Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

6.LÃI SUẤT TIỀN VAY, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VÀ QUI MÔ VỐN ĐẦU TƯ

A. Lý luận chung về lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận và qui mô vốn đầu tư

I. Lãi suất

1. Khái niệm và vai trò của lãi suất

1.1. Khái niệm

Lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của vốn - giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau.

Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số vốn gọi là lãi suất.

1.2. Vai trò của lãi suất

Ở tầm kinh tế vi mô, lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân cũng như các doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế của mình như: chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm, đầu tư số vốn tích lũy được vào danh mục đầu tư khác,...

Ở tầm kinh tế vĩ mô, lãi suất lại là một công cụ điều tiết nền kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả: thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, chính phủ có thể tác động đến quy mô và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu, đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát trong nước.

Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất còn được sử dụng như là một công cụ góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá. Điều này không những tác động trực tiếp đến đầu tư phát triển kinh tế mà còn tác động đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với nước ngoài.

2. Phân loại lãi suất

2.1.Phân loại theo nguồn sử dụng

- Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng.

- Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay. Về mặt lý thuyết, các mức lãi suất cho vay khác nhau được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của đối tượng đầu tư và thời hạn cho vay. Tuy nhiên với ý nghĩa là một công cụ điều tiêt vĩ mô nền kinh tế, điều đó không phải bao giờ cũng đúng, vì nó còn tùy thuộc vào mục tiêu chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.

Thông thường, lãi suất cho vay và lãi suất huy động có mối quan hệ được xác định như sau:

Lãi suất Lãi suất Rủi ro

cho vay = huy động + Chi phí + tối thiểu + Lợi nhuận

Trong nội dung đề tài này, chúng tôi xin đề cập đến lãi suất dưới góc độ lãi suất cho vay đặt trong mối quan hệ với tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và qui mô vốn đầu tư.

3.2.Phân loại theo giá trị thực:

- Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho mỗi kỳ hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước.

- Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của các khoản lãi được trả hoặc thu được.

Lãi suất Lãi suất Tỷ lệ

thực = danh nghĩa - lạm phát

Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp. Đối với người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát và trong suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng lạm phát tăng thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ lỗ vì trượt giá khi trả nợ.

2.3.Phân loại theo phương pháp tính lãi

- Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế tiếp.

Lãi suất đơn = số tiền lãi / số tiền gốc * 100%

- Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay (lãi mẹ đẻ lãi con).

Công thức:

I = ( 1+i)^1/t - 1

I : lãi suất tại thời điểm t

i: lãi suất đơn hàng năm

t: chu kỳ tính lãi suất

2.4.Phân loại theo loại tiền gửi

- Lãi suất nội tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ (kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay).

- Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất tính toán áp dụng cho đồng ngoại tệ.

2.5.Phân loại theo kỳ hạn cho vay:

- Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm.

- Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.

- Lãi suất dài hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm.

3.Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất

3.1. Cung cầu các quĩ cho vay

Lãi suất là giá cả của tín dụng, do vậy, bất kì sự thay đổi nào của cung cầu quĩ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm thay đổi lãi suất trên thị trường.

Tuy nhiên, mức độ biến động của lãi suất ít nhiều còn phụ thuộc vào các quyết định của chính phủ và NHTW. Điều đó cho thấy, chúng ta có thể tác động vào cung hay cầu vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược từng thời kì.

3.2.Lạm phát kì vọng

Khi lạm phát tăng, dù ở từng mức lãi suất riêng lẻ hay ở tất cả mọi lãi suất, yếu tố kích thích làm tăng cung quỹ cho vay gần như triệt tiêu bởi giá trị thực tế của vốn gốc và tiền lời thu được đã bị hao mòn do tác động của lạm phát.Theo Friedman, ông cho rằng trong mọi trường hợp tỷ lệ lạm phát của một nước là cực kỳ cao trong bất cứ thời kỳ kéo dài nào, thì tỷ lệ tăng trưởng của cung ứng tiền tệ là cực kỳ cao.

Hình 1: Ảnh hưởng của lạm phát đến lãi suất

Tóm lại, khi lạm phát dự tính tăng, lãi suất tăng. Điều này có một ý nghĩa quan trọng trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu hướng lạm phát tăng.Trên cơ sở đó, có một chính sách lãi suất hợp lý. Khi lạm phát cao, nhà nước cần phải nâng lãi suất danh nghĩa, đảm bảo cho lãi suất thực dương, hoặc nhà nước tung vàng, ngoại tệ ra bán để kiềm chế lạm phát. Nhiều nhà kinh tế đã khuyến nghị rằng cuộc chiến chống lạm phát nhất định sẽ thất bại nếu chúng ta muốn hạ thấp lãi suất.

3.3. Bội chi ngân sách

Bội chi ngân sách của NHTW sẽ trực tiếp làm cho cầu của quĩ cho vay tăng làm tăng lãi suất.

Bội chi ngân sách cũng tác động đến tâm lý dân chúng về mức gia tăng lạm phát gây ra áp lực làm tăng lạm phát.

Về phía Chính phủ, khi bội chi NSNN thì Chính phủ thường gia tăng phát hành trái phiếy làm cung trái phiếu trên thị trường tăng, giá trị trái phiếu có xu hướng giảm xuống. Chính điều này đã làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên.

Về phía các NHTM, tài sản có của họ tăng ở mục trái phiếu Chính phủ, dự trữ vượt quá của họ bị giảm. Do đó, lãi suất ngân hàng tăng lên.

3.4. Những thay đổi về thuế đối với các tổ chức tín dụng và tổ chức kinh doanh chứng khoán

Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa.

Đối với các doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn tác động đến lợi nhuận của họ. Cho nên nếu các hình thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa là nó sẽ điều tiết bớt một phần thu nhập của cá nhân doanh nghiệp làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, kinh doanh chứng khóan tức là các NHTM và các công ty Chứng khóan.

Thông thường, ai cũng quan tâm đến thu nhập thực tế hơn thu nhập danh nghĩa thì đương nhiên các tổ chức kinh doanh chứng khóan phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những sự thay đổi về thuế làm lãi suất tăng lên.

3.5. Những thay đổi trong đời sống xã hội

Ngoài những yếu tố kể trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu tác động của những sự thay đổi trong đời sống xã hội. Ví dụ như sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng.

Thêm nữa, tình hình về kinh tế, chính trị của cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, các luồng vốn đầu tư ra vào đối các nước đều ít nhiều tác động đến sự thay đổi lãi suất của các nước khác.

Tất cả các vấn đề này đều gợi ý cho tất cả những nghiên cứu, soạn thảo và điều hành về chính sách lãi suất phải có sự nhìn nhận và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra bất kì kết luận hoặc quyết định nào đến lãi suất.

II.Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư ( RR- RATE OF RETURN)

1.Khái niệm, phân loại

1.1. Lợi nhuận thuần.

Xét trên góc độ đầu tư, chỉ tiêu lợi nhuận thuần ( W - Worth) được tính cho từng năm hay cho cả đời dự án và bình quân năm của đời dự án.

Lợi nhuận thuần từng năm ( ¬¬Wi ) được xác định như sau:

Wi = Oi - Ci

Trong đó:

Oi : Doanh thu thuần năm i.

Ci : Các chi phí năm i bao gồm tất cả các khoản phí có liên quan tới sản xuất, kinh doanh năm i: chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí khấu hao, chi phí thuê tài sản, thuế thu nhập doanh nghiệp....

Lợi nhuận giữ 1 vị trí quan trọng trong hoạt động tài chính doanh nghiệp, nó quyết định sống còn của bất kỳ doanh nghiệp nào. Vì vậy mà lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh. Trước tiên nó là cái mà bất kỳ ông chủ doanh nghiệp nào cũng quan tâm, ẩn sau đó là động cơ để bất kỳ nhà đầu tư nào bỏ tiền đầu tư.

Tuy vậy không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau vì:

- Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ cùa các doanh nghiệp khác nhau dẫn đến lợi nhuận cũng khác nhau.

- Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng khác nhau. Ở những doanh nghiệp lớn được đầu tư lớn hơn nhưng do hoạt động sản xuất, quản lý kém, nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ dù hoạt động tốt. Cho nên để đánh giá một cách đúng đắn chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối người ta còn sử dụng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận.

1.2 . Tỷ suất lợi nhuận

Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi loại lại có nội dung khác nhau, sau đây là một số cách phân loại và tính tỷ suất lợi nhuận:

- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn : là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận (trước thuế hoặc sau thuế) thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, các hoạt động khác với số vốn sử dụng bình quân trong kỳ ( thường là 1 năm).

Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận thu được hàng năm tính trên 1 đồng vốn bỏ ra.

Trong đó ta đặc biệt quan tâm tới tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư, phần này sẽ được trình bày cụ thể ở sau.

- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận (trước thuế hoặc sau thuế) thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, các hoạt động khác với tổng doanh thu thuần thu về.

Chỉ tiêu này phản ánh: mức lợi nhuận thu được trên 1 đồng doanh thu.

- Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành: là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế của sản phẩm tiêu thụ so với giá thành của toàn bộ sản phẩm hàng hóa tiêu thụ.

- Ngoài ra còn có 1 số chỉ tiêu khác như:

+Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ngắn hạn

+Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản dài hạn

+Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản

+Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu.

2. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư (RR - Rate Of Return)

Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thuần tính cho từng năm hoặc tính cho cả đời dự án thu được từ 1 đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng.

* Nếu tính cho từng năm:

Wipv

RRi = --------

IVO

Trong đó:

RRi : Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư năm i.

Wipv : lợi nhuận thuần năm i tính đến thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động

IVO : Vốn đầu tư tính tại thời điểm dự án đi vào hoạt động.

Dựa vào RRi từng năm mà ta co thể so sánh giữa các năm và thấy được sự khác biệt này ở các dự án khác nhau.

* Nếu tính bình quân năm của cả đời dự án:

W

RR = -------

IVO

Trong đó:

W : Lợi nhuận thuần bình quân năm của đời dự án theo mặt bằng hiện tại.

Tuy nhiên trong thực tế để cho dễ tính ta có thể lấy lợi nhuận thuần của 1 năm hoạt động ở mức trung bình trong đời dự án thay cho lợi nhuận thuần bình quân năm của đời dự án.

* Khi tính cho cả đời dự án, chỉ tiêu này lại phản ánh mức thu nhập thuần tính trên 1 đơn vị vốn đầu tư.

Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng để nhà đầu tư đưa ra lựa chọn quyết định đầu tư vào dự án nào. Nó phản ánh tốc độ thu hồi vốn, nếu tỷ suất lợi nhuận càng cao càng chứng tỏ khả năng thu hồi vốn càng nhanh và sau đó là lợi nhuận dư ra càng cao. Nếu cùng vốn đầu tư như nhau thì những dự án có tỷ suất lợi nhuận càng lớn càng thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, bởi nó hàm chứa lợi nhuận càng cao - đó là mục đích cuối cùng của nhà đầu tư.

Tuy nhiên chỉ dựa vào tỷ suất lợi nhuận thôi chưa đủ, nhà đầu tư quyết định đầu tư dựa trên hiệu quả biên của vốn ( tỷ suất lợi nhuận biên vốn đầu tư).

Tỷ suất lợi nhuận biên vốn đầu tư phản ánh lợi nhuận tăng thêm khi gia tăng thêm 1 đơn vị vốn đầu tư. Điều đáng nói ở đây là tỷ suất lợi nhuận biên vốn đầu tư giảm dần theo quy mô vốn đầu tư.

Dễ thấy để có được 1 đơn vị vốn đầu tư gia tăng đó nhà đầu tư phải đi vay, phải trả lãi suất cho vay (nếu bản thân vốn tự có thì đó là chi phí cơ hội của đồng vốn đó) và nó chính là giá của vốn vay. Do vậy nhà đầu tư sẽ tiếp tục đầu tư thêm vốn tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn giá của vốn vay.

3.Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận

3.1.Lợi nhuận thuần

Dựa vào công thức dễ dàng nhận thấy ảnh hưởng của lợi nhuận thuần tới tỷ suất lợi nhuận. Với cùng một số vốn đầu tư như nhau, dự án nào càng thu về nhiều lợi nhuận thuần càng chứng tỏ tỷ suất lợi nhuận cao, và dự án càng trở nên hấp dẫn.

Lợi nhuận thuần là một chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, ngoài sự hoạt động tốt hay xấu, doanh thu thu được nhiều hay ít, lợi nhuận thuần bị phụ thuộc không nhỏ vào các yếu tố khác như: lãi suất, chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản hỗ trợ...

Trong đó ta đặc biệt nghiên cứu ảnh hưởng của lãi suất tiền vay: với bất kỳ khoản vay nào đều phải trả chi phí của nó đó là lãi suất cho vay, do đó khi tăng lãi suất cho vay đồng nghĩa với chi phí về vốn tăng dẫn đến lợi nhuận thuần giảm, và ngược lại.

+ Khi lãi suất tăng, chi phí vốn lớn. Điều này sẽ làm lợi nhuận thuần giảm.

+ Khi lãi suất giảm, chi phí vốn giảm. Điều này sẽ làm lợi nhuận thuần tăng.

3.2.Vốn đầu tư

Vốn đầu tư tác động đến tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư không chỉ đơn thuần theo công thức đã trình bày ở trên mà nó còn thể hiện ở chỗ:

Khi gia tăng quy mô vốn đầu tư, đồng nghĩa với cầu vốn đầu tư tăng, tất yếu dẫn đến lãi suất cho vay hay chi phí vốn vay tăng ( do dịch chuyển đường cầu) do đó lợi nhuận thuần thu được sẽ giảm, tất yếu tỷ suất lợi nhuận giảm. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể vấn đề này ở phần sau.

III.Qui mô vốn đầu tư

1.Khái niệm vốn đầu tư

- Vốn đầu tư

"Capital - vốn ( tư bản): một từ dùng để chỉ một yếu tố sản xuất do hệ thống kinh tế tạo ra. Hàng hoá tư liệu vốn là hàng hoá được sản xuất để sử dụng như yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất sau. Vì vậy, tư bản này có thể hệ thống kinh tế tạo ra. Do bản chất không đồng nhất của nó mà sự đo lường tư bản trở thành nguyên nhân của nhiều cuộc tranh cãi trong lý thuyết kinh tế." (Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội, 1999, Tr. 129).

Theo cấu trúc giá trị của hàng hoá:

Vốn đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của vốn nói chung. Trên phương diện nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động).

Theo Luật Đầu tư năm 2005, vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.

- Qui mô vốn đầu tư

Trong hoạt động kinh tế, quy mô vốn đầu tư là một chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng trưởng và sức mạnh của từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.

Qui mô vốn đầu tư trong một thời kì nhất định được biểu hiện bằng đơn vị giá trị thông qua lượng tiền đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh ( bao gồm tài sản cố định và lưu động ).

2. Đặc trưng của vốn đầu tư

- Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình.

- Vốn phải vận động sinh lời. Để biến tiền thành vốn thì tiền phải thay đổi hình thái biểu hiện, vận động và có khả năng sinh lời.

- Vốn cần được tích tụ và tập trung đến một mức nhất định mới có thể phát huy tác dụng.

- Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Khi xác định rõ chủ sở hữu, đồng vốn sẽ được sử dụng hiệu quả.

- Vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của vốn biến động theo thời gian.

3. Nội dung cơ bản của vốn đầu tư phát triển

Nội dung cơ bản của vốn đầu tư phát triển trên phạm vi nền kinh tế bao gồm:

3.1. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân.

Về thực chất vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ bao gồm những chi phí làm tăng thêm giá trị tài sản cố định. Như vậy, vốn đầu tư xây dựng cơ bản gồm 2 bộ phận hợp thành: vốn đầu tư để mua sắm hoặc xây dựng mới TSCĐ mà ta quen gọi là vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ.

Về nội dung chỉ tiêu: vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ bao gồm: Chi phí cho việc thăm dò, khảo sát và quy hoạch xây dựng chuẩn bị cho việc đầu tư; chi phí thiết kế công trình; chi phí xây dựng; chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị và những chi phí khác thuộc nguồn vốn đầu tư XDCB; chi phí cho việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và máy móc thiết bị, sửa chữa lớn các TSCĐ khác.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của vốn đầu tư cơ bản được sử dụng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như đã nêu trên.

3.2. Vốn lưu động bổ sung

Vốn lưu động bổ sung bao gồm những khoản đầu tư làm tăng thêm tài sản lưu động trong kỳ nghiên cứu của toàn xã hội. Đây là một nội dung phức tạp rất khó khăn trong việc thu thập thông tin. Bởi lẽ, đối với khu vực kinh tế tư nhân người ta thường không ghi chép những khoản đầu tư bổ sung cho vốn lưu động. Vì thế việc đánh giá mức độ đầu tư phát triển hàng năm của từng địa phương và toàn quốc gặp rất nhiều khó khăn và tất nhiên không thể tránh khỏi sai sót. Ngành Thống kê đã tiến hành điều tra mẫu để suy rộng cho từng thành phần kinh tế. Song việc thu thập thông tin rất phức tạp, độ chính xác còn hạn chế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân mà đặc biệt là kinh tế hộ gia đình.

3.3. Vốn đầu tư phát triển khác

Vốn đầu tư phát triển khác bao gồm tất cả các khoản đầu tư của xã hội nhằm tăng năng lực phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội ngoài yếu tố làm tăng TSCĐ, TSLĐ còn phải làm tăng nguồn lực khác như: nâng cao dân trí; hoàn thiện môi trường xã hội; cải thiện môi trường sinh thái; hỗ trợ cho các chương trình phòng chống tệ nạn xã hội và các chương trình phát triển khác. Như vậy, nội dung của "vốn đầu tư phát triển khác" rất phong phú. Nó bao gồm tất cả các khoản đầu tư tăng thêm cho: vốn chi cho thăm dò, khảo sát, thiết kế, qui hoạch ngành,qui hoạch lãnh thổ ;vốn chi cho việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng cường sức khỏe cộng đồng, vốn đầu tư cho lĩnh vực giáo dục, ...

4. Vai trò của vốn đầu tư

Vốn đầu tư phần lớn được chi dùng vào việc tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích phát triển và tăng trưởng nền kinh tế - xã hội của đất nước.

Hoạt động đầu tư là một trong những lĩnh vực chuyển hóa của nền kinh tế và được coi là một bộ phận vận hành của nền sản xuất vật chất xã hội, để từ đó tạo nên tiền đề cơ sở vật chất và điều kiện sản xuất kinh doanh sinh lợi. Về mục tiêu đầu tư thường được xét trên 2 góc độ cơ bản sau:

- Xét theo góc độ vĩ mô: Quyết định đầu tư phải gắn liền với tầm phát triển chung của nền kinh tế đất nước về các mặt kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội, môi trường sinh thái...

- Xét theo góc độ vi mô: Quyết định đầu tư cần xuất phát những mục tiêu cụ thể, nhất là về mặt tài chính với mục đích cơ bản là mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực.

5. Phân loại vốn đầu tư

Trong công tác quản lý và kế hoạch hóa hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại vốn đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng những nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Trên góc độ của nền kinh tế, vốn đầu tư được chia theo nguồn vốn thành: vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.

5.1. Vốn đầu tư trong nước

Vốn trong nước bao gồm vốn của NSNN, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và vốn đầu tư phát triển của các DNNN, vốn của dân cư và tư nhân.

5.1.1. Nguồn vốn nhà nước

5.1.1.1. Vốn của NSNN là vốn đầu tư phát triển từ NSNN, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước.

5.1.1.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là nguồn vốn mà các đơn vị, tổ chức có thể được vay với lãi suất ưu đãi hoặc không chịu lãi suất để đầu tư trong những ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.

5.1.1.3. Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước: là nguồn vốn được hình thành từ vốn tích lũy của chủ doanh nghiệp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp trích ra để đầu tư, từ thanh lý tài sản, từ nguồn vốn khấu hao TSCĐ, từ các quỹ của doanh nghiệp có thể huy động được bao gồm cả hình thức huy động vốn cổ phần, phát hành trái phiếu (nếu được phép), vốn góp liên doanh từ giá trị quyền sử dụng đất, nhà xưởng, vật tư, tiền mặt của các bên đối tác liên doanh.

5.1.1.4.Vốn khu vực kinh tế nhà nước khác: là vốn huy động được ngoài các nguồn vốn nói trên: ví dụ từ nguồn quà biếu, tặng của các chính phủ, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức cá nhân khác, vốn hỗ trợ đặc biệt từ các quĩ khác (không phải là đầu tư tín dụng của Nhà nước).

5.1.2. Vốn của dân cư và tư nhân

Nguồn vốn này bao gồm phần tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.

5.2. Vốn đầu tư nước ngoài

Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: hỗ trợ phát triển chính thức, vốn tín dụng từ các NHTM quốc tế vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế.

5.2.1.Vốn tài trợ phát triển chính thức bao gồm vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức tài trợ khác. ODA là vốn do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. ODA mang nhiều điều kiện ưu đãi như ưu thời hạn cho vay dài, lãi suất thấp, khối lượng vốn cho vay lớn, bao giờ cũng có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%.

5.2.2.Vốn tín dụng từ các NHTM quốc tế là vốn vay với những điều kiện khá nghiêm ngặt như lãi cao, thủ tục vay khắt khe.

5.2.3.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ với các nước nghèo mà cả các nước công nghiệp phát triển. Khi tiếp nhận nguồn vốn này không làm phát sinh nợ cho nước tiếp nhận vốn.

6. Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô vốn đầu tư

6.1. Lợi nhuận kì vọng

Tối đa hóa lợi nhuận là mục đích của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, các nhà đầu tư quyết định đầu tư khi có lợi nhuận kì vọng lớn. Trong những trường hợp lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẽ sẵn sàng bỏ vốn để kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Tuy nhiên, qui mô vốn lớn cũng dễ dàng đưa tới hiệu suất sử dụng trên từng đồng vốn thấp. Khi này, mục tiêu tăng vốn để củng cố năng lực cạnh tranh không đạt.

6.2. Lãi suất tiền vay

Lãi suất tiền vay phản ánh quan hệ của vay mượn bởi lãi suất chính là giá cả của vốn. Trong khi đó, khi nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư. Vì vậy, lãi suất tiền vay ảnh hưởng quan trọng đến quyết định của nhà đầu tư.

6.3. Môi trường đầu tư

Trong một thế giới mở cửa và hội nhập, môi trường đầu tư được coi là yêu cầu số một để khơi thông các dòng vốn từ mọi tầng lớp dân cư trong nước và nước ngoài. Môi trường thuận lợi thì các doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ tăng cường đầu tư vốn và kỹ thuật để phát triển sản xuất kinh doanh.

Các yếu tố chủ quan là các yếu tố của môi trường đầu tư trong nước như sự thay đổi các chính sách, qui định liên quan đến đầu tư ( thủ tục đăng kí, hình thức đầu tư, lao động, tiền lương, thuế...), năng lực quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh các yếu tố chủ quan còn có sự tác động các yếu tố khách quan của môi trường đầu tư trong khu vực và trên thế giới.

6.4.Chu kì kinh doanh

Chu kì kinh doanh là một loại dao động được nhận thấy trong các hoạt động kinh tế tổng hợp của những quốc gia mà tổ chức công việc chủ yếu của họ diễn ra trong các đơn vị sản xuất kinh doanh: một chu kỳ gồm có các quá trình mở rộng sản xuất xuất hiện vào các khoảng thời gian giống nhau ở rất nhiều hoạt động kinh tế, kế theo là các giai đoạn giảm sút, thu hẹp và các giai đoạn phục hồi tương tự mà những giai đoạn này hợp nhất vào giai đoạn mở rộng của chu kỳ tiếp theo; quá trình thay đổi liên tiếp này thường xuyên diễn ra nhưng không mang tính định kỳ; độ dài của các chu kì kinh doanh thường từ hơn 1 năm tới 10 hoặc 20 năm; chúng không thể chia được thành các chu kỳ ngắn hơn mà những chu kỳ này có những đặc tính tương tự với biên độ dao động xấp xỉ của chính chúng .

Thời kỳ Tăng vọt là một thời kỳ tăng đặc biệt về đầu tư vốn cố định, thời kỳ suy giảm hay suy thoái là thời kỳ mà sự đầu tư về vốn cố định giảm xuống dưới điểm mà nó đã đạt trước đây. Điều này có nghĩa là sự thay đổi giữa giai đoạn tăng vọt và sụt giảm nhanh về cơ bản là sự biến đổi về đầu tư vốn cố định, nhưng nó không liên quan trực tiếp đến những phần đầu tư khác.

6.5 Thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế thu nhập doanh nghiệp có tác động quyết định đến hoạt động đầu tư. Nếu thuế thu nhập doanh nghiệp quá cao sẽ làm cho lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp giảm trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Khi lợi nhuận giảm, nhà đầu tư sẽ cân nhắc quyết định đầu tư của doanh nghiệp.

Ngược lại, nếu Chính phủ miễn giảm hoặc có những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp tăng lên. Điều này sẽ kích thích chi đầu tư nhằm tăng lợi nhuận. Qui mô đầu tư mở rộng sẽ góp phần phát triển tái sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

II: Phân tích mối quan hệ lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

Lãi suất Tỉ suất lợi nhuận

Quy mô vốn đầu tư

Sơ đồ " Mối liên hệ giữa 3 yếu tố lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư"

1: Lãi suất và quy mô vốn đầu tư

Chúng ta đã biết xét ở góc độ vĩ mô với nền sản xuất kinh tế lớn, thì nguồn vốn chính trong hoạt động sản xuất và kinh doanh thường được vay từ các ngân hàng với một lãi suất nhất định. Hay xét ở tầm vi mô sản suất nhỏ mang tính cá thể, thường nguồn vốn để duy trì sản xuất là vốn tự có, không phải chịu áp lực từ lãi suất vốn vay, nhưng nó bị ảnh hưởng của chi phí cơ hội được biểu hiện thông qua lãi suất tiết kiệm của đồng vốn đó. Chính vì vậy ta thấy được rằng lãi suất và quy mô vốn đầu tư có một mối quan hệ tự nhiên, và tuân theo một quy luật đó là " cung cầu vốn vay"

1.1 Khi lãi suất thay đổi

Từ mô hình :

I = a - b*r

I: Đầu tư

a : Đầu tư tự định

b : Độ nhạy cảm của đầu tư vào lãi suất

r : Lãi suất thực tế

Theo mô hình trên, ta thấy đầu tư và lãi suất quan hệ tỉ lệ nghịch. Khi lãi suất tăng sẽ làm cho đầu tư giảm. Vì khi lãi suất tăng làm cho chi phí về vốn vay của doanh nghiệp tăng lên, từ đó làm cho giảm lợi nhuận thực của doanh nghiệp. Mà theo lí thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì đầu tư có quan hệ tỉ lệ thuận với lợi nhuận thực

I = f ( lợi nhuận thực)

Do đó nếu lợi nhuận thực của doanh nghiệp bị giảm đi sẽ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, từ đó làm giảm quy mô vốn đầu tư. Trên thực tế vẫn có những trường hợp doanh nghiệp vẫn quyết định tăng quy mô vốn đầu tư trong khi lãi suất cho vay ở mức cao. Đó là những trường hợp mà doanh nghiệp nhận thấy được rằng nếu mở rộng quy mô sản xuất sẽ thu được lợi nhuận cao, hoặc là những doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng vốn vay ít hơn nên tác động của lãi suất đến quyết định đầu tư là không lớn, vì vậy họ vẫn đầu tư. Bên cạnh đó thì cũng có những trường hợp dù lãi suất cho vay thấp nhưng doanh nghiệp vẫn không tăng quy mô vốn đầu tư, đó là những doanh nghiệp nhận thấy được rằng việc mở rộng quy mô không làm tăng lợi nhuận, cũng như việc tăng quy mô cũng làm tăng độ rủi ro lên... Từ đó ta có thể thấy được việc lãi suất tăng cao hay giảm xuống luôn luôn gây bất lợi cho nền kinh tế. Việc điều hành chính sách của nhà nước cũng như ngân hàng sao cho lãi suất luôn luôn giữ ở mức ổn định nhằm làm tăng cơ cấu đầu tư, phát triển nền kinh tế

1.1. Khi quy mô vốn đầu tư thay đổi

• Quy mô vốn đầu tư tăng

Trong nền kinh tế nếu quy mô vốn đầu tư tăng lên, đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất nhưng lượng tăng không đủ lớn để có thể tác động được đến cung cầu quỹ cho vay thì lãi suất sẽ không thay đổi. Quy mô tăng lên, lượng tăng đủ lớn có thể ảnh hưởng tới đường cầu vốn vay làm đường cầu dịch chuyển sang phải, trong khi cung vốn vay không có thay đổi hoặc giảm đi sẽ làm cho lãi suất tăng cao. Trong trường hợp với quy mô lớn, hiệu quả trong sản xuất cao dẫn đến lợi nhuận tăng lên, khi đó phần tích lũy cho tái đầu tư cũng tăng sẽ làm giảm áp lực vay vốn đối với ngân hàng khi đó lãi suất cũng được điều chỉnh giảm xuống. Hay trên thị trường tài chính với nguồn vốn vay dồi dào làm cho đường cung tiền dịch chuyển sang phải xuống dưới cũng làm cho lãi suất giảm xuống.

• Quy mô vốn đầu tư giảm

Trong trường hợp quy mô vốn đầu tư giảm, nhu cầu vay vốn trong sản xuất và kinh doanh giảm sẽ dẫn tới đường cầu vốn vay dịch sang trái sẽ làm lãi suất giảm xuống.

Điều này xảy ra trong nền kinh tế đang gặp suy thoái, tình trạng phá sản thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công...Triển vọng của nền kinh tế không tốt sẽ dẫn tới tâm lí thận trọng của các doanh nghiệp trong việc đầu tư tái sản xuất. Trong năm 2008 tình hình thế giới đang lâm vào một cuộc suy thoái mở đầu là khủng hoảng thị trường nhà đất ở Mỹ sụp đổ, dẫn theo sự sụp đổ của một loạt ngân hàng lớn như lenl brother, hay ngập đầu trong nợ nần citybank... hàng loạt các công ty trên thế giới phải cắt giảm nhân công. Cục dự trữ liên bang Mỹ FED đã liên tục phải cắt giảm lãi suất của đồng USD có lúc xuống tới 0% năm để kích thích đầu tư nhằm khôi phục lại nền kinh tế

* Kết luận:

Từ những phân tích ở trên ta thấy rằng lãi suất và quy mô vốn đầu tư tác động lẫn nhau thông qua quan hệ cung cầu về vốn vay. Trong đó lãi suất là yếu tố tác động đến cung cầu về quy cho vay còn quy mô vốn đầu tư là yếu tố phụ thuộc vào cầu quỹ cho vay. Khi đó nếu lãi suất tăng thì cung về quỹ cho vay sẽ tăng lên do tiết kiệm trong nước và đầu tư nước ngoài tăng lên, bên cạnh đó cầu về quỹ cho vay sẽ giảm xuống do chi phí vay vốn tăng và làm giảm quy mô vốn đâu tư. Nếu lãi suất giảm thì đầu tư sẽ tăng làm cho quy mô vốn đầu tư tăng. Hoặc nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư (không phải là chính sách lãi suất) do đó làm cho nhu cầu về đầu tư tăng, sẽ làm cho lãi suất và quy mô vốn cùng tăng

2: Tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

Cũng như lãi suất, tỉ suất lợi nhuận cũng có mối quan hệ hai chiều với với quy mô vốn đầu tư. Tuy nhiên , không giống như lãi suất, tỉ suất lợi nhuận có tác động trực tiếp đến việc ra quyết định đầu tư của doanh nghiệp hay nói cách khác nó sẽ tác động trực tiếp tới tới quy mô vốn đầu tư. Để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa 2 yếu tố này, chúng ta sẽ phân tích sự thay đổi của các yếu tố

2.1: Tỉ suất lợi nhuận thay đổi

Như lí thuyết nội bộ quỹ đầu tư đã nói ở trên, đầu tư có quan hệ tỉ lệ thuận với lợi nhuận thực . Một dự án có được đầu tư hay không là phụ thuộc vào lợi nhuận mà nó đem lại cho doanh nghiệp có cao hay không. Vì lợi nhuận cao thì phần thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Theo lý thuyết của Keynes một trong hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp là lợi nhuận kì vọng. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn thì nhà đầu tư sẽ quyết định bỏ vốn kinh doanh. Trong thực tế nguồn vốn đầu tư có thể của các doanh nghiệp huy động từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng thường là thuộc 2 nguồn vốn sau

• Vốn tự có của doanh nghiệp

• Vốn đi vay từ các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng

Dù nguồn vốn sử dụng dưới bất kì hình thức nào thì doanh nghiệp vẫn phải trả nợ, hay chịu chi phí cơ hội được tính cơ bản bằng lãi suất của ngân hàng. Chính vì điều này luôn làm giảm lợi nhuận thực của các doanh nghiệp xuống, gây ra những khó khăn về việc tái đầu tư trong sản xuất. Chính vì vậy các doanh nghiệp thường phải chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ chính sự ra tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn. Từ lý thuyết này ta có thể thấy được tác động của tỉ suất lợi nhuận đến quy mô vốn đầu tư.

• Nếu tỉ suất lợi nhuận tăng sẽ làm cho quy mô vốn đầu tư tăng theo

• Nếu tỉ suất lợi nhuận giảm sẽ làm cho quy mô vốn đầu tư không tăng nữa hoặc có thể bị thu hẹp

Việc xác định tỉ suất lợi nhuận trong thực tế là điều vô cùng khó khăn đối với mỗi một doanh nghiệp khi quyết định bỏ vốn để đầu tư

ROI : Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư

[ROI] : Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư cho phép ( phụ thuộc vào từng ngành nghề sản xuất và kinh doanh của từng vùng và địa phương)

Nhà đầu tư sẽ cân nhắc giữa ROI và [ROI] để cân nhắc việc ra quyết định đầu tư

• Nếu ROI ≥ [ROI] thì dự án có tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư càng lớn thì hiệu quả tài chính của dự án càng cao, dự án càng hấp dẫn khiến nhà đầu tư sẽ bỏ vốn vào sản xuất và kinh doanh

• Nếu ROI < [ROI] dự án đầu tư không đạt được hiệu quả về mặt tài chính nên nhà đầu tư không quyết định đầu tư

Trong thực tế về đầu tư, đối với mỗi doanh nghiệp khi quyết định đầu tư vào một dự án, ngoài các yếu tố tính toán trước, để đạt được lợi nhuận cao khi bỏ vốn vào sản xuất và kinh doanh. Việc đầu tư vào mỗi dự án cũng phụ thuộc vào tâm lí của mỗi doanh nghiệp, mỗi nhà đầu tư vào triển vọng phát triển kinh tế.

2.2: Khi quy mô vốn đầu tư thay đổi

Do ảnh hưởng của việc thay đổi quy mô vốn đầu tư đến tỉ suất lợi nhuận còn tuy thuộc vào tình hình của từng doanh nghiệp nói riêng và từng ngành nói chung. Vì vậy trước khi phân tích ảnh hưởng của sự thay đổi quy mô đầu tư dẫn đến thay đổi tỉ suất lợi nhuận, chúng ta phải xem xét tình hình doanh nghiệp ở hiện tại.

Theo Keynes , khi quy mô vốn đầu tư tăng thì tỉ suất lợi nhuận biên của vốn sẽ giảm dần , dẫn đến tỉ suất lợi nhuận giảm

Hàm lợi nhuận π biểu hiện mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa IRR và quy mô vốn đầu tư. Qua biểu đồ ta thấy rằng với sự tăng lên của quy mô vốn đầu tư kéo theo tỉ suất lợi nhuận hoàn vốn nội bộ IRR, nhưng sự gia tăng của IRR ít hơn so với sự tăng lên của quy mô vốn đầu tư

Nguyên nhân của sự giảm dần này được giải thích như sau:

• Khi đầu tư tăng lên thì khối lượng hàng hóa tăng theo làm cho giá cả hàng hóa giảm xuống , trong khi chi phí sản xuất không đổi sẽ kéo theo sự giảm sút về lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận

• Khi quy mô vốn đầu tư tăng sẽ làm cho giá cả của vốn tăng trong khi doanh nghiệp vẫn phải giữa nguyên giá bán một đơn vị sản phẩm do đó mà tỉ suất lợi nhuận giảm

• Khi quy mô vốn đầu tư tăng dễ dẫn đến sự lãng phí trong đầu tư, không tối đa hóa được lợi nhuận mà còn gây ra thất thoát làm cho tỉ suất lợi nhuận giảm

3: Lãi suất và tỉ suất lợi nhuận

3.1 : Khi lãi suất ảnh hưởng tới tỉ suất

• Ảnh hưởng trong ngắn hạn: tỉ suất lợi nhuận chính là lợi nhuận sau khi đã trừ đi các chi phí khác, trong đó lãi suất được trả cho ngân hàng chiếm một phần không hề nhỏ trong chi phí. Khi đó tỉ suất lợi nhuận giảm do lợi nhuận giảm

• Ảnh hưởng trong dài hạn: Do lợi nhuận giảm sẽ làm cho doanh nghiệp phải thu hẹp đầu tư làm cho cung hàng hóa trên thị trường giảm trong khi cầu về hàng hóa trên thị trường không thay đổi do đó sẽ làm cho gái hàng hóa tăng lên, dẫn đến sự gia tăng về lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận. Nếu hoạt động đầu tư có nhiều rủi ro hay vì một lí do nào đó mà doanh nghiệp không tăng quy mô vốn đầu tư thì tỉ suất lợi nhuận sẽ không đổi

3.2 Khi tỉ suất ảnh hưởng tới lãi suất

Nếu tỉ suất lợi nhuận giảm sẽ làm cho quy mô vố đầu tư giảm theo, kéo theo nhu cầu về quỹ cho vaygiamr trong khi cung cầu về quỹ cho vay không đổi. Từ đó làm cho lãi suất giảm để kích thích nhu cầu đầu tư làm cân bằng về cung cầu về quỹ cho vay

Trong trường hợp tỉ suất lợi nhuận tăng làm cho quy mô vốn đầu tư tăng sẽ làm cho cầu về quỹ cho vay tăng trong khi cung cầu về quỹ cho vay không tăng kịp, vì vậy để tăng cung về quỹ cho vay nhằm đáp ứng lượng tăng lên của quỹ cho vay thì lãi suất phải tăng

4 : Mối quan hệ giữa ba yếu tố lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

Như đã trình bày ở trên, qui mô vốn đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi hai yếu tố lãi suất tiền vay và tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Tuy nhiên, hai yếu tố này không tác động riêng rẽ mà đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với qui mô vốn đầu tư. Vì vậy trong mục này, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu mối quan hệ giữa ba yếu tố này.

Từ đồ thị mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

Với một mức lãi suất cho vay dựa trên lãi suất cơ bản của NHNN quy định. Tại r0 ta có một mức tỉ suất lợi nhuận RR0 và mức đầu tư là I0 . Trong nền kinh tế với sự biến động, vd; sự thay đổi về cung cầu quỹ cho vay, lạm phát kì vọng, bội chi ngân sách... làm cho lãi suất giảm xuống r0 → r1 ( hv) khi đó tỉ suất lợi nhuận sẽ tăng từ RR0→ RR1. Tại mức lãi suất r1 mức đầu tư sẽ tăng lên I1. Nhưng trong thực tế khi mức tỉ suất lợi nhuận kì vọng RR1 sẽ làm tăng đầu tư lên đến I'1

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #anh#chuyen