Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

nho giáo

Sự hình thành của Nho giáo

1.1. Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, “nho” là một danh hiệu chỉ những người có học thức, biết lễ nghi. NHO GIÁO là hệ thống giáo lí của các nhà nho nhằm tổ chức xã hội có hiệu quả. Những cơ sở của nó được hình thành từ đời Tây Chu, đặc biệt là với sự đóng góp của Chu Công Đán. Đến lượt mình, KHỔNG TỬ phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa lại và tích cực truyền bá, vì vậy, ông thường được xem là người sáng lập Nho giáo.
Khổng Tử tên là Khâu, sinh năm 551 trCN tại nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông). Năm lên ba, Khâu mồ côi cha; lớn lên, phải làm lụng để giúp mẹ, nhưng rất ham học. Từ năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử, Khổng Tử (= thầy Khổng). Từ năm 34 tuổi, trong suốt gần 20 năm, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá tư tưởng và tìm người biết dùng mình. Nhiều nơi thầy trò bị bỏ đói, bị vây, bị dọa giết, và đạo của ông thì chẳng ai dùng. Cuối đời, ông tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Ông mất năm 479 trCN, thọ 73 tuổi.
1.2. Sách kinh điển của Nho giáo gồm 2 bộ.
Bộ thứ nhất là Ngũ kinh, phần lớn có từ trước, Khổng Tử đã gia công san định, hiệu đính và giải thích. Năm cuốn đó là:
1) Kinh Thi là sưu tập thơ ca dân gian, trong đó chủ đề tình yêu nam nữ khá nhiều. Khổng Tử dùng nó để giáo dục một tình cảm lành mạnh và cách thức diễn đạt tư tưởng khúc chiết rõ ràng.
2) Kinh Thư ghi lại những truyền thuyết và biến cố về các đời vua cổ – anh minh như Nghiêu, Thuần, tàn bạo như Kiệt, Trụ; Khổng Tử gia công san định lại những mong đem họ làm gương cho đời sau.
3) Kinh Lễ ghi chép những lễ nghi thời trước; Không Tử hiệu đính lại mong dùng nó làm phương tiện duy trì và ổn định trật tự xã hội.
4) Kinh Dịch khởi thủy vốn ghi chép về âm dương, Bát quái… ở dạng kí hiệu với sự đóng góp của Chu Văn Vương và Chu Công Đán. Từ bộ “Chu dịch” đó, Không Tử đã giảng giải sâu rộng thêm và trình bày thứ tự rõ ràng cho dễ hiểu, dễ dùng hơn.
5) Kinh Xuân Thu nguyên là sử kí của nước Lỗ quê hương Khổng Tử, được ông dụng công chọn lọc sự kiện, kèm theo những lời bình, thậm chí sáng tác thêm những lời thoại để giáo dục các vua chúa.
Đúng ra, bộ sách còn một cuốn thứ sáu là Kinh Nhạc, nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên ghép chung vào Kinh Lễ gọi là Nhạc kí. Vì vậy, “Lục kinh” thành ra chỉ còn Ngũ kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò tập hợp những lời dạy của thầy lại soạn ra cuốn Luận ngữ (các lời bàn luận). Học trò xuất sắc của Không Tử là Tăng Sâm (thường gọi là Tăng Tử) dựa vào lời thầy mà soạn sách Đại học dạy phép làm người quân tử. Rồi một học trò Tăng Tử là Khổng Cấp, thường gọi là Tử Tư (ông cũng chính là cháu nội Khổng Tử), viết ra Trung dung nhằm phát triển tư tưởng của ông nội mình về cách sống dung hòa, không thiên lệch. Đến thời Chiến quốc, các học phái nổi lên như nấm, có Mạnh Tử (khoảng 390-305 trCN), thường gọi là Mạnh Tử, là người bảo vệ xuất sắc tư tưởng của Khổng Tử; những lời của ông được học trò về sau biên soạn lại thành sách Mạnh Tử. “Đại học”, “Trung dung”, “Luận ngữ”, “Mạnh Tử” về sau hợp lại gọi là Tứ thư. Tứ thư và Ngũ kinh trở thành hai bộ sách gối đầu giường của Nho gia.
Mạnh Tử đã khép lại một giai đoạn quan trọng – giai đoạn hình thành Nho giáo. Đó là Nho giáo nguyên thủy, Nho giáo tiên Tần (trước thời Tần) hay còn được gọi là tư tưởng Khổng – Mạnh.

Nội dung cơ bản và sự phát triển của Nho giáo

2.1. Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là đào tạo cho được những người cai trị kiểu mẫu – người QUÂN TỬ (quân = cai trị; quân tử = người cai trị). Để trở thành người quân tử, trước hết là phải TU THÂN. Có ba tiêu chuẩn chính.
1) Đạt “đạo”. Đạo là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải biết cách ứng xử trong cuộc sống. Có 5 đạo: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). Năm đạo đó gọi là ngũ luân (luân = thứ bậc, cư xử) Trong xã hội, cách ứng xử hợp lí hơn cả là trung dung (dung hòa ở giữa).
2) Đạt “đức”. Người quân tử, theo Khổng Tử, nếu có ba điều nhân-trí-dũng thì gọi là đạt đức. Về sau, Mạnh Tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa” thành 4 đức: nhân, lễ nghĩa, trí. Đến đời Hán thêm tín thành 5 đức gọi là ngũ thường.
3) Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người quân tử còn phải biết thi-thư-lễ-nhạc. Khổng Tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng là nhờ học Thi, lập thân được là nhờ biết Lễ, thành công được là nhờ có Nhạc” (Luận ngữ). Nói cách khác, ông đòi hỏi người cai trị không thể là dân võ biền, mà phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Tu thân rồi, bổn phận của người quân tử là HÀNH ĐỘNG, phải tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Kim chỉ nam cho mọi hành động trong công việc cai trị là hai phương châm:
1) Phương châm thứ nhất là nhân trị. Nhân là tình người; nhân trị là cai trị bằng tình người, coi người như bản thân mình. Sách Luận ngữ kể rằng khi học trò hỏi về Nhân, Không Tử đáp: “Yêu người”; còn khi hỏi thế nào là Nhân, ông trả lời: “Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”, “Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”.
2) Phương châm thứ hai là chính danh. Chính danh tức là sự vật phải ứng với tên gọi, mỗi người phải làm đúng với chức phận của mình. Chính danh trong cai trị là phải làm sao để “vua ra vừa, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (Luận ngữ). “Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói không thuận tất việc chẳng thành” (Luận ngữ).
Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong các kinh sách của học thuyết Nho giáo. Gọn hơn nữa, nó đã được những người sáng lập tóm gọn trong 9 chữ tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và 9 chữ ấy cũng chỉ nằm trong 2 chữ cai trị mà thôi.
2.2. Xét về ngọn nguồn, có thể thấy Nho giáo chính là sự tổng hợp của hai truyền thống – văn hóa gốc du mục phương Bắc và văn hóa nông nghiệp phương Nam.
I – Tinh hoa của truyền thống DU MỤC phương Bắc mà Nho giáo nguyên thủy đã tiếp thu thể hiện nổi bật ở các điểm sau:
1) Thứ nhất là tham vọng “bình thiên hạ”; coi nhẹ quốc gia. Bản thân Khổng Tử đã trên một lần rời nước Lỗ quê hương đến các nước khác đế tìm minh chủ. Nó dẫn đến tư tưởng bá quyền, cho rằng chỉ có mình là trung tâm, còn “tứ di” xung quanh là “bỉ lậu” cả.
2) Gốc của tham vọng này là truyền thống trọng sức mạnh của văn hóa gốc du mục thể hiện trong chữ “dũng” như một trong ba đức của Nho giáo mà Khổng Tử đã đề ra.
3) Quan niệm về một xã hội trật tự ngăn nắp, có tôn ti rõ ràng, thể hiện qua thuyết “chính danh” cũng là một sản phẩm của truyền thống văn hóa gốc du mục phương Bắc với nếp sống chặt chẽ kỉ cương được đăm bào bằng sức mạnh.
II – Còn tinh hoa của truyền thống NÔNG NGHIỆP phương Nam mà Nho giáo nguyên thủy đã tiếp thu thể hiện nổi bật ở các điểm sau:
1) Việc đề cao chữ “Nhân” và nguyên lí “Nhân trị” có nguồn gốc từ lối sống trọng tình của người nông nghiệp phương Nam. Có lấn Tử Lộ hỏi về cái mạnh, Khổng Tử đã trả lời rất rõ: “Hỏi về cái mạnh của phương Nam ư? Hay là cái mạnh của phương Bắc ư?… Khoan hoà mềm mại để dạy người, không báo thù kẻ vô đạo – ấy là cái mạnh của phương Nam, người quân tử ở vào phía ấy. Xông pha gươm giáo, dầu chết không nản, ấy là cái mạnh của phương Bắc – kẻ mạnh ở vào phía ấy” (Trung dung). Chính do chọn lối sống trọng tinh cho nên khi nghe kể chuyện một người ngay thẳng tới mức tố cáo cha vô tội ăn trộm cừu thì Khổng Tử nói ngay: “Cánh chúng tôi thì không thế. Cha giấu tội cho con, con dấu tội cho cha, ngay thẳng là ở trong đó” (Luận ngữ)
2) Việc coi trọng dân có nguồn gốc từ tinh thần “dân chủ” của văn hóa nông nghiệp phương Nam. Khổng Tử nói: “Dân là chủ của thần, vì thế thánh nhân xưa lo xong việc dân mới lo đến việc thần” (Xuân Thu). Mạnh Tử còn nói rõ hơn; “Dân là quý, thứ đến đất nước, người cai trị thì xem nhẹ”. Các quan hệ trong “ngũ luân” luôn được Nho giáo nguyên thủy lí giải trong tinh thần của một thứ quan hệ hai chiều bình đẳng, tôn trọng con người: Quân minh thần trung (vua sáng suốt, tôi trung thành); Phụ từ tử hiếu (cha hiền từ, con hiếu thảo); Phu nghĩa phụ kính (chồng có nghĩa, vợ kính trọng); Huynh lương đệ đễ (anh tốt, em kính nhường); Bằng hữu hữu tín (bạn bè tin cậy nhau).
3) Nho giáo nguyên thủy rất coi trọng văn hóa, đặc biệt là văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc…). Tình yêu nam nữ được nói đến trong Kinh Thi chính là cái gốc của chữ nhân, cũng là cái gốc của mọi sự. “Đạo quân tử khai mào từ chuyện vợ chồng, tới lúc cùng tột thì bàn đến chuyện trời đất” (Trung dung). Về nhạc, Khổng Tử nói: “Khi người ta hiểu thấu được nhạc… thì những đức nhã nhặn, thành thực sẽ phát triển dễ dàng… Cách hay nhất để cải thiện phong tục là… xét cho kĩ những bản nhạc trong nước”. Việc trọng văn hơn võ cũng có nguồn gốc từ phương Nam nông nghiệp (khác với truyền thống du mục trọng võ hơn văn, gốc từ phương Bắc).
Cố gắng tổng hợp tinh hoa của hai truyền thống văn hóa trái ngược nhau trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động đã khiến cho học thuyết của Khổng Tử không tránh khỏi mâu thuẫn. Trong khi trên tư tưởng lý thuyết ông đề cao tinh thần dân chủ bình đẳng thì khi bàn về những vấn đề cụ thể, ông lại tỏ ra miệt thị dân (“Dân chúng có thể khiến họ theo, chứ không thể giảng cho họ hiểu được” – Luận ngữ), coi thường các nước chư hầu, miệt thị phụ nữ (“Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ nhờn, xa thì họ oán” – Luận ngữ). Trên lý thuyết thì “Nhân” là “yêu người”, là “Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” một cách chung chung, còn trong ứng xử thực tế thì “Nhân” lai là trước hết phải quan tâm đến người thân của mình, bao che cho họ, nói dối vì họ.
2.3. Sự phức tạp về nguồn gốc đã gây nên tấn BI KỊCH của Nho giáo: Cái Nho giáo mà Khổng Tử tốn bao công lao gây dựng vừa có thể nói là rất thành công lại vừa có thể nói là đã thất bại.
Thất bại, bởi trong khỉ các bậc đế vương vốn quen cầm quyền cứ theo lối chuyên chế bằng vũ lực và pháp trị thì Khổng Tử lại khuyên họ nên cầm quyền theo lối nhân trị. Chính vì đi ngược lai xu thế chung như vậy cho nên sinh thời, Khổng Tử hầu như chẳng được ai dùng. Về già, ông đã trên một lần tiên đoán về sự suy tàn của đạo mình: “Ta đã suy lắm rồi, từ lâu không còn mộng thấy Chu Công!” (Luận ngữ); “Thiên hạ không có đạo đã lâu rồi, không ai biết theo ta”. Khi sắp mất, nghe đồn có người bắt được con kì lân bị què chân trái, Không Tử nước mắt giàn giụa mà nói: “Đạo của ta đến lúc tàn rồi”.
Năm 246 trCN, Tần Thủy Hoàng dùng vũ lực thống nhất thiên hạ, áp dụng một chính sách cai trị bằng pháp luật độc đoán vào bậc nhất; nó đối lập hoàn toàn với chủ trương cai trị bằng tình người dân chủ của Nho gia. Mâu thuẫn đó là nguyên nhân tất yếu dẫn đến việc nhà Tần tiêu diệt Nho giáo với hành động tàn bạo đốt sách, chôn Nho nổi tiếng.
Chính vì quá chuyên chế mà chỉ 5 năm sau khi Thủy Hoàng chết, nhà Tần đã sụp đổ; nhà Hán lên thay (năm 202 trCN). Hán Cao tổ Lưu Bang lúc đầu cũng ỷ vào vũ lực, coi thường trí thức, văn hóa. Có lần ông nói với Lục Giả: “Ta ngồi trên lưng ngựa mà được thiên hạ, cần gì phải học Thi, Thư”. Nhưng rồi Hán Cao tổ đã biết rút kinh nghiệm của triều Tần, nghe lời khuyên của Lục Giả, thủ tiêu các hình phạt hà khắc, giảm nhẹ sưu thuế và trưng dụng trí thức để bảo vệ ngai vàng.
Theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ đế (140-25 trCN) là ông vua lần đầu tiên đưa Nho giáo lên địa vị quốc giáo. Từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và công cụ tinh thần bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa suốt hai nghìn năm lịch sử. Không những thế, nó còn được truyền bá khắp các nước Đông Á; Khổng Tử được tôn lên bậc thánh; trên thế giới, tên tuổi ông không ai là không biết. Nhìn vào những sự kiện hiển nhiên này, ai lại chẳng nói rằng Nho giáo đã rất thành công! W. Durant viết: “Rốt cuộc đạo Khổng thắng… Kin

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #csvh