Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Bộ nghi lễ nhà Musgrave

Bộ nghi lễ nhà Musgrave (The Musgrave Ritual)

Trong tính cách của Sherlock Holmes có một đặc điểm kỳ lạ, bao giờ cũng làm cho tôi ngạc nhiên. Mặc dù trong công việc đòi hỏi trí não phải làm việc nhiều, anh là một người cẩn thận, quần áo của anh bao giờ cũng tươm tất, chỉnh tề và tao nhã, nhưng trong những lĩnh vực khác thì anh lại là người xuề xòa, thiếu ngăn nắp, những thói quen của anh có thể làm cho bất cứ người nào sống dưới một mái nhà đôi lúc không khỏi bực mình.

Không phải tôi là người quá nghiêm khắc, công việc bận rộn ở Afghanistan chỉ tổ làm cho lối sống du mục của tôi ngày càng phát triển, càng làm cho tôi trở thành bừa bãi, cẩu thả, mà điều này đối với một bác sĩ thì không thể tha thứ được. Nhưng tính cẩu thả của tôi cũng có một thời gian nhất định. Khi thấy một người để những điều xì gà của mình trong chiếc thùng dùng để chứa than đá, những bức thư đang chờ được trả thì bị một con dao nhíp hờ hững đè lên, chiếc bảng gỗ thì treo trên lò sưởi, thì ai mà không điên tiết cho được. Thú thật, tôi có cảm giác, dường như tôi là một mẫu người mực thước về tính cách và đạo đức. Tôi bao giờ cũng quan niệm rằng, bắn súng là trò giải trí, mà người ta chỉ luyện tập ở ngoài trời một cách tự do. Khi Holmes bắt đầu ham thích luyện môn bắn súng, mà lại luyện tập trên ghế bành, tay cầm khẩu súng lục và băng đạn, bắt đầu luyện tập bằng cách lấy đầu đạn vạch lên tường đối diện cặp chữ lồng "K.V". Tôi thấy công việc đó không làm cho căn phòng tốt hơn, không khí trong phòng ấm hơn, cũng không hề làm cho hình dáng bên ngoài của ngôi nhà đẹp lên chút nào.

Căn phòng của chúng tôi bao giờ cũng đầy ắp những đồ vật kỳ dị, có dính líu tới hóa học hoặc một câu chuyện hình sự nào đó. Các vật kỷ niệm ấy bao giờ cũng nằm rải rác ở những chỗ mà ít ai ngờ tới nhất, chẳng hạn đựng trong bồn chứa dầu, đôi lúc còn nằm ở chỗ không thích hợp nhất. Nhưng, giấy má của Holmes làm cho tôi đau đầu hơn cả. Anh không bao giờ tiêu hủy những tài liệu, đặc biệt những tài liệu có dính líu đến công việc phá án mà anh có tham dự. Những việc sắp xếp những giấy má ấy đối với anh là cả một công việc cực kỳ khó khăn, đòi hỏi một nghị lực phi thường, không quá một lần trong năm anh dành nhiều thì giờ để làm công việc ấy. Hình như trong một chuyện nào đó, tôi đã ghi là tiềm năng to lớn trong người Sherlock Holmes xuất hiện khi nào anh bắt tay vào giải quyết những cuộc khám phá tuyệt vời, điều đó làm cho tên tuổi của anh lừng danh. Nguồn năng lượng của anh thay đổi theo chu kỳ hững hờ, cho đến lúc kiệt sức hoàn toàn. Khi ấy anh nằm dài trên giường đọc những quyển sách ưa thích trong mấy ngày liền, thỉnh thoảng anh đứng lên với lấy chiếc viôlông để kéo vài bản nhạc du dương. Chính thế, nên đống giấy má từ tháng này sang tháng khác ngày một nhiều thêm, tất cả các góc nhà đều chất đầy những tập ghi chép. Đốt những ghi chép kia thì không bao giờ được phép làm, ngoài chủ nhân nó ra.

Vào một buổi chiều mùa đông, hai chúng tôi ngồi bên cạnh chiếc lò sưởi. Tôi bạo mồm nói khích Sherlock Holmes là từ lâu không thấy anh ghi chép vào sổ của mình những nguồn tin, rồi anh có nên bỏ ra một tiếng đồng hồ để sửa sang lại căn phòngcủa mình cho khang trang hơn không. Anh phải thừa nhận tôi nói đúng. Anh sốt sắng chạy ngay về phòng ngủ, rồi khệ nệ bê một chiếc thùng sắt tây to tướng ra. Sau khi đặt nó xuống giữa phòng, anh ngồi xuống ghế và từ từ mở nắp ra. Tôi thấy chiếc hòm sắt chứa đầy một phần ba những cặp sách đựng giấy tờ, được cẩn thận buộc bằng những dải băng màu đỏ.

- Watson, ở đây không ít những chuyện lý thú, - Anh lên tiếng và láu lỉnh nhìn tôi. - Nếu anh mà biết những gì đang nằm trong thùng sắt tây này có lẽ anh sẽ đề nghị tôi lôi ra một tập giấy nào đó chứ không phải đặt thêm vào đây những giấy má mới.

- Có phải là những số liệu về công việc trước kia của anh không? - Tôi hỏi - Tôi nhiều khi lấy làm tiếc cho việc không có những số liệu ghi chép về những việc đã qua.

- Đúng, anh bạn yêu quý của tôi ạ! Tất cả những thứ này đều xảy ra từ trước, trước khi tôi có một người bạn chuyên viết tiểu sử những vụ án, người có ý định làm rạng rỡ tên tuổi của tôi.

Bằng những động tác mềm mại, khéo léo, anh lôi hết tập này đến tập khác.

- Không phải tất cả mọi chuyện đều được kết thúc êm đẹp đâu, Watson ạ, - Anh nói. - Nhưng trong số đó có một vài chuyện thú vị, làm đau đầu tôi không ít. Ví dụ như: vụ giết chết Tarleton, câu chuyện của ngài Vamberry - một nhà buôn rượu vang, còn đây là một sự kiện của bà già người Nga. Đây là chuyện kỳ lạ của chiếc nhẫn bằng nhôm, rồi bảng chi tiêu tỉ mỉ về anh chàng Ricoletti chân cong với người vợ đáng sợ của ông. Còn đây... đây rõ ràng là một câu chuyện mê ly, hấp dẫn.

Anh thọc tay xuống sát đáy thùng và lôi ra một chiếc hộp bằng gỗ có nắp đậy, giống như chiếc hộp đựng đồ chơi trẻ em.

Anh mở hộp, lấy ra một tờ giấy đã nhàu nát, một chiếc chìa khóa bằng đồng kiểu cũ, một thanh gỗ có cuốn một cuộn dây nhỏ và ba chiếc vòng bằng kim loại đã bị han rỉ.

- Thế nào anh bạn, anh có thích những thứ trang sức này không? - Anh hỏi, và mỉm cười với khuôn mặt ngơ ngác của tôi.

- Bộ sưu tập đầy tính hấp dẫn và kích thích sự hiếu kỳ.

- Rất hấp dẫn, còn câu chuyện của nó thì càng kích thích tò mò của anh hơn.

- Chẳng lẽ, những vật kỷ niệm này đều có lịch sử?

- Hơn thế nữa, tự nó đã nói lên lịch sử rồi.

- Anh định ám chỉ điều gì?

Sherlock Holmes trải các vật ra bàn, anh ngồi xuống ghế và ngắm nghía bằng cặp mắt sáng ngời, lấp lánh dầy hứng thú.

- Tôi đã giữ những vật này làm kỷ niệm về câu chuyện có liên quan đến "Bộ nghi lễ nhà Musgrave".

Tôi đã nghe Holmes nói nhiều về câu chuyện này, nhưng chưa hề có dịp hỏi anh cặn kẽ mọi chi tiết.

- Anh hãy kể cho tôi nghe mọi chuyện về vụ này đi. - Tôi đề nghị.

- Thế cứ để nguyên những đồ bỏ đi ở đây à? Chúng ta phải thu dọn chứ? - Anh thâm thúy hỏi lại - Sự yêu thích ngăn nắp, gọn gàng của anh vứt ở đâu rồi. Nói thế thôi, tôi cũng rất muốn anh bổ sung vụ này vào bộ biên niên sử của mình, bởi một lẽ nó có những tình tiết khá nổi tiếng trong làng hình sự, không những chỉ riêng ở nước Anh, mà có thể cả những nước khác nữa.

Bộ sưu tập những chiến công nhỏ của anh sẽ không được trọn bộ nếu thiếu việc miêu tả, ghi chép câu chuyện lịch sử hoàn toàn có thật này...

Chắc anh còn nhớ, chuyện xảy ra với "Gloria Scott" và đoạn đối thoại với ông già bất hạnh. Số phận của ông ta đã có lần tôi kể cho anh. Ông là người đầu tiên gợi ý cho tôi về nghề nghiệp, mà sau này nó đã trở thành sự nghiệp của cuộc đời tôi. Hiện nay tên tuổi của tôi đã nổi tiếng, không chỉ trong dân chúng mà cả giới hình sự, như là tòa án cuối cùng của sự kháng cáo trong trường hợp còn nghi ngờ. Ngay cả khi anh biết tôi lần đầu tiên, tại thời điểm vụ việc anh đã ghi chép lại trong "Chiếc nhẫn tình cờ", tôi đã có một vốn sống tương đối phong phú. Anh thật khó có thể tưởng tượng được, lúc đầu tôi vất vả khó khăn biết bao, đã phải chờ đợi dài như thế nào trước khi thành công trong việc đưa ra bất kỳ một tiến triển nào của vụ án.

Bước đầu tới Luân Đôn, tôi đến ở tại hẻm Montague nằm sau góc Viện bảo tàng Anh, tôi liền lao vào công tác nghiên cứu. Tôi nghiên cứu tất cả các lĩnh vực kiến thức, vì nó rất có lợi cho nghề nghiệp tôi sau này. Dần dần, mọi người đến gặp tôi để nhờ giúp đỡ, phần lớn họ đến là do bạn bè, sinh viên ngày trước giới thiệu, vì trong những năm cuối của trường đại học người ta đã bàn tán không ít về phương pháp của bản thân tôi . Việc thứ ba người ta đã nhờ tôi giải quyết là việc nhà Musgrave. Hàng loạt sự kiện xảy ra một cách lý thú, các sự kiện khác tiếp theo làm cho tôi một phen điêu đứng và lúng túng, đó là nấc thang đầu tiên của con đường danh vọng và cũng là viên gạch đầu tiên để xây lên địa vị của tôi hiện nay.

Reginald Musgrave là bạn học cùng trường trung học với tôi, và chúng tôi có một mối quan biết nhẹ. Anh ta khá rụt rè nhút nhát, đôi khi bạn bè cho rằng, anh ta làm cao, nên anh ta ít tiếng trong đám bạn bè. Bề ngoài anh ta đúng là một nhà quý tộc nhà nòi, khuôn mặt thanh tú, mũi to, mắt hơi lồi, phong cách tuy hơi cẩu thả, nhưng vẫn giữ được vẻ tao nhã, thanh lịch. Thực ra, đó là một người còn sót lại của một dòng dõi vua chúa, đời này có lẽ là đời cháu chắt gì đó; vào thế kỷ thứ XVI dòng họ Musgrave ở miền Bắc tách ra và thành lập ở phía tây Sussex, dinh thự của dòng họ Musgrave là Hurlstone, đó là một trong những ngôi nhà cổ kính nhất vùng này. Hình như dinh thự nơi anh ta sinh ra cũng mang nét hình hài của anh ta. Mỗi khi nhìn khuôn mặt trắng xanh của anh ấy, với những đường nét hơi thô, cùng phong thái đạo mạo thì bao giờ tôi cũng liên tưởng tới những mái vòm hình chóp, khung cửa hình vuông và tất cả những nét rơi rớt lại của nền kiến trúc phong kiến. Có đôi lúc chúng tôi tâm sự với nhau, lần nào anh ta cũng thích thú những phương pháp quan sát tinh tế và cách đánh giá, nhận xét chính xác của tôi.

Suốt bốn năm, chúng tôi không gặp nhau. Chợt một buổi sáng anh ta tới thăm tôi ở Montague. Anh ấy chẳng thay đổi mấy, ăn mặc rất bảnh bao. Anh ta vốn là người thích ăn diện, và bây giờ vẫn giữ phong thái chững chạc đàng hoàng vốn có.

"Anh vẫn khỏe chứ Musgrave?" - Sau khi bắt tay thân mật, tôi hỏi.

"Chắc anh cũng nghe nói rồi, người cha đáng thương của tôi đã qua đời" - Anh nói - "Chuyện ấy xảy ra gần hai năm trước. Kể từ đó, tôi phải đứng ra gánh vác việc cai quản dinh thự Hurlstone. Hơn nữa, tôi là đại biểu của một vùng, cuộc sống của tôi trở nên bận rộn. Còn anh, nghe đâu đã sử dụng khả năng hiếm có của mình để giúp đỡ mọi người có phải không?"

"Đúng đấy" - Tôi trả lời - "Tôi có ý định dùng trí tuệ của mình để kiếm sống".

"Tôi rất vui mừng khi nghe như vậy, lời khuyên của anh bây giờ sẽ là cực kỳ giá trị với tôi. Một số việc kỳ lạ đã xảy ra ở Hurlstone mà cảnh sát đành bó tay. Câu chuyện thật khó giải thích làm đau đầu tất cả mọi người".

Anh có thể hình dung tôi háo hức lắng nghe anh ta như thế nào không, Watson. Đây chính là việc mà tôi đã cháy ruột, cháy gan chờ đợi trong những tháng ngày thất nghiệp, cuối cùng, đã đến trong tầm tay tôi. Từ sâu thẳm trái tim, tôi tin tưởng rằng, tôi có thể thành công ở những nơi mà kẻ khác thất bại, và đây chính là dịp để tôi thử thách chính bản thân mình.

- Anh hãy kể cặn kẽ cho tôi nghe đi! - Tôi thốt lên.

Sherlock tiếp tục:

- Tôi mời anh bạn Reginald Musgrave một điếu thuốc, anh ta ngồi đối diện với tôi và châm thuốc.

"Anh cần phải biết" - Anh ta nói - "Mặc dù tôi chưa vợ, nhưng tôi vẫn phải giữ lại ở dinh thự Hurlstone một biên chế hoàn chỉnh số người phục vụ giúp việc. Dinh thự rất lớn, được xây cất quá vụng về, không hợp lý và vì thế cần có người trông coi thường xuyên để đề phòng trộm cắp. Hơn nữa, chỗ tôi có một khu rừng, cứ đến mùa săn chim trĩ, trong nhà sẽ có một bữa tiệc lớn, đòi hỏi không ít người phục vụ. Tất cả có tám người, người làm bếp, quản gia, thêm hai người xà ích và một thằng bé để chạy thư từ, tất nhiên không kể người thợ làm vườn và những người giám mã.

Trong số những người phục vụ ấy, có anh chàng quản gia Brunton là người phục vụ lâu nhất. Lúc bố tôi mời anh ta về, anh ta chỉ là một thầy giáo trẻ thất nghiệp, chẳng bao lâu, với nghị lực phi thường, tính cách mạnh mẽ, anh ta nghiễm nhiên trở thành một người không thể thiếu được trong nhà tôi. Đó là một gã đàn ông cao to, đẹp trai, có vầng trán đẹp đẽ. Tuy anh ta làm việc ở nhà tôi được hai mươi năm, nhưng anh ta chưa đến bốn mươi tuổi. Một điều rất lạ, tại sao với hình thức hấp dẫn và năng khiếu hiếm có như thế, hơn nữa anh ta lại nói được vài ba thứ tiếng, biết chơi hầu hết các loại nhạc cụ, lại cam chịu một địa vị quá ư thấp hèn? Anh ta sống không đến nỗi tồi, lúc nào cũng vui vẻ và không có ý định thay đổi cách sống. Người hầu này bao giờ cũng thu hút sự chú ý của khách khứa.

Nhưng trong con người hoàn hảo này vẫn có thiếu sót: anh ta là người có tính lăng nhăng, quan hệ yêu đương bừa bãi. Anh biết đấy, trong địa hạt chúng tôi, anh ta thực hiện vai sở khanh không có gì là khó.

Khi vợ anh ta còn sống mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng khi vợ anh ta mất, thì anh ta gây cho chúng tôi không ít phiền toái.

Thú thật vài tháng trước chúng tôi đã yên tâm, vì anh ta đã đính hôn với cô Rachel Howells - cô hầu gái thứ hai nhà chúng tôi. Nhưng kể từ đó, thật thậm tệ, anh ta đã ném cô sang một bên và theo đuổi cô Janet Tregellis - con gái của một người thợ săn già lành nghề. Rachel là một cô gái rất tốt nhưng dễ bị kích động, đúng như người dân vùng Welsh vậy. Và cô đã bị viêm màng não nằm liệt giường, mãi tới tận hôm qua, cô mới đi lại được, trông như một cái bóng, chỉ còn lại đôi mắt vậy.

Đó là tấn kịch đầu tiên xảy ra ở dinh thự Hurlstone của chúng tôi. Nhưng vụ thứ hai xảy ra đã làm xóa nhòa mọi chuyện khỏi tâm trí, nó mở đầu bằng việc anh chàng quản gia Brunton bị đuổi ra khỏi nhà một cách nhục nhã.

Brunton là một người rất thông minh, có lẽ chính sự thông minh đã là nguyên nhân làm hư hỏng anh ta. Anh ta hay tò mò đến những đồ vật không hề dính dáng đến anh ta. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng, anh ta lại có thể đi xa đến như thế, sự việc xảy ra làm tôi sáng mắt ra.

Ngôi nhà chúng tôi xây dựng thật luộm thuộm phía trong nhiều đường đi ngang dọc. Tuần trước chính xác hơn là vào đêm thứ năm tuần trước, vì đã trót uống một ly cà phê quá đậm sau bữa ăn nên tôi nằm trằn trọc mãi đến hai giờ sáng. Tôi không thể nào ngủ được, bèn ngồi dậy, thắp nến để đọc tiếp cuốn tiểu thuyết. Nhưng cuốn sách lại để quên ở phòng đọc, tôi khoác áo choàng đi vào lấy cuốn sách.

Muốn đi đến phòng đọc, tôi phải đi xuống một đoạn cầu thang nối, cắt ngang qua hành lang để đến phòng đọc và phòng để vũ khí. Tôi giật mình, ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh sáng leo lắt chiếu qua cách cửa mở toang của thư viện. Trước khi đi ngủ, chính tay tôi đã tắt đèn, đóng cửa cẩn thận. Tôi nghĩ, có lẽ kẻ trộm đã lọt vào nhà. Các bức tường của tất cả hành lang của dinh thự Hurlstone được treo đầy các loại vũ khí kỳ dị - đấy là chiến lợi phẩm của tổ tiên chúng tôi. Tôi vớ lấy một cây mã tấu dựng trên tường và đặt cây nến xuống nền nhà, rồi rón rén đi trên mấy đầu ngón chân, liếc nhìn qua cánh cửa bỏ trống của thư viện.

Gã quản gia Brunton, ăn mặc chỉnh tề, đang ung dung ngồi trong chiếc ghế bành. Trên đùi hắn có một tờ giấy trông như một tấm bản đồ địa lý; hắn ngắm nghía với vẻ đăm chiêu và trầm ngâm suy nghĩ rất lung. Sững sờ vì quá kinh ngạc, tôi đứng im quan sát hắn. Trong phòng thắp một ngọn nến đang cháy dở, chợt Brunton đứng lên, đi tới chỗ chiếc tủ, mở ra một ngăn kéo, lấy ra một tờ giấy và trở về chỗ cũ, trải tờ giấy xuống bàn bên cạnh mẩu nến, và bắt đầu quan sát.

Kiểu cách nghiên cứu thản nhiên những giấy má trong gia đình tôi của hắn làm tôi vô cùng căm phẫn. Không chịu đựng được nữa, tôi bèn bước vào. Brunton vừa dừng lại ngước lên, thì hắn nhìn thấy tôi đang đứng trước cửa. Hắn vội vàng đứng dậy, mặt mày tái nhợt vì sợ hãi, và vội vội vàng vàng nhét tờ giấy như tấm bản đồ vào túi.

"Hay ho nhỉ!" - Tôi lên tiếng – "Anh lạm dụng lòng tin của tôi mới khéo làm sao? Từ ngày mai anh buộc phải thôi việc."

Hắn cúi xuống, bò lết lại chỗ tôi không nói một lời nào.

Mẩu nến còn nằm trên bàn, rọi le lắt những ánh sáng, tôi liếc nhìn tờ giấy mà Brunton lôi ra từ ngăn kéo. Tôi vô cùng ngạc nhiên, đấy không phải là giấy tờ quan trọng, mà chỉ là bản sao các câu hỏi và câu trả lời. Chúng tôi quen gọi là "Bộ nghi lễ nhà Musgrave". Đã vài ba thế kỷ nay, mỗi người đàn ông trong dòng họ chúng tôi, khi đến tuổi trưởng thành, đều phải thực hiện lễ chế ấy. Nó chỉ có ý nghĩa đối với các thành viên trong gia đình này, nhưng ngoài đời nó không có một ý nghĩa thực tế nào hết.

"Với tờ giấy ấy, chúng ta sẽ bàn sau" - Tôi đề nghị với Musgrave.

"Nếu anh cho là cần thiết" - Anh ta nói có phần lưỡng lự - "Tôi sẽ kể tiếp các sự kiện".

Sau khi dùng chìa khóa khóa tủ lại, tôi định đi ra, chợt Brunton đến trước mặt tôi

"Thưa ngài Musgrave". - Anh ta thốt lên bằng một giọng khàn khàn vì hồi hộp "Tôi không chịu đựng nổi nỗi nhục nhã này! Tôi là một kẻ nhỏ nhen, nhưng tôi có lòng tự trọng, nỗi nhục này sẽ làm tôi chết mất. Cái chết của tôi nằm trong lương tâm ngài, nếu ngài cố tình đẩy tôi vào con đường cùng cực tuyệt vọng, tôi cắn rơm cắn cỏ lạy ngài, nếu ngài thấy rằng sau hành động đê tiện của tôi ngài không thể dùng tôi được thì mong ngài hãy cho tôi thời hạn một tháng để tôi có thể nói với mọi người là tôi tự nguyện ra đi, chứ không phải là do bị đuổi. Dưới con mắt của mọi người quen biết và thân thuộc với tôi, tôi không thể chịu đựng được".

"Anh không xứng đáng để mọi người tôn trọng như vậy, anh Brunton ạ" - Tôi trả lời hắn - "Hành động của anh tôi không thể ngờ được. Nhưng tôi chiếu cố cho anh, vì anh phục vụ trong gia đình tôi cũng khá lâu, tôi sẽ không bêu riếu anh trước mặt mọi người. Tuy thế, một tháng thì quá nhiều. Anh có thể ra đi trong vòng một tuần, với lý do nào thì tùy anh".

"Thưa ngài, có một tuần thôi ư?" - Anh ta thốt lên đầy thiểu não – "Ôi! mong ngài rộng lượng cho thêm hai tuần thôi cũng được!"

"Sau một tuần". - Tôi lặp lại – "Đối với anh như, vậy là quá nhân nhượng rồi".

Sau khi cúi đầu nhận tội, hắn chậm rãi bước ra như một kẻ đã chết hoàn toàn, còn tôi tắt nến, quay về phòng mình.

Trong vòng hai ngày sau đó, Brunton đã thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của mình. Tôi cũng không nhắc anh ta về sự việc đã xảy ra, và nóng lòng mong đợi hắn sẽ nghĩ cách gì để che đậy chuyện nhục nhã của mình nhưng, sang ngày thứ ba, trái với thông thường, không thấy hắn đến nhận việc. Sau bữa ăn sáng, trong khi bước ra khỏi phòng tôi đã tình cờ thấy cô hầu Rachel Howells. Tôi đã nói với anh là cô này vừa mới ốm dậy, trông cô ta có vẻ phờ phạc, đến nỗi tôi phải trách cô ta vì đã làm việc khi chưa bình phục.

"Cô cứ nghỉ cho khỏe đã" - Tôi nói. – "Chờ khi nào khỏe hẳn bắt tay vào việc cũng không muộn".

"Tôi đã khỏe hẳn rồi, thưa ông chủ". - Cô ta đáp.

"Chúng tôi phải chờ xem bác sĩ kết luận như thế nào" - Tôi chống chế. – "Cô hãy dừng ngay công việc và đi tìm Brunton nói anh ta đến gặp tôi".

"Anh Brunton bỏ trốn rồi ạ". - Cô ta đáp.

"Bỏ trốn!"

"Vâng, anh ta biệt tích, không một ai nhìn thấy. Trong phòng cũng không có. Anh ta bỏ trốn; vâng đã trốn!"

Cô ta đứng dựa hẳn vào tường và cười hô hố trong một cơn động kinh. Còn tôi, trong lúc lo sợ vì cơn động kinh bất ngờ, tôi chạy đến rung chuông kêu người đày tớ. Người ta đã mang cô gái vào phòng, cô ta vẫn tiếp tục cười rất man rợ và khóc sướt mướt. Tôi vẫn tiếp tục tìm Brunton. Nhưng anh ta đã mất tích - điều đó không còn nghi ngờ gì nữa, giường chiếu của anh ta vẫn còn nguyên vẹn, không ai nhìn thấy anh ta kể từ lúc anh ta quay về phòng mình chiều tối hôm qua. Nhưng không thể tưởng tượng nổi, bằng cách nào anh chuồn được khỏi nhà, tất cả cửa sổ, cửa ra vào đều được khóa từ bên trong. Quần áo, đồng hồ ngay cả tiền bạc của Brunton vẫn còn đầy đủ trong phòng anh ta, chỉ có một bộ đồ đen - bộ anh ta hay mặc là không thấy; đôi dép dùng trong nhà cũng không có, chỉ còn một đôi ủng. Trong đêm hôm khuya khoắt Brunton bỏ đi đâu và chuyện gì đã xảy ra với anh ta.

Anh biết không? Chúng tôi đã lùng sục khắp mọi xó xỉnh, nhưng không hề thấy một dấu vết nào của anh ta. Tôi xin nhắc lại, dinh thự của tôi thật sự rối rắm, đặc biệt những mái vòng cũ kỹ hoang vắng không người ở, nhưng chúng tôi cũng cứ lùng sục từng nơi một; thậm chí cả những gác xép. Mọi cố gắng của chúng tôi điều không mang lại kết quả gì. Thật đơn giản, tôi không thể tin là anh chàng Brunton đã ra đi, mà để lại tất cả tài sản, tôi nghĩ rằng, anh ta mất tích. Tôi cũng đã mới cảnh sát địa phương tới giúp. Nhưng cảnh sát cũng không khám phá được gì mới. Trước khi xảy ra vụ mất tích, có một trận mưa, do vậy mọi quan sát các dấu vết ở bãi cỏ, con đường đều vô nghĩa. Tình thế nan giải như vậy đó.

Cô Rachel Howells liên tiếp trong hai ngày cứ tỉnh tỉnh mê mê và lên những cơn động kinh thật khủng khiếp. Cô ta khó ở đến nỗi chúng tôi phải cho một người hộ lý luôn luôn túc trực bên cạnh. Đêm thứ ba sau ngày Brunton bị mất tích, cô hộ lý thấy người bệnh đã ngủ, nên cô ta cũng thiu thiu một giấc. Sáng sớm hôm sau, khi thức dậy cô hộ lý giật mình khi nhìn thấy chiếc giường trống trơn, cửa sổ thì mở toang, bệnh nhân thì biến mất. Người ta lập tức gọi tôi dậy, tôi lấy hai xà ích rồi bổ đi tìm.

Chúng tôi dễ dàng xác định hướng đi của cô hầu gái. Bắt đầu từ cửa sổ, cho đến một cái ao dọc theo bãi cỏ các dấu vết rất rõ, khi đến con đường rải sỏi thì mọi dấu vết biến mất. Cái ao lớn này có chỗ sâu đến 8 foot, anh thử hình dung xem, khi chúng tôi nhìn thấy đôi tất của cô gái đáng thương đang trôi lững lờ trên mặt nước. Chúng tôi vội vàng lấy câu liêm để vớt xác kẻ chết đuối; nhưng vô vọng, đáy ao không có xác một người nào. Thay vào đó, chúng tôi bị bất ngờ bởi vớt lên được một chiếc bao tải bằng vải gai, trong bao tải được nhét đầy những mảnh vụn kim loại cũ, đã han rỉ, mất hết màu sắc; các mảnh đó đùng đục mờ mờ như các mảnh sành, và cũng hơi giống thủy tinh. Không còn vật gì khác, mặc dù chúng tôi đã cật lực tìm kiếm cả ngày hôm qua.

Chúng tôi đã tiến hành gạn hỏi, chất vấn mọi người nhưng vẫn không biết Brunton và Rachel Howells hiện nay ở đâu. Cảnh sát địa phương bất lực, lắc đầu; và sau cùng tôi chỉ có hy vọng cuối cùng là nhờ đến anh, Sherlock Holmes ạ.

Anh biết không, Watson, tôi đã lắng nghe câu chuyện với sự thú vị. Tôi có tham vọng sẽ kết dính các sự kiện thành chuỗi thống nhất, để lần tìm một sợi chỉ dẫn đường, sợi chỉ xuyên suốt mọi hành động, nhằm tìm giải đáp của một bài toán hóc búa.

Người quản gia biệt tích, cô hầu gái cũng biến luôn. Có một thời gian cô hầu gái đã yêu say đắm anh chàng quản gia, nhưng sau đó lại thù ghét anh ta. Cô ấy là người vùng Welsh, tính khí rất mãnh liệt nên tình yêu mặn nồng thiết tha. Sau khi anh chàng Brunton bị mất tích, tâm trạng cô ta bị kích động dữ dội.

Cô ta đã ném xuống ao một bao tải đựng toàn đồ kỳ quặc. Mỗi sự kiện đều làm cho chúng ta phải suy nghĩ, nhưng không có sự kiện nào trong đó chỉ ra được thực chất của vấn đề. Tôi phải tìm đầu sợi chỉ trong mớ bòng bong ở đâu? Nhưng tôi thoáng ngờ một mắt xích trong cả chuỗi rối rắm kỳ lạ ấy...

"Musgrave!" - Tôi nói - "Tôi cần xem tờ giấy mà anh chàng Brunton đã nghiền ngẫm, thậm chí vì nó mà anh ta dám xăm mình đi một nước cờ liều để rồi phải mất việc".

"Thực ra, "Bộ nghi lễ" của chúng tôi, chỉ toàn là điều nhảm nhí". - Anh ta nói – "Cái quý duy nhất của nó là tính chất đồ cổ, lịch sử. Tôi có mang theo bản sao chép để phòng, nếu cần anh cứ xem".

Anh ta đưa cho tôi chính mảnh giấy này, tờ giấy mà tôi đang cầm trên tay đây, Watson. Bộ nghi lễ. Ý nghĩa của nó đại loại như một kỳ thi sát hạch, mà mỗi người đàn ông trong dòng họ Musgrave đều phải trải qua khi đến tuổi vị thành niên. Tôi sẽ đọc cho anh nghe những câu hỏi và câu trả lời theo thứ tự ghi chép.

"Cái này đang thuộc về ai?"

"Về người đã ra đi".

"Cái này sẽ thuộc về ai?"

"Về người sẽ đi đến".

"Cái này đã có từ tháng mấy?"

"Tháng thứ sáu, tính từ tháng thứ nhất trở đi"

"Mặt trời ở đâu"

"Trên ngọn cây sồi".

"Bóng của nó ở đâu?"

"Ở dưới gốc cây du"

"Cần bước mấy bước?"

"Về phía bắc - 10 và 10; đi về phía đông - 5 và 5; về phía nam - 2 và 2; về phía tây - 1 và 1, và đi xuống dưới".

"Chúng ta sẽ hiến dâng cái gì cho việc ấy"

"Tất cả những gì mà chúng ta có".

"Vì cái gì mà chúng ta hiến dâng?"

"Vì trách nhiệm, nghĩa vụ"

"Trong nguyên bản không thấy ghi ngày tháng" - Musgrave nhận xét – "Nhưng theo lối viết và ngữ pháp thì tôi đoán khoảng giữa thế kỷ XVII. Tôi e rằng những tài liệu này không giúp được gì cho anh trong việc giải quyết điều bí ẩn ở dinh thự tôi".

"Cũng có thể, nhưng nó đặt ra trước mắt chúng ta một câu đố thứ hai". - Tôi trả lời. – "Một câu đố gợi trí tò mò một cách thích thú. Nếu ta giải được câu đố này thì có khả năng khám phá ra đáp số của bài toán thứ nhất. Tôi hy vọng, anh sẽ không giận tôi Musgrave ạ, gã người hầu của anh là một người thông minh, khôn ngoan và nhạy bén, thấu hiểu mọi vấn đề hơn hẳn chủ anh ta đến mười lần".

"Thú thật, tôi không hiểu anh định nói cái gì?" - Musgrave trả lời. – "Tôi nghĩ, tờ giấy này không có một chút ý nghĩa thực tế nào hết".

"Riêng tôi, thì cho rằng nó rất quan trọng, có lẽ Brunton có suy nghĩ giống tôi. Chắc là anh chàng kia đã nhìn thấy tờ giấy này trước đêm mà anh bắt quả tang anh ta".

"Hoàn toàn có thể, chúng tôi không giấu kín cái gì".

"Chính xác hơn, lúc ấy anh ta chỉ muốn xem để nhớ nội dung. Theo tôi hiểu, anh ta đã cầm trên tay một tấm bản đồ, đang so sánh với bản chép tay. Khi nhìn thấy anh, thì anh ta vội vàng nhét bản đồ vào túi".

"Đúng, anh ta cần xem tờ tiết lễ có tính chất gia giáo của chúng tôi để làm gì? Sự đam mê khờ dại kia chẳng dẫn đến kết quả nào hết?"

"Tôi thiết nghĩ chúng ta có khả năng tìm được đáp số không đến nỗi khó khăn. - Tôi đáp, nếu anh đồng ý, chúng ta sẽ đi chuyến tàu đầu tiên đến Sussex và mổ xẻ thật kỹ vụ này tại hiện trường".

Chúng tôi có mặt tại dinh thự Hurlstone trong ngày hôm ấy. Anh đã thấy bức tranh họa ngôi nhà này chưa? Anh đã đọc được những đoạn người ta miêu tả về nó chưa? Tôi nói cho anh rõ, dinh thự này có hình dáng chữ "L" một mái dài, trông ra dáng hơi hiện đại, còn một mái ngắn cũn cỡn trông rất cổ kính. Có thể vì, đó là chiếc bào thai đã sản sinh ra tất cả. Ngay phía trên cánh cửa hẹp, nặng nề ở ngay trung tâm có khắc năm xây dựng "1607". Nhưng những nhà am hiểu lịch sử và kiến trúc thì cho rằng, những thanh xà gỗ, đá lát nền còn cổ kính lâu đời hơn nhiều. Ở thế kỷ trước, người ta thấy những bức tượng dày quái dị, cửa sổ thì bé tẹo nằm ngay phần chính ngôi nhà, đã thôi thúc chủ nhân phải xây thêm một mái nhà mới, mái nhà cũ chỉ dùng làm kho và hầm chứa, phần còn lại thì bỏ trống. Xung quanh dinh thự có một công viên bao bọc, ở trong trồng nhiều loại cây cổ thụ che mắt rất tuyệt. Còn cái hồ, hay cái ao như người khách đã nhắc tới, nằm cuối hàng cây, cách nhà chừng 200 yard.

Lúc bấy giờ, tôi cứ đinh ninh rằng không hề có ba bài toán riêng biệt, mà chỉ tồn tại lột câu đố duy nhất. Nếu tôi thành công việc giải mã bộ nghi lễ nhà Musgrave, chắc chắn tôi sẽ tìm ra chiếc chìa khóa để khám phá vụ mất tích của Brunton và Howells. Tôi tập trung toàn bộ năng lực và thời gian lao vào công việc. Tại sao Brunton lại giao đầu miệt mài nghiên cứu. Bộ nghi lễ có nội dung thật kỳ lạ và hơi ngớ ngẩn? Rõ ràng anh ta đã đọc được ý nghĩa của nó, ý nghĩa này đã đánh lạc hướng nhiều thế hệ chủ nhân khu dinh thự. Điều này, không thể là cái gì khác ngoài việc anh ta hy vọng sẽ được món hời riêng cho bản thân mình. Món hời này là gì? Vì sao lại làm thay đổi số phận anh ta?

Khi đã nghiên cứu kỹ tờ giấy, tôi đã sáng tỏ được một điều: các con số có liên quan đến một địa điểm nào đó có khả năng giấu vật gì đó đã được nhắc tới ở phần đầu bộ nghi lễ. Nếu chúng ta phát hiện được điểm đó, thì chúng ta sẽ tìm được con đường đúng đắn để vạch ra điều bí mật - bí mật này đã được tổ tiên anh chàng Musgrave, biến thành mật mã theo kiểu gia phả. Để tiến hành công việc tìm kiếm, trong tay chúng ta đã có hai vật làm chuẩn. Đó là cây sồi và cây du. Về cây sồi thì không còn gì để nghi ngờ. Ngay trước mặt ngôi nhà, bên trái con đường, có một cây sồi cổ thụ, ra dáng già lão nhất. Đó là một cây sồi vĩ đại, đồ sộ nhất mà bấy giờ tôi mới có dịp nhìn thấy.

"Khi viết "Bộ nghi lễ" này, cây sồi này đã có chưa?" - Tôi hỏi Musgrave.

"Anh nói gì? Theo tôi nó có từ thời trung cổ kia" - Anh ta trả lời.

"Thân nó to dễ đến 23 food".

Một điểm chính được sáng tỏ.

"Ở đây ngày trước có cây du cổ thụ nào không?" - Tôi hỏi.

"Cách đây không xa có một cây khá to, nhưng mười năm trước đây một cơn sét đã đánh trúng nó, người ta đã đào gốc nó lên rồi"

"Anh còn nhớ chỗ nó mọc chứ?"

"Tất nhiên, tôi nhớ."

"Còn những cây du khác, quanh đây có nhiều không?"

"Cây cổ thụ thì không, còn cây con rất nhiều".

"Tôi muốn biết cây du đã mọc ở đâu".

Chúng tôi đi đến bằng xe kéo, anh bạn của toi không bước vào nhà, mà dẫn tôi tới ngay chỗ cây du trước kia đã sống, bây giờ ở đó là một bãi cỏ xanh rì. Vị trí này bằng nửa đường giữa cây sồi và ngôi nhà. Công việc tìm kiếm của chúng tôi rất trôi chảy, tốt đẹp.

"Chà, gay go thật, làm sao chúng ta xác định được độ cao của cây du?" - Tôi hơi chán nản hỏi.

"Ngay bây giờ tôi có thể trả lời cho anh: Nó cao 64 food".

"Làm sao anh biết chính xác thế?" - Tôi ngạc nhiên thốt lên.

"Ngày trước, ông giáo đại học của tôi, có ra bài tập về môn lượng giác; ông bắt tôi xác định độ cao, đo chiều dài... vì thế, khi còn nhỏ tôi đã đo các cây và những vật được xây dựng trong dinh cơ này".

Một kết quả đến quá bất ngờ. Một nguồn tin đến với tôi nhanh hơn dự tính.

"Anh làm ơn cho tôi biết, gã quản gia của anh có bao giờ hỏi một câu đại loại như tôi hỏi không?" - Tôi hỏi.

Musgrave nhìn tôi ngạc nhiên.

"Nghe anh nhắc chuyện này' - Anh ta nói. – "Tôi nhớ lại cách đây vài tháng Brunton có hỏi tôi về độ cao cây du đó. Anh ta giải thích rằng, có một trận cãi vã, cá độ về cây du với một người hầu khác..."

Điều này, chứng tỏ tôi đã đi đúng hướng, Watson ạ. Tôi nhìn lên mặt trời, trời đã chuyển về chiều. Tôi nghĩ khoảng một giờ nữa mặt trời sẽ nằm chếch đúng trên ngọn cây sồi cổ thụ.

Điều kiện thứ nhất ghi trên tờ giấy sẽ được thực hiện. Điểm nào dính líu đến bóng cây du? Ở đây họ muốn chỉ bóng xa nhất của nó. Tôi phải xác định điểm cuối của bóng cây du, xem nó sẽ ngả đến đâu khi mặt trời đứng ngay trên ngọn cây sồi."

- Chuyện này không đơn giản phải không Holmes? Vì cây du không còn ở đấy nữa.

- Tất nhiên là khó. Nhưng tôi biết, nếu Brunton làm được thì tôi cũng phải làm được. Hơn nữa đấy không phải là chuyện khó như anh tưởng đâu. Tôi cùng với Musgrave đi vào trong phòng của anh ta, rồi chặt lấy một cái cọc nhỏ, buộc vào đó một sợi dây; đánh dấu từng đoạn, mỗi đoạn bằng một yard. Sau đó, tôi nối hai chiếc cần câu lại và trong tay tôi có một đoạn dài 6 food. Tôi cũng cùng anh bạn ấy đi đến chỗ cây du mọc. Mặt trời vừa vặn lơ lửng trên ngọn đồi. Tôi cắm đoạn cây của tôi xuống đất xác định bóng của nó ngả theo hướng nào, và đo bóng của nó đúng 9 food. Hướng của chúng thì trùng nhau rồi. Tôi đo khoảng cách ấy, bóng cây du trong tính toán dẫn tôi đến một điểm gần sát bức tường của ngôi nhà, tôi đóng cọc làm dấu.

Watson, anh có biết tôi sung sướng như thế nào không?

Cách cây cọc của tôi 2 inch, tôi nhìn thấy có một cái lỗ hình côn!

Tôi hiểu đấy là điểm làm dấu của Brunton khi anh ta tiến hành đo tính. Tôi đã lần theo dấu vết của anh ta.

Từ điểm xuất phát ấy tôi bất đầu đếm bước, trước đó tôi đã dùng la bàn để xác định phương hướng. Mười bước và thêm mười bước nữa tôi hiểu mỗi chân bước mười bước. Theo phương bắc, tôi bước hai mươi bước, dọc theo bức tường tôi đóng cọc làm dấu, sau đó trước năm bước, rồi sau năm bước nữa theo hướng đông, rồi hai bước và hai bước theo hướng nam. Đến đây tôi đứng ngay trước một cánh cửa cũ kỹ. Chỉ còn lại một bước và một bước nữa theo hướng tây, nhưng như thế tôi buộc phải đi xuyên qua hành lang lát toàn bằng đá tảng. Chẳng lẽ, đây chính là điểm ghi trong gia phả?

Trong đời chưa bao giờ tôi gặp phải một chuyện đau khổ và đáng buồn như vậy, Watson ạ. Trong một giây, tôi có ý nghĩ hãy tính toán của mình bị nhầm lẫn chỗ nào chăng? Mặt trời chiếu rực rỡ, soi rõ nền của hành lang, những tấm đá lát cũ kỹ được trát xi măng kín mít, tất nhiên hàng trăm năm nay chưa hề suy chuyển. Rõ một điều là Brunton chưa đụng đến đấy. Tôi gõ gõ một vài chỗ trên nền đá, nhưng khắp nơi đều nghe thấy tiếng kêu giống nhau; không có một dấu hiệu nào chứng tỏ có vết nứt hoặc khe hở.

Rất may, anh chàng Musgrave đã bắt đầu hiểu ra ý nghĩa việc làm của tôi. Lúc này, anh ta ít hồi hộp, lo lắng hơn tôi. Anh lấy tờ gia phả ra để kiểm nghiệm lại các phép tính của tôi.

"Và chui xuống nữa!" - Anh ta chợt reo lên. – "Anh đã quên mất câu "... và chui xuống".

Tôi vỡ lẽ ra tất cả. Có nghĩa là phải đào đất để tìm nhưng lúc ấy tôi bỗng trở nên thông thái lạ thường và biết rằng mình đã nhầm.

"Như vậy có nghĩa, ở đây có một tầng ngầm?" - Tôi thốt lên.

"Đúng, nó được xây đồng thời với ngôi nhà. Nào, nhanh chóng đi xuống, đi qua cánh cửa này!" - Musgrave nói.

Dọc theo cầu thang xoắn chôn ốc xây bằng đá, chúng tôi đi xuống hầm ngầm. Anh bạn của tôi quẹt diêm châm cây đèn lớn để trên chiếc thùng phi. Trong khoảnh khắc, chúng tôi đều khẳng định là mình đã đi đúng hướng. Chúng tôi cũng nhận thấy, có người nào đó đã đến đây trước chúng tôi chỉ mới hai, ba ngày.

Ở tầng hầm này, người ta chất đầy củi; những thanh củi trước kia trải đầy mặt đất, giờ đã được dồn sát chân tường, giải phóng một khoảng không gian ở giữa. Ở đây có một phiến đá rộng, to và nặng nề đang nằm chình ình. Giữa phiến đá được gắn một cái vòng bằng sắt đã hoen rỉ; trong vòng sắt có ai đã buộc một chiếc khăn quàng cổ, vải ca rô trông còn khá tốt.

"Quỷ tha ma bắt, cái khăn của Brunton! Nhưng sao nó lại ở đây?" - Musgrave thốt lên ngạc nhiên và giận dữ - "Tôi đã trông thấy hắn quàng chiếc khăn này ở cổ. Nhưng thằng đểu cáng, mất dạy làm gì ở đây kia chứ?"

Theo đề nghị của tôi, người ta cho mời hai viên cảnh sát địa phương đến. Với sự có mặt của họ, tôi toan nhấc phiến đá lên. Nhưng với sức lực của tôi phiên đá chỉ hơi nhấc khe khẽ.

Nhờ sự giúp đỡ của viên cảnh sát, tôi mới làm nổi công việc dịch chuyển phiến đá sang một bên. Dưới phiến đá là một cái hố đen ngòm, toang hoác miệng; tất cả chúng tôi đều nhòm vào.

Musgrave quỳ xuống, và đưa thấp ngọn đèn xuống miệng hố.

Chúng tôi trông thấy chiếc hầm hình vuông chật hẹp, sâu độ 7 food, rộng mỗi bên độ 4 food. Một chiếc rương nhỏ, làm bằng gỗ được nẹp bốn góc bằng đồng, nằm dưới hầm: Một chiếc khóa cũ kỹ trông ngồ ngộ, đang lắc lư trong ổ khoá. Bụi phủ đầy chiếc rương, hơi ẩm mốc đã làm phần gỗ phía trong mục nát.

Vài đồng xu bằng kim khí - giống như những đồng xu anh trông thấy ở đây, đó là những đồng bạc thời xưa, lăn lóc nằm dưới đáy rương. Ngoài mấy thứ đó ra, trong rương không còn bất kỳ vật nào. Tuy thế trong mấy phút đầu, chúng tôi không chú ý lắm đến rương, mà tất cả cặp mắt đều đổ dồn vào vật đang nằm bên cạnh rương. Một người đàn ông, mặc đồ đen đang ngồi chồm hổm, đầu gục xuống, hai tay ôm chặt lấy rương. Khuôn mặt của người đó trắng bệch và biến dạng không thể nào nhận ra.

Nhưng, khi chúng tôi dựng anh ta lên, Musgrave phán đoán theo tầm vóc kích thước, quần áo, tóc tai của kẻ bất hạnh và đã nhận ra đấy chính là anh chàng Brunton bị mất tích. Brunton chết trước đó vài ngày, nhưng trên người anh ta không tìm thấy dấu vết thương tích... để có thể làm sáng tỏ số phận bi đát của anh ta. Khi chúng tôi lôi được xác chết lên khỏi hầm, chúng tôi lại đứng trước một bài toán hóc búa, không kém phần đau đầu, so với giải đáp mà chúng tôi vừa khám phá ra...

Thú thật với anh, Watson ạ! Tôi rất nản lòng và chán chường trước hết quả của công cuộc tìm kiếm. Tôi chỉ nghĩ rằng, tìm được địa điểm bí mật đã ghi trong gia phả lâu đời, thì mọi việc sẽ được sáng tỏ; nhưng khi đứng đúng chỗ cần tìm, thì mọi bí mật của nhà Musgrave vẫn còn quá mù mịt. Thật ra, tôi đã làm rõ việc Brunton mất tích, nhưng tôi phải giải quyết một vấn đề, để làm sáng tỏ một điều. Bằng cách nào số phận của Brunton lại bi đát đến như thế: còn người hầu gái kia có đóng vai trò gì không? Tôi ngồi xuống một chiếc thùng gỗ kê trong góc, suy tính trong óc mọi tình tiết của câu chuyện đã xảy ra...

Watson, anh đã biết phương pháp của tôi trong những trường hợp tương tự: Tôi đặt mình vào trường hợp kẻ hành động; trước hết cần nắm được trình độ suy luận và mức độ thông minh của anh ta. Tôi sẽ tưởng tượng mình là kẻ đó thì mình sẽ hành động ra sao? Chuyện này có đơn giản hơn, vì Brunton là kẻ có bộ óc không phải là tầm thường, tôi không phải mất công lắm để tính toán mức độ chênh lệch giữa trình độ suy luận của anh ta so với tôi. Brunton biết có một vật quý giá đang được cất giấu ở đâu đó.

Anh ta đủ trí thông minh đế xác định được chính xác vị trí. Anh ta biết chắc chắn rằng, tấm đá che miệng hầm rất nặng, một người thì không tài nào nhấc nổi. Sau đó, anh ta sẽ làm gì? Anh ta không thể cầu cứu người lạ được. Nếu tìm được một người mà anh ta tin tưởng, thì dẫu sao, khi đóng chặt cánh cổng từ bên ngoài, anh ta cũng thừa hiểu mình đi một bước quá liều lĩnh.

Tốt hơn hết, nên tìm một người ở ngay trong dinh thự nhà Musgrave. Nhưng Brunton cần tìm ai bây giờ? Người hầu gái kia đã có một thời yêu thương anh ta. Người đàn ông, dù có những hành động đáng trách với người phụ nữ, nhưng anh ta vẫn tin rằng, tình yêu dành cho anh ta không phải là đã hết.

Khi gặp cô hầu gái Rachel, Brunton đã làm lành với cô ta, và thuyết phục để cô ta đồng lõa với hắn. Chờ khi đêm đã khuya, họ cùng nhau xuống tầng hầm, và hợp sức để đẩy tảng đá. Đến phút này, hành động của bọn họ rõ ràng như chính tôi đã quan sát bằng cặp mắt mình. Nhưng trong hai kẻ thủ phạm, có một phụ nữ, rõ ràng đấy không phải là một công việc nhẹ nhàng; tôi với anh chàng cảnh sát phải chật vật lắm mới đẩy được tảng đá sang một bên. Họ đã làm gì để giảm nhẹ công việc. Đúng, tôi cũng phải làm như họ đã làm. Tôi chăm chú nhìn vào đống củi lăn lóc, và tôi tìm thấy ngay cái tôi đang mong đợi. Có một khúc củi dài khoảng 3 food đã bị hơi vặn gẫy ở một đầu, một cây khác thì bị bẹp dí: rõ ràng nó bị một vật nặng đè lên. Có thể, trong lúc nâng tấm đá, Brunton và cô hầu đã lèn những thanh củi vào khe hở; khi cái lỗ chưa đủ để chui vào, họ đã lèn thêm một cây củi nữa, cây này được dựng đứng lên vì thế nó mới bị vặn gãy ở đoạn cuối - chính tảng đá đã đè toàn bộ trọng lượng lên thanh củi. Những giả thiết của tôi hoàn toàn có căn cứ hẳn hoi.

Tôi phải suy xét thế nào đây, để có thể dựng lại toàn bộ bức tranh của tấn thảm kịch ban đêm? Nhất định chỉ có một người lọt vào hầm, và kẻ đó chắc phải là Brunton. Còn cô gái, có lẽ đã đứng ở phía trên chờ đợi. Brunton đã mở nắp chiếc rương và lấy hết mọi thứ chuyển lên trên cho cô gái, điều này không thể chối cãi vì chiếc rương còn lại rỗng không... Tiếp theo, cái gì đã xảy ra?

Có thể, sự khao khát trả thù anh chàng bội tình đang bùng cháy trong lòng cô gái nóng tính kia, khi cô nhìn thấy tính mạng của người tình bội bạc đang nằm trong tay mình. Cũng có thể, tình cờ cây gỗ ngã xuống, và tảng đá đã nhốt chặt Brunton trong hầm - trong một chiếc quan tài bằng đá. Nếu như chiều hướng thứ hai, thì Rachel chỉ có lỗi là đã làm thinh, không báo cho mọi người biết chuyện đã xảy ra. Hoặc cô ta đã cố ý rút cây gỗ lèn lên, làm cho tấm đá rơi xuống chỗ cũ?

Hoặc là thế này, hoặc là thế khác. Nhưng tôi mường tượng thấy trước mặt tôi người phụ nữ kia: Sau khi giấu chặt trong ngực vật quý giá mới tìm thấy được; cô ta chạy như bay theo cầu thang xoắn ốc để tránh không phải nghe thấy những tiếng rên vì ngạt thở và những tiếng đập cầu cứu tuyệt vọng của người tình lường gạt.

Đấy chính là nguyên nhân đã làm cho cô ta hoảng hốt, nhợt nhạt, kích động và nổi lên những tràng cười điên loạn vào sáng hôm sau. Vật gì đã nằm trong chiếc rương kia? Cô gái đã làm gì với những vật đó? Không nghi ngờ gì nữa, đó chính là những mảnh kim loại cũ kỹ và những tấm đá vụn, mà cô ta đã kịp ném xuống ao để nhằm che giấu tội lỗi của mình...

Tôi đã ngồi bất động chừng hai mươi phút. Musgrave người nhợt nhạt, vẫn đứng cầm ngọn đèn soi xuống hầm và nhìn ngơ ngẩn – "Đây là những đồng tiền từ thời vua Charles đệ nhất" - Anh nói và chìa cho tôi xem vài đồng xu còn ở trong rương. – "Anh thấy không, tôi đã đoán chính xách thời gian ra đời của "Bộ nghi lễ".

"Chúng ta có thể sẽ tìm thấy vật khác còn sót lại của Charles đệ nhất!" - Tôi thốt lên, khi nhớ lại hai câu hỏi đầu ghi trong gia phả. – "Hãy cho tôi xem vật đã chứa trong bao tải mà anh tìm thấy dưới đáy ao".

Chúng tôi cùng bước về phòng Musgrave, anh ta đổ ra trước mặt tôi một đống những mảnh vụn. Tôi ngắm kỹ những thứ đó, hiểu tại sao Musgrave coi nó không có ý nghĩa gì; kim loại gần như màu đen, còn đá thì mất hết màu sắc và đục lờ mờ. Tôi lấy ống tay áo lau chùi một mảnh, nó bỗng sáng lấp lánh như một ngọn lửa trong lòng bàn tay tôi.

"Chắc anh hiểu" - Tôi nói với Musgrave – "Quyền lực Hoàng gia vẫn tiếp tục thống trị nước Anh, ngay cả khi nhà vua đã chết. Rất có thể, trước lúc bỏ trốn họ đã cất giấu những vật quý giá nhất ở một nơi bí mật, với hy vọng sẽ quay về khi tình hình yên ổn hơn

"Ông cố nội tôi - ngài Ralph Musgrave, có một vị trí quan trọng trong triều đình và là cánh tay phải đắc lực của vua Charles đệ nhị, trong thời gian nhà vua còn phiêu bạt".

"À? - Tôi thốt lên – "Thật tuyệt vời, mắt xích cuối cùng đã tìm ra. Tôi phải chúc mừng anh, Musgrave ạ, vì trở thành chủ nhân của một thánh vật, hơn cả sự bi thảm của nó, nó có một giá trị vô cùng to lớn, bởi bản thân nó đã là một báu vật, nhưng quan trọng hơn nữa là tính lịch sử vô cùng quý giá của nó.

"Vật gì vậy?" - Anh ta hỏi tôi và vô cùng hồi hộp.

"Đó chính là vương miện của nhà vua nước Anh".

"Vương miện?!"

"Đúng. Vương miện. Anh hãy nhớ câu ghi trong gia phả thế này: "Cái này thuộc về ai?" - "Về người đã ra đi". Lời này được viết khi Charles đệ nhất bị xử tử. "Cái này sẽ thuộc về ai?". "Về người sẽ đi đến". Câu này có ý nói về Charles đệ nhị. Việc lên ngôi đã được tiên đoán từ trước, không còn nghi ngờ gì nữa, chiếc vương miện dù bị hỏng, mất hết hình thù oai nghiêm của nó, đã từng đội trên đầu các ông vua từ triều đại Stuarts.

"Nhưng làm thế nào nó lại dưới đáy ao?"

"Câu hỏi này không thể trả lời trong một phút"

Thế là tôi phải lần lượt kể lại cho Musgrave nghe toàn bộ quá trình, từ những giả thiết cho đến những dẫn chứng của mình. Khi tôi kết thúc câu chuyện thì trời bắt đầu nhá nhem, và trên bầu trời xuất hiện mặt trăng soi sáng, bàng bạc rạng rỡ.

"Nhưng tại sao, khi trở lại, vua Charles đệ nhị đã không lấy lại vương miện của mình?" - Musgrave hỏi và nhét tất cả những mảnh thánh vật quý báu vào bao tải.

"Anh nêu lên một vấn đề mà chúng ta không tài nào giải đáp được. Có lẽ, ông Ralph Musgrave, người nắm được bí mật này, trước khi chết đã trao lại cho người kế tiếp, nhưng vì sau đó không ai giải thích được nội dung, ý nghĩa. Từ đó đến nay, "Bộ nghi lễ" gia phả kia được lưu truyền từ đời cha cho đến đời con. Cuối cùng đã lọt vào tay một kẻ có khả năng khám phá ra điều bí ẩn, nhưng kẻ đó phải trả cho nó một cái giá quá đắt..."

Watson, câu chuyện về "Bộ nghi lễ của nhà Musgrave" chỉ có thế. Cho đến bây giờ, chiếc vương miện vẫn nằm ở dinh thự Hurlstone, mặc dù chủ nhân của nó đã phải rất vất vả, chi phí một món tiền khá lớn. Trong lúc người ta chưa được phép chính thức giữ chiếc vương miện ở bên cạnh, nếu anh muốn ngắm nhìn chiếc vương miện, anh chỉ cần nói tên của tôi thì người ta sẽ cho anh xem ngay lập tức.

Còn người hầu gái đã bặt vô âm tín. Có khả năng cô nàng đã từ giã nước Anh và suốt đời mang theo kỷ niệm về hành động phạm pháp của mình.

[HẾT]

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro