quê ngoại, là gốc văn hóa kiệm cần, sáng tạo, tài hoa!

KỈ NIỆM VỀ MẮM CÁ RÔ ĐỒNG

Hồ Tĩnh Tâm

Mùa mưa năm ấy, nước đổ về ràn rạt. Tất cả các dòng sông đều một màu dậy đỏ như son. Thế nhưng khi nước tràn đồng, độ chua của phèn đã lắng hết phù sa, biến con nước đỏ gạch thành một màu trong veo trong vắt, thấy rõ từng đàn cá lăn tăn màu ngũ sắc, cuồn cuộn bơi thành đàn đặc ngừ đặc nghịt. Cá gì không biết, chỉ biết chúng là thứ cá nhỏ như đầu đũa, con xanh, con vàng, con đỏ, bơi  xoắn vào nhau thành từng đàn hàng muôn ngàn con, đẹp như những dòng pháo bông xuôi chảy lung linh theo con nước. Lâm lấy cái mùng tuyn Liên Xô, nhảy xuống con mương trước cái lán cỏ và căn hầm chữ A của mình, dùng hai tay giăng mùng ra hứng. Loáng cái cá đã vào đầy ắp, phải xả bớt ra mới kéo được lên bờ. Anh nhớ tháng này ở quê, khi mưa mùa vừa chụp xuống, không biết từ ở đâu dưới các nẻ đất dọc hai bên triền sông Mai, rươi nổi lên dày thành dề, trẻ con lối xóm đua nhau đem rỗ, đem thùng đi xúc. Cũng chỉ dập bả trầu, đứa nào đứa nấy đã lặc lè xách những thùng rươi nặng chịch. Rươi ấy đem về đánh ra với trứng gà hay trứng vịt làm món rán, thơm lừng lựng, ngon không chê được chỗ nào. Người già ăn vào, tự nhiên thấy hết nhức mỏi. Trẻ con ăn vào thì nổi hứng kéo nhau đánh cù, đánh đáo. Rươi ăn không hết, mẹ đem làm mắm. Mắm rươi màu nâu sữa, để dành đến ba ngày Tết chấm thịt lợn luộc, được coi là sơn hào hải vị ở thôn quê. Nhiều nữa thì ủ chín rồi đem làm nước mắm. Nước mắm rươi có màu hổ phách, rưới vào cơm nguội, ăn thùng bất chi thình cũng không biết thế nào là no. Còn với thứ cá lăn tăn màu ngũ sắc này, giữa chốn đồng không mông quạnh, Lâm cho hết vào soong quân dụng, nêm với muối, nước mắm, chút đường, chút bột ngọt, thêm tiêu thêm ớt, rồi cứ thế mà kho trên lửa ngọn riu riu. Mùi cá chín bốc thơm điếc mũi, chỉ có điều con cá nát nhừ, đặc quánh lại như bánh đúc, ăn thấy ngồ ngộ, cứ như ăn món lạ ở trần gian.

Những đàn cá lăn tăn màu ngũ sắc ấy, giống như rươi ở quê nhà, cũng chỉ xuất hiện một hai hôm đầu khi nước chụp, sau đó biến đi đâu mất tăm mất tích, tịnh không bao giờ còn gặp lại trong suốt cả mùa mưa. Để có thức ăn, mấy anh em trong tổ tác chiến tiểu đoàn của Lâm, cũng phải giăng lưới và đặt lờ đặt lợp. Chiến tranh ác liệt ì đùng, người lính có thể chết vì bom pháo, đạn nhọn, chết vì sốt rét, nhưng không ai chết đói bao giờ. Đồng điền mênh mông. Tôm cá ê hề. Rau cỏ nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Nội chỉ tay lưới dài chưa tới mười mét, mỗi ngày đem giăng vào lúc chạng vạng mặt trời, hừng đông bơi xuồng đi cuốn, đã lủ khủ tôm cá, mặc sức ăn phè phởn cả ngày không hết. Tôm, cua, rắn, rùa, cá lóc, cá trê, cá rô… Mà lạ. Cứ sang mùa mưa, khi con nước từ các dòng sông đầu nguồn sầm sập kéo về, không biết cá rô ở đâu ra mà nhiều tới hằng hà sa số. Cá rô non chỉ nhỉnh nhỉnh như ngón tay cái, xanh trắng màu hơi ánh vàng, chiên xù giòn tan, nhai tới cái xương sống cũng bùi cũng béo. Cá nhiều tới mức cứ đổ ngập dầu ăn vào soong quân dụng mà chiên, chiên mỗi mẻ hàng chục con, khi cá vàng rụm thì xúc ra nắp soong quân dụng, một hai mẻ đã thấy đầy có ngọn. Ăn không hết thì dùng uống nước trà. Trên thế giới này, lính Nato đánh đông đánh tây, ăn đủ thứ chu cấp của liên hợp quốc, hỏi đã bao giờ được uống nước trà Củ Măng, hút thuốc sợi Cao Lãnh với cá rô non chiên xù chưa? Tới Ông Trời còn phải chắc lưỡi. Tới Diêm Vương còn phải nuốt nước miếng. Lính trận Đồng Tháp Mười, xáp chiến mỗi tuần vài trận bời bời lửa khói, mà anh nào anh nấy béo tròn trùng trục, đêm ngủ không mơ thấy chết chóc, mà chỉ mơ thấy cô hàng xóm có mái tóc xanh xõa dài mướt rượt, với đuôi con mắt cười lúng la lúng liếng. Lính ở đồng toàn đực rựa, giữa chừng hai trận đánh, ở không thấy lạt lẻo, Lâm thường ngồi ngay trước cái lán cỏ của mình, bẻ cành trâm bầu làm cần câu cá rô. Mồi là trứng kiến vàng, cứ thả xuống nước là cá rô lao đến đớp phực phực. Nhấp nhoáng đã cả soong cá lúc nhúc thở khí trời, phún bọt như bọt xà bông ngàu lên.

Bấy giờ tiểu đoàn có được hai tuần không đụng trận ở khu vực bờ bao Mỹ Hòa, nên một hôm Lâm bơi xuồng ba lá qua cánh rừng tràm cách đó khoảng cây số, nơi nghe nói có cứ của du kích và trạm giao liên của R. Cánh rừng tràm ở đây không biết bao nhiêu năm tuổi, mà cây nào cây nấy cao to vun vút, thân cây tơ tướp thứ vỏ xốp nâu trắng, rách toang ra thành những vệt dài chạy thẳng từ trên cao xuống. Vỏ tràm nhẹ như bông, mặt ngoài nâu xậm màu rêu ký sinh, mặt trong trắng ngà, sáng như da thịt thiếu nữ. Nước ngập sâu cả hai mét, nên cánh rừng trông cứ như rừng bạch dương ngập nước, đẹp tới hớp hồn, tới khao khát một cuộc hẹn hò chín lịm. Bơi xuồng luồn lách trong cánh rừng ngập nước chừng cả tiếng, mà Lâm vẫn không hề nhận thấy một dấu hiệu nào tỏ ra có người đang sống. Đúng lúc định quay mũi xuồng trở về thì Lâm nhìn thấy một cái chòi nhỏ, cất trên lưng chừng mấy cây tràm già mốc thếch. Nghỉ là lán của du kích nên Lâm ghé xuồng vào. Nghe tiếng động lịch kịch, rồi một ông lão đầu chít khăn rằn kiểu lưỡi búa, thò đầu ra nhìn xuống, hỏi, “Chú đi đâu lạc vào đây?”. Lâm trả lời, “Cháu là giải phóng, đi lòng vòng cho biết”. Ông già lại nói. “Ở vùng nầy, đi trong rừng không mang súng là coi chừng đó”. Lâm cười. “Cháu tính đi lòng vòng nên chỉ lận khẩu súng lục phòng thân, có gì thì chuồn, rừng che bộ đội rừng vây quân thù mà bác”. Ông già cũng cười, phô ra hàm răng trắng muôn muốt. “Chú ở ngoài Bắc vào, sao rành đồng đất nơi nầy bằng tụi nó. Đi đâu cứ phải AK mới chắc ăn. Mà đi hai người càng tốt. Thôi, lên đây uống bậy ly trà nóng”.

Khi leo lên cái chòi lót bằng lau sậy đập dập đan thành tấm, Lâm mới biết ông lão sống với đứa cháu gái mười lăm tuổi. Con bé nhỏ thó, da rám màu bánh cam, có đôi mắt nhìn sắc lem lẻm như dao cắt. Không ai bảo mà tự nó đi cắt cổ hai con rùa, hứng máu vào cái chén sành rồi đem pha vào chai rượu. Rùa nó đem rang muối. Ngồi nhâm nhi tách trà với ông lão, Lâm nghe rõ tiếng muối nổ lụp bụp, rồi càng lúc mùi thịt rùa chín càng bốc ra thơm phức. Ông lão nói, “tía má nó là du kích, chết cả rồi, nó sống với qua từ nhỏ tới giờ, ăn đủ thứ rùa rắn cua đinh, tôm cá, thịt chồn thịt chuột, vậy mà cứ nhỏ thó, đẹt như khúc củi, được cái lẹ như con sóc, làm việc gì cũng giỏi”. Đó là lần đầu tiên trong đời Lâm được ăn thịt rùa rang muối chấm với muối ớt. Cả rượu pha với huyết rùa cũng vậy. Nhưng món mà Lâm nhớ nhất lại là mắm cá chốt, ăn cặp với cù nèo, bông súng, bông điên điển. Không biết ông lão làm mắm kiểu nào, mà con cá chốt có màu tím đỏ, nhìn trong suốt chứ không đục, vừa dai vừa béo, vừa bùi bùi mùi thính gạo nếp, vừa cay cay bởi ớt sừng trâu và củ riềng thái sợi, lại còn thơm mùi tỏi. Nghe Lâm khen món mắm cá chốt ngon, thứ này ngoài quê Lâm không hề có, ông lão nói. “Xứ nầy ai mà không biết làm mắm. Con cá làm nên con mắm. Cá nhiều ăn không hết thì làm mắm. Trong ấp người ta làm hàng lu hàng khạp; làm nhiều nên chỉ nhận muối chứ hổng cho gia vị như vầy. Qua sống trong rừng, tụi nó phi pháo hoài, nên chỉ làm chút đỉnh ăn chơi, chú em có thích, qua cho ít đem về mà ăn”. Rót thêm ly rượu đỏ hồng, ông lão khoe với tôi, mấy tuần rồi cá rô non dậy quá trời, ngày nào hai ông cháu cũng đổ lờ đổ lợp được hàng đống, nên hai ông cháu đã làm được mấy chục hủ mắm cá rô, nhưng phải đợi chừng khoảng ba tháng nữa mắm mới chín, mới thành mắm rô chua, dân người ta gọi là mắm cá rô không xương. Ngon cứ phải nói là nhứt xứ bưng biền.

Chuyện xãy ra từ mùa mưa năm 1974, tới giờ tôi chỉ còn nhớ tới hình ảnh hai ông cháu sống thui thủi trong rừng tràm vùng bờ bao Mỹ Hòa. Thế nhưng gần đây, anh bạn đi làm phim ở Bạc Liêu, đem về biếu tôi một hủ mắm cá rô không xương, tôi mới sực nhớ tới câu chuyện của ông lão về mấy chục hủ mắm cá rô chua chưa chín của ông. Té ra cứ ở đâu có cá là có mắm. Mắm cá rô cũng vậy, nó có ở đồng đất phương Nam này từ lâu rồi, có điều thời đó ai ăn nấy biết, bởi nó là món ăn dân dã, đã làm gì có thương hiệu quảng bá như bây giờ.

Nhớ mà thương. Thương quá hai ông cháu cun cút với nhau thời xa xưa ấy. Ông lão qua bấy nhiêu năm, chắc chắn đã ra người thiên cổ. Còn cô cháu gái có đôi mắt sắc lem lẻm như dao ấy, bây giờ hẳn đã cháu nội cháu ngoại đùm đề. Thế nhưng… sau lần gặp hai ông cháu ấy được hơn một tuần, tụi sư 7 kéo xe tăng M48, xe lội nước M113 úp vào, đánh dằng co với tiểu đoàn tôi cả tháng trời. Ngày nào cũng F4 ném bom, trực thăng xút rốc két, pháo 105 và 155 trút như dội lửa. Lại ban đêm đầm già bắn như trâu đái. Lại biệt kích rình rập. Mọi sự biết thế nào. Thôi thì… nguyện cầu ân phước cho hết thảy dân mình! Và nguyện cầu cho câu ca dao này sống mãi:

Con cá làm nên con mắm

Vợ chồng già thương lắm mình ơi

Mắm cá rô không xương hay còn gọi là mắm cá rô chua, là thứ mắm dùng ăn sống, có thể để nguyên con, hoặc xé, hoặc dùng kéo cắt đôi cắt ba, bởi cá rô dùng làm mắm là cá rô non, chỉ nhỏ cỡ ngón tay cái trở xuống, cá to quá sẽ không ngon, vì xương cá không tiêu hết được trong quá trình lên men ủ mắm. Món mắm này khác các thứ mắm cá quen thuộc như mắm lóc, mắm sặc... là khi làm mắm, ngoài muối và thính, người ta còn cho thêm chút đường, chút bột ngọt, chút tỏi bằm, ớt sừng trâu xắt lát, củ riềng bánh tẻ xắt sợi. Mắm ủ khoảng ba đến bốn tháng sẽ chua và dậy mùi, xương cá rô non tự nhiên biến mất. Người kĩ tính khi làm mắm thì cắt bỏ đầu cá, vì xương đầu cá rô khá cứng.

Khi mắm chín, con mắm ngã màu nâu đỏ, dai và có vị ngọt, hương thơm mùi mắm, mùi riềng, mùi tỏi. Do là mắm chua nên con mắm không mặn, mỗi và cơm có thế ăn nguyên con, kèm với rau thơm, chuối khế; hoặc ăn không để tận hưởng hương vị của mắm, bởi trong mắm đã có tỏi, ớt và sợi củ riềng. Dân nhậu thì ăn cặp với thịt ba rọi luộc, hoặc lòng luộc, kèm thêm rau thơm, chuối chát, khế chua- hạp nhất có lẽ là húng quế, rau răm và tía tô lá nhỏ.

Do đặc tính của mắm cá rô đồng làm theo cách vừa nói, nên Dzu xin gọi món này là

mắm cá rô chua không xương

. Câu ấy của ông bà ta xưa, xem ra ý vị lắm. Gì chứ lúc đói cồn đói cào, vớ được chén cơm nguội với vài ba con mắm, thêm mấy trái ớt hiểm nữa, là kể như lên tiên nơi miền thôn dã. Thời xưa nông phu là dân nghèo, tới mùa, vạn cày vạn cấy ra đồng, vần công hợp tác cho nhau suốt từ hừng đông tới xế chiều, món lót lòng giữa chốn đồng điền gió lộng, còn món nào tiện hơn rỗ cơm, gói mắm. Ăn bốc từng nắm. Cầm con mắm xé ra, cắn thêm miếng ớt, vậy là có mặn có cay của thức ăn, có bùi có dẻo của vốc cơm. Với mắ́m cá rô chua không xương thì còn thêm chua ngọt. Đủ cả ngũ hành xung trong trời đất. Đặc trưng của mắm là mặn, nên phải ăn kèm với rau để cân bằng âm dương ngũ hành. Lại một đặc trưng nữa của mắm là ăn xong thường khát nước, nên uống nước rất nhiều, con mắm thắm về lâu là bởi vậy. Hơn nữa, con nhà nghèo thì phải lấy nước làm no. Vị mặn vị cay của mắm, là hai vị chủ lực đánh lừa miệng lưỡi, nên chỉ cơm nguội với mắm mà cũng có được sự đậm đà như yến tiệc.

Nông dân ngày xưa lãnh đất điền làm khoán, chủ ruộng cùng hương thôn, chánh tổng, ăn trên đầu trên cổ, lấy đâu ra sự dư dã mà đãi nhau lúc vạn vần, thành ra chỉ có cơm và mắm là hạp hơn tất cả. Ăn cơm mắm khát nước, cứ làm một lúc là phải uống. Bụng no óc ách, không làm ngay được thì phải ngồi nghỉ, rà rê chuyện đời với nhau, khiến tỏ lòng nhau mà nên duyên nên nghĩa. Cái thắm về lâu của cơm mắm là cái thắm của tình người, nhiều khi xe thành duyên nợ, ràng buộc lấy nhau cả đời.

Sói Biển

>

Gã độc thân

>

Ai xuôi vạn lý

TP - Người làng kể lại rằng: ông Ngư là kết quả của cuộc tình vụng trộm của một anh ngư dân xóm Vạn Chài với cô hàng buôn nước mắm. Làng tôi nổi tiếng về nghề làm nước mắm. Cái thứ nước mắm màu cánh gián, sóng sánh như mật ong được nấu từ mắm muối cá cơm: loại cá cơm tươi ròng da thịt còn anh ánh cái màu lân tinh nước biển có một cái sọc trắng kéo dài dọc thân được đánh bằng lưới 10.

Các cô gái có một bí quyết mồi chài quyến rũ dân Vạn Chài bằng cách sau khi mua bán ngã giá xong, họ mời các trai làng lên thuyền uống rượu nếp ủ hương thơm nức, uống bằng bát gốm Bát Tràng có in hình cánh buồm, mỏ neo, con thuyền lướt sóng, nhìn đã thấy sóng sánh cả mặt.

Sau một chầu rượu ngà ngà say, các cô bưng ra những đĩa bánh cuốn tráng rất mỏng cuộn trong đó: mộc nhĩ, nấm hương, thịt nạc băm trộn với ruột tôm càng và được chấm bằng nước mắm họ mới mua, nhưng chỉ thêm vào một thứ gia vị đặc biệt được đựng trong một ống thủy tinh nhỏ: chỉ vài giọt thôi mà thơm nức, mà nhớ đời, ăn đến đâu thấm đường gân, thớ thịt đến đó. Về sau dân Vạn Chài mới biết cái nước thần kỳ diệu đó là tinh dầu cà cuống.

Các trai làng quen ăn sóng, nói gió bỗng trở nên rụt rè, vụng về trước món khoái khẩu này. Dạo ấy bão to thuyền buôn phải nằm lại. Dân Vạn Chài rỗi việc, suốt ngày mui thuyền kéo kín. Con thuyền nhỏ cứ lắc lư, lắc lư theo cái nhịp điệu không phải là của sóng, của gió mà là những cuộc giao hoan cho bõ những ngày ăn đứng, ngủ ngồi hỏm mắt rình rập với con mực ngoài khơi.

Cô gái xứ Thanh phải lòng anh trai xứ Nghệ và bẵng đi một thời gian khi thuyền buôn quay lại thì cô gái choáng váng khi biết tin bố của đứa bé đang nằm trong bụng mình sắp đến ngày sinh mà cô cố buộc thật chặt giải chiếc yếm sồi với chiếc quần vải thâm do dân Đồng Môn dệt nhuộm bùn đã chết biển; chết không tìm được xác; chết biển tội lắm: Chim tha, cá rỉa. Cô như người mất hồn đếm lẫn cả tiền mua tháo, bán tháo cho xong rồi một mình bơi cái thuyền thúng tròng trành sang dãy núi Nam Giới trèo lên cái khe Hao Hao nước trong vắt tìm lại cái tảng đá phẳng như chiếc phản gỗ mà thiên nhiên đã kê rất đẹp.

Người xưa bảo đây là bàn cờ tiên khuất sau hai hòn đá chồng lên nhau thật trớ trêu, chênh vênh gọi là đá ông, đá bà. Chính tại đây họ đã dìu nhau lên tột đỉnh của khoái lạc sau khi khỏa thân tắm nước khe mát rượi và nướng cho nhau ăn những con cua lột vỏ bắt trong hốc đá. Lúc mấp mé bên vực sau của hụt hẫng bỗng chàng trai hít hít mái tóc dài buông xõa của cô gái và khẽ thốt lên: lá sả! trời ơi, mùi lá sả! Họ mệt lả nằm bên nhau thở dốc...

Cô gái thẫn thờ lấy hai bàn tay vuốt nhẹ mép đá, mặt đá cứ ngỡ đó là da thịt của chàng trai, còn ủ hơi người. Đêm đó cô không trở về xóm Vạn Chài mà cứ ngồi đăm đăm nhìn ra biển. Gần sáng cô trở dạ: và đứa bé đỏ hỏn được bọc trong miếng vải buồm mà chàng trai xé tặng cô ngày chia tay.

Nhúm rau cô ném xuống biển như muốn báo tin cho chàng trai biết: Con của anh đã ra đời - một chàng trai biển hẳn hoi. Trưa, chiếc thuyền của bố cô rúc tù và, kéo buồm báo cho đám thủy thủ say rượu trên làng xuống thuyền. Cô vội vã giấu đứa bé vào bên bụi rậm gần khe đá rồi xuống chiếc thuyền thúng cứ để cho nó buông trôi. Cô mệt lả, bầu vú căng nhưng nhức. Chiếc thuyền của cha cô vớt cô lên và dong thẳng một mạch về Thanh...

Đứa bé được một chiếc thuyền câu sang lấy nước ngọt đem về nuôi. Cứ thế nó lớn dần lên bằng tất cả các bầu vú sữa của đám đàn bà xóm Vạn Chài đang nuôi con nhỏ.

Cái xóm Vạn Chài lạ thật; nghe nói ngày xưa họ là dân bộ Lô, bộ Chính dạt từ Quảng Bình ra. Cứ thế họ sinh sôi nảy nở, thuyền đẻ ra thuyền. Những đứa bé bò lổm ngổm trên thuyền như cua, đứa nọ cao hơn đứa kia nửa cái đầu. Chúng được nuôi trên sóng với gan cá Nhám cho mắt sáng ra để nhìn tinh luồng cá.

Bắp chân họ teo lại nhưng bắp tay và lồng ngực thì cuộn lên như những múi neo. Đặc biệt là đôi mắt nhìn cứ nheo nheo xuyên thủng cả mây núi, sương gió để nhận sao, đoán sóng tìm về cửa lạch không cần la bàn. Và cái tai thật thính nghe được tiếng thở của cá để đoán biết bầy đàn đang đi là loại cá gì.

Thằng bé được xóm Vạn Chài nhận làm con nuôi chung và đặt tên là thằng Ngư, được cái nó thấm cái gien của anh trai làng kia nên nhanh chóng trở thành một con sói con. Mới 10 tuổi đã được các bậc kỳ cựu cho cầm lái xuôi về không bao giờ nhầm lạch, 15 tuổi đã một mình đứng đầu mũi thuyền dùng cước số 8 để câu cá cờ, có con nặng hàng tạ, cá cờ bén câu là nhảy thẳng đứng lên như mũi tên; người và cá thường phải vật lộn với nhau hàng giờ.

Thằng Ngư lì lợm chưa bao giờ bỏ cuộc. Mưa cũng như nắng, nó chỉ đánh độc chiếc quần đùi may bằng vải buồm, cái mảnh vải ngày xưa mẹ nó bọc tã lót, vải buồm nhuộm nâu thật bền. Tuổi 18 thằng Ngư tập uống rượu và ăn cá gỏi.

Dân Vạn Chài chọn cá trích tươi làm gỏi, họ lựa lưỡi dao bén ngọt lóc thân cá ra trộn với các thứ gia vị: chanh, tỏi, nước mắm, hạt tiêu, đường. Ăn cá gỏi khỏe người lắm. Họ chữa bệnh đau dạ dày bằng cách moi cái bao tử cá to lấy trong đó những con cá nhỏ có dính đầy nhớt rán lên rắc hạt tiêu nhắm với rượu.

Thằng Ngư khoái nhất là khi câu được con đẻn - một loài rắn biển. Nó cắt tiết hứng ngay vào bát rượu và khéo léo xẻ lưng lái cái mật bỏ vào. Hai tay nó bưng bát rượu lên ngang tầm mắt lầm rầm câu gì đó và khẽ rót xuống biển một phần thứ rượu pha huyết đẻn sau đó nó tợp luôn một hơi hết cạn; lấy tay chùi mép, cứ thế lùa gần hết một góc mâm cá gỏi vào miệng.

20 tuổi Ngư trở lên thẫn thờ. Nhiều ngày nó tựa vào cột buồm đăm đăm nhìn những bầy chim kéo đàn tránh bão. Nhìn những đàn cá bạc má lóc bóc búng vây rộ lên như mưa rào. Buồn nhất là khi chiều xuống Hải Âu từng cặp khàn giọng bay đôi lặn dần vào ráng đỏ cái tổ ấm xa vút vời tầm mắt.

Một chiều nọ Ngư bỏ chuyến đi biển lên làng xem tuồng. Đội tuồng làng tôi nổi tiếng cả một vùng. Họ bôi mặt, đeo râu, gươm oai vệ. Có anh chắt Hóa người gầy đét, ốm yếu thường đi hôi cá. Nhưng bù lại anh có giọng hát tuyệt vời thường được giao đóng vua.

Vua phải độn thêm trong lớp áo những túi giẻ rách cho phồng to lên nom thật oai vệ cũng: “Như ta đây...” xưng danh vung gươm, múa giáo, dân chúng sợ xanh mắt. Khác hẳn với anh chàng nhỏ thó bẽn lẽn như con gái khi xuống thuyền xin cá, xin cũng rất văn nghệ bằng cách anh đặt ra những câu vè đồng dao dạy cho bọn trẻ của xóm Vạn Chài kiểu như:

“Thương vài thằng khố bần

cực vài thằng khố chạc

giọt mưa rơi lác đác

ướt chi được lá môn”

Chiều đó Ngư rủ anh chắt Hóa ra quán rượu của ông cụ Mày nạp “xăng” cho anh. Rượu vào lời ra, anh chắt Hóa như một cái máy nổ đứng lên lượn vài vòng theo tích tuồng “Lưu Bình, Dương Lễ” làm cho Ngư cười lộn cả ruột.

Khi anh chắt Hóa lảo đảo đi về phía sân vận động để hóa trang Ngư thấy buồn thui thủi, len lén đi ra phía cánh điếm canh bỏ hoang trong vạt phi lao. Đến gần anh bỗng nghe tiếng khóc rấm rứt, thì ra trong đó có một cô gái đang ngồi khóc sưng cả mắt.

Cô gái này là dân chợ huyện, chuyên xuống bán rượu cho dân Vạn Chài. Hễ thấy gánh rượu của cô xuống là đám trai làng vây quanh. Cứ thế tiền trao, rượu múc họ ngồi vừa uống vừa tán tỉnh nhưng không có ai sàm sỡ.

Có một người quá chén định giở trò bị đám trai làng vứt xuống biển uống một trận nước căng bụng mới được vớt lên, từ đó sợ khiếp hồn. Cô gái đâm nghiện cái mồ hôi nồng nặc pha vị mặn mòi gió biển của đám trai làng, cả cái giọng nói nằng nặc khê đặc pha đôi chút tiếng lóng.

Họ luôn giành cho cô những món quà nhỏ: khi là một chiếc vỏ ốc đẹp, mấy con mực khô, vài cặp cá thơởng nướng. Đáp lại cô gái bao giờ cũng bán vừa phải giá, trả lại số tiền thừa mà họ quên, và đôi lúc cũng liếc mắt đa tình.

Trong số họ, Ngư là anh chàng cô mến nhất. Khác với những người khác, Ngư có cặp mắt thật buồn, vui đó, buồn đó và pha chút mộng mơ. Anh Ngư ít nói, mà nói có duyên đáo để, nói thật chí lý ví như: “Không ai làm giàu bằng biển cả, làm giàu bằng biển là có tội” hay “Biển ở trong mắt o đó” làm cho cô gái đỏ mặt, rượu sánh ra ngoài ướt cả vạt cát.

Chiều đó cô kể cho Ngư chuyện cô mình bị bố mẹ ép lấy một thằng chuyên nghề mổ lợn ở chợ huyện. Thằng đó nhà giàu, mắt lúc nào cũng đỏ kè kè, mặt lì ra như cái phản thịt. Và cứ hễ nhìn nó giơ con dao nhọn hua lên mấy vòng như múa trước khi chọc tiết lợn máu phun ra như cần câu cô đã tái mặt.

Cô bỏ làng xuống đây chờ đêm xuống ra biển trẫm mình. Bởi cô biết dân biển có tục lệ thiêng liêng: hễ vớt được ai chết đuối cũng làm ma chay, đình đám đàng hoàng, họ xem như đó là một bổn phận, dịp may để họ làm phúc, nhất là vớt được xác đàn bà.

Ngư lựa lời nói mãi cô gái mới yên tâm chịu cùng anh đi xem tuồng. Hai người dìu nhau rời khỏi đám đông về cái điếm canh. Họ lót lá phi lao làm ổ. Và trong ánh trăng mờ mờ Ngư lần mở từng miếng vải trên người cô.

Đây là lần đầu bàn tay chai sần quen kéo neo, kéo lưới của anh chạm vào da thịt đàn bà mát rượi. Đến lúc khuôn ngực với hai núm vú căng mây mẩy như đôi quả đào tiên lộ ra thì tự nhiên Ngư nhủn người xuống. Gân cốt căng như dây đàn lúc nãy bây giờ nhão ra, bao ham muốn trong anh đang ngùn ngụt dâng lên bỗng tắt lịm đi.

Trước mắt anh không phải là một cô gái mà là một người đàn bà. Anh thốt lên như mê sảng: Mẹ ơi! môi anh lướt nhẹ trên khuôn ngực và bập vào núm vú. Anh như một chú cún con ngoan ngoãn trong vòng tay vỗ về của cô gái. Mặc dù cô gái âu yếm bằng mọi cách vẫn không làm cho Ngư nguôi đi được bởi sự ám ảnh về những người đàn bà xóm Vạn Chài cho anh bú thuở xưa.

Sự thiếu hụt tình thương người mẹ bỗng trào về day dứt. Họ ôm nhau nằm thiếp đi đến gần sáng lúc gà gáy rộ lên. Xóm Vạn Chài lục đục đã có thuyền về bán cá. Ngư choàng tỉnh dậy và nhận ra bên mình là tấm thân trinh nguyên của cô gái bán rượu mà lâu nay anh vẫn thường nhìn trộm. Bản năng người đàn ông trong Ngư được đánh thức.

Anh chồm lên cơ thể cô gái. Sức khỏe cường tráng pha chút hoang dã của Ngư đã tạo ra một cơn bão lốc. Hai xác thịt hút vào nhau đến kiệt cùng. Giống như đôi sam quấn nhau trong mùa hoan lạc mà Ngư thường bắt được cả đôi. Chúng cũng không chịu rời nhau cho đến lúc giội nước nóng vào các cặp chân mới duỗi ra tách rời. Họ nằm lặng bên nhau như biển lắng xuống để chốc lát dông tố bùng lên như gió đổi chiều trong mùa bão.

Ba chục năm sau ở cửa lạch làng tôi có một chàng trai về gác hải đăng. Chàng trai ít khi sang làng. Khi có việc cần mua gạo, củi thì nhờ thuyền bà chắt Hóa. Bà chắt Hóa chính là cô gái bán rượu chợ huyện. Sau đêm gặp nhau Ngư cùng cô gái dạt sang vùng dân làm muối.

Một đêm, sau khi ân ái, cô gái báo tin cho Ngư biết họ sắp có con. Ngư ôm riết cô vào lòng mình khấp khởi mừng. Nhưng rồi càng ngày cô thấy anh càng thẫn thờ. Anh nhớ biển. Anh như con cá bị vứt lên bờ trói chân, trói tay. Anh thèm cái khoảng không bao la của biển.

Anh khao khát trở lại xóm Vạn Chài với một ước vọng: góp tiền mua một con thuyền câu đón hai mẹ con cô về ở với mình. Đêm chia tay họ nằm bên nhau không ai nói gì cả. Ngư đưa bàn tay vuốt ve cái bụng phập phồng theo nhịp đập gấp gáp của trái tim cô gái. Anh thầm thì: Chúng mình sẽ có con! Có con! Có con.

Nhưng gần đến ngày sinh thì thuyền anh bị bão dạt trôi vào đảo Hòn Mắt gần một tháng. Cô gái mỏn mòn chờ trông. Đêm trở dạ, cô yếu lắm. Bà chủ nhà đi nhờ bà mụ ở xóm trên xuống cắt rốn cho đứa bé. Cô gái ngất đi chỉ loáng thoáng nghe tiếng khóc của trẻ sơ sinh và tiếng người nói xôn xao, tiếng giành giật nhau.

Mấy ngày sau tỉnh lại thì bên người cô là một khoảng trống không lạnh ngắt. Nhà buôn Phát Đạt đã cho người đến bắt trộm đứa con mới sinh để phạt vợ chồng Ngư không thực hiện đúng hợp đồng làm thuê cho họ. Cô gái như một cái xác không hồn vật vờ quay trở lại xóm Vạn Chài và ngã gục ngay trước chiếc lều của anh chắt Hóa.

Họ trở thành vợ chồng khi nghe thuyền Ngư bị nạn đắm biển trôi dạt đâu đó ở ngoài Thanh. Anh chắt Hóa bỏ nghề đi hôi cá cùng vợ làm nghề đóng đáy trên sông - dòng sông chảy ra cửa lạch. Từ ngày có ngọn đèn biển, các vụ tai nạn thuyền, bè vào cửa lạch giảm hẳn đi. Anh tình nguyện về đây gác hải đăng với mong muốn tìm lại người mẹ thưở xưa mà bố nuôi của anh bảo là người làng gần đây…

Sau tháng bão Ngư trở lại xóm Vạn Chài với một lời nguyền trước biển: không bao giờ lên làng nữa, không bao giờ lấy vợ nữa! không bao giờ! Không bao giờ. Sóng biển lấp đi tiếng gào của anh trong một đêm tối trời…

Ông Ngư thành một con sói biển kỳ cựu nhất xóm Vạn Chài. Chỉ ngửi hơi biển ông đã biết được luồng cá đang chạy ở đâu. Đánh cá như đánh bạc. Có khi cả mẻ cá vào lưới mà kéo lên vẫn trắng tay vì lưới rách hoặc neo đứt.

Có những đêm sương mù dày đặc cây rạo bằng tre trồng ở làn nước sâu 25 sải tay cách bờ gần 50 cây số nhưng ông Ngư vẫn cầm lái chém sóng luồn gió ra đi. Ông huy động tất cả các giác quan linh cảm của mình để tìm tạo nhà. Mắt nhìn sao, tai nghe chiều sóng vỗ thuyền, lưỡi nếm mùi gió.

Đến lúc ông cho bỏ neo, đám thủy thủ ngơ ngác vì chưa thấy rạo đâu, ông bảo: “Nó đã ở kề đây rồi, sáng mai sạch mù, khắc thấy”. Quả nhiên lúc mặt trời lên, sương mù tan thì cây rạo đã kề cạnh.

Gần đến con nước 21 tháng 6 là thời điểm mực ăn nhiều nhất trong năm. Ông Ngư quyết định cho thuyền ra rạo Cồn ở làn nước 18 sải. Ở dưới đáy biển vùng này có một cồn cát sóng lượn bồi đắp lên. Mực đóng ổ xây tổ như con ong. Gặp đêm dông mực ăn nhiều nhưng chỉ rộ lên một lúc như tằm ăn rỗi ở một độ sâu nhất định rồi lặn biệt tăm.

Ông Ngư bảo đám trai làng: Muốn câu mực phải có mẹo, ông cha đã bảo: “Mực mẹo” mà!. Đêm đó quả nhiên có dông thật, thuyền lắc lư, chao đảo. Ông Ngư bỏ mồi đầu tiên. Bằng sự nhạy cảm đặc biệt ở da tay, ông giật giật sợi cước và thông báo cho cac thuyền xung quanh biết mực đang ăn ở làn nước sâu 13 sải tay.

Riêng ông cứ rình rập mãi với một con mực chúa. Mọi người rộ lên vì mực ăn nhiều nhưng không thấy ông Ngư giật câu. Ông ngồi như một bức tượng, lưng dựa vào tay lái, trước mặt bát rượu đã cạn, hũ rượu còn non nửa. Đến lúc ông thét to: “Ăn rồi”.

Mọi người đổ xô lại. Quả nhiên trong làn nước trong xanh do ánh đèn măng - sông hắt xuống, một con mực ống sài gần một mét mắc lưỡi câu đang trườn lên mặt nước lừ lừ như một con rắn.

Gần đến be thuyền nó phụt ra một luồng mực đen mạch chưa từng thấy vào người ông Ngư bắn tung tóe cả những người đứng cạnh. Ông Ngư lảo đảo, hai mắt tối mù nới lỏng dây câu. Được đà con mực quẫy đuôi trốn thoát.

Hai tay ôm mặt, ông Ngư “hực” lên một tiếng và như một cái xác không hồn đổ xuống rũ rượi cạnh hũ rượu và bát lỏng chỏng. Mọi người tản ra mải mê với mực bỗng nghe tiếng rơi bõm, họ quay lại không thấy ông Ngư đâu nữa. Đêm đó tất cả các thuyền trong xóm Vạn Chài quây đi, quây lại như đan lưới vẫn không tìm ra được xác ông Ngư.

Ba ngày sau trời mưa bão, thuyền bè về cả chỉ còn dân đóng đáy trong sông bòn con tôm, con cua thì bỗng nhiên tờ mờ sáng đáy ông chắt Hóa kéo lên thật nặng. Nhưng kéo lên thì trời ơi, một cái xác. Một người đàn ông có mái tóc bạc như cước nằm sấp. Lật người ra ông chắt Hóa rụng rời: đó là ông Ngư. Gương mặt chìm trong nước ba ngày mà vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống. Ông chắt Hóa hú hồn khấn mãi và lấy rượu miết vào mí mắt vẫn không chịu khép.

Xác ông Ngư được dân xóm Vạn Chài đưa lên bờ cát ngay dưới chân ngọn hải đăng. Chàng trai gác đèn biển nghe tin chạy xuống. Anh thắp một nén hương rẽ đám đông bước lại gần sát ông Ngư. Mọi người sửng sốt kêu lên: từ mũi và mồm của ông Ngư một dòng máu trào ra, anh con trai sững sờ đăm đăm nhìn xác người chết và nén hương trong tay anh bỗng bùng cháy.

Anh ôm lấy xác ông Ngư nấc lên: Bố ơi! Khi những giọt nước mắt nóng hổi của anh nhỏ xuống mí mắt của người chết thì bỗng nhiên đôi mắt của ông Ngư từ từ khép lại, đôi môi hình như giật giật nở một nụ cười mãn nguyện…

Sóng vẫn vỗ vào bờ. Bên kia sông có một người đàn bà hai tay chới với và đổ ập xuống bờ cát, mười ngón tay cào cào vào mặt cát, chỉ còn nghe thấy lũ dã tràng giương mắt đỏ như mũi kim nhức nhối rào rào chạy trốn…

Mắm và dân tộc

Đọc bài cùng chủ đề:

 Mắm và đời

Đi Châu Đốc không nên chỉ biết đến lễ bái mà không biết đến mắm. Đi, có thể vì Phật lắm; nhưng về, vẫn nên về với mắm, ít ra tí chút để làm quà. Nếu không, e không khỏi bị chê bai là dốt nát về các thứ vật báu của đất nước.

Mắm không phải là kỷ vật, càng không phải là kỷ vật của khách hành hương. Kỷ vật cốt để cất giữ lâu dài, còn thứ vật báu của chúng ta cốt để tiêu thụ nhanh. Tuy nhiên, mỗi lần gợi đến những kỷ niệm hành hương về hướng núi Sam, kỷ niệm không khỏi phảng phất mùi mắm trèn, mắm thái…

Mới độ nào nói chuyện thơ Chàm ở Bình Thuận qua loa đại khái, chưa đi đến đâu, đã vội lảng sang chuyện mắm mòi([1]). Bây giờ đang từ chuyện lễ bái ở miền Năm Non - Bảy Núi([2])

lại nhẩy sang chuyện mắm trèn! Như thế chịu được sao?

- Quả thực mắm chưa từng có nhiều dịp sóng đôi với thi ca, với tín ngưỡng. Nhưng xét cho cùng kỳ lý, một địa vị ưu tiên dành cho món mắm ở xã hội ta không phải không xứng đáng.

Phần lớn các dân tộc khác trong thời cổ đại lấy săn bắn làm chính. Dân tộc ta lấy chài lưới làm chính: dân tộc khác tìm chất đạm trong thịt thú, dân tộc ta tìm chất đạm trong cá mắm. Trong các hang động người cổ sơ ở Âu Phi chất chứa nhiều đống xương thú vĩ đại; trong các di tích tiền nhân để lại trên đất nước ta chỉ còn lại những đống vỏ sò lớn lao, chỉ có dấu vết thức ăn thủy văn.

Cũng trong các hang động tiền sử bên Âu Phi, người ta tìm thấy nhiều bức bích họa quí giá, vẽ hình thú vật săn bắn. Trong các hang động tiền sử của ta, cho đến nay tuyệt nhiên chưa phát giác ra một loại bích họa nào như thế.

Vậy chim với thú, săn với bắn, vậy cái ăn của nhiều dân tộc khác đã đưa họ tới một chiều hướng nghệ thuật với những ngành nghệ thuật sở trường khác hẳn ta. Vậy dân tộc ta không sớm trau dồi về hội họa, cá mắm cũng có phần nào trách nhiệm trong vấn đề nghệ thuật đó chăng?

Và biết đâu cá mắm chúng đã khỏi dính líu đến chuyện tín ngưỡng? Bởi vì, ở các dân tộc chuyên nghề săn bắn, những hình vẽ chim thú bị tên bị giáo đâm, trên cán búa, trên vách hang cổ sơ v.v… không phải chỉ có mục đích trang trí mà còn có ý nghĩa phù phép, tín ngưỡng. Cái ăn của họ ảnh hưởng đến sinh hoạt tinh thần, thiêng liêng của họ như vậy; cái ăn của ta sao có thể kém quan trọng?

Bời vậy, chẳng những nên nói về mắm, bên cạnh thi ca lễ bái, mà lại nên nói kỹ nói nhiều. Thậm chí, giá viết được một cuốn toàn thư về mắm Việt Nam càng hay: đó là một công trình lập ngôn có mùi vị dân tộc không thể chối cãi, tha hồ trường tại với non sông.

Ôi, một tác phẩm trong đó mắm cà Nghệ An, mắm sò ở Lăng Cô, mắm cá rảnh ở Phan Thiết, mắm ruốc Vũng Tàu, mắm trèn ở Châu Đốc, mắm thơm mắm mít miền núi, mắm cá đồng ở Hậu Giang, mắm của ở Bình Phú, mắm tôm ở Bắc v.v… cho đến cái thứ nước mắm cá linh bất đắc dĩ của Việt kiều trên đất Miên năm xưa, bấy nhiêu quần hùng cùng tề tựu đủ mặt, để phát huy chân bản sắc, để kể lể về lai lịch ngọn nguồn, về từng cái hoàn cảnh ra đời riêng tây, về từng chỗ sở trường sở đoản của nhau v.v…, một tác phẩm như thế là một cái gì rất đáng ao ước. Nhưng rất khó thực hiện. Bởi lẽ phải là một đấng thiên tài mới thực hiện nổi.

Góp nhóp các cách làm mắm, dùng mắm, để chỉ dẫn những điều thực tiễn thì khối người làm được. Còn biết thưởng thức và phát huy cho đúng, cho đến nơi đến chốn cái “hay” của hết thảy các thứ mắm. Công việc đó dành cho hạng nghệ sĩ thiên tài, có được cái lưỡi bắt được của trời.

Lưỡi ấy, tài ấy, tôi không có. Cho nên bất quá chỉ dám khoe cái ngon của mắm mòi mà không dám xía vào cái ngon của mắm trèn. Cá mòi đã bỏ Phan Thiết mà đi; nghe đâu vào độ Phan Thiết bắt đầu mất cá mòi thì ven biển xứ Pérou bỗng lại xuất hiện vô số cá mòi.

Pérou: dân tộc xa xôi ấy ăn uống ra sao nhỉ? Phong thổ, đất đai, cây cỏ bên ấy ra sao nhỉ? Liệu cá mòi có cơ hội ngộ chăng với một thứ lá cây chát chát như lá sộp? Liệu nó có khỏi bị vô hộp sắt như muôn vàn thứ cá xoàng xĩnh khác trong thời buổi kỹ nghệ máy móc này?

- Bao nhiêu lo âu, thắc mắc hướng về thân phận con cá mòi ở nơi biển khách! Nỗi thắc mắc căn cứ trên sự tin tưởng rất chủ quan rằng trên thế gian không dễ được mấy dân tộc có thiên tư về mắm như dân tộc ta.

Đối với mắm mòi cố tri thì thế, nhưng đối với mắm trèn mắm thái thì không dám đường đột. Danh tiếng đã lừng lẫy, nhưng hãy còn xa lạ thế nào. Nếu có phải nói đến, sẽ chỉ dám nói về mối liên hệ lạ lùng giữa các bà giáo cùng các món mắm trong Nam, hay về các thứ hũ đựng mắm mà thôi.

Của mắm và người

Nếu là một bà giáo, là hai bà giáo, thì có thể nghĩ rằng đó là chuyện ngẫu nhiên, là sự gặp gỡ tình cờ của đôi gia đình trong việc nữ công.

Lại nếu là việc xảy ra ở một tỉnh một quận nào đó thôi, thì có thể cho là đặc điểm sinh hoạt của địa phương.

Đàng này, ở Vũng Tàu, Bà Rịa, ở các bắc Mỹ Thuận, bắc Vàm Cống, ở Châu Đốc…, đâu đâu các món mắm ngon bày bán phần lớn cũng mang nhãn hiệu của một bà giáo! Tại sao không phải là bà thông bà phán nào, là bà bác sĩ kỹ sư nào, là bà Năm bà Bảy, bà Hiệp Lợi, bà Phát Thành v.v…, tức là một nhà buôn nào? Làm sao giải thích được sự chọn lựa đầy thiên vị của mắm miền Nam? Giải thích được cái duyên nợ giữa giáo chức miền Nam với món ăn thuần túy dân tộc?

Ai có thể vì mắm mà “nói lên” ý nghĩa của cái hiện tượng ấy?

Mặt khác, các thứ hũ chai đựng mắm ở đây dường như chúng cũng đòi “nói lên” một ý nghĩa nào đó.

Mắm là thứ ướt át và có mùi. Nhưng mua mắm ở chợ Châu Đốc chẳng hạn, khách hàng khỏi lo lắng; có những thứ bao thứ bọc thích hợp, có những lọ bằng thủy tinh, lọ bằng nhựa, vừa đẹp vừa kín. Mang món quà như thế đi đường không có chút gì bất tiện; khách có thể mang thẳng lên phi cơ mà nhân viên kiểm soát không để ý đến.

Thực ra mắm thái mắm trèn có là bao, so với sản lượng mắm của những trung tâm danh tiếng từ lâu đời: Phan Thiết, Mũi Né, Phú Quốc v.v… Thế mà du khách không thể tìm được một món quà mắm trình bày tiện lợi thích ý ở các trung tâm sản xuất lớn lao kia.

Chỗ đặc điểm này hình như có thể cho phép nghĩ đến một khía cạnh tâm lý. Tâm lý, dĩ nhiên không phải của mắm, mà là của người. Người miền Nam.

Miền Nam có những điều làm cho người ngoài Trung mới vào lấy làm ngạc nhiên một cách thích thú. Chẳng hạn đi chợ mua cá, giá cả xong xuôi, lập tức cá được vớt ra đập đầu, lóc da, mổ ruột, làm thịt sẵn sàng, bỏ vào bọc nhựa sạch sẽ. Mua gà, mua vịt? Cũng thế. Mua xong, mang đếm một chỗ có “chuyên viên” chờ sẵn, vứt đấy; một lát sau trở lại thì gà vịt sống đã thành ra một bọc thịt có thể cho ngày vào xoong chảo. Nếu khách không bận mua thứ gì khác, thì trong khi chờ “chuyên viên” làm thịt gà vịt, khách có thể ngồi xuống cạnh đó nghỉ chân, để vào một vài “chuyên viên” khác làm móng tay móng chân v.v… Móng tay xong, thịt gà cũng vừa xong. Lại chẳng hạn, có những thứ cá khó trị, như cá thác lác: cá thì dẹp, thì nhỏ, mà phải lóc da, lừa xương, chọn lấy toàn thịt để dùng. Công việc rắc rối ấy sẽ làm nản lòng vô số bà nội trợ, nếu người bán hàng ở miền Nam này không làm giúp tất cả: họ ngồi giữa chợ, lấy thịt thoăn thoắt hàng vạn con cá thác lác như thế, chờ đổ vào bọc nylông cho khách.

Chợ ngoài Trung đâu có vậy. Có lẽ cả ngoài Bắc cũng không.

Lại nữa, hãy xem cái cách bán mía, bán trái cây ở mỗi miền. Ngoài Trung, trước kia, không ai nghĩ ăn mía mà khỏi xiếc mía. Ở trong Nam, để khách khỏi xiếc, người bán róc sẵn từng khúc. Khỏi xiếc, có thể khách còn lười cắn chăng? Người bán cắt sẵn từng miếng bỏ bọc hay ghim vào que. Nhưng khỏi xiếc, khỏi cắn, khách còn đòi khỏi nhai mía nữa thì sao, liệu có cách ăn khỏi nhai chăng? - Có. Người bán ép mía thành nước.

Mặc dù, cho đến nay, người bán mía trong Nam chưa nghĩ ra cách giúp khách hàng dùng mía mà khỏi phải nuốt; nhưng họ cũng đi quá xa, so với đồng nghiệp các miền ngoài.

Bán rau thì thái sẵn, trái cây thì gọt vỏ sẵn, chẻ sẵn v.v…, tất cả đều là quá xa trong sự chu tất.

Tại sao vậy? Người Nam đâu có xuất sắc về đức cần cù, chịu thương chịu khó? Nhất là khi so sánh người nông dân của miền Nam phì nhiêu mỗi năm làm một mùa lúa sạ, với người nông dân của miền Bắc đất hẹp dân đông, của miền Trung cằn cỗi? Vậy làm sao cắt nghĩa cái tâm lý vừa ưu du nhàn dật, vừa kỹ lưỡng chu đáo, vừa lười vừa siêng của người miền Nam?

Phải chăng nét tâm lý đó là của một xã hội đã có hoạt động thương mãi phát triển cao? Ở xã hội nông nghiệp, người nông dân siêng nhất chỉ siêng với lúa, với ruộng, với hoa màu; cái siêng ấy không hướng về một thứ khách hàng nào. Nông dân không có khách hàng. Trái lại, ở đô thị, cái siêng năng của thương gia chuyển thành một tâm lý cố gắng phục vụ khách hàng. Thế cho nên ở ruộng, người miền Nam không nổi tiếng cần cù, nhưng ở chợ ở phố họ chu đáo.

Vả lại, họ được những cơ sở công kỹ nghệ của một miền tiến bộ về kinh tế tiếp tay. Họ cần cái máy ép nước mía, cần thứ lọ thứ chai ra sao, thứ hộp thứ bao gì: đã có chỗ sản xuất sẵn sàng cung cấp. Những nhà làm mạch nha kẹo gương ở Quảng Ngãi, làm mè xửng ở Huế v.v… thiếu hẳn cái lợi thế đó, cho nên các sản phẩm kia trình bày xấu xí.

Sau cùng, không thể không công nhận cái bén nhậy, phong phú sáng kiến của lớp người mới ở một miền đất mới: Con dao róc mía, gọt vỏ trái cây, thái rau v.v… có thể ra đời ở bất cứ lò rèn nào; nó chỉ ra đời ở những lò rèn trong Nam.

Mắm và Đời

Tháng Mười năm 2007, tôi và một nhà doanh nghiệp trẻ ở Hà Nội được Hãng Johnnie Walker mời đi Thượng Hải, tiêu chuẩn khách VIP, vừa du lịch vừa tham dự cuộc đua xe hơi Thể thức 1, tranh Giải Grand Prix Thượng Hải 2007. Tôi ở khách sạn 5 sao JW Marriott,  tọa lạc ở vị trí đẹp nhất Thượng Hải. Người của Johnnie Walker nói giá phòng khách sạn 5 sao ở đây hiện đắt gấp 3 lần giá phòng khách sạn 5 sao tại Sài Gòn! Tiếng là 5 sao, cái gì cũng thượng hạng, nhưng về ẩm thực, riêng chuyện nước chấm, tôi chả thích tí nào! Người Hoa quen ăn xì dầu. Tôi ăn xì dầu cũng được, nhưng không thích, chỉ hạp nước mắm, mà phải là nước mắm y, tức là nguyên chất. Khi đi công tác Hà Nội hay đi nước ngoài, tôi luôn thủ trong va ly một chai Hennessy loại nhỏ, chứa nước mắm Phú Quốc! Những ngày ở Thượng Hải, ăn tại JW Marriott Hotel hay là ăn cùng đội đua Vodafone McLaren Mercedes tại Câu lạc bộ VIP Vodafone McLaren tôi đều lấy từ trong túi ra chai rượu Tây đựng nước mắm Phú Quốc để ăn những món ăn ngon, đắt tiền kinh khủng như cá chép sông Trường Giang, vịt Bắc Kinh, Bò nấu theo kiểu Whampoa Club – một nhà hàng nổi tiếng tại Thượng Hải -  tôm hùm Úc châu, hào sữa vịnh Caribe… Những khách ngồi cùng, người Anh, người Mỹ, người Đức, cả Brasil nữa rất thú vị khi ăn ké nước mắm Phú Quốc và họ khen hết lời! Giữa lòng Thượng Hải hiện đại và sôi động, tôi tĩnh tâm thưởng thức món nước chấm của quê hương mình mà lòng trào lên cảm xúc tự hào… 

Phàm là mắm, đều bổ dưỡng, ngạt ngào hương vị quê hương!

Từ Bắc chí Nam, ở đâu cũng có những  loại mắm đặc trưng cho từng vùng, miền. Tôi coi đó là vưu vật do Trời, Đất mang lại cho người Việt. Phàm là mắm, nguyên lý chung của Mắm là ướp thủy sản với muối và một số gia vị khác trong ba tháng, sáu tháng hay một năm là xơi được. Có loại mắm làm ra để ăn mắm hoặc chế biến thành nhiều món ngon từ mắm. Mắm cá, hay mắm cái ở Đà Nẵng, thời tôi làm phóng viên chiến trường ở Khu Năm là thức ăn hàng ngày! Tôm chua Huế, mắm cá cơm, mắm cá lóc, mắm thái, mắm ruột… ở phía Nam quả là những món ngon nhất trần đời khi được dọn ăn với các loại rau, thịt ba chỉ luộc. Mắm cá xặc, mắm cá linh là hai loại làm ra nước cốt để nấu lẩu mắm - món ăn đặc trưng của miền Lục tỉnh Nam kỳ. 

Ở miền Bắc, từ 1955 trở về trước, nức tiếng hãng nước mắm Vạn Vân, đảo Cát Hải, Hải Phòng. Ông chủ Vạn Vân chính là thân sinh của nhạc sỹ Đoàn Chuẩn, người đã viết những ca khúc tuyệt hay về mùa thu Hà Nội. Các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa… là những địa phương chủ lực cung cấp hải sản, trong đó có các loại mắm và nước mắm cho miền Bắc. Thanh Hóa là vựa mắm tôm tuyệt ngon cung cấp cho Hà Nội. Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc 1956-1960, sản lượng đánh bắt thủy sản sa sút dần; cá biển, tôm biển, đến nước mắm cũng phải phân phối theo tem phiếu! Cá thì ươn (có câu vè: Cá mậu dịch, kịch TV), nước mắm thì mặn chát như nước muối. Chính vì thế mà mãi đến tận bây giờ, vô các quán nhậu, nhà hàng ở Hà Nội, việc được chấm một chén nước mắm ngon là hiếm lắm! Gần đây, Hà Nội đã xuất hiện vài nhà hàng mới, chủ nhân khá sành điệu về ẩm thực, cho nên đã có nước mắm ngon chiều khách.

Ở phía Nam, có nhiều cơ sở làm nước mắm lừng danh. Mỗi lần có dịp công tác trên Trường Sơn, khi qua Quảng Ngãi vào Bình Định, tôi đều ghé mua vài can nước mắm Ông Già về làm quà và để nhà ăn dần. Cơ sở Ông Già không lớn, nhưng thành phẩm có hương vị riêng, giàu độ đạm, thơm mùi thơm rất thật của biển cả mà không gắt, chấm với dưa leo (chuột) ngon số dách chứ cần chi đến chả lụa, chả quế! Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Nha Trang, Phan Thiết… mỗi tỉnh đều có nhiều cơ sở làm nước mắm ngon, nhưng ngon nhất phải là Phú Quốc! Tôi từng lang thang rất nhiều lần ở các cơ sở làm nước mắm từ Bắc chí Nam và ngộ ra một điều là: Cách ướp chượp giống nhau, gỗ đóng thùng ướp chượp có thể khác nhau chút ít về loài cây, thế mà chất lượng và hương vị nước mắm nhĩ thì rất khác nhau! Giống như rượu đế vậy! Ngày trước vua Lê phong cho rượu Làng Vân là Vân hương mỹ tửu. Bí quyết nấu rượu ngon là men và nhất là nước! Một người nấu rượu ngon nhất Làng Vân, đem đồ nghề cùng men rượu vô Sài Gòn, mua nếp ngon ở chợ, nấu bằng nước máy lọc từ sông Đồng Nai thì lại cho ra loại rượu chẳng thể nào thơm ngon như rượu nấu tại Làng Vân. Sao lạ vậy cà? Ông Nguyễn Trung Tuấn, sỹ quan Quân đội Nhân dân, đã nghỉ hưu, con trai của cụ Tom (Bà cụ Tom hiện ngoài 90 tuổi), người được mệnh danh là Giữ lửa hồn rượu Làng Vân. Ông Tuấn ngụ tại đường Cộng Hòa quận Tân Bình Tp Hồ Chí Minh. Từ nhiều năm nay, ông Tuấn chuyên bán cho bạn bè và người quen những thùng rượu Làng vân do cụ Tom nấu và gửi từ Làng Vân bằng tàu hỏa vô sài Gòn. Ai đã từng uống rượu Cụ Tom thì sẽ nhớ cả đời! Rượu ấy có bí quyết, nhưng, quan yếu vẫn là… nước! Nước mắm cũng vậy! Bí quyết làm nước mắm ngon, nếu có, là do Trời, do Biển, do dất, do nước, do khí hậu mà ra. Bởi con cá cơm thì không đâu bằng Phú Quốc. Nước mắm Phú Quốc thuộc vào hàng vưu vật mà Trời đất ban cho dân ta! 

Nước chấm, món quan trọng hàng đầu trong ẩm thực 

Có rất nhiều loại mắm để chấm món ăn. Mắm tôm là một. Trong đợt dịch tiêu chảy cấp vừa qua, người ta đổ lỗi cho mắm tôm, nghĩ mà buồn. Từ nhỏ, tôi đã thấy mẹ mua tôm tươi về rửa sạch, giã nhiễn, cho vô hũ gốm Bát Tràng, cứ một lớp tôm ướp một lớp muối. Sau đó lấy lá chuối hoặc lá sen bịt kín, phơi nắng. Sau sáu tháng, mở ra, mắm có màu hồng như gạch non, thơm phức. Phàm là lòng lợn (heo), thịt ba chỉ luộc, thịt cầy, cà pháo…, nếu không chấm mắm tôm thì thà ăn rau luộc chấm nước mắm cáy còn hơn! Mắm tôm là chính vị chứ không phải gia vị để nấu canh cua rau đay mướp, nấu riêu cua, nấu các món ăn từ thịt cầy (riềng, mẻ, mắm tôm). Những món vừa kể, nếu thiếu mắm tôm, chẳng khác gì trái đất chỉ có đàn ông đực rựa mà không có phái đẹp! Cũng trong đợt dịch tiêu chảy cấp vừa qua, nhiều quán thịt cầy ở Sài Gòn thay mắm tôm bằng muối tiêu chanh. Mà muối tiêu chanh thì không thể nào bằng muối giềng ớt! Tôi nhớ chó Khoa ở chỗ chắn tàu đường Khâm Thiên giáp đường Lê Duẩn. Ông Khoa năm nay khoảng ngoài 55 tuổi, nổi tiếng với thịt chó thui rơm, chặt rất đẹp, chỉ bán cho khách gói về nhà. Từ ngày khởi nghiệp, ông Khoa không cho khách ăn mắm tôm mà chỉ có muối giềng giã nhiễn cùng ớt sừng trâu xắt mỏng, to bản. Thịt chó Khoa trắng hồng như thịt gà, da vàng đồng, hơi sậm, mịn, đẹp và gợi cảm như da thiếu nữ miền biển. Nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm, Khoa chỉ mua bốn loại cấy có màu lông ấy mà phải thật tơ… Một bạn văn khoái chó Khoa, nói: “Có đi lên cung trăng tớ cũng xé trời rơi xuống để ăn chó Khoa chỗ chắn tàu Khâm Thiên”! Nói cho ngay, thịt chó Khoa chấm muối giềng ớt cũng tạo nét đặc trưng, nhưng không thể nào bằng chấm với mắm tôm chanh xả ớt!

Nói đến mắm tôm, không thể không nói đến món chả cá làm từ cá Lăng. Hà Nội nổi tiếng quán chả cá Lã Vọng. Tôi ăn chả cá ở quán này lần đầu tiên năm 1964, khi bác ruột tôi là Triệu Thiểm, quan chức của Ty Y tế Hải Dương, nhân kỳ nghỉ hè, dẫn tôi đi Hà Nội chơi, đến nhà nghệ nhân làm bạc nổi tiếng ở Khâm Thiên là bác Triệu Như. Bác Như chiêu đãi chúng một chầu chả cá Lã Vọng. Tôi ăn và nhớ đời! Bữa ấy, tôi được ngồi vào cái băng gỗ lim dài gần 2 mét, trên lầu 1, sát cửa sổ nhìn xuống đường. Bác Triệu Như nói rằng, chỗ tôi đang ngồi, ngày trước các nhà văn nhà thơ Tản Đà, Vũ Bằng… thường ngồi khi có tiền ăn chơi tom chát. Bí quyết làm chả cá ngon ở quán Lã Vọng, tất nhiên là phải cá lăng thứ thiệt, được ướp gia vị công phu…, nhưng có lẽ món chấm bằng mắm tôm đích thị là bệ phóng cho chả cá Lã Vọng nức tiếng năm châu bốn biển. Sau này Lã Vọng mở thêm một quán ở đường Nguyễn Trường Tộ, quận Ba Đình, gần NXB Văn học, giữ được nếp nhà, chả cá ngon, và chỗ ngồi thoáng hơn, sạch hơn. Tôi đã ăn chả cá lăng ở hầu hết các quán từ Bắc chí Nam, nhưng chả có ở đâu ngon miệng như quán Lã Vọng, bởi chả ở đâu có được mắm tôm ngon như rứa!

Thịt cầy ắt phải đi với riềng mẻ, mắm tôm. Thế nhưng ở các tỉnh miền Đông Nam bộ, bà con mình không chấm thịt cầy với mắm tôm mà là với nước mắm thấm vô cùng độc đáo. Lần đầu tiên tôi ăn thịt cầy với nước mắm thấm là vào cuối năm 1975, tại Tây Ninh. Hồi đó tôi thường xuyên đi viết về cao su Tây Ninh và công trình xây dựng hồ chứa nước Dầu Tiếng. Thời bao cấp khốn khó, thiếu thốn, nhà báo đến là chủ nhân hạ ngay một con cầy tơ. Bà con theo đạo Cao Đài kiêng ăn thịt cầy và thịt trâu. Thế nhưng, ngay tại cụm dân cư sát chợ Long Hoa, cách Tòa thánh Tây Ninh không xa, người dân nơi đây ăn thịt cầy quanh năm, và đặc biệt hơn, họ cúng thịt cầy trên bàn thờ vào ngày giỗ, ngày Tết. Người Bắc thì không cúng giỗ bắng thịt chó! Thế nên mới có câu: Sống trên đời ăn miếng dồi chó. Thác xuống âm phủ không có mà ăn! Không đặt thịt chó lên cỗ cúng thì hương hồn người quá cố lấy chi mà thưởng lãm! Người miền Đông Nam bộ pha nước mắm thấm khá công phu: Tương hột (đậu nành nguyên hạt làm tương) cho vô xay cùng xả, ớt, nước cốt dừa, trộn với thính (rang gạo thơm giã nhỏ), nêm thêm vài gia vị khác, thành một hỗn hợp sền sệt, kèo kẹo, màu vàng sẫm, khi chấm miếng thịt cầy vào, đưa lên miệng, thấy âm dương hài hòa, bốn mùa xuân hạ thu đông đồng hiện, thấy lòng thanh thản, rạo rực như lạc vào cõi đào nguyên… Nhà văn Lê Văn Thảo, Chủ tịch Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh, một người thích vô bếp như tôi, trên xe trực chỉ Đà Lạt trong chuyến đi khai mạc Trại sáng tác Đà Lạt của Hội Nhà văn tháng 9-2008, nói với tôi: “Vài năm gần đây, người Nam sành ăn đã mê ăn món nấu theo kiểu Bắc như chả cá lăng, canh cua rau đay mướp, canh cá rô nấu cải bẹ xanh, canh bánh đa cua và canh bánh đa cá rô, đặc biệt là thịt cầy. Thịt cầy nấu theo cách của người Bắc mới ngon, ông Triệu Xuân ạ!”. Nhân đây, tôi trích một đoạn trong Vũ Bằng Toàn tập, tập I, Triệu Xuân sưu tầm, biên soạn, giới thiệu. NXB Văn học, 2006; Đoạn này Vũ Bằng viết về Thịt cầy. http://trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=10172&catid=3

- Nhấn chuột vô đây để đọc toàn bài Thịt cầy

… “Riềng già giã cho thật kỹ, đấu với mẻ, gia thêm vào đủ mắm tôm, để đấy cho ba thứ cấu kết với nhau thành một khối chặt chẽ, rồi mới bóp vào với những miếng thịt thái không to không nhỏ, cứ độ vào một đốt ngón tay cái là vừa. Đừng lấy ra ngay. Hãy ướp tất cả chừng vài tiếng đồng hồ rồi hãy lấy ra xếp vào một cái cặp chả, đặt lên trên than hồng mà nướng.

Này, nướng chả chó, kỵ nhất cái thứ than tây đấy nhé. Nướng bằng củi cũng không được. Phải nướng bằng than tàu, quạt liền tay cho đỏ, mỡ có rỏ xuống than đừng tiếc. Mỡ đó vào lửa, bốc lên thành khói, khói đó quyện lấy chả, tạo ra một mùi vị đặc biệt không tiền khoáng hậu, thơm phưng phức nhưng không thô, thanh thoát cao sang mà vẫn gần nhân loại. Một người đau bịnh nặng, nằm ở bên cửa sổ nhìn ra giàn hoa thiên lý, chợt ngửi thấy mùi thịt bò xào hành tây, có thể ngấy mà lợm giọng; một người có chứng nhức đầu tự nhiên thấy bay đến trước mũi mùi chả lợn nướng có thể thấy khó chịu vì mùi tuy thơm nhưng có ý hơi nóng; nhưng ngửi đến mùi chả cầy ngát trong gió hiu hiu, ta có thể chắc chắn là người khó tính đến mấy đi nữa cũng phải thấy như cởi gan, cởi ruột.

Gắp một miếng thịt đó, đừng ăn vội, hỡi người háu ăn ơi! Cứ từ từ, chầm chậm để làm khổ ông thần khẩu đã! Anh đưa miếng chả lên trước mắt mà xem: miếng thịt cứ săn lại như thịt một người lực sĩ, mà bóng nhễ bóng nhại một cách mới lành mạnh làm sao! Nó thơm quá đi mất thôi, anh ạ. Thơm quá chừng là thơm, thơm không phải chỉ làm khổ riêng khứu giác của những người ở trong nhà mà thôi đâu, còn làm khổ tất cả láng giềng, hàng xóm. Ở cạnh những người ăn ngon như thế, mình lâu lâu mà không được “thưởng thức”, cũng có khi phải phát bực lên mà “ai oán” cho cái kiếp người không được mấy khi xứng ý…

… nhưng đến cái món dựa mận thì nhất định cả trăm người ăn thịt chó đều phải công nhận đó là một món ăn… bất hủ! Chẳng biết ông tổ nào nhà mình, trong một phút xuất thần, lại nghĩ ra một món kỳ tuyệt đến như thế được? Tôi dám nói quyết với các anh rằng có nhiều lúc ngồi thưởng thức món đó, tôi đã từng ví với bản nhạc “Le Danube Bleu” của Johan Strauss(1) nó dìu dặt, khoan thai, cuồn cuộn một cách êm dịu, có đôi khi lại như nhảy nhót lên trong ánh sáng.

Ấy đấy, cái món dựa mận vào trong miệng nó cũng từa tựa như thế đấy. Thoạt mới dùng, ta thấy nó dìu dịu, hiền hiền, nhưng điểm mấy lá húng cho vào rồi đưa đi mấy lá bún trắng tinh, chấm với cái thứ nước quánh đặc một màu đào mận, ta thấy nhạc điệu khác hẳn đi, khác nhưng từ từ, chậm chậm, theo thứ tự từng gam một, chớ không lỡ điệu, không đột ngột.

Khẩu cái ta như nhảy múa tưng bừng, có lắm lúc tưởng chừng như có cái gì sắp “hỏng kiểu”, làm cho ta hơi sợ; nhưng tài tình là chính lúc ta sợ như thế thì sự ngang trở uyển chuyển vượt qua một cách thần điệu và tạo nên một nét nhạc mới thần tình đến lạ lùng.

… Muốn có một bát dựa mận thật là gia dụng, ta cần phải chú ý đặc biệt tới ba thứ nòng cốt là mắm tôm, riềng và mẻ. Mắm tôm phải là thứ mắm tôm “tiến”, lọc cho sạch; riềng giã thực kỹ, cần nhiều, kém thì không dậy mùi; mẻ cũng phải lọc đi lọc lại. Ba thứ đó trộn với nhau thực đều, gia thêm hành muối vừa độ, ướp với thịt chó sống, sau khi đã bóp kỹ rồi. Tất cả để đó, chừng một tiếng đồng hồ, chớ có đụng vào, rồi hãy lấy ra ninh.

…Con chó là con vật để cho người ta ăn thịt; ăn thịt chó không khác gì ăn thịt thỏ, ăn thịt nai, ăn thịt bò. Huống chi thịt chó lại còn ngon và bổ; vì thế tôi cho rằng mặc dầu người ta đàm tiếu thế nào đi nữa, thịt chó vẫn cứ là một món ngon bất diệt của dân ta và tôi tin rằng: “Nước ta còn, thịt chó còn” mà văn hóa ẩm thực của ta mai sau hay, dở là ở điểm có biết duy trì thịt chó hay không vậy. (Trích từ Vũ Bằng Toàn tập. tập I. Triệu Xuân sưu tầm, biên soạn, giới thiệu. NXB Văn học, 2006). 

Tại Tây Ninh, thị trấn Trảng Bảng, có đặc sản bánh tráng phơi sương mà cả nước hình chữ S này không đâu có. Bánh tráng phơi sương cuốn với thịt heo luộc và rau tươi gồm ba mươi sáu loại rau. Món này mang ra Hà Nội làm là không xong, bởi đào đâu ra các loại rau giàu chất dinh dưỡng chỉ có ở Trảng Bàng! Thế nhưng, quan trọng hơn, sau phần rau là nước chấm. Tiệm bà Năm Dung ở Trảng Bàng có lẽ đông khách chỉ vì tài pha nước chấm. Tôi ít làm thơ, nhưng trong một bài thơ in báo từ năm 1977, tôi có viết: Trảng Bàng bánh tráng phơi sương/ Ăn một lần để vấn vương trọn đời! 

Tương, rươi và chả đúc từ mắm 

Tương hột để làm nước mắm thấm chỉ là một trong hàng trăm loại tương. Thuở nhỏ tôi đã được mẹ dạy cách làm tương. Nếp cái hoa vàng xay ra gạo, không giã, loại sạch vỏ trấu, nấu cơm nếp trải cho nguội. Đậu tương (nành) rang thơm, giã nhiễn rồi trộn với cơm nếp, bóp men trộn đều, ủ bằng lá sen hoặc lá nhãn, đến khi lên meo (mốc) thì cho vô chum (cũng bằng gốm Bát Tràng hoặc Hương Canh) cùng với muối và nước tinh khiết (nước giếng ngọt, nhất là nước mưa hứng từ cây cau). Phơi nắng sáu tháng, thỉnh thoảng chế thêm nước. Sau sáu tháng, tương có màu vàng óng ả, thơm như mật ong, chấm rau, chấm thịt, nhất là kho cá, làm nộm… ngon tuyệt. Câu ca: Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương là nói tương đó! Tương Bần (Bần Yên Nhân, Hưng Yên) ngon có tiếng, nhưng ngày nay tìm mua được tương Bần chính hiệu rất khó. Người ta chạy theo thương mại thì thương hiệu bị mai một là sự thường. 

Hải Dương quê tôi, có một loại mắm độc nhất vô nhị: Mắm rươi. Tháng Chín đôi mươi, tháng Mười mồng năm (tức cuối Thu, đầu Đông) là mùa rươi xổ. Rươi mua về làm chả (phải có vỏ quýt), hoặc làm mắm ăn quanh năm. Tôi chưa thấy món mắm nào có hương vị lạ lùng như mắm rươi. Mắm rươi có nhiều cách ăn. Ăn trực tiếp: chấm với thịt luộc, tim gan lòng lợn luộc, tôm càng xanh hấp, mực tươi… và các loại rau. Mẹ tôi thường băm thịt ba chỉ, nấm hương, mộc nhĩ, trộn mắm rươi, trứng gà, vỏ quýt để rán (chiên) chả. Nhà nông nghèo, món dễ đưa cơm nhất là sốt cà chua mắm rươi chấm với rau xà lách, ăn tới đâu tê mê tới đó! Ở Sài Gòn có vài quán bán món ăn xứ Bắc, bán món chả rươi quanh năm. Rứa là không đúng! Rươi đâu thể nào có mà ăn quanh năm! Nhân tiện, tôi xin trích một đoạn văn từ Vũ Bằng Toàn tập, tập I, Triệu Xuân sưu tầm, biên soạn, giới thiệu. NXB Văn học, 2006; Đoạn này Vũ Bằng viết về Rươi. 

- Nhấn chuột vô đây để đọc toàn bài Rươi.

… “Nhưng mà thú hơn một bực là mắm rươi. Cứ đến mùa rươi, thường các bà nội trợ đảm đang vẫn đích thân làm một hai bình, đem ủ cho thật ngấu rồi cất đi thỉnh thoảng đem ra ăn với ruốc bông, rau cần, cải cúc, vỏ quýt, thơm, mùi, lạc rang giã nhỏ, hành hoa, gừng và rau xà lách.

Ăn như thế mà lại gia thêm thịt luộc ba chỉ, không thể nói là ngon được; phải nói là ăn “cứ tỉnh cả người ra”. Ăn như thế, không mất cái vị rươi ngòn ngọt lại phảng phất tanh tanh; mà có khi đang ăn sực nghĩ rằng mình đang được dùng một của trái mùa, ta sướng rợn lên như được đặc hưởng ân tình với một người đẹp ở một nơi u tịch, không ai hay biết.

Đã có bao nhiêu bận, ngồi nhấm nháp miếng chả rươi thật kỹ, nghĩ đến cái ngon đậm đà của miếng quà đất nước, tôi đã nhớ ra rằng có bao nhiêu người con đất Việt như tôi, chẳng may lại không được ăn rươi – kẻ ăn rươi, người chịu bão – hay không biết ăn rươi! Tôi thấy tiếc cho họ, mà lại ngậm ngùi một chút.

… Riêng tôi không thể nào quan niệm được một bữa mắm rươi “ra dáng” mà lại thiếu hai món rau quan yếu đó. Thiếu nó, thật y như một người đàn bà đẹp mà vô duyên: tẻ lắm.

Trái lại, ăn một bữa mắm rươi đủ vị, không những ngon miệng mà lại đẹp mắt nữa: mắm rươi ở dưới bát, tôm he xé thật bông ra phủ lên trên, trông như một bát san hô, thế rồi đến lúc ăn, gắp đủ các thứ rau vào bát, rải mắm lên trên. Màu mắm vàng tươi nổi bật hẳn lên trên màu trắng trong của men bát, màu xanh mát của rau, màu vàng nhạt của gừng và màu vàng thẫm gần ngả đỏ của vỏ quýt, ai không biết ăn mắm mà trông thấy cũng phải thèm lên thèm xuống.

Ăn mắm sống mãi mà chán thì đem chưng lên. Chưng mắm với trứng, gia một cùi dìa đường tây vào rồi khuấy lên như khuấy bột, mắm gần đặc thì cho vỏ quýt, lạc rang vào.

Thứ mắm chưng này cũng ăn với rau sống, nhưng gia thêm một hai nhánh tỏi tươi thì lại càng nổi vị hơn. Thơm gọi là nức mũi! Người ốm phải ăn kiêng, lắm lúc thấy không chịu được, cũng cố đòi ăn một miếng.

…Màu vàng tái của mắm rươi nhắc ta nhớ lại màu đất của đồng ruộng mịn mỡ, làm cho ta yêu mà như đau nhói ở tim, vì hình ảnh của những người làm ruộng chân lấm tay bùn ở dưới mưa dầu nắng lửa. Nhớ anh em khôn xiết, thương đồng bào bao nhiêu! Ăn một miếng mắm ở phương xa, bao nhiêu là kỷ niệm đất nước cũng đi theo luôn vào lòng mình: người khách tha hương thấy đồng bào tuy là cách mặt mà vẫn thương mình, vừa cảm động, vừa thương thân, sao cho khỏi vừa mừng, vừa tủi?

Tôi còn nhớ những người ở tản mác dưới những phương trời xa lạ cả Âu lẫn Á, hồi trước chiến tranh vẫn gửi những lá thư về nhà nói với mẹ, với chị “cho xin một lọ mắm rươi”, và tôi thích nghĩ lan man về những nỗi lòng của họ khi hạ bút viết nên câu đó.

Ờ mà, ở Tàu, ở Nhật, ở Pháp, ở Anh, nào thiếu gì đâu những quà ngon của lạ, mà sao người khách tha hương vẫn cứ đăm đắm nhớ đến “cái món ấy” của quê nhà?

Thì ra dù quan sơn cách trở, giữa người dân lưu lạc và đất nước bao giờ cũng có những dây hữu ái nối hai thâm tình lại với nhau.

Và khi nghĩ rằng mối dây liên lạc đó không phải là vàng mà cũng chẳng phải là bạc, không là chủ nghĩa này, lý thuyết nọ mà cũng không là giải pháp ấy, phái đảng kia, nhưng chỉ là một con rươi, một chút rươi làm thành mắm, tôi thấy muôn hoa ở trong lòng hé cánh như những bàn tay búp bê vẫy gọi nhau, và tôi muốn cúi đầu xuống cảm ơn – cảm ơn bất cứ ai – đã cho người mình có con rươi, biết ăn rươi, và làm được những món rươi ăn thích thú và thơm ngon đến thế! (Trích từ Vũ Bằng toàn tập. Tập I. Triệu Xuân sưu tầm, biên soạn, giới thiệu. NXB Văn học, 2006).

Tôi được ăn chả rươi từ nhỏ, khoái nhất là chả rươi đúc với thịt bằm và nấm hương, ăn rồi hóa ghiền! Sau này, khi vô Nam, tôi cũng khoái ăn chả đúc từ các loại mắm khác. Tôi có người thân là ông Huỳnh Lân quê gốc Củ Chi, nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Công ty Cao su Tây Ninh (đã qua đời) rất mê ăn chả mắm đúc thịt. Em gái út của ông là bà Út, lấy chồng Tân Biên, Tây Ninh, bà từ trần hơn chục năm rồi. Hồi đó, lần nào tôi lên Tây Ninh, bà Út cũng làm món chả mắm đúc thịt ngon nhớ đời. Mắm là mắm cá lẹp bắt từ sông Vàm Cỏ. Bà Út trộn mắm với thịt ba chỉ bằm nhiễn cùng trứng gà so, nấm mèo (mộc nhĩ), nấm rơm và nhiều gia vị khác rồi chưng cách thủy, khi ăn cắt ra từng miếng. Chả mắm ấy ăn với trái đậu rồng, đậu bắp tươi vừa hái từ vườn, rửa sạch, ăn bằng tay… thì kể như bao nhiêu rượu cũng không vừa!

Ngày xuân, để lòng thảnh thơi, tĩnh tâm thưởng thức các món mắm, nước chấm mới thấy hết cái tế vi, tao nhã, sự thơm ngon và bổ dưỡng! Nhiều loại mắm còn là vị thuốc chữa bệnh nữa! Xin tạ ơn đất trời đã ban cho người Việt Nam ta nhiều của ngon vật lạ, trong đó mắm thuộc vào hàng vưu vật!

Tôi mong các bạn trẻ đừng bao giờ quên hoặc xa lạ với mắm, đặc sản của ông bà cha mẹ truyền lại. Mắm, ấy là văn hóa! Hãy tiếp sức để các loại mắm không ngừng phát triển, làm phong phú, làm sang cho ẩm thực Việt Nam! 

Mắm cáy

Châu Âu đã vào h

, cây lá b

ng t

nh sau m

t gi

c dài ng

đông. B

u tr

i cao và trong xanh, tia n

ng s

m kh

e, mát nh

ư

thi

ế

u n

tu

i d

y thì chi

ế

u v

t qua khung c

a, lòng ng

ườ

i th

y nao nao.  Không hi

u sao lúc này c

m giác nh

nhà, nh

quê trong tôi trào dâng đ

ế

n nh

ư

v

y. C

m đi

n tho

i đ

nh chia x

c

m xúc này v

i bác Tr

n M

nh H

o, có khi l

i c

m h

ng cho bác đ

ra vài ba bài th

ơ

ch

ch

ng ch

ơ

i. Nh

ư

ng tôi ch

ư

a k

p lên ti

ế

ng, bác đã h

i ngay:

           - Tr

ườ

ng h

! Chú g

i r

t đúng lúc, không hi

u sao m

y

ngày nay anh nh

và thèm ăn m

m cáy quá.

Ơ

hay bác này!  Hôm nay g

ng

ườ

i hay sao?  Đi

n đóm ch

ư

a thăm h

i nhau câu nào đã m

m cáy m

m cò.

            - Em cũng đang nh

nhà ch

ế

t đi đ

ượ

c, g

i cho thi sĩ th

thi

t, t

ưở

ng bác cho em vài nh

i bay b

ng, gi

i

đ

t trăng sao, ai ng

bác l

i đi th

ng vào đ

tài dùi đ

c m

m cáy th

ế

này, làm m

t h

ng. Bác mu

n ăn ra ch

mua, Sài Gòn thi

ế

u gì.

             - Chú mày không hi

ểu gì rồi, chợ bây giờ chỉ có mắm còng thôi làm gì có mắm cáy thứ thiệt, mà anh thèm cái thứmắm cáy câu ở quê Nghĩa Hưng cơ, chứ không phải mắm làm từ những con còng còng ngòai bể. Cái thứ này ở quê hình như cũng tuyệt chủng rồi. 

Gi

i đ

t

ơ

i! C

t

ưở

ng cái bác thi sĩ này c

ngày m

ơ

m

ơ

, màng màng v

i ch

nghĩa, ch

ng

đâu có lúc bác l

i hoài t

ưở

n

g, thèm khát đ

ế

n m

m cáy, c

nh

ư

là qu

c h

n qu

c túy không b

ng. Cái th

mà dân nghèo quê tôi tr

ướ

c đây nhà nào cũng có ít nh

t vài ba chum đ

góc v

ườ

n, hay chái b

ế

p

.

Làng tôi đ

ượ

c c

t làm đôi b

i m

t nhánh con sông Đáy. N

i hai b

là cây c

u g

, v

ng lên r

t c

kính. C

nh, nam m

c

u là nhà Đòn, đ

tr

ng kèn, đòn khiêng ph

c v

ma chay c

a làng. Lùi sâu vào trong  mi

ế

u th

n

m l

t th

m d

ướ

i nh

ng tán lá và r

cây si già. Chi

ế

c ao sau mi

ế

u r

t rông có nhi

u cá và hoa súng, quanh b

đ

ượ

c lát đ

u m

t l

p g

ch  m

ng. C

u ao lên xu

ng làm b

ng hai phi

ế

n đá to nh

ư

manh chi

ế

u đ

ượ

c đ

b

ng nh

ng c

c tre c

m xu

ng lòng ao. Nh

ng cây nhãn, cây bàng ch

ng bi

ế

t đ

ượ

c tr

ng t

khi nào g

c to b

ng m

y vòng tay ôm c

a lũ tr

. Bên kia b

ao giàn nhót chín đ

r

xu

ng n

ướ

c, lũ tr

chúng tôi th

ườ

ng c

i tru

ng, b

ơ

i ra hái cho đ

y vào hai

ng qu

n đã đ

ượ

c túm l

i, lên b

chia nhau ăn.

Chúng tôi d

n v

nh

ngôi nhà ngang c

a ch

H

u. Ch

v

i m

sinh ho

t

ngôi nhà chính, năm đó ch

kho

ng hai m

ươ

i, hai m

t tu

i. Nói là chi

ế

n tranh, M

ném bom đánh phá Mi

n B

c, nh

ư

ng làng tôi r

t yên bình sau nh

ng r

ng tre xanh. V

i ký

c tu

i th

ơ

, tôi ch

nh

n ra chi

ế

n tranh, b

ng nh

ng bu

i l

truy đi

u li

t s

t

p th

, v

i nh

ng t

m

nh th

cha và hai ng

ườ

i anh c

a ch

H

u, hy sinh ngoài

m

t tr

n. Và làng không có ti

ế

ng nói c

a đàn ông. Ngày tr

v

Hà N

i, tôi th

t s

c

m nh

n đ

ượ

c chi

ế

n tranh qua s

đ

nát, ch

ế

t chóc đ

ế

n kinh hoàng

ph

Khâm Thiên và ngõ ch

. Nhà tôi n

m sâu trong ngõ 8 cũng bay m

t m

t ph

n mái.

...Ch

ị Hậu không phải tham gia dân quân du kích, được ưu tiên ở nhà chăm sóc mẹ. Chị không đẹp nhưng rất hiền, có duyên, và kín đáo. Ngoài thời gian làm ngoài đồng, chị thường ở nhà khâu nón lá, gửi mấy bà hàng xén ngoài chợ bán. Chị Hậu rất  khéo tay, nón chị làm ra đẹp nhất vùng, nên nhiều người đặt mua, có khi chị làm cả đêm. Chị bảo kỳ này người ta dùng mũ rơm nhiều để tránh bom bi, nên công việc của chị có thư thả hơn. Hôm nào nắng đẹp, hoặc chiều chiều ngồi khâu nón đã mỏi mệt, chị thường rủ tôi đi câu cáy.

C

n câu c

a ch

ch

là cây hóp vu

t th

ng, đ

u c

n bé tý t

o, dây câu là s

i ch

. Đeo gi

vào hông, ch

thò tay xu

ng g

m c

u ao b

t m

t con

c, đ

p v

l

y ru

t làm m

i.  Tôi l

o đ

o theo ch

, có khi tôi đòi ch

cho đeo gi

, chi

u tôi ch

đ

ng ý. Đ

ượ

c m

t lúc gi

tu

t xu

ng chân, ch

c

ườ

i ng

t, b

o tôi.em c

m vào quai cũng đ

ượ

c. Hôm nào n

ướ

c ròng, bãi sông t

t ra, cáy bò ra nhi

u, ch

ch

c

n th

m

i xu

ng là cáy dùng càng qu

p  m

i, có nh

ng l

n có hai, ba con tranh nhau đu

i theo m

i nh

c

a ch

, th

ế

là nh

ư

chi

ế

c c

n c

u

nh

chúng b

treo l

ơ

l

ng trên không.

Tôi không hi

u n

i loài cáy bi

ế

t b

l

a mà v

n bám ch

t m

i? Chúng ch

c

n nh

càng ra là l

i đ

ượ

c tr

v

v

i thiên nhiên và cu

c s

ng t

ươ

i đ

p v

n có, d

u r

ơ

i xu

ng có đau đ

n, v

mai g

y càng, ch

c ch

n s

h

nh phúc

h

ơ

n hũ m

m c

a ch

H

u đang ch

chúng.

Hãy t

nh ng

đi h

i loài cáy kia!

T

ừ lúc bé tý, lẽo đẽo xách giỏ theo chị Hậu, tôi đã có những câu hỏi thông minh như vậy. Nhưng càng lớn, học nhiều, tước vị cao sang, tôi lại thấy mình rất giống họ nhà cáy này. 

Tôi theo ch

đi d

c hai b

sông, tr

i b

t đ

u s

m t

i cũng đ

ượ

c  đ

y gi

. Nh

ng hôm n

ướ

c lên, n

ướ

c sông m

p mí b

, ch

ph

i vào nh

ng gò, ho

c mép ru

ng câu. Cáy s

ng

b

, gò này th

ườ

ng ch

th

p thò trong l

, ít khi ch

u ra ngoài. Ch

H

u b

o khó câu h

ơ

n

m

t chút, nh

ư

ng chúng to và m

y, r

t nhi

u tr

ng.  Ch

dùng m

i b

ng r

c khoai, t

m thính th

ơ

m đ

nh

chúng. Ph

i công nh

n ch

H

u c

m c

n câu uy

n chuy

n, đi

u ngh

nh

ư

m

y ch

ngh

s

c

m roi đi

u khi

n thú c

a đoàn xi

ế

c

nhà B

t. M

i câu th

ơ

m ph

c nh

nhàng đ

u đ

u th

t lên, thut xu

ng nh

ư

đi

u tango  ph

vào m

t, t

lúc hoài nghi th

t ra th

t vào, đ

ế

n lúc cáy k

nh ph

i d

ng l

i nghe ngóng. V

n đi

p khúc đó, mùi th

ơ

m kỳ quái nh

ư

thôi miên không c

ưỡ

ng l

i đ

ượ

c, cáy k

nh bò ra kh

i l

, l

t đi l

t l

i mi

ế

ng ăn, h

p d

n quá, nhìn tr

ướ

c ngó sau, yên tĩnh, ch

c ăn quá, v

i l

y càng qu

p ch

t đ

nh tha vào hang. Nh

ư

ng không k

p m

t r

i, cáy càng đã b

nh

c b

ng lên, r

i ngoan ngoãn chui vào gi

c

a ch

H

u.

Câu quanh gò, và m

y mép ru

ng, gi

đã l

ư

ng l

ng toàn

cáy ch

ng, ch

H

u b

o lo

i cáy cao c

p này nhát, nh

ư

ng tham, c

n m

i r

i không bao gi

ch

u nh

ra đâu.

Cáy mang v

, ch

H

u r

a s

ch s

, đ

ra cái n

i đ

ng, ch

bóc h

ế

t tr

ng đem ph

ơ

i khô, sau đó ch

bóc đ

ế

n mai, con nào to kh

e nh

t ch

cho vào c

i đá

giã, l

c l

y n

ướ

c n

u canh. Còn l

i ch

cho c

vào chum làm m

m. Nói th

t tôi đã đi kh

p n

ơ

i, ăn không bi

ế

t bao nhiêu các lo

i canh, súp, ta có, Tây, T

u đ

c

, nh

ư

ng không đâu ngon b

ng canh tr

ng cáy khô v

i hoa bí do ch

H

u n

u. Các c

nhà ta có câu nh

át nh

ư

cáy ngày, qu

th

t ch

ng sai chút nào, tôi th

ườ

ng xuyên cùng ch

H

u bóc mai cáy nh

ư

ng ch

ng bao gi

b

c

p c

, nh

ư

ng cua r

c(cua đ

ng) l

i khác, chúng hung hăng, nghênh càng chi

ế

n đ

u đ

ế

n h

ơ

i th

cu

i cùng khi b

t

n công, nên tay tôi choe chóe nh

ng v

ế

t do càng cua r

c c

p.

Tháng năm, tháng sáu t

ầm trưa, trời nóng như đổ lửa. Chị Hậu rủ tôi đi bắt cua rốc. Nước dưới ruộng như muốn sôi lên, cua rốc không chịu nổi trèo tuốt lên cây lúa tránh nóng. Chị Hậu chỉ việc lội xuống ruộng bắt chúng cho vào giỏ. Hôm nào nhiều chị cởi cả đôi xà cạp ở chân ra, buộc một đầu lại bắt cho đầy vào đó.( Xà cạp dùng để chống đỉa cắn, được làm bằng vải thô, bao bố) Cua rốc chỉ để nấu canh, chứ không làm mắm được. Nhưng tôi thích  nhất cua rốc lột rán cháy cạnh, ăn bùi, béo và có hương vị rất đặc biệt, chị Hậu gọi là cua bấy.

Có hôm tôi đi h

c v

, th

y có chi

ế

c xe g

n máy simson m

i kính cong d

ng

gi

a sân, ch

H

u đang l

i h

i d

ướ

i b

ế

p. Tôi h

i nhà có khách sao ch

H

u, ch

đ

m

t không nói gì. Sau này tôi m

i bi

ế

t, có

anh

xóm trên, t

Đ

c m

i v

, đ

ế

n tìm hi

u ch

. Nh

ư

ng ch

t

ch

i, tôi g

ng h

i, ch

m

i b

o, ch

đã yêu anh CuL

n nhà bên, hi

n đang

ngoài m

t tr

n. Ch

d

n tôi không đ

ượ

c nói v

i ai.

Ngày tôi v

ề Hà Nội, chị buồn lắm, bảo nhớ viết thư và thỉnh thoảng về thăm chị. Chị Hậu ít khi đi đâu xa, tôi thường xuyên viết thư cho chị, lâu lâu có người ở quê lên, chị gửi cho tôi khi dăm, ba lạng trứng cáy, lúc thì cân bột sắn. Rồi tôi mải việc học hành thi cử, thời đó việc đi lại khó khăn, nên không về thăm chị được. Sau chiến tranh, nghe người làng nói, chị đã lấy anh Cu Lớn là thương binh trở về, người vừa được nhà nước phong tặng danh hiệu dũng sỹ diệt Mỹ. Ở xa tôi cũng mừng cho chị.

H

c xong tôi đi làm, r

i mang ki

ế

p s

ng tha ph

ươ

ng m

y ch

c năm, mãi đ

ế

n năm 2006

t

Châu Âu, tôi m

i có d

p v

thăm gia đình. Công vi

c

Hà N

i đã t

m

n, tôi v

thăm quê, thăm ch

H

u. Đ

ườ

ng qu

c l

v

quê đ

p và thu

n ti

n h

ơ

n tr

ướ

c r

t nhi

u. Nh

ư

ng quê tôi đ

i thay hoàn toàn, ký

c tu

i th

ơ

có con đ

ườ

ng v

i nh

ng  khóm tre xanh r

bóng xu

ng dòng sông hi

n hòa, tôi và ch

H

u th

ườ

ng ng

i ngh

lúc tr

ư

a hè không còn n

a. Dòng sông n

ướ

c đen sì th

i ho

c, tù đ

ng, l

đ

nh

ư

ng

ng ch

y. Cây c

u g

đã phá b

thay vào đó chi

ế

c c

u s

t bêton vô h

n. Mi

ế

u và cây si làng không còn đ

l

i d

u

tích, chi

ế

c ao phía sau cũng b

l

p, thay vào đó là

y ban xã, lá c

đ

ng bay ph

n ph

t gi

a sân. Ngôi nhà ngói âm d

ươ

ng c

a ch

H

u cũng bi

ế

n m

t, s

ng s

ng trên m

nh đ

t đó ngôi nhà ba t

ng, trên nóc có hình con s

ư

t

nhe răng trông r

t hãi hùng. Cánh c

a s

t s

ơ

n m

u vàng chóe, có

khóa t

bên trong. Tôi c

t ti

ế

ng g

i ch

H

u, nh

ư

ng im l

ng, nhà hình nh

ư

không có ng

ườ

i. Có m

y cháu đi h

c v

, nghe th

y ti

ế

ng tôi, d

ng l

i b

o, nhà bà H

u bây gi

cu

i làng, g

n bãi tha ma, bác c

ra đ

y mà tìm. Bi

t th

này là n

ơ

i ngh

ng

ơ

i cu

i tu

n c

a bác Tr

n cán b

cao c

p trên t

nh.

Tôi đ

ượ

c bà hàng xóm ch

H

u ch

nhà và réo g

i t

ngoài ngõ:

- Bà H

u

ơ

i! Có khách xa đ

ế

n thăm này.

M

ột lúc chịở sau nhà đi ra, quả thật tôi chỉ còn nhận ra chịở đôi mắt. Năm đó chị mới năm nhăm, năm sáu tuổi nhưng nhìn chị như bà lão bảy mươi. Người chị choắt lại, dáng đi lòng khòng. Thấy người lạ, chị vội lấy khăn trên đầu che những vết thâm, bầm trên mặt, hình như chị vừa bị ai đó đánh hay ngã?. Chị sững người nhìn tôi:

  -    Ông mu

n tìm ai

?

           -   Tr

i! ch

không nh

n ra em th

t sao ch

H

u? Em là th

ng Tr

ườ

ng ngày x

ư

a

nhà ch

, su

t ngày theo ch

đi câu cáy này.

Ch

ng

n ng

ườ

i m

t lúc, đ

ư

a tay qu

t dòng n

ướ

c m

t đang ch

y xu

ng:

           -   M

y ch

c năm

r

i, tóc em cũng đã b

c, làm sao ch

nh

n ra đ

ượ

c.

Ch

n

m tay tôi d

n vào nhà. Tôi không ph

i là ng

ườ

i mau n

ướ

c m

t, nh

ư

ng nhìn ch

và gia c

nh th

y m

t cay cay. Nhà có l

đáng giá nh

t chi

ế

c t

chè hai ngăn cũ, đã g

y m

t chân. Chân g

y đ

ượ

c thay b

ng m

t ch

ng g

ch còn dính v

a ch

ư

a k

p v

c đi. Trên nóc t

có bát h

ươ

ng,

nh th

m

ch

, và

nh ba ng

ườ

i đàn ông tr

c

ườ

i r

t vô t

ư

. Đ

ng sau b

n t

m hình là ba t

gi

y T

Qu

c Ghi Công, và m

t gi

y ch

ng nh

n, hay quy

ế

t đ

nh công nh

n bà m

VN anh hùng gì đó

c

a m

ch

.

Tôi và ch

ị đang hàn huyên, anh Cu Lớn chồng chị, chân thấp chân cao từ đâu đó về. Chị giới thiệu tôi, anh cười hiền bắt tay và bảo:

        -  Em ng

i đây v

i ch

, anh đi ki

ế

m cái gì lai rai, cũng tr

ư

a r

i.

Ch

ị Hậu cười buồn, trông anh hiền hiền vậy nhưng cục lắm, hôm rồi mang dao đến ủy ban chém cán bộ xã, chị sợ quá can ngăn, anh ấy còn đánh chị thâm cả mặt. Cũng may họ nhanh chân chạy thoát, không đã vào tù rồi. Cũng từ đất đai nhà cửa em ạ. Mấy năm trước cán bộ xã đến nói với anh chị, họ muốn xây nhà trẻở trung tâm xã, nhưng không có chỗ nào thích hợp và thuận lời bằng khu đất nhà chị. Họ muốn đổi anh chị ra ngoài này và đền bù thỏa đáng. Đầu tiên anh chị không đồng ý, vì ra ngoài này anh chị không biết làm gì kiếm sống ngoài mấy sào ruộng, tiền trợ cấp thương binh của anh không đủ tiền thuốc. Nhưng họ nằn nỉ mãi, lại nghĩ anh chị không có con cái, xây nhà cho các cháu vui chơi, anh chị cũng xiêu lòng. Anh chị ra đây nhận đất nhận nhà và đền bù xong, họ không xây nhà trẻ, mà họ giao đất, hay bán cho ông Trần xây nhà nghỉ cuối tuần, em thấy có ức không? Ông Trần là cái ông đi học ở Đức vềở làng trên, ngày xưa muốn tìm hiểu chị, chắc em còn nhớ. Chị là đàn bà nghiến răng chịu đựng. Anh không chịu, kiện cáo khắp nơi nhưng không ăn thua, nên thường xuyên vác dao đi tìm họ. Trông anh còn đi lại vậy thôi, chứ chất độc đầy người, nằm xuống lúc nào không biết. Trước đây chị cũng chửa đẻ mấy lần, nhưng có ra hình thù con người đâu em. Lần nào chị cũng ngất vì sợ. Nghe bác sỹ bảo anh nhiễm chất độc ở chiến trường, nên không thể có con được, họ khuyên anh chị đừng chửa đẻ nữa.

Tôi c

t ngang nh

ng l

i bu

n c

a cu

c đ

i ch

:

         -  D

o này ch

còn đi câu cáy n

a không?

         -  Ch

đã già, m

t kém, mà h

ế

t cáy r

i. Có con nào s

ng đ

ượ

c v

i th

n

ướ

c

sông đen nh

ư

nh

a đ

ườ

ng

y. Gò đ

ng h

phun thu

c sâu b

l

đ

ế

n đ

a cũng ph

i ch

ế

t thì làm gì còn cáy.

Ti

ế

ng gió hu hú t

bãi tha ma th

i đ

p vào c

a, làm t

th

nhà ch

rung rinh nh

ư

tr

c đ

. Ch

đ

ng d

y  nhìn v

ngôi nhà cũ, n

ơ

i có con s

ư

t

nhe răng, c

ăng móng

trên cao vòi v

i v

i đôi m

t bu

n r

ườ

i r

ượ

i.

đây không có đ

n bom, nh

ư

ng tôi đã nh

n ra d

ườ

ng nh

ư

có m

t cu

c chi

ế

n tranh th

t s

đang di

n ra trong lòng ng

ườ

i.

Vi

ế

t đ

ế

n đây ch

t có ông b

n hàng xóm sang h

i:

        -  Ông nghĩ gì mà th

ừ mặt ra vậy?

Tôi tr

l

i:

        -  Tôi đang nghĩ,

ướ

c gì mình có m

t hũ m

m cáy th

thi

t g

i t

ng thi sĩ Tr

n M

nh H

o dùng d

n, nh

ư

ng  khó quá.

Ông hàng xóm tròn m

t nhìn, nh

ư

tôi v

a t

trên tr

i r

ơ

i xu

ng:

        -  Ông có gi

ng

ườ

i không đ

y! Bây gi

n

g

ườ

i ta m

ơ

ướ

c đ

ế

n nh

ng cái cao sang, nh

ư

đ

ườ

ng s

t cao t

c, nhà máy đi

n h

t nhân.. ai l

i m

ơ

nh

ư

các ông. Đúng là ch

p cheng..

Có l

ông hàng xóm nhà tôi nói đúng, tôi đã gi

ng

ườ

i, và cái đ

u tôi b

t đ

u ch

p cheng

Chuyện tình ông cu quýnh

Ông cu Quýnh

trong xóm Long Hòa v

i mình, g

n c

u Phô

c. Ông l

n h

ơ

n mình b

y ch

c tu

i, khi mình m

i 7 tu

i ông đã 77 tu

i.

Th

i đó 77 tu

i là th

l

m r

i, ít ai s

ng quá tu

i 65, th

ế

nên Bác H

m

i vi

ế

t trong di chúc “nhân sinh th

t th

p c

lai hy”. 50 tu

i làm l

lên lão, 70 tu

i làm l

th

ượ

ng th

, nhà nào có b

m

s

ng qua tu

i b

y m

ươ

i đ

ượ

c coi là nhà đ

i phúc

.

Ch

ng nh

ư

bây gi

, bác Tr

n Ti

ế

n 67 tu

i th

y gái đ

p m

t v

n sáng lên hình viên đ

n. Cũng 67 tu

i bác Nguy

n Tr

ng T

o đòi l

y v

th

t

ư

.  Còn nh

ư

Đoàn T

Huy

ế

n quá tu

i 60 gái trên  U 23 không ch

u duy

t. Th

t kinh!

V

ẫn còn thua ông già của Huy Đức, 98 tuổi vẫn đạp xe chạy vòng vòng quanh phố mỗi ngày, tối về cắm cúi làm thơ ca ngợi Đảng, Bác.  Có bài dài đến mấy trăm câu. Nếu con cái cho ông lấy vợ thì ông cũng chẳng kém gì ông già Iraq 94 tuổi cưới cô vợ 22 tuổi, hi hi!

Thôi không dài dòng n

a, quay l

i chuy

n ông cu Quýnh.

Ông Quýnh là giáo viên ti

ế

ng Pháp b

c ti

u h

c,  năm 1953 gi

i phóng Th

tr

n Ba Đ

n cũng là năm v

ông

m đau r

i m

t, ông v

v

i anh con trai c

. Nói chung b

y tám đ

a con ông Quýnh đ

u đã cao tu

i, đ

u khá gi

, con cái h

đã l

p gia đình, ông Quýnh c

ó h

ơ

n ch

c đ

a ch

t. Trong Th

tr

n không ai đ

ượ

c nh

ư

ông.

Nhìn ông già râu tóc tr

ng nh

ư

c

ướ

c, chi

u chi

u m

c b

đ

ba ba l

a tr

ng nh

ư

mây, thong dong ch

ng g

y đi trên đ

ườ

ng cái quan, v

a đi v

a l

m nh

m đ

c th

ơ

b

ng ti

ế

ng Pháp, vài ba đ

a ch

t lon ton

ch

y theo sau, mình có c

m giác nh

ư

tiên ông giáng tr

n ch

không ph

i ông cu Quýnh.

Nói v

ậy để biết ông Quýnh thật đại phúc, dẫu có chết cũng lãi to lắm rồi, khỏi phải lo nghĩ gì. Ai ngờ đường đời đã trọn vẹn nhưng đường tình chưa hết, 77 tuổi ông cu Quýnh vướng phải dây “oan oan tình”, thế mới mệt.

Đ

u tiên ông ôm m

dây “oan oan tình” đi b

a vây đàn bà góa kh

p xóm mà ông goi là l

c l

ượ

ng ti

n mãn kinh.

Ông Quýnh r

t đ

p lão, l

i sang tr

ng, ti

n b

c cũng không thi

ế

u, th

ế

mà các bà đ

u tránh ông nh

ư

trá

nh h

i, th

ế

m

i l

.

Bà Năm m

t ch

ng đã h

ơ

n ch

c năm, th

nh tho

ng thèm ch

ng bà l

i rú lên nh

ư

mèo đ

ng d

c, c

xóm ai cũng bi

ế

t. Ông Quýnh lân la tán t

nh b

bà đu

i nh

ư

đu

i tà, nói thôi thôi ông đ

ng đ

tui ph

i góa ch

ng l

n th

hai. Hi hi ch

vì bà s

c

ướ

i xong ông lăn đùng ra ch

ế

t.

Bà Phin quanh năm t

ất tả chạy khắp Thị trấn kiếm chồng cho mình nhưng động đến ông Quýnh thì bà giãy nãy, nói thôi thôi thôi… ba vạn cũng bỏ! Dây với đám đái ướt quần đó chỉ mất công tháo dây rút, không được cái chi mô.

K

s

ơ

qua v

y, còn nhi

u bà l

m, hi hi.

Ông Quýnh không n

n, ông làm th

ơ

tình t

ng các bà góa trong xóm. Th

c ra ông Quýnh không bi

ế

t làm th

ơ

, ông cóp th

ơ

tình  c

a ai đó, cũng ch

cóp m

t bài, đ

th

ươ

ng t

ng, yêu t

ng, thân t

ng … không sót m

t ai trong l

c

l

ượ

ng ti

n mãn kinh c

a ông.

Cái tên nghe r

t tôn giáo c

a em

H

ơ

i kiêu kì - và đó là b

ản chất

Cái tên em bí

n không gi

u đ

ượ

c

Ti

ế

ng Tây Ban Nha có nghĩa là “xinh”.

Còn ti

ế

ng Đ

c có nghĩa là “d

u hi

n”

Sau này mình tra google m

ới biết  đó là Bài thơ tặng Linda của  Apollinaire, ông Quýnh chép tặng hết bà này đến bà khác, chỉ cần thêm cái tên bà đó chen vào các khổ thơ  là xong, khỏe!. Bất kể tên bà nào cũng tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “xinh”, còn tiếng Đức có nghĩa là “dịu hiền”.

Ông Quýnh  mang th

ơ

t

i

t

ng, các bà l

ườ

m cái nguýt cái, nói c

m

ơ

n r

i s

p c

a. Ông nhét bài th

ơ

vào khe c

a, các bà l

y ch

i quét tùa ra. Ông c

m bài th

ơ

đ

c ngân nga. Các bà ph

i xuýt chó ra đu

i ông m

i ch

u b

đi.

Bà Lé v

n ngoa ngo

t ng

ngáo nh

t xóm, m

c h

vô nhân bà ch

ng coi ai ra gì. Đàn ông kh

p xóm ai cũng s

bà, điên lên bà có th

xông t

i v

n cu bóp dái h

không h

nao núng.

Không nh

tên th

t bà Lé là gì, ch

bi

ế

t bà m

t lé t

khi m

i l

t lòng, c

làng đ

u g

i bà là Lé.

T

ưởng ông Quýnh tán ai thì tán chứ bà Lé thì không dám. Té ra không. Bà Lé là gái góa, thuộc lực lượng tiền mãn kinh của ông, há cớ gì ông lại tránh? Hi hi.

Khác v

i các bà khác th

y ông Quýnh l

p ló

ngõ là l

p t

c s

p c

a, bà Lé  ung dung ng

i ng

ch c

a nhai tr

u b

m b

m, h

t hàm h

i chi r

a ông

Quýnh. Ông Quýnh vui v

b

ướ

c vào, nói th

ơ

.  Anh v

a có bài th

ơ

m

i t

ng em. Bà Lé c

ườ

i cái h

c, nói

qu

t. Ông Quýnh th

ơ

t

ng riêng em mà. Bà Lé nói

qu

t. Ông Quýnh nói th

ơ

anh v

a m

i vi

ế

t mà. Bà Lé nói

qu

t.

Ông Quýnh đ

ư

a bài th

ơ

cho bà Lé, nói em c

ó th

xua đu

i anh nh

ư

ng bài th

ơ

này thì đ

ng, nó vô t

i.

Bà Lé vò bài th

ơ

ném ra sân, nói

qu

t! Ông té đi cho tui nh

!

Ông Quỳnh nh

t bài th

ơ

, vu

t th

t th

ng r

i  ngân nga đ

c bài th

ơ

, v

a đ

c v

a ngâm: 

Lé ơi, cái tên nghe rất tôn giáo của em/ Hơi kiêu kì - và đó là bản chất…

Bà Lé l

ườ

m ông Quýnh, nh

n m

m đánh b

p m

t ti

ế

ng rõ to, nói ba hoa!

Ông Quýnh m

c k

v

n đ

c say s

ư

a: 

T

i

ế

ng Tây Ban Nha… Lé có nghĩa là “xinh”./ Còn ti

ếng Đức… Lé  có nghĩa là “dịu hiền”

Bà Lé c

ườ

i cái h

c, nói ba hoa! Ti

ế

ng Tây

Ban Nha, ti

ế

ng Đ

c mà ngu r

a a?

R

i bà vùng d

y đá đít ông Quýnh, nói thôi đ

r

i đó, té đi cho tui nh

.

Ông Quýnh nói nh

ư

   đ

c th

ơ

, ngân nga:

Đ

ng đu

i anh t

i nghi

p/ cho anh

l

i/  anh s

làm cho em h

nh phúc

….

Bà Lé nh

to

t  bãi n

ướ

c tr

u, nói té đi! Ông thì làm đ

ượ

c cái chi!

Ông Quýnh v

n ngân nga:

làm t

t c

nh

ng gì em mu

n/ đó là th

ế

m

nh c

a anh.

Bà Lé c

ườ

i phì, nói th

ng cha ni ba hoa g

m bay! Đo

n bà thò tay bóp h

b

ông Quýnh, nói coi ra răng mà ba hoa

khi

ế

p r

a.

V

a đ

ng vào bà v

i th

t tay nh

ư

ph

i b

ng, bà v

a ch

m ph

i cái c

ng nh

ư

c

c s

t.

Bà Lé tái m

ặt chạy vào nhà, vội vàng sập cửa, ngồi ôm ngực thở dốc.

Sáng mai các bà quanh xóm túm t

m quanh bà Lé, h

i răng răng? Bà Lé m

t tr

n m

m há, nói oa c

hà. Các bà l

i h

i răng răng? Bà Lé l

i m

t tr

n mi

ng há, nói oa chà…

Còn n

a, he he

!

Truyện ký Cá kèo

Tác giả:

 TRẦN TIẾN DŨNG

Bài đã được xuất bản.:

 29/04/2013 02:00 GMT+7

·

Recomend

·

+0

Red

·

In

·

Email

·

Thảo luận

TRONG MỤC NÀY

(Đọc thêm)

·

Đã 8 mùa Vu Lan con cài hoa trắng

·Tuyển sinh ngành y cần thi... y đức

·

‘Vòng đối đầu’ khắc nghiệt của người rừng

·

Vespa trên đường quê Việt

·

·

·

Xe ngựa và cái bến xe ngựa ở Gò Công còn giữ cho tôi một kỹ niệm khác, đó là chuyện đi nhổ trộm đuôi ngựa về vòng cá kèo. Ngày nay ở quê tôi không còn ai đi vòng cá kèo nữa, cá kèo bán ở chợ là cá chạy lờ hoặc chạy đáy.

Tặng chị Hai chị Tư, chị Sáu, bé Tám những em gái tôi hiện sống ở Australia và Canada

Thị xã Gò Công vào thập niên 70 vẫn còn bến xe ngựa chở khách chạy các tuyến Cầu Nổi, Tăng Hòa... Xe ngựa Gò Công khác xe thổ mộ miệt Hốc Môn-Bà Điểm, xe không mui, bánh xe bằng gỗ được niềng một vành cao su. Khách ngồi dưới thùng hoặc trên hai miếng ván ve ra khỏi thùng xe, gặp lúc xe chật, khách cũng có thể ngồi quay mặt về phía sau xe, cọ lưng với người ngồi trước. Ngồi xe ngựa trên đường đất cát bạc, đất đỏ xóc dằn, đi xuyên qua cái màu xanh óng mượt, màu nắng chói chang của làng quê miền Nam là chuyện đáng nhớ hoài.

Xe ngựa chạy những chặng ngắn, khách du lịch hay hàng hóa ngày đó chẳng có là bao, vậy mà xe ngày nào cũng chạy, bởi xe ngựa ngày đó có sứ mệnh nối liền mối quan hệ giòng họ, bà con giữa kẻ chợ người quê.

Ngồi xe ngựa ở cái thời cả một vùng đồng ruộng mênh mông, lâu lâu mới có chút khói xe, nên mỗi lần có xe hơi chạy qua con nít tụi tôi cứ phồng mũi hít hà, đứa nào cũng cho là khói xe thơm hết biết.

Xe ngựa và cái bến xe ngựa ở Gò Công còn giữ cho tôi một kỹ niệm khác, đó là chuyện đi nhổ trộm đuôi ngựa về vòng cá kèo. Ngày nay ở quê tôi không còn ai đi vòng cá kèo nữa, cá kèo bán ở chợ là cá chạy lờ hoặc chạy đáy.

Lông đuôi con Phèn

Tôi có một người anh bạn dì chạy xe ngựa. Xe anh chạy tuyến Xóm Giảng-Chợ Gò. Anh có con ngựa cỏ màu phèn, nên gọi là con Phèn, một con ngựa ốm nhom. Tôi rất sợ nhìn vào cái bụng chinh bỉnh, lộ ra cả bộ xương sườn con ngựa già này. Con Phèn kinh niên không đủ ăn, bởi xóm Giảng quê ngoại tôi đồng khô, cỏ mặn, ngựa cũng như trâu thường chỉ mùa mưa mới có cỏ ngọt, mùa nắng phải nhai rơm rạ mòn hàm.

Ngày đó, hễ vô con nước cá kèo là tôi đều lân la ra bến đón xe. Mỗi bận gặp tôi là anh họ lột cái nón nỉ trên đầu xuống, trừng mắt nói. " Mày ra đây hoài tao mét Bảy (má tôi), bả đánh mày chết!" Nhưng rồi anh cũng giao xe cho tôi coi. Anh biết tôi ham ngựa, ham xe, chớ đâu biết tôi lỡ nghe bạn bè xúi dại đi nhổ đuôi ngựa vòng cá kèo. Thằng Mạnh bạn tôi dặn. " Mày nhổ đại một nắm, vòng không hết thì bán, có tiền lắm đó con." Tôi sợ nên nói. "Nhổ một nắm nó đau, nó đá thấy mẹ."

Cầm theo cái roi ngựa, anh họ tôi vô tiệm nước của người Tàu làm một cái cà phê xây chừng, anh ghiền cái kiểu uống cà phê đổ ra dĩa, lúc cúi mặt sát bàn, lúc đưa lên ngang miệng húp một cái rót. Tôi ở lại với con ngựa cái đang đứng thở phì phò trong gọng xe, miệng sùi bọt, mồ hôi đổ trắng mông đít. Bạn biết không, cái mùi mồ hôi ngựa ngây ngây cũng đáng ghiền lắm.

Mỗi lần nhổ đuôi ngựa là tôi lưỡng lự, không biết nên nhổ mỗi lần một cọng cho dễ hay là nhổ đại một dúm cho mau. Tôi rề rà sau đít con ngựa già tội nghiệp, tôi biết nếu đau giỏi lắm nó đá thì đâu đã trúng được tôi, trúng cái thùng xe là chắc, ở trong vòng yên cương con phèn vô phương tự vệ.

Tôi thấy thương con ngựa cái, có bận tôi mở miệng trách anh họ là sao để con ngựa ốm nhách vậy, tôi nói anh là quân ham ăn nhậu không hà! Nhưng tới lượt tôi cũng ham mớ lông đuôi của con ngựa già thảm thương này để về vòng cá kèo. Trước khi nhè vào cái đuôi ngựa xơ xác mà nhổ lông, tôi vẫn biết là khi người ta mê đắm cái gì quá đổi người ta có khi đâm ra có tánh ác.

Vòng cá kèo

Không biết sao hồi đó tôi mê vòng cá kèo quá vậy.

Cột một đầu lông ngựa vào cần câu tre, đầu còn lại thắt vòng thòng lọng. Cá kèo quê tôi, ở miệt ruộng rẫy (ruộng nước lợ) mỗi tháng đúng con nước là noi đầu đầy mặt ruộng, tiếng địa phương là nổi lềnh. Cá kèo không cắn mồi câu, vòng cá kèo là cách duy nhất gạt được cặp mắt tinh nhanh và trị cái thói hễ nghe động mặt nước là lặn mất tăm của loài cá này. Lông đuôi ngựa vừa mỏng vừa mềm vừa chắc, thả vòng nhẹ vào đầu chúng rồi giật. Kể dễ vậy chớ cũng khó vòng lắm, bởi nắng gió trên ruộng nước mặn chói chang phải biết canh gió, canh hướng nắng thả vòng mới trúng. Người quê tôi, ai mà canh chính xác được thời tiết, nắng gió sao cho không xê xích để mần ruộng, để vòng cá kèo đều xứng gọi là tay tổ.

Mợ Ba tôi, một bà vợ góa, nuôi mẹ chồng và đám con bằng nghề vòng cá kèo. Hôm nào nhà không có tiền đi chợ, dù không đúng con nước cá chạy, mợ xắn quần tới bắp đùi, lội ruộng, lội bưng một chút là có cá kèo về ăn. Mợ tôi có tay sát cá lắm, chân ngâm trong sình ngập tới đầu gối, cái rọ tre đựng cá cột bằng dây bập dừa quanh bụng, mợ đứng bất động, vậy là đám cá kèo tưởng mợ là cái cây khô nên vô tư nổi đầu chung quanh, mợ cứ vậy mà vòng. Không tệ như chúng tôi, một cọng lông ngựa mợ vòng hoài không đứt. một cọng lông ngựa mợ nuôi được cả nhà. Chỉ cần vòng đủ mớ cá, trên đường về mợ ghé qua mấy cây me mọc hoang đường làng, tước một mớ lá me non để về nấu canh chua. Ngày đó chẳng mấy khi nhà mợ tôi có nước mắm hay bột ngọt, nhưng canh chua lá me nấu với cá kèo ở nhà mợ thơm ngon kể sao cho siết.

Có lần tôi hỏi "Cách gì có bột ngọt với tóp mỡ nấu canh, kho cá cho ngon hơn hả mợ." Mợ tôi nói. "Ăn để sống chớ hổng phải sống để ăn đâu con." Mợ nói đúng cái câu má tôi thường nói mỗi khi chúng tôi sụ mặt khi thấy mâm cơm ít đồ ăn. Một câu nói gần như là một châm ngôn sống mà những người đàn bà quê tôi, những người gánh vác việc lo hai bữa ăn cho cả nhà, những bữa ăn lắm lúc cơ khổ đến lúc họ đành phải lớn tiếng "Ăn để sống chứ không phải sống để ăn!" để áp chế đám con nheo nhóc lúc nào cũng thèm ăn no, ăn đủ.

Cá kèo, từ nồi canh chua đến lẩu

Người Sài Gòn gọi lẩu cá kèo nhưng thật ra gọi canh chua cá kèo thì đúng hơn. Dân sang bây giờ nhậu canh chua cá kèo như người nhà quê. Chuyện này làm tôi nhớ mấy ông bợm nhậu quê tôi, buổi chiều xin vợ một tô canh chua, ra hè hái vài trái ớt hiểm bỏ vô chén nước mắm, ngồi trước cửa nhà, hoặc phủi chân thót lên bộ ngựa. Mỗi lần làm một chun rượu, lấy muỗng múc miếng nước canh, húp một cái, cắn một miếng ớt hiểm. Làm chừng một hai chun mới thò đũa gắp một khúc cá kèo chấm nước mắm, ăn một miếng đưa cay.

Chiều chiều họ ngồi nhậu ngóng ra đường ruộng, gặp bạn đi qua hú vô muốn bạn vô làm lai rai đôi khi cũng phải "quảng cáo" mồi. Kiểu như: " Ê, vô đây làm một ly, vợ tui nấu canh chua cá kèo hết sẩy! Thường những lúc gọi mời như vậy, người vợ ở nhà sau lầm bầm phản ứng trước tiên. "Quân ham ăn ham nhậu không hà!"

Cách nhậu này gọi là nhậu ngóng bạn, chớ đâu phải nhậu vì mồi ngon. Nhậu cho có chuyện để nói, chiều quê vắng vẻ đìu hiu mà, đờn ông ai đâu nói chuyện với vợ hoài cho vợ được nước lên mặt, phải nhậu có bạn để nói chuyện viển vông thế giới chớ!

Đừng quá đáng khi cho rằng nhậu lai rai là không văn hóa. Một tô canh chua cá kèo, một xị rượu, vài câu hò, bản vọng cổ. Nhậu kiểu này là để cho cảm xúc lúc tủi phận, lúc hào sảng có chỗ tuôn ra với với bạn bè, với đất - trời thôn dã.

Truyện Ngắn: Về Quê Ăn Tết

Trời còn tối mịt, đâu mới khoảng 5 giờ sáng, tôi đã nghe tiếng mẹ gọi:- Mấy đứa dậy sửa soạn đi nè con!Tôi bật dậy chun ra khỏi giường ngay lập tức. Cả đêm có ngủ nghê gì được đâu. Chỉ mong cho trời mau sáng để được về nội, lúc giáp tết Ất Mùi năm 67, lúc tôi 11 tuổi. Hồi còn nhỏ mỗi khi được về quê ăn tết là mấy đứa con nít như tôi mừng lắm. Qua Giáng Sinh, tết tây là trong bụng đã thấy nôn nao, hồi hộp chờ đợi rồi.

Rồi tới chừng được lên xe chạy nhìn ra đường thấy người ta lam lũ, vẫn còn tới lui làm ăn mà thấy mình thiệt có phước. Trời trong xanh. Gió lành lạnh. Nhà cửa hai bên đường đã thấy thấp thoáng ánh mai vàng, nhạc xuân nghe văng vẳng. Từ Sài Gòn qua hai cái bắc Mỹ Thuận và Cao Lãnh, đến xế trưa là về tới Tịnh Thới, quê nội tôi. Còn đâu cũng khoảng nửa cây số là bà con hàng xóm hay được, rần rần chạy theo xe ba tôi. Mấy ông anh họ lấy tay đập đập vô xe mừng rở:

- Cậu ba về! Cậu ba về!

Ba tôi phải cho xe chạy chậm lại. Bà con chui đầu vô xe hỏi thăm:

- Khỏe không cậu?

- Mạnh giỏi mợ ba?

- Thằng Hùng năm nay coi bộ nhổ giò!

- …

Ba tôi cũng chào hỏi, cười cười nói nói. Mẹ tôi thì lo nhìn đường, lâu lâu lại la lên:

- Coi chừng cán mấy đứa nhỏ!

Mấy anh em tôi mừng lắm, nhưng mắc cỡ ngồi nín khe, chỉ biết cười mím chi cọp.

Khi tới nhà, tôi thấy ông bà nội và mấy cô chú đã ra tận ngoài cổng đón. Tụi tôi xuống xe khoanh tay thưa từ trên xuống dưới. Màn thưa gởi hỏi thăm qua lại mất cũng cả tiếng đồng hồ. Sau đó tất cả cùng phụ tiếp đem đồ xuống xe. Năm nay gia đình ráng tổ chức ăn tết lớn cho ông bà nội vui. Mấy cô chú và ba tôi hùn tiền lại mua cho nội một cái máy phát điện, một cái truyền hình, một cây ăng-ten rất dài, để có thể bắt được đài Sài Gòn hay Cần Thơ, pháo Hồng Kông, rượu tây, bánh mứt, …

Sáng sớm 29 tết, ông nội tôi qua chợ để đặt một con heo quay. Xong về cùng với ba tôi và mấy ông anh họ tiếp gắn cái máy phát điện, chạy dây, và dựng cây ăng-ten lên trên một cây xào, dây chì chằng bốn phía. Mấy đứa con nít tụi tôi chạy tới chạy lui bị ông nội la:

- Mấy đứa con đi chỗ khác chơi. Dây chì đứt ra bắn đui mắt bây giờ!

Cô 12 tôi thấy vậy liền rủ:

- Mấy đứa đi hái đọt về đổ bánh xèo với cô 12!

Cô 12 là con gái “út nữa” của ông nội, em cô út, chỉ lớn hơn tôi vài tuổi nên rất thích chơi với con nít. Mấy cô cháu xách rổ ra vườn hái đọt cóc, đọt xoài, bằng lăng, cơm nguội, … Nhiều thứ đọt lắm nên cô cháu cứ cắm đầu cắm cổ hái. Một hồi qua tới vườn cây lớn lúc nào không hay. Đất của ai tôi cũng không biết. Những cây dầu, cây thao lao tàng lá xum xuê nhưng cũng để lọt mấy tia nắng sáng xuyên qua chiếu xuống làm long lanh những giọt sương còn đọng trên những cọng cỏ, những lùm cây thấp. Gặp nắng sương bốc lên thành những làn khói mỏng, quyện chung với khói nhang từ những am miếu gần đó đi theo những tia nắng lung linh bay thẳng lên trời.

- Thằng Hùng đâu mất tiêu rồi? Ngó cái gì trên đó vậy? Hổng lo đi, đứng đó một hồi rắn lục ra cắn cho trào đờm bây giờ!

Tôi nghe nói hết hồn. Cảnh vật chung quanh đẹp quá. Trông thần tiên u tịch như trong mấy câu chuyện liêu trai, nhưng tôi không dám nhìn nữa, lật đật chạy theo cô 12.

Trưa về tới nhà cô út đã dọn sẵn cho mấy cô cháu một mâm cơm với canh bầu nấu với cá trê và bông bí vàng mới hái ngoài vườn, cá lòng tong kho tiêu chấm với rau dền luộc. Bữa cơm ngon quá. Tôi ăn một hồi cô 12 phải tốp lại:

- Ăn cho no cành rồi lăn ra ngủ đi. Còn tiếp cô 12 lặt rau, rửa rau, rồi để bụng đặng chiều ăn bánh xèo nữa.

Sáng 30 tết, ông nội và ba tôi qua chợ lấy con heo quay. Bà con lúc này cũng đã tề tựu đông đủ, thêm gia đình chú 5, chú 8, cô 9, cô 10 từ xa về. Cả ngày hôm đó tất cả chia phiên nhau dọn dẹp nhà cửa, sửa soạn cho bữa tiệc cuối năm mừng đón giao thừa. Ông nội tôi lựa một cành mai 10 cánh đẹp nhất từ gốc mai già trước sân cắt đem vô chưng trong phòng khách. Mấy khóm bông cúc, bông vạn thọ trong bồn bông ngay trước mặt tiền nhà tự tay ông nội tôi vun sới cũng đã nở rộ, mà cái nào cái nấy to hơn cái chén ăn cơm. Cô 12 và mấy đứa tụi tôi được cử nhiệm vụ đi bắt hai con gà mái dầu về nấu cà ri. Tưởng dễ vậy mà khó, mấy cô cháu mất cũng gần nửa ngày trời. Xong việc tụi tôi tha thẩn trong vườn bắt ốc bưu về luộc chấm nước mắm, hay leo cây hái vú sữa. Ăn chán chê rồi leo lên võng bắc ngoài vườn làm một giấc cho đến xế chiều, khi nghe có tiếng ồn ào trong sân mới thức dậy. Bà con hàng xóm đang kéo tới coi truyền hình. Chương trình truyền hình trắng đen thời đó ngắn lắm, chừng vài ba tiếng đồng hồ nhưng ai cũng say sưa thích thú. Trong lúc chờ đợi luôn luôn có tiếng cô ca sĩ hát bài “người hẹn cùng ta đến bên bờ suối”, ý chừng muốn nói thời gian chờ đợi chắc là hồi hộp lắm.

Đến sẩm tối khi mọi người về hết thì bữa tiệc tất niên trong nhà bắt đầu, có bánh hỏi thịt quay với rau thơm nước mắm, gà nấu cà ri ăn với bánh mì. Con nít được uống xá xị. Người lớn thì uống rượu tây hay la ve con cọp. Ai nấy nói chuyện râm rang. Được nửa chừng thì hết nước đá. Ông nội tôi ra lệnh:

- Bà nội nó đưa tiền cho thằng Hùng, con Loan đi mua thêm nước đá coi!

Loan là con của chú 5, bằng tuổi tôi. Hai đứa nghe ông nội biểu lật đật lấy tiền xách giỏ đi mà quên không đem theo đèn đuốc gì hết. Ra tới lộ đi một hồi mới thấy trời tối đen như mực. Tôi thấy hơi run nhưng con Loan cả quyết:

- Anh hai đi với Loan. Quán ông 6 có ánh đèn đằng kia kìa. Đường thẳng thì mình cứ nhắm thẳng ánh đèn mà đi chớ có gì đâu!

Ngẫm nghĩ thấy con nhỏ vậy mà khôn hơn mình. Hai đứa lầm lủi đi một hồi thì có tiếng người la ơi ới:

- Hai cái đứa này đi đâu ra giữa lộ vậy? Xe đụng gãy giò bây giờ!

Công nhận dân miệt vườn hay thiệt. Đêm 30, không trăng, không đèn mà họ chạy xe đạp tỉnh bơ. Thuộc đường như thuộc chỉ trong lòng bàn tay.

Nhưng chắc nhờ trời thương nên hai anh em tôi cũng mua được nước đá đem về mà không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra. Ăn uống dọn dẹp xong xuôi thì cũng gần tới giờ giao thừa. Ông nội tôi gỡ 3 tràng pháo dài cuộn tròn trong 

hộp ra nối lại với nhau rồibuộc lên một cây tre cao, cầm cây mồi lửa đứng chờ. Đúng 12 giờ, vừa khi nghe tiếng cô xướng ngôn viên Mai Liên trong máy phát thanh nghiêm giọng:

- Kính thưa quý vị, đây là giờ giao thừa.

Ông nội tôi lập tức châm ngòi. Ánh lửa bùng lóe sáng, nhảy múa cùng với tiếng pháo nổ dòn tan, xác văng tung tóe. Khói pháo khét lẹt mùi diêm sinh. Hòa vô đó là tiếng pháo của các nhà khác trong xóm. Giữa đêm trừ tịch, tất cả tạo thành những hình ảnh, âm thanh, mùi vị độc đáo để tiễn đưa năm cũ, đón chào năm mới.

Mãi cũng gần nửa tiếng đồng hồ tất cả mới trở lại yên tĩnh. Đèn đuốc đã tắt ngóm nhưng tụi tôi vẫn còn đứng tần ngần như tiếc nuối những gì vừa mới xảy ra. Chân đi xào xạc trong đám xác pháo không nhìn rõ màu sắc hình thù, bâng khuâng nghĩ tới một năm cũ đã qua đi trong tích tắc, mà thời gian thì vẫn vô tình bình thản trôi. Tất cả đều im lặng không nói gì, cho tới khi mẹ tôi lên tiếng:

- Mấy đứa tối nay ôm đồ qua nhà ông hai ngủ với ba mẹ.

Bà con đông quá, bây giờ phải lo di tản tìm chỗ ngủ. Gia đình mấy cô thì ngủ với nội, chú bác thì qua nhà ông hai, bà ba. Qua đến nhà ông hai thì mùng đã giăng chật kín vì có bà con của ông hai nữa. Nhưng khuya quá rồi nên ai cũng mệt, dọn dẹp qua loa rồi lăn ra ngủ.

Hừng sáng mùng một tết tôi đã nghe tiếng chân con nít trong xóm chạy đi lượm pháo. Tôi lập tức kêu thằng Dũng em tôi dậy. Hai anh em chạy trở qua nhà nội thì đã thấy có đám con nít lố nhố trong vườn sục sạo rồi. Thằng Dũng cũng chết sống nhào vô kiếm mấy viên pháo lép hay chưa kịp nổ.

- Pháo này dởm quá tụi bây ơi! Toàn là xác không hà. Không có được một viên pháo lép nữa!

Thằng Dũng nghe vậy trợn mắt cự:

- Pháo của ông nội tao là pháo Hồng Kông thứ thiệt. Nổ banh xác hết! Cái gì dởm?

Không kiếm chác được gì cả đám bỏ chạy qua nhà bà ba. Tôi không đi vì ngỡ ngàng, mê mẩn nhìn cảnh vật đầy màu sắc chung quanh. Xác pháo dưới chân tôi toàn một màu đỏ thắm, khác với pháo nội địa quen thuộc, chỉ đỏ có lớp ngoài còn bên trong toàn là giấy bồi. Mai nở vàng rực. Chung quanh là mấy lùm cây vừa trổ đọt xanh non mơn mởn. Phía trên nền trời trong vắt một màu xanh lam. Bướm ong bay lượn. Thỉnh thoảng có những con chim thoạt đầu tôi không biết là chim gì, màu đen hay tím, vì chúng liệng qua liệng lại rất nhanh. Đến chừng thấy được cái đuôi kép của nó tôi mới biết là chim én. Chúng không đậu lại ca hót líu lo như những con chim vành khuyên, chích chòe, mà chỉ thoáng qua rồi bay đi mất hút. Hầu như tất cả bông hoa trước nhà nội đều có một màu vàng, như cúc, mai, vạn thọ. Ngay cả bông bí ngoài vườn cũng ganh đua khoe màu vàng

Thằng Dũng vừa trở lại với một mớ pháo lép trên tay dính lam nham thuốc pháo đen xám một màu chì thì đã nghe tiếng mẹ tôi gọi đi súc miệng rửa mặt thay đồ rồi ăn sáng. Lúc này người lớn đã dậy. Nhạc xuân vang vang hòa với tiếng pháo đây đó nổ đì đùng. Bà nội với mấy cô cắt bánh tét và lấy bánh ít ra cho cả nhà ăn. Ở quê tôi, mấy dịp lễ lớn như tết hay đám giỗ, bà con hay xúm lại gói bánh tét đậu xanh nhân thịt hay nhân chuối, bánh ít nhân dừa hay nhân đậu. Bánh tét ăn không, hay chấm nước mắm, ăn với dưa món hay tôm khô củ kiệu. Bánh ít thì dẻo. Con nít tụi tôi ăn lạng quạng dễ bị mắc nghẹn vì nuốt không trôi.

Ăn xong, tất cả kéo nhau qua nhà ông hai, nơi đặt bàn thờ gia tiên của dòng họ để thắp nhang chúc tết ông bà. Xong rồi, chúc tết ông bà hai và mấy cô mấy bác bên đó. Được một mớ tiền lì xì, cả đám liền kéo qua nhà bà ba. Trên lộ lúc này đã đông người dập dìu qua lại. Ai ai cũng mặc quần áo mới tươm tất, sặc sỡ đầy màu sắc. Gặp người quen thì ngừng lại chúc tết, lì xì ngay tại chỗ. Lòng vòng tới trưa tụi tôi trở về nhà nội để chúc tết ông bà nội, ba mẹ và mấy cô chú. Túi của tụi tôi lúc này đã nặng tiền lì xì. Đứa nào cũng hớn hở. Ngoài phòng khách lúc nào cũng đầy một khay bánh mứt, hột dưa, trà nóng để đãi khách. Phía sau nhà bếp cơm nước cũng sẵn sàng với thịt kho dưa giá, bánh ít, bánh tét cho bà con lui tới chúc tết ông bà nội vào ban trưa, vì ông nội tôi thứ năm nên bà con phải đi chúc tết ông hai và bà ba trước vào buổi sáng.

Sau khi ăn cơm trưa với thịt kho dưa giá thì tụi tôi được tự do. Người lớn thì trải chiếu đánh tứ sắc, còn tụi tôi thì chạy đi mua pháo đốt. Thằng Dũng rất mê pháo nhưng không muốn tốn tiền. Nó có cái thú đi săn pháo lép về chế cái tim khác cắm vô rồi lấy cọng nhang đốt. Nếu không nổ thì nó bẻ gập chính giữa cho lòi thuốc pháo ra rồi dí đầu nhang vô đó. Thuốc pháo bắt lửa không nổ nhưng túa ra như pháo bông trông cũng đẹp mắt. Đi dọc đường thấy người ta lắc bầu cua tôi cũng bắt chước mua một bộ đem về chơi với mấy đứa em. Em ruột tôi thì ba đứa nhưng em họ thì đông lắm. Thiệt tình tôi không muốn làm cái nhưng mấy đứa em năn nỉ:

- Anh hai lớn thì làm cái đi!

Bất đắc dĩ tôi phải làm. Ai ngờ chơi một hồi tôi ăn sạch tiền lì xì của tụi nhỏ. Chừng đó tôi mới hiểu cái bí quyết của bầu cua cá cọp là phải làm cái thì mới ăn. Cũng may thua bao nhiêu thì mấy cô chú bù vô cho tụi nó bấy nhiêu. Tiền thắng thì tôi có quyền giữ. Trời ơi, tiền nhiều quá! Cả một kho tàng. Tôi phải kiếm chỗ giấu. Lấy giấy nhật trình gói ghém cẩn thận số tiền ăn được, đợi lúc chiều tối không ai để ý tôi bỏ vào chiếc lục bình lớn của ông nội ngoài phòng khách, nơi ít ai lai vãng.

Qua mùng hai tết bạn bè thăm hỏi nhau. Mấy ông bạn của ông nội tôi thì đem gà nòi lại cá độ. Sau khi nghỉ dạy học về vườn, ông nội tôi vui thú chơi cây kiểng và đá gà nòi, cũng có tiếng ở Cao Lãnh. Mấy con gà nòi đủng đỉnh trông thật oai vệ. Trước khi lâm trận, tất cả đều được săn sóc tỉ mỉ, thoa nghệ, bóp rượu, chuốt cựa cho bén. Khi sổng chuồng ra đấu, con nào cũng vươn cổ dài, xòe chòm lông ra nghênh nhau. Chờ khi đối phương sơ hở thì bay lên đá. Mà gà nòi đá có bài bản đàng hoàng, như đá xỏ là đá vô đầu, vô cánh là đá dĩa. Đá mà chỉ dùng sức chứ không cần cựa là đá đòn. Đá một phát chết tốt là độc đao. Người biết coi gà thường để ý mấy con độc đao hay có một cái vảy đặc biệt trên chân gần cựa, gọi là độc đao hiện. Ít có ai dám cho gà mình thử sức với mấy con này. Ông nội tôi có một con độc đao nhưng đặc biệt không ai thấy được cái vảy. Người ta gọi là độc đao ẩn. Nó đá bách chiến bách thắng, vì người ta không biết nó là độc đao. Ông nội tôi còn có một con nữa khôn lắm. Nhắm đá không lại, nó để cho đối phương đá một cái rồi liền lăn ra giả chết. Chờ cho con kia gáy te te, ai cũng tưởng thắng, rồi bất ngờ từ đằng sau bay tới đá một đòn chí tử vào chổ nhược làm con kia chết tốt.

Con nít tụi tôi không được cá độ, chỉ ngồi vòng ngoài chờ cho có con nào bị đá chết là tụi tôi có ăn. Chỉ cần luộc lên chấm nước mắm là người lớn có thể lai rai ba sợi, còn con nít tụi tôi thì được mấy cô nấu cà ri cho ăn với bánh mì.

Mùng ba tết thầy. Ông nội, ba tôi, và hầu hết mấy cô đều là thầy giáo, cô giáo nên mùng ba học trò lại nhà chúc tết đông lắm. Đây cũng là dịp để con nít tụi tôi kiếm thêm tiền lì xì. Có một điều bây giờ tôi mới để ý là lúc đó các học trò của ông nội tôi đều lớn hết rồi, vậy mà ai cũng nhớ tới thầy cũ, trường xưa mà tới thăm. Ngày nay cuộc sống lu bu bận rộn, có mấy ai còn nhớ tới người thầy xưa của mình.

Sau ba ngày tết, mấy ngày còn lại ông nội hay dẫn tôi đi gác cu, câu cá. Một lần ra bờ sông cái, hai ông cháu câu được mười con cá bông lau, chỉ dùng vỏ chuối làm mồi. Ông nội tôi rất thích nghe cu gáy nên hay đi gác cu bắt đem về nuôi cho gáy nghe chơi. Con nào gáy hay, ông nội đem đi để trong cái bẫy làm mồi nhử. Mấy con cu hoang nghe tiếng gáy chịu không được mò vô đá làm sập bẫy. Bắt đem về nuôi, sáng nào ông nội tôi cũng bắt ghế ngồi giả tiếng cu kêu để tập cho nó gáy. Tới chừng tự nó gáy được thì ông nội tôi hả hê lắm.

Về nội ăn tết được hai tuần lễ rồi cũng tới ngày về. Bà con xúm xít chạy lại người cho gà, kẻ cho vịt. Bánh ít, bánh tét, trái cây ê hề. Cuối cùng là màn thưa gởi mất cũng thêm một tiếng đồng hồ nữa rồi xe mới chạy được.

Đợi tới chừng xe qua bắc Mỹ Thuận rồi tôi mới nhớ là mình quên lấy gói tiền giấu trong chiếc lục bình.

Rồi sau đó chiến tranh loạn lạc không còn được về quê nữa tôi cũng quên bẵng đi. Cho mãi đến 10 năm sau, lúc ông nội tôi mất rồi thằng Kiệt con chú 5 mới tình cờ lục ra được. Không biết làm gì với những đồng tiền xưa của chế độ cũ đã mất giá trị, nó bèn đem đi nhúm lửa. Đúng là của thiên trả địa.

Kỷ niệm xưa giờ nghĩ lại cũng phù du như bóng chim én liệng. Mới thoáng qua đây rồi bay đi mất hút!

Cá mặt quỷ

H

ôm nay còn có hai ngày nữa thì tới ngày đám giỗ rồi, nên hai vợ chồng ông Cả Vạn đã bàn tính là sẽ mời ai. Còn người nào ở xa, để khi mãn đám rồi sẽ bưng đồ tới biếu, như một cái lệ giỗ hằng năm mà ông phải giữ. Đó cũng là một cách để xã giao gầy dựng thêm thế lực của mình, mà trong thời buổi hôm nay, mấy người chức sắc ở trong xã Lộc Thuận nầy cũng đều làm như vậy.

Cũng chính vì những điều lo lắng đó, ông phải lo thức canh con nước hừng đông nầy, coi nó ròng có cạn bãi hay không, mà trong mấy tháng qua ông đã cặm chà cho cá ngoài sông dựa vào cho dạn. Bởi ông đã muốn có một số cá chẽm đặng chưng tương, với núm mèo kim châm, mà bà Cả khéo tay làm thật ngon ở xóm nầy ai cũng biết.

Khi nước lớn vừa mới đầy mà, ông Cả đi ra đứng trên cầu sàn nước nhìn xuống để đánh giá ra sao, thì ông đã thấy cá ục móng trong đống chà vậy thôi dữ quá. Lòng mừng khấp khởi, ông bèn lấy hũ xác dừa mà ông đã tự tay ran, rải xuống để dụ thêm tôm càng và cá đối...

Trải mặt đăng bao đống chà vừa xong, ông bước lên bờ ngồi vấn một điếu thuốc Gò, thì đã thấy mấy con cá đối nái nó nhảy tưng tưng, nhưng vì phía trên có bao mấy tấm lưới bện bằng tàu lá dừa nên rớt xuống. Rồi ông còn để ý, thấy có vài chỗ mặt đăng bị rung rinh, đích thị đó là cá chẽm, cá ngát, cá lóc gộc dựa vào, nên mới gây ra những tiếng rung xao nước mạnh như vậy.

Trong lúc ông còn đang vui cười hớn hở, thì bà Cả bồng con gái út cưng ra hỏi:

- Sao có cá nhiều hôn vậy cha nó?

Ông Cả vói tay nựng con, rồi nói:

- Chắc khá lắm mình ơi. Đó bà thấy kìa, mặt đăng mà bị rung liên hồi như vậy, chắc là cá chẽm lớn lắm...

Bà Cả sau một hồi nói chuyện với chồng, rồi bà biểu ông vô ăn bậy bụng cơm. Chớ còn đợi nước cạn, khi lội xuống bắt thì sợ đói đó. Nhưng ông nhìn bà âu yếm, nói:

- Chừng nào nước cạn lòi bãi. Má nó có rảnh lội xuống phụ bắt với tôi nghen. Chớ còn có một mình, sợ bắt không kịp rồi nước lớn tràn vô thì rất uổng...

Bà nhăn răng ra cười, rồi nói lại:

- Thì tui cũng tính như vậy đó ông, nên tôi đã lựa sẵn cái quần dài, để chừng nước cạn mặc tình mà lết...

Nói xong thì hai ông bà cười chúm chím, dường như vợ chồng đã nhớ lại hồi hôm, mà hai vợ chồng đã ái ân tới hai lần mà không thấy mệt. Bà Cả kêu vói vô nhà, dặn:

- Con Nở đâu rồi. Lo dọn cơm cho ông ăn nghen, nhớ múc tô canh bí rợ ra, nhẹ tay đừng để cho nó nát...

Ông Cả ngồi ăn cơm mà có kèm theo ly rượu thuốc. Đó là một cái tật từ trước tới giờ, hễ tới cử cơm thì ông lại mút một chung rượu thuốc Bìm Bịp đem ra. Ngày hôm nay tuy chưa thâầt sự ghiền rượu, nhưng ăn cơm mà thiếu chung rượu thuốc, thì ông nghe nhớ tới muồi hèm, hay một cái muối gì đó rất xa xăm, mà ông không thể nào hình dung ra nổi.

***

Nước cạn dần, cá đối, cá chẽm, cá trê dừa nó phóng lung tung. Nhưng cũng không sao thoát khỏi, ngoại trừ có con nào chịu chúi xuống thật sâu, còn không phóng nhảy một hồi rồi cũng trơ lưng ra nằm trên bãi cạn. Con nước ròng từ từ rút xuống, từng bãi đất bùn lại nhô lên. Những con tép bầu, tôm lóng bắt đầu nổi râu, đóng vào mặt đăng phó mặc cho số phận. Còn cá lóc, cá chẽm thì lanh lẹ hơn. Tụi nó lóc trườn đi khắp nẻo, để kiếm đường chui đi ra ngoài con rạch, nhưng lại dễ gì. Vì hai bên khóe đăng, đã được ông Cả gày kín mít, chỉ còn có một con đường nằm đó chờ chết mà thôi. Âu đó cũng là định luật của sự sống ở trên trái đất nầy, hễ con gì lớn thì ăn tươi nuốt sống con vật nhỏ.

Thấy nước còn chỉ hơi xăm xấp, tới cổ ống chưn. Ông Cả xách cái giỏ giản xuống để bắt trước mấy con cá lóc, cá ngát, cá chẽm, cá chim, tôm càng xanh gần đầy một giỏ. Còn bà Cả thì sau khi cho con gái bú no, rồi cũng lội xuống sau.

Phải nói giở đống chà lần nầy trúng cá chưa từng thấy, chỉ nội có cá đối với cá bóng các, cá chim đen không mà cũng đã gần đầy một rổ bưng rồi. Bà Cả liền kêu réo con Nở ở trên lo thảy thêm một cái giỏ nữa để cho bà bắt tiếp, đến khi bà na cái giỏ cá đi lên, thì thấy con cá mặt quỷ nằm vùi cái đầu trồi lên chỉ có cái mỏ. Bà tưởng đâu con cá bóng các nằm chúi ở đây. Sẵn trớn bà thò tay ra chụp bỏ luôn vô giỏ cho rồi, chớ để một lát lội trở xuống sợ nó chúi sâu rồi mất dấu.

Nhưng mà không ngờ con cá mặt quỷ nghe tiếng bà lội, nó lại sừng gai lên chờ sẵn, để tự vệ trong lúc bị tấn công. Vì thế mà khi bà vừa vụt bàn tay xuống, thì nó chém ngay cho mấy nhát. Cả bàn tay tê rần đau đớn, như bị điện giựt chạy khắp châu thân. Bà Cả vội la trời, cha nó ơi tui bị cá mặt quỷ đâm rồi ông ơi. Trời ơi đau nhức quá...

Đang bắt mấy cặp cua kình trói lại, vậy mà ông phải mau mắng chạy lại xem sao, nên ông mang giỏ cá rồi dìu bà lên đi lại chỗ ngay hồ nước. Vừa dội vài gáo nước cho nó sạch bùn, thì ông đã nhìn thấy bàn tay bắt đầu sưng lên, nên ông nặn máu rồi đưa lên miệng hút. Nhưng từ trước tới nay loài cá mặt quỷ nầy, khi chém thì cái miệng nó híp lại liền, ông nặn máu hoài mà máu không ra, nhìn cảnh đó ông biết rằng đang nguy ngập.

Bởi con cá mặt quỷ ở trong con rạch nầy, từ trước tới nay hễ nó đâm ai thì phải chịu đau đớn tới ba ngày, thì mới mong lần lần xẹp xuống. Nhìn tay bà vợ cứ sưng húp lên, làm cho ông rất là rối trí, nên ông sai con Nở chạy đi lên nhà Ba Có, với Tư Muối biểu đi xuống liền cho ông biểu. Rồi ông quay vô nhìn bà, hỏi:

- Có đau không mình?

Bà bệu bạo, nói:

- Nó đau quá ông ơi. Ông nấu nồi nước sôi, rồi pha sẵn. Ẵm tui đi vô nhà tắm lau mình, rồi thay áo sóng giùm tôi. Chớ còn nó đau nhức như vầy, thì làm sao tui thay cho được...

Hai vợ chồng ông Ba Có, với vợ chồng Tư Muối chạy xuống xạo xự nãy giờ, làm cho cửa nhà thêm chộn rộn. Mấy bà nầy tuy ở nhà quê, mà sao rất là lanh lẹ. Chỉ trong một chút, thì cá mắm họ lựa ra xong. Rồi vợ Ba Có hỏi:

- Thưa bà Cả, cá bổi nầy bây giờ tụi con phải làm sao. Bà có muốn xẻ khô hôn, để cho hai đứa con làm luôn cho kịp...

Bà mệt nhọc, rồi căn dặn:

- Ờ thôi. Sẵn có hai đứa bây, lo đánh vảy làm giùm bà đi. Rồi chừng nào về, mỗi đứa bà cho một mớ, đem về phơi đặng để dành ăn. Còn cá chẽm, với cá lóc, cá ngát. Không biết ông tụi bây, ổng có lo rộng lại chưa?

Vợ Ba Có nhanh nhẩu, trả lời:

- Dạ con thấy mấy con cá ngát. Ông Cả biểu “nhà” con bắt bỏ vô lọp thả xuống kinh rộng lại hết rồi. Còn cá chẽm thì ông vèo mang cũng đem ra thả xuống. Cá lóc thì đang rộng trong khạp da lươn, chỉ còn lại một mớ tôm càng nầy, bây giờ bà tính làm gì đây?

Bà Cả nhìn lướt qua cảnh nhà, rồi nói:

- Thôi lo lột vỏ kho ướp nước mắm kho săn rồi tắt lửa để đó. Ngày mai bà kho tàu đặng để dành đám giỗ nghe con. Còn mấy con cá vụn, tụi bây coi hốt hết đi, một lát nữa xách về mà kho ăn một bữa.

Bà con chòm xóm người nầy rủ người kia chạy lại rất đông, bởi vì đây cũng là một dịp để cho họ lấy lòng ông Cả, nên chỉ trong một lát bà con ngồi chật mấy bộ ván hết trơn, Tư Muối phải nấu nước châm trà, rồi chế ra bình chạy lên chạy xuống. Để mong mời thỉnh bà con, vì có tách nước miếng trầu, thì mới mong làm đầu câu chuyện.

Thiệt là cái cảnh nhà giàu đứt tay, ăn mày đổ ruột cũng không bằng, nên tiếng rên la đau đớn của bà vang lên từng chập. Bóng tối đã phủ xuống mờ mờ, thấy vậy ông Cả sai con Nở chạy qua nhà bà Bảy Biên, mua 5 lít rượu đế để bữa nào ông con gởi tiền qua trả.

Mấy người chòm xóm thấy rượu mua về. Họ tự động bắt chừng mấy chục con tôm lóng, với cá lóc cửng, và lựa thêm mấy con cá đối, cá chẽm đã ngộp chết đem nướng nhậu chơi. Thế là trong bếp lửa than bắt đầu đỏ rực, mùi thơm cá nướng bay thoang thoảng một vùng. Làm cho mấy ông sâu rượu cũng đi tới đi lui, chớ làm sao mà kềm hãm được trong cơn thèm rượu.

Ở nhà trên bà Cả ngồi dựa vào vách lụa bổ kho, hai bên có mấy bà ngồi quạt. Người ta kẻ ăn trầu, người hút thuốc nói chuyện um sùm, như là một bữa giỗ tiên thường, nên càng làm cho nhà cửa thêm nhộn nhịp. Bỗng dưng có một bà ở nhà dưới nói lớn. Ai như chị Hai Nâu đi lại vậy kìa. Tức thời có giọng kim phát ra lanh lảnh:

- Tui đang đi ra xóm Chùa thăm cậu Bảy tụi nó, định ngủ lại chơi tới sáng mới về, chừng nghe nói bà Cả bị cá chém sau đây, nên lật đật chạy về thăm để xem qua cho biết. Vừa nói xong một một câu xởi lởi như vậy, rồi bà ta nhanh nhẩu nói luôn:

- Đâu để tôi bước lên nhà trên, coi cho rõ ràng rồi mới tính...

Vừa thấy mặt bà, thì bà Cả bệu bạo, nói:

- Thím Hai đi đâu mà từ hồi chiều tới giờ mất biệt vậy, để tôi trông đứng trông ngồi. Thím coi tay tôi đây nè, nó sưng lên tới cùi chỏ rồi thím ơi. Làm sao tôi chịu nổi...

Bà Hai Nâu sau khi cầm lên quan sát một hồi, rồi hỏi:

- Hồi chiều chị có bắt được con cá chém chị đó hôn? Nếu có thì đem nướng cháy thành tro, rồi pha nước lóng trong cho uống, còn cái xác thì mình đem đắp một chút là xẹp xuống liền.

Ông Cả đứng gần bên, bèn nói:

- Hồi chiều bắt đăng có một mình tôi, khi bả bị cá chém tôi hoảng hồn nên đâu nhớ. Bây giờ nước lớn lên ngập bãi hết rồi, biết con nào mà bắt được đây, thiệt là khổ thân cho tôi hết sức...

Từng ly nước trà lỏn tỏn rót ra ly, còn ở dưới chái nhà ngang, thì Ba Có, Tư Muối, Sáu Thọ, Bảy Thiệu với mấy người chòm xóm đang bày tiệc nhậu. Từng con tôm lóng được tách đầu ra, màu gạch vàng óng ả dưới ánh đèn dầu, rồi họ cầm lên chấm vào chén muối ớt ăn coi ngon ngất. Khi ông Cả ở nhà trên đi xuống, thì Ba Có cầm con tôm lóng lột vỏ sẵn, với cầm ly ly rượu đứng lên nói:

- Dạ con xin mời ông. Uống với tụi con ly rượu cho vui để thức đêm nay. Chớ từ trước tới nay, người nào mà rủi ro bị cá mặt quỷ đâm rồi, thì cũng đành phải chịu như vậy hà ông...

Ông vui vẻ nói:

- Thôi cám ơn hết thảy tụi bây. Để tao uống một ly nầy cho vui, rồi còn phải bước lên nhà trên, coi có ai bày biểu thứ món thuốc nào hôn nữa. Phải chi hồi chiều có chú Ba, với thằng Tư Muối thì tao cũng đâu có cho bà lội xuống mặt đăng làm chi. Thiệt ngày mốt đám giỗ rồi, mà bà tụi bây bị cá đâm như vầy, không biết tới ngày giỗ có còn lo được chuyện gì hôn nữa.

Đêm nay ông Cả rất là cảm động, khi thấy cái cảnh bà con xa không bằng láng giềng gần, nên ông biểu vợ chồng thằng Ba Có, hãy thay ông mà tiếp đãi bà con. Coi trầu vôi thuốc giấy gì đó, hễ hết thì cứ việc đi vô buồng lấy đem ra đãi tiếp...

Bỗng đâu ở nhà trên có người nói lớn. Dạ thưa ông Cả:

- Bà Cả kêu...

Ông lật đậy chạy lên nhà trên, khum xuống hỏi:

- Có tôi đây. Má nó muốn sai biểu chuyện gì...

Bà nhìn ông, rồi nói nhỏ:

- Đâu ông hỏi lại thím Hai Nâu cái coi. Thím đang bày biểu chữa mẹo cái gì, mà tui nghe cũng không rõ nữa...

Vừa lúc đó thì bà Hai Nâu, nói:

- Ông Cả ơi. Từ xưa tới nay hễ đau chưn thì mình hả miệng. Theo như chỗ tui được biết, cái giống cá mặt quỷ nầy chỉ có hai phương thuốc điều trị mà thôi. Một là mình bắt được con cá đốt cháy thành tro cho uống. Hai là lấy con “cu” của Cả bơn lên cho cứng, rồi quẹt chữ thập thì nó hút nọc độc xẹp xuống rất mau. Chớ còn không thì phải chịu đau tới ba ngày, sợ e bà Cả kham không nổi đó...

Vừa nghe qua ông mắc cỡ đỏ mặt, nên nạt lớn:

- Cái thím nầy bày biểu tùm bậy không hà. Đang không mà bắt tôi quẹt, thì làm sao quẹt được...

Bà Cả nghe qua bèn khóc cà hước cà hước, nói:

- Ông ơi là ông ơi. Hồi nào ông đòi quẹt cho sung sướng tấm thân, còn bây giờ đau quá tôi mới nhờ ông, sao ông không chịu quẹt. Để cho tui đau nhức như vầy mà ông nỡ đành sao, ôi chồng con ơi, ác gì mà ác nhơn dữ vậy...

Bà Hai Nâu tém cục thuốc xỉa qua một bên, nói nhỏ:

- Bây giờ ông Cả ở trên nầy, để chị em tui đi xuống nhà dưới. Ông Cả làm nóng một hồi quẹt mấy phát là xong, chớ còn ông nỡ lòng nào mà để nhìn chị đau như vậy...

Nhưng ông Cả nhìn bà, hỏi lại:

- Mà thím Hai có bảo đảm là sẽ hết không? Nếu không thì thím tính sao với tôi đây, chớ đừng có ngồi đó nhai trầu rồi xúi bậy...

Bà Hai Nâu vội đưa mắt nhìn mọi người, rồi nói:

- Thiệt tình tôi đã từng dùng cái cách chữa trị nầy để cứu bà con. Nếu ông Cả không tin thì tui cũng không biết làm sao. Còn biểu bảo đảm thì làm sao tôi dám.

Vừa nghe qua bà Cả liền mếu máo, nói:

- Thôi ông đi xuống nhà dưới nhậu rượu với họ cho vui đi, để cho tui đau nhức như vầy thì ông mới là vừa bụng. Bây giờ tui cũng không thèm, không nhờ ông quẹt nữa đâu. Trời ơi đau nhức quá, làm sao tôi chịu nổi. Hu... hu... hu...

Ông Cả nghe qua mấy lời giận lẫy đó, làm cho ông yếu bóng vía một phần. Một phần nữa là mấy bà họ xúm lại năn nỉ ông đây. Ông nhìn bà Hai Nâu một chút, rồi nói:

- Thôi để tôi cũng rán quẹt cho rồi, nhưng phải quẹt sau đây. Trị mẹo cái kiểu nầy, làm cho khổ thân tôi quá...

Mấy bà tự động đứng dậy, rồi họ lần lượt đi xuống nhà sau. Khi còn lại một mình, thì ông đi đóng lại cái cửa buồng ăn thông xuống nhà dưới. Đang đứng lớ ngớ để vặn nhỏ lại tim đèn, thì có tiếng bà Hai Nâu kêu lên dặn vói:

- Ông Cả ơi. Nhớ quẹt chữ thập, nam thất nữ cữu đàng hoàng. Đừng quẹt dối mà cánh tay bà không xẹp đó...

Đang bực bội mà bị dặn hoài, nên ông nói:

- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi vậy thím Hai...

Tiếng cười nói, hòa lẫn với tiếng quếch cối trầu, làm cho không khí vui lây. Thằng Tư Muối đang nhậu ngà ngà, nên nói lớn:

- Thôi vô đi mấy cha. Ở trong buồng ông Cả lấy bửu bối ra quẹt cho nó hết đau, thì ở ngoài nầy mình cũng nhậu cho vui, chớ hà cớ gì mà mấy cha lại ngưng ngang kỳ vậy. Không chừng mai mốt, tui cũng xách con cu của tôi đi quẹt cho bà con làm phước...

Bà vợ đang ngồi nơi bộ ván gõ, nghe chồng nói năng ba trợn vội đi lại khuyên lơn:

- Trời ơi ông nhậu cho say, rồi nói năng gì kỳ vậy. Mai mốt tới tai ổng, rồi ổng bắt còng đầu, tới chừng đó đừng có biểu tui đi năn nỉ xin tha giùm cho à nghen.

Tiếng quết trầu trong cối, hoa lẫn với bao tiếng nói vui cười, làm cho nhà ông Cả càng thêm nhộn nhịp. Chừng ba phút sau, thì ông Cả mở cửa nhà trên ra nói:

- Đâu mấy bà bước lên trên nầy, ngồi nói chuyện với bả cho vui. Thiệt ai mà bày biểu cái mẹo vặt nầy, trị chừng vài lần nữa thì thằng nhỏ của tôi chắc cũng bị tà đầu hết ráo.

Sau câu nói vui của ông Cả, thì mấy đứa nhậu lại cười vang. Có lẽ đêm nay là một đêm ông Cả cư xử rất là bình dân, mà tứ trước tới nay người dân trong xã nầy không ai ngó thấy. Thằng Ba Có lại đứng lên, hỏi:

- Nhắm quẹt xong, bà có bớt không vậy ông?

Ông Cả bèn ngồi xuống đệm một cách bình dân, rồi nói:

- Biểu quẹt thì tao quẹt, chớ tao đâu có biết cái chuyện gì mà mầy hỏi.

Rồi thằng Tư Muối, bốc một con tôm lóng gạch không. Bẻ cái đầu phủi sơ lớp khét bên ngoài, chấm miếng muối ớt đưa lên nói:

- Ông ăn con tôm nầy coi, đã lắm...

Thằng sáu Thọ thấy Tư Muối lấy điểm như vậy, nên nó cũng bắt chước làm theo. Bèn rót chung rượu bọt tràn lên, lễ phép mời:

- Dạ... tụi con kính mời ông.

Ông bưng chung rượu lên khà một phát, rồi để chung xuống nói:

- Không ngờ đống chà ở sau hè như vậy, mà hồi chiều giở chà nó trúng hết phương. Nếu bà tụi bây không bị cá mặt quỷ đâm, bắt cằn thêm một lát, thì chắc cũng hơn một rổ.

Rồi ông day qua Ba Có, hỏi:

- Mấy con cá thằng Ba xỏ mang vèo rộng hết giùm tao rồi hả?

Ba Có hả miệng ra cười nói lớn:

- Con làm xong tất. Còn mấy con cua con cũng rộng trong thùng, với tét bỏ vô mấy tàu lá chuối non, để giữ độ ẩm cho cua không bịchết.

Tới phiên ông Cả, thì thằng Bảy Thiệu lựa cái đầu cá lóc thật ngon. Sau khi nó chấm vào chén muối ớt, lăn trở cho miếng thịt má dính chút muối ớt cay cay. Rồi nó gắp bỏ vào chén ông, nói:

- Dạ con kính mời ông...

Ông đưa mắt đảo một vòng, ông mới nhận ra mấy đứa chòm xóm với tá điền nầy, tụi nó cũng dễ thương. Chớ đâu có láu cá như ông đã tưởng, nên ông tươi cười nói:

- Cám ơn tụi bây. Khi nhà có hữu sự tụi bây chạy tới đủ mặt như vầy, chừng nào hết gạo thì đến đây tao cho mượn lúa.

Trong lúc ông Cả còn đang vui vẻ nhậu, thì có tiếng mấy bà từ trên vọng xuống:

- Xin mời ông Cả đi lên quẹt giùm cho bà thêm phát nữa...

Đang nhậu ngon trớn, vậy mà ông cũng phải ngưng ngang. Rồi ông đi trở lên nhà trên, trong khi đó thì mấy bà cũng lặng lẽ tản hàng đi trở xuống nhà dưới. Chừng vài phút sao, thì cũng bà Hai Nâu lại dặn:

- Rán quẹt cho đủ ba lần nghen ông Cả. Thuốc Bắc thì mình phải hốt ba thang. Còn trị mẹo thì cũng phải quẹt cho đủ ba lần, nếu không thì cũng hơi khó nói...

Sau khi quẹt xong, thì ông cũng đi xuống nhà dưới ngồi nhậu cho vui. Chớ ông Cả ông Chủ gì lúc nầy, mà ở đó phân ra giai cấp. Nhậu thêm chừng năm chung rượu nữa, thì có tiếng bà Hai Nâu la lớn:

- Thiệt phương thức trị mẹo vặt nầy coi vậy hây lắm ông Cả ơi. Bây giờ bà đã hết đau, mà mấy chỗ sưng lại xẹp xuống dùn da ngó thấy.

Thế là tiếng nói tiếng cười lại xôn xao, từng làn khói thuốc phà ra mù mịt. Có bà lại nhổ cốt trầu nghe cái rột, nhưng ông Cả cũng không bận tâm để ý làm gì. Bởi trong nhà đang có chiện (chuyện), mà chòm xóm chạy lại đông đảo như vầy ông thật cám ơn. Rồi hai vợ chồng thằng Ba Có, với vợ chồng Tư Muối chạy tới đây hết lòng dọn dẹp. Trong phút giây bâng khuâng đó, ông mới thật sự sống với láng giềng, chớ từ trước tới nay, cuộc sống của ông thật là cách biệt.

Chỉ có mấy người như vậy, mà quất muống hết năm lít rượu đế của bà Bảy Biên rồi. Người nào cũng lảo đảo muốn say, nên họ nói chuyện vang rân, chớ không cần giữ gìn ý tứ gì nữa cả.

Rồi ông Cả cũng quẹt cho đúng thủ tục ba lần, nơi chỗ cá chém của bà cũng xẹp xuống rất mau. Thế mới biết mấy cái phương pháp trị mẹo vặt của dân gian cũng hay dữ lắm. Nhưng trước tiên người trị bịnh phải có lòng tin, chớ còn không thì kể như không kết quả. Đó là những phương pháp chữa mẹo trong dân gian hiện giờ, có lẽ nhờ vậy mà người dân còn có chút an tâm, chớ còn bị cá mặt quỉ chém thì đâu có thuốc thang gì mà chửa...

***

Hai vợ chồng ông Cả đứng tiễn bà con chòm xóm đi ra về hết. Ông mới đi ra cột lại cửa ngõ rồi xích hai con chó nằm giữ nhà như một thói quen, chớ trộm đạo từ năm ngoái tới năm nay thì cũng bớt. Xong xuôi đâu đó, rồi ông mới hỏi:

- Thiệt hết đau chưa mình?

Bà nhìn ông nói:

- Hây quá ông ơi. Vậy từ rày về sau, hễ thấy ai bị cá mặt quỷ đâm, thì ông bày biểu cho người ta làm phước. Chớ đừng có làm hiểm nghen ông, không chừng mai mốt ở trong xóm nầy, người ta kêu ông bằng ông Cả quẹt...

Ông bật cười rồi nói trây:

- Như của mấy bà, thì lấy của mấy ông đem quẹt. Còn mấy ông bị cá mặt quỷ đâm, thì phải làm sao đây?

Bà cũng đâu có vừa, nên cười cục cục rồi nói lại:

- Mắc dịch cái ông nầy, hồi nãy sao không hỏi thím Hai Nâu, mà bây giờ lại bày đặc hỏi tui...

Hai ông bà lại cười vui trong hạnh phúc. Xa xa có tiếng chó sủa trăng vọng lại một cách mơ hồ, dường như sương đêm thấm lạnh, nên ông Cả đi ra gày lại cửa rào, xong xuôi đâu đó ông lại ngó tới ngó lui. Rồi bước lại chỗ đầu hồi chái nhà, ẵm mấy con gà nòi vô nghệ cũng sắp sửa ra trường, thả quần sương như mọi bữa.

Trong giây phút đó, đôi mắt ông lại rực sáng tinh anh. Bởi vì ông là một tay chơi gà nòi rất kỹ, khi ra trường cáp độ, ông cáp rất dày, không để cho ai hơn được một phân. Cũng chính vì vậy mà mỗi lần gà ông đụng độ, ông đá hết tiền trong hầu bao, cho dầu có ăn thua gì cũng đều là mát bụng.

Bất chợt trên ngọn cây sầu đâu trước đường đi, có một bầy dơi quạ từ đâu bay về ăn trái chín, đang khọt khẹt giành ăn la ó giữa đêm khuya. Ông mỉm cười thầm rồi đi vôi nhà xách ra mấy cái lồng lưới, rồi móc vào mấy trái chuối xiêm chín rục. Để nhử tụi nó bay vào, sáng hôm sao thế nào cũng có. Bởi thịt dơi quạ thì rất bổ dưỡng và cường dương cho mấy ông già, nên ông Cả cười mỉm bâng quơ, rồi đi vô nhà tắt đèn ngủ sớm...

Căn nhà lại chìm xuống trong cô tịch bốn bề, ngoài trước con giồng tiếng chim cúm núm ăn đêm. Lâu lâu lại bật ra tiếng kêu cúm núm, cúm núm thật là áo não. Còn sau nhà thì tiếng táp mồi của cá sửu ở bãi bần, tiếng quẩy nước lại vang lên trong đêm vắng. Xa xa từ trên xóm ngã tư, tiếng chó sủa trăng vọng lại một điệu buồn buồn, khiến cho cái xóm ở cặp con rạch Cả Muồng nầy nó thật chơ vơ. Mỗi khi có tiếng trẻ khóc vì bịnh ban, nên đêm càng khuya càng sâu thăm thẳm.

Bất chợt từ dưới nhà ông Tám Chối vọng lên bài ca “Dạ Cổ Hoài Lang”, làm cho người nghe càng thêm ngậm ngùi cảm khái. Khi giọng ca của cô Tư Sạn lại ngân nga:

- Từ là từ phu tướng ...

Bảo kiếm sắc phong lên đàng

Vào ra luống trong tin chàng...

- Sao nỡ phụ phàng?                                                       

Đường dù xa ong bướm

Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang...

Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu...

Là nguyện cho chàng     

Hai chữ bình an, bình an

Mau trở lại gia đàng

Cho én nhạn hiệp đôi./-

Ăn cà

Đọc đầu đề, có người sẽ nói ngay: "Tết nhứt, thiếu chi món ăn ngon mà lại nói chuyện ăn cà. Bộ hết đề tài để nói hay sao?" Xin thưa, ở bên Mỹ nầy, sơn hào hải vị thiếu chi, nhưng thường đó là những món ăn cho người giàu có, ít phổ biến trong dân chúng VN, còn cà thì bình dân, rất phổ thông, là món ăn thường ngày....

... Tuy nhiên, trong những ngày Tết nhứt, các bà nội trợ cũng chịu khó chế biến cà thành một món ăn ngon, và để cúng ông bà, mà ông bà chúng ta phải nói rằng ít ai không khoái ăn cà.

Cà là món ăn bình dân, truyền thống, nhưng lại là hạng thấp nhất trong các món ăn thường nhật, tương đương rau lang, đậu bắp, mướp, bầu, bí, v.v... Ít khi người ta dùng cà để thết khách, nhất là khách quí. Không chừng mời khách quí ăn cà, khách còn cho là bị bạc đãi như câu chuyện Lưu-Bình/Dương Lễ vậy.

Truyện kể rằng:

"Ngày xưa, Lưu-Bình/Dương-Lễ là hai bạn học rất thân.

Lưu-Bình con nhà giàu, nên ỷ mình, học hành không được chăm chỉ. Dương Lễ con nhà nghèo, thường được Lưu-Bình giúp đỡ, ngày đêm dùi mài kinh sử để đạt được bảng vàng.

Ít lâu sau, Dương Lễ thi đậu, được bổ ra làm quan. Còn Lưu-Bình thi hỏng hoài, gia đình càng ngày càng khánh kiệt. Một hôm, Lưu-Bình nghèo túng quá, tìm đến bạn cũ nhờ giúp đỡ. Ai ngờ Dương Lễ bạc đãi, sai gia nhân dọn cho Lưu-Bình "Một mâm cơm với một quả cà". Ăn xong, Lưu-Bình cáo từ lui ra, phẫn chí, quyết tâm học hành để được như bạn, trả mối hận bị bạc đãi ngày hôm nay. Trên đường đi, tình cờ Lưu-Bình gặp một cô gái làm nghề buôn bán. Hai người kết bạn. Cô gái khuyên Lưu-Bình chăm chỉ học hành và sẽ làm lễ cưới sau khi chàng đổ đạt. "Nếu chưa thi đổ thì chưa động phòng".

Quả thật mấy năm sau, Lưu Bình nhờ chăm chỉ học hành nên thi đổ. Chàng về nhà để thăm người con gái đã lo buôn tần bán tảo nuôi chàng ăn học. Về đến nơi thì không thấy cô ta nữa. Nàng đã bỏ đi mất. Trên đường đi đáo nhậm nhiệm sở mới, Lưu-Bình ghé thăm bạn cũ, để khỏi bẽ mặt với người ngày xưa bạc đãi mình.

Dương Lễ tiếp bạn, rồi kêu người thiếp là Châu-Long đem trà ra mời khách. Ai ngờ Châu-Long là cô gái đã giúp đỡ Lưu-Bình trong mấy năm miệt mài kinh sử. Bấy giờ Lưu-Bình mới hiểu rõ lòng bạn khôn ngoan và cao thượng như thế nào. Bạc đãi chỉ là hành động kích thích lòng tự ái của Lưu-Bình để chàng chăm học, cho người thiếp giả dạng cô gái chưa chồng, giúp Lưu-Bình ăn học. Lưu-Bình chỉ còn cách khấu đầu cảm ơn tình bạn mà thôi.

Nói theo cách hiện thực, quả cà là động lực làm sĩ nhục mà cũng là kích thích lòng tự ái của Lưu-Bình, khiến chàng trở nên chăm chỉ học hành, điều mà ngày xưa Dương-Lễ đã từng khuyên nhủ bạn mình nhưng không kết quả.

Qua câu chuyện nầy, người ta thấy quả thật cà không phải là món ăn của nhà quan. Nó là món ăn của giới bình dân. Trước năm 1968, một hôm tôi tính đi Đà-Nẵng có công chuyện. Một người bạn, hiệu trưởng một trường trung học ở Huế, nói với tôi: "Anh cho tôi gởi cho anh rể tôi hủ mắm cà." Tôi hơi ngạc nhiên. Anh rể ông bạn tôi, một bác sĩ, lại ưa ăn mắm cà, một món ăn rất mất vệ sinh. Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã thấy ở các cửa hàng của các bà già trong chợ bán mắm cà. Mắm để trong một cái chậu đất sét nung, hơi giống chậu trồng hoa. Trong chậu, cà được bổ từng múi như múi cau, dầm trong mắm, thường là mắm nêm. Người ta che nửa chậu mắm bằng một nửa ngọn lá chuối, một nửa để hở cho khách thấy mắm mà mua. Không ít ruồi xanh, ruồi đen bu trên những miếng mắm hay bay lượn tìm địa điểm để đáp xuống. Thỉnh thoảng bà chủ hàng lấy cây quạt gắp huơ một cái để đuổi ruồi. Đàn ruồi bay ù lên, đảo ngang dọc trên chậu mắm, rồi lại tìm cách đáp xuống tiếp tục tấn công chậu mắm cà. Dĩ nhiên, thấy mà... kinh. Ấy là chưa kể vài con dòi to có, nhỏ có đang lúc nhúc bơi lặn trong những chỗ có nước mắm. Khi có ai mua, người bán xé lá chuối quấn lại như một cái phểu để bỏ mắm vào đó, xếp nắp đậy lại. Người mua khéo léo để đứng gói lá vào rỗ đi chợ, để nước mắm khỏi tràn ra ngoài. Có lần, tôi thấy một bà cụ già bán mắm lấy đôi đũa vớt mấy con dòi quăng xuống đất, nói một câu rất tỉnh: "Dòi mẹ thì ngon, dòi con thì béo."

Dĩ nhiên từ đó, tôi không ăn mắm cà. Mẹ và các chị tôi, chẳng ai biết làm mắm cà để ăn, sạch sẽ và vệ sinh hơn thứ mắm cà mua ngoài chợ.

Bây giờ, nghe người bạn gởi hủ mắm cà cho ông anh bác sĩ, tôi lại giựt mình. Tuy nhiên, tôi lại cũng từng nghe nói: "Bác sĩ ở dơ hơn người ta". Ở đời, nói và làm thường không đi đôi. Bác sĩ khuyên người ta ăn ở vệ sinh nhưng bác sĩ "mất vệ sinh" không thiếu gì.

Do câu chuyện người bạn, tôi khám phá ra một bà cụ ở trên dốc cầu Kho Rèn ở Huế làm mắm cà ngon tuyệt trần. Dĩ nhiên là rất vệ sinh. Kể từ đó, tôi mới nhận ra rằng vì sợ dơ mà mấy lâu nay, tôi đã "xa rời dân tộc". Sau biến cố nói trên, tôi thường đưa vợ lên cầu Kho Rèn mua mắm cà về ăn, trở về với con đường truyền thống dân tộc Việt-Nam: Ăn mắm cà. Tôi chưa đọc hết truyện cổ tích, nhưng tôi vẫn còn nghĩ rằng, trong kho tàng văn chương VN, không thiếu bóng dáng những trái cà. Chẳng hạn như:

Công anh làm rể có tài

Một mình ăn hết mười hai vại cà

Giếng đâu thì dắt anh ra

Kẻo mà anh chết theo cà nhà emNgày xưa, trước khi cưới, người con trai phải đến "làm rể" bên nhà vợ. Làm rể là làm những công việc nặng nhọc bên nhà vợ như cuốc đất, trồng cây, đào ao, làm ruộng, v.v... để trả ơn sinh thành cho người vợ sắp cưới.

Công việc thì nặng nhọc mà ăn uống thì tiết kiệm, chỉ có cơm rau và cà nên mới có lời than mà mỉa mai của người làm rể.

Ở thôn quê, việc làm ruộng cần có nhiều người giúp sức, nhất là khi đến mùa như việc cày, cấy hay gặt lúa. Người đến làm thuê được nhà chủ bao cơm ăn. Các thợ bạn, nhất là đám con trai, "nam thực như hổ", cơm thì nhà chủ cho ăn no (ăn no mới làm việc giỏi) nhưng đồ ăn thường thì thiếu vì nhiều khi đồ ăn rất mắt mỏ. Thịt thì không có, chỉ có cá và canh, hay món kho. Cũng không đủ nên người ta phải muối cà để "đưa cơm".

Nhiều khi người ta cũng sợ hao cà nên muối cho mặn để tiết kiệm. Muối càng mặn, ăn càng khát nước, uống trong lu vại không đủ, phải ra giếng mà uống cho vừa bụng như lời mai mỉa của anh con trai trong bài ca dao nói trên.

Truyện cổ tích cũng còn kể:

"Cậu bé làng Phù Đổng vươn vai đứng dậy thành một người cao lớn dị thường. Cậu bé xin mẹ nấu cho một nồi cơm thật to để ăn trước khi ra trận. Cậu ăn bao nhiêu cũng không đủ no. Người làng phải phụ giúp, cậu bé ăn hết ba nong cơm với ba nong cà... "

Về số lượng cơm, cà cậu bé đã ăn, có thể lên xuống tùy theo sự hứng cảm của người kể chuyện, nhưng chắc chắn trong bữa cơm của cậu phải có cơm và cà là hai món ăn chính của người dân quê Việt-Nam.

Cà có hai loại: Cà trắng và cà tím.

Cà trắng cũng có hai loại: Cà pháo và cà dĩa. Cà pháo là loại cà trái nhỏ, lớn lắm cũng chỉ bằng trái mù-u. Loại nầy ít khi ăn sống và thường để làm mắm cà chứ không muối cà vì cà pháo đắt hơn cà dĩa. Nhà khá giả một chút mới ăn cà pháo. Cà được cắt cuống để bỏ vào hủ với mắm. Nếu trái hơi to thì người ta thường chẻ làm đôi. Cà dĩa là loại cà trái to bằng dĩa trà. Cà nầy rất phổ thông trong món ăn của người nhà quê. Trái cà được chẻ thành sáu hay tám múi tùy theo trái cà to nhỏ, cũng được bỏ vào hủ mắm, thường là mắm nêm hoặc tương nếu người ta ăn chay. Cà phải chìm xuống dưới mặt nước để khỏi phải bị thâm đen, khi múi cà được gắp ra dĩa, trông vẫn còn màu trắng của nó. Ở nhà quê, nhất là ở miền Bắc Việt-Nam, không có nhiều cá để làm mắm cà nên chỉ muối cà, gọi là cà muối, nghĩa là người ta ngâm cà trong nước muối, chỉ có muối mà thôi. Trong bữa ăn của người nhà nông, nhất là khi có thợ bạn đến cày, cấy, v.v... bao giờ cũng có một dĩa cà, hoặc một tô cà muối, nếu có đông người ăn.

Trước khi đem mắm hay muối cà, nếu là cà pháo thì trái để nguyên hay chỉ bổ làm đôi, cà dĩa thì bổ làm sáu, làm tám, đem phơi một nắng cho vừa ỉu đi một chút. Mục đích là để cà tháo bớt nước, chất mắm hay muối có thể thấm vào cà. Người ta không phơi lâu vì sẽ làm cho cà không còn dòn mà lại dai, khó

Để tiết kiệm, người ta chỉ gắp cà ra ăn, mắm để lại trong hủ để bỏ thêm cà mới vào. Do đó, tục ngữ mới có câu: "Có cà thì tha gắp mắm".

Người ta cũng ăn cà sống nhưng thường chỉ ăn cà dĩa mà thôi. Người nội trợ bổ trái cà dĩa ra làm nhiều múi, sắp quanh trên một cái dĩa lớn bằng cái dĩa trà, cùng với một vài lát khế xắt mỏng và ít cọng rau thơm. Bên cạnh có một dĩa ruốc. Khi ăn, người ta gắp miếng cà quẹt vào đó một chút ruốc cùng với ngọn rau thơm. Rau làm thơm mũi, ruốc có vị mặn và miếng cà sống thì dòn, nhai rau ráu. Sau khi ăn vài miếng cà có ruốc, người ta ăn một lát khế. Chất khế chua làm "sạch" lưỡi. Như thế miếng cà ăn tiếp sau mới ngon vì nếu không, chất ruốc mặn đọng lại trên lưỡi làm mất ngon. Dĩ nhiên, "dân mắm ruốc" rất thích ăn theo kiểu nầy, nhất là về mùa hè, ăn miếng cà sống như thế, người ta cho là "mát".

Người ta cũng ăn cà hấp. Trái cà dĩa được bổ ra nhiều múi mỏng (không cho múi cà lìa hẳn nhau, còn dính tí chút). Khi nồi cơm vừa cạn, người ta mở vung, bỏ dĩa cà vào, đậy nắp lại. Hơi nóng của nồi cơm đủ làm cho cà chín. Trước khi dọn ra mâm, người ta ép cho cà ra bớt nước, đổ nước đi, rồi đổ lên dĩa cà một ít nước mắm và vài trái ớt, vài múi tỏi giã vừa dập hoặc một ít hành chấy (hành phi).

Để lạ miệng, cà còn được các bà nội trợ "chế biến" thành cà luộc, cà nướng (thường là cà tím) gỏi cà, v.v...

Cà tím vì có màu tím. Còn gọi là cà dái dê hay cà dê vì có hình dạng như dái con dê đực. Cà tím thường dùng để ăn sống, nướng, hấp hay luộc, chiên có thêm một ít thịt heo hoặc "tóp" mỡ, v.v... Người ta không muối cà hay làm mắm cà bằng cà tím bao giờ.

Miếng cà mắm thường cắt nhỏ, ăn thì ngon nhưng trông thật xấu xí. Tôi có thể chứng minh một ví dụ về hình ảnh xấu xí của mắm cà bằng câu ca dao sau đây:

"X" ... ngồi thò lõ dái ra,

"Y"... tưởng mắm cà đem dĩa qua xin.

Người ta không trồng cà ở ruộng vì cây cà không chịu nước như lúa. Cây cà chịu đất khô. Ít, chỉ để ăn trong gia đình thì người ta trồng trong vườn nên có khi người ta gọi là "vườn cà". Nhiều, người ta trồng ngoài rẫy; ngoài phần để ăn, người ta hái đem bán ở chợ. Nói chung, ở nhà quê, nhà nào cũng có trồng cà. Cà ưa nắng nên người ta trồng cà sau khi mùa mưa lạnh chấm dứt, nghĩa là cà được trồng vào tháng hai âm lịch, trễ lắm là tháng ba. Ca dao có câu:

Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà...hoặc:Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.

hoặc một câu khác nữa:

Tháng chạp thì mắc trồng khoai

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.

Việc trồng cà, đậu có xê xích đôi chút có lẽ là do vùng đất có khác nhau vì nước ta trải dài trên nhiều vĩ độ khác nhau. Ở nhà quê, để tiết kiệm đất, người ta trồng cà và ớt chen nhau.

Nếu tháng hai thiếu (ngắn ngày), có nghĩa là mùa nắng đến sớm, cà sẽ không được mùa. Sau đây là kinh nghiệm của người nhà nông:

Thiếu tháng hai mất cà

Thiếu tháng ba mất đỗ

Và một kinh nghiệm khác nữa:

Đom đóm bay ra, trồng cà ra đỗ

Tua rua bằng một, cất bát cơm chămPhải đến mùa hạ mới nhiều đom đóm. Đom đóm ra sớm có nghĩa là mất mùa cà. Câu sau thì chịu, chưa hiểu ý tứ thế nào. Quí độc giả nào có kinh nghiệm ở nông thôn, xin chỉ giáo giùm.Người trẻ thích ăn mắm cà hay cà muối. Người già thích ăn dưa vì dưa mềm hơn, dễ ăn. Vì vậy, tục ngữ lại có câu: "Trẻ muối cà, già muối dưa".

Vì cà là món ăn truyền thống, dân tộc, nên đi xa, không có cà để ăn, người ta sinh ra... nhớ:

Ra đi lòng nhớ mẹ già,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Sau khi nhớ mẹ, tác giả đâm tra nhớ món cà. Không phải anh ta "Dĩ thực vi tiên" nhưng cà là món ăn tượng trưng cho quê hương. Thành ra, nói cho đúng thì tác giả sau khi nhớ mẹ thì nhớ quê hương, làng xóm mình. Bên cạnh cà, anh ta nhớ "canh rau muống". Như thế, người ta có thể đoán tác giả là dân... "Bắc-kỳ".

Ngoài trái, người ta cũng thích màu hoa cà, hay nói đúng hơn là màu tím hoa cà. Đi qua một vườn cà đang lúc hoa cà nở rộ, một màu tím đẹp đập vào mắt ta. Màu tím hoa cà lạt hơn màu tím hoa sim một chút, một màu tím có lẽ nhiều người đã đọc trong một bài thơ của Hữu Loan:Chiều hành quân

Qua những đồi sim

Những đồi hoa sim

Tím cả chiều hoang biền biệt

Thật ra, người thành phố dễ tưởng lầm màu tím hoa sim và màu tím hoa mua. Dọc theo quốc lộ 1, quãng giữa thành phố Quảng Trị và thành phố Huế, nhìn về phía Tây, phía dãy Trường Sơn là một vùng đồi hoang. Ở đây, cây mua mọc lẫn lộn với cây sim. Khi đến mùa, hoa sim và hoa mua đua nhau nở rộ rất đẹp. Cây mua cùng một họ với cây sim, hoa màu tím như nhau, nhưng trái mua không ăn được.

Trái sim khi chín có màu tím sẫm, vị ngọt, ăn rất ngon. Ca dao có câu:

"Đói lòng ăn nửa trái sim,

Uống lưng bát nước đi tìm người thương"

Ăn nửa trái sim vì ăn nhiều thì xót ruột, uống lưng bát nước vì uống hết bát thì nặng bụng, xóc, không thể đi xa tìm người thương được.

Ngày trước, con gái đàn bà cũng thường mặc áo màu tím hoa cà hay hoa sim. Ngày nay, người ta chê màu đó hơi quê. Người ta chọn màu áo tím đậm hơn, đó là màu tím da-lan hay màu tím than, có nghĩa là màu tím đậm.

Đang nói chuyện ăn, bỗng lan man qua chuyện mặc. Nói như thế là đi hơi xa, nên xin dừng bài viết ở đây.

Già Tư

Không nhớ từ lúc nào chúng tôi biết đến Già Tư. Chỉ biết là mỗi lần đi ngang qua cái chòi có ông già câm ngồi sửa xe đạp hay làm hề nên ghé lại chơi riết rồi quen. Không ai biết ông ấy quê quán ở đâu, vợ con ra sao, chỉ biết là ông lão đã đến đây ở từ lâu lắm rồi. Già Tư có một điểm đặc biệt là ở xóm Chùa nhưng không bao giờ “ăn chay niệm Phật” như mọi người.

Tuy vậy, những nhà sư hay học sinh đến sửa xe ông đều không lấy tiền. Già cũng không giao thiệp với ai ngoài bọn trẻ chúng tôi. Mỗi chiều, ông lão hay ngồi nhâm nhi vài ly rượu một mình trong chòi, cũng là lúc chúng tôi thường tụ tập đến. Ông không nói được, chỉ ra dấu. Vậy mà dần dần rồi chúng tôi quen. Mấy người sửa xe phải nhờ đến chúng tôi làm “thông dịch viên” cho ông hiểu.

Mấy năm trước, Già Tư mua được một con chó phèn vừa biết ăn và cặp gà ta ở xóm trên. Ông làm chuồng nuôi gà còn con chó phèn thì ông cưng hết cỡ. Già làm cho nó một cái mùng nhỏ, tối giăng dưới sàn chõng để nó ngủ. Con phèn quen từ nhỏ nên tối đến là tự biết chui vào mùng ngủ. Cái lần ông lão bị lên máu té trong chòi, con chó ấy chạy ra chạy vào kêu la inh ỏi. Hàng xóm thấy lạ chạy qua thì thấy Già nằm bất động, họ dìu ông lên chõng rồi thoa dầu, xoa bóp cho Già tỉnh lại. Từ đó Già càng cưng con phèn hơn. Cứ mỗi buổi cơm, Già một chén là con phèn một chén. Có lần Già chỉ chỉ con phèn rồi khoanh tròn tay đưa qua đưa lại (ý Già muốn nói là Già xem con phèn như con như cháu).

Một buổi chiều, Già Tư ngồi trên một cái ghế thấp ra dấu với tôi. Ý Già muốn nhờ chúng tôi bán giúp một mớ gà để Già về thăm quê. Tôi hiểu ý nên kêu bà Bảy Gà ngoài chợ lại mua cho Già. Già Tư bán hết bầy gà chỉ chừa lại một con gà mái đang dẫn con và một con gà tơ. Chiều hôm sau đó Già làm thịt con gà tơ đãi bọn tôi. Già nấu một nồi cháo nóng hổi, múc từng tô cho bọn tôi. Tôi chỉ chỉ ngón tay vào miệng rồi cười (ý là khen Già nấu ngon hết ý). Già Tư cười phì lộ ra cái miệng móm xọm... Đang ăn ngon miệng thì bà Năm hàng xóm chạy qua:

- Mèn đét ơi! Hôm nay rằm, Già Tư không đi lễ Phật, không ăn chay thì thôi còn sát sinh mần thịt gà rủ mấy đứa nhỏ ăn nữa. Tội lút đầu đó Già Tư ơi! Tội chết...

Già Tư ngồi tỉnh queo, húp chén cháo bình thản. Bọn tôi cũng vậy. Cái cảnh bị bà con xóm Chùa hay phàn nàn vì không chịu tu hành ăn chay niệm Phật thì quá quen với Già Tư và bọn tôi rồi...

Trời bắt đầu trở gió, Già Tư ho nhiều, chúng tôi khuyên ông nên đi bệnh viện, khuyên mãi ông mới chịu đi. Sáng hôm sau Già Tư đón xe đò lên bệnh viện. Ông lão gửi tôi hai mươi nghìn đồng, nhờ mua cho con phèn ổ bánh mì đem qua chòi cho nó ăn. Ông quyến luyến con phèn một hồi lâu rồi bước lên xe mà mắt vẫn nhìn theo tôi mãi. Con phèn bỗng vụt chạy theo, ông xua tay, tôi đứng kêu nhưng nó vẫn chạy theo, con chó chạy vụt qua vụt lại. Ra đến ngã tư thì con vật khôn lanh ấy bị một chiếc xe hơi cán. Con chó kêu lên tiếng rền rĩ thất thanh. Già Tư hoảng hốt kêu xe dừng lại, ông xuống xe chạy nhanh đến ôm con phèn rồi đưa con chó về nhà. Vừa đi lão vừa khóc mếu máo, đau đớn như vừa mất đi một người thân...

Già đem con phèn chôn phía sau nhà, bọn tôi xúm vào đắp cho nó một nấm mộ. Già chỉ chỉ vào người rồi chỉ xuống đất:

- Tôi hiểu ý Già muốn chết sẽ nằm kế con phèn đúng không? - Tôi hỏi.

Già lắng nghe rồi gật đầu lia lịa...

Con phèn chết, Già Tư buồn lắm. Già không đi khám bệnh nữa. Tối ngày Già chỉ quanh quẩn trong nhà. Hôm rồi, ông lão kêu tôi lại rồi ra dấu kể tôi nghe về cuộc đời của mình. Chỗ nào tôi không hiểu thì đưa giấy bút cho Già nguệch ngoạc vài dòng. Cuối cùng, tôi cũng nắm được nội dung tóm lược câu chuyện như sau: “Già Tư quê ở tận Cà Mau, hồi trước từng là y tá tư nhân. Vì xem bệnh không kỹ, chủ quan nên đã làm chết đứa con trai duy nhất của mình. Bà vợ cằn nhằn, ông vẫn không trả lời vì lòng đang đau như cắt. Bà lỡ lời nói: Sao ông không câm luôn đi, ngồi đó im thinh như ngậm bồ hòn. Ông giận nên đã uống thuốc tự vẫn. May mà không chết, nhưng lại bị câm. Từ đó ông bỏ đi trôi nổi, rồi đến xứ này sống trong im lặng một mình...”. Nghe ông lão kể, tôi không cầm được nước mắt.

Từ hôm đó đến mấy hôm sau, Già Tư trở bệnh nặng hơn. Ông đóng cửa chòi mấy hôm liền, hàng xóm không ai để ý tới, chỉ riêng bọn trẻ chúng tôi là hay chạy tới chạy lui săn sóc cho Già. Sáng hôm đi thi tuyển vào trường trung học phổ thông, lòng tôi cứ nặng trĩu một sự âu lo bất thường. Hai ngày thi vừa xong, tôi chạy ngay về nhà. Xe vừa tới đầu làng, tiếng trống từ xóm Chùa vang ra giục giã làm mỗi bước đi của tôi càng hồi hộp hơn. Nhà Già Tư hôm nay đông lạ. Tôi chạy đến trước cửa nhà, chưa kịp nhận ra điều gì thì đã nghe tiếng mấy thằng bạn trong xóm than khóc:

- Trời ơi! Già Tư ơi! Sao Già chết bỏ tụi con...

Tôi chạy vào, ôm cái quan tài cũ kỹ đã ngả màu nói trong những tiếng nấc buồn tủi:

- Già Tư ơi! Già chết rồi đó thấy chưa? Sao Già không chịu đi khám bệnh... Già chết rồi ai sửa xe cho con vào trường mới... Già nỡ bỏ tụi con sao...?

Tôi cố nhìn mọi người xung quanh. Cũng chẳng ai xa lạ ngoài bọn trẻ trong xóm và bà Năm thường ngày hay cằn nhằn ông bạn hàng xóm lạ lùng. Bà Năm con mắt đỏ hoe đang lúi húi nấu bữa cơm cuối cùng đưa tiễn Già Tư...

Chiếc xe hơi mới cáu đậu lại trước cửa. Một người phụ nữ vào nhà nói gì đó với bà Năm rồi bỏ đi. Thì ra đây là vợ Già. Bà ta chỉ đứng lại một lúc rồi đi mất. Chỉ có bọn trẻ chúng tôi là ở bên ông lão tội nghiệp cho đến lúc cuối cùng. Mọi người đưa Già Tư đi chôn ngoài nghĩa địa chứ không chôn sau nhà kế con phèn như ông lão từng trăn trối. Ngôi mộ của ông chỉ là một nấm đất cao chứ không một tấm bia tên tuổi. Vậy là Già cũng không nói được gì để lại trên nấm mồ cho người hậu thế qua lại biết. Sống lẳng lặng rồi chết cũng lẳng lặng...

Mấy hôm sau, vợ Già Tư kêu bán mảnh đất. Cái chòi đã bị dỡ đi mất thay vào đó là một cái nền nhà mới đang được xây dựng. Ngôi mộ của con phèn cũng bị vùi trong đống cát đá. Còn đàn gà con thì giờ còn mất ra sao cũng không ai biết? Già Tư cũng nằm trong ba tấc đất. Những sự thật về ông chúng tôi cũng không nói với ai. Già Tư giờ không còn gì nữa nhưng làm sao ông lão có thể mất được trong trí nhớ bọn trẻ xóm Chùa chúng tôi...

Mùa cá khoai

Nói thiệt, không có thứ cá biển nào ngon hơn cá khoai đâu. Mà không có xứ nào cá khoai ngon hơn ở miệt Cái Đôi này. Ở đây có làng hẳn hòi cho thứ cá ngon nhứt hạng trời cho”, ông Tư Minh (Lưu Văn Minh), chủ vựa cá khoai tại khóm 4, thị trấn Cái Đôi Vàm, hồ hởi.

Ông Tư Minh vừa bưng nồi cháo cá khoai vừa rổn rảng “quảng cáo”. Nồi cháo trắng tươi pha thêm màu đỏ của tôm biển bằm nhỏ trộn với ít con mực còn trong màu nước cho tăng phần vị biển cùng màu xanh ngăn ngắt và hương thơm “bắt mắt, bắt mũi” của hành, ngò, cần tàu đậm màu đồng ruộng được thả vào.

Không có bất kỳ loại thịt cá nào giống như thịt cá khoai, bởi vì khi cho thịt vào miệng thì tựa như thịt cá tự tan ra mà ta không cần nhai để cảm nhận hương vị ngọt đặc biệt của nó.

Vào hội cá khoai

Trong cái gió nồng nàn biển cả, trong vị cay nồng của chén rượu ngày cặp bến, trong dư vị thanh tao còn sót lại của chén cháo ban nãy, ông Tư hàn huyên chuyện cá khoai thuở còn “nhà nghèo”, rằng ở nước Việt Nam này, miệt Cái Đôi có làng cá khoai này là duy nhứt.

“Đó cũng là cửa biển duy nhứt tiếp giáp giữa biển Đông và biển Tây. Tụi tui không phải dân chánh gốc miệt này. Từ Tiền Giang kéo qua, từ Bến Tre kéo lại, thấy nhiều tôm cá neo ghe, cắm đất lập làng cá đó chớ! Hồi đó cá khoai rẻ như cá phân, nhỏ nhỏ chừng hai ngón tay tui giờ người ta hốt nấu cho heo. Hồi nào giờ, tui luôn tin là cái thứ cá thịt thơm ngon lạ lùng này có lúc sẽ lên ngôi”.

“Nhà hàng giờ người ta mần cá khoai thành đủ thứ món. Cá khoai có ngôi thứ rồi, tụi tui đỡ cực. Nhưng nói gì thì nói chớ mấy món đó hổng qua được mấy bà ở đây làm đâu à nghen”, ông Tư Minh bộc bạch.

Cá khoai sinh sống chủ yếu ở biển, đôi khi bắt gặp chúng ở vùng nước lợ nơi cửa sông giao với biển. Loài này thường bơi từng đàn ở những vùng nước nông. Từ giữa năm đến cuối năm, đặc biệt những hôm có nhiều sương mù, ngư dân đánh bắt được nhiều cá nhất. Ngay mùa chừng tháng 11, 12 âm lịch kéo dài đến tháng 2 âm lịch năm sau, xứ Cái Đôi mở hội cá khoai. Buổi tối, đốt đống lửa lớn, chủ cả sai lính nấu đủ món cá khoai đem ra bãi phơi, tập trung lại vừa đờn ca tài tử, vừa ăn cháo, ăn khô, uống rượu. Ngày hội cá khoai tập trung gần cả tháng, những ngày còn lại của năm thì ngày nào ở Cái Đôi Vàm cũng có vài ghe chở cá khoai vào bờ, lác đác những sào phơi khô khoai.

Phải chi cá xứ mình mang tên xứ mình…

Theo hướng dẫn của ông Tư, tôi tới bãi phơi khô khoai. Giàn cá được đóng thẳng thướng, cây trụ làm bằng thân đước cao lớn được đóng từng tầng đinh để giữ thanh tre được vắt cá khoai từng cặp từng cặp trải dài hút mắt. Lớp này nối lớp kia, hàng này nối hàng kia… cứ thế bãi cá khoai như cơn sóng trào tung dồn đuổi nhau cuộn lên đẹp mướt mắt.

Tôi hỏi chuyện vợ của ông Tư Minh: “Làm khô khoai giống làm mấy khô cá khác không thím?”. “Dễ ợt à cô ơi. Cá từ ghe mang về mổ bụng lấy ruột, rửa sạch, móc hàm răng của hai con cá vào nhau rồi vắt cá ngang những cây sào để phơi nắng.

Khi phơi, cá phải được trở thường xuyên để lúc thành khô vẫn có màu tươi ngon, thịt dẽ. Còn nướng khô khoai thì không được nướng chín con khô. Để con cá lên bếp than được ủ không thấy ngọn lửa mới đúng gu, nướng khô vừa có mùi thơm là đem ra ăn liền. Dùng nước chấm khô cá khoai là nước mắm me hoặc nước mắm xoài bằm sợi thì mới đúng sách”, thím Tư cười xởi lởi.

“Bữa nay tui không nói chuyện đời nghen! Tui nói về khúc buồn cá khoai”, chấm khô cá khoai vào nước mắm me “chua, cay, ngọt, mặn” đưa vào miệng, ông Tư Minh vội nói. Tui nhứt quyết lấy cả đời ngư phủ để cam đoan là không khô khoai nào ngon hơn khô khoai xứ Cái Đôi. Nhưng mấy gói khô hàng mẫu toàn là khô khoai Sông Đốc, khô khoai Trà Vinh, khô khoai Bến Tre...

“Tui vui nổi không khi khô xứ mình mang tên xứ khác. Vựa khô khoai lớn nhỏ nào ở đây cũng y như tui. Khô khoai xứ vàm Cái Đôi đi muôn nơi nhưng cái tên là mượn xứ khác. Tui với mấy chủ vựa cá khoai lớn nhất ở đây liên kết lại đòi thương hiệu mà chưa nhằm nhò gì…”. Ông Tư thở dài uống cạn ly rượu.

Bà con làng cá khoai Cái Đôi Vàm liệu có nên trông chờ “hữu xạ tự nhiên hương” hay cần có sự liên kết với nhau để có kế hoạch dài hơi không chỉ duy trì làng nghề mà còn giúp ngư dân sống được với nghề?

 Một thứ hương nồng nàn khác tỏa ra từ thân cá khoai trên tay mỗi người: Hương biển mặn!.

Truyện ngắn: Rừng xanh máu đỏ

Cập nhật ngày: 22/03/2013 17:42:02

Hắn chưa già nhưng cũng không còn trẻ, ở cái tuổi bốn mươi, bốn mấy không ai bảo hắn hồi xuân như phái nữ để có thể làm những công việc của trẻ trai nhưng hắn đã làm được và làm thuần thục nữa là khác.

Bơi qua những đoạn sông mùa lũ sóng nước gầm gào hung hãn, chặt những cây to bằng cái rìu bén ngót hay bắt những con voi rừng về thuần dưỡng để kéo gỗ. Hắn là tay thợ rừng cừ khôi.

Theo chân hắn là thằng bé gầy gò nhưng rắn chắc, nước da đen màu gỗ lim. Là cháu ngoại của người hàng xóm, nó không còn cha lẫn mẹ. Nó giúp hắn mang cơm nước mỗi lần lên núi bằng cái ba lô cũ kỹ đã rách lỗ chỗ mà nó nhặt được đâu đó, cùng với một cuộn mây chỉ đã ngâm nước cho mềm và cái xà gạc(*) đeo lủng lẳng trên vai.

Hắn trang bị cho mình cái nỏ lớn có cánh bằng tre sống lâu năm trên núi cao dài gần một sải tay, còn thằng bé cũng cái nỏ như thế nhưng nhỏ hơn. Thân nỏ làm bằng gỗ hồng bì, rắn chắc, ít cong vênh nhưng khá nhẹ.

Dây nỏ làm từ dây gai tẩm nước lá thé rồi tuốt cho bóng bằng vải bao bố cho săn nhẵn và có màu đen sẫm. Tên để bắn lấy từ lóng tre đực và phải dài hơn tầm căng của cánh nỏ, lớn cỡ cán bút bi, mũi vót nhọn đôi khi bịt đồng. Tên phải chuốt thật thẳng, có cánh làm bằng lá khô ở đằng đuôi giữ cho tên bay đúng hướng.

Khi nghe tiếng gãy của cành cây khô hay thấy bụi lá chao đảo khác thường, tay hắn hơi giơ lên là thằng bé đi sau phải dừng lại, giữ nguyên hiện trạng và không được nhúc nhích.

Hắn lom khom tiến về phía đó bằng những bước chân nhẹ như gió, dây cung đã cài vào lẫy, tên đã đợi trên khe sẵn sàng lao vào con vật nào xấu số. Bởi vì mũi tên không thể làm con vật chết ngay được nên chúng thừa sức cao chạy xa bay, như thế sẽ là công cóc.

Hắn tẩm những mũi tên của mình bằng nhựa cây sát cá, nọc độc rắn rít, bò cạp và nước dãi của một loại ốc sên cực độc.

Chỉ cần mũi tên găm qua khỏi da con vật, nọc độc sẽ làm cho nó tê liệt ngã lăn ra là hắn và thằng bé có mặt đúng lúc trói gô con vật lại, hay bồi thêm một cú như trời giáng vào đầu bằng sống lưng lưỡi xà gạc và chọc tiết con vật bỏ đi là xong.

- Sáng nay mầy giở theo món gì? - hắn hỏi thằng bé.

- Thì vẫn khô nục nướng và muối ớt.

- Đã mươi bữa nay chả tóm được con chuột, con cheo nào. Mầy để ý xem có bụi đót nào đang héo lá.

- Để làm gì hả chú?

- Kiếm con nu về nấu giả cầy. Ngon bá cháy mầy ơi.

- Nó ở dưới hang sâu, làm sao mà tóm được hả chú?

- Ừ nhỉ, mình đâu có cuốc xẻng gì, mà cũng chẳng có nước để múc đổ xuống.

Mặt trời đứng bóng, họ dừng lại bên bờ suối tắm mát rồi lấy cơm ra ăn. Khẩu phần của mỗi người là một nắm cơm gói trong lá chuối và một con cá khô nướng.

- Mầy đem cơm cho tao hoài mà tao chưa có cái gì trả lại mầy, ngại quá.

- Có gì đâu mà ngại hả chú, nhà ông cháu cũng còn kha khá lúa.

- Ngại chớ sao không, ông bà ngoại mầy già cả rồi.

- Bận trước chú chia cho cháu cái đùi heo rừng to tướng. Nhín ăn, mua được mấy chục ký gạo đấy.

- Nhưng là mồ hôi nước mắt của mầy mà. Hôm ấy tao thấy mầy khiêng nó không muốn nổi. Tao thương mầy quá, tính chia cho mầy nhiều hơn nhưng tao phải dành tiền trả nợ.

- Nếu không có chú thì làm sao cháu có, còn nợ chú trả hết chưa?

- Còn, nhưng không nhiều.

- Thế là ổn rồi. Chiều nay cháu đãi chú món chuột đồng quay lu chú nhé. Món này nhắm rượu cũng bá… tước lắm.

- Ha..ha… Mầy chế biến từ ngữ cũng thấm thía lắm. Coi như tao phục mầy.

- Cháu chưa thành người lớn mà chú.

- Cứ gì phải là người lớn mới được nể phục hả mầy. Ngược lại, có khi còn đáng tởm hơn nhiều.

- Chú nghỉ trưa đi. Cháu đi kiếm dấu chân xem có ông bà nào xuống uống nước không chú nhé.

Hắn không trả lời, chỉ gật đầu. Hắn hiểu thằng bé đang nói đến con hươu, con heo… là những loài thú không bị cấm săn bắn nhưng cũng không loại trừ nai, gấu, cọp, beo… Hắn lấy cái ba lô làm gối, kẹt đá làm phòng, cát làm chiếu và để cái nỏ ngang người. Hắn ngủ tư thế ấy nhiều năm rồi nên thành quen, tư thế ấy đủ nhanh để ứng phó với mọi tình huống.

Giấc ngủ đã giúp cho sức khoẻ hắn hồi phục, còn thằng bé thì đang mải mê câu cá bống núi bằng cái que trúc có sợi dây mắc mèo tước nhỏ ra và gút một đầu lại làm lưỡi câu. Cá bống tạp ăn thấy nút gút đong đưa là táp liền và cứ thế nó giật lia lịa.

Khi cá kịp định thần tính há mồm ra để trốn thoát thì đã bị hất văng lên bờ rồi. Nó không vội đi nhặt chúng, bởi nó biết cá gặp cát nóng bám đầy mình thì chẳng còn sức đâu mà lê tới mép nước. Khi hắn ra suối rửa ráy mặt mũi cũng là lúc thằng bé dừng câu. Tính ra, giấc ngủ của hắn bằng cả kí lô cá bống chứ chẳng ít.

- Có thấy gì không?

- Đi chú, ông gấu thì phải, bàn chân dài và có vuốt nhọn.

Hắn lẽo đẽo theo sau thằng bé lên phía thượng nguồn. Qua khỏi thác nước cao dòng sông bỗng hiền hoà, yên ắng. Rừng như mở ra bởi hai bờ cát trắng như hai con lộ rộng thênh thang.

Rừng thưa quá, rất lý tưởng cho bầy thú hoang xuống sông uống nước và quan sát nhưng không có chỗ cho chú cháu hắn ẩn nấp, mai phục.

Một vài tảng đá mồ côi đứng chơ chỏng đây đó kịp biếu cho hắn một ý tưởng không tồi. Hắn hoa mắt bởi đủ loại dấu chân thú, đa phần là loài ăn cỏ, măng hay khoai củ. Hắn nghĩ, thú ăn thịt cũng lởn vởn quanh đây thôi.

- Giỏi lắm, nhưng phải về, chiều rồi. Giờ này chúng không khát nước nữa đâu.

Thằng bé không nói cũng chẳng gật đầu. Nó luôn làm theo mệnh lệnh hắn, như hắn là chúa tể sơn lâm vô cùng uy dũng. Hơn nữa, từ ngày cha mẹ nó mất, hắn là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của nó, bởi ông bà ngoại nó đã già, quanh năm chỉ biết quanh quẩn bên luống cải, vồng khoai.

Còn bạn bè cùng trang lứa nó ư? Có, nhưng không nhiều. Vả lại, ai cũng lo cho cuộc sống của riêng mình, ruộng rẫy nhà mình. Mà ruộng rẫy thì xa tít nên dân làng thường ngủ lại rẫy cuối tuần mới về một lần.

Về đến nhà, hắn bảo thằng bé ngày mai nghỉ, mốt đi sớm. Thằng bé do dự hồi lâu mới dám thưa thật với hắn:

- Mai cháu phải về quê với người chú họ để làm lại mồ mả cha mẹ.

- Chú mầy vô rồi à? Dở thật, hôm nay không kiếm được gì để đãi ông ấy.

- Có chuột quay lu rồi, cũng không tệ lắm.

- Ừ, không tệ.

- Chú qua uống với chú cháu vài ly nhé.

- Sao lại không, nhưng mầy phải cho tao góp rượu đấy.

- Nhà cũng có rượu, nhưng tuỳ chú.

Chuột đồng mùa này mập dữ, trụng nước sôi cạo lông vèo vèo, thui lại trên lửa cho thịt da săn chắc và hết mùi tanh rồi chặt đầu, mổ bụng lấy bộ lòng ra bỏ đi. Ướp với ngũ vị hương, tỏi, hành tím băm nhỏ, nước tương, bột ngọt và cốc rượu nhỏ cùng một muỗng mật ong, một muỗng nước cốt chanh để khi nướng da có màu nâu vàng và giòn, rất ngon.

Sáng hôm sau, hắn bắt tay vào làm cục đá giả bằng vỏ bao xi-măng lộn lại.

- Phải chi có thằng bé ở đây thì hay biết mấy, nhờ nó ngắm nghía xem có giống tảng đá trong tự nhiên không? Có phát hiện gì khi mình nấp trong đó không? - hắn càu nhàu.

Hắn chui vào tảng đá giả khoét nhiều lỗ nhỏ ngang tầm mắt để quan sát bên ngoài. Tảng đá giả khá lớn so với thân hình hắn nhưng lại bé quá so với cánh nỏ dài ngót sải tay.

- “Không sao, để nó dưới đất cũng được, mình thừa khả năng ngắm trúng đích qua mấy cái lỗ be bé này” - hắn nói với chính mình.

Hắn rạch hai đường chữ U để thò đôi cánh tay ra.

- “Kiếm đâu ra màu áo trùng với màu bao xi-măng này nhỉ. Dễ thôi, làm hai cánh tay bằng vật liệu ấy rồi vò cho nhàu đi là được, khi cử động không phát ra tiếng là ổn” - hắn lại lải nhải một mình.

- “Tao muốn truyền đạt cho chú mầy sáng kiến của tao nhưng tiếc quá. Có thể không có lần thứ hai đâu” - hắn tự nói gở.

Hắn chuẩn bị cơm gạo cho chuyến săn dài ngày bởi hắn nghĩ đến con thú to. Hắn sẽ xẻ thịt nó ra hong khô rồi tải về dần. Hắn không cần lều bạt hay mền mùng, chỉ cần con dao thật bén và cái xà gạc thì hắn sẽ làm xong mọi chuyện. Lửa, không thể không có lửa.

Hắn chuẩn bị mấy hộp diêm mới gói trong túi ni-lông phòng hờ mưa rừng bất chợt. Hắn háo hức như một cuộc hẹn hò. Hắn lên đường khi đã tính toán kỹ lưỡng, hắn sẽ đến đó trước 9 giờ sáng để kịp dựng lại tảng đá giả và ngồi vào mai phục.

Hắn biết lũ thú sẽ xuống sông uống nước khi đã ăn no hay mệt mỏi do đói và lúc trời trưa nóng bức. Hắn cũng không quên thoa nước bả trà khắp người để lũ thú không ngửi thấy hơi người dẫu hắn thừa khôn để chọn mai phục nơi cuối gió.

Cái gì đến tất phải đến. Con gấu ngựa phục phịch như con lừa chửa lọ dọ bò xuống mép sông. Không biết nó có phát hiện ra điều gì khác thường không nhưng đi vài bước là dừng lại. Rướn cổ lên, hai tay quào quào vào khoảng không như hăm he ai đó, mắt long sồng sộc vào từng gốc cây, tảng đá. Khi không thấy gì khả nghi nó mới tiếp tục bước đi. Cứ thế, đi rồi dừng lại quan sát, rồi đi.

 Hắn nghĩ loài vật cũng có giác quan thứ sáu như hắn, có khi còn nhạy cảm hơn nhiều. Nhờ một giác quan nào đó mà lũ kiến nhận biết và di chuyển lên cao trước khi trời đổ mưa lớn vài ba ngày. Giác quan đó cũng có ở nhiều loài khác nữa, giúp chúng biết trước núi lửa phun trào mà cao chạy xa bay.

Giác quan đó con người không có. “Trái đất này còn quá nhiều điều bí ẩn, con người thật sự đúng chưa khi tự cho mình là thông minh nhất”, hắn bĩu môi.

Con gấu đã dừng lại nơi mép nước, nó nhìn đàn cá bơi nhởn nhơ mà thèm thuồng. Nó đói. Nó biết nó không thể tóm được một con cá nào bởi nước khá sâu và lũ cá cũng không dại gì tới gần nơi nó đứng. Nó ngắm cá hay ngắm bộ mặt xấu xí của mình qua tấm gương sông.

Rồi khi ngắm no nê đầy chán chường, nó uể oải uống từng ngụm nước sông nhạt thếch. Khi cái bụng không còn càu nhàu nữa, con gấu lên bờ nằm lăn ra tắm cát.

Cơ hội vàng cho hắn đã đến. Hắn ngắm thật chính xác nơi gần tim nhất khi con gấu quay mình qua phía dòng sông để lộ mảng hông bên trái hơ hớ. Phựt. Mũi tên bịt đồng lao vút đi. Hắn vùng dậy hất tảng đá giả ra sau, tra tiếp một mũi tên nữa rồi bắn trực diện vào ngực con thú.

Con thú hầu như không phản ứng gì, tiếp nhận hai mũi tên bằng thứ cảm giác tê tê dại dại. Tay cầm xà gạc, hắn nhào tới bổ vào đầu con gấu một cú mạnh như trời giáng.

Chẳng thể nào cựa quậy nếu nhác bổ trúng giữa đầu, oái oăm thay lưỡi hái thần chết chỉ lấy đi một phần ba khuôn mặt con thú. Không chết ngay được, lại bừng tỉnh, con gấu tát hắn bằng tất cả sức lực còn lại.

Một mảng sườn bên trái của hắn gãy vụn, ổ bụng rách toang hoác, ruột đổ ra ào ào, máu chảy lênh láng. Cú tát hất hắn văng xa mấy mét, nằm bất động như một đống bầy nhầy. Con gấu cũng không thể nào ngồi dậy nổi, vết thương quá nặng, máu ra nhiều, nó dần lịm đi.

Không biết hắn còn có thể nhận ra là mọi nọc độc của các loại côn trùng không giết chết được gấu. Cụ thể là nọc của cả đàn ong vò vẽ cũng không làm gì được gấu khi gấu xé tổ ong ra thưởng thức mật và trứng ong non. Còn hắn làm sao chịu được vài cú chích của loài ong này.

Hắn có thể đúng nếu nghĩ chất độc trong mũi tên sẽ làm tê liệt hệ thần kinh trung ương của con gấu trong chốc lát, rồi khi mật gấu tiết ra hoá giải thì các loại độc tố kia có là gì.

Con gấu chết bởi nhát bổ của hắn khi mật hoá giải độc tố của mũi tên không nhanh. Hắn chết do con gấu kịp bừng tỉnh khi cú chặt quá mạnh nhưng không hiểm.

Nghiệt ngã quá, rừng thiêng khe khắt quá.

Mấy tuần rồi, cả làng này vẫn yên ắng thanh bình, đâu ai hay biết gì về chuyện hắn bỏ xác nơi rừng xanh. Đến khi thằng bé trở về, mang quà quê qua biếu hắn thì phát hiện ra mạng nhện đã giăng đầy trước cửa. Nhiều ngày rồi hắn không về nhà.

Thằng bé nghĩ ngay đến những dấu chân gấu to đùng in sâu trên bãi cát dọc bờ sông.

Lúc này dân làng mới nhận được thông tin không lành. Họ túa lên núi, mang theo gậy gộc và đuốc ngay lúc trời đã xế chiều. Thằng bé vừa chạy dẫn đường vừa khóc. Nó khóc thật lòng, mắt nó đỏ hoe. Nó khóc như ngày nào khóc khi cha mẹ nó lìa đời.

Nó không nghĩ như ai đó là hắn còn sống và đang ngồi nướng thịt trên bờ sông có nhiều dấu chân thú dữ. Nó thương cuộc đời hẩm hiu của hắn, mạnh bạo nhưng hiền từ, nghèo nhưng trong sạch.

Nó thương hắn không mảnh tình rách vá vai. Thương túp lều ọp ẹp của hắn không đủ sức chống chọi với một cơn gió dữ. Nó thương hắn như thương mình.

 Rồi khi dân làng gặp được hai bộ xương trắng hếu một của hắn, một của con gấu do các loại thú ăn thịt đã đánh chén từ trước để lại và lốm đốm mùi xác vữa đây đó cũng là lúc thằng bé quỳ phủ phục bên hài cốt hắn khóc than.

Nó ôm bộ xương hắn như ôm người thân. Người ta kịp lôi nó ra xa để hành lễ theo nghi thức của dân làng. Bảy ngọn đuốc được thắp quanh cốt hắn. Không có rượu, người ta dùng nước sông rửa sạch cốt rồi dùng lá chuối rừng gói lại mang về. Người ta cũng không quên mang bộ xương gấu về theo.

Đám tang hắn có đông đủ dân làng, người ta an táng hắn ngay giữa túp lều xiêu vẹo của hắn. Trên tường treo tên, nỏ, xà gạc và cuộn dây mây từng oanh liệt một thời. Đó là toàn bộ tài sản mà hắn có. Dưới chân mộ hắn, người ta cẩn thận dựng lại bộ xương gấu trong tư thế hầu.

Mâm rượu thịt đã được dân làng dâng lên, chiêng cồng đã nổi, thằng bé xin phép ông bà cho nó để tang hắn. Dân làng còn chần chừ thì ông bà nó vừa kịp khoan dung:

- Nó đã đội tang cha mẹ nó rồi, cho nó đội tang cho chú ấy cũng được, chú sẽ ấm lòng nơi suối vàng. Còn chúng tôi con cái, dâu rể, cháu chắt nhiều mà…

Tháng ba mùa con ong đi hoa, chim ruồi cũng rộn ràng tranh phần mật thiên nhiên hiếu hỷ. Thằng bé tháo khăn tang quấn lên đầu bộ xương gấu rồi ra về, lòng nó nặng trĩu buồn đau.

Có lẽ nó đã thấm thía câu ngạn ngữ “ăn của rừng rưng rưng nước mắt” mà ông cha ta từng trải nghiệm và đúc kết nên lời, khuyên nhủ đời sau không dấn thân vào chốn nguy nan vất vả kia.

Với nó, từ bỏ công việc đi săn là cả một sự đánh đố với cuộc sống không chỉ giữa no và đói, giữa giàu và nghèo mà là mạng sống. Mạng sống mới là tất cả, không có mạng sống thì còn làm được gì.

Người ta chỉ hy sinh mạng sống của mình cho đất nước, cho giống nòi, cho người thân chứ không ai đem mạng sống của mình ra đánh đố với dăm ký thịt rừng chỉ để thoả tính phàm ăn của kẻ lắm bạc nhiều tiền.

Nó yêu nghề lắm, chưa bao giờ nó có ý định xa nghề nhưng hôm nay thì khác. Mọi sự đã thay đổi, thần tượng của nó sụp đổ, người thân của nó đã không còn. Nó quyết từ giã cái nghề cướp cạn này, dẫu chỉ cướp đi những sản vật tầm thường, bé nhỏ của núi rừng nhưng cái giá phải trả thì quá đắt: mạng sống.

 Tạo hoá đã rất công bằng khi không cho ai đó quyền lấy thiên nhiên làm của riêng mình. Nó không thể là ngoại lệu./.

(*) Cây xà gạc có phần lưỡi hơi cong, phần cán được làm bằng ống tre già, dài chừng 1 m, ruột rỗng nhỏ đút vừa ngón tay cái.

TUỔI THƠ TRONG TÔI

Hồi đó, khoái nhất là cả đám tụ tập lại nghe kể chuyện ma, thịnh hành nhất thì chỉ có thể là truyện ma của Nguyễn Ngọc Ngạn. Cứ luôn miệng nói " tao không sợ". Thế nhưng, tai đứa nào cũng nhét đầy bông gòn. Nghe truyện ma mà cứ cười tí tởn. Vậy mà, tiếng chó sủa cũng giật mình ngồi khóc.

***

Hú hú... mày về quê từ khi nào đó, dạo này nhìn khác hẳn ra đó nha..

- Về mấy ngày rồi, vài hôm đi lại thôi..

- Rãnh ghé nhà tao ăn cơm cháy mắm nêm ha.

- Mai tao ghé ha!

Chỉ nói được vài câu, một đứa bạn hàng xóm. Có nên gọi nó là " tri kỉ " hay không?? Hay là " thanh mai trúc mã"

Nhớ ngày xưa, đi đâu nó cũng lẽo đẽo theo sau. Gọi nhau í ới. Đi đâu cũng có nhau.. Vậy ư! Thời gian trôi qua nhanh quá.

Quá khứ ơi! Có trở về cùng tôi..

Tôi sinh ra tại một nơi nắng, gió khắc nghiệt. Lúc mưa thì mưa như xối xả, nắng thì cháy rát người. Dường như, khí hậu nơi đây không thể lẫn đi đâu được...Ninh Thuận.

"Quê tôi đấy! Đất nghèo Ninh Thuận

Suốt bốn mùa mưa ít, nắng nhiều

Dân vất vả cần cù, chịu khó,

Trên đồng khô ruộng lúa, vườn rau

Thị xã Phan Rang kề Quốc lộ

Có nhà hàng khách sạn, công viên.Nhiều cơ sở, tiệm buôn sầm uất

Các trẻ em hăm hở đến trường"

Tôi ở cái nơi gọi là thị trấn, nhưng mỗi lần muốn xuống phố là phải mất mấy chục cây, đường đi cồng kềnh, chẳng khác gì phi ngựa. Nhiều lúc cứ ngỡ như đang có một cuộc sống tách biệt với thế giới bên ngoài......

Nắng gió khắc nghiệt, nhiều khi cảm thấy rất ghét cái nơi mình sinh ra, mệt mõi kiếm ăn qua ngày, cuộc sống đồng ruộng, chăn bò, bắt ốc. Mơ ước, rời khỏi nơi đây, đến một nơi sầm uất, khám phá cuộc sống giàu sang, thế nhưng, bây giờ lại khao khát quê hương đến như thế.

Sống ở cái nơi gọi là nghèo về vật chất, nhưng tình cảm thì chẳng nghèo được. Vì ai cũng thương quí nhau. Có gì cũng chia sẻ, hỏi han nhau. Dường như, như thế là quá đủ rồi.

Tuổi thơ, không có cái gọi là công viên nước, không có nhiều tiền tiêu, không có quần áo đẹp, không biết rạp chiếu phim là như thế nào?...

Nhớ lúc đó, con nít lên 3 đã biết tập tành chơi trò " cô dâu, chú rễ "

"Cô dâu, chú rễ làm bể bình bông

Đổ thừa con nít..."

Đứa nào cũng nhao nhao, "tao, tao làm cô dâu cho. Để tao làm chú rễ."

Vậy mà, khi bắt cặp thì ai cũng ngại ngùng, e thẹn. Mặc đồ cô dâu bằng tấm màng bao lại, chú rể thì mượn đại cái áo sơ mi của người lớn, rồi, bái đường thành thân. Chơi vui vậy, nhưng chẳng đứa nào hiểu được ý nghĩa trọng đại của nó.

Hồi nhỏ cứ thích thề non, hẹn biển. Nói yêu ai là yêu cả đời..rồi móc ngoéo tay với nhau. Cứ thế mà tin, đứa nào cũng sợ mình sẽ phản bội lời thề, bị nhiều chuyện không hay. Nhớ lắm.

Nhớ những buổi trưa hè nắng gắt, cả đám í ới gọi nhau rủ đi tắm sông, một đám cả trai, lẫn gái. Không biết mắc cỡ là gì, trần truồng, vừa tắm, vừa cười sảng khoái.

Lúc đó, còn đang chiếu phim " Cô Gái Đại Dương". Vậy là cứ thế mà bắt chước, Chạy từ bờ sông, vừa chạy vừa kêu tên con cá voi. Nghịch lắm. Có lần tôi xém bị chết đuối, thế là sợ mọi người về mét má. Năn nỉ ỉ ôi, mấy đứa mới chịu im miệng. Thế là giấu nhẹm đến tận bây giờ.

Hồi đó, khoái nhất là cả đám tụ tập lại nghe kể chuyện ma, thịnh hành nhất thì chỉ có thể là truyện ma của Nguyễn Ngọc Ngạn. Cứ luôn miệng nói " tao không sợ". Thế nhưng, tai đứa nào cũng nhét đầy bông gòn. Nghe truyện ma mà cứ cười tí tởn. Vậy mà, tiếng chó sủa cũng giật mình ngồi khóc.

Những buổi chiều tà, rủ nhau vô ruộng bắt ốc bưu, đem về luộc xả gần cả một nồi to. Cả đám bu lại, ăn không biết nhường ai là gì?. Hè về thì rủ nhau đi hái me, lột vỏ me, cân me hơn mấy kí, đem bán được khối tiền. Đủ cho cả đám ăn kem. Chỉ có khi đó, ăn gian, cấm thêm vài cục đá vào bao me, tăng thêm 2-3 ký. Gan to thật.

Lúc nhỏ, đứa nào mà không biết bơi, là cứ tìm con chuồn chuồn cho nó cắn rốn. Cắn càng đau, càng bơi giỏi. Giờ nghĩ lại, thấy mình ngu ngơ làm sao?

Rồi những trò chơi dại, tới giờ tối là rủ nhau đi chọc chó nhà người ta, mà chỉ chọc duy nhất cái nhà giàu nhất xóm. Con chó to, mà hung dữ.

Ai cũng cầm sẵn 1 cục đá, cứ thế mà ném, chó đuổi, mạnh ai nấy lo, không cần biết đứa nào. Chậm thì chết. Có hôm, tôi lon ton chạy qua nhà hàng xóm hái trộm chùm ruột, ai dè, con chó chạy ra nhảy phốc lên, cắn ngay bụng, ôi! đau dã man..huhu

- Bầu, chiều nay qua nhà tao đi. ( con bạn hàng xóm nó gọi)

- Mai con Yên (Phùng) đi vô thành phố lại rồi. Qua nhà nó đi

- Ừ, nhớ xuống đó.

Là dân quê mà, gọi nhau cũng bằng tên cún cơm ở nhà, đứa nào không có biệt danh thì gán tên ba má nó vào, ví như bầu, Hiệp Mò, Hiếu Cọt, Cu

Búp, Trang Dũng, Yên Phùng, Nghĩa Huệ, Hiệp Lan..Không cần biết ba má tụi nó nhăn mặt cỡ nào. Nhưng riết rồi cũng quen.

Hồi đó, chuyên gia đi hái trộm, chó rượt, người chửi mà chẳng thèm để ý, xoài đầy cây, có ăn là được. Một chén nước mắm đường cay, vài trái xoài chua. Cũng đủ thèm thuồng lắm rồi. Đám con gái thì thích búp bê, nhưng mà không có tiền mua. Ăn cây kem 500 đồng bạc, rồi lấy cái que kem làm búp bê cây, tóc thì bằng rau bắp, quần áo thì lấy vải quấn vào. Không có nữa thì cắt giấy làm búp bê. Ôi thôi! Đủ thứ trò.

Chơi đánh dụ, đánh trổng, tạc lon, tạc hình, nhảy dây. Chẳng phân biệt trai gái, chơi với nhau vui là được. Thân nhau lắm, hồi nhỏ cứ ngỡ sẽ cưới nhau cơ.

Nhớ cái lần mà mới biết đánh bài, má kêu trông nhà cho má đi làm, vài phút sau, bỏ nhà sang hàng xóm ngồi đánh tiến lên. Tôi thì đang chơi hăng say, mấy đứa kia tự nhiên im lặng, mặt lấm lét, chả hiểu chuyện gì, tôi cứ thế ngồi chửi tụi nó. Ai dè, má đứng đằng sau, đánh cho mấy roi, bầm hết cả mông, đau lắm, khóc thét cả buổi chiều. Tuổi thơ là gắn với đòn roi, ngày nào mà không bị đánh là ngoan lắm rồi.

Có lần tối khuya rủ nhau ra bờ sông chơi ma lon, 1 cái lon, có vài cục kẹo dừa, cắm thêm mấy cây nhang, ngồi đó cứ mà khấn " ma lon, ma lon".. đợi lâu ơi là lâu, mà chẳng thấy ma lon hiện lên.

- Em biết làm cho ma lon hiện lên rồi?

- Sao? Sao em?

- Kêu ai tè lên cái lon là được à!

Rồi! nhìn qua nhìn lại, thấy thằng nhỏ nhất đám, bắt nó tuột quần đứng tè lên cái lon. Thằng nhỏ cố gắng đến xanh mặt mới ra được vài giọt. Vất vả là thế!

Mà chưa kịp gọi ma lên, thì tụi nhỏ chạy về nhà, coi "những bông hoa nhỏ"...Ghiền! ghiền lắm cái chương trình đó.

Mà sao khi đó cứ thích đi ăn cơm nhà hàng xóm, đồ ăn ít, chủ yếu là nước mắm, rau luộc nhưng sao cứ thích ăn, thích cạo nồi móc cơm cháy. Thèm lắm luôn.

Thích nhất là chơi " năm mười", mỗi lần chạy đi trốn là cởi áo nhau ra đổi, phải nói là đứa nào mà bị thì có nước bị cả ngày. Có lần, tôi bị, đọc năm mười mấy lần ấy, lúc đi tìm thì chẳng thấy ai, khóc quá trời, ai dè mấy người đó đi tắm sông. Tức, giận cả ngày, không thèm chơi nữa. Mà tụi nó cũng mặc kệ, có biết người khác giận là như thế nào đâu. Giận chán cũng chạy ra chơi chung.

Ở Quê tôi, không rạp chiếu phim, không có công viên nước, đường đất thì kéo dài, con nít thì nhiều, chiều nào cũng tụ đầy đường chơi xí banh. Người lớn, người nhỏ chẳng phân biệt gì, cứ kêu mày mày, tao tao.Chiều nào trong xóm cũng đầy ắp tiếng cười...

Giờ lớn rồi, cứ mỗi lần nhắc lại chuyện cũ thì cứ mắc cỡ, ngại lắm. Nhưng mà, hiếm khi được gặp nhau, ai cũng đi học xa, lâu lâu cũng chỉ nói được vài câu rồi cũng thôi.

7,8 năm rồi, ai cũng có việc để tâm riêng, con nít cũng không hay chơi như trước.

Đi học ở thành phố, sống 1 cuộc sống nhộn nhịp, hối hả, biết nhiều cái mà mình chỉ được nghe trên ti vi, khác rồi, khác xưa lắm rồi. Thèm lắm cảm giác quê nhà, với lũ trẻ, với mùi vị quê hương, tuổi thơ tuy thiếu thốn nhưng đầy ắp kĩ niệm, nhớ những câu ru " à ơi dí dầu" của má, nhớ những khi ăn đòn thật đau. Những trưa hè tắm sông, bắt ếch, bắt dế về chơi. Những lúc đạp xe đạp thật xa để hái phượng, chơi đá gà.Những khi đi đào củ lang, củ mì. Những trái xoài chua với chén mắm ớt cay.

Trầy trụa, mồ hôi chảy đầy người khi ôm nhau chơi " gở gẻ"..Nhớ những khi giận hờn nhau, cách 1 cái hàng rào mà chẳng thèm nhìn mặt, lâu lâu lại chạy sang nhà hàng xóm xin lại cái quần, cái áo bị lấy nhầm.

Nhớ cái mùi vị của kẹo kéo, của cây kem chuối, gói xôi bắp, cục kẹo dừa. Những trái ổi, trái me hái trộm.

Những con cá được câu trên dòng sông sau nhà, là những khi trèo cây khế, trứng cá té trật tay.

Những lúc trời mưa to mà vẫn trần truồng cùng tắm mưa. Những miếng cơm cháy chấm mắm nêm ăn vụng.

Chơi lò cò, bún thun,đi vô rừng bắn chim, ra ruộng lúa bắt cào cào cho chim ăn. Đi đi xa lắm mà không biết mệt, ngồi trên đê mà hát hò, nói ước mơ sau này như thế nào.Mà lạ thật, đứa nào cũng thích được làm thầy giáo, cô giáo.

Còn thề nguyện hứa sau này sẽ ở cạnh nhau. Nhưng giờ.........thật khác xưa?

Cuộc sống đổi thay. Lòng người có hay chăng cũng thay đổi lắm, những khoảnh khắc ấy, thời gian của tuổi thơ, xa rồi..........

Có hay chăng? Thời gian quay lại...

Cơm cháy Ninh Bình

Từ hơn 100 năm nay, món cơm cháy đã được lưu truyền và trở thành đặc sản

ẩm thực

vùng đất Cố Đô. Cơm cháy đi vào lòng người qua những câu thơ:

"Rượu ngon cơm cháy thịt dê

Ninh Bình chào đón khách về tham quan”...

Theo tương truyền, thời Pháp thuộc cuối thể kỷ 19, ở Ninh Bình có người thanh niên trẻ tuổi tên Đinh Hoàng Thăng ra Hà Nội làm công cho một hiệu ăn lớn của người Hoa. Hoàng Thăng đem lòng yêu con gái ông chủ nhưng bị nhà chủ phản đối. Do không lấy được con gái ông chủ, Hoàng Thăng bỏ việc, trở về quê nhà. Trong thời gian làm việc tại hiệu ăn, Hoàng Thăng đã học được không ít bí quyết chế biến các

món ngon

, ông đã sáng tạo xây dựng một nhà hàng ăn chuyên về cơm cháy. Sau này, Đinh Hoàng Thăng lại được ông chủ cũ mời cộng tác mở nhiều nhà hàng mới và gả con gái cho. Từ đó, món cơm cháy thơm ngon do ông làm ra luôn gắn liền với câu chuyện tình yêu cảm động. Sau thành công của ông, nhiều cửa hàng khác dần mọc lên với món đặc sản - cơm cháy Ninh Bình.

Món cơm cháy bao gồm cơm cháy, thịt bò hoặc tim, cật lợn xào với hành tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua. Công đoạn nấu cơm để làm cơm cháy cũng đòi hỏi cầu kì, tỉ mỉ. Để có món cơm cháy thơm ngon thì người ta thường dùng gạo nếp Hương, hạt gạo tròn và trong. Gạo phải được nấu lên sao cho thật vừa nước, đủ độ dẻo. Nấu bằng than củi là tốt nhất và phải giữ cho lửa thật đều, tạo cháy ở khắp đáy nồi, không chỗ dày, chỗ mỏng. Người ta thường dùng nồi gang dày để nấu cơm. Khi cơm chín tới phải nhanh lấy hết ra chỉ để lại phần cháy dưới đáy nồi. Rồi tiếp tục đun, lúc này vừa đun phải vừa xoay tròn nồi cho cơm chín đều, lớp cơm cháy mỏng, trắng đều sẽ được hình thành và tự bong ra khỏi thành nồi.Tiếp đó, những miếng cháy được lấy ra khỏi nồi bẻ vừa vặn và đem phơi (hoặc sấy) cho thật khô để dễ bảo quản, cơm cháy thường được đem bọc kín trong túi nilon dùng dần. Cơm cháy ngon có màu vàng nhạt, đều hạt, giòn mà vẫn dẻo. Khi ăn mới cho những miếng cháy vào chảo dầu sôi chiên lên. Nếu chiên để qua buổi, qua ngày, cơm sẽ bị hôi dầu và bã, không ngon. Thưởng thức cơm cháy Ninh Bình, thực khách cảm nhận được cả vị nắng xen kẽ trong từng hạt cơm và chất chứa cả những tinh hoa trong hạt “ngọc thực” chắt chiu những tần tảo của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ.

Những miếng cơm cháy giòn tan còn trở nên hấp dẫn hơn bởi các loại nước chấm ăn kèm. Nước sốt sóng sánh vị của nước mắm mỡ hành, ruốc… cũng có khi là tương nếp luôn là sự lựa chọn hàng đầu khi thưởng thức cùng cơm cháy. Tại nhiều nhà hàng ở Ninh Bình, nước sốt được làm từ chính thịt dê tạo nên sự kết hợp độc đáo cho haimón ăn

đặc sản nơi đây. Nước sốt ăn kèm cơm cháy thường có vị cay, thơm, đủ độ sánh để ngấm vào miếng cháy.

Miếng cháy

SGTT.VN - Nhân lúc không ai để ý, tôi lao xẻng vào thành chảo, xúc ra một tảng cháy, hất xuống cái mũ cối để ngửa sẵn, ung dung đội lên đầu đi ra sau bếp. Chậm vài giây cậu phụ bếp đổ nước vào để ngâm chảo thì hỏng bét cả. Anh bạn tôi đã đợi sẵn ở đó, theo lệ. Anh thoáng thất vọng khi thấy tôi tay không. Bước đến trước mặt anh, tôi làm động tác chào, gập người, cái mũ rơi xuống, tôi đỡ bằng mu bàn chân rồi hất lên, anh ôm gọn cái mũ cháy, cười tươi, bẻ ngay một miếng nhai ngon lành. Tôi đang vội chạy về bếp để bê cơm lên nhà ăn cho kịp giờ đánh kẻng mà anh còn cố níu lại đùa một câu: “Kẻ địch tớ cũng chả sợ, chỉ sợ mỗi đói thôi”.

Những kỷ niệm lúc đói khổ thì sao lại nhớ dai và dễ làm người ta gắn bó đến thế?

Tôi ra quân trước anh, về đến nhà được phường gọi lên, ưu tiên cho đi xuất khẩu lao động ở Bulgari. Ba năm đánh vèo cái đã hết mà chả học được nghề gì cụ thể. Đủ sống và đủ tiền khi về mua ít bánh kẹo làm quà cho gia đình.

Thế là lại nhẩn nha kiếm cơm, kiếm cháo qua ngày. Phụ giúp mẹ làm nhang và in tiền âm phủ, phụ em làm kẹo lạc, bánh đậu xanh đi giao ở mấy quán trà xu vỉa hè.

Hôm đó là rằm tháng bảy, tôi khoác một bị tiền vàng, hương nhang, oản đi bán rong loanh quanh chùa Quán Sứ. Chừng hơn mười giờ đêm, khi đã vơi non nửa bị thì tôi vớ được một khách hàng đặc biệt, anh bạn cũ hồi bộ đội.

Mừng mừng tủi tủi, người bán không thiết bán mà người mua cũng chả buồn mua nữa. Anh lôi tôi vào một cái quán ở gần đó. Tha hương ngộ cố tri. Chúng tôi cạn chén mừng ngày gặp lại.

Sau khi tôi ra quân, anh chuyển đến một đơn vị khác trên Nghĩa Lộ. Vừa mau mồm, vừa láu lỉnh, anh là người quan hệ rộng. Anh kể: “Trước khi xuất ngũ, mình có chơi với một đám lục lâm thảo khấu ở vùng đó. Lũ này kiêm thêm chạy đá đỏ. Biết tin mình sắp hết hạn nghĩa vụ quân sự, tụi nó nhờ làm chân đại diện tại Hà Nội. Lúc đầu mình cũng chỉ định kiếm chút để đủ cơm ăn, học tiếp đại học thế mà không ngờ tiền vào lúc nào mà nhanh thế. Thực ra thì vốn liếng của mình chỉ là ở ba tấc lưỡi thôi. Chẳng có gì đắt, cũng chẳng có gì rẻ, dụng khẩu làm sao để khách thấy hợp lý là thắng”. Tôi đã hơi ngà ngà nhưng vẫn cố gắng nhập tâm câu này để ứng dụng vào việc bán hàng giúp mẹ. “Nói để cậu mừng, bây giờ mình đang làm chủ một cơ sở buôn bán, chế tác đá quý. Chẳng nhỏ mà cũng chẳng to. Việc lễ bái cầu xin là trách nhiệm của tay phó nhưng hôm nay cậu ta về quê đưa đám ông chú, mình đi thay hoá ra may mắn được gặp lại cậu”. Anh vừa bốc đồ nhắm, vừa nhắc lại chuyện miếng cháy rồi cười ngặt nghẽo, “bọn mình thật có lỗi với tổ chăn nuôi của trung đoàn”. Khi chia tay anh bảo: “Ngày mai cậu rẽ qua chỗ mình, nếu ưng thì ở lại làm”.

Thế là làm, công việc cũng chẳng có gì nặng nhọc, chỉ giao hàng rồi nhận tiền chứ chuyện chuyên môn thì quả là rối rắm. Tôi không thể phân biệt được đá nào màu máu bồ câu, thế nào là màu hoa mười giờ. Chưa kể một vài thao tác chuyên ngành khác.

Hôm nọ chúng tôi đi công vụ đặc biệt, khi anh nháy mắt ra hiệu cho khách xem hàng thì tôi mới giật mình. Đáng lẽ khi lấy hàng từ két, tôi phải nhét ngay mấy viên xanh xanh đỏ đỏ của nợ đó vào mồm, giấu dưới lưỡi chứ không phải để trong túi áo ngực, và khi được lệnh thì nhè ra. Đơn giản đến vậy mà tôi không thuộc. Loanh quanh vẫn chuyện miệng lưỡi. Tôi bắt đầu chán nghề đá quý. Thuyết phục mất tuần lễ anh mới để tôi nghỉ.

Cuối năm, bánh kẹo bán chạy, lúc nào chân cũng vắt lên cổ. Bẵng đi ba tháng không gặp nhau. Một hôm, tự nhiên thấy sốt ruột, tôi chạy lại thăm, hoá ra anh bị ốm. Anh thò đầu ra khỏi chăn thều thào: “Không hiểu mình bị bệnh gì. Mấy tay bác sĩ quen, khám xong lắc đầu quầy quậy, kê một đơn toàn thuốc bổ bảng A. Mình lên phố Lãn Ông bắt mạch, cụ lang Tuất phán: trong người có quá nhiều chất độc, thận hư, tâm hoả suy. Cụ ép mỗi ngày mình phải uống ba lít nước râu ngô luộc”. Tôi ngồi tào lao, động viên anh quá trưa mới về. Đi đến đầu phố, nghĩ thế nào, tôi quay ngoắt lại, nháy nháy mắt rồi nói: “Còn một loại thuốc nữa chưa dùng”.

Anh bạn tôi vốn là người vô thần nhưng nước cùng cũng đành tặc lưỡi theo tôi đi xem bói. Vị thầy bói này khá nổi tiếng cả trong giới bác học lẫn bình dân. Cánh bình dân thích vì thù lao tuỳ tâm, cánh bác học thích vì được kéo về đời sống. Chúng tôi đến nơi phải xếp hàng một lúc lâu mới tới lượt. Mỗi lượt là ba người vào, tuần tự, ai đến trước xem trước, không chen lấn xô đẩy. Lượt của bạn tôi gồm hai người nữa, một cô gái trẻ và một ông trung niên đội mũ bêrê màu tím than. Tôi ngồi chầu rìa nghe câu được câu chăng, cô gái hỏi dài dòng về chuyện tình duyên, ông trung niên sốt ruột chuyện tài lộc.

Đến lượt bệnh nhân của tôi, anh được chỉ dẫn nắm chặt ba đồng tiền Khải Định trong tay một lát rồi gieo sáu lần được quẻ Sơn lôi di, động hào sơ biến thành quẻ Sơn địa bác. Thầy trầm ngâm giây lát rồi phán: “Ngũ âm át nhất dương, khốn nhưng không tận. Ông đang kinh doanh tinh hoa của đất giời. Trời làm cho ốm nhẹ để cảnh báo. Nên chuyển sang gom đá trên mạn ngược về bán cho bọn nung vôi hoặc một nghề gì tương tự, bệnh sẽ tự rút”.

Bạn tôi rút một phong bì dày cộp trong túi áo vét ra đặt lên đĩa, cảm ơn thầy bói rối rít. Ông ta lẩm bẩm: Ơn huệ gì, phúc chủ lộc thầy thôi.

Lời phán của ông thầy bói đúng vào lúc thị trường đá quý xuống dốc. Những viên đẹp đã hết, còn lại toàn những viên xấu, vụn, nứt hoặc là hàng chế bằng đá rải đường nhuộm phẩm hồng, bán cho các cơ sở làm tranh đá quý. Loại tranh này chả biết xấu đẹp thế nào nhưng thấy mấy tay sành chơi ở trên phố rỉ tai nhau: “Quá cả giới hạn của chủ nghĩa suy đồi các ngài ạ”.

Hơn tháng sau, anh chạy đến khoe với tôi đã bán tống, bán tháo được toàn bộ cơ sở đá quý. Anh bảo: “Mua vải bán áo, cũng lỗ kha khá nhưng thôi của đi thay người”. Anh rủ tôi bát ngát vào Nam một chuyến, vừa nghỉ ngơi vừa học tập cách làm ăn của các doanh nhân trong đó. Tôi cáo bận vì còn phải lo hàng cho vụ đông xuân.

Thế là lại bẵng đi nửa năm không gặp. Một buổi chiều anh hớt hải chạy đến phân trần: “Công việc ngập đầu thở cả bằng tai, đã chọn ngày rồi, mai cậu qua khai trương quán của mình nhé”.

Anh kể: “Các khái niệm thị trường, cạnh tranh, độc quyền, gây dựng thương hiệu trước đây mình rất mù mờ nhưng sau khi đi Sài Gòn một chuyến thì nắm được ngay và quyết định mở cái quán này. Sáng ra chợ mua ít cá, ít tôm về luộc lên bán cho khách nhậu, kiếm tí lãi còm. Thực ra là lấy công làm lãi. Vơ bèo gạt tép, tích tiểu thành đại. Lớn bùi bé mềm. Mèo nhỏ bắt chuột nhỏ. Cò con nhưng an toàn. Vả lại nghỉ ngơi, chơi bời mãi cũng chán, chưa kể… miệng ăn núi lở”. Tôi nâng vại bia trào bọt lên chúc mừng anh. Ăn uống xong đứng dậy mà thức ăn vẫn còn già nửa. Tôi thấy mắt anh nhìn xa xăm. Bỗng anh quay lại toét miệng cười: “Mình nhớ miếng cháy”.

Một lần nữa anh rủ tôi ở lại làm cùng. Nhưng công việc của tôi cũng đã đều đặn hơn trước. Ngoài bánh đậu xanh, kẹo lạc, kẹo vừng, tôi làm thêm cả bánh quế, bánh chả. Đã thế tiền âm phủ in không kịp bán, tôi phải “cày” cả đêm lẫn ngày.

Thỉnh thoảng tranh thủ lúc đi giao hàng, tôi ghé vào thăm bạn. Mới có mấy tháng mà thấy thay đổi nhiều quá. Anh thuê thêm nhà bên cạnh, cơi nới quán gấp đôi, khách khứa chen chúc. Anh vừa chỉ huy quân cán vừa nói chuyện với tôi: “Kinh nghiệm hai năm làm tiểu đội trưởng hồi bộ đội và kinh nghiệm làm ăn học được ở chuyến đi thực tế Sài Gòn vừa rồi mình mang ra áp dụng triệt để. Tháng đầu mỗi ngày tiêu thụ hết một yến tôm, hai yến cá thế mà bây giờ tất cả đều phải tăng gấp mười mới đủ phục vụ bà con. Tôm hay cá đều phải tươi roi rói, nấu nướng gia giảm vừa miệng thực khách, lãi ít, số lượng lớn. Bí quyết chỉ có thế. Mình mới mở rộng thêm món ốc luộc với thuốc bắc cũng rất được các bà các cô đi theo chồng hưởng ứng”.

Quãng độ sáu tháng sau tính từ bữa đó, một hôm cậu quản lý của anh đến đưa tôi lá thư, vẻn vẹn có mấy chữ: “Mình ốm…”

Bệnh của anh lần này có phần khó hiểu hơn lần trước. Không nhức đầu, sổ mũi, chóng mặt, mắt vẫn sáng, răng vẫn chắc, đầu óc vẫn minh mẫn thậm chí không cả đau bụng đi ngoài. Chỉ có buồn nôn thôi, ngủ thì mơ thấy mình đang nôn, thức thì lúc nào cũng buồn nôn, phải nhổ nước bọt mới đỡ. Thế là anh nhổ nước bọt suốt ngày, phì phì như máy bơm. Lúc tôi mở cửa bước vào, anh đang ngồi xổm trên một cái ghế đẩu sơn đỏ, toàn bộ nền nhà nhầy nhụa, ngập ngụa, nhơ nhớp, lênh láng, nhoe nhoét nước bọt anh nhổ ra trong suốt tuần lễ vừa qua. Thương bạn nhưng lực bất tòng tâm. Bỗng dưng trong óc tôi loé lên hình ảnh mấy đồng tiền xấp ngửa. Tôi chạy ngược ra cửa, anh nói với theo: “Đừng mời bác sĩ nữa, chữa được bệnh chứ làm sao chữa được mệnh”.

Tôi đến nhà ông thầy bói dạo nọ, vẫn kẻ vào người ra như trẩy hội. Một tiếng sau mới tới lượt. Nhóm của tôi gồm ba người: một cậu thanh niên, tôi và một bà ngoài bốn chục. Bà ta thắc mắc gì đó về hạnh phúc gia đình, còn anh chàng trẻ tuổi hỏi về chuyện tiền bạc. Đến lượt tôi, ông cụ hỏi luôn, bạn cậu sao rồi. Tôi kể sơ qua bệnh tình, mới được vài câu, ông ta ngắt lời, xua tay Thôi thôi, bảo đi buôn đá bán cho bọn nung vôi không đi lại mở quán. Thế là quẻ bĩ chứ cần gì phải gieo nữa. Mỗi tháng tiêu thụ hết mấy chục yến cả tôm, cá, ốc, một năm là mấy tấn sinh linh bị chết oan, sát sinh nhiều thì ốm nặng, sát sinh ít thì chết. Theo kinh nghiệm của tôi thì những trường hợp như bạn anh sẽ gặp thuỷ hạn. Tôi rùng mình, nghĩ đến cảnh anh bạn thân bị chìm trong cái buồng đầy nước bọt của anh ấy.

Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không lý giải nổi tại sao bạn tôi lại khỏi bệnh. Sau khi nghe tôi thuật lại câu chuyện xem bói. Anh thốt lên: Xong rồi. Biết cũng chết, không biết cũng chết. Mình vừa biết vừa không thì sẽ sống. Anh tức tốc gọi người quản lý đến, đề nghị thay biển hiệu của quán: “Quán Ăn” thành “Quán Uống”. Chỉ uống suông thôi, các loại rượu gạo nguyên chất, không đồ nhắm. Phải nói bạn tôi may đủ đường. Khỏi bệnh là một. Hai là quán uống không những không vãn khách mà lại có phần nhộn nhịp hơn. Cả Hà Nội có mỗi mình quán của anh chỉ bán đồ uống, tuyệt nhiên không có một chút gì để đưa cay cả, khỏi cạnh tranh, khỏi quảng cáo lôi thôi.

Chỉ có một điều phiền hà nho nhỏ là không thấy các cặp vợ chồng nắm tay nhau hoặc các đại gia đình rồng rắn kéo đến như thời trước, mà toàn khách đàn ông đã đứng tuổi và người già. Họ lại đi lẻ nên bàn ghế phải gọi thợ mộc tới cưa cắt cho nhỏ đi, chữa các ghế băng thành ghế đơn thấp, có tay vịn, mặt và lưng ghế có nệm, một bàn đi với một ghế và khoảng cách giữa các bàn khá xa nhau. Sẵn thợ, anh làm thêm cho tôi một cái giá góc nhiều ngăn để kết hợp bày bán vàng mã, hương nhang của tôi (anh muốn bắt chước mô hình nhượng quyền?) Anh thủ thỉ bảo: “Tuy không thanh khiết bằng nghề của cậu nhưng hình như có mỗi bọn mình là đang được làm cái nghề vừa kinh doanh, vừa đạo đức lại đủ sống”. Tôi ngần ngừ giây lát rồi mới nói: “Cũng chưa biết thế nào. Hôm qua khi mình đến lễ tạ ông thầy bói tốt bụng năm mươi thẻ hương trầm loại đặc biệt, ông ấy dặn: Đúng sai khó lắm. Mà này, hay là bọn mình đi thửa một cái chảo quân dụng để chuyên thổi cơm cháy bán thêm cho tửu khách được không nhỉ?”

Cơm cháy quân trường .

Có lẻ hiếm ai được thưởng thức món cơm cháy quân trường nếu không phải là nam nữ quân nhân nhập ngũ. Tôi lớn lên từ quân trường có tên “Liên Trường Vỏ Khoa Trừ Bị Thủ Đức” trên đồi Tăng Nhơn Phú, chợ Nhỏ, Thủ Đức và tên gọi sau cùng là trường Bộ Binh Thủ Đức. Ba tôi là huấn luyện viên tại đây sau khi ông đã thụ huấn xong khóa 2. Năm 1962 ông đi du học ở Hoa Kỳ sáu tháng, cho đến vào khoãng năm 1972 ông thuyên chuyển về Lục Quân Công Xưởng ở Gò Vấp rồi nghỉ hưu được năm, sáu tháng trước ngày miền Nam VN rơi vào tay CS. Ông bị đày ra Bắc hơn năm năm.

Hảy cùng tôi trở về khung trời ấy vào giữa thập niên 50-60. Lúc đó tôi còn ở độ tuổi bậc tiểu học thích tìm tòi, sục sạo, mổi khi đến mùa bãi trường nếu má tôi không đưa mấy anh chị em tôi về gởi bên quê nội ở Mỷ Tho ba tháng hè thì đôi bàn chân bé nhỏ của tôi thời đó tha hồ tung tăng khắp nơi trong quân trường. Khó mà giữ tôi ngồi yên một chổ được lâu cứ xổng ra là tôi “rong chơi suốt ngày quên lãng”, mặc dù ba tôi hăm he dử lắm. Có lần tôi đang mon men tới gần phòng làm việc của ba tôi ở Khối Quân Huấn mà không biết, trời xui đất rủi vừa đúng lúc ông đi dạy từ ngoài bãi tập về bắt gặp thế là ông hốt tôi lên chiếc Lamretta hai bánh chở về nhà đét cho vài roi “ui da”. Vậy mà cũng chẵng chừa, khi thì lang thang một mình lúc thì cùng mấy đứa bạn nhỏ đồng trang lứa. Ngày xưa làm gì có computer để chơi game như bọn trẻ bây giờ mà hòng trói được chân tôi lại trong nhà. Tuy vậy, mổi khi ông đi đâu cũng đều hỏi tôi có muốn đi theo không? Dĩ nhiên là con bé chạy nhảy lăn xăn theo rồi.

Vừa vào cổng chánh của quân trường là con đường tráng bằng nhựa (dầu hắc) thẳng ra tới cổng sau. Ngay gần sát bên phải của cổng chánh có “lô cốt” cao kế đó là miếu Tiên Sư để cúng tế vào những ngày lễ lộc. Cách đó độ chừng hơn trăm thước có hai dãy nhà nối nhau cập theo con đường chính, mỗi dãy nhà có khoãng hai chục căn (không nhớ rỏ lắm) sát vách nhau, nối kết giữa hai dãy nhà là một bãi sân xi-măng rất rộng, buổi chiều người lớn hay đưa con cái ra đó cho chơi đùa, còn họ thì tán gẩu cùng nhau. Căn nhà đầu của dảy nhà đầu tiên là nơi gia đình tôi trú ngụ, vì là căn bìa nên bên hông nhà có hành lang rất rộng bề ngang bằng hai phần ba căn nhà ở cùng mái cao với dảy nhà cũng được lót gạch bông và lan can dài từ trước ra sau, thật là nơi lý tưởng cho bọn trẻ chúng tôi bày các trò chơi, còn buổi sáng sớm thì ba tôi ra đó với cái radio để tập thể dục theo chương trình của đài phát thanh. Sau lưng dảy nhà chúng tôi ở là bệnh xá. Dảy nhà thứ hai có nhà của tr/tá Vỉnh Lộc, còn dảy nhà bên kia đường thì có nhà của đ/tá Đỗ Cao Trí.

Thời đó quân trường chưa khai phá hết nhà cửa còn thưa thớt, đối diện với dảy nhà chúng tôi ở là khu rừng cây phía bên trái con đường chính. Thỉnh thoãng, sau khi ăn cơm chiều xong trời còn sáng mát, ba tôi cầm cây súng săn đi trước vào gần rừng cây, còn tôi xách chiếc lồng chạy lủn đủn theo sau. Ba tôi suỵt một tiếng bảo tôi đi nhè nhẹ, thế là tôi phải rón rén thật khó khăn. Má tôi mà làm chim rừng rô-ti thì khỏi chê được. Sau này, dân số, nhà cửa, phòng ốc từ từ bành trướng cùng với tôi lớn dần theo thời gian thì những cuộc đi săn ngắn cũng giãm dần rồi dứt hẳn lúc nào chẳng hay. Đi xuống chút nữa bên phải là khu nhà của các cố vấn Mỹ, mấy đứa con nít tụi tôi thường ghé lại ngoài sân bập bẹ vài tiếng chào “Hello” để được phát vài thỏi kẹo chocolate. Rồi đến dinh ông tướng chỉ huy trưởng quân trường, có một lần tôi mon men vào được chổ bà giúp việc đang ủi đồ tôi cứ nhìn dáo dác rồi tấm tắc nói: “Nhà rộng lớn thiệt có lầu nữa sang quá hả dì? Con cũng thích ở nhà lầu lắm đó”. Bà giúp việc phì cười: “Con gái con đứa gì mà long nhong hoài, không sợ bị đòn sao vậy?” “Dạ sợ chớ!” rồi chạy tuốt.

Qua khỏi dinh ông tướng cho tới cổng sau vòng đai của quân trường là khu vực của các sinh viên sỉ quan đang thụ huấn, tôi không có bén mãng đến khu vực này chỉ một lần. Từ chổ này là ngã tư đi về hướng đối diện dinh ông tướng là trường Truyền Tin bên trái, Khối Quân Huấn và trường Thiết Giáp (mở thêm sau này) bên phải. Xuống sâu hơn là rạp hát, hầu như cuối tuần mọi người đều kéo nhau đến đó vì chỉ có nơi đó để giải trí. Buổi trưa, có xe chạy vào các khu nhà phát loa rồi rải giấy quãng cáo cho phim mới đổi, đám con nít chạy theo cố lấy càng được nhiều tờ chương trình càng thích để đưa lại cho người lớn, có đứa để dành rất nhiều chương trình phim rồi khoe với nhau. Phim tình cảm Ấn Độ thời đó thu hút đàn bà con gái nhất, thậm chí các cô gái mặc hóa trang Ấn Độ để chụp hình trưng bày ngoài tủ kiếng của các tiệm chụp hình, Xa hơn đó là khu gia binh cho gia đình binh sỉ ở, có bán nhiều đồ ăn, buổi tối khu vực đó đông vui, nhộn nhịp, nhà tôi thỉnh thoãng đến đó mua về ăn, có món bún bò Huế tôi không ăn được nấu gì mà cay quá trời con nít làm sao ăn nổii??? Vậy mà người lớn cứ khen tấm tắc làm tôi phải nuốt nước miếng mà nhìn.

Nhớ có lần tôi ra Đà Nẵng thăm ông nhà tôi phục vụ ngoài đó. Ông đưa tôi và hai người phụ tá đến một quán Bún Bò Huế ở ngã năm (?) mà ông quảng cáo là ngon lắm. Trời lạnh, mưa phùn thành phố cao nguyên chập chùng đồi núi một cảm xúc bồi hồi tràn lên trong lòng của kẻ thích ngao du tìm tòi để được chứng kiến những điều mới lạ của quê hương. Lúc này có một tô bún nóng thì còn gì hấp dẩn hơn, vào quán giờ ăn trưa nên rất đông khách mọi người đang xì xụp với tô bún mùi nước súp thơm lừng trong quán làm dạ dày tôi cũng cồn cào hối thúc. Mấy tô bún được mang ra óng ánh vàng ngậy như màu ráng chiều cùng vài dĩa rau sống nhìn mà bắt thèm, mấy người phụ tá cho thêm ớt sa-tế vào tô. Tôi không ăn cay nên múc một muổng nước súp nếm trước. Trời đất quỉ thần ơi! Chưa kịp nuốt nước súp xuống cổ tôi đã sặc sụa ho, nước mắt nước mủi ràn rụa, hai lổ tai lùng bùng, còn lưởi tôi như bị bỏng. Mọi người ngạc nhiên ngừng ăn nhìn tôi vừa như khóc vừa mắc cở, tôi không ngờ sao mà cay quá trời vậy mà mọi người vẫn ăn bình thường thậm chí còn cho thêm tương ớt nữa. Thế là tôi đành để bụng đói trở về căn cứ ăn mì gói, mà lòng còn tiếc tô bún Bò Huế hùi hụi. Sau này, tôi học cách nấu bún Bò Huế để tự nêm nếm cho vừa mình ăn, bằng không thì đành ngồi “dòm miệng” sao? Sau lưng của Khối Quân Huấn và trường TG là những dãy nhà của hạ sỉ quan, tôi có mấy đứa bạn học chung lớp ở đó thì đố khỏi tôi không ghé qua. Thật ra phần đông quân nhân phục vụ trong quân trường thời điểm đó biết ba tôi cho nên họ cũng vui vẽ mổi khi bất chợt gặp tôi nghêu ngao đâu đó tạo cho tôi cảm giác thoải mái gần gủi thật là tự nhiên chẳng khác nào toàn bộ quân trường như là khuôn viên vườn nhà tôi và mọi người là họ hàng của tôi vậy.

Lần đó, tôi và một đứa bạn nữa lang thang đến gần nhà bếp của quân trường, gặp lúc giờ ăn trưa của SVSQ. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cơm được nấu trong mấy cái chảo đụn thật to, còn to hơn cái thau mà má tôi dùng để hứng nước tắm cho mấy anh chị em tôi. Có mấy chú lính đang phân phát đồ ăn, họ xúc cơm ra bằng cái xẻng nhà binh giống ở nhà ba tôi dùng để xúc đất. Các sinh viên kẻ đứng người ngồi lao xao ăn uống, đùa giỡn. Cơm gạo lức đỏ còn bốc khói nóng, hai đứa tôi trố mắt ra nhìn các vật dụng rất ngạc nhiên, một chú thấy hai đứa tôi đứng lóng nhóng bèn hỏi:

Ê nhỏ! Có muốn ăn cơm cháy không? Rồi quay qua cười với mấy chú khác

Dạ! Cho con một miếng đi chú. Tôi trả lời, người lính ngừng cười quay lại nhìn tụi tôi có lẻ chỉ định giỡn cho vui, không dè con nhỏ muốn ăn cơm cháy thiệt. Cơm múc ra đã hết chỉ còn vành cơm cháy dưới đáy chảo được xủi tróc lên nghe giòn rụm. Chú lính bẻ một miếng cơm cháy bự hơn bàn tay người lớn đưa cho hai đứa tôi rồi nói:

Nè! Coi chừng gảy răng đó nghe. Dạ Hai đứa tôi chia nhau miếng cháy rồi cười tủm tỉm kéo nhau đi vừa líu lo vừa nhai cơm cháy còn ấm nóng thơm phức hòa lẫn tiếng cười của mấy chú lính đang vang phía sau lưng. Cơm cháy này dày hơn cơm cháy ở nhà tôi nấu. Vì vậy, tôi phải nhai lâu hơn do đó vị ngọt của cơm ứa ra trong miệng vừa thơm vừa giòn. Thật là thú vị lần đầu tiên được ăn cơm cháy của quân trường mà đâu phải ai ở trong quân trường đều có thưởng thức qua (!). Cái hương vị của cơm cháy quân trường khác hẳn với cơm cháy nhà tôi mặc dù thỉnh thoãng nhai trúng sạn (dễ bị gảy răng thiệt chứ) mà vẫn thấy ngon lạ. Mổi khi nhớ đến món cơm cháy của quân trường ngày xưa, tôi có nấu lại cơm gạo lức để cho có cháy nhưng ăn vẫn không tìm lại được cái cảm giác thú vị như miếng cơm cháy của quân trường Bộ Binh Thủ Đức ngày nào. Có lẻ do ở tuổi thơ vô tư, hồn nhiên và đang đói (!). Ôi! Tuổi thơ xinh đẹp và dể thương chỉ còn là dấu ấn trong tiềm thức…

Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường, chống giặc thù ngoài chiến trận trên khắp nẻo đường đất nước để bảo vệ Non Sông Tổ Quốc Việt Nam có khác nào vị ngọt có lẩn cát sạn của cơm cháy quân trường. Sau khi lập gia đình, tuy tôi theo chồng đi khắp bốn vùng chiến thuật nhưng các con tôi đều được chào đời tại Tăng Nhơn Phú, chợ Nhỏ, trường Bộ Binh Thủ Đức.

Nhớ năm Mậu Thân tôi đang có mang cháu đầu lòng về ở với gia đình chờ ngày sinh nở. Khi VC tấn công xung quanh vùng đó và pháo kích, ba tôi vội đưa cả nhà đến Khối Quân Huấn để tránh đạn, ở đó có đắp những hầm chất bằng bao cát. Ông cứ nơm nớp lo cho tôi. Vài tháng sau đó chị Hưởng con của bác tr/tá Hưng bạn cùng làm trong quân trường với ba tôi ghé qua thăm. Chị đang có mang sắp đến ngày sanh vừa nhìn thấy tôi chị bật khóc nức nở “Chồng chị bị tử trận trong đợt tấn công Mậu Thân rồi” tội cho đứa bé còn trong bụng mẹ chưa kịp biết mặt cha. Biết làm sao mà an ủi chị đây? Khi có chồng là trai thời loạn!!!

Cơn gió chuyển mùa đông ùa ập về như cố giủ cho sạch những chiếc lá nâu vàng bướng bỉnh còn sót lại cố bám víu một cách tiếc nuối trên cành khô rồi như tuyệt vọng trước sức mạnh không thể cưởng lại được (những chiếc lá) đành buông xuôi lơ lững theo chiều gió về một nơi xa xăm chẳng phải là cội nguồn của mình.

HIU HIU GIÓ BẤC

Nguyễn Ngọc Tư

Ở cái xóm nhỏ ven thành phố này, người ta nhắc tới anh Hết còn nhiều hơn chủ tịch tỉnh đi họp. Đứa nào hỗn hào, lười biếng, má nó biểu: "Lại coi thằng Hết kìa! Ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm mướn, không có chuyện gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu thảo thấy mà thương". Ai mê vợ bé, mê chơi đề, đá gà, họ lườm lườm: "Mê gì như thằng Hết mê cờ". Nên nghe râm ran chị Hảo để lòng thương anh, má chị kêu trời: " Bộ hết người rồi sao, con. Cái thằng mê cờ tới mất vợ, không sợ?". Không, chị Hảo nghiêm nghị, cờ tướng là loại cờ tao nhã chỉ dành cho quân tử, có gì mà sợ. Mê rượu, mê gái mới ghê. Chỉ sợ người ta không thương mình. Má chị định càm ràm nữa, thì chị đã quay lưng ra quán mất rồi.

Quán chị Hảo cũng nhỏ thôi, buôn hàng tạp hóa lặt vặt. Quán cất trước nhà, ngó ra mé lộ, có khi không cần ngồi giữ, bà con trong xóm ai muốn mua gì thì gọi vọng vô. Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở đó. Buổi chiều, lúc mặt trời vừa khuất sau vườn chuối, anh Hết hay ghé lại để mua 1.000đ mỡ nước, 500đ bột ngọt, 500đ tỏi, 500đ tiêu. Chị cố bán thật rề rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà gạo, trên tóc còn vương trấu. Nhìn vậy thôi chớ không nói gì hết. Con trâu không nói sao cái cọc nói được. Nhưng vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn hơn một chút nhưng chị biết thể nào thì anh cũng về qua, về để nấu cơm cho tía anh.

Tía anh Hết năm nay 72 tuổi. Tuổi này, người ta hay đau yếu nhưng ông vẫn còn sỏi lắm. Ông già khó tính, thêm tật lãng tai. Người ta mời ông ngồi, ông cười, xua tay: " Ăn rồi. Ăn cơm với thằng Hết rồi". Chừng năm năm trước, ông còn vô bếp nấu cơm, mắt mũi tèm nhèm để lửa táp vô vách lá, nhà cháy rụi. Anh Hết cất lại nhà trên nền cũ đầy tro, nhìn xa nhà lớn hơn miếu ông Tà một chút. Ông già ngồi tiếc cái tivi đen trắng, mỗi lần mở phải đập thùm thùm nó mới lẹt xẹt lên hình. Ông già điếc đát vậy mà mê tivi, cháy rồi thì thôi vậy, chiều chiều chống gậy thả qua nhà hàng xóm coi nhờ.

Bữa nào anh Hết cũng chổng mông thổi lửa, rồi dọn cơm sẵn, ngồi dựa cửa trước chờ tía anh về. Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng đói ngồi ngủ gà gật. Người ở xóm biểu cứ ăn trước đi chớ chờ gì, anh cười, mâm cơm có ấm cúng, tía tôi mới vui miệng, ăn nhiều. Nhưng có bữa, anh mới vừa giở cửa chui vô nhà, ông già đã ngồi nhai cơm cháy, bị nghẹn, mắt ầng ậng nước. Anh thương tía quá chừng vội vàng chạy đi vo gạo.

Anh Hết mồ côi má từ mới lọt lòng. Bà chết vì sinh khó. Ngoại anh đặt tên là Hết. Chắc tại lúc đó đau lòng quá kêu đại vậy, chớ không có nghĩa gì đâu. Anh Hết lớn lên, yêu hết thảy từng con người, từng tấc đất ở cái xóm Giồng Mới. Cái xóm nhỏ ngoại ô biết bao thương nhớ, những bờ rào giâm bụt xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ dành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những người đàn bà cho anh bú thép, để con khóc ngoe ngóe trên giường.

Tía anh không đi bước nữa, ngày ngày cột sợi dây võng dài từ nhà trên xuống bếp, vừa đưa vừa nấu nước cháo, hát vọng lên, " Chớ ầu ơ... Cây khô đâu dễ mọc chồi..." . Chừng này tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lưng xuống bộ vạc, lại nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xưa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm. Càng nhớ anh càng thương ông. Câu được vài ba con cá rô, anh bắc cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần xương xẩu phần mình. Những trưa nắng tốt, tranh thủ giờ cơm trưa anh xin phép chạy về, dắt tía anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ. Những tối trời mưa, anh lúp xúp cầm cái nón mê đi đón ông già. Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm trang như đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ bé lắm, yếu ớt lắm.

Nhưng ông già đâu có yếu, ông xách gậy rượt đánh anh hoài đó chớ. Tía đầu bạc rượt thằng con đầu xanh chạy cà tưng đuổi nhau lòng vòng quanh mấy cây me già ngoài mé lộ. Đám trẻ xúm lại, vỗ tay như coi hát bội. Hỏi anh Hết sao không chịu chạy nhanh để bị dính đòn, anh bảo, chạy thì được, nhưng càng nhanh thì tía anh càng mệt, chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì.

Ai nghe nói cũng thương. Đúng là tên sao thì người vậy, chịu thương chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình. Có cái tật mê cờ, mê cũng hết mình.

Người ta nhắc hoài chuyện anh hễ cắm đầu vô bàn cờ rồi quên đói, quên ướt, súng nổ cái đùng cũng coi như không nghe thấy, như là đã thoát tục rồi, bình an, xa rời mọi điên đảo. Thấy con bồ mình đang thương dắt tay chồng tương lai đi sắm sửa đồ cưới mà cứ lo mang xe chiếu tướng, thì đúng là không còn hỉ nộ ái ố gì nữa rồi. Cũng có nhiều người thích đánh cờ nhưng say đến mức coi con cờ như con người thì không ai làm được, ai đời, đi chốt qua sông mà anh khóc, nước mắt chảy ròng. Chị Hảo nhớ, bữa đó hình như đám gả chị Hoài.

Người ta nói chị Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết mê cờ.

Họ thương nhau từ lúc hai người mới 22, 24 tuổi. Thời đó, tuổi đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi đó, người ta yêu không ngại ngần, không e dè, rà cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy của sông. Bên nhà chị Hoài biết con gái hay hẹn hò với anh Hết ngoài cống đá thì không vui. Má chị Hoài hỏi sao đâm đầu vô thương chỗ đó, cô hỏi lại: "Anh Hết hổng được chỗ nào hả má?". "Ừ, tao chê chỗ nào bây giờ, thằng Hết được, hiền, giỏi giang, chịu khó lại hiếu thảo. Nhưng nó nghèo quá, thân sơ thất sở không một cục đất chọi chim, biết có lo cho bây sung sướng được không. Bây quen được tưng tiu mà" . Chị Hoài không cãi ra mặt nhưng bụng nghĩ, còn sức lực còn đôi tay, còn cơ may thay đổi cuộc đời.

Lúc đó, anh Hết vẫn chưa mê cờ. Nhưng anh biết chơi nhờ đi làm bốc vác ngoài nhà máy, mấy ông già chèo đò truyền lại, nức tiếng với mấy chiêu pháo đầu, bình phong mã, công thủ song toàn. Cho tới lúc má chị Hoài lại nhà, không biết nói gì nhưng có khóc. Những giọt nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt già nua của người đàn bà đã từng cho anh bú thép. Sáng hôm sau anh đã thay đổi, nhanh như người ta lật một bàn tay. Anh đam mê cờ tướng. Anh hay na bộ cờ ra ngồi mấy gốc cây bên vệ đường để tìm đối thủ, để ai cũng thấy đúng là thằng Hết bê tha thiệt rồi. Nó không chịu làm ăn gì mà tối ngày nướng thời gian trên mấy con cờ xanh đỏ.

Hồi đó, tía rầy anh dữ lắm. Anh thưa với con, nợ sữa là món nợ lớn nhất đời người. Con đã nợ má em Hoài, tía à. Không biết ông già rồi có hiểu gì tình cảm của tụi trẻ không, ông ừ hử vậy. Nhưng thấy anh ngồi la cà đánh cờ ở đâu, giữa đường cũng vậy, ông vác cây đánh ngay đó. Vừa đánh vừa kêu nhịp nhàng " Xe nè! Chốt! Pháo nè! Bụp! Chiếu hả, thằng ma cà bông, tao chiếu cho mấy đường" . Ông ca cẩm thằng con ông bây giờ tệ bạc lắm chiều hôm qua nó để ông ăn cơm nguội chung với mấy con gián. Ông nói mà giọng ông hơi nghèn nghẹn dường như trong lòng đau nhói lắm. Nuôi nó từ nhỏ tới lớn, bây giờ ông mới đánh nó đây, đánh để giúp nó trả ơn đời. Tối về ông bắt nó nằm cho ông xoa dầu, hỏi bày đặt yêu đương chi mà khổ vậy con ơi. Xóm này người ta không biết nên nói mày hết thuốc chữa rồi. Con tao mà vậy à.

Chị Hoài cũng can ngăn, thuyết phục mãi, tốn không biết bao nhiêu là nước mắt, cuối cùng đành phải bỏ đi lấy chồng. Hôm đám, anh Hết còn tỉnh bơ ngồi ngoài bờ, dưới gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với mấy đứa nhỏ. Đám bạn gái ai cũng xì xầm, chắc thằng Hết không thương thiệt con Hoài nên mới dửng dưng vậỵ Chị Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc tình ảnh cũng gánh cho em rồi. Tranh thủ lúc chưa làm lễ, chị Hoài rủ chị Hảo mang cả áo xống chạy ra, nhìn anh như nhìn lần chót, như lấy chồng là chết vậy. Anh Hết dứt khoát không ngước lên. Thôi, không nắm níu gì được nữa rồi, nghe người ta kiếm cô dâu, hai chị quay vào. Đi một đoạn, nghe đám con nít trộ lên, anh Hết sao mà khóc vậy. Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng này nè, đó, nó ướt nhẹp đó thấy chưa. Hết cười lớn, nói lớn: "Ừ, tại tao thương con chốt. Qua sông là không mong về" ...

Chị Hoài vừa đi vừa khóc. Lời của anh Hết làm chị Hảo thương điếng trong lòng. Con người này, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm.

Anh Hết lại sống như những ngày trước kia lầm lũi đi đào thuê, vác mướn, kiếm tiền nuôi tía. Đôi ba hôm, đi làm về, đã thấy trên cái bếp còn ấm tro một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ cá kho khô. Có bữa, mẻ kho đổi lại là nồi canh rau đắng. Rồi anh Hết gặp chị Hoài đi chợ về, thấy bóng anh từ đằng xa, chị lấy nón che một bên má bầm tím. Anh Hết chạy theo, giằng lấy nón mà xót xa:

- Sao nông nỗi vầy, Hoài.

Chị Hoài nói chị té đập mặt vô cạnh cửa nhưng anh Hết không tin: "Hoài ơi, em hạnh phúc, tôi mừng. Hoài cứ như vầy, chắc tôi bỏ xứ". Chị Hoài khóc, người ta chớ đâu phải con cờ mà hễ qua sông là đứt lìa phần đời trước.

Rồi chị Hoài cũng tập thương chồng, thương không giấu giếm, ào ào như người ta bán thuốc sơn đông. Chị thôi không đứng tần ngần chỗ nhà chú Hết mỗi khi đi chợ về, thậm chí chị không thèm nhìn về phía ấy nữa. Chị Hoài nói với bạn: "Bữa nay đi chợ mua mấy khúc vải về may đồ cho anh Thứ. Ảnh nói mặc đồ chợ cũng được mà tui đâu có chịu, người vợ biết đường kim mũi chỉ lúc nào cũng làm ấm lòng ông chồng, phải hôn nè..." . Giữa đường nói chuyện chồng con mà giọng chị Hoài lanh lảnh, chừng như nhắn với Hết, thôi đừng đi đâu hết, tôi quên anh rồi, quên thiệt, quên luôn, bây giờ tui thương chồng tôi lắm đây. Cho bỏ tội mê cờ, nghen.

Nhưng từ ngày chị Hoài lấy chồng, anh Hết đã không đụng tay vào quân cờ nào nữa. Anh hay ngồi nhìn bàn cờ mặt buồn rười rượi, mấy đứa nhỏ không biết, cứ rủ hoài, ừ thì chơi. Anh biểu tụi nó bày cờ ra, rồi tự đi quân, anh không nhìn, chổng mông vo gạo, một đứa nói vô pháo đầu nghen, anh kêu mã tấn. Tấn chỗ nào? Tấn giữ con chốt đang bị con pháo rình đó, biết còn hỏi. Tụi nhỏ kêu, đây là kiểu "hiệp sĩ mù nghe gió kiếm", đánh cờ mà làm công chuyện không ngưng tay, nói khơi khơi, cũng thắng.

Lụi hụi rồi bốn mùa gió bấc về kể từ mùa gió chị Hoài lấy chồng. Ba anh Hết thường chống đũa trên mâm cơm than ăn không vô. Anh hỏi ông thèm gì. Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao thèm một thằng cháu nội. Hết lượng sượng mãi mới cười: "Trời, thèm gì ngặt vậy, không biết con biết kiếm đâu cho tía bây giờ" . Tía anh Hết biểu lại đằng quán con Hảo lỡ thời mà kiếm. Mày giả đò hoài, con nhỏ thương mày, ai cũng biết, chỉ mày là không. Anh Hết cãi, làm gì có, tía. Ông già đứng dậy, vậy phải thử. Nói rồi vung gậy đánh. Như mấy lần trước, anh Hết lại chạy lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông già dứ dứ cây gậy vô mặt anh rồi tủm tỉm cười quay đi. Ông già còn kịp thấy chị Hảo chạy lại vẹt đám con nít ra, đưa anh chai dầu Nhị Thiên Đường, miệng xuýt xoa hỏi anh đau chỗ nào, giọng như người thân thiết trong nhà: "Làm gì mà để tía giận dữ vậy, lén chơi cờ phải hôn?" . Anh Hết không trả lời, cầm chai dầu còn ướt mồ hôi tay của chị. Đây đã là chai thứ chín chị cho anh, anh khẽ bảo:

- Hảo, tôi... cảm ơn.

Anh ngần ngừ sau chữ "tôi" hơi lâu, làm chị Hảo chờ muốn nín thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà trong lòng thì còn mãi. Chi vậy Hết ơi!

Đâu có biết, chỉ tại chưa quên được. Anh chưa dám nhìn thẳng vô mắt Hoài để cười, chưa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm ngừa. Chưa thanh thản để chào nhau như một người bạn gặp một người bạn. Hảo có hiểu không?

Hiểu, nên tôi chờ đây nè.

Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai lại cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ mà trong tâm " Viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn" , chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông.

Nhưng mà chờ tới chừng nào lận?

Ai mà biết.

Mùa nay gió bấc hiu hiu lại về.

Lũ sớm

Thảo Em đứng bần thần trong bếp. Bữa cơm tối chỉ mới gọi là xong phần cơ bản: nồi cơm vừa ráo. Cô dùng đôi đũa tre to bản đảo một vòng thật đều trước khi đậy kín nắp với miếng lá chuối tươi, chỉnh ngọn lửa than vừa tầm.

“Nước lên, nước lên đường cái rồi!”

Tiếng bọn trẻ reo hò xuyên qua màn mưa trắng bay vào bếp, khi gần khi xa làm cô rối bời trong bụng nhưng ngọn lửa than liu riu vẫn được bàn tay khéo léo của cô sắp đặt. Ông Phòng thường tấm tắc khen con gái về miếng cơm cháy cuối bữa là vì thế. Thỉnh thoảng nhà cũng có trái thơm, trái chuối của vườn làm món tráng miệng. Nhưng ông Phòng không mấy khi bỏ qua miếng cơm cháy vàng tới, dòn rụm, thơm nức. Một phần nhờ hạt gạo mùa nhưng quan trọng là nghệ thuật cời chỉnh lửa than sau khi nồi cơm ráo nước. “Riêng khoản ni mạ mi thua mi xa”, nhiều lần ông Phòng vừa nhận xét vừa dùng tay vắt cơm cháy thành nắm nhỏ trước khi bỏ vào miệng. Vợ mất đã bốn năm nhưng ông Phòng không nguôi thương nhớ, thường kiếm cớ nhắc nhở.

"Nước lên đường cái rồi bà con ơi!"

Lần này không còn là tiếng reo hò ham vui của bọn trẻ trông lụt về để được nghỉ học, được đóng bè chuối đi hết vườn này sang vườn khác mà ngày thường là không thể. Nỗi sợ hãi lồng trong tiếng báo động thất thanh. Thảo Em quýnh quáng bắc soong cá kho lên bếp, còn món rau luộc nữa mới xong. Cô biết một bữa cơm tối nóng sốt trước khi nước lụt vào nhà là rất quan trọng.

Có tiếng quát tháo ngoài ngõ. Thảo Em nhìn ra, mỉm cười. Ông Phòng nắm tay thằng con trai út lôi tuồn tuột. Hình như hai cha con đã đi trong tư thế như thế từ trường tiểu học.

"Bãi học cả tiếng đồng hồ rồi mà mi không chịu về là răng? Vô tới nhà mi biết tay tau!"

Mặc lời đe nẹt, mặc thân hình gần như bị bổ nhào về phía trước theo sức kéo của "ông già", cái đầu thằng Thi cứ ngoảnh lại phía sau, nơi bọn trẻ cởi truồng chạy nhông nhông dưới mưa gió đì đùng. Nói dữ dằn là thế nhưng khi đã yên ổn trong nhà, ông Phòng vội dùng khăn lông vò lau đầu tóc và thay áo quần cho thằng út. Nhột, nó ngọ ngoạy cười hi hi. Ông Phòng cũng cười hềnh hệch. Thảo Em dưới bếp bước lên, dúi vào tay em củ khoai vùi tro nóng hổi bóc vỏ sẵn. Thằng nhỏ bẻ một miếng đút vào miệng "ông già" lấy thảo rồi ngoạm miếng lớn, suýt mắc nghẹn. Chua miệng, ông Phòng nốc ngụm chè xanh, khà một tiếng, lập bập điếu Đà Lạt, quay sang Thảo Em:

"Coi bộ nước lớn đa con...".

Nước lớn sớm hơn mọi năm. Mới chín giờ tối đã vỗ bì bạch vào chân cửa. Điện cúp cái rụp. Mười giờ chảy róc rách thành dòng trong nhà. Cứ thế cao dần. Nửa đêm, Thảo Em phải giúp cha kê giường. Thằng Thi quấn chăn bông ngồi chóc ngóc trên giường như ông vua con. Một giờ sáng lại bì bõm lội nước bạc kê tiếp. Thằng nhỏ lúc này ngủ vùi không biết mình đang được nâng lên tận đà ngang của ngôi nhà. Ông Phòng lầu bầu:

"Chưa năm mô hỗn như ri. Chắc trên núi có lũ lớn rồi..."

Thảo Em lạnh run trong bộ bà ba ướt sũng:

"Nước lên nữa chắc chết quá ba ơi!"

Ông Phòng mắng:

"Nói bá láp, cố ngủ một tí lấy sức..."

Nhưng ông cũng thấy lo, chưa có dấu hiệu mực nước chững lại. Ông mở ô cửa "khu đĩ" trên nóc bức tường đông để có thể nhìn ra bên ngoài...Vô tình cả hai cha con nhận ra họ đang hướng mắt về phía nhà ông Cả Luân, cách đấy chừng năm, sáu chục mét. Làn chớp rạch trời làm lộ rõ ngôi nhà bê tông vững chãi trong mưa lũ. Hàng rào chè tàu, cây cảnh ở giữa đã chìm nghỉm từ lâu khiến Thảo Em thấy khoảng cách hai nhà như xa thêm, như thể hai bờ của một dòng sông lênh láng. Trên tầng hai nhà ông Cả còn sáng ánh đèn bão, cửa ra sân thượng vẫn mở và lố nhố bóng người. Có lẽ bên ấy đang dời chuyển đồ đạc từ tầng trệt lên tầng hai. Thảo Em run lên khi nhận ra đôi vai rộng của Long sau làn mưa dày. Không biết anh ấy có nhìn về phía nhà mình không, liệu có biết mình đang ngồi chồm chỗm sát nóc nhà không? Những câu tự hỏi làm Thảo Em đau thắt trong bụng và lén nhìn sang “ông già” như có lỗi... Hai ông già giận nhau đã hai tháng. Thời gian ấy đủ để hai đứa khổ sở vì chẳng dám vạch hàng rào chạy qua chạy lại lăng xăng như trước. Sáu mươi ngày cắt liên lạc, lối mòn nơi hàng rào chè tàu giữa hai nhà đủ êm để đâm lá non, khép lại. Nhưng cũng có hay của sự ngăn cấm: Thảo Em biết mình yêu Long đến chừng nào...

Mà cũng tức cười cho hai "ông già", cô nghĩ. Họ giận nhau như con nít. Nếu tính từ thời còn bé chắc đã giận nhau cả tỷ lần. Nhưng lần này có vẻ ghê gớm. Ông Cả đi Sài Gòn, ông Phong nhờ mua mấy quả sầu riêng cho đỡ nhớ những ngày lang bạt miền Nam. Ông Cả về, mời ông Phong sang nhà vừa chơi cờ tướng vừa lai rai tẩy trần. Ông Phong hỏi sầu riêng đâu. Ông Cả quên mua, vì sầu riêng không nằm trong bộ nhớ của ông, hơn thế ông dị ứng

ĐAU GÌ NHƯ THẾ

Ông già Tư Nhỏ thức dậy từ lúc nửa đêm. Ông rên lên một tiếng ứ hự, thấy thất vọng khi nghe lòng mình vẫn còn đau. Có một niềm khát khao đến cháy bỏng, ông vẫn thường ước ao một lần nào đó đánh giấc thật sâu, khi trở dậy nỗi đau ấy biến mất, không còn dấu vết, như thể nó chưa từng có trên đời.

Ông kh

khàng vòng theo mé hè ra chái sau, b

c

m n

ướ

c lên b

ế

p. M

t làn khói m

ng bay lên. L

a b

t đ

u le lói ngoi lên gi

a đám c

i d

a r

i l

i ng

p xu

ng, xanh lè vì gió. Trong nhà, nghe th

ng Sáng vùng v

ng đ

p chân xu

ng gi

ườ

ng, ông bu

t mi

ng, “T

i nghi

p, ch

c mu

i c

n th

ng nh

”. Con Nga ng

i d

y, h

i v

ng ra, “M

i n

a đêm mà, ba th

c chi ?”. Ông già tr

n tình nh

ư

con Nga đang ng

i tr

ướ

c m

t mình : “Tao ng

h

ng đ

ượ

c. Mà, bây coi ém mùng cho k

, đ

mu

i c

n th

ng nh

làm gh

à”. Nga d

, ti

ế

ng d

c

a nó nghe ch

m ngh

n ngào. Gi

a im l

ng, gió c

n lên rúc rích đu

i nhau ch

y x

m trên mái nhà, nh

ư

m

t đám tr

l

t t

ng tàu lá đ

tìm tr

ng th

n l

n. Con Nga ng

m ngùi, b

a nay tr

i tr

gió, ch

c ngoài kia l

nh l

m, r

i nó ng

p ng

ng lên ti

ế

ng, “Mai vô nhà ng

… nghen ba”. Ng

c ông T

ư

h

c m

t ti

ế

ng, trái c

nh

y

ng

c đ

ngăn cho dòng n

ướ

c m

t ch

c trào. Ông l

t b

t h

t m

t n

m trà, b

vào cái bình s

t vòi, nói “Bây đ

t

t

, tao tính…”.

Ngay l

p t

c ông thôi thèm trà, ông mu

n ng

, ng

đêm ng

ngày, đ

khi th

c d

y, nh

ư

m

t phép màu, ông ng

i ngay bên mâm c

ơ

m chi

u con Nga v

a m

i d

n ra. Nó bi

u ba u

ng r

ượ

u đi, b

a nay có con cá lóc n

ướ

ng thi

t ngon. Mà, ba t

m làm sao con nghe hôi sình quá tr

i đ

t v

y. Ông c

ườ

i, ng

i tém t

, m

t khoan khoái nhìn con cá lóc da vàng ru

m, “làm ngh

l

n đ

t nh

ư

tao h

ng hôi bùn sình thì hôi gì, con ?”. Con Nga cũng c

ườ

i, nó l

t l

ư

ng con cá lên, l

y đũa x

d

c, g

p vô chén ông cái đ

u dính theo b

lòng, b

o “Con giăng mùng s

n r

i, chút n

a con đi t

p văn ngh

, ba nh

u th

y v

a x

n là chui vô mùng li

n nghen”. Nói xong, nó l

y l

ượ

c ch

i đ

u, vói l

y cái k

p tóc ch

y đi, mi

ng hát Bông ô môi. Con Nga đã qua kh

i b

i trâm b

u mà ti

ế

ng hát v

n ch

ư

a tan.

C

nh đó đã lâu r

i không tr

l

i. Cũng nh

ư

lâu r

i hai ba con ông T

ư

không còn qu

y lon trùng ra ng

i thong th

câu cá bên g

c trâm b

u, r

i ng

ườ

i tr

ướ

c mũi, ng

ườ

i sau lái b

ơ

i xu

ng đi nh

bông súng d

ướ

i kinh. Nh

ng tr

ư

a n

ng, con Nga không còn ng

i nh

tóc b

c cho ông. Ch

ng bao gi

ng

ườ

i X

o Mê còn ch

ng ki

ế

n hai ba con h

xu

t hi

n cùng nhau.

Bây gi

ờ, tối tối ông Tư uống rượu một mình (chớ có ai muốn uống với ông đâu), say rồi giăng mùng ngủ ngoài hàng ba, không quên treo cái đèn chong nhỏ (ý như nói với người qua kẻ lại, tui, thằng Tư Nhỏ, ngủở đây nè). Nhiều bữa mưa tạt ướt mẹp, ông ngồi hút thuốc cho đỡ lạnh, con Nga trong nhà cũng ngồi bó gối nghe giông gió. Đi làm về, đói bụng, ông lục cơm nguội dùa vô một tô ra hè ngồi ăn, Nga trong nhà bưng chén mà rơi nước mắt.

Tình cha con đã nh

ư

n

ướ

c ch

y xu

ng k

tay t

m

t ngàn năm trăm m

ườ

i hai ngày tr

ướ

c. Cái ngày con Nga r

u r

u xin ra Ch

Cũ thăm má nó. Ông g

t đ

u, thì ng

ườ

i đàn bà đó h

ơ

n m

t năm r

i ch

ng v

, t

ưở

ng đã quên m

t con đ

ườ

ng quay l

i X

o Mê. Ai dè chi

u hôm sau má con Nga tong t

xông vào nhà, níu ao ông mà r

ng:

- Sao anh h

i đ

i con gái tôi đ

ế

n n

i nó ph

i mang b

u ?

Ông T

ư

kêu lên m

t ti

ế

ng tr

i

ơ

i. Tôi là ng

ườ

i nh

ư

v

y sao, Cúc

ơ

i, tôi mà là ng

ườ

i nh

ư

v

y à. Cúc bi

ế

t tôi t

ng

y năm tr

i, sao l

i gieo cho tôi cái t

i mà ch

nghĩ đ

ế

n thôi đã x

u xa… Nh

ư

ng ch

ng k

p m

c cái áo khô vào đ

phân tr

n, công an xã đ

ế

n m

i ông đi. Má con Nga theo sau, la khóc. M

i ng

ườ

i bàng hoàng ngó nhau, đâu nè, anh T

ư

Nh

h

i nào gi

đ

i t

t

ế

, ch

đã dò h

i k

ch

ư

a, con Nga nó nói v

y à. Không, con Nga nó không ch

u nói tên ng

ườ

i đó, bà con cô bác nghĩ coi, ai mà nó không dám kêu tên ? Ai tr

ng khoai đ

t này…

Lúc con Nga hay đ

ược thì ông Tư đã bị nhốt năm ngày. Nó trốn má về, chạy thẳng ra xã xin ông ra. Nó sụp lạy ông ngay trụ sở Uỷ ban, nó khóc, “Ba ơi, tại con hư, con làm ba khổ, ba tha lỗi cho con, nghen ba”. Ông đỡ nó dậy, cười mếu máo, “Thôi con, đứng dậy, về. Chuyện qua rồi …”.

H

i đó, ông cũng t

ưở

ng, chuy

n qua r

i. Hai ba con ông ra kh

i c

ng u

ban, n

ng b

n ch

n úa vàng trên m

t sông (màu tr

i đó hay tr

v

trong nh

ng gi

c m

ơ

ông, khi gi

t mình th

c d

y, m

t ông luôn luôn đ

y n

ướ

c). Dài theo dãy hàng quán che tum che b

t, ng

ườ

i ta đ

ng coi đông thi

t đông. Đám con nít ch

y theo v

tay kêu cô dâu chú r

kìa t

i bây

ơ

i, trâu

già khoái c

non kìa. Ng

ườ

i l

n h

hê nh

ư

ng gi

đò đ

ng h

ng bi

u đám tr

im đi. Coi t

ướ

ng tá ông T

ư

hi

n lành, đàng hoàng v

y mà làm chuy

n đ

ng tr

i, đúng là “lù đù vác cái lu ch

y…”, h

ế

t chuy

n r

i sao mà t

ng t

u v

i con mình. Đâu nè, có ph

i con ru

t

ng đâu. Ch

Hai nh

không thím B

y nh

không, h

i má con Nga xáp l

i v

i T

ư

Nh

, b

ng đã mang b

u, r

i con nh

Nga m

i l

m đ

m bi

ế

t đi, ch

ta b

ra Ch

Cũ, T

ư

Nh

ph

i làm m

gà ch

t chiu con v

t. T

ưở

ng đâu ông

y th

ươ

ng con Nga nh

ư

cha th

ươ

ng con thi

t lòng, thì ra

ng ghé ch

tui mua cái bánh d

a, c

khoai lang, cây k

p tóc… v

cho con nh

là có ý đ

. T

ưở

ng đâu th

ng ch

nghĩ t

i con Nga nên không l

y v

, ai mà dè…

N

ng t

t l

m, tr

i

ơ

i, đâu r

i xóm gi

ng thân thu

c, đâu r

i khuôn m

t, gi

ng nói, ti

ế

ng c

ườ

i quen, ông T

ư

đ

ng kh

ng l

i, u

t

c, tr

ơ

c

ng c

quai hàm. Con Nga òa khóc, b

ch

y t

t theo đ

ườ

ng đ

ng, trên b

ru

ng lông chông nh

ng chân c

ng cháy tr

ơ

x

ươ

ng

x

u. R

i nó ch

t d

ng l

i, ngó cái b

chu

i m

chìm trong đêm. Ch

đó nh

n m

t l

i nó v

n nhìn ra m

t bãi c

m

m, m

y cành cây khô có con r

n m

i bò ra bò vô. Ch

đó, nó v

i anh đã m

y l

n…

Nh

ư

ng bây gi

ch

còn m

t mình nó ng

i đây, gi

a đ

ng kh

ơ

i, đ

ế

n lúc s

ươ

ng xu

ng

ướ

t đ

m m

t vai tóc nó m

i đ

ng d

y ra v

. Nó g

p ông T

ư

gi

a đ

ườ

ng, ng

n đu

c trên tay ông đã g

n tàn, cháy lom đom, ph

p ph

u trong gió. Ông b

o, “Ba s

bây làm chuy

n d

i, r

i l

ng đi m

t chút, ông th

m thì nh

ư

nói v

i chính mình, ng

ườ

i ta có ác mi

ng c

nào cũng ráng mà s

ng nghen con”. Con Nga d

r

i b

ng gi

t thót lên, nhìn quanh, trong m

t thoáng hãi hùng, nó bi

u ông đi tr

ướ

c đi, nhanh lên, đ

ng xa nó ra, k

o ng

ườ

i ta th

y…

R

ồi người trước người sau, họ trở về căn nhà nhỏ bên kinh Xẻo Mê. Căn nhà từ đây trở đi nằm chơ vơ trong ánh mắt cười cợt, trong lời đàm tiếu của người đời. Ngày nào cũng vậy, ông già Tư Nhỏ đi làm từ sáng sớm, khi người chưa tỏ mặt người, quen chân nên te te qua quãng đông nhà mới dám đứng lại, thở. Hôm ghé quán thím Hồng Nhiên mua khoanh thuốc gò, thím bảo “Hết rồi”, giọng ngắn ngủn, cộc lốc mà con mắt nguýt thì dài, người ta đây ở goá đã lâu, đã để ý thương mà anh lạnh lùng không đếm xỉa, tưởng anh còn thương má con Nga, ai dè anh khốn nạn vậy… Xóm giềng lạnh nhạt, ông Tư phải vác dá, quảy len thùng đi làm đất xa hơn, qua tận bên Đất Đỏ, Kinh Năm, ở đó, người ta không biết ông là ai. Nhưng chuyện một đồn mười, đồn trăm, đám bạn nghề của ông một trưa ngồi dưới bờ dừa hỏi nhau, bên Xẻo Mê có người lấy con gái nên bị bắt phải hôn. Ờ, nhưng được thả rồi, đứa con gái nói hỏng phải nên lãnh ra. Ai đó cười khào, mai mỉa, ái chà chà, hai người họ bênh nhau quá ha. Định day qua hỏi ông Tư coi có biết người đó không nhưng ông đã nhảy cái ọt, lặn mất, lâu lắm không thấy ngoi lên. Đám người sợ quá nhào xuống lôi ông từ đáy nước ngầu đục, hỏi ông bộ muốn chết sao, ông cười, “Bậy, tao lặn thử coi hơi còn dài không, làm gì tụi bây quýnh lên vậy”. Thật tình ông đã nghĩ đến điều đó, rồi chợt nhớ, còn con Nga, nó ở lại chịu đựng vì không nỡ bỏ mình … Mà, con nhỏ đã gần sinh…

Ông T

ư

mua than đ

ướ

c d

tr

trong nhà, đ

ư

a con Nga ít ti

n ra ch

s

m s

a cho đ

a bé s

p chào đ

i. Ông còn chu

n b

c

v

t

i, h

t mè đ

làm thu

c cho con Nga nh

ng ngày

c

. Ông ng

ượ

ng ng

u b

o, “Cái này… tao bi

ế

t là vì… h

i má bây sinh…”.

Ch

ch

có v

y, k

ni

m ùa v

kinh hãi, t

ươ

i xanh. Nh

ư

th

m

i chi

u hôm qua, Cúc đ

i thúng rau ghé nhà, xanh xao, đau kh

h

i, tui bi

ế

t anh đ

ý th

ươ

ng tui, anh có mu

n c

ướ

i tui làm v

không ? R

i Cúc nói luôn, không c

n c

ướ

i h

i gì, mai tui cu

n đ

l

i theo anh. T

ưở

ng đâu nói ch

ơ

i, ông c

ườ

i, ai dè Cúc làm thi

t, cô gái đ

p nh

t X

o Mê v

v

i ông g

n gàng nh

ư

ng

ườ

i ta nh

y ùm xu

ng ao. R

i Cúc có thai, ai cũng c

ườ

i, úi chà chà, b

tr

ng lúa ng

n ngày hay sao v

y cà, có ch

c là cái thai đó c

a m

y không, T

ư

Nh

. Ông c

ườ

i, không nói, nghĩ nó là c

a mình thì là c

a mình. Và khi bà m

Năm trao cho ông đ

a tr

tóc dày m

t, m

t đen, môi đ

, lòng ông vui m

ng r

ư

ng r

ư

ng, nó là con c

a mình, con c

a mình.

Dù sau này Cúc đã không yêu đ

ượ

c cái mùi bùn sình c

a ông, dù Cúc b

ra Ch

Cũ c

t quán hàng, nói là cho g

i con Nga l

i ít năm (nh

ư

g

i m

t cái lu, cái t

), ông v

n th

ươ

ng nó nh

ư

con c

a mình. Nó lên sáu tu

i, Cúc v

, d

n nó đi. Ông ch

y theo n

m tay con bé l

i, Cúc cau mày, gi

ng ra, nó là con tôi, anh bi

ế

t mà. Ông nh

u say ba b

a li

n, t

nh d

y, th

y Nga đ

ng đ

u gi

ườ

ng, nó nói, “tr

i

ơ

i, con đi m

i m

y b

a mà ba t

thi

t. Th

c d

y, đi câu cá n

u c

ơ

m ăn, ba

ơ

i”. Nói r

i nó đon đ

c

m cái lon trùng đi tr

ướ

c.

Đ

ứa trẻ ngày xưa bây giờ đã làm mẹ một đứa trẻ khác, cũng môi đỏ, mắt đen. Hôm ở trạm xá về, ở xóm người ta lại thăm nườm nượp, không kịp nhìn đứa trẻ, nắc nẻ khen liền: “Trời ơi thiệt là giống chú Tư quá hen”. Có người chưa đi quá cái miễu ông Tà đã cười cợt bàn với nhau, hỏng biết thằng nhỏ kêu ông Tư Nhỏ là gì ha, là ngoại hay cha. Ông đang quạt mẻ than, nghe câu ấy thảng thốt nhìn tro bụi tơi bời, con gái nỉ non, ba ơi, kệ con, coi chừng người ta thấy, nói tới nói lui. Ông già nổi quạu đùng đùng, “Thiên hạ phải để tôi sống đàng hoàng như một con người chớ” . Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con người không học cách hiểu nhau.

Đêm đó, ông th

c tr

ng. Sáng ra con m

t trõm l

ơ

, ông s

a so

n qu

y gói đi. Hai m

con Nga

lên ti

ế

ng trong nhà, ông T

ư

nói vói vô, “Bây có

mu

n mua gì không, tao đi huy

n nè…”. Tr

i, đi chi v

y ba ? Ông nói ông cũng ch

ư

a bi

ế

t n

a, nh

ư

ng dù không bi

ế

t ph

i b

t đ

u t

đâu cũng ph

i đòi l

i danh d

cho mình, cho con Nga và th

ng cháu ngo

i, đòi l

i nh

ng ni

m vui đã b

ng

ườ

i đ

i t

ướ

c đo

t. Ông ra xã , công an xã c

ườ

i khà khà, nh

ư

đang nói v

v

b

t nh

m con cá lóc, hay con v

t con gà, “Bi

ế

t chú b

oan là t

i tui th

li

n, chú còn đòi gì n

a ?”. Ông cãi, tui đâu có đòi gì, nh

ư

ng c

u ra thanh minh v

i bà con X

o Mê dùm vài ti

ế

ng đ

ượ

c không. Công an ch

y qua h

i ch

t

ch, ch

t

ch c

ườ

i “chuy

n c

a chú th

y v

y mà căng l

m, h

i tr

ướ

c gi

chính quy

n ch

ư

a xin l

i tr

ướ

c dân l

n nào, tôi đâu có dám phá l

, hay chú lên huy

n h

i th

coi…” R

i huy

n ch

lên t

nh, t

nh h

a đ

t

t

coi l

i, không sao, ông nói ông ch

đ

ượ

c. Lâu lâu, ông t

i đ

nh

c ch

ng, m

i khi hay có s

thay đ

i, luân chuy

n lãnh đ

o, ông đ

ế

n n

p thêm b

đ

ơ

n n

a. L

phí xe tàu đi t

i lui, ông T

ư

bán con chó phèn, bán luôn b

y v

t m

i lông bông áo lá, còn ti

n công đào đ

t m

ướ

n dành đ

lo g

o cá cho hai m

con con Nga. V

n b

đ

bà ba màu c

úa, cái khăn qu

n sù s

trên c

, gi

bàng nách m

t bên, gõ c

a h

ế

t c

ơ

quan này đ

ế

n công đ

ườ

ng khác, nhi

u khi ông già th

y cu

c hành trình c

a mình mù m

t quá ch

ng. Có b

a v

a xu

ng b

ế

n xe b

đám b

i đ

i gi

t cái gi

, ông già h

t hãi r

ượ

t theo, ngo

n ngoèo h

ơ

n m

ườ

i con h

m, b

t k

ngo

t ph

i ngo

t trái, ng

ườ

i r

ượ

t, ng

ườ

i ch

y cu

i cùng chui t

t vô con h

m c

t, th

ng gi

t đ

hào h

n h

i, gì mà quý d

v

y ông n

i. Ông th

d

c, không nói, trút gi

, r

t ra m

y cu

n gi

y bu

c b

ng dây thun. Th

ng kia v

a t

c v

a m

c c

ườ

i, ch

i th

m

y ti

ế

ng r

i b

đi. Ông già đ

ng d

y, ng

ơ

ngác, h

ng bi

ế

t mình đang đ

ng đâu đây, h

i vói theo, “Chú em

ơ

i, đ

ườ

ng nào xu

ng toà án t

nh ?”

L

i b

t

i đó, anh b

o v

ngó ông, c

ườ

i “

a, hôm tr

ướ

c chú t

i đây r

i mà”. “V

y ?! - ông già ch

ư

ng h

ng - tui đâu có nh

. Thôi v

y đ

tui qua ch

ti

ế

p dân, chú em c

m ít đ

ơ

n đ

c ch

ơ

i”. R

i ông đi trong m

ư

a rúc r

c, trong gió riu riu, ch

mong có ai đó th

u hi

u đ

ượ

c n

i ni

m oan khu

t c

a mình, ai đó thôi c

m đ

u vào bàn gi

y, ng

ướ

c lên, h

i “ Có gì hôn, chú ?”, ông m

ng húm, v

t mi

ng b

o, có ch

, có tui m

i l

n l

i t

X

o Mê lên đây nè, r

i r

t rè rút ra m

t b

đ

ơ

n, đây là t

c

ông b

m

t danh d

h

i b

n gi

chi

u ngày tháng năm, đây là t

yêu c

u đ

ượ

c minh oan… Và lòng ông đ

ượ

c an

i bi

ế

t bao nhiêu n

ế

u ai đó ra v

quan tâm m

t chút, h

i “V

c

a chú ra làm sao, đâu nói cho t

i tui nghe coi”.

Ông T

ư

l

m c

m kéo gh

ế

ng

i, l

ư

ng lòng khòng, đôi m

t ánh lên nh

ư

ng

ườ

i đang khóc. Ông nói nhà tôi

bên kinh X

o Mê, x

ư

a rày s

ng b

ng ngh

l

n đ

t, c

c c

m nuôi đ

a con gái tên Nga. R

i m

t b

a công an xã l

i b

t tôi, vì có ng

ườ

i t

cáo, tôi làm cho con Nga có b

u.

- Tôi nghe nh

ư ông trời dộng cái ầm vô mặt, nhưng tôi nói gì người ta cũng không tin. Rồi sau biết tôi bị oan, họ thả tôi ra. Tổng cộng tôi đã ở tù oan sáu ngày năm đêm…

-

a, đ

ơ

n gi

n v

y thôi h

?

Ông già nghe th

t v

ng quá, các ng

ườ

i đòi thêm gì n

a, các ng

ườ

i mu

n gì n

a, mu

n éo le nh

ư

th

ế

nào, oan khu

t bao nhiêu năm m

i đ

? R

i nu

t vào lòng kh

i ngh

n ngào, ông c

t

ươ

i t

nh, h

i :

- Dà, h

i nãy tôi k

t

i đâu r

i cà ?

Nh

ưng rồi đến đây ông không không biết phải diễn tả nỗi đau của mình như thế nào. Nỗi đau của một người mới hôm trước còn đề huề sống trong tình làng nghĩa xóm, chiều chiều khề khà vài chung rượu với mấy bạn già, say rồi hát tỉ tì ti, hôm sau đã thui thủi một mình. Làm sao diễn tả được nỗi đau của người cha hôm trước còn bắt kiến vàng bu trên tóc con gái hôm sau đã phải nghẹn ngào đứng xa xa ngó nó khổ đau.

Ôi ! Nh

ng tâm h

n t

ươ

i h

ơ

n h

n, nh

ng khuôn m

t không nhu

m s

u lo kia làm sao bi

ế

t đ

ượ

c ni

m ao

ướ

c c

a ông T

ư

m

i khi ng

i nhìn th

ng Sáng bò l

m c

m trên đ

t, ông khát có m

t ngày đ

ượ

c đàng hoàng, đĩnh đ

c b

ng nó xênh xang đi trên con đ

ườ

ng xóm r

p r

n hoa c

d

i, ai đó h

i, “

a, chú T

ư

,

m cháu ngo

i đi đâu v

y?” Ông s

c

ườ

i (lúc đó ch

c ông ch

ng còn răng):

- Đi đ

ng ti

m mua cho th

ng nh

m

y c

c k

o d

a. Nó mê k

o vô ph

ươ

ng.

Bây gi

th

ng Sáng đã l

ng đ

ng bi

ế

t đi,

ướ

c m

ơ

đó ch

ư

a thành s

th

c. Con Nga đã chai lì, nó thôi s

nh

ng bóng ng

ườ

i qua l

i, thôi s

nh

ng ánh m

t ngó ngiêng. Mà, hai ba con nó không bi

ế

t, xóm gi

ng đã thôi đ

ý lâu l

m r

i (Ng

ườ

i đ

i th

ườ

ng v

y, h

chém ta m

t nhát r

i quên đi, thì ch

nói cho s

ướ

ng mi

ng thôi, cho đ

bu

n thôi ch

ch

ế

t chóc ai đâu, ai bi

u ta ng

i đó đ

ôm v

ế

t s

o v

i n

i đau khôn t

). Nó bi

u ông T

ư

thôi đ

ng đi kêu oan n

a, “Hai ba con mình s

ng y nh

ư

h

i ch

ư

a có th

ng Sáng, nghen ba”. Ông già T

ư

Nh

b

o, ph

i nghĩ t

i t

ươ

ng lai th

ng Sáng mai n

y ch

con.

M

ột bữa có đoàn cán bộ huyện về khánh thành con đường giao thông nông thôn từ Xẻo Mê về Phước Hậu. Nghe nói họ sẽ đi qua nhà (đi một khúc để Đài truyền hình quay phim), con Nga bèn cầm chổi ra sân quét lá. Thấy bóng người quen, Nga gọi nhỏ, anh gì ơi. Chẳng gọi ngay tên, nhưng có người đứng lại, con Nga nghiến răng cười: “Trời đất ơi, tui chờ anh lên tỉnh làm quan quá chừng. Lên càng cao, té càng đau, đồ có quý bể mới tiếc… Tui nhịn hoài, ngậm đắng nuốt cay, lì lợm, nín thinh là tính chờ anh lên đó mới phá anh chơi, nhưng mà đợi lâu quá… Bây giờở huyện anh làm tới chức gì rồi, mà anh làm tới cái gì thì cũng do tui cho, nên anh tính làm sao không tui nổi quạu, tui đòi lại cho mà coi”. Người nọ đứng ngây ra, mặt tái như mặt gà mái, hồi lâu mới hỏi : “Bây giờ… Nga muốn gì…”. Con Nga giả đò chưng hửng, “Ủa, vậy mấy lần ba tui lên huyện kêu oan, anh không gặp sao, anh biết ba tui khổ sao anh im re vậy ?”. Nói rồi nó đủng đỉnh đi vô, kêu thầm, trời ơi, người này, hồi đó với mình nồng mặn biết bao nhiêu, khi anh ta say công danh mà bỏ rơi mình, mình đã đau vất đau vả. Sao bây giờ gặp nhau, thấy nản không muốn nhìn mặt. Thì ra, tình cảm cũng như bát nước hắt đi, không mong gì hốt lại.

R

i m

t tr

ư

a đ

y n

ng, mây trên tr

i xanh l

o xanh l

ơ

, tr

ướ

c gi

ca c

i l

ươ

ng, đài truy

n thanh xã g

i đi l

i xin l

i c

a chính quy

n đ

i v

i công dân D

ươ

ng Văn Nh

. Đ

ơ

n gi

n, g

n h

ơ

, nh

nh

m. V

y là hu

nghen. Cái câu dài thê thi

ế

t nh

ng d

u ph

y, d

u ch

m l

ng cu

i cùng cũng đ

ượ

c ng

ườ

i ta ch

m cái r

t. Ông T

ư

lúc đó đang móc đ

t n

n trâu cho th

ng Sáng ch

ơ

i, khóc h

c lên vì không c

m lòng đ

ượ

c, sao kỳ v

y cà, ng

ườ

i ta đã gi

i oan cho mình r

i, đã xin l

i mình r

i sao mình v

n mãi đau.

Con Nga đ

ng đ

ng sau, ngó cái l

ư

ng b

t đ

u còng xu

ng c

a ng

ườ

i cha, nghe gió th

i qua lòng mê mi

ế

t, nghĩ mình ngu thi

t, mình nuôi h

n ng

ườ

i

y làm chi đây, mình tr

đũa làm chi, đ

i l

y cái gì ? Có đáng không nh

ng tháng năm dài v

ng v

c? Nh

ng tâm h

n th

ươ

ng t

n ? Và kia, m

t mái đ

u b

c ph

ơ

x

ơ

xác ?

Có đáng không ? Tr

i

ơ

i, có đáng không

?

Nhớ cơm nồi đồng

Ngày

xưa, nhà nào nghèo cũng có ít nhất một cái nồi đồng. Nồi đồng ngày xưa không được người ta đóng số niêm rô từ 1, 2, 3… trở lên như xoong, chảo bây giờ, nhưng được đặt tên theo ước lượng. Nồi nhỏ nhất thường nấu cơm cho một người ăn gọi là nồi om. Nồi nấu cho 4-5 người ăn gọi là nồi lỡ, nồi nấu cho 6-7 người ăn gọi là nồi rưỡi, còn nồi nấu cho khoảng mười miệng ăn trở lên gọi là nồi hai, nồi ba…

Thật thú vị! Cái thời công nghệ chưa phát triển, người ta dùng than củi để đun bếp, dùng nồi lỡ, nồi rưỡi nấu cơm lại thơm ngon lạ thường! Nhà tôi có bốn cái nồi đồng. Nồi om nấu cơm cho ông nội. Ông tôi ăn uống thất thường, hễ lúc nào đói thì ăn nên ưu tiên số một. Nồi lỡ thì dùng nấu cơm thường ngày, lúc có khách nấu cơm nồi rưỡi, còn nồi hai thì sử dụng vào dịp giỗ chạp.

Tôi ăn cơm nồi lỡ mà lớn lên. Cái nồi đồng nấu khoảng hơn ba lon gạo bắc bếp lửa than, củi tre, củi gộc. Những bữa cơm gia đình đầm ấm bên cái nồi đồng càng nấu càng ngon. Khi nồi cơm lưng dần tới hông, lộ ra cơm cháy sém vàng. Ai đã từng ăn cơm cháy nồi đồng sẽ không bao giờ quên mùi thơm, giòn hấp dẫn. Cơm cháy nồi đồng mà chấm với mắm ngò, muối é thì khoái khẩu phải biết!

Những người bạn vong niên của tôi mỗi lần ngồi lại với nhau thường kể chuyện nồi đồng. Họ nói rằng ăn cơm cháy nồi đồng ngon gấp nhiều lần cơm nấu bằng nồi điện. Bây giờ ở quê rất ít nhà còn giữ được nồi đồng. Bây giờ, 

nhiều nhà nấu bằng bếp ga. Xoong chảo mà nấu bếp ga cứ sáng bóng chứ không dính lọ nghẹ, phải chà rửa nhọc nhằn. Song, những người thèm ăn cơm nồi đồng đành chịu.

Những năm tháng chiến tranh, cha tôi thường đào hầm chôn những cái nồi đồng để khi im tiếng súng về đào lên sử dụng, vì vậy chưa lần nào bị mất nồi đồng. Trong sự đổi thay của cuộc sống hôm nay, những cái nồi đồng một thuở gắn bó với sự đói no của con người ở làng quê yên ả đã trở nên khan hiếm.

Giờ mỗi lần cầm chiếc bánh mì còn nóng, tôi lại liên tưởng đến miếng cơm cháy thơm tho từ chiếc nồi đồng, tuy nó đã vời vợi xa...

CÁI BẾP CỦA BÀ

N

hà bà sửa sang lại hết, chỗ nhà bếp ngày xưa của bà cũng xây lại mới. Chú mua bếp ga về nấu thay cho cái bếp củi của bà. Bà làm nhà bếp lùi ra phía sau vườn. Vẫn mái tôn, vách ván, nền đất, cánh cửa sổ được mở ra bằng cách dở lên trên và chống một cái cây. Bà đâu biết nấu bếp ga. Củi cà phê đầy trong vườn, mỗi sáng sáng, chiều chiều bà ra vườn quét dọn và lượm củi khô vô để dành nấu. Gian bếp của bà có hai cái bếp kiềng ba chân. Bà đóng hai cây gỗ xuống nền đất để chặn đống củi cà phê cao nghệu. Ngo bà chẻ sẵn để trong lon sữa bò dành nhúm lửa. Bà có những cái soong màu đen, nhưng bà cũng có những cái soong rất trắng do khi nấu bà đặt miếng kê soong cho khỏi đen. Những cái soong màu đen của bà đều có vòng dây thép phía trên để xách không bị nhọ nồi dính tay. Bà làm một giàn bếp, trên đó bà để soong nồi hay các thứ linh tinh. Cá, thịt dành cho chó, mèo … bà treo trên giàn bếp này. Bà nói: “Muội khói ám vào, không bị hư”. Gian bếp của bà nhìn cái gì cũng thấy là lạ, hay hay.

Những đứa cháu của bà từ thành phố về ăn tết cứ thích tùm tụm trong gian bếp của bà, vừa tán chuyện, vừa khêu bếp cho hồng ngọn lửa. Ngo sẵn trong lon sữa bò, củi cà phê dễ cháy, cứ thế đứa vụng về nhất cũng nhóm được bếp lửa.

Buổi sáng dậy sớm, trời cao nguyên thật lạnh, co ro ra vườn nhìn ngắm những cây cà phê còn đọng sương đêm trên những tán lá. Mùi của đất, mùi lá mục, mùi của sương ban mai, không gian yên tĩnh nghe rõ từng tiếng giọt sương nhỏ trên lá, nhìn vào bếp bà đang lui cui nấu nước, thế là cả bọn kéo nhau vào bếp của bà, hơ đôi tay cho ấm. Tiếng lửa nổ lách tách, tiếng ấm nước reo reo, bà bắc ấm đổ vào bình thủy rồi bà nấu thêm ấm nữa. Bọn trẻ con giành nhau cho củi vào bếp, lấy cái ống thổi lửa chúm miệng thổi phù phù vào bếp làm bà phải mắng: “”Coi chừng tro bay đầy đầu”.

Cá bà kho bằng nồi đất, ngon ơi là ngon. Miếng cá thấm gia vị vừa cứng, vừa thơm. Cơm bà nấu lúc nào cũng có cháy, miếng cơm cháy hơi sém, màu vàng nhạt, thơm mùi gạo mới, giòn giòn đứa nào cũng tranh nhau ăn cơm cháy chấm với nước cá kho.

Bà lui cui dưới bếp suốt ngày, ai muốn nói chuyện gì với bà chỉ cần xuống bếp. Bà để sẵn mấy cái đòn bằng gỗ có mặt ngồi láng trơn để ngồi cho khỏi mỏi chân. Buổi sáng bà nấu nước, ba vào bếp nói chuyện với bà, tiếng bà trầm trầm, bỗng bỗng, cho dù ba đã lớn nhưng vẫn phải nghe lời khuyên nhủ của bà. Trong gian bếp ấm cúng này, mọi người nói chuyện không nhìn mặt nhau mà cùng nhìn vào cái bếp đang hồng ngọn lửa. Vừa nói chuyện, vừa cho củi vào bếp, lửa bùng lên thấy rõ gương mặt bà hiền từ, có những nếp nhăn thời gian, sao mà thật thân thương.

Chiều nay bà bắt con gà mái tơ trong vườn để làm thịt thết đãi bọn trẻ con thành phố. Khói trong gian bếp của bà bay lên quyện vào ánh nắng vàng mong manh. Hoàng hôn buông xuống mang theo cái lạnh gai gai. Bọn trẻ con ùa vào gian bếp, tranh nhau thổi phù phù cho hồng ngọn lửa. Không nơi nào ấm bằng gian bếp của bà.

Truyện ngắn: Nước sâm

Cập nhật ngày: 17/05/2013 19:07:14

Nếu không có ông bán nước sâm từ bên kia đường bất ngờ tung một cú song phi ngang qua mặt lộ để chặn cây dù ngã chực bay về phía học sinh của trường tiểu học lúc tan trường đang xếp hàng qua ngã tư giữa lúc trời dông gió và xe cộ đông nghịt, thì sự thể cũng chưa biết như thế nào.

Phụ huynh đón con em và những người có mặt lúc đó đều tỏ lòng khâm phục. Bạn bán hàng cặp bên hông trường học từ đó cũng thiện cảm hơn với ông bán nước sâm có phần thầm lặng này.

Bạn bán hàng chung đường với ông sau sự kiện cây dù ngã cũng nhận ra ở ông bán sâm có nhiều điều là lạ. Ai cũng bất ngờ, rằng ông già lòm khòm, ốm tỏng teo kia lại có võ nghệ cao cường. Có người hỏi, ông nói rằng, thuở nhỏ ông theo thầy có học mấy miếng phòng thân.

Cú song phi bữa nọ, thầy chưa dạy mà ông cũng chưa biết lần nào. Chỉ vì trước cơn nguy kịch, thương mấy đứa nhỏ, giật mình, ông tung người một cú thụt mạng. May là kịp chặn được cây dù trước khi nó vụt bay.

Nghe nói vậy, người chung quanh cho rằng ông giấu nghề nhưng cũng không hỏi gì thêm. Ông đậu xe nước sâm ở góc ngã tư này được 3-4 năm rồi, kế bên cô Sáu bán xôi bì buổi sáng.

Nước giải khát ông bán, thuở giờ ông không gọi nước sâm. Chỉ là nước mát giải nhiệt thôi, có bổ gì đâu mà gọi nước sâm nghe sang trọng quá. Mát theo nghĩa đen và theo nghĩa dân gian thường gọi. Ban đầu nước mát của ông gồm rễ tranh, mía lau, thêm lá cây lẻ bạn, mã đề…

Dần dần ông thêm thục địa, rong biển và… vân vân… Nước mát của ông bán từ màu vàng vàng dần dần chuyển sang màu đen đen và hương vị cũng dần dần đổi khác. Có điều, cũng thơm ngon, hấp dẫn hơn lúc ông mới ra nghề.

Ông bán nước sâm từ sau khi vợ ông mất do căn bệnh ngặt nghèo nhiều năm không chữa khỏi. Từ khi đứa con gái duy nhất của ông thi đậu vào Trường Đại học Cần Thơ. Chuyện này thì do cô Sáu bán xôi kể lại. Trước đây, căn nhà nhỏ trong hẻm của vợ chồng ông cũng là tiệm tạp hoá nhỏ trong xóm lao động nghèo do vợ ông bán.

Còn ông, với chiếc xe đẩy từ thuở nhỏ đã cùng vui buồn, ngang dọc khắp cùng ngỏ ngách trong cái chợ ven sông này. Thuở vợ ông bán rau cải trên sạp trong chợ, cũng là một trong những mối ruột của ông trong việc chuyên chở hàng mua bán, đi về.

Chẳng ai bày mà hai người phải lòng nhau rồi thành vợ, thành chồng sau đó. Đó là bất ngờ lớn nhất trong đời ông. Có lần vui, ông kể cho cô Sáu nghe như vậy.

Thành công thứ hai trong đời ông là việc chế biến nước mát. Ông nói như vậy. Nước mát do ông chế biến với những nguyên liệu rẻ tiền, dân dã lại phù hợp nên tạo hương vị riêng, hấp dẫn mà lại rẻ tiền. Nhưng người nào mua cũng gọi là nước sâm. Rốt cuộc thành tên theo khách hàng thường gọi - nước sâm.

Thành công của ông là cùng một loại nước giải khát bình dân đó ông đã tách thành hai loại - ấm và lạnh. Chính điều này giúp ông bán được cả ngày mưa cũng như ngày nắng, tối ngày. Điều đó trở thành cứu cánh, giúp ông có tiền nhiều hơn để nuôi đứa con gái đang học đại học ở xa ông.

Khách hàng ông vừa lạ cũng vừa quen. Có người uống ngày một hoặc vài bận, có người mỗi bận uống đến hai ly. Những bạn hàng chung đường uống giúp ông. Những cô bán cà phê bên kia đường, buổi trưa, cũng mang ly qua mua về quán uống.

Khách đến, cặp xe máy, xe đạp bên cạnh xe nước sâm. Chỉ kêu gọn một tiếng: ấm hoặc lạnh là đủ. Mỗi khách hàng, mỗi lần gặp một, hai phút là cùng, vẫn tiếng gọi đó, vẫn thời gian đó, mỗi ngày. Nên gặp là nhớ - chỉ là nhớ gương mặt chớ chẳng có gì hơn, mà ông vẫn nghe vui trong lòng.

Thường khi nhận hoặc thối lại tiền, với ai ông cũng nói tiếng cảm ơn. Dường như cho bớt trống trải hơn là ý nghĩa hàm ơn nào khác.

Cô Sáu bán xôi kề bên nên biết nhiều chuyện của ông. Cô nói ông chỉ uống trà thôi, không uống cà phê. Trong xe ông có một bình trà, đã cũ lắm rồi, nho nhỏ. Thi thoảng ông rót uống một chun, cũng nho nhỏ. Thường là khi ông hút thuốc. Thời buổi bây giờ mà ông còn hút thuốc gò. Điếu thuốc ông vấn nhỏ bằng cái chân nhang, chỉ hút hai, ba hơi là đã hết.

Nhìn điếu thuốc, người ta không biết ông có ghiền thuốc không, nhưng ông chỉ hút cho vui, để tay chân bớt trống trải lúc rảnh rang. Ngoài mấy chun trà, mấy điếu thuốc gò nho nhỏ ấy, mỗi ngày, ông còn hai bữa xôi mua của cô Sáu.

Ông mua hai hộp xôi bì của cô Sáu lúc cô đã bán hàng xong, chuẩn bị gióng gánh ra về. Một hộp ông ăn liền lúc đó, một hộp ông để dành buổi chiều. Đó là hai bữa ăn chính trong ngày của ông. Hai hộp xôi bán cho ông, cô Sáu bán nhiều hơn người khác đã đành, mà còn thêm cho ông phần cơm cháy nữa khi nghe ông nói, hai bữa cơm trong ngày của ông là hai hộp xôi này.

Ông nói, ông thích ăn cơm nếp từ nhỏ. Ông ăn cơm nếp thay cơm. Ăn cơm nếp bụng nó êm mà lại no lâu. Hơn nữa, xôi bì của cô Sáu bán rất vừa miệng ông. Một chút mỡ hành phết trên mặt xôi, để bì lên trên xôi, chan nước mắm chua ngọt, rồi đồ chua, ớt bằm… Hương vị đó khó mà quên được.

Cũng là cơm, mà lại là cơm nếp nên vị ngọt đậm đà, có mỡ, có thịt hẳn hòi, bữa cơm giá bèo của người nghèo, đủ đầy cỡ đó đòi hỏi gì hơn… Khách hàng của cô Sáu, người lớn, trẻ em, nhiều người khen xôi của cô bán, thật tình chưa ai khen xôi của cô Sáu tới cỡ như ông.

Cô Sáu nói ăn uống kiểu này, sức đâu mà làm, mà sống. Ông cười. Ông hỏi cô Sáu có thấy người tu hành, mỗi ngày ăn một bữa đúng ngọ đó, thì sao? Người tu hành ăn chay, còn ông ăn mặn, nhưng ông tập tành để giống cái tâm bình an, lòng không xao động chi nhiều.

Quá khứ đã qua và đời ông, hối tiếc gì phải nhắc tới? Hiện tại ông có một việc làm, thu nhập không nhiều nhưng không mong cầu gì nhiều thì cũng chấp nhận được. Còn tương lai, ông chỉ một nguyện ước duy nhất, đó là ngày con gái ông tốt nghiệp, ra trường. Không mong cầu điều gì to lớn, tâm bình an, như chiếc xe chạy ga-ăn-ti thôi thì đâu phải tốn nhiều xăng… Biết đủ thì đâu bao giờ thiếu, cô Sáu!

Giải thích theo kiểu của ông, cô Sáu nghe là lạ, vừa như có cái gì mông lung, huyền bí mà cũng lạ lẫm lắm. Có điều cô Sáu không hiểu được tận tường, không biết đúng hay không, nên cô chỉ cười.

***

Ngày thứ hai, không thấy ông bán nước sâm đẩy xe nước sâm ra bán nên buổi trưa, gánh hàng về cô Sáu ghé nhà thăm mới hay ông bệnh. Ông nấu nước sâm chuẩn bị đi bán nhưng rồi đi không nổi. Ông nói trong lúc rót nước sâm ra ly mời cô Sáu. Cô Sáu hỏi ông có muốn ăn xôi bì không, cô có dành lại cho ông phần xôi như mọi ngày.

Ông nói, ông cũng định ra mua xôi mà cũng đi không nổi. Hổm rày, ông nói, dường như có nhiều thứ trong người không chịu nghe lời mình nữa. Ông đi khám bệnh, bệnh viện kêu phải nằm lại để làm nhiều xét nghiệm nữa mới có kết luận chính xác được. Ông đang bệnh nặng.

Thấy cô Sáu lo lắng, ông nói - cuộc sống vốn vô thường, sống chết cũng là chuyện không nằm ngoài quy luật đó. Chờ thêm một đêm nữa chắc cũng không sao. Con ông đã tốt nghiệp, ngày mai làm lễ xong, nó về. Nếu là người tu hành thì ngày mai là ngày tôi đắc đạo, bởi nguyện ước của tôi đã thành sự thật. Cô Sáu uống nước sâm đi, đời tôi chẳng có gì đáng giá, chỉ có nước sâm là thứ mát lành.

Ông trở bệnh, đêm đó lối xóm đưa ông vào bệnh viện nhưng không còn kịp nữa. Ông đi sớm hơn một buổi, trưa mai con gái ông về. Nhiều người ngỡ ngàng, tuy biết điều ước duy nhất của ông đã thành sự thật. Nói theo cách của ông - ông đã đắc đạo./.

Nồi kho quẹt

Ở nông thôn miền Nam mùa mưa, thường được hiểu, là mùa no đủ thức ăn của nông dân. Nước tràn đầy hồ ao đồng ruộng, cây cối tốt tươi, rau mọc đầy đồng, cá lội tung tăng. Nhưng ít ai để ý rằng, no đủ là khi đã vào mùa mưa, được chừng hơn một tháng. Lúc này nước mưa đã xâm xấp, con cá con cua đã lớn, ăn được. Cọng rau mọc ngoài đồng đủ độ dài để nấu canh, ăn sống, bóp gỏi, làm dưa chua. Chớ đầu mùa mưa công việc đồng áng, chuẩn bị cho mùa lúa mới thì nhiều và nặng nhọc, mà cái ăn thì lại thiếu thốn chất tươi, bởi mưa chưa đủ cho cua cá sinh sôi, rau mọc chưa đủ lớn. Đây chính là khoảng thời gian người nông dân bắt đầu giở mắm mặn trộn thính, được làm từ cá tát đìa cuối mùa mưa năm ngoái, ra chế biến đủ kiểu để ăn hằng ngày. Nhà nào “bèo” quá không đủ mắm cá ăn thì ăn tạm bằng món kho quẹt, được kho trong nồi đất.

Kho là một trong những món ăn quen thuộc, dân dã nhất của người Việt Nam. Kho, có thể có nước nhiều (thịt kho Tàu, cá kèo kho lạt, cá khoai kho lạt), nước ít hoặc chỉ sền sệt. Kho quẹt tức là làm cho nước trong món kho, từ sền sệt cho tới khô rang luôn. Món kho quẹt có thể để dành được hàng tuần, mà không cần để lạnh.

Kho quẹt là tên gọi quen thuộc, chỉ món nước mắm kho của miền Tây. Đổ nước mắm vào nồi nấu cho quánh sệt lại. Khi ăn, không thể dùng đũa gắp món nước mắm kho, vì nó là một chất sệt. Chỉ có thể dùng đầu đũa quẹt cho dính một chút, rồi đưa đầu đũa vào miệng mút.

Sau này, người ta gọi chung tất cả các món kho khô sền sệt, đóng nước mắm khen khét chung quanh cái nồi đất, khi ăn phải lấy đầu đũa quẹt quẹt vào chỗ khét khét đó, rồi mút mút là món kho quẹt. Chỗ nước mắm khét khét này thơm ngon đến mức độ, nhiều lúc mọi người tranh nhau quẹt lấy quẹt để chỗ khét khét đấy, mà chê món thịt, cá trong nồi. Kho quẹt phải kho trong nồi đất, nước mắm cô đặc lại, đóng chung quanh nồi bay mùi thơm phức, để cả tuần cũng ngon như thường. Còn kho trong nồi kim loại, mới 2 ngày thôi, thì món ăn đã có mùi tanh kim loại, gặp loại nồi nhôm thường bị ra “teng” (tức kim loại bị oxy hóa) trắng trắng, nhìn thấy ớn, hết muốn ăn.

Muốn kho quẹt ngon, trước tiên, ta phải có cái nồi đất ngon lành. Chọn mua loại nồi thuần đất sét (nồi gốm), bên trong không tráng men gì hết. Nồi màu đỏ gạch đều từ trong ra ngoài, thành và đáy dày, tròn đều, nắp nồi hơi nhỏ hơn miệng nồi chừng vài li, vừa vặn úp kín lên miệng nồi là được. Đừng lấy nồi có màu trắng ngà ngà vàng hay loang lỗ, đen xám, là nồi nung bị lép lửa hay nung chưa chín, gốm bở, gặp nước mau nứt, mau bể. Nồi bên trong có tráng lớp men bóng nhìn đẹp đẽ, sang trọng, mắc tiền chớ không tốt. Men đó không chịu được nhiệt, đốt nóng là nứt, làm cho thấm nước và mau bể. Còn loại nồi đất Trung Quốc, Hàn Quốc không biết họ sản xuất bằng vật liệu gì, cầm lên nặng, trong ngoài bóng láng như thủy tinh, đẹp nhưng kho không có mùi thơm, để lâu thức ăn bị chảy nước. Thường thì ta phải chọn cái nồi đất to hơn gấp đôi số thực phẩm ta muốn kho, để lúc kho gần cạn, nước mắm không văng tứ tung ra ngoài mà bám hết vào thành nồi.

Nồi đất đem về phải đốt  lại lần nữa, nếu không, khi nấu ăn nồi bị thấm nước từ trong nồi ra ngoài, và thức ăn có mùi hôi của đất. Hồi xưa người ta đốt nồi đất bằng cám. Lấy cám gạo bỏ vô đầy nồi, đậy nắp lại, bắc nồi lên bếp lửa đốt đến khi nào cám trong nồi cháy hơn phân nửa, tức cháy đen hết phần cám vòng quanh thành nồi, đáy nồi, còn lại phần cám chính giữa là được. Đốt nhiều quá nồi sẽ bị nứt. Mục đích của việc đốt cám là làm cho chất béo trong cám chảy ra trám kín vào nồi, làm cho mặt trong nồi không thấm nước, và cám sẽ làm thơm nồi. Phương pháp này có ưu điểm là bạn đốt luôn được mặt trong cái nắp nồi mà không làm cháy mặt ngoài nắp nồi, nắp nồi vẫn giữ được màu đỏ gạch đẹp.

Ở Sài Gòn, tìm mua cám hơi bị… khó, nên để đơn giản, người ta dùng một cục mỡ heo còn sống bằng ba ngón tay để đốt nồi. Ghim cục mỡ này vô cái nĩa lớn. Nồi rửa sạch bằng nước lã rồi bắc lên bếp, chờ cho nồi nóng, cầm cái nĩa có ghim cục mỡ chà xát liên lục khắp mặt trong nồi, cho mỡ chảy ra thấm vào nồi, đến khi nào thấy mặt trong nồi đổi thành màu đen láng bóng là được. Có thể lật ngữa cái nắp nồi đặt lên bếp, rồi lấy cục mỡ hồi nãy chà xát mặt dưới nắp, để nắp nồi mất mùi đất. Tuy nhiên, làm thế này thì mặt ngoài nắp nồi bị lửa đốt cháy thành quằn quện, xấu xí. Nhắc nồi xuống để nguội, rửa nồi lại cho hết mùi hôi, sau đó mới dùng nấu thức ăn được.

Nếu không có mỡ heo sống thì dùng cỡ nửa chén dầu ăn (cho nồi kho quẹt được 300 gram thịt) đổ vào nồi. Khi dầu sôi lên, dùng cái vá có cán dài, múc dầu rưới từ miệng nồi trở xuống, sao cho dầu thấm đều tất cả mặt trong nồi. Rưới dầu cho đều và liên tục, đến khi nào thấy toàn bộ mặt trong nồi đổi thành màu đen bóng, thì nhắc nồi xuống, để nguội rồi rửa sạch, là xong.

Thông thường, người ta kho quẹt bằng thịt heo nạc xắt nhỏ, cá con, tép, cua, ghẹ, ốc, nghêu, sò. Chưa thấy ai kho quẹt bằng thịt bò hay thịt trâu cả. Món kho quẹt ngon nhờ nước mắm ngon và gia vị (muối, đường, dầu ăn hoặc mỡ nước, gừng, nghệ, tỏi, ớt, tiêu…) tuỳ khẩu vị riêng từng người.

Tẩm ướp thực phẩm với số lượng gia vị, thường là nước mắm, bột ngọt và  chừng một muỗng café đường. Khi tan ra, hỗn hợp gia vị sẽ ngập tới mặt lượng thực phẩm sử dụng. Không thêm nước, nấu nhỏ lửa cho đến khi nước kho quánh sệt lại, và bọc kín món ăn được kho một lớp dày gia vị. Cho thêm mỡ nước hoặc dầu ăn, tóp mỡ, vài tép tỏi sống đập dập, kho lửa riu riu lần nữa. Rắc thêm tiêu, hoặc ớt bằm, hành lá cắt nhỏ lên trên mặt, là ta có nồi kho quẹt ngon lành. Cách kho này nói chung, thường rất đậm vị mặn ngọt (nêm tùy khẩu vị), nhiều dầu mỡ. Sau khi nước mắm đã rút còn sền sệt, có người còn chắt một ít nước cơm sôi từ nồi cơm mới nấu vào, rồi kho lại lần nữa cho nước kho trong nồi đặc sệt, như có pha bột.

Món kho quẹt này dễ làm, ai cũng có thể “trổ tài” được cả, vừa rẻ tiền lại vừa ngon. Kho quẹt ăn với rau muống, rau lang, rau dền, rau trai, rau chóc, đọt bầu, đọt bí, đậu rồng luộc, là ngon nhất. Cũng có thể ăn với món gỏi chuối ghém, bông súng bóp dấm hay cải xanh (loại để làm dưa), dưa leo đèo, ngó sen, bông điên điển muối chua, canh chua bông so đũa nấu cơm mẻ, đều phù hợp.

Mỗi độ mưa về, không khí bên ngoài lạnh và ẩm ướt. Sau một buổi làm việc nặng nhọc, người nông dân bụng đói cồn cào trở về nhà, mở nắp nồi cơm trắng bốc khói nóng hổi trên bếp. Xới cơm ra ăn với kho quẹt nóng, rau luộc nóng, dưa chua hay canh chua cơm mẻ, vừa thổi phù phù cho bớt nóng, vừa lùa cơm vào miệng, người khỏe mạnh ăn liền một lúc năm sáu chén lớn, vẫn chưa muốn thôi. Ăn rồi ra đồng cày cấy, làm cỏ, lật đất… băng băng, hổng ai bịnh tật, ốm đau chi hết. Người xưa có câu: “Trời sinh voi sinh cỏ”, “Trời sinh Trời nuôi”, chắc cũng có nguyên nhân từ những bữa cơm kho quẹt nghèo nàn, giản dị này.

Sổ lồng

Buổi trưa này như của hôm qua, đài cũng đang phát một bài ca cải lương, sóng âm dặt dẹo. Và tờ lịch đóng băng ngày mùng bốn. Chỉ tiếng chồng gầm gừ làm Lý biết có gì đó bị bỏ lỡ.

- Lúc này cô ngon ha. Dám để tôi ngủ muỗi ngoài đống rơm suốt đêm.

Mắt vẫn lảng vảng những con muỗi đói tối qua, chồng đập bép rồi gãi, mặt và tay dày mẩn đỏ. Lý ngó quanh tìm đứa con gái nhỏ chạy chơi bên xóm, cầu cứu nó tìm giúp chị mười sáu tiếng đồng hồ bị đánh mất. Ký ức bị đứt, từ xế trưa hôm qua đến giờ là một khoảng rỗng không. Hồi chưa chồng có lần uống rượu say, Lý cũng lẫn lộn nhớ quên vài thứ, nhưng không quên trắng như chưa từng sống kiểu này.

Tôi biết cô ngon rồi. Chồng vẫn nghiến ngầm, giọng đã lợ sang ngờ, lại có chút gì bâng khuâng. Cả anh cũng không tin nổi vợ đã không đón anh lên, không mở cửa cho anh như vẫn thường làm mỗi tối say mèm chân nọ rối chân kia. Khuya nào nhậu về anh cũng ngồi ở bờ sông réo Lý đón, có bữa chị mệt quá ngủ quên không thưa, anh lên tận cửa nhà kêu rồi lại quay xuống bến đợi được dìu.

Khuya qua Lý đã để chồng ngủ ngoài sân.

Như người say không biết sao lại đứng khóc trước nhà bồ cũ, Lý nghĩ đầu óc cũng tráo trở đôi khi. Như hôm đầu nhìn con trên tay bà đỡ, chị cảm giác đã gặp đứa bé lâu rồi. Có lần nghe rõ ràng có tiếng ghe máy quen lắm ngang qua dù mặt sông không hề xao động, nhiều lần mắt ráo trơ mà tưởng mình đang khóc. Giờ đứt lìa luôn một đoạn nhớ, không bất ngờ nhưng sợ. Giống hệt ảo thuật trên truyền hình, đang mặc bộ đồ bông tím ngó lại đã thay bộ rách vai, chớp mắt đã sang ngày.

Nồi canh rau mồng tơi nấu tép rong mới bốc khói đây, giờ trên bếp chỏng chơ ơ cá bảy trầu kho quẹt. Chồng thì giận tràn hông vì ngủ muỗi, lúc anh kêu cửa chị vẫn tỉnh bơ ca vọng cổ như chọc tức. Đúng là ăn gan cóc tía. Con Mai Liên rụt rè nói không phải, tối qua mẹ dẫn con đi thi văn nghệ ở trường. Cõng con về tới nhà đã khuya, mẹ ôm con ngủ queo, đâu có nghe ba kêu.

Bím tóc thắt kiểu xương cá của con nhỏ mềm búng tay Lý. Nó nói chị thắt. Chẳng nhớ nổi từ hồi nào chị không chăm chút cho con. Lâu lâu giở mấy bộ đồ đứa trẻ mặc hồi vài ba tuổi, mới hay nó lớn lên như cỏ dại ngoài vườn. Chị đã mặc kệ nó. Vì đứa trẻ này mà chị gấp gáp lấy chồng và bởi nó nên chồng ghét chị. Kéo con vào lòng nựng nịu chị sợ ánh nhìn bén ngót của chồng.

Ai cũng khen tên Mai Liên sang như dân chợ, nhưng cái tên đó Lý cũng đặt ầu ơ theo lời bâng quơ của cô y sĩ trạm xá khi nhìn đứa trẻ cuộn trong nách chị tìm hơi, “Con nhỏ như Miên lai”. Mỗi khi có người hỏi thăm con nhỏ giống ba hay mẹ, chị bốc khói bởi cái cười khét lẹt trên môi chồng, “giống ai thì vợ tôi mới biết chắc được”.

Nhưng Mai Liên mắt tròn mắt dẹt kể chị đã cõng nó, tối qua. Bím tóc xương cá như một bằng chứng yêu thương hiếm hoi của mẹ, phải xổ ra gội đầu thì con nhỏ tiếc. Nhìn mắt con thắp vui ngây ngất, ngực Lý thắt lại, vội quơ lấy cái nón lá rồi ra khỏi nhà. Chồng không giật giọng hỏi đi đâu, quanh cái võng anh nằm đang bay lượn những ngờ ngợ. Cô ta mà lại dám bỏ anh làm mồi cho bầy muỗi lá ngoài kia. Cô ta dám? Không nín nhịn nữa sao?

Nắng đổ tháo từng vũng sền sệt trên đường. Nhưng cái khoảng trống mênh mông của một ngày rơi rớt làm lưng Lý lạnh. Buồng phổi cứng đanh bởi hít thở thứ không khí khô quánh. Qua doi có người bán kem đang ngồi đụt nắng dưới đám quao, anh dợm đứng lên như đã chờ chị lâu rồi.

- Tôi lo cho em suốt từ tối qua. Trời, sao em nhìn tôi lạ vậy, em nói sẽ trốn đi với tôi mà.

Lý nhớ đời cái tháng tư giáp hạt này, một ngày bị rớt mất đâu đó dưới nắng nôi hầm hập và người ta rủ nhau chơi phép điền vào ô trống của con nít. Người đàn ông này vẫn thường ghé nhà chị xin nước mưa, nghỉ chân đụt nắng dưới cái chái tồi tàn đằng trước. Hồi đầu thì Lý cũng niềm nở chào hỏi, nhưng từ lúc thấy anh ta hay da diết nhìn mình, nói ba khơi, chị trở mặt lạnh tanh. Mấy cây kem anh ta cho Mai Liên, Lý bắt con đem tiền trả rồi quẹt vô đít nó mấy roi trước mặt anh vì cái tội nhận quà của người lạ.

“Tôi vẫn qua xóm này, nhưng sẽ không phiền em đâu”, anh bán kem rười rượi, không ghé qua khoảng sân vàng hoa nắng nữa. Mấy con chó ngủ ngày trong xóm kịp làm quen với tiếng nhạc xe kem dậy động những ban trưa. Nhạc chỉ tắt lặng khi đi qua nhà chị.

Vậy mà hôm qua, bằng cách nào đó chị đã níu anh ta lại, rủ cùng nhau bỏ trốn. “Tôi mừng hết lớn - anh hổn hển - Qua khỏi nhà máy xay lúa xóm Lung tôi còn tưởng nằm mơ”. Soi mắt anh, chị thấy một con đàn bà như cái chấm đen lơ vơ trên con đường xóm đang sôi bọt nắng, bộ dạng nhỏ nhoi, cô độc, ngơ ngác. Chị thèm muốn được nhớ lại, và quả quyết nói không phải, tôi đâu phải thứ đàn bà ấy, hôm qua tôi đưa con gái đi thi văn nghệ đằng trường.

Nhưng chị không nhớ gì hết, từ một giờ trưa hôm qua đến hiện tại là một quãng ký ức mù. Qua nhà máy xóm Lung nghĩa là bọn chị đã đi rất xa, sắp chạm vào chợ huyện. Từ đó đến chuyến xe đò cuối cùng rời thị trấn chỉ nửa giờ đồng hồ. Anh ghé tiệm tạp hóa mua chai nước và chị đã biến mất, như một cọng cỏ lún sâu vào trong bóng tối mịt mùng.

“Tôi nghèo nhưng chắc chắn tôi sẽ lo cho em tử tế. Em không tin tôi sao?”, giọng anh bán kem nhuốm tuyệt vọng, thân người đổ bóng như một dấu hỏi kềnh càng. Hốc mắt ngầu đỏ, chút nữa chắc máu từ đó sẽ chảy thành giọt không làm sao cầm lại được. Lý hoảng quá lập cập bỏ đi một nước. Sau lưng chị, người đàn ông rúm ró như con mèo hen bị đem bỏ giữa đường.

Qua quán nước đập Chệt hình như có vài người trong xóm vẫy tay, kêu ơi ới, nhưng chị không dám tạt vào với ý nghĩ bây giờ bất cứ người quen nào cũng có thể điền vào cái chỗ hỗng trống hoác của vùng nhớ, lỡ họ nói hôm qua chị giết ai đó, hay trần truồng ca hát cùng tụi nhỏ. Không biết còn gì tệ hơn chuyện chị muốn trốn đi.

- Nợ đời con vay thì phải trả cho xong.

Lý hay nói vậy với má, những lần bà dấp muối trên gò má, cổ tay sưng vù của chị. Bà hỏi chịu đựng thằng chồng xỉn say tới chừng nào. Hất mặt về phía trời, chị cười, ý nói má hỏi ổng đi. Chị nợ chồng, má cũng góp phần vay. Hồi đó bà bảo phải tìm ai đó cưới ngay để cái thai vô chủ đội bụng thì tao bỏ xứ. Ra sông cọ lọ nồi gặp thằng con trai đằng xóm chài tôm mà cứ đứng nghệt ngó mình, Lý ngoắc lại hỏi, có muốn lấy tui không?

Chính tay mình đã biến anh chàng ngù ngờ dễ thương đó trở thành người đàn ông thất vọng, cộc cằn này đây. Lý áy náy mỗi khi thấy chồng đá con mèo chửa. Chó chửa chồng cũng ghét.

Cưới chưa tròn tháng, chồng phát hiện cứ dán bụng mình vào bụng vợ là nghe có gì đó động cựa phập phồng. Đứa bé ra đời nhanh như lúa ngắn ngày, ngó nó bò chơi trên đất, chồng dùng trí tưởng tượng cằn cỗi dựng lại mặt mũi của gã giang hồ đã biến mất cùng chiếc ghe hội chợ. Ngó Lý nằm ngủ, chồng lại hình dung lưng trần người đàn bà này đã từng dính dấp lá tre khô ở phía sau đình, hai bàn chân trần đã từng duỗi đứ đừ đư cùng đôi chân thằng đàn ông khác.

Mình là chồng, mình cũng uống cho say, không thì làm cách nào khỏi nhớ mấy chuyện đó. Chị thường nghĩ vậy, vô cùng thanh thản, tuyệt không chút cay đắng nào. Bỏ trốn theo người đàn ông mà chị còn chưa biết tên, chỉ vì anh ta đã từng xé áo bó ngón tay chị đứt, chỉ vì anh ta thường nhìn chị bằng ánh nhìn day dứt và hỏi cô sống vầy mà gọi là sống sao? Không đâu, không bao giờ. Chị vừa đi vừa lẩm bẩm, hệt những đứa trẻ bị sai đi tiệm tạp hóa, lẩm bẩm để khỏi lẫn lộn giữa đường diêm và diêm quẹt.

Ngẩng lên đã tới nhà má. Lý vẫn thường đi về nhà bằng kiểu đó những lúc tan hoang. Không biết đi cách nào, bao lâu, bằng gì, chỉ biết sực tỉnh nhìn quanh là cái bàn ông thiên nằm giữa bụi bông trang đỏ hiện ra. Hai chân về nhà luôn có mắt. Nuốt ực bao nhiêu đau đớn bên cái cổng rào ọp ẹp, như mọi khi, chị làm mặt tỉnh bước vào.

- Qua cơn khùng rồi sao?

Má hỏi khi vừa nhìn thấy Lý. Mình cũng gây chuyện ở đây, chị nghĩ. Mớ rau muống đỏ eng lả ngọn trong thúng. Má nói là của chị. Chiều hôm qua chị ghé nhà má mượn gạo, đội theo thúng rau muống ốm o hái dọc theo những đáy mương đã cạn trơ lòng. Rau mùa nắng cọng cứng đanh, hôi mủ. Đáy thúng còn có ít gạo, nửa chục trứng gà má dúi cho.

- Mắc gì bây xách dao chạy theo chiếc ghe đó?

Tóc tai xấp xãi sổ tung. Chân trần. Quần xoắn ống cao ống thấp. Lý lăm lăm xách dao chạy trên bờ, chiếc ghe chẳng biết sợ gì cũng lao đi xịt khói. Chị đã nhìn thấy gì trên ghe, má không biết, chỉ biết đứa con gái tội nghiệt bỗng hộc lên, chụp cây mác vót phóng theo quyết liệt, điên dại.

Săm soi đôi tay khô quéo, chị cố bói một ký ức hãy còn nóng hổi. Những ngón tay chai này đã từng cài chặt cửa mặc chồng ngủ muỗi, đã cầm dao săn đuổi một chiếc ghe nào đó ngang qua bến, đã từng nắm tay người đàn ông lạ hay nâng niu đứa con gái nhỏ bơ vơ?

Má hỏi chị đuổi theo chiếc ghe đó tới đâu. Chị cười cười trong lúc đầu óc dần nhẹ bẫng, “Cũng không biết tới đâu, chạy mệt nghỉ thì thôi, đuổi làm sao kịp thứ đã mất lâu rồi”.

Lạ lùng cái tháng tư nắng đỏ, bỗng dưng mấy con đàn bà lạ hoắc chạy tới, bảo họ chính là Lý, sổng ra từ đâu đó bên trong chị. Nhận lại phiên bản nào Lý cũng thấy xốn xao. Không biết trong chị còn những ai nữa đòi được sổ lồng, bất chấp bị lấp vùi, đè nén. Đám cháy lớn sau đình suýt nữa thiêu rụi gian thờ thần hoàng đêm hôm ấy, người ta nói Lý châm lửa chớ ai.

Tức cười nhất là con Lý hùng hồn cắm cây mác vót vào giữa tim sông, sau khi chém nát mặt nước kiệt ròng, băm vằm dấu cặn bùn chiếc ghe để lại. Chỗ đó cách nhà Lý gần hai mươi cây số. Mặc kệ cây dao lút cán trong bùn, chị nhẹ nhõm thả tàu ngược về. Tĩnh lặng tràn trề, chị trôi ngửa như xác chết, mắt chong rờ rỡ bóng mây. Hơn nửa đời lí nhí cúi mặt, Lý bỗng nhìn thẳng vào trời không run sợ mảy may.

Ký ức hoang đường đó do bà xẩm khùng bên xóm tặng, gặp Lý lần nào bà cũng rụt rè lấy ngón út ẩy nhẹ vào người chị, dè dặt hỏi “sống lại rồi sao?”.

Lu lu

Con chó phòng bên cạnh lại sủa. Tiếng sủa của nó nghe mà ghê hồn. Hình như nó căng hết lồng ngực, nén tiếng cho vọt ra khỏi cổ họng. Lâu lâu, nó ngưng lại, thay vì sủa tiếp nó lại rít lên. Tiếng rít của nó vẻ như ai oán, nghe riết róng.

Thường ngày Quảng phải lấy hai cục bông gòn nút lỗ tai lại. Hai cục bông gòn thật to, còn thêm cả chiếc khăn bông quấn vòng quanh đầu để lỗ vành tai gấp lại che thêm chút ít khiến cho tiếng sủa của con chó giảm bớt đi chút ít.

Nhà Quảng cách phòng trọ này không xa. Nhưng anh không về mà thuê căn phòng này để làm việc. Công việc của một người nghiên cứu về dân số học. Khi đến đây anh yêu cầu ông chủ nhà trọ cho anh thuê căn phòng nào cách biệt một chút, ở trong sâu một chút, càng yên lặng càng tốt.

Thì căn phòng số 11 này của anh đã sâu, đã xa rồi đấy. Nhưng gặp phải con chó. Tối nào cũng làm vài giờ ông ổng sủa. Chủ của con chó là một cặp vợ chồng còn trẻ. Nghe nói hai người cưới nhau đã lâu mà không có con. Anh chồng cao ráo, khoẻ mạnh, vâm váp. Cô vợ thì ngược lại, nhỏ quắt, ốm tong teo. Ngực không thấy mà mông cũng chẳng nhô cao hơn lưng bao nhiêu. Hai mắt cô lúc nào cũng thâm quầng như người khóc nhiều. Cặp môi thì xám ngoét. Người ấy, xem ra đường con cái không mấy dễ dàng. Mà sao họ lại thành đôi lứa được, mới lạ. Không con, nên họ nuôi một con chó cho vui.

Chẳng ai biết họ cưng con chó như thế nào. Nghe đâu, khi nằm ngủ, họ cho con chó nằm vào giữa. Hai vợ chồng hai bên ôm choàng lấy chó mà ngủ. Chuyện trong phòng ngủ người ta làm sao mà biết được. Nhưng những điều mắt thấy tai nghe thì đủ cho thấy họ quý con chó như cục cưng vậy. Lâu lâu, vợ đi sau, chồng đi trước cõng chó dạo dọc đường hẻm nơi có khu nhà trọ này. Có khi chó ị xong chẳng thấy lau chùi gì, người vợ ẵm nách con chó mang nó về nhà. Con chó vì thế mà không khi nào rời chân hai người. Nhưng dạo này hai vợ chồng kia có công chuyện gì  đó phải đi đến khuya mới về. Trước khi đi, họ nhốt con chó ở trong phòng. Thế là con chó bắt đầu lên tiếng.

Những người trong khu trọ bảo: con chó nó trách chủ bỏ rơi nó, coi thường nó. Đấy, cứ xem cung cách nó sủa thì biết, lúc nó ông ổng thế kia tức là nó đang giận, la choang choác. Còn lúc nó rên rỉ thì đúng là nó đang ai oán, trách thân phận làm chó của nó và trách luôn ông chủ bà chủ của nó.

Mọi khi hai cục bông gòn có thể làm cho Quảng có thể chịu đựng được tiếng con chó sủa. Nhưng hôm nay thì không thể. Anh vừa đi làm một chầu dựa mận, luộc,  với gần ba xị rượu đế với một anh bạn. Rượu làm anh chếnh choáng, vì thế chỉ nghe tiếng con chó tru lên một cái là anh choáng váng mắt mày. Anh trút bỏ chiếc quần dài, để nguyên chiếc áo đang mặc trên người, lên phía trước tìm gặp ông chủ nhà trọ.

Chủ nhà trọ ấy có tên là Vũ. Trông anh ta chẳng có dáng vẻ gì là ông chủ cả. Thấp đủn. Mái tóc đã bạc, để dài phủ xuống đến vai. Không mấy khi thấy anh mặc chiếc quần dài, lúc nào cũng chiếc soọc lửng xuống qua gối, còn áo thì lúc nào cũng buông rủ xuống gần đến đầu gối. Quảng được ông ta lưu ý lo sắp đặt phòng ở theo ý muốn vì họ đã từng là bạn từ thuở hàn vi. Hồi đó, Vũ còn làm trong một cơ quan nhà nước.

Còn Quảng thì mới đến xứ này kiếm việc làm. Nơi anh muốn đến chính là cơ quan của Vũ, nơi có liên quan đến dân số học. Ngay ngày đầu tiên, Quảng đã gặp Vũ, không hiểu sao, hai người có thể thân thiết ngay từ buổi đầu. Họ kéo nhau ra cái quán nhỏ ở cổng cơ quan Vũ. Một con khô các đuối, thêm ít xoài bằm nhiễn, chén nước tương, thế là nhậu. Cuộc nhậu hôm ấy cho Quảng một sự lựa chọn là không xin vào cơ quan mà Vũ đang làm. Nó phức tạp lắm. Có mấy ngoe hà, mà chẳng ai chịu ai. Ai cũng muốn làm thày, chẳng ai muốn làm thợ cả, ông mà về đó, chắc ông sống không nổi một năm, rồi lại phải chạy tìm việc nữa.

Sau này, khi ổn định công việc ở đây rồi Quảng mới thấy lời khuyên ấy là chính xác. Ngay Vũ chỉ sau đó ít năm, cũng xin nghỉ việc về làm ăn tự do. Ban đầu chỉ là bán quán cà phê nho nhỏ. Người ta đúng là có số thực. Có lúc vắt mũi đút miệng không đủ ăn, còn bây giờ Vũ giàu thì không bằng ai, nhưng cơ ngơi của Vũ cũng ít ai có được. Cảm ơn đổi mới, những nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn ở xứ này ngày càng đông. Những cơ sở sản xuất công nghiệp mỗi ngày mỗi nhiều. Công nhân ngày càng nhộn nhịp hơn. Mà đã là công nhân thì bao giờ cũng là người tứ xứ đến. Họ không chỉ làm công ăn lương, họ còn cần chỗ ăn, chỗ nghỉ. Vũ làm cả hai dịch vụ này.

Bây giờ anh thầu nấu cơm cho công nhân ở ba xí nghiệp. Hai của Hàn Quốc, một của Đài Loan. Mỗi ngày tính ra phải vài ngàn xuất ăn trưa, ăn tối. Anh tính luôn cả dịch vụ nhà trọ cho công nhân. Hai khu nhà trọ mở ra, một khu cho công nhân cách nơi ở của anh tới gần hai chục cây số, và khu nhà trọ này dành cho những người không nhà hoặc những người lên thị xã kiếm việc chưa có. Loại nhà không có bục nằm, mười sáu mét vuông anh chỉ lấy có hai trăm ba mươi ngàn một tháng cả tiền điện nước. Còn như phòng có bục nằm như Quảng ở giá cao hơn cũng chỉ gần 300 ngàn đồng.

Máu làm ăn của Vũ có lúc như sự huyễn hoặc vậy. Anh đã từng mở cả một khu nhà hàng kiểu nhà hàng sinh thái. Nhưng sau đó chào thua vì nơi anh mở khá bất tiện cho việc đi lại. Chỉ nguyên việc xuống đó phải đội nón bảo hiểm cũng làm cho người ta ngại rồi. Anh đóng cửa chuyên chú vào việc nấu cơm cho công nhân và cho thuê phòng trọ.

E, tôi không cho thuê giờ hay qua đêm đâu nghe - anh giải thích ngay với Quảng khi Quảng ngỏ lới muốn thuê một phòng của Vũ. Ai thuê phòng của tôi là phải có giấy tờ đàng hoàng. Ngay cả vợ chồng đến thuê cũng phải trình đủ giấy tờ, có hợp pháp mới cho thuê. Làm ăn kiểu thuê giờ, hay thuê qua đêm nó làm sao ấy. Không yên tâm. Ông quen rồi thì thôi khỏi giấy tờ. Nhưng người khác hả, tôi phải nhìn cho được tấm giấy chưng minh nhân dân, tôi mới cho thuê. Riêng ở chỗ này, Vũ có mười sáu phòng. Tiền thuế mất đứt một phòng trong một tháng. Số còn lại là phần thu nhập của Vũ… Xem ra, Vũ là người thức thời.

Trở lại chuyện con chó. Vì nó mà Quảng phải bỏ phòng ra tìm Vũ. Cũng tính ngồi tán dóc một lát, chờ chủ con chó về mở cửa ra, nó hết sủa là về ngủ, hoặc ráng làm thêm chút ít công việc. Vừa thấy Quảng, Vũ hỏi ngay: 

- Có chuyện gì thế, ông Quảng.

- Ông xem, nói với cậu phòng kế chỗ tôi, đi đâu thì thả con chó ra. Nó sủa hết chịu nổi rồi. Đinh tai, nhức óc kinh khủng…

Vũ đổ quặu ngay:

- Tôi còn bực nữa là ông. Tối hôm qua là tôi đã muốn nói rồi. Thế mà hôm nay vẫn như thế… Tức chết đi được…

Hoà vợ Vũ từ trong nhà bước ra:

- Nhốt vào cũng la, thả ra cũng la. Người ta biết làm sao bây giờ?

Vũ nghe vợ nói cũng nhẹ nhàng:

- Ở đây bây giờ người ta đang bắt chó thả rông. Thả ra nó sợ người ta bắt mất đó.- Chỉ được một câu ấy, Vũ lại đổi giọng- Nhưng mà ở nhà trọ mà lại đi nuôi chó.

Hoà lại lên tiếng:

- Anh coi đó, người ta cưng nó như thế, bây giờ biểu người ta làm sao?

Vũ bỗng buông một câu vẻ cộc cằn:

- Muốn có cái ôm ấp thì đẻ con ra mà ôm ấp. Đi ôm ấp chó là làm sao?

- Đẻ được thì người ta đã đẻ rồi, không đẻ được mới khổ chớ.

- Làm sao không đẻ được. Con nhỏ xóm bên đó, ốm yếu khác gì vợ nó đâu vẫn cứ đẻ đó…

- Thôi đi ông ơi, ông đi mà chỉ cách cho người ta đẻ coi…

Vũ bỗng bật cười:

- Không dám đâu. Một lũ đó chưa đủ sao còn xúi…

Hoà liếc xéo chồng một cái thật dài. Tưởng rằng vợ chồng nhà này giận nhau đến nơi, ai dè sau đó cả hai lại cười trừ, vẻ rất thân thiết. Vũ quay sang Quảng:

- Trên đời này, hiếm có người đàn bà như bà xã mình đó…

          Hoà cướp lời:

- Thôi ông ơi. Nịnh vừa thôi. Sắp chết với ông đến nơi rồi. Nghe ông ngọt ngào là tôi phát hoảng…

- Thế thì ai biểu em lấy tôi làm chồng.

Lại một cái liếc xéo sau đó lại là một nụ cười của cả hai.

Quảng biết hoàn cảnh của hai người. Vũ có số đào hoa. Đến Hoà là người vợ thứ ba. Người thứ nhất sinh vài đứa con xong sinh chuyện bất hoà. Thế là chia tay. Người thứ hai, có thêm vài đứa con nữa, lại cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Chia tay. Đến Hoà, thêm hai đứa một trai, một gái nữa. Nếu tất cả những đứa con của các bà trước theo mẹ, chắc Vũ sẽ chịu cái tiếng thằng đàn ông vô trách nhiệm.

Nhưng không, những người đàn bà kia rồi cũng phải có cuộc sống riêng, thế là tất cả những đứa con tập trung về với Vũ hết.  Anh dang tay đón không xót đứa nào. Cuộc sống vì thế mà có lúc tưởng như không mở mắt ra được. May mà có Hoà. Hoà không một tiếng phàn nàn, không một lời ngăn cản. Những lúc bức bách vì sống quá khó, Hoà cũng rức lác om xòm. Nhưng Vũ biết, Hoà có rức lác đi chăng nữa cũng vì thương mấy đứa nhỏ thôi. Anh không bênh vực đứa nào hết.

Không những thế, anh còn phụ chuyện quở mắng để những đưa nhỏ phải kính phục Hoà như mẹ của chúng vậy. Sáu, bảy đứa con, nhà Vũ lúc nào cũng đông đúc, chộn rộn. Vì thế mà cả Vũ và Hoà đều phải buông tay này, bắt tay kia lo làm, lo ăn. Người hiểu Vũ thì không nói năng gì, người không hiểu tưởng vợ chồng Vũ lo làm giàu. Chao ôi, miệng ăn núi lở, được như hôm nay đã là phúc ông bà để lại rồi. Giàu ư, chắc phải đến lúc tất cả sắp nhỏ có công ăn, chuyện làm đã. Nhưng đến bao giờ. Vũ không biết, Hoà cũng không biết, bây giờ cứ lo làm ăn cái đã.

Hai người đẩy đưa câu chuyện , còn Quảng vẫn chưa quên chuyện con chó. Anh khó khăn:

- Thương chó hả. Nhưng cũng phải thương người với chớ. Ai cũng có công việc. Ban ngày lo chạy đôn chạy đáo. Ông coi đó. Trong nhà trọ của ông, người thì đi làm thuê, người chạy xe lôi, có cả người làm thuê cho ông nữa. Quần quật suốt ngày. Tối đến về mong được nghỉ ngơi. Thế mà nó sủa như thế kia hỏi nghỉ làm sao được chớ…

Vũ bị kích động, anh đứng ngày dậy chạy vòng qua cổng phía bên dãy nhà trọ đập cửa một người miệng là bải hải:

- Cô về nói với vợ chồng nó làm sao thì làm, đừng để cho con chó nói sủa như thế nữa. Chịu hết nổi rồi. Muốn nuôi chó thì mang đi nơi khác nuôi…

Anh quay về. Hoà hỏi:

- Anh la ai thế, vợ chồng nó có nhà đâu mà la.

- Thì nói với chị nó, mai chị nó nói lại với vợ chồng nó. Biết lúc nào nó về mà nói…

Hoà lặng thinh không nói gì thêm. Vừa lúc đó, có người tìm đến. Vợ Hoà ngước lên và xụ mặt nói với người ấy:

- Thấy mày là tao rầu rồi. Tao bây giờ chỉ còn có vài trăm ngàn. Mà tao còn nợ mày bao nhiêu?

- Hơn hai triệu…

- Trời đất. Bây giờ mày có chẻ xác tao ra, tao cũng không có. Mà thịt heo lên giá gì mà cấp kỳ vậy chớ. Ba rọi bữa qua còn hai mươi bốn ngàn, hôm nay lên tới hai bảy ngàn… tao chắc chết quá. Thôi, tao đưa trước mày năm trăm, còn bao nhiêu thứ bảy đến lấy, được chưa. A mà thôi, mày đưa lại tao năm chục, thứ bảy đến lấy nguyên hai triệu cho chẵn. Được không?

Chẳng biết anh chàng bỏ thịt heo cho bếp ăn nhà Vũ có bị thôi miên hay không mà vừa cười ngỏn ngẻn, vừa rút ra tờ năm chục ngàn mà Hoà mới đưa cho giao lại chủ cũ, rồi lễ phép xin về. Vũ quay sang Quảng:

- Sao? Nể bà xã mình chưa?

Hoà lại hứ một cái, liếc xéo vào mặt chồng, miệng trách:

- Lại khéo nịnh…Tôi nói lại để ông biết, con ông, con tôi là không có khái niệm trong nhà này nghe. Đã vào nhà này là con tôi ráo. Hư, tôi nạt thẳng cánh. Ngoan tôi khen hết lời…

- Ơ hay, khi không em lại mang chuyện con cái ra nói? Này báo em biết, thịt đùi hôm nay lên gần bốn chục ngàn rồi đó. Liệu đi…

- Mặc tôi với thịt heo. Ông lo làm cho xong cái bếp cho tôi đi. Khi không thì không cho nấu ăn trong xí nghiệp. Cả ngàn con người ta chứ có ít à. Ngày nào cũng chạy ra, chạy vô, mệt muốn chết.

Thấy vợ cằn nhằn, Vũ cười và cao hứng đọc:

Một ngày anh gặp hai cơn bão

Cơn bão của trời và cơn bão của em

Mưa của trời chỉ làm anh ướt áo

Nước mắt em làm anh chết mình ơi. 

Hoà lại nguýt dài:

- Có bài thơ một mà bày đặt đọc hoài.

- Một bài là thế nào. Mấy chục bài của người ta. Nhưng bài này là thích nhất vì nó cho em mà…

- Thôi đi ông ơi.

Nói thế thì nói, nhưng gương mặt của Hoà hiện ra vẻ tự hào về chồng mình. Hoà vào nhà. Vũ thì thầm:

- Không có bả mình chết chắc. Ngần ấy đứa con. Lo ăn đã chóng cả mặt.

Sáng hôm sau, Quảng chưa  kịp đi làm thì có tiếng gõ cửa phòng. Quảng khoác vọi chiếc áo ra mở cửa. Thì ra là anh chồng có cô vợ còm róm phòng bên. Anh ta khẽ cúi đầu và nói:

- Em sang đây trước hết là để xin lỗi bác. 

- Có gì đâu, ngồi xuống uống chén trà nóng tôi mới pha đã…

- Thôi khỏi, bác. Em không dám làm phiền bác lâu. Đêm qua khi em về, bà chị em có gọi em và cho biết con Lulu của nhà em nó sủa dữ quá làm bác và những người cùng trọ không nghỉ ngơi được. Thú thật với bác, em buồn lắm. Thương nó thì thương thật, nhưng lại làm phiền mọi người khiến em áy náy không yên. Vợ chồng em chỉ có nó hủ hỉ. Thiếu nó không biết vợ chồng em sẽ như thế nào. Suốt ngày hai đứa nhìn nhau. Nhìn nhau riết, rồi thương mấy cũng có lúc đụng chén, đụng tô. Có Lulu chúng em bận rộn hơn, nhưng không bận rộn với nó thì chẳng biết làm được cái gì. Vợ chồng em quê ở trên Tân Biên, bác ạ. Chúng em lấy nhau xong được gia đình cho hai công đất làm vốn. Hai công đất thì làm ăn gì trên vùng đất xa xôi kia. Chúng em gác chòi ở. Dạ chòi thiệt đó. Mấy cái cây rừng. Mái lợp cỏ tranh. Vách chét đất. Người như em đứng lên tưởng như đụng nóc chòi rồi. Hai vợ chồng, sáng đi, tối về. Khi cùng làm một chỗ còn đỡ. Có khi mỗi đứa mỗi nơi, tối nhọ mặt người mới về, chẳng còn kịp thấy mặt ngang mũi dọc nhau ra sao nữa. Vì thế chúng em mới đưa nhau về đây tìm việc kiếm sống. Mà quên, em đang nói về con Lulu của chúng em kia mà. Nói để bác thương. Một hôm em đi làm mướn về, bỗng thấy một con chó con bé xíu như con bọ đang nhóc nhách sủa. Tiếng sủa của nó giống y như tiếng mèo hen. Thân mình nó, lở tróc không hà. Chắc ai đó thấy nó xấu xí quá ném nó ra đường cho nó chết đâu thì chết. Em tính bỏ đi. Nhưng chỉ được có vài bước lại nghe tiếng nó nhóc nhách kêu. Đừng lòng chẳng đặng em quay lại. Em bảo nó: mày thế này, ai còn dám nuôi máy nữa. Om mày về, mày chết tao thêm mang tội. Nói xong em đứng dậy đi. Bỗng em nghe thấy một tiếng sủa rất to. To là to so với thân xác tội nghiệp của nó thôi. Hình như nó cầu cứu. Em quay lại. Thôi thì cứ đưa mày về, sống được thì may, không sống được tao sẽ chôn mày dưới gốc cây chanh nhà tao. Được không. Nó hôi hám không thể tả được.  Em bỗng lo. Không hiểu con vợ em nó có chịu nuôi không đây. Nó mà biểu em rục nó ra ngoài rừng thì… May sao, khi vừa đến nhà, vợ em thấy nó đã rên rẩm: Trời đất, nó làm sao thế này. Nó đói có phải không. Anh nấu cho em chút nước nóng, bỏ mấy cái lá lốt, lá cỏ hôi vào mà nấu, để em tắm cho nó. Bây giờ phải cho nó ăn cái đã. Vợ em đổ thêm chút nước vào nồi cơm đang sôi trên bếp, lấy cái muổng quậy mạnh. Nhựa cơm tứa ra. Cổ múc ra một chút thổi phù phù cho chóng nguội rồi lấy chiếc muổng nhỏ múc từng muổng một đút cho nó.  Vừa đút cho nó ăn, cổ vừa nói: mày đói quá thế này, ăn chút chút thôi nghe. Đừng có ham mà trúng thực chết đó con. Con chó hình như biết nghe lời. Mút vài muổng nước cơm xong, nó gục mặt xuống hai chân trước nằm thiêm thiếp. Ngày ấy chúng em vất vả lắm thưa bác. Ngày làm công đứng được có hai chục ngàn. Bữa nào làm công buổi , chỉ được có mười lăm ngàn. Vợ chồng em chắt chiu từng chút một cho cuộc sống riêng. Nhưng bỗng có thêm một con chó, mà nó lại ốm yếu như thế . Lỡ nuôi rồi thì phải ráng thôi. Không thể để nó chết được. Tối ấy vợ chồng em bàn mãi, sáng sau phải mất một công làm ra tận ngoài chợ xã mua một hộp sữa đặc có đường cho nó. Chỉ dám trích một cái lỗ con con trên nắp hộp. Tính ra phải cho nó ăn đủ trong mươi ngày. Có sữa, có nước cơm, con chó mỗi lúc một khác. Nó trơn lông, mượt da dần. Nhưng bác biết không. Hồi đó con vợ em nó mang thai. Em vui không kể xiết. Nhưng nó lại là đứa tham công tiếc việc, chẳng chịu bỏ buổi làm nào cả. Một hôm. Nó đi một đằng, em đi một hướng. Em về trễ vì có mấy ông bạn làm rẫy rủ rê làm vài ly rượu đế. Về đến nhà, thấy vợ em nằm một đống. Con chó chạy quanh rên ư ử. Em chạy vào. Vợ em nhắm nghiền mắt lắc đầu. Em cuống lên. Em càng kinh hoàng hơn khi nghe vợ thều  thào: chúng mình mất con rồi, anh ơi. Nước mắt vợ em tuôn chan hoà trên mặt. Em chẳng còn biết mình phải làm gì nữa. Thuốc thì không trữ. Bệnh viện thì ở xa. Cõng được vợ lên đến viện, chắc chết quá. Nhưng phải cho cổ ăn cái gì cho bớt mệt cái đã. An gì? Chỉ có cơm nguội với cái mẻ khô quẹt. Bỗng nhớ đến hộp sữa dành cho con chó. Em vội nấu một chút nước sôi, chế sữa ra cái chén. Với chó thì đong từng muổng, còn với cổ em trút bừa. Chén sữa sóng sánh thơm lừng khắp nhà. Em đỡ cho cổ ngồi lên. Em bảo: em cố uống cho hết chén sửa này cho khoẻ, để anh chạy ra ông lang ngoài đầu xóm, lấy thuốc cầm máu về cho em. Ráng nghe em. Vợ em lặng lặng làm theo em. Nhưng chỉ được quá nửa chén, cổ dừng. Cổ biểu em: anh cho con Lulu ( chúng em đặt tên cho nó là Lulu từ hôm đưa nó về nhà) nó uống đi. Em đủ rồi. Em la lên: em lo thân em đi đã nào. Chó tính sau. Thấy cổ xụ mặt xuống, em biết cổ không hài lòng nghe em nói vậy. Nhưng rồi vợ em nó cũng uống thêm một chút nữa và sau đó đưa chén sữa cho em, bỏ xuống dưới chân cho con Lulu liếm hết.

Anh ta nói một hơi như sợ Quảng bỏ đi mất không nge. Nhưng bỗng nhiên anh ta dừng lại, hỏi:

- Thôi chết,  bác có phải đi làm không? Em làm mất thì giờ của bác quá…

Ban đầu, quả thực Quảng cũng không mấy mặn mà với câu chuyện của anh ta. Nhưng càng sau, anh càng thấy thú vị. Anh nói:

- Không sao, anh cứ kể đi. Mà làm hớp trà nóng cái đã.

Anh ta dơ cả hai tay đón ly trà từ tay Quảng, nhấm một chút và nhăn mặt. Trà Quảng pha bao giờ cũng quặu. Anh ta tiếp:

- Chỉ một lần vợ xẩy thai là em tởn đến già. Em quyết chí bỏ xứ ra đi. Em nghe trên này, thị xã nhiều việc. Thế là em đến trọ ở đây. Không phải nhà mình cũng không sao, miễn có chỗ trú mưa trú nắng là được rồi. Em đi phụ xây, ngày công cũng được ba chục ngàn. Vợ em cũng kiếm việc làm thuê, ngày cao cũng bằng thu nhập của em, thấp cũng có được hai chục ngàn. Thế là sướng hơn ở quê nhiều rồi. Bác Vũ chủ trọ ở đây rất tốt, cũng có tháng em kiếm không ra tiền, bác ấy cho em nợ lại, trả bù dần. Cũng đỡ. Ngày rời quê, em mang theo cả Lulu lên đây. Chớ bỏ nó lại cầm lòng sao đặng. Lên đến đây rồi mới thấy mất nó như không. Em có đọc trong sách của Cao Đài. Họ viết rằng đến ngày hội Long Hoa, tức là ngày tận thế đó, người ta chết bảy còn ba. Riêng Bắc kỳ chết chín còn một. Sách họ lý giải rằng tại ngoài Bắc người ta ăn thịt chó. Ngoài Bắc không thấy, nhưng ở xứ Nam bây giờ người ta ăn thịt chó dữ lắm. Chỗ nào cũng " Đây rồi, quán cầy tơ", " Nó đây rồi, cầy quay bảy món", “Vitamin Gâu Gâu", "Mộc tồn". Bây giờ lại có thêm cả người Hàn Quốc sang đây nữa. Nghe nói thịt chó vào hàng quốc thực sứ họ. Bác xem con Lulu nhà em đấy, nó vào hạng nhất. Lông nó trắng đẹp như thế. Mình nó thon lẳn như thế. Mấy người quen thịt chó thấy nó chả thèm chảy nước miếng ra. Nên em sợ mất nó lắm. Nạn trộm chó bây giờ chỗ nào cũng có. Nghe đâu có cả lệnh bắt chó chạy hoang nữa. Nên ra đường không dám để nó chạy lông nhông, phải cõng, phải bế. Đi đâu xa, không mang theo được thì nhốt nó ở trong phòng. Nó khôn lắm thưa bác. Mỗi lần nó gào thét như thế, khi thấy chúng em về là nó nằm phủ phục xuống, miệng rên ư ử. Hai mắt nó lấm lét hết nhìn em lại nhìn vợ em. Nó như thấy mình có lỗi, nhưng hình như có cả những điều trách cứ chúng em nữa. Hai mắt nó ươn ướt như có nước mắt ấy. Nó hiểu ý chúng em. Hễ em giận, quát mắng vợ em, là nó chạy lại, ngồi chổm hổm trước mặt em, hai mắt láo liêng như muốn bảo: ông làm cái gì mà kỳ vậy? Còn vợ em có buồn, giận mà khóc, nó leo lên chỗ nằm, nằm ngay cạnh, gác một chân lên ngực rồi thè lưỡi liếm vào mang tai vợ em. Nhột quá, cổ bật cười thế là hết buồn, hết giận. Lúc mới về đây, nó được ăn sau hai đứa em. Nhưng thấy tội quá, tụi em cho nó ăn cùng. Bới cơm cho nó như bới cơm cho mình ăn vậy. Ngày xưa nếu không có hộp sữa cho nó, làm sao em giữ được sức cho vợ em để chờ thầy. Thì đành là mình mua. Nhưng nếu không có nó liệu vợ chồng em có mua không?

Anh ta nhấp thêm một ngụm nước trà nữa rồi tiếp:

- Em sợ bác đi làm, lát không gặp được. Nên em chào bác trước. Em mong bác thật thông cảm cho em vì con Lulu nó làm phiền bác bấy lâu nay. Nói như bác Vũ là phải, ở nhà trọ không thể nuôi chó. Nên chúng em phải đi.

- Anh tính đi đâu- Quảng hỏi.

- Chắc lại phải về Tân Biên thôi bác ạ…

Nói xong câu ấy, anh ta đứng ngay dậy, bỏ ra khỏi cửa, không chờ Quảng nói thêm câu gì, như sợ bị ngăn cản lại vậy.

Chiều ấy, đi làm về Vũ kêu Quảng ra ngồi ở cái bàn đá trước sân nhà anh. Anh rầu rầu nói: 

- Thế là cậu ta đi rồi.

- Ai? Đi đâu?

- Ai nữa. Cái cậu nuôi chó trong phòng trọ ấy. Cản sao cũng không được. Cậu ấy bảo không muốn vì con chó mà làm phiền đến ai. Khổ thế. Nhìn vợ chồng cậu ta ra đi, không hiểu sao, cổ tôi cứ nghèn nghẹn muốn khóc. Chẳng có gì cả. Chồng một cái bòng. Vợ một cái bòng. Tài sản nằm cả trong ấy. Chồng đi trước, con Lulu ngồi ngay trên cái bòng đeo sau lưng cậu ta. Vợ chồng cậu ấy có một đứa con chắc phải được cưng chiều nhất xứ.

Anh im lặng một hồi bỗng nói như một bậc hiền triết:

- Này, ông có tin cuộc sống này chỉ là sống tạm không. Nhà Phật người ta bảo thế mà? Cõi Niết bàn mới là cõi sống vĩnh hằng. Tôi một bầy con nheo nhóc vất vả đã đành. Chắc là kiếp trước tôi nợ nhiều lắm thì phải. Còn cậu ta, con cái không có, mà lại vất vả chì vì một con chó. Chẳng hiểu ra làm sao cả…

Nghe Vũ nói, Quảng cũng thấy cay cay sống mũi. Giá mà anh đừng phàn nàn. Giá mà anh nút lỗ tai bằng cục bông gòn lớn hơn, hay chụp cái hecphon vào mà nghe nhạc, thì anh ta đâu phải ra đi như thế. 

Bẵng đi vài năm sau, Quảng mới lại về thăm Vũ. Vợ anh đã thông cảm, bỏ tiền xây cho anh một căn nhà nhỏ ở một xóm vắng. Ở đó anh có thể làm mọi việc theo ý thích của mình. Vũ chẳng khác mấy năm trước bao nhiêu. Tóc tai vẫn bụi bụi như thế. Vẫn chiếc quần soọc lửng chùm đầu gối, chiếc áo dài thõng thượt chùm qua gối. Thêm mấy chiếc răng từ bỏ anh mà đi, chỉ làm cho gương mặt anh từng trải hơn. Vợ Vũ làm cho chúng tôi một tô bò kho. Lúc cúm gia cầm thế này mà cô vẫn luộc cho chúng tôi một con gà mái tơ, da vàng xuộm. Rựơu ngà ngà, Vũ bỗng hỏi:

- Ông Quảng này, ông còn nhớ cái cậu nuôi chó ở nhà trọ tôi hồi trước không?

- Nhớ chớ. Sao rồi, ông có tin tức gì về họ không?

- Hai đứa chia tay rồi.

- Trời đất, sao vậy?

- Cũng vì cái con Lulu ấy. Mà cái số nó phải vậy. Ở đây, hai đứa nó làm ra tiền nên bữa cơm có cá có thịt. Khi về đến quê, nào có gì ngoài rau rác với mắm, khô quẹt. Nó giận lẫy không chịu ăn, nhịn đói mấy ngày trời. Vợ chồng lại phải mua sữa cho nó uống. Sữa nó cũng không thèm uống. Anh chồng giận đá nó một cái. Nói đá cho mạnh, chớ chỉ hất một cái nhẹ thôi hà. Ai dè trúng ngày chỗ hiểm. Nó hức lên một tiếng rồi chết. Vợ nó khóc như nhà có đám. Thì chỉ là một con chó thôi chớ gì lớn lao đâu. Cách đây mấy ngày, cậu ấy có xuống đây thăm tôi. Nom như Miên ấy, đen thui lui hà, gầy và già đi nhiều. Mới có mấy năm thôi. Hôm ấy, cậu ta cũng nói như tôi vừa nói ấy. Chỉ là con chó thôi mà. Nhưng rồi cậu ấy nói thêm: chúng em không con, không cái. Sau cái lần xẩy thai kia vợ em không thể sinh đẻ được nữa. Bấy lâu nay có con chó ở kề, vợ thương, chồng thương, chồng chăm vọ bẵm, quên được bao nhiêu thứ trên đời. Lúc nó chết rồi mới thấy ở khoảng giữa hai đứa chẳng có gì làm cầu nối cả. Vợ thui thủi đi làm. Chồng thui thủi đi làm. Tôi về hai đứa thui thủi ngồi hai bên mân cơm, chẳng đứa nào nói với đứa nào được một câu. Có gì đâu mà nói.Thì đành vậy, làm sao bây giờ. Ở chung cũng thầm lặng, thì thà ở riêng ra cho xong. Bọn em chia tay nhau rồi. Nghe cậu ấy nói mình thảng thốt không nói được với cậu ấy câu nào nữa. Ông Quảng này, giá như hồi đó cậu ấy đừng đi, chắc con chó đâu có chết hả. Cái con Lulu ấy…

Vũ buông một tiếng thở dài, khiến Quảng cũng phải thở dài theo… Ngay cả Quảng cũng không biết mình đang nghĩ cái gì nữa.

Ôi … cái con Lulu…/.

ỗi niềm xa quê

Cập nhật ngày: 17/05/2013 19:04:44

Mỗi năm tôi về quê ăn Tết đôi ba ngày là vội vã đi. Biết rằng chuyện đi hay ở là tự mình quyết định, vậy mà không hiểu sao mười lần như một, hễ gần tới ngày đi là tôi lại nghe buồn rười rượi. Suốt ngày hôm đó cứ quấn quýt bên má, thấy má làm cái gì cũng hỏi, khi không còn chuyện gì để hỏi nữa thì chuyển qua năn nỉ má kể chuyện đời xưa.

Năm nay về, thấy lưng má còng thêm một chút, tóc má trắng thêm một chút, đi đứng cũng khó khăn hơn một chút, lòng nghe buồn, nhưng biết làm sao khi cuộc sống hiện tại còn quá nhiều khó khăn nơi xứ lạ quê người.

Ngày mai này lại phải trở về cái nơi mà quanh năm không một tiếng nói cười của má, không có tiếng rầy la của ba và không có một bữa cơm đúng nghĩa… Nơi đó chỉ có sự bươn chải và nhẫn nhịn.

Càng về khuya gió bên ngoài càng réo rắt. Như hiểu được nỗi lòng của người sắp xa quê, nên tiếng xào xạc của lá dừa cạ vào mái nhà cũng nhiều hơn, làm lòng dạ rối bời. Gà gáy canh ba, tôi quyết định ngồi dậy đi ra sau nhà để ngắm nhìn chái bếp, bộ ván ngựa, mấy cái lu… lần nữa để khi về đỡ nhớ.

Tôi giật mình khi thấy má ngồi dưới chái bếp tự bao giờ, đang làm gì đó bên bếp lửa một cách lặng lẽ. Tôi nhè nhẹ bước đến ngồi cạnh bên má hỏi: “Sao má thức chi sớm vậy?”. Má ngạc nhiên: Má quen rồi, hồi mới về làm dâu nhà nội má phải thức sớm như vầy mới làm hết việc, riết rồi quen với cái bếp này lúc nào cũng không hay.

Vả lại, chiều hôm qua má có mua mớ cá sặt, tranh thủ thức sớm để làm món kho quẹt cho con đem về ăn. Má nhớ hồi còn nhỏ con thích món này dữ lắm, nhiều hôm đi học về còn ở mị ngoài sân là đã nghe tiếng vơi vơi hỏi: Bữa nay có cá kho quẹt hôn má, nếu có là chạy vô nhà, quăng cặp lên bộ ván ngựa rồi nhảy dựng lên reo mừng.

Hồi đó quê tôi nghèo dữ lắm, cả xóm không nhà nào có được cái cửa cái cho ra hồn, ra vía. Dù ai cũng biết cửa cái là đại diện cho ngôi nhà, người ta chỉ làm nổi cửa rèm thôi. Cửa rèm được lợp bằng bao đựng phân đã xài rồi hoặc chằm bằng rơm. Những người khá khá một chút thì làm bằng lá chằm đóp.

Nhà tôi nghèo nhất xóm nên chẳng có tấm rèm nào hết. Nhưng chái bếp thì được ba tôi chăm chút rất công phu, tỉ mỉ từng chi tiết một, từ cửa ra vào cho tới cửa sổ, cái nào cũng đẹp. Giàn bếp thì được ba làm bằng cây đước, bào nhẵn bóng, trông rất đẹp, cộng thêm phần ngăn nắp, gọn gàng và cách trang trí thẩm mỹ của má nên mỗi lần ai tới nhà chơi cũng chắc lưỡi, hít hà.

Lối đi từ bếp vào nhà rất sạch, phía trên có mái che để tiện đi ra, đi vào khi trời mưa nắng, má coi đây như thể là ngôi nhà chính của má. Vì hôm nào cũng vậy, từ khi trời còn tờ mờ cho tới đỏ đèn, lúc nào má cũng có chuyện để làm ở đó.

Ngoài chuyện cơm nước ra thì má còn vô số việc không tên. Khi thì xếp củi lên cự, khi bó chổi, khi thì vá áo cho anh em tôi… Lúc không còn gì để làm thì má lấy nước muối rưới lên nền nhà rồi dùng chai lít bằng thuỷ tinh mà nện. Nhờ vậy mà nền của chái bếp lúc nào cũng láng bóng, không có một vết nứt nào, nhìn xa xa chẳng khác nền xi-măng.

Đặc biệt nơi đây ba còn mắc cho má một chiếc võng bố rất chắc chắn để má nằm nghỉ những lúc mệt mỏi. Tôi thích ở chái bếp này là những hôm trời mưa vào buổi chiều tối. Những lúc như vậy má thường hay nấu món gì đó cho anh em tôi ăn.

Có khi khoai luộc, có khi thì cơm khô ngào đường, cũng có khi dừa khô chấm đường mía. Vậy mà đứa nào cũng vui đáo để, tất cả ngồi dưới nền đất chơi hết trò này đến trò khác để chờ đồ ăn chín.

Tiếng người lơ xe thông báo: “Bà con chuẩn bị hành lý nghe, sắp tới Cà Mau rồi”. Tôi giật mình bỏ lại dòng suy nghĩ dở dang trở về với hiện tại. Tôi thầm nhủ, vậy là mình đã xa quê nữa rồi./.

RUYỆN NGẮN: VỢ CHỒNG CHÚ SÁU TẮNG

TÁC GIẢ : TRẦM TƯ MẶC.

Vợ chồng chú Sáu Tắng sống ở làng quê Tân Thành Tỉnh Gò Công khi xưa. Người dân làng Tân Thành, từ già lão đến trẻ con, đều biết đến vợ chồng chú Sáu Tắng.

Sự đời rủi ro, cả hai chú thiếm đều tàn tật, dị tướng dị hình, không được bình thường. Ông Trời chẳng bất công, nên đã ghép đôi cho hai người thành vợ chồng “xứng lứa vừa đôi”, “nồi nào vung nấy”! Chú thì dị tật đôi chân, cẳng lớn cẳng nhỏ, đi đứng cà thọt, cần cổ cà niễng, rút ra rút vô, ngó qua ngó lại, như “ông rùa” vừa bò lên khỏi nước. Thiếm Sáu nhỏ người hơn chồng, bàn tay bên dài bên ngắn, cái đầu cứ luôn “lắc lắc lư lư”, như không vừa lòng một điều gì! Dân làng thường cười vui khôi hài dí dỏm nói rằng “Có phải vợ chồng Sáu Tắng là tiên mắc đọa, bị ông Trời đày xuống trần gian, chịu nạn chịu khổ cho đến hết đời, rồi mới trở lại về Trời?!

Chú Sáu thiếm Sáu làm nghề ăn xin độ nhật. Vậy mà đi đâu vợ chồng vẫn có đôi bên nhau. Hằng ngày đi xin ăn ở chợ “đồng xu đồng cắc đồng hào”, túi áo bỏ vào cũng rủng rỉnh. Ði vòng quanh hết chợ, đầu dưới đầu trên, xem chừng như ai ai cũng cho tiền rồi, “ông bà” dìu nhau đến nhà máy xay lúa xin gạo. Sáu Tắng cầm cái rổ nhỏ, hai tay

run

run, chìa qua đưa lại, trước mặt mọi người đang xay lúa. Thiếm Sáu đeo cái bị nhỏ bằng lác, hai quai tròng qua cổ để đựng gạo mỗi lần có người cho. Chồng đi “cà chọt” đằng trước, vợ đi “cà chẹt” sau lưng, tay quơ cái rổ đổ gạo vào bị…rồi di chuyển tiếp tục nhận “chiến lợi phẩm”. Mấy dì mấy cô xay lúa, xay gạo, không ai nở nào làm ngơ. Mỗi người một nhúm tay, hoặc có khi một lon sữa bò, bố thí cho vợ chồng Sáu Tắng, để có cơm ăn qua ngày.

Hai vợ chồng không có con. “Thiếp và chàng” yêu nhau trong tình “cháo rau”, có một lần ông Trời cũng cho thiếm có bầu, rồi bị hư mất. Một bữa Trời mưa lớn rồi thưa hột. Mưa tạnh, nhưng đường đất còn trơn trợt. Vợ chồng đi đâu vô xóm trong trở về “cà khêu cà kheo”, té lên té xuống, làm thiếm Sáu bị hư thai. “Thằng nhỏ” chắc cũng chẳng muốn ra đời, trong hoàn cảnh cha mẹ tật nguyền nghèo khổ…! Lúc đó, khi vừa xuống giữa chừng dốc nhỏ, để qua “cầu ván đóng đinh” bắt ngang sông làng, chú Sáu trợt chân ngã toàn thân xuống vũng nước. Thiếm Sáu “cà khêu cà khọt”, cố đỡ chồng đứng lên, lại trợt chân lôi hai vợ chồng té nhào, làm thiếm bị đau bụng bầu. Sáu Tắng lòng thương vợ xốn xang, tại lo đỡ cho mình mà “nàng” mới té, nên miệng cứ ngọng nghệu hết lời an ủi :

-“Nghìn (mình) “khương”(thương) tui hông “nghìn”? “Tui” “khương” “nghìn” nhiều nhiều “hắm hắm” (lắm lắm)! Rồi chú tưởng tượng vò vò đầu thằng nhỏ còn nằm trong bụng vợ, thỏ thẻ với con :

-Con có “au” (đau) hông ? Ðể tui “khức”(xức) dầu cù lòa (cù là) cho mi hén!...

Về nhà, đêm đó vợ Sáu Tắng hư thai, báo hại cả xóm thức dậy, vì bà vợ đau bụng “cầm canh”, la làng bải hải!... Xe “Lam” chở thiếm Sáu đi nhà thương. Các bác sỹ cứu được mẹ, mà đứa con không cứu được. Vợ chồng khóc kể “ngọng nghệu ngòm ngoàm”, làm cả làng ai cũng thương xót.

Mỗi ngày đi xin về, chú thiếm cũng biết cuốc đất trồng cải trồng rau, nuôi vài ba con gà con vịt. Như sáng nay đây, chú Sáu đang cuốc đất lên giồng khoai. Tay chân “cà quẹt cà quèo”, mà cũng vun được mấy giồng khoai lang. Thiếm Sáu lựa mấy củ khoai nào làm giống tốt, vừa xin được ở chợ, moi lỗ xuống giống trên giồng. Hễ thấy chồng vun xong một bờ mô, bà vợ xuống giống liền chỗ đó…làm chú Sáu cười vui thỏa lòng. Chú lại hỏi thiếm :

-“Nghìn” (mình) “khương” (thương) tui hông “nghìn”?

Thiếm Sáu bực mình xẵng giọng :

-É! Ta nói “khương”(thương) mà cứ hỏi hoài! “Dô diên” (vô duyên) hè!

Chừng lên được hai giồng lang, chú Sáu Tắng nghe mệt, nên buông cuốc ngồi nghỉ xả hơi. Chú mò tay vô túi áo lấy thuốc rê ra dấn, rồi rề qua châm lửa nơi “con cúi” rơm đốt ung muổi còn cháy đỏ. Miệng chú bập bập điếu thuốc phì phò, mắt cứ ngó quanh tìm vợ coi ở đâu? Thiếm Sáu đang cho con gà con vịt ăn. Tay thiếm nhúm nắm thóc, miệng gọi gà gọi vịt “kía kía kía, kia kia kia,cúc cúc cúc…” mau đến nhận mồi!

Kể lại thời niên thiếu, hồi chú thiếm Sáu Tắng còn nhỏ, hằng ngày cũng được cắp sách đến trường, học từ lớp vỡ lòng. Cha mẹ là dân làng nghèo khó, quanh quẩn làm ruộng cuốc rẫy, sống lâu đời qua nhiều năm tại làng Tân Thành. Dân tình nghèo khó thiếu ăn, nhưng ai ai cũng cho con đi học, theo lời của chính quyền khuyến khích. Ông “Cả làng” thời đó, giao trách nhiệm cho thầy “Hương Giáo” lo chuyện học hành cho trẻ con trong làng. Thằng “Tắng” con “Tằng” học chung một lớp mẫu giáo, được thầy giáo phân chia ngồi hai bên dãy bàn học trò, bên gái bên trai. Bất hạnh là hai đứa đều bị dị tật. Tội nghiệp trẻ con còn hỉ mũi chưa sạch, mà phải chịu tật nguyền. Hằng ngày đi học đến trường thật là khó khăn, ăn nói ngọng nghệu, nên bạn học lúc nào cũng trêu chọc : “Lêu lêu thằng Tắng con Tằng…! Một bữa, trong lớp học tới giờ tập đọc. Thầy giáo dạy từng chữ từng vần vỡ lòng: “A,bờ,cờ,dờ,đờ,gờ,hờ…(abcdđgh), rồi học trò đọc lại đồng âm, theo nhịp gõ cây thước thầy đang cầm trong tay. Trò Tắng được thầy gọi đọc lại “ngọng nghệu đớt đát”, mà đầu cứ “cà niễng” qua lại hai bên, “a,ờ,ờ,ờ,ờ,ờ,ờ…chữ nào cũng “ờ”, làm bạn học tí hon cũng cười ra nước mắt. Tới phiên con Tằng đứng dạy đọc cũng “cà đớt cà đát”, cả lớp cười ré, té ngửa té ngang. Vậy mà hai đứa cũng học tới lớp Ba, rồi cha mẹ cho nghỉ học ở nhà đi mót lúa. “Cà ngọng cà nghệu” học hoài có biết gì đâu?

Hồi đang học lớp Ba, các bạn học đứa nào nay cũng “lớn lớn”, nên biết cắp đôi cho hai đứa.

Thằng lớp trưởng nói :

-Trò Tắng trò Tằng “hầm bà lằng sắn cấu”…đi qua cầu sấu cắn! (Nó bắt chước mấy người lớn trong làng hay nói giởn chơi).

Bọn học trò nhỏ cười vui rồi hỏi :

-Cái gì mà hầm bà lằng…lại đi qua cầu sấu cắn…?

Lớp trưởng giải thích :

-Thì hai đứa nó… vậy vậy đó…đó đó…!

Trò Tắng đổ quạu :

-“Kao” không có “ẹo” (ghẹo) tụi bây há!

Trò Tằng binh bạn hùa theo :

-“Kao” (tao) “ét”(ghét) “kụi” (tụi) bây như “cá hấu”(cá sấu), cứ hay ăn “khịt” (thịt) người ta. “Kao” (tao) “dìa”(về) “mét má mét ba” “ánh”(đánh) đòn tụi bây đó!..., làm cả bọn lại cười như nắc nẻ.

Lần lần qua thời gian hai đứa lớn lên, sống trong làng được bình yên. Ông bà cô bác xóm làng, cũng để ý chăm lo cho hai đứa nhỏ ngọng nghệu tật nguyền. Nhà ba má thằng Tắng ở đầu thôn. Nhà ba má con Tằng ở giữa thôn, phía sau nhà con Tằng lợp nóc lá dừa, có cái mương nhỏ, nước rẽ vào từ ngoài sông. Con Tằng hễ sáng thức dậy ra mương mò cá, bữa nào cũng réo bạn thân của mình: - Anh “Ắng” ơi! Quớ anh “Ắng”! Mau ra mương mò “á” (cá) cho “á” (má) kho tiêu! Rồi nó cằn nhằn:

-“Hủ” (ngủ) gì “hưa” (trưa) quá cha nội!

Sáu Tắng nghe bạn gọi, chạy nhanh “cà xiêng cà xẹo” ra mương mò cá. Hai đứa quậy tan nát cái mương nước đục ngầu, bắt được vài con cá lóc cào cững. (cá nhỏ) rồi chia hai. Con Tằng khôn quá trời, đề nghị với thằng Tắng :

-“Ầy”(mầy) “ớn” (lớn) hơn “kao”(tao) thì làm anh. Anh thì phải “hường”(nhường) cho em. “Kao” (tao) 4 con, còn “ầy” 2 con…hông chịu “khì” (thì) “khôi”(thôi)!

Anh Tắng sợ em giận, nên nói mau liền :

-“iệu,iệu,iệu(chịu chịu chịu) mà! Hai con cá “ngóc”(lóc), má anh “ấu” canh với lá “ốc”(cốc) “on” (ngon) lắm!

Ông bà cô bác thương tình, thấy hai đứa bây giờ là thanh niên thanh nữ. Tuy nhà nghèo “ngọng nghệu”, mà thân tình với nhau, nên đề nghị “Ông Cả” làng cho hai đứa “se duyên cầm sắt”. Cha mẹ được gọi lên “nhà việc”(nhà họp trong làng), để “ban hội tề” (chức sắc trong làng” chỉ bảo.

Nhà việc họp dân. Ai ai cũng được gọi đến để góp ý kiến. Bác “Hương Kiểm” mở đầu . Bác nói :

-Tôi để ý thấy thằng Tắng con Tằng nay đã đến tuổi “cặp kê”, nên muốn dựng vợ gả chồng cho hai đứa nó, dân làng tính coi ra sao?

Thầy “Hương Thân” góp thêm ý :

-Ý tôi cũng muốn “cáp” cho hai đứa cho rồi! Bà con nghĩ sao?

Bác “Hương Hào” góp lời dè dặt :

-Trời mẹ ơi! Hai đứa nó có tật nguyền làm sao sanh đẻ? Không khéo đây rồi mình hại tụi nó chớ chẳng chơi đâu à!

Bác “Hương Giáo” nãy giờ ngồi làm thinh, giờ lên tiếng :

-Trai gái trong làng lớn lên phải có vợ có chồng. Tôi thấy tụi nó thương thương nhau lắm, từ lúc còn nhỏ đi học. Có tật có tài không sao đâu!

Bà con dân làng rộ lên đồng ý, rồi đề nghị “lo đám” cho trẻ, phụ giúp ba má của tụi nó.

Bà Bảy ông Bảy nói :

-Vợ chồng tôi lo đãi cơm cho khách!

Vợ chồng “Mười Méo” nói theo :

-Chúng tôi lo mai mối, trà quả, cau trầu, cho đủ lễ!

Mấy cô cậu thanh niên trai tráng trong làng hứa xung phong:

-Mấy đứa “tụi tui” làm cổng, treo đèn kết hoa bông Bụp!

Tía má thằng Tắng con Tằng cám ơn “Cả làng”, ban hội tề và tất cả dân làng.

Ðám cưới vợ chồng Sáu Tắng cũng “rình rang xôm tụ”. Có đãi ăn thịt gà thịt vịt, dưa giá cá kho, có canh khổ qua dồn cá thác lác, bắt ở dưới đìa nhà Năm Tửng. Bà con dân làng được mời, người ngồi bên trong, kẻ đứng chật cứng bên ngoài, đồng vui cười khôi hài chúc mừng cho hai trẻ : “Tắng Tằng lên mây! Hai đứa bây đi xây tổ ấm!...Nhớ tắm phải…bận quần…!

XxX

Làng quê thanh bình. Dân chúng đồng bào vui sống an nhàn miền thôn dã. Trăng thanh gió mát. Nhịp chày giã gạo cúp cùm cum, kéo dài từ ngày tới đêm khuya, dường như cũng chưa thấy mọi người ai ai than mệt mỏi! Ðời sống nông thôn vất vả, nhưng tất cả an lành vui sướng. Bầu trời đêm nay trăng sáng có nhiều “Ông Sao”. Xin các “Ông Sao” chứng tri phù hộ cho nông dân làm lúa được mùa! Qua thời gian cấy trồng công phu cực khổ, hôm nay đến ngày gặt hái. Khắp cánh đồng chạy dài từ trong đất liền ra tới bờ sông, những đám ruộng lúa chín như trải thảm vàng bao phủ. Hạt lúa no tròn nặng trĩu, cơm gió thổi qua lay động hạt vàng, chạm nhau qua lại nghe xào xạc. Từng toán công gặt, mỗi toán mười người, gò lưng cắt lúa đám ruộng của mình. Toán cắt lúa và toán đập lúa thay đổi với nhau. Qua nhiều ngày, hết đám nầy đến đám khác. Hôm cấy mạ vần công, thì hôm nay cắt lúa cũng vần công. Vợ chồng Sáu Tắng “khều khào” đi sau công gặt để mót lúa. Vậy mà hết mùa cũng có lúa mót được phơi ngoài sân, vợ chồng ngồi hai đầu sân, cầm roi đuổi gà đuổi chim mổ thóc lúa.

Qua thời gian ba bốn năm sau, cá tôm đầy ao, gà vịt từng bầy chạy đầy sân nhà vợ chồng Sáu Tắng. Phía sau nhà, có lợp chuồng heo gần bên cái đìa nuôi cá. Phân heo quét rửa xuống đìa cho cá ăn. Vợ chồng hằng ngày vẫn đi xin lon thóc, lon cám về nuôi lợn, nuôi gà vịt. Ông trời thương kẻ tật nguyền nghèo khó, mới đó mà vợ chồng Sáu Tắng có “của ăn của để”. Bây giờ trong làng, hễ ai cần tiền thì đến vay nhà Sáu Tắng. Hôm qua, vợ chồng Năm Tửng đến nhà Sáu Tắng mượn nợ, vì làm ăn nuôi cá thác lác lỗ lã hết vốn. Trước đó, dì Năm đến nhà ông Mười Méo nài nỉ. Bà Mười chỉ qua nhà Sáu Tắng :

-Sao chị Năm không qua bên thằng Tắng mà mượn? Vợ chồng nó nay khá lắm đó!

Năm Tửng không tin : - Thằng Tắng còn đi xin ăn, mà tiền ở đâu có?

-Ậy! Vậy là chị Năm lầm rồi! Hôm trước, nó còn cho Hai Bưởi “thầy chích” mượn nữa đó! Nghe đâu thầy Bưởi rượu chè ăn chơi, mê vợ bé ở Saigon, nên lần lần tiêu tan sự nghiệp!

-Cơ khổ hôn! Thầy Hai Bưởi mà phải cậy nhờ Sáu Tắng à? Thầy Hai nhà giàu có nhất trong làng, nhà ngói hai chái ba gian đỏ chói, nhà dưới nhà trên… Rồi vợ Năm Tửng hỏi thêm :

-Mà nó có cho mượn không vậy?

-Có chớ sao không! Thầy Hai mượn tiền nhiều lần đi Saigon ở miết với vợ nhỏ, bỏ bê công việc làm ăn, làm bà vợ lớn khóc kể suốt ngày.

Dì Năm Tửng phân vân rồi quyết định :

-Thôi để “tui” qua vợ chồng nó thử coi!

Sáu Tắng cũng cho vợ chồng Năm Tửng mượn tiền để tạo lại cái đìa nuôi cá thác lác. Vợ chồng “ngọng nghệu” nói ơn nói nghĩa với dì Năm. Chồng nói : - “Ôm”(hôm) “ám”(đám) cưới “ụi”(tụi) con, dì dượng Năm cho cá “ác ác”(thác lác) đãi khách. Nay “ụi”(tụi) con cho “ượn”(mượn) tiền, “ừng ào”(chừng nào) “ả” (trả) cũng “ược”(được).

Vợ nói : - Nếu không “ó ả” (có trả) khì (thì) thôi. Con không “òi”(đòi).

Vợ chồng Năm Tửng mừng rỡ, hết lời cám ơn hai cháu có nghĩa có nhân. Vợ chồng tật nguyền đi xin ăn, mà lòng dạ như sông dài biển rộng, khó ai sánh bằng!

Thét rồi tiếng đồn trong làng vang xa. Ai không có tiền thì đến nhà vợ chồng chú Sáu Tắng mà mượn. Mấy “ông làng” khôi hài gọi đùa Sáu Tắng là “Hoàng Tắng”! Hoàng Tắng bây giờ có tiền có của, nhà cửa khang trang, ba gian hai chái, nóc nhà đỏ chói, lợp ngói âm dương…Vợ chồng Hoàng Tắng còn có ruộng đất cho dân làng thuê mướn…

Chuyện là, thầy Hai Bưởi y tá phải bán nhà bán cửa ruộng vườn cho Sáu Tắng để trừ nợ! Nhiều lần mượn tiền vô số kể của Sáu Tắng, nhiều lắm không biết đâu mà tính. Vợ chồng chú Sáu Tắng cho mượn không lấy lời, vì lòng nhân từ. Hai Bưởi ăn quen, hễ mỗi lần lên Saigon thăm vợ nhỏ thì đến mượn. Nhiều lần thiếm Sáu Tắng cũng phật lòng, thỏ thẻ với thầy Hai :

-Thầy Hai ượn(mượn) nhiều quá trời, vợ chồng “ui”(tui) không biết đâu mà tính? Hai Bưởi nói cho tụi nó an lòng :

-Tụi bây đừng lo! Tao trả không nổi sẽ thế nhà cửa ruộng vườn cho bây mà! Bây giờ tụi bây cho tao mượn thêm nhiều nữa đi, mắc chi phải lo phải sợ…

Rồi thầy Hai cứ đi Saigon, cùng cô vợ nhỏ ăn chơi, đánh bài đánh bạc qua hết một năm nữa, phải giao nhà và ruộng cho vợ chồng chú Sáu Tắng. Ban hội tề trong làng tổ chức họp dân tại “nhà việc”, để xử công việc cho công bằng. Ông “Cả làng” chủ trì cuộc họp, đã phán rằng :

-Thầy hai Bưởi mượn tiền của vợ chồng Sáu Tắng nhiều lần qua nhiều năm, mà không trả được nợ, xin bằng lòng thế nhà thế ruộng cho chủ nợ. Ông Cả đằng hắng rồi nói tiếp :

-Hai Bưởi bằng lòng thế của. Còn vợ chồng Sáu Tắng có chịu hay không?

-“Ạ”(dạ) “ụi”(tụi) con thì “ao”(sao) cũng “ược”(được)!

Dân làng rộ lên góp ý kiến: “Mượn thì phải trả! Không có tiền thì trả của là phải rồi”!

Thiếm năm Xàng(tục gọi là năm xàng xê), vì hồi thiếm còn trẻ, đi đứng thiếm “xàng xàng” cái đít thấy mê! Thiếm lên tiếng :

-Vợ chồng Sáu Tắng nhơn đức đó! Chớ tôi đó hả, thì tôi cho trẻ cào nhà Hai Bưởi từ lâu rồi.

Bà con bàn qua tán lại, cuối cùng “Cả làng” cùng ban hội tề phán quyết : - Làng đồng ý cho Hai Bưởi thế nợ nhà cửa ruộng đất, cho vợ chồng Sáu Tắng. Thời hạn ba năm, nếu không trả được, thì vợ chồng Sáu Tắng làm chủ vĩnh viễn nhà và ruộng. Rồi “Cả” nói thêm :

-Bây giờ mời thầy Hai Bưởi ký vào biên bản buổi họp, làm tờ giao nhà và tất cả giấy tờ chứng minh, bằng khoán ruộng đất, lại cho vợ chồng Sáu Tắng tạm đứng tên. “Cả” chỉ thị cho “tham biện” (thơ ký làng) viết ra giấy tờ lỹ lưỡng, có chữ ký của đôi bên.

Ba năm qua, Hai Bưởi bỏ làng đi biệt tích. Vợ thầy còn ở lại trong nhà, do vợ chồng chú Sáu Tắng nhân từ, để cô Hai sống với hai người và coi như thân nhân của mình. Cô Hai Bưởi sống vài tháng sau, thì bệnh nặng qua đời, vì đau buồn thầy Hai tệ bạc, bỏ theo vợ bé từ đó. Nghe đâu cô vợ nhỏ cũng bỏ thày Hai, vì hết tiền hết của cung phụng cho cô ăn chơi mỗi ngày. Tiền hết tình cũng hết theo! Trăng treo đã xế qua mành, tình ta cũng tan tành!

Vợ chồng chú Sáu Tắng từ đó trở nên giàu có, nhờ ruộng vườn nhà cửa của Hai Bưởi thế nợ. Vợ chồng ăn ở nhân từ nhân đức, thường giúp đỡ dân làng nghèo khó túng cùng. Ai mượn tiền không có trả lại, thì chú Sáu Tắng “xù” luôn không đòi. Các người tá điền hồi trước, thuê mướn ruộng của thầy Hai Bưởi, nay vẫn còn giữ ruộng đất để làm lúa. Tời mùa thu hoạch, bà con đóng cho chủ bao nhiêu cũng được. Thầy “Hương Thân” cùng tráng đinh trong làng, năm nào cũng giúp chủ ruộng, thu thuế vụ mùa và đóng tô cho làng. Nhờ trời cho “có phần không cần gì lo”, nên lúa vàng năm nào cũng phơi đầy sân nhà vợ chồng Sáu Tắng. Chú Sáu có thêm họ “Hoàng”, nhờ trong nhà có nhiều bồ thóc vàng!

Vợ chồng nhớ lại, thời thơ ấu sống trong làng cho đến tuổi thanh niên. Mẹ cha mất sớm, hai người lại dị hình dị tật, ngọng nghệu nghèo nàn. Gần trọn cuộc đời đi xin ăn, sống nhờ của bố thí của bà con thương yêu giúp đỡ. Nhờ trời cho có của có tiền, nên lòng cũng biết tu nhơn tích đức, làm lành lánh dữ, thường ngày đi lễ chùa trong làng, trên quận, thắp nhang niệm phật từ bi chứng tri cho tấm lòng thành.

Có lần bà con trong làng khuyến khích :

-Vợ chồng rán kiếm mụn con ẵm bồng, cho vui cửa vui nhà!

Chú Sáu nghe qua cũng ham. Thiếm Sáu nghe qua cũng muốn. Ngặt vì vợ chồng nay đã có tuổi, sanh đẻ khó khăn, lại tật nguyền chậm chạp làm sao đẻ chửa được? Tuy vậy, rồi trời lại cho vợ chú Sáu Tắng lại có bầu. Bây giờ hằng đêm ngủ trên giường gõ, trải chiếu hoa, vợ chồng cũng biết yêu thương, cho bỏ những ngày xưa nghèo khó “cà quẹt cà quèo”! Chú Sáu Tắng thương thiếm Sáu lắm, không biết làm sao, miệng lại cứ hỏi :

-“Nghìn”(mình) “khương”(thương) “kui” (tui) hông “nghìn”(mình)? Thiếm Sáu lấy tay “nhéo” qua mặt chú. Chú Sáu kề tay “nhéo” qua bắp vế thiếm…Nhéo qua nhéo lại vài đêm ấm êm, thì thiếm có chửa! Chín tháng mười ngày, thiếm Sáu sanh thằng con tròn trĩnh ngộ nghĩnh như “Tiên đồng”! Bà con thường xuyên đến giúp đỡ để nuôi thằng nhỏ. Bác năm Tửng gái, xung phong đến ở thường xuyên, giúp cho cháu sơ sinh và người mẹ tật nguyền, để trả ơn vợ chồng Sáu Tắng. Thời gian thằng con lớn lên trời cho lành lạnh, dân làng đặt tên là “Hai Mằn”! “Hai Mằn” cai quản nhà cửa ruộng vườn cha mẹ già yếu để lại.

Vợ chồng chú Sáu Tắng sau nầy chết lành, mồ yên mả đẹp. Dân làng Tân Thành còn nhắc nhở không quên. “Hai Mằn” làm chủ ruộng vườn giàu có, lại có vợ giàu sang là con của gia đình Ðốc Phủ bên Bến Tre. “Hai Mằn hưởng ân đức của cha mẹ, trả ơn trả nghĩa hồi đó dân làng giúp đỡ, đùm bọc cho cha mẹ mình. Ở đời, có nhân có nghĩa thì có thâm tình! Người vô nhân vô nghĩa suốt đời cô độc một mình oán than! (Hết).

Hồn quê

iếng còi xe dưới mặt đường cứ vang lên inh ỏi không lúc nào dứt. Không gian trở nên yên tĩnh, có chăng chỉ vào thời điểm sau mười hai giờ đêm đến ba giờ sáng. Bao giờ cũng vậy mẹ tôi cũng thức rất khuya ngồi thẫn thờ trên lan can lầu hai nhà tôi nhìn xuống thị xã đang rực rỡ ánh đèn đêm. Những đêm mưa bão thì mẹ choàng lên người một chiếc áo lạnh bằng len cũ kỹ màu xám tro. Có lần mẹ nói vui:

- Cái áo nầy lớn tuổi hơn con đó, mẹ mặc nó trên ba mươi năm rồi.

- Sao mẹ không thay cái khác? Nếu mẹ đồng ý thì ngày mai con mua cho mẹ, hàng bây giờ rẻ và nhiều loại đẹp lắm, nhất là hàng Thái và Hàn Quốc.

Ánh mắt mẹ tôi bỗng buồn rười rượi pha lẫn một chút gì đó vừa trách móc vừa dỗi hờn và người cứ lặng im, đăm chiêu nhìn về phía trời xa.

- Thôi con xin lỗi mẹ, mẹ không muốn thì thôi vậy.

Mẹ âu yếm kéo tôi vào lòng, đôi bàn tay nhăn nhúm nổi lên nhiều cọng gân xanh đang nhảy bần bật, rồi lùa vào mái tóc tôi như thuở còn thơ. Mẹ cười hiền và nhỏ nhẹ:

- Mẹ đã quen rồi, sắm thêm làm gì cho tốn kém, áo vẫn còn mặc ấm lắm con ạ.

Cách đây ba tháng, thấy mẹ cực khổ ở quê, vợ chồng tôi năn nỉ mãi mẹ mới chịu về thị xã sống với con cháu. Ba tôi mất đã hai mươi năm, mình mẹ sống thui thủi một mình ở quê nghèo Phú Hữu ven sông Hậu quanh năm sóng vỗ. Năm anh em tôi ai cũng ở xa, thuyết phục mãi nhưng mẹ vẫn khăng khăng từ chối ở chung. Lâu lâu mẹ lại đón xe đi thăm từng đứa con với vài đòn bánh tét, vài chục bánh ít nước tro kèm theo mấy nải chuối sáp cho lũ nhỏ, mẹ nói:

- Tui bây ở thành riết rồi có biết ăn chuối sáp nấu canh gì đâu, cây chuối là hồn quê của ba, của mẹ, của các con đó.

Và cứ mỗi lần mẹ thăm là chúng tôi lại có dịp ăn món canh chuối “độc đáo” dân dã chân quê này. Có lần thằng con trai của tôi lên bảy tuổi đổ nguyên tô canh vào sọt rác. Nó bĩu môi:

- Nội ơi chuối gì mà ăn không vô, mai mốt nội lên đừng đem nữa. Ở đây thiếu gì đồ ăn Trung Quốc, Thái Lan, ngon lắm.

Tôi giật thót người, định bụm miệng nó lại nhưng không kịp nữa. Tôi thấy đôi mắt của mẹ thật buồn thăm thẳm. Những giọt nước mắt như đang chực chờ lăn xuống khuôn mặt già nua đầy vết nhăn đồi mồi. Mẹ lặng im giây lát như cố kiềm chế cơn xúc động đang dâng trong lòng, rồi lơ đãng ngồi xuống chiếc ghế như người vô hồn.

- Đừng la nó, nó còn nhỏ có biết gì đâu nghĩ sao nói vậy. Thôi mai mốt tao không đem chuối sáp lên đây nữa đâu.

Đêm đó, mẹ tôi không ngủ, cứ thơ thẩn đi ra đi vào rồi ngồi trước lan can nhà tôi trầm ngâm suy nghĩ. Bão số sáu đang tràn về khắp thị xã. Gió thổi phần phật kèm theo tiếng rú rít hù hù, hàng cây sao bên đường chao qua chao lại để chống chọi cơn giận dữ của bão giông. Mẹ vẫn ngồi đó lặng im như pho tượng. Chiếc áo ấm xam xám nhập nhòe trong màn đêm. Có lẽ mẹ đang nhớ về quê. Ở đó quanh năm dịu mát, những cơn sóng trắng xóa cứ đập vào bờ như đang kể chuyện, như chở che cho những giồng cát phù sa. Nghe kể hồi xưa có rất nhiều người tới đây lập nghiệp nhưng không mấy người bám trụ được. Trong chiến tranh nơi đây mang tên “ tọa độ trắng ” bị bom đạn giặc cày đi xới lại băm nát ruộng vườn. Phú Hữu vốn nổi tiếng với bưởi Năm Roi, vậy mà khi cuộc chiến qua đi hàng chục năm vẫn chưa khôi phục hết những thửa vườn bưởi bị tàn phá. Mẹ thường nói gió ở quê tôi thật mát dịu, thật ngọt lành chân chất. Lúc nhỏ tui tôi thường dầm mưa lội cặp theo sông cái để bắt cua, bắt ốc nấu bún riêu và cũng để ngắm sông Hậu trắng xóa trong mưa. Chúng tôi cứ tụm năm tụm bảy để đá banh trên những cánh đồng nứt nẻ vì khô hạn. Những trái banh bằng dây ni lông cứ lăn ì ạch. Chán chê rồi thì nằm dài trên cỏ nhìn đất nhìn trời xuyên qua những vệt sáng dài dọi xuống mặt đất, hay thách nhau bơi đua trong cái nắng hầm hập.

Lần này lên ở với chúng tôi, mẹ cũng không mấy vui. Lúc nào cũng đau đáu nhớ quê. Buổi sáng cứ nhất định ăn cơm nguội hấp lại với món “kho quẹt”, và nằng nặc tắm nước lạnh và gội đầu bằng trái bồ kết mẹ mang từ quê ra. Nhớ cái ngày ra đón mẹ ở bến xe, vợ chồng tôi phải giật mình với bao nhiêu dụng cụ mẹ mang theo. Nào là thúng tre, chổi tàu cau, cây đòn gánh và cả quang gióng.

- Mẹ ơi mẹ mang thứ này lên đây làm chi cho chật nhà, có xài gì đâu. Dung - vợ tôi - có vẻ khó chịu, cau có trách móc.

- Có gì đâu, mẹ xếp gọn gàng thôi. Những thứ này theo mẹ mấy mươi năm trời rồi vắng nó thấy buồn lắm.

Thấy nét mặt giận dữ của tôi, Dung nín bặt rồi ngoe nguẩy bước đi vội vã. Một thoáng ưu tư xuất hiện trên khuôn mặt mẹ, nhưng có lẽ sợ tôi buồn nên mẹ làm ra vẻ vui mừng. Về đến nhà, mẹ lặng lẽ xếp những vật dụng dưới quê mang lên ra đặt phía trong gầm cầu thang sang trọng của nhà tôi. Tôi nhớ như in cách đây gần hai mươi năm khi ba tôi mất, cũng gióng gánh đó mỗi ngày kẽo kẹt trên vai mẹ đi bán sương sâm sương sa hột lựu để nuôi mấy anh em tôi ăn học. Có khi tối mịt mẹ tôi mới về đến nhà. Đôi chân trần đã lội không biết bao nhiêu cây số đường dài đến nỗi chai sần lên thành từng lớp. Chị hai tôi thường lấy lưỡi lam gọt đi những lớp vảy chai sần, vừa gọt mà hai mẹ con nước mắt rơi tầm tã. Ngày nào đi bán về mẹ cũng mua cho các con khi thì vài trái bắp luộc, lúc thì một mớ khoai lang, khoai mì. Đó là những tháng ngày hạnh phúc nhất của chúng tôi bên mẹ, nghèo nhưng thật ấm cúng.

Mỗi tối năm anh em tôi và mẹ ngủ chung một chiếc mùng to tướng vá víu rất nhiều chỗ đến nỗi chúng tôi gọi đùa là cáí mùng “Cái bang”. Mẹ cẩn thận mắc mùng cứ lo sợ muỗi vào làm chúng tôi thức giấc. Hôm nào có đứa bệnh là mẹ nằm cạnh bên nhúng khăn nóng lau trán suốt đêm, có khi mệt mỏi quá mẹ ngủ lúc nào không biết. Có lúc tôi tự nghĩ sao đời mẹ vất vả gian nan quá và hình như mẹ sinh ra đời để chịu đựng và lo toan cho chồng con không phút giây nào ngơi nghỉ. Những đêm thức khuya để vò sương sâm kịp phiên chợ sớm mai, chúng tôi được mẹ kể rất nhiều câu chuyện tôi còn nhớ mãi cho đến bây giờ. Đặc biệt là những chuyện về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ông bà, tình thủy chung vợ chồng, đạo làm người. Mẹ kể rất hay dù chưa hề được đi học ngày nào. Có lẽ những chuyện cổ tích ấy do ngoại tôi kể miệng đã in sâu vào tâm trí mẹ.

Có lần đi làm về sớm tôi thấy mẹ soạn gióng gánh ra rồi cẩn thận lau chúng bằng chiếc khăn sạch. Mẹ trân trọng nâng niu chúng như một bảo vật thiêng liêng lắm. Mắt mẹ cứ rưng rức nỗi buồn tiếc nuối một thời đã qua. Hình như hồn quê tôi cứ phảng phất đâu đây, vẫn nghe rì rào trong gió mùi hơi thở vùng quê Phú Hữu, có tiếng chim rì rào trong nắng gió, có tiếng ầm ập của con sông rộng, có mùi chan chát mằn mặn của chuối sáp quê hương.

Sáng qua khi thức giấc, tôi đã thấy mẹ thu xếp quần áo cho vào chiếc giỏ đệm cũ kỹ. Cạnh đó là cây đòn gánh và hai cái gióng, chiếc chổi tàu cau được buộc cẩn thận gọn gàng. Mẹ ôn tồn nói:

- Các con đừng buồn và trách mẹ. Mẹ nhớ nhà nhớ quê quá chịu không nổi, nhất là Tết tới rồi, vả lại còn phải về lo hương khói cho ba bây, để ông lạnh lẽo tội nghiệp. Mai mốt rảnh rỗi mẹ lên thăm.

- Bộ mẹ giận vợ chồng con sao ?

- Đâu có, các con tốt với mẹ lắm, tại mẹ không quen ở thành phố, nó ngột ngạt làm sao. Thôi đừng buồn.

Tôi đưa mẹ ra bến xe thị xã. Qua khung của sổ nho nhỏ của chuyến xe đò cũ kỹ, tôi thấy mắt mẹ thật buồn, trầm tư nghĩ ngợi. Mái tóc bạc phơ lòa xòa trên vầng trán nhăn nheo cứ bay bay trong gió xuân lành lạnh. Mẹ cố gượng cười nhưng trong nụ cười đó tôi thấy có gì như giận dỗi như trách hờn nhưng cũng đầy sự tha thứ cảm thông. Linh tính mách bảo cho tôi một điều mẹ sẽ không còn đến với vợ chồng tôi nữa, những đứa con đang mất dần hồn quê, đang thờ ơ và bỏ quên quá khứ.

Mẹ tôi đã về với hồn quê ngày Tết.

Tô cơm không đắng...

Thức ăn đã nấu xong. Vẫn là ba bốn món nhưng nhà vắng lặng, chỉ có mình chị. Dọn ra làm gì để rồi ngồi nhìn đống chén, dĩa, tô... nhảy múa qua làn nước mắt chực trào ra. Chén muỗng còn có bạn, chị thì không…

Cái ghế ở bàn ăn bằng thứ gỗ gì mà nặng quá. Chị chỉ biết là nó đắt tiền. Bộ bàn ăn gần cả trăm triệu đồng. Chị đã thấy vô lý khi bộ bàn chỉ dùng để ngồi ăn cơm có thể xây được một căn nhà nho nhỏ nhưng là mơ ước của những đôi uyên ương “duyên và số nghèo”. Khi chồng chị hô hào đám lính lác khiêng bộ bàn ăn vô nhà, trong chị là cánh rừng trơ trọi, là cái nhìn khắc khoải của ba mẹ chị trong một trận lụt nước ngập tới nóc nhà. Thế nên chị đứng thẫn thờ. Không mừng không vui như những bà vợ khác. Chồng chị trừng mắt: “Tưởng em nhảy cẫng lên vì thích”. Dạ thì thích, chị nói và với tay bật bếp gas nấu nướng gì đó cho có chuyện để làm.

Không nhấc hẳn cái ghế của bàn ăn mà chị lật nghiêng nó qua một bên. Kiểu ba chân hỏng đất, một chân tựa. Xoay ngược lui phía sau, cái bếp kiêm luôn bàn ăn. Chảo đồ xào là dĩa. Nồi nấu canh là tô. Chị bới chén cơm vừa trệu trạo nhai vừa nhìn gạch bếp sáng loáng, mặt bếp bằng đá granít đen bóng, tủ bếp làm bằng gỗ (lại gỗ) đỏ au. Tất cả vật dụng nhà bếp toàn hàng cao cấp. “Giang sơn mơ ước của những bà vợ”. Chồng chị đã nói như thế khi thợ lắp cái bếp âm, đặt lò vi sóng, gắn chiếc ti vi siêu mỏng vào tường…

Nhai được hai miếng, nước mắt chị ứa ra. Giờ này không biết mẹ đã về tới nhà chưa. Sáng nay hai mẹ con còn ngồi ăn sáng chung với nhau trước khi mẹ “quá giang” xe con rể ra sân bay. Khi mẹ nói: “Con cho mẹ quá giang với. Con Giang khỏi đi, mất công bịn rịn” không biết mẹ thuận miệng nói vậy hay vẫn còn giận chồng chị. Không muốn ngồi chung xe để mẹ lại nặng lòng khi vợ chồng mặt nặng mày nhẹ nên chị đưa con đi học, đi chợ và loanh quanh dọn dẹp như mọi ngày.

Không ngồi ăn ở bếp nữa, chị bưng tô cơm ra phòng khách. Cố níu kéo chút hình ảnh mẹ sáng nay cầm mấy tờ tạp chí bỏ vô giỏ xách nói ở đây con vứt lăn lóc vậy chứ ngoài quê mình không có mà đọc. Sách báo con gửi về, khi nào cũng đọc đến mấy tua! Ba đọc xong đến hàng xóm mượn.

Tô cơm vẫn chưa ăn xong. Vẫn ngầng ngậng nước mắt. Giờ này vẫn chưa thấy mẹ gọi. Có cơn gió lùa đánh khung cửa ở tầng trên cái ầm làm chị giật mình. Tiếp tục bưng tô cơm lên đóng cửa xong, ăn trên đó luôn. Một miếng kính vỡ toang. Nếu là bình thường, chị sợ đến điếng hồn khi nghĩ tới trận đay nghiến của chồng lúc khuya về. “Đồ đàn bà phá nhà” là câu chửi của chồng mỗi khi chị làm hư một đồ vật gì đó. Nhưng giờ, chị cứ trơ ra. Không sợ. Cũng không vội vàng nhặt những miếng kính vỡ đến nỗi chảy máu tay như mọi lần.

Tô cơm vẫn đắng. Bỗng thấy nóng ruột. Mẹ vẫn chưa về tới nhà. Không biết có chuyện gì. Chị nhận ra mình đã hơi no no. Đó là kiểu ăn không nghĩ đến chuyện ăn. Tâm trí cứ bị dẫn dắt đi đâu như thế nên không thấy miếng cơm ngon hay dở. “Bàn ăn” của chị lâu nay vẫn thế, có khi là bếp, phòng khách, phòng ngủ hay tuốt luốt trên sân thượng vừa ăn vừa nhìn giò lan. Ăn một mình, ở đâu mà chẳng được.

Đến gần tối con mới về nên chị lại vẫn quanh quẩn trong nhà dọn dẹp. Nhớ ra miếng kính vỡ, chị vội đi nhặt, gọi điện cho ông thợ “bảo kê chuyện sửa nhà nên khi hư hỏng gì, chị cứ gọi em!”. Chị nói chú làm như cũ nhé, để chồng tôi khỏi phát hiện.

Ông thợ nhặt miếng kính xong nói cho tui về gắn cái lỗ chắn gió. Bữa giờ trời xui đất khiến gì có mấy con dơi hay bay vô. Người ta nói dơi vô nhà xui. Của vỡ nhà này là của lành nhà khác. Chị ừ, chú cứ lấy. Lấy hết thứ gì chú muốn. Hả? Chị nói gì? Ông thợ ngạc nhiên hỏi lại. À không, tôi tiện miệng nói thế thôi, không có thứ gì là của tôi. Muốn cho cũng không được.

Nấu - hâm - ăn - dọn dẹp - nấu - hâm – ăn… chị cứ mãi hoài với những kiểu ăn một mình như thế và đã nhiều lần nghe mặn nước mắt hay mặn canh gì đó cũng không biết nữa.

Chiều tối, đến giờ con về. Chị tưởng ít ra được ăn cơm với con gái nào ngờ nó tót đi tắm, thay quần áo đẹp bảo đi ăn sinh nhật bạn. Chị nửa muốn nói nó ngồi vào bàn ăn chơi thôi cho chị có tinh thần ăn miếng cơm đỡ trệu trạo nửa muốn không. Con gái “thưa ma ma con đi”, chị đã nghe chén cơm nguội ngắt. Vừa đưa con ra cổng để khóa cửa, vừa ăn cơm. Lại thêm một kiểu ăn…

Chuông điện thoại reo. Mẹ chứ không ai nữa. Chị mừng húm chạy hai bậc cầu thang một để nghe điện thoại. Mẹ đây, về tới nhà khi xế trưa thôi. Đúng là đi máy bay. Vù cái tới. Nhưng mẹ lo cơm nước cho ba con trước nên lu bu quên mất. Ai đời mẹ đi có mấy ngày ổng xuống cân thấy rõ. Ốm nhom à… Mẹ à, mẹ quên chuyện nhà con đi nhé. Ừ, quên rồi. Nhiều người ở quê vô chịu cảnh đó lắm. Con rể hấm hứ khi mẹ vợ lỡ làm dơ nhà vì nước trầu đỏ lòm. Con rể xấu hổ khi có khách đến chơi nhìn mẹ vợ tóc vấn khăn quê rề rề đi gom đồ ve chai… Mà có nhớ cũng chẳng để làm gì. Ai bảo con nghèo lấy chồng giàu sang làm chi. Thương là thương cho con kìa…

Mẹ nói không nhớ chuyện khó chịu của chồng chị với mẹ hôm qua nhưng chị nghe mẹ thở dài. Nghe não nề… Ba chị hỏi gì đó loáng thoáng. Mẹ chị nói à không, mẹ con tui nói chuyện chơi ấy mà…

Con chị về lúc nửa đêm. Bước chếnh choáng vì men bia. Nó vừa chào ma ma vừa về phòng riêng. Chồng chị về lúc quá nửa đêm. Nồng nặc rượu. Đó là giờ bình thường…

Sáng ra chị đang bưng chén cơm nguội ăn vội dưới bếp bởi từ hôm qua nấu ăn cho ba người chỉ một người ăn, bỏ đi mang tội với trời đất thì nghe tiếng ầm ầm loảng xoảng. Kính rơi, vỡ tan. Tim chị cũng thót lên, tan chảy.

Gì thế này. Chồng chị gầm lên. Thằng nào thay tấm kính trời đánh này. Thứ phẩm. Thứ cấp. Hạng của cô chỉ có chừng này thôi à? Một tấm kính xịn với tấm kính đểu cũng không biết phân biệt được sao… Chị nghe tai ù đi. Sao chồng chị không phân biệt trái tim đau và không đau. Đến khi nào chồng chị nhìn vào vợ chứ không chăm chăm nhìn vào ngôi nhà, của cải, địa vị.

Con gái chị đã thay xong bộ đầm đẹp để đi làm. Nó liếc mắt nhìn ba, lắc đầu nhìn mẹ. Không nói gì. Như là chuyện đó chẳng liên quan đến nó.

Chồng chị sau khi đập tan ô cửa kính trên cửa sổ gần tầng thượng cũng lái xe đi làm… Chị ngạc nhiên thấy mình trơ ra, không khóc.

Mình là gì trong cái nhà này? Người giữ nhà? Ô-sin? Hay là nơi để một người đàn ông quát tháo khi không vừa ý và làm tình khi có nhu cầu?…

Bác sĩ nói chị coi chừng buồn và bỏ ăn có khi chết trước cái bệnh chị đang mang, đang giấu. Không ăn cơm được nữa. Chồng, con chị không hề biết đã mấy ngày, mấy tháng chị không ăn cơm.

Cho đến khi chị nhẹ bỗng đi, bay được. Chị bay về ngồi ăn cơm với ba mẹ, trong mái tranh nghèo. Một bữa cơm đạm bạc mà hạnh phúc!

Nhưng, mẹ chị đang lặng lẽ lau nước mắt gắp thức ăn bỏ vào cái chén cơm lưng lửng không người ăn. Ăn đi con, về ăn cơm với mẹ… Ba chị cũng khóc. Bà đừng như thế nữa được không, con nó có về được đâu… Và lúc này, chị khóc! .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: