32 truyen ngan hay 1
Bội phản
Bảo Ninh
Thảo đẹp hay không đẹp, đàn ông dọc phố không ra miệng bình phẩm, ít nhất là riêng tôi chưa từng nghe thấy một lời nào như vậy từ họ. Tôi chỉ thấy họ nhìn chị. Những tay sĩ diện cao, thiên về đứng đắn, tất nhiên không nhìn, tránh nhìn, nhưng chỉ cần kém mực thước đi một tí thì không làm sao cưỡng mắt được, không tài gì thấy Thảo lại có thể nhịn nhìn.
Thị hiếu như thế thật là không công bằng. ở phố này, là giai nhân, thiết tưởng trước nhất người ta phải chấm chị Diễm hoa khôi trường Ngoại ngữ, kế nữa thì như là chị Bích bác sĩ, chị Hoa diễn viên múa, hay là chị Thuý bán bách hoá, rồi chị Lan, chị Đào, chị Hậu, nhiều. Tại sao lại là Thảo?
Tôi thì lẽ dĩ nhiên là tôi biết Thảo, nhưng là biết thế thôi chứ thực ra chẳng quen biết gì. Cũng khó có thể xem nhau là láng giềng, mặc dù chung số nhà.
Hồi đó cha tôi tiêu chuẩn Tông Đản, cùng với ông Lâm, cán bộ đồng cỡ, hai gia đình được trên cho hưởng trọn diện tích ngôi nhà chính, một biệt thự Tây hai tầng kiểu cách. Chúng tôi dùng cổng lớn mặt phố. Còn gia đình Thảo và năm hộ nữa thì sống ở dãy nhà phụ sân sau, họ thường đi lối cửa ngách thông ra ngõ hẻm. Đời sống của những “người sân sau” ấy chẳng khác nào như là mặt trái của ngôi biệt thự. Chỗ chui ra chui vào của cả sáu gia đình đều chật chội khổ sở, già trẻ lớn bé đóng hộp. Tất cả nấu nướng cùng một khoang bếp, tắm táp cùng một hốc tường, phơi phóng, hít thở đấu hót, cãi cọ, chuyện gẫu, nuôi lợn, nuôi gà tất cả trong cùng một khoảnh sân tù hãm. Tất cả đều nghèo túng. Tất cả đều đầu tắt mặt tối.
Chúng tôi thì khác. Như tôi, từ bé đã được cha mẹ cho ở phòng riêng. Anh tôi, chị tôi cũng thế, mỗi người mỗi phòng, tự mà bày biện, tự mà sắp xếp, tung tẩy tự do, một mình thoải mái.
Phòng tôi, ban công trông xuống sân sau. Từ ban công cúi nhìn, mắt chạm ngay cánh cửa liếp căn hộ gia đình Thảo, một căn buồng hũ nút không cửa sổ, ngày xưa là cái ga-ra. Nhà nọ neo người, chỉ hai bố con., Bà mẹ mất đã từ nhiều năm trước. Ông bố lệt bệt đau ốm, thường xuyên liệt giường. Được hai người anh thì một tử trận một ở tù. Sinh kế trong nhà cậy cả vào Thảo. Học hành dang dở chẳng có nghề gì, Thảo đi đêm, về hôm đắp đổi đủ nghề. Nghe nói toàn những nghề rất mạt với rặt là những cái lối kiếm tiền không biết nhục. Các bà các chị ở sân sau những khi quần tụ trong bếp hay rồng rắn chầu chực bên cái máy nước giỏ giọt vẫn ưa khơi những tai tiếng của Thảo ra làm đầu câu chuyện. Sống ở trên lầu, dù có buông kín rèm và đóng chặt cửa sổ, chúng tôi cũng không thể tuyệt đối bỏ ngoài tai những mớ lao xao hắt lên từ cuộc chung đụng nghèo khó ở dưới sân.
Nhưng cũng là láng máng biết vậy chứ những mảnh đời sân sau ấy chẳng bận tới tôi. Nếu như riêng Thảo đã có thể phần nào khiến tôi để ý thì cũng chỉ là vì hồi đó tôi cứ mãi lấy làm lạ về cái nhìn của những thằng bạn và những ông anh trong phường. Tôi tin thẩm mĩ của mình không khờ khạo, tôi cũng biết mình như ai chứ chẳng lẽ lại không, nhưng tôi chịu không thấy được ở Thảo có gì đáng ham hố. Trông cuộc trần ai kiếm sống Thảo hoàn toàn chìm lặng giữa bao người, chẳng một nét nào nổi bật, chẳng thể ăn đứt được ai, nhất là ở một địa bàn dồi dào sự xinh tươi như khu phố của chúng tôi. Những lúc này lúc khác gặp Thảo, ở cổng nhà, ở trong sân, ở ngoài đường, thường là tôi giả tảng chẳng thấy, lờ đi, cùng lắm thì cũng chỉ là chiếu lệ đôi ba lời gì đó trống không ra điều chào hỏi.
Sướng thân toạ hưởng phúc ấm gia đình, đầu óc nhẹ nhõm, tâm tư tôi sạch bong, không khi nào phải hoài hơi nghĩ này nghĩ nọ gì hết. Cả với những người thân yêu ruột thịt tôi cũng bàng quan huống hồ với một thân phận mù mờ sống chìm khuất mé sau nhà như Thảo.
Vậy mà rốt cuộc chính là vì Thảo nên vào mùa hè năm đó, năm tôi mười bảy tuổi, tôi đã lẳng lặng bội phản người chị gái của mình, và rồi sau đấy, lại vẫn vì Thảo, tôi phản bội tiếp cả người anh trai. Đến bây giờ, khi cái uẩn khúc gia đình ấy bị lộ ra, mặc dù đã bao năm trời trôi qua, mọi sự đã an bài, anh trai tôi và chị gái tôi vẫn không tha thứ, anh chị tôi từ mặt tôi. Cho đến tận bây giờ, trong kí ức tôi, kí ức một đời sống mờ nhạt, thông thường, không hề biết tới những xáo trộn, không chịu lướng vướng với ai một chút nợ lòng nào, vẫn cứ còn thỉnh thoảng phảng phất hiện lên hình bóng của mùa hè năm ấy, một mùa hè râm ran tiếng ve sầu, ngạt ngào hương thơm hoa sữa, một mùa hè đã xa lắc xa lơ từ tận những năm nảo năm nào.
*
* *
Mùa hè năm ấy, chị tôi đi lấy chồng. Chị không hề hay biết, nhưng tôi thì tôi biết, biết tỏng từ trước lễ cưới một vụng lén tày đình của ông anh rể: song song với yêu chị tôi, anh còn cặp với một người đàn bà khác. Khuất tất khó tha đó của anh chính tôi bắt quả tang. Chính tôi dự vào cuộc vây lùa đêm ấy ở Bách Thảo. Và mặc dù chưa phải là đã tóm được rành rành trai trên gái dưới, nhưng cũng gần như vậy.
Trai gái thời nay nghe kể về những “vụ việc” khó tin thời ấy hẳn phải lấy làm buồn cười lắm, nhưng vào thời chúng tôi những chuyện như thế chẳng có gì là buồn cười.
Thật ra thì vào thời nào Hà Nội của chúng ta cũng là thành phố của tình yêu. Xưa hay nay chẳng bao giờ là không nhan nhản những đôi lứa đang dập dìu. Có điều, thời hiện đại bây giờ người ta luyến ái nhau một cách vừa thoải mái thoáng rộng lại vừa kín đáo. Không cần phải là hạng con nhà người ta cũng có thể có phòng riêng. Không phòng riêng thì ngăn riêng, những góc nhỏ xinh xắn ấm cúng để tự tình. Nhưng trước kia thì khác. Trước kia ngay trong nhà mình người ta cũng chẳng đào đâu ra một góc cỏn con cho riêng mình. Các mối tình vì thế phải hướng ngoại, gần gũi nhau ở bên ngoài bốn bức tường. Bởi vậy mà lại có vẻ nườm nượp, có vẻ lộ liễu hơn hẳn thời hôm nay. Hồi đó, đôi nào hơi chậm chân thì chỉ mới tối đã chẳng hòng kiếm gì nổi trong công viên một ghế đã còn rỗi. Trong những góc thật khuất, mỗi băng ghế thậm chí có thể có đến hai cặp đồng sở hữu. Không còn ghế, thiên hạ kê dép ngồi phệt, san sát, ngổn ngang, kín nghịt bãi cỏ. Mùa hè, các công viên nội thành đều quá tải, người ta đành đưa nhau sang tận mạn tối đến bên kia hồ Tây, bãi Tứ Liên, đê Nhật Tân. Người ta lần vào cả trong vùng đổ nát quanh nhà máy điện Yên Phụ. Lắm đôi gần như bạ chỗ nào cũng xong, miễn tôi tối, văng vắng và kin kín một chút. Các chàng các nàng mê mẩn quên giờ giấc, quên lời thầy mẹ dặn dò, quên những bất trắc lúc canh khuya, quên cả chuyện có thể gặp chúng tôi đi tuần.
Anh rể tương lai của tôi đã gặp phải chính một rắc rối như thế đêm ấy. Một đêm không trăng sao. Nửa đêm về sáng lại mất điện, Bách Thảo um tùm cây cối tối mịt mùng. Tôi cùng mấy anh chị em trong tổ dân phòng khối phố rẽ vào đó kiểm tra đột xuất giấy tờ của các đôi. Bốn bề tối câm nhưng tinh mắt chúng tôi vẫn lập tức phát hiện thấy từ bên hồ có người đang dắt xe băng nhanh qua bãi cỏ. “Đứng lại! Dân phòng đây!”. Người kia lao vụt cái xe ra khỏi vệ cỏ, phóc lên yên và cuống cuồng đạp phóng đi. Chúng tôi rầm rộ đuổi theo. Chiếc xe nọ thục mạng phi trên lối cỏ ven hồ và vùn vụt ngoặt gấp vào khúc quanh dưới chân núi Nùng, mất hút. Những luồng sáng đèn pin rọi với theo cho thấy kẻ trên xe tháo thân có một mình. Bực tức, chúng tôi xấn tới chỗ mà ban nãy gã đó đã dắt xe chạy ra. Ánh đèn châu lại chiếu sáng vạt cỏ bên một gốc xà cừ. Vẫn còn một chiếc xe đạp và vẫn còn một người bị rớt lại đó. Một ả. Ả đứng xoay lưng lại những luồng sáng đèn pin. Có lẽ do quá hoảng, ríu chân nên cô nàng không chạy được, tay dắt xe mà không dắt đi nổi. “Tuột xích hả?” - Anh tổ trưởng dân phòng lên tiếng. Ả nọ làm thinh. Tổ trưởng cáu: “Đứng có mà lơ tơ mơ giả câm giả điếc nhá!” Anh nạt: “Đêm hôm mò vào đây làm gì. Qua đây xem cái mặt nào. Giấy tờ đâu? Cô là ai?”. Là Thảo. Buông tay khỏi chiếc xe, Thảo xoay người lại, ngẩng đầu lên, làn tóc như sóng, xoã xuống. Cái áo cánh cửa hàng cúc không cài. Tất cả những luồng sáng như nín thở, như ngây hết ra, mãi rồi mới loạc choạc chiếu tản đi. “Tưởng ai!” Tổ trưởng chúng tôi nói, thở dài. Anh rọi đèn ra đằng sau Thảo, soi lên chiếc xe đạp vừa đổ ngả vào thân cây. Im lặng một lát, anh nói, nhát gừng, giọng rất khàn: “Xe cô, nó vồ. Xe nó, nó khoá trái, ôm chìa chạy mất dép... Cái thằng đó (là) thằng nào thế, sao thằng đểu, thằng hèn thế mà cũng theo?” Nhưng chỉ hỏi vậy thôi, chẳng hỏi gì thêm, anh quay lưng bỏ đi. Mọi khi, trường hợp như thế này, đối tượng phải bị điệu về trụ sở dân phòng để lập biên bản. Sẽ không có chuyện nhu nhơ. Thế mà trận này với Thảo, chẳng hiểu tại sao mọi người rất nương tay. Chẳng căn vặn gì, chẳng tra xét gì cả, anh em trong tổ im ắng rút theo tổ trưởng. Mỗi mình tôi nán lại. Kì cạch tôi dùng dao nhíp cậy khoá xe. Bánh trước cái khoá dây, bánh sau cái khoá càng cua, đều không có chìa. Thảo im lặng đứng bên soi đèn cho tôi. Sau thoáng chốc sửng sốt ban đầu, tôi đã mau chóng nguội hết kinh ngạc, dù sự thể thật quá khó tin. Chiếc xe Mipha bị lẳng lại đây là của Hằng, chị gái tôi. Chị Hằng vẫn thường đổi xe cho anh Quân, để anh ấy diện, còn chị, chị ưa cái Thống Nhất cà tàng của anh. Ban nãy, khi những vệt đèn pin rọi rượt theo tay đàn ông, soi trúng lưng, trúng gáy y, tôi đã ngờ ngợ. Quả nhiên, đích thị, là anh Quân. Chỉ tuần sau thôi là anh ấy với chị tôi tổ chức, thiếp mời đã in xong, mấy bữa nay tôi đang có nhiệm vụ đi rải.
Tôi ném thia lia hai cái khoá khốn nạn ra thật xa trên mặt hồ. Vừa khi đèn đã cạn pin. Trong Bách Thảo dòng điện vẫn chưa hồi. Thảo không nhìn thấy mặt tôi, có lẽ chẳng biết tôi là ai, mà chị cũng chả hỏi, chẳng nói năng gì, chẳng cả cảm ơn nữa. Đón lấy ghi-đông từ tay tôi, nhưng suýt thì chị làm đổ xe. Hương hoa sữa về khuya như sánh lại, ngào ngạt, bứt rứt trong không khí. Ở vòm lá bên trên chúng tôi, một con ve sầu lên tiếng muộn màng vào lúc nửa đêm. Trong bóng tối, tôi chỉ thấy được Thảo trăng trắng mờ mờ, gương mặt, cánh tay, bờ vai.
Thực tình tôi không biết là tại làm sao mà lúc ấy mình lại như thế. Bỗng nhiên, hoàn cảnh bất ngờ với chính mình, tôi đưa tay lên ngực Thảo, và rất run, những ngón tay tôi lụng vụng, lóng ngóng, rờ tìm, cài lại được một, rồi hai cúc áo. Thảo đưa tay lên gỡ nhẹ tay tôi. Ngay lúc đó trong Bách Thảo đèn sáng trở lại, nhưng chỗ chúng tôi đứng vì rất khuất nên ánh đèn không rọi vào được, vẫn tối đen.
*
* *
Sự việc đêm ấy, có nguyên cả một tổ dân phòng chúng tôi chứng kiến, tưởng là nhất định sẽ ầm lên, vậy mà chìm hẳn. Chẳng ai bảo ai mọi người như thể đồng lòng bao che cho Thảo. Bản thân anh Quân thì lẽ dĩ nhiên là rất kín miệng, nhất là anh bình tĩnh. Sau đêm đó, để nghe ngóng, anh chỉ nhãng ra có đúng một hôm thôi không tới. Chị Hằng tôi và cha mẹ tôi chưa kịp lấy làm lạ, tôi đã thấy anh mở cổng dắt xe đạp vào nhà. Vẫn chiếc xe đạp Đông Đức xanh nõn chuối ấy của chị tôi. Thái độ của anh rất đỗi đàng hoàng, hoàn toàn là như không vậy. Chẳng phải là anh giả đò. Tính anh như thế. Dáng vẻ nhũn nhặn, ăn nói cầu hoà, nhưng anh luôn có đức tin tuyệt đối vào bản thân mình, một lòng tự tin kín đáo nhưng chắc nịch. Tôi tự hỏi không biết anh đã bắt đầu lòng thòng với Thảo từ khi nào, trước hay là sau khi quen biết chị Hằng. Chắc là sau, chắc là anh ấy “tăm” được Thảo nhân những lần đến với chị tôi.
Chẳng thể ghét anh ấy được. Chẳng thể khinh được, trái lại. Anh ấy lừa dối chị tôi nhưng bù lại cũng hiển nhiên là anh ấy yêu chị ấy. Yêu đàng hoàng, yêu inh bạch, và đã yêu liền một mạch nhiều năm rồi. Còn chị Hằng thì phải nói là đã yêu hơn cả yêu. Chị có vẻ như là muốn chết đi được vì được yêu. Lắm khi bắt gặp cái nhìn của chị hướng tới anh, tôi phát sợ. Một cái nhìn đắm đuối, van vỉ, chứa chan lòng ngưỡng mộ, sự trung thành.
Trước ngày cưới cả tuần chị tôi sống trên mây. Chị như ngây đi. Làm sao mà tôi dám nhẫn tâm nói hở ra một lời nào có thể làm lật ngược mất của chị cái niềm hạnh phúc nom đến là thương tâm ấy. Không phải chỉ trong những ngày của hôn lễ mà mãi đến tận nhiều năm về sau tôi đã tuyệt đối không hé răng. Trong cư xử hàng ngày tôi cũng luôn giữ được vẻ bề ngoài thật là bình thường với chị. Cả với ông anh rể nữa. Tôi không biết là anh có biết tôi không nhưng tôi đã cố tỏ ra là chẳng hay biết gì hết. Sớm thích nghi với vị thế một thằng em vợ, tôi sống thiện chí, không hề nói gì hay làm gì khiến anh khó nghĩ. Ngay cả với việc anh về ở rể, tôi cũng dễ dàng đồng ý theo mọi người. Tôi chỉ không chịu chiều ý cha mẹ muốn tôi đổi chỗ nhường cho cặp tân hôn căn phòng của tôi rộng hơn.
Nhè ngay cái phòng trông xuống sân sau ấy mà xây tổ ấm, ai đời lại như thế bao giờ. Tôi thấy có cái gì thật quá đáng, một cái gì ang ác trong hạnh phúc của anh Quân chị Hằng, trong tiếng họ nói họ cười, trong cái cách hai anh chị sau ngày cưới rảo quanh suốt lượt hàng xóm láng giềng, chào hỏi và ra mắt. Khi hai người gõ cửa căn buồng ga-ra, tôi đứng ở ban công nhìn xuống. Nghịch cảnh quá thể bi hài. Đã thế, vào thăm nhà Thảo đương khi ông thân của chị bệnh nặng nên cặp mới cưới còn tốt bụng tha theo một túi nặng những đường sữa với cả một bịch các thứ thuốc bổ. Nhiều năm sau này khi vỡ nhẽ mọi sự, chị tôi không uất anh Quân mà uất tôi. Chị hận nhất là cái chuyện ngày hôm đó tôi đã mặc kệ chị bị hố, bàng quan nhìn chị lễ mễ quà cáp tươi rói theo chồng vào thăm nhà “con đĩ”. Chị bảo sự im lặng đáng sợ ấy của tôi là biểu hiện tối đa một lòng dạ bạc bẽo. Tôi không biết làm sao phân trần. Chị tôi mắng vậy cũng chẳng sai. Dửng dưng ơ hờ, thản nhiên vô sự, cái tật đáng khen ấy ở tôi hình như ngay từ hồi ấy đã rất trầm trọng. Thế nhưng tình thật mà nói thì không phải tôi không biết băn khoăn là gì. Còn đầy băn khoăn nữa là khác.
Trò đời đối với tôi quả là kì lạ. Anh rể tôi rõ ràng đã mặt thớt phớt tỉnh Thảo, nhẫn tâm thoải mái vui duyên mới ngay kề nhà Thảo, vậy mà chẳng hiểu sao đã chẳng hề kích lên ở chị một mảy may nỗi oán hờn. m thầm chị bưng bít cho anh, kệ cho anh được ung dung mặc sức, không hề có thoáng qua một lời, một cử chỉ, một biểu hiện nào lộ ra là đã từng biết anh. Chị chỉ đã lẳng lặng tránh đi, như để khỏi nhìn thấy anh ấy, khỏi trông thấy, nghe thấy sự sung sướng, sự mãn nguyện của anh ấy, của chị tôi. Ban ngày không bao giờ Thảo có nhà, song cũng thường xuyên đi vắng suốt tối, nhiều hôm phải gần sáng mới lần về. Qua những lời bàn tán vọng lên từ dưới sân, tôi biết Thảo vừa được nhận vào làm nhân viên hợp đồng ở quốc doanh chiếu bóng, song tôi cũng biết là chẳng một rạp xi-nê nào trong thành phố có suất chiếu muộn đến như vậy.
Đêm hè, mắc màn ngủ ngoài ban-công, tôi có thể nghe thấy gần như tất cả những động tĩnh của Thảo, từ lúc vừa lạch xạch dắt xe đạp về cho tới tận khi đã ngả lưng. Mọi sinh hoạt của Thảo: xách nước, nấu cơm, giặt giũ, thay chăn chiếu và vệ sinh cho ông bố già đau ốm đều ẩn vào đêm. Le lói, giữa canh khuya, cả khu nhà chỉ một mình căn buồng của chị còn thức, im lìm vệt sáng đèn vẽ hờ theo khe cửa. Đôi tai đã trở nên quá nhạy của tôi có thể nghe thấy tiếng cánh cửa liếp của căn buồng ga-ra nhẹ nhàng hé mở, nghe thấy Thảo bước ra sân. Tôi có thể nghe thấy ở chỗ hốc tường góc cuối sân, sau manh chiếu che buồng tắm chầm chậm tiếng nước dội, từng gáo nhỏ một, se sẽ.
Từ sau cái đêm ở Bách Thảo, bỗng dưng tôi thành ra như là người đa cảm. Một trạng thái từa tựa như cơn sốt âm ỉ, khiến tôi bơ phờ, bải hoải, lại vừa chộn rộn bứt rứt. Vốn chẳng ưa thích gì lắm phim ảnh mà dạo đấy tôi lại năng đi xem. Nhưng chỉ đến duy nhất rạp Bắc Đô bên gậm cầu, một cái rạp hạng bét. Mua vé xong, bao giờ tôi cũng đợi buổi chiếu bắt đầu được vài phút mới vào. Hướng dẫn chỗ ngồi cho khách không phải khi nào cũng là Thảo nhưng tôi cầu mong là chị và lạ thay đã luôn luôn được như thế. “Xin quý khách đi lối này. Xin hãy thấp người xuống”, chị nói, thầm thì. Chỉ những dịp ngắn ngủi chẳng nhìn thấy gì, trong bóng tối nóng ngột, rối bời, loang loáng ấy, là tôi được nghe Thảo nói với chính tôi và được vài bước chân đi sát kề, gần như nép vào chị.
Nỗi niềm thầm lén của tôi cứ mờ mờ mịt mịt như vậy mãi. Thảo chắc là chẳng hề biết đến sự hiện diện của tôi cả trên ban-công lẫn trong rạp chiếu bóng. Nhưng, như là để bù lại, tôi luôn nằm mộng thấy Thảo. Thảo thường đến với tôi vào quãng trước hừng đông. Buổi sáng thức dậy, một làn hương mơ hồ như là hương thơm của giấc mơ vẫn còn vương vấn mãi.
*
* *
Năm ấy, sau Tết ta, ông thân của Thảo qua đời. Người ta bảo rằng ông cụ mất đi thật là đúng lúc. Chỉ nán lại thêm dăm bữa nữa là cụ sẽ phải gánh theo xuống mồ trọn vẹn điều nhơ nhục của cô con gái.
Nhưng mà cái điều nhơ nhục ấy thực ra là một mối tình. Mối tình của Thảo với Minh, anh trai tôi. Đang là nghiên cứu sinh ở Liên Xô, Tết ấy anh Minh được gia đình triệu về để lấy vợ. Cố nhiên không phải là lấy Thảo. Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao nữa. Hồi đang ở nhà chưa đi du học, ông anh tôi tính còn khệnh hơn cả tôi, có bao giờ mà anh lại để mắt đến Thảo. Ý trung nhân của anh là chị Diễm, một bông hồng thướt tha, đoan trang, kiều mị vào cỡ nhất cả khu phố. Ông bố của chị cấp ngang thứ trưởng ấy bị đột quỵ mà anh Minh phải cấp tốc về nước tổ chức cưới chạy tang.
Chẳng khác nào là một dị bản của đám cưới anh Quân chị Hằng, hôn lễ chị Diễm anh Minh cũng đã định ngày, cũng thiếp mời đã gửi, và cũng thế, phút cuối cùng, lại là Thảo xen vào. Chỉ có điều là ở dị bản anh đàn ông đã không bỏ của chạy lấy người, không im lìm chùi xoá nhẵn nhụi dấu vết cuộc dan díu. Có thể là vì mới từ xứ nọ tự do luyến ái trở về nên anh Minh không úp mở gì hết, chẳng chút ý tứ giữ gìn.
Vừa chân ướt chân ráo về nước đã bập liền vào Thảo và đã lập tức yêu cuồng lên. Sự bội tình của anh mau chóng rành rành ra trước mắt thiên hạ. Hầu hết nữ phái, nghĩa là già nửa dư luận trong phố sôi lên phẫn nộ, cả mẹ tôi nữa, và nhất là chị Hằng tôi. Nhưng anh trai tôi, con người của học hành, đạo lí và khuôn phép đã trở nên đặc biệt cứng đầu, ngày một thêm bạt mạng. Sự việc ầm ĩ lên chỉ tổ giúp anh gạt nhanh mọi do dự. Công nhiên dẹp bỏ đám cưới, anh tàn nhẫn cắt đứt với chị Diễm. Anh gần như là phô trương thái độ bất tuân phụ mẫu và bất cần thiên hạ. Còn non tháng nữa là phải quay sang Liên Xô, anh đã dứt khoát dời khỏi nhà cha mẹ, chuyển tới ở nhờ nhà bạn. Giận điên người, song thân tôi tống hết ra cửa mọi thứ của nả và quà cáp anh tải từ bên tây về. Minh liền khuân tất xuống phòng Thảo. Trước lúc bỏ đi, đứng ở cổng, anh xấc xược tuyên bố rằng nếu không vì ngại cho Thảo bị người ta dồn nén thì anh đã chẳng sá gì mà không vào sống với Thảo một phòng. Chờ bốn chín ngày của ông cụ xong là cưới – Anh tôi hùng hổ doạ thế. Bấy giờ tuy phải ngả theo quan điểm chung của cả nhà, mà thực lòng tôi phục anh tôi sát đất.
Và có vẻ như là anh tôi thậm chí làm liều. Có vẻ như anh chẳng còn thiết gì bản luận văn đang dang dở ở bên Nga. Ngày nào anh cũng về nhà, nhưng chẳng lên với gia đình, chỉ cứ buồng Thảo chui vào, ngồi chơi đến chớm khuya mới tạm biệt. Ngày nào mẹ tôi và chị Hằng cũng ít nhất một trận làm dữ, nhưng Minh Thảo mặc kệ, hoặc đóng chặt cửa, hoặc xe máy dong nhau ra phố. Hôm giỗ bốn chín ngày ông bố, Thảo biện mấy mâm cơm mời suốt lượt các gia đình trong cùng số nhà. Gia đình chúng tôi chẳng ai xuống. Cố nhiên là trừ anh Minh. Anh ở bên Thảo từ sáng đến tận tối, xăng xái chạy ra chạy vào đi lên đi xuống phụ giúp chị. Anh thay mặt chị đón khách tiễn khách. Anh qua lại các mâm trong nhà ngoài sân, mời nước, mời thuốc, tiếp rượu, chuyện trò thưa gửi. Như là một với Thảo, anh xưng chúng tôi, và tự nhiên như tây gọi Thảo bằng em của anh trước mặt mọi người.
Tôi thẫn thờ đứng ngoài ban-công rất lâu, nhìn, vô hạn buồn nản. Anh Quân đã đứng cạnh từ lúc nào, tôi chẳng biết. “Nó giỗ bố nó hay nó làm lễ lên giường với ông anh cậu thế, tôi đố cậu phân biệt được đấy?” Nhếch mép, Quân cười. Một cái cười khẩy, tuy nhiên méo xệch. Anh châm một điếu thuốc và lập tức sặc sụa. Nồng nặc xồng xộc lên mùi rượu. Xưa giờ, rượu và thuốc là hai thứ ông anh rể tôi của tôi đặc biệt gớm ghét. Nom anh bơ phờ, mặt mày xọm hẳn, tái dại.
Tôi và anh Quân tuy chưa bao giờ là quá thân mật nhưng đã luôn hữu nghị với nhau. Thời gian trôi qua mới hơn nửa năm song tôi đã gần như quên hẳn cái hành vi bần tiện của anh ở Bách Thảo. Cả những khi thấy anh lúi húi tỉ mẩn lau chùi kì cọ chiếc xe đạp Mipha ấy tôi cũng gắng không cho một ý nghĩ mỉa mai nào gợn lên trong lòng. Thực tình là tôi chẳng muốn nhớ. Dù sao đi nữa thì anh Quân cũng quả thật người tử tế. Với cha mẹ tôi, anh hết sức hiếu thảo, chu đáo mọi bề, không chê vào đâu được. Với chị Hằng, anh tận tình yêu thương, nhất là từ khi biết mình sắp thành ông bố trẻ con. Tôi không nghĩ rằng anh đóng kịch. Hoàn toàn không có vẻ gì là kịch. Vả chăng kịch để làm gì.
*
* *
Tối hôm ấy tôi đi ngủ sớm mong trốn khỏi những gì trong đầu và tiếng ồn dưới sân. Nhưng mãi mới thiếp đi được. Quãng nửa đêm lại bị thính giác lay thức. Có ai đó lẻn vào phòng, tới sát giường. Tối om, nhưng tôi biết ngay đấy là Quân. Anh đứng im bên giường tôi một lát rồi nhón quay bước trở ra. Tôi đếm được từng bước chân cực kì rón rén của anh xuống cầu thang, tôi nghe anh lẹp nhẹp đi qua sân sau. Ngồi dậy trong màn, không cần phải ra hẳn ngoài ban-công, tôi cũng biết là anh dừng bước trước cửa buồng của Thảo. Anh không gõ cửa mà cào cào như mèo cào vào cánh cửa liếp. Tôi thậm chí nghe được tách một cái tiếng công tắc đèn bật lên. Cánh cửa nhà Thảo hé mở rất nhẹ. Tôi không thể biết phản ứng của Thảo sẽ như thế nào: hét lên, nức lên, gào khóc, nguyền rủa, xua đuổi, tôi chỉ hiểu rằng, ngay bây giờ đây, ngay tức thì thôi anh Quân sẽ lộ tẩy chân tướng, đồng thời tai tiếng cũng sẽ đến với gia đình tôi, chị Hằng tôi sẽ khổ, sẽ nhục, ngay bây giờ.
Nhưng, tịnh không có gì xảy ra hết. Chỉ có tiếng cánh cửa khép lại. Im ắng hoàn toàn. Không có tiếng chân anh Quân quay lên. Tôi mở cánh cửa lách ra ban-công. Đã quá nửa đêm. Mưa phùn rét mướt. Sau cánh cửa đóng chặt, buồng Thảo còn để đèn, nhưng chỉ một lát thì tắt, cửa vẫn đóng chặt kín bưng. Có lẽ do khí lạnh và hơi ấm mà tôi trở nên bất động và vô cảm, tôi không nghĩ gì hết, cứ đứng ì người ra thế ngoài ban-công. Hồi lâu, rét run tôi đành loạng choạng trở về giường. Giấc mơ quen thuộc lúc gần sáng không còn đến với tôi nữa, thay vào đấy là tiếng chân anh Quân rón rén lên cầu thang mà tôi nghe thấy vào lúc gần sáng.
Giờ đây ngẫm lại những ngày tháng đó, thú thực tôi không hiểu nổi con người mình. Cùng một lúc cả chị tôi cả anh tôi cả cha mẹ tôi bị người ta lừa dối, vậy mà tôi nín nhịn đứng ngoài cuộc, khách quan nhìn ngó và lắng nghe. Những đêm đen vụng trộm của ông anh rể thì cứ lặng lờ tái diễn. Đêm ấy, đêm sau, rồi lại đêm sau nữa... rất êm, rất khéo, tuy nhiên hành tung của anh vẫn là rất liều lĩnh và lộ liễu. Nửa đêm, tiếng chân xuống cầu thang. Tiếng chân đi ngang qua khoảnh sân sau lép nhép bùn. Tiếng mèo cào vào cánh cửa. Tiếng cửa mở ra thật nhanh, khép lại thật nhanh. Gần sáng, lại những tiếng động đó nhưng ngược trình tự. Cửa mở ra. Tiếng chân nhón bước lên cầu thang...Vậy mà chẳng ai hay.
Hai kẻ báng bổ ấy mới may mắn làm sao. Cả khu nhà với bao nhiêu những tai những mắt đã không hề bị đánh động. Còn chị Hằng tôi bụng mang dạ chửa mà đêm đêm cứ li bì mê mệt chẳng khác nào uống quá liều thuốc ngủ. Rốt cuộc chỉ một mình tôi sống trong đêm với cái cuộc tình dễ sợ và ảm đạm như của loài ma ấy. Cả khi thức cả khi ngủ lẫn khi chập chờn, tâm trí tôi luôn mấp mé, chầu chực ở sát bên cặp tình nhân tham tàn, hai con người ma dại đó, như thể phấp phỏng canh chừng cho họ.
Nhưng mỗi sáng ra trở dậy, ngó vào buồng ăn, anh Quân chị Hằng thân thương bên nhau, điểm tâm và trò chuyện, tôi không sao nuốt nổi suất quà sáng của mình. Và bởi sức người có hạn, không kham nổi nửa, tôi xin cha mẹ cho phép chuyển vào nội trú trong kí túc xá sinh viên.
Mẹ tôi nhất định không bằng lòng, buồn bực trách cứ tình cảm gia đình của anh em chúng tôi quá ư nhạt nhẽo. Nhưng cũng nhờ những lời mẹ phàn nàn nên tôi mới được biết rằng không chỉ anh Minh và tôi mà cả anh Quân cũng đang muốn bỏ nhà ra đi. Anh rể tôi được điều vào Sài Gòn giữ chân trưởng ban đại diện của cơ quan ở trong ấy. Mặc dù chị tôi còn vài tháng nữa là sinh, mặc dù cha tôi thừa sức can thiệp để anh tôi không phải đi, nhưng anh đã nhất quyết. Anh đã định ngày, ngay đầu tuần sau: đã đặt vé xe lửa. Mẹ tôi vừa bực vừa thương anh Quân gàn tính, vì việc chung quên tình riêng, bỏ nơi đầy đủ sung túc xông vào trong đó chuốc lấy kham khổ, chấp nhận cuộc sống “nhá bo bo đắp đổi qua ngày”.
Song thân tôi đã luôn sai lầm về anh Quân. Chị tôi cũng vậy, cả tôi nữa, không bao giờ có thể lường hết được bụng dạ anh ấy. Tôi cứ nghĩ anh buộc lòng phải ra đi như vậy là chấm dứt một lần cho xong với Thảo. Anh ấy đã không còn cách nào khác, tôi nghĩ như thế. Thế nhưng, cách ứng phó của anh với đời thực là đa dạng và uyển chuyển hơn tôi tưởng rất nhiều. Bởi vì, rốt cuộc, anh Quân đã không hề phải trốn chạy đi đâu hết. Người phải lầm lũi trốn đi là Thảo.
Bỗng dưng, Thảo từ bỏ cửa nhà, biến đi biệt tích. Đột ngột, một buổi sáng, căn phòng ga-ra của chị đã thuộc sở hữu của nhà hàng xóm kề vách, cả đồ đạc nữa. Có lẽ chỉ những láng giềng sân sau của chị là biết trước sự tình. Chúng tôi, những người ở nhà trên thì không hề hay. Ngay tôi cũng bị bất ngờ, tôi không cảm thấy gì hết, không nghe thấy gì bất thường dưới phòng chị đêm chị ra đi. Điều duy nhất tôi lấy làm lạ là không nghe tiếng ông anh rể lần mò xuống đó đêm hôm ấy.
Còn ông anh trai của tôi thì có thể nói như là bị trời giáng. Hôm trước anh còn tới chơi, còn ngồi hết buổi tối trong phòng của Thảo. Hôm sau, thậm chí cả một phong thư, một lời nhắn nhủ Thảo cũng không để lại cho anh tôi. Toàn bộ cửa nhà đồ đạc Thảo nhượng lại cho người ta thật mau và thật êm để lấy có vài chỉ, lại lặng thinh khăn khói lặn không sủi tăm như thế, hẳn là đi vượt biên rồi, mọi người trong khu nhà đều nói vậy. Anh tôi tê điếng, tái dại, loạng choạng bỏ lên nhà nằm lịm.
*
* *
Anh trai thì suy kiệt tinh thần, anh rể sắp lên đường, chị gái bụng mang dạ chửa, tất nhiên tôi không thể lập tức bỏ nhà vào ở trong kí túc xá. Đấy là những ngày khó chịu không tả được, không khí trong nhà khiến tôi khó thở. Tuy rằng mừng trong bụng với việc Thảo đã chịu “buông tha” cho anh Minh nhưng mẹ tôi, chị tôi vẫn thấy sự dứt tình trắng trợn và trơ trẽn ấy xúc phạm quá xá danh dự gia đình chúng tôi. Cứ bữa cơm tối đông đủ cả nhà là hai người căm phẫn nói chuyện về Thảo. Cha tôi thì nóng ruột và giận dữ vì sự kém cỏi bản lĩnh của anh Minh. Gay gắt chỉ trích trạng thái tinh thần lệt bệt kéo dài của anh cha tôi đòi hỏi và thúc bách anh mau vực mình lên, nhanh chóng thu xếp sự nghiệp phó tiến sĩ. Anh tôi lúc cãi lại, lúc lì ra thằm lằm, lúc vùng vằng buông bát buông đũa bỏ về phòng riêng nằm vật.
Tôi thì vẫn như thông lệ, chẳng nói năng gì, không can dự. Tôi chỉ ngầm quan sát anh Quân. Tôi thấy anh quá ư điềm nhiên, một vẻ điềm nhiên mà tôi nghĩ là trên mức cần thiết. Anh từ tốn lên tiếng dàn hoà mọi người, khuyên mẹ và chị Hằng quên “cô ta” đi, xin cha tôi bớt giận, thông cảm cho nỗi đau của anh Minh, vân vân và vân vân. Nhưng chẳng cần phải 1à kẻ thâm trầm, sâu sắc gì cho lắm, tôi cũng bắt gặp những thoáng chốc bần thần trên gương mặt anh. Càng cận ngày anh lên tàu vào Nam những thoáng chốc như thế tôi càng bắt gặp nhiều hơn. Dù có tài thánh cũng không ai trên đời này có thể hoàn toàn giấu tiệt được thực chất tâm trạng mình, nhất là tâm trạng do dự, nỗi phân vân, sự ngán ngại.
Đến khi chỉ còn một ngày nữa là khởi hành thì ông anh rể tôi bỗng nhiên thay đổi. Anh công khai trở nên đăm chiêu. Anh ưu tư ra mặt. Anh rối bời vì âu lo cho tình trạng sức khỏe của chị tôi. Rồi bất ngờ anh tuyên bố không thế ra đi, hoàn cảnh gia đình lúc này đang rất cần anh, nhất là chị Hằng, vì vậy anh cần phải ở lại. Anh xin cha tôi nói với trên thôi không điều động anh nữa. Mặc dù không hài lòng với sự rút lui quá cấp kì của anh Quân, nhưng cha tội công nhận sự rút lui ấy là hợp tình hợp lí, và việc gì chứ việc giữ anh lại ở ngoài này thì trong tầm tay ông, ông thu xếp được ngay.
Chị tôi vui mừng, hoan hỉ dỡ bỏ tư trang của anh ra khỏi va li. Còn tôi thì được nhiệm vụ ra ga “đá” lại cho anh cái vé tàu Thống Nhất. Cầm tấm vé trên tay tôi chợt hiểu. Mấy bữa trước cứ lấy làm lạ là vì sao anh Quân lại phải chịu khổ sở thế không chịu đi máy bay.
Hôm sau, trước giờ đoàn tàu Nam chuyến chiều tối chuyển bánh, tôi lần ra ga để được nhìn thấy Thảo. Tôi tuyệt đối không mảy may hồ nghi gì chuyện đấy.
Chiều xuân, mưa phùn, nhưng trong mưa vẫn gió bấc lùa hun hút. Trên sân ke xám xịt, ướt át, lạnh lẽo đông nghịt hành khách và người đưa tiễn. Giữa đông người như vậy mà tôi tìm ngay được Thảo, trông thấy Thảo ngay là nhờ cái nhìn không lẫn vào đâu được của những anh đàn ông. Những cái nhìn mà tôi đã quá quen, những cái nhìn của sự không thể nhịn được mỗi khi người ta nhác thấy Thảo.
Còi tàu đã rúc lên, Thảo vẫn dưới ke, trong mưa. Va-li trên ghế đá. Vẫn còn vài hành khách tới trễ, tay xách nách mang hộc tốc đi mau qua cửa kiểm soát, vội vội vàng vàng chạy qua màn mưa đã bắt đầu nặng hạt, chen lên toa. Thảo nhìn họ, nhìn về phía cửa phòng chờ, nhìn những người tiễn đưa đang dạt ra đứng tránh mưa dưới mái hiên. Chị nhìn cả tôi, vào tôi nữa. Tuy nhiên, là một cái nhìn trống không, nhìn mà không thấy gì cả./.
Lỗi không phải tại rượu
Chu Lai
Cho đến bây giờ đã ba năm trôi qua rồi mà chị vẫn không giận, không trách gì người ấy. Chỉ thoáng buồn. Một nỗi buồn ngọt dịu như lần nào đó đi giữa đồng bưng đưa hạt lúa còn ngậm sữa lên cắn chắt cho cái hương vị làm đòng của nó cứ đọng lại mãi trong miệng. Nhưng chị nhớ. Nhớ như câu chuyện lạ lùng không thể hiểu được ấy mới chỉ xảy ra ngày hôm qua, hôm nay...
Đó là một buổi tối chị phải tiếp một đoàn khách ở ngoài Bộ vừa mới vào. Ôi dào! Cái sự tiếp khách này có cái gì là mới đâu, năm nào chả tiếp, tháng nào chả tiếp, tiếp đến mòn chân, đến mệt mỏi, đến thành chiếu lệ, cố cười, cố nói cho qua đi để rồi lại trở về công việc quá sức bận rộn của mình. Khách không đến thì buồn, thì như cái anh bị bỏ rơi chả ai thèm ngó ngàng tới; khách đến nhiều quá đôi khi lại thành ra cái tội, cái nợ nhưng không thể không tiếp. Và đối với chị, khách nào cũng giống khách nào, hỏi han một chập, ghi ghi chép chép một chập, ăn ăn uống uống một chập nữa rồi chia tay, chả để tâm để ý làm gì. Nhưng đoàn này thì không.
Vì có người ấy.
Thoạt gặp, chị cũng chả có ấn tượng gì đặc biệt: cao lớn, ăn vận đúng mốt, trẻ trung, có lẽ phải trẻ hơn chị đến dăm tuổi, mặt mày sáng láng... thì cũng giống như mọi vị khách thuộc các cơ quan cấp trên khác, mặt mày ai chả sáng láng, có gì lạ đâu. Cái khiến chị thoáng có chút để ý là đôi mắt của anh ta. Đàn ông đàn ang gì mà mắt cứ ướt như mắt đàn bà, to, sâu chăm chắm, nhìn đó mà cũng như không nhìn gì cả. Một đôi mắt lãnh cảm và cả đa cảm. Lúc giá băng lúc lại như có lửa cháy nồng nàn. Nếu chỉ là nồng nàn hay nồng nhiệt không thôi thì chị cũng chưa lấy đó làm điều, vì bao năm qua cái sự nồng nàn của kẻ khác giới này chị đã phải hứng chịu quá dư thừa rồi. Chị biết hình như mình đẹp. Nói đúng ra chính những cái nhìn ngây ngây của đủ các loại khách thập phương tứ xứ kia đã giúp cho chị chợt nhận ra điều đó. Thậm chí có cả những câu tán dương nghe lần đầu thấy chếnh choáng nhưng nghe nhiều lại thành ra nhàm, đại để: “Nhân danh một kẻ đã đi khắp Bắc - Trung - Nam, xin mạo muội đưa ra một nhận xét: có lẽ chị là một nữ giám đốc thuộc loại đẹp và quyến rũ vào hàng bậc nhất quốc gia”. Hay: “Thưa bà, cánh chim đầu đàn về xuất nhập khẩu vùng sông nước, giữa nhan sắc và tài năng kinh doanh là một cặp đối lập, cái này sẽ tiêu huỷ cái kia, vậy mà ở bà lại có thể dung hoà được, không tiêu huỷ mà lại còn tôn nhau lên, xin bái phục!”. Bữa tiệc tối nay cũng vậy, cũng những câu nói, những lời chúc đầy vẻ ga lăng đến quá quắt như thế, và nữ chủ nhân cũng chỉ mỉm cười. Một nét cười mỉm mang đầy chất thường trực vừa độ.
Nhưng riêng người ấy lại chẳng nói câu nào. Uống rất nhiều mà lại không nói, vậy thì cái men rượu kia nó lặn đi đâu? Không nói nhưng đôi mắt ấy đã nói nhiều hơn tất cả. Một chút khao khát, một chút buồn thương, một chút tiếc nuối, một chút giận hờn và cả một chút kiêu bạc. Cái cung cách là lạ trong cả một đám thực khách xô bồ, ăn to nói to ấy đã gợi lên trong chị một chút tò mò, cả một chút áy náy e rằng hay là mình đã có cái gì sơ suất trong chuyện tiếp khách chăng. Với tất cả vẻ ân cần, mềm mại của chủ nhà, chị đem một li rượu đến gần anh, nói khẽ:
- Chúc sức khỏe tiến sĩ. Hi vọng sau chuyến đi này, tiến sĩ sẽ giúp cho tổng công ty tôi được nhiều ý kiến quý giá.
Không đáp lời, anh ta chỉ nâng chiếc li lên, chạm nhẹ rồi uống cạn. Khi đáy li không còn một giọt thì cũng là lúc đôi mắt của anh ta hiện ra, chờm ngợp, thăm thẳm, sát gần... Thoáng rùng mình trước cái nhìn xuyên thấu ấy, chị bỏ đi về chỗ. Đôi mắt anh ta nhìn theo, nhìn theo cho đến khi chị ngồi xuống với một chút chếnh choáng không tránh khỏi do li rượu thứ mấy rồi không biết nữa buộc phải uống theo phép tắc ngoại giao đem lại. Chính cái chếnh choáng đó đã khiến chút kiêu kì của người đàn bà trong chị sống dậy. Nhìn à? Thích nhìn lắm à? Vậy thì nhìn đi, anh bạn trẻ! Lần đầu tiên chị chiếu thẳng cái nhìn vào anh, rất thẳng thắn và chắc mẩm rằng, cùng lắm chỉ vài giây là đôi mắt khó chịu kia sẽ phải cụp xuống hoặc nhìn lảng đi như không ít kẻ đã từng phải lảng đi. Nhưng không, chị nhầm, người đàn bà từng trải và đáo để trong chị đã nhầm. Đôi mắt kia vẫn rọi tới, chai lì, trấn áp, xô đẩy và lạ hơn nữa là trong đám sương mù rối tinh đó có cả một chút thương cảm, ái ngại lấp loá. Và rồi chính chị lại không chịu nổi phải nhìn lảng đi. Sao thế nhỉ? Sao hắn ta lại tự cho phép mình có thể có cái kiểu nhìn hỗn hào ấy nhỉ? Thương cảm và ái ngại à? Hay là đâu đó đã rò rỉ cái gia cảnh chẳng mấy hay ho của mình? Cái gia cảnh có một anh chồng vô tích sự suốt ngày dựa vào tiền bạc, uy thế của vợ để tự dìm đời mình trong các bàn nhậu.
Suy nghĩ ấy khiến đầu óc chị oải ra, trống trải và thấy cái buổi tối nay sao quá dài, nặng nề, vô duyên và tẻ nhạt đến nỗi nếu như không phải là chủ nhà thì chị đã dứt khoát tìm cớ bỏ đi từ lâu rồi. Cau mày, chị nhìn quật trở lại đôi mắt kia với một cái nhìn thô mạnh như một câu mắng. Thừa. Đôi mắt ấy vẫn không thay đổi góc độ, thậm chí còn hun hút hơn, chỉ khác lần này cái ánh mắt ái ngại, thương cảm mà chị tưởng tượng ra kia không còn nữa, thay vào đó là một đốm lửa cháy lom đom đang toả ra hơi ấm dìu dịu. Đến đây thì thực sự không chịu nổi cái đốm sáng ma trơi quái ác ấy, chị quyết định gạt bỏ anh ta qua một bên và quay sang trao đổi với vị trưởng đoàn có cái đầu hói bốc đến tận ót.
Câu chuyện chỉ dừng ở đó thôi thì chưa có điều gì xảy ra nếu như sau đó, theo lệ thường, đoàn khách được mời đến một điểm cách xa nội thành để thưởng thức một chương trình đờn ca tài tử. Lại rượu, lại ánh đèn mờ ảo, chỉ thêm những làn điệu mê hồn của một dòng dân ca đậm chất folklore có khả năng làm đắm chìm cảm xúc khách vãng lai. Và điều bất ngờ ấy đã xảy ra. Xảy ra khi đoàn khách nhất định cứ nồng nhiệt đòi chị với tư cách là chủ nhân phải đứng lên hát tặng họ một bài vọng cổ sáu câu hay bảy câu gì đó. Tất nhiên là chị khéo léo chối từ với lí do mấy bữa nay trời chuyển lạnh, bị khô cổ nhưng thực chất là chị sợ, sợ phải hát phải hò trước cái nhìn không chịu nổi của đôi mắt kia. Nhưng họ đâu có nghe, bảo khan cổ cũng được, khan hát kiểu khan, miễn là một lần được nghe chính bà tổng giám đốc nổi tiếng hát. Thật sự bối rối chưa biết tính sao thì người ấy đã đứng dậy, lặng lẽ cầm micrô, mỉm cười: “Nếu quý vị cho phép thì tôi xin được hát thay”.
Nhiều tiếng hoan hô nổi lên, song họ đề nghị anh phái ca tài tử chứ không được hát tân nhạc, tân nhạc nghe đã chán ngấy rồi, đến đây thì phải ca theo điệu ở đây, nếu không ca được thì phải trả lại micrô cho người ta. Một thoáng lo ngại hiện lên trong mắt chị. Kiểu này chắc không thể từ chối được nữa rồi. Con người trông hiện đại nghe nói toàn đi Tây học thế kia, lại là dân Bắc chính hiệu thì làm sao có thể ca, biết gì mà ca. Chính lúc đó thì anh cất lời. Tất cả bỗng ngớ ra. Mọi tiếng lao xao nói cười biến mất. Anh ta hát thật, hay ai hát thế nhỉ? Đúng là sáu câu, đúng là một làn điệu vọng cổ ngọt lịm không sai đến một cái luyến láy nhỏ nhất. Anh ta đang ca bản “Văn Thiên Tường” quen thuộc mà người dẫu xa lạ với bản nhạc này thế nào chăng nữa cũng không thể không có chút động lòng xao xuyến trước cái âm ba thăm thẳm buồn thương của nó.
Trong đó có chị. Bằng vào những đoàn khách, chị đâu có lạ gì bản nhạc này, thậm chí chả mấy để tâm đến nó, nhưng không hiểu sao đêm nay nghe người ấy ca chị lại bị chấn động đến thế? Do giọng ca trầm ấm hay lại do chính đôi mắt kia, đôi mắt vẫn hướng về chị chăm chắm, tha thiết và day dứt như một lời tâm sự, như chỉ để cho một mình chị nghe, chỉ một mình chị thôi. Đôi mắt và lời ca đã ngào vào nhau làm một, cùng lúc tạo thành những con sóng nhỏ vỗ khe khẽ vào lòng chị. Cạnh chị, vị trưởng đoàn không giấu được vẻ tự hào, quay sang nói vừa như khoe vừa như lí giải trường hợp hi hữu này: “Tay ấy hồi đi bảo vệ ở Đức đã có dịp sống chung với một tốp nghiên cứu sinh toàn người Nam đó”.
Nhưng chị không nghe thấy gì hết. Đôi mắt và giọng ca vẫn bủa vây, phong toả chặt lấy đầu óc chị. Phong toả mạnh đến nỗi, khi anh dứt giọng, giữa những tràng vỗ tay rầm rĩ, chị bất giác đứng dậy tìm cớ thoái thác rằng có chút vìệc ở văn phòng cần trao đổi qua điện thoại một chút, xin tất cả cứ tự nhiên. Vài tiếng lao xao, than phiền kể cả ngăn cản nổi lên nhưng rồi cuối cùng chị vẫn đi ra được khỏi phòng với nụ cười nhã nhặn, bối rối của người có lỗi.
Đêm đờn ca mới được nửa chừng, trăng thanh gió mát, giọng ca liêu trai của cô gái miền Tây tiếp theo kia lại dìu dặt cất lên như giọng hát ma mị của nàng mĩ nhân ngư đang quyến dụ những chàng thuỷ thủ nhào người xuống biển, nên cái sự thiếu vắng chủ nhân kia chỉ hơi hẫng một chút chứ không hề làm giảm đi nét hào hứng trong bàn tiệc. Hào hứng đến nỗi sự thiếu vắng ngay sau đó của anh cũng chẳng khiến cho ai để ý. Vui mà. Vui quá mà. Bay hai ngàn cây số vào đây được hưởng một cảnh sắc đồng quê yên ả thế này, được nếm đủ các thứ vật ngon của lạ thế này, cứ vui thả sức đi, cần chi đến chuyện ai còn ai khuyết. Cứ thoải mái!
Anh không đi về phía chị vừa ra mà bước ngược lên một cửa ngách dẫn ra cái hành lang chạy vồng quanh căn nhà lợp lá. Hành lang hun hút gió. Hơi lạnh. Ngoài kia là dòng sông đang mơn man vỗ sóng. Anh bỗng đi chậm lại. Chị đang đứng đó, tựa nhẹ vào lan can, lặng lẽ, mờ nhoà, mỏng manh dưới một cái tán cây vú sữa toả rợp. Gió thổi mái tóc dài thiếu phụ bay khe khẽ về sau. Dừng lại một chút rồi anh nhẹ chân đi đến. Rất nhẹ. Nhận biết được điều đó hay đang mơ hồ chờ đợi điều đó không rõ nữa, chị khẽ rùng mình. Nhưng vẫn đứng im. Anh đã ở ngay bên cạnh, cao lớn, phải cao hơn chị một cái đầu, vẫn không nói không rằng. Từ thân thể trẻ trung, tráng kiện của anh, chị cảm thấy rõ một luồng hơi ấm nồng nàn ngai ngái rất lạ toả ra. Gió vẫn không ngừng thổi. Có con dế nào kêu thật ảo não dưới kia. Tiếng chị cố làm ra bình thản, thậm chí còn hơi lạnh lùng, bề trên nhưng vẫn không tránh được một độ rung nhè nhẹ:
- Anh... anh không ngồi dự với mọi người nữa à?
Một câu hỏi chả đâu vào đâu nhưng nếu anh trả lời ào ào trôi chảy, sáo mòn như hầu hết những người đàn ông khác thì chắc câu tiếp theo của chị sẽ là một sự lạnh lùng thật kiểu như anh vào đi, tôi đang bận, tôi hơi nhức đầu, tôi muốn ở một mình... nhưng không, chàng tiến sĩ vẫn chỉ im lặng, dõi cái nhìn ra xa phía mặt sông, làm như không hề có chị bên cạnh, không hề có chuyện anh ta cố tình theo chị ra đây. Quái quỷ, chị ngước mắt nhìn lên. Bất ngờ chạm phải đôi mắt anh đang nhìn xuống. Vẫn cái nhìn chờm ngợp, nồng nàn, thu hút. Như bị điện giật, dù cố cưỡng nhưng chị vẫn không tài nào đánh mắt thoát khỏi được cái nhìn đầy vẻ bao vây, phong toả và chân thành đến ai oán ấy. Trăng lu hơn, gió vẫn vỗ về, trời đêm vẫn se lạnh, tán vú sữa trên đầu sao dường như cũng đang sà xuống thấp thế, như đồng loã, như chở che, khẽ gọi... Bị chói, đôi mắt chị bất giác nhắm hờ lại, khuôn cằm hơi ngểnh lên. Và chỉ cần thế thôi, khuôn mặt rất đàn ông của chàng trai đã từ từ cúi xuống, cúi xuống gần hơn nữa và, đôi môi khô ráp của anh đã áp nhẹ lên bờ môi đang hé mở của chị từ lúc nào.
Choáng người, chị vội đẩy anh ra, đẩy rất mạnh nhưng không kịp nữa rồi. Hai cánh tay đàn ông đã như hai gọng thép siết cứng chị lại. Ngạt thở, chị gần như lả đi... Đã lâu lắm rồi, phải kể từ cái ngày còn chưa lấy chồng, chị mới có được một nụ hôn say cuồng, đam mê, nóng rãy như thiêu đốt, như rút ruột rút gan như thế này. Đúng vào cái lúc toàn thân như tan chảy, như mụ mị không còn biết gì nữa, như sẵn sàng thả trôi cả hai mươi năm không tai tiếng, hai mươi năm nhịn miệng giữ gìn, hai mươi năm không có một ngày hạnh phúc cho nó muốn đi đâu thì đi thi một chút lí trí mỏng manh còn sót lại ở đâu đó khuất nẻo lắm trong tâm hồn đã khiến chị chợt tỉnh. Quằn mình ra khỏi vòng tay và đôi môi khô khát của anh, chị nói như nghẹn:
- Trời!... Sao lại thế này?... Sao có thể thế này được?...
Thay vì trả lời, tấm thân gần như trinh trắng của chị lại bị siết chặt trở lại và hơi thở nóng ran của chị lại bị một hơi thở khác nóng hơn phủ chụp lên. Chị lại quằn người ra, lần này thì nói như van như khóc:
- Đừng... đừng? Tôi xin anh... Thôi, vào đi anh... Vào đi!
Nhưng cánh tay của anh vẫn không nới rộng vòng ôm. Không nới rộng nhưng không siết ghì vào lòng nữa và bây giờ mới nói, một tiếng nói như vỡ ra tử một lồng ngực rớm máu:
- Xin lỗi... ở chị có một cái gì đó khiến tôi không thể nào cưỡng lại được. Có thể tôi là một thằng rất tồi tệ, một thằng chả ra sao nhưng giây phút này tôi biết là tôi đang sống thực với lòng mình, rất thực, thực như cái điều tôi sắp nói ra đây: Tôi đã đi khắp mọi nơi trên Trái Đất này nhưng chỉ đến đây, trước chị, trước tất cả những gì có ở chị, tôi mới hiểu ra rằng, người đàn bà, cái mảnh thứ hai của cuộc đời tôi có lẽ giờ mới tìm được.
Câu nói ấy một lần nữa lại khiến toàn thân chị muốn tan ra. Một câu nói không mới, hình như đã từng hơn một lần chị đã được nghe những từ đại loại như vậy rồi nhưng lần này nghe từ chính miệng anh sao lại khiến chị rung động mạnh đến thế. Như đưa như ru, như đưa lên rồi lại chìm xuống, chết lặng. Giây phút bồng bềnh, giằng xé và khổ đau ấy, chị biết người ấy đang nói thật. Nói sau khi đã được chị, có chị, dù chỉ là một nụ hôn khoảnh khắc và bất trắc thì không thể là một lời giả dối nhằm tìm đường tíếp cận khi chưa có gì. Và cả đôi mắt như đang cháy sáng lên kia nữa, tuyệt nhiên không thể là một đôi mắt giả nhân. Nước mắt chị bỗng chảy ra. Cả tuổi thiếu nữ lặn lội trong rừng chiến tranh, hoà bình đi học, học xong lấy chồng, rồi từ đó chỉ còn biết vùi đầu vào công vìệc và công vìệc, đã có khi nào tĩnh lặng được một chút để suy nghĩ mọi khía cạnh sâu xa về hạnh phúc, về thân phận, về cái lẽ cuối cùng của đời một người đàn bà đâu. Để rồi cùng với khối lượng công vìệc bộn bề, với triền miên thăng trầm lỗ lãi, với vinh quang và lòng tôn vinh đã được định vị mỗi lúc một chắc chắn trên thương trường, giữa lòng xã hội, cái phần mềm trái tim đàn bà trong chị cũng dần dà vô cảm, lạnh cứng theo cho đến tới nay, lúc này...
- Tôi... tôi phải vào đây. Anh... anh cũng vào đi, kẻo người ta...
Cũng đã lâu lắm rồi từ cái miệng chỉ quen với những âm vực quản lí, điều hành khô khan, chính xác của chị mới bật thốt ra những âm tiết đầy nữ tính e ấp như thế và rời nhanh ra khỏi anh, bước đi như chạy trốn. Anh vẫn đứng lại. Một mình châm thuốc hút, không ra vui cũng không ra buồn, lặng lẽ thay chị làm chiếc bóng tựa vào lan can.
Sáng hôm sau, đoàn khách được mời đi thăm khu thuỷ sản nổi tiếng cả nước của chị trước khi có buổi làm vìệc chính thức để ngày sau đó đoàn còn phải lên xe chuyển đến một địa bàn khác theo kế hoạch. Chiếc canô màu trắng bay như đệm từ trường trên những con sóng xanh biếc. Nắng miền Tây mới chói chang làm sao. Nắng soi tỏ vào mọi ngóc ngách cảnh vật đêm hôm qua còn bí ẩn, mờ nhoà. Nắng rọi vào tận đáy mắt phủ phê sau một giấc ngủ đẫy của những vị khách sang trọng đến từ phố phường bụi bặm.
Và nghiệt ngã thay, cái nắng quái ác ấy cũng làm hiện rõ trên khuôn mặt chị những nếp nhăn nho nhỏ, những dấu vết tàn phai, thoáng có chiều mệt mỏi không tránh khỏi của cái tuổi gần năm mươi. Những dấu vết mà tối qua dưới ánh đèn lung linh, trong cái lênh loang của men rượu không ai có thể nhận ra được, kể cả anh. Để giờ đây anh đang ngồi trước chị, chỉ cách nhau một cái đầu gối, đôi mắt vẫn mở to, hun hút, chỉ khác là đôi mắt ấy không đắm nhìn vào chị như tối qua nữa mà nó bối rối lảng đi phía khác, phía mặt sông rồi dừng hẳn ở đó như tối qua giữa hai người chưa hề có một chuyện gì xảy ra cả. Còn cái nhìn của chị, một cái nhìn ẩn sau đôi mắt trũng sâu cũng ngược hoàn toàn lại với với tối hôm qua, chốc chốc lại kín đáo săn tìm ánh mắt anh. Nhưng không một lần nào tìm được. Đủ cảm nhận ra điều ấy, đôi mắt chị hơi tối lại, trên đôi môi không thoa son thoáng một nét cười cay cay và nhẫn chịu.
Nhưng chị vẫn không thể không nhìn vào khuôn mặt anh. Dưới ánh sáng trời, khuôn mặt ấy càng tôn rõ vẻ trẻ trung, sắc nét và đẹp đẽ hơn cả khi đêm. Một khuôn mặt giờ đây sao thật vô cảm, hững hờ. Chao ôi! Chị khẽ cúi xuống nhìn vào bàn tay có những ngón đã bắt đầu có chiều khô héo của mình. Bóng đêm giữ gìn tất cả nhưng bóng đêm cũng đã xé rách tất cả.
Đôi mắt kia vẫn buông thả đi đâu. Biết là không thể săn tìm được nữa. Càng biết là cái nồng nàn, thiêu đốt trong đôi mắt kia đã hoàn toàn nguội lạnh, vẻ như không chịu đựng nổi cái ngột ngạt ấy, chị đứng dậy, bước ra đầu boong làm như cuộc hành trình sắp đến đích. Nhưng phía trước dòng sông vẫn trải dài xa ngái và theo lịch trình đã được thông báo, ít nhất cũng phải nửa tiếng nữa canô mới cập bến. Đến lúc ấy anh mới đuổi cái nhìn theo chị. Người đàn bà vẫn đứng đó, mỏng manh, dong dỏng, mái tóc dài vẫn bay về sau, vẫn lặng thầm mà sao vẻ quyến rũ ma mị đêm qua đã biến đi đâu tất cả! Một chút ân hận và xa xót nhen lên, anh cũng lặng lẽ đứng dậy đi đến cạnh chị trước những con mắt vô tâm không hề đoán nhận ra điều gì của các chuyên viên kinh tế cấp cao còn đang mải phóng cái nhìn háo hức ra hai bên bờ sông ràn rạt gió nắng.
Giống như tối qua, cũng đã nhận ra anh, cũng đã biết cái thân hình trẻ trung tráng kiện kia đang ở ngay sát ngay cạnh mình nhưng ở chị không còn một cái rùng mình nào xuất hiện nữa. Và rồi chính anh lại là người buộc phải lên tiếng trước:
- Xin... xin lỗi chị về chuyện hôm qua. Tôi... tôi chỉ...
Không biết có nghe được những âm tiết khổ sở trái ngược hẳn với cách nói tự tin vốn có của anh hay không mà chị vẫn không hề quay lại, chỉ đưa tay chỉ về phía trước, nói to một câu như để cho tất cả mọi người cùng nghe:
- Vâng, thành phố đã có dự án đến năm 2005 sẽ cải tạo toàn bộ khu vực hai bên sông này thành một khu tổng hợp du lịch và kinh tế, vốn sẽ vay ngắn hạn của ODA...
Anh khẽ lặng người đi, chưng hửng và dù muốn cũng không thể nói thêm được điều gì nữa, đành trở lại vẻ im lặng nhọc nhằn. Chính lúc đó, tiếng chị lại vang lên bên tai anh, vừa đủ độ cho một người nghe:
- Không sao đâu... Chỉ có điều hôm qua tôi đã... đã mất ngủ suốt đêm.
Nói rồi, chị quay người bước trở lại khoang, vẫn cái cười lịch lãm với người này kẻ khác như câu nói vừa rồi chỉ là lời của gió vọng về chứ không phải là của chị. Chỉ còn người đàn ông cao lớn là đứng lại trên boong, bất giác thả cái nhìn xuống nước. Dưới đó, muôn ngàn hoa nắng vẫn không thôi nhảy nhót trên những lưng sóng nhấp nhô, miệt mài./.
Ký ức tuổi hai mươi
Vương Tâm
Tôi nhớ đây là lần thứ ba đến dự sinh nhật Hằng đều bắt gặp ông già này đứng thắp hương trong vườn. Hình như bên ấy có một bàn thờ nhỏ ở chái nhà hướng Nam. Đứng bên hè nhà Hằng tôi nhìn thấy rất rõ hình ảnh ông già hàng xóm đang đứng lúi húi đặt bó hương lên bàn thờ rồi lẩm nhẩm khấn vái. Bạn bè chúng tôi mải vui nên chẳng ai để ý đến mái đầu bạc trắng và dáng người gầy gò của ông già ấy. Bởi ông lặng lẽ đi ra đi vào như một cái bóng vậy. Thấy lạ, tôi hỏi Hằng:
-Sao cứ đến sinh nhật cậu là tớ lại gặp ông già này?
Hằng chỉ gạt đi:
- Để ý làm gì. Tớ quen hình ảnh này từ khi còn bé cơ.
- Sao vậy nhỉ? Ông ta thắp hương để tưởng nhớ đến ai đó vào ngày đầu năm.
Tôi như tự hỏi chính mình, nhưng cái Hằng lại vui vẻ nói:
- Thật cái số mình cũng lạ, sinh ra đúng ngày của năm mới. Nào, hãy vui lên vì sự ra đời này...
Thế rồi nó bật to tiếng nhạc. Lời bài bát Cây đàn sinh viên quen thuộc vang lên. Cả nhóm hơn chục đứa cứ thế nghêu ngao theo giọng hát của Mỹ Tâm. Lát sau thằng Đạt nói to:
- Nhảy đi! Chúng mình nhảy đi!
- Disco! Disco!
- Nào Rap, Rap, Rap cơ.
Đứa nào đứa nấy la lên như cuồng dại. Cái Hằng lắc người khoẻ nhất như muốn xóa đi mặc cảm của cái ngày sinh nhật nó rơi đúng vào ngày 27/7. Nó hát để chứng tỏ đây là một ngày vui chứ không phải ngày buồn, ngày tưởng nhớ. Biết tính nó, tôi cũng nhảy theo phụ họa:
- Chúc mừng ngày vui của bạn!
- Nào hãy hát lên!
Bất ngờ có tiếng nổ lép bép. Lúc đó một ngọn nến cháy lẹm vào góc giấy bóng nút trên chai rượu. Có đứa nào đó hốt hoảng kêu lên và kéo vội đầu khăn làm cho những chai rượu mạnh đổ dập xuống vỡ tan. Rượu chảy ra lênh láng bắt nhanh ngọn lửa. Thật bất ngờ chiếc bàn gỗ như một ngọn lửa bùng lên làm mấy đứa con gái hét lên thất thanh và chạy ào ra ngoài sân. Mấy đứa con trai vội chạy để múc nước nhưng không tìm đâu thấy cái xô mà chỉ cuốn vội mấy cái áo xuống bể nước rồi chạy vào đập lên ngọn lửa đang cháy bốc lên gần trần nhà. Tôi cuống cuồng la to:
- Cháy rồi! Cứu chúng tôi với, cứu... cứu!
Tôi cứ líu lưỡi lại không kêu được nữa khi thấy lửa đã bén lên gần những vì kèo. Nhưng bất ngờ có bóng ai đó nhảy băng qua hàng rào rồi chạy vào bên trong nhà bê bổng cái bàn đang bốc lửa ném ra ngoài sân. Tôi đứng lùi ngạc nhiên vì thấy ông già hàng xóm nhà Hằng đang bắc ghế leo lên xà ngang nhà và lấy chiếc tải ướt dập lên ngọn lửa vừa bén cháy. Bọn con trai nhanh tay dập tắt ngọn lửa ở chiếc bàn thì cũng là lúc chiếc bàn đã cháy rụi hết đổ sập xuống giữa sân. Mấy đứa con gái thì đều tái xanh cả mặt và run run nhìn ông già với mái tóc bị cháy xém, lầm lụi bước về qua hàng cây bên nhà. Đứa nào cũng cảm ơn ông rối rít. Ông chỉ nói ngắn gọn và hết sức bình thản:
- Vui nhưng cẩn thận nhé!
Tôi để ý thấy trên ngấn mắt ông già hình như hoe đỏ. Không biết có phải do lửa hay ông vừa khóc. Bởi vì khi ông nói với chúng tôi mà vẫn chẳng giấu được nỗi buồn đang chế ngự. Bóng ông bước về chậm chạp nặng nề chứ không nhanh nhẹn và khoẻ mạnh như khi ông ném chiếc bàn bốc lửa ra ngoài sân. Không biết ông lấy sức mạnh ở đâu và vì sao ông buồn vậy? Trong lòng tôi biết bao xáo trộn vì nỗi buồn trên ánh mắt ấy. Tất cả vội vàng dọn dẹp cho gọn gàng. Thế là hết một buổi liên hoan vui vẻ vì mọi sự đã đổ vỡ. Cứ thế tôi lẳng lặng bước qua hàng cây sang bên vườn nhà ông già lúc nào không hay. Tôi tò mò bước tới gần bàn thờ nhỏ bên chái nhà. Ở trên bài vị của bát hương chỉ đính một ngôi sao và ở dưới có ghi dòng chữ: Nguyễn Văn Tốn. Bên cạnh bát hương là một cây sáo nhỏ được bày trên một đĩa đầy hoa hồng. Tôi đứng thừ người nhìn chăm chú vào ngôi sao. Trước mắt tôi ba nén hương đã cháy gần hết. Hương khói thơm ngát lan toả ngan ngát khắp vườn.
Định thần một lúc, tôi mới nhận ra bóng ông già ngồi ở góc bàn giữa nhà. Nhẹ nhàng bước qua bậc cửa, tôi cúi chào và cảm ơn ông vì sự vìệc vừa qua bên nhà Hằng. Ông ngước nhìn tôi chẳng nói gì, tôi hỏi:
- Thưa ông! Hình như hôm nay ông thắp hương để tưởng nhớ ai. Con hay cháu ông ạ?
Ông không nhìn tôi mà nói như với chính mình:
- Người đã hi sinh để cứu sống ông trong chiến dịch đó. Một chiến sĩ trẻ, đồng đội của ông.
Tôi im lặng một lúc nhìn về phía ngôi sao trên bàn thờ và hình dung ra một chiến trận khốc liệt đang xảy ra trước mắt. Rồi sau đó tôi ngồi xuống bên bàn và hỏi:
- Ông kể chuyện cho cháu nghe đi về người chiến sĩ trẻ ấy.
Lúc này, mấy đứa sinh viền cùng lớp cũng tò mò chạy sang ngồi bên cạnh tôi. Cái Hằng ngơ ngác một lúc rồi thầm thì:
- Ông sống ở đây một mình ạ?
Ông già chỉ tay lên bàn thờ nói:
- Không? Ông sống với đồng đội của mình. Anh là Nguyễn Văn Tốn đó. Khi nhận cái chết thay ông, anh ấy mới 20 tuổi.
Mấy đứa ngạc nhiên hỏi:
- Sao ạ? Sao lại chết thay ạ?
- Chuyện như thế nào? Ông kể cho chúng cháu nghe đi!
Lúc này tôi có cảm giác buồn và ân hận. Khi nhìn thấy ông già trông rất cô đơn đang ngồi trước mặt mình. Tôi nhẹ nhàng nói:
- Nếu là chuyện buồn mà ông không muốn kể thì thôi ạ. Chúng cháu chỉ sang thăm ông và cảm ơn ông.
Thật bất ngờ, đôi mắt ông bừng sáng và giọng nói của ông bỗng khoẻ và vang xa:
- Kể chứ! Đấy là chuyện của một người anh hùng, các cháu cần phải nghe để biết những chiến sĩ thầm lặng hi sinh cho đồng đội và cho đất nước như thế nào.
Mọi người líu ríu ngồi quanh ông như những đứa trẻ nhỏ hay hớp chuyện người lớn. Ông kể chậm rãi những kỉ niệm sâu sắc trong đời mình.
*
* *
…Ấy là vào một ngày bất ngờ, Ban chỉ huy Sư đoàn miền Tây đang bàn kế hoạch tác chiến thì bọn giặc Mỹ phục kích. Có lẽ bị thám báo phát hiện nên chúng mới căn chính xác và nhanh chóng đến thế. Đây là mũi tấn công đặc biệt của Sư đoàn do đại tá Quốc Dũng chỉ huy. Ngay khi bị phục kích, Ban chỉ huy Sư đoàn tản nhanh ra phía ngoài và chạy theo hướng Tây đúng như dự kiến khi xảy ra đột biến. Lúc này một đại đội đóng gần đó cũng được lệnh di tản ngay ra khỏi vị trí đóng quân. Không ngờ cùng một lúc gần một trăm chiến sĩ và trợ lí Nguyễn Văn Tốn luôn luôn đi sát bên đại tá Sư đoàn trưởng để lo mọi chuyện bất trắc xảy ra. Bất ngờ, Tốn nói với Sư đoàn trưởng:
- Báo cáo đề nghị Sư đoàn trưởng thay quần áo sĩ quan và mặc trang phục như những người lính bình thường đề phòng bất trắc xảy ra.
Sư đoàn trưởng Dũng nhìn người chiến sĩ trẻ rồi cười:
- Lo xa quá đấy! Quân ta đang trên đà tổng tiến công.
Đúng lúc ấy, tiếng nổ chát chúa đến gần kề. Vòng vây của kẻ địch đang khép kín. Trong tay những chiến sĩ không mấy ai còn đạn nên mọi vìệc chỉ còn trông vào sự may rủi bất ngờ. Vừa hay tiếng loa của kẻ địch vang lên:
- Sư đoàn trưởng Quốc Dũng hãy trình diện. Nếu không tất cả những người trong vòng vây sẽ bị chết vì bom đạn. Alô! Alô! Những người lính Bắc cộng hãy nghe đây...
Cứ thế tiếng loa chối tai và đầy đe doạ của kẻ địch vang lên. Quả như dự đoán của Tốn, trường hợp bất trắc đã đến, làm mọi người lúng túng chưa biết xử lí thế nào. Ai đó nói:
- Chúng ta quyết chiến đấu đến cùng bảo vệ thủ trưởng. Sống cùng sống! Chết cùng chết!
-Tất cả hãy im lặng. Rất có thể chúng chỉ đoán mò có thủ trưởng ở đây.
Thấy đơn vị của ta im lặng, bọn địch dao động lo sợ nên không dám tiến đến gần mà chỉ bắc loa để hù doạ. Lúc này, Tốn mới gọi mấy chiến sĩ trẻ đến bàn chuyện gì đó. Họ nhanh chóng dùng lưỡi lê và dụng cụ sẵn có để đào đất. Hình như ai đó cũng hiểu rằng trước mắt cần cứu thoát cho Sư đoàn trưởng Dũng thoát khỏi vòng vây. Bởi lẽ ông cần tiếp tục chỉ huy mũi tiến công quan trọng hướng Tây để làm bàn đạp từ vùng cao nguyên đổ xuống đồng bằng hỗ trợ những mũi tấn công khác của các binh đoàn giải phóng quân. Một lát sau chiếc hầm như đã được đào khoét vừa đủ một người ngồi khom ở dưới. Lúc này trợ lí Tốn giữ khư khư bộ quần áo sĩ quan. Anh đề nghị đại tá Dũng ngồi xuống và ngậm một ống sáo nhỏ của chính Tốn luôn luôn mang theo bên mình. Ngay lập tức các chiến sĩ vùi đất lên người Sư đoàn trưởng. Chỉ một loáng đại tá Dũng đã chìm dưới hầm. Chỉ một ống sáo nhỏ được nhô lên vùng vạt cỏ và những cành cây khô lấp phía trên để giúp đại tá Dũng thở được. Trên đầu đại tá Dũng là một lớp đất cỏ mềm thật khó nhận ra dấu vết.
Tiếng loa của kẻ địch càng rú rít:
- Chỉ còn năm phút nữa là hạn cuối cùng. Sư đoàn trưởng Dũng không đầu hàng thì toàn bộ số người bị vây hãm sẽ chết dưới làn bom đạn và pháo kích.
Chúng cứ ra rả kêu gọi đầu hàng. Chỉ một, phút sau có tiếng vang lên từ những người chiến sĩ giải phóng quân:
- Hãy ngừng bắn và giải toả vòng vây. Tôi là Dũng đây!
Mọi người thật bất ngờ khi thấy Tốn mặc bộ quần áo sĩ quan của đại tá Dũng. Trông anh thật cao lớn. Trên gương mặt hốc hác xanh xao vì được thoa nhựa xanh lét của vỏ cây trộn với đất làm Tốn trông già thêm tới chục tuổi nữa. Ai nấy đều hiểu ra mọi chuyện và thầm lặng đi bên anh. Và ai cũng hiểu rằng để bảo toàn tính mệnh của gần trăm chiến sĩ thoát chết thì phải cần có người hi sinh. Hơn nữa để giải thoát cho đại tá Dũng vìệc Tốn làm thật dũng cảm và bất ngờ. Mọi vìệc như đã định một cách nhanh chóng theo kế hoạch đột ngột của trợ lí Tốn. Ngay lập tức tất cả những người chiến sĩ đó bị bắt cùng với Tốn về nhà giam. Sau đó riêng Tốn bị biệt giam tại khám Chí Hoà...
*
* *
Giọng ông Dũng bỗng lạnh đi vì đuối hơi. Ông kể một mạch những chuyện vừa xảy ra. Tất cả im lặng chờ nghe ông kể tiếp. Ông nhìn chúng tôi một lát rồi bỗng ứa nước mắt nói:
- Sau khi được cứu thoát ông trở về Sư đoàn cùng đánh với các Sư đoàn khác cho ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Khi tìm tới nhà tù mới hay tin Tốn đã bị phát hiện và bị sát hại ngay sau đó.
Chúng tôi im lặng nhìn cây sáo trên tay ông cùng ngôi sao bằng thép sáng óng ánh. Những kỉ vật thiêng liêng còn lại của chiến sĩ Tốn. Bàn tay ông run rẩy vì xúc động. Hình như ở nơi ấy, tiếng sáo đang vì vút giao hoà trong thiên nhiên, bay bổng cùng ánh sao lấp lánh trên bầu trời. Bàn tay ông đang khóc với những kỉ niệm nặng tình nghĩa của người chiến sĩ trẻ. Và tối biết rằng, có lẽ từ đó ông Dũng chỉ dành phần đời còn lại của mình sống với những ký ức sâu sắc về cái sống và cái chết hết sức to lớn từ sự hi sinh của người đồng đội.
Tôi thấy tất cả các bạn ngồi quanh cùng đều hoe mắt. Nhất là cái Hằng đã nắm chặt bàn tay của ông Dũng và nghẹn ngào nói:
- Cháu xin lỗi ông!
Xin lỗi vì điều gì có lẽ chúng tôi cũng chưa lường hết được. Có thể vì sự vô tâm của tuổi trẻ với những kí ức lịch sử, hoặc cũng có thể vì sự bàng quan của chính chúng tôi với lớp người đi trước đã từng hi sinh để đem lại cuộc sống tươi đẹp cho chúng tôi ngày nay. Và có thể xin lỗi cả sự lạnh nhạt của lớp trẻ với sự cô đơn của những người già. Sự cô đơn vĩ đại của cuộc đời đã sản sinh ra những cuộc đời.../.
Khi người ta còn trẻ
Nguyễn Thị Ngọc Tú
Tôi đưa mắt nhìn đồng hồ. Bên ngoài, nắng đã nhạt và tắt dần. Các nhà đã lên đèn. Tại sao đến lúc này anh vẫn chưa về? Tôi điên lên nhìn mâm cơm nguội ngắt và các nhà hàng xóm bát đũa đã kêu lách cách báo hiệu một ngày đã qua.
Sao mày lấy chồng sớm thế? Lấy chồng sớm làm gì? Ngu ơi là ngu. Ăn chơi cho sướng đã. Ràng buộc lúc nào khổ lúc ấy. Những lời nói của bạn bè lâu nay tôi để ngoài tai, có khi còn vênh mặt lên: “Tại tao yêu anh ấy. Anh ấy cũng yêu tao. Tao thích cưới!”. Nói đến thế là tiêu. Các bạn tôi im re. Tôi thích thú vì đã thắng lợi. Tôi là người hiếu thắng. Tôi đã làm gì thì điều đó tuyệt đối đúng. Ừ, có lúc cũng phải khổ sở tí chút, như lúc này chẳng hạn. Ở đời phải có lúc sướng lúc khổ chứ.
Anh là một thanh niên đẹp trai, theo đuổi mục tiêu không hề biết mệt từ lúc tôi còn học phổ thông, nhẫn nại ít thấy, chịu đựng hết sảy. Anh đưa đón tôi chu đáo, ngoài ra ngày nghỉ anh đưa tôi đi chơi. Những con đường đẹp, những cây lạ. Tôi biết thế nào là hoa thơm, cỏ lạ. Anh giúp tôi sưu tầm ô mai các loại mà tôi thích ăn… Ngày đối với tôi cứ rối rít tít mù những thăm viếng hẹn hò. Tôi luôn chờ đợi thấp thỏm khi anh đến. Tôi cảm thấy đời tôi có thể thiếu nhiều thứ – trừ anh.
Rồi một hôm, anh đột ngột xuất hiện. Tôi chạy lao ra đón anh. Anh luống cuống đẩy ra trước mặt tôi một bà già đứng tuổi. Anh cười giơ tay cho tôi:
- Mẹ anh đấy, em làm quen với mẹ đi.
Lúc đó thế nào nhỉ? Người tôi nóng bừng lên nhưng hai tay lại sởn gai ốc như bị lạnh vậy. Tôi lí nhí chào “bác” rồi chạy vụt ra đằng sau bếp chúi mũi vào hai củ khoai lang và một con mực đã mốc xanh mẹ để dành làm thức ăn cho con mèo. Tôi nghĩ và quên bẵng những gì đã xảy ra ở trên nhà. Một lúc sau, con mực đã phồng rộp lên, thơm phức, không còn dấu hiệu nào của mốc xanh mốc đỏ nữa. Tôi đang xé con mực tước ra thành những mảnh nhỏ thì anh chạy lao từ trên nhà xuống bếp, ngồi thụp bên tôi, thở phào:
- Xong rồi!
- Xong cái gì? - Tôi ngơ ngác.
-Chuyện chúng mình xong rồi. Hai cụ đã “ô kê” nhau và sẽ đứng ra lo đám cưới cho chúng mình – Vừa nói anh vừa cầm con mực đã nướng xé nhỏ nhai tóp tép.
- Anh nói chuyện gì đấy? Cái gì, lúc nào cũng đùa. – Tôi nhăn nhó và lo lắng không hiểu những gì xảy ra ở trên nhà.
Anh vẫn tóp tép nhai và còn khen mực ngon nữa mới tức chứ. Rồi anh khề khà:
- Anh không ngờ hai cụ “ô kê” nhau nhanh đến thế! Lạ thật! Nhẽ ra hai cụ phải bàn bạc, trao đổi với nhau về mọi việc của đám cưới. Bao nhiêu là việc không bàn lại ngồi trao đổi với nhau về sở thích của các món ăn. Cả hai đều thích ăn rau khoai lang luộc, ăn cháo hến, cháo trai với rau dền. Thích thế cơ chứ. Em phải thưởng công cho anh đi.
Anh vừa nói vừa nhai và thế là hết sạch con mực của tôi. Còn tôi lúc ấy chẳng hiểu ra sao, phát hoảng lên. Tôi lao lên nhà, đứng sững nơi cửa.
Tiếng trong nhà vang lên. Giọng mẹ tôi xởi lởi:
- Vâng. Bác đã nói thế em xin chấp nhận. Bác ở xa mà đến thăm gia đình em như thế này thật là quý hoá. Bác cứ yên tâm để em bàn thêm với gia đình. Có thế nào thì đầu tuần sau em sang bên đó. Trước nhất là để thăm gia đình, sau là để xem còn gì cần bàn bạc ta dứt điểm luôn. Chẳng giấu gì bác, lâu nay cháu Đạt vẫn qua lại đây, tôi quý lắm, coi cháu như con em trong nhà. Bác cứ yên tâm hai nhà như một.
Tôi hốt hoảng chạy xuống bếp. Anh đã xơi hết hai củ khoai lang.
- Có chuyện gì thế anh Đạt? Thế này là thế nào?
- Cứ ngồi xuống đây đã!
Anh bình tĩnh chờ đợi tôi. Khi tôi đã ngồi yên ổn trước mặt anh, cách nhau cái bếp lửa nhỏ đang đỏ hồng nổ lốp bốp vì vụn mực và đất ở củ khoai lang rơi xuống. Anh nhìn tôi đăm đăm rồi hỏi nhỏ:
- Em có đồng ý làm vợ anh không?
Tôi sững sờ. Chưa bao giờ tôi nghĩ sẽ đến lúc có người lại hỏi tôi như vậy. Lại hỏi vào một hoàn cảnh chẳng nên thơ tí nào. Chẳng có ánh trăng làm chứng. Chẳng có dòng sông hay con đò lờ lững trôi, hay rặng liễu rủ, bãi cỏ non xanh như tôi thường tưởng tượng.Chung quanh tôi chỉ có chảo rán, các kiểu nồi xoong, xô đựng nước và cái bếp điện nhỏ cháy đỏ và hai củ khoai nướng mà anh đã ăn hết trong nháy mắt. Chừng hiểu tâm trạng của tôi, anh khẽ đặt tay lên mái tóc ngắn cũn của tôi:
- Anh đèo mẹ đến đây để đặt vấn đề cho anh đi lại nhà em, đồng thời xin mẹ cưới em về làm vợ. Em thấy thế nào?
Nghe anh nói, trong ngực tôi có một cục gì chẹn ngang làm tôi tức thở. Không trả lời, tôi vùng chạy ra sân, người run bắn lên và lặng lẽ khóc. Anh đưa khăn cho tôi lau nước mắt. Tôi tấm tức:
- Lấy anh xong em có được đi học, đi chơi không? Anh có đi với em không? Anh có đánh em như mấy ông hay đánh vợ ở gần nhà em không?
Anh cười rũ ra, không trả lời tôi. Chỉ cười và cười. Lúc ấy tôi khóc nên không nhìn thấy hai bà mẹ đang đứng ngay bên cạnh nhìn chúng tôi. Chợt tôi nghe một tiếng nói là lạ:
- Chao ôi, con bé đáng yêu quá. Nếu nó, thằng con trai của mẹ không chiều chuộng con, con ở với mẹ, lo gì?
Tôi giật mình, chùi vội nước mắt gượng cười nói với “mẹ anh ấy”. Chắc mồm tôi méo đi hay sao mà cả ba người đều cười ồ.
Tôi chuẩn bị lấy chồng là như thế đấy!
Ngày đón dâu, lúc mẹ anh (đằng trai) đến xin dâu. Theo đúng luật lệ bà mang một cái tráp trong có những lá trầu cắt têm cánh phượng, cau đã bổ và vỏ đã cắt miếng. Bà mẹ anh mời bà mẹ tôi ăn một miếng trầu rồi để tráp lên bàn ra về. Nhà gái nhận cơi trầu để mời khách và trả lại nhà trai vào hôm đón dâu. Đằng này lúc bà mẹ anh đi ra, nhìn thấy cái tráp để trên bàn, tưởng bà quên, tôi vội ôm tráp hối hả đuổi theo, mồm gọi to:
- Bác ơi, bác quên cái tráp!
Mẹ anh ấy và mẹ tôi lại được trận cười. Bà mẹ anh ấy vuốt tóc tôi nhỏ nhẹ:
- Phải để lại con ạ. Xin dâu không đem tráp về đâu.
Tôi ngớ mặt ra lủi thủi ôm tráp vào nhà.
Lòng chưa hết bàng hoàng, một lúc sau, khi một cô đến trang điểm cho tôi lại làm cho tôi thêm ngơ ngác. Thay mái tóc ngắn ngổ ngáo như con trai của tôi là những búp tóc dài xoăn tít của cái đầu tóc giả úp lên. Mắt tôi xanh thẫm. Hai hàng lông mi giả kè kè nặng trĩu luôn kéo sụp xuống làm tôi đâm buồn ngủ. Đôi môi tôi vốn dĩ màu hồng, giờ bôi cái gì làm nó thẫm lại, da mặt trắng phếch ra. Hai sống mũi được viền hai đường chỉ nâu sẫm. Nhìn vào gương tôi thấy một gương mặt quen quen. Một mặt đàn bà không già không trẻ, đanh đá như con ma đeo mặt nạ doạ trẻ con ngày rằm tháng tám. Rồi váy bốn tầng kết hoa lượt thượt, tay găng, chân tất. Cô bạn phù dâu đã từng học với tôi từ lớp 1 đến lớp 12, sau đó mỗi đứa vào một trường đại học. Hai đứa cùng nhìn nhau qua gương, cười đến chảy nước mắt. Thế là một vệt đen ngòm chảy dài bên cánh mũi. Càng cười. Thấy vậy bà hoá trang lên cơn thịnh nộ mắng cho một trận vì đã làm bà mất bao công sức. Đang cười bỗng nghe một tràng pháo nổ vang lên. Hai đứa chạy cuống lên nấp vào sau cánh cửa ban công. Chỉ được một lúc thôi, tôi và Quý, cô bạn phù dâu lại lôi nhau ra cửa nhìn sang phòng bên. Chao ôi là đông! Toàn người là người. Khói pháo mù mịt. Quý thì thầm:
- Chẳng thấy chú rể với phù rể đâu mày ạ.
- Tao làm sao biết được. – Tôi đáp.
Bỗng cớ tiếng nói phía sau:
- Ai đời cô dâu háo hức xem mặt chú rể, nó sang bây giờ tha hồ mà xem! – Bà bác tôi nói.
Hai đứa lại kéo nhau vào. Chú rể xuất hiện. Thật tức mình là tôi không được biết mặt anh ấy để hỏi xem anh ấy nghĩ gì. Chỉ nhìn thoáng anh cười, hai hàm răng trắng loá lên. Tôi cúi gầm mặt vì ngượng. Tôi luôn có cảm giác mình đeo mặt nạ, luống cuống giơ tay ra đón bó hoa hồng to tướng anh đưa cho tôi:
- Cầm hoa thế nào?
- Không biết! – Anh cũng thì thào.
Lúc mẹ dẫn chúng tôi đến trước bàn thờ làm lễ gia tiên, mẹ dặn dò tôi trước lúc về nhà chồng. Tôi bỗng thấy mình phải xa mẹ, xa ngôi nhà thân yêu suốt gần hai mươi năm tôi đã sống, xa tất cả... Nước mắt trào ra má. Anh thấy tôi khóc, sợ quá ghé tai tôi thì thầm:
- Khóc làm gì, sớm mai anh lại đèo em về ngay mà. Đây chỉ là luật buộc phải làm thôi. Không làm đúng các cụ chửi cho à?
Quay nhìn sang bên, mẹ tôi cũng đang sụt sịt, anh phải quay mặt đi vì buồn cười. Còn tôi, nước mắt vẫn chảy nhưng lại nhe răng ra cười.
*
* *
- Làm gì mà ngồi nghệt ra thế, em? – Anh dựng chiếc xe đạp bên cửa, vừa phủi ống quần bạc trắng nhìn tôi cười.
Tôi đưa mắt nhìn cái đồng hồ treo tường. Vừa vặn con chim ở đó thò cổ ra cái cửa sổ con con cất tiếng hót lên.
- Anh về muộn phải không. Anh cố làm cho gọn việc, mai đỡ. Chao, mỏi lưng quá, pha cho anh cốc nước chanh đi, khát cháy cổ đây này. – Vừa nói anh vừa vặn người, những đốt xương kêu răng rắc. Đến gần tôi, anh cúi xuống khuôn mặt lướt qua mái tóc tôi âm ấm. – Giận anh phải không, hả bé? Anh bận làm chứ có chơi bời gì đâu.
- Anh nói nhiều thế nhỉ. Chưa hỏi mà đã xưng. – Tôi nói vằn mắt lên nhìn anh như thôi miên.
- Sao hôm nay em lạ thế? Học ở đâu cái kiểu mắng chồng. Không làm lấy gì ăn tiêu. Xin mãi tiền bố mẹ được ư? – Anh nói và nghiêm mặt.
- Tôi nói thế, sai à? Tôi đợi anh về để nghe anh mắng à? Hết chịu được nữa rồi. – Tôi bỗng sụt sịt khóc. – Ngày hôm nay đẹp trời mà tôi phải ru rú ở nhà như thế này à?
- Em sao thế? Anh chẳng hiểu gì cả. – Anh ngơ ngác nhìn quanh như đang tìm kiếm cái gì làm tôi tức giận.
- Rồi anh sẽ hiểu! – Tôi vùng vằng đứng lên, ra gương chải lại tóc, đi nhanh ra cửa.
- Em đi đâu đấy? Sao thế nhỉ? Chẳng có gì mà cũng làm ầm lên. Nhẽ ra hôm nay anh và em rất vui. Anh làm xong việc. – Anh nói và chạy theo giữ tôi lại. Tôi vùng vẫy thoát ra khỏi vòng tay của anh.
- Tôi đi chơi đây. Ở nhà chờ anh như thế đủ lắm rồi.
Tôi dắt xe lao ra đường. Nhìn thoáng một gương mặt tái đi và tiếng anh gọi thoang thoảng đâu đó.
*
* *
Nắng tắt dần trên những ngọn cây. Trời mát. Gió lùa lá khô chạy quẩn trên đường xào xạc, xào xạc. Tôi đạp xe hối hả. Nỗi tức giận bừng bửng ra khỏi nhà giờ dịu hẳn đi.
- Ồ, An đấy à? Lại đây, An! – Có tiếng con gái gọi thảng thốt bên đường.
Tôi giật mình dừng lại. Bên đường là một câu lạc bộ mới mở dành cho thanh niên lui tới hoạt động và sinh hoạt văn nghệ. Ánh sáng trắng từ chùm đèn toả ra. Tiếng nhạc ồn ã. Từng tốp, từng nhóm đi vào câu lạc bộ với những bộ quần áo đủ màu sắc.
- An đi đâu thế? Vào đây đi. Tối thứ bảy nào bọn mình cũng ra đây sinh hoạt.
Tuyết, cô bạn ở gần nhà tôi giằng tay người yêu chạy lao tới tôi, nụ cười rạng rỡ. Những cái răng khấp khểnh thường ngày như bớt khấp khểnh và trắng hơn vì đôi môi tô đỏ chói. Hai hàng lông mi cong veo và cứng đờ làm hai mắt như sâu thẳm, long lanh. Cái váy Tuyết mặc màu trắng rất hợp với chiếc áo chẽn màu đen, hai tay bồng, ngực hở rộng pha thêm màu hồng bóng loáng. Trông Tuyết thật sang trọng và thật đẹp. Nhìn Tuyết lúc này chẳng ai nghi Tuyết sáng sáng đèo chiếc cặp lồng, bộ quần áo xanh bạc hối hả đạp xe đến nhà máy, chiều muộn từ nhà máy về với cặp lồng, vụn thuốc lá và giấy cuộn, dây chạy máy đứt quyện với mùi mồ hôi, mùi dầu máy và sau đó là chong đèn lên quấn thành những điếu thuốc lá đem cho hàng nước.
- Thôi, tao ăn mặc thế này không tiện đâu. – Tôi nói.
- Kệ. Em còn xinh hơn khối đứa. Để anh gửi xe cho. Em đi mua ba vé. – Người yêu của Tuyết nói. – Kiếm mấy cái kẹo cao su mà nhai cho thơm mồm!
Thoáng cái, Tuyết đã có ba vé và gói kẹo cao su đưa ra và khoác vai tôi đi vào.
Phòng rộng. Có mấy chiếc ghế kê đọc theo tường đã chật cứng người ngồi đứng. Những đôi mắt xanh, những đôi môi đỏ, những bộ quần áo lộng lẫy sang trọng đủ các kiểu. Họ nhìn tôi ánh mắt định giá và xem thường. Mốt áo dây hở nửa người đang thịnh hành. Họ nhìn Tuyết đầy vẻ quý mến, trọng vọng. Những thằng con trai vẻ hãnh diện với bạn gái. Tuyết ngẩng cao đầu, mồm nhẽo nhoẹt kẹo cao su.
Bên cạnh tôi bỗng vang lên một tiếng “bốp” nhỏ. Tôi nhìn sang. Một cô bé khoảng 14 - 15 tuổi mặc áo có hai dây đeo lên vai để hở cả vai và nửa ngực, quần thụng hoa văn, thổi một quả bóng bằng kẹo cao su to dính vào mũi. Nó bỗng nổ tung. Trên mặt cô bé lỗ chỗ những vết đen. Nó tít mắt cười. Vừa đó dàn nhạc sống góc phòng tấu lên một bản nhạc. Tôi nghe tiếng Tuyết gọi:
- Bi-bốp đấy, An ạ. Tao ra trước. Ai mời mày nhớ ra ngay nhé? – Tuyết nói nhanh và đi ra góc phòng, giơ tay lên nắm tay người yêu nhún nhảy tiến lùi rồi chui qua. m thanh dìu dặt. Ánh đèn mờ ảo và tiếng cười khúc khích.
Tôi bỗng thấy mình “lù lù” hiện ra ở góc phòng già nua, cổ quái. Xung quanh tôi không ai đứng yên. Ai cũng có đôi, nếu không nhảy thì ngồi thì thầm, rúc rích trong những góc tối. Một vài ánh mắt nhìn tôi vẻ thương hại. Tôi bỗng nhớ đến anh. Không hiểu giờ này anh làm gì. Chắc lại chúi mũi vào những quyển sách. Ôi, nếu như có anh ở đây. Tôi thấy mình thích hợp với anh hơn. Chúng ta sẽ lại sống vui vẻ đằm thắm như ngày đầu. Tôi nghĩ và vùng quay người chạy ra cửa. Tìm xe trong một góc tối, tôi lao nhanh về nhà./.
Con của rừng
Nguyễn Kiên
Khe Nước Đục thuộc Lũng Sỏi nhưng nhiều người Lũng Sỏi còn chưa nghe nói đến tên. Nó là vùng đất trũng nằm sâu trong chân núi, từ đó rỉ ra dòng nước đục, mùa mưa thì lênh láng còn mùa khô chỉ lõng bõng trên lớp mùn lưu niên. Rừng ở đây chỉ còn gỗ tạp xen giữa những vạt lau sậy và cỏ tranh che phủ những bãi lầy. Chú Gôi câm ở Khe Nước Đục, nương náu trong rừng, sống nhờ rừng. Ngoại hình của chú hơi dị thường: đầu to, chân tay ngắn, vẻ mặt ngờ nghệch. Không thể đoán biết chú còn trẻ hay đã già. Chú đi hái măng, đào củ, kiếm cây thuốc nam và đủ thứ linh tinh khác. Ngày phiên chợ chú ra khỏi rừng, cưỡi trên chiếc xe đạp không chuông không phanh, không chắn bùn chắn xích (người ta gọi là xe đạp cởi truồng), phía sau thồ hai sọt hàng kềnh càng, ra chợ bán. Gặp ai chú cũng cười cười, tiếng ú ớ phát ra từ trong cuống họng kèm theo cử chỉ và đôi mắt nhấp nháy. Nếu có chuyện gì nghiêm trọng cần bày tỏ hoặc thề thốt, chú mở to mắt, đấm đấm vào ngực trái, dằn giọng “ôi, ôi”, có nghĩa là chú xưng tên chú lên. Có nhiều chuyện được thêu dệt quanh cuộc sống một mình tách biệt của Gôi. Rằng Gôi là con của thần linh, ai làm gì nghĩ gì Gôi cũng biết, chỉ có điều chú không nói ra được (hay là không được nói ra) mà thôi. Cũng có lời đồn ngược, rằng Gôi là đứa con hoang, bị bỏ rơi trong rừng sống như muông thú và chim chóc, mà lại là con chim con thú tật nguyền.
Người trong vùng thường đứng ngoài xa ngó mông lung vào. Khe Nước Đục, chỉ những ai bị tình thế xô đẩy mới đâm đầu vào. Chẳng hạn như Ngưỡng, người từng được mệnh danh là “nhân vật đang lên” nhưng ông ta tự tóm tóc mình định lôi mình lên thật nhanh, thành sa cơ lỡ bước. Ngưỡng bị vỡ nợ, ông ta mang theo một khối đắng cay, trốn vào Khe Nước Đục. Cũng chẳng biết trốn vào đây thì giải quyết được gì nhưng ông ta cần một chỗ vắng lặng và ông ta cứ đi sâu mãi vào trong rừng. Rừng gỗ tạp, chỗ mau chỗ thưa với rất nhiều bụi rậm và gai góc. Ngưỡng như lạc vào cõi âm u, bị gai góc cào xé tơi bời, đầu óc ông ta bị tê dại dần đi. Rồi đột nhiên rừng mở ra một khoảng trống, cỏ mọc xanh um, bầu trời trên cao cũng mở ra, xanh như mê hoặc. Cứ tự nhiên Ngưỡng nhập vào cỏ, ông ta định băng qua vạt cỏ sang mé rừng bên kia. Nhưng cỏ lún dưới chân ông ta, càng lúc càng lún, nghe có tiếng nước ùng ục đùn lên, bắn vọt lên. Ngưỡng đã ra khá xa. Ông ta hoảng, định quay lùi nhưng vệt đường cũ không còn dấu vết. Cỏ bị quần nát vì bước chân quẩn quanh của Ngưỡng, dập dềnh chìm xuống dưới lớp bùn ngầu đục. Ông ta sa vào đúng cái hút của bãi lầy. Lớp bùn phía dưới đặc quánh và trơn trượt, bùn ngập ngang gối rồi ngang bắp đùi, khẽ cựa quậy là chìm sâu mà đứng yên cũng từ từ chìm. Tình cảnh của Ngưỡng thật bi đát, ông ta đến đây không phải để chết, vậy mà phải chết vô tăm tích giữa bãi lầy này sao? Ngưỡng tuyệt vọng kêu lên: “Cứu... cứu tôi sa lầy!” Tiếng kêu của Ngưỡng tan vào mênh mông, chỉ có đàn chim gì nhỏ xíu kiếm ăn trên bãi cỏ bay túa vào trong rừng.
Trời đã về chiều, trên những ngọn cây cao còn vệt nắng nhạt nhưng dưới thấp đã tối mờ. Chú Gôi câm đang buổi đi rừng, lưng đeo sọt, tay cầm con dao phát vừa đi vừa phát cành lá loà xoà hai bên lối mòn. Chú câm nên điếc (hoặc điếc nên câm), để bù lại chú giao tiếp với thế giới bằng đôi mắt tinh tường. Chú dừng bước, nhìn về phía bìa rừng thấy đàn chim như những đốm đen nhỏ xíu vụt qua trong nắng chếch ngọn cây, biết ngay là đường bay của chúng không bình thường. Chú có linh cảm đàn chim gửi tới chú lời kêu gọi, rằng nơi bãi lầy được che phủ bằng thảm cỏ mượt ngoài bìa rừng kia có ai đó, hoặc con chim, con thú nào đó, đang cần đến chú.
Chú Gôi câm đã cứu Ngưỡng thoát khỏi cái chết sa lầy bằng cách chú ném cho ông ta một cành cây làm cái đòn trượt để ông ta nhoai lên rồi dẫn dắt ông ta bò lên bờ. Ngưỡng bị tán loạn hồn vía, mãĩ một lúc sau mới hồi tỉnh, ông ta thở dốc và níu chặt lấy Gôi, vái Gôi lia lịa: “Chú đã cứu mạng tôi, ơn này tôi sẽ nhớ suốt đời!”. Gôi phát ra những tiếng ú ớ trong cuống họng. Ngưỡng biết là Gôi câm nhưng ông ta vẫn nói:
“Tôi không muốn chết. Chết vào đúng lúc tôi vỡ nợ, tức là tôi thất bại thì uổng quá, thiên hạ sẽ chê cười tôi. Tôi phải sống để làm lại, để đua tranh với đời, bây giờ thì cái ý chí tranh đua của tôi tăng gấp đôi. Nhờ chú cứu tôi, coi như cho tôi thêm một cuộc đời nữa. Chú tên gì, nói cho tôi biết để hàng ngày tôi nhớ đến chú, thầm gọi tên chú”.
Gôi nhìn thẳng vào Ngưỡng, đôi mắt chú sáng lấp lánh trên khuôn mặt ngơ ngơ, vẻ như chú hiểu và chẳng hiểu Ngưỡng nói gì. Nhưng khi Ngưỡng nhắc lại: “Chú tên gì?” thì chú hiểu, chú đặt tay lên ngực trái, dằn giọng phát ra âm thanh trang trọng: “Ôi! Ôi!”. Mãi về sau này nhờ có người mách bảo Ngưỡng mới biết tên chú là Gôi.
Thời gian trôi qua dường như không để lại dấu vết gì trên khuôn mặt chú Gôi câm. Chú vẫn ngơ ngơ, không trẻ cũng không già, thấp thoáng ẩn hiện trong Khe Nước Đục. Một phiên chợ Gôi đạp cái “xe đạp cởi truồng” thồ hàng ra chợ bán. Trên đường về gặp trời mưa chú phải trú lại ngang đường. Cơn mưa lai rai, vừa ngớt chốc lát lại đổ nước xuống ào ào. Tự nhiên Gôi cảm thấy sốt ruột, bụng dạ không yên. Chú có linh cảm tiếng mưa vừa ngăn cản lại vừa thúc giục chú phải mau về nhà. Gôi xông ra ngoài mưa đạp xe theo sự thúc giục mơ hồ đó... Nhà Gôi, đúng hơn là gian lều tuềnh toàng thêm một mái vẩy thành chái bếp, chênh vênh trên sườn dốc ở bìa rừng. Trời mới nhập nhoạng trong nhà đã tối thui. Hóa ra cái linh cảm về sự thúc giục trong lòng Gôi là đúng: Có người đang cần đến chú, người ấy đang ngồi co ro sau đống củi .Chú giơ cao ngọn đèn, ú ớ trong cuống họng. Người ấy đứng lên, gầy gò, đầu trọc, lúng túng trong bộ quần áo cũ nát và lấm lem. Chú vẫn ú ớ trong cuống họng còn người ấy nói: “Chú làm phúc cho tôi trú nhờ ở đây đêm nay. Chỉ đêm nay thôi... Chẳng giấu gì chú, tôi trốn tù...”. Gôi vẫn ngơ ngơ như sự bộc bạch thật thà của người tù trốn khiến ánh mắt săm soi xét nét của chú dần dịu lại. Trong bếp sẵn có nồi sắn luộc, Gôi đang đói mà người tù trốn chắc còn đói hơn, chú nhón khúc sắn luộc đưa cho ông ta và nhón một khúc khác cho mình. Người tù trốn không ăn ngay, ông ta nói: “Trại tù cách đây không xa, đã có lần tôi ở trong nhóm tù đi chặt gỗ thông thấy chú ở trong rừng: Chú tên là Gôi...”. Điều này thì Gôi hiểu ngay, chú gật gật đầu, một tay khẽ đấm đấm vào ngực trái của mình, cổ họng phát ra âm thanh trang trọng: “Ôi! Ôi!...” như là sự xác nhận. Người tù trốn vẫn nói lảm nhảm, với chính mình hơn là nói với Gôi: “Tôi là người tử tế, bởi mắc án oan nên phải đi tù. Tù lâu rồi. Mà vợ tôi lại không được thăm nom. Tôi thương cô ấy, nhớ cô ấy lắm. Tôi trốn tù chỉ cốt để vợ chồng trông thấy nhau một lần, rồi lại vào tù thôi. Chứ làm sao mà thoát ra, gỡ ra được!” Gôi vẫn ngơ ngơ, chỉ có điều chú biết rõ, qua cái nhìn câm của chú, là người ngồi trước mặt chú đang đói, chú giơ khúc sắn lên ú ớ ra hiệu: “Hãy ăn đi, ăn đi!”... Rồi chú ăn trước, người tù trốn cũng ăn ngon lành. Bên ngoài, trời lại mưa. Gôi theo thói quen chỉ khép cánh cửa liếp chứ không cài then nhưng người tù trốn được nằm chung giường với chú, ngủ một giấc thật say.
Ít hôm sau, chú Gôi câm bị bắt về đồn công an thị trấn. Hỏi cung chú thật khó, chú chỉ ú ớ trong cuống họng và ra hiệu tay nhưng cuối cùng biên bản cũng được lập. Chú nhận chú có cho một người lạ mặt ngủ nhờ qua một đêm mưa, người ấy trọc đầu, đúng thế, còn ngườí ấy có là tù hay không tù chú không rõ. Chỉ có điều chú biết rõ là người ấy đói, chú cho người ấy ăn. Sáng sớm hôm sau người ấy đi chú còn gói cho người ấy đùm sắn luộc... Chú khẽ đập tay lên ngực trái, phát ra từ cuống họng cái âm thanh nghiêm trang: “Ôi! Ồi…” và sẵn sàng kí vào biên bản chữ “Gôi” viết hoa to tướng. Hóa ra là chú Gôi câm biết viết tên chú, mặc dầu chú không biết chữ. Người ta đâm ngờ chú giả câm, chú ngoan cố còn giấu giếm điều gì về người tù trốn. Chú bị tam giam ở đồn công an và bị hỏi cung liên miên. Nhưng trước sau chú vẫn ngơ ngơ và chú chỉ biết lắc đầu, ra hiệu “không biết”. Vốn là đứa con của rừng nay bị trói buộc trong phòng tạm giam nhỏ như cái hộp bằng xi măng, Gôi kêu ú ớ liên tục. Rồi chú không kêu nữa, chỉ giương mắt nhìn. Cái nhìn đờ đẫn. Cái nhìn câm.
Gôi được thả ra vào một buổi chiếu. Chú gầy sọp, đôi mắt lờ đờ trên khuôn mặt ngơ ngơ ngơ gần như đần độn. Chú thất thểu đi dọc phố Núi, nắng xiên chênh chếch làm mắt chú loà đi, các cửa hàng cửa hiệu, người và xe... tất cả đều chập chờn. Rồi con phố lượn vòng. Gôi đi vào đoạn phố khuất nắng, chú dụi mắt và nhìn rõ ở phía trước một ngôi nhà lớn, cánh cửa mở rộng, có người đàn ông đang đứng chờ ai đó. Người đàn ông ăn mặc bảnh bao, bụng phệ, khuôn mặt đỏ mỡ màng nhưng dáng điệu và cử chỉ của ông ta nhắc Gôi nhớ đến kẻ vỡ nợ, bị sa lầy trong Khe Nước Đục. Gôi vẫn ngơ ngơ nhưng đôi mắt chú mở to, nhấp nháy cười, vẻ như mừng cho ông ta. Ông ta hơi sững người, đôi mắt nheo nheo cũng cười cười. A chú Gôi câm... Trộng thấy chú là tôi nhận ra ngay. Tôi là Ngưỡng, kẻ ngày nào được chú cứu thoát chết đây... Chợt một chiếc xe con bóng loáng lượn vào sát vỉa hè, đỗ lại, Ngưỡng chạy ra đón khách, nói với ông khách vài câu, dẫn khách vào tới cửa lại vội vã quay ra. Một chiếc xe con nữa còn bóng loáng hơn. Rồi những chiếc xe máy đủ kiểu... Ngưỡng tôi qua một phen bị vỡ nợ, mang theo một bài học nhớ đời xông vào cuộc đua tranh, bây giờ đã là người có quyền và có tiền, cả phố Núi này phải vì nể. Nhưng sự đời phức tạp lắm chú Gôi câm ơi. Trước bàn dân thiên hạ tôi không thể dây với người vừa bị pháp luật sờ đến, hình dong lại cổ quái, lại câm như chú được. Biết giải thích với thiên hạ ra sao? Ngưỡng tất bật đón khách, ông ta quay lưng về phía Gôi, cứ như không trông thấy Gôi hay đúng hơn là Gôi không có mặt trên đời.
Chú Gôi câm đi ngang qua ngôi nhà lớn, mặt chú vẫn ngơ ngơ, đôi mắt mở to của chú vẫn cười cười. Cái cười câm.
Và Gôi đi, hướng về phía bóng núi xanh mờ ở phía xa...
Khá lâu về sau có người đàn bà dắt theo đứa con nhỏ về Khe Nước Đục tìm chú Gôi câm. Người đàn bà ấy là vợ kẻ trốn tù năm nào, được Gôi cưu mang qua một đêm mưa gió. Vợ chồng gặp nhau được vài hôm, ông ta bị bắt lại và đã chết vì sốt rét ở trong tù. Bà vợ đem đứa con nhỏ, là kết quả của lần gặp lại ngắn ngủi giữa hai vợ chồng đến đây tìm Gôi theo lời dặn của chồng. Người trong vùng nói không biẽt chú Gôi câm đi đâu, hiện ở phương nào (cứ như là chú chợt hiện rồi chợt biến mất)? Cả căn nhà nhỏ của chú nơi bìa rừng cũng không còn dấu tích. Nhưng cũng không sao, bà đã đem con lên đây thì sẽ ở lại đây. Đứa con mang tên Gôi, thế là thoả nguyện của cả bà lẫn người chồng đã khuất. Bà nói với Gôi: “Con ơi, bố con là người tử tế bị mắc tiếng oan, con phải thành người tử tế không chỉ cho riêng con mà còn sống thay cho cả cuộc đời của bố con”.
Bà mẹ Gôi nay đã già. Gôi trưởng thành, năng nổ và xốc vác. Anh nhận khoán đất rừng, trở thành người chủ vườn rừng đầu tiên ở Khe Nước Đục./.
Ngày nghỉ cuối tuần
Khuất Quang Thuỵ
Tới tận hai giờ chiều hôm đó công việc tìm kiếm người đàn ông bị nạn khi nhảy xuống cứu mấy cô cậu học sinh Hà Nội bị lật thuyền trên hồ Thuỷ Văn vào lúc chín giờ sáng vẫn chưa có kết quả gì. Hai cánh thợ lặn do nhà khách Thuỷ Văn mời tận ngoài Trung Hà vào làm việc cật lực từ mười giờ sáng tới giờ. Công an huyện đã lập biên bản, nhưng chưa có tử thi để khám nghiệm nên ăn trưa xong họ lại lên xe về. Chỉ nói rằng khi nào thấy xác người bị nạn thì gọi điện thoại ra, họ sẽ lập tức đánh xít-đờ-ca vào khám nghiệm rồi làm thủ tục cho mà chôn cất. Đám học trò Hà Nội được lệnh không được phép rời nhà nghỉ cho đến khi mọi việc xong xuôi. Ba cô con gái từ lúc thoát chết đến giờ chỉ ngồi dúm vào nhau trên góc giường mà khóc ròng, ba thằng con trai cũng có bớt nghênh ngang hơn so với chiều hôm trước khi chúng rầm rập lao ba cái xe phân khối lớn, đen trùi trũi, bóp còi inh ỏi trước khu nhà nghỉ. Bây giờ ba chàng đang rón rén xuống phòng lễ tân gọi điện thoại về Hà Nội. Chúng nói chuyện huyên thuyên hàng giờ liền, hết số máy này sang số máy khác. Sau khi đã móc túi trả cho cô trực điện thoại gần trăm ngàn đồng, còn nói: “Mang tiếng là khu du lịch mà vẫn chưa phủ sóng. Quá buồn! Thời đại thông tin toàn cầu mà thế này thì lạc hậu hết chỗ lói!”.
Không thấy đứa nào mở miệng hỏi xem người ta đã tìm thấy xác cái người đàn ông đã cứu mạng chúng nó hay chưa?
Ông Thời, giám đốc nhà khách, như ngồi trên đống lửa. Khu nhà nghỉ đi kèm với dịch vụ du lịch sinh thái của ông mới được nhen nhóm lại, nay có nguy cơ phá sản chứ chẳng chơi. Chết người, chứ đâu phải chuyện đùa. Mà cái lão khỉ gió này chui xuống âm ti luôn chắc? Chết rồi thì cũng phải nổi lên cho người ta còn nói chuyện với người sống nhà ông chứ. Tôi biết nói với vợ con ông thế nào đây?
Tuy chưa tìm được xác, nhưng nhờ chiếc xe đạp và mấy thứ đồ đi rừng người ấy vứt lại trên con đường nhỏ ven hồ trước khi nhảy xuống cứu người nên những người làm việc ở khu nhà nghỉ Thuỷ Văn đã xác định được nạn nhân chính là ông Lương Đình Nghệ, người ở ngoài xóm Bóng, cách khu hồ chừng ba cây số. Ông là người nhận khoán chăm sóc và bảo vệ gần hai chục héc ta rừng kéo liền một dải từ mé Tây khu hồ cho tới chân Núi Chúa. Ngày nào ông chủ rừng ấy cũng lóc cóc chiếc xe cổ lỗ hiệu Phượng Hoàng hai dóng sắt của Trung Quốc đi qua khu nhà nghỉ Thuỷ Văn để vào thăm rừng. Mấy cô nấu ăn khu nhà nghỉ nói rằng sáng nay, các cô ấy còn dặn ông ta chiều về kiếm cho một yến măng tươi vì hôm nay là ngày cuối tuần, nhà nghỉ có thể đông khách. Có lẽ khi ông đạp xe tới con đường mòn bên kia hồ thì nghe trên hồ có tiếng kêu cứu nên quẳng chiếc xe ở đó mà nhảy xuống hồ cứu người bị nạn. Anh Cảnh, làm kế toán trong nhà nghỉ nghe mọi người nói vậy liền cười, bảo:
- Lão Nghệ bị điếc lòi ra, nghe làm sao được?
Một cô nhả bếp béo ục ịch liền bĩu môi:
- Có nhà anh điếc thì có. Ông ấy có đeo máy, cái gì chả nghe thấy. Hôm nọ con Lài nói vụng ông ấy rằng người gì mà tai điếc nhưng mắt thì cứ như mắt chim ưng ấy. Chả đứa trẻ con nào vào rừng của ông ấy đào trộm măng luồng mà thoát cả. Ai ngờ ông ấy nghe được hết, liền bảo, riêng cô Lài nếu thích thì tôi sẽ đưa vào rừng chơi hẳn một ngày, rồi ưng củ nào, tôi đào cho củ nấy!
Ông giám đốc nhà nghỉ bực mình gắt:
- Thôi đi... Giờ là lúc nào rồi mà còn đùa được? Nếu không nhanh chóng mà tìm thấy người ta thì tôi và các cô đến vào rừng đào củ nâu mà ăn ấy chứ chẳng chơi đâu? Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi, không được cho khách tự tiện lấy thuyền bơi ra hồ. Thế mà...
Anh kế toán thở dài:
- Thì ai có ngờ bọn lỏi con ấy lại liều đến thế. Mới sáng sớm chúng nó đã đòi đi thuyền thăm cảnh hồ, tôi đã nói rõ ràng rằng phải đợi đến mười giờ, sương tan thì mới đi được. Nhà nghỉ sẽ có người chèo thuyền đưa các cô các cậu đi. Thế mà vừa xểnh mắt một cái, chúng nó đã lấy trộm thuyền bơi đi rồi.
- Anh nhìn thấy, sao không kéo cổ chúng nó lại?
- Kéo làm sao được. Khi phát hiện ra thì chúng nó đã bơi được vài sải nước rồi. Tôi hét lên bảo: “Này lũ ôn con kia, đưa thuyền vào bờ ngay kẻo thuồng luồng ba ba nó lôi cổ chúng mày xuống hồ bây giờ!”. Chúng nó ré lên cười, vẫy tay kêu: “Bai, bai... anh dề nhé!”. Rồi còn nói: “Ông bác cứ vô tư đi. Bọn này có họ hàng với thuỷ quái ở Hồ Tây đấy!”. Bác bảo, tôi còn biết làm thế nào?
Ông giám đốc không biết nói gì, liền khoát tay ra lệnh:
- Chiều nay, anh ra thị trấn mua cho tôi chục sợi dây xích. Phải khoá mấy cái thuyền lại!
Mọi việc đang rối như canh hẹ thì lại thấy cậu Khanh chánh văn phòng uỷ ban phóng xe máy tới. Vừa dừng xe trước sân, mồm miệng anh ta đã như tép nhảy:
- Xin kính chào bác giám đốc. Kính chào các cô em xinh đẹp. Hôm nay nhà nghỉ vắng khách quá hay sao mà từ xếp đến nhân viên đều ra xếp hàng hóng gió ở bờ hồ thế này?
- Không dám... Chào ông chánh văn phòng! – Ông Thời khẽ cúi mình, nhưng mặt vẫn khó đăm đăm.
- Sao mà ông anh khách khí thế. Thằng em mang tiền mang bạc tới cho ông anh đây mà sao ông anh lại có vẻ không nhiệt mấy thế nhỉ?
- Tiền bạc cũng chả giải quyết được việc gì!
Ông Thời vừa ngóng ra mặt hồ vừa thủng thẳng đáp.
- Sao lại thế? Đồng tiền là tiên là phật cơ mà. Khu nhà nghỉ này tuy vẫn do ngành quản lí, nhưng đã khoán đứt cho ông anh rồi. Phải có tiền thì ông anh mới son phấn nâng cấp nó lên được chứ. Thằng em nói thật, khu nhà nghỉ của ông anh mới chỉ có được một thứ, đó chính là cái hồ này. Thiên nhiên thì quá đẹp rồi. Nhưng thử nhìn lại xem, nhà cửa phòng ốc chưa đâu vào đâu, các loại dịch vụ của ông anh vẫn còn nhà quê lắm. Cần phải mô-đi-phê nó lên. Nhất là khâu phục vụ. – Anh ta ghé vào tận tai ông giám đốc nói nhỏ. – Mấy cô nhà bếp, nhà bàn, nhà buồng này ông anh phải cho thanh lí bằng hết. Nếu cần, thằng em sẽ giúp ông anh tuyển chọn một ê-kíp thật ngoạn mục. Chịu chơi. Như thế mới thu hút được khách chứ.
Ông Thời khẽ nhếch mép cười:
- Chú muốn tôi thu nạp đám ca-ve trong mấy cái nhà hàng ka-ra-ô-kê ở bên cạnh nhà khách uỷ ban của chú ấy chứ gì?
- Thì bét ra cũng phải được như cái đám ấy. Nhưng tôi có nguồn tuyển cho bác những em chất hơn nhiều.
Ông Thời bỗng bật cười thành tiếng:
- Thì ra chú Khanh hồi này kiêm cả nghề tiếp thị nữa kia đấy. Cảm ơn, tôi chưa đổi mới đến cái mức ấy
Anh chánh văn phòng ngớ người ra chẳng hiểu vì sao hôm nay ông Thời lại khó tính đến thế? Thấy ông vừa chủng chẳng nói chuyện với mình vừa nhớn nhác nhìn ra mặt hồ, anh ta vội phóng mắt nhìn theo và thấy mấy chiếc thuyền đang bồng bềnh trôi, rồi dăm bảy người hết trồi lên lại ngụp xuống. Tò mò, anh ta sán lại hỏi:
- Có trò gì ở ngoài đó mà ông anh như bị hút hồn thế?
- Trò khỉ! – Ông Thời bực mình gắt. – Nếu không có việc gì thì xin anh biến đi cho tôi nhờ. Đang lộn cả ruột lên đây.
Anh chánh văn phòng tái mặt. Chưa có ai dám chơi sỗ với anh ta như thế. Đã vậy thì cho cha con ông ta đói nhăn răng ra. Nghĩ vậy, anh ta vùng vằng nhảy lên xe định phóng đi. Nhưng chợt nhớ ra nhiệm vụ xếp lớn đã giao, anh ta đành chịu lún, nuốt ực cục tức vào bụng rồi tiến lại, nói với ông giám đốc:
- Này, hôm nay tôi nể mặt ông đấy nhé. Có việc cho ông đây. Chiều nay uỷ ban có một cuộc tiếp khách tại đây. Khách sộp từ trung ương lên làm dự án đầu tư phát triển hẳn hoi đấy. Ăn như mọi khi là được rồi. Có thêm món đặc sản nào nữa thì tốt. Phòng ốc, tôi cần mười hai phòng loại xịn nhất mà ông có. Từ bếp trở xuống thì quân của ông đảm nhiệm. Từ bàn đến buồng tôi sẽ mang người vào. An ninh ông khỏi lo, tôi đã canh hết các cửa rồi. Thanh toán thế nào, tôi với ông sẽ bàn sau. Được chưa? Một món hời trông thấy đấy bố già ạ!
Ông Thời thản nhiên lắc đầu:
- Tối nay thì không được!
- Sao lại không? - Anh chánh văn phòng ngạc nhiên hỏi.
- Hôm nay... tôi có khách.
- Khách nào? Khách nào cũng không quan trọng bằng đám khách này. Bằng tiền cả đấy, bố ạ!
- Tiền cũng chẳng giải quyết được gì.
- Sao lại không giải quyết được? Nếu đã có đám nào đặt phòng rồi thì ông cứ đuổi đi. Tôi sẽ đền bù. Coi như tôi mua lại hết, có được không?
Ông giám đốc đột ngột quay lại nhìn chằm chằm vào mặt anh ta và hét lên:
- Mạng người đấy. Ông có mua được không? – Rồi ông chỉ ra mặt hồ – Có người chết ở dưới hồ kia kìa. Tôi đang thuê người vớt. Khách của tôi đêm nay đấy. Các ông có muốn ăn chơi nhậu nhẹt bên cạnh người chết thì xin mời vào. Tôi xin hết lòng phục vụ các quý ông.
*
* *
Tuy đã từ chối quyết liệt một đám khách sộp, nhưng rốt cuộc, đến chiều tối thì nhà khách Thuỷ Văn vẫn đông nghẹt những người. Mà lại toàn là những vị khách mà ông Thời không thể từ chối được: Không biết mấy cậu công tử Hà Nội điện thoại về kể lể những gì mà chỉ hai tiếng sau lần lượt hơn chục chiếc xe du lịch sang trọng lao tới khu nhà nghỉ ven hồ. Những ông bố, bà mẹ, ông chú, bà bác, ông cậu bà cô, những chú văn phòng, những cô thư kí... ăn mặc sang trọng, hớt hơ hớt hải mở cửa xe rồi lao thẳng vào tiền sảnh ngôi nhà ba tầng của khu nhà nghỉ Thuỷ Văn. Câu đầu tiên của họ đều rất hách dịch:
- Ai là giám đốc nhà nghỉ này?
Tuy đang rất sốt ruột và bực mình nhưng ông Thời quả không hổ danh là một vị giám đốc nhà nghỉ của hai thời đại (thời đại bao cấp và thời đại cơ chế thị trường) như anh chị em trong nhà nghỉ Thuỷ Văn thường nói đùa một cách thân ái. Ông đứng ở trước quầy lễ tân khiêm nhường cúi chào tất cả mọi người và nhã nhặn trả lời:
-Dạ... thưa quý ông (hoặc quý bà, quý cô, quý anh)... Tôi chính là giám đốc nhà nghỉ Thuỷ Văn này ạ!
Rồi sau đó ông lần lượt kiên nhẫn trả lời những câu hỏi của các vị khách để “làm sáng tỏ vụ việc”... vốn chẳng có gì phức tạp cho lắm. Các vị phụ huynh hoặc á phụ huynh, chỉ thực sự thở phào khi biết con trai, hoặc con gái của họ bình yên vô sự và các vị có thể đón các quí cô, quý cậu về bất cứ lúc nào nếu như nhà chức trách địa phương cho phép!
Một ông to béo, bệ vệ sừng sộ hỏi:
- Vậy họ còn giữ con cái chúng tôi để làm gì?
Ông Thời nhỏ nhẹ trả lời:
- Dạ... là vì họ muốn biết vì sao mà có một người phải chết để bảo toàn tính mạng cho các quý cô, quý cậu nhà ta ạ.
-Thế thì... tại sao?
Sau hàng loạt câu chất vấn như vậy thì bao giờ cũng đến cái đoạn ông giám đốc phải chân thành nhận lỗi là vì vô trách nhiệm trong việc quản lí mấy chiếc thuyền khiến các quý cô, quý cậu trẻ người non dạ mới tự tiện lôi ra hồ chơi và gây ra tai họa.
Trong khi các bậc phụ huynh đang tiến hành những cuộc phỏng vấn nghiêm khắc ấy thì từ trên lầu các cô các cậu rầm rầm chạy xuống để gặp người nhà.
Các bậc phụ huynh hoặc á phụ huynh vui mừng reo lên gọi tên con cháu mình bằng cái giọng vô cùng âu yếm thiết tha. Chẳng gì thì chúng cũng vừa từ cõi chết trở về. Dĩ nhiên có cả những giọt nước mắt mừng vui đi kèm với vài câu trách mắng nhẹ nhàng chiếu lệ như kiểu cần phải có thêm một tí ớt vào bát nước chấm vậy.
Trong số những cặp trùng phùng chỉ có một cặp mẹ con là tỏ ra từ tốn, khác thường hơn cả. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi nhưng trông vẫn còn rất xinh đẹp, mặc bộ đầm màu đen, nước da trắng, đôi mắt ướt rượt với đôi hàng mi rậm, cong vút như hàng lông mi giả của một cô đào cải lương. Chị nói năng nhỏ nhẹ, trầm tĩnh chứ không xô bồ chao chát như những người khác. Cuộc “phỏng vấn” của chị chỉ vẻn vẹn có một câu rất từ tốn “Dạ thưa ông, các cháu an toàn cả chứ ạ?”. Khi được trả lời rằng không cô cậu nào hề hấn gì thì chị nghẹn ngào nói: “Cảm ơn” rồi lùi ra, len lén lau nước mắt. Con gái chị là cô bé xinh đẹp nhất trong số ba cô, đặc biệt hơn cả là cô có một mái tóc rất dài và mượt. Khi cô gục vào vai mẹ mà khóc thì bà mẹ nhẹ nhàng kéo cô lại vừa lặng lẽ tết lại mái tóc cho cô thành hai cái đuôi sam dày và mượt vừa an ủi cô:
- Nín đi con. Không sao rồi mà. Bận sau nếu con đi chơi xa thì phải bảo với mẹ một tiếng nhé!
- Nhưng... con đã xin phép bố rồi.
- Bố con thì…
Chị chỉ nói vậy rồi lại cúi xuống vuốt ve hai cái bím tóc của con gái.
- Thương à... Nếu con thấy để tóc dài bất tiện thì lần này về nhà, mẹ sẽ cho con cắt đi rồi làm tóc theo kiểu nào mà còn thích.
- Không – Cô bé bỗng ngẩng lên nhìn mẹ – Con sẽ mãi mãi để tóc dài, mẹ ạ. Hôm nay, nếu không có mái tóc dài này thì có lẽ... con đã chết rồi!
Cô bỗng rùng mình nhớ lại cái giây phút khủng khiếp ấy, khi cô đã uống khá nhiều nước và dường như đang chìm dần xuống đáy hồ đầy rong đuôi chó. Bỗng một bóng người đàn ông lao theo cô, một tay người ấy cắp cô bạn gái của cô đã bất tỉnh, một tay ông vươn tới túm lấy mái tóc cô và cứ thế kéo cô lên khỏi mặt hồ rồi đẩy cô vào bờ. Không ai biết vì sao ông ta lại có thể chết đuối sau khi đã đưa được ba cô gái hoàn toàn không biết bơi và hai thằng bạn trai mới chỉ biết bì bạch vùng vẫy được đôi chút trong những cái bể bơi ở Hà Nội, lên bờ. Trong số ba đứa con trai thì chỉ có đúng thằng bạn trai đang theo đuổi cô là bơi giỏi, nhưng trong tình huống bất ngờ như thế, hắn cũng chỉ lo tự cứu lấy bản thân mình mà thôi. Từ sáng đến giờ hắn vẫn luôn miệng nói rằng chính hắn đã bơi được vào bờ chứ không phải chịu ơn ai hết. Thương đã bực mình nói thẳng vào mặt hắn rằng cô không ngờ, hôm nay cô còn được sống để hiểu ra rằng cậu là một kẻ ích kỉ, hèn nhát! Nghe Thương nói vậy, hắn nhệch mồm ra cười “Lúc ấy ai còn kịp nghĩ đến ích kỉ hay không ích kỉ, người ta chỉ còn biết hành động theo bản năng ham sống của con người thôi” Rồi hắn còn đai thêm: “Này đằng ấy đừng có trách tớ nhé. Cả hội kéo nhau lên cái xó rừng này là do sáng kiến của đằng ấy đây chứ. Quê hương là chùm khế ngọt! Tí nữa làm mồi cho cá mà lại còn tinh tướng!”.
Thì ra thế. Cô gái trẻ đã hiểu ra đưực nhiều điều nhờ có phen chết hụt này. Người mẹ có lẽ cũng vậy. Chị vẫn ngồi trên chiếc ghế đá ở tiền sảnh vòng tay ôm lấy đôi vai nhỏ của cô con gái, đôi mắt chị đăm đăm nhìn ra mặt hồ. Lúc này mặt trời đang khuất dần xuống dãy núi phía Tây, ánh hồi quang của nó chiếu xuống khiến mặt hồ thoáng chốc như chuyển thành màu đỏ hồng. Một con thuyền hối hả bơi ngược từ phía luồng ánh sáng ấy vào bờ rồi một người thợ lặn ướt rượt, bước lên. Ông Giám đốc hối hả chạy tới hỏi:
- Vẫn chưa thấy hả?
Người thợ lặn lắc đầu:
- Dưới lòng hồ tối lắm rồi. Anh em thợ lặn cũng đã mệt và lạnh nữa. Có lẽ phải để đến mai thôi.
Vẻ thất vọng hiện rõ trên gương mặt hốc hác của ông giám đốc. Người thợ lặn như chợt nhớ ra điều gì, vội chạy lại thuyền lấy ra một vật nhỏ đưa cho ông giám đốc.
- Nhưng chúng tôi đã tìm thấy cái này!
Đó chính là cái máy trợ thính của anh Nghệ. Ông giám đốc nhìn đăm đăm vào cái máy điếc rồi nói:
- Chính xác là anh ấy rồi. Có lẽ, tôi phải vào báo tin cho vợ con anh ấy thôi.
Quay vào phòng chờ, ông giám đốc nói to lên với các vị khách:
- Thưa các ông các bà. Theo yêu cầu của công an địa phương, các cháu chưa được phép rời nhà khách khi chưa tìm thấy xác nạn nhân để hoàn tất biên bản hiện trường vụ tai nạn. Nếu vị nào muốn lưu lại đây với các cháu thì chúng tôi xin vui lòng phục vụ. Xin đảm bảo rằng các ông các bà sẽ có ngày nghỉ cuối tuần vui vẻ, thoải mái.
Câu sau cùng có lẽ ông giám đốc nói theo thói quen nghề nghiệp nên đã khiến các vị khách ồ lên cười. Họ bất đắc dĩ phải lên đây, chứ đâu có ý định đi nghỉ cuối tuần. Nhưng xem ra phải nghỉ lại đây thật rồi. Trong khi các vị khách ồn ào kéo tới quầy lễ tân đăng kí phòng thì ông giám đốc vẫy tay, gọi anh kế toán trưởng tới bảo:
-Cậu lấy xe máy đưa tớ vào xóm Bóng. Đành phải báo tin cho gia đình anh ấy thôi.
Ngườỉ đàn bà vội buông mái tóc dài của cô con gái ra rồi đứng dậy nói với ông giám đốc:
- Tôi có ô tô ở ngoài kia, nếu ông cần đi đâu tôi sẽ bảo lái xe đưa ông đi.
Ông giám đốc quay lại nhìn chị thoáng vẻ ngạc nhiên rồi khẽ cúi đầu từ tốn đáp:
- Cảm ơn bà. Có lẽ chúng tôi đi xe máy thì tiện hơn. Đường vào nhà ông ấy cũng không thuận tiện lắm.
Cô con gái cũng đứng dậy nói với mẹ:
- Nếu mẹ bận thì cứ về Hà Nội đi. Con không sao đâu. Mai con sẽ về thôi mà.
- Không, mẹ sẽ ở lại đây với con. – Chị lại ôm lấy vai con rồi nói tiếp – Mẹ cũng muốn được nhìn thấy người đã cứu con gái cưng của mẹ chứ. Vả lại, thật là không phải khi chưa nói được câu nào để cảm ơn và an ủi thân nhân của người đàn ông dũng cảm ấy.
Cô lễ tân nhà khách tiến lại khẽ cúi đầu rồi lễ phép nói với chị:
-Dạ thưa bà... Chúng tôi chỉ còn một phòng nhỏ trên tầng ba nhưng không được tiện nghi lắm, trong trường hợp bà muốn ngủ riêng thì…
Chị mỉm cười xua tay:
- Không sao đâu. Tôi sẽ ngủ chung với con gái tôi. Vả lại, đêm nay chắc gì mẹ con tôi đã ngủ được.
*
* *
Dùng bữa tối xong, đa số các vị khách dắt nhau đi dạo trên con đường nhỏ ven hồ. Hôm nay lại đúng vào ngày trăng tròn, mặt hồ mù sương mờ ảo trong ánh trăng. Dãy Núi Chúa hiện lên đen thẫm ở phía xa như một hòn đảo trôi bồng bềnh giữa biển sương mù nối liền từ mặt hồ qua những cánh rừng. Những đàn chim kêu thảng thốt khi bay qua cái vùng sương khói ấy. Không gian thật tĩnh mịch, thê lương.
Mẹ con người đàn bà không đi dạo mà kéo ghế ra ban công nhà khách ngồi ngắm mặt hồ và tỉ tê trò chuyện.
- Sao bố không đi cùng với mẹ? Bố không lo cho con sao?
- Bố bận, con ạ. Nhưng bố đã bảo chú Vân đánh xe tới đưa mẹ đi ngay khi nhận được điện thoại của cậu Dũng. Vì trong điện thoại bố con nói chẳng rõ ràng gì cả nên mẹ lo muốn chết. Nếu con có mệnh hệ nào thì mẹ biết sống làm sao?
- Nhưng... con có sao đâu. – Rồi cô bỗng bật cười khanh khách – Cũng may là con đỗ đại học rồi đấy nhé. Nếu không, có chết thì khéo có người lại bảo nhảy xuống hồ tự tử vì thi trượt.
- Bố cô chứ, ăn với chả nói. – Người mẹ mắng yêu cô con gái – Năm nay mà cô còn trượt nữa thì tôi sẽ cho cô đi lấy chồng ngay cho rảnh nợ.
Im lặng một lúc lâu rồi cô gái lại lên tiếng nói:
- Mẹ ơi, hồi trẻ mẹ đã vào cái hồ này chơi lần nào chưa?
- Mới chỉ có một lần thôi. Từ thị xã vào đây cũng xa lắm. Hồi đó còn chưa có đường nhựa. Mẹ với các bạn trong lớp phải đạp xe mất cả buổi mới vào tới đây. Ngày ấy khu nhà nghỉ công đoàn này còn chưa xây xong. Xung quanh chỉ toàn rừng là rừng. Bọn mẹ cắm trại ở trên cái đồi thông trước lối vào nhà nghỉ bây giờ ấy. Vui lắm. Bạn bè hẹn nhau khi nào họ xây dựng xong khu nghỉ mát này thì nhất định phải kéo nhau vào đây ngủ một đêm xem sao. Thế mà thoắt cái đã hơn hai mươi năm rồi, không biết trong số bạn bè cùng lớp của mẹ đã có ai thực hiện được ước mơ ngày ấy hay chưa? Riêng mẹ thì... thật không ngờ lại được trở lại đây trong hoàn cảnh oái oăm như thế này.
- Thì... mẹ coi như một kì đi nghỉ cuối tuần đi. Chỉ có điều là đi riêng với con thôi chứ không phải đi với bố.
- Bố con thì... sẽ chẳng bao giờ chọn một nơi như thế này.
Hai mẹ con đang rúc rích trò chuyện bỗng im bặt khi nghe thấy từ dưới mặt hồ bỗng dội lên những tiếng gào khóc thảm thiết. Từ trên ban công hai mẹ con nhìn thấy một dòng đèn đuốc sáng trưng đi vào sân trước của khu nhà nghỉ. Có lẽ họ là thân nhân của người đàn ông gặp nạn. Tiếng gào khóc của đàn bà, trẻ con đã xé toang không gian tĩnh mịch huyền bí, khiến cho cả khói sương cứng vật vã vần vụ trên mặt hồ. Động lòng trắc ẩn, người đàn bà đứng dậy, nghẹn ngào nói với con:
- Ta xuống đó với họ đi!
Hai mẹ con vào phòng khoác thêm áo rồi xuống nhà. Tại phòng chờ đám đàn ông kia đã kịp quây một chiếu bạc và đang say sưa trong cơn đen đỏ. Mấy cô phục vụ đứng tựa cửa nhìn ra khóc thút thít.
Thấy hai mẹ con xuống, Dũng - anh bạn trai ham sống của Thương vội ngăn lại:
- Đừng ra đó. Người nhà của họ nổi điên lên thì phiền đấy!
Thương còn đang do dự thì mẹ cô đã cầm tay cô kéo đi. Chỉ một lát sau họ đã hoà vào đám đông dân làng và thân nhân của người bị nạn đang tụ tập ở khoảng sân trước nhà nghỉ. Ông giám đốc nhà khách đang giúp họ lập một bàn thờ hướng ra mặt hồ. Một ông già đang ra sức khuyên giải vợ con của người vừa thiệt mạng:
- Thôi đi nào, cô và các cháu hãy nén tâm lại để còn làm lễ gọi chú ấy về. Lại còn phải cầu xin thuỷ thần, thổ địa thì may ra sáng ngày mai các ngài mới cho tìm thấy chú ấy chứ.
Người đàn bà, đang nằm gào khóc trên mặt đất dường như đã cố hết sức để gượng dậy nhưng rồi chị lại rũ xuống hộc lên những tiếng kêu xé ruột.
- Ơi anh Nghệ ơi là anh Nghệ ơi...! Anh bỏ vợ bỏ con đi đâu thế này anh Nghệ ơi...!
Chị bỗng rùng mình ớn lạnh, tưởng như tiếng kêu gào ấy như một mũi kim nhọn vừa xuyên thẳng vào tim mình. Cái tên của người chết vừa được xướng lên như vừa đánh thức một vùng kí ức xa xăm nào đó trong lòng chị. Anh Nghệ... một cái tên không hề xa lạ. Cái máy điếc ròng ròng nước chảy. Hồi đó, anh cũng bảo rằng nếu như anh có tiền, sắm được một cái máy điếc thì anh sẽ nghe được hết thảy, kể cả những nhịp tim đập trong trái tim em. Nhưng, vào những năm tháng ấy, cả nước đang chìm trong khủng hoảng, đói kém, làm sao mà anh có tiền để mua được một chiếc máy như thế. Chính vì vậy mà anh đã không nghe được gì, kể cả những lời dèm pha dè bỉu của bạn bè và cả lời từ biệt của em. Em đã không chịu đựng được cái cảnh cứ phải gào lên những câu đơn giản nhất, lại phải mở to miệng ra để anh nhìn khẩu hình mà đoán xem em nói những gì. Những lời yêu thương mà lại phải nói như thế sao? Rồi bạn bè chế giễu, rồi cha mẹ cản ngăn. Rồi chân trời mới mở ra trước ngưỡng cửa của trường đại học. Em đã ra đi như vậy mà chẳng vương vấn gì nhiều mối tình đầu của tuổi học trò.
Nhưng, có phải là anh không? Làm sao mà anh lại trôi dạt vào tận vùng hồ này? Mà em nhớ ra rồi, ngày ấy khi đón bọn em vào cắm trại bên khu hồ này, anh đã nói với em rằng nếu như được lựa chọn thì anh thích sống ở một nơi có thiên nhiên tươi đẹp như thế này.
Người ta đặt lên bàn thờ anh một tấm ảnh lớn. Trong ánh đèn nến, người lính trong ảnh đang cười rất hồn nhiên. Anh vẫn còn trẻ như hồi nào, vừa từ chiến trường Campuchia trở về đứng trước ngõ nhà em cười ngô nghê rồi chỉ vào tai mình nói rất to “Anh không nghe được gì nữa rồi! Bị thủng màng nhĩ. Nhưng em yên tâm. Rồi anh sẽ góp tiền mua cái máy trợ thính”.
Đúng là anh rồi.
- Ôi anh Nghệ ơi... anh Nghệ!./.
Thật là giản đơn
Nguyễn Văn Thọ
Hoàng tới New York vào đầu mùa hạ. Cha mẹ cậu tới Mỹ với nhiệm kì công tác của họ nhiều năm nên họ quyết định mang theo cậu, tất nhiên là tốn kém và cậu bé không thể quen ngay được với đất nước mới toanh này. Thật đến là vô cùng lạ với thành phố New York, bởi ngay tuần đầu tại nơi ở mới cậu đã kiếm được tới ba mươi nhăm con tem có chữ New in trên hình những đứa trẻ ba màu da khác nhau khuôn mặt rất thân thiện.
Việc học tập tất nhiên có khó khăn một chút, nhất là năm đầu tiên để tập nói và viết, nhưng rồi sẽ đâu vào đấy, như lời bà Robeca giáo viên đã nói với mẹ cậu. Nếu ai hỏi rằng, cậu có thích thú tới Mỹ không, cậu sẽ ngay tắp lự trả lời: “Thích chứ”. Còn gì sung sướng hơn là được ở với cha mẹ cậu, hàng ngày không phải lo lắng vì bất cứ điều gì, ví như đi học, ở đây đúng là một trò giải trí. Việc ăn uống như ở Việt Nam là chán nhất, bởi vì sống với bà nội được chiều nên cậu lười cả khi ăn. Khi cậu được mẹ phân công giúp bà thu dọn bát đĩa, cậu thấy thà đi làm việc nào đó nặng nhọc hơn, như chẻ củi giúp bà chẳng hạn. Còn ở đây, cậu chỉ có trách nhiệm ăn đồ trong các bọc nylon hay giấy màu và tống vỏ vào thùng rác.
Tất cả đều hài lòng! Việc không hài lòng Hoàng phảí giấu nhẹm đi, ví dụ không hề có lắm bạn như hồi ở Việt Nam, lại nữa, phải học tụt xuống hai lớp. Đôi khi cũng chợt nhớ một bầu trời mênh mông và cánh đồng xanh luôn rì rào gió thổi. Một thoáng nào đó thôi, đấy là thời cậu ở với bà ở ngoại thành Hà Nội. Bố mẹ thường xuyên đi nước ngoài, ông thì mất lâu rồi. Cậu chỉ còn biết ông qua tấm ảnh thờ. Ông là liệt sĩ. Bà thường hay kể về ông rằng, ông hi sinh ở chiến trường và chưa tìm thấy hài cốt. Những tấm huân chương của ông để lại và khuôn mặt với nụ cười của ông rất hiền. Nó thích hơn là, khi bà kể về những con vật nơi quê hương. Những con vật trong các câu chuyện cổ tích và cả những con vật hoang dại nhỏ bé có mặt khắp trên cánh đồng mà bà lại rất tường tận và nó cũng thường cùng bọn trẻ trong xóm hay săn đuổi.
Chính đó trở thành lợi thế của Hoàng, khi cậu nói với một thằng bạn mới quen để khoe, có chuyện mà kể về nơi cậu từng sống, một xứ sở tất nhiên là xa lạ với đứa bạn ở nước Mỹ. Thật là chán khi ai đó chả có cái gì mà kể. Đúng là, không nên để ai coi thường mình, cha cậu dặn vậy, dẫu chưa có ai coi thường cậu ra mặt, nhưng khi cậu như con chim chích bay trong thành phố sôi động này thì nên thận trọng là hơn. New York, đúng là một thành phố vĩ đại, nhưng không nên nghĩ nó quan trọng quá, hơn cái bản quán gốc gác mà chính cậu tự biết là nghèo lắm. Đó là tâm trạng hiện tại của cậu.
Mãi tới gần nửa năm đầu tiên ở Mỹ học lại từ lớp năm, cậu mới phát hiện ra cùng khu nhà có thằng Jazc khi trên một đường đi học về. Chúng làm quen với nhau lúc cùng bước vào cầu thang máy. Cậu chuyện quen biết giản đơn, nên bè nên bạn, khi Jazc đã giúp nó rất tự nhiên, nhặt hộ nó chồng sách vở đổ tung ra, lại khuân hộ tới tận cửa. Không ai hiểu vì sao, khi Hoàng nhấc lên chồng sách nặng bước vào thang máy đã xổ ra tung trên sàn cầu thang bữa ấy.
Jazc năm nay 11 tuổi, ở tít trên tầng lầu 52. “Trên đó rất nhiều gió. Mày có lên đấy với tao không?” Chúng rủ nhau như vậy vào chiều thứ sáu tuần đầu của mùa hè năm nay. “Tất nhiên. Thế mày không sợ cha mẹ mắng à?”. “Không.” Jazc nói. Cha mẹ tao đi cả ngày. Nhà chỉ có tao. Ba giờ kém hai phút thì có thằng Vandam. Vandam là ai? Nó là em tao. Mày có biết tại sao nó tên là Vandam không? Không à? Vandam chính là tên tao đặt cho nó đấy. Vandam vô địch! Thằng Jazc dơ nắm tay dứ dứ vào không khí. Thì ra nó rất mê gã Vandam. “Thế mày đến từ đâu?" “Việt Nam” Nguyễn bảo. “Việt Nam, nó ở đâu?” Jazc nhăn mặt ra vẻ suy nghĩ như cha nó vẫn làm. “Xa lắm!” Nguyễn cũng chỉ biết trả lời vậy. Cậu khoát tay chỉ về một phía mà bản thân cũng chả hiểu nổi là có thể đi từ phía ấy để tới Việt Nam. Câu chuyện chỉ tới vậy, bởi cửa thang máy tầng số 17 đã mở để Jazc đi tiếp. Lúc cửa thang máy sập lại, cậu kịp nhìn thấy thằng Jazc còn cười rất tươi và tiếng chào của đứa bạn cùng nhà mới quen kịp vọt ra: Bye! Bye!
Chúng gặp nhau liên tục vào các bữa ăn trưa sau đó. Đấy là căng tin, sân sau của trường học. Hoàng nhận ra Jazc là đứa mau miệng và rất hay hỏi: Có cần giúp gì không? Thằng bạn Mỹ kéo ghế ngồi cạnh Hoàng chủ động, Hoàng tỏ ra lịch sự hơn khi múc súp đưa lên miệng. Cậu cảm thấy nên cẩn thận vì mẹ đã dặn “Ngay tới cả khi ăn, cũng đừng để người ta nhận ra là chúng ta có cách ăn khác vì xuất phát từ kiểu đánh chén khác.” Tiếng thìa chạm nhẹ vào đĩa súp. Thằng Hoàng hơi xấu hổ, ngước mắt nhìn đứa bạn Mỹ. Thế nào? Có chuyện gì mới không? Jazc lên tiếng thực ra, Hoàng chỉ thấp hơn nó thôi chứ tự cảm thấy nó hơn hẳn Jazc bắt đầu từ buổi hôm nay về độ khôn nhậy của một kẻ biết là thằng bạn mình tuy học cùng hệ lớp năm nhưng kém tuổi mình. “Tao muốn nói với mày là thành phố này rộng lớn như vậy nhưng chúng.mày không hề có thú vật như ở quê tao”. “Thế à?” Jazc thực sự tỏ ra muốn nghe chuyện. “Ừ! Mày có biết con cuốc không?” Hoàng bắt đầu và đẩy cái đĩa kem ra khỏi cái khay: “Mày ăn đi, tao không muốn ăn cái của nợ này, cái này cho bé bi.” “Mày nói gì!” Jazc hỏi: “Con gì cơ? Sao mà thành phố lại có thể có thú vật? Không xạo đấy chứ?” Thằng Jazc nhận đĩa kem của Hoàng. Nó vẫn thích món tráng miệng bằng chuối tiêu rán tưới kem hơn, nếu phải trả tiền. Nhưng tội gì, đây tuy không có chuối tiêu rán nhưng là của biếu. Trong khi đó Hoàng trợn mắt, giải thích: “Không phải đi đâu cả, ở ngay cạnh nhà tao, bên nhà là cánh đồng. Người ta trồng lúa, gạo. Mày biết không?” Thằng Jazc lắc đầu. Lúa gạo thì nó biết cũng chỉ trên phim ảnh, nước Mỹ trồng lúa gạo nhiều như lúa mì, nhưng ngay ở thành phố mà trồng lúa gạo thì lạ.- Lại có thú nữa! Nó nghĩ, Hà Nội chắc giống như châu Phi mà nó đã nhìn thấy thế giới động vật trong nhiều thước phim chiếu ở chương trình du lịch. “Mày không hiểu tao rồi! Chỗ tao có những con cuốc than đen chân hồng và sống chung với gà!” “Mày nuôi nó à?” Jazc hỏi. “Không, đó là thứ hoang dã, mày biết không?” Thằng Jazc nhăn mũi “Mày nói gì? Con đó tên là gì?”
Thằng Hoàng không thể nói con cuốc là gì vì thực chất nó không tìm ra cái tên tương đương. Hoàng đáp ngay: “Tất nhiên là thú hoang, không ai nuôi nó cả, nhưng tao vẫn cho nó ăn chung với bầy gà nhà của bà tao.”. “Thế hả, thế là gà hoang. Được rồi. Mày viết tên con vật đó vào đây!” Jazc đưa cho Hoàng quyển vở. Jazc tính, tối nay về bật máy lên ấn một cái, sau khi đề tên, và sẽ in ra cái ảnh con vật có tên là cuốc. Nó đúng là một loại gà hoang mà ở những bìa rừng trảng cỏ trên thảo nguyên không thiếu. Nó cười, Jazc sẽ làm điều đó, để chứng minh cho thằng Hoàng là cái gì cũng không cho ai bịp Jazc cả. Nước Mỹ sẽ có tất và biết hết. “Năm mươi cent nhé, mai tao sẽ cho mày biết thế nào là con cuốc của mày.” “Sao? Cược hả. Ừ!” Thằng Hoàng rướn đôi lông mày lên nó có trong túi những năm đôla, chứ năm mươi cent thì bõ bèn gì. Hoàng vốn là đứa hào phóng từ trong bụng mẹ, tỏ ra phớt tỉnh cái lời thách thức của đứa bạn. “Tao trả cho mày một đô”. Chúng tạm biệt nhau sau bữa ăn trưa ở căng tin nhà trường và vỗ tay vào nhau, hệt như trên phim, khi người ta như đã thân quen nhau từ lâu rồi.
Đúng ra là Hoàng đã hứng lên mà kể như thế chứ nó chưa hề nhìn thấy cuốc. Bởi chính nó chỉ biết về con cuốc thân đen, chân hồng, mỏ đỏ qua bà nó tả. Còn thực tế thì đã rất nhiều lần rình rập trên cánh đồng nhưng nó chưa bao giờ nhìn rõ ràng một chú cuốc. “Khó lắm cháu ạ, nó lủi nhanh lắm!” Bà nó nói thế lại càng làm Hoàng tò mò và bỏ ra mấy buổỉ chiều để rình ở thửa ruộng nước nghe nói có nhiều hang cuốc. Suốt cả tháng chẳng thấy gì cả! Một chiều sẩm, ven con đầm, thấy thoắt cái bóng con chim đen đen lủi nhanh qua những bụi niễng. Nó có cảm giác, đó là con vật nó đang săn tìm. Đuổi qua đám sậy thấy mất hút. Chờ mãi đến tận khi trăng lên, từ mặt đầm hơi sương lờ phờ bồng bềnh trào dâng tựa khói lướt, chỉ nghe tiếng ếch, tiếng giun dế ran ran. Hoàng suýt dậm chân. Và nó giật thót mình. Con vật thoắt vút khỏi đám sậy niễng, chập chờn đập đôi cánh, khi thoáng khi hiện, chơi vơi mất hút trong màn sương. Hoàng về, nó mang cả vào giấc mơ đêm ấy, tiếng đập phần phật cánh bay sắc mầu tía và xám. Đây là con vịt trời, hoặc một con bói cá! Một thằng bạn nó nghe kể đã nói vậy. Nó cãi, rõ là con vật ấy từ đó bay lên và không hề thấy gì nữa. Chả nhẽ con cuốc có thể biến ngay thành con vịt trời nhanh tới vậy?
Một đêm trăng nữa, chợt nghe thấy tiếng kêu lạ cạnh bờ ruộng nước rất gần nhà. Tiếng kêu thon thót giữa đêm thanh vắng. Thủng thoẳng, hoang dại, khắc khoải như tiếng âm hồn trong những câu chuyện của bà: cuốc… cuốc... “Con cuốc bà ơi!” Nó thầm thì. “Đúng nó đấy!” Bà nghiêng tai nghe. Thằng Hoàng lao khỏi bàn học như tên bắn, chạy ra ngoài đồng. Đêm rất lặng và trăng soi vằng vặc, trôi ngang là những áng mây tơ. Nó chạy một hơi trên những bờ cỏ đã ướt đẫm sương: Tiếng kêu bỗng nhiên bặt tắt. Nó suýt phát khóc, vì chỉ thấy những con cào cào ma thi thoảng tanh tách bay ào lên và trăm ngán đốm xanh lẹt, lập lòe trên bờ đầm đen bí hiểm. Nó đã nằm nín thở, bò, căng mắt trong đêm, cố đợi một lát rồi bỗng thấy chờn chợn, chạy thốc tháo về với bà.
Hè nữa, ấy là dịp bố mẹ đi công tác biền biệt ở nước ngoài trở về, nó chợt lại nghe tiếng cuốc khi họ đang thì thào bàn việc tìm kiếm hài cốt của ông nó đã bao năm. Nó không thể ngủ được nghĩ miên man tới câu chuyện cổ tích của bà kể về sự tích con cuốc. Có thật như lời bà, con cuốc chính là linh hồn những người nhớ nước, vì nước tới chết đã hoá thân như chuyện kể của bà nó không? Tại sao có tiếng kêu mà chẳng bao giờ thấy nó? Hay con cuốc trên cánh đồng của nó cũng không có thực, chỉ là những linh hồn mà. Tiếng kêu kia chính là linh hồn con người có thật, còn con cuốc thì hoàn toàn không có. Nếu thế thì đáng sợ quá. Hay là linh hồn ông nó đã biến thành cuốc về kêu trên cánh đồng làng, cho nên bố mẹ và bà đã tốn rất nhiều thời gian mà họ chẳng bao giờ tìm thấy xương cốt của ông nó. Như vậy thì tội cho ông nó quá. Cứ suốt đêm lang thang và kêu mãi...
*
* *
Buổi tối hôm đó thằng Jazc chợt nhớ tới Hoàng. Đấy là lúc cha nó, một chuyên gia tin học đang dán mắt vào tivi theo dõi tình hình chiến tranh ở đâu đó. Nó rướn cặp mắt xanh biếc hỏi mẹ: “Việt Nam ở đầu?" Sao con lại hỏi thế?” Mẹ nó giật mình quay lại nhìn Jazc. “Có một thằng Việt Nam mới tới đây. Nó kể về những con cuốc!”. “Nó ở đâu?" Mẹ Jazc đưa cái giấy lau nơi khăn bàn của Jazc vừa rớt xuống mấy giọt sữa. “Nó ở tầng 17.”. “Tầng l7? Con không được chơi với nó nhé!” “Tại sao hả mẹ!” “Không tại sao gì cả. Nói chung, người Châu Á và người Ả Rập là một bọn nguy hiểm.” Thằng bé cúi mặt xuống uống nốt li sữa và tiếp tục đuổi theo ý nghĩ về đứa bạn thấp hơn nó tới năm phân... Trong khi đó, mẹ nó bắt đầu băn khoăn trước câu hỏi của đứa con cưng. Có thực nó là Việt Nam? Bà gặng và lo âu khi Jazc bảo: “Thật?”
Mẹ Jazc cũng chưa khi nào tới Việt Nam, và bà không biết một tí gì về cái xứ sở ấy cả, nhưng những câu chuyện của cha bà về những năm tháng chiến tranh ở đó thực hãi hùng. Bà chợt nhớ tới chiếc chân giả với dáng đi chung chiêng của ông với vết sẹo gồm nhiều bướu thịt phồng lên nơi đầu gối cụt. Bà thấy chúng mỗi lần cha bà tháo chiếc chân giả bằng nhựa ra, gác đùi lên một cái ghế bên cạnh. Chiếc chân giả đó của hãng Đại Bàng, nó giống hệt chân thật, từ mafu da tới sự cử động rất nhẹ nhàng, bởi nó được chế tại nước Mỹ, bằng công nghệ tiên tiến nhất dành cho những sản phẩm thuộc thế kỉ 21.
Chính vì lẽ đó, bà mẹ Jazc khi tắt đèn phòng ngủ của hai đứa trẻ, Vandam và Jazc, vẫn trằn trọc mãi. Bà có cảm giác hình như có điều nguy hiểm mơ hồ từ đâu đang đe doạ con bà, mà chính bà không rõ. Bà vừa nhắm mắt thiu thiu lại choàng tỉnh vì thấy hiện lên một người da vàng, đội. mũ vải và cầm khẩu súng liên thanh bước vào thang máy với con bà. Bà quay lại phía chồng: “Ông có biết ở ngôi nhà này có một gia đình Việt Nam không?” Người chồng nghe tiếng vợ, chợt quay lưng, quay sang trái, nhưng đôi mắt vẫn nhắm tịt: “Em nói gì thế? Việt Nam? Đâu ra? Điều đó anh chưa khi nào nhìn thấy. Đấy là đôi vợ chồng người Nhật chứ. Bọn họ để xe vào hầm ở ngay trước xe nhà ta. Thôi ngủ đi. Ngày mai anh sẽ hỏi đồn cảnh sát.” “Không! Việt Nam mà. Em không an tâm tí nào cả. Họ ở tầng 17, Jazc nó nói vậy.”
Ngày mai không có chuyện cha Jazc tới đồn cảnh sát. Cả nhà đi nghỉ cuối tuần ở trang trại của họ, cách khu nhà gần trăm dặm Anh. Tại đó, thằng Jazc đi câu và ăn bánh mì quệt mứt trên ghế xích đu mà cha nó làm bằng những đoạn bồ đào cứng. Thằng Vandam thì suốt cả ngày trong ngôi nhà gỗ với mẹ nó và chơi những bài trên màn hình trực tuyến cùng thằng bạn ảo. Jazc giật được con cá, cậu lấy thước ra đo và thả nó xuống nước khi thấy chú cá chưa đủ độ lớn quy định. Đúng lúc cậu thả con cá nhỏ xuống nước thì cậu nghe thấy tiếng súng ở cánh rừng bên trái cậu vọng lên.
“Đoành đoành!” Lại hai phát đạn nữa lên tiếng. Jazc bỏ cần câu, chạy về phía ấy. Jazc đứng lại, nó thấy cha từ ven rừng bước ra, đi ủng, ông cầm trên tay hai con chim dính đạn. Jazc chợt hiểu và không biết vì sao nó nhớ tới câu chuyện của Hoàng. Nó chạy nhanh tới bên người cha và hét lên: “Cha làm cái gì thế? Tại sao cha lại bắn chúng?” Thằng Jazc bật ra câu hỏi nghiêm chỉnh. Người cha nhún vai. Chính bản thân ông cũng biết là ông không cần thịt chim đến mức phải nổ súng để hạ sát hai con gà hoang này. Nhưng đó là “một thói quen của một sự vui chơi bị lãng quên mà ngấm vào máu con người vốn từ thời cổ khi con người phải giết thú hoang để lấy thịt.” Đấy là sau đó hơn một tuần bà giáo của Jazc đả giải thích như vậy. “Điều ấy, chỉ có những nhà nhân chủng học mới lí giải nổi, còn hiện tại, người Mỹ thừa thịt mà đa số vẫn thấy cần phải nổ súng để tìm kiếm chiến thắng. Chiến thắng, đó là một khoái cảm đáng lưu ý của thời đại chúng ta, chí ra là cho nước Mỹ giàu có, thừa thãi vật chất”. “Vì ra hai phát đạn giết hai con chim nhỏ thực sự mang lại khoảng khắc khoái cảm về chiến thắng chứ không phải thảm sát để lấy lợi từ hai trăm gam thịt.” Những kiểu lí luận như thế của người lớn rõ ràng là khó chấp nhận với một đứa như Jazc. Nó khó hiểu khi những người lớn có nhiều cách lí giải về một hành vi của họ. “Cũng thế cho nên nước Mỹ của chúng ta có rất nhiều đảng phái”. Bà giáo nói rõ thêm với Jazc nhưng nó thấy mọi lời nói ấy đều chả có ý nghĩa gì với khu rừng và con suối của nó cả. Người ta thích giết nhau, tàn sát tất cả không chỉ bằng súng săn! Sau vụ Tháp đôi, nó đã nghe người ta kháo nhau như vậy...
Họ đi vào nhà, thằng Jazc không muốn câu nữa. Nó chán nản ngồi vào bàn một cách bực bội ra mặt. “Sao thế?” Mẹ nó hỏi. “Cha đã bắn bọn gà hoang mẹ ạ. Không chừng đó chính là con cuốc của thằng Hoàng!” “Con cuốc nào?” Bà mẹ hốt hoảng nghe đứa con nói. “Mẹ nhìn kìa, tay cha có máu.” Thằng Jazc lại nói. Bấy giờ cậu em Vandam mới rời ghế và hốt hoảng níu lấy áo mẹ. Quả thực, trên ống tay áo người cha khi ấy có một vết máu còn tươi lắm.
*
* *
Bọn chúng ngồi trên thành lan can của đường tàu điện ngầm ngay sát cổng trường. Jazc móc trong cặp ra tấm ảnh mà Vandam, em nó chụp con chim cha nó bắn hạ trong vỉa rừng. Vandam in từ máy lade của nó theo yêu cầu ông anh. Tấm ảnh rất nét. “Đây có phải là con cuốc của mày không?” Jazc hỏi. Thằng Hoàng ngó vào tấm ảnh. Con vật trong ảnh rất thảm hại, nghẹo đầu, vết máu đỏ rất rõ còn bết trên vòng cườm của nó. “Không. Không phải con cuốc! Trả tao 50 cent đây!” Hoàng cười. Tao đã bảo, lông nó đen, chân hồng và không có vòng cườm ở cổ như con này.
Thằng Jazc móc túi lấy ra đồng xu, sòng phẳng dúi vào tay Hoàng. “Tao nhất quyết đòi lại trong một dịp gần đây.” Nó nói với Hoàng. “Mày sẽ hối hận đấy!” Nước Mỹ không có gì là không có, không thấy. Có điều, có thể chúng đã bị bắn ráo cả trước khi chúng tao biết là cần phải vui vẻ với súc vật.” Cái câu này là câu của bà giáo hôm qua nói. Jazc hơi ngượng khi muốn nói lại câu không phải của nó, nhưng nó không thú nhận điều ấy, mặt chỉ hơi xịu xuống. Thằng Hoàng ngần ngừ một lát rồi trả lại Jazc tấm ảnh và bước xuống mặt đường. “Đi về nhà thôi. Tao trả mày tiền. Chúng ta còn cơ hội.” Đây là lần đầu tiên ở thành phố xa lạ này Hoàng hành xử như người lớn, khước từ một món được cuộc chưa rõ ràng, chưa kết cục cuối cùng. Hoàng do dự nhận thấy cả hai đứa đều không biết con vật đó là con gì. Nhỡ là con cuốc thật thì bất nhẫn quá. Nó không dám lừa dối một đứa bạn như Jazc, nhưng thâm tâm vẫn cố gắng không tin đó là con cuốc. Không thể có con cuốc thực, nhất là ở đây là nước Mỹ. Nó chợt nhớ tới những việc liên quan tới con vật ấy ở quê nhà.
Chúng lên tàu đi về nhà. Trên đường về, Hoàng kể cho Jazc về mùa lúa chín trên cánh đồng và nhiều trò chơi của nó. Hoàng nói, trong gió ăm ắp mùi thơm! Jazc hỏi, thơm như mùi gì. Thằng Hoàng nói bừa là mùi lúa thơm rất giống mùi cốm. “Mùi cốm là mùi gì” Jazc lại hỏi. Thằng Hoàng không có từ cốm của tiếng Mỹ. Nó nói bừa: “Đó là mùi giống như mùi bánh chín, táo chín, hay đại loại cái gì thơm hơn cả cái đang chín.” Thế là cơn đói xồng xộc kéo tới với Jazc vì nó vốn luôn háu đói. Hoàng còn kể cả việc nướng những con vật có cánh cứng trong bếp lửa mà nhai làm Jazc rùng mình. Thì cũng kinh thật! Jazc hình dung ra hình ảnh của những người da đỏ trong các bộ phim chiếu ở trung tâm giáo dục thanh thiếu nhi miễn phí. Hoàng bảo Jazc, không việc gì phải sợ. “Đấy là những con châu chấu hay tương tự như vậy, bụng có mùi thơm vô cùng. Nó tên là gì nhỉ?” Hoàng vỗ tay vào trán hai lần: “Phải rồi, đó là con cà cuống!” Lại một cái tên mới lạ hoắc với Jazc. Thế thì Hoàng đúng là một tay chơi da đỏ thực sự.
- Nhưng mày có tin là bọn tao bây giờ cũng đang cấm việc giết thú vật một cách bừa bãi không? – Hoàng chợt hỏi thằng bạn. – Có một nhà văn già lắm ở quê tao viết hẳn một cuốn sách về con dế. Con dế mày biết không? Chúng tao chỉ bắn chim và giết gà, chó, bò ngựa khi đói thôi. – Hoàng nói hoàn toàn theo bản năng hay là lời nói ấy giống như sự giải thích của cô giáo vừa nói với Jazc chiều hôm qua? Bố ai hiểu được, Jazc nghĩ. Nhưng rõ ràng là mọi am hiểu của thằng bạn Việt Nam về cuộc sống cũng làm cho thằng Jazc thấy thích thú. “Tao không hề lừa dối mày đâu, Jazc ạ. Chúng tao có một cánh đồng đầy cả cuốc và rắn. Nhưng ở quê tao, người ta chưa thừa thãi thịt và còn thích thưởng thức chúng, thành ra bây giờ quê tao còn có cả quán thú rừng nữa.” Đây là sự thực mà thằng Hoàng muốn chia sẻ với người bạn của nó trên đường về sau khi chúng vò nát tấm ảnh chụp hai chú chim lạ bị giết và ném vào thùng rác công cộng.
Quả thật khi đó Hoàng thoảng buồn khi cố gắng diễn tả mọi điều cho đứa bạn biết về quê hương nó. Tự nhiên, nó kể miên man sang chuyện ông nó bị giết trong chiến tranh, bởi nó tự lí giải nhiều suy luận của nó về cái chết của ông khi có thể liên quan tới những con cuốc. Nhưng chuyện này thằng Jazc lại nghi ngờ, câu chuyện đến là trừu tượng. Sao một loài vật lại biến hoá từ những linh hồn con người? Đấy là một câu chuyện phịa! Hết sức vớ vẩn của mày tự nghĩ ra! Lần đầu tiên Jazc phản ứng mạnh như thế và tí nữa chúng cãi nhau to, nếu thằng Hoàng không tự kiềm chế vì bấy nay Hoàng biết thằng Jazc rất tốt và thực sự thân thiện với nó.
Chúng ta, bạn đọc hãy cùng tôi ý thức rõ hơn là, nước Mỹ hiện nay đứng đầu thế giới về nhiều sức mạnh. Chính vì thế, bọn trẻ không thể bịa tạc gì hơn những điều gì mà tâm hồn của chúng chứa đựng, cất giấu hay sự việc đã xảy ra trên thế gian này với chúng, vẫn phải thấy hiện thực hiển nhiên, phải rõ ràng như ban ngày, có thể ve vuốt hay hít ngửi, sờ mó vào chúng.
Thằng Jazc vẫn hậm hực.Có thể là câu chuyện giữa chúng sẽ nổ rả một trận đôi co mới, nhưng điều bất ngờ trong chớp mắt đã xảy ra, khi chúng bước ra khỏi xe điện ngầm thì vừa vặn New York lâm vào tình trạng mất điện đã chấm dứt cuộc cãi vã trên. Chúng lập tức quên ngay những câu chuyện vừa trao đổi khi thấy trước mắt bao cảnh tượng khác thường. Nhạy cảm hơn, thằng Hoàng phát hiện điều đó, khi thấy mọi sự nháo nhào ngay trên cửa đi vào ngôi nhà của chúng ở. Người ta từ trong những lỗ hầm túa ra đường phố và thất thanh kêu. Mất điện! Mất điện! Khủng bố! Chúa ơi hãy cứu chúng con! Đại loại là chúng nghe vô khối tiếng kêu hỗn loạn tương tự như vậy.
Ngay lập tức, thằng Jazc móc túi lấy điện thoại hỏi về trung tâm tư vấn cho thanh thiếu niên để mong lời giải đáp. Thưa rằng chỉ có tiếng “tút tút” mà không thấy một ai có thể hầu chuyện bọn trẻ. Riêng Hoàng của chúng ta thì chả biết sợ là gì. Nó dường như không hề có ý thức cầu viện một ai, kể cả việc cái thẻ điện từ của nó khi lướt trên phím ở cửa ra vào nhà không tác dụng nữa. “Chạy lên nhà tớ, trèo qua cửa sổ phòng tắm Jazc ơi.” Nó thét lên thích thú, vì trong khoảnh khắc này, nó bỗng cảm thấy đây là lúc nó là người lớn thủ lĩnh hơn thằng bạn Mỹ kia.
Khi đó là thời điểm mới hoảng loạn trong ngôi nhà chúng ở. Ngôi nhà cao hơn cả những đám mây mùa hạ nặng trĩu hơi nước, việc đi tới và lui của cầu thang máy hoàn toàn bị đứt nghẹn. Thằng Jazc chạy theo Hoàng như một cái máy và vượt lên trên Hoàng như nhiều lần. Chúng phải nghỉ lấy sức tới sáu bảy lần gì đó và ngay nơi nghỉ ở tầng 15, thằng Jazc chợt nghe rõ tiếng gọi rất quen thuộc của thằng Vandam, em trai nó. May mà nơi đó có nhiều ánh sáng do người ta lắp tại đấy những tấm thủy tinh lớn. Jazc tìm ngay thấy cánh cửa đang khép kín, nơi vọng ra tiếng của thằng em đang thật thanh đấm cửa và gọi mẹ, gọi anh. Cầu thang máy ngay kề đó chứ đâu xa. Jazc hét lên. “Tao đây. Đừng sợ và la lên như thế!”
Nói vậy nhưng Jazc rất lo lắng khi đưa bàn tay nhỏ bé của nó ấn liên tục vào nút mở mà cánh cửa cầu thang vẫn khép chặt. Nó ra sức đấm vô vọng vào tấm gỗ màu hơi ngà rất cứng.
“Vâng... em... Anh cứu em với!” Tiếng thằng Vandam càng thôi thúc, lọt qua khe hở vọt ra cũng làm cho Hoàng thấy cồn cào, nó dậm chân liên tục: Phải chờ có điện. Hoặc là tìm cách nào lọt vào đứng cạnh Vandam thôi. Nó nghĩ vậy. Nhưng làm sao có thể lọt vào thang máy được. Thằng Hoàng chạy lăng xăng, nó bắt đầu bồn chồn. Tiếng thằng Vandam chợt lịm dần và hai mươi phút trôi qua, bọn trẻ hơi sợ khi không còn nghe thấy tiếng khóc của thằng em chúng nữa.
Gọi lính cứu hoả ngay! Thằng Hoàng chợt nhớ ra lời giảng tại lớp nó mà bất cứ đứa trẻ nào sống ở xã hội văn minh này phải biết. Chúng đồng loạt móc điện thoại di động nhưng không hề có ai đáp lời chúng, hệt như tình cảnh khi nước Mỹ bị tấn công vào hai toà nhà cao nhất của thành phố năm nào. Thằng Jazc thực sự muốn khóc, nhưng nó không thể tỏ ra yếu đuối trước thằng Hoàng.
Phải nói là thời gian chỉ mới hơn tiếng trôi đi nhưng thực sự là cơn thảm hoạ với với thành phố hiện đại tới mức con người đã trở nên nô lệ cho phương tiện kĩ thuật mà chính con người đã sản sinh ra nó. Cũng bởi như thế nên cả hơn chục người lớn tỏ ra rất lúng túng, khi phát hiện ra có một đứa trẻ cần thoát khỏi thang máy, nhưng họ không có một kế hoạch có khả năng để giải cứu cho cậu bé kia. Bấy giờ chính người mẹ của Jazc tìm thấy chúng, bà là nguyên nhân làm cho hành lang nơi có cửa cầu thang máy ì ra, chật chội và ồn ã hơn, khi bà cứ đấm vào cửa thang máy một cách bất lực với đôi bàn tay thanh mảnh. Phải gọi lính cứu hoả tới. Đã nhiều lần vài người đàn ông bình tĩnh hơn kêu lên, nhưng không ai liên lạc được với trung tâm để gọi lính cứu hoả khi chính nơi đó cũng mất điện. “Khốn nạn! Cái gì cũng dùng điện.” Ai đó kêu lên.
Con tôi sẽ chết mất! Mẹ Jazc vẫn rên rỉ khi bà vừa được ngửi long não của một tay bác sĩ nào đó từ tầng 19 mang tới. Họ bất lực đứng trước cửa thang máy giờ đây có thằng bé bị nhốt đã im lặng đáng sợ. Người ta lại lộn xộn một hồi nữa khi mẹ thằng Jazc than thở, rằng Vandam, thằng bé con bà có thể lên cơn hen bất kì. “Em tôi bị giam trong đó sẽ chết!” Thằng Jazc bỗng gào lên như một con chó và chưa khi nào cuống cuồng như vậy.
Suốt mấy tiếng đồng hồ trôi qua Hoàng vẫn bám sát Jazc. Nó không làm gì hơn được là cố tìm cách bậy cửa nhưng thực đó là một hành động vô nghĩa, khi nhiều người lớn và khỏe hơn chúng nhiều lần đã bó tay. Không hiểu sao khi ấy nó lại dại dột tới bên người mẹ của Vandam và đặt một cánh tay lên vai bà, hệt như những phim nó nhìn thấy khi người lớn muốn thân thiện hay chia sẻ. Hành vi ấy của nó ban đầu làm người mẹ thấy chờn chợn. Bà khẽ rùng mình. Nhưng thằng Hoàng không nhận ra điều đó, nó lại tự nhiên nắm lấy bên tay bà mẹ khi thấy Jazc đưa hai tay nắm lấy tay trái của bà. Lập tức mẹ Jazc cảm giác bàn tay thằng Việt Nam ấy cũng bình thường như bàn tay của Jazc, thậm chí ấm nóng hơn, nhất là trong lúc này.
*
* *
Thế rồi cảnh sát cũng tới. Thành phố đã quá nhiều tai nạn khắp mọi nơi và lực lượng cứu hoả không gần bằng đồn cảnh sát, tuy rằng như vậy sự có mặt của cảnh sát làm bà mẹ Jazc tức điên lên vì cho rằng họ đã quá lề mề. Cảnh sát không quen với lối cậy cửa bằng tay, họ cứ lần sờ tấm cửa một cách vụng về làm bà mẹ Jazc và một vài người đã tức điên nói ngay là trò mèo thô bỉ. Một viên cảnh sát xin mọi người hãy kiên nhẫn và bỏ đi, hẹn vài phút quay lại. Thực ra là hơn nửa tiếng, rồi họ cũng khuân lên một cái máy đẩy nhằm kéo banh cửa ra. Nhưng khi máy sắp vận hành thì ai nấy mới ngớ ra là chiếc máy này hoạt động bằng điện! Tiếng mắng nặng nề văng tràn ứ hành lang làm hai tay cảnh sát mặt đỏ nựng mà không thể nhận ra, ai đã thoá mạ họ trong hành lang tối, chật và bí? “Cần phải có điện”. Họ phân bua với đám người bắt đầu có vẻ sẵn sàng làm nổ tung cả toà nhà. Chính khi ấy, thằng Hoàng chợt kéo thốc thằng Jazc chạy nhanh như ma đuổi xuống đường đi bộ.
Chúng lao qua đường rộng mà không gặp trở ngại của xe cộ bởi khi ấy nhiều người tràn ra đường làm nghẹn cả con lộ rộng. Hoàng nhớ ra cái cửa hiệu, từng nhìn thấy những cái cưa, rìu và dao... Chúng gõ rối rít vào cửa tiệm. Người bán hàng thận trọng nhìn chúng qua cửa kính thắp sáng bên trong toàn nến là nến và chúng trông thấy một nòng súng ngắn chín li run rẩy trong tay người bán hàng. “Chúng tôi cần một cái cưa máy!” Thằng Jazc là đứa hét lên đầu tiên khi nhìn thấy cả hơn chục cái cưa máy. “Mở cửa ra!” Hoàng hét to hơn. Tiếng hét của chúng lọt qua cái khe thả thư “Không bán chác gì cả. Mày không thấy là không nơi nào có điện à?” “Không! Em tôi đang kẹt trong cầu thang máy. Nó sắp chết.” Cái cứa bé mở một cách phân vân, đủ cho hai đứa trẻ lách qua, lọt vào trong tiệm. Thằng Jazc móc ra dăm tờ đô la nhàu nát, nó tóm lấy chiếc máy cưa đã cũ: “Chúng tôi chỉ mượn tạm nó.” Gã chủ quán ngớ ra như đứng trước hai kẻ cướp hung hãn. Không có sự phản kháng nào, lại kéo cửa giúp Jazc khi chiếc đòn tay của máy cưa vướng vào cánh cửa ra vào. Chiếc máy thực ra rất nặng. Nhưng khi ấy một con người đang đầy hung hăng thì có đủ sức cầm lấy chiếc máy cưa nhấc cao lên. “Bỏ xuống!” Thằng Hoàng bảo. “Mày không thấy là nó chạy bằng xăng à?" “Tìm ra đâu xăng bây giờ?” “Tới trạm xăng!” “Không có điện thì ai bơm xăng cho chúng ta!” Hoàng nói và lấy một chiếc rìu. Ánh nến lung linh, lưỡi rìu phản ra tia sáng như chớp. Tất nhiên là người chủ quán lấy bằng được ba đôla, đúng giá ghi trên cán rìu. Chúng băng qua đường và leo lên toà nhà nhanh tới phi thường.
Những người lớn, thực ngạc nhiên tới muốn nổ tan con mắt, giạt ra khi thấy hai đứa trẻ lao tới cạnh cửa cầu thang máy. Thằng Hoàng bổ cái thứ nhất vào cửa. Lưỡi thép sắc cắm ngập tới nửa phân và ngoan cố đứng chết lại. Cái sức mạnh đầu tiên của cậu thể hiện đã phản bội lại đôi tay chả mấy sức mạnh của Hoàng. Lập tức Jazc lao vào, mắm môi mắm lợi ra sức kéo thì cái rìu vẫn như mút chặt thêm vào cánh cửa. Bấy giờ trông mẹ Jazc thực đáng thương. Bà gần như quỵ xuống rên rỉ: “Các người đâu, hãy giúp chúng!” Người ta hiểu ra và lao tới, thi nhau bổ rìu vào cánh cửa. Chúng ta không nghe thấy gì hơn ngoài tiếng rìu phằm phằm chém vào cửa thang máy làm bằng gỗ rất chắc của hãng Nea, khoá điện của hãng Boxx và những con lăn với viền thép bọc cửa đề rõ to chữ Nationna in Germany. Cả New York khi ấy tưởng chỉ rền vang tiếng rìu phát ra từ trong hành lang. Sau khoảng hai mươi phút gì đó, người ta kéo cậu bé Vandam mặt mũi tím tái, cậu còn đang co rúm, dán chặt mình vào góc cùng của thang máy, mặt dính đầy vụn gỗ.
*
* *
Người viết lại câu chuyện này không hề cường điệu thêm một điều gì to tát hơn mọi việc đã xảy ra như vậy. Chỉ biết sau đó tất cả đám người lớn công kênh hai đứa trẻ và chiếc rìu được Jazc đưa cao trên tay chúng.
Dường như khu nhà ấy chả khi nào cùng một lúc ùa xuống cái sảnh ngoài ngôi nhà làm chỗ trò chuyện nếu không có sự cố mất điện. Người ta thấy cậu Hoàng bấy giờ đã thấm mệt, lảo đảo chạy lại với cha mẹ khi nhận ra họ cũng đang nhớn nhác đi tìm cậu. Khi đó, dưới đường đầy ánh sáng, bà mẹ Vandam lúc này đã bình tĩnh lại, nhất là cha Vandam cũng vừa về. Bà chợt nhìn rõ cái chân trái của cậu Hoàng cũng xỏ chiếc giày thuộc hàng chân giả, giống hệt chiếc giày của người cha bà đi, phía chân bị mất ở cuộc chiến Việt Nam. Bà giật thót, thốc gần thằng Jazc và cúi xuống, hỏi rất nhanh: “Jazc. Con có biết thằng bạn của con có cái chân giả không?” “Biết chứ!” Jazc cười thản nhiên: “Phải tôn trọng những người tật nguyền và không được để cho họ biết là mình quá chú ý tới tật nguyền họ phải gánh chịu cơ mà! Ông ngoại vẫn thường nói vậy.” “Đúng, đúng! Nhưng cái chân ấy là cái do hãng mà ông con đã làm. Gần đây, nó chỉ cung cấp thiện nguyện cho những người bị thương trong cuộc chiến ở Việt Nam. Làm sao Hoàng có nó?” Thằng Jazc sững ra một lát, rồi chạy thẳng tới chỗ Hoàng: “Này! Mẹ tớ muốn biết, vì sao cậu bị thương ở Việt Nam?” .
Hoàng thực sự bất ngờ vì câu hỏi ấy. Bởi câu hỏi ấy đã đụng vào nhiều vấn đề còn liên quan tới cái chết của hai người bạn thân nhất ở Việt Nam mà bấy nay Hoàng không muốn nhớ và tiết lộ cho bất kỳ ai. Vâng, buổi chiều đó! Trong đầu nó bỗng hiện ra khối lửa màu da cam của quả bom bi mà máy cày đã xới tung lên khi bọn trẻ đuổi theo con vật mà chúng đinh ninh rằng đó là con cuốc. Nó không muốn nhắc tới cái chân của nó bị dập nát, tướp ra những sợi gân trắng ởn, để nó nhiều năm không được chạy trên đồng làng, dù rằng nó chưa bao giờ trả lời được nhiều câu hỏi còn lửng lờ trong đầu...
Nhưng một người như Jazc thì không nên giấu làm gì. Hoàng chợt quay lại thực tế và cười rất vô tư: “Có gì đâu. Đơn giản thôi mà. Lâu rồi. Tớ đuổi theo một chú cuốc và một quả bom bi đã phát nổ”. “Đơn giản! Đơn giản? Có thật là đơn giản? Sao cánh đồng lại có bom?” Thằng Jazc hỏi giật. “Cũng chả biết nữa. Giản đơn là khi tớ lớn lên, vẫn thấy trên cánh đồng làng, bom bi thi thoảng lại sót nổ.”
Thú thực khi đó thằng Hoàng cười giòn lắm, dẫu là Jazc với Hoàng không thể nào hiểu được vì sao trên thế gian đã lắm việc xảy ra đến như vậy. Do đó thằng Hoàng chỉ kể giản đơn như thế. Nhưng khi lắng nghe rõ cuộc nói chuyện của bọn trẻ, thì người mẹ của Jazc chợt sững người. Bà thoáng rùng mình. Bà muốn nói một lời gì đó với Hoàng mà cổ họng cứ nghẹn lại. Yên lặng. Có nói gì thì khi ấy thằng Hoàng cũng chẳng nghe được, bọn trẻ lại thản nhiên quay về với câu chuyện con cuốc của chúng. “Này Jazc này”, Hoàng nói, “mày phải nhớ là trong tất cả các cánh đồng ở Việt Nam có rất nhiều cuốc và rắn đấy nhé...”
Chính lúc ấy hai viên cảnh sát tiến tới kính cẩn đưa cho cha mẹ chúng tờ biên bản. Và họ cũng mời ngay hai đứa trẻ tới làm chứng làm đứt ngang câu chuyện. Viên cảnh sát đọc to lời ghi để ba nhân chứng cùng cha mẹ của hai đứa trẻ cùng kí vào đó: “Việc phá cửa thực hiện bằng một cái rìu.”
Vâng! Đơn giản thế mà không biết. Nó là chiếc rìu để chỉ chặt cây. Nhưng tổ tiên chúng ta ngày xưa không chỉ để chặt cây. Đúng ra là chúng ta đã hay quên những sự việc tưởng là giản đơn lắm!. Có ai đó kêu lên và giọng đứt đoạn, chìm ngập trong tiếng cười, nói oà ra trên hè đường New York đang ùn ùn dòng người tràn ra tránh nóng từ khắp mọi ngôi nhà cùng đêm xuống.
Xin nhắc lại là chưa bao giờ ở toà nhà ấy người ta có dịp tìm hiểu nhau và thân mến với nhau trên đường phố như mấy ngày đêm đơn giản là mất điện, lịch sử của mùa hè New York 2003, như ngày có câu chuyện trên xảy ra mà tôi ghi lại./.
Báo
Hồ Anh Thái
Sao chúng mình không cùng nhau ra một tờ báo nhỉ. Một câu buông bất chợt vào giữa hội. Rộn ràng hẳn. Hội ăn nhậu chị em, nhân sự gồm mấy chị và một em. Mấy chị đều ăn nên làm ra, buôn bán từ bất động sản cho đến đánh hàng xuyên quốc gia, mỗi người mấy nhà nội thành kèm mấy miếng đất ngoại thành ngoại tỉnh. Một em trai chưa đến tuổi tam thập nhi lập, thuộc diện sống bằng thừa kế, cha mẹ ki cóp cho cọp con xơi, lên đời xe máy từ uyn đến a còng, lên đời xe hơi từ Tô sang Pho sang Métxìđẹt. Thanh niên sành điệu từ đầu đến chân toàn hàng hiệu, phụ tùng trên người ước tính cả chục cây vàng, chân đi giày da đen lại mang tất trắng. Lấp ló cổ chân trắng phớ như chân sản phụ.
Khoan vội nói chuyện chị em xuất thần nổi hứng rủ nhau đi làm báo. Báo chí là chủ đề dềnh dàng trong toàn bộ trước tác này. Xin tuần tự bắt đầu từ chuyện họ là hội ăn nhậu. Ăn cho đến không còn gì mà không ăn nữa. Đám nouveaux riche nhà giàu mới phất ban đầu gắng gượng ăn u, gắng mãi chuyển sang ăn Á, cố ăn Ấn dần qua Nhật bật về Tàu, cuối cùng cáo chết quay đầu về nơi đặc sản đồng quê An nam. Miến ngan, bún cua, bún đậu mắm tôm thực sự khoái khẩu. Người châu Á ăn sạch những con hai chân, bốn chân, nhiều chân kềnh càng như cua đến không chân như sâu rắn, các loại bọ xít cào cào chẩu chấu biết bay cho đến chuột rết không biết bay. Xơi hết.
Từ thực phẩm xác thân sang thực phẩm làm hồn. Xơi đến báo cả chị lẫn em đều thực sự hào hứng. Em trai duy nhất trong nhóm bảo em quen một chị nhà văn đang sáng chói văn đàn, chị này đứng sau rất nhiều tờ báo. Bốc điện thoại gọi ngay. Chi nhà văn đủng đỉnh đi đến. Cằn nhằn buổi chiều đang ngồi viết tiểu thuyết, đang cho nhân vật chửi thằng cò đất thì em gọi. Sà ngay xuống bên nồi nước dùng bún ốc. Tờ báo coi như hoài thai bên nồi nước dùng nghi ngút mùi gừng mùi sả sực nức.
*
* *
Chị nhà văn bảo chị thường trực có thái độ ngần ngại trước báo chí. Phản ứng đầu tiên của chị là can thằng em đứng đâm đầu làm báo. Bên phương Tây người ta bảo muốn giết ai thì xui người đó bỏ tiền ra làm báo. Mỗi năm có hàng trăm tờ báo chết yểu cùng lúc hàng trăm tờ báo mới mở ra thiêu thân tự lao mình vào lửa. Bên ta báo phát hành nhiều nống số lượng lên nhiều hơn nữa, báo phát hành ít thì xít ra nhiều. Để xin được quảng cáo. Phát hành được một vài ngàn bản cũng vẫn ra báo, thu nhập nhân viên mỗi tháng trăm ngàn cũng còn hơn không, lừa được thằng quảng cáo nào thì lửa lấy tiền nuôi nhau. Nhưng mấy chị một em hăng máu lên rồi, sẵn sàng mất cả một cái nhà để chơi báo. Chơi. Ôkê, thì chơi.
Tài chính là chuyện hàng đầu coi như đã yên tâm. Mấy chị một em ai cũng có thể lo được mỗi kì nguyệt san mấy trang quảng cáo. Công ty của chính mình, của cha mẹ anh chị em mình. Các ngân hàng xí nghiệp của người thân thiết hoặc của đối tác. Đều đều mỗi tháng mươi cái quáng cáo là đủ tiền in báo. Nhưng nói chuyện sẵn sàng bán nhà chỉ là để yên tâm mà chơi xông vào trưởng văn trận báo thì phải có quyết tâm làm ăn có lãi. Lãi không chỉ vì mình hám tiền, lãi vì báo mình bán được, bán được tức là có người đọc, có người đọc thì mới có động cơ có cảm hứng để tiếp tục. Ai đủ can đảm đứng hét to mãi vào một bãi trống, không tiếng vọng?
Tính đến đây tức là phải lo việc phát hành. Chị nhà văn đôn đáo dẫn mấy chị một em đi gặp trùm phát hành. Một nhà báo quyền thế, trong tay có tập đoàn cả đường dây phát hành trong nam ngoài bắc. Ông từng từ chối chức tổng biên tập một tờ báo, ông chỉ thích đứng đằng sau tất cả mà điếu khiển tất cả. Ôkê, ông bảo êkíp làm báo này khiến tôi tin tưởng.
Báo ra đời bên một nồi nước ốc. Sau này chị nhà văn bảo đấy là tín hiệu buộc ta phải cưỡng lại, báo chí quyết không được quyền nhạt. Trong văn chương báo chí, trăm thứ tội đều tha thứ được, hãnh tiến quê mùa dốt nát, trắng trợn trâng tráo đểu giả, uỷ mị cải lương lạc thời đều tha thứ được. Nhạt thì không. Nhạt nhẽo bị kết tội đóng đinh câu rút vĩnh viễn, ném đá triền miên, thả bè trôi sông đời đời. Chị nhà văn bảo nội dung sẽ còn phải bàn nhiều, sinh ra con thì trước tiên hãy đặt tên cho con đã. Đừng đặt những cái tên kép, tam tứ ngũ ngôn, không ấn tượng. Cứ trần một chữ mà choáng. Mới. Tức là không cũ không quá đát không lạc hậu. Trẻ. Tức là không già không nhăn nheo không thủ cựu, nhưng cái tên này bị nhiều nơi xài quá rồi sống. Tức là không chết không ươn không thối. Chơi. Tức là không tất bật bươn chải bần tiện vương vấn sự đời. Chơi. Là phong lưu là tiêu xài là nghệ thuật thưởng thức là cái đích của mọi cái đích ở kiếp người. Chơi .
Chơi được chọn.
*
* *
Tạp chí Chơi. Chị nhà văn cung kính mời đến một nhà thơ lão luyện trong làng báo. Ông về hưu đã lâu, chẳng thiếu tiền, ông chỉ cần được làm báo cho đỡ nhớ nghề, cho có cảm giác không bị gạt ra bên lề đời sống. Từ lão tướng cầm chòm này mà ra một êkíp làm báo thành thục. Toàn là những cây bút viết chuyên mục, nhuận bút bảy chữ số. Họ bắt đầu lập ra đề án. Chơi là tạp chí văn hóa văn nghệ lối sống. Lần đầu tiên xứ ta có một tạp chí toàn diện theo kiểu Pari Mát hoặc Niu Oóckờ và hơn thế nữa. Mọi vấn đề đều có ở đó, từ văn hóa văn nghệ cho đến lịch sử đến khoa học và kinh tế thế giới, tử xu thế thời đại cho đến lối sống, cái ăn mặc cái ở cái làm cái giải trí cổ kim đông tây, tức là tất cả những gì tạo nên con người và xã hội, không có một giới hạn nào. Chỉ trừ chính trị nhà nước và tôn giáo. Báo chí như thế là bổ ích và an toàn. Các mảng nội dung được phân công ngay. Nhà phê bình A giữ mảng Văn học, chém cho đẹp vào, văn chương chữ nghĩa đang trên đà biến thành câu lạc bộ phường xã. Nhà báo B giữ phần Truyền hình Điện ảnh. Không, lâu nay tôi vẫn thường làm các mục trả lời bạn đọc, trả lời quê quê tếu tếu. Thì quê quê tếu tếu mới đúng là truyền hình điện ảnh, B giữ mảng ấy là phải rồi. Tiến sĩ C, thạc sĩ D, cử nhân E lo phần Khoa học và Kinh tế thế giới. Dịch giả G làm chuyên mục Chữ S to tướng trên hành tinh nhỏ bé. Một tay chơi nức tiếng bạn của nhà thơ thì cho giữ mục Chơi, chưa hề viết bao bao giờ thì bây giờ viết, chơi được thì viết được. Chơi rụng rời thì viết rơi rụng.
Họ muốn mời thêm những cây bút thời thượng như Lâm Thị Hoan Hỉ hay Hai Cắc Cớ viết chuyên mục nhưng nhà thơ trưởng lão bác ngay. Ông ghét các cây bút nổi tiếng, họ cũ mòn rất nhanh. Ta đây còn nổi tiếng gấp vạn lần. Không cần. Người chưa viết bao giờ như tay chơi kia làm sao cho hắn viết được thì ra ngay cái lạ. Sướng hơn.
Mấy chị một em lo phần trị sự phát hành. Mấy chị chạy quảng cáo tổ chức phát hành, thằng em làm chủ nhiệm báo. Mấy chị một em lâu nay đầu tư vào khách sạn nhà hàng, khi nào muốn làm giàu văn hóa thì nhập phim Mỹ, phim Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca, khi nào muốn gia ân cho phim Việt Nam thì mua quyền phát hành bộ phim chiếu một ngày rồi đứt. Bây giờ đang rục rịch ra báo thì có ngay một ông bạn tài phiệt đầu tư cho bộ phim nội hóa mang tên Của lạ mời cả bộ sậu đến họp báo. Ông tài phiệt cứ tưởng cái phong bì cho nhà báo là to, ông đi xa hơn dạy các nhà báo cách viết sao cho ngọt cho khán giả kéo đến chiếu cố phim nội. Ôi giời dạy khỉ đu cây. Cuộc họp báo đầu tiên của cả bộ sậu kết thúc bằng một liều thuốc ngủ tại cái rạp mênh mông mang tên Thung sâu vắng lặng.
*
* *
Nhân sự xem thế đã dần dần hình thành. Nhà thơ trưởng lão và chị nhà văn gọi đến một nhà báo trẻ làm thư kí tòa soạn thường trực bên cạnh chú em chủ nhiệm báo. Thư kí tòa soạn như một thứ cửu vạn cho cả tổng biên tập trên và ban biên tập dưới. Phải có sức mạnh cơ bắp. Chị nhà văn giới thiệu dăm ba ứng cử viên, người nào chị cũng chú thích là thanh niên to cao, đến mức trưởng lão phải vặn lại cô chọn thư kí tòa soạn hay cô đi mua thịt. Cuối cùng thư kí tòa soạn được chọn cao to đen tươi, cao mét tám nặng bảy mươi sáu cân. Chàng chọn khoa báo chí vì báo chí đang thịnh, nghe đâu là quyền lực thứ tư, đất nước có gần sáu trăm tờ báo viết kiểu gì cũng chẳng lo không xin được việc. Qua cầu qua phà đến cơ sở chìa thẻ nhà báo là khối kẻ hãi hùng.
Một đồng nghiệp xui chàng chuyển sang viết kinh tế, xuân hạ thu đông tứ kì các nhà máy xí nghiệp công ty doanh nhân tự ý cống nộp, coi như đóng thuế báo chí để cho yên thân. Nhà báo không cần thiên tài vào nghề dăm năm đã có quyền hóa phép ra đất xây nhà. Dịp Tết lại các doanh nhân vây ra cái quảng cáo, mấy chóp bu làm báo bội thu, còn lại cái móng tay đến nhà báo cũng đủ xơi tạm, đến ông nhà văn cộng tác còn lại hạt mảy hạt tấm lót dạ. Chàng chí khí máu mê văn nghệ, trót dại chưa nghiên cứu kinh tế như người bị bắt nạt trót dại chưa học võ, chàng vững vàng kiên định với văn nghệ, chàng bèn chuyển sang đầu quân cho báo này.
Ngày đầu đến văn phòng, chàng thư kí chìa ngay ra một bài báo cho mục Du lịch, bài báo giải thích vẻ lừ đừ như chuột phải thuốc của chàng. Chuyến đi lên miền núi Thái Nguyên, gần một giờ chiều mới đến uỷ ban huyện. Một ông cán bộ văn phòng xin lỗi đoàn lên đột ngột không kịp chuẩn bị cơm nước: mời đoàn ra quán dùng tạm. Cơm dọn ra chàng ăn một bát thấy hai thái dương buôn buốt nghẹn ngào buồn nôn. Chàng chống đũa nhìn mâm cơm đắm đuối. Lại còn hỏi xin quả ớt may ra xơi thêm được bát nữa. Chủ quán bảo vùng này không trồng ớt cũng không nhập ớt nơi khác về. Cơm nước xong đoàn lên xe đi tiếp vào bản. Mấy nhà báo đi cùng kêu ngột ngạt nóng bức lột hết xống áo ra chỉ còn may ô. Lái xe thì kêu buồn ngủ không cưỡng nổi, cố chạy thêm hai chục cây số rồi rúc xe vào dưới bóng cây gục xuống lịm đi. Sau buổi chiều tất cả đều váng vất nghẹn ngào, buổi tối về đến thành phố, kể chuyện ăn trưa ở vùng nọ, dân địa phương ai cũng tròn mắt. Dám ăn cơm ở đó cơ à? Chúng tôi người ở đây mà đi công tác về đấy cũng phải mang thức ăn theo, có chết đói cũng không dám ăn cơm hàng cháo chợ. Một ông cán bộ thành phố tổ chức cưới vợ cho con ở đấy, mời quan khách trên tỉnh về phải mời cả công an đứng vòng trong vòng ngoài các bàn ăn. Dân vùng ấy có kẻ bỏ bùa, tán bột từ lõi cây, và nhớt sâu, phơi sương hạ thổ mấy lần, mỗi năm bắt lấy một nhân mạng lớ ngớ đi lạc vào vùng. Nhân mạng ấy sẽ làm ma nhà họ, trông nhà, trông nương rẫy cho họ, bảo toàn sinh mạng cho họ không bị người hành giời vật. Bùa của họ ăn vào có người ba ngày chết ngay. Không chết ngay thì thành kén trong bụng một tháng sau mới chết. Có ớt ăn vào thì giải độc bùa ấy nhưng cả vùng đó bói không ra một quả ớt.
Mọi triệu chứng thông tin trùng khớp. Chàng thư kí tòa soạn muốn đưa bài vào mục Giữa đường thấy chuyện. Chàng chất vấn chính quyền huyện xã, nếu không có thì phải chính thức xua tan những lời đồn đại về bùa, ngải, nếu có thì phải cho biết họ đã có biện pháp xử lí ra sao.
Chàng thư kí không thuộc diện chết sau ba ngày. Như vậy chàng mất thêm một tháng phấp phỏng chờ bùa độc làm kén trong người. Một tháng chàng lừ đừ ngồi trong văn phòng đúng triệu chứng say thuốc. Văn phòng là nhà của chàng chủ nhiệm báo, một phòng xịn trong khách sạn của gia đình. Điện thoại kéo vào văn phòng không hiểu sao toàn người gọi đến nói chán chê mới biết nhầm máy. Chàng thư kí tòa soạn trực cái điện thoại ấy. Reng reng reng. A lô anh Tèo đấy à? Thư kí xẵng giọng: Tèo thua đề bán nhà này cho tôi rồi. Chết, thua nhiều không anh. Tám trăm triệu. Anh có biết anh Tèo chuyển đi đâu không. Trốn rồi. Thằng Tí nhà anh ấy đi đâu. Cũng trốn hết rồi, ở lại có chết cả lũ. Dập máy.
Tạp chí có đủ bộ sậu từ chủ nhiệm sang tổng biên tập đến thư kí tòa soạn. Đó là nhân sự thực tế, nhưng muốn xuất bản được phải đi tìm một cơ quan chủ quản, phải là phụ trương cuối tháng của một tờ báo có giấy phép. Phụ trương báo Người đô thị còn đang bỏ trống. Đúng ra là nó đã từng do một ông đầu nậu làm theo kiểu chơi thử, làm được một năm thì hết hơi sập tiệm. Sau đó một bà nhà văn cấp quận lao vào. Thiếu ảnh bà xông vào các cuộc họp, gí máy tự động vào mặt các quan chức văn nghệ mà chụp. Thiếu truyện bà in truyện ngắn của bà. Thiếu thơ bà in thơ của bà. Trang âm nhạc bà thầu ca khúc của bà luôn. Còn trống mấy trang nữa bà in kịch bán phim tài liệu của bà lấp đầy chỗ trống. Báo Tết tổng biên tập còn không dám cho đăng ảnh của mình, sợ mang tiếng hâm hoắng, thế vào bà in ảnh bà to như lãnh tụ cùng lời chúc mừng năm mới. Trình bày bà làm lấy nốt. Tờ báo như tập san độc quyền của các ngành thuỷ lợi thuỷ nông đường sông đường mía. Cũng một năm thì thở hắt ra.
Báo như thế là đã có dớp. Không hết hơi thì cũng dẹp tiệm. Cái chính là nó đã mất tên đã chết trong lòng độc giả từ lâu, không nên chơi trò xác ướp trở lại. Mọi người quay sang báo Ngày đẹp. Phụ trương Chơi của báo Ngày đẹp, nghe ngon tai. Nhưng Ngày đẹp lâu nay chỉ in được 1.000 bản vừa bán vừa cho, chủ thầu trước thua lỗ bỏ trốn sang Đông u mang theo nợ nần truyền kiếp. Tai tiếng ấy có đáng cho bộ sậu những nhà báo hàng đầu như ta ghề vai vào đi tỉếp chặng đường đứt gánh? Rốt cục toàn những người cấp tiến cởi mở với nhau, ngại ngần dẹp sang bên, ta chọn báo Ngày đẹp. Toàn bộ Ngày đẹp do một ông phó tổng tung hoành tổng biên tập và tòa soạn không ai biết làm báo, chẳng qua cơ quan chủ quản bổ nhiệm thì phải làm. Ông phó tổng có thực quyền. Ông sốt sắng. Ông động viên ông nhiệt tình hợp tác cho tạp chí Chơi về làm dưới vòm ông.
Bộ sậu Chơi được mời đến nhà ông tổng biên tập Ngày đẹp. Ăn lươn nướng ống bương kiểu Nghệ An. Lươn nướng chui hết ra khỏi ống bương thì ông tổng mới oang oang nói như nói vào nơi không người rằng phó tổng Ngày đẹp đã qua mặt ông, lâu nay ông vẫn xử sự theo kiểu nhà có con gái bị trêu ghẹo là để yên xem sao. Người ta khinh ông không biết làm báo ông cũng để yên xem sao. Người ta định ra một tờ báo mới không báo cáo ông cũng để yên xem sao. Bọ cứ để yên xem các chú còn kéo con gái bọ đi đến đâu nữa.
Bậc trưởng lão nghề báo và bộ sậu Chơi đã xơi hết lươn. Ra về mặt thì yên mà trong lòng lươn quằn quại. Một cô nhà báo ãngti ghen ghét với bộ sậu ở lại kích ông tổng. Chú dẹp bọn này là phải. Chúng nó đã tai tiếng với trên với dưới từ lâu. Chúng nó có tài phiệt đứng sau, cậy trường lực, chúng nó gây hấn nội dung, ba bữa người ta dẹp. Nếu không dẹp được âm binh nổi loạn, Chơi là báo non tuổi hơn Ngày đẹp báo mẹ thì cũng phiền chú. Dẹp.
*
* *
Thời hạn án treo một tháng chưa hết, chàng thư kí Chơi ngày ngày ngồi ôm bàn trực điện thoại. Chờ bùa ngải làm kén. Chờ chết làm ma cho một miền rừng. Ngày ngày ra vào phấp phỏng. Bứt rứt. Tức tối. Ngồi chờ mãi như thế ai mà chịu nổi, chàng lừ lừ lên đường ra quần đảo đông bắc viết thêm bài du kí. Một tay xe ôm chở chàng đi trên con đường xuyên đảo. Thao tác kiểu gai hướng dẫn viên du lịch anh xe ôm chở thư kí vào làng, chỉ hai cái giếng cổ dưới chân núi. Đúng lúc một đám con gái đang tắm tiên dưới suối thấy động chạy toé bốn phương tám hướng. Cứ nồng nỗng thế mà chạy, hai bàn tay úp mặt chứ không che hai điểm trên một điểm dưới. Họ cho rằng con người chỗ ấy ai cũng như ai, chỉ có cái mặt lộ ra mới phải ngượng. Tay xe ôm bảo đấy là giếng Long Nhãn mắt rồng, có từ ngày xửa ngày xưa. Con gái làng này chỉ ăn nước giếng ấy mà đẹp nổi tiếng, đẹp nhất quần đảo. Từ ngày có đường ống nước, nước máy vào tận nhà, người ta ngứa tay thế nào lấp giếng đi. Thế là hai chục năm qua làng thành trại cá sấu, con gái làng mắt lồi răng vổ. Cả làng sợ quá phải khơi lại giếng, nước càng trong leo lẻo mà chẳng ai dám lấy về dùng. Thư kí thử phản biện, cậu nói thế nào ấy chứ. Thật mà, em thề, vợ em cũng người xã này. Vợ cậu làm sao? Vợ em cũng vổ. Vổ cũng có duyên đấy. Anh nói thế nào, em tưởng răng khểnh mới có duyên chứ?
Đi cơ sở, chàng chỉ thích lân la với những nhân vật như thế. Chán người, chàng chỉ thích viết về thiên nhiên du lịch sinh thái lịch sử. Theo đường công tác chính thức, phải chìa thẻ nhà báo, lòng cứ tê tê vì đọc được ý nghĩ trong đầu người địa phương: nhà báo à, chắc lại đến xin quảng cáo hoặc moi móc nã tiền; nhà văn à, vừa mới có mấy ông nhà văn chả thấy nổi tiếng bao giở đến bình văn bình thơ xin phong bì nặng.
Chàng thư kí về lại văn phòng. Lại điện thoại nhầm số. Gọi đến cho người ta mà lại quát hỏi a lô ai đấy. Thư kí lạnh tanh: Đội tra tấn xét hỏi hình sự số Năm đây. Một lát lại reng reng a lô chị Cậy đấy à. Thư kí: Chị Cậy chết rồi. Ôi, em vừa gặp chị ấy sáng nay mà. Chết lúc chiều rồi. Em đang chờ chị ấy mang hàng đến, khách đang chờ. Thế thì xuống âm phủ mà chờ.
Mấy người ngồi quanh ai cũng lắc đầu. Điện thoại bưu chính viễn thông độc quyền thế đấy. Thư kí tòa soạn nói năng thế đấy. Trông vẫn chưa ra một tòa soạn báo.
*
* *
Cuối cùng xin được giấy phép ở báo Tiếng vọng. Cái tên hơi hoài cổ. Bù lại báo con tên Chơi nghe rất hậu hiện đại, rất mốt.
Thư kí lao vào làm ngày làm đêm. Dựng trang với họa sĩ trình bày. Gào thét các ban bệ nộp bài. Nhà phê bình bỏ đi kinh doanh công ty nước ngoài vứt mảng Văn học lại cho một nhà thơ trẻ đang thất nghiệp. Thơ chàng chết yểu năm chàng hai mươi tuổi. Uất ức Làng văn không xếp chàng vào chiếu nào. Căm hờn. Chàng chủ trương trang văn học chỉ có tiểu khí xỏ xiên đánh đấm tất cả những kẻ thành đạt. Chàng kí đủ mọi bút danh nấp trong bụi rậm mà vãi đạn ra. Làm sao cho báo mình số nào cánh văn nghệ sĩ cũng phải thấp thỏm liếc qua một cái, xem họ có bị lên thớt hay không. Chỉ có chàng nộp bài hăng hái sớm nhất. Các trang khác thì thư kí hò như hò đò, vò đầu bứt tai như ngứa gầu ngứa chấy. Chàng đề nghị chủ nhiệm trói buộc các trưởng trang bằng cách kí hợp đồng trả thù lao để họ không biến được. Chị nhà văn thấy bộ sậu bắt đầu khởi động được chị bèn lẳng lặng rút về viết tiếp tiểu thuyết, không biết thằng cò bất động sản trong bản thảo của chị còn lươn lẹo những mánh lới gì nữa. Ai cũng bảo vui thì làm báo thôi chứ không muốn nhận tiền ràng buộc. Không ràng buộc. Vậy thì lấy ai nộp bài bây giờ? Ông trưởng lão bảo chính vì thế ông không thích mời các cây bút nổi danh hoặc nhà văn nhà thơ. Ông chỉ thích nhà báo thuần tuý. Họ không có sự nghiệp nào khác ngoài làm báo, họ sẽ không tạt ngang tạt ngửa khơi khơi amatơ, họ chỉ duy nhất tâm niệm làm báo mà thôi.
Đang nước sôi lửa bỏng thì được tiếp hai ông nhà thơ. Ông đi xe hơi của con trai đến, đũng quần ướt đẫm khai mù, răng lợi xiên xẹo mắt đầy lá hành nhánh tỏi. Ông bảo chưa bao giờ ông sáng tác sung sức như bây giờ. Ông đưa thư kí một chùm mười bài thơ bảo đăng cho nhà thơ lớn. Ông thơ thứ hai không danh không tiếng, một đời ngơ ngẩn mất hồn vì thơ. Nhà ông xập xệ bão sập, ông chui vào lôi được cái tập bản thảo ra bỏ đi luôn. Đến nhà bạn ngồi làm thơ. Vợ con ông nhếch nhác bồng bế nhau về nhà ngoại ở nhờ mấy năm coi như không có ông. Sau này vợ buôn bán giàu phổng lên. Thằng con ba mươi tuổi thì có hẳn công ty riêng. Ông thơ mò về xin tiền vợ in tuyển tập thơ. Bà vợ bảo là căm thơ. Ông xin tiền con trai. Chàng doanh nhân bảo bố muốn gì con cũng chiều nhưng in thơ thì không. Con hận thơ. Thơ của bố suýt nữa làm mẹ con con đi ăn mày. Thế mà ông vẫn in được tập thơ, con không cho tiền thì lấy trộm tiền của con, mỗi tập tiền rút ruột vài tờ 100 nghìn, con trai nghi ngờ đuổi việc mấy đời thủ quỹ. Thế mà còn kể lại cho tòa soạn nghe. Thế mà cứ ra vẻ quân sư tha thiết khuyên tạp chí Chơi mở trang thơ, in thơ của ông mở hàng. Việt Nam là đất nước thơ ca, báo chí không in thơ là giết đi một lượng lớn độc giả tiềm tàng.
Điện thoại gọi đến reng reng reng. Chả biết người ta có nhầm không mà thư kí nhấc ống nghe lên nói ngay, không, không nhận thơ đâu, thơ ca thời này bốc mùi lắm. Dập máy luôn.
*
* *
Báo ra. Cuốn tạp chí cầm nặng tay cũng sặc sỡ bìa người mẫu trong nước và nước ngoài. Mấy đêm liền thư kí cùng trưởng lão làm ngày làm đêm, hai ba giờ sáng lăn ra ngủ trên bàn làm việc dưới nền nhà. Báo đưa phát hành vào các sạp báo, những sạp nhỏ chỉ xin nhận ba cuốn bán thử, hết sẽ lấy nữa, nhỡ bán không được tối lại khiêng về nặng gãy lưng em. Thư kí qua các sạp báo đánh mắt liếc vào sản phẩm của mình nằm tênh hênh thiếu nữ ngủ ngày theo kiểu thiếu nữ vô hồn, vô tư và hồn nhiên. Cẩn thận liếc thêm một cái xem sạp báo có dán áp phích quảng cáo Chơi hay không.
Về văn phòng vừa lúc có chuông điện thoại. Thư kí vui vẻ cầm ống nghe đúng bài bản: Tòa soạn báo Chơi xin nghe. Đầu tiên bên kia xối xả một tràng. Báo cái đầu bờ bố mày đây này. Chúng mày bảo chị Cậy chết làm suốt một buổi chiều bố mày chạy đi khắp nhà xác bệnh viện tìm. Rồi bố mày sẽ cho báo chúng mày không còn chỗ mà chôn.
Ngẩn ngơ một lúc sau mới nhớ ra hiểu ra. Trong một ngày vui thế này ai còn nhớ chuyện nhấm nhẳng của những ngày hoang mang chưa biết bùa bả có làm kén trong bụng hay không. Chiều cả bọn kéo nhau đi bún ốc. Trùng hợp thế nào, ngày báo hoài thai cũng đã bún ốc. Lại thấy chàng chủ nhiệm báo cười cười khi mọi người nhắc chuyện hôm nay có thằng mô mở hàng gọi đỉện thoại chửi báo. Chủ nhiệm lại còn nháy mắt hỏi thư kí có thấy giọng thằng chửi quen quen. Bỏ cha giọng ấy quen thật. Hay chính là chủ nhiệm chửi đểu chửi đùa? Bọn tài phiệt bị khinh thường nhân văn đôi khi không từ cơ hội để xỏ xiên cánh chữ nghĩa. Mà đúng là lúc ấy tay chủ nhiệm không có trong văn phòng. Hay chính là hắn?./.
Câu chuyện ngày cuối năm
Nguyễn Thị Châu Giang
Trời đã bắt đầu lạnh cắt da cắt thịt. Buổi chiều muộn lại thấy một lớp băng mỏng phủ trên hè phố, cống rãnh. Cứ chỗ nào có nước thì sẽ có một lớp băng xám mỏng manh và rất dễ vỡ như thế, tạo thành những tiếng loạt soạt trên khắp lối đi. Quê lau hai bàn tay dính đầy máu vào chiếc tạp dề treo ở tấm bảng gỗ rồi mặc áo khoác, quấn khăn, đội nón bước ra ngoài, sau khi dặn Othenlo nhớ khóa cửa trước khi về. Trông Quê lúc này giống một con gấu xám to béo và xù xì với khuôn mặt hiền lành của một đứa con nít. Quê rẽ qua toa-lét, ngắm mình trong gương một chút và cố gắng nhét mớ tóc quăn chỉ chực xổ tung ra vào lại trong chiếc mũ dạ. Một con bé tóc hung mặc juýp ngắn đi tất len màu đen suýt đâm sầm vào Quê. Nó cau mặt, chui tọt vào một góc, rút thuốc ra châm lửa rồi khạc nhổ ầm ĩ như ở chỗ không người. Nhìn nó, Quê lại nhớ hồi mới vô trường, cô cũng học đòi như thế cho ra vẻ dân nghệ sĩ của thành Pari hoa lệ. Nhưng chỉ được vài ngày thì thấy chán, thấy cuộc sống vẫn tiếp tục vô vị nhạt nhẽo lại tốn tiền quá nên thôi.
Hành lang tử phòng học dẫn ra sân chính đã bắt đầu thắp đèn, những cái đèn vàng tròn xoay lắp trên đầu những tượng thần bằng thạch cao gắn lơ lửng trong các hốc tường. Mỗi lần đi qua đây, Quê không khỏi cảm thương cho kiếp đội đèn của các vị thần. Sự cam chịu và sầu não đông cứng trong những cơ bắp cuồn cuộn và đường nét thanh tú trên khuôn mặt họ. Sự sầu não đó trong những ngày mưa ướt át và ảm đạm lan sang cả Quê. Cô thường đến trường với bộ mặt dàu dàu và bị bọn bạn chọc quê với cái tên “Chổi ướt”.
Ở ngoài cổng Quê gặp nhóm sinh viên nam lớp trên ăn mặc lôi thôi lếch thếch, tóc tai dài thậm thượt và phun khói thuốc lá như những đầu tàu. Một thằng trông thấy Quê liền huýt một tiếng sáo chói tai. Hắn nhào tới và làm như vô tình phả một luồng khói khét lẹt vào mặt Quê: “Ê, Chổi ướt, về sớm thế? Tối nay đi với bọn anh không? Có party ở nhà thằng Chanes...”. Cả bọn quây lấy Quê chọc ghẹo, tuồng như cô vừa từ trên trời rớt xuống với mặt xanh nanh vàng quái dị. Nhưng như thế này dễ chịu hơn, Quê nghĩ thầm. Chứ hôm đầu vô trường, bọn sinh viên chỉ nhìn Quê bằng con mắt lạnh lẽo có phần khinh miệt. Chúng không tin một đứa con gái châu Á da vàng mũi tẹt lại có quyền đặt chân lên mảnh đất thánh vốn chỉ dành riêng cho chúng. Điều này nhiều lần làm Quê suýt mất bình tĩnh. Cho đến một ngày bức tranh của Quê được treo trang trọng trong phòng triển lãm của trường, bọn chúng mới kiêng dè Quê hơn một chút. Bây giờ Quê đã có thể ngước đôi mắt mí lót đen láy của mình lên, nhìn thẳng vào chúng và cười nụ cười của Đức Mẹ: “Xin lỗi, tối nay tôi bận rồi”. Cô quay lưng vội vã bỏ đi. Hai ống tay dài thõng thượt xuống tận đầu gối. Cái túi bằng vải nỉ đeo trước bụng có lẽ nặng lắm nên cả người cô cứ chúi về trước, nom khổ sở hết sức.
*
* *
Tan sở lúc sáu giờ chiều, Tam mới sực nhớ hôm nay là thứ sáu. Theo lịch, chiều thứ sáu Tam không phải nấu cơm mà sẽ ghé qua quận Mười Ba, vào quán Hoà để dùng một tô phở nóng, một tô xí quách và hai li rượu nếp than. Trời rét cắt da cắt thịt. Băng vỡ lạo xạo dưới giày Tam. Chỉ cần nghĩ đến tô phở và những cái xí quách to tướng bám đầy thịt vớt ra từ thùng nước lèo. Tam đã thấy nóng ra cả mặt. Tam nhìn đồng hồ, chí ít thì cũng phải một tiếng nữa Tam mới có mặt ở đó.
Trong toa tàu điện ngầm vẫn còn thưa khách nên Tam chọn ngay được một chỗ ngồi. Nhưng đến trạm Lees Halis thì người đã ngồi đầy trên các ghế và đứng chen chúc ở bất kì chỗ nào còn trống trên sàn toa. Tam nới cổ áo để cho dễ thở hơn. Anh muốn ngủ một chút nhưng tiếng ồn cứ âm ỉ bên tai khiến anh không tài nào chợp mắt được. Anh lấy tờ báo ra giả vờ đọc kì thực là để quan sát những gương mặt đang bao quanh lấy anh lúc này đây. Bọn họ đều ra vẻ thờ ơ với thế giới xung quanh để toan tính một chuyện riêng nào đó của mình trong cái nhăn trán, nhíu mày đầy suy ngẫm. Nhưng chỉ cần anh chuyển động người một chút là người đàn ông béo ị đội mũ nồi đỏ ngồi trước mặt sẽ nhìn anh để dò xét và cho hai tay vào túi quần để giữ chặt cái bóp tiền ngay lập tức. Hoặc bà già khô đét như một con cá khô có cái mái tóc giả màu tím ngồi sát cạnh Tam sẽ thu tay ôm chặt cái túi da căng phồng vào trong lòng. Tam cười khẩy, tôi thừa biết các người nghĩ gì rồi. Vì màu da vàng của tôi, vì đôi mắt một mí màu đen và vì cái mũi tẹt của tôi mà các người mới sợ hãi đến thế phải không? Đừng có vơ đũa cả nắm như thế. Thốt nhiên Tam thấy quá chừng là buồn bã. Mình không thể trách họ được, vì dạo gần đây có rất nhiều vụ trộm cướp, trên các chuyến tàu điện ngầm do dân Châu Á và Ả Rập gây ra. Những tin tức loại này đăng nhan nhản trên khắp các báo.
Tam xuống sớm một trạm. Anh nghĩ mình nên đi bộ để lát nữa ăn ngon hơn. Chân Tam vẫn đạp trên băng lạo xạo. Người Tam nóng dần lên. Chỗ ghế đá trong công viên nhỏ, dưới một cây phong trơ trụi, một ông già trùm tấm mền rách đang ngồi chơi violon. Những bản nhạc run rẩy vì những ngón tay già nua run rẩy. Trong chiếc mũ dạ để trước mặt, lá vàng nhiều hơn tiền xu người ta bố thí cho ông. Khung cảnh này làm Tam nhớ đến công viên Luxembourg một ngày mùa thu chín ủng và mọng nước, có ông già ngồi gõ hết bản nhạc này sang bản nhạc khác trên chiếc piano cũ mèm. Lâu lắm rồi Tam không ghé qua công viên kể từ khi chia tay Nathalie. Người ta chỉ đến đó khi có đôi có cặp. Và rất có thể sau đợt nóng hổi tháng bảy vừa rồi, ông già chơi piano, cũng như rất nhiều ông già bà cả khác, đã vĩnh viễn không còn ra đó nữa. Tam lắc đầu thật mạnh, tưởng như để làm văng hết kỷ niệm ra ngoài cho nhẹ nhõm bớt. Quái quỷ, Tam cáu kỉnh nghĩ, hôm nay là ngày gì mà mình uỷ mị thế. Thật không đúng là mình chút nào.
*
* *
Hai người gặp nhau ở đầu đường. Đúng ra là Quê nhận ra Tam trước. Cái dáng lêu đêu, hai vai suôn đuột và mái tóc hoe chĩa ngược cứng như một bụi cỏ khô của anh. không thể lẫn vào đâu được. Quê bỏ bao tay vẫy anh bằng những ngón tay nhỏ xíu có những móng đỏ hồng. Cô cười, hai mắt tít lại:
- Chào anh. Anh khỏe không?
- Cảm ơn em, anh vẫn thường. Công việc của em ra sao?
- Cảm ơn anh, vẫn vậy thôi.
- Chà, năm nay rét nhỉ. Chỗ em người ta đã bật máy sưởi chưa”
- Dạ chưa. Năm ngoái cuối tháng một họ mới bật kia.
Đó là những câu xã giao thông thường họ vẫn nói với nhau mỗi khi gặp mặt. Mỗi tuần gặp nhau một lần vào chiều thứ sáu, những câu hỏi khô khan đó không bao giờ thừa vì một tuần có thể xảy ra biết bao chuyện cho sức khỏe, công việc, tình cảm...
- Em phải cẩn thận đó. Thời tiết này dễ bị bệnh.
- Dà...
Họ bước vào quán. Không khí ấm sực mùi hành trần mùi bánh phở trụng và mùi nước lèo. Ông chủ Trần hồ hỏi chạy ra: “A, anh Tam. Đến hẹn lại lên đấy à” rồi quay sang Quê, mặt cau lại. “Sao cô đến muộn thế?”. Quê ấp úng: “Cháu kẹt bài ở trường”. Ông Trần giục: “Nhanh chân lên, khách đang đợi kìa. Buổi nào cũng kẹt bài thế thì còn làm ăn cái gì nữa”. Quê tất tưởi đi vô trong thay tạp dề, vừa đi vừa nghĩ, gớm cái ông Trần này có khách nào đâu mà bảo khách đang đợi. Chỉ muốn làm khó cho mình thì có.
Tam chọn một cái bàn kê sát cửa sổ. Quê cũng vừa bước ra, cổ đeo tạp dề trắng, mái tóc quăn vấn cao trông rất nữ tính hỏi: “Anh vẫn dùng như cũ chớ?” Rồi không đợi Tam trả lời, cô biến vào bếp rất nhanh. Chẳng cứ gì cô, mà ngay cả ông chủ Trần cũng rất rành tính anh. Hôm nay ông bê nguyên cả chai Mai Quế Lộ tới và ngồi xuống bàn cùng Tam. Tam ngó quanh, hỏi: “Hôm nay rảnh dữ hả ông Trần. Chiều thứ sáu mà cũng vắng thế này sao?” Ông Trần gọi với vào trong: “Nhớ làm tô xí quách đặc biệt cho cậu Tam nghe mày”, rồi nhướng mắt ngó Tam: “Cha, cậu cả này, ở Tây lâu quá riết thành Tây rồi hả? Hôm nay ngày gì cậu đoán thử coi”. “Ngày gì ông Trần?” Tam thờ ơ hỏi. “Cậu cứ đoán thử đi”. Tam nhún vai, im lặng có vẻ không thích trò đánh đố này lắm. Ông Trần bật cười ha hả: “Tôi biết ngay mà, bọn trẻ các cậu chỉ có nhớ mấy cô đầm tóc vàng chân dài thôi. Hôm nay là Ba mươi, Ba mươi Tết ta, cậu hiểu chưa”. “Thì sao?” Tam dửng dưng hỏi.
Khái niệm về Tết ta đối với Tam là một cái gì đó quá đỗi mơ hồ. Gia đình Tam sang Pháp khi Tam còn bé xíu. Những ngày Tết ta gói gọn trong một tô miến, tô măng hoặc một miếng bánh chưng bé bằng vuông bàn tay hấp vội bằng lò vi sóng. Sau khi cha mẹ mất vì tai nạn, bánh chưng hay măng cũng không còn có mặt trong nhà Tam nữa. Anh ăn đồ Tây riết vì nhanh và tiện, chỉ dành mỗi tối thứ sáu để xuống tiệm ông Trần làm tô phở cho đỡ thèm. Tết ta hay Tết tây gì cũng thế, ngủ dậy buổi sáng là thấy mình đã già đi một tuổi. Có sung sướng gì. Nghe anh nói thế, ông Trần nhăn nhó: “Tôi già rụng răng còn chưa nói gì nữa là cậu. Ô là là, các cậu bây giờ mất gốc hết. Nhưng mấy đứa con tôi thì không đâu à nghe. Khuya nay tôi bắt chúng phải tụ tập đông đủ ở nhà. Bận gì cũng phải bỏ. Cứ tính theo mười hai giờ khuya của mình mà cúng tổ tiên thôi. Chà chà, Đêm ba mươi mà...”.
Quê bê phở cho Tam. Cô ngó thấy má anh đã bắt đầu ửng đỏ. Mớ cỏ khô trên đầu có vẻ như đang từ từ ngả xuống. Trông anh ta cũng bảnh đó chớ, dù có hơi khô khan một chút.
- Của anh đây.
- Cảm ơn em - Tam ngẩng lên nhìn Quê. Có lẽ anh đã hơi quá chén, vì hôm nay anh thấy Quê đẹp và dịu dàng lạ thường.
“Quê này, hôm nay tiệm nghỉ sớm. Ngày kia cháu hãy đi làm lại nhé” – Ông Trần bảo Quê. Cô ngạc nhiên hỏi: “Sao vậy bác? Mai thứ bảy là ngày đông nhất trong tuần mà”. Ông Trần nhướng nhướng mắt nhìn Tam tuồng như bảo, đó cậu thấy chưa, tôi nói cấm có sai bao giờ. Tam bảo:
- Hôm nay là Ba mươi Tết ta, cả em cũng không biết sao?
Quê xịu mặt, không nói gì. Cô lẳng lặng kê ghế ra ngồi ngó qua cửa kính. Tam và ông Trần đang bàn cãi chuyện gì ghê lắm, nhưng cô không để ý. Những bông tuyết nhỏ xíu đậu vào cửa kiếng rồi chảy tan thành nước. Lòng Quê rười rượi buồn. Cô tự trách mình sao đuểnh đoảng. Cả năm có một ngày duy nhất mà cũng quên. Hẳn cha mẹ và em trai cô đã mong ngóng điện thoại của cô ghê lắm. Hai năm trước, năm nào Quê cũng canh đúng giao thừa Việt Nam để gọi điện về. Vài ba tháng cô lại gọi về nhưng đêm giao thừa, dường như mọi thứ trở nên thiêng liêng hơn, nên chỉ mới nghe giọng Quê, mẹ cô đã khóc nức nở. Quê tủi thân, cũng nức nở khóc. Hai mẹ con khóc tu tu qua điện thoại, đến khi đầu dây báo tít tít vì thẻ điện thoại hết tiền mới thôi.
Mãi suy nghĩ, Quê không để ý Tam đang nhìn mình chăm chăm. Vừa ăn vừa nghe ông Trần nói chuyện, Tam vừa nghĩ, cô bé Quê lạ thật. Chẳng nhẽ câu nói của mình làm cô ta giận sao. Trông cô ta kìa, mũi cứ nhăn lại, miệng trề ra như sắp khóc vậy. Mình có lỗi gì đâu cơ chứ. Con gái Việt Nam đến là lạ. Cứ thẳng tính như con gái Tây có hay hơn không. Tam băn khoăn mãi cho đến khi ông Trần bảo đóng cửa tiệm và Quê đột nhiên bảo:
- Anh Tam rảnh không, tối nay mình lang thang chút đi.
*
* *
Hai người lặng đi bên nhau một đoạn đường dài. Băng vỡ dưới chân lạo xạo. Gió thổi rít qua tai. Tới cột điện thoại, Quê bảo Tam đợi một chút để cô gọi về nhà. Nhà ở Việt Nam kìa. Tam đợi lâu lắm, lối đâu chừng mười lăm phút mới thấy Quê bước ra, mũi đỏ rựng lên và mắt nhoe nhoét nước. Tam hỏi:
- Ba mẹ em khỏe chứ?
- Em không biết.
- Ở nhà ăn Tết vui không
- Em không biết.
- Có đi đâu chơi xa không?
- Em không biết.
- Sao cái gì em cũng không biết hết vậy? - Tam kinh ngạc kêu lên - Em vừa nói chuyện với họ mà.
- Nhưng em không biết - Quê chớp đôi mắt mọng nước nhìn Tam - Hai mẹ con đều khóc nên có nói được gì đâu
Đấy đấy, lại sụt sịt muốn khóc rồi. Tam ghét nhất là thấy người ta khóc. Mẹ bảo Tam từ lúc đẻ ra cho đến lớn, không bao giờ khóc. Đau hay không vừa ý thì chỉ gào lên chứ cấm không có giọt nước mắt nào rơi ra. Ngày ba mẹ mất cũng vậy. Tam không khóc được, chỉ thấy đau rát ở mắt và ngực. Nhưng với Quê, tự nhiên Tam thấy thương cô quá. Cảm giác muốn được bao dung, che chở cho cô khiến cổ họng Tam đau thắt lại. Tam choàng qua vai cô, âu yếm bảo:
- Nhớ nhà à? Rồi sẽ quen thôi.
Anh định bảo rồi cũng sẽ quen như anh quen sống một cuộc sống không có gia đình vậy. Nhưng lại sợ cô nghĩ ngợi gì nên thôi.
- Giao thừa nhà em vui lắm. Bốn ba con thắp nhang bàn thờ rồi nổ sâm panh, cắt dưa hấu. Năm nào dưa hấu đỏ là năm đó tốt lành - Quê có vẻ vui trở lại. – Mà mẹ em khéo lựa dưa, nên năm nào cũng bổ đúng trái dưa ngon.
- Thế còn đốt pháo thì sao?
- Xưa rồi anh ơi. Cái trò đó giờ đâu còn nữa.
- À vậy cũng mất vui nhỉ?
-Cũng có hơi buồn một chút. Nhưng bù lại người ta cho bắn pháo bông. Bắn tới mười lăm phút lận - Quê hoan hỉ như cô sắp sửa được trông thấy pháo bông bắn lên trời vậy - Sau giao thừa cả nhà đi chùa hái lộc.
- Lộc là gì?
- Ờ, anh không biết thiệt sao? Ờ, mà tại anh rời Việt Nam sớm quá, không biết là phải. Lộc là... ừm...
Tiếng Quê bị át đi trong tiếng gió.
- … Ỏ đây rét quá, cây cối chẳng có tí lộc nào để mà hái, anh nhỉ?
Vì không nghe rõ lời giải thích của Quê nên Tam chỉ ậm ừ, chỉ sợ là mình trả lời lại làm cô cười thêm một trận. Quê líu ríu kể chuyện này sang chuyện kia, làm Tam cuốn theo câu chuyện cũng thấy vui lây. Tam lan man nghĩ, mình thật thiệt thòi. Có những điều tốt đẹp nhường kia mà sao không bao giờ mình có được. Kí ức chỉ là những chuyện đau lòng. Còn những ngày đang sống sao khó khăn vất vả. Đến ngay cả bọn Tây cũng chê mình là khô khan. Ước gì mình có được một chút niềm vui từ Quê, hẳn mình sẽ sống khác đi nhiều.
Quê bỗng dưng đột ngột dừng lại hỏi:
- Anh này, thế đêm giao thừa anh làm gì?
- Có lẽ là đi làm, nếu không phải ngày cuối tuần.
- Thế ba mẹ anh có làm lễ cúng tổ tiên không? Giao thừa như đêm No-el bên Tây, mọi người đều phải tụ họp về nhà. Gia đình anh không vậy sao?
- Họ mất rồi - Tam trả lời, giọng khô khan.
- Em xin lỗỉ - Quê nói khẽ. Cô chủ động cầm tay Tam, bàn tay thô ráp và lạnh. Cái chạm bất ngờ ấy làm Tam kinh ngạc. Chưa bao giờ anh nghĩ sẽ có lúc mình và Quê gần gũi đến mức này.
Họ ngồi xuống một ghế đá trên đại lộ Champs Elisées. Mặt Quê kề sát mặt Tam. Ánh đèn màu từ các quán cà phê soi rõ khuôn mặt tròn nhỏ nhắn và đôi mắt trong veo của Quê. Tam nghe tiếng Quê thì thầm: “Cảm ơn anh. Chúc một năm mới hạnh phúc” và cảm giác một cái hôn nhẹ phảng phất qua má. Một nụ hôn ẩm ướt còn thơm mùi phở làm Tam xúc động quá. Tam muốn hỏi cô cảm ơn anh về cái gì và thật lòng Tam cũng muốn nói cảm ơn cô, nhưng cổ họng nghẹn lại. Lần đầu tiên trong những năm tháng sống không gia đình trên đất khách quê người, Tam thấy mình thật sự muốn khóc./.
Rồi cũng tới nơi thôi
Nguyễn Thị Thu Huệ
Bắt đầu là một bản tin thời tiết từ vài dòng văn hoa du dương cố hữu đến quen trên trang cuối báo Tuổi trẻ “… bắt đầu từ ngày hôm nay, người dân miền Bắc sẽ gặp một đợt không khí lạnh. Khoảng cách nhiệt độ ngày và đêm chênh nhau khá lớn. Từ 12 - 24 độ. Đợt không khí lạnh phía Bắc tràn về nên vùng núi phía Bắc nhiệt độ có nơi xuống 4 đến 0 độ...”.
Có vậy thôi. Thế mà tôi thấy luôn khuôn mặt ông. Người đàn ông chắc ở tuổi nào cũng vậy. Nét trai lơ, trải đời như được nhuộm từ ánh mắt, khoé môi, bàn tay, cái lắc đầu như rất điệu nhưng không hề cố ý... Thậm chí có lúc hình như ông ngủ gật nhưng rõ ràng là ngủ gật cố tình. Thỉnh thoảng. ông trở về trong trí óc tôi. Điều duy nhất tôi thường tự hỏi mình tại tôi thần thánh ông quá nên ông thực ra cũng bình thường lắm, như cả triệu người nườm nượp tóc đen, da vàng kia hay ông thực sự bí ẩn, quyến rũ?
Tôi không tự lí giải được mình. Mọi người bảo mình thường hiểu mình hơn người khác hiểu mình. Thế mà riêng chuyện cứ nghe tin gió mùa đông bắc, hay trời càng lạnh tôi nhớ ông. Nhớ quằn quại. Nhớ bệnh hoạn. Từ lúc đọc thông tin thời tiết nhiệt độ có thể xuống đến 0 trong những ngày tới, người tôi bỗng nóng bừng như sốt, chân cuồng lên vì những con gì đó lân tân li ti chạy trong mạch máu như thể nếu tôi không chạy ngay lập tức nhảy lên một chiếc xe hàng nào đó, để ngây ngây ngắm con đường nhựa phẳng lượn lên lượn xuống như một dải lụa dài quấn quanh những sườn núi, để cùng dừng lại ở một hai quán cóc bên đường cho hành khách nào thận suy, cứ dứt khoát phải giải quyết nỗi buồn xong là uống một cốc chè mạn tướng mới yên tâm cho xe lượn tiếp. Và rồi ét ét, dô dô vài lần. Vài lần đang ngồi thì bỗng va đầu đánh cục vào ghế trước vì ô tô của tao phải tránh xe máy của mày miễn không đi mạng nào là may lắm rồi. Chỉ khi tất cả tay xách nách mang xuống hết và trước mặt tôi là chợ Đồng Đăng thì những con gì trong máu tôi thôi chạy lân tân li ti. Người thôi bốc nóng. Tôi chỉ dám tự hiểu mình thật đơn giản cho chuyện này. Đấy là tôi có nhu cầu ở bên ông. Vào những ngày thật thật lạnh. Và tôi cũng chỉ nhớ ông vào những ngày “Miền núi phía Bắc trời rét đậm, có nơi có sương muối và tuyết”. Còn những ngày ẩm ương nồng nàn cải lương như mùa xuân cho tình yêu đâm chồi nảy lộc, mùa hạ tình yêu cháy bỏng, mùa thu nồng nàn... Tôi không nghĩ con người là ông tồn tại trong cuộc đời này. Lại càng không có trong tôi.
Lạng Sơn. Đêm cuối năm. Một năm nảo năm nào tưởng không thể quên được, thế mà lại quên trong khi nhớ và vô tình như loang loáng bay trong không gian mùi cháo vịt quay Bắc Kinh ở một quán ăn đêm nào đó xa thật xa lại nhớ như vừa được húp một bát xong.
Ông ngồi gật gù ngủ với dáng bố cục thật chặt. Những đồ đạc của quán dồn sang một bên. La liệt bình rượu Trung Quốc thơm như tẩm hương liệu. Hai con gà cởi truồng làm đã lạnh càng lạnh hơn, dù sau lưng hai con cởi truồng béo múp đó, thấp xuống một chút nghi ngút khói bốc lên từ nồi cháo gạo. Sau đám lủng củng đó là cái phản nhỏ. Lù lù một đống chăn nhìn kĩ thấy thò ra một cái chân đi tất đó to xù, ước tính chủ nhân của đôi chân đi tất đen phải cao mét tám, nặng tám mươi cân. Thế nhưng theo độ phập phồng của đống chăn thì chủ nhân chắc cao thước rưỡi, nặng 40 cân. La liệt dưới chân là bát, thớt, dao, rau thơm, bánh đa, miến... Lung tung, loe toe. Rất bừa nhưng không bẩn. Trong ánh sáng đung đưa của hai ngọn đèn vàng chắc 40W, ông tóc dài buộc túm đằng sau bằng vải sợi vắt một bên ra trước, người hơi thụt xuống trong tấm áo dạ kẻ ô vuông ấm áp. Vì có ông. Tất cả giống một bức tranh.
Tôi ngồi ngắm ông vừa ngủ gật vừa tạo dáng. Chỉ nhìn mỗi ông nhưng thấy tất cả. Không gian lạnh buốt thấu xương sau những cơn gió rất nhẹ tưởng không phải là gió. Thấy tiếng những người buôn nói chuyện hàng họ, trốn chạy công an thuế vụ bằng giọng rất đặc trưng không lẫn vào đâu. Thấy thỉnh thoảng anh xe ôm được “hàng sống” gọi chở em vào khách sạn tàu nhanh giá rẻ xài đỡ ngày đông. Thấy những người Trung Quốc làm việc chở hàng qua biên giới vừa húp cháo vừa tán chuyện ông ổng như thể ngoài họ ra, tất cả là tượng đá dưới âm ti... Chính vì thấy hết. Cảm hết. Lại lân tân li ti có con gì đó bò trong người. Nhưng lần này là con thèm rượu. Không có mùi rượu thì nhạt lắm. Vô duyên và thừa thãi chính mình lắm.
Nắm cổ một bình rượu, tôi lặng lẽ lót đầy chén hạt mít và tợp một hơi. Bắt đầu là mùi đậm như nước mắm cốt, cay xé cổ họng, rồi mới thơm. Cái con lân tân li ti đỡ chạy cuống cuồng trong người. Làm chén nữa. Lại như uống nước mắm cốt. Lại xé toang cổ. Lại thơm... Đến phát thứ tư, ông vẫn vừa ngủ vừa điệu, nói “Cô lấy nước vối trong ấm kia chiêu đi, rượu này đốt họng đấy”.
Tôi nhìn bức tranh bố cục chặt. Không giật mình thảng thốt khéo diễn như các cô gái gọi, hay diễn viên người mẫu giải nghệ diễn như thở. Bình thản nhấc ấm nhôm lên và rót một cốc nước nâu nâu vàng vàng có tên là nước vối. Một hơi hết luôn. Bấy giờ. Mới thấy rượu ngọt và thơm.
Bố cục chặt vốn gốc người Hưng Yên. Trong bản khai lí lịch ghi rõ sinh ra và lớn lên trong một gia đình danh gia vọng tộc, từ đời ông bà tổ tiên không ở trong chi này nhánh nọ của những dòng họ nổi tiếng thì tệ nhất cũng có nghề bánh gai gia truyền từ lâu ơi là lâu. Bố cục chặt từ bé đã được trong ấm ngoài êm hưởng theo nhu cầu. 14 tuổi bố cục chặt vẫn uống sữa, ăn súp lấy tinh, lấy cốt. 16 tuổi vẫn có chị vú vừa tắm vừa cho sờ tí. Cả hai cùng cười rích rích tắm mãi không sạch vì chị tắm cho em xong em lại tắm cho chị. Rồi hai chị em cùng tắm. Cùng sướng.
Chơi đến như bố cục chặt chắc thua vua chúa ngày xưa chứ cả vùng Hưng Yên không ai không biết cậu. Cậu là thần tượng của nam phụ lão ấu. Mỗi người yêu cậu một kiểu, mê cậu một lối. Cậu đến đâu bao giờ cũng có vài cái ghế đưa ra cậu ngồi. Cậu hợp cà phê đen ít đường các quán đều thuộc. Cậu hạ mông ngồi vào đâu, ba bề bốn phía thành ngay một bức tranh bố cục chặt. Thế làm gì cậu chả được nhiều người say. Cậu là người của đám đông, của sự ngưỡng mộ không lí giải cụ thể là được ngưỡng mộ vì điều gì. Chỉ biết là ngưỡng mộ. Chắc là vì cậu đẹp trai, cao ráo, lại thơm, biết diện, lắm tiền. Đặc biệt cậu có duyên nói. Sau này, khi bố cục chặt vừa khóc khùng khục vừa miết mặt lên vùng bụng dưới gồ mỡ chắc và mát của tôi, nói là nhờ làm tình nhiều với đàn bà đâm thành người sâu sắc hóm hỉnh. Sau mỗi trận mây mưa từ năm 16 đang trẻ khỏe chẳng nhẽ lại thở hồng hộc lăn đùng sùi bọt mép ra ngủ như những lão già chơi trống bởi thèm gái, thích chinh phục và hiếu thắng, nhưng cứ hí ha hí hóp xong việc là vật ra ngủ như chết, ngủ sướng như anh nông dân vừa cày xong ba thửa ruộng...
Bố cục chặt thì ngược lại. Không bao giờ ngủ. Bố cục chặt lúc đó, và một thời gian dài ơi là dài sau này sung mãn lắm. Trời hình như cho bố cục chặt thêm khả năng đó nên càng làm càng khỏe. Càng khỏe càng hay chuyện. Mà chuyện với gái qua đường thì biết rồi đấy. Đủ giọng. Lúc đầu thì em nào cũng có xuất thân như sao y bản chính của nhau. Hoàn cảnh gia đình đứa nào cũng như thể chúng sinh ra từ một ông bố và một bà mẹ vừa nghèo vừa đáng thương vừa bệnh tật không cấp cứu bệnh viện thì cũng vừa ở viện về... Nhưng thay vì các em khai hết lí lịch công đoạn một, đến công đoạn hai là em hết hơi hết sức (giả vờ) chiều anh và kết thúc là công đoạn ba tùy tâm anh cho em bao nhiêu em biết bấy nhiêu thậm chí lần này em tình cho không biếu không lấy chỗ đi lại. Gặp phải bố cục chặt. Thêm công đoạn bốn. Đây là buôn chuyện. Đến cái nước này thì còn gì mà mất. Nói dối cũng có lúc. Dối mãi sao được. Thế là toé loe chuyện các em bây giờ không còn sao y bản chính dập khuôn đóng gạch giống nhau thành phần xuất xứ, mà là âm ti củ tỉ chuyện. Bố cục sẵn có dáng dấp lãng tử của hồi môn duy nhất thừa hưởng từ dòng họ danh gia vọng tộc không bị cầm cố thoắt thành người hóm hỉnh, sâu sắc. Biết nhiều mà chỉ có mình mới hiểu tại sao.
Tôi cũng không còn trẻ. Lại không phải một cô gái ẩm ương điệu rơi rụng, điệu chảy nước vì tưởng cứ là gái thì phải mềm, phải chớp chớp gật gật nghiêng nghiêng làm duyên đong giai, giai thích. Tôi cứng cỏi từ bé. Nghịch như con giai từ bé. Và tuyệt nhiên không biết điệu, biết rơi rụng như bọn cùng lứa. Tôi thích gì làm nấy. Có khi biết từ lúc chưa làm là sẽ sai lầm nhưng cứ làm vì đã nghĩ đến thì phải làm. Sai thì sửa. Có sai mới biết thế nào là đúng. Đúng cũng từ sai mà ra. Thế mà. Tôi cũng tốn giai (không biết những cô ẩm ương mắt càng nhắm đến tiền càng tinh kia thì tốn đến đâu?). Tôi gật gù cùng vài bình rượu, siêu nước vối nguội với bố cục chặt chẵn một đêm. Bình minh lên. Thấp thoáng sau những đụn mây pha sương hiện mờ dần những lưng chừng núi như tranh thủy mặc chất liệu lụa tơ tằm bán đầy Hàng Gai thì tôi và bố cục chặt xiên xẹo ngã đổ vào nhau trong một căn phòng tất cả đồ Trung Quốc. Tôi say thế vẫn đủ tỉnh để biết bố cục chặt cũng say bét nhè. Thế mà (lại thế mà) ngã vẫn ngon. Vẫn bố cục chặt. Đầu gối lên bụng. Tay vắt qua người. Một tay kia luồn vào trong áo phá bung ra. Tôi rõ ràng là một họa sĩ tử tế tên tuổi. Tranh bán túc tắc giá cao dù hết tiền tiêu cũng không hạ. Lại có tiếng ngang tàng không biết sợ ai. Thừa bản tính đàn ông và luôn chủ động trong mọi tình huống. Kể cả lúc say. Thế mà (Kinh dị không. Bắt đầu của câu chuyện hồi gay cấn bao giờ cũng có chữ thế mà). Thế mà. Làm tình xong. Cũng buôn chuyện.
Bố cục chặt bảo thích nhất cái bụng béo và mát của tôi. Thích thứ hai là mông béo cũng mát lại tròn. Còn cong nữa. Kể xong chuyện dòng họ chỉ vài người như bố cục chặt mà phá gia chi tử, nhà cửa đội nón ra đi. Đi hết. Nghề truyền thống là cái khó đi nhất cũng đi nốt. Lật mông béo tôi lên, úp mặt vào đó sang chuyện tại sao đang là cậu oách thế lại dạt lên Lạng Sơn vừa bán quán vừa ngủ gật. Xoa bàn tay ấm mềm không một vết chai lên đôi mông tròn căng mát rượi của tôi, bố cục chặt bảo phải bỏ quê đi biến để lưu lại cái thần tượng. Đã là người của đám đông rồi không sống yên với một người đâu. Không làm nên một việc gì đâu mà chỉ đám đông thần tượng mình. Tôi vừa úp mặt xuống cái gối sa tanh đỏ mát lịm, vừa cong mông tròn cho bố cục chặt hít hà, hỏi: “Thế thằng nào ngủ trong đống chăn? Chân gì mà to thế?”
Bố cục chặt sướng, nhe răng cắn đánh nháy một cái vào cái mông xinh mông tròn mông mát làm tôi giật nảy người, lật ngang lấy tay xoa rối rít. Đúng là bố cục chặt. Trong lúc bị tôi hất ra, mặt thế quái nào lại rơi đúng vào bụng mát. Đấy là một con đàn bà. Biết anh bỏ quê đi, trốn nhà đi theo “Lại như những con hàng sống kia chứ gì?” “Không. Con nhà nề nếp gia phong tử tế gấp chục lần nhà anh. Giai theo hàng đàn, toàn bác sĩ, kĩ sư, là người thần tượng của nam phụ lão ấu cả vùng Hải Dương”.
Đến thế này thì dù bộ râu của bố cục chặt cà cà vào bụng mát làm tôi lại bị con gì lân tân li ti chạy loanh quanh khắp người mà nếu vào lúc khác thì bố cục chặt kiểu gì cũng chết. Nhưng lúc này thì không. Tôi hắt bố cục chặt ra. Ngồi thẳng dậy. Tỉnh hẳn rượu như thể cả người bị dìm vào bể nước lạnh.
Bố cục chặt nằm nghiêng nghiêng hiếng mắt nhìn tôi giống tôi nhìn con gà cởi truồng, rùng mình: “Trùm cái chăn vào không cảm lạnh bây giờ. Gió núi độc lắm”. Tôi không thấy lạnh vì gió núi, mà lạnh vì vẻ bất chợt ma quái của bố cục chặt, run run hỏi: “Con nhà tử tế mà bỏ theo anh lên cái xó rừng này mà ngủ đường ngủ chợ? Lại còn xinh nữa?” Bố cục chặt cười nhạt như thể tôi hỏi một câu thà đừng hỏi cho xong. Không trả lời, ôm vòng qua hông mát của tôi, kéo xuống. “Cái tội của anh và cô bé ấy giống nhau, đi với nhau là đúng thôi”. “Tội gì?” Tội là người của đám đông. Không có đám đông không chịu được. Rồi không biết từ lúc nào trở thành người khác. Mất mẹ nó mình”. “Thế thì sao?” “Khi đám đông vãn quây lấy mình để quây sang một thần tượng mới. Trơ ra. Không biết đi đâu về đâu. Mất phương hướng”. “Vớ vẩn, tôi chưa nghe ai nói mình mất phương hướng vì một đám đông” “Vì em chưa tạo cho mình là thần tượng của số đông hoặc của nhiều người”. “Nhầm. Tôi đầy con nhang, đệ tử thiếu nước vái sống thôi”.
Bố cục chặt bật cười sướng. Loanh quanh thế quái nào xoay mông mát tôi ra. Làm một nhát. Tôi nảy tưng người. Đạp cho bố cục chặt một nhát. Đau ứa nước mắt. “Anh bỏ đi ngủ với tôi thế này, cô ấy không rồ lên sao?” Bố cục chặt vẫn kê mặt ấm ơi là ấm lên mông mát của tôi một hồi lại làm con gì lân tân li ti chạy dọc sống lưng, không trả lời. Những con bé con con đó ở đâu ra mà lắm, chạy như điên làm tôi cũng chán chả thiết hỏi thêm những điều người ta không muốn trả lời. Tôi hơi xoay người. Kệ thấy tất cả.
Vài lần gió mùa đông bắc đến rồi đi. Vài lần khật khừ xe hàng dã chiến lên chợ đêm uống rượu rồi về khách sạn buôn chuyện với bố cục chặt. Chúng tôi có lẽ là một đôi tình nhân đặc biệt nhất thế giới. Lúc giống bạn hàng đi buôn cùng chuyến tàu. Lúc như hai thằng bạn rượu, không có nhau rượu chát như cồn, nhạt như nước sông. Lúc giống chuyện tình Lan và Điệp cải lương không chịu được. Khi như hai kẻ bế tắc mất phương hướng đến cùng cực, không đủ nghị lực xác định xem sống hay chết có khác nhau, những lúc sướng nhất lại lảm nhảm nhiều nhất sẽ đi đến đâu cái đời sống này. Để nghe bố cục chặt sâu sắc gật gù rồi cũng tới nơi thôi.
Cô phát thanh viên chuyên mục Dự báo thời tiết của Đài truyền hình thông báo một tin không đáng mừng lắm cho nhân dân bằng một giọng an ủi, cảm thông “Ngày mai, những người dân phía Bắc sẽ phải đón nhận một đợt rét đậm, có thể rất đậm. Và cái rét đó, sẽ lan đến những người dân Hà Nội nhưng không vì thế mà nắng vàng phai nhạt. Sau đây là dự báo thời tiết...”.
Tôi nhận được lá thư của bố cục chặt chào tôi để đi tiếp. Lời lẽ mộc mạc như những lần buôn chuyện sau một cơn mướt mải. “Tôi phải đi khỏi đây rồi. Đằng ấy có biết vì sao không? Nói đằng ấy đừng cười, tại đằng ấy đấy. Sắp đến những ngày đông dài. Biết là lại được gặp đằng ấy, tôi mong lắm nhưng người nó cứ vu vơ làm sao ấy. Để rồi thấy đi và không gặp đằng ấy nữa là hay hơn cả. Tôi đi. Đi mãi. Rồi cũng tới nơi thôi. Chứ cứ dật dờ đợi xuân hạ thu qua để đông về được gặp đằng ấy rồi lại đợi... Tôi nhão người lắm. Dạo này thế nào, cứ ghê ghê chính mình. Sợ rồi đằng ấy cũng ghê ghê tôi thật khủng khiếp. Dù sao thì tôi cũng là người sướng. Nói đừng cười. Lúc nào tôi cũng nhớ bụng mát, mông mát của đằng ấy và muốn cắn thật nhiều. Cũng may đằng ấy còn có một cái nghề mà chơi, mà sướng cho mình, chứ tôi thì... Tạm biệt”.
*
* *
Những ngày cuối năm. Tôi lên Lạng Sơn.
Toàn cảnh Đồng Đăng về đêm trong sương, gió đầu mùa như một bức tranh với bố cục thật chặt. Ấm nồng và hương vị gió núi loanh quanh. Trong khi đó, bản tin thời tiết cuối cùng trong ngày vẫn tiếng cô phát thanh viên du dương
“Vùng núi phía Bắc, nhiệt độ có thể xuống đến 0 độ C....”./.
Dòng nước trong vắt
Lê Minh Khuê
Trong những ngày vợ của Khanh nằm viện, ông Minh bồn chồn lo lắng. Khanh vẫn gọi ông là nghĩa phụ. Ông đã có trong đời Khanh từ những năm cuối sáu mươi, khi ông người Huế tập kết theo tàu ra Hà Nam dạy học. Ông nhìn những đứa học trò vùng chiêm trũng lúc nào cũng đói nhưng học dưới ánh trăng cũng học, đi đến lớp lả người vì buổi sáng chỉ lót dạ gáo dửa nước mưa, nhưng năm nào cũng đứng đầu lớp. Thầy cũng chả khá hơn trò. Nhưng tạt vào chỗ thầy có khi được cốc nước đường, có khi cái kẹo. Hôm nào mưa gió ở lại trường thầy trò chia nhau suất cơm. Bây giờ Khanh là vụ trưởng một vụ trong một bộ thanh thế tiền bạc. Coi trai du học, con gái đại học trong nước. Nhưng vợ nay ốm mai đau. Ông Minh đã ở tuổi 80. Dáng dấp như người ở tuổi 60 tráng kiện. Luôn mặc sơ mi sáng màu. Quần sáng đi dép quai hậu. Từ ngày nghỉ hưu cách đây hơn 20 năm ông vẫn hoạt động. Như trai tráng. Như không thừa nhận tuổi già. Thời gian này ông tìm cách bảo vệ cây bao báp. Giống cây ở châu Phi được một người Pháp đem trồng ở thành phố của ông. Nó sống kiên trường trong thứ đất, nước, không khí lạ. Nó không to để có thể trú mưa cho cả làng trong những cái hốc đục vào thân cây. Như ở xứ Phi Châu. Nhưng nó vươn cao, không nhiều lá mà nhiều cành. Làm um tùm một góc phố.
Ông Minh được Khanh đón từ miền Trung ra chơi. Ở nhà vợ chồng Khanh ít lâu. Đang thời gian đó vợ Khanh ốm. Bệnh cũ. Ông Minh bảo: Để ba điện cho Giá. Giá là con cụ Hàm nhà giáo nhân dân học với ba thời Quốc học. Giá có con trai mới học bác sĩ chuyên khoa ở Mỹ về năm trước. Tên là Quốc Trị. Chuyên môn nó tốt. Nó sẽ điều trị cho con.
Khanh đã quen với thói thường. Thới đời. Khanh bảo: Thôi ba ạ. Để con cứ đưa Hiền vào bệnh viện. Nộp tiền điều trị, ngoài ra bỏ túi cái phong bì nặng nhất cho bác sĩ chính. Còn khoảng ba chục cái phong bì cần gì rút ra. Êm re. Ba đừng gọi điện cho cụ Hàm. Đừng gọi cho Giá. Quen biết đưa phong bì lại phiền ra.
Ông Minh nghe Khanh nói chăm chú. Rồi ông cười: Tiền. Măn ni. Ba nghe rồi. Cũng có nhiều việc ba phải dùng đến nó. Nhưng ba không tin đâu. Không tin là tất cả đã như vậy ở các nước, vào khách sạn anh phải đưa tiền cho người xách va li. Ra đi nên để vài đô cho người dọn phòng. Cái đó thành luật sòng phẳng trả công. Nhưng vào bệnh viện, trả tiền giải phẫu tiền viện phí rồi, không nhất thiết phải thêm như thế đâu con. Tin ba đi.
Khanh cười cười nhìn vợ. Nhìn cái vẻ mặt ngơ ngơ của ông già tuổi tám mươi, lại thấy thương ông. Đời sống như chảo nước sôi ông vân tưởng nó chỉ ấm áp đủ cho con người đặt chân êm ái. Gặp ai có cảnh ngộ gì ông cũng giúp. Bạn bè cùng thời Quốc học với ông giờ đây con cái đều có trọng trách. Có vị cỡ Nhà nước: Ai nhờ gì ông gọi điện cho bạn. Bạn gọi cho con. Cứ suông như vậy rồi ngồi nghĩ là mọi việc êm xuôi. Nhiều người bảo với Khanh: Các cụ như trẻ con thời chơi bi. Bây giờ mà nhờ vả kiểu tình nghĩa như thế hệ già đâu có được. Thôi thì cứ nhận lời nhờ. Nhưng mấy cái phong bì nặng vẫn phải dùng đến. Không thế thì đến tết mặt trăng chưa chắc có xong việc.
Khanh đưa vợ vào bệnh viện. Ông bắt đầu lo lắng. Nếu thằng Trị con trai của Giá cháu nội ông Hàm mà nhận tiền thêm của Khanh, liệu ông có dám nhìn thẳng vợ chồng thằng Khanh. Mà nếu nó không nhận tiền, nó chữa cho Hiền không chu đáo… Lúc đó thì sao?
Ngày trước mọi việc đâu có thế. Cha mẹ ông giàu có ở Huế. Ông mặc quần trắng, áo dài đen đội mũ cát vành rộng màu trắng đi giày vải. Mặc kiểu cổ thế cho cha ông vui lòng. Cha ông là chủ hãng buôn gạo từ trong miền Nam ra miền Trung. Người ta có lúc không có ăn. Nhưng hai anh em ông thường chơi trốn tìm trong kho gạo của cha. Trèo lên đống gạo cao ngất ngưởng rồi tụt xuống đất. Có hôm ngã sóng soài đập đầu vào tường chảy máu cả vào bao gạo trắng. Kỉ niệm khó quên. Khi thấy người ta nghèo mà ngạc. Lúc đó Hàm bằng tuổi ông. Cha mẹ ngoài Bắc cũng là chủ hãng xe hơi nổi tiếng. Hàm mặc đồ Tây đeo cà vạt lụa: Trọ học bên nhà dì ruột bên Thành Nội. Từ Thành Nội qua Quốc học Hàm đi xe hơi của nhà dì. Nhưng vào đến trường thì nghịch ngang quỷ sứ: Cả bọn yêu thích ngôi trường rợp mát tường đỏ sậm cổng mở về phía sông Hương. Một lũ con trai sàn sàn tuổi cùng lớp học không mường tượng nổi thời đại sẽ đổi thay. Sẽ có cả nhiều biến động trong tâm hồn mỗi người. Cùng lớp có anh Dương nhiều tuổi hơn cả bọn. Anh Dương người trong Quảng. Bao giờ đến lớp anh cũng ăn mặc rất cẩn thận, sạch sẽ. Quần trắng là nếp thẳng. Áo dài đen. Mũ màu trắng. Cả quần áo giày mũ đều cũ cũ. Nhưng lúc nào cũng được săn sóc. Có điều Hàm phát hiện ra sao anh ấy xanh xao thế? Hàm nói với Minh. Minh cũng thấy anh quá gầy so với cái dáng cao lỏng khòng. Vào mùa rét hình như anh lạnh lắm. Đến lớp môi tái như mất máu. Hàm rủ Mình: Tụi mình đi theo xem anh ra sao hỉ!
Cả hai rủ nhau bám theo anh Dương xuống tận bên dưới Vĩ Dạ. Anh trọ học trong một nhà cũng nhỏ bé đìu hiu có hai vợ chồng già. Vài tháng anh mới có tiếp tế trong Quảng ra. Trả tiền nhà. Ăn uống dè sẻn vì nhà anh cũng rách rưới. Nhưng quyết cho anh kiếm chữ.
Hàm và Minh thương anh Dương. Lần đầu tiên nói chuyện anh kể cho nghe. Lại dặn thêm. Hai em biết đến đây thì biết thế. Đừng cho người khác biết. Anh không muốn người ta nhìn mình như người bần hàn...
Từ đó anh nhận gạo của Minh - Minh khui kho gạo của cha đong vào ruột tượng. Quàng ruột tượng qua bụng mặc áo khoác đi lối vườn sau cho người làm khỏi thấy. Có thể xin, cha có thể cho. Nhưng đeo ruột tượng gạo cho anh Dương có gì như hành động nghĩa hiệp trong các câu chuyện ở sách Tàu. Hàm thì cho anh Dương tiền. Mỗi khi có người ở Bắc vô còn cho anh vải may quần áo. Anh Dương người đàng hoàng không dám nhận giúp đỡ. Nhưng sau cũng hiểu ra. Không đáng là bao mà thấm đậm ơn nghĩa bạn bè. Nhiều lần anh khóc ròng. Khóc như đàn bà. Như trẻ nít.
Sau này anh Dương như biến mất. Có người nói anh đi cách mạng. Người bảo anh ra nước ngoài: Cũng có người cam đoan thấy anh ngã gục trong dòng người chạy loạn ra khỏi thành phố dạo năm Ất Dậu. Mãi sau này ông Minh vẫn còn quý ông Hàm vì cũng là người xả thân không tính toán bao giờ. Cách mạng. Kháng chiến. Những chuyến tàu tập kết. Nhiều lần ông Minh được bạn cưu mang. Gia cảnh ông Hàm đã tàn lụi, của cải theo gió bay đi tứ phương. Nhưng con cái ông Hàm học hành giỏi giang. Có đứa hồi nhỏ phải vừa đi học vừa đi bán kem. Có đứa phải hành nghề cắt tóc để học đại học. Như mọi người thôi. Nhưng không hiểu sao ông Minh lo sợ đến thế. Ông đếm từng ngày để Khanh đưa vợ từ bệnh viện về.
*
* *
Giải phẫu. Điều trị. Đến nửa tháng trời. Ông Minh về, rồi lại ra với vợ chồng người con nuôi. Hiền đi từ trong nhà thấy ông Minh ngoài cửa sổ reo lên: Ba đã ra!
Hai cha con trò chuyện. Ông Minh rất muốn biết mọi sự ở bệnh viện ra sao. Nhưng là người “đã cũ” nhưng ông vẫn tự nhận, ông không biết cách bắt đầu. Ông ngồi nói chuyện về cây bao báp. Ở ngoài này cũng có một cây. Không phát triển to như cây ở miền Trung nhưng cũng đã trồng trên nửa thế kỉ. Lúc này người ta đang muốn đào nó đi để lấp cái ao xây nhà. Cày bao báp trên bờ ao. Người hàng xóm của ông chủ cây đọc báo thấy ông Minh là người nghiên cứu cây bao báp ở miền Trung, viết thư cho ông cầu cứu. Ông nên giúp cách nào để người ta chuyển cây quý đi. Ông ta viết cho ba như vậy.
Hiền vợ Khanh nắm tay nọ vào tay kia. Khuôn mặt sau trận ốm vẫn còn vàng vọt. Nhưng cười thì tươi sáng lắm. Báo hiệu bệnh khỏi. Báo hiệu sự phục hồi. Chị cũng không biết bắt đầu như thế nào. Chị bảo: Có người lạ lắm ba ạ!
- Lạ sao?
- Như cậu Trị con chú Giá đó ba!
Khanh chuẩn bị phong bì to. Kèm theo là mấy chai rượu đến nhà Trị. Nhưng làm sao ấy. Cái cách cậu ta trò chuyện. Cái cách vợ con cậu ra vào. Cái nếp nhà toát ra từ bức tranh treo tường. Từ cái ấm cái chén. Mọi thứ thế nào ấy đến nỗi cuối cùng chỉ dám đưa chai rượu. Trị nhận chai rượu rồi hồn nhiên như nhận của người nhà. Lúc Hiền vào phòng mổ, Khanh quanh quẩn bên ngoài. Cái phong bì vẫn bỏ túi. Trị ra khỏi phòng mổ, ôm choàng lấy Khanh. Cái ôm chặt như chia sẻ niềm vui. Như chú cháu anh em... Những ngày hậu phẫu. Những đêm điều trị. Lúc nào rỗi Trị lại chạy tới phòng bệnh để xem cô ra sao. Không phải tận tình chăm sóc kiểu để cho người ta phải biết. Là cách của thầy thuốc với người đau. Là cách từ xưa đến nay vẫn vậy. Thầy thuốc phải cứu người. Không có gì thay đổi Trị học giải phẫu trên đại học ở Mỹ. Suốt ngày ở bệnh viện. Tối lại chúi đầu vào sách y học. Nghe bên tai những lời lẽ của tiền bạc, của sự có đi có lại, của sự mặc cả, có cả sự nhẫn tâm bóp nặn. Làm bác sĩ như vậy cũng là một cách. Nhưng cách của Trị khác.
Khanh không dám rút cái phong bì ra khỏi túi. Khanh bảo vợ: Thôi để khi nào có dịp... Nhưng Khanh bực bội lắm. Không đưa được cái phong bì lòng nặng như đá đeo.
Ông Minh nghe xong cười cười. Tại sao cứ phải quẩn quanh trong cái sự mắc nợ ấy? Như ông đây này. Ông bỏ tiền túi đi từ Huế ra Bắc theo cái thư cầu cứu của một người lo sợ cây quý bị hủy hoại. Ông chắc còn phải bỏ tiền để đi vài nơi gõ mấy chục cái cứu cho người ta để ý đến cây bao báp.
Không cần bận lòng đâu con. Ông Minh bảo Hiền. Về bác sĩ Trị thì không cần các con phải bận tâm. Bệnh khỏi là tốt rồi. Cháu nội cụ Hàm, ba biết chứ. Để khi nào ba đưa các con về thăm cụ Hàm./.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro