28.5.13
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẤU
Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vô cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Theo Người: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Vậy, Hồ Chí Minh đã đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của xã hội, và các vấn đề này có quan hệ với nhau rất mật thiết. Cho nên trong công cuộc xây dựng đất nước, cả bốn vấn đề này được coi trọng như nhau. Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đừng trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Văn hóa giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước. Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, van hóa có phát triển thì xã hội đó mới phát triển và vững mạnh. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một điều rất cần thiết và rất cần được quan tâm và chú trọng.
Trong suốt cuộc đời của mình, Bác chủ trương xây dựng nền văn hóa mới hết sức toàn diện, có kế thừa và phát triển những giá trị của văn hóa dân tộc, vừa tạo ra những nội dung mới, tiến bộ. Tựu trung lại, đó là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ những lý do trên cũng như nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng nền văn hóa mới trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước tôi đã lựa chọn đề tài : “Tư tưởng HCM về xây dựng nền văn hóa mới VN” làm bài tiều luận.
I: KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1. Một số khái niệm về văn hóa
2. Khái niệm văn hóa trong tư tưởng HCM
3. Tư tưởng HCM về văn hóa
II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MÌNH VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
Theo Hồ Chí Minh xây dựng về “tâm lý” là xây dựng “Tinh thần độc lập tự cường”, cũng có nghĩa là sự giáo dục, định hướng để hun đúc nên tình yêu đất nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự cường. Đó chính là cơ sở nền tảng bảo đảm cho sự đoàn kết, đồng thuận dân tộc, điều kiện để tạo nên sức mạnh bảo vệ độc lập dân tộc, chống lại mọi sự xâm lược, phá hoại từ bên ngoài. Lịch sử xây dựng, bảo vệ và phát triển của dân tộc ta đã chứng minh cho bài học xương máu đó. Đối với các dân tộc khác trên thế giới, muốn tồn tại, vượt qua những nguy cơ xâm lược, đồng hóa hay chèn ép, xung đột để phát triển đều phải khẳng định một sức mạnh tinh thần to lớn từ độc lập tự cường. Chỉ có điều, biểu hiện của tinh thần độc lập tự cường ấy ở mỗi nước, tùy theo những điều kiện đặc điểm khác nhau mà thể hiện một cách sinh động, đa dạng. Đó cũng chính là một đặc tính văn hóa, một “cái làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác”.
Có thể nói, quan điểm xây dựng văn hóa về “tâm lý” với nội dung là “tinh thần độc lập tự cường” là xuyên suốt và nhất quán trong nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Người nhận ra rằng, đó chính là con đường giải phóng dân tộc khỏi áp bức, lầm than. Sau này, cho dù trong những thời điểm thử thách khắc nghiệt nhất đối với quan điểm chính trị của mình hay trong thực tiễn cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn kiên định quan điểm về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(3). Và chân lý nổi tiếng mà Hồ Chí Minh đã tổng kết từ thực tiễn lịch sử của thế giới và từ chính những bài học xương máu của lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là “không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Càng nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh càng thấu hiểu hơn ý nghĩa của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chính vì thế, Người đã khẳng định, một trong số bài học lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga là:“Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”(4).
Do đó, yêu cầu về xây dựng văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải giáo dục, quán triệt nhận thức trên, bài học kinh nghiệm trên thành tư tưởng, tình cảm, thành hành vi, lối sống của mỗi con người, thành một giá trị xã hội của Việt Nam. Đó cũng chính là một kết quả, hướng tới của sự phát triển con người Việt Nam, đồng thời là một điều kiện sống còn bảo đảm cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
Xây dựng văn hóa về mặt “luận lý”, theo cách hiểu của Hồ Chí Minh, chính là sự hình thành và không ngừng hoàn thiện về tư tưởng, lối sống mà nội dung trung tâm, quan trọng nhất của nó là “biết hy sinh mình làm lợi cho quần chúng”. Đó cũng chính là nội dung quan trọng nhất của những chuẩn mực đạo đức xã hội mà con người chúng ta nói chung hay mỗi cán bộ cách mạng nói riêng cần hướng tới. Tiêu chuẩn con người cán bộ “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” chính là sự phát triển đầy đủ hơn từ tiêu chí xây dựng văn hóa này. Đây cũng chính là yêu cầu sống còn về xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi vì như sau này Hồ Chí Minh đã nhắc lại rất nhiều lần rằng, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” mà yêu cầu đầu tiên, quyết định của con người xã hội chủ nghĩa phải “đi đến hoàn toàn không có chủ nghĩa cá nhân"(5). Trong bài viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nhân dịp kỷ niệm 39 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Người nhấn mạnh: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa... Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật”. Chính vì thế, Người yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng,bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật” (6).
Nói cách khác, xây dựng văn hóa về “luận lý” chính là xây dựng văn hóa sống của con người. Trong các chế độ xã hội dựa trên nền tảng của chế độ tư hữu thì chính quan hệ bóc lột, bất công giữa người với người tạo thành những yếu tố, điều kiện một cách tự nhiên, thúc đẩy con người đi tới chủ nghĩa cá nhân, hình thành lối sống ích kỷ, vụ lợi. Sự thắng thế của quan hệ nhân đạo, của chủ nghĩa nhân văn, của sự hy sinh, xả thân cho lợi ích cộng đồng, đồng loại chỉ có ý nghĩa nhất thời, gắn với các giá trị yêu nước, dân tộc.
Nếu chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng thì ý nghĩa cách mạng sâu sắc nhất, cũng là gay gắt nhất chính là sự biến đổi trong văn hóa sống của con người, là sự giải thoát con người khỏi chủ nghĩa cá nhân để hình thành và dần dần hoàn thiện văn hóa sống nhân văn cao cả, đặt lợi ích của dân tộc, đất nước và của chế độ lên trên hết, đặt lợi ích cá nhân trong sự hài hòa với lợi ích của tập thể. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Phải đánh bạt những tư tưởng công thần, địa vị, danh lợi của chủ nghĩa cá nhân, làm cho tư tưởng của chủ nghĩa tập thể thắng lợi, tức là phát huy tinh thần cần kiệm xây dựng của nghĩa xã hội, bảo vệ của công, chống tham ô, lãng phí”(7). Đó cũng chính là cốt lõi văn hóa của con người mà chủ nghĩa xã hội hướng tới, là điều kiện, cơ sở cho sự phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội
Nội dung xây dựng văn hóa về “xã hội” được Hồ Chí Minh xem như “Một sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội”. Do đó, có thể hiểu là việc phấn đấu cho phúc lợi của nhân dân là yêu cầu quyết định, thể hiện tính bản chất của chế độ. Nó phải được phản ánh trong mục tiêu, trong mô thức xây dựng, trong cơ chế vận hành của cả chế độ. Nó đồng thời phải trở thành một thể hiện tất yếu xã hội trong mỗi thành viên, mỗi bộ phận hợp thành của chế độ xã hội. Đây cũng chính là một nhận thức nhất quán, chỉ đạo hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1946, ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(8). Khi nói về chủ nghĩa xã hội, nhiều lần Hồ Chí Minh đã đặt “phúc lợi của nhân dân”. “Phúc lợi” ở đây không đơn thuần chỉ là những giá trị vất chất mà cao hơn cả đó là những yêu cầu về “tư do”, “dân chủ”, “học hành”, “nghỉ ngơi”, những điều kiện cần và đủ cho con người phát triển một cách toàn diện.
Từ nhận thức về văn hóa trong nội dung xây dựng về xã hội, càng thấy rõ ý nghĩa nhân văn như là cốt cách, là bản chất, quán xuyến trong tất cả các bình diện tư tưởng của Hồ Chí Minh. Xây dựng văn hóa về nội dung xã hội cũng có nghĩa là mang lại cho xã hội ý nghĩa nhân văn cao cả. Điều ấy cũng có nghĩa không đơn thuần là đạt được những kết quả về phúc lợi xã hội, mà hơn thế, bao gồm cả cách thức đạt được những phúc lợi ấy như thế nào, sử dụng những phúc lợi ấy ra sao, những phúc lợi ấy mang lại gì cho sự phát triển tốt đẹp của con người. Sinh thời, khi nói đến vấn đề phân phối hàng hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”.
Do đó, chúng ta càng thấy ý nghĩa thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng nền tảng văn hóa xã hội liên quan đến phúc lợi của nhân dân.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
Về nội dung xây dựng “chính trị”, theo Hồ Chí Minh, đó chính là “dân quyền”. Văn hóa chính trị chính là mang lại và bảo đảm được “dân quyền”. Ở đây,dân quyền không chỉ là những quyền trên các lĩnh vực đời sống mà người dân được hưởng ngày càng đầy đủ, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện, mà còn là những quyền lợi - lợi ích mà xã hội mang lại cho nhân dân ngày càng cao,giúp cho cuộc sống của người dân hạnh phúc hơn, tiến bộ hơn. Có thể nói, toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng chính là lịch sử đấu tranh, phấn đấu để mang lại cho người dân nhiều dân quyền hơn, nhiều tự do hơn. Chủ nghĩa xã hội về bản chất của nó, là chế độ xã hội bảo đảm đầy đủ nhất “dân quyền”, bởi vì đó là xã hội của dân, do dân và vì dân. Nhưng việc xây dựng một chế độ như thế không thể ngày một, ngày hai, mà là cả một quá trình phức tạp với không ít khó khăn. Bởi vì, dân quyền có được không chỉ do cơ chế quyền lực, chế độ chính trị, mà còn phụ thuộc vào sự tự giác, trình độ nhận thức của người dân và những điều kiện của môi trường xã hội.
Có nghĩa là, hiểu dân quyền theo nhận thức văn hóa không chỉ là những quyền và lợi mà nền chính trị mang lại cho người dân, đó còn là cách mà những quyền đó được mang lại như thế nào và ý nghĩa của những quyền và lợi ấy ra sao, có ý nghĩa tốt đẹp đến đâu đối với xã hội. Văn hóa chính là nền tảng để phát triển, mở rộng dân quyền, đồng thời dân quyền cũng tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển các giá trị văn hóa của xã hội.
Trong thiết chế xã hội nói chung, một mặt, vấn đề dân quyền gắn bó chặt chẽ hữu cơ với vấn đề nhà nước, là hệ quả của nhà nước, phản ánh tính chất, đặc điểm, trình độ phát triển của nhà nước; mặt khác, dân quyền không thể tách rời những điều kiện khách quan của tồn tại xã hội như: trình độ nhận thức của người dân, những tập quán và đặc điểm văn hóa của cộng đồng, các cơ sở kinh tế, kỹ thuật của xã hội. Trong mối quan hệ thứ hai, các yếu tố quy định hay ảnh hưởng đến dân quyền là những điều kiện lịch sử, cụ thể, gắn liền với tính chất, trình độ phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Đối với mối quan hệ thứ nhất, vấn đề thực chất chính là nội dung, nhiệm vụ của việc xây dựng nhà nước. Khẳng định tính chất nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân thì đương nhiên nó phải thể hiện ý chí của dân, bảo vệ các quyền và lợi ích của dân, phục vụ cho các nhu cầu xã hội của dân.
Hơn nữa, có thể nhận thấy rất rõ rằng, quán xuyến trong toàn bộ tư tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ nghĩa trọng dân, ý thức tôn trọng, yêu thương, bảo vệ nhân dân. Đó cũng chính là lý tưởng, hoài bão, là mục đích sống của Hồ Chí Minh - Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân dân khỏi áp bức, bóc lột, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Đó cũng chính là cốt lõi văn hóa sống Hồ Chí Minh. Vấn đề dân quyền chỉ là một bình diện của tư tưởng ấy, một điều kiện để thực hiện mục đích phục vụ nhân dân, một thể hiện của văn hóa sống nhân văn cao cả của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
5. Xây dựng kinh tế
Đối với nội dung “xây dựng kinh tế”, Hồ Chí Minh không đặt ra tiêu chí định hướng như những lĩnh vực khác. Nhưng theo cách đặt vấn đề từ những điểm trước đó có thể thấy, văn hóa được Hồ Chí Minh coi là mục tiêu của xây dựng kinh tế, đồng thời văn hóa cũng là nội lực mạnh mẽ của việc xây dựng nền kinh tế đó. Truyền thống văn hóa, sức mạnh văn hóa trong nguồn nhân lực, trong trình độ tổ chức lao động sản xuất, quản lý kinh tế xã hội, văn hóa trong kinh doanh, trong quan hệ doanh nghiệp là động lực bên trong của quá trình kinh tế, của sự phát triển xã hội và con người. Một nền kinh tế phát triển tốt đẹp, bền vững chỉ khi nó gắn bó với những giá trị văn hóa, kết tinh trong nó những giá trị văn hóa, làm giàu có thêm và thúc đẩy sự phát triển của những giá trị văn hóa của dân tộc, của đất nước. ở một khía cạnh nào đó, có thể thấy tư tưởng phát triển các lĩnh vực văn hóa của Hồ Chí Minh rất gần gũi với quan điểm phát triển bền vững hiện đại.
Từ năm 1953, trong bài “Thường thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D - Tư bản của tư nhân.
E - Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh)”(13).
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận từ rất sớm mô hình nền kinh tế đa thành phần sở hữu trong chế độ của chúng ta. Sự đa thành phần trong nền kinh tế tất yếu kéo theo những yếu tố văn hóa vốn có, vốn đang tồn tại cùng những mối quan hệ xã hội giữa các thành phần kinh tế đó. Vậy thì cái gì làm nên sự phân biệt giữa chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa với một chế độ xã hội phát triển kinh tế đa thành phần khác? Phải chăng đó chính là yêu cầu, đòi hỏi về xây dựng văn hóa, hướng con người tới một đời sống văn hóa cao thượng, nhân văn, một lối sống theo chủ nghĩa tập thể ở ý nghĩa tích cực của khái niệm đó.
Mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, mang lại cho con người cuộc sống tự do, sự phát triển toàn diện và vì thế mà mang lại cho con người nhiều hạnh phúc nhất. Vì vậy, cần phải phát triển kinh tế để bảo đảm “cơm ăn”, đời sống vật chất cho nhân dân. Nhưng nền kinh tế ấy không tách rời các nội dung, ý nghĩa của việc xây dựng văn hóa và nói cho cùng thì nó phải phục vụ cho mục đích phát triển văn hóa của nhân dân. Để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải đấu tranh, xây dựng, phát triển, tiến hành một cuộc cách mạng xã hội thật sự. Trong cuộc cách mạng đó, văn hóa luôn có ý nghĩa trọng yếu, quyết định. Đó vừa là điều kiện, nền móng cho sự xây dựng, phát triển của đời sống xã hội, vừa là mục tiêu hướng tới trong quan hệ hài hòa với đời sống vật chất.
*
Tóm lại, có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa sâu xa, đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Nó không chỉ là mục tiêu phấn đấu vươn tới những giá trị cao đẹp cho cuộc sống mà còn có vai trò nền tảng và sức mạnh động lực hết sức to lớn trong phát triển các bình diện đời sống xã hội. Văn hóa là sức sống của sự phát triển kinh tế - xã hội, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động sống của con người. Những quan điểm về văn hóa trong chiến lược phát triển đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là “kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam”(15), mà còn có ý nghĩa thời sự, là chỗ dựa, sự chỉ dẫn cho chúng ta trong nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay./.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã dựa trên sự nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa trong công cuộc dựng nước và giữ nước để đưa ra những định hướng đúng đắn về các hoạt động giáo dục, văn nghệ, cũng như đời sống con người.
Giữa một xu thế hội nhập như ngày nay, khi mà các nền văn hóa đã khẳng định sự cần thiết của mình trong việc lưu giữa các giá trị văn hóa nước nhà cũng như tiếp thu những cái tốt đẹp của các nền văn hóa khác, để hướng đến một nền văn hóa “ hòa lẫn chứ không hòa tan”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta. Nó mãi là ánh sáng soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển nên văn hóa nước ta. Do đó, chúng ta càng nhận thấy rõ tầm quan trọng của TTHCM trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Cần chú ý xây dựng nền văn hóa làm nền tảng cơ sở hạ tầng từ đó tạo đà phát triển đất nước.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro