1BNQH
Hồi 1
Vũ Di Sơn Thượng Mạng Mang Hận
Sát Tinh Xuất Thế Hữu Nhân Vong
Trận mưa hạ phủ mờ ba mươi sáu đỉnh núi của rặng Vũ Di Sơn. Du khách phải đứng xa vài dặm mới thấy được hết vẻ đẹp kỳ tú của ngọn danh sơn. Dẫu nắng hay mưa, rặng núi ở phía Bắc Phúc Kiến này cũng không mất đi sức quyến rũ của mình.
Nhân gian thường truyền tụng câu:
"Vũ Di Sơn thủy thiên hạ kỳ". (Non nước Vũ Di Sơn là kỳ lạ nhất thiên hạ.) Vũ Di Sơn, tuy chỉ là ngọn núi thấp, cao độ hai trăm mười mấy trượng, nhưng với địa hình chín khúc, ba mươi sáu ngọn núi, chín mươi chín hang động, đã trở thành một trong những dãy núi xinh đẹp nhất Trung Hoa.
Từ đời Tống, Vũ Di Sơn đã được các đế vương quan tâm, chú ý. Các vua chúa thường đến đây, trước là tế lễ, sau là ngoạn cảnh. Các văn nhân Nam Tống như Tân Khí Tật, Lục Du đều đã đến nơi này.
Trên sườn núi có những công trình kiến trúc như Tam Thanh Điện, Ngọc Hoàng Các, Từ Đường Lưu Lãm... Nhưng cũng có vài ngọn núi vắng bóng chân người, do địa hình hiểm trở, ác thú dẫy đầy. Du khách chẳng bao giờ dám tìm đến đấy cả! Một trong vài ngọn núi cô tịch ấy là đỉnh Hổ Phong.
Nghe tên cũng biết nơi ấy là lãnh địa của loài mãnh ác thú. Thác Hổ Tuyền chảy từ lưng chừng núi xuống như dải lụa bạc, hơi nước mượn ánh nắng mà tạo nên những vòng cầu rất đẹp. Tiếc là không ai dám đến thưởng thức cảnh quan tuyệt mỹ kia!
Nếu có người đủ khả năng bám vào những mõm đá cạnh sắc như dao trên vách đá dựng đứng cao ba chục trượng cạnh thác Hổ Tuyền mà trèo lên đến bình đài phía trên, sẽ phát hiện chủ nhân thực sự của ngọn núi Hổ Phong này!
Nơi cư trú của họ là một hang động thiên nhiên rộng rãi, cạnh dòng suối chảy từ đỉnh núi xuống. Cảnh vật ngoài cửa hang xanh tươi, diễm lệ bao nhiêu thì không khí trong hang u ám bấy nhiêu!
Thạch động u ám không phải vì thiếu ánh sáng mà vì cảnh tượng mà chúng ta sắp nhìn thấy. Bước vào chừng năm trượng, bên vách tả là một tảng đá lớn được đục đẽo vuông vắn, cao chừng nửa trượng. Trên ấy có một xác nữ nhân, ngồi xếp bằng, mái tóc dài phủ lưng bạc như sương, lất phất bay bởi ngọn gió Nam lạc vào. Da thịt trên mặt bà ta đã khô quắt lại, để lộ hàm răng trắng nhởn, tạo dáng một nụ cười quái dị và ghê rợn.
Bộ y phục màu hồng sặc sỡ trên cơ thể tử thi cũng không làm giảm được vẻ ám uổng, chết chóc trong hang.
Thế mà nơi đây vẫn có người sống. Đó là một nữ nhân tuổi gần tứ thập, dung nhan xinh đẹp phi thường nhưng sắc diện lạnh lùng, khắc nghiệt. Người thứ hai là một cậu bé độ mười ba tuổi. Cậu ta đang trần truồng nằm trên một tảng đá bằng phẳng, mắt nhắm nghiền lại, môi mím chặt. Và nữ nhân kia đang cật lực đánh tới tấp vào thân thể cậu bé, bằng một bó gồm những cọng rễ cây sần sùi, nhỏ hơn mút đũa. Tiếng roi xé gió, rít lên ghê người.
Thỉnh thoảng bà ta nhúng bó rễ cây ấy vào một nồi nước đen nhánh, và tiếp tục đánh.
Những nhát roi đã để lại trên thân thể cậu bé những vết hằn rướm máu.
Sau khi đánh hết lược thân trước, lại lật sấp cậu bé đánh tiếp.
Cảnh tượng tàn nhẫn, vô nhân kia khiến người ngoài phải sôi giận.
Nhưng hãy nhìn kỹ những giọt lệ đọng ở khóe mắt người phụ nữ! Bà cũng khóc như bao nhiêu người phụ nữ trên cõi đời này! Đứa bé kia chính là đứa con đứt ruột đẻ ra của Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi. Nó có cái tên rất khó nghe:
Nam Cung Hận Thiên!
Phùng nương nhìn những vết roi phủ đầy thân sau, lau nước mắt rồi nghiêm nghị bảo:
- Thiên nhi! hôm nay như thế là đủ, ngươi ra sau ngâm thuốc đi!
Cậu bé lồm cồm ngồi lên, dương đôi mắt to tròn, lo lắng hỏi:
- Mẫu thân! Phải chăng sức khỏe của người đã suy giảm nên hài nhi không còn nghe đau đớn gì cả?
Phùng nương cảm động và hài lòng:
- Không phải đâu, đó là do công phu Thiên Ma Bách Luyện của ngươi có hỏa hầu rồi đấy! Chỉ cần thêm ít máu của con Hồng Sắc Mãng Xà là thành công. Lúc ấy, dù ngươi có rớt từ đỉnh thác xuống cũng không thể chết được!
Hận Thiên vui vẻ nói:
- Mẫu thân nói quá, làm gì có chuyện ấy?
Phùng Nương mỉm cười:
- phải! Ta chỉ ví dụ thế thôi! Thực ra công phu này chỉ làm tăng sức chịu đựng của ngươi lên gấp mười lần so với người thường. Như vậy cũng đủ gọi là kỳ tích rồi! Thiên nhi đi ngâm thuốc đi, nhớ ngâm cả đầu đấy nhé!
Cậu bé phụng phịu đáp:
- Hài nhi không sợ đau đớn, chỉ sợ mùi thuốc hăng hắc khó chịu kia thôi.
Chợt nhận ra ánh mắt nghiêm khắc của mẫu thân, Thiên nhi le lưỡi, chạy vụt vào trong hậu động!
Phùng Lệ Phi thẫn thờ bước ra cửa động, đứng dưới làn mưa hạ, nhìn về hướng Bắc, căm hận rít lên:
- Mộ Dung Thiên! Sẽ có ngày ngươi được nếm cảm giác thống khổ tột cùng của kiếp người!
Thì ra kẻ thù của Phùng Nương là Mộ Dung Thiên, vì vậy đã đặt tên con mình là Hận Thiên, chứ chẳng phải oán trời, trách đất gì cả!
Nhưng mối thù kia sâu đậm đến dường nào mà bảy năm qua Phùng Nương bắt con mình phải chịu biết bao đau đớn, để luyện tuyệt học số một của tà môn?
Mặt trời chưa mọc, Phùng Nương đã bắt Thiên nhi phải luyện võ. Mé tả cửa động có một bãi loạn thạch gồm ba trăm sáu mươi tảng đá tròn, lớn nhỏ không đều. Tuy gọi là loạn thạch nhưng thực ra chúng được xếp theo những vị trí nhất định. Và Hận Thiên phải di chuyển, nhảy nhót trên ấy mà thi triển một pho quyền chưởng. Càng lúc cước bộ của cậu bé càng nhanh. Cuối cùng chỉ còn là một chiếc bóng mờ, và quyền phong rít lên vù vù từ đôi bàn tay, bàn chân nhỏ bé.
Phùng Nương đẹp dạ gọi:
-Thiên Nhi giỏi lắm! Chuẩn bị Sách Hồn Tiễn!
Bà cúi xuống bưng rỗ tre dưới chân lên, tay hữu bốc từng mảnh gỗ nhỏ, ném về phía Hận Thiên tấn công từ mặt đến bàn chân. Những mảnh gỗ nhỏ hơn bàn tay kia bay đi với tốc độ kinh người, nhưng đều không đến được mục tiêu, rơi xuống cách Hận Thiên hơn trượng. Hai tay cậu bé liên tục búng ra những kim thép, chặn đứng những mảnh gỗ lại.
Phùng Nương quát lớn:
- Chú ý!
Bà cầm mảnh gỗ cuối cùng, buông rổ xuống đất, vung tay ném mạnh. Kỳ diệu thay, nó không bay thẳng mà đi theo một quỹ đạo rắc rối, chập chờn như cánh bướm.
Hận Thiên cẩn trọng quắc đôi mắt tinh anh chăm chú nhìn, và vẫy nhẹ bàn tay. Trong một sát na nhỏ bé, khi mảnh gỗ chuyển hướng từ vị trí này sang vị trí này sang vị trí khác, một mũi tiểu đao đã kịp tìm đến mục tiêu!
Phùng Nương mĩm cười giang tay như muốn gọi đứa con thân yêu. Hận Thiên hiểu ý, lao vút vào lòng bà. Mông Diên La Sát vuốt tóc con khen ngợi:
- Không uổng công ta dạy dỗ ngươi suốt bảy năm nay! Tuyệt kỹ Sách Hồn Phi Tiễn không còn sợ thất truyền nữa rồi!
Hận Thiên dụi đầu vào ngực mẫu thân, cảm nhận giây phút hạnh phúc hiếm hoi. Tính tình Phùng Lệ Chi cực kỳ lãnh đạm, ít khi âu yếm con thơ.
Nhưng Thiên Nhi biết rằng bà yêu thương nó nhất trên đời!
Chỉ lát sau, Mông Diện La Sát đã đẩy cậu bé ra và nghiêm giọng:
- Ngươi đừng thấy ta khen ngợi như vậy mà tự mãn. Đấy chỉ là phần căn bản của công phu mà thôi, phải cố gắng luyện tập thêm vài năm nữa. Khi nào đạt đến mức ám khí phát ra vô thanh, vô ảnh mới mong giết được kẻ đại thù!
Hận Thiên gật đầu, và đột nhiên hỏi lại:
- Má à! Dù hài nhi có khổ luyện thêm mấy năm nữa cũng không thể bằng mẫu thân. Sao người không tự tay hạ sát lão Mộ Dung Thiên kia!
Phùng nương thở dài:
- Bản lĩnh của Bạch Y Hầu nghiêng trời lệch đất, ngay ta cũng chẳng thể làm gì được lão! Những gì ngươi học trong mấy năm qua chỉ là công phu tổ truyền của Vũ Di Phái, để làm vốn liếng trên đường đi tìm một vị tuyệt thế kỳ nhân mà thụ giáo kiếm thuật thượng thừa!
Thiên Nhi kinh ngạc:
- Mẫu thân! Chẳng hay ông ta là ai vậy?
Phùng Nương đáp:
- Vị kỳ nhân ấy có danh hiệu là Bất Biệt Cư Sĩ, tuổi đã hơn trăm, kiếm thuật cao cường nhất thiên hạ. Thanh tiểu đao mà ngươi thường sử dụng chính là tín vật mà Cư Sĩ đã tặng cho sư tổ ngươi cách đây ba mươi năm! Vật ấy vô cùng quý giá, ngươi tuyệt đối không được làm thất lạc!
Hận Thiên dạ rất ngoan, bối rối hỏi:
- Vậy chừng nào hài nhi phải đi?
Phùng Nương lạnh lùng bảo:
- Ngươi phải gặp được Bất Biệt Cư Sĩ trước ngày tròn mười sáu tuổi. Có thế mới đủ điều kiện để học kiếm thuật thượng thừa!
Hận Thiên ngập ngừng:
- Hài nhi chẳng muốn xa mẫu thân chút nào cả! Hay là hai mẹ con chúng ta cùng đi?
Phùng Nương quắc mắt:
- Làm thân nam tử sao lại cứ muốn suốt đời nép bên váy mẹ? Ngươi phải đi một mình, tự lực tự cường đến cho được Hồ Đạt Lai trên đất Nội Mông! Đó chính là cách tốt nhất để thu thập kinh nghiệm giang hồ, trui rèn bản lĩnh mà tồn tại!
Thiên Nhi sợ hãi cúi đầu, chẳng dám nói thêm! Phùng Nương cau mày:
- Ngươi hãy mau nhặt ám khí rồi vào sau núi săn dã vị!
Hận Thiên mau mắn làm theo lời dạn, rút tiểu đap và những mui Sách Hồn Tiễn ra khỏi những mảnh gỗ, rồi lầm lui đi về phía hậu sơn!
Cậu bé không hề sợ hãi đám mãnh thú ở Hổ Phong. Với pho khinh công Cửu Cung Mê Bộ, chẳng con vật nào có thể chạm đến Thiên Nhi. Và dưới thanh tiểu đao dài hơn gang tay kia, bọn chồn, thỏ, hươu nai khó mà thoát chết!
Hận Thiên được mẫu thân đi săn từ những năm tám tuổi, quen thuộc với tính nết từng loài, lão luyện như một thợ săn người Cao Sơn chính gốc.
Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi là người Cao Sơn, một bộ tộc thiểu số ở Phúc Kiến. Vì vậy, trong huyết quản của Hận Thiên chỉ có nửa giòng máu Hán tộc.
Có lẽ vì thế nên da dẻ Thiên nhi trắng hồng, mắt to tròn chứ không dài nhỏ như đa số người Trung Hoa. Trừ đôi mắt, những bộ phận còn lại trên gương mặt cậu bé đều giống hệt như bức họa của phụ thân Nam Cung Phi treo trong thạch động.
Bức họa này do Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi vẽ lại. Bà kể rằng ông ta đã bị Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên sát hại đúng vào ngày đầy năm của Thiên nhi mười tám tháng sáu bên bờ sông Lạc Thủy!
Hận Thiên vào đến khu rừng rậm ở hậu sơn, khoan khoái hít lấy mùi hương cỏ cây quen thuộc. Nó quên hết mọi việc trên đời, tai mắt căng ra, trước là đề phòng mãnh hổ, sau là tìm kiếm con mồi!
Sau gần hai canh giờ sau, Hận Thiên hí hửng trở lại thạch động với một con nai tơ nặng ước hai trăm cân trên vai. Nhờ công phu khổ luyện từ lúc lên sáu, nên ở tuổi mười ba, Hận Thiên mới vác nổi một trọng lượng nặng như vậy!
Hận Thiên hân hoan gọi mẹ:
- Mẫu thân! Hài nhi đã săn được một con nai rất lớn!
Nhưng không thấy Phùng Nương trả lời, Thiên Nhi buông con vật xuống cạnh bờ suối rồi tất tả chạy vào.
Một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt khiến Hận Thiên chết đứng. Thủ cấp của Vũ Di Tiên Nương nằm lăn lóc trên sàn động. Còn trên chiếc giường đá kia là thân thể lõa lồ của Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi. Y phục của bà bị xé nát, rơi vương vãi quanh chân thạch sàn!
Hận Thiên rú lên, chạy đến bên xác mẹ lay gọi. Nhưng bà đã vinh viễn ra đi vì cần cổ đã đứt lìa, chỉ còn dính với đầu bằng một lớp da mỏng.
Thiên nhi gào khóc một lúc, đau đớn ngất lịm đi! Khi nó tỉnh lại thì trời đã chính ngọ. Hận Thiên ôm xác mẫu thân khóc lóc cho đến khi hai mắt đỏ ngầu và sưng vù!
Nhưng bao năm qua, Phùng Nương đã dùng hận thù mà dạy dỗ con thơ, nên tâm tính Thiên Nhi kiên cường khác hẳn những đứa bé đồng tuổi. Giờ đây, khi mất đi người mẹ yêu quí nhất đời, lửa cừu hận bốc lên ngùn ngụt.
Hận Thiên mau chóng trấn tĩnh, thề sẽ tìm ra hung thủ.
Nó vào cuối động, lục trong tủ gỗ lấy ra bộ y phục đẹp nhất, mặc cho mẫu thân. Trước đó, Thiên nhi đã dùng khăn lau sạch thân thể Phùng Nương!
Vũ Di Phái là một võ phái của Miêu tộc, thiện dụng độc dược và độc vật.
Năm bốn tuổi, Hận Thiên đã được mẫu thân dạy học chữ bằng chính quyển Độc Kinh của sư tổ. Vì vậy, nó thuộc lòng sở học của bổn môn!
Hận Thiên không muốn mất mẹ nên đã áp dụng cách ướp xác để lưu giữ thi hài, như Vũ Di Tiên Nương vậy.
Khi tẩm liệm, Hận Thiên phát hiện trong bàn tay tả của mẫu thân có mấy sợi tóc đỏ hung. Nó ngẩn người suy nghĩ và đoán ra rằng đó chính là tóc của hung thủ! Hận Thiên cẩn thận cất đi!
Ở cuối động có một gian mật thất cực kỳ kín đáo, là mơi cất giữ dược vật và của cải. Cửa vào nằm sau chiếc tủ gỗ mộc y phục, nhờ vậy người ngoài không thể biết được!
Khi hoàn tất công việc thì trời đã về chiều. Hận Thiên ăn qua loa mấy bát cơm nguội, bước ra mép bình đài quan sát. Nó vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc thang dây vẫn còn nằm cạnh gốc cây. Như vậy là hung thủ đã lên và xuống mà không cần đến thang! Khinh công của lão còn cao cường hơn cả mẫu thân mình?
Hận Thiên buồn rầu nhìn ánh tà dương le lói sau ngọn núi Cực Tây của rặng Vũ Di Sơn, đắn đo suy nghĩ. Trước đây, nó vẫn nghi rằng hung thủ là kẻ đại thù Mộ Dung Thiên, nhưng từ lúc phát hiện mấy sợi tóc đỏ, nó biết rằng không phải. Bạch Y Hầu là người Hán và có mái tóc đen tuyền!
Vậy gã khốn khiếp kia là ai? Hận Thiên quyết định hạ sơn để tìm cho ra kẻ thù đồng thời, đi Nội Mông để gặp Bất Biệt Cư Sĩ mà học nghệ. Giờ đây, đôi mắt hồn hậu kia ngập tràn cừu hận, luôn bắn ra những tia nhìn lạnh lẽo.
Vu Di Tiên Nương đã chết khi Hận Thiên vừa tròn ba tuổi, chỉ còn lại hai mẹ con nên luôn quấn quýt bên nhau! Sắc diện Phùng Nương băng giá, nhưng trong lòng yêu con thơ rất nồng nàn. Bà miệt mài dạy dỗ Hận Thiên, ngoài võ nghệ, chữ nghĩa, còn có cả những kinh nghiệm đã từng trải qua trong mười năm phiêu bạt!
Thiên Nhi thông tuệ tuyệt luân, bất cứ điều gì đã nghe qua, đọc qua một lần là chẳng bao giờ quên. Do đó, tuy không thị mình kinh qua nhưng Hận Thiên chẳng lạ lẫm gì thủ đoạn của giới võ lâm!
Với hành trang ấy, sáng hôm sau, Hận Thiên đua cả hai thi hài của mẹ và sư tổ vào thạch thất!
Nhưng nếu xuống bằng thang dây, tất sau này sẽ có kẻ lên bằng sợi thang ấy! Hận Thiên quyết định đi lối hậu sơn!
Phía sau núi Hổ Phong là khu rừng già rập rạp đầy gai góc. Gần chân núi là hang ổ của bầy mãnh hổ đông đến ba chục con. Thiên Nhi chưa đi lối đấy bao giờ, chỉ săn bắt trên sườn cao. Nhưng giờ đây, lửa hận đã làm tăng dũng khí, khiến nó không còn biết sợ là gì! Đối với nó, việc quan trọng nhất là không để ai đụng chạm đến thi hài thân mẫu. Hận Thiên đã rải kỳ độc suốt chiều ngang của thạch độc, ngăn ngừa bọn thú rừng và kẻ lạ mặt!
Mãi đến cuối giờ mùi, Hận Thiên mới xuống dưới chân núi phía sau, y phục bị gai cào rách cả. Nó đã dùng Sách Hồn Tiễn bắn vào mắt bốn con ác thú để mở đường.
Phùng Lệ Phi muốn đào luyện cho con trai tấm thân mình đồng da sắt nên suốt ngày chỉ có mảnh da hươu quấn quanh hạ thể. Giờ đây, bộ quần áo vải duy nhất đã rách tung. Hận Thiên tặc lưỡi, mở bọc hành lý. Lấy ra hai mảnh da báo gấm.
Phùng Nương đã khâu bộ y phục kỳ lạ này, khi bà tình cờ giết được một con Kim Tiền Báo.
Mông Diện La Sát tuy mang họ Phùng nhưng lại chẳng giỏi giang trong nghề khâu vá. Tuy nhiên, giờ đây đó là kỷ vật thiêng liêng đối với Hận Thiên.
Có điều, chính sự may vụng về của Phùng Nương lại làm tăng vẻ đẹp sơn dã của Hận Thiên. Làn da trắng muốt và gương mặt đẹp như tiên đồng kia nổi bật lên cạnh mảnh da lốm đốm, tạo nên sức hấp dẫn kỳ lạ!
Quần chỉ ngắn ngang gối, áo thì không tay, không nút gài, được cột bằng chính da đuôi của con Kim Tiền Báo! Và thanh tiểu đao không vỏ kia được cắm vào đôi ủng cũng bằng cùng một loại da báo!
Theo phong tục của người Cao Sơn, Thiên nhi không búi tóc mà chỉ cột ngang trán bằng một dải lụa trắng, cắt ra từ áo mẫu thân. Nó đang để tang cho người mẹ yêu dấu của mình.
Hận Thiên thay áo xong, tiếp tục đi về hướng Bắc, nó từng nghe Phùng Nương kể rằng ở hướng ấy có một đại trấn tên gọi là Thượng Nhiêu, thuộc địa phận tỉnh Giang Tây!
Bốn hôm sau, Thiên Nhi mới đến nơi, đúng ngày mười tám tháng sau.
Đây là ngày giỗ cha và cũng là ngày Hận Thiên ra đời!
Mông Diện La Sát đã có đủ thời gian để kể lại quãng đời xa xưa của mình!
Bà cũng có trí nhớ phi thường nên tái hiện lại từng cuộc bôn hành, không sót một chi tiết nào. Giờ đây, khi đến Thượng Nhiêu, Hận Thiên nhớ ngay đến lời mẹ kể, vào đúng tòa Mỹ Hương tửu lâu.
Lúc sáng, Hận Thiên đã tắm, gội trong một dòng suối nên thân thể sạch sẽ, da dẻ trắng hồng. Thần thái nghiêm lạnh của cậu bé đã khiến bọn tiểu nhị ngại ngùng, tuy đối phương chỉ là một đứa bé y phục sơn cước lạ mắt, nhưng sắc diện lại bội phần tôn quý. Nhất là ánh mắt sáng như sao, xoáy vào lòng người!
Hận Thiên thản bước lên lầu, ngồi xuống bên bàn cạnh lan can, để có thể nhìn về rặng Vũ Di Sơn. Gã tiểu nhị cười hì hì:
- Chẳng hay tiểu hiệp dùng món chi?
Gã xưng hô như vậy vì thấy trên lưng Thiên Nhi có một thanh đoản kiếm, dài độ gần bốn gang. Đây là vũ khí tùy thân của Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi. Hận Thiên mang theo để sau này dùng nó mà hạ sát kẻ thù! Bản thân Thiên Nhi chỉ được mẹ dạy cho có ba chiêu kiếm.
Hận Thiên lãnh đạm đọc tên ba món đặc sản của tòa tửu lâu này, y như đã từng ghé qua.
Đây chính là những món mà Phùng Nương đã từng gọi, cách đây mười bốn năm! Tất nhiên chúng rất đắt tiền!
Gã tiểu nhị bối rối gãi đầu:
- Mong tiểu hiệp lượng thứ! Người đầu bếp cũ đã qua đời nên bổn điếm không còn ai biết nấu ba món ấy nữa!
Hận Thiên cười nhạt:
- Nếu ta đọc ra công thức chế biến, liệu các ngươi có làm được không?
Gã tiểu nhị há hốc miệng chạy đi tìm chưởng quỷ. Lát sau, một gã béo phệ, mặt láng như bôi mỡ, đến bên bàn, vòng tay nói:
- Nếu quả thực tiểu hiệp biết được cách nấu ba món ăn đã thất truyền, bổn điếm xin ngàn lần đội ơn! Vương Hỏa Đầu là người ích kỷ, lúc còn sống luôn giấu giếm tài nghệ. Khi lão qua đời, bổn điếm có thử làm nhưng không sao ngon bằng. Do đó, ba món kia đành mai một!
Hận Thiên lạnh lùng bảo:
- Lão cứ lấy văn phòng tứ bảo ra đây, ta sẽ đọc cho mà viết!
Gã tiểu nhị mau mắn chạy đến quầy lấy ngay! Hận Thiên chậm rãi đọc tên vật liệu, gia vị và số lượng từng món!
Chưởng quỷ lập tức phát hiện ra những gia vị bí mật của Vương Hỏa đầu.
Lão vui mừng khôn xiết, vái dài:
- Đúng là nó rồi! Thiếu hiệp quả là bậc tiên nhân giáng phàm cứu vãn cơ nghiệp của lão phu. Từ ngày mất ba món mỹ vị này, sanh ý cực kỳ ế ẩm, trước sau gì cũng sạt nghiệp, lão phu xin đê đầu bái tạ!
Hận Thiên xua tay:
- Bất tất phải làm như vậy! Chỉ cần từ nay về sau, mỗi lần nấu đến một trong ba món này lão đầu bếp khấn một câu là đủ!
Chưởng quầy, cũng la chủ nhân Mỹ Hương tửu lâu hân hoan đáp:
- Xin thiếu hiệp cứ dạy!
Hận Thiên bùi ngùi nói:
- Câu ấy là:
Kính thỉnh hương linh Phùng nữ hiệp về thượng hưởng!
Mẫu thân ta lúc sinh tiền rất thích ba món ăn này!
Lão chưởng quầy sửng người nghi rằng có khấn vái trong bếp cũng chẳng sợ khách nghe thấy, liền hoan hỉ chấp thuận.
Chắc đọc giả lấy làm lạ là vì sao Hận Thiên lại biết được nghề làm bếp.
Thực ra Thiên Nhi không biết gì cả. Cậu ta chỉ thuộc làu quyển Trung Hoa Mỹ Vị Tinh Quyển của tay đầu bếp người Quảng Đông Hoàng Phúc Khẩu. Họ Hoàng là thánh thủ trong nghề bếp núc, từng là quan Ngự Thiện suốt ba chục năm!
Số là ở Vũ Di Sơn có một thư viện rất lớn, sách vở hàng mấy vạn quyển.
Tử Dương thư viện do học giả Chu Di thời Nam Tống thành lập. Sau khi từ quan, họ Chu đến thăm Vũ Di Sơn, mến cảnh ở lại xây dựng thư viện đồ sộ này. Đây là một tòa kiến trúc lớn, qui mô hùng vĩ, gồm nhiều tiểu viện như:
Nhân Trí Đường, Ấn Lai Đường, Quan Thiện Tế, Hàn Lâm Quán... Tử Dưong thư viện được người đời ca ngợi là:
"Vũ Di Chi Cự Quan" (cảnh quan to lớn của Vũ Di).
Năm lên chín tuổi, Hận Thiên đã thuộc lòng sách vở có trong hang. Thấy chàng ham học, Mông Diện La Sát liền đột nhập Tử Dương thư viện, mượn lén vài chục quyển mang về cho con. Tất nhiên là bà phải đi vào ban đêm, nên không thể nhận ra tựa sách mà chọn. Vì vậy, Phùng Nương vô tình lấy cả quyển sách dạy nấu ăn về! Hận Thiên lại vì yêu thương mẹ, muốn sau này tự tay mình nấu những món cao lương mỹ vị cho bà ăn, nên đã cố công học thuộc!
Hận Thiên đọc xong tất cả, Phùng Nương lại mang đi trả và lấy về số khác. Chính vì vậy sở học của Thiên Nhi rất bác tạp, rộng rãi!
Chỉ hai khắc sau, ba món ăn thất truyền kia đã được dọn lên bàn của Hận Thiên. Lão chưởng quầy xun xoe nói:
- Mong thiếu hiệp thẩm định cho!
Thiên Nhi nếm thử, cảm thấy rất ngon miệng, gật gù tán thưởng.
Lão béo kia cung kính nói:
- Lão phu là Chu Duy Diễn. Dám hỏi phương danh của thiếu hiệp!
Cậu bé hờ hửng đáp:
- Nam Cung Hận Thiên!
Chu lão giật mình vì cái danh tự sặc mùi cừu hận kia. Lão suy nghĩmột lúc, ngượng ngùng hỏi:
- Chẳng hay thiếu hiệp đi đâu mà lại giá lâm tệ điếm?
Thiên Nhi tư lự đáp:
- Ta đi tìm một khách võ lâm có mái tóc màu hung đỏ! Lão là người lịch duyệt, liệu có thể chỉ giáo cho ta không?
Chu Duy Diễn ngồi xuống ghế, vân vê chòm râu thưa, trầm ngâm rất lâu.
cuối cùng lão áy náy đáp:
- Lão phu dám tự hào nắm rõ lai lịch của tất cả các anh hùng hảo hán ở phía nam Trường Giang, và đoán chắc rằng không có ai tóc hung đỏ. Như vậy, người kia phải là một cao thủ ở Trung Nguyên, hoặc ở phía Bắc Hoàng Hà.
Lão nhận ra vẻ thất vọng của Thiên Nhi, mỉm cười nói tiếp:
- Lão phu có một vị biểu huynh tên Chu Minh là chủ nhân Lạc Hà Đại Tửu Lâu ở Lạc Dương. Chu Minh trước đây từng là khách võ lâm, nổi danh Nhất Bất Thông, kiến văn rộng như biển. Thiếu hiệp cứ đến đấy hỏi lão sẽ tìm ra người tóc hung!
Hận Thiên mừng rỡ, và không khỏi thắc mắc:
- Vì sao lão ta lại có danh hiệu kỳ quái ấy?
Chủ lão cười khà khà:
- Chu biểu huynh tự hào rằng chỉ không biết có một điều, đó là việc sau khi chết. Ngoài ra, bất cứ điều gì lão cũng kiến giải được!
Nói xong, lão rời bàn về quầy biên một bức thư giới thiệu Hận Thiên với Nhất Bất Thông.
Chờ Thiên nhi ăn xong, Chu lão trao thư và nói với giọng thân tình:
- Đường đến Lạc Dương xa hơn hai ngàn dặm, lão phu xin biếu tặng thiếu hiệp con tuấn mã để đỡ chân!
Hận Thiên thản nhiên đáp:
- Ta không biết cỡi ngựa!
Chu lão nghiêm giọng:
- Lão phu cũng từng là khách giang hồ, nên nhận ra thiếu hiệp có luyện qua khinh công. Vì vậy, việc cưỡi ngựa không có gì là khó cả. Hơn nữa, con tuấn mã này rất hiền và ngoan ngoãn.
Hận Thiên biết mình không thể đi bộ đến Lạc Dương. Đành chấp thuận:
- Chu lão đã có lòng, ta xin tuân mệnh!
Chu Duy Diễn mừng rỡ, đưa Thiên Nhi đến mảnh sân rộng rãi phía sau, dạy cho nó thuật kỵ mã!
Đến chiều thì Hận Thiên đã điều khiển tuấn mã rất thành thục. Chu lão giữ cậu bé ngủ lại một đêm, sáng hôm sau mới kên đường.
Hận Thiên bắt đầu có cảm tình với lão già phúc hậu họ Chu, nhưng tuyệt đối không hé răng tiết lộ lai lịch cũng như mối hận thù của mình! Nó chỉ nhờ Chu chưởng quỷ định giá giùm số châu báu mà mẫu thân đã để lại!
Theo lời khuyên của Chu lão, Hận Thiên đi về hướng Tây Bắc để đến Hán Khẩu, tồi từ đây mà ngược về Bắc. Như vậy sẽ nhanh hơn vì đường quan đạo rộng rãi, bằng phẳng.
Sáu ngày sau, Thiên Nhi vòng qua mạn Nam của hồ Bà Dương, ghé vào thành Nam Xương dùng bữa.
Nam Xương là thủ phủ của đất Giang Tây, trù phú, thịnh vượng gấp bội Thượng Nhiêu. Đường trong thành người ngựa qua lại tấp nập, ai nấy đều sửng sốt, dán mắt vào cậu bé sơn cước quái dị và xinh đẹp.
Hãn Thanh thản nhiên rẽ về hướng Đông Thành, tìm đến tòa Vọng Hồ Đại Tửu Lâu. Tòa nhà này nằm gần bờ Tây hồ Bà Dương, và nhờ vào vị trí thuận lợi ấy mà trở nên nổi tiếng. Tất nhiên cũng phải tính đến kiến trúc đồ sộ và tay nghề của đầu bếp!
Mông Diện La Sát xuất đạo từ năm mười bảy tuổi, dong ruổi khắp chốn nên chẳng lạ gì tòa Vọng Hồ này. Vì vậy, Thiên Nhi nhớ lời mẹ mà tìm đến đấy.
Hoàng hôn đã buông, ánh tà dương mùa hạ đỏ hồng khiến cảnh hồ Bà Dương cực kỳ diễm lệ. Trận mưa mai vũ tháng sáu như rải ngọc trên mặt nước. Chính vì vậy mà lầu tên Vọng Hồ tửu lâu chật ních người, bàn nào cũng có thực khách.
Hận Thiên đảo mắt nhìn quanh, thấy bàn cạnh lan can chỉ có một người ngồi. Đó là một kiếm sĩ trẻ tuổi, mặc võ phục màu thanh thiên, dung mạo anh tuấn, phong lưu. Chàng ta tuổi chừng đôi mươi, thần thái cao ngạo, những đôi mắt tinh anh kia thỉnh thoảng lại dại đi, khi thì liếc về phía một bàn gần đấy.
Mục tiêu của chàng ta là một nữ lang áo vàng tuổi đôi chín, tuy mặc võ phục nhưng lại lộ rõ vẻ đẹp đoan trang thùy mị. Nữ nhân không ngồi một mình mà còn có ba tỳ nữ áo xanh hầu trà.
Hận Thiên bước đến hầu bàn của chàng hiệp sĩ kia, hòa nhã bảo:
- Mong huynh đài cho phép tiểu đệ được chung bàn.
Khẩu khí của Thiên Nhi giờ đây lễ độ hơn trước đó là nhờ những lời giáo huấn của chủ nhân Mỹ Hương Tửu Lâu Chu Duy Diễn. Lão biết cậu bé xuất thân từ chốn núi rừng, kém phần lễ nghia, nên đã dạy cho cách xưng hô đúng phép!
Phùng Lệ Phi dạy con đủ cả, chỉ thiếu có phần lễ mạo. Điều ấy cũng hiểu vì hai mẹ con chẳng hề tiếp xúc với ai cả.
Nhưng tiếc rằng những lời lễ độ của Thiên Nhi lại được đáp trả rất phủ phàng! Đối phương đã nhận ra cậu bé mặc áo da báo kia còn xinh đẹp hơn mình, bất giác sinh lòng đố kỵ. Gã lạnh lùng nói:
- Hạng người mọi rọ như ngươi đâu đáng ngồi chung với bổn thiếu gia!
Hãn Thanh choáng váng, không ngờ một người phong nhã lại có thể thốt ra những lời cay độc như vậy. Đôi măt Thiên Nhi lóe lên ánh phẫn nộ, định xuất thủ. May thay, nữ lang áo vàng đã lên tiếng:
- Người ta không bằng lòng thì thôi, hiền đệ hãy sang ngồi với ngu tỷ!
Vừa kịp lúc Thiên Nhi nhớ đến lời giáo huấn của tiên mẫu, nuốt giận bước đi. Hoàng y nữ lang ân cần kéo chiếc ghế trống cạnh mình mời. Hận Thiên ngồi xuống.
Mùi u hương và son phấn từ mái tóc huyền, từ thân thể nữ lang tỏa vào mui Thiên Nhi, khiến nó nghe là lạ.
Hận Thiên lạnh lùng, gọi tiểu nhị dọn mấy ăn và ấm trà Long Tĩnh thượng hạng. Tất nhiên, Thiên Nhi phải gọi đúng những món mà mẫu thân đã kể. Tình cờ, đấy lại là hai món thượng đẳng của lâu, giá đắt kinh khủng.
Gã tiểu nhị tròn mắt gãi đầu, lưỡng lự. Gã sợ cậu bé sơn dã kia không đủ tiền trả. Hoàng Y nữ lang hiểu ý, cười bảo:
- Ngươi cứ làm theo ý vị hiền đệ này! Y là khách của ta!
Tên tiểu nhị phấn khởi, cao giọng báo cho chưởng quầy nghe:
- Bát Bửu Hùng Chưởng!
- Lý Ngư Chưng Yến Sào!
Tay gấu và yến sào đều là những món kỳ trân của thế gian, giá đắt như vàng. Vì vậy, thực khách đều đổ dồn mắt về bàn của Hoàng Y nữ lang.
Lúc này chàng kiếm sĩi áo xanh đang giận tím tái mặt, khi thấy thần tượng của mình lại hậu đãi gã bé con man mọi!
Gã vừa tức, vừa tủi hổ, liền ngửa cổ cười khanh khách:
- Năm nay chắc trời đại hạn nên ngay một đứa bé man di cũng biết thưởng thức tay gấu, yến sào!
Danh vọng của gã khá lớn nên có nhiều người hùa theo, tiếng cười mai mỉa vang dội khắp lầu.
Hận Thiên đã có chủ ý nên không nổi giận nữa, chỉ đôi mắt là long lanh sát khí. Và một lần nữa nữ lang áo vàng lại an ủi cậu bé. Nàng quàng tay qua vai, vỗ về Thiên Nhi:
- Hiền đệ chớ nên giận làm gì! Võ lâm rất nhiều những kẻ cuồng đồ như vậy, hơi đâu mà để ý đến.
Thiên Nhi thực sự cảm động. Bao nhiêu năm nay, trừ mẫu thân ra, chưa ai quan tâm đến nó như vậy! Cậu bé mỉm cười khiến gương mặt tiên đồng càng thêm rạng rỡ:
- Tỷ tỷ yên tâm, tiểu đệ cũng biết thế. Nhưng xin hỏi gã kia mang danh tính là gì?
Nữ lang nheo mắt đáp:
- Y là Thanh Y Thần Kiếm Từ Đinh Vân, thiếu bang chủ Kiếm Bang!
Chẳng lẽ hiền đệ định sau này sẽ dạy cho y một bài học?
Hận Thiên chỉ cười chứ không nói gì. Hoàng Y nữ lang cũng cười:
- Ngu tỷ là Diệp Tuyết Hoa, xin thỉnh giáo danh tính hiền đệ?
Mỗi lần nhắc đến tên mình, mối thù sát thủ lại sôi sục trong lòng. Gương mặt Thiên Nhi chợt đóng băng:
- Tiểu đệ là Nam Cung Hận Thiên!
Ba nữ tỳ xanh che miệng cười khúc khích. Một nàng nói:
- Tên gì mà khó nghe quá vậy!
Thiên Nhi đang trong tâm trạng xấu nên trợn mắt, chiếu ra tia nhìn oán độc. Tỳ nữ kia sợ đến nhũn cả người, im bặt. Diệp Tuyết Hoa thở dài:
- Chắc Thiên đệ Ôm ấp mối huyết cừu sâu nặng nên ánh mắt kia khiến ta cũng phải rợn người!
Hận Thiên ngượng ngùng nói:
- Tiểu đệ thất thố, xin chư vị tỷ tỷ lượng thứ!
Lúc này tiểu nhị đã bưng hai đia thức ăn lên. Hận Thiên vui vẻ nói:
- Xin mời tứ vị động đũa, xem như món quà diện kiến của tiểu đệ vậy!
Hai món này rất đắt, chỉ có bậc đại phú mới dám gọi. Vì vậy, ba nữ tỳ kia, chưa hề được ăn. Nay có dịp, họ không hề bỏ lỡ. Hoàng Y nữ lang chỉ ăn lấy lệ, và luôn gắp cho Hận Thiên.
Họ vừa ăn vừa trò chuyện vui vẻ khiến Thanh Y Thần Kiếm Từ Đinh Vân tức lộn mật. Gã lặn lội từ Nam Kinh đến đây cốt để ngấm ghé Nam Hồ Ngư Nữ Diệp Tuyết Hoa. Không ngờ nàng chẳng thèm để ý đến lại còn thân mật với một gã nhãi ranh sơn cước! Thế lực của Bá Dương Bang hùng mạnh không thua gì Kiếm Bang, do đó gã chẳng dám vọng động.
Hoàng hôn sắp lịm tắt, lục tục có người rời bàn, trở về nhà. Nhưng cũng có tửu khách mới! Lão già áo trắng này lên đến lúc nào cũng chẳng ai hay, khi mọi người nhận ra thì đã muộn. Không khí trong tửu lâu chết lặng đi một cách khó hiểu. Và đâu đây thoang thoảng một mùi kỳ lạ. Đó là mùi khói nhang trộn với mùi gỗ hòm, thêm vào chút mùi của xác chết.
Hận Thiên chợt nhận ra sắc diện của ba tỳ nữ Tiểu Phấn, Tiểu Hồng, Tiểu Linh tái mét đi, ánh mắt đầy vẻ sợ hãi, và họ run kên lẩy bẩy.
Thiên Nhi nhìn theo hướng mặt ghớm ghiếc của Bạch Y Lão Nhân. Nó giống hệt như thủ cấp của xác ướp Vũ Di Tiên Nương.
Nhưng thiên nhi lại quá quen với cảnh tượng ấy nên chẳng hề sợ hãi, nó quay sang hỏi Diệp cô nương:
- Tỷ tỷ! Lão nhân kia là ai vậy?
Tuyết Hoa sợ hãi hạ giọng đáp:
- Lão ta là Hoạt Tử Nhân Phùng Lập Tâm, nhân vật cổ quái võ lâm!
Nghe nói lão đồng tính với thân mẫu, Thiên Nhi bất giác có cảm tình nhìn lão ta không chớp mắt!
Bỗng Phùng lão quái than lớn:
- Uống rượu một mình buồn quá, chẳng hay có ai hạ cố cùng lão phu đối ẩm hay không?
Hàng trăm thực khách lặng im, quay mặt nhìnđi nơi khác, giả nhu không nghe thấy!
Bọn tiểu nhị đều trốn sạch vào trong bếp nên lão chưởng quầy dầy dạn kinh nghiệm phải đích thân bưng rượu thịt ra. Vừa đặt xuống bàn là lão lui bước ngay.
Không thấy ai ứng tiếng, Hoạt Tử Nhân chỉ về phía Nam Hồ Ngư Nữ Diệp Tuyết Hoa mà bảo:
- Nếu không có ai có tửu hứng thì con bé áo vàng kia sang đây uống với lão phu vài chung!
Diệp cô nương biến sắc, sợ đến nỗi mồ hôi lạnh toát ra ướt trán. Hận Thiên hỏi nàng:
- Uống với lão vài chung thì cũng chẳng hề gì, tửu lượng của tỷ cao cường lắm mà!
Tuyết Hoa cố trấn tĩnh:
- Hiền đệ không biết đâu, lão ta rất nặng mùi, ai ngồi gần cũng phát ói mửa, và bị lão giết ngay!
Hận Thiên biết nàng tuyệt đối không dám nhận lời, liền đứng lên vòng tay nói:
- Vãn Bối xin thay Diệp tỷ tỷ hầu rượu lão tiền bối!
Phùng lão quái bị Tuyết Hoa che khuất nên lúc đầu không nhìn ra Hận Thiên. Giờ đây lão mới nhận ra cậu bé kia tuấn tú phi phàm. Và có lối trang phục vô cùng lạ mắt!
Hoạt Tử Nhân nhe hàm răng trắng nhởn, cười khà khà:
- Ai cũng được! Lão phu xấu xí nên chẳng dám chọn lựa!
Đã có người thế mạng, các thực khách yên tâm quan sát cuọc đối ẩm chết chóc kia.
Nam Hồ Ngư Nữ lo lắng nắm tay Hận Thiên kéo lại:
- Thiên đệ đừng liều linh kẻo uổng mạng!
Hận Thiên mim cười nói nhỏ:
- Từ năm ba tuổi tiểu đệ đã sống chung với xác chết của sư tổ rồi!
Thiên Nhi chửng chạc bước sang ngồi đối diện với Phùng Lập Tâm. Nó hít mạnh vài hơi rồi nhăn mũi bảo:
- Tiền bối còn nặng mùi hơn cả một tử thi thực thụ!
Cả Phùng lão quái lẫn mọi người đều sửng sốt, khi thấy cậu bé thẳng thắn chê ba i! Phùng Lập Tâm bối rối cười hì hì:
- Lão phu đang thối rữa từ từ nên tất nhiên phải hôi thối hơn một xác chết bình thường! Tiểu tử ngươi quả là một đứa bé lớn mật!
Lão rót đầy chum rượu, uống một nửa rồi đẩy qua Thiên Nhi:
- Lão phu thích chia sẻ từng chung rượu, như thế mới đậm đà tình nghia!
Mọi người đều nghe lợm giọng khi tưởng tưởng ra cảnh mình mình phải uống chén rượu thừa kia!
Nhưng Hận Thiên thản nhiên cầm lên và nói:
- Tiên mẫu cấm vãn bối uống rượu, nên chỉ có thể hầu tiếp ba lần. Mong tiền bối lượng thứ cho!
Dứt lời, Thiên Nhi uống cạn, chẳng hề do dự chút nào cả!
Phùng lão khoan khoái cười vang, dơ ngón cái khen ngợi:
- Hảo hài tử! Đờm lược như ngươi thế gian này chẳng có hai người!
Men rượu khiến da mặt Hận Thiên đỏ bừng, trông càng xinh đẹp. Phùng lão quái chấn động, nhìn mãi, và trong đôi mắt sâu kín kia ánh lên niềm thương mến!
Hận Thiên chia với Hoạt Tử Nhân ba chung rượu, vòng tay nói:
- Vãn bối lần đầu uống rượu, đầu óc quay cuồng, xin cáo từ!
Phùng lão quái cười khanh khách:
- Tiểu hài nhi! Xin hẹn ngày tái ngộ!
Lão đặt nén bạc mười lượng lên bàn rồi phi thân qua lan can, rơi xuống đất êm ái như lá rụng, bỏ đi mất dạng.
Hận Thiên trở về bàn cáo từ Diệp Tuyết Hoa và ba tỳ nữ , rồi cao giọng tiểu nhị tính tiền!
Nam Hồ Ngư Nữ ngập ngừng nói:
- Thiên đệ cho phép ta thanh toán bữa ăn này! Lần sau hội ngộ sẽ tới lượt hiền đệ!
Hận Thiên gật đầu, xách bọc hành lý đi luôn! Lòng y thầm tự hứa có ngày sẽ quay lại Bà Dương Hồ, tìm người chị tốt bụng này!
Giờ đây, các thực khách đều nhìn Hãn Thanh với ánh mắt khâm phục.
Chỉ có một người hận ngút ngàn, đó là Thanh Y Thần Kiếm Từ Đinh Vân.
Hành động của cậu bé đã khiến họ Từ không còn mặt mũi nào ở lại đây ve vãn mỹ nhân! Gã tiếc rằng mình đã không đủ dũng khí để thế mạng cho Diệp Tuyết Hoa. Nhưng gã cũng hiểu mình sẽ bị Ói ngay khi uống chén rượu đầu tiên!
Hận Thiên rời Vọng Hồ Tửu Lâu, tìm đến lữ điếm nghỉ trọ, sáng hôm sau rời thành Nam Xương đi hướng Bắc.
Đi được mười mấy dặm, đến một đoạn quan đạo vắng vẻ, Thiên Nhi chợt phát hiện dưới bóng mát của cây cổ thụ cạnh vệ đường có bóng người quen quen. Thì ra là Thanh Y Thần Kiếm Từ Đinh Vân đã đợi sẳn ở đây. Gã thúc ngựa ra chặn đường, chỉ mặt Hận Thiên quát lớn:
- Tiểu quỷ đứng lại, hôm qua ngươi làm bẽ mặt bổn thiếu gia trước mặt Nam Hồ Ngư Nữ, giờ đây đừng hòng sống nữa!
Thiên Nhi gò cương, lạnh lùng đáp:
- Ta đã bỏ qua những lời thóa mạ, không ngờ ngươi đã cố sống cố chết nên mới chặn đường gây sự!
Cậu bé cho ngựa rẽ vào bãi cỏ cạnh bìa rừng, nhảy xuống chờ đợi. Từ Đinh Vân cười hăng hắc:
- Để xem bọn man di mọi rợ có được bản lãnh gì?
Đây là lần thứ ba gã khinh miệt giòng máu Cao Sơn trong huyết quản Hận Thiên. Cậu bé tôn kính mẫu thân như tiên nữ nên sát khí bừng lên, lao đến tấn công!
Tuy chưa hề giao đấu với người ngoài, nhưng Thiên Nhi đã cùng mẹ luyện tập cả ngàn lần, nên thuần thục Cửu Cung Mê Bộ.
Từ Đinh Vân ngạo nghễ vung quyền đón đỡ. Cho rằng chỉ là vài chiêu là đả tử gã nhãi ranh. Hai nắm tay nhỏ bé kia chẳng làm gã sợ chút nào cả.
Nhưng chính vì khinh địch mà họ Từ Thất thủ ngay chiêu đầu. Thân ảnh Hãn Thanh chập chờn như bóng u linh, song thủ lúc xòe lúc nắm lại, chiêu thức vô cùng ảo diệu. Từ Đinh Vân kinh hãi, vội rút về cố thủ, cố bảo vệ các đại huyệt đang bị uy hiếp. Dẫu sao cũng đã quá muộn màng, ngực gã trúng liền ba quyền và hạ mang dập nát vì một cước.
Thiên nhi thấp hơn đối phương một cái đầu, nên phải tấn công vào hạ bàn. Cậu còn nhỏ nên chẳng có ai có thể trách được. Nếu chiêu này do Mông Diện La Sát thi triển, nục tiêu sẽ cao hơn một gang tay, tức là đá vào bụng.
Từ Đinh Vân xui xẻo nên đã trở thành nạn nhân đầu tiên của tiểu sát tinh. Hận Thiên như ngọn lửa Hỏa Diệm âm ỉ dưới lòng đất, họ Từ dại dột khơi nguồn bằng những lời nhiếc móc, nên phải lãnh hậu quả thê thảm!
Thân hình Thanh Y Thần Kiếm văng ngược ra sau gần trượng, chứng tỏ lực đạo từ tay Hận Thiên rất mạnh! Từ Đinh Vân ôm hạ thể kêu la thảm thiết, ngọc hành của gã chỉ còn là hai miếng thịt bầm!
Hận Thiên hơi ngỡ ngàng vì không ngờ Cửu Cung Thần Thức lại có uy lực kinh nhân như vậy. Điều này đã làm vơi đi cơn thịnh nộ của Thiên nhi.
Thấy đối phương gào khóc, cậu bé không nỡ xuống tay!
Nhưng sau lưng Hận Thiên chợt vang lên tiếng nói âm u:
- Tiểu nhai nhi! Nếu ngươi không giết gã ấy đi, sau này sẽ gánh chịu nhiều phiền phức, do sự báo thục của Kiếm bang!
Người vừa nói chính là Hoạt Tử Nhân. Lão đến lúc nào không rõ!
Hận Thiên muốn được thảnh thơi để đến Hồ Đạt Lai kịp thời hạn nên không thể chuốc oán với Kiếm Bang, đành phải làm theo lời Phùng lão quái!
Thiên nhi rút đoản kiếm, bước đến bên thân hình đang run rẩy của Thanh Y Thần Kiếm. Họ Từ sợ hãi, gắng gượng quỳ lên van lạy:
- Xin thiếu hiệp tha mạng, tại hạ xin thề có Hoàng thiên chứng giám, không bao giờ nuôi thù hận với thiếu hiệp!
Phu Tử có câu "Nhân chi sơ, tính bản thiện" do vậy, dù được đào tạo, nuôi dưỡng bằng thù hận, nhưng bản chất htiện lương vẫn còn mạnh mẽ trong người Hận Thiên. Cậu bé mềm lòng, không nỡ xuống tay.
Hoạt Tử Nhân cười nhạt:
- Đã dấn thân vào chốn giang hồ mà còn giữ tấm lòng nhân của đàn bà như vậy, làm sao tồn tại được!
Thấy Hận Thiên vẫn do dự bất quyết, Phùng lão quái bồi tiếp một câu nữa:
- Ngươi là đứa bứ mẫn tiệp, sao không hiểu được ẩn ý trong lời thề của Từ Đinh Vân!
Thiên nhi giật mình suy nghĩ, lát sau vung kiếm chém bay thủ cấp họ Từ!
Thì ra Thanh Y Thần Kiếm xảo quyệt, dùng lời quanh co để gạt gẫm cậu bé non nớt. Gã chỉ hứa bản thân sẽ quên đi mối hận, nhưng không nhắc đến Kiếm Bang. Sau nay bang chủ Kiếm Bang thống lĩnh thủ hạ truy sát Hận Thiên thì cũng chẳng liên quan đến lời trọng thệ hôm nay!
Hoạt Tử Nhân thấy Hận Thiên thông tuệ và quyết đoán, lòng vô cùng mến mộ, lão lướt đến chụp lấy xác và thủ cấp của Từ Đinh Vân mang vào rừng giấu đi. Thân pháp của lão quái nhanh như gió thoảng , dù phải xách theo một tử thi.
Trong chớp nhoáng, lão đã trở ra, vỗ mạnh vào mông con tuấn mã của Thanh Y Thần Kiếm, đuổi nó chạy mất tăm. Xong việc, Phùng Lập Tâm xua tay, cười bảo:
- Hảo hài tử, tính cách và căn cơ của ngươi khiến lão phu sinh lòng yêu mến, muốn nhận ngươi làm đồ đệ. ö ngươi thế nào?
Hận Thiên điềm đạm hỏi lại:
- Bản lãnh của tiền bối có phải là vô địch thiên hạ hay không?
Phùng lão quái ngượng ngập đáp:
- Câu hỏi của ngươi quả khó trả lời. Thực ra, võ lâm rất nhiều cao thủ, đã chạm trán hết lượt đâu mà biết? Tuy nhiên, lão phu tạm thời có thể nói rằng:
Ở Trung Nguyên này chỉ có một người hơn ta và ba người bằng ta!
Hận Thiên hiếu kỳ hỏi tiếp:
- Ai hơn, ai bằng?
Hoạt Tử Nhân nghiêm giọng:
- Người có thể đánh thắng lão phu là Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên, còn ba người bình thủ với lão phu là Tây Nhạc Lão Quái, Đông Nhạc Thần Đao, và Bắc Nhạc Quỷ Trảo!
Thiên nhi từng nghe Mông Diện La Sát kể về Ngũ Nhạc Kỳ Nhân, liền cười bảo:
- Té ra tiền bối là Nam Nhạc Nhất Tà!
Phùng lão quái hài lòng:
- Kiến văn của ngươi cũng không đến nỗi hẹp! Đã biết lão phu là một trong Ngũ Nhạc Đại Kỳ Nhân, ngươi có vui lòng bái làm sư phụ hay không?
Hận Thiên bối rối đáp:
- Tiếc rằng không được! Với sở học của tiền bối, Thiên này không thể báo được gia thù!
Phùng Lập Tâm biến sắc hỏi lại:
- Kẻ thù của ngươi là ai mà lợi hại phi thường như vậy?
Hận Thiên biết Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên chính là Trung Nhạc Kiếm Vương, e rằng có giao tình với Nam Nhạc Nhất Tà Phùng Lập Tâm, nên không nhắc đến kẻ thù giết cha. Cậu bé liền nhân dịp này dọ hỏi lai lịch kẻ đã hãm hại mẫu thân:
- Tiền bối có biết trong võ lâm cao thủ nào có mái tóc hung đỏ hay không?
Phùng lão quái giật mình kinh hãi:
- Lẽ nào lại là Hồng Phát Ma Quân, Cung Chủ Vạn Hoa Cung? Lão quỷ ấy ẩn cư đã hai mươi năm, không hề thấy xuất hiện!
Hận Thiên mừng rỡ:
- Vậy là tiền bối đã từng gặp qua lão ta?
Nam Nhạc Nhất Tà gật đầu:
- Năm ấy, Hồng Phát Ma Quân gởi thiệp mời Ngũ Nhạc Đại Kỳ Nhân đến chân núi Cửu Hoa luận võ. Lão đánh bại bốn người nhưng lại thua Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên nên phẫn hận thoái mất giang hồ! Nhờ trận thư hùng ấy nên lão phu biết rõ dung mạo của Ma Quân!
Hận Thiên mở bọc hành lý, lấy ra một gói nhỏ, đưa cho Nhất Tà:
- Mong tiền bối thẩm định xem đây có phải là tóc của Hồng Phát Ma Quân hay không?
Phùng lão quái mở ra, cầm bốn sợi tóc đỏ hung, quan sát rất kỹ và thở dài:
- Có lẽ là phải! Trong võ lâm, người tóc đỏ rất hiếm, lão phu đã bảy mươi hai mà mới gặp có một người thôi!
Hận Thiên muốn biết chắc ai là hung thủ, liền hỏi thêm:
- Dám hỏi tiền bối rằng Hồng Phát Ma Quân có oán thù gì với Vũ Di Tiên Nương ở Phúc Kiến hay không?
Nhất Tà lắc đầu:
- Lão phu không rõ, nhưng vì sao ngươi lại hỏi thế? Phải chăng ngươi là đồ tử, đồ tôn của Tiên Nương?
Hận Thiên lặng thinh không đáp. Vòng tay cáo biệt. Phùng Lập Tâm vội nói:
- Tiểu nhai nhi! Cốt cách của ngươi thuộc hàng thượng phẩm, lão phu quả không xứng làm sư phụ. Hay là lão phu đưa ngươi đến học nghệ Bạch Y Hầu! Chỉ có kiếm thuật thượng thừa của Mộ Dung Thiên mới giúp ngươi báo được gia thù!
Hận Thiên nghe nhắc đến kẻ đại cửu, lửa hận bừng sôi, gằn giọng đáp:
- Không bao giờ vãn bối chịu vái lão cẩu tặc làm sư phụ!
Dứt lời, cậu bé thúc ngựa phi nước đại. Hoạt Tử Nhân đã nhận ra ánh mắt căm thù của Thiên nhi, lòng vô cùng hoang mang. Lão lẩm bẩm:
- Lạ thực! Chẳng lẽ đứa bé này lại có mối huyết thù với Mộ Dung lão đệ?
Bạch Y Hầu là bậc nhân hiệp, suốt đời không giết oan một ai, sao lại gây ra nghiệp chướng này?
Lão nhơ đến tên cậu bé, vỗ trán nói:
- Hận Thiên! Đúng là thằng nhỏ có mối oán thù với Mộ Dung Thiên rồi!
Nhưng sao lại còn dây đến cả Hồng Phát Ma Quân nữa? Chẳng lẽ nó có đến hai kẻ thù?
Lão lảm nhảm phân tích một hồi, quyết định đi theo Thiên nhi để điều tra cho rõ ngọn ngành!
Nam Nhạc Nhất Tà Phùng Lập Tâm mang nặng mối thương tâm ngút trời, suốt đời mang mặt nạ xác chết, tự xưng là Hoạt Tử Nhân. Nhưng thực ra bản chất của lão rất hào hiệp và nhân hậu. Việc mời rượu giết người chỉ là cái cớ để tiêu diệt những kẻ bại hoại trong võ lâm. Tiếc rằng ít ai hiểu được ý của lão, nên đều sợ hãi, lánh xa!
Nay tình cờ gặp Thiên nhi, lòng bỗng yêu mến lạ thường, chẳng thể bỏ mặc cậu bé được. Lão vội vã giở khinh công thượng thừa, lướt đi như gió thoảng. Chẳng may, Hận Thiên rẽ vào rừng để đại tiện nên Phùng lão quái lại trở thành người đi trước.
Thiên nhi bài tiết xong, khoan khoái trở ra đường quan đạo, thúc ngựa phi mau.
Hồi 2
Vũ Hạ Miếu Trung Phùng Quỷ Nữ
Bắc Phương Nhất Khứ Tầm Minh Sư
Tám ngày sau, cậu bé đến địa phận đất Hoài Hóa, dùng bữa trưa xong tiếp tục lên đường. Cuối giờ Mùi, Thiên nhi đã đi ngang ngọn Hóa Sơn. Núi này chỉ cao hơn trăm trượng nhưng địa hình hiểm trở, bao quanh bởi cánh rừng già rậm rạp.
Trời bỗng u ám lạ ky, mây đen vần vũ kéo đến, và chỉ gần khắc sau đã đổ mưa như trút nước. Trận cuồng vũ đã khiến không gian mù mịt, người ngựa đều không thể mở mắt ra mà nhìn.
Hận Thiên co mình trong mảnh áo tơi, cắn răng tiến lên. Chợt một tiếng sét kinh hồn giáng xuống khu rừng chân núi khiến tuấn mã giật mình, sợ hãi dựng đứng cả hai vó trước mà hí vang!
Thiên nhi đã kịp gò cương giữ lại và vỗ về con ngựa. Nó nhìn về phía hữu, phát hiện cây cổ thụ cao nhất đã bị sét chẻ làm đôi, đang bốc cháy ngùn ngụt. Và gần đấy, thấp thoáng bóng của một mái ngói. Cậu bé mừng rỡ rẽ vào, tìm chỗ trú mưa.
Cánh rừng này gồm toàn những cây Du trăm tuổi, tàn lá sum xuê nên hệ thực vật dưới đất không phát triển được. Nhờ vậy ít gai góc, bụi rậm, và ngựa có thể vào đến tận nơi. Dưới ánh lửa chập chờn của đám cháy đang lụi dần, Thiên nhi nhận ra rải rác đó đây có những tảng đá lớn, nằm xen kẽ giữa các gốc cây. Cậu bé nhíu mày tự hỏi rằng phải chăng chúng được xếp theo một phương vị của một trận kỳ môn?
Trong Tử Dương thư viện ở Vũ Di Sơn cũng có những quyển cổ thư, dạy về kỳ môn trận pháp. Và Phùng Nương cũng đã vô tình mang về một quyển trong số ấy! Thiên nhi tiếc công lao của thân mẫu trộm về nên cũng đọc qua, dù chẳng hiểu được bao nhiêu!
Nhưng Hận Thiên không có thì giờ mà nghĩ ngợi thêm. Cậu phải đến phế miếu trước khi ngọn lửa ở cây cổ thụ bị sét đánh kia tắt lịm. Mưa quá lớn nên không đám cháy nào kéo dài được lâu!
Nhưng té ra Thiên nhi đã quá lo xa, cậu đến nơi mà lửa vẫn còn bập bùng. Thiên nhi dắt ngựa cột dưới mái hiên rồi bước qua cánh cửa miếu rộng mở. Cậu bật hỏa tập soi thử, phát hiện ngay trước bệ thờ là chiếc quan tài không nắp rất lớn. Thiên nhi tò mò bước đến xem, nhận ra trong hòm có thi hài của một phụ nữ lang tuổi độ hai mươi hai!
Da mặt nàng trắng bệch như đã chết nhưng vẫn mịn màng. Hận Thiên bán tình bán nghi, thò tay thăm mạch, quả nhiên chẳng thấy gì! Cậu bé thở dài nhớ đến di thể của mẫu thân trên núi Hổ Phong. Nữ lang này có dung mạo hao hao giống Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi!
Chợt một giọt nước từ trên mái ngói nhỏ xuống mặt tử thi. Hận Thiên thấy vậy, xô đầu hòm lệch sang một bên để tránh chỗ dột. Cậu bé mừng rỡ nhận ra trên bệ thờ có vài bó đuốc, làm bằng thứ gỗ có nhiều dầu.
Thiên nhi châm đuốc rồi cất hoa? tập đi. Lúc này ngọc lửa ngoài kia đã tắt ngấm. Thiên nhi dơ đuốc nhìn quanh, tìm ra chỗ để cắm đuốc. Đó là một lỗ trên chiếc cột gỗ gần linh cữu. Dường như nó được tạo ra với mục đích ấy.
Bọc hành lý may bằng da nai nên ít thấm nước. Thiên nhi đi vào góc miếu, thay y phục. Lúc đi ngang thành Hán Khẩu, cậu bé đã mua vài bộ y phục may sẵn để có mà thay đổi.
Dù yêu quý bộ quần áo da báo nhưng Thiên nhi không thể mặc nó trong thời tiết mưa gió thế này được! Cậu đã cất trong bọc từ lúc vượt Trường Giang!
Giờ đây, Thiên nhi lấy áo ra khoác vào, thay cho chiếc khăn.
Nhưng cậu không tài nào ngủ được vì trời còn rất sớm. Thiên nhi ngồi ôm quan tài, nhìn gương mặt của tử thi áo trắng kia mà nhớ mẹ hiền. Khi chung quanh không có ai, Hận Thiên trở lại là một đứa bé mồ côi bạc mệnh, cậu sụt sùi khóc người mẹ dấu yêu!
Trời vẫn mưa tầm tã và không có gì hứa hẹn rằng sẽ tạnh mưa trước nửa đêm. Nước mắt là liều thuốc ngủ của tuổi thơ, Hận Thiên gục vào cạnh hòm mà thiếp đi.
Trong giấc mơ màng, cậu bé nghe có giọng ma quái rót vào tai:
- Hảo hiền đệ! Ngươi quả là một đứa bé dũng cảm và đáng thương nhất thế gian!
Hận Thiên ngơ ngác bật dậy, nhìn vào miệng của tử thi. Đôi môi nhợt nhạt kia không hề máy động, mà tiếng nói vẫn phiêu phưởng đâu đây:
- Ta là hồn ma, làm sao hiền đệ thấy được mà tìm? Hãy ngoan ngoãn nhắm mắt lại như cũ, tỷ tỷ sẽ trò chuyện với ngươi!
Với một đứa bé lớn lên trong hoàn cảnh đặc biệt như Hận Thiên, chuyện hồn ma bóng quế chẳng hề làm nó sợ. Cuộc hội ngộ này chỉ kích thích lòng hiếu kỳ trong lòng Thiên nhi. Cậu làm theo lời hồn ma để được thỏa mãn óc tò mò!
Thực ra, bộ tộc Cao Sơn vẫn tin tưởng rằng linh hồn người chết không hề tan biến mà vẫn ở quanh quẩn bên người thân. Do vậy, họ có phong tục thờ ma xó trong nhà và chẳng biết sợ là gì? Phùng Nương là người Cao Sơn tất cũng tin và dạy Thiên nhi như thế!
Cậu bé nhắm mắt lại, gối đầu lên cánh tay trái đang gác cạnh hòm, lắng nghe. Quỉ hồn kia có vẻ hài lòng, cười khúc khích:
- Dũng khí của hiền đệ khiến ngu tỷ cũng phải bái phục!
Thiên nhi buộc miệng:
- Tiếng cười của tỷ tỷ giống tiên mẫu! Giá mà hương hồn bà hiện về thì hay quá!
Quỉ hồn xúc động nói:
- Xem ra hiền đệ đã gặp nhiều cảnh ngộ thương tâm! Sao không kể cho ngu tỷ nghe thử xem!
Hận Thiên đang trong tâm trạng cô đơn, sầu khổ, lại nghĩ đối phương không phải là người nên chẳng úy kỵ, buồn bã kể hết lai lịch của mình! Nước mắt chảy dài trên gương mặt thơ ngây!
Quỉ hồn nghe xong thở dài não ruột, lặng im một lúc rồi bảo:
- Té ra hiền đệ gánh nặng trên vai đến hai mối đại cừu khó báo phục. Nay Hoàng Thiên cho Lôi Thần đánh vỡ trung điểm của trận kỳ môn quanh miếu, dui dủi ngươi vào đến đây, tức là chị em ta có tiền duyên với nhau! Tỷ tỷ sẽ tận lực giúp ngươi báo phục mối huyết cừu!
Hận Thiên cảm kích nói:
- Nhưng tỷ tỷ là ma, làm sao giúp được tiểu đệ!
Quỉ hồn cất giọng xa vắng:
- Ngu tỷ tên là Trịnh Tiểu Thuần con gái của vua nước Dạ Lang ở đất Qúi Châu, hai mươi năm trước chết nhằm giờ kỵ, linh hồn không thể siêu thoát và sẽ biến thành quỉ gây hại cho bách tính. Chính vì vậy, Đại Pháp Sư của nước Dạ Lang đã phải đưa quan tài đến Long Mạch Hóa Sơn này trấn yểm, lập trận tỏa yêu này mà giam giữ. Nay đã quá thời hạn hóa quỉ, nhưng vong hồn vất vưởng nơi này, không xa được thi hài! Nếu hiền đệ chịu ra tay tương trợ, ngu tỷ mới có thể lìa xác mà đầu thai được. Nhưng trước khi về chốn Diêm đài, ngu tỷ có thể lần lừa vài năm mà phù trì cho hiền đệ!
Người Cao Sơn rất tin tưởng vào pháp lực thông thần của ma quỉ, hơn nữa, Thiên nhi cảm thấy thương cho cảnh ngộ của Quỉ hồn nên động lòng nghĩa nghĩa:
- Được! Tiểu đệ sẵn sàng giúp tỷ tỷ được siêu sinh tịnh độ!
Con ma mừng rỡ nói:
- Chỉ cần Thiên đệ nhỏ vào miệng ngu tỷ chín giọt máu cùng một chung nước, và dùng kim châm vào mười tám đại huyệt trên thân thể. Sau đó, mỗi đêm nằm cạnh ta từ đầu giờ tý đến sáng, làm như vậy trong ba ngày, ngu tỷ sẽ có đủ dương khí mà giải phá phép trấn yểu của Dạ Lang Đại Pháp Sư!
Hận Thiên còn trẻ dại, lại thầm xem nữ lang như mẹ mình nên không ngần ngại gì cả. Cậu bé gật đầu đáp:
- Tiểu đệ xin tuân mệnh. Chỉ mong tỷ tỷ đưa giúp vong hồn của Tiên mẫu về cho tiểu đệ được gặp!
Quỉ hồn ngượng ngập đáp:
- Thiên đệ quả là đứa con chí hiếu! Nhưng chỉ sợ lệnh mẫu đã sớm siêu thoát thì tỷ tỷ không tìm được!
Hận Thiên buồn rầu gượng cười:
- Nếu Tiên mẫu đã sớm về Hoàng Tuyền thì thôi!
Quỉ hồn thở dài:
- Thiên đệ hãy lắng nghe ta đọc tên mười tám đại huyệt kia. Không được nhầm lẫn đấy nhé. Trên bệ thờ có một hộp kim châm cứu, mỗi mũi cắm sâu một lóng tay là đủ! Đầu giờ Tý rút ra!
Hận Thiên nghe xong đọc lại không sai một chữ. Nó mở mắt đứng lên, bước đến bàn thờ tìm hộp kim, nhận ra pho tượng đá kia có gương mặt rất giống Trịnh Tiểu Thuần!
Thiên nhi không kịp thắc mắc, mau mắn tiến hành việc giải thoát cho Quỉ hồn!
Cậu lấy kim trong hộp gỗ đâm vào đầu ngón tay tả, vạch miệng tử thi và nhỏ máu vào, đủ chín giọt thì ngưng. Thiên nhi cầm chung sứ trên bàn thờ, ra ngoài hứng đầy nước mưa, trút từ từ vào chiếc miệng nhỏ nhắn, có hai hàm răng trắng đều.
Nó hơi lấy làm lạ khi xác chết không hề hôi hám mà lại thoang thoảng mùi hương thơm như hoa lan!
Đến phần cắm kim vào huyệt đạo, Thiên nhi bắt đầu lúng túng. Cậu học nghề phóng Sách Hồn Tiễn tất phải tinh thông kinh mạch và vị trí các huyệt đạo. Nhưng khi giết người thì dù ném trật một chút cũng chẳng sao. Đây lại là cứu người, không thể sai sót được!
Xác của Trịnh Tiểu Thuần mặc đến hai lớp áo, Thiên nhi sợ mình cắm kim không đúng vị trí, đứng tần ngần mãi. Cuối cùng, nó tự an ủi rằng đây chỉ là một tử thi, cũng như thân mẫu của mình vậy!
Hận Thiên tặc lưỡi, cởi thắt lưng, mở rộng hai lớp áo và tháo yếm ngực xác chết ra! Màu da trắng nhợt, tựa như trong suốt kia khiến cơ thể Tiểu Thuần đẹp một cách ma quái.
Thiên nhi cẩn thận dùng lóng tay đo khoảng cách để xác định từng huyệt, nhờ vậy nó biết rằng da thịt của xác chết này rất mềm mại chứ không khô cứng như xác ướp của Vũ Di Tiên Nương!
Trong mười tám đại huyệt kia có hai huyệt nằm trên vú là Thần Phong, Ưng Song, và ba huyệt nằm dưới thắt lưng quần là Quan Nguyên, Trung Cực, Qui Lai.
Hận Thiên cắm xong mười tám mũi kim, mồ hôi toát ra như tắm, bước ra mái hiên hứng giọt gianh mà rửa mặt. Đã là đầu canh hai, cơn mưa hạ vẫn rỉ rả chứ chưa chịu tạnh. Cậu bé vỗ về tuấn mã rồi trở vào trong.
Nghe bụng đói meo, Hận Thiên xiết chặt giải lưng quần, ngồi dựa quan tài chờ đợi. Thời gian trôi qua chậm chạp khiến lòng người nặng trĩu. Ở đây làm gì có mõ báo canh, Thiên nhi lo lắng hỏi:
- Trịnh tỷ tỷ! Đã đến giờ Tý chưa?
Có tiếng của Quỉ hồn trả lời, nhưng lần này rất rõ ràng và phát ra ngay trong hòm:
- Thiên đệ cứ ngủ đi! Khi nào đến lúc ngu tỷ sẽ gọi!
Hận Thiên đứng bật dậy, thấy tử thi đã mở mắt, miệng cười như hoa nở!
Cậu bé ngơ ngác hỏi:
- Tỷ tỷ hồi sinh rồi ư?
Tiểu Thuần chớp đôi mắt đẹp đáp:
- Nhờ chín giọt máu đồng nam của Thiên đệ mà ngu tỷ có thể nhập hồn vào xác mà trò chuyện với ngươi!
Bỗng ánh mắt nàng thoáng lộ vẻ thẹn thùng:
- Sao ngươi không kéo áo lại cho ta?
Thì ra nàng cũng biết xấu hổ vì thân thể lõa lồ của mình! Thiên nhi vội nhẹ nhàng khép hai tà áo lại. Nó thản nhiên nói:
- Cơ thể tỷ tỷ rất giống tiên mẫu. Chỉ gầy hơn một chút thôi!
Tiểu Thuần nghe Hận Thiên bình phẩm thân hình mình, càng bội phần xấu hổ, da mặt đỏ hồng lên. Nhờ ánh đuốc vàng võ nên Thiên nhi không nhận ra!
Tiểu Thuần nói lảng sang chuyện khác:
- Chắc hiền đệ đã đói bụng! Hãy cố nhịn đói đêm nay. Sáng mai tìm chút dã vị mà ăn. Chung quanh đây có rất nhiều thú nhỏ.
Nàng bèn chỉ dẫn cho Hận Thiên những hang ổ của bọn chồn thỏ trong khu rừng! Sau cùng, Tiểu Thuần dịu giọng:
- Đã đến giờ Tý rồi đấy!
Thiên nhi ngơ ngác:
- Sao tỷ tỷ biết?
Tiểu Thuần cười đáp:
- Ta là ma chứ đâu phải người thường!
Hận Thiên gật gù, mở áo rút kim ra khỏi cơ thể Tiểu Thuần. Chiếc quan tài này có chiều ngang rộng gấp rưỡi những chiếc bình thường. Đáy lót nệm bông trải lụa chung quanh lót gối mềm rất nhiều. Thiên nhi lấy bớt gối ra, đẩy xác nữ lang qua một bên rồi phủi chân bước vào, nằm cạnh. Cậu bé tò mò hỏi:
- Trịnh tỷ tỷ đã chết hai mươi năm sao thân thể lại thơm tho như vậy?
Tiểu Thuần ngượng ngùng đáp:
- Đó là do phép trấn yểm của Dạ Lang Đại Pháp Sư nên ngu tỷ không bị thối rửa!
Giấc ngủ của trẻ thơ đến rất nhanh, nhất là Thiên nhi có cảm giác như đang nằm cạnh từ mẫu. Nó ôm chặt Tiểu Thuần mà thiếp đi.
Ngọn đuốc thứ hai sắp tàn mà đôi mắt nhung huyền của nữ lang vẫn chưa nhắm lại. Nàng nhìn lên mái ngói, suy nghĩ mông lung, cố nén tiếng thở dài.
Sau ba đêm như vậy, mạch của Tiểu Thuần đã đập lại bình thường, cơ thể ấm lên. Nàng đã ngồi dậy và đi lại được!
Tiểu Thuần nghiêm trang bảo Hận Thiên:
- Thiên đệ cứ lên đường đi Hồ Đạt Lai. Ngu tỷ tịnh dưỡng thêm bảy ngày mới phá được ma pháp đi theo ngươi được!
Hận Thiên lưu luyến nói:
- Mong tỷ tỷ nhanh chân cho! Tiểu đệ sẽ rất nhớ người!
Tiểu Thuần buột miệng:
- Ta cũng vậy!
Nói xong nàng đỏ mặt quay về quan tài, không dám tiễn chân cậu bé.
Hận Thiên lên ngựa rời khu rừng trở ra đường quan đạo, đi lên hướng Bắc. Lòng cậu vô cùng sung sướng khi nghĩ đến người chị ma quái của mình.
Từ ngày mất mẹ, Thiên nhi luôn cô đơn, sầu khổ, nay có được một người thân, dẫu là ma cũng chẳng sao! Hơn nữa, việc làm bạn với ma đã trở thành niềm kiêu hãnh của cậu bé. Đứa trẻ nào cũng mơ mộng viễn vông và khát khao những điều kỳ lạ!
Thiên nhi đến Lạc Dương vào đúng ngày mùng năm tháng bảy. Theo lời chỉ dẫn của Chu Duy Diễn, cậu bé tìm đến Lạc Thủy Đại Tửu Lầu ở cửa Bắc!
Lạc Dương từng là kinh đô của nhiều triều đại nên to lớn, cổ kính và phồn vinh hơn Thượng Nhiêu, Nam Xương. Do đó, cơ ngơi của Nhất Bất Thông Chu Minh cũng đồ sộ, tráng lệ hơn Mỹ Hương tửu lầu.
Gã tiểu nhị khom lưng, ân cần mời khách giá lâm. Vị khách trẻ tuổi này tuy mặc áo vải nhưng phong thái tôn quý như con nhà thế gia vọng tộc.
Tướng mạo sang cả như vậy, chắc chắn không thể nghèo được.
Sắp đến giờ Dậu nên Hận Thiên cũng gọi một mâm cơm. ún xong, cậu bảo gã tiểu nhị tính tiền và nói:
- Ngươi vào bẩm với Chu Đại Thúc rằng ta mang thư của chủ nhân Mỹ Hương Tửu Lầu ở Thượng Nhiêu đến xin bái kiến!
Gã này làm công ở đây đã hai chục năm nên biết rõ gia quyến của chủ nhân. Gã mừng rỡ đáp:
- Nếu đúng vậy thì chẳng cần bẩm báo, tiểu nhân sẽ đưa công tử lên gặp Chu lão gia!
Tòa tửu lâu này có ba tầng, và gia đình Nhất Bất Thông ở nửa sau của tầng chót. Nửa còn lại, Chu lão đầu dùng để tiếp những thực khách tiếng tăm và bằng hữu!
Giờ đây chỉ một bàn duy nhất có người ngồi. Một trong sáu người ấy là Nhất Bất Thông Chu Minh. Sắc diện của họ Chu và năm người kia đều nặng nề, đầy nét ưu tư.
Gã tiểu nhị chỉ vào một lão già tuổi thất tuần, trán cao, mắt sáng, mũi diều, bảo Hận Thiên:
- Đây là Chu lão gia! Công tử cứ đến mà bái kiến!
Cậu bé gật đầu, bước lại vòng tay nói:
- Bẩm Chu tiền bối, tiểu điệt có thư giới thiệu của Chu lão ở Thượng Nhiêu.
Nói xong, Hận Thiên trao thư cho Nhất Bất Thông. Lão đọc xong cau mày bảo:
- Công tử theo lão phu vào thư phòng đàm đạo!
Lão cáo từ năm vị khách rồi đưa Thiên nhi vào một phòng ở cuối sảnh.
Chủ khách vừa ngồi xuống, Nhất Bất Thông đã nói ngay:
- Công tử cần gì xin nói mau. Lão phu đang gặp chuyện rắc rối nên không thể tiếp lâu được!
Hận Thiên vội lấy túi đựng tóc ra đặt xuống trước mặt Chu Minh và hỏi:
- Xin tiền bối xác định giùm những sợi tóc này có phải là của Hồng Phát Ma Quân Cung Chủ Vạn Hoa Cung hay không? Hoặc giả trên giang hồ còn người khác?
Nhất Bất Thông giật mình, háo hức mở ra. Lão nhìn rất kỹ rồi đáp:
- Lão phu cam đoan rằng trong vòng trăm năm trở lại đây, võ lâm chỉ có một cao thủ duy nhất là Hồng Phát Ma Quân Tang Dương mang màu tóc này!
Hận Thiên mừng rỡ, thu hồi tang vật rồi cáo biệt:
- Cảm tạ Chu tiền bối đã dạy bảo, vãn bối không dám quấy rầy thêm!
Nhưng sự việc này đã đánh trúng vào thói hiếu kỳ của Nhất Bất Thông!
Một đứa bé hỏi thăm lai lịch của một đại cao thủ, lại còn mang theo vật chứng tất không phải là bình thường!
Chu Minh nổi danh Vạn Bác cũng do có óc tò mò hơn thường nhân, luôn chịu khó tìm tòi, học hỏi. Vì vậy, lão chẳng thể bỏ qua cơ hội hiếm có này.
Nhất Bất Thông cười bảo:
- Khoan đã! Mong công tử nói rõ ngọn nguồn, biết đâu lão phu sẽ giúp được gì chăng?
Hận Thiên mừng thầm, ngồi xuống hỏi thêm:
- Tiền bối đã có dạ quan hoài, vãn bối mạo muội muốn biết thêm rằng:
Hồng Phát Ma Quân có hận thù gì với Vũ Di Tiên Nương và Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi hay không?
Nhất Bất Thông bỗng run rẩy nói:
- Lão phu đã nhận ra đôi mắt của Phùng nữ hiệp, mong công tử thành thực cho biết lai lịch?
Quả thực Thiên nhi thừa hưởng đôi mắt đẹp của mẫu thân. Năm xưa, Phùng Nương vùng vẫy giang hồ, lúc nào cũng bịt mặt bằng sa đen, chỉ chừa có đôi mắt. Nhưng muốn nhận ra sự quen thuộc của một đôi mắt thì phải tiếp xúc rất nhiều lần!
Hận Thiên thấy nhãn thần Chu Minh long lanh, đầy vẻ tha thiết, yên tâm thố lộ:
- Tiền bối đoán không sai! Tiên mẫu chính là Mông Diện La Sát!
Chu lão sững người lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ bà ấy đã chết rồi sao, Phùng nữ hiệp chưa đến bốn mươi mà?
Vẻ đau khổ và nuối tiếc hiện rõ trên khuôn mặt già nua của Nhất Bất Thông! Hận Thiên nghiến răng kể lại thảm án trên đỉnh Hổ Phong!
Hận Thiên không biết, nhưng Chu Minh thì hiểu ngay rằng Mông Diện La Sát đã bị dâm sát. Lão trợn mắt rít lên:
- Tang lão cẩu! Không ngờ ngươi lại đốn mạt đến dường này!
Hai giòng lệ hiếm hoi ứa ra khoé mắt nhăn nheo. Hận Thiên lấy làm lạ - Dám hỏi tiền bối có quan hệ gì với tiên mẫu?
Nhất Bất Thông buồn bã đáp:
- Mười lăm năm trước, lão phu cùng bái huynh bị bọn Thiểm Tây Tứ Sát vây đánh ở chân núi Đồng Bách. Trong lúc cửu tử nhất sinh ấy, Phùng nữ hiệp đã xuất hiện, giết Tứ Sát, cứu mạng anh em lão phu! Bà còn hộ tống hai tấm thân đầy thương tích này về đến Lạc Dương. Đại ân này, suốt đời lão phu vẫn ghi lòng tạc dạ. Sau lần suýt chết ấy, võ công lão phu chỉ còn một nửa, bèn xoay qua nghề kinh doanh, may mắn tạo nên sự nghiệp. Nhưng lúc ấy lệnh mẫu đã hoàn toàn biệt tăm, không còn thấy xuất hiện trên giang hồ nữa! Lão phu nhờ người dọ hỏi khắp nơi mà cũng không tìm ra!
Hận Thiên cười bảo:
- Năm ấy, gia mẫu kết hôn cùng gia phụ, sinh sống ngay trên bờ Lạc Thủy, sao tiền bối lại không tìm thấy?
Chu Minh cau mày tự nhủ:
- Lạ thực! Hai bên bờ Lạc Thủy đâu có người nào họ Nam Cung?
Nhưng lão không tiện nói ra chỉ hỏi thêm:
- Thế lệnh tôn đâu mà công tử lại một mình phiêu bạc thế này?
Hận Thiên căm hận đáp:
- Đúng ngày thôi nôi của vãn bối, tiên phụ đã bị Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên sát hại, chôn thây dưới dòng nước Lạc Hà rồi!
Nhất Bất Thiên nhảy nhổm:
- Không thể thế được! Sao lại có chuyện ấy? Bạch Y Hầu là thiên hạ đệ nhất kỳ nam tử, nhân tâm hiệp cốt, được cả võ lâm và bách tính tôn sùng, lẽ nào lại vô cớ giết người?
Hận Thiên:
- Té ra lão lại tôn thờ Bạch Y Hầu như vậy! Nhưng tiên mẫu đã nhắc đi nhắc lại suốt tám năm trời, chẳng lẽ lại sai được? Lão không đi tìm Mộ Dung Thiên mà hỏi thử xem? Lão cẩu tặc ấy cũng ở trong thành Lạc Dương này mà?
Chu Minh buồn rầu đáp:
- Hỏi ai bây giờ? Cũng mười bốn năm trước, không hiểu vì lẽ gì mà Bạch Y Hầu đã bỏ nhà đi biệt tăm!
Hận Thiên nói ngay:
- Chắc là lão đã xấu hổ vì giết một thư sinh yếu đuối như gia phụ nên không dám nhìn mặt ai nữa chứ gì?
Cậu bé đứng phắt dậy, giận dữ cáo từ:
- Nếu lão còn nhớ đến tiên mẫu xin giữ kín giùm việc này. Xin cáo biệt!
Nhất Bất Thông là người thông minh tuyệt thế, lại đa mưu túc trí như hồ ly, dù lòng không tin nhưng vẫn tìm ra cách giải quyết. Lão nghiêm nghị bảo:
- Công tử cứ ngồi lại, kết hợp hai việc kia, có thể thấy rằng Mộ Dung Thiên chính là hung thủ. Lão phu quyết vì Phùng nữ hiệp mà tìm cho ra Bạch Y Hầu, đòi lại công đạo!
Gương mặt cau có của Hận Thiên dãn ra, nhưng giọng nói vẫn còn hậm hực:
- Lão hiểu được là tốt! Nhưng ta còn phải đi đến một địa phương để luyện thêm võ nghệ, mới đủ sức giết Bạch Y Hầu. Mong Chu lão tìm giúp Mộ Dung Thiên và Hồng Phát Ma Quân. Sau này thành tài, ta sẽ trở lại đây nhờ lão chỉ điểm!
Nhất Bất Thông vội nói:
- Công tử yên tâm, lão phu thề sẽ tận lực. Xin công tử cứ ở lại Lạc Dương một đêm. Vì dẫu có đến được bến đò cũng đã quá trễ để sang sông. Lão phu có một tòa khách điếm trong thành, mong công tử hạ cố cho!
Thấy Chu Minh quá khẩn thiết, Hận Thiên gật đầu:
- Nếu vậy xin làm phiền lão một phen!
Nhất Bất Thông mừng rỡ kính cẩn theo Hận Thiên ra ngoài. Lão vòng tay nói với năm người khách kia:
- Chư vị lượng thứ cho, lão phu phải đưa vị công tử đây đến Vạn An lữ điếm, rồi sẽ trở lại ngay!
Nhất Bất Thông có danh vọng rất lớn trong võ lâm, nên thái độ kính cẩn của lão đối với cậu bé này đã khiến bằng hữu phải thắc mắc! Nhưng họ chẳng dám hỏi han gì cả, chỉ lẳng lặng gật đầu!
Chu Minh đích thân đưa Hận Thiên đến tòa lữ điếm Cách đấy chừng hơn dặm. Lão dặn dò chưởng quầy phải hậu đãi người thượng khách nhỏ tuổi.
Thiên nhi được đưa lên tầng hai, vào một phòng thượng hạng của khách điếm. Cậu bé gieo người xuống giường nệm bông êm ái, lát sau thiếp đi.
Cuối canh hai, tiếng gõ cửa làm Hận Thiên giật mình thức giấc. Chưởng quỉ đích thân bưng lên một tô cháo bốc hơi nghi ngút. Lão tươi cười bảo:
- Lão phu là Lục Tâm Hiền. Kính thỉnh công tử dùng chén cháo khuya cho ấm bụng!
Hận Thiên gật đầu:
- Lão cứ đặt xuống bàn, tắm gội xong ta sẽ ăn.
Lục chưởng quỉ mau mắn tuân lệnh. Lát sau lão trở lại với một nô tỳ tuổi đôi tám:
- Bẩm công tử, ả nô tỳ này tên gọi Hà Nhi, y thị sẽ hầu công tử tắm gội!
Hận Thiên cau mày:
- Từ năm mười tuổi ta đã có thể tự tắm rửa, hà tất phải phiền đến người khác như vậy?
Lục chưởng quỉ cười hề hề:
- Công tử là thượng khách của Chu chủ nhân, tất nhiên phải có người chăm sóc, hầu hạ. Nếu công tử từ chối, chỉ e lão phu sẽ bị quở mắng!
Hận Thiên không muốn lão vì mình mà mang họa, đành chấp nhận. Hơn nữa, ả nữ tỳ Hà nhi cứ nhìn cậu bằng cặp mắt van xin, cứ như không được hầu hạ cậu quý khách thì sẽ bị đuổi việc vậy.
Hận Thiên vừa gật đầu thì ả đã mau mắn chạy đến mở bọc hành lý, lấy ra bộ y phục sạch rồi e lệ nói:
- Mời công tử đi theo nô tỳ!
Thiên nhi tắm gội xong, trở ra thì thấy Lục chưởng quỉ vẫn còn đứng đấy! Dường như lão mãi suy nghĩ điều gì nên không nhận ra thượng khách đã xuất hiện. Khi Thiên nhi đến gần lão ta mới giật mình, gượng cười:
- Mời công tử dùng cháo!
Thiên nhi bỗng nhớ đến những gương mặt lo âu trên Lạc Thủy Đại Tửu Lâu, và câu nói đầu tiên của Nhất Bất Thông. Như vậy là Chu Minh đang gặp rắc rối gì đó.
Thiên nhi đã hết giận họ Chu nên muốn tìm hiểu xem sao. Cậu bảo lão chưởng quỉ:
- Lục chưởng quỉ! Dường như Chu tiền bối đang gặp điều nan giải phải không?
Lục Tâm Hiền rầu rĩ đáp:
- Công tử đã hỏi đến, lão phu không dám giấu, quả thực là Chu đại ca sắp phải đối phó với một cường địch đáng sợ! Nhưng dù đại ca có mệnh hệ gì, lão phu cũng có trách nhiệm bảo quản ba ngàn lượng hoàng kim để sau này công tử sử dụng!
Hận Thiên giật mình, không ngờ Nhất Bất Thông Chu Minh lại sắp đặt hậu sự như vậy. Cậu bé cảm kích, hỏi tiếp:
- Chẳng hay đối phương là ai mà Chu tiền bối lại bi quan như vậy?
Lục Tâm Hiền ngồi xuống ghế, châm hai chén trà, nhấp một hớp rồi kể - Khoảng mươi năm nay, võ lâm nổi lên ba bang hội rất hùng mạnh đó là:
Bá Dương Bang của Diệp Kim Sa ở Giang Tây, Kiếm Bang của Từ Cư Chính ở Tích Giang và Tây Bang của Hứa Hữu Tinh ở Diên An. Thế lực của ba bang này hùng mạnh cơ hồ lấn lướt cả Thiếu Lâm Tự. Đồng thời, lại có thêm một tổ chức thần bí tên gọi Phù Dung Hội! Tà hội này thực ra là một bọn cường đạo giết người không gớm máu,, thủ đoạn thần bí và tàn nhẩn phi thường.
Chu đại ca là người thông tuệ và kiên nhẫn, nên đã khám phá ra Phù Dung Hội chính là nanh vuốt của Tây Bang! Ông chỉ mới thố lộ với vài thân hữu, không hiểu sao lại lọt đến tai Phù Dung Hội. Vì vậy, ba hôm trước, tà hội kia đã gởi thư, hẹn canh ba đêm nay sẽ đến đòi mạng.
Hận Thiên đã hiểu ra ẩn tình, giả đò đưa tay che miệng ngáp. Lục chưởng quỉ thấy vậy xin phép cáo lui, bảo Hà nhi dẹp chiếc tô không.
Hận Thiên khóa trái cửa, khoác áo da báo bên ngoài áo vải rồi nhẩy qua cửa sổ, lướt nhanh về phía Lạc Thủy Đại Tửu Lâu.
Mông Diện La Sát cũng là người mang giòng máu hiệp khách nên mới mang gươm dong ruổi giang hồ, trừ gian diệt bạo, cứu khổn phò nguy. Ngoài việc dạy con thù hận Bạch Y Hầu, bà còn giáo huấn Thiên nhi một tinh thần hiệp võ. Người mẹ nào cũng muốn con mình trở thành bậc anh hùng cái thế, chứ không hy vọng nó là kẻ tiểu nhân. Vì vậy, khi biết Nhất Bất Thông gặp hiểm nguy, Hận Thiên đã quyết định giúp lão một tay.
Sau lần hạ sát Thanh Y Thần Kiếm Tư Đinh Vân, Thiên nhi đã hoàn toàn tự tin vào bản lãnh của mình.
Cậu bé đến nơi, ngạc nhiên nhận ra phía trước lầu sáng rực đèn đuốc, khu vườn chung quanh cũng vậy, nhưng tầng trệt và tầng giữa tối đen như mực.
Lúc này, Chu Minh đang ngồi thù tạc với một nữ nhân, lại có hai ả nữ tỳ gảy đàn, thổi sáo, trỗi lên những cung bậc du dương! Nhìn cảnh này, ai dám nghĩ rằng Nhất Bất Thông đang sắp phài đối phó với cường địch?
Mới là giữa canh hai, Hận Thiên trèo lên cây hương mộc rậm rạp ở phía ngoài tường, ngồi vắt vẻo trên ngọn cây chờ đợi. Vị trí này ngang tầm với tầng chót của Lạc Thủy Đại Tửu Lâu!
Thiên nhi thích thú lắng nghe tiếng đàn sáo trầm bổng, quên cả thời gian. Và canh ba đã điểm, từ xa đã có hai chục gã hắc y bịt mặt lướt đến. Bọn chúng ngỡ ngàng trước lối phòng thủ của Nhất Bất Thông, dừng lại trước cánh cửa mở rộng, không dám vào ngay.
Tường tửu lâu chỉ thấp ngang ngực, từ ngoài có thể thấy rõ bên trong. Lát sau, bọn hắc y yên tâm bước vào. Đi đầu là một lão cao gầy, chòm râu cằm điểm trắng ló ra khỏi khăn che mặt đã nói lên tuổi tác. Lão bật cười ghê rợn:
- Chu Minh! Ngươi tưởng cái kế không thành dọa được Phù Dung Hội hay sao?
Nhất Bất Thông vẫn thản nhiên như không nghe thấy, gật gù thưởng thức tiếng nhạc. Phong thái của lão giống hệt như Gia Cát Lượng ngày xưa.
Từng đối phó với Tư Mã ö.
Lão thủ lĩnh hắc y nhìn hai tầng dưới tối om với ánh mắt lo ngại. Nếu đối phương cho cao thủ mai phục trong ấy thi thật là gay go!
Hoặc là tự cho mình thông minh hơn Tư Mã ö, hoặc là do coi thường sinh mạng thủ hạ, lão đã ra lệnh tấn công:
- Tiến lên! Nhớ coi chừng ám khí!
Toán thứ nhát gồm mười tên, nắm chắc song nguyệt phủ, lấy đà từ xa, nhảy lên lan can tầng một.
Hận Thiên tròn mắt nhìn những cây búa hai lưỡi trên tay bọn hắc y. Rõ ràng là lúc nãy không ai mang vũ khí cả. Như vậy là cán búa kia làm bằng những ống thép lồng vào nhau, có thể kéo dài hay rút ngắn.
Nhưng Thiên nhi chẳng có dịp để suy nghĩ lâu hơn. Mười tên hắc y vừa đặt chân lên tầng một thì từ trong những khung cửa tối đen kia, một trận mưa ám khí bay ra. Cả bọn gào lên thảm khốc, rơi xuống đất chết tốt. Chúng nằm trong khoảng sân tối tăm, gần chân vách tầng trệt, nên lão già kia không thể biết thủ hạ mình bị sát hại bởi loại ám khí gì.
Lão giận dữ gầm lên:
- Chu Minh! Lão phu thề sẽ băm xác cả nhà ngươi ra!
Lão rút ra một chiếc còi sắt thổi mạnh, sắc nhọn, xé tan đêm dài. Không phải thổi một hơi mà từng nhịp dài ngắn không đều. Dường như đây là cách truyền tin của Phù Dung Hội.
Nửa khắc sau, lực lượng thứ hai đến nơi, đông đến bốn chục tên. Đầu lĩnh của toán quân này là một lão béo lùn.
Bọn mới đến hành động rất mau lẹ, dứt khoát. Họ tản ra chung quanh tòa tửu lâu, từ xa ném vào những trái cầu màu trắng, nhỏ như trái chanh. Hai tầng dưới mịt mù khói trắng và vọng ra những tiếng ho sặc sụa.
Toán mai phục bên trong bắt buộc phải xông ra ngoài đối diện với bọn hắc y. Nhân số của họ chỉ độ ba mươi người, thua xa đối phương. Bản lãnh của những kiếm thủ thanh y này cũng không bằng các tay búa của Phù Dung Hội.
Nhưng nhờ có độc châm hỗ trợ nên giữ được thế quân bình.
Lão áo đen cao gầy quát vang:
- Thì ra Phi Châm Môn! Bọn ngươi đã tận số rồi nên mới dám đến đây hỗ trợ lão họ Chu!
Nói xong, lão cùng đồng bọn phi thân lên tầng chót để giết Nhất Bất Thông, tiếng đàn sáo giờ đây đã im bặt, Chu Minh và nnhn áo xanh rút kiếm chờ đợi.
Thấy hai lão đầu lĩnh một gầy một béo sắp hạ thân xuống lan can, nữ nhân kia vung tay rải một nắm độc châm để chặn lại.
Nhưng hai cây lưỡng nguyệt phủ trong tay đối phương đã hóa thành màn lưới thép bảo vệ toàn thân. Kim thép chạm vào phủ ảnh, bắn ra những tia lửa nhỏ và rơi rụng.
Hai lão ác ma vừa đặt chân xuống thành lan can đã lao đến tấn công. Chu Minh và nữ nhân áo xanh vội rút kiếm chống đỡ. Chỉ chiêu đầu đã thấy được sự lợi hại của hai cây lưỡng nguyệt phủ và công lực thâm hậu của hai đầu lĩnh Phù Dung Hội!
Nếu nữ nhân kia không liên tiếp phóng ra những mũi phi châm thì nàng và Nhất Bất Thông đã nguy rồi!
Hận Thiên kinh hãi, chuyền ra đầu cành ngoài cùng, đứng lên nhún nhảy vài cái để lấy đà. Cành cây trĩu xuống rồi bật lên, trợ lực cho Thiên nhi vượt quảng đường năm trượng.
Cậu bé sinh trưởng chốn núi rừng nên rất quen thuộc với cách bay nhảy của loài khỉ mặt vàng núi Vũ Di. Năm mười một tuổi, Thiên nhi đã có thể chuyền cành cây mà đuổi theo bọn khỉ vượn.
Thân hình Thiên nhi bay vút lên cao, rơi vòng xuống lan can tửu lâu. Lúc còn trên không trung, Thiên nhi đã vận toàn lực xạ ngay hai mũi Xách Hồn Tiễn vào lưng kẻ địch.
Ám khí độc môn này được rèn bằng huyền thiết nên khá nặng, đuôi lại có bốn cánh nên bay rất xa. Do Thiên nhi xuất thủ từ khoảng cách hai trượng khiến đối phương khó đối phó, khi phát hiện thì trở tay không kịp.
Hai lão áo đen nghe tiếng gió vội phiêu thân tránh né, nhưng cũng bị Sách Hồn Tiẽn cắm vào tay.
Trước khi rời núi Vũ Di Sơn, Hận Thiên đã tẩm kỳ độc vào đầu ba mươi sáu mũi Sách Hồn Tiển. Chất kỳ độc bí truyền này của người Cao Sơn rất lợi hại, đã từng tạo nên danh tiếng cho Mông Diện La Sát.
Hai lão ác ma trúng đòn, vội nhảy lui điểm huyệt phong bế vùng chung quanh thương tích. Nhưng chất độc kia cứ lan nhanh vào cơ thể. Lão béo lùn đã nhận ra lai lịch ám khí, rú lên kinh hoàng:
- Sánh Hồn Tiễn!
Hai lão biết không còn phương cứu vãn, nhất tề vung búa chặt phăng tay trái của mình đi!
Nhất Bất Thông và Thanh Y nữ lang mừng rỡ lao vào tấn công tới tấp.
Hận Thiên cũng liên thủ với họ vì không muốn đối phương tẩu thoát. Cậu bé biết thanh đoản kiếm mỏng manh ngắn ngủn của mình không thể chịu đựng nổi những nhát búa như trời giáng của đối phương, nên đã tận dụng Cửu Cung Mê Bộ tránh né, chờ cơ hội phóng Sách Hồn Tiễn!
Hai lão áo đen tuy mất một cánh tay nhưng vẫn hung hãn như mãnh thú.
Lão gầy một mình đối phó với hai người, để lão béo giết cho được Hận Thiên.
Lão ta múa tít lưỡng nguyệt phủ, miệng gầm lên căm hận:
- Tiểu tử chết bầm kia, lão phu không giết được ngươi, quyết chẳng làm người nữa.
Năm xưa, Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi thành danh là nhờ vào thủ pháp Sách Hồn Tiễn và pho khinh công Cửu Cung Mê Bộ. Bà mang kiếm cho có lệ chớ ít khi dùng đến.
Vì vậy, giờ đây Thiên nhi chập chờn như bóng ma, thoát khỏi những nhát búa chết người chỉ trong gang tấc. Công phu khổ luyện từ thuở ấu thơ đã phát huy được hiệu dụng. Nhưng cậu cũng tháo mồ hôi hột vì những lần lưởi búa lạnh lẽo chỉ cách cơ thể trong gang tấc. Thiên nhi đã bảy lần phóng Sách Hồn Tiễn mà không hạ được đối phương, lòng vô cùng hổ thẹn, tự nhủ sẽ cố trau dồi thêm. Phùng Nương đã luyện thủ pháp này đến mực đại thành, tay không động đậy mà Sách Hồn Tiễn vẫn bay đi, Thiên nhi không thể sánh được.
Bỗng thấy lão cao gầy đang để trống hậu tâm. Hận Thiên xạ ngay một mũi Sách Hồn Tiễn. Cậu còn quá nhỏ để hiểu rằng hành vi ám toán kia là trái với đạo nghĩa của người hiệp khách. Đòn bất ngờ này đã trúng đích, lão cao gầy đau đớn rú lên, tay chân luống cuống bị trúng thêm một nắm phi châm của nữ lang áo xanh, ngã lăn ra chết.
Lão béo đau lòng trước cái chết của đồng đảng chẳng còn sợ Sách Hồn Tiễn nữa, lao thẳng đến chụp lưới thép xuống đầu Hận Thiên.
Hai mũi Sách Hồn Tiễn bay ra, cắm vào ngưc lão ta mà vẫn không cản được bước tiến. Có lẽ lớp mỡ dầy trên cơ thể đã khiến mũi thép không vào sâu đến phủ tạng.
Hận Thiên bị bất ngờ, chỉ còn biết trợn mắt kinh hoàng chờ chết. Chu Minh và nữ lang áo xanh sợ hãi thét lên, nhưng không cách nào can thiệp được.
Trong lúc sinh mệnh cậu bé như chỉ mành treo chuông, bỗng có luồng gió mạnh ập đến, đẩy lão béo lùn chếch sang một bên. Lưỡi búa phá nát lan can và lão ta lao xuống đất, nặng nề như trái mít rụng.
Nhất Bất Thông ngây người trước hiện tượng bất ngờ kia, lát sau mới hồi tỉnh chạy đến ôm Hận Thiên mà khóc:
- Không ngờ công tử lại liều lĩnh đến cúu lão phu như vậy! Hậu nhân của Phùng nữ hiệp quả đáng mặt anh hùng.
Thiên nhi gượng cười:
- Anh hùng gì! Vãn bối sợ đến nỗi chẳng còn hồn vía gì cả!
Nữ nhân áo xanh thúc giục:
- Chu đại ca, chúng ta mau xuống dưới bảo vệ anh em!
Chu lão gật đầu, dặn Hận Thiên cứ ở yên trên này, rồi cùng nữ nhân kia phi thân xuống! Cậu bé chạy quanh, thu nhặt lại những mũi Sách Hồn Tiễn.
Thấy đã đủ, Thiên nhi cũng xuống lầu tham chiến.
Nhưng bọn sát thủ Phù Dung Hội đã rút lui vì thấy hai đầu lĩnh đã thảm tử. Thủ hạ Phi Châm Môn thương vong không nhiều vì đã khôn ngoan rút lui trở lại vào tầng trệt, dùng độc châm mà cầm cự! Có lẽ phe đối phương đã xử dụng hết yên cầu nên không sao xua được họ ra lần nữa!
Hận Thiên thấy cuộc chiến đã tàn, cáo từ trở về Vạn An lữ điếm!
Chu Minh ân cần bảo:
- Sáng mai, lão phu sẽ đến vấn an công tử!
Hận Thiên vào phòng bằng đường cửa sổ, tắm rửa qua loa rồi buông mình xuống giường nệm. Cậu không ngủ được, nằm miên man suy nghĩ vể trận chiến lúc nãy. Rõ ràng là bản lãnh của cậu còn quá kém cỏi, khó toàn mạng dưới tay các đại cao thủ! Việc hạ được Thanh Y Thầm Kiếm chỉ là do quá khinh địch mà thôi!
Nghĩ lại lúc mình sắp chết dưới lưỡi búa của lão béo lùn, Hận Thiên rùng mình sợ hãi, và cậu chợt giật mình nhớ đến mùi hương thoang thoảng của trận quái phong đã đẩy lão ta sang một bên. Mùi hương ấy rất quen thuộc với Thiên nhi. Cậu bé ngẩn người một hồi, ngồi bật dậy, nhìn dáo dác quanh phòng, miệng gọi:
- Trịnh tỷ tỷ! Trịnh tỷ tỷ!
Quả nhiên linh ứng, một bóng trắng bay qua cửa sổ, nhẹ nhàng hạ thân đếng cạnh giường. Trên gương mặt nhợt nhạt của bóng ma điểm một nụ cười hiền hòa, ánh mằt dịu dàng âu yếm:
- Sao Thiên đệ lại đoán ra rằng ta có mặt nơi này?
Hận Thiên vui mừng khôn xiết, quàng tay ôm chặt lấy Trịnh Tiểu Thuần, bật cười vui vẻ:
- Tiểu đệ cũng là ma nên đoán việc như thần!
Thiên nhi đang ngồi cạnh giường nên đầu chỉ ngang ngực Tiểu Thuần.
Nữ lang nghe nhột nhạt, thẹn thùng đẩy Hận Thiên ra rồi ngồi xuống bên cạnh. Nàng tủm tỉm hỏi:
- Lúc nãy đệ có sợ không?
Hận Thiên gật đầu hỏi lại:
- Vì sao tỷ tỷ lại đến đây sớm như vậy?
Tiểu Thuần tủm tỉm đáp:
- Ngu tỷ là ma quỷ nên chỉ cần vài khắc để đến đây cứu cái mạng nhỏ bé của đệ!
Trò chuyện một lúc, Hận Thiên che miệng ngáp, cười bảo:
- Chúng ta đi ngủ thôi! Tiểu đệ buồn ngủ lắm rồi!
Cậu bé thản nhiên đẩy Tiểu Thuần ngã xuống nệm, ôm chặt lấy. Chỉ lát sau đã chìm vào giấc mộng.
Sáng hôm sau, Hận Thiên thức giấc, nhận ra con ma xinh đẹp đã biến mất. Cậu bé gọi mấy tiếng cũng chẳng thấy đâu, rầu rĩ đi rửa mặt, thay áo.
Nhất Bất Thông y hẹn đến Vạn An lữ điếm cùng Hận Thiên ăn sáng và trò chuyện rất lâu. Đầu giờ Thìn, Thiên nhi mới lên ngựa rời Lạc Dương!
Ngay chiều hôm ấy, Hận Thiên vượt Hoàng Hà, đi thêm năm mươi dặm thì trời tối. Cậu ghé vào một quán trọ trong trấn nhỏ nghĩ ngơi. Đầu canh ba, Trịnh Tiểu Thuần hiện ra, khiên Thiên nhi cao hứng phi thường. Tiểu Thuần cười bảo:
- Ngu tỷ không hợp với ánh dương quang ban ngày, nếu Thiên đệ muốn ta đồng hành thì hãy mua lấy một chiếc xe ngựa mui kín!
Hận Thiên mau mắn đáp ứng, sáng hôm sau mua ngay xe ngựa, tự tay làm xà ích. Lúc đầu cậu rất lúng túng, nhưng rồi cũng quen dần.
Sau hơn hai mươi ngày đêm hần gũi, chia sẻ mệt nhọc trên đường thiên lý, tình cảm giữa hai chị em càng thêm thắm thiết. Thiên nhi đã quen với vòng tay ấm áp và mùi hương thơm ngát của Tiểu Thuần, nên đã sa lệ khi nghe nàng nói:
- Bên kia Vạn Lý Trường Thành là địa phận của một phán quan khác, ngu tỷ không thể sang đấy được, Thiên đệ cứ một mình đến Hồ Đạt Lai học nghệ. Khi nào thành tài, trở lại ngọn núi Hằng Sơn này gọi lớn, ngu tỷ sẽ xuất hiện!
Lúc này hai người đang dừng xe dưới chân rặng Bắc Nhạc Hằng Sơn.
Tiểu Thuần chỉ vào một đỉnh thâm thấp trong dãy núi:
- Ngu tỷ sẽ ở trên ngọn núi ấy chờ đợi!
Nói xong, nàng ôm ngực húng hắng ho. Thời gian qua, thỉnh thoảng nàng cũng ho như vậy!
Hận Thiên lo lắng hỏi:
- Tỷ tỷ có sao không?
Tiểu Thuần mỉm cười:
- Ta là ma quỉ, đâu có bệnh hoạn gì!
Nàng cúi xuống định hôn lên trán Hận Thiên để từ biệt, nào ngờ cậu bé cũng có ý định ấy nên cũng nhón chân lên. Vô tình hai đôi môi chạm nhau ngọt lịm. Tiểu Thuần đỏ mặt quay gót, lướt như bay về hướng ngọn núi, thoáng chốc đã mất dạng trong rừng cây rậm rạp.
Hận Thiên dõi mắt nhìn theo, dạ bồi hồi, xao xuyến, cảm thấy hồn trống vắng, quạnh hiu.
Nhớ đến mối huyết thù, Hận Thiên gạt lệ lên xe đi tiếp. Cũng là cảnh thu nhưng giờ đây lại quá ư tiêu điều, ảm đạm?
Ở vùng Tái Bắc này, mùa thu về sớm hơn Trung Nguyên. Mới cuối tháng bảy mà hàng ngô đồng ven đường đã rụng hết lá, chỉ còn trơ lại cành khẳng khui. Gió thu lạnh lẽo ào ào thổi tung mái tóc buông xõa của Thiên nhi.
Cậu bé đã đi suốt chiều dài của tỉnh Sơn Tây mà chẳng hề thấy xa. Giờ đây, chỉ còn vài trăm dặm nữa mà sao muôn trùng diệu vợi!
Hằng Sơn chỉ cách trấn Đại Đồng hon trăm dặm, nên chiều hôm ấy, Hận Thiên đã đến nơi. Theo lời dặn dò của Nhất Bất Thông Chu Minh, cậu bé tìm đến căn nhà của Sa Mạc Thần Đà Trang Vĩnh Qúi là bằng hữu chí thân của Chu Minh, có ba mươi năm xuôi ngược các vùng sa mạc hoang vu, tạo dựng nên cơ đồ. Lão đi trên sa mạc dễ dàng và an toàn như đang dạo phố ở Bắc Kinh vậy!
Trang lão đọc thư của Nhất Bất Thông, hết lòng chieu đãi Hận Thiên.
Hai ngày sau, Sa Mạc Thần Đà cho ba thủ hạ lão luyện nhất đưa Thiên nhi vượt sa mạc đến Hồ Đạt Lai.
Bốn người xuất quan, đi vào khu vực phía Nam của sa mạc Đại Qua Bích.
Cước trình của lạc đà chẳng thể so với ngựa, chúng chậm rãi bước đi giữa vùng cát vàng mênh mông vô tận. Hận Thiên khổ sở vì cái nắng cháy da và cát bụi, hết lòng thán phục những bạn đồng hành.
Đêm đến, nằm cạnh đống lửa hồng, nhìn lên bầu trời sao lấp lánh, Hận Thiên nhớ mẫu thân và Tiểu Thuần vô hạn.
Cuối tháng tám, đoàn lạc đà mới đến phía Đông Nam Hồ Đạt Lai. Nơi nào có nước thì nơi ấy có người ở. Quanh chiếc hồ rộng lớn này có đến ba tiểu trấn và sầm uất nhất chính là trấn Nam Sa, vì nằm cạnh đường sang ngoại Mông.
Va gã hán tử hộ tống Hận Thiên cũng là người Mông Cổ, nhưng rất tinh thông Hán ngữ. Họ đã dạy cho Thiên nhi nói tiếng Mông, và phục lăn trước trí nhớ phi thường của cậu bé.
Sa Mạc Thần Đà Trang Vĩnh Qúi tất nhiên phải có người quen ở trấn Nam Sa này! Ba gã người Mông đưa Hận Thiên vào một lữ quán, trước là nghĩ ngơi, sau hỏi thăm tung tích Bất Biệt Cư Sĩ.
Lão chủ quán chỉ ngọn núi ở hướng Bắc, cách đấy chừng ba chục dặm, cười bảo:
- Trên sườn ngọn núi Hoàng Cương kia có một lão thần tiên pháp thuật thông thần, thường trị bệnh cho dân chúng quanh vùng. Nhưng chẳng ai biết lão ấy có phải là Bất Biệt Cư Sĩ hay không?
Hận Thiên mừng rỡ nói với ba hán tử:
- Sáng mai tam vị cứ trở lại Đại Đồng, việc học nghệ phải vài năm mới xong, chẳng thể chờ được đâu!
Gã lớn tuổi nhất cười bảo:
- Sau khi thành tài, muốn trở lại Trung Nguyên, công tử cứ đến quán trọ này, lão chủ quán sẽ lo liệu mọi việc.
Lão ta vui vẻ xác nhận:
- Đúng vậy, lão phu là Trang Vĩnh Lợi, biểu đệ của Sa Mạc Thần Đà, đã nhận được lệnh chăm sóc công tử trong những năm ở đây, cũng như lúc trở về!
Thì ra lão nà người Hán, nhờ vậy, bữa cơm chiều không đến nỗi khó nuốt.
Mờ sáng, Hận Thiên một mình khoác bọn hành lý, cỡi lạc dà đi về hướng núi Hoàng Cương.
Ngọn núi này chỉ cao độ tám chục trượng, cây cối rậm rạp nhưng cát sa mạc phủ đầy nên có màu vàng sậm. Tên Hoàng Cương dường như xuất phát từ hiện tượng ấy!
Theo sự chỉ dẫn của Trang Vĩnh Lợi, Hận Thiên mau chóng tìm được đường mòn xuyên rừng, dẫn lên đạo quán trên sườn núi. Cậu bé phải rời lưng lạc đà, theo đường sơn đạo mà thượng sơn.
Cơ ngơi của Bất Biệt Cư Sĩ là một tòa nhà xây bằng đá vôi, mái vòm tròn theo kiểu kiến trúc của một giáo đường đạo Hồi. Tòa nhà này nằm dưới những tàn cây rậm rạp nên khá mát mẻ.
Cửa không đóng nhưng Hận Thiên chẳng dám tùy tiện bước vào. Cậu cao giọng gọi:
- Cao tiền bối! Vãn bối là hậu duệ của Vũ Di Tiên Nương, mang tín vật đến xin cầu kiến!
Bất Biệt Cư Sĩ vốn có tính danh là Cao Hán Ngọc. Hận Thiên từng thắc mắc về biệt hiệu Bất Biệt, được Mông Diện La Sát giải thích:
- Họ Cao suốt đời không phân biệt thị phi, thiện ác, có hay không có. Lão là bậc chân nhân đạt đạo, thấu hiểu bản chất tinh truyền của vũ trụ và nhân sinh. Về võ học, Bất Biệt Cư Sĩ có thể thi triển kiếm pháp ở cả hai tay, phải trái như nhau. Do đó mới có danh là Bất Biệt!
Hận Thiên gọi ba lần, không thấy ai đáp lại, đánh liều bước qua khung cửa âm u kia.
Lát sau, từ trong vọng ra tiếng hét thất thanh của Thiên nhi và rồi khung cảnh lại im lìm như cũ!
Hồi 3
Bắc Nhạc Khấp Vong Thê
Tinh Châu Đã Phù Dung
Năm năm sau, vào một buổi sáng mùa đông lạnh lẽo, có chàng kỵ sĩ dừng cương dưới chân rặng núi Hằng Sơn đang phủ đầy tuyết trắng.
Đó là một chàng thiếu niên hiệp khách tuổi đôi chín anh tuấn phi thường. Mặt chàng ta mịn màng trắng hồng như da thiếu nữ, mắt to tròn, hắc bạch phân minh. Đôi lông mày chữ nhất đen như mực, sống mũi dọc dừa đoan chính, và cặp môi đỏ hồng không khỏng không dày. Tất cả những bộ phận ấy nằm trên một gương mặt chữ điền vuông vức, đầy vẻ cương nghị.
Điều đáng chú ý không phải là chiếc áo lông cừu trắng muốt, dài đến gối, mà là con vật chàng trai mang kiếm kia đang cỡi.
Quả thực nó có thân hình của một con tuấn mã nhưng chiếc đầu kia lại là của lạc đà. Một sự lai tạo tuyệt diệu tưởng như không bao giờ có.
Chàng kỵ sĩ ngửa cổ gọi vang:
- Trịnh tỷ tỷ! Tiểu đệ đã về đây!
Như sợ người ấy không biết, chàng ta lại gọi:
- Trịnh Tiểu Thuần! Trịnh Tiểu Thuần!
Giờ thì chúng ta đã biết chàng trai này là cậu bé Nam Cung Hận Thiên ngày nào. Cậu đã học xong tuyệt nghệ, từ Hồ Đạt Lai trở về đây tìm kiếm người chị ma quỉ của mình.
Hận Thiên gọi mãi chẳng thấy ai xuất hiện, sắc mặt nặng trĩu ưu tư, thúc Quái mã tiến vào khu rừng, để lên ngọn núi thấp kia. Năm năm trước, chàng đã nhìn thấy Tiểu Thuần đi vào con đường mòn ở cánh rừng ấy.
Lối đi giờ đây gai góc phủ đầy như đã lâu không có người qua lại. Cánh rừng này sâu độ năm chục trượng. Chỉ gần khắc sau, Hận Thiên đã vào đến sát chân núi. Chàng nhảy xuống, vỗ về Quái mã:
- Đà nhi! Ngươi ở đây chờ ta nhé!
Con vật nhướn đôi mắt ươn ướt, hí nhẹ và liếm tay chủ nhân. Hận Thiên mỉm cười, rung mình lướt nhanh lên sườn núi. Thân hình chàng như được gió đưa đi, nhẹ nhàng và nhanh nhẹn.
Hận Thiên điểm chân lên những tảng đá phủ tuyết, chạy khắp nơi và luôn miệng gọi tên Tiểu Thuần. Hơn canh giờ sau, chàng mới lục soát đến khu vực gần đỉnh núi, phát hiện một bình đài, nằm trước một động khẩu.
Hận Thiên hồi hộp, tiến vào thạch động. Chàng mừng rỡ nhận ra ở cuối hang đá có một người áo trắng nằm trên tảng đá bằng. Mảnh da báo lốm đốm đắp ngang ngực tố cáo rằng nàng ta là Trịnh Tiểu Thuần.
Nỗi vui mừng biến thành lo âu khi Hận Thiên thấy nàng vẫn bất động, dù chàng đã đặng hắng mấy lần.
Hận Thiên chẳng còn úy kị gì nữa lao vút đến bên thạch sàng. Dung mạo người xưa vẫn như cũ, nhưng thân thể lạnh giá như băng, khí huyết không lưu chuyển nữa.
Hận Thiên nghe như bầu trời sụp đổ ôm lấy xác Tiểu Thuần khóc nức nở.
Lát sau, chàng mới trấn tỉnh lại, đảo mắt nhìn quanh, phát hiện nơi đây có cả nồi niêu, chén bát, và bọc hành lý của Tiểu Thuần vẫn còn treo lủng lẳng trên vách động.
Thì ra Tiểu thuần đã cư trú ở đây trong suốt năm năm qua để đợi chờ!
Hận Thiên không bao giờ thắc mắc về chuyện hồn ma cũng ăn uống như người thường, vì trong những chuyện cổ tích của người Cao Sơn cũng kể lại như vậy.
Hận Thiên lấy một chiếc chén sành ra ngoài cửa động, bốc tuyết rửa thật sạch, rồi xúc đầy mang vào. Chàng vận công dùng lửa tam muội làm nóng chén tuyết chỉ một lúc sau đã có chén nước trong âm ấm.
Hận Thiên cắt tay, nhỏ chín giọt máu vào chén nước, cạy miệng cho Tiểu thuần uống. Xong xuôi, chàng lục tìm kim châm cứu, tiến hành thủ pháp kim châm quá huyệt.
Theo thói quen ngày xưa, Hận Thiên cởi áo xác chết chẳng chút ngại ngùng. Nhưng khi làn da trắng bệch và đôi gò bồng đảo hiện ra, chàng thoáng đỏ mặt. Giờ đây Hận Thiên đã là một chàng trai trưởng thành, từng thao thức vì sự phát triển tự nhiên của bản năng tính dục, không còn ngây thơ như trước nữa.
Hận Thiên cắn răng đè nén cảm giác ngượng ngùng, cắm mười tám chiếc kim bạc vào thân trước Tiểu Thuần. Ba mũi cuối cùng nằm ở gần đồi trinh tiết, khiến chàng run tay.
Biết còn phải ở lại khá lâu, ít nhất là ba ngày, Hận Thiên trở xuống chân núi, dẫn quái mã lên. Đường thượng sơn dốc đứng, chẳng hề dễ đi chút nào cả, chàng phải tốn rất nhiều sức lực mới đưa được con vật thân thiết lên trên bình đài.
Đà nhi hoan hỉ khi thấy cỏ nơi đây xanh mơn mởn, và ngon hơn những bụi rậm ở chân núi! Nó vui vẻ hí lên, may mà giống tiếng ngựa hí, nếu không thì tác giả cũng chẳng biết phải diễn tả như thế nào!
Hận Thiên đi một vòng quanh đỉnh núi, săn được ba chú thỏ tuyết béo tròn, gầy đống lửa nướng ăn.
Thời gian chầm chậm trôi qua, rồi cũng đến nửa đêm. Hận Thiên nhổ kim trèo lên ôm lấy thi hài của Tiểu Thuần để truyền dương khí. Nghe thân thể nàng lạnh toát, chàng bèn vận công sưởi ấm cho nàng.
Nhưng sau ba đêm làm như vậy, Trịnh Tiểu Thuần vẫn nằm im bất động, Hận Thiên tuyệt vọng khóc lóc:
- Tỷ tỷ ơi! Tiểu đệ mỏi mòn trông đợi suốt năm năm qua để được gặp lại người mình yêu quí nhất trên đời. Nào ngờ trời già cay nghiệt nên tỷ tỷ đã không chờ được.
Hận Thiên bầu bạn với thi hài thêm ba ngày nữa, với hy vọng mỏng manh. Sau này, vì mối huyết cừu, chàng quyết định rời núi Hằng Sơn.
Trước khi ra đi, Hận Thiên đổ túi hành lý của Tiểu Thuần ra, định phủ lên xác nàng để tử thi đỡ lạnh lùng.
Nào ngờ chàng phát hiện trên một mảnh yếm ngực màu hồng có những dòng chữ rất nhỏ, có lẽ được viết bằng mũi kim chấm máu:
- "Thiên đệ nhã giám! Năm xưa khởi hành trước khi giải phá hoàn toàn ma pháp của Dạ Lang Đại Pháp Sư. Tuy cứu được hiền đệ nhưng nguyên thần bị tổn thương trầm trọng. Chính vì vậy ngu tỷ mới phải ở lại Hằng Sơn tĩnh dưỡng. Nhưng lực bất tòng tâm, ngu tỷ chỉ cầm cự được ba năm là kiệt lực.
Trước khi xuất hồn về âm cảnh, ngu tỷ muối mặt thố lộ tâm tình sâu kín của mình, mong kiếp sau được cùng chắp cánh uyên ương!" Cuối thư lại có hai câu thơ:
ém Dương vô lộ nan tương kiến.
Nhất Đán hồi sinh hựu hữu duyên.
Hận Thiên chạy đến bên giường đá, gục mặt vào ngực Tiểu Thuần khóc kể:
- Tỷ tỷ đâu biết rằng mỗi lần theo gia sư đi dự hôn lễ ở trấn Nam Sa, lòng tiểu đệ đã mơ đến ngày chúng ta được sánh đôi. Với tiểu đệ thì ma hay người cũng chẳng quan trọng, lòng này đã khắc sâu hình bóng của nàng rồi! Kể từ nay, Thiên này tự xem như mình đã mất đi người vợ thân yêu.
Chàng hôn tới tấp lên mắt lên môi tử thi. Lệ tuôn như suối làm ướt cả mặt Tiểu Thuần.
Hận Thiên gạt lệ đắp những bộ y phục lên xác chết miệng lẩm bẩm:
- Hiền thê cứ an nghĩ chốn này! Khi nào báo xong gia thù, ta sẽ trở lại đây đưa xác nàng về Vũ Di Sơn.
Chàng chỉ giữ lại mảnh yếm hồng có di thư làm kỷ vật. Hận Thiên khoác bọc hành lý, ra ngoài cửa hang, lăn những tảng đá thật lớn phong toa? thạch động, để lũ thú rừng không thể xâm phạm di thể của người mình yêu dấu.
Quả thực là Trịnh Tiểu Thuần đã luôn hiện về trong tâm tưởng Hận Thiên. Trong suốt năm năm trường, chàng không hề kể cho Bất Biệt Cư Sĩ biết bí mật này. Càng lớn, Hận Thiên càng hiểu rõ lòng mình, và quyết sẽ thố lộ khi tái ngộ.
Hoàn cảnh đặc cách đã đưa đến một tình yêu ngoài khuôn khổ thông thường. Những kỷ niệm ma quái, mơ hồ kia đã hằn sâu trong tâm hồn trong trắng của Hận Thiên.
Không thể trách chàng là người viễn vông vì chuyện người lấy ma đầy dẫy trong dân gian Trung Hoa, trước khi Bồ Tùng Linh viết tác phẩm Liêu Trai Chí Dị.
Ở vùng phía Bắc Hoàng Hà, tháng mười đã bước vào Đông. Giờ đã là rằm tháng mười một, cao nguyên Sơn Tây cực kỳ giá lạnh, tuyết rời đầy, đọng đầy trên mũ và áo lông cừu của Hận Thiên.
Chàng đã rời Hằng Sơn được sáu ngày đường, và bên tay tả thấp thoáng bóng dáng của rặng Ngũ Đài Sơn danh tiếng. Ngũ Đài Sơn không nằm trong Ngũ Nhạc của Trung Hoa, nhưng lại đứng đầu Tứ Đại Phật Sơn.
Ngoài hình thế kỳ lạ, tuấn vĩ, Ngũ Đài Sơn còn là một thế giới trong lành, nhờ khí hậu tiểu vùng độc đáo. Trong năm, ngoài ba tháng sáu, bảy và tám, đỉnh núi luôn luôn phủ đầy tuyết, khiến Ngũ Đài Sơn cơ hồ không có mùa hạ!
Vì thế nó còn được gọi là Thanh Lương Sơn.
Ngũ Đài Sơn được coi là cõi tu luyện của Văn Thù Bồ Tát, được Phật tử bốn phương sùng mộ. Đây còn là nơi hình thành các tông phái như Thiền Tông, Hoa Nghiêm Tông, Luật Tông, Mật Tông Có ảnh hưởng và thế lực rất lớn ở Trung Nguyên.
Vào những ngày rằm, các ngôi chùa danh tiếng như Nam Thiên Tự, Phật Quang Tự, Hiển Thông Tự, Thanh Lương Tự đều chật ních tín đồ. Ngay hoàng tộc và gia quyến các đại thần ở Bắc Kinh cũng thường lui tới Ngũ Đài Sơn.
Nhưng Hận Thiên đang ở trong tâm trạng sầu muộn nên chẳng hề để ý đến những đoàn xe ngựa ngược chiều, đang lũ lượt rẽ phải để đến ngũ Đài Sơn.
Đám khách hành hương này đi từ hướng Nam lên có lẽ là người Tinh Châu. Họ cũng chẳng thèm nhìn đến chàng kỵ sĩ độc hành, chỉ ngạc nhiên trước cái đầu của Đà nhi, tranh luận với nhau xem con vật kia là ngựa hay lạc đà.
Càng lúc, khách thập phương trên đường ngày càng thưa thớt. Có lẽ đó là toán cuối cùng, vì đã sắp đến giờ tỵ.
Hận Thiên lỏng tay cương, để mặc quái mã đi nước kiệu. Chàng thẫn thờ như người mất hồn vì luôn nhớ đến thi hài của Trịnh Tiểu Thuần đang đơn độc trong hang đá lạnh lùng! Chắc giờ đây tuyết đã phủ kín cửa hang, chôn cả trái tim chàng trong đấy.
Bỗng Hận Thiên nghe văng vẳng có itếng nữ nhân kêu cứu, vọng ra từ đường mòn ở cánh rừng mé hữu. Tiếng kêu bi thiết kia đã đánh thức tấm lòng hào hiệp của người võ sĩ, Hận Thiên lập tức rẽ vào và phi nước đại.
Lúc cấp bách này mới thấy được cước trình thần tốc của quái mã. Đà nhi lao đi mũi tên, bốn vó nện rất êm trên mặt đường phủ tuyết. Tiếng thét thất thanh càng lúc càng gần, và dưới một gốc cây cổ thụ đang diễn ra cảnh tượng khó coi.
Tàn lá bên trên rất dày, nên phía dưới ít tuyết, còn phơi vài mảng cỏ xanh mơn mởn. Một hán tử ở trần đang ngồi dày vò thân thể nõn nà của một thiếu nữ lõa lồ. Tên dâm tặc này dường như thích thú trước tiếng kêu cứu của nạn nhân nên không thèm điểm á huyệt, dù đã phong tỏa tứ chi.
Lúc trưởng thành Hận Thiên nhớ lại tử trạng của mẫu thân, biết rằng bà đã bị Hồng Phát Ma Quân xâm phạm tiết hạnh. Chính vì vậy, trước sự việc hôm nay, sát khí bốc mờ tâm trí Hận Thiên. Chàng tung mình khỏi lưng quái mã, quyết không tha cho tên tặc.
Nhưng gã đã nhận ra người lạ, chụp thanh đao bên canh, đứng lên thủ thế. Nhờ vậy mà gã thoát được chiêu kiếm đầu của đối phương. Xem khinh công cũng biết hán tử mặt vàng kia thuộc hàng cao thủ.
Thực ra do Hận Thiên còn úy kị việc hán tử đứng quá gần nạn nhân, nên cố tình tạo ra kiếm phong mãnh liệt để hù dọa y phải tránh né, chứ chưa có ý sát hại. Chiêu kiếm thứ hai tuy nhẹ nhàng êm ái nhưng lại là chiêu đoạt mệnh.
Thanh đoản kiếm trong tay Hận Thiên phá tan màn đao quang dầy đặc, chặt phăng tả thủ và dương vật của đối phương. Hán tử mặt vàng đau đớn rú lên, quay mình đào tẩu, để lại những vệt máu hồng, rải dài trên mặt tuyết xám.
Gã dâm tặc kia không chết là do phút cuối Hận Thiên nhớ đến lời giáo huấn của ân sư. Bất Biệt Cư Sĩ đã luôn nhắc nhở đồ đệ đừng tạo sát nghiệp trừ trường hợp bất khả kháng, không nên giết người.
Chàng đến bên thiếu nữ, cau mày nhận ra nàng hoàn toàn lõa thể, y phục đã bị hán tử cắt vụn, quẳng rải rác chung quanh.
Điều ấy chứng tỏ hán tử mặt vàng này dùng đao chém rách vải thành từng mảnh, đao pháp như vậy quả là lợi hại, vì trên da thịt thiếu nữ hoàn toàn không một vết trầy.
Hận Thiên bỗng nhớ ra chiêu đao lúc nãy rất giống chiêu búa của lão đầu lĩnh béo lùn Phù Dung Hội năm xưa. Thực ra, phép đánh đao và phủ rất giống nhau, cả hai loại vũ khí này đều nặng nề, chỉ ở chém bằng lưỡi.
Chàng từng phát hiện dấu xâm Hoa Phù Dung đỏ trên cánh tay của các xác chết, để lại trước Lạc Hà Đại Tửu Lâu, nên giờ đây bước đến xem thử. Quả nhiên cánh tay trái của hán tử mặt vàng cũng vậy.
Thiếu nữ đã qua cơn hoảng sợ, dương đôi mắt to tròn, linh lợi ngắm nhìn vị ân nhân anh tuấn của mình.
Hận Thiên quay lại nghiêm giọng hỏi:
- Cô nương đã bị gã kia điểm vào những huyệt đạo nào?
Thiếu nữ đã nhớ đến trạng thái phơi bày trống trải của mình. Mặt đỏ như gấc chín, thẹn quá hóa giận:
- Ngươi nhìn như vậy chưa đủ hay sao? Mau kiếm gì đắp cho ta rồi hãy hỏi han!
Khẩu khí kia nói lên tính nết ngang tàng, kiêu ngạo của cô ta, chẳng ai nói với ân nhân của mình như vậy cả.
Nói xong, nàng ta nhảy mũi hắt hơi liền mười mấy cái. Tiết trời như thế này không thích hợp với những màn thoát y.
Hận Thiên vội cởi áo choàng lông phủ lên người nàng. Thiếu nữ vẫn chưa hài lòng:
- Lưng ta lạnh lắm!
Hận Thiên lại phải nhét hai vạt áo xuống dưới tấm thân mềm mại. Lúc này thiếu nữ mới chịu mỉm cười:
- Ta là Hà Hồng Hương, chẳng hay danh tính công tử là gì?
Hận Thiên hững hờ đáp:
- Nam Cung Hận Thiên!
Hồng Hưong cười khúc khích:
- Cái tên nghe hay thực.
Biết nàng có ý chê bai, Hận Thiên lạnh lùng nói:
- Đừng nhiều lời! Hãy cho tại hạ biết tên những huyệt đạo đã bị phong toả.
Hồng Hương đọc một hơi, Hận Thiên suy nghĩ rồi vén áo choàng lông lên, thò tay vào để giải huyệt. Thiếu nữ nhột nhạt cười nắc nẻ:
- Ngươi làm gì vậy? Nhột quá làm sao ta chịu được?
Thân hình nàng rung động nên không thể xác định được vị trí huyệt đạo, Hận Thiên đành phải lật áo choàng lông ra. Chàng thận trọng điểm vào những huyệt cần thiết. Khi còn hai huyệt nữa thì Hồng Hương ỏn ẻn nói:
- Sau này công tử sẽ lấy ta làm vợ chứ?
Hận Thiên giật bắn mình:
- Sao lại thế được?
Hồng Hương đắc ý nói:
- Ta thường đọc tiểu thuyết võ hiệp, thấy các thiếu nữ ngộ hại đều phải lấy ân nhân của mình, vì thân thể họ đã bị người ấy nhìn thấy và chạm vào!
Hận Thiên dở khóc dở cười, khép áp choàng lông đắp lại cho Hồng Hương rồi đứng lên:
- Nếu cô nương đã quyết như vậy thì tại hạ xin cáo lui.
Hồng Hương biến sắc:
- Chẳng lẽ ngươi lại nhẫn tâm để ta nằm lại chốn này? Ta cũng rất xinh đẹp sao ngươi lại chê?
Hận Thiên thản nhiên đáp:
- Tại hạ cũng biết cô nương rất đẹp nhưng Thiên này mới mất hiền thê, không thể lấy ai được cả. Còn nói như cô nương thì gã dâm tặc kia mới xứng là trượng phu. Y đã đụng chạm cơ thể cô nương khá nhiều đấy.
Hồng Hương cứng họng, hậm hực nói:
- Thế thì thôi vậy! Ta cũng chẳng ưa gì cái mặt mốc của ngươi.
Hận Thiên cười thầm, ngồi xuống giải nốt hai huyệt cuối cùng, Hồng Hương lồm cồm ngồi dậy, xỏ tay vào áo choàng. Thấy Hận Thiên đã nhảy lên lưng quái mã định đi, nàng hớt hải chạy theo:
- Tiểu tử kia, không lẽ ngươi lại bỏ ta ở lại đây?
Hận Thiên đành dừng cương, Hồng Hương lập tức nhảy lên ngồi phía sau ôm lấy chàng. Với tư thế ấy, đôi chân thon dài, trắng muốt của nàng lộ ra trước gió Đông, có kéo choàng lông xuống cũng chẳng che được bao nhiêu.
Hồng Hương bực bội đấm vào lưng Hận Thiên:
- Dừng lại! Hở hang thế này thì đi đâu được?
Hận Thiên gò cương cởi bọc hành lý, đưa cho nàng chiếc quần dài, Hồng Hương nhảy xuống đất mặc vào. Áng quần dài trùm kín cả hai bàn chân trông rất hoạt kê. Nhưng Hồng Hương lại nghe ấm vì chẳng có giầy. Nàng trở lại chỗ ngồi vui vẻ nói:
- Nam Cung đại ca đưa tiểu muội về Tinh Châu nhé! Nhà muội ở nơi ấy.
Tính khí Hồng Hương thật tức cười lúc thì cộc lốc, thô lỗ, lúc ngọt ngào mềm mỏng. Tuổi nàng độ mười bảy, xưng hô như thế là phải. Hận Thiên suốt đời cô độc, không anh em, nay có người gọi mình bằng đại ca, lòng chợt nghe ấm lại. Chàng dịu giọng đáp:
- Ta cũng đang trên đường xuôi Nam, trước sau gì cũng phải ghé Tinh Châu, hiền muội yên tâm.
Nghe chàng chấp thuận lối gọi thân mật, Hồng Hương nở nụ cười đắc ý, xiết chặt vòng tay, áp má vào tấm lưng rộng ấm áp của chàng, Hồng Hương đã thề phải lấy cho được chàng trai thần dũng và anh tuấn phi phàm này. Đó là cách duy nhất để xoá đi ấn tượng khủng khiếp của lần suýt bị cưỡng dâm. Hận Thiên chỉ đến trễ một chút là nàng đã cắn lưỡi tự sát.
Ra đến đường quan đạo, Hồng Hương thỏ thẻ hỏi:
- Đại ca chắc chỉ chừng hai mươi, sao lại goá vợ sớm như vậy?
Quả thực là dung mạo Hận Thiên có già hơn tuổi tác một chút. Hận thù và nỗi nhớ thương là kẻ địch của tuổi xuân.
Hận Thiên lạnh lùng đáp:
- Nếu Hương muội còn muốn đi chung với ta về Tinh Châu, thì từ nay đừng bao giờ hỏi đến chuyện ấy.
Hồng Hương le lưỡi sợ hãi, không dám hỏi thêm nữa, dù lòng vẫn thắc mắc khôn nguôi. Nàng biết mình rất xinh đẹp, năm mười sáu tuổi đã được thiên hạ tôn xưng là Viên Nguyệt Hằng Nga. Thế mà Hận Thiên lại chẳng thèm chú ý đến, phải chăng người vợ quá cố của chàng xinh đẹp hơn nhiều?
Được mười mấy dặm, đã đến trấn Thăng Long. Hận Thiên đi thẳng đến cửa một tiệm y phục để Hà Hồng Hương mua sắm.
Nàng ta chọn lựa lâu đến nỗi Hận Thiên phải bực mình. Ba khắc sau, hai người phạn điếm dùng cơm.
Cuối giờ Mùi, họ tiếp tục xuôi Nam. Tuyết vẫn rơi nhiều, cảnh vật toàn một màu trắng xóa, càng khiến cõi lòng tang tóc của Hận Thiên thêm ảm đạm.
Vì vậy, chàng lặng lẽ như pho tượng, chẳng nói năng gì. Hồng Hương phụng phịu hỏi:
- Phải chăng đại ca giận vì tiểu muội mua sắm tốn kém nên không thèm nói chuyện?
Hận Thiên gượng cười:
- Nào phải thế! Ta vốn quen tính trầm lặng ít lời!
Như để tạ lỗi, chàng liền hỏi:
- Hương muội đi đâu mà lại chỉ có một mình, để sa vào tay gian tặc?
Hồng Hương nhân cơ hội này kể lể giông dài, như muốn tự giới thiệu:
- Tiểu muội là ái nữ của Tinh Châu Tài Thần Hà Hồng Tập, có biệt danh là Viên Nguyệt Hằng Nga, thụ giáo võ công của một trong Ngũ Nhạc Đại Kỳ Nhân Tây Nhạc Lão Quái Hàn Thế Đức. Khoảng nửa năm nay, có rất nhiếu thế gia vọng tộc đến cầu hôn, nên tiểu muội chán ghét bỏ nhà đi chơi, định sẽ ghé đến Ngũ Đài Sơn dâng hương. Nào ngờ giữa đường lại bị gã mặt vàng kia bắt cóc.
Hận Thiên phì cười:
- Ta chỉ hỏi một câu sao nàng nói lắm thế?
Hồng Hương mắc cỡ dụi mặt vào lưng Hận Thiên thì thầm:
- Chẳng lẽ đại ca không muốn tìm hiểu gia thế tiểu muội hay sao?
Hận Thiên cười nhạt:
- Chúng ta bình thủy tương phùng, đến Tinh Châu là chia tay nhau, hà tất phải tìm hiểu lai lịch cội nguồn.
Hồng Hương tái mặt, buồn rầu than thở:
- Đại ca đã thấy hết thân thể, tiểu muội còn lấy ai được nữa?
Hận Thiên mai mỉa:
- Nếu nàng cứ nói thế thì ta tìm gã mặt vàng kia về làm chồng nàng vậy.
Hồng Hương lắc đầu bỗng bật cười:
- Nhưng đại ca thiến gã mất rồi còn đâu? Tiểu muội thấy rất rõ gã ôm hạ thể đầy máu mà đào tẩu.
Hận Thiên cũng vui lây:
- nhỉ! Ta đã lỡ tay nên Hương muội không kén được chồng.
Hồng Hương là cô gái tinh ranh, đã muốn làm gì là làm cho được. Vì vậy nàng đổi chiến thuật vui vẻ nói cười với Hận Thiên Trưa ngày mười tám, thành Tinh Châu thủ phủ đất Sơn Tây hiện ra trước mặt hai người. Hận Thiên dịu giọng:
- Đã đến chỗ đô hội, đông người, ta không tiện đưa Hương muội đi đến tận nhà. Xin cáo biệt.
Hồng Hương không chịu xuống cứ ôm xiết lấy bụng chàng, tha thiết van nài:
- Mong đại ca di giá đến tệ xá để tiểu muội phụng hầu vài hôm, gọi là tạ chút ơn tương trợ.
Hận Thiên điềm đạm lắc đầu:
- Không được! Ta phải đi ngay Lạc Dương để tìm Nhất Bất Thông Chu Minh.
Hồng Hương hân hoan bảo:
- Chu nhị thúc vì trốn tránh bọn Phù Dung Hội nên đã về tá túc ở Hà gia trang ba năm nay. Gia phụ chính lá bái huynh của Chu lão.
Hận Thiên mừng rỡ đáp:
- Hay lắm! Nếu thế thì ta sẽ đến quí trang để bái kiến.
Chàng nhăn mặt nói tiếp:
- Nhưng Hương muội đừng ôm ta mãi, khó coi lắm.
Hồng Hương vui vẻ đáp:
- Thôi được! Để tiểu muội đứng lên.
Nói là làm, mỹ nhân đứng thẳng lên mông Quái mã, tay đặt lên hai vai Hận Thiên. Cảnh tượng này càng khiến mọi người thêm chú ý. Họ chỉ trỏ, trầm trồ khen ngợi đôi tài tử giai nhân.
Hà Hồng Hương nổi tiếng đất Tinh Châu ai cũng biết mặt, có rất nhiều người vẫy chào nàng. Hồng Hương chọn đươc ý trung nhân tài mạo xuất chúng hoan hỉ đáp lễ, miệng cười như hoa nở.
Đường trục chính trong thành rộng đến bốn mươi bước chân, hai bên là hàng cây Hoàng Cam già lão, cành lá sum xuê, vươn ra đến tận giữa lộ.
Đột nhiên, trên tàn cây phủ tuyết ấy có hai bóng người lao xuống, chụp lưới thép vào đầu Hận Thiên và Hà Hồng Hương.
Đòn tập kích tả hữu này cực kỳ hiểm độc, vì Hồng Hương đang đứng chơ vơ, tay không vũ khí, khó mà thoát chết được!
Hận Thiên không còn kịp suy nghĩ, vung cả song thủ. Từ chưởng tâm của chàng, hai đạo kình phong vàng nhạt vỗ thẳng vào đối phương. Hai gã bạch y kia hự lên, văng ngược ra, rơi xuống mặt đường chết tốt.
Trong lúc nguy cấp, Hận Thiên đã dùng đến tuyệt học Kim Sa Ấn Chưởng Pháp của ân sư. Lớp vải trên lồng ngực hai xác chết mất một miếng hình bàn tay. Chưởng kình đã nghiền vụn miếng vải, khảm lên lớp da nạn nhân. Và tất nhiên, xương cốt bên trong đều gẫy nát!
Qua cơn kinh khiếp, Hồng Hương hoàn hồn ngồi ngay xuống, ôm chặt lấy Hận Thiên mà run cầm cập, miệng thúc giục:
- Đại ca chạy nhanh lên, tiểu muội sợ lắm!
Lúc này, người đi đường đã dạt cả vào những mái hiên, cố tránh xa cuộc chiến.
Hận Thiên rút kiếm, mặt lạnh như sương, thúc quái mã tiến lên. Tay tả chàng không cầm cương mà đặt hờ trên đùi, và đội mắt lấp loáng hàn quang!
Chỉ được năm sáu trượng, Hận Thiên đã phát hiện địch nhân. Không chờ đối phương tấn công, chàng vẫy nhẹ tả thủ, phóng ra hai mũi Sách Hồn Phi Tiễn.
Thủ pháp của chàng giờ đây còn linh diệu hơn Mông Diện La Sát ngày xưa, nhờ công lực thâm hậu. Hai gã áo trắng gào lên thảm thiết, rơi xuống gốc cây.
Hận Thiên thúc mạnh gót chân vào bụng quái mã. Đà nhi hiểu ý lồng lên phi nước đại. Nhãn lực của chàng tinh tường như chim ưng, từ xa đã thấy kẻ địch và hạ thủ trước. Sách Hồn Tiễn khá nặng nên tầm sát thương xa đến năm sáu trượng, người ngựa chưa đến nơi thì ám khí đã chạm mục tiêu.
Có thêm tám tên nữa rơi xuống như mít rụng. Chạy thêm một đoạn, thấy không còn tên sát thủ nào nữa, Hận Thiên quay ngựa, lần lượt thu hồi những mũi Sách Hồn Tiễn quí giá.
Bách tính trong nhà hai bên đường đổ xô ra hoan hô nhiệt liệt, khiến Hồng Hương quên cả nỗi kinh hoàng, vênh mặt tự hào!
Khi hai người về đến Hà gia trang ở cửa Nam thành thì cả Tinh Châu xôn xao vì việc rể quí của Hà Tài Thần hạ sát mười sát thủ!
Tin đồn lan nhanh hơn gió thoảng, một gã mau chân nào đó đã hộc tốc đến Hà gia trang báo cáo trong lúc Hận Thiên và Hồng Hương chưa về đến nhà.
Phu thê Hà Tài Thần đang uống trà thưởng tuyết nghe nói vậy nhìn nhau nghi hoặc! Hà Hồng Tập lẩm bẩm:
- Lạ thực! Chẳng lẽ con nha đầu Hồng Hương lại tự kén chồng? Nó chê bai hàng chục đám vương tôn công tử, giờ lại chịu gã này chắc nhân phẩm không tồi!
Hà phu nhân lộ vẻ lo lắng:
- Không hiểu gia thế tiểu tử ấy ra sao, liệu có xứng với gia đình chúng ta hay không?
Thời ấy quan niệm môn đăng hộ đối rất phổ biến, giàu nghèo khó mà nên duyên được! Hà Tài Thần xuất thân từ giới võ lâm, nhưng Hà phu nhân lại là tiểu thư nhà đại phú quyền quý. Bà sợ mất mặt với họ hàng nên mới lo lắng thế!
Tài Thần cười mát:
- Bà lo cũng vô ích. Nếu con nha đầu Hồng Hương đã yêu thì có trời mà cản được. Dẫu tiểu tử kia là ăn mày bà cũng phải chịu thôi!
Hà phu nhân giận dữ đáp:
- Không được! Thiếp mang nặng đẻ đau, khổ công nuôi dưỡng, tất phải có quyền định đoạt chứ?
Vừa lúc Hận Thiên và Hồng Hương về đến. Nàng phụng phịu bái kiến rồi giới thiệu khách:
- Bẩm song thân! Đây là Nam Cung đại ca, ân nhân của hài nhi!
Hà Hồng Tập lão luyện đường đời, mới nhìn đã nhận ra cốt cách như rồng như phượng của Hận Thiên, lòng vui mừng khôn xiết. Lão cười ha hả bảo:
- Hay lắm! Mời hiền điệt an toạ!
Chàng vòng tay thi lễ, xưng tên rồi mới dám ngồi. Hà phu nhân bị ám ảnh vì việc sang hèn, nên dẫu lòng rất vừa ý về dung mạo, khí chất, vẫn cứ hỏi:
- Chẳng hay Nam Cung hiền điệt xuất thân thế nào?
Hận Thiên hơi bỡ ngỡ nhưng vì kính lão nên thành thật đáp:
- Tiểu điệt quê ở Phúc Kiến, huyên đường đều đã thất lộc! Hồng Nương hiểu ý mẫu thân vội nháy mắt ra hiệu. Nhưng bà già hủ lậu kia vẫn ngoan cố nói:
- Tiếc thật! Giá mà gia thế hiền điệt khá hơn thì việc làm rể nhà này cũng không khó!
Hận Thiên lạnh lùng nói:
- Lão thái lầm rồi! Tại hạ đến đây để gặp Nhất Bất Thông Chu Minh, chứ không phải để cầu hôn Hà tiểu thư. Xin hỏi Chu đại thúc có đây không?
Hà Tài Thần biết vợ mình đã thất thố, vội gượng cười:
- Công tử đừng giận, bà ấy già rồi nên lẩm cẩm. Còn Chu nhị đệ thì mới rời Tích Châu mấy hôm trước, chẳng rõ đi đâu. Nhưng chắc chắn ngày mai về sẽ đến!
Hận Thiên đứng lên cáo từ:
- Nếu vậy tại hạ không dám làm phiền nữa! Khi Chu đại thúc về đến, làm ơn nhắn giùm là tại hạ đang đợi ở Thái Nguyên lữ điếm!
Chàng quay gót bước ra cửa, không hề nhận ra Hồng Hương đang run rẩy như cầy sấy, lệ đổ như mưa! Hận Thiên đi rồi, Hồng Hương nhìn mặt Hà phu nhân, khóc mà nói:
- Mẫu thân đã giết chết hài nhi rồi đấy!
Dứt lời, uất khí công tâm, nàng lăn ra ngất xỉu. vợ chồng Hà Tài Thần kinh hãi, gọi gia nhân. Lát sau, Hồng Hương tỉnh lại, thấy mẫu thân ngồi bên cạnh liền nức nở trách móc:
- Không có Nam Cung đại ca thì thân này đã tan nát trong tay dâm tặc.
Trong thiên hạ còn ai hơn được chàng nữa mà mẫu thân chê bỏ? Hài nhi đã thề chỉ lấy chàng ta mà thôi! Gia tài cự vạn này, cuộc sống sang cả này, hài nhi không cần đến! Nếu mẫu thân còn ngăn cản hài nhi sẽ tự sát ngay!
Thấy con gái khóc lóc thảm thiết và nhìn mình với ánh mắt oán hờn, Hà phu nhân hối hận vô cùng. Bà cố an ủi ái nữ:
- Mẫu thân đã biết lỗi, Hương nhi đừng giận nữa. Hãy đi tìm y về đây, ta sẽ cho tổ chức lễ cưới ngay!
Hồng Hương cười nhạt:
- Muộn lắm rồi! Trước đây chàng đã không thèm nhìn đến hài nhi, nay mẫu thân nói thế thì hy vọng gì nữa? Hài nhi chỉ có cách chết đi cho mẫu thân hài lòng. Kết hôn với Diêm Vương chắc là sẽ môn đăng hộ đối đấy!
Ánh mắt nàng lộ vẻ tuyệt vọng khôn cùng khiến vợ chồng Hà Tài Thần cuống cả lên. Hà phu nhân bật khóc:
- Hương nhi đừng nghĩ dại! Mẫu thân thề rằng dẫu có phải quì xuống xin lỗi Hận Thiên cũng cam tâm!
Hà Tài Thần có được sự nghiệp hôm nay cũng là nhờ đa mưu túc trí. Lão đảo mắt suy nghĩ, rồi cười khà khà:
- Hương nhi yên tâm! Ta đã có cách giúp con lấy được Hận Thiên!
Câu nói thiết thực này đã cứu vãn được tình hình. Hồng Hương rất tôn sùng tài trí của phụ thân nên mừng rỡ hỏi:
- Phụ thân có diệu kế gì?
Hà Hồng Tập đắc ý đáp:
- Hận Thiên mồ côi, lại gọi Chu Minh là đại thúc, như vậy họ Chu chính là trưởng bối của chàng ta. Ngày mai Chu nhị thúc của ngươi về đến, ta sẽ bảo lão đứng ra tác hợp! Cộng với lời tạ lỗi thành khẩn của mẹ con, lẽ nào Hận Thiên lại từ chối!
Hồng Hương không tin tưởng lắm vào kế hoạch này nhưng dẫu sao cũng có chỗ bám víu, liền vào tắm gội!
Hà Tài Thần trở ra khách sảnh, vừa lúc Triệu tổng quản về đến. Tuy lão mặc thường phục, nhưng vết sẹo dài trên gò má trái tố cáo một quá khứ oai hùng. Năm xưa, Triệu Huy Phong vùng vẫy giang hồ với cái danh là Thập Tự Kiếm. Lão giết ai cũng để lại một dấu chữ thập trên trán.
Triệu tổng quản kính cẩn báo cáo:
- Hà đại ca! Mười tử thi kia đều là người của Phù Dung Hội!
Hà Tài Thần cau mày bảo:
- Tam đệ hãy ngồi xuống kể chi tiết cho ta nghe!
Lúc này, sắc diện Hà Hồng Tập uy nghiêm, lạnh lẽo. Khác hẳn bình thường, Thập Tự Kiếm an toạ, nhấp hớp trà rồi nghiêm giọng:
- Tiểu đệ đã kiểm tra thương thế các xác chết, phát hiện hai tên chết vì chưởng thương, bọn còn lại bị hạ bởi ám khí. Tám tên này đều chết vì chất kỳ độc!
Hà Tài Thần giật mình hỏi lại:
- Lão đệ có để ý dấu vết ở miệng vết thương hay không?
- Thưa có! Vết thương chỉ nhỏ bằng thân cây nhang. Chung quanh là bốn vết nứt đều đặn, dường như tạo bởi cánh ở đuôi phi tiễn!
Hà Hồng Tập chấn động, nhắm mắt lại như hồi tưởng việc gì. Bỗng lão vỗ đùi:
- Chết thực! Nam Cung Hận Thiên chính là ái tử của Mộng Diện La Sát, Chu nhị đệ đã kể về gã cách đây bốn năm, thế mà ta lại không nhớ ra! Đôi mắt kia không phải của Phùng Nữ hiệp thì của ai nữa? Ta bị bà lão làm cho rối trí về việc kén rể nên quên khuấy đi!
Triệu lão mỉm cười:
- Nếu Nam Cung công tử trở thành rể nhà họ Hà thì đúng là có duyên tiền định. Năm xưa Phùng nữ hiệp cứu mạng Đại ca và Nhị ca, giờ đây đã đến lúc đền đáp rồi đấy:
Hà Hồng Tập gật gù:
- Hận Thiên tài mạo đều xuất chúng, thật xứng đôi với Hương nhi!
Lão chợt biến sắc, bảo ả nữ tỳ hầu trà:
- Ngươi mời tiểu thư và phu nhân ra đây!
Lát sau, Hồng Hương và trang chủ phu nhân ra đến! Chờ họ ngồi xuống, Hà lão bảo con:
- Hương nhi! Con quen với Nam Cung công tử trong trường hợp nào?
Hồng Hương ngượng ngùng kể lại tấn bi kịch ở cánh rừng gần Ngũ Đài Sơn tất nhiên giấu bớt những chi tiết khó nói!
Nhưng ba lão nhân kia đều đoán ra hết. Hà phu nhân than trời:
- Sao ngươi không nói sớm! Gã đã nhìn ngắm, đụng chạm đến tấm thân trong trắng, dẫu có nghèo hèn ta cũng phải gả ngay!
Hà Hồng Tập lạnh lùng bảo:
- Bà còn nói về Hận Thiên như thế đừng trách lão phu đoạn tình. Hai mươi năm trước, nếu không có mẹ của cậu ấy cứu mạng thì lão phu đã chết rục xương rồi!
Hà phu nhân chưa bao giờ thấy phu quân nổi lôi đình như vậy, sợ hãi im bặt.
Hà Hồng Hương tìm cách đỡ đòn cho từ mẫu, liền nói sang chuyện khác:
- Cha à! Gã dâm tặc kia cũng là người của Phù Dung Hội, nhưng lại dùng đao chứ không phải búa! Gã lại còn mang một chiếc mặt nạ vàng ệch như mắc bệnh Hoàng Đản! Nam Cung đại ca đã xem xét cánh tay để lại, phát hiện dấu xâm Hoa Phù Dung, và bàn tay thiếu một lóng ở ngón giữa!
Triệu Huy Phong tái mặt kêu lên:
- Thì ra là Hứa Duy Dương, thiếu bang chủ của Tây Bang! Tiểu đệ đã gặp hắn ba lần nên biết rõ tính hiếu sắc!
Hà Tài Thần thở dài:
- Chu nhị đệ đã nhiều lần khẳng định Phù Dung Hội là nanh vuốt của Tây Bang, vì không có chứng cớ nên chính ta cũng chẳng tin. Nay Hận Thiên chặt tay Hứa Duy Dương, thể nào Bang chủ Tây Bang Hứa Hữu Tinh cũng kéo hết lực lượng Phù Dung Hội đến báo thù!
Lão quay sang hỏi Hồng Hương:
- Sư phụ ngươi đâu?
Hồng Hương vội đáp:
- Bẩm phụ thân! Tháng trước gia sư đi Sơn Đông thăm Đông Nhạc Thần Đao không biết đã về chưa?
Hà Hồng Tập nghiêm giọng bảo Triệu tổng quản:
- Tam đệ hãy mau ra lệnh báo động toàn môn, gọi hết cao thủ về Tinh Châu đợi lệnh. Thứ hai, ngươi đích thân đi núi Hoa Sơn, mời Tây Nhạc tiền bối đến đây!
Lạ thay, Triệu tổng quản kính cẩn đáp:
- Xin tuân lệnh Môn chủ!
Trong võ lâm, rất ít người biết rằng Tinh Châu Thần Tài là môn chủ của Phi Châm môn, Nhất Bất Thông là quân sư, còn Thập Tự Kiếm là Phó môn chủ.
Bang hội thần bí này ít khi xuất hiện trên giang hồ, vì hai mươi ba năm trước, Hà Hồng tập quyết định xâm nhập vào ngành kinh doanh để đảm bảo cơm áo của ba trăm thủ hạ. Với thế lực của Phi Châm Môn, ông đã loại hết những đối thủ cạnh tranh, nắm giữ phần lớn đường vận chuyển tơ lụa, thực phẩm sang Mông Cổ và Thiên Trúc!
Nay vì đại ân của Mông Diện La Sát, và cũng vì hạnh phúc của ái nữ, Hà môn chủ quyết bảo vệ Hận Thiên đến cùng.
Lúc này Hận Thiên đang ở trong Thái Nguyên lữ điếm! Năm năm trước, chàng và Trịnh Tiểu Thuần cũng từng trọ nơi này.
Tắm gội ăn uống xong, Hận Thiên nằm ngửa trên giường suy nghĩ về người vợ ma của mình. Thái độ thiển cận của Hà lão thái lúc ban chiều không làm chàng bận tâm, vì lòng chàng chẳng hề có tình ý với Hồng Hương.
Mấy khắc sau, Hận Thiên mệt mỏi thiếp đi, trong tiếng tí tách của chậu than hồng ấm áp. Chàng ngủ vùi đến đầu canh một, bỗng mơ màng nghe có tiếng người văng vẳng:
- Thiên đệ! Mau đến cứu Hà gia trang!
Hận Thiên vùng dậy ngơ ngác gọi:
- Trịnh tỷ tỷ!
Giọng nói quen thuộc kia chính là của Trịnh Tiểu Thuần, khiến Hận Thiên vui mừng khôn xiết. Nhưng gọi mãi không thấy nàng xuất hiện, chàng bắt đầu nghi ngờ, cho rằng mình nằm mơ.
Sực nhớ đến bọn sát thủ Phù Dung Hội, và địa thế đơn độc của Hà gia trang, Hận Thiên cũng nai nịt, xách kiếm lên đường. Chàng vận tuyệt đỉnh khinh công lướt đi dưới làn mưa tuyết.
Nửa khắc sau, Hà gia trang hiện ra trước mắt, sang rực ánh đuốc và tiếng người hò hét vang dội.
Đến thời Minh Cảnh Tông thì triều Minh đã suy vi lắm rồi. Quan lại các địa phương chỉ lo hà hiếp, hút máu dân lành chứ không dám đương đầu với những lực lượng cường đạo hùng mạnh. Chính vì vậy, dù cuộc chiến diễn ra ngay trong thành Tinh Châu mà quan quân vẫn không thấy xuất hiện. Họ chỉ đến khi cường đạo đã rút sạch, để hạch sách khổ chủ bằng những thủ tục nha môn phiền toái.
Hận Thiên nhảy lên một cây già ở cạnh đường quan sát. Chàng muốn xác định bọn thủ lãnh mà hạ sát thủ, như vậy đỡ phải giết nhiều người.
Hà gia trang xây dựng theo lối Tam Hợp Thiện truyền thống, nghĩa là ba mặt Bắc Tây Nam đều có phòng ốc vây quanh sân gạch ở giữa. Mặt Đông là cửa chính.
Giờ đây trên khoảng sân rộng ấy đang diễn ra trận tử chiến khốc liệt.
Hàng trăm tên hắc y cầm lưỡng nguyệt phủ đang áp đảo sáu mươi kiếm sĩ Thanh Y.
Hận Thiên nhận ra lai lịch bọn áo xanh nhờ những mũi độc châm lấp lánh trong ánh đuốc, thì ra Hà gia trang có quan hệ với Phi Châm môn.
Chàng đã tìm ra mục tiêu của mình, đó là hai lão hắc y cao lớn đang đấu với Hà trang chủ và Triệu tổng quản. Lúc cùng Hà Hồng Hương bước vào cổng trang chàng đã gặp Triệu Huy Phong dẫn gia nhân đi ra. Hồng Hương đã mau mắn nói tên lão cho chàng biết.
Hận Thiên gật gù tán thưởng khi thấy kiếm pháp của Hà Tài Thần rất linh diệu. Tuy nhiên, họ đang bị hạ phong trước địch thủ của mình.
Cách đấy vài trượng, Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương đang đối phó với lão già thứ ba. Tuy mang tiếng là đồ đệ của Tây Nhạc đại kỳ nhân nhưng do sức lực nữ nhi yếu ớt. Hồng Hương bị đối phương đánh cho tóc tai rũ rượi, mặt hoa nhợt nhạt.
Tuy diễn tả dài dòng nhưng thực ra đấy chỉ là những ý nghĩ thoáng qua trong đầu Hận Thiên. Cứu nhân như cứu hỏa, đâu ai dám chần chờ?
Hận Thiên rời ngọn cây, nhảy qua tường vào trong và bắt đầu nhập cuộc, lúc đầu chàng không định nặng tay nhưng thấy phe Phi Châm môn tử thương mười mấy người, sát khí hận thiên bừng lên, xuất thủ rất tàn nhẫn.
Hận Thiên đi đến đâu, bọn thủ hạ Phù Dung Hội đều gục ngã, bởi những mũi Sách Hồn Tiễn hay đường kiếm lạnh lùng. Tiếng kêu la thảm thiết của chúng đã đánh động ba lão đầu lĩnh ở phía trong.
Lão già đang đánh với Hà Hồng Hương vội tấn mạnh một búa như sấm sét, đẩy lùi đối thủ rồi quay lưng chạy đến đón đầu Hận Thiên. Lúc còn cách chừng hơn trượng, lão đã nhảy xổ vào, thanh lưỡng nguyệt phủ rít lên mãnh liệt.
Hận Thiên cười nhạt, không thèm né tránh, rung kiếm hóa thành đạo hào quang ập đến. Thanh kiếm mỏng manh điểm tinh quang vào lưới thép.
Len qua chỗ sơ hở chặt phăng cánh tay cầm búa và đâm thủng ngực lão hắc y.
Tiếng rú ghê rợn của lão xé nát đêm trường khiến đồng đảng giật mình khiếp sợ.
Trong lúc cái xác còn đang co giật, Hận Thiên phi thân đến trận địa của Hà Hồng Tập. Chàng trầm giọng quát:
- Xin nhị vị nhường hai lão này cho tại hạ!
Hà Môn Chủ và Thập Tự Kiếm đã thấy Hận Thiên hạ sát lão hộ pháp Phù Dung Hội bằng chỉ một chiêu, nên yên tâm nhảy lùi vào hàng hiên chữa thương. Hai người đã trúng vài búa ở tay và đùi. Tuy không chạm gân cốt nhưng máu tuôn xối xả.
Hai lão hắc y hộ pháp rảnh tay quay lại đối phó với chàng trai mặt ngọc.
Một lão gầm lên:
- Phải chăng ngươi là tên tiểu quỉ đã chặt tay thiếu Môn Chủ bổn môn?
Hồng Hương cười khanh khách cướp lời Hận Thiên:
- Đâu phải chỉ chặt tay. Phen này Phù Dung Hội tuyệt giống rồi!
Hận Thiên cố nén cười, lạnh lùng bảo:
- Ta là Nam Cung Hận Thiên, người đã hạ thủ gã dâm tặc Phù Dung Hội.
Sau này cứ đến tìm ta mà báo phục, Hà gia trang chẳng liên quan gì cả.
Lão hộ pháp râu đen rít lên:
- Tiểu cẩu! Dù ngươi có bản lĩnh cao siêu đến đâu cũng không thoát khỏi sự truy sát của bổn hội.
Hận Thiên tối kỵ những lời thóa mạ tục tằn. Gương mặt chàng lạnh lẽo tựa sương đêm, và thanh đoản kiếm chớp lên. Thân hình Hận Thiên biến mất trong luồng kiếm quang xanh biếc, bay đến chụp lấy đối phương.
Phép ngự kiếm vô thượng này đã khiến bọn Hộ Pháp kinh hoàng, vội cử lưỡng nguyệt phủ chống đỡ. Tiếng thép chạm nhau ngân dài và tắt lịm ngay.
Mũi kiếm đã hớt đứt cán búa và trổ bảy lỗ trên ngực lão râu đen. Còn lão thứ hai chết yên lành hơn vì chỉ bị môt mũi Sách Hồn Tiễn cắm vào giữa trán!
Hận Thiên thuận cả hai tay nên thủ pháp kiếm tiễn tương xuất vô cùng lợi hại. Kiếm quang mù mịt che lấp nhãn tuyến đối phương nên khó ai tránh khổi.
Thập Tự Kiếm Triệu Huy Phong chứng kiến bản lĩnh thần sầu quỉ khốc của Hận Thiên, lòng vô cùng khâm phục, hân hoan quát vang lên như sấm:
- Hảo kiếm pháp!
Lão lại nghĩ đến an nguy của Hận Thiên sau này nên gầm lên:
- Giết sạch!
Giờ đây, bọn Phù Dung Hội như rắn mất đầu, chẳng còn chút dũng khí nào cả, chưởng pháp rối loạn nên thương vong rất nhiều.
Từ xa có tiếng vó ngựa dồn dập, lực lượng tiếp viện của Phi Châm Môn Đã đến thêm vài chục tay kiếm nữa. Đi đầu chính là nữ nhân áo xanh năm xưa từng liên thủ với Nhất Bất Thông ở Lạc Hà Đại Tửu Lâu.
Thấy bà ta xuất hiện, Hà Trang chủ mừng rỡ:
- Vương tứ muội mau phong tỏa cổng chính, tuỵêt đối không để một tên nào sống sót.
Hận Thiên đã biết người đàn bà áo xanh tuổi tứ tuần kia tên là Vương Nghĩa Quỳnh, nhưng không biết bà là tứ nghĩa muội của Hà Hồng Tập, và giữ chức đệ nhị Phó môn chủ.
Lúc này, Hận Thiên đang đi quanh để thu thập lại những mũi Sách Hồn Tiễn. Hà Hồng Hương cũng lăng xăng phụ giúp chàng. Tổng cộng đã có hai mươi mốt mũi Phi Tiễn được phóng ra, và đều cắm vào trán các nạn nhân.
Chàng đến đâu là bọn thủ hạ Phù Dung Hội dạt ra ngay, chẳng dám cản trở đại sát tinh mặt ngọc này.
Thấy đã thu về đủ số Hận Thiên bất ngờ lướt nhanh về phía tường vây, chỉ điểm chân hai lượt đã vượt bức tường cao hơn trượng,biến mất vào bóng đêm. Hồng Hương gọi theo lạc cả giọng:
- Nam Cung đại ca! Nam Cung đại ca!
Rồi nàng dậm chân tức tối, trút hận lên đầu bọn Phù Dung Hội. Chỉ hơn khắc sau, cuộc chiến kết thúc, và không một tên sát thủ Phù Dung Hội nào sống sót cả.
Đệ tử Phi Châm môn hành động rất mau lẹ, đem hết gần trăm tử thi ném xuống dòng sông Phồn Giang, và múc nước rửa sạch sân gạch.
Thi hài của đồng môn được chuyển về căn cứ bí mật để mai táng.
Lúc cởi khăn che mặt của ba lão hộ pháp Phù Dung Hội, Thập Tự Kiếm kinh hãi nói:
- Té ra Xuyên Bắc Tam Hung đã về đầu nhập Phù Dung Hội, thảo nào anh em chúng ta không địch lại.
Vương Nghĩa Quỳnh ngơ ngác hỏi:
- Vậy ai đã giết họ?
Hà Tài Thần mỉm cười:
- Người ấy chính là cậu bé năm xưa từng cứu nhị đệ và tứ muội ở Lạc Dương đấy!
Thập Tự Kiếm hào hứng tiếp lời:
- Không hiểu Hận Thiên là đệ tử của bậc cao nhân nào mà luyện được cả phép ngự kiếm. Thật đáng tiếc tứ muội không có mặt để thưởng thức kiếm thuật vô thượng ấy!
Hận Thiên về đến phòng trong Thái Nguyên lữ điếm dáo dác nhìn quanh và gọi:
- Trịnh tỷ tỷ!
Nhưng không hề có ai xuất hiện. Chàng thở dài thất vọng, thay áo rồi gọi tiểu nhị dọn mâm cơm rượu.
Bất Biệt Cư Sĩ là người khoái rượu nên bắt Hận Thiên đối ẩm. Nhờ vậy, tửu lượng chàng cũng kha khá. Tuy nhiên nhớ đến lời giáo huấn của Mông Diện La Sát, từ ngày trở lại Trung Thổ, chàng ít khi đụng đến.
Nhưng đêm nay, trong tâm trạng sầu muộn, Hận Thiên uống cạn cả bình rượu và đi nằm với trạng thái lơ mơ.
Chàng suy nghĩ mãi về việc lúc tối, bán tín bán nghi, không sao giải thích được. Phải chăng Tiểu Thuần vẫn chưa về Quỉ Môn Quan, và vẫn theo chàng, nhưng chỉ có thể gặp nhau trong giấc mộng?
Nghĩ vậy Hận Thiên cố dỗ giấc ngủ, mong được gặp lại người xưa. Tiếc rằng, trời sáng bạch mà chẳng thấy bóng dáng của hồn ma.
Hận Thiên rửa mặt xong, bước qua phạn điếm gần lữ quán để dùng điểm tâm, chàng đã từng cùng Tiểu Thuần ăn sáng ở nơi này.
Hận thiên hơi ngạc nhiên khi thấy sáng nay Kỳ Trân phạn điếm vắng tanh, chỉ trơ trụi có một người khách duy nhất. Chàng bước vào thì gã tiểu nhị chạy ra nhăn nhó bảo:
- Mong công tử lượng thứ! Bổn quán hôm nay đã có người bao cả, chẳng thể phục vụ ai được nữa!
Hận Thiên nhìn vào trong mỉm cười:
- Không sao! Ta với quái nhân kia là chỗ quen biết!
Thì ra vị khách quí ngồi giữa quán chính là Nam Nhạc Nhất Tà Hoạt Tử Nhân Phùng Lập Tâm.
Lão đang ngồi quay mặt về hướng Nam, nhâm nhi chén rượu, và chẳng thèm nhìn ra. Khi Hận Thiên ngồi xuống ghế đối diện, lão không khỏi giật mình:
gã tiểu tử này là ai mà dám chung bàn với mình nhỉ?
Chàng mỉm cười hỏi:
- Phùng tiền bối có tâm sự gì mà sáng sớm đã độc ẩm như vậy?
Nhất tà đã nhận ra cậu bé năm xưa, hoan hỉ phi thường, ngửa cổ cười như điên cuồng.Tiếng cười sảng khoái hùng mạnh, làm rung rinh cả mái ngói.
Chưởng quỉ và bốn gã tiểu nhị kinh hoàng, bịt tai chạy ra cả ngoài!
Phùng lão cười xong, hỏi với giọng trách móc:
- Ngươi đi đâu suốt năm năm qua, khiến lão phu đi tìm mãi không thấy?
Hận Thiên nhận rõ vẻ quan hoài, cảm động đáp:
- Vãn bối ra sa mạc Đại Qua Bích học võ, mới trở lại Trung Thổ được ít ngày.
Nhất Tà cười bảo:
- Té ra ngươi là đồ đệ của Bất Biệt Cư Sĩ Cao Hán Ngọc?
Chàng tủm tỉm đáp:
- Thưa phải! Gia sư có nói rằng tiền bối là người tốt nhưng hơi hủ lậu một chút! Người chết với người sống nào có khác nhau, hà tất phải tự lừa dối mình như vậy?
Nhất Tà giật mình, ngơ ngẩn suy nghĩ, lát sau lột chiếc mặt nạ xác chết, để lộ dung mạo đoan chính thuần hậu.
Lão mỉm cười:
- Xem ra Thiên nhi đã thụ giáo được hết sở học của Bất Biệt Cư Sĩ rồi đấy!
Hận Thiên ngắm gương mặt hiền hòa của Nhất Tà, thầm ước ao có được người cha như vậy!
Chàng quay ra gọi chưởng quỉ:
- Lão có thể mời khách vào được rồi đấy!
Chưởng quỉ chạy vào vui mừng vài dài:
- Thì ra công tử đã đuổi được con quỉ ấy đi rồi! Tiểu lão vô cùng biết ơn.
Bỗng lão nhận ra ngoài chàng công tử trẻ tuổi còn có một lão nhân râu dài, y phục trắng. Giống hệt con quỉ lúc nãy. Lão ta cứng họng run rẩy lui dần.
Ra đến cửa quán, thấy lão già kia vẫn không hóa thành quỉ, lão mừng rỡ ra lệnh cho bọn tiểu nhị đón khách vào.
Phùng Lập Tâm rót đầy chung rượu, đưa cho Hận Thiên rồi hỏi:
- Thiên nhi đến tinh Châu làm gì vậy?
Chàng cạn chén rồi đáp:
- Vãn bối đến Hà Gia Trang tìm Nhất bất Thông Chu Minh, để hỏi thăm tung tích Bạch Y Hầu và Hồng Phát Ma Quân. Tiếc rằng họ Chu đã đi đâu mất, hôm nay mới về đến.
Phùng lão quái cười khà khà:
- Thế thì ngươi chẳng cần phải gặp Nhất Bất Thông làm gì nữa! Lão phu đã vì ngươi mà điều tra ra tất cả rồi.
Hận Thiên phấn khởi vòng tay:
- Vãn bối xin đội ơn tiền bối đã nhọc công tra xét! Xin hãy chỉ giáo cho đứa cô nhi này!
Phùng lão vuốt râu, trầm ngâm một lúc mới đáp:
- Lão phu sẽ nói rõ hạ lạc của hai người ấy. Nhưng Thiên nhi phải hứa không được vọng động. Lão phu cho rằng việc Mộ Dung Thiên giết hại lệnh tôn có nhiều bí ẩn. Trong hơn ngàn nhà ở bờ sông Lạc Thủy không hề có ai mang họ Nam Cung cả. Lão phu đã vào từng căn, tuyệt đối không thể sai sót được!
Hận Thiên giật mình phân vân:
- Hay là tiên phụ không dùng tên thật khi cư trú ở đấy?
Phùng lão lắc đầu:
- Lão phu cũng đã nghĩ đến trường hợp ấy nên đã điều tra theo hướng khác và được biết rằng mười hai năm trước, không có hộ nào rời khỏi khu vực đó! Nếu quả thực lệnh tôn bị giết, lệnh mẫu đưa ngươi về Phúc Kiến, nhà cửa bỏ không, thì hàng xóm đã biết rồi!
Hận Thiên hoang mang hỏi:
- Thế tiền bối có gặp Bạch Y Hầu mà hỏi lại hay không?
Phùng Lập Tâm cười thảm:
- Lão phu đã rình rập Hầu phủ ba tháng, lục soát khắp nơi mà chẳng thấy gì. Cuối cùng phải dùng cực hình tra khảo một tỳ nữ mới biết một thảm kịch đau lòng! Số là mười mấy năm trước, ngay đúng ngày đầy tháng Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh thì vợ con Bạch Y Hầu biến mất. Mộ Dung Thiên như người điên dại, cùng các đệ tử rời phủ tìm kiếm. Sau ba năm hoài công, bọn đệ tử trở về Lạc Dương nhưng Bạch Y Hầu thì chẳng thấy đâu!
Hận Thiên run rẩy hỏi lại:
- ® tỳ nữ kia có nói ngày ấy là ngày nào không?
- Có! Đấy là ngày mười tám tháng sáu năm Ất Tỵ!
Hận Thiên lạc giọng:
- Hôm ấy cũng là ngày thôi nôi của vãn bối!
Hai người nhìn nhau bối rối, không hiểu sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy?
Phùng Lập Tâm tư lự rất lâu mới hỏi:
- Lệnh đường có miêu tả dung mạo lệnh tôn Nam Cung Phi cho Thiên nhi biết hay không?
Hận Thiên nhắm mắt mường tượng lại bức họa treo trong thạch động ở Vũ Di Sơn rồi kể:
- Gia phụ tuy là một thư sinh văn nhược nhưng tướng mạo rất hiên ngang. Mắt ông dài, mày kiếm xếch ngược đến tận thái dương. Mặt chữ điền mũi cao, miệng rộng. Tiên mẫu từng bảo rằng trừ đôi mắt ra thì vãn bối rất giống cha.
Phùng lão quái nhìn trân trối vào mặt Hận Thiên rồi nói:
- Phải chăng lệnh tôn còn có một nốt ruồi son nằm ở chân tóc góc trán phía trái?
Hận Thiên ngạc nhiên:
- Sao tiền bối lại biết?
Nam Nhạc Nhất Tà mỉm cười nhưng mắt nhòa lệ:
- Chân dung ấy chính là của Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên đấy! Thì ra Mộng Diện La Sát lại là phu nhân của Mộ Dung Thiên, không hiểu vì sao lại oán hận phu tướng, bồng con về quê, dạy cho nó phải căm thù chính phụ thân mình!
Hận Thiên choáng váng thét lên:
- Không thể thế được! Vãn bối không tin!
Phùng Lập Tâm cười nhạt:
- Lão Hầu Gia vẫn còn sống, và chắc chắn sẽ biết rõ ẩn tình của nghi án này, ngươi hãy cùng lão phu đến Lạc Dương để chứng thực!
Hận Thiên như người đi trong sương mù, ngơ ngác hỏi:
- Chứng thực bằng cách nào?
Phùng lão đáp:
- Trong thư phòng của Bạch Y Hầu có treo một bức họa chân dung.
Ngươi mà nhìn thấy sẽ biết thôi!
Hận Thiên linh cảm rằng Nhất tà rất thành thực, cả quyết đáp:
- Được! Vãn bối về thu xếp hành lý ngay!
Chàng đứng lên trở lại khách điếm trả phòng, dẫn quái mã ra. Nhất Tà đã chờ sẵn ở cửa Kỳ Trân phạn điếm. Hai người rời thành Tinh Châu, thẳng hướng Lạc Dương.
Hơn khắc sau, Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương tất tả chạy đến.
Nghe nói Hận Thiên đã đi cùng một lão nhân lạ mặt, nàng hậm hực quay về Hà gia trang báo tin.
Ra đến ngoại thành, Hận Thiên nóng ruột thúc Đà nhi phi nước đại, ngựa của Nhất Tà là loại tầm thường nên không theo kịp. Phùng lão cười bảo:
- Con ngựa của lão phu đâu thể bì với thần vật của sa mạc. Thiên nhi gấp gáp làm gì, việc đâu còn có đó mà!
Hận Thiên ngượng ngùng giảm tốc độ. Chàng rất hoang mang nên lặng lẽ chẳng nói câu nào. Được vài chục dặm, Hận Thiên nhớ lại một kỷ niệm trong quá khứ, liền kể lại cho Nhất Tà nghe:
- Phùng tiền bối! Vãn bối chợt nhớ năm mười hai tuổi, tình cờ bắt gặp gia mẫu vừa khóc vừa chỉ vào bức họa gia phụ mà mắng rằng:
"Ngươi là kẻ tham dâm hiếu sắc, bạc hạnh, vô lương tâm!" Vãn bối lấy làm lạ, liền hỏi lại, bà bối rối giải thích rằng:
Lúc sinh tiền, gia phụ có lăng nhăng với một biểu muội, bà nhớ lại lên nổi ghen thế thôi!
Nhất Tà chép miệng:
- Lạ thực! Mộ Dung Thiên cũng có một người biểu muội cực kỳ xinh đẹp, tính tình lẳng lơ, được võ lâm đặt cho biệt danh là Lãng Đãng Hồng Nhan. Sau khi Bạch Y Hầu thất tung thì Chúc Tây Sương cũng chẳng thấy đâu.
Lão dừng lời, suy nghĩ một lúc rồi phỏng đoán:
- Lão phu cho rằng ngay trong đêm ấy, lệnh đường đã phát hiện Bạch Y Hầu dan díu với Lãng Đãng Hồng Nhan, nên mới tức giận mà bỏ đi.
Hận Thiên thắc mắc:
- Nhưng nếu đúng vậy thì vì sao Mộ Dung Thiên không đến núi Vũ Di tìm gia mẫu?
Phùng lão quái gật gù:
- Có thể lệnh đường đã giấu diếm lai lịch với Bạch Y Hầu nên ông ta không biết. Lão phu đành phải nói thực rằng năm xưa Mông Diện La Sát nổi tiếng là người tàn ác, giết người như ngoé. Nếu giữ danh phận ấy khó mà về làm Hầu Tước phu nhân được!
Hận Thiên kinh ngạc:
- Chẳng lẽ Bạch Y Hầu lại là mệnh quan của triều đình thật sao?
Phùng lão lắc đầu:
- Tổ phụ Mộ Dung Thiên có công giúp Minh Thái Tổ thu lại ba tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc từ tay quân Mộng Cổ và tiêu diệt bọn cường phỉ ở Tứ Xuyên, Vân Nam nên được phong tước Hầu, đời đời thế tập. Tuy họ Mộ Dung không làm quan nhưng danh phận rất cao quí.
Hận Thiên nhớ đến thái độ của Hà phu nhân mẹ của Hồng Hương. Hiểu rằng Phùng lão có lý. Chàng bỗng hy vọng rằng, mình chính là nam tử của Mộ Dung Thiên. Đã mồ côi mẹ, Hận Thiên khao khát có được một người cha.
Dường như Phùng Lập Tâm hiểu được tâm ý của chàng, cảm khái nói:
- Mộ Dung Thiên có được nam tử như ngươi thật quả là đại phúc! Lão phu có mong cũng chẳng được!
Hận Thiên xúc động , lặng người một lát rồi hỏi:
- Vãn bối quên chưa hỏi tiền bối về hạ lạc của Hồng Phát Ma Quân!
Phùng lão đắc ý nói:
- Địa điểm của Vạn Hoa Cung là một bí mật giấu kín mấy chục năm nay, cả lão Nhất Bất Thông kia cũng không biết được. Lão phu lặn lội khắp các vùng sơn cùng thủy tận, hỏi thăm hàng trăm người, mất đúng bốn năm mới tìm ra. Vạn Hoa Cung nằm sâu trong vùng núi Mẫu Sơn, ranh giới của Tứ Xuyên và Cam Túc. Để xác minh xong thân phận, lão phu sẽ đưa ngươi đi tìm Hồng Phát Ma Quân.
Hận Thiên nghe lòng dâng lên mối cảm kích ngất trời. Lão già này đã vì chàng mà khổ nhọc suốt năm năm qua, dù chàng đã từ chối làm đồ đệ lão.
Chàng nghiêm nghị nói:
- Vãn bối muốn được lạy người làm nghĩa phụ, liệu có được chăng?
Nhất Tà dừng phắt ngựa lại, nhìn Hận Thiên với ánh mắt hân hoan tột độ:
- Thiên nhi thực tâm muốn thế sao?
Hận Thiên nhảy xuống đất, quì lạy chín lạy:
- Can gia! Hài nhi xin khấu đầu ra mắt!
Phùng Lập Tâm bước xuống, ôm chặt chàng vào lòng, ngửa cổ cười dài.
Tiếng cười biểu lộ niềm hạnh phúc mênh mang. Lão vỗ lưng chàng:
- Hảo hài tử! Hảo hài tử!
Khách lữ hành trên đường nhìn họ, kinh ngạc tự nhủ rằng đấy là hai kẻ điên rồ.
Hai người lên ngựa đi tiếp, trò chuyện rất thân mật và cởi mở. Đường thiên lý như ngắn lại, mặt trời mùa đông nhợt nhạt lên dần đến đỉnh đầu.
Chợt trên không trung vọng xuống tiếng chim ưng sắc nhọn, Nam Nhạc Nhất Tà biến sắc hú vang.
Thần điêu hạ cánh thả vào tay lão một ống trúc. Nhất Tà bóp vỡ lấy ra một tờ hoa tiên. Đọc xong lão cau mày bảo Thần ưng:
- Ưng lão đệ cứ về trước, lão phu sẽ khởi hành đi Trực Cô ngay!
Chim Ưng gật gù, vỗ cánh bay đi mất dạng. Phùng Lập Tâm thiểu não nói:
- Thiên nhi! Can gia nhận được lệnh đòi của một bậc trưởng bối, không thể cùng ngươi đến Lạc Dương được. Hãy tự đến Mộ Dung Hầu Phủ điều tra sự thực. Nhưng Can gia luôn khẳng định ý kiến của mình, con cứ liệu mà hành động.
Hận Thiên trấn an lão:
- Can gia bận việc xin cứ bình tâm lên đường. Dẫu hài nhi không phải là con của Mộ Dung Thiên cũng sẽ đợi Can gia về đến mới ra tay báo phục.
Nhất Tà hài lòng:
- Ngươi đã nói thì phải giữ lời. Khoảng hai tháng sau chúng ta sẽ gặp lại nhau ở Lạc Dương.
Hận Thiên hiếu kỳ hỏi:
- Trực Cô cách đây chỉ độ mười mấy ngày đường, sao Can gia lại bắt hài nhi chờ lâu như vậy?
Phùng lão nhìn quanh rồi bảo:
- Chúng ta đi vào bìa cánh rừng kia, rồi ta kể cho con gnhe.
Hai người thúc ngựa đến cánh rừng mé hữu, xuống ngựa, ngồi lên tảng đá mà trò chuyện.Nhất Tà nghiêm giọng:
- Từ lâu võ lâm vẫn tôn sùng Ngũ Nhạc Đại Kỳ Nhân, nhưng không biết rằng trừ Bạch Y Hầu ra. Bốn người kia đều bị khống chế bởi một nhân vật cực kỳ lợi hại. Đó là một nữ nhân tuổi đã bát tuần, ẩn cư trên đỉnh Bát Tiên Trác Tử ở phía Bắc Trực Cô. Bốn mươi năm trước, Hải Hà Tiên Tử Mai Thanh Phố là đệ nhất mỹ nhân cũng là đệ nhất ác ma. Mụ lớn hơn Ngũ Nhạc Kỳ Nhân mười tuổi, nhưng nhờ thuật trụ nhan nên lúc nào cũng như chỉ mới đôi mươi.
- Năm ấy, Can gia và ba lão Tây Nhạc, Bắc Nhạc, Đông Nhạc đều chỉ mới hơn ba mươi, lần lượt bị Mai Thanh Phố dụ dỗ, rơi vào lưới tình. Bọn ta u mê đến nỗi lập trọng thệ, thề suốt đời tuân lệnh mụ ta.
Sau đó Hải Hà Tiên Tử lộ rõ dã tâm, thành lập Thần Nữ Bang. Mụ ta định giết bang chủ Cái Bang Đặng Trung Nghi để tế cờ, vì bang hội này không chịu thuần phục. May thay, Bất Biệt Cư Sĩ Cao Hán Ngọc lại có mặt trong lễ khai đàn. én sư ngươi đã chặt đứt một tay của mụ ma nữ, và thiêu hủy tổng đàn.
Nào ngờ, ba mươi năm sau, Hải Hà Tiên Tử lại tái xuất, võ công càng cao siêu hơn trước. Mụ đã gửi thư gọi Tứ Nhạc Kỳ Nhân đến, nhắc lại lời thề xưa.
Bọn lão phu đã tỉnh ngộ, liền vây đánh mụ ta. Nhưng không địch lại nên phải khuất phục.
Hận Thiên kinh hãi ngắt lời:
- Chẳng lẽ Hải Hà Tiên Tử đã gặp kỳ duyên nên võ công còn cao hơn gia sư?
Phùng Lập Tâm rầu rĩ gật đầu:
- Can gia e rằng đúng là như vậy đấy! Lần này mụ yêu bà kia đòi ta đến Trực Cô, chắc là để chuẩn bị cho cuộc xưng bá sắp tới. Sau này Thiên nhi có gặp lại ta trong một tổ chức hung ác, cũng đừng lấy làm lạ.
Hận Thiên suy nghĩ rồi hỏi lại:
- Có cách nào để giải lời thề ấy không?
Nhất Tà cười khổ:
- Lần thứ hai lập trọng thệ, Hải Hà Tiên tử bắt bọn ta phải nói rõ danh tính chứ không như lần trước. Tuy nhiên mụ có ngạo nghễ bảo rằng khi nào mụ bị cao thủ đả bại thì sẽ giải thoát cho Tứ Nhạc Kỳ Nhân.
Hận Thiên mỉm cười:
- Can gia yên tâm. Hài nhi sẽ làm việc ấy. Hải Hà Tiên Tử tăng tiến võ công thì gia sư cũng vậy.
Phùng Lập Tâm cười mát:
- Nhưng đó là Bất Biệt Cư Sĩ chứ đâu phải là một thiếu niên non nớt như ngươi.
Hận Thiên chỉ cười chứ không biện bạch:
- Hai tháng nữa! Nếu Can gia không đến Lạc Dương, hài nhi sẽ đi núi Bát Tiên Trác Tử tìm Hải Hà Tiên Tử. Gia sư từng tiên đoán mụ ta tái xuất nên đã ban cho hài nhi một bửu bối.
Phùng lão quái không tin tưởng lắm nhưng cũng chẳng biết nói sao, lên ngựa quay lại Tinh Châu, rồi từ đấy đi sang Hà Bắc.
Hồi 4
Thiên Lý Tòng Phụ Hồn Bất Tán
Tường Tri Lai Lịch Sát Cừu Nhân
Hận Thiên lưu luyến nhìn theo chờ nghĩa phụ khuất sau khúc quanh mới lên đường. Chàng ghé vào quán cơm bên đường ăn bữa trưa, rồi thúc ngựa phi nhanh để đến trấn Hà Tân kịp buổi chiều.
Lát sau, đường quan đạo trước mặt hẹp lại và hai bên là những đám loạn thạch nhấp nhô dưới hàng cây. Tuyết đã phủ đầy, khiến chúng trông giống như những ngôi mộ quét vôi trắng toát. Chúng lấn ra cả vệ đường và chẳng ai hơi đâu mà dọn dẹp.
Hận Thiên đang phi nước đại bỗng giật mình khi nghe văng vẳng tiếng la rất cấp bách.
- Dừng ngựa lại!
Hận Thiên nghĩ đến hồn ma của Tiểu Thuần nên lập tức nghe lời, gò cương đột ngột, khiến Đà nhi dựng cả hai vó lên. Và mặt đường phía trước cách chàng bốn trượng bị xới nát bởi một tiếng nổ kinh hồn. Cát đá và tuyết văng đến tận chỗ Hận Thiên nhưng không làm chàng đau đớn.
Hận Thiên toát mồ hôi lạnh, biết mình vừa thoát chết, nếu không có lời cảnh báo của ai đó. Chàng rút kiếm nhảy xuống, đuổi Đà nhi chạy ngược lại.
Lúc này, một toán Bạch y đông đến năm chục tên đã từ trong đống loạn thạch nhảy ra vây chặt Hận Thiên. Chúng mặc áo choàng trắng ẩn mình dưới tuyết nên rất khó nhận ra.
Chỉ cần nhìn những cây lưỡng nguyệt phủ cũng biết chúng là thủ hạ Phù Dung Hội. Có đến sáu lão mang thắt lưng vàng giống như ba Hộ Pháp đã bị Hận Thiên giết ở Hà Gia Trang. Vậy là lần này Phù Dung Hội đã đưa đến sáu Hộ Pháp ra để chặn đường Hận Thiên.
Một lão Hộ Pháp cao gầy cười ghê rợn:
- Nam Cung tiểu tử! Lão phu không ngờ ngươi lại khám phá ra bẫy hỏa dược, thật khó mà tin được. Nhưng dẫu sao, ngươi cũng chẳng thể thoát chết được.
Hận Thiên lạnh lùng đáp:
- Bổn nhân có quỉ thần hộ mệnh, cái bẫy nhỏ kia làm sao hại được. Còn bọn ngươi chỉ là lũ sô cẩu, có gì đáng sợ.
Nghe chàng mắng mình là chó rơm, lão Hộ Pháp giận dữ phất tay ra hiệu. Cả sáu lão cùng xông vào giáp công đối phương. Bọn thủ hạ lăm lăm tay búa đề phòng Hận Thiên đào tẩu.
Hận Thiên vẫn thản nhiên ứng phó, ôm kiếm lao vào hai lão trước mặt.
Bốn lão còn lại lập tức tấn công hậu tâm và tả hữu. Nhưng tả thủ Hận Thiên ngoắt lại phía sau, phóng bốn mũi Sách Hồn Tiễn và tiếp tục lướt đi.
Bốn mũi phi tiễn bay ra với tốc độ kinh người, nhắm ngay vào bụng đối phương. Bọn sau lưng kinh hãi múa tít lưỡng nguyệt phủ hộ thân. Họ đánh bạt được ám khí nhưng cước bộ chậm lại.
Chỉ một thoáng ngắn ngủi ấy cũng đủ để Hận Thiên hạ thủ hai lão trước mặt. Kiếm quang cuồn cuộn, mở rộng như lưới cá, chụp lấy cả hai địch thủ.
Mũi đoản kiếm như có mắt, chỉ va chạm vài lần đã tìm ra chỗ sơ hở, len vào mà hớt đứt hai cán búa. Và hai lão già xấu số kia rú lên thảm thiết, đứt thành bốn đoạn.
Nhất Nguyên Tâm Kiếm của Cao Hán Ngọc là tuyệt học thượng thừa trong võ lâm. Chiêu thức biến hóa khôn lường, lúc thì kiếm, lúc là đao, tùy ý muốn của người thi triển.
Giết xong hai địch thủ, Hận Thiên lập tức bốc thẳng lên không trung lộn người tấn công bốn lão phía sau. Mục tiêu chính của chàng là lão Hộ Pháp mập mạp ở mé hữu. Lúc này họ đang đứng thành hình bán nguyệt rất gần nhau vì vừa đánh hụt một đòn giáp công.
Kiếm phong rít lên veo véo, kiếm ảnh trùng điệp, khí thế cực ky uy mãnh. Lão mập khiếp sợ chiêu kiếm thần dũng vội múa tít lưỡng nguyệt phủ lùi nhanh. Công lực lão khá thâm hậu nên màn lưới thép quanh thân dày đặc và liền lạc.
Nào ngờ lúc ở trên cao, Hận Thiên đã chuyển kiếm sang tay trái, giờ đây hữu thủ vỗ một đạo phách không chênh chếch vào màn phủ ảnh, mượn lực phản chấn đổi hướng bay sang mé tả, chụp lấy lão bên cạnh.
Đấu pháp biến ảo vô song này đã có tác dụng. Lão thứ hai bị bất ngờ trúng liền ba kiếm vào ngực gục ngã. Hận Thiên lướt qua xác lão, hạ thân xuống mặt đường phủ tuyyết. Mỉm cười ngạo nghễ:
- Tại hạ không muốn lạm sát, các ngươi khôn hồn thì mau rút lui. Hãy về bẩm báo với Bang chủ Tây Bang Hứa Hữu Tinh rằng lão nên đích thân đòi nợ thì hay hơn là thí mạng thủ hạ.
Ba lão Hộ Pháp xanh mặt trước bản lĩnh tuyệt thế của đối phương, tự lượng giáp công cũng không địch lại. lão già thấp đậm gầm lên:
- Tiểu tử khoan hãy đắc ý, bổn hội vẫn còn món quà nữa để tặng cho ngươi.
Lời nói ấy như một ám hiệu, cả ba tung mình ra sau vòng vây của năm mươi gã sát thủ. Và lão già thấp đậm quát vang:
- Sát!
Hận Thiên tưởng bọn chúng sẽ ùa vào, nào ngờ từ chín phương vị chung quanh chín hán tử Bạch y nhất tề phóng lưỡng nguyệt phủ vào thân chàng.
Dường như họ đã được huấn luyện chu đáo nên mỗi người nhắm vào một vị trí nhất định. Những cây búa thép nặng nề bay đi chậm chạp, không có gì đáng sợ.
Hận Thiên cười mát, vung đoản kiếm đánh bạt ra. Bọn còn lại nhân cơ hội ấy đồng loạt phóng búa kèm theo mấy chục viên yêu đạn. Lần này tốc độ nhanh gấp bội, đan lưới vây kín mục tiêu, lợi hại nhất là những lưỡi bay sát đất. Đoản kiếm quá ngắn, chẳng thể với tới được.
Trận pháo Phi Phủ đoạt mệnh này là một trong những vũ khí trấn sơn của Phù Dung Hội, khi thi thố chẳng bao giờ thất bại. Dù Hận Thiên có đề khí bốc lên cao cũng không thoát chết, vì lúc ấy thân dưới rất trống trải.
Nào ngờ, chàng lại đối phó bằng cách khác. Hận Thiên dùng mũi kiếm chặn đứng lưỡng nguyệt phủ, thò tay hữu chụp lấy cán búa thi triển chiêu Tuyết Hạ Điểm Tinh.
Như đã nói ở trên, Cao Hán Ngọc xưng danh Bất Biệt, ý là đã thâu tóm tinh túy võ học trăm nhà, tìm ra điểm căn nguyên chung nhất. Vì vậy pho Nhất Nguyên Tâm Kiếm có thể sử dụng mọi loại vũ khí mà không hề sai khác.
Hận Thiên chưa đến mức đại thành nhưng cũng có thể dùng lưỡng nguyệt phủ mà không ngượng tay.
Cây búa thép này dài như trường kiếm, có thể vươn đến sát mặt đất, che chắn rất hữu hiệu. Hơn nữa kiếm của chàng mỏng manh, chưa chắc đã chịu được sự va chạm với mấy chục lực đạo nặng nề.
Thanh lưỡng nguyệt phủ trong tay Hận Thiên hóa thành màn lưới thép kín đáo, liền lạc như da trời, đánh bật toàn bộ ngoại lực. Tiếng va chạm của sắt thép vang lên ghê tai, và những đốm lửa bắn ra rất đẹp mắt.
Nhưng không phải Hận Thiên đứng im đỡ đòn, chàng vừa múa búa, vừa lướt nhanh về phía trước. Làn khói trắng mịt mù kia đã che phủ nhãn tuyến phe đối phương, nên chúng không nhận ra điều ấy, và khi nhận ra thì đã muộn.
Hận Thiên phá xong Phi Phủ trận, tung mình lên không, thoát khỏi biển khoi, chụp lưới búa xuống đầu bọn Bạch y, xui xẻo thay cho hai lão Hộ Pháp, vì họ đứng đúng vị trí này.
Lưỡng nguyệt phủ nặng gấp bảy tám lần thanh đoản kiếm của Hận Thiên, nên giờ đây khí thế mãnh liệt phi thường, như núi Thái đổ ập xuống đầu kẻ địch.
Hai lão già kia bị bất ngờ, lung túng cử búa chống đỡ. Tiếc rằng Hận Thiên đã động sát cơ, dồn hết nội lực vào chiêu Vũ Lạc Bình Sa này.
Lưỡi búa của Hận Thiên chặt gãy cán hai thanh lưỡng nguyệt phủ, và lướt vào thân thể hai kẻ địch. Sức công phá của khối thép nặng nề đã chẻ đứt xương lồng ngực của cả hai, còn đẩy họ văng ra sau nửa trượng.
Lão Hộ Pháp cuối cùng kinh hãi thét quân rút lui, dù trong tay họ vẫn còn lưỡi búa thứ hai, tuy nhỏ hơn nhưng cán lại nối với một thiết luyện dài nửa trượng.
Bọn Bạch y đang khiếp sợ đến vỡ mật, mau mắn tuân lệnh Hộ Pháp, đào tẩu tất cả vào khu rừng hai bên đường.
Hận Thiên chẳng đuổi theo làm gì, thu lượm lại những mũi Sách Hồn Tiễn đã phóng ra, nhưng chúng đã bị đánh bay đâu mất.
Hận Thiên hơi nuối tiếc những kỷ vật của mẫu thân, nhưng tính chàng phóng đạt, không câu nệ, nên chẳng cố sức tìm nũa. Chợt nhớ đến lời cảnh báo giúp chàng thoát chết, Hận Thiên gọi vang:
- Trịnh tỷ tỷ! Trịnh Tiểu Thuần!
Nhưng hồn ma đáng yêu ấy vẫn chẳng lên tiếng. Hận Thiên buồn bã, huýt sáo gọi quái mã. Đà nhi từ phía xa xa phi đến, mừng rỡ liếm mặt Hận Thiên. Chàng lên lưng ngựa, thúc giục linh vật phi nước đại. Đối với Đà nhi, chàng chẳng bao giờ phải dùng roi, nó còn hiểu cả những lệnh bằng lời của chủ nhân.
Hận Thiên để mặc Đà nhi dong duổi, miên man suy nghĩ:
- Vì sao Tiểu Thuần lại tránh không gặp mặt mình để đàm đạo? Thực là khó hiểu.
Sáu ngày sau, Hận Thiên đến thành Lạc Dương. Trong cảnh thu ảm đạm, cố đô càng bội phần cổ kính.
Chàng ghé vào Vạn An lữ điếm, hy vọng tìm thấy lão chưởng quỉ Lục Tâm Hiền. May thay, lão ta vẫn còn ở đây.
Hận Thiên xuống ngựa, giao cho tiểu nhị, rồi bước vào đứng trước quầy gỗ, tủm tỉm hỏi:
- Lục lão có nhớ ra tại hạ hay không?
Lục Tâm Hiền trố mắt nhìn, ngượng ngùng đáp:
- Lão phu thấy công tử có vẻ quen quen nhưng không nhớ ra được.
Chàng mỉm cười:
- Tại hạ chính là cậu bé mặc áo da báo năm năm trước.
Lục lão mừng rỡ rú lên:
- Nam Cung công tử. Chu đại ca đang nóng ruột trông chờ, không ngờ công tử lại đến đúng lúc Hận Thiên vui vẻ bảo:
- Té ra Nhất Bất Thông cũng có mặt ở đây?
Lục Tâm hiền gật đầu xác nhận, đưa tay mời Hận Thiên lên lầu, lão đi trước dẫn đường.
Chu Minh ở trong một phòng rộng cuối lầu hai, cửa đóng chặt. Lục lão đẩy cửa bước vào, cười bảo:
- Chu đại ca nhìn xem ai đây!
Nhất Bất Thông có ấn tượng sâu sắc với đôi mắt của Mông Diện La Sát nên nhận ra ngay. Lão hoan hỉ nói:
- Phải chăng là Nam Cung công tử?
Hận Thiên vòng tay bái kiến:
- Vãn bối học nghệ quá lâu, khiến đại thúc phải đợi trông.
Chu Minh bước đến ôm vai chàng đưa đến ghế ngồi:
- Công tử về thật đúng lúc, lão phu đang gặp vấn đề nan giải.
Lục Tâm Hiền trở xuống làm nhiệm vụ của mính. Lão là một thư sinh, chỉ giỏi tính toán sổ sách chứ không tường võ nghệ.
Hận Thiên an tọa, nhấp hớp trà rồi nhìn Chu Minh chờ đợi. Nhất Bất Thông nghiêm giọng kể lại việc điều tra Mộ Dung Hầu Phủ. Lão cũng thu thập được tin tức giống như Nam Nhạc Nhất Tà Phùng Lập Tâm. Cuối cùng lão vuốt râu khề khà:
Dựa vào những dữ kiện ấy, lão phu đoán rằng lệnh đường và công tử chính là vợ con của Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên. Nhưng hai hôm trước lại phát sinh một quái sự. Đó là việc Bạch Y Hầu tìm được thê tử, đưa về Lạc Dương. Trưa nay hầu phủ sẽ mở đại yến mừng sum họp. Chính vì vậy mà lão phu phải ở lại Lạc Dương, chứ không về Tinh Châu như đã dự tính.
Hận Thiên cười nhạt:
- Nếu vậy thì lão Mộ Dung Thiên chính là kẻ đã sát hại gia phụ, đúng như lời tiên mẫu đã nói. Tại hạ sẽ đến Hầu Phủ giết lão ta để báo thù.
Nhất Bất Thông thản nhiên đáp:
- Lão phu sẽ đưa công tử đến dự đại yến để có cơ hội hỏi tội Bạch Y Hầu.
Nhưng bây giờ còn quá sớm, công tử hãy thư thả kể cho lão phu nghe những tao ngộ trong thời gian năm năm qua.
Hận Thiên cũng muốn vạch mặt kẻ thù trước đông người nên đồng ý với kế hoạch Chu Minh. Chàng điềm đạm kể sơ qua việc cũ. Tất nhiên có cả chuyện cứu cả Hà Hồng Hương và Hà gia trang. Chàng cũng không giấu việc mình đã lạy Nam Nhạc Nhất Tà là nghĩa phụ.
Nhất Bất Thông hân hoan nói:
- Có sự hỗ trợ của Phùng lão quái, công tử sẽ không đơn độc nữa. và cả Phi Châm Môn cũng sẽ đặt dưới quyền sai khiến của công tử. Năm xưa, lệnh đường đã cứu mạng lão phu và Môn chủ đại ca Hà Hồng Tập.
Lão cười khà khà rồi tiếp lời:
- Con bé Hồng Hương cũng rất xinh đẹp, lão phu sẽ thưa với đại ca, xin tiểu nha đầu về làm dâu họ Nam Cung.
Hận Thiên lạnh lùng đáp:
- Cảm tạ hảo ý của Chu đại thúc, tiếc rằng vãn bối chẳng dám với cao.
Lục chưởng quỉ đã đích thân bưng lên một mâm rượu thịt để hai người đối ẩm. Giữa bữa, Chu lão bỗng hỏi:
- Nếu lát nữa, chúng ta đến hầu phủ dự yến, công tử nhìn thấy dung mạo Mộ Dung Thiên và người đàn bà kia giống hệt song thân của mình thì sẽ tính sao?
Hận Thiên giật mình bối rối đáp:
- Nếu có chuyện ấy, quả thật vãn bối cũng chẳng biết phải làm thế nào cả. Nhưng vì sao đại thúc lại đặt ra vấn đề nan giải này?
- Lão phu đã phải tốn ba ngàn lượng bạc cho lão quản gia Hầu Phủ để tìm hiểu về lai lịch của Hầu Tước phu nhân, cũng như dung mạo của bà ta. Bạch Y Hầu kết hôn rất kín đáo, đơn giản, chỉ tổ chức trong vòng quyến thuộc chứ không mời người ngoài. Vì vậy cả võ lâm không ai biết mặt Mộ Dung phu nhân.
Chu lão thấm giọng rồi kể tiếp:
- Bà ta có nhũ danh là Nam Cung Nhược Thuỷ, con nhà thường dân, mồ côi cha mẹ nên ở với chú ruột, lão ta là Nam Cung Bân, có cửa hàng dược thảo ở Hứa Xương. Bạch Y Hầu góa vợ sớm, đến năm bốn mươi tuổi, tình cờ ghé qua Hứa Xương, gặp Nhược Thủy và phải lòng mỹ nhân. Do không môn đăng hộ đối nên mới làm đám cưới đơn giản như vậy.
Hận Thiên ngơ ngác:
- Thế bà ta đâu phải là gia mẫu!
Chu Minh lắc đầu:
- Lão phu đã đến Hứa Xương để kiểm tra, thì ra Nam Cung Bân đã dọn đi từ mười mấy năm trước. Sau thời điểm thê tử Bạch Y Hầu mất tích chỉ bốn ngày. Lão phu trở lại Hầu Phủ, bắt lão quản gia họ Lâm kia cho mượng bức họa chân dung của Hầu Tước nhị phu nhân để sao lại.
Nhất Bất Thông đứng lên, mở tủ lấy ra một cuộn giấy tròn, trao cho Hận Thiên. Chàng mở ra xem và sửng sốt.
- Đây chính là gia mẫu. Vậy mỹ nhân mà Bạch Y Hầu mới đưa về là ai?
Nhất Bất Thông mỉm cười:
- Lão phu vắt óc suy nghĩ suốt hai đêm mới tìm ra đáp án. Đây là một âm mưu cực kỳ xảo quyệt và tinh vi, được sắp đặt và thực hiện từ mười tám năm trước. Hung thủ biết rõ tính tình nóng nảy ghen tuông của lệnh đường nên đã bày kế khích nộ bà phải ra đi, vì Bạch Y Hầu phải xuất đạo tìm kiếm. Sau khi giăng lưới bắt sống được Mộ Dung Thiên, hắn tìm đến Vũ Di Sơn sát hại lệnh đường, và sau đó chuẩn bị cho người giả thế thân vào. Có hai trường hợp xảy ra, một là cả Bạch Y Hầu cũng là giả, hai là lão ta bị lừa nên nhận lầm thê tử.
Hận Thiên thắc mắc:
- Nhưng hung thủ phải lao tâm khổ trí như vậy để làm gì?
Chu lão vuốt râu hạ giọng:
- Lão Hầu gia Mộ Dung Cẩn đang sở hữu một gia tài lên đến hàng trăm vạn, và còn giữ tấm họa đồ đưa đến Kim Ngọc Bồng Lai Đảo ngoài Đông Hải.
Chính hai điều này là mục tiêu của hung thủ đấy.
Hận Thiên rất hoang mang:
- Thế thì vãn bối phải làm sao đây?
Chu Minh trấn an:
- Công tử cứ cùng lão phu đến Hầu Phủ, và y theo kế hoạch này mà hành động.
Lão bèn trình bày sách lược của mình. Hận Thiên vô cùng thán phục lão hồ ly già.
Cuối giờ Tỵ, Nhất Bất Thông Chu Minh và Nam Cung Hận Thiên chỉnh tề trong áo gấm sang trọng, đem lễ vật và bái thiếp đến phủ đệ của Bạch Y Hầu.
Tuy không có thiệp mời nhưng danh vọng của Chu Minh ở Lạc Dương và trong võ lâm khá lớn, nên bọn gia nhân gác cửa vội cung kính mời vào.
Hầu Tước phủ được xây theo lối Tứ Hợp Thiện, nghĩa là bốn mặt đều có nhà, cửa đại môn mở ra ở góc Đông Nam, chính giữa là sân gạch rộng lớn. Chỉ khác ở chỗ là hướng Bắc có nguyện một tòa đại lâu hai tầng đồ sộ, hai bên và sau lưng là vườn hoa xinh đẹp.
Tòa phủ đệ này được xây dựng từ sáu chục năm trước nên cây cối đều đã cao lớn, rậm rạp, khiến nơi đây cực kỳ mát mẻ. Trong mùa Đông, tàn cây hứng lấy tuyết và cản bớt ngọn Bắc phong lạnh lẽo.
Giờ đây, hơn trăm bàn tiệc được bày trên sân gạch phía trước đại lâu.
Quan khách đã ngồi kín hơn nửa số bàn. Họ là những quan lại, nhân sĩ ở Lạc Dương và vùng phụ cận. Số khác là cao thủ võ lâm quen biết với Bạch Y Hầu. Chu lão đường hoàng tiến vào đại sảnh, Hận Thiên theo sau, bưng hộp lễ vật. Dung mạo và phong thái của chàng khiến quan khách trầm trồ khen ngợi.
Có người còn buột miệng:
- Lạ thực! Sao chàng công tử này có nhiều nét giống như Bạch Y Hầu vậy nhỉ?
Kẻ có nhiệm vụ đón khách là quản gia Hầu Phủ Lâm Tam Phúc. Thấy Chu Minh. Lão biến sắc, nháy nhó rồi cười giả lả:
- Không ngờ Chu đại hiệp lại hạ cố đến dự tiệc mừng của bổn phủ.
Nhất Bất Thông cười mát:
- Lão phu với Bạch Y Hầu là chỗ thâm giao, lẽ nào lại không đến? Có chút lễ mọn xin nhận cho!
Lâm quản gia xua tay:
- Xin đa tạ hảo ý! Nhưng tiếc rằng Hầu gia đã ra nghiêm lệnh, không nhận bất cứ lễ vật gì. Người cố tránh việc cạnh tranh, lấy lòng của quan lại địa phương.
Hận Thiên nghe nói vạy, lòng thầm cảm phục khí tiết của Bạch Y Hầu.
Chu Minh thì cười ha hả:
- Lão phu biết tính Mộ Dung Thiên, chỉ mang cho có lệ mà thôi. Không nhận thì lão phu đem về vậy.
Lâm quản gia đưa hai người đến một bàn gần sảnh. Lát nữa, bàn tiệc của lão Hầu Gia và phu thê Mộ Dung Thiên sẽ đặt ngay trên thềm đại sảnh. Từ vị trí này, bọn Hận Thiên quan sát rất thuận lợi.
Giờ Ngọ qua hai khắc, quan khách đã đông đủ, và chủ nhân cũng xuất hiện. Đi trước là lão Hầu Gia Mộ Dung Cẩn, tuổi đã bát tuần mà vẫn còn tráng kiện, sắc diện hồng hào, mắt sáng như sao. Theo sau lão hầu gia là phu thê Mộ Dung Thiên và một chàng trai tuổi đôi chín, gương mặt khá giống Bạch Y Hầu.
Hận Thiên chăm chú nhìn kỹ hai dung mạo kia, quay sang nói nhỏ với Chu Minh:
- Chu đại thúc! Mặt của Mộ Dung Thiên rất giống bức họa chân dung của gia phụ. Và nữ nhân kia cũng không khác gì gia mẫu. Xem ra đại thúc đã có lý.
Chu Minh nheo mắt đáp:
- Công tử cứ bình tâm, lát nữa sẽ biết đựơc thực hư thôi.
Lúc này toàn trường im lặng vì lão hầu gia đã mở lời. Lão tươi cười nói sang sảng:
- Kính cáo chư vị, mười tám năm trước túc nữ và nội tôn của lão phu bị kẻ gian bắt cóc. Khuyển tử Mộ Dung Thiên khổ công truy tìm, cuối cùng đã đưa được thê tử về đây. Lão phu vô cùng hoan hỉ và đã cho tổ chức bữa tiệc mọn này để ăn mừng. Lão phu xin cảm tạ chư vị thân hữu đã đến uống chén rượu nhạt để chung vui. Xin cứ tùy tiện đừng khách sáo.
Mọi người vỗ tay, đua nhau đứng lên nói lời chúc tụng. Rượu và thức ăn mau chóng được dọn ra. Lão hầu gia nâng chén mời cử tọa.
Trên bàn chủ vị, chỉ có lão Hầu gia và gi đình Bạch Y Hầu.
Nhất Bất Thông đứng lên cười khanh khách hỏi:
- Xin Bạch y Hầu cho biết kẻ nào đã cả gan bắt cóc Hầu Tước phu nhân và tiểu hầu gia vậy?
Bạch y Hầu thuở nhỏ có lên chùa Thiếu Lâm học quyền cước, vì gia học của Mộ Dung chỉ có nội công và kiếm pháp. Do đó, khi Mộ Dung Thiên thành danh, liền được võ lâm phong làm Trung Nhạc đại kỳ nhân, dù núi Tung Sơn cách Lạc Dương đến hơn trăm dặm.
Nhưng Bạch Y Hầu lúc nào cũng nhớ mình là đệ tử tục gia của Thiếu Lâm Tự, nên đã gởi thiệp mời phái Thiếu Lâm đến dự. Tất nhiên là Thiện Hội Thiền Sư, cùng ba vị cao tăng thủ tòa, hoan hỉ có mặt. Giờ đây, nghe Chu Minh hỏi vậy, Thiện Võ đại sư thủ tòa La Hán Đường liền phụ hoạ:
- Đúng vậy! Bần tăng cũng đang thắc mắc về việc ấy.
Bạch Y Hầu đứng lên vui vẻ đáp:
- Hai mươi mốt năm trước, tại hạ giết gã cường đạo Lý Đại Hổ ở ngoại thành Trường An. Việc ấy võ lâm đểu đã biết. Chính vì vậy Ngọc Diện Bà Bà đã lén bắt thê tử của tại hạ về giam ở núi Tần Lĩnh. Nhưng Bà Bà còn chút nhân tính nên đã không sát hại và hành hạ họ, mà còn giúp chuyết thê nuôi dạy khuyển tử Hãn Thanh. Tháng trước, tại hạ được cao nhân chỉ giáo nên đã đến sơn cốc trong dãy Tần Lĩnh cứu được thê tử. Tiếc rằng Ngọc Diện Bà Bà đã nhanh chân đào tẩu, tại hạ thấy vợ con vẫn thang kiện nên chẳng nỡ truy sát, sự việc là như thế.
Mọi người nghe xong, ồ lên khen ngợi Bạch Y Hầu là người nhân đức.
Nhất Bất Thông mừng rỡ, ghé tai Hận Thiên thì thầm:
- Lão này ló đuôi chồn rồi, may mà lão phu từng gặp qua Lý Đại Hổ biết rõ gã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chẳng có liên quan gì đến Ngọc Diện Bà Bà.
Nói xong, Nhất Bất Thông đứng lên cười khanh khách:
- Ai bảo với Hầu gia rằng Lý Đại Hổ là con của Ngọc Diện Bà Bà Tiền Lan? Gã mồ côi song thân từ năm mười tuổi, cô dì chú bác cũng chẳng có người nào.
Nhất Bất Thông Chu Minh nổi tiếng thông thiên triệt địa, lời nói nặng như núi, khiến mọi người không thể không tin.
Bạch Y Hầu tái mặt gượng cười:
- Việc này do chuyết thê kể lại, chứ thực ra tại hạ cũng không hề biết.
Nam Cung Nhược Thủy nghiêm giọng:
- Chính Ngọc Diện Bà Bà đã nói thế và trong sơn cốc còn có cả bàn thờ Lý Đại Hổ. Đấy là bằng cớ xác thực hơn lời nói suông của các hạ.
Lão Hầu gia Mộ Dung Cẩn đã nhiều lần đàm đạo với Nhất Bất Thông, mến lão như con cháu, nên mở lời quở trách:
- Chu Minh. Sao trong ngày vui của bổn phủ, ngươi lại nói năng vu vơ như vậy?
Nhất Bất Thông chính sắc nói:
- Mong lão Hầu Gia bình tâm để vãn bối làm sáng tỏ việc này. Nếu không sự nghiệp họ Mộ Dung sẽ lọt vào tay người ngoài đấy.
Mộ Dung Cẩn biết rõ tài trí và bản chất của Nhất Bất Thông liền sinh lòng cảnh giác. Lão giả đò nổi giận, hầm hầm đứng lên, vừa đi vừa chỉ mặt Chu Minh mà mắng:
- Thật uổng công lão phu đã yêu mến mi. Sao dám đặt điểu để phá rối đại yến?
Lão Hầu Gia rảo bước, cứ như sắp đánh cho Nhất Bất Thông một trận, chỉ chốc lát đã đến sát bàn họ Chu. Nhưng lão lại không làm như vậy, mà chỉ bảo:
- Lão phu đứng đây giám sát, nếu ngươi không làm rõ ngọn ngành, đừng trách lão phu nóng tính.
Chu Minh giơ ngón cái khen:
- Lão bá tuy già mà rất thông minh, quyết đoán. Nếu người còn ở trên ấy, tính mạng khó bảo toàn.
Bạch Y Hầu lạnh lùng bảo:
- Chu Minh! Lão định bày trò gì đây?
Nhất Bất Thông không thèm đáp, chỉ Hận Thiên và nói với lão Hầu gia:
- Lão bá thử nhìn chàng trai trẻ này xem có phải dòng dõi Mộ Dung hay không?
Mộ Dung Cẩn giật mình chăm chú nhìn Hận Thiên. Dung mạo và cốt cánh tôn quí như rồng phụng của chàng khiến lão linh cảm rằng đây mới xứng là cháu nội của mình.
Lão hỏi lại Chu Minh:
- Té ra Chu hiền điệt cho rằng hai mẹ con đang đứng bên cạnh Thiên nhi là giả hay sao? Nhưng là vợ chồng sao có thể nhận lầm được?
Chu Minh cười mát:
- Có thể Mộ Dung Thiên kia cũng là kẻ giả mạo. Lão bá cứ an tọa, xem qua những kỷ vật rồi sẽ rõ trắng đen.
Mộ Dung Cẩn ngồi xuống cạnh Hận Thiên. Chàng liền mở hộp lễ vật, cho lão Hầu Gia xem những viên bảo ngọc và nữ trang mà thân mẫu để lại.
Tất nhiên, lão đã nhận ra ngay vì đó là những thứ mà Hầu tước lão phu nhân đã ban cho con dâu.
Nhưng là bậc lão thành thì thận trọng, Mộ Dung Cẩn nghiêm sắc mặt bảo Chu Minh:
- Vật thì đã đúng nhưng ngươi phải chứng minh cho rõ. Lão phu cho phép ngươi tra hỏi Thiên nhi và vợ con hắn.
Lão Hầu gia đứng lên, vòng tay dõng dạc nói:
- Kính cáo chư vị! Nhất Bất Thông Chu Minh có đem đến một số bằng chứng để khẳng định rằng thê tử của Mộ Dung Thiên là kẻ giả mạo. Lão phu vì tông môn họ Mộ Dung nên đã cho phép họ Chu chứng minh sự thực. Chư vị cứ bình tâm ăn uống, chờ xem kết quả.
Mọi người xôn xao bàn tán, không ngờ bữa tiệc hôm nay lại có nhiều trò éo le như vậy. Bạch Y Hầu biến sắc nói:
- Chẳng lẽ phụ thân không tin vào nhận xét của hài nhi?
Mộ Dung Cẩn cười nhạt:
- Vàng thật không sợ lửa, ngươi cứ đứng yên đó và trả lời những câu hỏi của họ Chu.
Nhất Bất Thông cao giọng:
- Trước tiên, lão phu sẽ xác định thân phận của Bạch Y Hầu, rồi sẽ đến hai người còn lại. Hiểu con không ai bằng cha, xin mời lão Hầu Gia kiểm tra Mộ Dung Thiên.
Mộ Dung Cẩn trầm giọng:
- Thiên nhi hãy đọc đoạn đầu khẩu quyết của chiêu cuối cùng trong pho Mộ Dung kiếm pháp.
Bạch Y Hầu mỉm cười đọc ngay. Lão Hầu Gia ngửa cổ cười dài, tiếng cười chất chứa lòng phẫn hận vô biên. Mộ Dung Cẩn quát vang:
- Gia nhân đâu! Vây chặt ba đứa ấy lại!
Bạch Y Hầu tái mặt biện bạch:
- Phụ thân sao vậy? Hài nhi đã đọc đúng từng chữ của chiêu Kiếm Tỏa Vân Thiên rồi mà?
Lão Hầu Gia cười khẩy:
- Võ lâm vẫn tưởng rằng Mộ Dung kiếm pháp chỉ có ba mươi sáu chiêu nhưng thực ra, còn một chiêu thứ ba mươi bảy, chỉ truyền cho trưởng tử, người sẽ được tập tước Hầu. Bọn ngươi bắt được Thiên nhi, học được kiếm pháp của họ Mộ Dung, nhưng lại bị y giấu đi chiêu cuối cùng.
Chợt lão gầm lên:
- Con trai ta đâu?
Biết âm mưu đã bại lộ, giả Bạch Y Hầu cười khanh khách:
- Mộ Dung Thiên giỏi lắm, trúng tà pháp mà vẫn lừa được bọn ta. Nhưng nếu lão Hầu Gia muốn y toàn mạng thì hãy đem tấm tàng trân đồ ra trao đổi.
Toàn trường chấn động, các cao thủ võ lâm vội đứng lên, quyết không để bọn tà ma đào thoát.
Nhưng thực ra, khi Bạch Y Hầu còn nằm trong tay phe đối phương, chẳng ai dám giết ba kẻ giả mạo kia cả.
Lão Hầu Gia biến sắc:
- Vì sao bọn ngươi biết họ Mộ Dung có tàng trân đồ mà bày ra độc kế này?
Giả Bạch Y Hầu chỉ cười mát. Nhất Bất Thông gằn giọng:
- Ngươi tưởng là giấu được vai trò nội gián của Lãng Đãng Hồng Nhan Chúc Tây Sương hay sao?
Mũi tên đã bắn trúng đích, gã gian tặc kia chấn động, ai cũng thấy rõ.
Lão Hầu Gia căm hận rít lên:
- Té ra là con tiện nhân ấy.
Hận Thiên thì hiếu kỳ nhìn nữ nhân kia mãi. Thứ nhất đó chính là dung mạo của thân mẫu chàng, thứ hai, chàng thắc mắc không hiểu hóa trang cách nào mà giống đến như vậy. Hận Thiên lại nhìn gã Mộ Dung Hãn Thanh giả.
Hình như gã đang sợ hãi nên bối rối gãi tai hoài.
Bàn tay gã vô tình đưa trúng vào giọt nắng chiếu xuyên qua cành lá. Da tay gã trắng muốt và hiện rõ một sợi lông màu đỏ hung.
Hình ảnh này khiến Hận Thiên xao xuyến, nhưng không sao nhớ ra được điều liên quan.
Lúc này, gã Bạch Y Hầu giả mạo đang bực bội hỏi:
- Lão Hầu Gia có ưng thuận điều kiện trao đổi ấy không? Xin cho tại hạ biết ý kiến.
Gương mặt hồng hào của Mộ Dung Cẩn giờ đây trắng bệch. Lão nhìn lên tàn cây, suy nghĩ đắn đo.
Phương trượng Thiếu Lâm tự hắng giọng:
- A Di Đà Phật. Nay đối phương đã nắm được sinh mệnh Bạch Y Hầu, theo thiển ý của lão nạp thì lão Hầu Gia nên chấp nhận điều kiện ấy. Mạng người quan trọng hơn cuả cải.
Mộ Dung Cẩn quay lại, thở dài:
- Thiền sư và chư vị đâu biết rằng tấm họa đồ kia quan hệ rất lớn đến vận mệnh Trung Nguyên. Nếu lọt vào tay kẻ ác thì võ lâm sẽ tanh máu, và không chừng giang sơn còn đổi chủ nữa.
Cử toa. chấn động đồng thanh nói:
- Mong lão Hầu Gia giải thích cho rõ hơn.
Mộ Dung Cẩn rầu rĩ kể:
- Rất xa ngoài khơi Đông Hải có một đảo rộng ước ngàn dặm vuông. Đấy là nơi tụ hội của linh khí đất trời, vàng ngọc rải đầy mặt đất, kỳ hoa dị thảo tốt tươi. Khi gia tổ phụ lạc đến nơi ấy thì dân trên đảo chỉ độ ngàn người. Họ rất chất phác, dễ sai khiến bởi những vật dụng đẹp mắt như gấm lụa, nữ trang, chén đĩa bằng sứ. Không hiểu thực phẩm nơi ấy có đặc tính gì mà toàn thân họ mọc một lớp vẩy rất bền chắc, đao kiếm không xâm phạm nổi. Về võ nghệ, dường như tổ tiên của họ là một đại cao thủ Trung Nguyên lưu lạc, nên đao pháp và khinh công của dân trên đảo rất cao cường, mỗi người đều có bản lĩnh ngang với một cao thủ nhất lưu ở Trung thổ. Do cuộc sống bán khai, họ rất hiếu sát khi uống rượu. Với tình trạng ấy, chỉ cần một kẻ có dã tâm đến được Bồng Lai Đảo, thu gom vàng ngọc, và đưa đám người man rợ kia vào Trung thổ, thử hỏi còn ai khống chế nổi nữa.
Mọi người ồ lên lo lắng, nhưng cũng có kẻ rất muốn đến được chống thần tiên ấy, vàng bao giờ cũng hấp dẫn.
Lão Hầu Gia bỗng cao giọng:
- Chính vì lẽ ấy, lão phu thà hy sinh ái tử, chứ không bao giờ giao tấm họa đồ kia. Hơn nữa, lão phu đã đem đến Bắc Kinh, gởi vào quốc khố, muốn lấy ra cũng chẳng dễ dàng.
Mấy trăm quan khách sững người trước quyết định của Lão Hầu Gia. Lão đã vì võ lâm, vì giang sơn mà hy sinh con trai, còn ai dám nói gì nữa?
Mộ Dung Cẩn trợn mắt:
- Giết ba kẻ ấy cho ta!
Lão ra lệnh giết chứ không bắt sống, tức là đã kiên quyết bỏ núm ruột của mình.
Đám gia nhân Hầu Phủ đều là con cháu họ Mộ Dung được chân truyền kiếm pháp nên bản lĩnh rất cao cường. họ đông đến gần trăm nên ba người kia khó mà toàn mạng.
Nhưng Hận Thiên lại đứng lên, ngăn lại:
- Khoan đã!
Bọn gia đinh ngơ ngác dừng tay nhìn chủ nhân. Lão Hầu Gia gật đầu, ý bảo họ nên chờ đợi. Rồi ông hỏi Hận Thiên:
- Thanh nhi có ý gì muốn nói?
Như vậy là lão Hầu Gia đã công nhận Hận Thiên là cháu nội của mình.
Chàng nghe lòng dâng lên niềm hạnh phúc khi tìm lại được người thân. Hận Thiên cung kính đáp:
- Bẩm nội tổ! Xin người cho phép tiểu tôn toàn quyền định việc sống chết của ba tên gian tặc.
Lão Hầu Gia cười bi thiết:
- Đựơc! Lão phu chấp thuận! Dầu tha hay giết bọn chúng thì cha ngươi cũng phải chết.
Quần hào nghe rõ cuộc đối thoại, biết chàng trai xinh đẹp kia là đứa con thất lạc của Bạch Y Hầu, liền nhốn nháo nhón chân để nhìn.
Mộ Dung Cẩn sang sảng nói:
- Kính cáo chư vị! Chàng thiếu niên này mới đích thực là Mộ Dung Hãn Thanh, hậu duệ của lão phu.
Mọi người cùng nói:
- Cung hỉ lão Hầu Gia.
Hận Thiên chờ họ im tiếng, rời bàn bước đến thềm sảnh, chỉ mặt gã thiếu niên kia và bảo:
- Ngươi đã dám giả mạo ta để xâm nhập Hầu Phủ, xem ra cũng lớn mật.
Ta thương người còn đang tuổi hoa niên, nên vẽ ra cho ngươi một con đường sống. Nếu ngươi qua được mười chiêu, ta sẽ xin với lão Hầu Gia, tha cho cả ba người.
Toàn trường thắc mắc, cho rằng vị tiểu Hầu Gia này muốn khoe tài.
Con sâu con kiến còn ham sống, huống hồ gì một người trẻ tuổi. Vì vậy, gã thiếu niên mừng rỡ chấp thuận ngay:
- Quân tử nhứt ngôn. Mong ngươi nhớ giữ lời.
Vòng vây lập tức dãn ra, để gã đi qua, đến khoảng sân đã được Nhất Bất Thông bảo mọi người dọn dẹp bàn ghế. Sắc diện của cặp gian tế trên thềm sáng lên đôi chút.
Họ cũng sợ chết nên rất hy vọng gã thiếu niên kia thắng cuộc, và họ tin vào bản lãnh của gã.
Chàng Mộ Dung Hãn Thanh giả kia ấp úng hỏi mượn một thanh trường kiếm. Cả ba kẻ gian này không ngờ âm mưu lại sớm bị bại lộ như vậy nên chẳng ai mang theo vũ khí. Hơn nữa, đây là tiệc mừng, họ là chủ nhà, đeo kiếm sao tiện.
Hận Thiên bảo một gã gia đinh nhà Mộ Dung:
- Phiền các hạ cho y mượn kiếm.
Người này vui vẻ nói:
- Xin tiểu Hầu Gia đừng xưng hô như vậy. Thuộc hạ chỉ ở vai cháu mà thôi.
Mộ Dung Cẩn là tộc trưởng, tuổi đã tám mươi nên chắt chít đều lớn tuổi hơn Hận Thiên.
Gã gia đinh nói xong, trao kiếm của mình cho gã thiếu niên. Hận Thiên mỉm cười thân ái với đối thủ:
- Tên ngươi là gì?
Gã rất hy vọng Hận Thiên thương tình mà nương tay, nên lẹ miệng đáp ngay:
- Ta là Tăng Thiếu Hoa.
Hận Thiên gật gù nói nhỏ:
- Ngươi thấy ở Lạc Dương này có vui hơn Vạn Hoa Cung hay không?
Thiếu Hoa gật đầu:
- Đương nhiên chốn phồn hoa phải vui hơn chốn núi rừng. Ýa! Sao công tử lại biết nhà ta ở vạn Hoa Cung?
Hận Thiên cười xòa, vung chưởng tấn công. Ngay chiêu đầu chàng đã dùng tuyệt học Kim Sa Ấn, tám đạo chưởng kình vàng nhạt liên tiếp vỗ vào lưới kiếm, chặn đứng chiêu thức của đối phương. Hận Thiên ập đến, thò tả hữu chụp lấy cổ tay cầm kiếm, và hữu thủ búng liền ba đạo chỉ phong vào các huyệt Bộ Lang, Đại Bao, Chương Môn của họ Tăng. Chàng trai tội nghiệp kia đứng trơ như phỗng, nhìn Hận Thiên bằng cặp mắt kinh hoàng.
Hận Thiên tước kiếm trên tay đối thủ cười bảo:
- Ta mời ngươi ở lại Lạc Dương chơi ít ngày, chờ phụ thân ngươi là Hồng Phát Ma Quân đến nhận về.
Quần hùng ồ lên sửng sốt, không ngờ Hận Thiên lại mau chóng tìm ra lai lịch kẻ thù.
Lão Hầu Gia gật gù, tỏ ý hài lòng trước tài trí của cháu đích tôn. Chàng thiếu niên này xem ra còn xuất chúng hơn cả cha là Mộ Dung Thiên.
Lúc này Tăng Thiếu Hoa buồn bã nói:
- Phụ thân ta là người tàn nhẫn, chưa chắc đã chịu đem Bạch Y Hầu đến chuộc ta ra. Người thà hy sinh con chứ không chịu bỏ tấm họa đồ quỉ quái kia.
Hận Thiên bỗng sinh lòng thương hại gã thiếu niên bất hạnh, dù gã là con của gã đại cừu. Được sự giáo huấn của bậc kỳ nhân là Bất Biệt Cư Sĩ, nên lòng chàng rất quang minh, thác lạc, không giận cá chém thớt bao giờ cả.
Hận Thiên dịu giọng:
- Ta sẽ không giam cầm ngươi mà chỉ tạm thời phong tỏa võ công và hứa sẽ đối xử tốt.
Thiếu Hoa mừng rỡ, nhìn chàng cảm kích, Hận Thiên ra sau lưng gã, điểm nhanh một số huyệt đạo. Thiếu Hoa cử động lại bình thường, nhưng chân khí ngưng trệ nơi đan điền, không luân chuyển được nữa.
Lão Mộ Dung Thiên giả cười nhạt:
- Nay ngươi đã bắt được thiếu Cung chủ làm con tin thì hãy thả hai chúng ta về bẩm báo lại.
Hận Thiên không đáp, bước đến chỉ mặt nữ nhân:
- Bà xuống đây cho ta xem thử gương mặt kia là thực hay giả. Nếu là thực ta sẽ vì vong hồn mẫu thân mà tha mạng cho.
Nữ nhân thoáng mừng, chạy xuống ngay. Vòng tay nói:
- Tiện nhân vốn là một tỳ nữ trong Vạn Hoa Cung, vì có dung mạo giống với lệnh đường nên được chọn để đóng vai này. Đây là mặt thực, chẳng hề giả trá chút nào cả.
Hận Thiên nghiêm giọng:
- Ta sẽ hỏi bà một câu, phải thành thực trả lời. Dẫu kết quả thế nào, ta cũng cho bà về Vạn Hoa Cung.
- Xin công tử cứ hỏi!
Hận Thiên chậm rãi nói:
- Bà hãy cho ta biết Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên còn sống hay đã chết?
Đôi mắt chàng sáng rực như nhìn thấu lòng người khiến nữ nhân kia sợ hãi cúi đầu đáp:
- Hầu Gia đã tự sát cách nay nửa năm rồi.
Cử tọa rú lên đau đớn và lão Hầu Gia gầm vang như mãnh hổ thọ thương:
- Thiên nhi!
Hận Thiên bùi ngùi nói:
- Ta cũng đoán ra điều ấy. Bạch Y Hầu còn đủ tỉnh táo để giấu khẩu quyết của chiêu Kiếm Tỏa Phong Vân, tất sẽ đủ sức tự sát.
Nữ nhân ấp úng:
- Mong tiểu Hầu Gia giữ lời cho!
Hận Thiên gật đầu:
- Bà yên tâm trở về Vạn Hoa Cung bảo Tăng lão quỉ mang xác Bạch Y Hầu đến chuộc Tăng Thiếu Hoa về. ã! Còn lão đứng kia thân phận thế nào?
Nữ nhân muốn thoát cho mau nên chẳng giấu:
- Ông ấy là mã Vịnh, Lục Hộ Pháp Vạn Hoa Cung.
Họ Mã tức giận mắng:
- Tiểu Quân! Sao ngươi dám đem việc của bổn cung tiết lộ ra?
Hận Thiên cười nhạt quát:
- Giết lão cho ta!
Bọn gia đinh nhà Mộ Dung lao vào như hổ đói. Mã Vịnh tay không dù võ công cao cường cũng chỉ chống đỡ được nửa khắc là bỏ mạng. Đám hán tử vừa bằm xác họ Mã vừa khóc thương Bạch Y Hầu.
Tiếng khóc của họ lan ra khắp Hầu phủ.
Lão Hầu Gia ngửa cổ cười thống thiết:
- Lão phu thề sẽ làm cỏ Vạn Hoa Cung.
Hận Thiên điềm đạm bảo Tiểu Quân:
- Bà đi đi!
Tiểu Quân cảm động hạ giọng thì thầm:
- Thiếu Hoa chỉ là đứa cháu mồ côi, được Cung chủ nhận làm con nuôi. Y không có tội tình gì, mong tiểu Hầu Gia rộng lượng với y.
Hận Thiên giật mình dặn lại:
- Bà đừng cho Ma Quân biết mình đã tiết lộ chuyện này.
Tiểu Quân gật đầu, quay gót rời khỏi Hầu phủ. Bà ta đi khỏi quan khách nhao nhao hiến kế:
- Sao lão Hầu Gia không cho người bám theo để biết địa điềm của Vạn Hoa Cung?
Mộ Dung Cẩn nghe có lý, nhìn Hận Thiên dọ hỏi. Lão khâm phục cháu nội mình sát đất nên tin rằng Hận Thiên đã có chủ ý.
Nhất Bất Thông vòng tay đáp thay:
- Bẩm lão bá! Vạn Hoa Cung thực hiện âm mưu vĩ đại này, tất phải cho người bám sát bên ngoài đề phòng Mã Vịnh làm phản, chiếm họa đồ làm của riêng. Nếu chúng ta theo dõi Tiểu Quân, bà sẽ bị bọn kia sát hại để bịt đầu mối, chúng ta cứ chờ nhận lại thi hài Bạch Y Hầu rồi sẽ tính chuyện báo thù.
Hận Thiên gật đầu tán thành:
- Nội tổ! Hài nhi cho rằng Chu đại thúc liệu việc rất chính xác.
Chàng bước đến kề tai Mộ Dung Cẩn nói nhỏ vài câu, lão Hầu Gia hài lòng gật đầu.
Hận Thiên nắm tay Tăng Thiếu Hoa đưa về bàn. Chàng ân cần bảo:
- Ngươi chưa được miếng nào, chắc đói lắm phải không?
Gã ngượng ngùng gật đầu. Hận Thiên ân cần gắp thức ăn và thúc giục Thiếu Hoa động đũa:
- Ún đi! Đừng rụt rè như con gái vậy.
Quan khách lần lượt đến chia buồn với lão Hầu Gia rồi cáo biệt. Tin Bạch Y Hầu chết thảm trong Vạn Hoa Cung đã khiến họ chẳng mặt mũi nào mà ở lại ăn uống nữa. Phương trượng Thiếu Lâm tự Thiện Hội thiền sư bùi ngùi nói:
- Bạch Y Hầu là đệ tử Thiếu Lâm. Bổn tự xin tận lực chờ lão Hầu Gia sai khiến.
Mộ Dung Cẩn nói vài lời khách sáo rồi tiễn khách ra cửa.
Hầu phủ đóng cửa im lìm suốt hai ngày, nhưng chẳng ai biết rằng các gia nhân nhà Mộ Dung đang âm thầm rời phủ, đi về hướng Tây. Họ giả làm khách thương hồ hoặc thường dân đang tất tả về quê ăn tết. Mục tiêu của họ là rặng Mẫu Sơn ở phía Bắc Tứ Xuyên.
Dĩ nhiên sau đó cả lão Hầu Gia, Nhất Bất Thông Chu Minh và Hận Thiên cũng đi theo. Họ khởi hành sau tỳ nữ Tiểu Quân hai ngày, nên chắc chắn bọn Vạn Hoa Cung không thể ngờ được. Hận Thiên đã không để lộ ra việc mình đã biết tọa lạc của Vạn Hoa Cung.
Khi nghe Tiểu Quân nói Tăng Thiếu Hoa chỉ là con mồi, Hận Thiên đã bàn với lão Hầu Gia và Chu Minh tiến hành cuộc tập kích thần tốc này. Hồng Phát Ma Quân sẽ không dại gì cho người mang xác Bạch Y Hầu đến Lạc Dương để đổi lấy đứa con hờ. Vì như thế sẽ mang tội sát hại vương công triều đình, dễ bị quan quân Tứ Xuyên vây bắt. Bọn đệ tử được cử đi chắc gì đã chịu được đòn tra tấn của nha môn, tất sẽ khai ra địa điểm Mẫu Sơn.
Nhất Bất Thông đã cực lực tán thưởng kế hoạch này, và bảo Hận Thiên cố thuyết phục Tăng Thiếu Hoa hỗ trợ. Gã biết rõ đường đi nước bước trong Vạn Hoa Cung, nên việc đột kích sẽ dễ dàng hơn.
Tăng Thiếu Hoa rất mến Hận Thiên và chán ghét người cha nuôi độc ác nên đã nhận lời. Gã chỉ bắt chàng hứa tha mạng cho Tăng phu nhân và những nữ tỳ vô tội trong Vạn Hoa Cung. Hận Thiên đã nhận lời.
Giữa tháng chạp, đoàn quân của Hầu phủ tiến vào rặng Mẫu Sơn. Theo sau là ngàn quân bản hộ của Tứ Xuyên. Họ đi cách ba dặm để không bị nghi ngờ.
Do có sự chỉ điểm của Tăng Thiếu Hoa nên các trạm cảnh giới từ xa của Vạn Hoa Cung đều bị tiêu diệt gọn. Hơn trăm cao thủ nhà Mộ Dung áp sát cửa sơn cốc mà bên trong không hề hay biết.
Vạn Hoa Cung đang tất bật chuẩn bị sửa sang, dọn dẹp để đón năm mới.
Khắp sơn cốc muôn hoa khoe sắc, khí hậu thật ấm áp khác thường.
Khi họ nhận ra nguy cơ thì đã quá muộn, sơn cốc tràn ngập những kiếm thủ mặc áo choàng lông trắng muốt, chém giết không nương tay. Lại thêm quân triều đình ập vào, trống lệnh vang trời khiến lòng người khiếp đảm.
Bọn đệ tử Vạn Hoa Cung dù rất kiên dũng nhưng lại không vũ khí nên bị giết rất nhanh. Hơn nửa số quì xuống xin hàng, nhất là bọn nữ nhân yếu đuối.
Bọn Hận Thiên xông vào tòa đại sảnh ở cuối sơn cốc để tìm Hồng Phát Ma Quân thì gặp lão chạy ra.
Màu tóc đỏ hung trên đầu lão khiến lửa thù trong lòng Hận thiên bốc lên cao ngùn ngụt. Chàng trợn mắt gầm vang:
- Tăng lão quỉ, hãy đền mạnh song thân ta.
Dứt lời, chàng vung kiếm xuất chiêu Tùng Phong Trạch Liễu, lao đến như ánh chớp. Hồng Phát Ma Quân nhếch mép cười ngạo nghễ, vung kiếm đón chiêu. Công lực lão thâm hậu khôn lường, chiêu thức lại quỉ dị vô song, nên đã chận đứng được đường kiếm của đối phương. Hận Thiên nghe tay tê chồn, tự lượng sức lực không bằng, đành cố bình tâm giao đấu. Chàng liên tiếp tung ra những chiêu kiếm ảo diệu, chờ cơ hội. Sở học của Bất Biệt Cư Sĩ bao la như biển nên pho Nhất Nguyên Kiếm Pháp tinh kỳ, bác tạp khôn lường. Tên chiêu thức chỉ đặt ra để dạy Hận Thiên cho dễ chứ hoàn toàn không quan trọng. Khi chàng đạt đến mức tùy tâm nhi phát thì biến hóa ra cả ngàn chiêu.
Hận Thiên thông minh tuyệt thế lại có thiên bẩm võ học rất cao, nhờ vậy đã tiếp thu trọn vẹn pho Nhất Nguyên Tâm Kiếm. Nhưng chàng còn trẻ nên kém phần khí lực, đấy là việc đương nhiên. Hồng Phát Ma Quân cũng là một kiếm sĩ nên rất hiếu kỳ trước pho kiếm pháp vô thượng, đánh cầm chừng để tìm hiểu lộ số, Nhưng vốn liếng của Hận Thiên dường như vô hạn. Chẳng chiêu nào giống chiêu nào, khiến lão hoang mang thất vọng.
Ma Quân tấn mạnh một chiêu sấm sét, đẩy lùi đối thủ rồi gằn giọng:
- Tiểu oa nhi! Bổn Cung chủ sẽ hóa kiếp ngươi, để sớm được đoàn tụ với song thân.
Dứt lời, lão vung kếim hóa thành muôn ngàn kiếm ảnh, chụp lấy Hận Thiên. Lão Hầu Gia kinh hãi xông đến tấn công vào mé tả để cứu cháu nội.
Mộ Dung kiếm pháp đã bị Ma Quân học hỏi, chỉ còn có chiêu thứ ba mươi bảy. Vì vậy Mộ Dung Cẩn dùng ngay chiêu kiếm ấy để tập kích.
Hồng Phát Ma Quân trợn mắt cử tả thủ, vỗ ra một đạo chưởng kình xanh nhạt, hùng mạnh tuyệt luân, chặn đứng đường kiếm của đối phương. Lão Hầu Gia quen cảnh an nhàn, chỉ luyện võ để dưỡng sinh nên công lực thụt lùi chứ không tăng theo tuổi tác.
Dẫu sao hành động của Mộ Dung Cẩn cũng tạo cơ hội cho Hận Thiên.
Chàng ôm kiếm lao vút vào kiếm ảnh, xuất chiêu Tử Sinh Bất Diệt. Đây là chiêu đổi mạng, gác ngoài việc sống chết của bản thân, chỉ có công mà không thủ, do vậy, khí thế cực kỳ mãnh liệt.
Mũi kiếm của Hận Thiên xuyên qua kiếm ảnh, đâm thủng ngực phải đối phương nhưng bản thân cũng trúng ba kiếm vào ngực và đùi. Ma Quân đau đớn rên rỉ, tung mình đào tẩu vào đại sảnh. Hận Thiên nén đau, xạ theo một mũi Sách Hồn Tiễn, cắm ngập vào lưng kẻ thù. Đòn tấn công bất ngờ này đã thành công mĩ mãn. Chất kỳ độc của Vũ Di phái nhanh chóng lan vào tâm mạch khiến chân khí Ma Quân bế tắc, chỉ chạy thêm được vài trượng là ngã quị. Hận Thiên khập khiễng bước đến, nghiến răng:
- Tăng Dương! Ngươi hãm hại song thân ta phải chia lìa, rồi chết thảm nơi rừng núi. Thiên mỗ sẽ phân thây ngươi ra!
Chàng nhớ đến tử trạng của mẫu thân nên nhát kiếm đầu tiên đâm vào hạ thể đối phương. Tăng Dương đau đớn rú lên thảm khốc, như bị heo chọc tiết, máu hồng phun thành vòi.
Nhưng nhát thứ hai lại chặt phăng thủ cấp, giúp lão sớm lìa đời chứ không tiếp tục hành hạ nữa. Lòng nhân hậu của chàng đã thắng được lửa hận thù man rợ.
Dù sức chịu đựng hơn hẳn người thường, nhờ luyện công phu Thiên Ma Bách Luyện. Hận Thiên cũng lảo đảo vì mất máu.
Lão Hầu Gia kinh hãi chạy đến đỡ cháu nội:
- Thanh nhi có sao không?
Lão đặt chàng xuống mặt cỏ, rạch nát y phục để xem thương tích. Lão ngạc nhiên khi thấy miệng vết thương không mở rộng mà khép lại như thể da thịt Hận Thiên có tính đàn hồi.
Cuộc chiến trong cốc cũng đã kết thúc, Nhất Bất Thông và các môn nhân nhà Mộ Dung chạy đến vây quanh.
Họ Chu quì xuống, rắc thuốc Kim Sang rồi băng bó cho Hận Thiên. Lão còn cho chàng uống năm viên linh đan rất thơm tho. Xong xuôi, Chu Minh xoa tay hỉ hả:
- Lão bá yên tâm! Tiểu Hầu Gia luyện môn ngoại công đặc dị của Vũ Di phái từ năm sáu tuổi nên cơ thể khác với thường nhân, chỉ mấy ngày sau là lành lặn như xưa.
Hận Thiên đã tỉnh lại, mỉm cười hỏi thăm:
- Chu đại thúc! Chẳng hay có tìm được Lãng Đãng Hồng Nhan Chúc Tây Sương hay không?
Chu Minh nhăn mặt:
- Mụ tiện nhân ấy không có mặt ở đây. Tăng phu nhân khai rằng hình như Chúc Tây Sương đi Hà Bắc đã hơn tháng nay. Bà còn nói thêm rằng sau lưng Hồng Phát Ma Quân còn có một nhân vật chủ nữa nhưng không rõ là ai!
Lão Hầu Gia ra lệnh rút quân, dặn thêm viên lãnh binh Tứ Xuyên áp giải hàng binh về đại lao, và không được đụng đến bọn nữ nhân trong Vạn Hoa Cung.
Họ về đến Lạc Dương đúng ngày mùng tám Tết, không vui xuân mà tổ chức tang lễ cho Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên.
Lần này thì hào kiệt bốn phương lũ lượt kếo đến, trước là dự tang lễ, sau để biết mặt tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh, người đã giết chết Hồng Phát Ma Quân và phá tan Vạn Hoa Cung.
Hồi 5
Lâu Thượng Ngộ Oan Gia
Lộ Bán Phùng Thiết Địch
Cuối tháng giêng, Hãn Thanh tức Hận Thiên để lại một phong thư tạ lỗi với lão Hầu gia, rồi âm thầm lên đường đi Trực Cô. Chàng tin rằng Hải Hà Tiên Tử mới là kẻ thù đích thực. Hơn nữa Lăng Đăng Hồng Nhan Chúc Tây Sương cũng là người đáng phải đền tội.
Theo lời kể của Tăng phu nhân Cung chủ phu nhân Vạn Hoa Cung thì năm xưa, Chúc Tây Sương nhân lúc tiệc thôi nôi vừa tàn, bỏ xuân dược vào trà, cho Bạch Y Hầu uống, rồi gầy cuộc ái ân trong thư phòng. Mụ biết chắc Phùng Lệ Phi không thấy trượng phu đâu sẽ đi tìm. Quả nhiên, độc kế thành công, Mông Diện La Sát đến nơi chứng kiến cảnh tượng phượng đảo loan điên, nổi giận bỏ đi.
Bạch Y Hầu ngủ đến sáng mới tỉnh giấc, không nhớ gì chuyện đêm qua, tưởng thê tử bị bắt cóc nên đi tìm, và sa vào tay Vạn Hoa Cung. Lần này cũng chính bàn tay Chúc Tây Sương hạ thủ bằng mê dược.
Nhắc lại, lão Hầu gia thấy cháu đích tôn đi mất, lòng vô cùng lo lắng, cho gọi Nhất Bất Thông Chu Minh đến. Họ Chu gãi đầu suy nghĩ rồi nói:
- Lão bá! Vãn bối cho rằng Tiểu Hầu Gia đã đi Hà Bắc để tìm Lãng Đãng Hồng Nhan. Chúng ta cứ cho người kiểm tra các cửa thành sẽ rõ.
Đám môn nhân nhà Mộ Dung lập tức được lệnh bủa ra điều tra. Quả thực Tiểu Hầu Gia đã ra bằng cửa Đông thành, đi về hướng Trịnh Châu.
Mộ Dung Cẩn liền chọn ra năm mươi kiếm thủ hạng nhất, bắt Nhất Bất Thông đưa họ đi theo để hỗ trợ cháu cưng của mình.
Để khích lệ lòng người, lão Hầu gia thưởng trước cho mỗi môn nhân ngàn lượng bạc, ai cũng hoan hỉ, thề sẽ xả thân vì Tiểu Hầu Gia (Tác giả xin nói sơ qua về lai lịch của giòng họ Mộ Dung. Cái tên Mộ Dung nghe đẹp đẽ và êm tai nhưng lại không phải là người Hán chính gốc Cửu Châu. Họ chính là một chi phái của rợ Tiên Ty, xuất xứ từ vùng núi Tiên Ty ở Nội Mông. Đầu thời Đông Hán, chi phái Mộ Dungcòn gọi là Thổ Cốc hồn từ miền tây Liêu Minh ngày nay, di chuyển sang phía tây, đến vùng ém Sơn, Nội Mông. Kế đó lại dời đến giữa vùng Cam Túc, Thanh Hải. Trải qua hơn ba trăm năm, sau khi bị Thổ Phồn tiêu diệt, phần lớn người Mộ Dung lưu tán khắp nơi và bị đồng hóa thành người Hán) Do vậy, khi cao tổ của lão Hầu gia Mộ Dung Cẩn dựng được sự nghiệp thì có rất nhiều người đồng tộc đến nương tựa. Đám môn nhân này là cháu chắt của những người ấy nên hết dạ trung thành với lão Hầu Gia. Người Tiên Ty mang cả một phần huyết thống hung nô, tính tình cương trực, dũng cảm, không biết sợ chết là gì. Ngoài kiếm pháp, họ còn giỏi cả thuật kỵ mã và xạ tiễn.
Nhất Bất Thông cũng lo lắng cho Hãn Thanh, liền đốc thúc đám kiếm thủ Mộ Dung phi nước đại. Nhưng cước trình của quái mã rất nhanh nên họ khó mà bắt kịp được.
Trở lại với Hãn Thanh, quả thực là đang đi đến Trịnh Châu, rồi từ đấy ngược lên hướng Bắc.
Kể từ nay mong độc giả làm quen với cái tên mới của Hận Thiên. Thực ra, chính bản thân chàng trai cũng lạ lẫm với bốn chữ Mộ Dung Hãn Thanh.
Chàng đã mang tên Nam Cung Hận Thiên suốt mười tám năm ròng, giờ phải thay tên đổi họ, lòng thoáng bâng khuâng, tưởng như đánh mất một vật gì thân thiết.
Hãn Thanh có nghĩa đen là mồ hôi của tre xanh, nghĩa bóng là sử sách.
Người xưa chép sử vào thẻ tre nên trong bài thơ Qua Sông Linh Đinh, Văn Thiên Từơng thời Nam Tống đã có hai câu thơ:
Nhân Sinh tự cổ Thùy Vô Tử Kưu thủ đan tâm chiếu Hãn Thanh!
Dịch thơ:
Người đời sau trứơc ai không chết.
Cốt để lòng son rạng sử xanh.
Lão hầu gia Mộ Dung Cẩn đặt cho cháu nội đích tôn cái tên Hãn Thanh, ý mong mỏi chàng sẽ khiến danh tiếng họ Mộ Dung lưu danh sử sách.
"Chim có tổ, người có tông" Hận Thiên đành phải trở lại là Hãn Thanh.
Là đồng thời phải chấp nhận thân phận Tiểu Hầu Gia.
Nhưng do chịu ảnh hưởng của Bất Biệt Cư Sĩ, Hãn Thanh xem danh lợi như phù vân, vẫn áo vải thô, tóc búi suông, chẳng có kim khôi tượng trưng cho chức tước. Trưa hôm sau, Hãn Thanh đến Trịnh Châu. Chàng đủ thời gian vượt Hoàng Hà vào buổi chiều nên ghé vào phạn điếm dùng cơm. Lần đầu xuất đạo, Hãn Thanh chỉ dựa vào kinh nghiệm của mẫu thân mà phiêu bạt.
Chàng tìm kiếm Túy Tiên Lâu, vì ngày xưa Mông Diện La Sát đã từng ghé qua.
Phùng Nương là người sánh ăn, thích thưởng thức những món ngon vật lạ các nơi. Đến đâu bà cũng chọn những món đặc biệt của địa phương ấy. Vô tình Hãn Thanh lại trở thành người lịch duyệt.
Chàng gọi vài món và một bầu rượu nhỏ. Sau khi giết được Hồng Phát Ma Quân, trả thù cho thân mẫu, lòng Hãn Thanh thư thái hơn trước. Mười mấy năm xem Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên là cừu nhân, đột nhiên phải gọi là cha, làm sao chàng có cảm tình ngay với lão được? Nhưng phận làm con, chàng phải tìm cho được Lãng Đãng Hồng Nhan và Hải Hà Tiên Tử.
Đoạn hạ du sông Hoàng Hà được xem như thuộc miền Hoa Bắc. Tuy khí hậu ở đất Trịnh Châu này có ấm hơn Sơn Tây một chút, nhưng vào thời điểm đầu tháng hai, tuyết vẫn còn rơi lất phất từng hạt nhỏ như hoa ngâu. Mặt trời xuân chỉ nhạt nhòa. Dù đã gần đúng Ngọ.
Trịnh Châu nằm trên đường trục chính Bắc Nam, nên lượng người ngựa qua lại rất đông. Dần dần, Túy Tiên Lâu chật ních người, và có khá nhiều khách võ lâm. Một số nhận ra Tiểu Hầu Gia nhà Mộ Dung, kính cẩn chào hỏi.
Hãn Thanh gượng cười đáp lễ. Thấy mặt chàng buồn rười rượi, họ không dám đến ngồi chung bàn.
Giang hồ cũng có qui củ, bề bậc riêng của nó. Chẳng phải ai cũng có thể mạo muội ngồi ngang hàng của hậu duệ Bạch Y Hầu.
Tiếng yến oanh ríu rít trên những tàng cây trong vườn quanh tửu lầu càng khiến Hãn Thanh nhớ Tiểu Thuần vô hạn. Chàng miên man tưởng nhớ, vô tình nâng chén liên tục, uống hết hai cân rượu phần thượng hạng mà không hay biết. Men rượu thấm vào huyết quản, cơ thể lâng lâng và nỗi sầu trong dạ cũng bốc cao. Hãn Thanh ngà say, buột miệng ngâm nho nhỏ:
Chi Thượng Lưu oanh Hoà Lệ Văn.
Tân Đề ngân gián Cựu đề ngân.
Nhất Xuân ngư nhạn vô tiêu tức, Thiên lý quan san đáo mộng hồn.
Vô nhất ngữ. Đối phương tôn.
An trường đoạn đáo hoàng hôn.
Phủ năng chích đắc đăng nhi liễn.
Vũ đã lê hoa thấm bế môn.
(Dịch thơ):
Nghe tiếng oanh ca lệ nhỏ ròng Lệ nay dồn với lệ xưa đông Một xuân chim cá không tin tức Nghìn dăm chiêm bao mong gặp hồn Ngồi lặng lẽ, nhấp chén nồng Nỗi sầu phơi trải đến hoàng hôn Vừa lúc chong đèn cửa cài kín Hoa lê tầm tã trận mưa thôn.
Đây là một bài từ theo điệu Già Cô Thiên của Hoàng Hải Tiên Sinh Tần Quán thời Bắc Tống. Năm năm học nghệ với Bất Biệt Cư Sĩ, Hãn Thanh đã quen với thi phú, thường củng ân sư ngâm vịnh. Cao Hán Ngọc không muốn đồ đệ cưng của mình chỉ là một kẻ võ biền thô lỗ nên đã khuyến khích chàng tìm hiểu thi thơ, từ phú. Hãn Thanh ngâm rất khẽ, nào ngờ lại có người nghe được mà tán thưởng:
- Không ngờ hậu duệ của Mộ Dung Thiên lại là một bậc tao nhân mặc khách.
Giọng nói của người ấy vang như sấm rền khiến ai cũng phải giật bắn mình. Hãn Thanh quay về hướng ấy, phát hiện một lão nhân râu tóc bạc phơ mặc đạo bào trắng thêu hình Thái Cực thân hình nhỏ bé. Mặt lão đỏ rực như gà chọi, mắt lộ, mũi lân, môi mỏng.
Đám hào khách trong quán xì xầm:
- Tây Nhạc lão quái Hàn Thế Đức.
Lúc này, lão đạo sĩ đã đến bên bàn Hãn Thanh, đứng nhìn chàng gật gù, tỏ vẻ hài lòng:
- Cốt cách, dung mạo thế này bảo sao con tiểu nha đầu Hồng Hương không ốm nặng vì tương tư?
Hãn Thanh thủ lễ, đứng lên vòng tay:
- Vãn bối xin bái kiến Chân nhân!
(Núi Hoa Sơn vốn là cứ địa của một chi phái Toàn Chân, do Lục Tử Hách Đại Thông sáng lập, còn Tây Nhạc lão quái lại là đệ tử của chi Phi Long Môn chủ Khưu Xứ Cơ. Khi phái Long Môn mai một thì Hoa Sơn vẫn trường tồn. Vì vậy, Hàn Thế Đức đến tu luyện một trong năm đỉnh núi của rặng Hoa Sơng, nổi danh Tây Nhạc lão quái. Thực ra lão có hiệu là Động Thiên Chân Nhân).
Hàn lão quái nghiêm giọng:
- Mộ Dung tiểu tử! Đồ đệ yêu của bần đạo, Hà Hồng Hương, là một giai nhân sắc nước hương trời, bộ ngươi đui mù hay sao mà không chịu lấy? Mau theo ta về Tinh Châu để bàn bạc việc cưới hỏi!
Thực khách xôn xao việc Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương lại nặng tình với Tiểu Hầu Gia, mà bị chàng chê bỏ.
Hãn Thanh nghe giọng điệu ngang ngược, bức người của lão quái, uất ức đáp:
- Tại hạ cũng biết Hà tiểu thư là nữ nhân hiếm có, nhưng lòng này chẳng hề có tình cảm với nàng, sao có thể khiêm cưỡng được? Chẳng lẽ chân nhân muốn bức hôn?
Tây Nhạc lão quái cười hô hố:
- Bần đạo là người chỉ biết làm theo ý mình, bất chấp lòng dạ người khác.
Ngươi khôn hồn thì mau mau tuân lệnh.
Hãn Thanh thắc mắc:
- Nếu tại hạ không đi thì sao?
Hàn lão quái cười nhạt:
- Tiểu tử tưởng giết được Hồng Phát Ma Quân là có thể lên mặt với ta hay sao? Chẳng qua, ngươi đắc thủ cũng nhờ sự hỗ trợ của lão Hầu Gia, và thủ đoạn ám toán mà thôi.
Hãn Thanh giật mình suy nghĩ, không hiểu vì sao lão đạo sĩ này lại biết rõ nội tình cuộc chiến hôm ấy? Bọn môn nhân nhà Mộ Dung tuyệt đối chẳng bao giờ tiết lộ ra ngoài.
Đám hào khách võ lâm ồ lên, hàm ý chê bai Tiểu Hầu Gia thiếu quang minh chính đại.
Hãn Thanh nhớ đến lời kể của nghĩa phụ Nam Nhạc Nhất tà, hiểu rằng sự việc này có liên quan đến Hải Hà Tiên Tử. Chàng điềm nhiên đáp:
- Tiên mẫu là Mông Diện La Sát, nổi tiếng võ lâm về thủ pháp Sách Hồn Phi Tiễn. Tại hạ là con, dùng chính vũ khí ấy mà báo thù, xin hỏi sai ở chỗ nào?
Thực khách nghe có lý, gật gù tán thưởng. Trong võ lâm có khá nhiều người thành danh bằng công phu ám khí. Khi giao đấu với họ, đối phương phải đề phòng, không thể gọi là ám toán được.
Tây Nhạc lão quái cứng họng, gầm lên:
- Đừng xảo ngôn! Ta chẳng xem mấy mũi Sách Hồn Tiễn kia ra gì cả!
Mông Diện La Sát là cái thá gì.
Nghe lão khinh miệt thân mẫu của mình, sát khí phủ mờ gương mặt tuấn tú, Hãn Thanh gằn giọng:
- Lão cứ bước ra ngoài sân, ta sẽ cho nếm mùi Sách Hồn Tiễn.
Hàn lão quái cười hăng hắc:
- Tốt lắm! Bần đạo mà không bắt sống được ngươi thì không đáng là Ngũ Nhạc Đại Kỳ Nhân.
Hãn Thanh mỉa mai:
- Một kẻ núp váy đàn bà như lão có tư cách gì mà nhận danh hiệu Đại Kỳ Nhân?
Hàn Thế Đức biến sắc:
- Sao ngươi dám nói vậy?
Hãn Thanh cười rộ:
- Tại hạ còn biết người đàn bà kia là Hải Hà Tiên Tử Mai Thanh Phố, lão chối cãi được chăng?
Hàn lão quái giận dữ hỏi:
- Ai đã tiết lộ việc này?
Hãn Thanh nghĩ đến an nguy của nghĩa phụ liền đáp khéo:
- Đồ đệ của Bất Biệt Cư Sĩ chẳng lẽ lại không biết chuyện cỏn con này?
Tây Nhạc lão quái chấn động:
- Té ra Cao Hán Ngọc còn sống sao?
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Lão hãy về bẩm báo với Hải Hà Tiên Tử rằng gia sư đã tiên đoán việc mụ ta tái xuất. Lần này người sẽ chặt nốt cánh tay còn lại của mụ.
Đám hào khách hân hoan, không ngờ lại nghe được một bí mật động trời. Họ bắt đầu nhìn Tây Nhạc lão quái bằng con mắt khác.
Hàn Chân Nhân hổ thẹn đến run người, gầm lên:
- Ngươi đã nói quá nhiều nên không còn đường sống nữa.
Dứt lời lão vung chưởng đánh liền. Cửu ém Thần Chưởng tuy phát ra nhẹ nhàng êm thấm nhưng lại độc ác phi thường. Hãn Thanh không đón chiêu, tung mình qua lan can. Rơi xuống sân gạch rộng rãi.
Tây Nhạc lão quái lập tức lướt theo, từ trên cao giáng xuống tám đạo chưởng kình mãnh liệt. Hãn Thanh tự biết mình công lực thua kém, nên đảo bước tránh chiêu.
Pho Cửu Cung Mê Bộ này chính là tuyệt học của Bất Biệt Cư Sĩ truyền cho Vũ Di Tiên Nương, nên cực kỳ ảo diệu, giúp chàng dễ dàng thoát khỏi phạm vi khống chế của chưởng kia.
Chưởng phong đánh hụt mục tiêu vào mặt sân gạch, vang lên tiếng nổ kinh hồn, đập vỡ những viên gạch và ấn chúng lún xuống.
Thực khách đã kéo cả ra lan can quan chiến, thấy uy lực của Cửu ém Thần Chưởng, thầm lo lắng cho Tiểu Hầu Gia.
Hãn Thanh vẫn điềm nhiên nắm chặt chuôi kiếm, dựng đứng trước ngực, lướt theo phương vị của Cửu Cung, chờ cơ hội xuất thủ.
Thanh trường kiếm trên tay chàng chính là bảo vật gia truyền của dòng họ Mộ Dung. Lão hộ pháp Vạn Hoa Cung đã đem về Hầu Phủ khi giả làm Bạch Y Hầu. Theo gia qui, thanh Hầu Tước Kiếm này đương nhiên thuộc về Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh.
Chàng đã dùng nó để chiến đấu với Hồng Phát Ma Quân, và giờ đây mang theo bên mình. Sau lần đụng độ Phi Phủ trận của Phù Dung Hội, Hãn Thanh biết mình chưa đủ sức biến ngắn thành dài như sư phụ. Đối với Bất Biệt Cư Sĩ, trường đoản chẳng khác nhau.
Tây Nhạc lão quái xuất liền chín chiêu mà không đánh trúng đối phương, liền đổi đấu pháp, sử dụng hư chiêu nhiều hơn, để tiết kiệm khí lực.
Cửu ém Thần Chưởng lợi hại ở chỗ chưởng kình phát ra êm ái, khi đến gần thì đối thủ mới hay biết.
Nhưng Tây Nhạc lão quái quên mất rằng còn có những bông tuyết trong không gian chung quanh, giúp Hãn Thanh nhận ra hư thực. Chàng thấy lão vung chưởng mà màn mưa tuyết không xao động, liền rung kiếm lao vào như ánh chớp, dùng phép ngự kiếm xuất chiêu Sở Phách Nan Hồi ( Hồn nước Sở khó về ) Tây Nhạc lão quái biến sắc rút tay về vỗ liền sáu chưởng. Nhưng Hãn Thanh đã chiếm được tiên cơ, tranh thủ giây phút ngắn ngủi ấy mà nhập nội.
Kiếm kình xé nát chưởng phong dũng mãnh ập đến, dù hư lực của Cửu ém Thần Chưởng đã khiến Hãn Thanh thọ thương. Công phu Thiên Ma Bách Luyện đã giúp chàng chịu đựng, vượt qua lưới chưởng, đâm thủng ngực đối phương.
Hàn lão quái kinh hoàng đảo bộ lùi nhanh. Vì vậy, vết thương không sâu.
Nhưng từ tay tả Hãn Thanh một mũi Sách Hồn Tiễn đã bay ra cắm vào đùi kẻ địch. Lão quái nghe vết thương tê dại, tung mình đào tẩu mất dạng.
Khách quan chiến reo hò như sấm dậy, hoan hô Tiểu Hầu Gia. Chàng trai mười chín tuổi này đã đả thương một trong Ngũ Đại Kỳ Nhân rất oanh liệt.
Hãn Thanh lau máu miệng, nuốt vội bốn viên linh đan, rồi ngồi xuống vận khí trị thương.
Hành động rất mạo hiểm vì ngay lúc này, nếu có kẻ tấn công thì chàng khó có thoát chết. Nhưng hàn khí của Cửu ém Thần Chưởng đã sắp lan vào đến tâm mạch, Hãn Thanh không thể chần chừ. Nhất nguyên chân khí trị được mọi chưởng thương, nhưng không được quá trễ.
Không may rằng quả thực có kẻ địch nhân dịp này mà lấy mạng Hãn Thanh. Từ ngoài tường vây có hai bóng người nhảy vào. Y phục của họ là thường dân nhưng thanh lưỡng nguyệt phủ trên tay đã tố cáo lai lịch Phù Dung Hội.
Chì cần nhìn ánh mắt đầy sát khí và nụ cười hiểm độc trên môi họ, đám thực khách cũng đoán ra ý định của hai sát thủ kia, lòng thầm lo lắng cho Tiểu Hầu Gia. Nhưng gây hấn với Phù Dung Hội là việc chẳng phải ai cũng dám làm.
Chỉ còn ba trượng nữa là tính mạng Hãn Thanh khó vãn hồi. Nào ngờ, trong tình thế chỉ mành treo chuông ấy, có người từ trên lan can lầu nhảy xuống, đứng cạnh Hãn Thanh, rút tiểu kiếm thủ thế.
Đó là một hán tử có thân hình tầm thước, áo lông cừu đen, nón rộng vành sùm sụp che kín nửa trên gương mặt. Thanh kiếm trên tay gã dài hơn bình thường độ một gang, và bản cũng nhỏ hơn.
Thanh danh của người võ lâm thường gắn liền với vũ khí. Vì vậy đám hào khách trên lầu ồ lên:
- Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ!
Họ én là một tay độc hành đại đạo khét tiếng vùng Thiểm Bắc, tuổi gần bốn mươi, kiếm pháp cực kỳ độc ác, và cái tâm cũng tàn nhẫn vô song. Danh hiệu Thương Tâm Kiếm kia là do gã tự xưng trong những ngày xuất đạo không hiểu để ám chỉ cõi lòng tan nát của mình, hay hàm ý rằng kiếm của gã thường đâm thủng tim người khác?
Có thể là cả hai nghĩa vì đôi mắt Thương Tâm Kiếm chỉ còn có một con, và chân gã bị thọt, bước thấp bước cao. Hai điểm tàn phế ấy cộng với sắc diện lạnh như băng, đã nói lên rằng lòng gã mang nặng mối oan cừu với ai đó.
Giờ đây, từ dưới vành nón rộng, con mắt độc nhất của én Khiếu Hồ đang bắn ra những tia sát khí, nhìn bọn sát thủ Phù Dung.
Hai gã này đã biết tiếng Thương Tâm Kiếm, sinh lòng ái ngại, dừng bước.
Gã mé tả gằn giọng:
- én Khiếu Hồ! Mong các hạ hãy suy nghĩ kỹ trước khi can thiệp vào việc riêng của Phù Dung Hội.
Thương Tâm Kiếm cười nhạt:
- Tại hạ cũng đang có chuyện muốn thanh toán với gã tiểu tử này, và là người đến trước. Nhị vị muốn gì cũng phải chờ tại hạ giải quyết xong việc của mình cái đã.
Lời nói của họ én rất hợp lý, vì gã có mặt bên cạnh Hãn Thanh trước đối phương. Hai tên sát thủ nhìn nhau phân vân. Gã mé hữu lại nói:
- Nếu én các hạ cũng có ý muốn giết tiểu tử này thì bổn hội xin nhường ra tay trước.
Thương Tâm Kiếm thản nhiên đáp:
- Xin cảm tạ! Tại hạ chờ y hành công sẽ ra tay cũng không muộn.
Quần hào ồ lên, bàn tán xem họ én có oán thù gì với dòng họ Mộ Dung.
Phải chăng gã từng bị Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên biến thành tàn tật?
Hai gã Phù Dung bối rối:
- Võ công của Mộ Dung tiểu tử cao siêu quán thế, đã thương cả Tay Nhạc lão quái. Nếu để y hồi phục thì ai mà giết nổi?
Thương Tâm Kiếm gật gù:
- Tại hạ không có thói quen đánh lén, đành phải chịu vậy. Người kiếm sĩ thà chết chứ không muối mặt dùng thủ đoạn hạ lưu.
Thực khách vỗ tay tán thưởng nhân cách của họ én, ác cảm cũng giảm đi nhiều.
Hai tên kia giận tím mặt, thì thầm bàn tán, và một gã rút còi sắt thổi mạnh. ém thanh cao vút kia bay đi rất xa, có lẽ là để gọi tiếp viện.
Nửa khắc sau, có thêm mười tay búa nữa xuất hiện.Y phục của họ hỗn tạp, đủ mọi giới trong xã hội, thì ra họ đã cải dạng trà trộn vào dân thường mà hoạt động. Cán thanh Lưỡng Nguyệt Phủ gồm bốn đoạn ống đồng, có thể thu ngắn được để giấu kín trong áo. Nhất là thời tiết này, ai cũng khoác áo lông.
Một trong hai gã Phù Dung Hội bước đến trước đắc ý nói:
- én Khiếu Hồ! Giờ thì ngươi đã chịu lui ra chưa?
Thương Tâm Kiếm dường như ngán sợ vì phe đối phương quá động. Gã thở dài, tra kiếm vào vỏ, hai tay chống nạnh, lạnh lùng nói:
- Thôi được! Phù Dung Hội dùng số đông để thủ thắng, thì tại hạ cũng đành phải.
én Khiếu Hồ vừa nói đến đây thì hai tay gã bất ngờ vung ra. Sáu mũi liễu điệp phi đao cắm vào ngực bọn Phù Dung Hội. Họ én ra tay đột ngột, trong lúc đối phương tưởng gã đã bỏ cuộc nên kết quả mới mỹ mãn như vậy. Hơn nữa, Lưỡng Nguyệt Phủ khá nặng nề, khó mà phản ứng cho nhanh được.
Nửa quân số Phù Dung Hội bị loại khỏi vòng chiến, sáu gã còn lại gầm lên, vung búa tấn công. Thương Tâm Kiếm bình tĩnh múa kiếm che chở cho Hãn Thanh. Thanh kiếm của gã dài hơn Lưỡng Nguyệt Phủ nên rất có lợi thế.
Tuy chân khập khiễng nhưng bộ pháp khinh công của họ én rất linh hoạt, gã xoay quanh Hãn Thanh như chong chóng, liên tiếp tung ra những đợt tập kích. Sau vài lần như vậy, bọn sát thủ Phù Dung Hội đổi chiến thuật, cho ba tên cầm chân Thương Tâm Kiếm, số còn lại tấn công Hãn Thanh. Lúc này Tiểu Hầu Gia vẫn còn trong trạng thái vô ngã, không hề biết việc gì đang xảy ra.
én Khiếu Hồ phải vất vả lắm mới bảo toàn mạng sống cho Hãn Thanh.
Gã liên tiếp phóng ra những ngọn phi đao, uy hiếp ba gã phía sau, không cho chúng đến gần.
Nhưng rồi phi đao cũng hết, Thương Tâm Kiếm tuyệt vọng gầm vang như con thú bị thương, vung kiếm lao vào ba gã phía sau, cô chặng chúng lại.
Chiêu kiếm này nhanh như chớp giật, khiến đối phương sợ hãi lùi ngay. én Khiếu Hồ tung mình trở lại,tấn công bọn bên kia.
Lối đánh này rất hao tổn chân khí, chỉ vào lần như vậy là họ én kiệt lực, cước bộ không còn nhanh nhẹn nữa.
Lúc này, sáu gã Phù Dung Hội mới vận toàn lực xông vào. Sáu lưỡi búa loang loáng đan lưới trùm kín cả Thương Tâm Kiếm lẫn Hãn Thanh.
én Khiếu Hồ nghiến răng múa tít trường kiếm, quyết đổi mạng với đối phương rồi chết chung cùng người được mình bảo vệ.
Thực khách kinh hãi rú lên, tưởng sắp phải chứng kiến cảnh hai người bị tan xương nát thịt.
Nào ngờ, khi mũi kiếm của họ én vừa chạm vào lưỡi búa, phát ra những tiếng tinh tang, thì cả sáu tên bỗng khựng lại, ôm ngực rú lên thảm khốc, rồi ngã quị.
Đám người trên lan can mừng rỡ reo hò vang dội, hết lời tán thưởng kiếm pháp siêu phàm của én Khiếu Hồ. Nhưng thấy Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh đứng lên, họ mới biết mình lầm.
Hãn Thanh vòng tay nói với Thương Tâm Kiếm:
- ¢n cứu mạng của én các hạ, Thanh tôi xin ghi lòng tạc dạ..
Họ én không đáp, bước đến chỗ nhổ sáu mũi Sách Hồn Tiễn trên các tử thi, chăm chú xem xét rồi bước lại trao cho Hãn Thanh. Gã nghiêm giọng:
- Hai mươi năm trước, tại hạ nhờ một mũi Sách Hồn Tiễn này mà thoát chết và giết được kẻ đại cừu. Nay cứu được công tử, xem như món nợ với Mông Diện La Sát đã sòng phẳng, xin cáo biệt.
Hãn Thanh thấy thái độ lạnh nhạt của y, chẳng dám nói nhiều, chỉ cung kính tiễn đưa.
Ngay chiều hôm ấy, Hãn Thanh sang đến bờ Bắc Hoàng Hà, đi thêm ba chục dặm mới dừng chân nơi lữ quán ven đường.
Đêm ấy, chàng thao thức mãi, cuối cùng quyết định không đi Trực Cô nữa, mà sẽ trở lại núi Hằng Sơn. Sau trận đấu với Tây Nhạc lão quái Hàn Thế Đức, chàng tự hiểu rằng bản lĩnh của mình chưa đủ để tiêu diệt Hải Hà Tiên Tử Mai Thanh Phố. Trước đây, chàng rất tự hào, cho rằng mình đã tiếp thu hết sở học của ân sư, không hề sợ bất cứ ai. Chính vì vậy, chàng đã nói thác đi là được Cư Sĩ ban cho bửu bối để Nam Nhạc Nhất Tà yên tâm. Thực ra, Bất Biệt Cư Sĩ không hề tiên đoán được sự tái xuất của Mai Thanh Phố.
Hãn Thanh là người thông đạt liền chấp nhận gác mối thù lại vài năm, chờ đủ sức mới báo phục. Vả lại, chàng rất nhớ Tiểu Thuần, hy vọng khi bầu bạn với thi hài, sẽ được gặp lại nàng.
Sau khi đã có chủ ý, Hãn Thanh thư thái nhắm mắt ngủ say. Mờ sáng, chàng thức dậy, rời lữ điếm đi lên hướng Bắc. Đầu giờ Tỵ, Hãn Thanh đã đến ngã ba. Chàng rẽ trái đi Sơn Tây, quái mã phi nước đại, tốc độ nhanh như gió vì đường bằng phẳng và vắng vẻ.
Giữa giờ Ngọ, Hãn Thanh đã đi được vài chục dặm. Vùng đất này tuy vẫn thuộc Hà Nam, nhưng lại là chân của Cao Nguyên Sơn Tây, địa hình bắt đầu lên cao, đường quan đạo xuyên qua cánh rừng già rậm rạp.
Hãn Thanh cũng không muốn bị bọn Phù Dung Hội quấy rầy nên phóng ngựa rất nhanh để chúng không có thời gian bố trí mai phục.
Nhưng đã là oan gia thì thường hay chạm mặt. Ngay bìa rừng bên mé tả là hai mươi gã sát thủ cầm Lưỡng Nguyệt Phủ. Chúng không chờ đợi Hãn Thanh mà đang vây đánh một lão già râu tóc hoa râm. Trên người lão nhân áo vàng kia cũng đã có mấy vết thương đẫm máu, và trên mặt cỏ quanh lão rải rác mấy xác người áo xanh, có lẽ là thủ hạ của Hoàng Y lão giả, vì bọn Phù Dung Hội đều mặc áo đen.
Thanh tiêu sắt đen nhánh, dài như trường kiếm của lão già áo vàng kia rất lợi hại, ngang nhiên va chạm với búa thép, vang lên những tiếng ong ong ngân dài trong trẻo.
Hãn Thanh và Phù Dung Hội đã ở vào hai thế thủy hỏa bất tương dung.
Hơn nữa, dung mạo đoan chính của lão Hoàng Y kia chứng tỏ không phải là kẻ ác, đáng được giúp đỡ. Hãn Thanh liền tung mình rời yên ngựa, nhảy xổ vào hàng ngũ Phù Dung. Hai tay chàng rải liền tám mũi Sách Hồn Tiễn loại đủ tám tên ở vòng ngoài cùng. Đối với bọn ác độc này, Hãn Thanh chẳng hề khách sáo, câu nệ qui củ giang hồ.
Đòn tập kích sau lưng kia được nối tiếp bằng chiêu Võng Tảo Thiên Ngư, kiếm kình mở rộng theo hướng nằm ngang, đâm thủng ngực thêm bốn tên nữa.
Hãn Thanh muốn giữ kín hành tung nên quyết không tha mạng nào, xuất thủ vô cùng tàn nhẫn và mau lẹ.
Chiêu thứ ba, chàng chặt phăng cánh búa, tiện đứt yết hầu hai sát thủ, và tay tả xạ liền một mũi Sách Hồn Tiển vào gã thứ ba.
Bọn Phù Dung Hội chỉ còn có năm tên, bỏ Hoàng Y lão giả, xông vào tấn công kẻ mới đến. Chúng đau lòng trước cái chết của đồng đảng nên không còn biết sợ nữa.
Hãn Thanh ôm kiếm lao vào hai gã mé hữu, xuất chiêu Tùng Phong Trạch Liễu. Mũi kiếm điểm nhanh vào lưỡi búa đẩy lệch đi và xuyên qua khe hở mà chặt phăng hai thủ cấp.
Ba gã còn lại ập vào tấn công hậu tâm Hãn Thanh. Nào ngờ, thân hình chàng bốc lên cao như chiếc pháo thăng thiên, lộn người xuống mà hạ thủ.
Thanh trường kiếm vun vút xé không gian, hoá thành muôn ngàn kiếm ảnh mịt mờ, như mưa đổ. Tầm sát thương của chiêu Lạc Vũ Bình Sa này khá rộng nên hai gã sát thủ bị tiện nửa hộp sọ. Gã cuối cùng quay lưng đào tẩu, nhưng không thoát được mũi Sách Hồn Tiễn từ tay đối phương.
Hãn Thanh giết một hơi hơn hai chục mạng người, lòng cũng bất nhẫn thở dài thườn thượt, đi thu hồi lại những mũi Sách Hồn Tiễn phi tiễn.
Lúc này Hoàng Y Lão Giả cũng đã tự băng bó xong. Lão bước đến vòng tay nói:
- Lão phu là Thiết Địch Thần Y Bạch Nguyên Giáp, dám hỏi đại danh của thiếu hiệp?
Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi là người đàn bà có tâm lý vô cùng phức tạp, cực đoan. Lúc hành tẩu giang hồ, có khi bà ta giết người như ngoé, có khi bà lại hào hiệp ra tay tương trợ đồng đạo.
Tính cách mâu thuẫn cực đoan ấy đã khiến bà căm ghét trượng phu đến nỗi dạy con phải thù cha. Nhưng Hãn Thanh ngày mỗi lớn lên, trở thành người bà yêu quí nhất, khiến bà không còn giữ nguyên kế hoạch độc ác ban đầu, là để sau này cha con giết nhau.
Mông Diện La Sát tận tâm giáo dưỡng con thơ, chờ ngày trưởng thành, đưa về Lạc Dương, vạch mặt người chồng phóng đãng. Dân tộc Cao Sơn chủ trương một vợ một chồng nên ngoại tình là một tội rất lớn.
Chính vì vậy, Phùng Nương đã truyền cho Hãn Thanh những kinh nghiệm, kiến văn của mình. Giờ đây, nghe đối phương báo danh, chàng biết ngay lão là vị đại phu giỏi nhất võ lâm, Hãn Thanh vòng tay đáp:
- Vãn bối là Mộ Dung Hãn Thanh, xin bái kiến Bạch lão bá!
- Té ra là Tiểu Hầu Gia! Lão phu nghe giang hồ tuyền tụng đã lâu, không ngờ nay lại đựơc công tử cứu mạng.
Hãn Thanh hỏi lại:
- Vì sao lão bá lại có hiềm khích với Phù Dung Hội?
Họ Bạch thở dài đáp:
- Làm gì có hiềm khích. Phù Dung Hội định bắt sống lão phu để tra hỏi một báu vật liên thành thôi.
Hãn Thanh nghe vậy, không tiện thân cận với lão, vòng tay cáo từ:
- Vãn bối có việc gấp phải đi ngay.
Bạch Thần y mỉm cười:
- Công tử không muốn nghe lão phu nói về bảo vật kia sao?
Hãn Thanh chính sắc đáp:
- Đó là bí mật của lão bá, vãn bối chẳng nên biết làm gì.
Bạch lão lộ vẻ buồn rầu:
- Chắc gì lão phu đã toàn mạng khi về đến nhà, chẳng thà tiết lộ cho công tử biết, nhanh chân đoạt lấy kỳ trân kia, trước khi lão phu phải nói ra vì không chịu nổi đòn tra khảo.
Hãn Thanh khẳng khái nói:
- Vậy vãn bối sẽ hộ tống lão bá hồi gia. Xin hỏi quí trang tọa lạc tại địa phương nào?
Bạch lão mừng rỡ bảo:
- Bách Thảo sơn trang của lão phu ở dưới chân núi Phúc Sơn, gần ranh giới tỉnh Hà Nam, Sơn Tây. Nếu công tử đã có lòng đưa Phật đến tận Tây Thiên thì trước hết xin hãy chôn dùm xác của sáu gã đệ tử, rồi chúng ta lên đường.
Hãn Thanh vui vẻ làm theo ý Bạch Thần Y, tìm chỗ đất mềm đào nhanh một hố, bỏ cả sáu thử thi xuống vùi nông.
Chàng còn mang cả hai mươi xác của bọn Phù Dung Hội quăng vào rừng để khỏi chấn động bách tính đi đường.
Xong việc thì đã cuối giờ Mùi. Hãn Thanh nghe đói bụng liền gượng cười:
- Bạch lão bá! CHúng ta nên tìm chỗ ăn uống rồi hãy đi.
Bạch Thần Y móc lưng lấy ra một lọ sành, đưa cho chàng:
- Trong này có mười viên Tịnh Cốc Toàn Sinh đan. Ngoài tác dụng trị thương thần diệu, còn giúp người ta nhịn đói mà vẫn khoẻ mạnh. Đoạn đường này rất vắng vẻ, phải đi hơn bốn mươi dặm mới có quán xá. Công tử cứ nuốt một viên sẽ no cả ngày.
Hãn Thanh lấy ra một viên, đậy nắp định trả lại. Bạch Thần Y mỉm cười:
- Công tử cứ giữ lấy, lão phu còn rất nhiều. Giang hồ là chốn hiểm nghèo, sau này lỡ có bị thương tích, công tử chỉ cần bóp nát ra đắp vào là sẽ rất mau lành.
Hãn Thanh nói lời cảm tạ rồi mời họ Bạch cùng lên lưng quái mã. Ngựa của ông đã bị trúng tên chết sạch.
Đà nhi là linh vật khoẻ phi thường. Dù cõng hai người vẫn chạy rất nhẹ nhàng. Thiết Địch Thần Y khen ngợi:
- Con vật này được lai tạo giữa giống Huyết Hãn Thần Câu của nước Đại Uyển với loại Bạch Đà Mông Cổ, có được đặc tính ưu việt của cả loài ngựa và lạc đà.
Hãn Thanh thầm phục lão là người uyên bác. Thần y chuyển sang kể chuyện của mình:
- Hai mươi năm trước, lão phu chưa lập gia thất nên còn bôn tẩu giang hồ. Một hôm, đi ngang chân núi Cung Nam Sơn, gặp một lão nhân cổ quái bị độc xà cắn sắp chết, liền ra tay chữa trị. Sau khi thoát chết, ông ta bèn tặng cho lão phu một bức họa đồ đưa đến ém Dương Linh Cảnh, nơi mà trời đất giao hòa, sinh ra một loại kỳ trân hãn thế là Băng Hỏa Quả, ai ăn vào sẽ tăng tiến bốn mươi năm công lực.
Hãn Thanh nhân lúc lão đổi hơi, hỏi lại:
- Bạch lão bá! Vì sao người đến được chốn ấy trước tiên lại không hái linh quả, mà còn vẽ họa đồ để lại?
Bạch Thần Y mỉm cười:
- Báu vật của thiên địa đâu phải ai cũng lấy được. Linh Cảnh là nơi ém Dương tụ hội, có quỉ thần canh giữ, phải là người bổn mạng tôn quí mới qua được cửa. Trương Trọng Cảnh Đại Thần Y thời Đông Hán đến được ém Dương Linh Cảnh, nhìn thấy băng Hỏa Quả mà đành ôm hận quay về. Ông ta vẽ lại họa đồ, để lại cho con cháu, xem ai là người có phúc phận. Lão nhân cổ quái kia chính là hậu duệ của Trương thần y.
Hãn Thanh đọc sách rất nhiều nên biết lai lịch của Trương Trọng Cảnh.
Họ Trương là một danh y cuối thời Đông Hán, từng viết hai quyển Thương Hàn Luận và Kim Quỉ yến lược. Hai quyển y kinh kia đã trở thành báu vật trong nền y thuật Trung Hoa.
Chàng cười mát bảo:
- Nếu vậy thì vãn bối cũng đâu thể vào được Linh Cảnh!
Bạch Nguyên Giáp lắc đầu:
- Công tử mang thân phận Hầu Gia, khác hẳn thường nhân, có thể được quỉ thần nể mặt.
Hãn Thanh nhớ đến Quỉ hồn của Tiểu Thuần, im lặng không tranh cãi nữa. Bạch Thần Y bèn tiết lộ địa điểm cùa ém Dương Linh Cảnh và cách đi vào. Bản thân họ Bạch đã từng đến đấy nhưng không sao qua được cửa ải cuối cùng. Hãn Thanh ghi nhớ trong lòng, rồi hỏi lại:
- Việc lão bá biết đường đến linh địa rất bí mật, vì sao bọn Phù Dung Hội lại biết?
Bạch Thần Y chua xót nói:
- Công tử rất tinh minh. Bí mật này chỉ có lão phu và chuyết thê biết được thôi. Như vậy là chính nàng ta đã bán rẻ lão phu cho Phù Dung Hội. Lần này lão phu đi Trịnh Châu thăm bằng hữu cũng chỉ mình nàng ta rõ. Về đến Bách Thảo Sơn Trang, lão phu sẽ vạch mặt con tiện nhân ấy.
Hãn Thanh trầm ngâm suy nghĩ rất lâu, lo lắng cho tính mạng của thần y. Chàng dọ hỏi:
- Chẳng hay Bạch bá mẫu năm nay được bao nhiêu niên kỷ?
Bạch Nguyên Giáp ngượng ngùng đáp:
- Nàng ta mới ba mươi tám, thua lão phu đến hai mươi lăm tuổi.
Hãn Thanh mỉm cười:
- Phải chăng Bạch bá mẫu rất ít khi rời khỏi Bách Thảo Sơn Trang?
Chàng hỏi như vậy vì đoán rằng họ Bạch già cả mà có vợ trẻ đẹp tất sẽ giữ rịt lấy.
Bạch Thần Y thú nhận:
- Quả thực là nàng ta chẳng hề đi đâu cả trừ những lúc có lão phu đồng hành.
Hãn Thanh đủ hiểu rằng bà ta còn có một đồng đảng nữa trong trang.
Chàng vui vẻ bảo:
- Vãn bối muốn ở lại quí trang vài ngày để học hỏi thêm y thuật, liệu có được chăng?
Bạch lão hoan hỉ đáp:
- Công tử là ân nhân của lão phu, có ở cả đời cũng chẳng sao.
Cổ nhân có câu "nhân vô thập toàn". Bạch Nguyên Giáp tuy rất giỏi về y đạo nhưng lại chẳng hề có chút tâm cơ đối nhân xử thế. Hãn Thanh sợ lão mất mạng trong tay những kẻ phản bội nên quyết đến Bách Thảo Sơn Trang điều tra cho rõ ngọn ngành.
Chiều hôm sau, hai người về đến núi Phúc Sơn, Bách Thảo Sơn Trang nằm ngay chân núi hướng Đông. Có lẽ Thiết Địch Thần Y rất giàu nên bức tường vây quanh sơn trang cao đến hai trượng, và được xây bằng đá núi rất kiên cố. Nhà cửa trong ấy cũng đều dùng đá làm vật liệu chính, chỉ có tòa đại lâu hai tầng ở giữa là bằng gỗ.
Vừa về đến cổng, Bạch Thần Y đã hỏi hai gã gia đinh gác cửa:
- Phu nhân có trong nhà không?
Một gã cười đáp:
- Bẩm trang chủ có ạ!
Dường như Bạch lão không có ý định làm to chuyện, nên chẳng nói gì, đi thẳng vào mộc lâu. Hãn Thanh giao quái mã cho bọn gia đinh rồi cũng đi theo chủ nhân.
Tầng dưới của tòa mộc lâu chính là khách sảnh. Một người độ tuổi năm mươi, dung mạo anh tuấn, bước ra tươi cười chào đón:
- Tiểu đệ mừng sư huynh hồi trang!
Bạch Thần Y giới thiệu người ấy với Hãn Thanh:
- Mộ Dung công tử! Đây là Thẩm Khởi Vĩ, tiểu sư đệ của lão phu.
Hãn Thanh vòng tay xưng danh tánh. Họ Thẩm hân hoan nói:
- Cửu ngưỡng! Cửu ngưỡng! Uy danh của Tiểu Hầu gia lẫy lừng thiên hạ, không ngờ nay lại giá lâm chốn hủ lậu này.
Hãn Thanh quen lối sống đời sơn dã mộc mạc nên không có cảm tình với những kẻ hoa ngôn, xảo ngữ. Chàng sinh lòng cảnh giác, chỉ mỉm cười.Thẩm Khởi Vĩ mời hai người an tọa rồi gọi tỳ nữ pha trà. Bạch Thần Y nóng nảy bảo:
- Sư đệ mau vào hậu sảnh mời đại tẩu ra đây.
Họ Thẩm mau mắn đứng lên đi ngay. Lát sau lão trở ra với khay trà trên tay, vui vẻ bảo:
- ® tỳ nữ Tiểu Thanh nói rằng đại tẩu đang tắm, lát nữa sẽ lên ngay.
Lão đặt khay trà xuống, châm đầy ba chung, mời hai người uống. Hãn Thanh chưa kịp nâng chén thì nghe văng vẳng tiếng nói quen thuộc của Tiểu Thuần:
- Trong trà có mê dược!
Hãn Thanh toát mồ hôi, thức ngộ rằng Thẩm Khởi Vĩ chính là đồng đảng của Bạch Phu nhân. Chàng vươn tay điểm nhanh vào bốn huyệt trên ngực họ Thẩm, khiến lão trơ như tượng gỗ.
Bạch Nguyên Giáp ngơ ngác:
- Công tử làm gì vậy?
Chàng cười mát:
- Lão bá hãy xem trong chung trà kia có gì lạ hay không?
Thần Y nâng chung trà ngửi và nếm một hút. Lão kinh hãi nhổ ra ngay:
- Khốn nạn thật, đây là loại Nhuyễn Cân Tán của giới hắc đạo.
Hãn Thanh hỏi ngay:
- Lão bá còn ai là người có thể tin cậy được?
Bạch Thần Y buồn rầu nói:
- May ra đại đệ tử của lão phu vẫn giữ dạ trung thành. Y được lão phu nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ.
Lão đứng lên, bước ra cửa sảnh gọi vang:
- Bạch Phương!
Lát sau, một hán tử tam tuần chạy đến ứng hầu:
- Sư phụ có điều chi phân phó?
Bạch Thần Y nghiêm giọng:
- Lòng dạ của ngươi đối với lão phu thế nào?
Bạch Phương thất kinh đáp:
- Đồ nhi được ân sư giáo dưỡng từ nhỏ, một lòng kính trọng người như từ phụ.
Thấy nét mặt y rất thành khẩn, Bạch lão dịu giọng:
- Nay Thẩm sư đệ cấu kết cùng sư nương ngươi hãm hại lão phu. Ngươi định thế nào?
Bạch Phương nghiến răng:
- Đệ tử đã phát hiện họ dan díu với nhau, nhưng thấy sư phụ quá ưu ái phu nhân nên chẳng dám nói ra. Nay sự việc đã đến nước này, đồ nhi cùng các đệ tử sẽ bắt hai người ấy cho sư phụ xử quyết.
Bạch Thần Y gật đầu:
- Vậy ngươi hãy báo động toàn trang, phong toa? cửa ra vào, rồi cùng lão phu vào hậu sảnh. Ai là vây cánh của bọn gian phu dâm phụ thì giết ngay!
Ba hôm sau, Hãn Thanh rời Bách Thảo Sơn Trang, tiếp tục đi sang đất Sơn Tây. Việc của Thiết Địch Thần Y đã giải quyết xong. Biết họ Bạch không đủ tàn nhẫn để hạ sát sư đệ và người đàn bà xinh đẹp, dâm đãng kia, chàng đã vung kiếm đâm chết cả hai. Hãn Thanh cũng thừa hưởng tính cực đoan của Mông Diện La Sát, Chàng rất căm hận những kẻ phản trắc nên hạ thủ không thương tiếc. Nếu chàng không quyết đoán như vậy, chắc chắn bạch Thần y sẽ tha cho họ, và trước sau gì cũng ngộ hại lần nữa.
Họ Bạch tuy đau lòng nhưng cũng thầm cảm ơn Hãn Thanh. Lão ân cần mời mọc chàng ở lại thêm vài ngày. Nhưng lòng chàng nóng như lửa đốt, chỉ muốn đi ngay Hằng Sơn để về với Tiểu Thuần, nên chỉ ở lại có ba ngày.
Đêm qua, Bạch Thần Y đã khuyên Hãn Thanh cải trang và gởi Quái mã lại Bách Thảo Sơn Trang, để tránh sự truy sát của Phù Dung Hội. Cũng như những kẻ đang dòm ngó đến tấm họa đồ Bồng Lai Đảo của họ Mộ Dung.
Chàng là người nối dõi duy nhất, nếu bị bắt thì lão Hầu Gia sẽ phải trao bản đồ ra để chuộc. Mộ Dung Cẩn dám hy sinh Mộ Dung Thiên vì còn có cháu nội.
Nay cháu nội lâm nguy, ông sẽ phải đầu hàng.
Hãn Thanh nghe hợp lý, liền nhận lấy hai chiếc mặt nạ da người và con tuấn mã của họ Bạch. Giờ đây, chàng có dung mạo của một hán tử tam tuần, mặt chất phác hiền lành.
Hồi 6
Quả Phụ Hữu Trượng Phu
Hoa Sơn Vô Tây Nhạc
Với gương mặt mới Hãn Thanh ung dung rong ruỗi, không hề gặp trở ngại nào, và mười mấy ngày sau chàng đến thành Tinh Châu.
Mới là giữa giờ Thìn, Hãn Thanh ghé vào Kỳ Trân phạn điếm để dùng điểm tâm. Ở đây, chàng phát hiện có rất nhiều khách võ lâm. Một số chàng đã gặp trên đường đi, nhưng không lưu ý đến.
Giờ đây, họ đang xôn xao bàn tán về việc động trời. Đó là việc Hải Hà Tiên Tử đã chính thức tái xuất giang hồ, dương danh Thần Tiên Giáo. Tứ Đại Kỳ Nhân trong Ngũ Nhạc được phong làm phó giáo chủ. Thần Tiên Giáo đang xây dựng tổng đàn ngay trên ngọn Bách Sơn, thuộc dãy Tung Sơn và chỉ cách núi Thiếu Thất của Thiếu Lâm Tự mười dặm. Nghe nói, Thần Tiên Giáo đã gởi thiệp mời đồng đạo võ lâm đến dự lễ khai giáo vào tết Đoan Ngọ năm nay!
Tin thứ hai là việc Kiếm Bang ở Nam Kinh dốc lực lượng truy lùng Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh, để báo phục cho ái tử. Thanh Y Thần Kiếm Từ Đinh Vân đã bị Tiểu Hầu Gia giết cách đây năm năm.
Tin thứ ba chính là việc Tây Nhạc Lão Quái bị Tiểu Hầu Gia đả bại ở Trịnh Châu. Hàn Chân Nhân đã phải cắt một miếng thịt đùi để không bỏ mạng vì chất độc của mũi Sách Hồn Tiễn. Nhưng nói chung, lão chỉ bị thương nhẹ và đã bình phục. Lão Quái căm hận Tiểu Hầu Gia nên đã đến Hà gia trang bắt Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương, đem về Hoa Sơn gả cho bang chủ Tây Bang Hứa Hữu Tinh. Lão còn đả thương Tinh Châu Tài Thần Hà Hồng Tập và khá nhiều người của Hà gia trang! Ngày hai mươi sáu tháng này, đám cưới sẽ được cử hành tại Đạo Quán của Hàn Lão Quái!
Hãn Thanh không hề yêu thương Viên Nguyệt Hằng Nga, nhưng phẫn nộ trước hành vi ngang ngược của Tây Nhạc Lão Quái, nên quyết định đi Hoa Sơn giải cứu Hà Hồng Hương. Chàng đoán rằng Phi Châm Môn cũng không chịu khoanh tay, liền rời Kỳ Trân phạn điếm, đi đến Hà gia trang!
Xeo xéo cổng nhà họ Hà có một quán trà. Hãn Thanh vào đấy gọi một ấm trà Thiết Quan ém, nhâm nhi từng hớp nhỏ, mắt chăm chú hướng về Hà gia trang!
Vài khắc sau, Hãn Thanh nhận ra Nhất Bất Thông Chu Minh và năm mươi cao thủ Mộ Dung phủ thúc ngựa đi vào nhà họ Hà. Chàng biết ngay họ được lệnh của lão Hầu Gia đuổi theo bảo vệ mình. Một cảm giác hạnh phúc thoáng dâng trong hồn!
Hãn Thanh rất khâm phục thuật truy tung của họ Chu, không ngờ lão ta mau chóng tìm ra lộ trình của mình. Chàng suy nghĩ một lúc, quyết định đi Hoa Sơn, âm thầm giải cứu Hà Hồng Hương trước ngày đám cưới. Nay Chu Minh đã có mặt ở đây, chàng không thể vào Hà gia trang nữa rồi. Đôi mắt tin tường của Nhất Bất Thông sẽ nhận ra thanh Hầu Tước Kiếm.
Hãn Thanh rời trà thất, đi về hướng Tây. Núi Hoa Sơn cách Tinh Châu độ hai ngày đường! Đoạn này đặc biệt gập ghềnh, hiểm trở, lên dốc, xuống đèo, hai bên là rừng già hay đồi núi!
Đường quan đạo vì vậy mà vắng vẻ, mãi quá giờ Mùi Hãn Thanh mới gặp được một quán nhỏ, thức ăn chỉ có bánh bao và thịt trâu luộc. Sau khi nhét đầy chiếc dạ dày trống rổng, Hãn Thanh tiếp tục bôn hành. Thêm hai chục dặm, trước mặt chàng hiện ra đến năm, sáu con đường. Hãn Thanh bối rối suy luận rồi chọn lối chính Tây. Chàng hối hận vì đã không hỏi lão chủ quán, nên giờ đành chọn hú họa.
Tiếc rằng người lữ khách đã đi sai đường, khi vầng ô quang tắt lịm, Hãn Thanh vẫn chưa thấy bóng một căn nhà nào. Đêm ấy, chàng phải ngủ trên chạng ba một cây cỗ thụ Ở bìa rừng.
Không biết mình đi lạc. Sáng ra, chàng tiếp tục tiến lên, nửa canh giờ sau, đường lộ hẹp dần, dẫn đến một cổng làng. Thôn xóm này khá đông đúc, nằm dựa vào một dãy núi thấp có màu sắc rất kỳ lạ. Ngoài những chỗ bị rừng và tuyết che phủ, lác đác có những mảnh đen nhánh, lấp lánh dưới ánh dương quang.
Kiến văn của Hãn Thanh rất bác tạp, lập tức nhận ra dãy núi kia là một mỏ thạch than (than đá) lộ thiên khổng lồ.
Trong Sơn Hải Kinh, một trước tác thời Tiền Tần, đã từng nói về những mỏ than đá ở Tứ Xuyên và Thiểm Tây. Vào thời Tây Hán, người Trung Hoa đã biết dùng than đá để luyện gang.
Thực ra, cao nguyên Sơn Tây mới là mỏ than vĩ đại của Trung Hoa, hầu như nơi nào cũng có, nhưng tập trung nhiều nhất ở Đại Đồng phía Bắc Sơn Tây.
Toàn bộ kkhu vực thôn xóm kia nằm trong một vùng trũng dưới chân núi. Từ mảnh đất cao trước cổng làng, Hãn Thanh có thể nhìn bao quát cảnh vật. Chàng thấy mọi người rời nhà vác cuốc đi ra những thuở ruộng kê chung quanh làng, và lũ trẻ chạy nhảy vui đùa khắp chốn.
Hãn Thanh cau mày tự hỏi vì sao nơi đây chỉ toàn là nữ nhân mà không có bóng đàn ông nào? Chẳng lẽ họ cứ ngủ vùi để cho vợ mình phải đảm đương việc đồng áng?
Chàng nhịn đói cả đêm hôm qua nên thúc ngựa đi vào, để hỏi xin chén cơm đở dạ.
Đám tiểu đồng nhận ra khách lạ, chạy đến nhìn Hãn Thanh chăm chú, chúng đông đến ba bốn chục đứa, và đột nhiên có đứa bé gái oà lên khóc gọi:
- Cha! Cha!
Hãn Thanh ngượng ngùng xuống ngựa, ẵm cô bé lên, lạ thay, những đứa nhỏ kia cũng bật khóc, níu áo chàng đòi bế!
Hãn Thanh vô cùng bối rối, ngồi xuống để chúng ôm lấy mình. Và từ trong căn nhà trang gần đấy, có một phụ nhân tuổi tam tuần chạy ra. Nàng bật cười, bảo lũ trẻ:
- Bọn ngươi quả là ngốc nghếch, đây là người lạ Ở phương xa đến, nào phải cha của ai đâu?
Đám tiểu hài tiu nghỉu, thất vọng, rời khỏi Hãn Thanh. chàng đứng lên vòng tay nói:
- Tại hạ định đi núi Hoa Sơn, vì không biết đường nên đi lạc đến đây!
Dám hỏi đại tẩu đây là địa phương nào vậy?
Nữ nhân vui vẻ đáp:
- Làng này có tên là Quả Phụ Thôn. Các hạ muốn đến Hoa Sơn thì phải đi chếch về hướng Tây Nam mới đúng.
Người phụ nữ này tuy y phục quê mùa, mộc mạc, nhưng đôi mắt tinh anh, sáng sủa, ăn nói ra vẻ người có học.
Hãn Thanh giật mình:
- Chẳng lẽ những đứa trẻ này đều không có cha?
Nữ nhân cười buồn:
- Có cũng như không, vì toàn bộ nam nhân trong làng đều bị bọn hồ ly ở bên kia núi bắt đi toàn bộ cả rồi! Mỗi năm họ chỉ được về nhà ba ngày tết, sau đó lại ra đi.
Hãn Thanh nhíu mày:
- Họ không đi không được hay sao?
Nữ nhân gật đầu:
- Kẻ nào ở lại thêm một ngày đều bị hồ ly giết chết!
Hãn Thanh nhìn những mái đầu xanh chung quanh, nghe lòng sôi giận.
Chàng cười nhạt bảo:
- Tại hạ chuyên nghề tiêu diệt tà ma, chồn quỷ. Mong đại tẩu cho xin vài chén cơm lót lòng, sau đó, tại hạ sẽ giết sạch đám hồ ly, trả phụ thân cho đám tiểu hài này!
Nữ nhân mỉm cười:
- Mời túc hạ vào nhà, tiện thiếp chỉ có bánh kê hấp mà thôi.
Hãn Thanh dắt ngựa đi theo nàng, lũ trẻ tò mò bám đuôi, đứng lố nhố ngoài sân. Chỉ có một đứa bé vào nhà, vì nó là con của nữ nhân kia. Cậu bé đắc ý nói với đám còn lại:
- Tụi mày thấy chưa, ông ấy vào nhà tao tức là cha của tao đấy! Lát nữa tao sẽ bảo ông ấy cho tao cỡi ngựa!
Có đứa rụt rè nói:
- Tiểu Lâm! Mày bảo cha mày cho tao cỡi ngựa nhé! Tao sẽ cho mày con chim sáo!
Thế là cả bọn nhao nhao thương lượng với Tiểu Lâm. Đứa nào cũng đưa ra đồ chơi tốt nhất của mình để đổi lấy việc cỡi ngựa.
Tất nhiên Tiểu Lâm chấp nhận cả, không từ chối một ai. Giờ đây, nó là cậu bé hạnh phúc nhất làng. Vì có cha và có thật nhiều vật lạ.
Cuộc làm ăn của Tiểu Lâm rất ồn ào, lọt vào tai Hãn Thanh và mẹ nó. Hai người nhìn nhau mỉm cười. Hãn Thanh chợt nhận ra người đàn bà kia nhìn mình với ánh mắt nồng nàn, khao khát. Ở vùng cao nguyên giá lạnh này, cảnh cô đơn trống vắng quả là đáng sợ.
Hãn Thanh không giận nàng mà cảm thấy như mình có lỗi. Chàng thề sẽ trả lại trượng phu cho những nữ nhân đáng thương này. Mẹ Tiểu Lâm cười hỏi:
- Chẳng hay danh tính của túc hạ là gì? Chuyết phu họ Trương.
Theo phong tục Trung Hoa, đàn bà xuất giá thường được xưng hô theo họ của chồng mình. Hãn Thanh kính cẩn đáp:
- Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh.
Chàng cắm cúi ăn thêm chiếc bánh kê, cố tránh ánh mắt của người đối diện. Trương nương thở dài bảo:
- Túc hạ cứ ăn cho no rồi lên đường đi Hoa Sơn. Bọn chồn tinh kia pháp thuật thông thần, túc hạ không làm gì được chúng đâu.
Hãn Thanh hỏi lại:
- Đại tẩu có biết chúng gồm bao nhiêu người hay không? Và chúng bắt các nam nhân trong thôn để làm gì?
Trương nương rầu rĩ đáp:
- Chúng xuất hiện cách nay hơn bốn năm, chỉ trong một đêm đã bắt hơn trăm trai tráng trong làng, như vậy là chúng rất đông. Còn bắt để làm gì thì không rõ. Mỗi lần được thả về ăn tết, đám nam nhân đều câm như hến, chẳng ai mở miệng nói câu nào. Có điều, tiện thiếp nhận ra bàn tay họ chai sạm và trên thân thể chằng chịt những vết roi. Mỗi năm, số người về nhà càng ít đi.
Có lẽ những người yếu sức đã lần lượt bỏ mạng.
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Sao chư vị không đi báo quan?
Nữ nhân cười nhạt:
- Hai năm trước, có người đã vác sớ lặn lội đến huyện đường kêu khóc.
Quan tri huyện hứa sẽ cho quân tra xét nhưng chẳng hề có ai đến cả. Còn người đàn bà dũng cảm kia đã chết ngay khi về đến nhà.
Hãn Thanh đã no nê, đứng lên nói:
- Mong đại tẩu chỉ giáo đường đến hang ổ hồ ly!
Trương nương buồn bã đáp:
- Túc hạ cứ đi đến chân núi sẽ thấy một khe hẹp. Theo đường ấy sẽ sang đến bên kia.
Hãn Thanh vòng tay chào, xách kiếm bước ra. Tiểu Lâm chạy ngay đến:
- Cha! Hài nhi muốn được cỡi ngựa!
Hãn Thanh ngượng ngùng quay lại nói với Trương nương:
- Con tuấn mã này rất hiền! Đại tẩu có thể đặt Tiểu Lâm lên yên dắt đi chơi.
Nói xong, chàng thi triển khinh công lướt đi như bay. Trương nương và lũ trẻ tròn mắt nhìn theo. Nàng lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ người này lại biết pháp thuật?
Tiểu Lâm reo len:
- Má ơi! Phụ thân hài nhi biết bay!
Trương nương thẹn thùng mắng con:
- Ta đã bảo người ấy không phải là cha mi cơ mà!
Nhưng trong lòng nàng rộn lên một ước mơ thầm kín. Chồng nàng là Trương Tam đã mãi mãi không về nữa! Hai xuân rồi, nàng mỏi mắt trông chờ mà chẳng thấy đâu.
Hãn Thanh theo lời dặn của Trương nương, đến chân dãy núi thấp, quả nhiên tìm ra một khe hẹp, chiều ngang chỉ có bốn trượng. Chàng rút Hầu Tước Kiếm để đề phòng độc xà. Con đường này mỗi năm chỉ được xử dụng một lần nên đầy cỏ và bụi rậm.
Đi hết chiều dài gần dặm của khe núi, trước mắt Hãn Thanh hiện ra một thung lũng rộng, được vây quang bởi núi đồi. Và trên sườn đồi hướng Bắc thấp thoáng những bóng người đang đào xới.
Đám công nhân kia đều ở trần, và được săn sóc bằng những người áo trắng, tay cầm roi da dài ngoằng. Hãn Thanh nhận ra bọn đốc công toàn là nữ nhân. Tuy nhiên, họ khá tàn nhẫn, liên tục quất vào lưng đám nam nhân, thủ pháp dùng roi rất linh diệu.
Hãn Thanh đảo mắt nhìn sang cánh rừng hướng Đông, nơi có những tòa nhà gỗ xinh xắn. Có lẽ đấy là chỗ ở của đám hồ ly áo trắng. Cách đấy không xa, là những lán cỏ dài, dành cho đám công nhân đáng thương.
Hãn Thanh tiến về phía cánh rừng, lập tức bị hai nữ lang bạch y chặn lại.
Một ả lạnh lùng hỏi:
- Ngươi là ai mà dám lần mò vào chốn này?
Chàng cười mát đáp:
- Ta là Trung Nguyên Đại Pháp Sư, nghe nói chốn này có chồn tinh nên đến kiếm vài bộ lông về may áo ngự hàn!
Hai ả biến sắc, vung kiếm chém ngay. Đường kiếm của họ nhanh nhẹn và hiểm ác khôn lường.
Hãn Thanh ái ngại việc đối phương là nữ nhân nên bất nhẫn, không dùng kiếm mà dở pho Cửu Cung Thần Thức ra đối phó. Thân hình chàng nhấp nhô trong lưới kiếm. Song thủ chập chờn như ma ảnh, chụp lấy hai cổ tay nõn nà, vặn trật khớp mà đoạt vũ khí của đối phương.
Bất Biệt Cư Sĩ là tình lang của Vũ Di Tiên Nương. Vì vậy, những gì Hãn Thanh học được thời thơ ấu, đều là tuyệt kỹ của Cao Hán Ngọc! Tuy Cư Sĩ không nổi danh về quyền chưởng, nhưng với tài trí của ông, pho Củu Cung Thần Thức cũng lợi hại tuyệt luân!
Hai ả bạch y đau đớn rú lên, nhảy lùi lại, và nhất tề tung độc phấn vào mặt Hãn Thanh. Chàng cười nhạt, vỗ liên hai chưởng đạo Kim Sa Ấn. Chưởng ảnh vàng nhạt xuyên qua màn độc vụt giáng vào ngực đối phương. Tuy chàng chỉ dồn có bốn thành công lực nhưng cũng đủ đánh cho hai nàng hộc máu.
Lúc này, từ trong những tòa mộc xá, túa ra mấy chục ả áo trắng. Đi đầu là một mỹ nhân tuổi độ hai mươi ba, phong vận lẳng lơ, mặt đẹp như hoa, tóc bới cao, trang điểm bằng châu báu sáng rực.
Nàng ta khoác mảnh lông điêu, để hở áo sa mỏng bên trong, và đôi gò bồng đảo đều đặn trông rất quyến rũ.
Nhưng người đẹp không cười mà cất giọng lạnh lẽo như băng:
- Ngươi là cao thủ của môn phái nào?
Hãn Thanh trầm giọng hỏi lại:
- Còn chư vị là ma quỷ phương nào mà dám ngang nhiên bắt cóc lương dân về làm lao dịch?
Nữ lang động nộ, phất tay ra hiệu:
- Giết gã cho ta!
Đám thiếu nữ thủ hạ ùa vào ngay, sắc diện lộ vẻ độc ác. Hãn Thanh không hề bối rối, thi triển pho khinh công Cửu Cung Mê Bộ, di chuyển trong vòng vây, thủ cước liên tục tung ra những đòn ảo diệu.
Đám nữ nhân nối nhau la lên oai oái vì khớp tay bị bẻ lọi. Chỉ hơn nửa khắc, đã có mười mấy nàng bị loại khỏi vòng chiến.
Nữ lang áo sa mỏng biến sắc rút kiếm nhập trận. Vũ khí của nàng tỏa ánh lam, chứng tỏ đã được tẩm đầy chất độc.
Hãn Thanh không dám coi thường, vội rút kiếm chống đỡ. Chàng kinh hãi nhận ra công lực đối phương còn thâm hậu hơn mình. Bản lãnh nàng ta cao siêu gấp bội các thủ hạ, đường kiếm hiểm ác phi thường.
Nhưng Hãn Thanh là truyền nhân của thiên hạ đệ nhất kiếm. Tuy hơi kém sút phần chân khí nhưng kiếm chiêu linh diệu, tinh kỳ hơn đối phương.
Thanh trường kiếm trong tay chàng đảo lộn như thần long luôn tìm ra chỗ sơ hở mà điểm vào.
Nữ lang áo sa liên tiếp gặp nguy hiểm, mồ hôi toát ra ướt trán. Nàng tấn mạnh một chiêu, tung mình về phía sau, quát khẽ:
- Khoan đã!
Hãn Thanh đình bộ, lạnh lùng bảo:
- Vì các nàng là nữ nhân, ta không nỡ giết! Hãy tự phế võ công rồi rời khỏi nơi này ngay!
Chàng ngạc nhiên khi thấy nữ lang áo sa nở nụ cười mê hoặc:
- Thiếp là Lạc Bình, dám hỏi phương danh của bậc anh hùng?
Nàng vừa nói vừa cởi áo lông, để lộ tấm thân khêu gợi ẩn hiện dưới lớp sa. Và rồi, những mảnh sa kia cũng rơi xuống mặt cỏ xanh.
Cơ thể mượt mà kia lồ lộ phơi bày dưới mặt trời xuân, uốn éo bước đến.
Hãn Thanh lúng túng, không dám nhìn vào pho tượng mỹ miều, chẳng biết phải đối phó thế nào!
Lạc Bình bật cười khanh khách, lướt đến tấn công. Tiếng cười của nàng khiến huyết mạch Hãn Thanh căng phồng. Lạc Bình hoàn toàn không phòng thủ, ưỡn ngực như mời gọi đối phương hạ thủ. Nàng đứng trên gió nên mùi u hương tỏa vào mũi Hãn Thanh, càng tăng phần quyến rũ.
Chàng không đủ nhẫn tâm để thọc kiếm vào da thịt mịn màng kia, đành chống đỡ và tránh né. Chỉ sau vài chục chiêu, Hãn Thanh đã hoàn toàn bị hạ phong, đường kiếm rối loạn, lộ sơ hở rất nhiều. Chàng là một chàng trai mới lớn, khí huyết phương cương, khó mà chống cự lại mị lực của Ngũ Đài Ma Cơ.
Lạc Bình tuy mới nổi danh vài năm trở lại đây nhưng đã không ít nam nhân bỏ mạng dưới tay nàng. Tiếng cười của Ma Cơ chính là công phu Lạc Hồn Tiếu, và mùi u hương từ cơ thể nàng là một loại xuân dược hãn thế.
Biết đối phương đã thấm đòn, Ngũ Đài Ma Cơ nhếch mép cười độc ác, lao đến như ánh chớp. Mũi kiếm của nàng nhắm vào ngực Hãn Thanh, quyết chẳng để chàng sống sót.
Dù đang mê muội, bản năng cầu sinh cũng giúp Hãn Thanh tung người né tránh, nên chỉ bị đâm thủng bắp tay trái. Chàng được Mông Diện La Sát trui rèn bằng công phu Thiên Ma Bách Luyện, khi cơ thể bị đau đớn, lập tức có phản ứng ngay. Da thịt chàng săn lại, kịp lấy lưỡi kiếm, và đầu óc tỉnh táo trở lại. Chàng nghiến răng vung cước quất vào bụng dưới Ngũ Đài Ma Cơ, ả hự lên, văng ngược ra sau, máu miệng phun thành vòi.
Bọn nữ lang áo trắng kinh hãi vội chạy đến bảo vệ chủ nhân và tấn công Hãn Thanh. Chàng nghe vết thương ngứa ngáy vì chất độc, vội điểm huyệt phong bế kinh mạch tay trái.
Biết mình đã lâm cảnh hiểm, Hãn Thanh đành phải nặng tay để thanh toán gấp chiến trường, hầu tìm chỗ trục độc. Thanh Hầu Tước Kiếm vun vút như bánh xe thép chạt phăng những cánh tay cầm kiếm của đối phương.
Chất độc lan dần trong máu, càng khiến chàng thêm hung hãn nhu thú dữ. Đám thủ hạ của Ngũ Đài Ma Cơ rên la thảm khốc, không còn dám diên trì, vội rủ nhau đào tẩu.
Hãn Thanh không đuổi theo, bước đến bên Lạc Bình. ® uống linh đan nên thương thế đỡ nhiều, không còn ói máu nữa, nhưng vẫn chưa đứng lên được. Nhìn đôi mắt đỏ ngầu của Hãn Thanh, Ma Cơ sợ khiếp vía, gượng cười van xin:
- Mong đại hiệp tha mạng, thiếp xin dâng thuốc giải độc!
Hãn Thanh lạnh lùng bảo:
- Ta không cần thuốc giải, chỉ muốn giết nàng để trừ hại cho bách tính mà thôi!
Ma Cơ bật khóc, van lạy như tế sao:
- Mong đại hiệp khai ân! Tiện thiếp chỉ tuân mệnh sư phụ mà hành sự chứ đâu muốn giam mình ở chốn hoang vu này làm gì? Lạc Bình xin làm nô tỳ, suốt đời hầu đại hiệp!
Hãn Thanh nghe tiếng khóc nỉ non, không đành lòng xuống tay. Chàng nghiêm nghị bảo Ma Cơ:
- Lạc cô nương, nay tại hạ vì đức hiếu sinh của trời đất mà tha mạng cho nàng, nhưng cô nương phải lập trọng thệ, suốt đời không được làm ác nữa!
Lạc Bình mừng rỡ thề ngay:
- Tiện thiếp Lạc Bình xin hoàng thiên chứng giám, từ nay hướng thiện xin một dạ trung thành với chủ nhân!
Hãn Thanh cau mày:
- Ta chỉ cần nàng phục thiện, việc làm nô bộc không nên nói đến!
Ma Cơ buồn bã nói:
- Chắc đại hiệp chê tiện thiếp là phường phóng đãng! Thực ra thân này vẫn còn là xử nữ! Do luyện tà công nên phong vận mới lả lơi thế thôi!
Nàng dừng lại, giương cặp mắt ai oán nói:
- Thuốc giải để trong khuê phòng. Tiện thiếp đi không nổi, dám phiền đại hiệp giúp một tay!
Hãn Thanh đỏ mặt, cúi xuống nhặt chiếc áo lông trùm lên tấm thân trắng trẻo kia, rồi bồng nàng đi vào tòa nhà gỗ trong rừng.
Ma Cơ thỏ thẻ:
- Xin đại hiệp cho biết phương danh?
Chàng không quen nói dối nên thành thực đáp:
- Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh!
Ma Cơ giật mình rồi cười khúc khích:
- Thì ra Tiểu Hầu Gia mang mặt nạ!
Nàng thò tay lột mảnh da hóa trang, lặng người trước vẻ anh tuấn phi phàm của chàng trai.
Ngũ Đài Ma Cơ tự hào nhan sắc mình tựa tiên nga, nên khó khăn trong việc chọn tình quân. Dù nàng mang danh Ma Nữ nhưng vẫn được đám hào hiệt võ lâm mê như điếu đổ. Nay gặp Hãn Thanh võ nghệ cao siêu, dung mạo anh tuấn tuyệt luân, lòng xuân nữ rộn ràng. Nàng nhìn say đắm gương mặt chàng, cố nén tiếng thở dài. Nàng hối hận vì đã xử dụng Ma Tiếu Mê Hương Khúc, phô bày thân thể, khiến Hãn Thanh ngộ nhận là dâm nữ.
Vào đến khuê phòng, Lạc Bình vội lấy thuốc giải độc cho Hãn Thanh uống, và băng bó vết thương. Tất nhiên nàng đã mặc y phục chỉnh tề trông rất đoan trang thùy mị.
Hãn Thanh phục hồi công lực, lập tức chữa vết nội thương của Ngũ Đài Ma Cơ. Nàng rất cảm động và càng nặng tình với chàng trai xinh đẹp, anh hùng.
Lạc Bình pha thuốc giải Lạc Phách Tán vào lu nước lớn. Rồi cùng Hãn Thanh ra gọi gần trăm gã công nhân si ngốc vào. Họ vẫn cặm cụi làm việc, không hề đế ý đến trận chiến lúc nãy.
Bọn nam nhân của thôn Quả Phụ uống xong, lăn ra ngủ vùi, mấy khắc sau mới tỉnh lại, sợ hãi bỏ chạy cả về làng.
Hãn Thanh cũng từ giả Ngũ Đài Ma Cơ. Nàng buồn bã nói:
- Gia sư là Kim Thạch Tà Tẩu đã tìm ra mỏ bảo ngọc này, và bắt tiện thiếp phải coi sóc việc khai thác. Nay công tử đến đây cũng là giải thoát cho tiện thiếp. Kẻ bạc mệnh này mồ côi từ nhỏ, ngoài Ngũ Đài Sơn, chẳng còn chốn để dung thân. Nếu trở lại đó, trước sau gì cũng sa vào mỏ tà ma. Mong công tử cho tiện thiếp theo hầu.
Ánh mắt nàng rất thiết tha và đôi dòng châu chảy dài trên gương mặt đẹp não nùng. Hãn Thanh thoáng nghe lòng bâng khuâng, thương nàng cũng mồ côi như mình. Chàng thở dài bảo:
- Thôi được! Tạm thời cô nương cứ tháp tùng tại hạ, khi nào muốn ly khai xin cứ tùy tiện!
Ngũ Đài Ma Cơ hoan hỉ nghiêng mình vái tạ:
- Nô tỳ Lạc Bình xin bái kiến công tử!
Nàng mỉm cười nói tiếp:
- Phía sau có suối nước nóng, mời công tử ra đấy tắm gội!
Sau trận chiến, y phục Hãn Thanh dính đầy máu, cơ thể nhớp mồ hôi, liền nghe lời Lạc Bình. Tay trái chàng đang băng bó nên cử động khó khăn, đàng đứng ngâm dưới làn nước nóng ấm, để mặc Ma Cơ hầu hạ. Nàng mặc nguyên y phục, tắm gội cho Hãn Thanh. Chàng luyện võ từ nhỏ nên thân hình rắn chắc, cường tráng, bắp thịt nổi từng múi rất đẹp.
Lạc Bình run rẩy kỳ cọ, mặt đỏ hồng vì thẹn. Hãn Thanh nhận ra điều ấy, cười hỏi:
- Sao lúc thoát y nàng không biết xấu hổ?
Ma Cơ lí nhí đáp:
- Thực ra nô tỳ cũng rất thẹn thùng, chỉ vì lòng hiếu sát mạnh hơn đấy thôi! Nhưng đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chẳng bao giờ nô tỳ dùng đến Ma Tiếu Mê Hương Khúc nữa.
Hãn Thanh nhớ đến Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương, buột miệng nói:
- Té ra ta là người đầu tiên chiêm ngưỡng thân hình tuyệt mỹ của nàng?
Lạc Bình ngượng ngùng gật đầu, dáng điệu rất đáng yêu.
Hãn Thanh vui vẻ kể cho nàng nghe việc mình giải cứu Hà Hồng Hương.
Ma Cơ bật cười khanh khách, ngây thơ như một sơn nữ!
Chiều ngày hai mươi bốn tháng hai, có đôi kỵ sĩ lững thững đi vào trấn Hoa Sơn. Nam tuổi tam tuần, dung mạo hiền lành. Nữ thắt hai bím tóc dài, vọ phục xanh bó sát thân hình óng ả. Nàng xinh đẹp đến nỗi khách nhân qua lại trên đường phải suýt xoa khen ngợi và nhìn không chớp mắt. Xem ra hán tử kia không xứng đôi với một nàng tiên như vậy!
Ngũ Đài Ma Cơ thành danh với mái tóc bới cao kiêu sa và y phục hở hang, mỏng manh. Nay với hai bím tóc và võ phục kín đáo, khó ai dám nghĩ nàng lại là ả ma nữ khét tiếng năm xưa! Vả lại, sắc diện nàng giờ đây thủy mị, ngoan hiền, chẳng một nét lẳng lơ, phóng túng! Lạc Bình đã đoạn tuyệt với quá khứ, lấy tên Trinh Nô để bày tỏ lòng dạ của mình.
Như vậy nam nhân kia chính là Mộ Dung Hãn Thanh. Hai người ghé vào Sơn Tây Đại Lữ Điếm nghỉ trọ, định đêm xuống sẽ đột nhập Động Thiên Quán trên ngọn Vân Phong của rặng Hoa Sơn.
Bọn tiểu nhị hoan hỉ đón chào thượng khách. Đây là lữ điếm sang trọng nhất vùng núi Hoa Sơn nên chưởng quỷ chẳng bao giờ hỏi han nhiều. Nghe khách khai sao lão ghi vậy, thực giả chẳng quan trọng! Hơn nữa, nhìn hai thanh trường kiếm trên lưng đôi nam nữ này, lão đoán họ đến dự hôn lễ của Động Thiên Đạo Quán.
Vì cho rằng họ là phu thê nên lão thản nhiên bảo tiểu nhị đưa khách vào một phòng thượng hạng.
Hãn Thanh khẽ cau mày nhưng không đòi thêm phòng nữa! Chàng đã xem Lạc Bình là tỳ nữ của mình nên không chấp nhất tiểu tiết. Ngũ Đài Ma Cơ mừng thầm, soạn hành lý, chuẩn bị cho Hãn Thanh tắm gội.
Vết thương ở bắp tay trái chưa lành hẳn. Chàng vẫn cần sự chăm sóc của người khác. Hơn nữa, chàng bắt đầu thích thú đôi bàn tay mềm mại của nữ nhân. Nó khiến chàng nhớ lại ngày còn thơ dại, được thân mẫu nâng niu.
Tuyết đã thôi rơi nhưng trời vẫn lạnh cắt da, được ngâm mình trong nước nóng quả là điều tuyệt diệu. Phòng tắm kín đáo nên mùi u hương từ cơ thể Lạc Bình tỏa ngát. Hãn Thanh hiếu kỳ hỏi:
- Trinh Nô! Vì sao người nàng lại có mùi thơm kỳ lạ như vậy?
Lạc Bình thẹn thùng đáp:
- Nô tỳ luyện tà công, được ân sư ban cho một mảnh Long Diên Hương.
Nhờ vậy, công lực tăng tiến mười năm và da thịt tỏa mùi thơm nhè nhẹ! Khi thi triển Ma Tiếu Mê Hương Khúc, mùi hương sẽ đậm đà hơn!
Hãn Thanh gật đầu khen:
- Nàng quả là người hiếm có trên đời!
Chàng tắm xong, bước ra ngoài gọi một mâm cơm, chờ Lạc Bình tắm xong sẽ cùng ăn.
Hơn khắc sau, Ngũ Đài Ma Cơ bước ra. Mái tóc xỏa dài vì chưa khô hẳn và bộ áo vải trắng tinh khiến nàng trông rất giống Trịnh Thiếu Thuần. Hãn Thanh thở dài, nhìn nàng mà nhớ đến người xưa!
Lạc Bình nào biết điều ấy, sung sướng vì được chàng ngắm nghía, vui vẻ bới cơm, rót rượu. Hãn Thanh chỉ ăn hai chén đã no ngang, buông đũa rót rượu, uống liền ba chung đầy. Trong lúc Lạc Bình ăn nhỏ nhẹ như mèo, Hãn Thanh đã uống được tám chung. Thấy ánh mắt chàng ngày càng thắm thiết, nàng thẹn thùng nói:
- Công tử cứ nhìn mãi như vậy, làm sao nô tỳ nuốt nổi!
Hãn Thanh buồn bã nói:
- Hôm nay, trông nàng rất giống người vợ quá cố của ta!
Lạc Bình giật mình:
- Nô tỳ chưa hề nghe võ lâm nhắc đến việc công tử lập gia thất!
Hãn Thanh cười thảm:
- Vong thê tên Trịnh Tiểu Thuận, từ trần đã được hai năm. Xác nàng vẫn còn quàng ở núi Hằng Sơn. Ta định cứu xong Hà Hồng Hương sẽ đi đến đấy!
Lạc Bình ấp úng:
- Nô tỳ không ngờ công tử lại có nỗi thương tâm to lớn như vậy. Dám hỏi Trịnh nương là người ở đâu, vì sao lại bạc mệnh như vậy?
Hãn Thanh chẳng biết giải thích thế nào, chỉ nói một câu:
- Tiểu Thuần là ma chớ không phải là người! Hồn nàng lúc nào cũng quanh quẩn bên ta!
Lạc Bình tuy mang danh Ma Cơ nhưng lại sợ ma. Nàng co rúm người, liếc quanh như muốn tìm Tiểu Thuần, miệng trách móc:
- Công tử đừng làm nô tỳ sợ hãi!
Lạc Bình kéo ghế ngồi sát Hãn Thanh. Và ngay lúc ấy, một ngọn gió lạ lạnh lẽo thổi vào, khiến ngọn nến sáp ong chập chờn như sắp tắt, dù cửa nẻo đều đóng kín. Lạc Bình rú lên ôm chặt lấy Hãn Thanh. Nhưng chàng lại mừng rỡ gọi:
- Tiểu Thuần! Tiểu Thuần!
Tiếc rằng chẳng có ai lên tiếng, thấy Ma Cơ run lên bần bật, Hãn Thanh mỉm cười an ủi:
- Trịnh tỷ tỷ là người nhân hậu, hiền lành, có gì mà nàng phải sợ?
Lạc Bình ngượng ngùng buông chàng ra. Hai người bàn bạc kế hoạch đột nhập Văn Phong đến tận chiều. Đêm qua, họ ngủ chập chờn trong một chiếc chòi rách ven đường, giờ đây ai cũng mệt mỏi. Ngũ Đài Ma Cơ che miệng ngáp, nhình Hãn Thanh với vẻ van nài! Chàng hiểu ý, bảo nàng:
- Trịnh Nô đi ngủ đi! Canh ba chúng ta mới khởi hành mà! Ta cũng phải ngã lưng một chút!
Lạc Bình gọi tiểu nhị dọn chén bát, rồi bẽn lẽn nằm xuống mép giường, chờ Hãn Thanh ngủ say, nàng lăn vào, nằm sát chàng để đở sợ.
Cuối canh ba có hai bóng đen lướt như bay trên núi Vân Phong. Động Thiên Đạo Quán không một ánh đèn, nằm lưng chừng núi.
Hãn Thanh và Lạc Bình ngủ quên nên đến trễ. Chính vì vậy họ phát hiện có một toán người đang đi trước mình. Hơn trăm gã hắc y êm thấm tiến dần đến khu rừng tùng vây quanh đạo quán.
Hãn Thanh luyện phóng ám khí từ năm bảy tuổi nên nhãn lực tinh tường, dù chỉ có ánh sao trời lấp lánh. Chàng nhận ra bộ pháp quen thuộc của bọn môn nhân nhà Mộ Dung, mừng rỡ bám theo. Chàng tin rằng với sự hỗ trợ của họ, việc giải cứu Viên Nguyệt Hằng Nga sẽ dễ dàng hơn. Chàng và Ma Cơ giữ khoảng cách mười trượng với toán người của Nhất Bất Thông. Như vậy là Phi Châm Môn đã nhờ đến lực lượng Hầu Phủ để tập kích sào huyệt của Tây Nhạc Lão Quái.
Chàng ngạc nhiên khi thấy họ tiến rất nhanh, và không gặp trở ngại nào.
Nhưng sau bước chân của họ là hàng chục xác người. Nhìn vũ khí cũng biết chúng là thủ hạ Phù Dung Hội!
Ngũ Đài Ma Cơ hít mạnh vài cái rồi thì thầm:
- Công tử! Không hiểu sao đám người đi trước lại có được Vô Hình Chi Độc của Thiết Địch Thần Y!
Chàng hạ giọng đáp:
- Họ là cao thủ của Mộ Dung Hầu Phủ và Phi Châm Môn, được thống lãnh bởi Nhất Bất Thông Chu Minh. Họ Chu là bằng hữu của Bạch Thần Y, tất nhiên sẽ có loại kỳ độc ấy.
Nửa khắc sau, phe Chu Minh đã vượt qua phòng tuyến cuối cùng, tiến vào khu vực phía sau đạo quán. Mục tiêu của họ chính là tòa nhà xây bằng đá núi. Chắc chắn nơi đây phải là nơi giam giữ Hà Hồng Hương, vì những công trình khác đều bằng gỗ.
Nhưng khi còn cách thạch lao hơn mười trượng, bọn Chu Mình nằm cả lại, chỉ cho một người vào dọ thám. Gã này có khinh công cực kỳ linh hoạt, thoắt ẩn thoắt hiện, nương theo những bụi hoa mà áp sát mục tiêu.
Thấy không ai canh gác, gã hí hoáy mở khóa sắt. Tài nghệ đạo chích của gã thật đáng khen, chỉ nháy mắt đã vô hiệu hóa được hai ổ khóa. Gã đẩy mạnh cánh cửa rồi nép sang một bên, nhờ vậy mà thoát chết vì từ bên trong có bốn lưỡi búa phóng ra nhu ánh chớp.
Và rồi đèn đuốc sáng rực, tiếng chuông báo động gõ vang. Mấy chục gã sát thủ Phù Dung Hội từ trong ùa ra, nhưng gã hắc y đã nhanh chân tung mình lên nóc thạch lao! Dưới ánh đuốc, vóc dáng gã khá giống Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh.
Tây Nhạc Lão Quái đã ra đến. Lão cười ghê rợn bảo:
- Mộ Dung Tiểu Cẩu! Lão phu đã tiên đoán thế nào ngươi cũng đến đây.
Đêm nay, lão phu sẽ bắt sống ngươi để lấy họa đồ Kim Ngọc Bồng Lai Đảo!
Gã hắc y bịt mặt cười ha hả, vung tay rải liền mấy trái cầu trắng, tiếng nổ tuy nhỏ nhưng ụi phấn mịt mù, tỏa mùi hăng hắc!
Hàn Lão Quái kinh hãi quát vang:
- Mau lùi lại!
Nhưng tiếc rằng đã có mấy chục tên lảo đảo gục ngã. Và đồng thời bọn Chu Minh từ phía sau ập đến. Độc châm của Phi Châm Môn rải như mưa, loại thêm một số sát thủ nữa.
Năm mươi cao thủ nhà Mộ Dung lao vào như mãnh hổ, bản lãnh của họ hơn hẳn bọn sát thủ Phù Dung. Lối đánh kiêu dũng, hung hãn của họ càng khiến đối phương khiếp đãm. Dòng máu Hung Nô đang cuồn cuộn trong huyết quản người Tiên Ty, khiến họ không biết sợ là gì.
Tây Nhạc Lão Quái bị bốn tay đầu não của Phi Châm Môn vây đánh, nhưng xem ra họ không xứng là địch thủ của họ Hàn. Chưởng Kình của Lão Quái hùng mạnh tuyệt luân, đánh bạt cả kiếm lẫn người. Bọn Hà Hồng Tập, Chu Minh, Triệu Huy Phong và Vương Nghĩa Quỳnh phải liều mạng tương trợ lẫn nhau mới tạm duy trì được cuộc chiến.
Hãn Thanh nói với Ngũ Đài Ma Cơ:
- Trinh Nô, nàng thử đi một vòng, tìm xem Hà cô nương bị giam ở chốn nào. Ta sẽ tiêu diệt lão họ Hàn kia!
Nói xong, chàng lướt vòng ra phía sau thạch lao, tung mình lên mái ngói, vung chưởng đánh thủng rồi nhảy xuống, thấy chẳng có tù nhân nào, chàng lo lắng chạy ra cửa trước, đề khí bốc lên cao hơn trượng bủa lưới kiếm xuống đầu Tây Nhạc Lão Quái. Chiêu Nguyệt Trầm Thu Thủy này chuyên dùng để tấn công từ trên xuống. Kiếm quang bàng bạc như ánh trăng, nhờ phản chiếu của đuốc, sa xuống tựa vầng nguyệt rơi rụng mặt hồ thu.
Phép Ngự Kiếm chẳng mấy người học được, vì vậy mà Hàn Lão Quái nhận ra ngay Hãn Thanh. Lão vội đề khí, nhún chân bay chếch lên cao, tránh thế công của bốn kẻ địch phía dưới. Và rồi lão cử chưởng giáng mạnh vào màn kiếm ảnh của Hãn Thanh.
Phách không chưởng là tuyệt học thượng thừa của môn võ học Trung Hoa, có thể dùng chân khí đả thương người ở khoảng cách xa. Nay Hàn Thế Đức có đến gần hoa giáp công lực, chưởng kình càng bội phần mãnh liệt. Lão lại căm hận đối phương thấu xương nên dồn hết toàn lực vào song thủ.
Nào ngờ, chiêu tuyệt kiếm này lại biến hóa khôn lường, chỉ nháy mắt đã xoay dọc thành chiếc mâm dẹp, xé toang chưởng kình, ập vào người đối phương. Mũi kiếm đâm thủng yết hầu và rạch thẳng xuống bụng.
Phủ tạng Tây Nhạc Lão Quái lộ hẳn ra ngoài, lão rú lên thảm khốc, rơi xuống mặt đất, mắt trợn trừng kinh ngạc và oán hận.
Hãn Thanh đắc thủ nhưng cũng phải trả giá khá đắt. Cửu ém Thần Chưởng đã khiến chàng hộc máu thành vòi, thân trên lạnh giá tê cứng, và ngực đau đớn vô cùng!
Chàng vội nuốt liền hai viên Tịnh Cốc Toàn Sinh Đan của Thiết Địch Thần Y rồi ngồi điều tức. Bọn Chu Minh đã nhận ra Tiểu Hầu Gia, mừng rỡ vây chặt để bảo vệ.
Cuộc chiến chung quanh cũng đã sắp kết thúc vì bọn sát thủ Phù Dung Hội thương vong rất nhiều. Bọn còn lại đều đào tẩu cả. Hà Hồng Tập vội quát thủ hạ lục soát, tìm cho được Hà tiểu thư. May thay, một gã hắc y nhỏ thó đã cõng Viên Nguyệt Hằng Nga chạy đến. Thấy Hãn Thanh ngồi vận khí mà máu miệng cứ ứa ra, gã vội trao Hà Hồng Hương cho Vương Nghĩa Quỳnh, phó môn chủ của Phi Châm Môn, rồi quỳ xuống cạnh Hãn Thanh.
Hà Hồng Tập mừng rỡ hỏi:
- Các Hạ là cao nhân phương nào mà lại cứu được khuyển nữ?
Gã lột khăn che mặt, để lộ dung nhan kiều diễm rồi ngượng ngùng đáp:
- Tiện nữ là nô tỳ của Tiểu Hầu Gia! Công tử đã sai nô tỳ đi tìm Hà tiểu thư, may mà không nhục mệnh!
Tinh Châu Tài Thần thấy nàng xinh đẹp và có phần quyến rũ hơn ái nữ của mình, lòng vô cùng thắc mắc.
Tuyệt đại hồng nhan ở đất Sơn Tây chỉ có hai người, Nhất Bất Thông kiến văn rộng như biển, trí nhớ lại phi thường. Ông từng gặp Ngũ Đài Ma Cơ nên vẫn chưa quên, liền hỏi:
- Phải chăng cô nương họ Lạc?
Ma Cơ thản nhiên đáp:
- Tiện nữ là Mộ Dung Trinh Nô!
Chu Minh bán tín bán nghi nhưng không dám hỏi thêm.
Vương Tứ Nương không làm sao cho Hà Hồng Hương tỉnh lại được, liền hỏi Chu Minh:
- Nhị ca! Hương nhi vẫn mê man bất tỉnh!
Nhất Bất Thông thăm mạch cho cháu gái, lắc đầu chịu thua. Ngũ Đài Ma Cơ nói ngay:
- Hà tiểu thư bị cho uống Thập Nhất Túy, phải đưa về gặp Thiết Địch Thần Y mới giải được!
Chu Minh nghe xong càng khẳng định nàng là đại ma nữ Lạc Bình. Sư phụ nàng, Kim Thạch Tà Tẩu tinh thông nhiều môn tuyệt học như kiến trúc, địa chất, thiên văn, hàng hải, y thuật và độc dược. Mộc Tiểu Luân học gì cũng giỏi hơn người, kiến thức sâu sắc, chứ không phải chỉ có bề rộng như Nhất Bất Thông!
- Tuy trò chuyện nhưng mọi người đều dán mắt quan sát Hãn Thanh.
Lúc này mồ hôi chàng toát ra như tắm, đến nỗi chiếc mặt nạ da người rơi ra.
Cuối canh năm, Hãn Thanh mới hồi phục, đứng lên. Đám môn nhân nhà Mộ Dung hân hoan quỳ cả xuống:
- Chúng đệ tử mừng Tiểu Hầu Gia thoát hiểm!
Bọn họ băng bó đầy người nhưng chỉ là những vết thương nhẹ và không ai bỏ mạng. Hãn Thanh phủ dụ họ vài câu rồi quay sang bái kiến Chu Minh cùng ba lão nhân của Phi Châm Môn. Nhìn thấy Viên Nguyệt Hằng Nga nằm trong lòng Vương Tứ Nương, chàng hài lòng khen ngợi Lạc Bình:
- Trinh Nô giỏi lắm!
Ngũ Đài Ma Cơ sung sướng cúi đầu. Hãn Thanh quay sang nói với Chu Minh:
- Mong Chu đại thúc đưa ngay anh em về Lạc Dương để bảo vệ lão Hầu Gia, bất tất phải đi theo tại hạ làm gì! Nghe nói Thần Tiên Giáo đã có kế hoạch vào quốc khố để tìm bản đồ Bồng Lai Đảo. Nếu họ thất bại sẽ tìm cách bắt lão Hầu Gia, dùng tà pháp mà mê hoặc!
Những điều này đều do Ngũ Đài Ma Cơ tiết lộ cho Hãn Thanh nghe. Kim Thạch Tà Tẩu chính là tình nhân của Hải Hà Tiên Tử, và đóng vai trò quân sư cho mụ ta!
Nhất Bất Thông rầu rĩ hỏi lại:
- Sao công tử không nghĩ đến an nguy của bản thân mình?
Hãn Thanh cười đáp:
- Với dung mạo giả này, ai nhận ra được mà phải sợ?
Quả thực là nghệ thuật chế tác mặt nạ da người đã bị thất truyền. Hai chiếc mà Thiết Địch Thần Y đã tặng cho Hãn Thanh đáng xem là báu vật. Nó rất tinh xảo và giống như thật, khó ai khám phá ra được.
Hãn Thanh nói thêm:
- Tại hạ đi lên hướng Bắc có chút việc riêng, chắc chắn sẽ về Lạc Dương trước ngày khai đàn của Thần Tiên Giáo ở Tung Sơn!
Nhất Bất Thông lo lắng cho lão Hầu Gia nên đồng ý rút quân, chỉ nhắc nhở Hãn Thanh bảo trọng.
Chàng không để Phi Châm Môn mở lời cảm tạ, lạnh lùng cáo từ đi ngay!
Hà môn chủ cay đắng nói:
- Chỉ vì mụ già ngu xuẩn mà lão phu hụt mất chàng rể quý. Tội nghiệp cho Hương nhi!
Nhất Bất Thông cười khà khà:
- Đại ca chớ lo! Tiểu đệ đã có diệu kế để tác hợp mối lương duyên này Hà Hồng Tập hoan hỉ bảo:
- Diệu kế gì, nhị đệ mau nói cho ta rõ!
Chu Minh nghiêm giọng:
- Lão Hầu Gia đang muốn cho Hãn Thanh lập gia thất. Nay ta đưa Hồng Hương đến Lạc Dương để kề cận lão Hầu Gia. Nếu Hương nhi chiếm được lòng thương yêu của Mộ Dung Cẩn, chẳng lẽ Tiểu Hầu Gia dám cãi lời nội tổ?
Hà môn chủ và hai em hết lời khen ngợi Nhất Bất Thông, quyết định sẽ theo kế ấy mà thi hành!
Hồi 7
Thủy Biên Nhân Quỷ Vi Phu Phụ
Bán Dạ Tân Lang Đáo Hoàng Tuyền
Ngũ Đài Ma Cơ sinh trưởng và thành danh ở đất Sơn Tây nên rất thông thuộc địa hình, đường sá. Nàng đưa Hãn Thanh lên hướng Bắc bằng lối tắt, không cần phải ghé qua Tinh Châu.
Đường núi gập ghềnh nhưng cảnh thiên nhiên vô cùng diễm lệ. Hoa xuân nở rộ khắp nơi, thú rừng nhộn nhịp mùa giao phối.
Với tài nghệ của hai người, chẳng lo thiếu thịt ăn, nước uống đã có suối nguồn. Đêm đến, họ gầy đống củi, nằm bên nhau trò chuyện. Hãn Thanh thản nhiên ôm lấy thân hình mềm mại của Lạc Bình mà ngủ. Chàng luôn nghĩ đến hồn ma của Tiểu Thuần nên chẳng động tình trước mùi u hương quyến rũ và da thịt mượt mà của Ma Cơ. Tuy nhiên, tình cảm trong lòng chàng mỗi ngày một thắm thiết.
Hãn Thanh đã kể hết mối tình của mình với hồn ma cho Lạc Bình nghe.
Nàng sa lệ thương xót Tiểu Thuần chứ không bài bác chàng là người hoang tưởng. Cuộc tình kia tuy mang màu sắc ma quái nhưng đẹp biết bao, thường nhân luyến ái chẳng thể nào được như vậy!
Năm ngày sau, hai người ra đến đường quan đạo, cách Tinh Châu hơn trăm dặm. Từ đây đến Hằng Sơn, Hãn Thanh không có kẻ thù nên chẳng hóa trang làm gì. Sau khi giết được Tây Nhạc Lão Quái, chàng tự tin vào sở học của mình. Tuy công lực còn yếu kém, nhưng nếu biến hóa, xử dụng đúng lúc sẽ đạt kết quả tốt. Nhưng điều ấy cũng nói lên nhược điểm của chàng, vì kẻ địch chẳng phải một người, đâu ai chờ chàng hồi phục mới tấn công? Hãn Thanh ước ao tìm được Hồng Sắc Mãng Xà để hoàn thành công phu Thiên Ma Bách Luyện và tăng thêm mười năm chân khí!
Chàng đã nói điều này với Ngũ Đài Ma Cơ. Chính vì thế, khi đi ngang dãy núi Ngũ Đài Sơn, Lạc Bình thỏ thẻ nói:
- Công tử! Nô tỳ còn một nhủ nương ở dưới chân núi Ngũ Đài. Lần này, nô tỳ ly khai môn phái, trước sau gì gia sư cũng biết, lúc ấy sẽ di hại đến nhũ nương. Nhân lúc gia sự bận việc xây dựng tổng đàn ở Tung Sơn, và nội tình chưa đổ bể, nô tỳ sẽ về núi Nam Đài, bảo nhũ nương dọn nhà đi nơi khác.
Đồng thời, nô tỳ sẽ lục tìm trong thư các của gia sư, may ra biết được Hồng Sắc Mãng Xà ở địa phương nào. Sau đó, nô tỳ sẽ đến Hằng Sơn tìm công tử!
Hãn Thanh cân nhắc, biết nàng không hề gặp nguy hiểm, liền chấp thuận:
- Trinh Nô cứ đi, nhưng nhớ bảo trọng! Nàng hãy bảo nhũ nương về Hầu Tước phủ ở Lạc Dương mà nương náu. Sau này, nàng mới có dịp cận kề mà phụng dưỡng!
Lạc Bình mừng rỡ, nhìn chàng say đắm, đôi mắt nhung huyền ướt rượt như hoa đào:
- Công tử định đưa cả nô tỳ về Hầu Phủ sao?
Hãn Thanh cười mát:
- Chẳng lẽ nàng không muốn thế? Ta sẽ giữ nàng cho đến khi xuất giá mới thôi!
Ma Cơ thẹn thùng nói:
- Nô tỳ sẽ mãi mãi theo hầu công tử, chẳng đi đâu cả!
Câu nói và ánh mắt nói lên mối tình tha thiết của nàng khiến Hãn Thanh xao xuyến đến tận cùng. Nếu không bị chìm đắm trong cuộc tình ma mị với Tiểu Thuần, chàng đã sớm nhận rõ vị trí của Lạc Bình trong tim mình!
Hãn Thanh bối rối nhìn theo bóng Lạc Bình xa dần về hướng Đông, lòng bỗng nghe trống vắng. Cảm giác ấy càng tăng khi một mình chàng dong ruổi đến Hằng Sơn. Xuân đã về, cảnh vật bên đường tươi thắm, rực rỡ hơn nhưng sai chàng vẫn cảm thấy buồn!
Con người là giống đa tình nhất thế gian, bảo sao Hãn Thanh không rung động trước nhan sắc và tâm tình của Ma Cơ!
Hãn Thanh ra roi phi nước đại, nửa tháng sau mới đến Hằng Sơn. Thấy bìa rừng có căn thảo xá mới, chàng ghé vào gởi ngựa. Chủ nhà là một gã tiều phu lực lưỡng, tuổi tam tuần. Vợ gã và đứa con sáu tuổi cũng chạy ra xem khách lạ.
Hãn Thanh vòng tay nói:
- Tại hạ có việc phải vào núi. Mong đại huynh chăm sóc dùm tuấn mã!
Phong thái chàng rất tôn quý uy nghiêm, dù khiêm tốn vẫn lộ rõ giòng dõi vương hầu. Gã tiều phu vội đáp:
- Công tử yên tâm, tiểu nhân xin tận lực!
Hãn Thanh trao cho gã nén bạc mười lượng rồi dặn dò:
- Khi nào có một nữ lang thắt bím đến hỏi thăm, mong đại huynh chỉ lên ngọn núi thấp kia!
Gã tiều phu run rẩy nhận bạc, vái dài:
- Công tử quả là hào phóng. Lỗ Nhị xin đa tạ!
Đôi mắt của gã cũng sáng lên vì nén bạc trắng. Đối với người nghèo, dù làm lụng cực khổ năm năm cũng không dư được mười lượng!
Lỗ Nhị rụt rè hỏi:
- Phải chăng công tử định lên ngọn núi thấp kia?
Gã vừa nói vừa chỉ về phía ấy. Hãn Thanh gật đầu và Lã Nhị thì thầm:
- Bẩm công tử! Ngọn núi ấy có tên là Bách Mộc Phong, vì khu rừng chung quanh và trên sườn núi có rất nhiều cây bách. Từ sáu năm trước, ở đấy đã xuất hiện một con ma áo trắng. Mấy tháng trước, chàng công tử họ Hà, nam tử của lão Thần Tiên Bắc Nhạc, xua chó lên núi Bách Mộc săn bắn, bị ma bắt hồn nên đến nay vẫn chưa hồi tỉnh. Lão Thần Tiên đã lập đàn nơi chân núi để trấn yểm quỷ hồn!
Hãn Thanh cau mày:
- Thế con ma ấy còn làm hại ai khác nữa không?
Lỗ Nhị lắc đầu:
- Con ma ấy rất hiền lành, nếu không thì tiểu nhân đâu dám dựng nhà chốn này! Có lẽ do vị Hà công tử kia làm náo loạn nơi tu luyện nên Quỷ Hồn mới trách phạt!
Hãn Thanh thở phào, cười bảo:
- Thực ra con ma ấy rất xinh đẹp và đáng yêu!
Trong lúc vợ chồng Lỗ Nhị còn ngơ ngác, chàng xách bọc hành lý phi thân về hướng Bách Mộc Sơn. Khi đi hết đoạn đường mòn xuyên rừng Bách, đến bãi cỏ trống tiếp giáp sườn núi, chàng phát hiện một đài gỗ cao. Trên mộc đài vẫn còn cờ xí, bát nhang và một hình nhân bằng rơm, mặc áo giấy.
Hình nhân này bị dán hai đạo bùa vẽ những nét ngoằn ngoèo, giống chữ nhưng không phải chữ. Đạo gia gọi lối chữ vẽ bùa này là Văn Triện, Đan Thư hay Mặc Triện.
Hãn Thanh đã từng đọc qua vài quyển trong Đạo Tạng, nên biết về nghi thức Nhượng Tai Kỳ Phúc, trấn quỷ trừ ma của các đạo sĩ.
Chàng cười nhạt, lột hai lá bùa chữ đỏ ra khỏi hình nộm, xé vụn, rồi nhảy xuống đất, vận toàn lực xô ngã pháp đàn!
Xong xuôi, chàng mới yên tâm thượng sơn. Lên đến bình đài, Hãn Thanh giật mình khi thấy cửa hang đã mở rộng, và những tảng đá nằm lăn lóc bên cạnh. Chàng kinh hãi, lao nhanh vào động khẩu, vui mừng nhận ra thi hài của Trịnh Tiểu Thuần vẫn còn nằm ngay ngắn trên thạch sàn! Làn da trắng bệch, nhợt nhạt nhưng vẫn mịn màng, mềm mại chứ không có mùi hôi!
Hãn Thanh quy cạnh giường đá, gục đầu vào ngực Tiểu Thuần mà khóc vùi:
- Trịnh nương! Ta sẽ đưa thi hài nàng về Lạc Dương để phu thê được gần gũi!
Việc Bắc Nhạc Quỷ Trảo dựng đàn trấn yếm khiến chàng lo ngại, quyết định đưa xác Tiểu Thuần rời Bách Mộc Phong ngay! Nếu để lão lên đến tận nơi này thi sẽ không để yên cho Tiểu Thuần!
Hãn Thanh từng nghe nghĩa phụ Nam Nhạc Nhất Tà kể rằng Hà Tu Nghệ còn khó chơi hơn Tây Nhạc Lão Quái. Chàng đơn thân độc mã, dù có đả bại được lão ta cũng dám bỏ mạng vì đám đệ tử!
Hãn Thanh thu xếp hành lý của Tiểu Thuần rồi bồng nàng xuống núi, đến nhà Lẫn Nhị lấy ngựa.
Vợ chồng họ Lỗ thấy chàng ẳm một nữ nhân áo trắng, tóc dài, mặt nhợt nhạt như xác chết, sợ hãi run lên cầm cập. Hãn Thanh trấn an:
- Nhị vị đừng sợ! Đây là chuyết thê! Tại hạ sẽ mang nàng về nhà!
Hãn Thanh cáo biệt, bồng Tiểu Thuần nhảy lên ngựa, ra roi đi ngược về hướng Nam. Dọc đường chàng vẫn để ý nhìn xem có thấy Ngũ Đài Ma Cơ đi lên hay không! Qúa trưa! Hãn Thanh đến một đại trấn có tên là Vinh Xương trấn, nghe đói bụng, chàng ghé vào phạn điếm dùng bữa.
Thực khách và tiểu nhị đều trố mắt nhìn chàng công tử đẹp trai đang bồng một nữ nhân tóc dài. Thi thể Tiểu Thuần mềm mại và không có mùi hôi thối nên họ chỉ nghĩ rằng nàng mắc bệnh chứ chưa chết hẳn.
Hãn Thanh ngồi xuống, vẫn đặt ái thê trong lòng, nghiêm giọng gọi cơm rượu. Ở vùng Bắc Hoàng Hà, do không trồng được lúa nên lê thứ thường ăn bánh bao thay cho cơm. Nhờ vậy, Hãn Thanh chỉ dùng một tay cũng có thể bốc thịt và bánh.
ún xong chàng vẫy lão chưởng quỷ. Lão rụt rè bước đến:
- Chẳng hay công tử có diều chi chỉ bào?
Chàng dịu giọng:
- Chuyết thê đột ngột lâm bệnh dọc đường, phiền lão mua giúp một xe độc mã, mui kín, loại tốt nhất, giá cả không thành vấn đề!
Lão ta mừng rỡ đáp:
- May quá! Lão phu có một cỗ xe chạy rất êm nhưng ít khi dùng đến. Nếu công tử cần, lão phu xin nhượng lại!
Chàng gật đầu:
- Hay lắm! Phiền lão cho người thắng ngựa của tại hạ vào xe!
Ba khắc sau, cỗ xe đã sẵn sàng. Cái xe giá năm chục lạng cũng không đắt vì xe còn tốt và rất êm ái!
Hãn Thanh bảo lão mua giùm nệm bông, chăn gối, lót vào sàn xe. Tất nhiên phải dỡ bỏ ghế ngồi!
Chàng thanh toán bằng bạc trắng, vì đến thời này thì Đại Minh Thông Hành Bảo Sao loại tiền giấy của triều đình đã không còn giá trị nữa. Vàng bạc lại trở thành tiền tệ trong nước!
Có xe ngựa, Hãn Thanh mua thêm lương khô, nước uống để phòng khi đường dài không có quán ăn. Đêm đêm, chàng đậu xe ở bìa rừng, ôm lấy xác Tiểu Thuần mà ngủ.
Thấy thi thể nàng không bị hư hoại, Hãn Thanh vẫn nuôi hy vọng hồi sinh, ngày nào cũng nhỏ máu vào miệng và tiến hành thủ thuật châm cứu.
Mùa xuân đến, tuyết trên núi ta dần, tạo thành hàng ngàn dòng suối nhỏ trong mát. Hãn Thanh thường ghé vào rừng tắm gội, thay y phục cho ái thê.
Gần cuối tháng ba, Hãn Thanh chỉ còn cách chỗ chia tay với Ngũ Đài Ma Cơ chừng vài trăm dặm. Chàng rất lo lắng khi không thấy nàng đâu.
Nhưng chàng lại tự an ủi rằng Lạc Bình võ nghệ cao siêu, cơ trí tinh minh, tất sẽ không sao. Hơn nữa, việc nàng ly khai sư môn cũng chưa ai biết cả.
Thấy mái tóc óng ả của Tiểu Thuần phủ đầy bụi đường, Hãn Thanh vận công phu nghe ngóng, phát hiện tiếng thác reo, liền rẻ ngựa vào cánh rừng mé hữu. Xe chỉ vào được vài chục trượng là không còn đường để đi. Hãn Thanh xuống xe, ẵm Tiểu Thuần và mang hành lý đi sâu thêm nữa. Quả nhiên giữa rừng có dòng thác chảy xuống từ vách đá cao. Chân thác là một hồ nước nhỏ, bờ Đông là Thạch Bàn bằng phẳng, cao hơn mực nước một sải tay. Vì vậy nước của thác tràn ra thành dòng suối chảy về phía Nam.
Hãn Thanh đặt Tiểu Thuần lên Thạch Bàn, cởi hết xiêm áo rồi bồng xuống hồ nước. Chàng tắm gội cho ái thê mà nước mắt tuôn như suối.
Chàng đã quá quen thuộc với thân thể dấu yêu này, nhẹ nhàng gột sạch bụi đất. Thấy móng tay nàng dài hơn trước rất nhiều, chàng vô cùng sung sướng, tin rằng sẽ có ngày Tiểu Thuần sống lại!
Tắm xong, chàng bồng nàng trở lên, đặt lên trên chiếc áo choàng. Thân hình trắng như ngọc bích tuyệt đẹp nhưng chỉ gợi cho Hãn Thanh cảm giác yêu mến và tôn sùng.
Hãn Thanh cởi bộ y phục ướt đẫm của mình, trở xuống tự tắm rửa.
Chàng bơi ra giữa hồ, nơi mực nước ngập ngang ngực để gội đầu.
Nào ngờ, thân dưới của chàng dột nhiên bị quấn chặt bởi một con vật dài ngoằng, trơn tuột. Và khi nó thò đầu lên khỏi mặt hồ, ngoác chiếc mõm rộng đầy răng ngược, chàng mới nhận ra đấy là một con trăn khổng lồ.
Hãn Thanh đang gội đầu nên hai tay giơ cao, không bị mãng xà quấn lấy.
Chàng chụp ngay cổ con vật xiết mạnh, lực đạo ở song thủ của Hãn Thanh mạnh đến mấy trăm cân, chỉ chốc lát đã vặn gẫy cổ mãng xà.
Thân hình nó lỏng ra, rời khỏi con mồi. Hãn Thanh rất thích món rắn nướng liền kéo lên bờ. Chàng mừng rỡ rú lên khi thấy con trăn này có lớp vẩy đỏ hung. Nó chính là con Hồng Sắc Mãng Xà mà chàng mong ước.
Hãn Thanh rút kiếm chặt phăng chót đuôi con vật, và kê miệng hút mạnh luồng máu quý giá. Chàng uống đến căng bụng mới buông ra.
Lát sau, đan điền nóng như có lửa đốt, Hãn Thanh vội ngồi xếp bằng, dùng Nhất Nguyên Chân Khí dẩn dắt nhiệt lượng kia vào kinh mạch.
Nửa giờ sau, dược lực của máu rắn ta hết, cơ thể Hãn Thanh sung mãn phi thường. Chàng liền xả công, mở mắt ra. Chàng ngồi điều tức cạnh thi hài Tiểu Thuần nên nhìn thấy ngay. Một cảm giác thèm khát ghê gớm xâm chiếm tâm hồn chàng và chân khí lập tức rối loạn, mạch máu căng phồng như sắp vỡ tung.
Hãn Thanh kinh hoàng, vội nhẩm khẩu quyết tĩnh tâm, cố điều hòa kinh mạch và trấn áp lửa dục. Nhưng chàng chỉ uổng công vì sự thèm khát nhục dục càng lúc càng tăng. Chàng hiểu rằng máu mãng xà đã đưa đến hiện tượng này, nếu không ân ái ngay sẽ chết vì tẩu hỏa nhập ma.
Nhưng Hãn Thanh không thể nào xúc phạm đến người mình yêu kính.
Chàng bò lại gần Tiểu Thuần, khóc mà nói rằng:
- Trời đã định cho đôi ta kiếp sau mới nên chồng vợ. Nay lửa dục sắp biến ta thành kẻ vô lương. Thanh này sẽ tự sát để khỏi tổn thương danh tiết của cả hai.
Nói xong, chàng cầm thanh Hầu Tước Kiếm, đâm mạnh vào ngực. Nào ngờ, tử thi ngồi bật dậy, chụp lấy tay chàng, đoạt kiếm vất ra xa rồi mỉm cười:
- Ôi chàng ngốc của ta!
Hãn Thanh vui mưng khôn xiết, gầy ngay cuộc ái ân nồng nhiệt.
Đến tận hoàn hôn chàng mới tỉnh lại, nhận ra Tiểu Thuần đã biến mất, kinh hãi gọi vang. Nhưng người ngọc đã biệt tăm, dù trên mảnh áo choàng vẫn còn dấu tiết trinh. Và cạnh đấy là mấy dòng chữ:
"Tướng công nhã giám! Thiếp rất yêu chàng nhưng ngại thân phận xấu xa, chẳng dám cùng chàng sánh bước. Nếu chàng không chê bỏ xin đến đất Phong Đô Tứ Xuyên đúng ngày rằm tháng bảy sang năm, qua cửa Quỷ Môn Quan hội ngộ! Lạc Bình là cô gái rất tốt. Chàng đừng chê bỏ! Thiếp không ghen đâu!
Bạch Nhật Quỷ Hồn tái bút " Hãn Thanh tuy buồn ly biệt nhưng lại mừng vì còn có cơ hội sum vầy.
Chàng mặc y phục và nướng thịt Hồng Sắc Mãng Xà mà ăn.
Chàng suy nghĩ mãi về trận ái ân lúc nãy, nhớ rõ mồn một những cử chỉ nồng nàn của mỹ nhân. Những vết cào trên lưng chàng chứng tỏ Tiểu Thuần cũng cảm xúc mạnh mẽ, và lúc ấy, da thịt nàng ấm áp, hồng hào chứ không trắng bệch. Phải chăng nàng là người bằng xương bằng thịt?
Nhưng nếu là người thì lẽ nào nàng bám theo chàng để hỗ trợ mà không bị phát hiện? Và sau cuộc mây mưa, vì sao nàng lại bỏ đi?
Dẫu sao, đối với chàng thì ma hay người cũng chẳng quan trọng. Chàng quyết chờ đến sang năm sẽ đi Tứ Xuyên tìm Tiểu Thuần.
Theo truyền thuyết của Đạo Giáo thì cửa xuống âm ty ở tại đất Phong Châu, tỉnh Tý Xuyên. Tuy không lấy gì làm bằng cớ nhưng các tín đồ Thien Sư Giáo đều tin như vậy!
Hãn Thanh đọc lại thư của Tiểu Thuần, mỉm cười khi thấy nàng rộng lượng dung nạp cả Ngũ Đài Ma Cơ! Chàng chợt lo lắng cho Lạc Bình, vác xác mãng xà theo làm lương thực, trở ra xe đi ngay, chàng biết thịt loại rắn này rất quý nên không muốn bỏ phí. Lúc nãy chàng đã nuốt mật và ăn hết tim gan của nó!
Bốn ngày sau, Hãn Thanh đến ngã ba, nơi chàng chia tay với Ngũ Đài Ma Cơ. Thịt rắn đã hết, lại đang là đầu giờ Ngọ, Hãn Thanh ghé vào quán bên đường dùng bữa!
Phạn điếm này rất rộng, chiếm cả một khu đất ngay ngã ba đường. Nó chia làm hai phần chay mặn khác nhau, tuy chung một chủ nhân.
Ai ăn chay thì bước vào Duyên Giác Trai Đường. Ai phá giới thì đã có rượu thịt của Bình An Tửu Điếm.
Hôm nay chẳng phải là ngày trai giới nên chỉ có tửu điếm là đông khách.
Hãn Thanh ngạc nhiên nhận ra thực khách toàn là hào kiệt giang hồ.
Từ ngày rời Hoa Sơn đi lên hướng Bắc, Hãn Thanh không hề cạo râukhiến dung mạo chàng già dặn và đổi khác. Chàng mang giòng máu Tiên Ty nên đa mao, chưa đến hai mươi tuổi mà râu mép, râu cằm rậm rạp, phủ xuống tận tai. Phải là người quen thuộc mới dám khẳng định chàng trai râu ria này là Tiểu Hầu Gia!
Tuy nhiên, lúc này Hãn Thanh trông rất uy vũ, hiên ngang, chứ không măng sữa như lúc trước. Mọi người nhìn chàng nhưng không nhận ra, tiếp tục trò chuyện rôm rả. Hãn Thanh ngồi xuống một bàn trống gọi thức ăn rồi lắng nghe. Thì ra đám hào khách này là cao thủ vùng Thiểm Tây, Sơn Tây, đến Kim Thạch Sơn Trang dự hôn lễ. Tân lang là Mộc Kỳ Dương, nam tử của Kim Thạch Tà Tẩu. Còn cô dâu là Ngũ Đài Ma Cơ Lạc Bình.
Hãn Thanh choáng váng, không ngờ sự tình lại tệ hại như vậy. Chàng biết Lạc Bình yêu mình tha thiết, không có lý nào lại lấy Mộc công tử. Như vậy là nàng đã bị ép duyên! Chàng cố bình tâm nghe tiếp, được biết rằng bang chủ Tây Bang Hứa Hữu Tinh và bang chủ Kiếm Bang Từ Cư Chính đã quy phục Thần Tiên Giáo, nhận chức phó giáo chủ!
Ba lão kỳ nhân trong Ngũ Nhạc giờ đây đã đổi chức danh thành Khách Khanh Hộ Giáo.
Hãn Thanh nhớ đến Nam Hồ Ngư Nữ Diệp Tuyết Hoa. Dù đã xa cách hơn năm năm, chàng vẫn còn nhớ rõ dung mạo kiều diễm và thùy mị của nàng.
Hãn Thanh lơ đãng nhìn ra cửa, thấy có thêm khách vào quán. Người ấy chính là Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ, kẻ đã cứu mạng chàng ở Tinh Châu hồi đầu tháng hai!
Họ én không nhận ra Tiểu Hầu Gia, điềm nhiên ngồi xuống bàn gần đấy.
Trang phục của gã vẫn như ngày nào, áo cừu đen và nón rộng vành. Tuy ăn uống,gã vẫn không chịu lột nón, chỉ hất cho cao lên một chút, để vành nón không chạm tô canh trước mặt.
Thương Tâm Kiếm là người độc lai, độc vãng, nên chẳng ai hỏi han đến gã. Hãn Thanh vẫn nhớ ơn tương trợ, định sang cùng họ én đối ầm. Nhưng tiếng vó ngựa dập dồn khiến chàng phải nhìn ra ngoài. Toán kỵ mã này đông đến mười mấy người, và toàn là đạo sĩ. Đi đầu là một đạo nhân tuổi thất tuần, râu tóc bạc như mây, vóc dáng cao gầy, da đen sạm. Trán lão hơi thấp nhưng lưỡng quyền nhô cao, đôi mắt dài nhỏ lấp loáng hàn quang!
Quần hào xôn xao bàn tán:
- Không ngờ Bắc Nhạc Quỷ Trảo cũng đến dự đám cưới con trai Tà Tẩu.
Có cả ái tử của lão là Bạch Diện Vũ Sĩ Hồ Lai Minh nữa!
Thi ra gã hán tử tam tuần mặt trắng đi sau lưng Quỷ Trảo chính là gã công tử đã bị Tiểu Thuần bắt hồn. Có lẽ gã đã bình phục nên dáng điệu rất cao ngạo, hiên ngang!
Thanh danh của Hà Tu Nghệ rất lớn, vì vậy quần hào đều đứng lên vòng tay chào hỏi. Chỉ có Thương Tâm Kiếm và Hãn Thanh ngồi yên.
Bắc Nhạc Quỷ Trảo vốn xuất thân từ Thiên Sư Giáo ở phương Nam, vì xích mích với giáo chủ nên ly khai môn phái đến Hằng Sơn lập đạo quán. Lão có đạo danh là Ngọc Thanh Chân Nhân, tự xưng là Bắc Phương Chính Nhất Quán Chủ, truyền bá đạo giáo. Giáo qui của phái Chính Nhất tức Thiên Sư Giáo không cấm lấy vợ, ăn thịt, nên được rất nhiều tín đồ gia nhập.
Quỷ Trảo tươi cười vòng tay đáp lễ quần hùng. Riêng Hà Lai Minh quắc mắt nhìn Hãn Thanh và Thương Tâm Kiếm.
Nếu không nghĩ rằng họ cũng là khách cùng đi dự đại hỉ thì gã đã phát tác rồi.
Bạch Diện Cư Sĩ học được tám thành chân truyền của pho Quỷ Trảo, hai bàn tay không sợ đao kiếm nên mục hạ vô nhân, chẳng coi ai ra gì cả!
Danh hiệu Vũ Sĩ của Hà Lai Minh không có nghĩa như Từ Võ Sĩ, mà chính là một chức sắc trong hệ thống đạo giáo Chân Quân, Chân Nhân, Vũ Sĩ...
Bọn Quỷ Trảo ngồi chưa ấm chỗ thì lại có thêm một đoàn nhân mã nữa xuất hiện.
Hãn Thanh không nhận ra lai lịch họ nhưng bàn gần đấy đã mau miệng khoe khoang kiến văn:
- Phó giáo chủ Thần Tiên Giáo Hứa Hữu Tinh!
Như vậy, chàng trai cụt tay đi cạnh lão chính là gã dâm tặc Hứa Duy Dương, kẻ từng bắt cóc Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương! Giờ đây lột bỏ lớp hóa trang vàng võ, trông gã khá anh tuấn, nhưng sắc diện xanh xao, hiểm ác!
Ở tuổi tam thập mà bị thiến mất dương vật, bảo sao gã không oán hận cuộc đời!
Tây Bang hùng cứ miền Nam đất Thiểm Tây nên các hào khách Thiểm Tây đều đứng lên chào!
Hứa Hữu Tinh đáp lễ qua loa rồi bước đến bái kiến Bắc Nhạc Quỷ Trảo.
Danh phận Khách Khanh Hộ Giáo và Phó giáo chủ cũng ngang nhau, nhưng Hà Tu Nghệ thuộc hàng bô lão võ lâm nên họ Hứa phải chịu lép.
Hãn Thanh thấy rõ vẻ gượng gạo của hai lão ma. Họ cùng ở dưới trướng Hải Hà Tiên Tử nhưng dường như chẳng ưa nhau. Phu Tử từng nói:
"Tiểu Nhân đồng nhi bất hòa!" bọn lang sói hợp đàn săn bắt, nhưng lại luô sẵn sàng cắn xé nhau để tranh miếng ngon.
Hứa Hữu Tinh nguyên bang chủ Tây Bang tuổi chỉ độ sáu mươi, dung mạo anh tuấn:
trán cao, mắt sáng, mũi diều, môi mỏng, thần thái uy nghiêm.
Thoạt nhìn, chẳng ai dám cho rằng lão là kẻ gian hùng đáng sợ, dám tổ chức Phù Dung Hội để cướp bóc, giết người!
Bản lãnh của mấy trăm sát thủ Phù Dung đã chứng tỏ được tài thao lược của Hứa Hữu Tinh. Chính nhờ lực lượng tinh nhuệ này, lão đã được Hải Hà Tiên Tử lôi kéo, ban cho chức Phó giáo chủ!
Lúc này, Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ đã ăn xong, vẫy tiểu nhị tính tiền rồi đứng lên rời quán.
Hứa Hữu Tinh vẫn ngoan cố phủ nhận mối liên quan với Phù Dung Hội, nên tảng lờ như không có thù hận gì với Thương Tâm Kiếm. Kẻ có dã tâm to lớn thường chẳng dại gì khoác lấy ác danh!
Hơn nũa trên vai én Khiếu Hồ là một bọc vải chứa hộp lễ vật vuôn vức.
Gã là khách mời của Kim Thạch Tà Tẩu, tất sư môn có quan hệ với Mộc Tiến Luân. Họ Hứa dù rất căm ghét nhưng không dám làm càn! Nếu không có Thương Tâm Kiếm thì Tây Bang đã giết được Tiểu Hầu Gia rồi!
Mộ Dung Hãn Thanh cũng nhận ra họ én cũng đang đến Ngũ Đài Sơn dự hôn lễ, trong đầu liền nảy ra kế hoạch mới. Chàng cũng đứng lên kêu tính tiền rồi rời tửu quán, đuổi theo Thương Tâm Kiếm.
Đến một đoạn đường vắng, chàng thúc ngựa chạy song song với én Khiếu Hồ rồi nói:
- én các hạ! Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh đây! Mong các hạ ghé vào trong rừng, tại hạ có chuyện muốn nói!
Thương Tâm Kiếm quay sang nhìn chăm chú, rồi đi theo Hãn Thanh.
Hai người vào khá sâu để người ngoài không thấy được. Khi đến bãi cỏ trống mới dừng cương! Họ én lạnh lùng hỏi:
- Chẳng hay Tiểu Hầu Gia có điều chi chỉ giáo?
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Ngũ Đài Ma Cơ vốn là tỳ nữ của tại hạ, nhưng thực ra, hai bên đã phát sinh lòng luyến ái. Nay nàng đột nhiên xuất giá, e rằng có điều uẩn khúc! Tại hạ muốn được tháp tùng én các hạ đến Ngũ Đài Sơn xem sao! Nếu nàng thực tâm muốn lấy Mộc Kỳ Dương, tại hạ sẽ không ngăn cản. Bằng ngược lại, tại hạ sẽ đem nàng đi khỏi nơi ấy!
Ánh mắt Thương Tâm Kiếm lộ vẻ thích thú, gằn giọng hỏi lại:
- Chẳng lẽ Tiểu Hầu Gia lại dám lấy một Ma Nữ về làm vợ?
Hãn Thanh cười mát:
- Các hạ quên rằng ta là đệ tử của ai sao? Gia sư suốt đời không phân biệt thiện ác, chính tà, xem danh lợi như phù vân, Thanh này cũng vậy thôi!
Họ én hỏi tiếp:
- Mộ Dung là dòng họ có thanh danh cao quý nhất võ lâm, liệu lão Hầu Gia có chấp nhận không? Hay lại là phải bắt Ma Cơ giấu mặt về làm dâu như lệnh đường ngày xưa?
Hãn Thanh cười rộ:
- Tại hạ không giống như gia phụ, chẳng bao giờ bắt ái thê phải chịu thiệt. Nếu lão Hầu Gia không chấp nhận, Thanh này sẽ đưa nàng về Vũ Di Sơn, chẳng cần đến tước Hầu nữa!
Lúc này hai người đã xuống ngựa, đứng đối diện nhau. Thương Tâm Kiếm ngửa cổ cười dài, dơ ngón cái khen ngợi:
- Hảo trượng phu! én mỗ không phục Bạch Y Hầu nhưng xin cúi đầu trước các hạ!
Gã bỗng chỉnh sắc nói:
- Tại hạ muốn kết bằng hữu với công tử!
- Tại hạ cũng mong muốn nhu vậy!
Hai người ôm lấy nhau cười khanh khách.
Họ bàn bạc một hồi rồi trở ra đường quan đạo. Dung mạo Hãn Thanh giờ đây khác hẳn. Chàng đã cạo râu và mang tấm mặt nạ thứ hai, trở thành một chàng trai tuổi đôi mươi, tuy không anh tuấn nhưng cũng dễ coi.
Họ thúc ngựa phi mau, chỉ hơn canh giờ sau đã đến chân ngọn Nam Đài, nơi có tòa Kim Thạch Sơn Trang của Tà Tẩu.
Thương Tâm Kiếm xuống ngựa trình thiệp mời cho gã giáo đồ Thần Tiên Giáo đang gác cổng. Gã không xem, chỉ vào trong:
- Nhị vị cứ để ngựa lại đây, vào đến cửa đại sảnh sẽ có người nhận thiệp và lễ vật!
Hai người trao cương ngựa, xách tay nải đi theo con đường trải đá dăm, xuyên qua một cánh rừng hòe.
Vì đang là mùa xuân nên rừng hòe xanh tốt, râm mát. Đến mùa hạ, hoa nở rộ, vàng rực và tỏa hương thơm ngào ngạt khiến lòng người say đắm. Hoa lại rụng đầy mặt đất trông như tấm thảm thêm cực kỳ diễm lệ.
Hết rừng hòe là vào đến khuôn viên Sơn Trang. Tiền trang là một tòa mộc lâu hai tầng đồ sộ, nằm ở cuối sân gạch rộng mênh mông. Nơi đây dường như là khách sảnh và diễn võ đường.
Hai bên tả hữu của sân là những tòa tiểu xá xinh đẹp, cách nhau độ hai trượng và được nối liền bằng những hành lang dài, lợp ngói!
Sân gạch được chia dọc làm ba bởi hai hàng cây Du cao lớn rậm rạp. Đây là loại Lang Nha Du, có lá hình răng sói, thuộc loại hiếm trong dòng họ Du.
Chung quanh sân cũng có dăm chục cây Đậu Khổng Tước, còn gọi là Đậu Đỏ Biển, thuộc họ Hồng Đậu. Mùa xuân là hoa đâm cành nảy lộc nên cây cối xum xuê, che mát cả Sơn Trang. Đến tháng sáu, cây Khổng Tước Đậu sẽ chi chít những bông hoa trắng nuốt hay vàng nhạt.
Giống Hồng Đậu thường chỉ mọc ở phía Nam Trung Hoa, không hiểu sao Kim Thạch Tà Tẩu lại khổ công vun bón để trồng cho bằng được ở chốn này.
Hãn Thanh nói lên thắc mắc ấy và được Thương Tâm Kiếm giải thích:
- Mộc sư bá là bậc kỳ nhân siêu việt, nhưng lại có tật lớn là say mê bảo thạch đến điên cuồng. Hạt của loại Hồng Đậu cứng chắc, sặc sỡ và không bao giờ phai màu, trông chẳng khác gì châu ngọc, thường được dùng làm đồ trang sức như vòng cổ hoặc vòng tay hoặc khảm nạm lên nhẫn, trâm cài đầu, đàn, vỏ kiếm... Đấy là những lý do mà sư bá trồng những cây Khổng Tước Đậu này!
Hãn Thanh giật mình:
- Té ra Kim Thạch Tà Tẩu lại là sư bá của én huynh!
Thương Tâm Kiếm mỉm cười:
- Gia sư là bạn học đồng môn với Tà Tẩu, do tính tình đạm bạc, coi thường danh lợi nên không xuất đạo.
Hai người vượt qua sân gạch vào đến đại sảnh. Người tiếp họ là một lão nhân tuổi lục tuần, mày thô, mắt lộ. Lão xem bái thiếp, vui vẻ nói:
- Té ra nhị vị là đệ tử của sư đệ trang chủ, thật là quý hóa!
Lão bèn cho người đưa Thương Tâm Kiếm và Hãn Thanh vào một trong những tiểu xá ở phía Bắc sân gạch.
Đêm hôm ấy, Hãn Thanh lập tức tiến hành cuộc do thám khu hậu viện, cố tìm cho ra nơi giam giữ Ngũ Đài Ma Cơ.
Chàng nương theo bóng đêm, thám sát toàn bộ những công trình nằm phía sau mộc lâu.
Khu vực này gồm hàng trăm tòa tiểu xá giống nhau, khiến Hãn Thanh khó mà biết được đâu là nơi cư trú của tân nương.
Theo bản năng, Hãn Thanh trèo lên ngọn cây Khổng Tước Đậu, dõi mắt quan sát khắp nơi. May cho chàng là những cây Hồng Đậu này được sự ưu ái của Tà Tẩu nên đều rất xanh tốt, tàn lá xum xuê và cao vút.
Hãn Thanh chợt chú ý đến một nam nhân dong dõng cao, y phục sang trọng, được dẩn đường bởi hai tỳ nữ áo xanh. Gã đàn ông này dừng chân trước một tòa nhà, thản nhiên đẩy cửa bước vào, còn hai tỳ nữ ở lại bên ngoài.
Hãn Thanh linh cảm rằng hán tử kia là Mộc Kỳ Dương, liền bám theo sát gót. Giờ đây, chàng đã có thêm mười năm công lực nên khinh công tăng tiến vượt bậc chỉ trong chớp mắt, Hãn Thanh ập đến điểm huyệt hai ả nữ tỳ khiến họ đứng im như tượng gỗ.
Chàng nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào trong. Tiếng người đối thoại chính là điểm chỉ dẫn đường đi. Hãn Thanh lướt nhanh như gió thoảng đến phòng cuối cùng của tiểu xá. Chàng nép bên vách dùng nước bọt thấm thủng lớp giấy nhìn vào trong.
Hãn Thanh mừng rỡ nhận ra Ngũ Đài Ma Cơ Lạc Bình đang nằm bất động trên giường bát bửu, và hán tử áo xanh kia đang ngồi cạnh mép giường.
Gã ta tuổi độ ba mươi ba, dung mạo dể coi nhưng vẻ yêu mị lộ rõ, không sao giấu nổi.
Hãn Thanh càng tin chắc gã ta là Mộc Kỳ Dương, liền thu mình, nhẫn nại quan sát.
Chàng thấy hán tử áo xanh kia cười khanh khách:
- Lạc hiền muội! Mai mới là ngày long phụng hòa duyên, ngu huynh sợ muội buồn nên mới đến an ủi! Sao hiền muội không nói gì hết?
Lạc Bình cười mát:
- Nếu Mộc thiếu gia muốn đàn tình thuyết ái, xin hãy giải huyệt cho tiểu muội!
Mộc Kỳ Dương cười nhạt:
- Võ công của hiền muội chỉ kém ngu huynh một bậc, dù yêu thương nàng ta cũng chẳng dám mạo muội ra tay!
Nhờ câu đối thoại này, Hãn Thanh mới biết Lạc Bình bị điểm huyệt.
Ngũ Đài Ma Cơ cay đắng nói:
- Mộc thiếu gia là bậc kỳ nam tử, hà tất lại cưỡng bức lương duyên? Lòng này đã có đối tượng, thà chết chứ không đổi thay! Mộc thiếu gia đừng ép uổng cho hoài công!
Mộc Kỳ Dương tái mặt:
- Chẳng lẽ ta không bằng người ấy?
Lạc Bình cười thảm:
- Không phải do tài mạo hơn thua, chẳng qua lòng này đã trót trao!
Mộc Kỳ Dương bật cười gian xảo:
- Nếu nàng đã nói vậy thì bổn thiếu gia đành phải học câu "Tiên hạ thủ vi cường". Đêm nay nàng sẽ thuộc về ta!
Dứt lời, gã nhanh chóng lột bỏ xiêm y Lạc Bình. Ngũ Đài Ma Cơ tuyệt vọng thè lưỡi định cắn nát mà tự sát nhưng cũng bị Kỳ Dương khóa cứng xương hàm.
Thânn hình ngà ngọc của mỹ nhân lồ lộ dưới ánh nến, khiến Mộc Kỳ Dương phỡn chí, lửa dục bốc cao trăm trượng.
Gã cười hăng hác thò tay vuốt ve đôi gò bồng đảo cao vút của Ma Cơ.
Nhưng gã bỗng nhận ra trên mảnh vách đối diện có thêm một bóng người.
Mộc Kỳ Dương kinh hãi quay lưng vỗ liền một chưởng. Người kia thản nhiên vung hữu thủ đỡ đòn. Hai bàn tay vừa chạm nhau thì một lưỡi thép đã xuyên qua ngực trái đâm thủng tim Mộc Kỳ Dương. Gã rùng mình ngã quỵ dưới chân giường.
Lục Thân vừa mừng vừa sợ, nhìn chăm chú vào người bịt mặt! Nàng rất xấu hổ vì tình trạng lõa lồ của mình nhưng không cách nào cử động được!
Hắc y nhân chính là Mộ Dung Hãn Thanh. Sau khi giết Mộc Kỳ Dương, chàng bước đến giường, định hỏi han và giải huyệt cho Lạc Bình.
Nhưng thân hình ngà ngọc của nàng phơi bày lồ lộ trước mắt. Khiến lửa dục trong lòng chàng bốc lên ngùn ngụt. Hãn Thanh lại tự xem Lạc Bình như thê thiếp nên không úy kỵ, chàng thả hồn theo dục vọng, úp mặt vào ngực Ma Cơ, hít mùi hương trinh tiết từ da thịt mỹ nhân.
Ngũ Đài Ma Cơ kinh hoàng rú lên những tiếng não nùng. Đôi xương hàm bị trật khớp, tiếng kêu ú ớ không thành lời. Nhưng như thế cũng đủ đánh thức lương tri của Hãn Thanh. Chàng hổ thẹn mặt vội y phục vào cho Lạc Bình rồi cõng nàng trên lưng mà đào thoát khỏi khu hậu viện, trở về căn tiểu xá ở mé tả sân gạch.
Thương Tâm Kiếm mau mắn mở cửa phòng, đón Hãn Thanh vào. Thấy trên lưng chàng có người, gã thở phào:
- Không ngờ công tử lại cứu được Ngũ Đài Ma Cơ nhanh như vậy!
Hãn Thanh cười khổ:
- Tiểu đệ đã giết thiếu trang chủ Mộc Kỳ Dương! Chúng ta làm sao thoát khỏi nơi này mới là điều quan trọng!
Chàng đặt Lạc Bình xuống giường, én Khiếu Hồ tế nhị bước ra. Hãn Thanh lột khăn che mặt và mặt nạ giả ra, rồi tiến hành việc giải huyệt cho Ma Cơ. Trước tiên, chàng trả khớp hàm răng của nàng về chỗ cũ. Lạc Bình bật khóc:
- Công tử! Nô tỳ những tưởng kiếp này chẳng còn được gặp mặt nhau!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Ta xin lỗi vì đã giết chết tình quân của nàng!
Lạc Bình liếc chàng sắc như dao:
- Công tử có đền được cho nô tỳ không?
Ánh mắt nàng tình tứ, rực rỡ lửa yêu thương, khiến Hãn Thanh say đắm; Trong lúc này, nàng xinh đẹp và quyến rũ hơn cả Trịnh Tiểu Thuần và Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương!
Hãn Thanh chợt cảm thấy mình có lỗi với người vợ ma quái. Chàng đã quá quen với lời giáo huấn của Mông Diện La Sát, nên việc đa thê dường như là tội lỗi. Dù Tiểu Thuần đã mở lời chấp thuận Lạc Bình, nhưng lòng chàng vẫn áy náy khôn nguôi!
Hãn Thanh gượng cười hỏi han, rồi giải huyệt cho Ngũ Đài Ma Cơ, Bất Biệt Cư Sĩ tinh thông cội nguồn võ học, từ một mà suy ra vạn pháp, vì vậy, thủ thuật điểm huyệt của Tà Tẩu không làm khó được chàng.
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Chỉ lát nữa đây cái chết của Mộc Kỳ Dương và sự mất tích của nàng sẽ bị phát hiện. Trinh Nô mau mặc y phục của ta và mang mặt nạ này vào, nhân lúc nhốn nháo, cùng Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ thoát ra!
Tuy không hiểu rõ đầu đuôi kế hoạch, Ma Cơ cũng ngoan ngoãn vâng lời. Nàng liếc chàng rồi trút bỏ xiêm y chẳng chút ngượng ngùng. Thân hình khêu gợi thon dài kia khiến trống ngực Hãn Thanh đánh thình thịch. Chàng nghe lửa dục lại xông lên, thở dài quay đi. Hãn Thanh biết mình ăn quá nhiều thịt rắn Hồng Sắc Mãng Xà nên dục tính mạnh mẽ, lúc nào cũng khao khát ái ân, lòng không thanh tĩnh như xưa nữa. Chàng tự nhủ từ nay phải thận trọng, nếu không sẽ biến thành kẻ tham dâm hiếu sắc!
Ma Cơ thấp hơn Hãn Thanh nên mặc y phục của chàng không vừa. Tuy nhiên trong đêm tối khó ai nhận ra. Nhưng điều nan giải nhất chính là đôi gò bồng đảo cao vút của mỹ nhân. Lạc Bình thẹn thùng, ngúng nguẩy chỉ vào ngực mình nói:
- Công tử! Thế này thì dấu được ai? Công tử phải giúp nô tỳ bó lại thôi!
Hãn Thanh ngượng ngùng dùng kiếm cắt tấm vảo bao nệm bông thành người dải rộng độ gang tay.
Ma Cơ cởi áo, đứng đối diện, da thịt trắng muốt, thơm tho khiến lòng quân tử xuyến xao. Hãn Thanh hổ thẹn nói:
- Ta đã may mắn tìm được Hồng Sắc Mãng Xà, luyện thành Thiên Ma Bách Luyện công phu, nhưng lòng dục lại sục sôi, không còn đáng mặt quân tử nữa! Từ nay, nàng chớ nên lõa thể trước mặt ta!
Lạc Bình thản nhiên nói:
- Nô tỳ đã nguyện suốt đời hầu hạ công tử, nào tiếc gì tấm thân này!
Hãn Thanh cứng họng, lặng lẽ xiết chặt những dải vải, bó ngực nàng lại.
Xong xuội, chàng búi lại tóc cho Ma Cơ rồi mở cửa gọi Thương Tâm Kiếm.
Họ én cười hỏi:
- Công tử đã có lương sách gì chưa?
Hãn Thanh gật đầu:
- Tại hạ sẽ xông ra cửa chính của sơn trang, én huynh cùng Lạc Bình trà trộn vào toán quân truy sát mà trốn đi. Xin hẹn gặp nhau ở Lạc Dương!
Thương Tâm Kiếm ngần ngừ:
- Hay là công tử để ta đóng vai dụ địch cho!
Hãn Thanh cười mát:
- Khinh công của én huynh tuy cao cường nhưng không bằng tiểu đệ đâu!
Chàng đưa cho gã tấm mặt nạ thứ hai:
- Trước sau gì thì Tà Tẩu cũng sinh nghi khi thấy én huynh không quay lại. Hãy dùng dung mạo này để tránh sự truy sát của Thần Tiên Giáo!
Ma Cơ lo lắng:
- Mong công tử bảo trọng!
Chàng gật đầu:
- Nàng cứ yên tâm về Hầu Phủ với lão Hầu Gia. Tín vật này sẽ giúp nàng chứng minh quan hệ với ta!
Chàng bèn trao cho nàng một mảnh kim bài nhỏ hơn bàn tay. Đây chính là Hầu Tước Kim Bài của dòng họ Mộ Dung!
Hãn Thanh mau mắn bỏ hai chiếc gối vào chăn cuộn lại, trông giống như một hình người rồi vác lên vai!
Chàng lần ra ngoài, trèo lên một cây Khổng Tước Đậu mà chờ. Lát sau, tiếng chiêng báo động vang rền khắp sơn trang, đèn đuốc sáng rực!
Biết rõ đã đến lúc, Hãn Thanh nhảy xuống, lao vút về phía cổng chính.
Bộn thiu? hạ Thần Tiên Giáo phát hiện xông ra chặn lại. Thanh Hầu Tước Kiếm trong tay Hãn Thanh chớp lên, hóa thành chiếc chong chóng thép gạt phăng vũ khí đối phương và tiện đứt những bàn tay hung hãn.
Sau khi tăng thêm mười năm công lực, bản lãnh chàng lợi hại hơn xưa một bậc, kiếm pháp cũng nhanh nhẹn tuyệt luân.
Thủ thức Trăm Uyển Lưu Sinh trong Nhất Nguyên Kiếm Pháp xuất phát từ lòng nhân hậu. Đối phương chỉ bị chặt đứt cổ tay, mất khả năng làm ác nhưng sinh mạng vẫn còn. Khi thi thố trong cuộc loạn chiến với số đông, kết quả càng kỳ diệu!
Chưa đầy nửa khắc, Hãn Thanh đã vượt qua rừng hòe, đến cổng chính của sơn trang bỏ lại sau lưng mấy chục tên tàn phế và tiếng rên la thảm khốc.
Đám giáo đồ gác cửa trước mặt chàng có đến hai mươi người, chúng liều chết cầm chưng để lực lượng phía sau đến kịp. Nhưng Hãn Thanh được mền gối che chở sau lưng nên chẳng úy kỵ, lao vào phá vòng. Chàng vận toàn lực xuất chiêu Kình Ngư Phân Lãng, kiếm phong vun vút xé nát phòng tuyến đối phương, giết liền bốn tên. Hãn Thanh nương theo kiếm chiêu lướt đến sát cổng, vung kiếm chặt đứt dây thiết luyện, lách ra ngoài.
Lúc này Kim Thạch Tà Tẩu và các đại cao thủ đã xuống đến phía sau họ là một đoàn kỵ sĩ. Thấy hung thủ đã thoát vào bóng đêm, Tà Tẩu giận dữ quát:
- Mau đuổi theo bắt cho được gã!
Đoàn kỵ sĩ dạ vang, thúc ngựa phi mau. Trên tay họ là kiếm tuốt trần và đuốc nhựa thông. Trong đám ấy có cả Thương Tâm Kiếm và gã sư đệ trẻ tuổi.
Toàn bộ nhân thủ của sơn trang lần lượt rời căn cứ, tỏa đi khắp nơi, cố tìm cho được kẻ đã giết Mộc thiếu gia và bắt cóc Ngũ Đài Ma Cơ!
Kim Thạch Tà Tẩu căm hận rít lên:
- Ngày mốt mới là ngày đại hỉ, trong trang không hề có người lạ mặt, chỉ toàn là thân hữu. Vật gã khốn kiếp kia làm sao vào được mà hạ thủ?
Hứa Hữu Tinh trầm giọng:
- Bản lãnh của hung thủ quả đáng sợ! Gã vác trên vai một người mà vẫn chạy như bay, lại thêm kiếm pháp lợi hại tuyệt luân, không ai cầm chân nổi!
Tà Tẩu giật mình vì một ý niệm nào đó, cao giọng nói:
- Tất cả người giáo đồ bị thương hãy đến đây!
Bọn chúng đã được băng bó, nhưng vẫn nghe đau đớn phi thường vì xương cổ tay bị chặt đứt. Nghe gọi chúng thất thểu bước đến, đứng xếp hàng trước mặt Tà Tẩu.
Mộc Tiến Luân tháo băng xem xét vết thương rồi thở dài:
- Đây chính là thủ pháp Trăm Uyển Lưu Sinh của Bất Biệt Cư Sĩ. Năm xưa, Mai giáo chủ cũng bị Cao Hán Ngọc chặt đứt bàn tay phải như thế này đây!
Hứa Hữu Tinh kinh hãi nói:
- Chẳng lẽ hung thủ lại là Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh? Nhưng gã ấy làm gì có được một thân công lực thâm hậu như thế?
Tà Tẩu cười nhạt:
- Cứ bắt được gã rồi sẽ biết ngay! Mong Phó giáo chủ phát tín hiệu báo động toàn giáo, chặn mọi ngõ đường về Lạc Dương!
Hứa Hữu Tinh gật đầu:
- Quân sư yên tâm, nếu đúng là Mộ Dung tiểu tử thì gã không thoát khỏi Thiên La Địa Võng của bổn giáo đâu!
Hồi 8
Hiệp Tâm Đắc Hồ Thê
Tầm Mã Ngộ Cường Địch
Nhắc lại, Hãn Thanh rời khỏi Kim Thạch Sơn Trang, không theo đường quan đạo mà cắt rừng để chạy. Khi biết chắc không ai đuổi theo kịp, Hãn Thanh nhảy lên chạng ba một cây cổ thụ, ngủ say với gối chăn đã mang theo.
Sáng ra, tiếng chim rừng ríu rít đánh thức chàng dậy, Hãn Thanh nảy xuốg, dựa vào hướng mặt trời mọc mà đi. Sau năm ngày bạt thiệp đường rừng, chàng ra đến đoạn quan đạo cách Tinh Châu hơn trăm dặm.
Trên đường, bọn giáo chúng áo vàng của Thần Tiên Giáo qua lại tấp nập khiến Hãn Thanh sinh lòng cảnh giác. Bộ võ phục màu lam thẩm của chàng đã rách nhiều chỗ vì gai góc trong từng, dễ gây nghi ngờ. Chàng ẩn lại trong bìa rừng, chờ đoàn kỵ mã đi qua mới bước ra.
Đi được hơn dặm, Hãn Thanh nghe sau lưng vọng tiếng vó ngựa lóc cóc.
Chàng quay lại, nhận ra một chiếc xe song mã sang trọng, có lẽ của nhà quyền quý nào đi Ngũ Đài Sơn dâng hương nhân ngày mùng một, giờ trở lại Tinh Châu.
Hãn Thanh tiếp tục bước đi, không lưu tâm đến nữa. Lát sau, cỗ xe đến nơi, đi song song với chàng, và đột nhiên có tiếng nữ nhân thánh thót:
- Các hạ có muốn đi nhờ xe không?
Cỗ xe dừng lại, cửa sau bật mở. Trong thùng xe rộng rãi kia chỉ có một nữ lang áo hồng xinh đẹp!
Thấy Hãn Thanh lưỡng lự, nữ lang cười khúc khích:
- Ta không sợ mà các hạ lại sợ hay sao?
Hãn Thanh gượng cười, bước lên xe, ngồi ở băng ghế mé tả, đối diện với nàng. Nữ lang không bước ra mà cánh cửa thùng xe tự động đóng lại, khiến Hãn Thanh giật mình khâm phục.
Nữ lang điềm nhiên nói:
- Thiếp bị liệt hai chân nên cỗ xe này được bố trí cơ quan rất tiện lợi!
Hãn Thanh bối rối, chẳng biết nói sao. Chàng đặng hắng rồi vòng tay thi lễ:
- Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh, xin được thỉnh giáo phương danh của tiểu thư!
Đôi mắt bồ câu đen láy kia sáng lên ánh vui mừng:
- Té ra là Tiểu Hầu Gia, thiếp là Tề Đạm Vân xin ra mắt!
Nàng tinh nghịch hỏi:
- Thiếp thường nghe giang hồ truyền tụng Tiểu Hầu Gia phong tư tuấn dật, hiên ngang, sao nay lại tiều tụy, xốc xếch thế kia?
Chàng cười đáp:
- Tại hạ lạc trong rừng mấy ngày đêm nên hình dạng thảm hại làm bẩn mắt tiểu thư!
Đạm Vân cười khanh khách:
- Chứ không phải công tử bị Thần Tiên Giáo truy sát hay sao? Trên đường đi, thiếp đã bị họ chặn xét mấy lần rồi!
Mặt Hãn Thanh nghiêm lại:
- Quả đúng vậy! Tại hạ xin xuống xe để khỏi liên lụy đến tiểu thư!
Đạm Vân xua tay:
- Công tử đừng nói vậy, thiếp nghe bàn tán, cố tình đón cho được công tử, lẽ nào lại để chàng đi?
Bỗng nàng đổi giọng u buồn:
- Hay công tử chê thiếp là kẻ tàn phế nên không muốn thân cận?
Hãn Thanh nghe áy náy, vội biện bạch!
- Tiểu thư đừng nghĩ xấu cho Thanh này! Nếu nàng đã có lòng hạ cố, tại hạ xin ở lại phụng bồi!
Đạm Vân mỉm cười nhưng giọng lại ai oán:
- Thiếp sống cô đơn từ nhỏ trong núi rừng, mặc cảm thân phận nên chẳng dám kết bạn với ai! Nay gặp công tử không hiểu sao lòng lại vô cùng mến mộ...
Nàng thở dài không nói hết lời, sắc diện não nề. Hãn Thanh nhận ra Đạm Vân diễm lệ phi thường, không thua gì Tiểu Thuần hay Ngũ Đài Ma Cơ. Đôi mắt buồn vời vợi kia khiến chàng bất giác nẩy sinh lòng thương cảm, muốn bảo bọc cô gái bạc mệnh yếu đuối.
Cỗ xe lăn bánh rất nhanh và êm ái. Cảnh vật bên đường lướt nhanh qua khung cửa sổ nhỏ trên vách thùng xe. Đạm Vân bỗng che miệng ngáp, khiến Hãn Thanh cũng ngáp theo. Nàng bật cười:
- Chắc công tử cũng mệt mõi như thiếp, xin cứ tùy tiện nằm xuống ghế mà ngủ!
Nhưng gã xà ích đã nói vọng vào:
- Bẩm tiểu thư! Phía trước có trạm tra xét của Thần Tiên Giáo!
Thì ra gã là nữ nhân cải nam trang. Hãn Thanh mỉm cười:
- Cảm tạ tiểu thư đã cho quá giang một đỗi đường, giờ xin cáo biệt. Tại hạ không thể liên lụy đến cô nương được!
Đạm Vân lắc đầu:
- Công tử khoan hãy xuống xe, chắc gì họ đã chặn chúng ta lại?
Nàng bấm vào một nút nhỏ trên vách, lập tức có hai miếng pha lê sậm màu tuột xuống, bịt kín hai ô cửa sổ.
Đạm Vân cười bảo:
- Loại kính này được mua của bọn Hà Lan ở bờ biển Quảng Châu, chứ không phải sản phẩm Trung Quốc!
Nói xong, nàng nói qua ô nhỏ sau lưng xà ích:
- Tiểu Ngư! Ngươi cố thu xếp cho êm thắm, đừng để ta phải buồn vì không được bầu bạn với Tiểu Hầu Gia!
ã nữ tỳ cười khúc khích:
- Tiểu thư yên tâm, nô tỳ đã hiểu!
Cỗ xe chậm lại như không dừng hẳn. Hãn Thanh nghe có tiếng người quát hỏi rấyhách dịch:
- Mau dừng lại cho bổn giá tra xét thùng xe!
Tiểu Ngư đột nhiên bật cười dòn dã, vẫn cho xe đi tiếp. Lạ thay, chẳng có ai cản lại cả! Cỗ xe dần dần tăng tốc, phi nhanh như cũ!
Rời xa chỗ ấy hơn dặm, Đạm Vân mới phát động cơ quan, kéo hai mảnh kính pha lê lên. Vì đã quá xa nên dù Hãn Thanh có thò đầu ra ngoài cũng không thể thấy được hai chục xác áo vàng nằm co quắp trên đường quan đạo.
Chàng hiếu kỳ hỏi:
- Tề tiểu thư! Tiểu Ngư cô nương đã thi triển tuyệt kỹ gì mà khiến cho bọn Thần Tiên Giáo không dám chặn xe?
Đạm Vân mỉm cười bí ẩn:
- Chắc công tử có nghe qua công phu Câu Hồn Tiếu của Tà Môn?
Hãn Thanh nhớ đến lần Ngũ Đài Ma Cơ thi triển tà pháp Ma Tiếu Mê Hương, mặt chàng đỏ bừng, không dám hỏi thêm!
Chàng càng lúng túng khi Đạm Vân bảo:
- Thiếp cần phải ngủ một chút, mong công tử nhấc dùm đôi chân tàn phế này lên ghế!
Nàng nằm ngửa xuống băng ghế nệm bọc da êm ái, nhưng không nhấc nổi hai chân lên, Hãn Thanh đành bước đến, nhẹ nhàng nâng giúp nàng.
Nhưng xe lại đang đi vào đoạn quan đạo gập ghềnh, xe xóc mạnh khiến đôi chân bất lực kia rơi xuống, Hãn Thanh vội giữ lấy, không dám buông ra.
Đạm Vân buồn bã nói:
- Tấm thân tàn phế này quả là vô dụng, thiếp chỉ muốn chết đi cho xong!
Nỗi thương cảm ngút ngàn khiến chàng thêm bối rối. Hãn Thanh ngồi xuống sàn xe, dựa lưng vào băng ghế, chặn không cho Đạm Vân rơi xuống.
Nửa khắc sau, chàng liếc nhìn thấy Đạm Vân đã ngủ say. Đã đến đoạn đường bằng phẳng, nhưng chàng không dám rời chỗ, gục đầu vào hai gối mà ngủ gật. Mấy đêm rồi chàng ngủ trong rừng già đầy muỗi mòng nên không yên giấc, giờ đây mệt mỏi thiếp đi.
Một mùi hương là lạ bỗng tỏa ngào ngạt trong thùng xe, khiến chàng ngủ say như chết, hoàn toàn không biết những sự cố đã xảy ra với cỗ xe song mã.
Khi Hãn Thanh tỉnh giấc thì nhận ra tư thế ngồi của chàng đã xoay ngược lại, hai tay ôm lấy Đạm Vân, gối má lên bụng mỹ nhân.
Hãn Thanh ngượng ngùng khôn xiết, định nói lời tạ lỗi. Nào ngờ Đạm Vân đã mỉm cười:
- Cảm tạ công tử đã giữ cho thiếp yên giấc! Nhờ chàng đõ dùm thiếp dậy!
Hãn Thanh đỏ mặt làm theo lời người ngọc. Chành định trở vể ghế bên kia thì Đạm Vân giữ lại:
- Công tử đã ôm thiếp suốt mấy canh giờ, chẳng lẽ lại không dám ngồi gần?
Hãn Thanh đành an tọa, xốn xang vì mùi da thịt nồng nàn. Đạm Vân ngã đầu vào vai chàng thỏ thẻ:
- Đây là lần đầu tiên tấm thân tàn tật này được một nam nhân chạm đến.
Thiếp sẽ nhớ mãi phút này!
Giọng nàng bi thương, ai oán khiến Hãn Thanh nghe dạ xót xa, xiết nhẹ vai nàng. Thân hình mềm mại của người ngọc dựa sát người, nhưng lạ thay, chàng không hề nổi tà dâm. Đạm Vân bỗng ngồi thẳng lên, nhìn vào mắt chàng:
- Công tử! Cánh rừng này chỉ cách Tinh Châu có mấy dặm đường. Thiếp phải rẽ về Tây, sống chết thế nào chưa rõ nên chẳng dám hẹn ngày tái ngộ.
Hãn Thanh giật mình:
- Tiểu thư đi đâu mà lại nói lời vĩnh biệt như vậy?
Đạm Vân nhếch đôi môi anh đào, nụ cười khô héo:
- Thiếp vốn là một kẻ ngông cuồng, hiếu sát, năm xưa bị một vị kỳ nhân dùng phép kỳ kinh triệt mạch phế bỏ đôi chân, giam trong một sơn cốc ở núi Yến Sơn. Nay đã hết hạn mười năm lao lung, thiếp phải đến U Linh Cốc trình diện. Nếu vị kỳ nhân ấy không khai ân giải tỏa cho đôi chân, thiếp thà tự sát chứ không kéo lê cuộc sống thừa này nữa.
Hãn Thanh nghĩ đến hành vi của mẫu thân mình ngày xưa, bất giác đồng cảm với Đạm Vân. Chàng khẳng khái nói:
- Mười năm giam cầm, chịu tàn phế cũng đủ để xóa đi tội lỗi ngày xưa.
Nếu sự hiện diện của tại hạ giúp được tiểu thư thì Thanh tôi xin tận lực!
Đạm Vân hoan hỉ đáp:
- Công tử có cốt cách thanh kỳ, tôn quý, tất sẽ được Quỷ Hồ Giám Quan nể mặt. Nhưng chàng phải chịu khuất tất nhận thiếp là người hôn phối mới được!
Hãn Thanh là đệ tử của bậc Chân Nhân, không chấp nhất tiểu tiết, khăng khăng giữ chữ tín nhỏ nhoi, nên điềm nhiên dáp:
- Tại hạ chẳng phải bậc quân tử nên sẵn sàng bịa chuyện để cứu cô nương. Chỉ mong cô nương thực tâm hướng thiện, đừng sa vào nẻo ác nữa!
Đạm Vân tươi cười, nửa đùa nửa thật:
- Thiếp đã có được lang quân như chàng tất phải trọn đạo phụng thờ hầu hạ, làm sao dám buông lung nữa!
Hãn Thanh gượng cười:
- Bao giờ chúng ta mới đi U Linh Cốc?
Bỗng xà ích Tiểu Ngư lên tiếng:
- Nhiệm vụ của nô tỳ đến đây đã xong! Xin cáo biệt tiểu thư và công tử!
Giọng nói xa dần và mất hút. Hãn Thanh ngơ ngác hỏi:
- Tiểu Ngư không đi với chúng ta sao?
Đạm Vân lắc đầu:
- U Linh Cốc chỉ cách đây vài dặm, không cho quá hai người vào, vì vậy Tiểu Ngư phải trở về Yến Sơn! Thực ra, Tiểu Ngư chính là người giám sát thiếp!
Nàng bấm nút cơ quan, mở cửa xe rồi cười bảo:
- Phiền công tử cõng thiếp vậy!
Hãn Thanh chợt nghe đói bụng, liền lấy hai viên Tịnh Cốc Toàn Sinh Hoàn cuối cùng, trao cho nàng một viên:
- Tề cô nương hãy dùng viên thuốc này để chống đói!
Chàng tự nuốt một viên, Đạm Vân đưa viên linh đan lên miệng nhấm thử, cười bảo:
- Đây là vật quý của Thiết Địch Thần Y, không ngờ công tử lại có được!
Hãn Thanh quay lưng lại cho nàng ôm lấy rồi xuống xe. Theo sự hướng dẫn của Đạm Vân, chàng đi vào những con đường mòn gai góc, tiến đến một vách đá dựng đứng, cao ước ba mươi trượng.
Và trên bức vách ấy có khe khá rộng, đủ cho hai kỵ sĩ đi vào song song, giờ đây, sương mù giăng mắc che mờ lối đi.
Đạm Vân thì thào vào tai Hãn Thanh:
- Vị kỳ nhân Quỷ Hồ Tổng Giám kia kỳ thực là gia phụ, tên gọi Tề Phi Tuyết, mong chàng xưng hô cho đúng lễ, chúng ta cũng phải đổi sang cách gọi thân mật!
Hãn Thanh hơi bất ngờ, nhưng lòng dạ quảng đại nên không bắt lỗi.
Chàng chỉ cười đáp:
- Té ra Vân muội là ái nữ của cốc chủ! Hùm dữ không nỡ ăn thịt con, sao lại cần ta phải giả làm chồng?
Đạm Vân thở dài:
- Sự tình không phải đơn giản như tướng công nghĩ đâu! Gia phụ chấp chưởng hình pháp, thiết diện vô tư, dẫu con ruột cũng không tha!
Hãn Thanh bỗng hiếu kỳ hỏi:
- Năm xưa, Vân muội đã phạm lỗi gì mà bị lệnh tôn phạt nặng như vậy?
Đạm Vân buồn bã kể:
- Ngoài tội lạm sát đồng đạo, thiếp còn giết chết người tỳ thiếp của gia phụ. Nàng ta được cưng chiều nên ức hiếp gia mẫu, thiếp không chịu nổi mới ra tay!
Hãn Thanh cười nhạt:
- Xem ra lệnh tôn cũng chẳng phải kẻ công bằng, chính trực!
Đạm Vân biện bạch:
- Tướng công lầm rồi! Vì nhị nương lại là Thánh Nữ U Linh Cốc, ái nữ của tiền nhiệm cốc chủ! Vì vậy thiếp mới mang trọng tội!
Đi hết đoạn khe núi dài năm sáu chục trượng mới vào đến sơn cốc. Đây là một thung lũng nằm giữa những vách núi cao nên ánh tà dương không rọi vào được. Sương mù lảng vảng khiến khung cảnh âm u xứng danh U Linh Cốc!
Hãn Thanh chẳng thấy bóng người nào, liền hỏi:
- Sao sơn cốc vằng tanh, nhà cửa cũng chẳng thấy đâu?
Đạm Vân vui vẻ đáp:
- Chàng bị che mắt bởi trận pháp U Linh Trấn Môn, chỉ cần bước sang tả ba bước, ngang năm bước, tiến bảy bước, là sẽ qua được thôi!
Hãn Thanh làm theo lời nàng, quả nhiên nhìn thấy hằng trăm tòa trúc xá nằm dưới chân vách cốc, bao lấy khu vườn hoa muôn màu ở giữa. Nhưng tất cả đều im lìm như không có sự sống.
Đạm Vân giải thích:
- Người trong Cốc đang tĩnh tọa. Tướng công cứ đưa thiếp vào căn tiểu xá có cửa màu hồng ở mé tả. Đấy chính là khuê phòng của thiếp!
Chàng rảo bước đến nơi ấy, mừng rỡ nhận ra cạnh trúc xá có suối nước trong veo.
Chàng đẩy cửa bưóc vào, thấy mọi vật đều sạch sẽ, không một hạt bụi, liền đặt Đạm Vân và hành lý lên giường. Nàng cười bảo:
- Tướng công! Dọc đường thiếp đã nhờ Tiểu Ngư mua cho chàng mấy bộ y phục!
Hãn Thanh hài lòng, mở tay nải của Đạm Vân ra, lấy một bộ màu trắng, định ra suối tắm rửa. Nào ngờ mỹ nhân phụng phịu nói:
- Chàng không nghĩ đến thiếp sao?
Hãn Thanh nhăn mặt:
- Ta thực lòng chẳng dám mạo phạm đến nàng!
Đạm Vân thẹn thùng đáp:
- Thân thiếp tật nguyền, chẳng đáng để tướng công phải bận tâm đâu.
Hãn Thanh thở dài, bồng nàng ra suối. May thay giữa dòng có tảng đá lớn và bằng phẳng, thấp hơn mực nước hai gang. Chàng đặt nàng lên đấy rồi quay đi, tắm gội cho bản thân.
Gần khắc sau, Hãn Thanh nghe gọi:
- Tướng công! Thiếp đã xong rồi!
Chàng quay lại, giật bắn mình khi thấy mỹ nhân hoàn toàn lõa thể. Thân trên ngà ngọc lộ rõ vẻ thanh tân!
Đạm Vân tình tứ trách móc:
- Y phục của thiếp đã trôi đi cả rồi! Chàng mau đưa thiếp đi vào đi!
Hãn Thanh cắn mạnh vào lưỡi để trấn áp lửa dục, bước đến bồng nàng vào trúc xá! Chàng cũng đang ở trần nên da thịt hai người sát vào nhau tạo cảm giác lâng lâng!
Hãn Thanh đặt nàng lên giường, cạnh bọc hành lý rồi nghiêm giọng:
- Tại hạ bị nhiểm chất độc trong máu thịt Hồng Sắc Mãng Xà nên dục tính rất vượng, e rằng không giữ được lương tri. Mong cô nương tự mặc y phục vào!
Dứt lời chàng vơ bộ quần áo khô bước ra ngoài, Hãn Thanh thay xong, đứng lại bên bờ suối, chờ đợi.
Chàng không biết rằng trong một lùm cây gần đấy có cặp mắt sắc như dao đang nhìn mình. Người này gật gù, ra vẻ hài lòng khi thấy chàng giữ được cái tâm quang minh chính đại!
Tiếng Đạm Vân thánh thót vọng ra:
- Tướng công! Xin mời vào!
Lối xưng hô thân mật, ngọt ngào kia càng khiến chàng bâng khuâng trong dạ.
Trời đã tối hẳn, Hãn Thanh châm ngọn nến sáp rồi ngồi xuống ghế.
Chàng nóng ruột hỏi:
- Vân muội, chừng nào chúng ta mới được bái kiến lệnh tôn?
Đạm Vân mỉm cười:
- Sáng mai gia phụ mới xuất quan. Tướng công cứ yên tâm ngủ đi!
Hãn Thanh gật đầu:
- Ta cũng phải tĩnh tọa, không thể xao nhãng được!
Quả thực là sau khi ăn cả con linh xà, chàng rất cần điều tức để dung hòa dược lực vào kinh mạch, bồi bổ chân nguyên. Việc này kéo dài cả năm chứ không chỉ một ngày một bửa.
Hãn Thanh tọa công đến tận cuối canh ba mới xong. Đạm Vân vẫn chưa ngủ, gương đôi mắt huyền ngắm nhìn dung mạo anh tuấn tuyệt luân của người chồng hờ!
Nàng âu yếm nói:
- Tướng công hãy nằm cạnh thiếp, nếu không sẽ chẳng giống phu thê, sự việc sẽ bại lộ ngay!
Sau cuộc tĩnh tọa, tâm trí Hãn Thanh sáng suốt, thư thái, không sợ bị lửa dục tấn công, nên chàng thản nhiên ngã lưng xuống giường, chỉ lát sau là ngủ ngay.
Mờ sáng, hai người thức giấc, nhìn nhau e thẹn. Họ rửa mặt, thay áo xong thì bình minh ló dạng. Hãn Thanh bồng Đạm Vân tiến về phía căn nhà gỗ lớn nhất ở cuối Cốc.
Trên thềm đã có người chờ sẵn. Không phải là một mà là đến bảy lão nhân tóc bạc, bốn nam ba nữ! Họ ngồi trên những chiếc ghế dựa, xếp theo hình cánh cung. Cỗ Đại Ž ở giữa, số còn lại nhỏ hơn!
Người ngự tọa trên Đại Ž là một lão già mặt đỏ, râu đen, đầu đội mũ triều thiên, dung mạo uy nghi đến khiếp người.
Đạm Vân nói nhỏ:
- Tướng công! Người mặt đỏ chính là gia phụ, còn sáu người kia là U Linh Phán Quan! Chàng hãy đặt thiếp xuống sàn gạch để thi lễ.
Hãn Thanh cúi xuống, để mỹ nhân ngồi xệp theo kiểu nửa quỳ, rồi cũng quỳ kế bên. Đạm Vân run rẩy lạy:
- Hài nhi bái kiến phụ thân và lục vị Phán Quan!
Hãn Thanh cũng dập đầu!
- Tiểu tế Mộ Dung Hãn Thanh xin ra mắt cốc chủ và lục vị trưởng bối!
Quỷ Hồ Tổng Giám ngửa cổ cười vang. Tiếng cười của lão âm u như vọng về từ chốn diêm đài. Lão lạnh lùng bảo:
- Có thực công tử chịu gá nghĩa với khuyển nữ Đạm Vân hay chỉ tòng quyền đi giúp người?
Câu hỏi sắc bén kia khiến Đạm Vân run lẩy bẩy, nhìn Hãn Thanh mà lệ tuôn trào!
Tề Phi Tuyết nói tiếp:
- Lão phu cũng xin nói rõ để công tử dễ quyết định! Thực ra thì Đạm Vân và tất cả những người trong Linh Cốc này đểu là chồn, quỷ chứ chẳng phải thường nhân. Còn về tuổi tác thì Vân nhi đã quá ba mươi chứ không trẻ như dung mạo đâu!
Hãn Thanh trầm ngâm một lúc, chỉnh sắc bảo:
- Vãn bối đã có hai phu nhân ở nhà. Nếu cốc chủ ưng thuận để Đạm Vân chịu phận lẽ mọn thì vãn bối xin hỏi cưới nàng, bất kể tuổi tác và lai lịch!
Sáu vị Phán Quan mỉm cười còn Tề Phi Tuyết giận dữ hỏi lại:
- Ngươi không phải là kẻ háo sắc, u mê, sao lại chấp nhận lấy vợ là hồ ly?
Hãn Thanh ung dung đáp:
- Vạn vật đồng nhất thể! Chồn hay người nào khác gì nhau? Mong cốc chủ khai ân tác hợp cho!
Tề Phi Tuyết gật gù:
- Lão phu muốn công tử chứng tỏ lòng thành bằng cách chịu thử ba chiêu chưởng pháp. Nếu qua được, lão phu sẽ tha tội cho Đạm Vân và nhận ngươi làm rể.
Đạm Vân kinh hãi kêu lên:
- Xin phụ thân nương tay!
Hãn Thanh đã luyện thành công phu Thiên Ma Bách Luyện, hiên ngang nhận lời:
- Vãn bối xin tuân mệnh!
Chàng đứng lên, liền bị Đạm Vân ôm chân khóc lóc, van nài:
- Tướng công hãy rời khỏi nơi này ngay thôi! ®o ®nh Tam Thức lợi hại vô song, chàng không sống nổi đâu!
Hãn Thanh cảm động, vuốt tóc nàng trấn an:
- Ta đã dám lấy một ả hồ ly xinh đẹp như nàng, chẳng lẽ lại không đủ bản lãnh để tiếp nhạc phụ vài chiêu hay sao?
Chàng cúi xuống, bồng nàng đặt lên mép thềm rồi vòng tay nói:
- Xin cốc chủ chỉ giáo!
Tề Phi Tuyết đứng lên, bước xuống đứng đối diện Hãn Thanh, nghiêm giọng:
- Lão phu sẽ xuất thủ thật chậm để khỏi mang tiếng già hiếp trẻ! Nếu tự lượng không nổi thì có thể bỏ cuộc!
Hãn Thanh gật đầu, bảo nguyên thủ nhất, dồn chân khí ra song thủ chờ đợi.
U Linh Cốc chủ nhẹ nhàng thi triển chiêu thứ nhất. Tuy động tác của lão không nhanh mà chưởng ảnh trùng điệp như ngàn bàn tay ma quái. Hãn Thanh vội đạp theo phương vị Cửu Cung, xuất chiêu Đại Giang Phong Vũ, bằng thủ pháp Kim Sa Ấn, vỗ liền chín đạo chưởng kình vàng nhạt mãnh liệt như mưa gió trên sông dài.
Chưởng phong chạm nhau nổ vang rền, và Hãn Thanh trúng một đòn vào ngực, văng ngược ra sau hơn trượng. Đạm Vân thét lên ảo nảo:
- Tướng công!
Nhưng Hãn Thanh đã lồm cồm đứng lên, lau máu nơi khóe miệng, hít một hơi chân khí rồi nói:
- Xin cốc chủ dạy cho chiêu thứ hai!
Sáu vị Phán Quan thở phào, mỉm cười tán thưởng. Tề cốc chủ cũng gật gù:
- Giỏi lắm, hảo hài tử! Chiêu sau sẽ nặng hơn chiêu trước, hãy cố mà chống đỡ!
Hãn Thanh nghe ngực đau đớn vô cùng, tự biết nếu không có công phu đặc dị gia truyền thì đã gãy xương.
Chàng cũng vô cùng thán phục, không hiểu vì sao lại trúng đòn! ®o ®nh Chưởng Pháp quả là tuyệt học vô thượng của tà môn!
Hãn Thanh vẫn tự hào về sở học của ân sư nên cố đem Cửu Cung Thần Thức ra giải phá chiêu thứ hai.
Tề cốc chủ vẫn ung dung, chẳng hề cấp bách, bủa lưới ma chưởng vây chặt lấy đối phương. Hãn Thanh nhận ra sát khí uy hiếp các đại huyệt từ ngực xuống bụng dưới, liền xuất chiêu Lôi Lục Thu Trì. Thân hình chàng bay vút lên không, song thủ vỗ liền chín thức chưởng.
Nhưng kỳ lạ thay, lưới chưởng của đối phương mở rộng mãi, không cho chàng thoát ra. Và sau chín lần va chạm, Hãn Thanh nghe bụng đau như bị chùy sắt nện vào.
Lần này, thân hình chàng văng xa đến hai trượng, rơi xuống mặt cỏ nặng nề như đá. Đạm Vân kinh hoàng, vừa khóc vừa lết đến bên phu tướng, ôm chàng mà nức nở:
- Tướng công ơi! Chàng chết thì thiếp chẳng sống làm gì?
Hãn Thanh mở mắt, gượng cười:
- Ta không sao đâu! Vân muội hãy yên tâm!
Chàng ngồi lên, nhắm mắt điều thương một lúc rồi đứng dậy:
- Mong cốc chủ chỉ giáo chiêu thứ ba!
Tề Phi Tuyết và sáu vị Phán Quan giật mình, không ngờ chàng trai này lại hồi phục nhanh như vậy! Cốc chủ tư lự nói:
- Lão phu vì quy củ của U Linh Cốc nên chẳng thể nương tay được, chiêu này sẽ xuất toàn lực. Công tử hãy suy nghĩ cho kỹ kẻo uổng mạng!
Đạm Vân càng khóc lớn, ôm chặt lấy hai chân chàng. Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Vãn bối không sợ chết, chỉ mong sau chiêu này, dù vãn bối sống hay chết, cốc chủ cũng chữa trị đôi chân cho Vân muội!
Tề Phi Tuyết quay lại nhìn sáu vị Phán Quan. Họ đều gật đầu nên họ Tể ưng thuận:
- Lão phu nhận lời!
Hãn Thanh cúi xuống thì thầm với Đạm Vân:
- Ta đã có cách phá giải ®o ®nh Chưởng Pháp, nàng đừng lo lắng gì cả!
Đạm Vân nghi hoặc:
- Tướng công nói thực chứ?
Chàng gật đầu hôn lên trán mỹ nhân! Đạm Vân buông lỏng tay để Hãn Thanh bước ra đấu trường.
Tề cốc chủ thở dài xuất chiêu cuối cùng. Lần này chưởng ảnh dệt thành màn sương liền lạc, không còn chút khe hở nào. Chưởng kình rít lên vù vù nghe rất đáng sợ.
Hãn Thanh không chút chần chừ, lao thẳng vào lưới chưởng ảo ảnh, thân hình chàng như mũi tên nằm ngang, cách mặt đất chừng sải tay, và xoáy tít như chong chóng. Song thủ Hãn Thanh liên tục vỗ ra những chưởng kình vàng nhạt, tập trung vào một điểm duy nhất. Chiêu Cửu Cử Nhất Nguyên này trước đây chàng không đủ công lực để thi triển. Vì gồm có đến tám mươi mốt thức chưởng phách không. Nay đến phút nguy cấp, chàng chợt nhớ ra, liền thi thố để phá chiêu Ma Chưởng của Tề Phi Tuyết.
Nhờ lực đạo chỉ dồn vào một điểm nên sức công phá vô cùng mãnh liệt, xuyên thủng được màn chưởng ảnh của đối phương. Chưởng kình đập vào cơ thể chàng theo chiều dọc nên bị xoáy tuột đi, lại thêm công phu Thiên Ma Bách Luyện hộ thân nên Hãn Thanh chịu đựng được hết chiêu, tiếp cận mục tiêu. Tề cốc chủ kinh hãi vội cử hữu thủ đón đóa hoa chưởng ảnh màu vàng nhạt kia. Chưởng phong va chạm nổ vang như sấm. Hãn Thanh nghe toàn thân chấn động, khí huyết hỗn loạn và rơi xuống mê man bất tĩnh.
Lúc chàng mở mắt thì thấy mình nằm dưới một gốc xuân già, đầu gối lên bọc hành lý. Cạnh đấy là con ngựa ô đang gặm cỏ. Hãn Thanh ngơ ngác dụi mắt nhìn quanh chẳng thấy bóng ai và đây cũng không phải là khung cảnh của U Linh Cốc. Tiếng ngựa xe qua lại ngoài kia chứng tỏ chỗ này rất gần đường quan đạo!
Chàng có cảm giác như vừa mới trải qua một giấc mộng hoang đường.
Nhưng khi mở bọc hành lý chàng phát hiện một tờ hoa tiên còn thơm mùi son phấn:
"Tướng công nhã giám! Chàng đã qua được thử thách cuối cùng của U Linh Cốc, giúp thiếp thoát cảnh tàn tật. Đồng thời chàng cũng trở thành Quỷ Hồ Thiếu Tổng Giám, kế vị gia phụ sau này! Tuy nhiên, chúng ta chưa đến hạn kỳ sum họp, nên phải tạm xa nhau! Mong chàng bảo trọng!
Gia phụ cùng lục vị Phán Quan đã quyết định ban cho chàng khẩu quyết ba chiêu ®o ®nh Chưởng Pháp để phòng thân, chàng hãy cố luyện cho thành công.
Đạm Vân tái bút!" Hãn Thanh cười khổ, không ngờ đời hiệp khách lại luôn vương vấn tơ duyên với ma quỷ, hồ ly thế này!
Tự chế nhạo một hồi, chàng học thuộc khẩu quyết ®o ®nh Tam Thức rồi hủy đi. Hãn Thanh lên ngựa, ra đường quan đạo, ngập ngừng không biết mình đang ở đoạn nào, đành nhắm hướng Nam đi thẳng.
Quả nhiên, ba khắc sau, thành Tinh Châu hiện ra trước mắt. Vầng dương đã lên cao, Hãn Thanh nghe đói bụng, vào thành tìm nơi dùng bữa.
Lúc đi ngang Tứ Hải Tửu Lâu, bọn tiểu nhị ra tận đường đón chào, Hãn Thanh đành phải dừng cương.
Chàng lên lầu đẻ hứng ngọn gió xuân mát mẻ và ngắm cảnh vật chung quanh. Trên này đã có hơn trăm hào khách đang chuyện trò rôm rả, nhưng có lẽ vì bộ râu chàng khá rậm nên chẳng ai nhận ra.
Lúc gã tiểu nhị bưng cơm rượu đến, Hãn Thanh hỏi gã:
- Hôm nay là ngày mấy?
Gã cười đáp:
- Bẩm công tử! Đã là ngày rằm tháng tư rồi!
Hãn Thanh ngẩn người tự nhủ:
- Té ra ta đã lưu lại U Linh Cốc bảy ngày. Nhưng sao ta chẳng nhớ gì cả nhỉ?
Gã tiểu nhị vẫn đứng hầu, cười cầu tài, kể lể:
- Chắc công tử từ phương xa mới đến! Đất Tinh Châu này vừa xảy ra một chuyện kinh thiên động địa!
Gã dừng lại để tăng phần hấp dẫn rồi nói tiếp:
- Số là mấy ngày trước đây, xác người nằm đầy dẫy trên đoạn quan đạo phía Bắc. Chỉ trong vòng trăm dặm mà có đến hơn hai trăm tử thi áo vàng.
Nghe đâu họ là người của Thần Tiên Giáo gì đấy. Còn hung thủ chính là một cỗ xe song mã. Các thủ lãnh Thần Tiên Giáo đã đích thân chặn đường mà cũng không cản nổi, đành rút hết quân khỏi Tinh Châu!
Hãn Thanh hỏi lại:
- Thế ngươi có biết cỗ xe ấy giết người như thế nào không?
Gã lắc đầu rùng mình:
- Tiểu nhân nghe đồn là từ trong xe bay ra những bóng ma trắng toát, ai hít phải mùi tử thi ấy là chết ngay!
Hãn Thanh đoán rằng xe ấy của Đạm Vân có bố trí ống phóng độc khí nhưng không chắc lắm.
Chàng biết Ngũ Đài Ma Cơ cùng Thương Tâm Kiếm đã về đến Hầu Phủ từ lâu và đang nóng lòng ngóng đợi, nên ăn vội vài chén rồi đi ngay. Đương nhiên, chàng không quên thưởng cho tên tiểu nhị số bạc thừa.
Chàng quyết định đi đến Bách Thảo Sơn Trang để lấy lại Quái Mã thân yêu, rồi đi đường tắt về Lạc Dương.
Bảy ngày sau, Hãn Thanh đến chân núi Phúc Sơn vào buổi chiều. Chàng chết lặng người khi thấy Bách Thảo Sơn Trang chỉ còn là một đống hoang tàn đổ nát. Tòa đại sảnh vẫn còn bốc khói, chứng tỏ bị thiêu hủy mới vài ngày.
Nhưng lạ thay Đà nhi vẫn còn sống và đang bị cột dưới một gốc Đào. Hãn Thanh mừng rỡ thúc ngựa tiến vào, sắp hết đoạn đường rải sỏi chàng vui vẻ huýt sáo gọi Quái Mã. Đà nhi nhận ra chủ nhân, không tỏ vẻ mừng rỡ mà lồng lộn, hí lên những tiếng áo não, thê lương.
Hãn Thanh gần gũi linh vật suốt mấy năm trường nên hiểu ngay lời cảnh báo. Chàng lập tức ấn vào lưng ngựa, bay thẳng về phía sau.
Đúng lúc ấy, tuấn mã bước thêm một bước, mặt đường sụp xuống khiến nó rơi vào hố chông, hí lên nảo nuột. Đồng thời cây Đông Thanh bên đường ngã xuống, tàn lá che kín miệng bẫy!
Đà nhi là thần vật hãn thế, sức mạnh phi thường, đã giật đứt được sợi giây chão, phi như bay về phía Hãn Thanh, trước khi lực lượng mai phục ùa ra.
Hãn Thanh đứng ngay giữa cổng, ra hiệu cho Đà nhi cứ thoát ra ngoài trước, để chàng đối phó với kẻ thù.
Hai bên cổng chính là vách tường cao nên vị trí của chàng đang đứng khiến đối phương dù đông cũng không bao vây được.
Đi đầu toán phục binh chính là Kim Thạch Tà Tẩu Mộc Tiến Luân, Bắc Nhạc Quỷ Trảo và Phó giáo chủ Hứa Hữu Tinh.
Hãn Thanh xem sinh tử như nhau nên chẳng hể biết sợ hãi, điềm nhiên rút kiếm chờ đợi.
Tà Tẩu vừa đến nơi đã hầm hầm quát hỏi:
- Mộ Dung tiểu tử! Phải chăng mi chính là kẻ đã bắt cóc Ngũ Đài Ma Cơ và giết hại con trai của ta?
Hãn Thanh đáp lững lờ:
- Nếu ta phủ nhận chỉ sợ lão không tin!
Bắc Nhạc Quỷ Trảo tiếp lời Tà Tẩu:
- Bần đạo xin hỏi các hạ có quan hệ gì với ém Dương Đạo?
Hãn Thanh ngơ ngác nói:
- Tại hạ không biết họ là ai cả!
Hà Tu Nghệ biết chàng nói thực nên buột miệng lẩm bẩm:
- Thế thì sao ém Dương Đạo lại giết chết hơn hai trăm thủ hạ của bổn giáo nhỉ? Chất kỳ độc Vụ Tảo Thiên Quân ấy chỉ có họ mới có mà thôi!
Hãn Thanh biết ngay lão muốn đề cập đến cỗ xe của Tề Đạm Vân! Như vậy thì U Linh Cốc chính là trọng địa của ém Dương Đạo!
Hứa Hữu Tinh vuốt râu cười:
- Có người trông thấy các hạ lên cỗ xe ma ấy. Bổn giáo và ém Dương Đạo có mối quan hệ đặc biệt, không muốn làm sứt mẻ. Mong các hạ hãy nói thực!
Hãn Thanh không ngờ Thần Tiên Giáo hùng mạnh như thế mà cũng ngán sợ ém Dương Giáo. Chàng mỉm cười hỏi lại:
- Nếu tại hạ nói mình là người thân của ém Dương Đạo, liệu Mộc lão đầu có chịu bỏ qua mối thù giết con hay không?
Tà Tẩu rít lên ghê rợn:
- Dù ngươi có là ai cũng đừng mong thoát chết. Bọn lão phu giết người hủy xác, có trời mới biết được!
Hãn Thanh bật cười:
- Lão cứ yên tâm ra tay, ta chẳng biết ém Dương Đạo là tổ chức nào cả!
Hứa Hữu Tinh vội nhắc nhở:
- Mộc lão huynh hãy đề phòng Sách Hồn Tiễn của y. Tây Nhạc Lão Quái đã chết vì thứ ám khí ấy đấy!
Mộc Tiểu Luân cười rộ:
- Lão phu nào xem chất độc của bọn man mọi ra gì!
Dứt lời, lão vung kiếm tấn công ngay. Dĩ nhiên, cũng là pho Khổng Tước Kiếm Pháp mà Ngũ Đài Ma Cơ đã từng thi thố, nhưng lợi hại hơn nhiều. Có điều Mộc Tiểu Luân đã bước qua tuổi tám mươi, lại ham mê châu báu, vàng bạc nên xao nhãng kiếm cung. Tuy lão có đến năm mươi năm công lực nhưng bản lãnh còn kém cả Tây Nhạc Lão Quái Hàn thế Đức.
Hãn Thanh lại vừa mới ăn Hồng Sắc Mãng Xà, công lực rất sung mãn.
Chàng dỡ pho Nhất Nguyên Kiếm Pháp, liên tiếp ra đòn, dồn đối phương vào thế hạ phong.
Dẫu vậy, Hãn Thanh vẫn cẩn trọng, chàng đã được Lạc Bình tiết lộ bí mật trong võ công của Tà Tẩu, nên hết sức đề phòng.
Quả nhiên, Mộc Tiểu Luân bất ngờ quát vang như sấm, khiến Quỷ Trảo và Hứa Hữu Tinh cũng phải rụng rời. Và từ trong tay tả của lão, một luồng độc vụ thơm nồng tỏa ra như đám mây chụp lấy Hãn Thanh.
Tà Tẩu lập tức lùi nhanh, nở nụ cười đắc ý. Chất độc Tương Tư Tử này cực kỳ lợi hại, chỉ chạm vào da cũng phát sinh tác dụng.
Ai cũng thấy rõ Hãn Thanh lảo đảo ôm bụng. Nhưng bất ngờ, từ tay tả chàng xạ vào mắt phải của Tà Tẩu. Và thân hình chàng lao đến như ánh chớp kiếm ảnh phủ kín người Tà Tẩu.
Lão rú lên đau đớn, ngã vật xuống mặt đất, tay hữu đã bị chặt ngay khuỷu, bụng thủng ba lỗ.
Hãn Thanh trầm giọng:
- Tại hạ nể mặt Ngũ Đài Ma Cơ nên tha mạng cho lão một phen!
Quỷ Trảo vội nhảy đến tấn công chàng, còn Hứa Hữu Tinh chăm sóc Kim Thạch Tà Tẩu!
Không như Mộc lão ma, bản lãnh Bắc Nhạc Quỷ Trảo rất lợi hại, nhờ dầy công rèn luyện. Đôi cánh tay của lão cứng rắn như thép luyện, ngang nhiên va chạm với trường kiếm của Hãn Thanh, và mấy lần đã suýt đoạt được vũ khí của chàng.
Công lực của Hà Tu Nghệ lại thâm hậu gấp đôi đối phương, khiến thanh Hầu Tước Kiếm run lên bần bật khi va chạm.
Pho Bắc Thiên Thần Trảo lại vô cùng ảo diệu, công thủ đều kín đáo, khiến Hãn Thanh không sao phá thủng nổi. Chàng phải tận dụng pho Cửu Cung Mê Bộ, lúc ẩn lúc hiện, liên tiếp tung ra những chiêu kỳ ảo mới duy trì được thế quân bình.
Phép du đấu rất tốn hao chân khí, mồ hôi Hãn Thanh toát ra như tắm, Hà Tu Nghệ vẫn vững vàng như núi Thái, lầm lì xông đến, khiến Hãn Thanh phải lùi dần. Áo của chàng đã bị mười ngón tay sắc như dao kia xé rách tơi tả, nhưng chưa chạm vào da thịt. Những đòn phản công của Quỷ Trảo rất bất ngờ và quỉ dị.
Hãn Thanh không dám diên trì, vì sợ kiệt lực. Chàng xạ mũi Sách Hồn Tiễn chặn đối phương rồi nhảy lùi ra xa đứng im như pho tượng, miệng mỉm cười.
Quỷ Trảo xông đến liền bị những mũi phi tiễn nhỏ bé tấn công vào những yếu huyệt. Thủ pháp phóng Sách Hồn Tiễn của Hãn Thanh đã đạt đến mức Hỏa Hầu, ngón tay chỉ máy nhẹ cũng đủ để ám khí bay ra với tốc độ sao băng. Hà Tu Nghệ phải rất vất vả mới né tránh hay gạt ra được.
Hãn Thanh nghỉ ngơi một thoáng ngắn ngủi nhưng cũng đủ để tái chiến.
Sự kỳ diệu của tuổi xuân là như thế đấy!
Bắc Nhạc Quỷ Trảo động nộ gầm vang, song thủ chợt dài ra thêm một gang. Lướt đến như cơn bão, chưởng ảnh trùng trùng điệp điệp. Không biết đâu là hư thực.
Lão đã chiếm được tiên cơ nên chiêu này công nhiều hơn thủ, sát khí mịt mờ.
Chiêu công bao giờ cũng lộ nhiều sơ hở và Nhất Nguyên Kiếm Pháp là chuyên gia khai thác nhược điểm ấy, nhưng liệu kiếm của Hãn Thanh có đến được mục tiêu trước song thủ của đối phương hay không?
Hãn Thanh xem thường sống chết, xuất chiêu Tử Sinh Bất Biệt, lao mình vào lưới trảo. Mũi kiếm của chàng điểm nhanh cố tìm ra khe hở mà đâm vào.
Nhưng tay hữu của Hà lão quỉ bỗng dài thêm một đoạn, chụp lấy ngực Hãn Thanh. Năm ngón tay sắc nhọn cắm sâu vào da thịt chàng. Ta tả Hà Tu Nghệ khóa chặt lưỡi kiếm. Lão ta vừa phát hiện da thịt đối phương bền chắc phi thường thì đã bị Hãn Thanh vung cước đá vào hạ nang.
Hà Tu Nghệ văng xa như cánh diều đứt dây, rú lên thảm khốc. Còn lồng ngực trái của Hãn Thanh đã bị bóc đi một lớp thịt dầy.
Tuy nhiên, phần thắng đã thuộc về chàng! Bắc Nhạc Quỷ Trảo ôm hạ thể lăn lộn, kêu lên những tiếng não lòng.
Hãn Thanh khá hơn một chút nhưng đã thọ thương trầm trọng. Trảo kình công phá đến tâm mạch, khiến chàng đau đớn, hơi thở nẳng nề.
Hứa Hữu Tinh lạnh lùng bước đến, cười lạnh nói:
- Mộ Dung tiểu cẩu! Phen này ngươi đừng hòng sống sót!
Hãn Thanh nhìn lão họ Hứa và số người đông đảo đang khép chặt vòng vây, biết mạng mình đã tuyệt.
Chàng mỉm cười khô héo, dồn hết toàn lực vào tay hữu đợi chờ. Dù đã điểm huyệt chỉ huyết, nhưng vì vết thương quá lớn nên máu vẫn tuôn dầm dề.
Hứa Hữu Tinh xử dụng một thanh loan đao, thủ hạ của lão cũng vậy! Lão ma thấy bộ dạng tiều tụy của đối phương, tin rằng sẽ đắc thắng. Lão nhếch mép cười hiểm độc, vung đao tấn công.
Đao chiêu mãnh liệt và ảo diệu vô song, cuốn đến như bão tố. Hãn Thanh vẫn đứng im, đưa kiếm điểm nhanh chống đỡ.
Đôi mắt chàng sáng rực tinh thần bất khuất, vô úy, điềm nhiên chống đỡ. Trong giây phút hiểm nghèo này mới thấy được tính thần diệu của Nhất Nguyên Kiếm Pháp! Hãn Thanh tuy kiệt sức nhưng vẫn chống trả kiên cường bằng những chiêu thức tinh kỳ!
Thói thường, khi gác ngoài tai sự sống chết, con người lại kiên dũng phi thường. Hãn Thanh lại được chân truyền của Bất Biệt Cư Sĩ nên kiếm thuật bác tạp, bao la như biển. Chàng không giết được người nhưng vẫn bảo vệ được mình. Có điều, máu từ vết thương tuôn chảy, mang theo sức lực của bậc anh hào. Đường kiếm của Hãn Thanh dần mất đi sự linh hoạt và chàng sắp đi vào tử địa.
Nhưng bất ngờ thay, từ trên đầu tường xuất hiện những bóng ma áo trắng. Họ bay chập chờn như không có trọng lượng, lướt trên đầu bọn giáo chúng Thần Tiên. Những bóng trắng kia lướt đến đâu thì phe đối phương đều gục ngã, chẳng một tiếng than van.
Riêng Phó giáo chủ Thần Tiên Giáo Hứa Hữu Tinh lại được chăm sóc nồng hậu hơn bởi hai bóng ma. Quái phong từ bàn tay họ giáng xuống như sấm sét. Dù đã đề phòng nhưng họ Hứa vẫn trúng đòn, khóe miệng rỉ máu.
Hứa Hữu Tinh khôn hồn đào tẩu ngay, chẳng nghĩ gì đến đồng đảng nữa!
Chưa đầy nửa khắc, chẳng còn ai sống sót cả, trừ Hãn Thanh. Các bóng ma biến mất để lại mình chàng ngơ ngẩn.
Hãn Thanh xé áo băng chặt vùng thương tích, rồi tiến thẳng vào phía Bách Thảo Sơn Trang. Chàng nén đau cao giọng gọi:
- Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh đây! Có ai còn sống không?
Nói xong, chàng định thần lắng nghe. Bỗng nhiên có tièng người văng vẳng vọng lại:
- Lão phu là Bạch Nguyên Giáp đây! Dưới cây hòe mé trái đại sảnh có hầm ngầm!
Hãn Thanh từng nghe Bạch Thần Y khoe khoang vể hệ thống mật thất trong Bách Thảo Sơn Trang, nên mới hy vọng lão còn sống! Nay nghe phúc đáp, chàng mừng rỡ chạy đến gốc hòe lục soát.
Cây hòe này có lẽ đã hơn trăm tuổi nên thân to cỡ bốn người ôm. Hãn Thanh nghe tiếng của Thiết Địch Thần Y từ trên ngọn cây vọng xuống, lièn bám theo cành mà lên. Thì ra thân cây rỗng ruột, có thang tre để đi xuống.
Hãn Thanh lần từng nấc, cuối cùng lọt vào một bí thất.
Thiết Địch Thần Y Bạch Nguyên Giáp đang nằm trên đất, thều thào nói:
- Lão phu bị Thần Tiên Giáo giam hãm đã bốn ngày không ăn uống, tưởng mạng không còn, nào ngờ công tử lại đến kịp.
Hãn Thanh vội bồng lão ra ngoài. Bạch Thần Y nhìn thấy hàng trăm xác áo vàng nằm la liệt, bỡ ngỡ hỏi:
- Chẳng lẽ mình công tử mà giết sạch bọn họ?
Hãn Thanh không đáp, cúi xuống nhặt một túi da đựng nước trên thi thể của một gã hoàng y, cho Bạch Thần Y uống!
Cuối tháng tư, một con ngựa có chiếc đầu lạc đà dừng cương trước Mộ Dung Hầu Phủ.
Bọn môn nhân gác cổng rú lên mừng rỡ, mau mắn mở rộng đại môn đón Tiểu Hầu Gia!
Ngoài Hãn Thanh, trên lưng Quái Mã còn có một lão nhân nữa, đó là Thiết Địch Thần Y Bạch Nguyên Giáp, lão đã gom góp tài sản về sống với Hãn Thanh, vì cơ ngơi cháy rụi và đệ tử chết sạch bởi bàn tay Thần Tiên Giáo.
Một gã gia nhân đã mau mắn chạy vào báo tin, nên lão Hầu Gia xuất hiện ngay.
Hãn Thanh vội quỳ xuống thềm sảnh bái kiến:
- Tiểu tôn khiến nội tổ phải lo lắng, tội đáng đánh đòn!
Mộ Dung Cẩn cười ha hả, đỡ chàng lên xiết chặt vào lòng:
- Không sao! Cháu còn sống là tốt lắm rồi!
Hãn Thanh nhận ra dòng lệ từ mắt lão chảy xuống cổ mình, lòng vô cùng cảm động!
Bỗng có tiếng nữ nhân sụt sùi:
- Nô tỳ mừng được gặp lại công tử.
Đây chính là giọng của Ngũ Đài Ma Cơ! Nhưng lại có tiếng ai trong trẻo:
- Nô tỳ bái kiến Tiểu Hầu Gia!
Hãn Thanh giật mình quay lại, thì ra là Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương!
Chàng cau mày hỏi:
- Vì sao tiểu thư lại xưng hô như vậy?
Lão Hầu Gia cười vang:
- Thanh nhi! Sau khi mi đi được ít lâu thì Tinh Châu Tài Thần Hà Hồng Tập cho ái nữ đến Hầu Phủ để hầu hạ ta, để báo đáp ơn cứu mạng của mẫu thân ngươi ngày xưa! Lão phu từ chối mãi mà không được!
Hãn Thanh hiểu ngay Nhất Bất Thông đã bày kế này. Chàng mỉm cười bảo:
- Hai nàng đứng lên đi!
Hãn Thanh bước đến xiết chặc Thương Tâm Kiếm. Nãy giờ gã vẫn đứng lặng lẽ sau lưng lão Hầu Gia, nhìn chàng bằng ánh mắt ấm áp. én Khiếu Hồ thì thầm:
Tại hạ tưởng kiếp này không còn có ai là bằng hữu nữa! Câu nói tuy đơn giản nhưng chan chứa nghĩa tình. Hãn Thanh bóp chặt bàn tay gã nói:
- Tiểu đệ cũng vậy!
Chàng quay lại giới thiệu Bạch Nguyên Giáp với mọi người. Lão Hầu Gia hoan hỉ bảo:
- Bạch lão đệ cứ xem đây là nhà mình. Lão phu rất mừng vì có người bầu bạn!
Mộ Dung Cẩn hối thúc hai người vào tắm gội và quát gia nhân chuẩn bị yến tiệc tẩy trần!
Lạc Bình và Hà Hồng Hương e lệ đưa Hãn Thanh vào hậu viện. Lúc chàng cởi áo, họ rú lên khi thấy ngực chàng quấn đầy băng. Ngũ Đài Ma Cơ sa lệ hỏi:
- Phải chăng công tử đã gặp cường địch?
Hãn Thanh thở dài:
- Bọn Thần Tiên Giáo phá hủy Bách Thảo Sơn Trang và gài bẫy chờ ta trở lại lấy ngựa. Có đến ba đại cao thủ là Quỷ Trảo, Tà Tầu và Phó giáo chủ Hứa Hữu Tinh. Ta xin lổi vì đã chặt tay và hủy một mắt của lệnh sư!
Lạc Bình buồn rầu đáp:
- Gia sư đã giết chết nhũ nương của nô tỳ, xem như không còn tình nghĩa sư đồ nữa! Công tử bất chấp phải áy náy!
Hãn Thanh cúi xuống hôn lên trán Ma Cơ, mắt liếc nhìn Viên Nguyệt Hằng Nga để xem thái độ.
Nãy giờ Hà Hồng Hương vẫn nhẫn nhục đứng im, hai tay bối rối hành hạ gấu áo, mắt long lanh như sắp khóc. Một nàng thiên kim tiểu thư tính tình ngang ngạnh, nay trở nên hiền thục như vậy, quả là kỳ lạ. Điều ấy nói lên tình yêu của nàng dành cho Hãn Thanh to lớn đến dường nào!
Lạc Bình hiểu rất rõ tâm tình thầm kín của Hồng Hương, vì hai người đã thân thiết như chị em. Nhưng vị trí của Ma Cơ cũng chỉ là một nô tỳ, sao có thể nói dùm cho Viên Nguyệt Hằng Nga?
Hãn Thanh nghiêm giọng hỏi Hồng Hương:
- Lệnh đường có tán thành việc cô nương đến làm nô tỳ cho Hầu Phủ hay không?
Dù câu nói chẳng thân tình chút nào, nhưng cũng đủ cứu vớt Hồng Hương thoát khỏi tình trạng bị bỏ rơi. Nàng ấp úng đáp:
- Bẩm công tử! Gia mẫu đã biết lỗi nên không phản đối việc này.
Hãn Thanh gật gù:
- Hay lắm, lão Hầu Gia đã già, cũng cẩn có một tỳ nữ nhanh nhẩu linh hoạt như nàng. Ta rất biết ơn tấm lòng của nàng và phu thê Hà trang chủ!
Hà Hồng Hương chết điếng người, lắp bắp nói:
- Nhưng tiểu muội muốn được hầu hạ đại ca!
Nàng bối rối đến rơi nước mắt nên xưng hô như ngày nào!
Lạc Bình đánh bạo nói đỡ cho Hồng Hương:
- Công tử! Nô tỳ và Hương muội đã kết nghĩa chị em, xin được cùng hầu hạ công tử.
Hãn Thanh cười mát:
- Lạ thực! Hai nàng đều muốn làm dâu họ Mộ Dung mà lại từ chối bổn phận chăm sóc lão Hầu Gia, ta thực không hiểu nổi!
Câu nói của chàng như tiếng sấm giữa trời xuân, khiến cả hai nàng ngơ ngác!
Hãn Thanh bước đến, kéo cả hai vào vòng tay rộng rồi nói tiếp:
- Ta có nhiều thê thiếp này tất hương hồn của tiên mẫu sẽ không vui!
Hai nàng đã hiểu ra, bật khóc vì sung sướng. Hà Hồng Hương muốn chứng tỏ mình đã khác xưa, vui vẻ nói:
- Tiểu muội và Bình tỷ yêu thương nhau như chị em ruột, không hề ghen hờn để chàng phải bận tâm đâu!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Nhưng ta còn hai người vợ khác nữa, Hương muội tính sao?
Hồng Hương ngẩn người một lúc mới đáp:
- Hai hay bốn cũng thế thôi, hà tất phải đố kỵ để gia sự rối ren?
Hãn Thanh hài lòng, hôn lên má nàng khiến mỹ nhân sung sướng ngất ngây!
Tắm gội xong, Hãn Thanh tìm đến thư phòng để thưa chuyện với nội tổ.
Chàng chưa kịp nói thì Mộ Dung Cẩn đã phán:
- Thanh nhi! Lão phu thấy cả hai con bé đều xinh đẹp như tiên, xứng đáng làm dâu họ Mộ Dung. Ngươi thấy thế nào?
Hãn Thanh kính cẩn hỏi lại:
- Chẳng lẽ nội tổ không xem trọng việc môn đăng hộ đối?
Lão Hầu Gia cười xòa:
- Ta nào phải kẻ thiển cận, hủ lậu như thế! Do phụ thân ngươi thành danh quá sớm nên mới lụy vì danh thôi! Mẫu thân ngươi biết gã câu nệ nên mới phải dấu giếm lai lịch đưa đến thảm kịch. Phần ngươi, gia gia cho phép tự do quyết định việc hôn nhân!
Hãn Thanh cười khổ:
- Nhưng tiểu tôn còn có thêm hai người vợ khác thường nữa! Một là ma, còn nàng kia là chồn tinh, gia gia có chấp nhận được hay không?
Mộ Dung Cẩn giật mình:
- Thanh nhi không đùa đấy chứ? Ta đã sống hơn tám mươi năm mà nào thấy ma quỉ, hồ ly gì đâu?
Hãn Thanh chính sắc đáp:
- Tiểu tôn cũng nghi họ là người, nhưng không dám đoan chắc nên đành phải xem là ma quỉ! Xin nội tổ dạy bảo!
Mộ Dung Cần vuốt râu suy nghĩ, lát sau mỉm cười:
- Thanh nhi tưởng chỉ có mình lệnh sư thấu hiểu được phép Bất Diệt hay sao? Lão phu dám tự hào đạo hạnh không thua gì Cao Hán Ngọc!
Hãn Thanh mừng rỡ vòng tay vái tạ:
- Gia gia quả là bậc chân nhân thông đạt, khiến tiểu tôn cất được gánh nặng trong lòng.
Mộ Dung Cẩn cười khà khà:
- Lão phu chỉ mong ngươi sớm cho ra vài đứa tiểu hài, để già này có chắt ẳm bồng thôi!
Hãn Thanh ngượng ngùng gật đầu, cùng nội tổ ra khách sảnh, vì yến tiệc đã dọn xong!
Chiều hôm ấy, Nhất Bất Thông Chu Minh về đến. Cả nhà quây quần bên mâm cơm, nghe Hãn Thanh kể lại cuộc tình kỳ lạ của chàng với Trịnh Tiểu Thuần và Tề Đạm Vân!
Nghe xong, lão Hầu Gia cười khà khà:
- Chu Minh! Ngươi tự hào cái gì cũng biết, sao không thử kiến giải việc này xem?
Nhất Bất Thông thản nhiên đáp:
- Vãn bối chỉ thông thạo việc của người sống chứ không biết việc của quỷ thần. Danh hiệu Nhất Bất Thông đã chỉ rõ điều ấy! Trịnh cô nương kia là ma hay người thì chẳng biết, nhưng Tề Đạm Vân chắc chắn không phải là chồn!
Lão khề khà nhấp hớp rượu, khiến Hồng Hương nóng ruột:
- Nhị thúc nói ngay đi!
Từ lúc được Hãn Thanh nhận làm vợ, nàng đã vui vẻ, lanh lợi như xưa.
Nhưng tất nhiên đối với phu tướng vẫn một lòng nhũn nhặn.
Ngay trong buổi yến tiệc buổi trưa, lão Hầu Gia đã nhận cháu dâu, và hai nàng trở thành thiếu phu nhân Hầu Phủ!
Chu Minh khệnh khạng kể tiếp:
- ém Dương Dạo là một chi phái của Thiên Sư Giáo, giáo đồ tự xem mình là chồn, quỷ chứ không phải là người. Họ ít khi xuất hiện giang hồ, chỉ chuyên tâm tu luyện để thành tiên, vì vậy thành tựu võ công rất cao. Pho khinh công ®o ®nh thân pháp của ém Dương Đạo nhanh nhẹn và kỳ ảo vượt ngoài sức tưởng tượng của con người. Lại còn thêm chất độc Vụ Tảo Thiên Quân giết người trong nháy mắt, khiến ai cũng phải sợ hãi. Cũng may Tiểu Hầu Gia đã trở thành rể của ém Dương Đạo, nếu không, Thần Tiên Giáo mà lôi kéo được họ thì võ lâm sẽ trở thành biển máu!
Thiết Địch Thần Y thở dài:
- Lão phu cũng biết chút ít về nội tình ém Dương Đạo. Y thuật của họ rất đáng khâm phục, nhất là nghể giải phẩu. Dẫu tứ chi bị cắt rời, họ cũng có thể nối lại dễ dàng. Nhưng ém Dương Đạo cũng có một nhược điểm, đó là Băng Hỏa Quả ở ém Dương Linh Cảnh. Họ tin rằng nếu có được kỳ trân ấy sẽ luyện thành tiên đan, uống vào liền bạch nhật phi thăng. Thần Tiên Giáo nắm được điều ấy nến cố bắt lão phu để biết đường vào Linh Cảnh. Khi lấy được Băng Hỏa Quả, họ sẽ mua chuộc được ém Dương Đạo rất dễ dàng!
Thương Tâm Kiếm thắc mắc:
- Biết đâu Hải Hà Tiên Tử không chiếm lấy Bạch Hỏa Quả mà thụ hưởng.
Lúc ấy bà ta trở thành vô địch thiên hạ, còn sợ gì ai nữa?
Bạch Thần Y mỉm cười:
- én hiền điệt không biết đấy thôi! Người trên sáu mươi tuổi chỉ cần ăn một phần tám quả cũng sẽ vỡ mạch máu chết ngay! Chỉ có cơ thể thanh xuân mới chịu đựng được dược lực mãnh liệt kia!
Ngũ Đài Ma Cơ ngượng ngùng cất tiếng:
- Vậy thì tướng công mau đến ém Dương Linh Cảnh để hái Bạch Hỏa Quả trước khi Thần Tiên Giáo tìm ra!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Lỡ ăn vào ta thành tiên thì hai nàng ở với ai?
Cả nhà bật cười vui vẻ. Hãn Thanh lại nói:
- Bạch lão bá! Tiểu điệt sẽ trở lại U Linh Cốc, báo cho ém Dương Đạo biết vị trí của ém Dương Linh Cảnh. Đó là cách tốt nhất để ngăn ngừa hậu hoạn.
Chu Minh ngạc nhiên:
- Sao Thanh nhi lại bỏ qua một vật báu hãn thế như vậy?
Chàng điềm nhiên đáp:
- Nhị thúc thử nghĩ xem! Tiểu điệt dù có tăng thêm bốn mươi năm công lực cũng không thể địch lại sự liên thủ của bốn lão ma đầu. Hơn nữa, ém Dương Đạo sẽ vì việc này mà sinh lòng oán hận, hậu quả khó lường.
Lão Hầu Gia hài lòng khen phải. Mọi người cũng tán thành cao kiến của chàng!
Nhất Bất Thông nhớ ra một việc:
- Thanh nhi! Hôm ấy ngươi đả thương Bắc Nhạc Quỷ Trảo và Kim Thạch Tà Tẩu, nhưng liệu ém Dương Đạo có tha cho họ không?
Hãn Thanh gật đầu:
- Lúc rời Bách Thảo Sơn Trang, tiểu điệt không thấy xác hai người ấy!
Chu Minh cân nhắc:
- Nếu vậy thì lực lượng đầu não của Thần Tiên Giáo còn rất hùng hậu.
Thanh nhi phải mau chóng liên hệ với U Linh Cốc để tranh thủ họ. Ta sẽ cải trang đến dự khai đàn của Thần Tiên Giáo để xem tình hình ra sao?
Viên Nguyệt Hằng Nga nũng nịu:
- Chẳng lẽ tướng công mới về đã đi ngay?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Ta tin rằng người của ém Dương Đạo lúc nào cũng quanh quẩn để bảo vệ rể quý. Vì vậy, đêm nay ra sẽ gọi họ vào mà báo tin!
Canh hai đêm ấyn Hãn Thanh ra sau vườn vận công gọi vang:
- Thủ hạ U Linh Cốc mau xuất hiện, ta là Mộ Dung Hãn Thanh có chuyện này cần bàn!
Quả nhiên, từ trên tàn cây cao vút có bóng trắng rơi xuống nhẹ nhàng như lá rụng. Khinh công kia khiến Hãn Thanh khâm phục sát đất.
Người ấy là một lão già đầu hói, mũi lân, miệng rộng, ánh mắt ranh mãnh. Hãn Thanh nhận ra lão là một trong sáu vị Phán Quan liền cung kính vòng tay:
- Không ngờ bậc trưởng bối lại đi theo chiếu cố, tiểu tế vô cùng cảm kích, xin Phán Quan cho biết đại danh?
Lão bèn cười hề hề:
- Lão phu là Lục Phán Quan Khuất Quỳ. Công tử cứ gọi là Lục thúc là được rồi! Phải chăng công tử cần người đối ẩm nên cho gọi già này?
Hãn Thanh biết ngay lão già vui tính này đang thèm rượu, chàng cười đáp:
- Quả đúng vậy! Kính thỉnh Lục thúc dời gót vào trong!
Khuất Qùy tươi tỉnh hẵn lên, bưới đi ngay. Hậu viện ngăn cách với tiền sảnh bằng một vườn hoa nhỏ, giữa có tòa tiểu đình bát giác không vách, bốn góc treo đèn lồng rất sáng sủa. Đây quả là nơi nhâm nhi rất thích.
Trên chiếc bàn bát tiên đã có sẵn dăm món nhắm và vò rượu lâu năm.
Lạc Bình, Hồng Hương đang sắp xếp chén đũa, gật đầu chào khách.
Hãn Thanh nghiêm giọng giới thiệu:
- Hai nàng hãy thi đại lễ vì đây là Lục thúc của Tề Đạm Vân!
Cả hai vội nghiêng mình:
- Tiện nữ bái kiến Lục thúc!
Khuất Qùy xua tay lia lịa:
- Lão phu không ưa tục lễ rườm rà, cứ đem thật nhiều rượu là xong!
Hãn Thanh cố nín cười, giới thiệu hai nàng:
- Bẩm Lục thúc, đây là Lạc Bình và Hà Hồng Hương, chuyết thê của tiểu điệt!
Họ Khuất gật gù:
- Công tử giỏi lắm, lấy được toàn vợ đẹp như tiên.
Hai nàng được khen, bất giác có cảm tình với Lục Phán Quan, hớn hở rót rượu và gắp thức ăn.
Tửu lượng của Khuất Qùy thật khủng khiếp, lão uống một hơi mười bát lớn mà vẫn tỉnh bơ. Thấy Hãn Thanh tận tình cạn theo, Lục Phán Quan rất hài lòng:
- Công tử quả là kẻ biết điều, không uổng công lão phu cực khổ mấy ngày nay!
Hãn Thanh bỗng nhớ ra:
- Dám hỏi Lục Phán Quan mang theo bao nhiêu thủ hạ và họ đâu cả rồi?
Khuất Qùy cười đáp:
- Cốc chủ bảo ta mang theo mười tám gã Hồ Tốt để bảo vệ công tử.
Chúng đang nằm cả ở trên cây ngoài vườn sau!
Hãn Thanh áy náy:
- Từ nay Lục thúc và anh em cứ vào phủ mà ăn ở cho thoải mái đừng tiếp tục chịu cảnh gió sương nữa!
Lục Phán Quan tinh quái nháy mắt rồi hạ giọng mỉa mai:
- Như thế thì đâu giống ma quỷ, chồn tinh? Cốc chủ mà biết được sẽ trách phạt bọn ta đấy!
Chàng cười bảo:
- Sau này, Lục thúc cứ báo với gia nhạc phụ rằng Thanh này đã biết rõ lai lịch của ém Dương Đạo, chư vị không cần dấu giếm nữa!
Chàng quay sang bảo Hồng Hương:
- Hương muội mau truyền lệnh dọn tiệc rượu cho mười tám người ở khách sảnh!
Viên Nguyệt Hằng Nga dạ rất ngoan, mở cửa bước đi ngay.
Trong Hầu Phũ lúc nào cũng có sẵn thức ăn, chỉ hơn khắc đã bày xong tiệc. Hồng Hương trở lại báo cáo phu tướng. Hãn Thanh bảo Khuất Quỳ:
- Phiền Lục thúc gọi dùm anh em vào!
Họ Khuất trở ra vườn, lát sau quay lại với đám Hồ Tốt. Những người này đều đã ở tuổi tứ tuần, dung mạo chất phác, hiền lành. Họ sụp xuống thi đại lễ:
- Chúng Hồ Tốt bái kiến Thiếu Tổng Giám!
Hãn Thanh bảo họ đứng lên, rồi dặn dò:
- Ta đã cho bày bữa tiệc mọn trên khách sảnh, mong các vị chiếu cố cho.
Kể từ nay các vị cứ vào Hầu Phủ mà nghĩ ngơi, không cần phải ẩn nấp nữa!
Cả bọn hân hoan cảm tạ, đi theo Hồng Hương lên nhà trên, Lục Phán Quan vui vẻ nói:
- Thực ra công tử có điều gì muốn nói với lão phu?
Hãn Thanh hỏi lại:
- Phải chăng ém Dương Đạo rất khao khát có được Bạch Hỏa Quả ở ém Dương Linh Cảnh?
Khuất Qùy giật mình:
- Đúng vậy! Hải Hà Tiên Tử, giáo chủ Thần Tiên Giáo đã hứa sẽ tặng kỳ trân ấy cho Tổng Giám! Nhưng sao công tử lại hỏi đến việc ấy?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Tiểu điệt may mắn biết được tọa lạc của ém Dương Linh Cảnh, muốn báo lại để chư vị đến đấy!
Lục Phán Quan hoan hỉ phi thường:
- Tuyệt diệu thật! Công tử mau nói cho lão phu nghe thử!
Hãn Thanh chậm rãi đáp:
- Ở vùng giáp giới giữa Thiểm Bắc và Nội Mông có dãy núi Hồ Sơn gồm bốn đỉnh. ém Dương Linh Cảnh nằm sâu trong lòng ngọn núi hướng chính Bắc. Nơi này quanh năm phủ tuyết. Nhưng Hồ Sơn lại là Hỏa Diệm Sơn còn âm ỉ, vì thế mới sản sinh được Bạch Hỏa Quả!
Chàng nói rõ đường đi nước bước cho Lục Phán Quan nghe. Lão vui mừng đến nỗi không ăn uống được nữa, cáo từ đi ngay về U Linh Cốc!
Mười tám gã Hồ Tốt ở lại và trở thành môn nhân nhà Mộ Dung. Bao năm sống khổ hạnh trong U Linh Cốc, giờ được ấm no, họ vô cùng biết ơn Hãn Thanh. Tiểu Hầu Gia không đi Tung Sơn dự lễ khai đàn của Thần Tiên Giáo.
Trưa ngày sáu tháng năm, Nhất Bất Thông trở về, sắc diện u ám, nặng nề.
Lão thở dài kể:
- Hải Hà Tiên Tử đã được Thần Y của ém Dương Đạo nối lại bàn tay cụt, dung mạo độ đôi mươi và diễm lệ phi phàm. Ánh mắt và nụ cười của bà ta khiến lão già tám mươi cũng phải xao xuyến. Chính vì thế mà Tiên Tử cũng đã lôi kéo được thêm lão quái vật Quang Minh Tôn Giả Khúc Tú Sơn về làm Tổng Hộ Giáo! Lão quỷ này đã chính mươi tuổi, bản lãnh cao siêu khôn lường, có thể ngang với Hải Hà Tiên Tử!
Hãn Thanh lại chú ý đến việc khác:
- Nhị thúc! Chẳng hay Lãng Đãng Hồng Nhan Chúc Tây Sương và gia nghĩa phụ Nhất Tà có mặt ở đấy không?
Chu Minh gật đầu:
- Có! Nam Nhạc Nhất Tà vẫn mang mặt nạ Hoạt Tử Nhân như trước, ngồi cạnh Chúc Tây Sương!
Hãn Thanh gật gù:
- Hay lắm! Để tiểu điệt đi Tứ Xuyên đón Trịnh Tiểu Thuần xong sẽ đến Tung Sơn hỏi tội Chúc Tây Sương!
Hai mỹ nhân nhao nhao đòi đi theo nhưng Hãn Thanh không cho:
- Đường xa ngàn dặm, sức nữ nhân không chịu nổi đâu! Hơn nữa, sự có mặt của hai nàng sẽ khiến ta khó ăn nói với Tiểu Thuần!
Họ đành cam chịu nhưng giữ Hãn Thanh ở lại đến cuối tháng năm mới cho khởi hành!
Trong thời gian này, Hãn Thanh khổ luyện ba chiêu ®o ®nh chưởng pháp. Nhờ đã nhìn thầy U Linh Cốc chủ Tề Phi Tuyết thi triển nên chàng thành tựu dễ dàng!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro