8.Vai trò của Đầu tư đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
2. Vai trò của đầu tư
2.1. Xét trên góc độ vĩ mô:
2.1.1. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học - công nghệ của đất nước:
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới phát triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Dù chúng ta tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ hay phải nhập công nghệ từ nước ngoài thì chúng ta cũng cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
2.1.2. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Đầu tư có tác động quan trọng đến CDCCKT. Đầu tư góp phần làm CDCCKT phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, thành phần kinh tế, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.
Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp,... đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề cật chất để phát triển các ngành mới...
Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh thế, chính trị,... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Đối với cơ cấu thành phần kinh tế, đầu tư ở từng thành phần ít hay nhiều, tỉ trọng ra sao đều có những tác động làm chuyển biến cơ cấu nền kinh tế, tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư, ảnh hưởng đến sự phát triển và quy định tầm quan trọng của từng thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy thành phần nào phát triển cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của các thành phần khác trong nền kinh tế.
2.1.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng, vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc CDCCKT theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế...
2.2. Xét trên góc độ vi mô:
Đầu tư là hoạt động chủ yếu, quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển và khả năng tăng trưởng chiến lược của mỗi cơ sở sản xuất, doanh nghiệp. Bất cứ cơ sở sản xuất kinh doanh nào đều phải đầu tư tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật ban đầu (xây dựng cơ bản, mua sắm và lắp đặt máy móc, ...) và đầu tư để duy trì sự hoạt động bình thường của doanh nghiệp sau một thời gian hoạt động, cơ sở vật chất kĩ thuật bị hao mòn, hư hỏng (tiến hành sửa chữa lớn, thay mới các trang thiết bị cũ đã lỗi thời,...).
Những sai lầm trong việc dự toán vốn đầu tư có thể dẫn đến tình trạng lãng phí vốn lớn, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng đối với doanh nghiệp.
II. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Cơ cấu kinh tế:
1.1. Khái niệm:
Khái niệm: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy thuộc mục tiêu của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chính là kết quả của sự phân công lao động xã hội.
+ Cơ cấu kinh tế phải được nhìn nhận là một thực thể gồm rất nhiều phần tử hay phân hệ, có cấu trúc và cấu trúc theo kiểu cách nhất định, khi thay đổi kiểu cách kết cấu hay thay đổi cấu trúc thì hệ thống cũng sẽ thay đổi theo cả về hình dạng, tính chất và trình độ của các phần tử trong hệ thống cùng tồn tại và phát triển. Nếu chúng phát triển cùng chiều thì tạo nên sức mạnh cho hệ thống nhưng nếu phát triển trái chiều thì sẽ cản trở lẫn nhau, làm cản trở cho sự phát triển chung của hệ thống.
+ Khi nói về cơ cấu kinh tế phải nói cả về số lượng (đo bằng tỷ lệ % của các phần tử trong toàn bộ hệ thống) và mặt chất lượng ( mức độ chặt lỏng của mối liên kết giữa các phần tử trong hệ thống), bản chất của cơ cấu gắn chặt với hình thức của nó, quy định hình thức của cơ cấu.
Cơ cấu kinh tế có 2 đặc tính:
- Biểu hiện hình thức thông qua quan hệ tỷ lệ: tỉ trọng giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu ngành.
- Biểu hiện nội dung thông qua mối quan hệ giữa các thành phần: chúng tác động qua lại, tương hỗ với nhau như thế nào, quan hệ chặt hay lỏng.
Cơ cấu kinh tế là một hệ thống động, biến đổi không ngừng. Vì vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu các quy luật khách quan, thấy được sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
1.2 Phân loại cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu nền kinh tế bao gồm ba bộ phận cơ bản hợp thành: cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế.
1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế:
- Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại về mặt số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau.
- Vai trò: Là bộ phận quan trọng nhất trong phân tích CCKT vì nó phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Các nhóm ngành kinh tế lớn:
+ Nông nghiệp: Là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình sinh học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Đây là một ngành cơ bản của nền kinh tế, và cũng là một ngành đặc biệt vì đối tượng sản xuất là những cơ thể sống.
+ Công nghiệp - xây dựng: Là một ngành quan trọng của nền kinh tế bao gồm ngành công nghiệp nhẹ (chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da giầy, hàng tiêu dùng...), công nghiệp nặng (dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng,...)
+ Dịch vụ: Là một ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Dịch vụ bao gồm rất nhiều loại: Thương mại, vận tải, bưu chính - viễn thông, tài chính tiền tệ, dịch vụ tư vấn,... Đối với Việt Nam, đây đang thực sự trở thành 1 ngành kinh tế mũi nhọn.
- Góc độ xem xét:
+ Cơ cấu theo nhóm ngành lớn: nông nghiệp, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ.
+ Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa trên phương thức và công nghệ sản xuất: nhóm ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp.
+ Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa trên tính chất sản phẩm cuối cùng: nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành dịch vụ.
1.2.2. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ:
- Nền kinh tế quốc dân là một không gian thống nhất, được tổ chức chặt chẽ, là sản phẩm của quá trình phân công lao động theo lãnh thổ. Những khác biệt về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử... đã dẫn đến sự phát triển không giống nhau giữa các vùng. Ứng với mỗi cấp phân công lao động theo lãnh thổ có cơ cấu lãnh thổ nhất định: toàn cầu và khu vực, quốc gia, các vùng lãnh thổ trong phạm vi quốc gia.
- Các vùng kinh tế xã hội:
+ Trung du, miền núi Bắc bộ: Là vùng có vị trí địa lý đặc biệt, giáp Trung Quốc, Lào, liền kề đồng bằng Sông Hồng. Tài nguyên khoáng sản, thủy điện phong phú, có khả năng đa dạng hóa cơ cấu ngành kinh tế. Cơ sở vật chất kĩ thuật có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Việc phát huy các thế mạnh của vùng mang nhiều ý nghĩa về kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc.
+ Đồng bằng Bắc bộ: Sông Hồng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển nông nghiệp và đời sống dân cư trong vùng. Là nơi tập trung đông dân cư, đất đai màu mỡ, nơi có những đô thị lớn của nước ta, đặc biệt là có thủ đô Hà Nội, là nơi giao thương lớn, quy tụ nhiều đầu mối giao thông, và cũng là nơi tập trung nguồn lao động dồi dào.
+ Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: Là vùng có khí hậu khắc nghiệt, địa hình cũng khá khó khăn. Cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực còn khá hạn chế, nhưng thay vào đó là lợi thế có bờ biển trải dài nên thuận tiện cho việc khai thác thủy hải sản và cảng biển, phát triển thành nơi trung chuyển hàng hóa lớn.
+ Tây Nguyên: Là vùng đất bazan màu mỡ có khí hậu cao nguyên mát mẻ, tuy nhiên mùa khô kéo dài gây thiếu nước nghiêm trọng. Rừng nơi đây có trữ lượng lớn nhất nước (29.2 %), có quặng bô-xit với trữ lượng hàng tỷ tấn và trữ năng thủy điện tương đối lớn. Đây cũng là vùng được nhà nước rất quan tâm đến đẩy mạnh xói đói giảm nghèo, đầu tư phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân..
+ Đồng bằng sông Cửu Long: Là vùng trọng điểm lúa của cả nước, giữ vai trò hàng đầu trong đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu của cả nước. Đây cũng là nơi có vùng biển rộng, ấm quanh năm, hệ thống kênh ngòi chằng chịt cung cấp nhiều loại thủy hải sản. Ngoài biển, vùng còn có nguồn thủy sản nước ngọt lớn. Ngoài ra còn có các ngành công nghiệp khác như luyện kim, sản xuất hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng... cũng đã và đang phát triển rất mạnh.
+ Đông Nam Bộ: là vùng giáp Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, Campuchia và biển Đông, thuận lợi giao thương trong và ngoài nước. Biển ấm, ngư trường rộng, hải sản phong phú, có thềm lục địa nông, rộng, giàu tiềm năng dầu khí, đánh bắt hải sản. Phát triển trồng nhiều cây công nghiệp và nông nghiệp có giá trị kinh tế lớn: Cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, đậu tương, lạc, mía...
- Góc độ xem xét:
+ Cơ cấu theo vùng kinh tế.
+ Cơ cấu theo khu vực: thành thị và nông thôn.
1.2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế:
- Là kết quả tổ chức kinh tế theo các hình thức sở hữu kinh tế, gồm nhiều thành phần kinh tế tác động qua lại lẫn nhau.
- Các thành phần kinh tế:
+ Kinh tế nhà nước: Là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
+ Kinh tế tập thể: Là thành phần kinh tế phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt.
+ Kinh tế cá thể: Là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng trong ngành nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả về vốn sức lao động.
+ Kinh tế tư bản tư nhân: Là thành phần rất năng động nhạy bén với thị trường, nó có đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng của đất nước.
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta, luôn được khuyến khích phát triển, hướng mạch vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng.
- Góc độ xem xét:
+ Cơ cấu theo 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể hộ gia đình, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Cơ cấu theo 2 nhóm: kinh tế nhà nước và kinh tế ngoài nhà nước.
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
2.1. Khái niệm:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, vùng, lãnh thổ và thành phần kinh tế.
- Sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế cũng có thể do sự thay đổi các chính sách và các biến động về mặt xã hội gây nên, nó có thể được thực hiện một cách chủ động, có ý thức hoặc xảy ra trong điều kiện khách quan, có thể không theo dự kiến ban đầu.
+ CCKT không thể tự thay đổi nếu không có sự tác động từ bên ngoài.
+ Nếu CCKT chuyển dịch đúng, hợp lý thì đó là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội; ngược lại nó trở thành yếu tố kìm hãm. Vì vậy CDCCKT là một vấn đề mang tầm quốc gia, đòi hỏi một chương trình hành động thống nhất trên cả nước.
2.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Từ khi đất nước đổi mới đến nay, cơ cấu kinh tế nước ta đã có những biến chuyển tích cực nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ và nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, các ngành nghề chưa được phát triển đúng mức. Nhìn chung CCKT nước ta còn nhiều bất hợp lý, dẫn tới sản xuất đạt hiệu quả thấp, chưa khai thác hết mọi tiềm năng của đất nước. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu cần thiết để phát triển đất nước.
CDCCKT có vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất lẫn văn hóa tinh thần cho nhân dân. Từ đó thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
2.3. Các nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Tức là phải phù hợp với các quy luật khách quan chứ không phải những mệnh lệnh hành chính chủ quan, duy ý chí.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên một chương trình hành động thống nhất mang tính quốc gia.
+ Đối với cơ cấu theo lãnh thổ, cơ cấu kinh tế vừa phải phù hợp với lợi thế so sánh của vùng vừa phải hài hoà với tổng thể xã hội.
+ Đối với cơ cấu ngành, phải xuất phát từ sự thay đổi các ngành chủ lực làm đầu tàu kéo nền kinh tế từ những thay đổi về lượng đến những chuyển dịch về chất.
+ Cơ cấu theo thành phần tuy không đóng vai trò chủ đạo nhưng phải tạo ra môi trường kinh tế cởi mở, linh hoạt cho sự chuyển dịch.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể diễn ra một cách tuần tự, nhưng cũng có thể diễn ra một cách nhảy vọt tuỳ theo điều kiện cụ thể.
2.4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tích lũy về lượng, dẫn đến sự biến đổi về chất của cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo yêu cầu và phương hướng tiến bộ hơn trong điều kiện cụ thể của bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể diễn ra theo nhiều hướng khác nhau và còn phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế xã hội của từng quốc gia. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, để có một nền kinh tế hợp lý và đồng bộ thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế tốt nhất nên đi theo một xu hướng chung.
2.4.1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bắt đầu từ sự chuyển dịch của những ngành then chốt hay chủ lực có tính mũi nhọn.
- Có sự dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đẩy nhanh CNH- HĐH, nông nghiệp và nông thôn tiếp tục phát triển và đưa nông- lâm- ngư nghiệp lên một trình độ mới.
- Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu cung cấp cho thị trường nội địa, nhiều mặt hàng có chất lượng cao đã chiếm lĩnh thị trường trong nước, đi sâu vào phát triển các ngành lĩnh vực có năng suất lao động cao, hàm lượng công nghệ cao và chất xám cao; phát triển mạnh công nghiệp chế biến, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng của các ngành dịch vụ, thương mại, các loại hình vận tải, thông tin liên lạc, du lịch... kinh tế phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch vụ sẽ ngày càng cao so với tốc độ tăng của ngành công nghiệp.
2.4.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ:
- Các vùng, khu vực đều phát huy lợi thế so sánh để phát triển, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
- Nhà nước tiếp tục thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho vùng nhiều khó khăn.
- Thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kĩ thuật về nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực, gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng an ninh.
2.4.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế:
- Tỷ trọng của bộ phận kinh tế tư nhân ngày càng tăng, tỷ trọng khu vực nhà nước có thể giảm xuống tương đối nhưng vẫn đảm bảo vai trò chủ đạo cho nền kinh tế.
- Phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa nguồn vốn trong nước và nước ngoài.
- Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng vốn rộng rãi vốn đầu tư của xã hội.
III. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta:
Đầu tư có tác động quan trọng, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.
1. Một số lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1.1. Mô hình của Rostow:
Rostow đã chia quá trình phát triển của một quốc gia tư xã hội truyền thống đến xã hội phát triển cao thành 5 giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều có một cơ cấu kinh tế đặc trưng gắn với một yêu cầu riêng về tỉ lệ đầu tư và cơ cấu đầu tư:
+ Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống: Nền kinh tế bị thống trị bởi sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp, năng suất lao động thấp do công cụ thủ công. Tích luỹ gần như bằng 0, không có đầu tư. Nền kinh tế biến đổi chậm, cơ cấu kinh tế là cơ cấu thuần nông, tăng sản lượng chủ yếu dựa trên việc mở rộng diện tích canh tác, xây dựng hệ thống thủy lợi và áp dụng giống mới.
+ Giai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh: Những hiểu biết về khoa học - kỹ thuật bắt đầu được áp dụng trong nông - công nghiệp. Nhu cầu đầu tư dẫn đến sự ra đời của ngân hàng và các tổ chức huy động vốn thúc đẩy hoạt động đầu tư. Cơ cấu ngành kinh tế: Nông - công nghiệp
+ Giai đoạn 3: Cất cánh: Để đảm bảo cho sự cất cánh: huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết, tỉ lệ tiết kiệm tăng lên ít nhất chiếm 10% trong thu nhập quốc dân thuần tuý (NI). Ngoài nguồn vốn đầu tư trong nước còn vốn đầu tư nước ngoài và khoa học công nghệ cũng có vai trò quan trọng. Khu vực nông nghiệp được thương mại hóa, dịch vụ và đô thị rất phát triển. Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này là: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
+ Giai đoạn 4: Trưởng thành:. Tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư chiếm hơn 20% thu nhập quốc dân thuần túy (NI). Nhiều ngành công nghiệp mới phát triển, nông nghiệp được cơ giới hóa, như cầu thương mại quốc tế tăng mạnh. Đầu tư chiếm tỷ lệ cao. Cơ cấu kinh tế đặc trưng: Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.
+ Giai đoạn 5: Tiêu dùng cao
Có thể thấy trong mỗi giai đoạn đầu tư luôn là yếu tố tiên quyết đối với sự hình thành 1 cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ và hợp lý hơn.
1.2. Mô hình 2 khu vực của Harry Oshima:
Dựa trên nghiên cứu của 2 mô hình 2 khu vực của Athus Lewis và của trường phái Tân cổ điển và đặc điểm riêng của các nước châu Á gió mùa (nền nông nghiệp mang tính chất thời vụ cao nên lao động thất nghiệp cũng có tính chất thời vụ); Harry Oshima đã quan tâm đến việc đầu tư phát triển nền kinh tế theo 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng: tạo việc làm trong thời gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp, phù hợp với khả năng vốn, trình độ kỹ thuật của nông thôn giai đoạn đầu. Cụ thể là đa dạng hoá sản xuất nông
nghiệp, xen canh, tăng vụ, mở rộng chăn nuôi, trồng cây lâm nghiệp. Đồng thời để nâng cao năng suất lao động cần đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương, đập tưới tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn để trao đổi hàng hoá, hệ thống giáo dục và điện khí hoá nông thôn. Kết thúc khi nông nghiệp có quy mô lớn.
+ Giai đoạn 2: Hướng tới có việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển đồng thời cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ theo chiều rộng. Bên cạnh việc tiếp tục phát triển đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, cần phát triển những ngành công nghiệp, dịch vụ cần nhiều lao động và các ngành thu hút nhiều lao động. Nhờ đó vừa giải quyết lao động dư thừa vừa mở rộng thị trường cho ngành công nghiệp. Kết thúc khi tăng trưởng việc làm nhanh hơn tăng trưởng lao động, tiền lương thực tế tăng.
+ Giai đoạn 3: Thực hiện phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động. Công nghiệp trong nước bắt đầu vươn ra nước ngoài, dịch vụ phát triển phục vụ công nông nghiệp tăng mạnh làm thiếu lao động. Đẩy mạnh đầu tư đưa khoa học công nghệ vào nhằm thay thế lực lượng lao động đang dần trở nên thiếu hụt. Các ngành sử dụng ít lao động đang dần thay thế các ngành sử dụng nhiều lao động trong cơ cấu kinh tế.
Mô hình của Oshima là mô hình tiến bộ nhất và cũng gần gũi nhất với điều kiện Việt Nam. Bởi vậy những kết luận mô hình đưa ra rất đáng lưu tâm. Theo đó, cơ cấu đầu tư biểu hiện những ưu tiên của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Chính nó quyết định cơ cấu kinh tế. Do đó kiến nghị mà Oshima đưa ra là sử dụng sự thay đổi từng bước trong cơ cấu đầu tư để mang lại chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.3. Lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu (Moise Syrquin)
Có thể tóm tắt lý thuyết chuyển dịch cơ cấu kinh tế của M. Syrquin gồm ba giai đoạn: (1) sản xuất nông nghiệp, (2) công nghiệp hóa, và (3) nền kinh tế phát triển.
+ Giai đoạn 1: có đặc trưng chính là sự thống trị của các hoạt động của khu vực khai thác, đặc biệt là nông nghiệp. Nếu xét ở mặt cung, thì trong giai đoạn 1 có những đặc trưng chính là tỷ lệ tích lũy tư bản còn khiêm tốn nên tỷ lệ đầu tư thấp, tốc độ tăng trưởng cao của lực lượng lao động, và tốc độ tăng trưởng tổng năng suất nhân tố (TFP) rất thấp, và nhân tố sau cùng này tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chung hơn là yếu tố tỷ lệ đầu tư thấp.
+ Giai đoạn 2 hay là giai đoạn công nghiệp hóa: có đặc điểm nổi bật là tầm quan trọng trong nền kinh tế đã được chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực chế biến và chỉ tiêu chính để đo lường sự dịch chuyển này là tầm quan trọng của khu vực chế biến trong đóng góp và tăng trưởng kinh tế chung ngày càng tăng lên. Xét ở mặt cung, sự đóng góp vào tăng trưởng của nhân tố tích lũy tư bản vẫn được giữ ở mức cao trong hầu hết giai đoạn 2 do có sự gia tăng mạnh của tỷ lệ đầu tư.
+ Giai đoạn 3: là giai đoạn của một nền kinh tế phát triển. Sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 có thể được hiểu theo nhiều cách. Nếu xét về mặt cầu, tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong cơ cấu nhu cầu nội địa bắt đầu giảm xuống. Khu vực dịch vụ trở thành khu vực quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP cũng như cơ cấu lao động. Ở mặt cung, sự khác biệt chủ yếu giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 3 là sự suy giảm trong đóng góp vào tăng trưởng của cả hai nhân tố sản xuất tư bản và lao động theo cách tính qui ước.
Có thế nói rằng, lý thuyết chuyển dịch cơ cấu của M. Syrquin là một bức tranh tổng thể khá chính xác về sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới thời kỳ hiện đại. Đặc biệt, lý thuyết này đi sâu hơn các lý thuyết trước trong việc phân tích tác động của từng nguồn lực trong đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng giai đoạn.
1.4. Lý thuyết các cực tăng trưởng:
+ Những nhà kinh tế học ủng hộ lý thuyết phát triển cân đối cho rằng ngay từ đầu phải đầu tư phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân để nhanh chóng công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nhưng những nghiên cứu mà mô hình đưa ra chỉ phù hợp để định hướng cho một nền kinh tế đóng. Nó không phù hợp với điều kiện toàn cầu hóa hiện nay. Đặc biệt với các nước đang phát triển nếu đi theo con đường này sẽ bị hạn chế trong việc tiếp cận với các nguồn lực do không tận dụng được các lợi ích mà môi trường bên ngoài đem lại. Mặt khác, việc đầu tư cho tất cả các ngành phải đối mặt với vấn đề nguồn lực khan hiếm. Đặc biệt, với các nước đang phát triển, việc đầu tư vào tất cả các ngành với nguồn lực nhỏ bé trong nước sẽ dẫn tới đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.
+ Bởi vậy hiện nay hầu hết các nước đều đi theo con đường phát triển không cân đối. Những đại diện tiêu biểu của lý thuyết này cho rằng không thể và không nhất thiết đảm bảo tăng trưởng bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia.
Lý thuyết này phù hợp hơn với xu thế hội nhập nói chung và điều kiện của các nước đang phát triển nói riêng. Hiện nay hầu hết các nước đều định hướng đầu tư trọng tâm, trọng điểm vào một số lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, để phát triển bền vững nên kết hợp linh hoạt 2 lý thuyết này trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước trong từng giai đoạn.
Kết luận chung được rút ra sau khi xem xét tất cả các lý thuyết trên là:
+ Thứ nhất, để phát triển kinh tế cần xác định một cơ cấu kinh tế phù hợp cho từng giai đoạn (đây là nhiệm vụ của công tác định hướng, lập kế hoạch).
+ Thứ hai, muốn nền kinh tế chuyển dịch theo cơ cấu đã định ra, phải hướng đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên đã được xác định
=> Vậy, các lý thuyết trên đều chứng minh rằng đầu tư có vai trò là nhân tố thực hiện trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
2. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm và thực tiễn cho thấy rằng con đường tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9 đến 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là sự chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng, lãnh thổ.
2.1. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành:
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này qua trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn.
Việc đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn là bao nhiêu, đồng vốn được sử dụng như thế nào... đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự phát triển của ngành nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
- Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là hệ quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP.
- Như đã nói, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cả nền kinh tế. Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự phân hóa cơ cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế là do có tác động của đầu tư.
+ Đối với các ngành nông nghiệp, đầu tư tác động nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cơ giới hóa nông nghiệp nông thôn bằng cách xây dựng kết cấu kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn, tăng cường khoa học công nghệ...
+ Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành kinh tế theo hướng đa dạng hóa, từng bước hình thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu.
+ Đối với ngành dịch vụ, đầu tư giúp phát triển các ngành thương mại, dịch vụ vận tải hàng hóa, mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư còn tạo nhiều thuận lợi trong việc phát triển nhanh các ngành dịch vụ bưu chính viễn thông, phát triển du lịch, mở rộng các dịch vụ tài chính tiền tệ.
- Nhờ có đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường. Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc, trang thiết bị... suy cho cùng đều cần đến vốn. Một ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công dụng mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm là điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường.
2.2 Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ:
Đối với cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn.
+ Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung tại những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Các vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó những vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển, làm bàn đạp thúc đẩy cho các vùng khác phát triển.
+ Nguồn vốn đầu tư cũng thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giúp họ có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển, tạo đà cho nền kinh tế vùng, giảm bớt sự chênh lệch kinh tế với các vùng khác.
Có thể dễ dàng nhận thấy bất cứ vùng nào nhận được một sự đầu tư thích hợp đều có điều kiện để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh của mình. Những vùng tập trung nhiều khu công nghiệp lớn đều là những vùng rất phát triển của một quốc gia. Những vùng có điều kiện được đầu tư sẽ là đầu tàu kéo các vùng khác cùng phát triển. Những vùng kém phát triển có thể nhờ vào đầu tư để thoát khỏi đói nghèo và giảm dần khoảng cách với các vùng khác.
Nếu xét cơ cấu lãnh thổ theo góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho chất lượng của đô thị hoá. Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định của chính phủ sẽ chỉ là hình thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý. Đô thị hoá không thể gọi là thành công thậm chí còn cản trở sự phát triển nếu cơ sớ hạ tầng không đáp ứng được các nhu cầu của người dân.
2.3. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế:
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành phần nào là chủ đạo, thành phần nào được ưu tiên phát triển, vai trò, nhiệm vụ của các thành phần trong nền kinh tế... Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện.
Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế. Trong những năm qua, cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Đầu tư tạo ra sự phong phú, đa dạng về nguồn vốn đầu tư. Cùng với sự xuất hiện của các thành phần kinh tế mới là sự bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ hơn trước để nâng cao tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi cá nhân tham gia đầu tư làm kinh tế.
3.Vai trò đặc biệt của đầu tư trong điều kiện toàn cầu hoá:
"Trong sự phát triển ra thế giới, nếu thiếu một quốc gia không thể gọi là toàn cầu. Trên trường kinh tế thế giới, nếu thiếu một ngoại tệ của một quốc gia không thể gọi là toàn cầu hóa"
Toàn cầu hoá là xu hướng chung của cả thế giới mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài xu hướng chung đó. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, toàn cầu hoá luôn kèm theo những yếu tố loại trừ rất khắc nghiệt. "Đổi mới hay tụt hậu?" câu hỏi đó phải được trả lời bằng quyết tâm của cả nền kinh tế. Vậy nên, trong điều kiện toàn cầu hoá vai trò của đầu tư trở nên vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, trước đòi hỏi cao của trình độ khoa học công nghệ thế giới, chúng ta phải không ngừng nâng cao công nghệ của mình. Mà công nghệ không thể tự sản sinh nếu không có vốn bất kể đó là công nghệ nội sinh hay công nghệ ngoại sinh. Hơn nữa, nền kinh tế trong nước là một bộ phận của kinh tế thế giới. Vì vậy, cơ cấu kinh tế của chúng ta không những phải chuyển dịch mà còn phải chuyển dịch nhanh hơn để phù hợp nhu cầu của thế giới. Với điều kiện nước ta hiện nay những bất hợp lý là không thể tránh khỏi, nhưng chúng ta phải nhanh chóng xoá bỏ những điều đó để hội nhập. Muốn vậy phải đầu tư nhiều hơn nữa.
Mặc dù những thách thức là rất lớn nhưng toàn cầu hoá cũng mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội lớn để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đó là đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ và thương mại quốc tế. Với việc mở cửa nền kinh tế, chúng ta đang thu hút những nguồn vốn vô cùng quan trọng cho sự phát triển toàn diện. Chuyển giao công nghệ tuy có những khó khăn, phức tạp nhưng đó là hướng đi chung của các quốc gia đang phát triển hiện nay để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thương mại quốc tế là cơ hội rất lớn để chúng ta mở rộng thị trường đồng thời tạo môi trường cạnh tranh trong nước. Nhưng để cạnh tranh hiệu quả chúng ta cần biết thị trường thế giới đang cần gì để xây dựng cơ cấu đầu tư vào những nhóm ngành sản xuất hàng xuất khẩu phù hợp.
Toàn cầu hoá đang đưa Việt Nam ra gần hơn với thế giới và đưa thế giới đến gần hơn với Việt Nam.
IV. Những chỉ số đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1. Các chỉ số đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Để đánh giá mức độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành giữa 2 thời kỳ, người ta có thể sử dụng công thức sau:
1.1.. Tỉ trọng các ngành - (t)
Công thức tính tỷ trọng các ngành (Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ):
Tỉ trọng của ngành phi nông nghiệp là :
PNN (t) = CN (t) + DV(t)
Tỉ trọng của ngành sản xuất vật chất là :
SXVC (t) = NN (t) + CN (t)
Ý nghĩa của chỉ số:
+ Cho biết đóng góp về mặt lượng của mỗi ngành vào tổng sản lượng của nền kinh tế trong mỗi thời kỳ. Nếu xét trong một thời kỳ, chỉ số này thể hiện vai trò của mỗi ngành trong nền kinh tế. Nếu xét nhiều thời kỳ liên tiếp, chỉ số này biểu hiện sự thay đổi vai trò của các ngành qua thời gian.
+ Công thức tính tỷ trọng này cũng áp dụng để tính tỷ trọng GDP, tỷ trọng đầu tư của các vùng, các thành phần kinh tế. Khi đó, nó được dùng để đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ và theo thành phần kinh tế.
1.2. Hệ số chuyển dịch k của 2 ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp:
Công thức tính ( dựa trên công thức tính tỷ trọng các ngành - (t)):
Cos =
Góc = arccos
Ý nghĩa của chỉ số:
+ Góc bằng 0 khi không có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bằng 90 khi sự dịch chuyển là lớn nhất.
k = 0 90
Hệ số k cho biết tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhờ đó mà ta có thể sử dụng hệ số k của mỗi vùng hay mỗi giai đoạn để so sánh và đánh giá tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng hoặc của vùng đó qua các giai đoạn.
+ Điều kiện áp dụng: trong công thức đưa ra; vai trò của 2 thành phần tỷ trọng nông nghiệp và phi nông nghiệp là hoàn toàn bình đẳng. Bởi vậy, việc sử dụng k để đánh giá tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành chỉ áp dụng khi sự chuyển dịch là đúng hướng (tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm, tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp tăng. Vì vậy, chỉ đánh giá k trong giai đoạn d < 0)
1.3. Hệ số chuyển dịch k của 2 ngành dịch vụ và sản xuất vật chất:
Công thức tính ( dựa trên công thức tính tỷ trọng các ngành - (t)):
Cos = (2DV(t)+2PhiDV(t))x(2DV(t1)+2PhiDV(t1))(2DV(t)+2PhiDV(t))x(2DV(t1)+2PhiDV(t1))
Góc = arccos
Ý nghĩa của chỉ số:
+ Góc bằng 0 khi không có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và 90 khi sự dịch chuyển là lớn nhất.
k = 0 90
Hệ số k cho biết tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhờ đó mà ta có thể sử dụng hệ số k của mỗi vùng hay mỗi giai đoạn để so sánh, đánh giá tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng hoặc của vùng đó qua các giai đoạn.
+ Điều kiện áp dụng: trong công thức đưa ra; vai trò của 2 thành phần tỷ trọng dịch vụ và phi dịch vụ là hoàn toàn bình đẳng. Bởi vậy, việc sử dụng k để đánh giá tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành chỉ áp dụng khi sự chuyển dịch là đúng hướng (tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng, tỷ trọng khu vực phi dịch vụ giảm). Vì vậy, chỉ đánh giá k trong giai đoạn dDV > 0)
1.4. Độ lệch tỉ trọng ngành - d
Công thức tính
Độ lệch tỷ trọng nông nghiệp:
dNN = NN(t1) - NN(t)
Độ lệch tỷ trọng dịch vụ:
dDV = DV(t1) - DV(t)
Ý nghĩa của chỉ số:
+ Độ lệch tỷ trọng ngành phản ánh sự thay đổi tỷ trọng ngành đó giữa năm đầu và năm cuối của giai đoạn nghiên cứu. Nhờ đó ta có thể đánh giá được hướng chuyển dịch của ngành đó cũng như hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành.
2. Các hệ số đánh giá tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Để đánh giá vai trò của đầu tư tác động đến việc CDCCKT, người ta có thể sử dụng công thức sau:
2.1. Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế của ngành (H1):
Công thức:
H1 =
với là tỷ trọng đầu tư ngành thời kỳ nghiên cứu
là tỷ trọng đầu tư ngành thời kỳ trước
là tỷ trọng đóng góp GDP của ngành đó thời kỳ nghiên cứu
là tỷ trọng đóng góp GDP của ngành đó thời kỳ trước
Ý nghĩa của hệ số:
+ Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì cần phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu. Bởi vậy, nó là thước đo đánh giá độ nhạy cảm giữa tỷ trọng GDP của mỗi ngành và tỷ trọng đầu tư của ngành đó.
+ Qua đó có thể đánh giá mức độ ảnh hướng của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nếu hệ số này mang giá giá trị dương tức là khi tỷ trọng đầu tư vào ngành tăng hoặc giảm thì tỷ trọng GDP cũng tăng giảm tương ứng. Nếu hệ số này âm, tức là trong giai đoạn đo đầu tư không tác động thuận chiều đến thay đổi tỷ trọng ngành.
2.2. Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP (H2):
Công thức tính
H2 =
Với: g(t1) là tốc độ tăng trưởng kỳ nghiên cứu
g(t) là tốc độ tăng trưởng kỳ trước
Ý nghĩa của hệ số :
+ Chỉ tiêu này cho biết để góp phần đưa vào tăng trưởng kinh tế (GDP) lên 1% thì tỉ trọng đầu tư vào 1 ngành nào đó tăng bao nhiêu. Cũng giống như H1, hệ số này là thước đo độ nhạy cảm của tăng trưởng kinh tế nói chung với thay đổi tỷ trọng đầu tư của mỗi ngành.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro