45. PHÁP-TẠNG
45. PHÁP-TẠNG
(hay chuyện Phật A-di-đà)
Tích truyện hai vị Phật đồng thọ ký cho vua Vô Tránh Niệm:
Muốn biết đức Phật A-Di-Đà, trước hết ta hãy hiểu qua cách tu thành đạo của Ngài.
I. Trong sự tích có nói : Thuở xưa có vua Vô-Tránh-Niệm, cai-trị một nước lớn, quan đại-thần của vua tên là Bảo-Hải. Con quan Bảo-Hải là Bảo-Tạng, đi tu thành Phật hiệu là Bảo-Tạng Như-Lai, vua Vô-Tránh-Niệm cúng dường đức Phật Bảo-Tạng và chư Tỳ-Kheo Khất-Sĩ, trọn ba tháng mùa mưa.
Sau đó quan đại-thần Bảo-Hải tâu với vua, xin đừng cầu phước báu nhơn thiên hữu-lậu, vì phước có hưởng là sẽ có hết, chi bằng hồi hướng phước duyên ấy, để sau nầy thành Phật tế-độ chúng-sanh.
Vua bèn nhận lời, liền đến đảnh lễ Phật, cầu xin Phật chỉ dạy cho biết, thế giới nào trang-nghiêm hơn hết? Phật khi ấy mới phóng hào-quang soi khắp võ-trụ chung quanh, để cho vua được nhìn thấy rõ thế-giới An-Lạc ở tại phương Tây, của đức Phật Độ Nhứt Thiết Thế-Gian Khổ-Não, là yên vui trong sạch hơn hết.
Nên vua Vô-Tránh-Niệm bèn quỳ xuống đảnh lễ đức Phật phương Tây, và cầuxin với Phật Bảo-Tạng, nguyện hồi-hướng phước cúng-dường nầy, để đặng sanh về cõi Tịnh- độ tu cho thành Phật, để tế-độ chúng-sanh sau nầy. Liền đó đức Phật Bảo-Tạng và đức Phật Độ Nhứt Thiết Thế-Gian-Khổ-não, thọ-ký cho vua quả Phật về sau.
Triết-lý của sự tích nầy, là để chỉ rõ tiền thân của Phật A-Di-Đà, lúc đầu tiên mới phát tâm cầu đạo, là từ một người ác, trở nên thiện nhơn, và thành ra một người cư-sĩ quy-y Tam-Bảo. Lý và sự nầy, là để chỉ ra tất cả, chớ không phải một người; vì sự có ra là do lý, bởi có lý mới có sự! Vậy thì ông vua Vô-Tránh-Niệm đây tức là tâm niệm không tranh! Tâm là vua, là chủ-tể các pháp. Vô tránh là không tranh hơn thua với ai, thường giữ sự bình-đẳng nhu-hòa, niệm là niệm tưởng ghi nhớ tâm chơn yên lặng, nhu-hòa bình-đẳng. Vua Vô-Tránh-Niệm tức là tâm niệm không tranh của một nhà từ thiện đối với sự tranh là ác, nên gọi là từ ác đến thiện! Cai trị một nước lớn, nghĩa là cai-quản chủ-tể của xác thân tứ-đại, sanh tử lớn lao, trong ấy chứa đầy các pháp là quan dân trăm họ, quan đại thần Bảo-Hải là trí thông-minh quý báu sáng hay, rộng lớn như biển giả không bờ. Trí Bảo-Hải có ra là do tâm niệm không tranh, của vua Vô-Tránh-Niệm trong sạch.
Giải thích các biểu tượng trong câu chuyện vua Vô Tránh Niệm rất mạch lạc:
Con Bảo-Hải là Bảo-Tạng, Bảo-Tạng là Pháp-bảo tam-tạng quý báu, tam tạng là kinh, luật, luận ba phần của Pháp-bảo. Pháp-bảo tam tạng có ra, là do sự sưu tầm quán-xét của chánh trí, trí thiện quý báu, rộng lớn thông-minh.
Bảo-Tạng đi tu thành Phật gọi Bảo-Tạng Như-Lai, nghĩa là Pháp-bảo tam tạng, là pháp xuất-gia giải-thoát tấn-hóa, tấn hành đi đến chánh-giác chơn-như trở lại đặng. Cũng gọi là Như-lai Bảo-Tạng, Bảo-Tạng sanh Như-Lai. Nghỉa là tam-tạng Pháp-bảo để đến chơn-như, chơn-như sanh ra tam tạng Pháp-bảo là Pháp-tạng.
Vua Vô-Tránh-Niệm cúng duờng đức Phật Bảo-Tạng Như-Lai, là nhà từ thiện đem hết lòng cung kỉnh Pháp-bảo tam-tạng, đem tất cả trí-hóa thông-minh, từ thiện, của-cải của tâm, mà phụng trì điểm tô pháp chánh. Cúng dường ba tháng mùa mưa cho Phật với chư Tăng. Cúng dường ba tháng mùa mưa là do là lo sóc phụng trì tam thừa, ba thặng Pháp-bảo giác-ngộ cho, trong khi nhập-định tham-thiền, (giáo-lý chơn-như, và Khất-sĩ tức là Phật-bảo và Tăng-bảo).
Cũng nhờ giác-ngộ chơn-như và Khất-sĩ, cố gắng un-đúc trau-giồi, nên trí thông-minh Bảo-Hải không còn cho vua tâm niệm không tranh, tham đắm vọng tưởng mong cầu phước báu hữu-lậu nhơn thiên phàm tục.
Chánh trí chỉ cho tâm niệm đến với Bảo-Tạng chơn-như, để đặng về sau đắc thành chánh-giác là Phật : ấy là quang đại-thần Bảo-Hải khuyên vua hãy dứt bỏ lòng phàm.
Vua cầu Phật chỉ cho biết cảnh-giới trang-nghiêm, là tâm niệm thành kính chơn-như Pháp-bảo, để tầm sát sự thanh-tịnh. Do đó mà hào-quang của đức Bảo-Tạng phóng ra khắp võ-trụ, để cho vua thấy rõ thế-giới An- Lạc của đức Phật độ nhứt thiết thế gian tại phương Tây. Hào-quang là pháp-lý quý báu của chơn-như, chỉ rõ ra rằng: cả võ-trụ là vô-minh phiền-não ô-trược, để cho tâm niệm xét thấy nhận ra, trong đời chỉ có xác thân giải-thoát xuất-gia Khất-sĩ, là thế-giới an-lạc yên vui, của sự giác-ngộ, độ diệt tất cả các pháp thế-gian không còn khổ não, ấy là phương hướng trở đầu về Tây, của trí tắt nghỉ, mặt trời lặn, chết bỏ cảnh đời, sanh trong nhà đạo, bên này phiền-não, đến chánh-giác an-lạc bên kia, tức là Niết-Bàn dứt luân-hồi sanh-tử khổ, là trong sạch tốt đẹp hơn hết, cõi lòng hết tham vọng.
Vua Vô-Tránh-Niệm quỳ lạy đức Phật phương Tây và đức Bảo-Tạng, mà hồi-hướng phước duyên để cầu vãng-sanh Tịnh-độ, nghĩa là tâm niệm sau khi hiểu thấy tỉnh gặp, bèn nhứt tâm quyết định về theo Pháp-bảo tam tạng, và diệt trừ tất cả phiền não của thế-gian, mà hồi-hướng sự tu học công đức ấy để trau tâm, đặng sau nầy đến liền được giai-thoát Khất-sĩ thanh-tịnh lục-độ; sống yên vui trong giới-luật thiền-định, để tu hành cho mau đắc quả, tiếp dẫn chúng-sanh về sau.
Nhờ thật tâm quyết định như thế, nên Pháp-bảo tam tạng hiện đến lần lần và diệt khổ thế-gian, càng ngày càng thấy đựơc kết quả hiệu nghiệm, chắc chắn là chẳng bao lâu, tâm sẽ đặng chơn-như toàn-giác.
Như thế tức là hai vị Phật thọ-ký cho đó.
Người thiện nhơn tâm niệm không tranh, đến với Pháp-bảo, và diệt trừ khổ não, để trở nên cư-sĩ trí-thức giác-ngộ đầu tiên tập lần Khất-sĩ là phải y như vậy.
Vua Vô-Tránh-Niệm đó tức là tiền thân của Phật A-Di-Đà, bình-đẳng tánh, Vô-lượng cam-lộ, hay là sự mới phát tâm tu tìm đạo, của người thiện nhơn tâm niệm không tranh. Vì có tâm niệm không tranh, mới sanh ra bình-đẳng tánh. Bình-đẳng tánh là Phật A-Di-Đà, hay giác-ngộ Vô-lượng cam-lộ là Pháp-Tạng vô-lượng không lượng, tế-độ chúng-sanh như mưa rưới mát-mẻ ngọt-ngào không dứt.
Tích truyện Pháp Tạng xuất gia làm Khất Sĩ giải thoát, phát 48 lời nguyện:
II/ Sự tích thứ hai về tiền thân của đức Phật A-Di-Đà là : Bấy giờ ở một lớn kia, có một vị vua tên là Pháp-Tạng. Vua bèn xuất-gia Khất-sĩ giải-thoát, gọi là Pháp-Tạng Tỳ-kheo, theo làm đệ-tử của đức Phật Thế-tự-Tại-Vương Như-Lai. Một lúc nọ Pháp-Tạng Tỳ-keo, quỳ xuống trước mặt thầy mà phát 48 lời đại nguyện, đề lập thànhcõi thế-giới Cực-Lạc, đặng diệt-độ tất cả sự khổ-não, cho kẻ nào có duyên với Ngài.
Ngài nguyện sau mỗi câu rằng : nếu không được y như vậy, thì tôi quyết không thành Phật.
Sau khi phát nguyện xong, tức thì có mưa hoa tuôn rưới, trên hư-không có tiến nói vang dội rằng : Chắc sẽ thành Phật đặng.
Về sự tích thứ hai nầy, chơn-lý chỉ thật rằng : trước hết từ người ác đến thiện và trở nên cư-sĩ, là do tâm niệm không tranh, tức như vua Vô-Tránh-Niệm. Tâm ấy lần lần đựơc tự-chủ, thông suốt tam tạng Pháp bảo, nên mới chịu giải-thoát Khất-sĩ xuất-gia theo y chơn-lý, gọi là Pháp-Tạng Tỳ-kheo. Đệ-tử của Thế-Tự-Tại-Vương Như-Lai, nghĩa là tôn thờ chơn-lý giải-thoát làm thầy, đội lên đầu ghi nhớ, lấy có cho mình mỗi lúc, làm viên ngọc báu. Cả thảy các chư Phật nào, thành Phật cũng đều y như thế, có đội ngọc đỏ trên đầu là báu ma-ni giải-thoát.
Vì có giải-thoát thì ra vào trong trần-thế mới đặng tự-tại thung dung, tâm chơn làm vua chủ, đến trở lại chơn-như là Phật.
Cho nên cũng gọi rằng : pháp Thế-Tự-Tại-Vương Như-Lai là thầy của tất cả chư Phật, hay cũng là thầy của tất cả các Pháp bảo-tạng. Vì bởi các pháp có ra là do giải-thoát chơn-như, và giải-thoát chơn-như sanh ra các pháp.
Lý giải biểu tượng trong tích truyện Pháp Tạng:
Thuở ấy Pháp-tạng Tỳ-kheo quỳ xuống trước mặt thầy, phát ra 48 lời nguyện để lập thành thế-giới Cực-Lạc, độ diệt tất cả sự khổ-não của những kẻ có duyên với Ngài. Nghĩa là đến đây vị Tỳ-kheo ấy tu hành đã đắc pháp, thâm nhập với pháp, thấy pháp là mình, chớ không thấy mình nữa, nên mới xưng danh là Pháp-Tạng Khất-sĩ, hay cũng gọi là Tam-Tạng Pháp-sư Bồ-Tát; Pháp-sư Bồ-Tát tức là tam-tạng. Vì tam-tạng là kinh, luật và luận, là phép nuôi là chúng-sanh và vạn-vật, để cho biến thành chư Phật, thế nên tam-tạng là từ-bi trí-huệ, hạnh-nguyện to lớn với tất cả chúng-sanh và thế-giới.
Cả thảy đều ở trong Pháp-bảo tạo thành, một khi Pháp-Tạng đã tôn sùng bái phục sự giải-thoát giác-chơn, ấy là Pháp-Tạng đảnh lễ thầy, quy-y thờ kính giáo-lý Thế-Tự Tại- Vương Như-Lai, tức là Pháp-bảo tam-tạng ấy đã quay-về một mục-đích giải-thoát cả thảy, và kể từ đó, nó sẽ ham chứa biết bao nhiêu bổn nguyện, để tạo thành thế-giới giải-thoát khổ, cho cả chúng-sanh, bằng kinh luật luận của nó, trên con đường đi của nó, thế là pháp giải-thoát có đến 48 đại nguyện, cứu khổ giải-thoát cho chúng-sanh.
Từ pháp ác đến pháp thiện, đến pháp cư-sĩ tại gia và trở nên pháp Khất-sĩ xuất-gia giải-thoát, mỗi lúc pháp đều có ba tạng, hôm nay ba tạng pháp ấy đã tôn thờ mục-đích giải-thoát làm thầy, như vậy là từ đó về sau kinh luật luận của nó, sẽ đều có một mùi giải-thoát cả! Nó sẽ tạo nên người giải-thoát, chỗ giải-thoát, giáo lý sự dùng đều là pháp giải-thoát vậy.
Khiến nên tâm địa của ai đã đến thân nhập Pháp-tạng giải-thoát, là chỉ còn Pháp-tạng giải-thoát Khất-sĩ, chớ không còn biết mình, và kẻ ấy sẽ trở nên Bồ-Tát Pháp-sư, tam-tạng, gồm chứa đủ cả 48 đại nguyện của Pháp-Tạng, mà thật hành kết quả, ắt sẽ thành Phật, vốn không sai chạy.
Nhấn mạnh vai trò của pháp nguyện:
Vậy thì sự thành Phật là do nơi pháp nguyện, nguyện của pháp giải-thoát xuất-gia Khất-sĩ, ai hành đúng thì chắc sẽ thành Phật. Phật là giác chơn, chơn-như là do trí-huệ, chanh-giác là do Pháp-Tạng đại nguyện; pháp nguyện là từ-bi, tinh-tấn, giải-thoát, thiền-định, trí-huệ, thì chơn-như ắt sẽ tự nhiên xuất-hiện từ lần mà đắc đạo đặng. Pháp nguyện mà thật hành đúng là sẽ thành đạo, đắc quả, giữa ta người, với cõi đời, mới là được Thế Tôn Phật; còn hành chẳng đúng, chưa làm Bồ-Tát, thì đâu phải là Như-Lai; thế nên đối với pháp nguyện, không đặng nên, thì có đâu thành Phật. Vả chăng pháp là độ kẻ hữu duyên, chớ vô duyên thì khó độ, cũng như thầy giáo lớp nhứt, thì chủ có học trò lớp nhì bước lên đến gặp, mới gọi là bậc hữu duyên, chớ bậc hạ căn kém trí thấp xa, thì đâu có bước chơn vào ở được, nên mới gọi là pháp nguyện chỉ độ cho kẻ nào có duyên với Pháp.
Bảy lớp lan can là 7 tầng lớp giới luật:
Sự thật đúng y như thế, nguyện lực của pháp linh diệu vô cùng! Cũng như trong xứ luật-pháp là có đủ sự trang-nghiêm tốt đẹp, bảy giới thất tụ Tỳ-kheo 243 điều, là bảy lớp báu lan-can Pháp-bảo! Bảy hàng cây báu là bảy pháp diệt-tránh quý báu lắm! Bảy hàng cây báu là bảy chánh-giác bồ-đề cao thượng! Tứ y-pháp là mặt đất lưu-ly, pha-lê, vàng bạc! Đạo tràng như ao ước mát, các thứ trí-huệ như bông hoa, bảy bậc nói pháp như chim kêu. Tưởng ăn có ăn, là Khất-sĩ, ở trong giới-luật giải-thoát, ngày ăn một ngọ chạy quen bụng, tới buổi trưa mỗi ngày mới nhớ ra, là đi khất-thực sẽ có liền, hoặc như có người đem đến cúng dâng, cùng sự rước thỉnh đi trai ngọ.
Chuyện ăn ở tu học ở Cực lạc chính là việc ăn ở tu học của Khất Sĩ:
Tưởng mặc có mặc, là mỗi năm đổi một bộ y, giáo-pháp Khất-sĩ mặc một bộ tam y, đúng năm nhớ ra, là vừa cũ rách, đến ngày đổi lại. Chỗ ở thì đến đâu cũng có sẵn sự sắp đặt, bịnh hoạn thì tâm chẳng bận lo, vì đạo Khất-sĩ giải-thoát, ở trong đời là quý báu lắm, không hay từng gặp có nên ai cũng tôn trọng cả. Trong tâm hồn bực như nóng dơ, thì có người giảng dạy, là xối nước tắm cho mát sạch. Muốn nứơc đến đâu thì nước dâng đến đó, cũng như muốn học pháp đến bực nào, thì cũng có sẵn người chỉ dạy dâng cho. Tưởng chi có nấy, là tưởng pháp có pháp đủ đầy.
Bồ-Tát là bạn-lữ, là khi xuất-gia rồi, thì tất cả là bình-đẳng Khất-sĩ như nhau, chớ không còn phân biệt, còn tiếng Thinh-Văn là đang nghe pháp, Bồ-Tát là đi dạy đạo, sau trước như anh e, danh-từ nơi mỗi sự việc tuy khác nhau, chớ chơn-lý giải-thoát Pháp-bảo là có một v.v...
Trong cõi pháp nguyện thật là bình-đẳng ôn-hòa, tốt-đẹp trang-nghiêm, trong sạch, không sao tả xiết đặng.
Vậy nên khi nào ai đã đắc Pháp-tạng và thấy rõ ra đại nguyện của nó rồi, thì tự kẻ ấy vui mừng, chắc mình thành Phật đặng, do sự thật hành đúng của mình, là sẽ như có tiếng nói ra rằng : chắc mình thành Phật, tự mình cũng thấy trì mình nói ra như thế, và ai ai những kẻ bậc bề trên, thấy xem xét biến đặng, cũng đều khen tặng như vậy cả.
Cõi đời đối với người ấy, sẽ tươi đẹp như rưới mưa hoa, ai ai những bậc cao trên thấy xem đều khen ngợi, như phún mưa hoa, và chính trí ta cũng sẽ khen ngợi tán-thán chào mừng cho mình nữa.
Người nữ Khất Sĩ:
Cho đến hàng phụ-nữ xuất-gia vào trong cõi luật-pháp ấy rồi, thì cũng trorng sạch như người nam tử, được vậy là do nhờ giới-luật. Cõi ấy bất thối là kẻ đủ trí mới xuất-gia nhập-đạo, khi giác-ngộc đạo báu rồi, thì đâu còn trở lại. Người nào nghe pháp giác-ngộ, hằng niệm tưởng đến năm mười tiếng pháp, kẻ ấy sau nầy cũng sẽ được giải-thoát lần lần, diệt trừ nghiệp tội, xuất-gia đặng, ấy là nhờ niệm pháp, mà pháp rước độ. Trong cõi ấy, cái chi cũng toàn là Pháp-bảo cả, ấy là cõi của tinh-thần thanh-tịnh.
Như thế thì đại nguyện là của Pháp-tạng, ai đắc pháp-tạng, quên mình, là sẽ như đại nguyện ấy của mình.
Ấy tức là 48 nguyện của pháp, là độ rước tất cả chúng-sanh, là lập thành Cực-Lạc thế-giới, là dạy nuôi những kẻ trước sau có duyên với pháp. Ơ trong giáo-lý ấy xác thân tuy có bỏ, chớ tâm hồn vĩnh-viễn sống thêm hoài, mãi mãi không đầy chật, không tiêu hoại. Ai ai cũng là có đựơc pháp-tạng đại nguyện ấy cả. Ai ai cũng sẽ là Phật, là vua pháp, Pháp-vương, Pháp-tạng-vương như A-Di-Đà-Phật. M à muốn đắc như Phật A-Di-Đà là phải trước đến với sự tích triết-lý của pháp thứ hai nầy, nghĩa là phải từ cư-sĩ đến Khất-sĩ đã. Vì đến Khất-sĩ giải-thoát, thì mới gặp 48 đại nguyện, và từ đó hành đúng theo là mới sẽ thành Phật tạo nên thế-giới Cực-Lạc giữa trong cõi đời cực khổ vậy.
III/ Lại như vầy nữa, mà người tu Tịnh-độ cần nên phải biết hiểu thêm, về sự thành đạo của đức Phật A-Di-Đà.
Trong sự tích có ghi rằng : Một kiếp chót của Ngài tên hiệu là Amita, Tàu dịch là A-Di-Đà, nghĩa là vô-lượng cam-lộ. Ngài là một vị Tỳ-keo Khất-sĩ, ở chung một Giáo-hội, cầm đầu Giáo-hội ấy, có một vị trưởng-lão, là một vị Phật quá-khứ tái sanh trở lại.
Suy tư của A-di-đà khi nhận tội đập bể chén quý của chùa:
Một hôm vị Trưởng-lão đến chỗ tháp thờ Phật, mà lấy cái chén bịt vàng, liệng xuống gạch cho nát bể, bấy giờ ông kêu hội lại tất cả như Ty-keo, mà hỏi rằng : ai làm rớt bể cái chén tốt quý nầy ? Cả thảy chư Tăng đều nói là không biết đến! Trong số đó chỉ có A-Di-Đà thì lặng thinh không trả lời, vì ông nghĩ rằng : cái chén bể, lẽ tá6 nhiên là có người đụng chạm, nhưng cả thảy chư tăng đều nói không biết đến, thì hỏi vậy chứ ai vào đây, không lẽ là vị sư Trưởng-lão, mà nếu không ai chịu nhận, thì ra vụ nầy còn hạch hỏi lôi thôi, trong đạo ắt bị mang tiếng xấu xa chê ngạo; ta hãy nên tính cho êm xong, ta hãy lặng thinh để lãnh tội cho vị sư nào vô ý đó, cho vị ấy an lòng, bớt lo sợ và đặng vững yên tu học.
A-di-đà công quả chuộc tội và dọn xác chết nơi chánh điện rồi thành Phật:
Thế là Ngài lặng thinh suy nghĩ, khi ấy Trưởng-lão mới nói lớn lên rằng : A-Di-Đà, ngươi lặng thinh tức là ngươi phạm tội ấy đó. Vậy muốn cho hết tội, ngươi phải chịu phạt công-quả mười năm, mỗi buổi sáng vào rừng lượm củi, chiều tối phải nấu nước thắp đèn cho Giáo-hội . Phải làm công-quả, hạ mình thấp thỏi hơn hết. Khi đó A-Di-Đà ưng lòng vui chịu, thật hành công-quả cho đến đủ mười năm như vậy, mà trong tâm rất vui, không than phiền chi cả. Tỏ ra rằng : tâm tánh đức-hạnh đủ đầy tròn-trịa tốt đẹp. Vị trưởng-lão thấy vậy rất vui mừng. Một buổi sáng kia, Ngài bèn hoá hiện ra một cái thây ma chết của người thế-gian, nằm tại chỗ tháp thờ Phật, thúi hôi dơ dáy, lại có ruồi lằn bu đậu, vòi tửa nhúc-nhoi ghê tởm. Vị trưởng-lão liền bảo tăng chúng đem đi chôn cất quét rửa giùm, làm cho ai nấy thảy dang ra xa, lảng tránh đi nơi khác, mà nói rằng : Chúng tôi là bậc trong sạch, không làm được việc ấy, hãy để cho A-Di-Đà về tới làm cho. Bữa ấy đã mãn công-quả mười năm rồi, nhưng A-Di-Đà cũng hãy còn đi gánh củi làm việc như thường. Khi về gần tời Giáo-hội, có chư sư chạy kiếm đón đường, cho hay tự sự, mà mượn A-Di-Đà hãy lãnh lo giùm! A-Di-Đà bèn ưng chịu. Vừa về tới cửa, bỏ bó củi xuống, liền xách cuốc nơi tay, đi lại vác xác chết nọ đem chôn. Vị trưởng-lão bảo rằng : ngươi hãy độ cơm đi, rồi sẽ chôn cũng không muộn. A-Di-Đà bạch rằng : bạch Đại-Đức, hãy cho tôi chôn rồi cho sớm, để lâu dơ thúi chỗ tháp Phật không nên. Tôi nhịn ăn một bữa cũng xong được, vì như vậy là trong tâm yên-ổn trong sạch. A-Di-Đà lại gần xác chết thì không thấy mùi hôi thúi nữa, khi vác lên vai không mấy gì nặng, đi được giữa đường thì như nhẹ bổng, không còn có chi hết. Bây giờ Ngài giựt mình ngó lại, thấy xác thân ấy đã hoá ra một tòa sen vàng, rực-rỡ ánh sáng, sực nức mùi thơm, bay bổng lên không-trung và lần lần hạ đáp xuống ngay trước mặt. Chư Thiên Bồ-Tát đều rải hoa chào mừng, khen ngơi tán-thán, và thỉnh Ngài lên ngự toà sen vàng, đặng bay về Cực-Lạc. Lúc đó, A-Di-Đà sửng sốt, chẳng biết rõ thật giả ra sao nên lo sợ ngần-ngại không dám bước ngồi. Chư Thiên, Bồ-tát thúc giục mãi, làm cho A-Di-Đà bối-rối, mà suy nghĩ rằng : ta vốn người trong sạch, dầu ma quỷ có gạt nhằm cũng chẳng sợ chi, vậy ta cũng nên thử xem thiệt giả ra sao cho biết. Ngài bèn bước lên toà sen an toạ, tức thì hào-quang trong mình phóng chiếu sáng ra, thân thể sắc hiện vàng ròng, áo Phật oai-nghiêm tề-chỉnh, tinh-thần an-trụ tươi sáng như nhiên, các phép thần-thông hiện đủ, trí-huệ toàn giác trọn đầy.
Ngài chứng quả Như-Lai thành Phật. Sau đó Ngài hay trở về giáo-hội, để tạ ơn Trưởng-lão, và cùng Trưởng-lão hoá hiện toà sen, đưa bay về hướng Tây thế-giới Cực-Lạc. Thế là từ đó về sau, Tăng chúng cùng kẻ thế-gian, ai ai cũng vái nguyện rằng : Nam mô A-Di-Đà-Phật, Nam-mô tiếp dẫn đạo sư A-Di-Đà Phật. Nghĩa là kính lạy vô-lượng cam-lộ Phật, kính lạy tiếp dẫn đạo sư vô-lượng cam-lộ Phật.
Đó là cách tu thành đạo của Phật A-Di-Đà.
Vậy sự nầy, triết-lý giải ngay ra rằng : sự tu thành đạo đắc quả của một người, bắt đầu từ tâm niệm không tranh, trở nên cư-sĩ, là nhờ sùng-bái Pháp-bảo tam tạng nên về sau được xuất-gia khất-sĩ, đắc pháp tạng đại nguyện, thành Bồ-Tát pháp sư và nơi đây vị Bồ-Tát Pháp-sư ấy, lại có tên gọi là A-Di-Đà vô-lượng cam-lộ ! Nghĩa là không lường Pháp bảo là cam-lộ! Vô-lượng cam-lộ là bậc toàn-giác viên-minh, Pháp-vương vô ngại, Như-Lai Phật, thầy của các bậc Pháp-sư Bồ-Tát, pháp lý nầy để chỉ rõ rằng : Khi Ngài gần thành Phật, Ngài đã lập nên những giáo-hội Tăng-già quốc-độ Phật rồi, nhưng mà lúc nào Ngài cũng vẫn khiêm nhượng, tôn thờ chư Phật quá-khứ làm bậc bề trên trưởng-lão, Ngài gọi là đạo của chư Phật, chớ chẵng phải của Ngài, Ngài chỉ là một phần tử giúp công thôi. Ngài chỉ biết phận sự của Ngài là lo tu, tu cho mình, tu cho tất cả. Ngài xem ai nấy cũng như bạn-lữ, và Ngài còn hạ mình thấp hơn tăng-lữ, đệ tử của Ngài nữa . Ngài không cho ai gọi Ngài là thầy, Ngài cũng không nhận ai là học trò, Ngài thật-hành đúng phép bình đẳng không tranh, y theo chơn-lý võ-trụ.
Lý giải biểu trưng của câu chuyện A-di-đà được kể ở trên:
Cái bát vàng bể, là bát chánh-đạo, quý báu như vàng của chư Phật quá-khứ, sự để lại đạo, tức là chén báu; gặp hồi mạt pháp, đạo bát-chánh chia rẽ tông-giáo như bể nát tan, đạo ấy coi ra cũng do chư Phật, mà bể nát cũng do chư Phật; đạo bát-chánh thành, là thời kỳ chánh-pháp, pháp Khất-sĩ Tăng-già; đạo bát-chánh hoại là thời kỳ mạt pháp, tông-giáo bát-chánh cư-sĩ tại gia ; hai giáo -pháp ấy tương-đối cùng nhau, tuỳ theo căn cơ trình-độ của chúng-sanh mỗi lúc , thảy đều do nơi chư Phật giáo-hoá tạo ra cả. Đó tức là vị Trưởng-lão đập bỏ chén đó, thế mà tăng sư không ai nhận tội, nghĩa là đến lúc đạo Phật chia rẽ, giáo-pháp suy đồi, căn-cơ chúng-sanh siển bạc, thế mà tăng chúng toàn là bậc Thinh-Văn, Duyên-Giác, không có ai là đại Bồ-Tát pháp-sư , đứng ra nhận chịu là tội của mình, cho rằng : tại mình phước-đức thiếu kém, vì mình ít tu, tạo gây nhiều nghiệp tội để đời, tích trữ sự tai hại cho chúng-sanh thấp kém, nên đạo pháp mới ra nông-nỗi như vậy.
Bởi thế cho nên đại Bồ-Tát A-Di-Đà, thấy không có ai đứng ra lãnh lấy nghiệp tội của chúng-sanh, Ngài cho là người ta chê cười xấu hổ, Ngài mới hết lòng bảo lãnh trách-nhậm; thế là Ngài phải chịu mười năm công quả, tức là Ngài trau giồi thêm mười phép thập độ; thập-độ đây là : bố-thí, nhẫn-nhục, tinh-tấn, trì-giới, thiền-định, trí-huệ, từ vô-lượng, bi vô-lượng, hỷ vô-lượng và xả vô-lượng. Mỗi ngày đều lượm củi gánh về buổi sáng, chiều lại nấu nước, tức là mỗi niệm của trí-huệ, tỏ sáng ra là giáo-hóa tế-độ chúng-sanh, như lượm củi khô, người trí gánh vác nhiệm-vụ hoằng pháp cư-gia, để đặng thâu Tăng; chiều lại khi nghỉ ngơi, thiền-định, là lo tu hành sôi kinh nấu sử luyện rèn thêm và làm gương cho trong Tăng-chúng, như vậy tức là Ngài có đến hai bổn phận, vừa giác-ngộ cư-gia gom thâu nhập đạo, và lại dạy cho hàng Khất-sĩ Tăng-già nêu gương đèn huệ nữa, để cho được tròn xong thập độ, thì trí-huệ toàn giác chơn-như sẽ thành-tựu viên-mãn, mới là thành Phật. Chính trong lúc Ngài sắp thành Phật, là Ngài thấy ra đạo pháp cao quí đáng tôn thờ của Phật, như là bửu tháp nằm trơ đứng lặng, như thây chết trong giữa cõi đời, không còn ai kính trọng. Chúng-sanh trong đời là sống bằng xác thân vật-chất; như một cái thây chết đã trơ, tham sân-si tam độc thúi vòi tuôn ra dơ dáy, họ chết mất tinh-thần, không còn tâm hồn đạo-lý chi cả, thế mà họ lại nằm nơi tháp Phật, dựa bên đạo Phật, ôm theo cốt Phật, làm bẩn nhơ cho đạo Phật, hôi thúi cho Tăng-già. Ay là giáo-pháp của chư Phật đến lúc biến ra như vậy; thế mà trong Tăng chúng ai cũng cứ mảng gọi là lo tu, tự độ, bảo thủ lý thuyết, sở kiến của mình, sợ-sệt kẻ vật-chất như thây ma, gớm ghê ác gian như vòi thúi, mà đành để vậy chịu, chẳng biết làm sao? Khi ấy chỉ bậc đại Bồ-Tát vô lượng cam-lộ, mới không đành để vậy, Ngài trau tâm công-quả vừa xong, giác chơn đã tròn đủ, thế mà Ngài không cần màng sự an hưởng Niết-Bàn giữa sự tròn sáng như buổi cơm trưa ấy. Ngài lật đật vội gánh vác sự độ đời thêm nữa. Ngài xách cuốc trí-huệ, để đi đào xới cõi trần, đặng chôn sâu lấp bỏ vật-chất ác tham, trên bước đường dài giáo-hóa, Ngài gánh vác nghiệp-tội, chúng-sanh, càng lúc càng thấy giảm bớt nặng nề, Ngài lướt xông vào cõi đời, càng cho là sự vui hay, mà không màng chê dơ thúi. Mặc dầu Ngài chưa đến chỗ chôn thây, cũng như chưa độ dứt hết nghiệp tội chúng-sanh, nhưng sự tế-độ lâu ngày đã quen, nên Ngài xem ra như không còn có chi nặng nhọc nữa cả; mà đó là sự vui vẻ nhẹ-nhàng, những chúng-sanh của Ngài tế-độ, họ sẽ là tòa sen vàng của Ngài, họ tôn Ngài là ngôi giáo chủ ngồi trên họ. Họ là tòa sen vàng vì bởi họ đã mặc được áo của pháp giải-thoát quí báu như vàng và họ hết lòng chung hiệp thờ Ngài; họ tôn tặng Ngài là giáo-chủ của họ.
Bấy giờ các bậc trí-thức danh nhơn cư-sĩ chư Thiên và các bậc pháp sư khất-sĩ Bồ-Tát khác ai ai cũng thảy phún mưa hoa chào mừng tán-dương ca-tụng khen-ngợi, mà gọi Ngài là xứng đáng bậc thầy hết thảy, thế là gánh nặng vác thây của Ngài, đến nửa đường, chưa được đến nơi trọn vẹn, mà tâm trí đã tròn thành, đạo quả đã xuất hiện, Ngài đã thật giải-thoát, không còn chi rộn nhọc như là bổn nguyện đã rồi xong, như sự quên hết mọi việc, sau buổi cơm no, sau cơn làm mệt là ngủ quên, thế là tâm Ngài đã giác chơn đại định, đã an-trụ không còn xao-xuyến, Ngài yên nghỉ trong sự lặng thinh, trên sự tôn thờ tất cả. Và cũng là chừng đó, trí-huệ, thần-thông mới thật gọi đầy đủ, danh sáng chói khắp thế gian, là hào-quang; thân Ngài người ta quí trọng như vàng. Trước kia Ngài mãi khổ nhọc thấp-thỏi xấu-xí lo tu, làm con trò tất cả, ngày nay vì mối đạo to, phận sự bắt buộc, Ngài phải giữ tư cách đạo hạnh của bậc thầy, để làm gương cho kẻ khác, chớ chư đệ-tử không ai để cho Ngài hạ mình thấp xuống nữa. Chừng ấy người ta mới thấy rõ tướng tốt cách đẹp của ông thầy, do nơi các công đức tu hành học đạo của ông từ lâu tạo thành. Tức là oai-nghi hạnh-kiểm của một ông thầy trang-nghiêm đúng-đắn, do sự không tự cao chấp ngã vậy.
Và cũng kể từ đó là Ngài đã hiệp chung với chư Phật quá-khứ trưởng-lão, nền đạo giải-thoát tòa sen của các Ngài, như đã đưa các Ngài lên đến địa-vị nghỉ yên như của bên kia thế-giới Cực-Lạc, là sự giải-thoát hoàn-toàn, an-lạc hoàn-toàn, bằng tâm thanh-tịnh. Các Ngài không còn phải lam-lũ bẩn dơ theo việc thế trần, như bên nầy nữa... Các Ngài đã như đốc học, giáo tổ, các Ngài chỉ chứng-minh và dạy đạo chút ít cho Bồ-Tát Tăng sư bậc thầy, chớ không còn lo cho cư-gia thế-sự. Vì dưới các Ngài, là đã có biết bao nhiêu người tiếp thay, nối chí theo như nguyện hạnh của các Ngài (đối với tất cả chúng-sanh là lẽ chung, việc chung).
Nên các Ngài vẫn yên nghỉ, chơn tâm không còn vọng động.
Đức A-Di-Đà Vô-lượng cam-lộ, là một vị Phật, sau các chư Phật quá-khứ, sau khi Ngài đã được đất Tây-phương Cực-lạc của chơn-tâm rồi, thì những kẻ trước kia đồng tu với Ngài, ở chung Giáo-hội, tôn thờ chư Phật xưa, từ đó họ mới chịu tôn thờ trở lại Ngài, và tất cả người trong thế-gian sau nầy, ai ai cũng muốn được như Vô-lượng cam-lộ A-Di-Đà, về y theo như đức A-Di-Đà Vô-lượng cam-lộ. Và bởi họ sợ tâm mình biếng-nhác dễ-duôi xao-lãng nên ai nấy thường nhắc nhở, cho tâm mình, và mọi người rằng : Nam-mô A-Di-Đà Phật, Nam-mô tiếp dẫn đạo sư A-Di-Đà Phật, nghĩa là kính lạy Vô-lượng cam-lộ Phật, kính lạy tiếp dẫn đạo sư Vô-lượng cam-lộ Phật.
Vô lượng Cam lộ là pháp tu, là nguyên lý chớ không phải tên riêng:
Như thế nghĩa là đức Phật ấy, nhờ vô-lượng cam-lộ mà được thành Phật, đắc giáo-chủ Tây-phương Cực-lạc tinh thần tịnh-độ hiện tại. Vậy thì chúng ta, ai ai tất cả, niệm đến tên Ngài, thì phải vô-lượng cam-lộ y như Ngài mới sẽ chắc là thành Phật cõi Phương-Tây, của tâm, tại đây đặng.
Vô-lượng cam-lộ, nghĩa là Pháp-bảo vô-lượng tiếp dẫn chúng-sanh. Ai ai cũng thật hành theo được, và cũng đắc được Pháp bảo ấy hết! Có hành đạo Bồ-Tát mới đắc quả Như-Lai vậy.
Pháp bảo có ra là do chư Phật quá-khứ. Pháp-bảo là thầy của chư Phật hiện-tại và vị-lai, thay thế cho chư Phật quá-khứ.
Vậy thì, nhứt là trong những thời kỳ xa Phật, chúng ta phải nên thờ Pháp-tạng hơn là thờ cốt tượng Phật, vì cốt tượng Phật không có dạy dỗ quý báu bằng Pháp-tạng.
Vả lại, chư Phật xưa kia, được thành Phật là bởi cả thảy đều do nơi Pháp-tạng.
Thế nên gọi Phật A-Di-Đà là có trước Phật Thích-Ca. Chính như đức Thích-Ca Mưu-Ni ấy mới phải gọi đúng danh là Vô-lượng Cam-Lộ Vương Như-Lai, A-Di-Đà Phật.
Cả thảy chư Phật nào cũng là A-Di-Đà cả. Đúng theo chơn-lý, A-Di-Đà Phật, là đức Thích-Ca, là một người chớ không phải hai vị.
Phật A-Di-Đà cũng tức là chơn tâm bình-đẳng của mỗi người. Từ xưa Vô-Tránh Niệm, đến Pháp-Tạng Tỳ-kheo, đến Vô-Lượng Cam-Lộ là ba nấc thang đi đến đắc thành chánh-đẳng chánh-giác Phật.
Vậy thì ai ai cũng có chơn tâm Phật A-Di-Đà, và thân Khất-sĩ là Cực-Lạc Tây-phương ấy hết.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro