Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần 2

I.
Lúc đó là giữa buổi sáng, Winston bước ra khỏi ngăn để đi vệ sinh.
Từ đầu kia cái hành lang dài vắng ngắt có một người đang đi theo hướng ngược lại. Đấy là cô gái tóc đen. Anh chạm trán cô ta ở gần cửa hàng đồng nát cách đây vừa đúng bốn hôm. Khi cô đến gần thì anh nhận thấy tay phải cô được treo bằng một sợi dây quấn quanh cổ, sợi dây cùng màu với bộ đồng phục, từ xa không thể nhận ra được. Chắc là cô bị thương trong khi quay cái máy phác thảo nội dung các cuốn tiểu thuyết, thường gọi là kính vạn hoa. Đây là tai nạn thường thấy trong Ban Sáng Tác.
Khi họ còn cách nhau chừng bốn mét thì cô gái bất ngờ xảy chân và ngã úp mặt xuống đất. Cô thét lên vì đau. Chắc cô ngã đè lên chính cánh tay bị thương. Winston sững lại. Cô đã gượng chống hai đầu gối để đứng lên. Da mặt cô biến thành màu vàng sữa, đôi môi vì vậy trông càng đỏ thêm. Cô nhìn thẳng vào Winston, cầu khẩn, ánh mắt lộ vẻ sợ hãi hơn là đau đớn.
Trong lòng Winston bỗng dậy lên những tình cảm trái ngược nhau. Trước mặt anh là kẻ thù mà anh muốn thanh toán, nhưng đồng thời đây cũng là một con người đang bị đau, có thể đã bị gãy xương nữa. Anh chạy lại gần để giúp cô theo bản năng. Lúc anh nhìn thấy cô ngã đè lên cánh tay bị thương anh như thấy chính mình đang bị đau vậy.
"Có đau lắm không?", Winston hỏi.

"Không sao đâu. Tay. Sẽ hết ngay thôi", cô nói giọng run run như đang rất bối rối. Mặt cô bỗng trắng bệch ra.
"Có bị gãy chỗ nào không?"
"Không. Không sao. Đau một tí, giờ thì hết rồi"
Cô đưa cánh tay lành ra và anh đỡ dậy. Mặt cô hồng trở lại, có vẻ như đã hết đau rồi.
"Không sao đâu", cô nhắc lại, "Chỉ có cổ tay bị đau. Cám ơn, đồng chí!"
Rồi cô bước tiếp, mạnh mẽ như chưa có gì xảy ra. Việc đó kéo dài chừng nửa phút. Thói quen không biểu lộ tình cảm đã trở thành bản năng, vả lại lúc đó hai người đứng ngay trước màn vô tuyến. Nhưng thật khó mà che dấu được sự ngạc nhiên: chỉ trong vòng hai hoặc ba giây khi anh giúp cô đứng dậy, cô đã kịp dúi một vật gì đó vào tay anh. Không thể có chuyện vô tình. Đấy là một vật nhỏ và phẳng. Vừa bước vào nhà vệ sinh anh vừa đưa vật đó vào túi và lấy ngón tay mân mê. Đấy là một mảnh giấy gấp thành hình vuông.
Vừa đứng tiểu tiện anh vừa cho tay vào túi mân mê để mở mảnh giấy ra. Đây chắc chắn là một thông điệp. Có lúc anh đã định đi vào buồng vệ sinh để đọc ngay tại trận. Nhưng anh biết đấy là một hành động điên rồ. Đây chính là chỗ màn vô tuyến theo dõi kĩ nhất, liên tục nhất.

Anh quay về ngăn, ngồi xuống, rồi như vô tình vất mảnh giấy vào giữa đống giấy tờ trên bàn, sau đó anh đeo kính và kéo chiếc máy ghi lại gần. "Năm phút nữa", anh tự nhủ, "ít nhất phải năm phút nữa!". Tim đập như trống trận. Rất may là anh đang phải làm một công việc bình thường, chỉ phải chính xác hoá một loạt số liệu, không đòi hỏi phải tập trung tư tưởng.
Dù tờ giấy có viết gì thì cũng chỉ là chuyện chính trị. Theo anh hiểu thì có hai khả năng. Thứ nhất, khả năng này có lí hơn, cô ta là chỉ điểm của Cảnh Sát Tư Tưởng, đúng như anh vẫn lo từ trước tới nay. Anh chỉ không hiểu tại sao Cảnh Sát Tư Tưởng lại chọn cách đưa tin như thế này, nhưng chắc là phải có lí do nào đó nên họ mới làm thế. Thông điệp có thể là một lời đe dọa, một giấy triệu tập, hay mệnh lệnh tự sát, mà cũng có thể là một cái bẫy. Khả năng khác, khó chấp nhận hơn, anh đã cố gắng gạt đi nhưng chỉ được một lúc rồi nó lại hiện lên trong trí não. Có khả năng bức thông điệp không phải là của Cảnh Sát Tư Tưởng mà là của một tổ chức bí mật nào đó. Có thể tổ chức Huynh Đệ vẫn tồn tại chăng! Cô ta là thành viên của nó! Điều này hoàn toàn vô lí, nhưng ý nghĩ đó xuất hiện ngay khi anh biết là mình đang cầm tờ giấy trong tay. Phải vài phút sau thì cái khả năng thứ nhất, có lí hơn nói trên mới xuất hiện trong đầu. Ngay cả bây giờ, mặc dù trí óc mách bảo rằng tờ giấy ấy có thể báo hiệu cái chết đã cận kề, nhưng anh không tin và tuy không có cơ sở, nhưng anh vẫn hi vọng, tim đập thình thịch, anh phải cố gắng hết sức giữ cho giọng không run và tiếp tục đọc các số liệu vào máy ghi.
Anh cuộn những tờ giấy đã làm xong và đưa vào ống khí nén. Đã được tám phút rồi. Anh sửa lại kính, hít một hơi dài rồi kéo tập tài liệu có mảnh giấy do cô gái kia đưa về phía mình. Anh giở mảnh giấy ra. Trên mặt mảnh giấy có một hàng chữ to, viết bằng tay, nghiêng ngả:
Em yêu anh.
Choáng váng mất mấy giây, anh không đủ sức vất được ngay vật chứng vào lỗ nhớ. Mặc dù biết rằng chú ý quá đến tờ giấy có thể nguy, nhưng anh vẫn

liều đọc một lần nữa để tin chắc rằng đúng là những chữ đó.
Anh gần như không làm được gì cho đến tận bữa ăn trưa. Anh không thể tập trung chú ý vào các công việc chán ngấy đã đành, mà che dấu tâm trạng bồn chồn để màn vô tuyền không phát hiện được còn khó khăn hơn. Anh cảm thấy như có lửa đốt trong lòng. Ăn trong cái căng tin nóng bức, chật chội, ồn ào thật không khác gì bị tra tấn. Anh hi vọng có thể được ngồi một mình, nhưng thật không may là thằng ngốc Parsons lại hạ bệ ngay xuống cái ghế bên cạnh, mùi mồ hôi của hắn át hẳn mùi thịt hầm và hắn bắt đầu thao thao bất tuyệt về việc chuẩn bị cho Tuần Lễ Hận Thù. Hắn đặc biệt phấn khích khi nói về bức chân dung Anh Cả rộng những hai mét, vẽ trên giấy bồi do đội Tình Báo của cô con gái làm nhân sự kiện này. Bực nhất là do quá ồn nên Wiston không thể nghe rõ và cứ phải hỏi đi hỏi lại suốt, thành ra nhiều câu ngớ ngẩn phải nghe đến hai lần. Anh đã thoáng thấy cô gái tóc đen, cô ngồi cùng một bàn với hai người khác ở tận đầu bên kia căn phòng. Có vẻ như cô không trông thấy anh, còn anh cũng không nhìn sang phía ấy lần nào nữa.
Buổi chiều có đỡ hơn. Ngay sau bữa trưa anh được giao một việc khó, tế nhị, phải dẹp hết các thứ khác sang một bên và làm liên tục trong mấy giờ mới xong. Nhiệm vụ được giao là xuyên tạc một loạt báo cáo kết quả sản xuất cách đây hai năm nhằm hạ uy tín của một cán bộ cao cấp của Đảng Nội Bộ nay đã thất sủng. Winston rất thạo các công việc kiểu này và anh đã hoàn toàn quên được cô gái kia trên hai tiếng đồng hồ. Nhưng sau đó nét mặt cô lại hiện về ngay trước mắt, và lúc đó anh chỉ muốn được ở một mình. Chỉ ngồi một mình anh mới có thể suy nghĩ thấu đáo được. Tối nay anh phải có mặt tại Trung Tâm. Anh nuốt vội bữa ăn tối chán ngấy trong căng tin rồi chạy vào Trung Tâm để tham gia vào cuộc thảo luận tổ diễn ra long trọng như một trò hề, sau đó chơi hai séc bóng bàn, uống mấy li Gin và nghe thuyết trình đề tài "Quan hệ giữa Chuanh và cờ tướng" trong vòng ba mươi phút. Chán phải nói là đến tận cổ, nhưng khác với mọi khi, hôm nay anh không thích chuồn sớm. Mấy từ em yêu anh như làm bừng dậy trong lòng ước muốn được sống lâu thêm, có là người ngu mới làm những việc mạo hiểm vào lúc này. Gần đến hai mươi ba giờ anh mới về đến nhà và chui vào giường, trong bóng tối, nếu không lên tiếng thì màn vô tuyến không thể làm

gì được, đấy là lúc anh có thể suy nghĩ mà không sợ bị phân tâm.
Có một vấn đề kĩ thuật cần phải giải quyết: tiếp xúc như thế nào và hẹn hò ở đâu. Giả thuyết cô là một cái bẫy đã bị bác. Không có chuyện đó rồi, bởi vì anh thấy rõ cô đã run như thế nào khi trao mảnh giấy cho anh. Cô đã thần hồn nát thần tính và chuyện đó cũng dễ hiểu thôi. Anh không hề nghĩ đến chuyện né tránh. Mới năm ngày trước đây anh đã định đập vỡ sọ cô bằng một cục đá, nhưng nay chuyện đó không còn quan trọng nữa. Anh mường tượng ra thân thể trẻ trung, trần truồng của cô như anh đã từng nhìn thấy trong mơ. Thế mà trước đây anh đã cho rằng cô cũng là một người ngu, đầu óc toàn những điều dối trá và hận thù, lòng thì lạnh như băng, giống như những người khác mà thôi. Anh bỗng cảm thấy phát sốt khi nghĩ rằng có thể sẽ mất cô, có thể sẽ chẳng được ôm ấp cái thân thể trẻ trung, trắng trẻo ngọc ngà của cô! Điều anh sợ nhất là cô sẽ nghĩ lại nếu anh không mau chóng tiếp xúc được với cô. Nhưng tiếp xúc được với cô là chuyện cực kì khó. Không khác gì chơi cờ khi đã bị chiếu tướng. Quay hướng nào cũng thấy màn vô tuyến. Anh đã nghĩ đến tất cả phương pháp tiếp cận ngay trong vòng năm phút đầu tiên sau khi đọc mẩu giấy và bây giờ, khi có điều kiện suy nghĩ, anh đang cân nhắc từng phương án, giống như đang sắp xếp các dụng cụ đặt ngay trên bàn trước mặt vậy.
Rõ ràng là không thể tái ngộ như hồi sáng được nữa rồi. Nếu cô làm ở Phòng Tài Liệu thì còn tương đối dễ, Phòng Sáng Tác nằm ở đâu thì anh lại biết rất mù mờ, vả lại cũng chẳng có lí do gì để đến đó cả. Nếu anh biết chỗ cô ở và thời gian cô rời công sở thì có thể anh sẽ cố gắng tìm cách gặp cô trên đường về; nhưng đi theo cô cũng chả an toàn đâu vì dù muốn dù không cũng phải lảng vảng quanh Bộ mà như thế thì bị chú ý ngay. Chẳng nên nghĩ đến chuyện gửi thư. Ai cũng biết là tất cả thư từ đều bị kiểm duyệt trước khi đến tay người nhận. Thực ra là rất ít người viết thư. Đôi khi nếu cần nhắn cho ai thì chỉ việc mua những cái bưu thiếp, trên đó đã có sẵn các câu mẫu, chỉ cần xoá những câu không cần thiết là xong. Anh không biết cả tên cô chứ chưa nói địa chỉ. Cuối cùng anh cho rằng chỗ an toàn nhất chính là căng tin. Nếu cô ngồi một mình một bàn ở khoảng giữa phòng, đừng có gần màn vô tuyến quá và nếu trong phòng ồn ào... giả sử được như thế, thí dụ, khoảng ba mươi giây thì hai người có thể đủ thời gian trao đổi vài câu.

Tuần lễ tiếp theo trôi qua như một giấc mơ. Hôm sau, khi tiếng còi báo hiệu giờ làm việc nổi lên rồi cô mới tới căng tin, lúc đó thì anh đã đứng dậy chuẩn bị đi. Chắc là cô đã chuyển sang làm ca hai. Họ đi lướt qua nhau, không ai nhìn ai. Hôm sau nữa cô có mặt ở căng tin như thường lệ, nhưng có ba cô đi kèm, họ ngồi ngay dưới màn vô tuyến. Sau đó là ba ngày kinh hoàng đối với anh: không thấy cô đâu cả. Cả tâm hồn cũng như thể xác anh bỗng trở nên nhậy cảm đến mức không thể chịu đựng nổi; mọi hành vi, mọi tiếng động, mọi va chạm, mọi lời nghe được hay nói ra đều làm cho anh đau đớn, như bị tra tấn. Hình ảnh cô theo anh vào tận giấc ngủ mỗi ngày. Suốt mấy hôm đó anh không động đến cuốn nhật kí lần nào. Chính lúc làm việc anh lại được thư giãn đôi chút, anh có thể quên những giằng xé nội tâm khoảng mươi phút mỗi lần. Hiện cô ra sao, anh hoàn toàn mù tịt. Biết hỏi ai bây giờ. Có thể cô đã bốc hơi rồi, có thể cô đã tự sát rồi, có thể cô đã bị chuyển đến một vùng xa xôi hẻo lánh của Oceania rồi: nhưng điều tệ hại nhất và cũng dễ xảy ra nhất là cô đã nghĩ lại và quyết định không gặp anh nữa.
Ngày thứ tư cô lại xuất hiện. Cánh tay không còn treo trên cổ nữa, chỉ có cổ tay bị bó bột mà thôi. Như trút được gánh nặng, anh nhìn chằm chằm về phía cô đến mấy giây liền. Hôm sau chỉ chút xíu nữa thì anh đã nói chuyện được với cô. Khi anh bước vào căng tin thì thấy cô ngồi một mình bên cạnh cái bàn đặt cách xa tường. Lúc ấy còn sớm, chưa đông lắm. Winston đã đứng ngay cạnh quầy thì phải dừng lại chừng hai phút vì có người kêu là không được phát viên đường hoá học. Dù bị chậm một chút nhưng cô gái vẫn ngồi một mình khi Winston bưng mâm, anh quyết định đi về phía bàn của cô. Vừa bước anh vừa làm như vô tình ngước mắt tìm kiếm một cái bàn ngay sát chỗ cô ngồi. Cô chỉ còn cách anh chừng ba mét. Chỉ hai giây nữa là xong. Bỗng có người gọi từ đằng sau: "Smith!". Anh giả vờ như không nghe thấy. "Smith!", người kia lại gọi, lần này to hơn. Không thể tránh được nữa. Anh quay lại. Hóa ra là Wilsher, gã còn trẻ, tóc vàng, vẻ mặt ngây ngô, anh không biết rõ tay này, hắn ta mời anh ngồi xuống cái ghế còn để trống cùng bàn với hắn. Từ chối sẽ bị nghi ngay. Đã bị nhận diện rồi thì không thể đến ngồi cùng bàn với người phụ nữ đang ăn một mình. Sẽ bị chú ý ngay. Anh ngồi xuống, miệng nở một nụ cười thân thiện. Bộ mặt ngây ngô của Wilsher tươi tỉnh hẳn lên. Anh mường tượng cảnh mình đang cầm một cái búa chim cuốc thẳng vào giữa bộ mặt cầu tài đó. Bàn cô gái cũng có người ngồi ngay

sau đó.
Chắc chắn là cô đã trông thấy anh định đi lại phía cô, có thể cô đã hiểu được thâm ý của anh. Hôm sau anh cố gắng đến căng tin sớm hơn mọi khi. Quả đúng như dự đoán, cô đã ngồi ngay gần chỗ hôm qua, vẫn chỉ có một mình. Đứng trước anh là một người đàn ông bé loắt choắt, cử động liên tục, người trông như bọ hung, hai mắt nhỏ tí, láo liên. Khi vừa bưng mâm bước ra khỏi quầy, Winston đã trông thấy người đàn ông nhỏ bé kia đang bước thẳng lại phía bàn cô gái. Hi vọng tưởng sắp tắt ngúm. Xa hơn một chút có một cái bàn trống, nhưng dáng vẻ của người đàn ông cho thấy rằng gã chỉ quan tâm đến sự tiện lợi của chính mình và gã sẽ chọn cái bàn ở chỗ trống trải nhất. Winston bước theo gã mà lòng nặng trĩu. Nếu anh không gặp riêng được cô thì câu chuyện chẳng thể nào tiến triển được. Bỗng nghe có tiếng xoảng một cái. Con người nhỏ bé đang lồm cồm bò, cái mâm bắn ra xa, cà phê và xúp tạo thành hai vệt nước chạy dài trên nền nhà. Gã đứng dậy và cáu kỉnh nhìn quanh, có thể gã ngờ rằng đã bị Winston gạt chân. Thế là xong. Chỉ năm giây sau, Winston đã ngồi cùng một bàn với cô gái, tim đập như trống trận.
Anh không nhìn cô. Anh xếp các thứ ra bàn và lập tức ngồi ăn. Cần phải nói ngay, trước khi có người đến phá quấy, nhưng đột nhiên Winston phát hoảng. Từ lần gặp đầu tiên đến nay đã một tuần rồi. Cô ta đã nghĩ lại, chắc chắn cô ta đã nghĩ lại rồi! Chuyện này chẳng thể nào kết thúc có hậu được; làm gì có chuyện như thế trong cuộc đời này. Có thể anh đã không dám mở miệng nếu đúng lúc đó không trông thấy Ampleforth, một thi sĩ tai đầy lông lá đang thất thểu bước quanh phòng để tìm một chỗ trống. Anh chàng Ampleforth đãng trí tuy vậy rất quí Winston, nếu nhìn thấy thì anh ta sẽ lại ngồi bên cạnh ngay. Thời gian hành động có hạn, chỉ một phút là cùng. Hai người vẫn tiếp tục ăn. Họ ăn món thịt hầm đậu tương, toàn nước là nước. Winston bắt đầu nói, gần như thì thầm. Không ai ngẩng lên, họ tiếp tục xúc từng thìa nước đưa vào miệng, vừa ăn vừa khẽ trao đổi với nhau những câu thật ngắn.
"Mấy giờ em về?"

"Sáu giờ rưỡi"
"Ta có thể gặp nhau ở đâu?"
"Quảng trường Chiến Thắng, gần bức tượng"
"Ở đấy nhiều màn vô tuyến lắm"
"Không sao đâu, đông người lắm"
"Tín hiệu?"
"Không cần. Chỉ được đến gần khi thấy em đứng ở chỗ đông người thôi đấy. Cũng đừng có nhìn. Nhưng đừng đi xa"
"Mấy giờ?"
"Mười chín giờ"
"Thôi nhé"

Ampleforth không nhìn thấy Winston, anh ta đến ngồi ở một bàn khác. Họ không nói gì thêm và tuy ngồi đối diện với nhau trên cùng một bàn ăn, họ cũng cố không nhìn nhau lần nào nữa. Cô gái ăn thật nhanh cho xong bữa và đứng dậy đi ngay, Winston còn ngồi lại hút thuốc.
Winston có mặt tại quảng trường Chiến Thắng trước giờ hẹn. Anh đi đi lại lại xung quanh chân cái cột cực lớn có những đường hoa văn trang trí, trên đỉnh cột là bức tượng Anh Cả. Bức tượng hướng cặp mắt về phương Nam, nơi Anh đã đập tan không lực của Eurasia (trước đây vài năm thì là không lực của Eastasia) trong trận đánh bảo vệ Đường Bay I. Trên đường phố đối diện có tượng một người cưỡi ngựa được cho là của Oliver Cromwell [1] . Đã mười chín giờ năm mà cô gái vẫn chưa đến. Winston rất lo. Cô ấy không đến, cô ấy đã nghĩ lại rồi! Anh đi về hướng bắc quảng trường và cảm thấy vui lên chút ít khi nhận ra nhà thờ St. Martin, nhà thờ với cái chuông, đấy là nói khi còn chuông, từng ngân nga "Nợ ta ba xèng". Sau đó anh trông thấy cô gái đứng ở dưới chân bức tượng đang đọc hay đang giả vờ đọc một khẩu hiệu quấn quanh cột như cái lò xo. Chưa thật an toàn vì ở đấy còn vắng. Xung quanh mái che phía trên có nhiều màn vô tuyến lắm. Nhưng từ phía bên trái bỗng dậy lên tiếng hò hét và tiếng gầm rú của xe tải nặng. Tất cả mọi người trên quảng trường cùng hò nhau lao ra hướng đó. Cô gái chạy thật nhanh tránh mấy con sư tử dưới chân cột và nhập vào đám đông. Winston vội vã bám theo. Anh nghe thấy người ta bảo đang giải bọn tù binh Eurasia.
Một đám rất đông đã tụ tập ở phía nam quảng trường. Winston thuộc loại những người thường đứng phía ngoài mọi cuộc tụ bạ, nhưng lần này lại cố xô đẩy, chen lấn hòng len vào giữa đám đông. Chẳng mấy chốc anh đã chỉ còn cách cô chừng một sải tay, nhưng một gã cu li to như voi và một người đàn bà, chắc là vợ gã kia, cũng to không kém bỗng làm thành một bức tường thịt không cách gì vượt qua được. Wiston quay nghiêng và lấy hết sức lách vai vào giữa hai người. Có lúc anh tưởng chừng như hai khối thịt kia sẽ ép nát hết ruột gan phèo phổi, nhưng cuối cùng đã luồn qua được, tuy có bị toát một ít mồ hôi. Anh đã đến bên cô gái. Hai người đứng sát nhau, vai kề vai, mắt cùng chăm chú nhìn về phía trước.

Một đoàn xe tải từ từ đi qua, mỗi góc thùng xe có một người lính mặt vô hồn, đứng nghiêm, mắt nhìn thẳng, tay lăm lăm súng máy. Trong thùng xe ngồi lúc nhúc một bọn người nhỏ bé da vàng, quân phục màu xanh đã sờn. Đấy là những người Mông Cổ, mặt buồn rười rượi, nhìn ngang, vô cảm. Mỗi lần xe bị xóc lại có tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng: tất cả tù binh đều bị xích chân. Từng chiếc xe với những khuôn mặt buồn bã nối tiếp đi qua. Winston biết rằng tù binh thường bị giải qua đây, nhưng thỉnh thoảng anh mới gặp như thế này. Vai và tay cô gái ép sát vào vai và tay anh. Má cô gần đến nỗi anh cảm thấy cả hơi ấm của cô. Cô lập tức lợi dụng cơ hội, giống như đã làm trong căng tin. Cô bắt đầu nói, môi chỉ khẽ mấp máy, giọng thì thầm chìm nghỉm trong tiếng ồn ào của đám đông và tiếng gầm rú của động cơ.
"Anh nghe rõ chứ?"
"Có"
"Chiều chủ nhật có rỗi không?"
"Có"
"Thế thì nghe đây. Anh phải nhớ đấy. Anh sẽ ra ga Paddington...."
Anh lấy làm ngạc nhiên khi nghe cô mô tả đường đi chính xác theo lối nhà binh. Đi tàu hỏa nửa tiếng; xuống ga; rẽ trái; đi bộ hai cây số; cái cổng không có xà ngang; đường mòn xuyên qua cánh đồng; đường hai bên đầy cỏ dại; đường mòn giữa các lùm cây; một cái cây đã chết đầy rêu. Dường như cô thuộc lòng cả tấm bản đồ. "Anh có thể nhớ hết không?", cô nói thêm.

"Có"
"Rẽ trái, rẽ phải rồi rẽ trái nữa. Thấy một cái cổng không xà ngang"
"Được rồi. Mấy giờ?"
"Khoảng mười lăm giờ. Anh có thể phải đợi đấy. Em sẽ đi đường khác. Anh có chắc là nhớ không?"
"Có"
"Thế thì đi khỏi đây mau"
Chẳng cần nói anh cũng biết. Nhưng đông người quá, không thể nào đi được. Đoàn xe tiếp tục lăn bánh, người xem vẫn không chán. Ban đầu có tiếng la ó, tiếng huýt gió chế giễu từ nhóm các đảng viên, nhưng không được hưởng ứng. Người ta đi xem chủ yếu là vì tò mò. Người ngoại quốc, dù là Eurasia hay Eastasia, đều bị coi là những sinh vật lạ. Chỉ có thể nhìn thấy người ngoại quốc khi họ đã là tù binh, mà cũng chỉ thoáng qua thôi. Trừ một vài người bị treo cổ công khai như những tội phạm chiến tranh, không ai biết số phận những người còn lại ra sao, đơn giản là họ đã biến mất, có lẽ bị đưa vào trại lao động khổ sai. Sau những đoàn tù binh Mông Cổ mặt tròn tròn là đến những đoàn Âu Châu, râu ria xồm xoàm, mệt mỏi, bẩn thỉu. Ánh mắt trên những khuôn mặt gầy gò, râu ria ấy chiếu thẳng vào Winston, cũng có người nhìn một cách chăm chú khác thường. Đoàn diễu hành sắp sửa chấm dứt. Trên cái xe cuối cùng có một người đàn ông đã có tuổi, râu trắng phủ đầy mặt, đứng bắt chéo hai tay trước bụng như thể đã quen bị trói vậy. Cần phải

tách khỏi cô gái ngay. Nhưng đúng vào những phút cuối cùng, khi đám đông chưa kịp tản ra, thì cô gái kia tìm được tay anh và bóp mạnh.
Chuyện đó kéo dài chỉ chừng mười giây, thế mà anh tưởng hai người đã nắm tay nhau lâu lắm rồi. Anh đã kịp khảo sát toàn bộ bàn tay cô. Anh sờ từng ngón tay búp măng, từng móng nhọn, anh sờ lòng bàn tay cứng và chai vì vất vả, anh nắn chỗ thịt mềm ngay sát cổ tay cô. Chỉ cần sờ thế anh đã có thể mường tượng được bàn tay cô. Ngay lúc đó anh chợt nhận ra rằng mình không biết màu mắt cô. Có thể màu nâu, nhưng đôi khi người tóc đen lại có mắt xanh. Nhưng quay đầu lại để nhìn vào mắt cô là một hành động thiếu thận trọng không chấp nhận được. Họ đứng giữa đám đông, tay trong tay, mắt nhìn thẳng và không phải mắt cô gái mà là cặp mắt người tù binh già, râu rậm, buồn nản đang chằm chằm nhìn Winston.
II.
Winston bước đi trên con đường loang lổ nắng, chỉ những chỗ thưa cành mới có những khoảng vàng hẳn. Bên trái mọc đầy cây hoa chuông lá tròn. Không khí như mơn man da thịt lữ khách. Hôm đó là ngày mồng hai tháng năm. Từ trong rừng vọng lại tiếng gù của một con chim gáy cô đơn.
Anh đến hơi sớm. Anh không gặp bất cứ trở ngại nào trên suốt dọc đường đi, cô gái có nhiều kinh nghiệm đến nỗi anh không có cảm giác sợ hãi như đáng lẽ phải có trong những trường hợp như thế này. Không còn nghi ngờ gì rằng cô đã chọn được chỗ an toàn. Nói chung khó có thể nghĩ rằng ở nông thôn thì an toàn hơn là London. Dĩ nhiên là không có màn vô tuyến, nhưng ở đâu mà chả có thể dấu micro, người ta chỉ cần ghi lại giọng nói là xong, ngoài ra, đi du ngoạn một mình thế này sẽ bị để ý ngay. Đi dưới một trăm cây số thì không cần giấy thông hành, nhưng thỉnh thoảng vẫn có những đội tuần tra lảng vảng quanh các nhà ga, họ kiểm tra giấy tờ của mọi đảng viên và hỏi

những câu rất khó chịu. Không thấy đội tuần tra nào, còn từ lúc rời khỏi ga thỉnh thoảng anh lại ngoái nhìn xem có cái đuôi nào không. Tầu hỏa đầy cu li, tâm trạng phấn chấn vì không khí ấm áp của buổi sáng mùa hè. Một gia đình đông đúc từ bà già đã rụng hết răng đến em bé chưa đầy tháng tuổi, đã chiếm hết cái toa ghế cứng mà anh đi, họ bảo với anh là đi nghỉ một ngày ở nhà thông gia ở nhà quê và nhân tiện mua ít bơ trên thị trường chợ đen.
Cây đã thưa hơn, anh đi vào con đường mòn, theo đúng như cô chỉ, con đường này là để cho xe kéo, hai bên đầy các bụi cây. Anh không có đồng hồ, nhưng bây giờ chưa thể đến mười lăm giờ được. Hoa chuông lá tròn mọc đầy dưới chân, không thể nào tránh bước lên được. Anh quì xuống và hái một ít hoa, vừa để giết thì giờ vừa để có cái tặng cho cô gái. Anh hái được một bó to và vừa đưa lên mũi hít cái mùi thơm nồng nhẹ nhàng của nó thì bỗng giật bắn người vì nghe thấy tiếng cành khô gãy răng rắc phía sau. Anh tiếp tục hái hoa. Đấy là cách hành xử đúng nhất. Người ở đằng sau có thể là cô gái, mà cũng có thể là kẻ đang theo dõi anh. Ngoảnh lại chứng tỏ là người không trong sáng. Anh hái một bông, rồi một bông nữa. Có một bàn tay đặt nhẹ lên vai anh.
Anh ngẩng lên. Chính là cô. Cô lắc đầu như có ý bảo đừng lên tiếng, sau đó cô rẽ những bụi cây ra và dẫn anh đến một con đường nhỏ đi thẳng vào rừng. Chắc chắn là cô đã đi con đường này rồi vì anh thấy cô tránh những chỗ bùn lầy như thể đã thuộc lòng. Winston cầm bó hoa đi theo. Lúc mới gặp cô anh có cảm giác như trút được gánh nặng, nhưng bây giờ khi quan sát từ phía sau cái cơ thể khoẻ mạnh, cân đối với chiếc thắt lưng màu đỏ buộc chặt càng làm nổi bật vòng eo của cô thì anh lại thấy mình không xứng với cô. Cô có thể ngoái lại, nhìn mình và thế là đi đứt – ý nghĩ ấy cứ lởn vởn trong đầu suốt cả quãng đường. Không khí trong lành và màu xanh của cỏ cây càng làm anh lúng túng thêm. Ngay lúc rời khỏi ga, ánh sáng tháng năm đã gieo vào lòng anh cảm giác bẩn thỉu, ốm yếu, cảm giác của một người chỉ ru rú xó nhà, lỗ chân lông nào cũng đấy bụi và bồ hóng của thành phố London. Anh chợt nghĩ rằng cô chưa từng trông thấy anh giữa ban ngày ban mặt. Họ tiến lại chỗ cái cây đổ mà cô đã kể. Cô gái bước qua một bên và bắt đầu gạt bụi cây rậm rạp để đi tiếp. Chẳng bao lâu sau anh thấy hai người đã lọt vào một khu đất trống, cỏ mọc lúp xúp, bốn xung quanh là bụi rậm che kín hoàn toàn. Cô

gái quay lại.
"Tới rồi", cô nói.
Anh đứng cách cô vài bước, mắt nhìn trân trối. Anh không dám bước lại gần hơn.
"Trên đường đi em không muốn nói", cô giải thích. "Sợ có micro. Em nghĩ không có đâu, nhưng biết đâu đấy. Để bọn khốn kiếp đó nhận được giọng nói thì thôi rồi. Nhưng ở đây thì yên trí"
Anh vẫn không dám bước lại gần.
"Ở đây có chắc không?", anh hỏi lại.
"Chắc. Nhìn cây kìa", đấy là những cây tần bì nhỏ, mọc từ những gốc bị đốn hạ, chưa có cây nào to bằng cổ tay. "Toàn cây nhỏ, không thể dấu micro được. Em đã đến đây một lần rồi"
Họ bắt đầu nói chuyện. Anh đánh liều bước lại gần cô hơn. Cô đứng thẳng, miệng nở nụ cười, nửa như giễu cợt, nửa như tự hỏi tại sao anh lại chậm chạp như thế. Bó hoa chuông tròn rơi xuống đất. Anh cầm lấy tay cô.
"Em có tin không", anh nói, "đến tận lúc này anh vẫn không biết mắt em màu gì?". Mắt cô màu nâu, nâu sáng, cặp lông mi màu đen sậm. "Bây giờ khi

đã thấy rõ anh rồi em có thấy ghê không?"
"Không"
"Năm nay anh ba mươi chín. Đã có vợ, không bỏ được. Anh bị giãn tĩnh mạch. Có năm cái răng giả"
"Em không quan tâm đến chuyện đó", cô gái nói.
Và ngay lập tức, không biết là ai khởi sự trước, họ ôm lấy nhau. Đầu tiên anh không có cảm giác gì, chỉ nghĩ: không thể thế được. Một cơ thể trẻ trung đang ôm ghì lấy anh, tóc cô vờn lên má anh, đúng thế!, cô bỗng ngẩng mặt lên và anh hôn lên đôi môi đỏ mọng của cô. Tay cô ghì lấy cổ anh, cô gọi anh là yêu, là quí, là thương. Anh đặt cô lên bãi cỏ, cô hoàn toàn không chống cự, anh muốn làm gì cô thì làm. Nhưng sự thật là anh không có ham muốn. Anh chỉ thấy tự hào và vẫn không tin đây là sự thật. Niềm vui tràn ngập trong lòng, nhưng ham muốn nhục dục thì hoàn toàn không. Chuyện này xảy ra nhanh quá, cơ thể trẻ trung, xinh đẹp của cô làm anh phát sợ, anh đã quen sống thiếu đàn bà, anh không biết tại sao. Cô ngồi dậy và gỡ những bông hoa chuông tròn dính vào tóc. Sau đó cô dựa vào người anh rồi lấy tay ôm ngang hông anh.
"Không sao đâu anh. Đừng vội. Chúng ta còn cả nửa ngày nữa cơ. Chỗ này kín đáo đấy chứ? Em tìm ra chỗ này khi đi dã ngoại bị lạc đấy. Người đi cách cả trăm mét đã nghe được rồi"
"Tên em là gì?", Winston hỏi.

"Julia. Tên anh thì em biết. Winston...Wiston Smith"
"Làm sao em biết?"
"Về chuyện săn tin thì em giỏi hơn anh, yên trí đi. Nói nghe coi, trước khi nhận được mẩu giấy thì anh cho em là người thế nào?"
Anh không muốn nói dối. Vả lại một trong những cách khởi đầu tình yêu là nói ngay điều tệ hại nhất.
"Anh ghét em lắm", anh nói. "Anh muốn hiếp sau đó thì giết chết em. Hai tuần trước anh đã định đập vỡ đầu em bằng một cục đá đấy. Nói cho ngay, anh nghĩ rằng em là chỉ điểm của Cảnh Sát Tư Tưởng đấy".
Cô gái cười như nắc nẻ, vì cho rằng như vậy là cô vào vai rất thành công.
"Cảnh Sát Tư Tưởng! Anh nghĩ thế thật à?"
"Thật, có thể không hoàn toàn thế. Nhưng nhìn em... có thể tại vì em trẻ, khoẻ, tươi mưởi nữa, em biết không, anh cứ nghĩ, biết đâu đấy..."
"Anh nghĩ em là một đảng viên gương mẫu. Trong sáng cả lời nói lẫn việc làm. Cờ quạt, diễu hành, khẩu hiệu, trò chơi, dã ngoại và đủ thứ bà giằn khác. Và anh cho rằng chỉ cần phát hiện một chút sơ hở là em sẽ tuyên bố anh là tội phạm tư tưởng để họ làm thịt anh, đúng không?"

"Đúng, anh nghĩ thế đấy. Em biết không, nhiều đứa con gái như thế lắm"
"Chỉ tại cái này đấy thôi", vừa nói cô vừa giật phăng cái thắt lưng màu đỏ của Hội Thanh Niên Chống Tình Dục và ném vào bụi cây.
Sau đó cô cho tay vào túi và lấy ra một thanh chocolate. Cô bẻ làm đôi rồi đưa cho Winston một nửa. Trước khi cầm anh đã thấy thanh chocolate này có mùi đặc biệt rồi. Màu đen, bóng loáng, gói trong giấy bạc. Chocolate bình thường có màu nâu xậm, còn mùi thì, không thể mô tả chính xác được, nhưng có thể nói giống như mùi rác cháy. Nhưng đôi khi anh cũng được ăn loại chocolate như thế này. Mùi của nó lập tức nhắc anh nhớ đến, nhớ cái gì thì không rõ, nhưng nỗi nhớ rõ ràng là mạnh mẽ và tạo trong anh cảm giác bất an.
"Em kiếm ở đâu ra thứ này thế?", anh hỏi.
"Ở chợ đen chứ còn đâu nữa", cô nói. "Em thích tìm tòi lắm. Em chơi thể thao rất tốt. Em từng là đội trưởng Tình Báo đấy. Mỗi tuần em có ba buổi sinh hoạt trong Hội Thanh Niên Chống Tình Dục. Em phải dán các khẩu hiệu thối tha của chúng nó khắp London đấy. Khi đi biểu tình bao giờ em cũng tham gia khiêng biểu ngữ. Lúc nào mặt cũng phải tươi và không bao giờ trốn việc. Người ta gào thì mình cũng gào, em luôn nhắc mình như vậy. Thế mới an toàn."
Mẩu chocolate tan ngay trên đầu lưỡi. Ngon tuyệt. Nhưng nỗi nhớ vẫn ẩn hiện đâu đó trong đáy sâu tâm hồn anh, nó tạo cảm giác khắc khoải, nhưng không thể định hình, giống như khi nhìn một vật bằng con mắt nheo lại vậy. Anh cố gắng gạt nó khỏi tâm trí, nhưng anh biết rõ rằng đấy là kí ức về một

hành động đã làm mà nay anh sẵn sàng hủy bỏ nếu có thể được.
"Em còn trẻ lắm", anh nói. "Em phải trẻ hơn anh từ mười đến mười lăm tuổi. Một người như anh thì có gì hấp dẫn nhỉ?"
"Nét mặt anh. Em quyết định liều. Em có tài phát hiện những con chiên lạc. Ngay khi nhìn thấy anh em đã nghĩ anh chống lại chúng"
Chúng chắc là để chỉ Đảng, trước hết là Đảng Nội Bộ, giọng cô đầy vẻ căm tức và nhạo báng, Winston cảm thấy bất an, dù anh biết rằng chỗ này an toàn, nếu người ta quả thật có thể được an toàn. Điều làm anh ngạc nhiên nhất là sự trắng trợn trong cách nói của cô. Đảng viên không nên nói tục, Winston ít khi nói tục, nếu có cũng chỉ nói thầm. Nhưng có vẻ như Julia không thể nói đến Đảng, đặc biệt là Đảng Nội Bộ mà không dùng kèm những từ thuộc loại được ghi bằng phấn trên tường các ngõ hẻm. Nhưng anh không thấy khó chịu. Đấy chỉ là cách thể hiện sự chống đối của cô đối với Đảng và đường lối của nó, cũng tự nhiên và lành mạnh như con ngựa hắt hơi khi ngửi phải mùi cỏ mốc mà thôi. Họ rời khỏi khu đất trống và đi dạo dưới những tán cây, tay ôm eo nhau, đấy là nói những chỗ quang có thể đi sát vào nhau được. Không còn thắt lưng, anh thấy eo cô bây giờ mềm mại hơn. Họ vẫn chỉ nói thầm vừa đủ nghe. Ở bên ngoài cái khoảng trống kia, Julia bảo, thì phải nói thầm cho an toàn. Chẳng bao lâu sau họ đã đi đến bìa rừng. Julia bảo đứng lại.
"Đừng bước ra ngoài đồng trống. Có thể có người theo dõi đấy. Đứng sau các lùm cây an toàn hơn", cô nói.
Họ đứng dưới bóng một bụi dẻ. Ánh mặt trời xuyên qua vòm lá chiếu cả vào mặt hai người. Winston ngắm bãi cỏ trước mặt và dần dần cái cảm giác vừa kinh hãi vừa ngạc nhiên cứ dâng lên trong lòng khi anh nhận ra cánh đồng

quen thuộc. Phong cảnh rất quen. Đấy là một bãi cỏ cằn cỗi, có một con đường mòn nhỏ chạy vắt ngang, hang chuột đùn lên khắp nơi. Phía cuối bãi cỏ là hàng du đung đưa trước gió, tán lá dầy xao động như tóc đàn bà. Nhất định gần đây phải có một con suối, những vũng nước với những con cá chép tung tăng bơi lội.
"Ở gần đây có con suối nào không?", anh thì thầm hỏi.
"Có đấy, có một con. Ở rìa cánh đồng bên kia cơ. Có cả cá nữa, to lắm. Anh có thể thấy chúng nằm vẫy đuôi trong vũng nước dưới bóng dương liễu nữa cơ"
"Đây gần giống Địa Hoàng", anh lẩm bẩm.
"Địa Hoàng à?"
"Không có chi đâu. Đấy là vùng đất anh thường mơ thấy ấy mà"
"Trông kìa!", Julia thì thầm.
Ngang tầm mắt họ, trên một bụi cây cách chừng năm mét có một chú chim hét vừa đỗ xuống. Có thể nó không nhìn thấy hai người. Nó đậu ngoài nắng còn họ đứng dưới bóng cây. Chú chim xòe cánh ra rồi từ từ gập lại như cũ, sau đó chú cúi đầu, như thể lạy mặt trời và bắt đầu hót. Trong buổi chiều thanh vắng tiếng hót của chú to đến không ngờ. Winston và Julia đứng nép vào nhau, mê mẩn lắng nghe. Tiếng hót cứ thế tiếp tục, từng phút, từng phút một, giai điệu mỗi lúc một khác, không bao giờ lặp lại, dường như chú chim

đang cố ý trình diễn tài nghệ của mình. Thỉnh thoảng chú lại nghỉ vài giây, chú xòe cánh ra rồi cụp lại, sau đó chú ưỡn ngực lên và tiếp tục hót. Wiston quan sát chú với vẻ thán phục. Nó hót cho ai nghe? Bạn tình không, tình địch cũng không nốt. Điều gì thúc đẩy chú đến đậu trên bìa cánh rừng hoang và gửi tiếng hót vào thinh không? Anh tự hỏi liệu có cái micro nào được giấu gần đây không. Anh và Julia chỉ nói thầm, micro không thể ghi được, nhưng nó sẽ ghi được tiếng chim hót. Có thể ở đầu kia của thiết bị, một người nhỏ bé, trông như cánh cam đang chăm chú lắng nghe, lắng nghe chính tiếng hót của con chim này. Dần dần tiếng hót xóa sạch mọi tính toán khỏi trí não anh. Tiếng hót đã biến thành dòng nước, hoà trộn với ánh nắng xuyên qua cành lá tưới xuống khắp người anh. Ý tưởng ngừng bặt, chỉ còn cảm giác. Vòng eo cô gái mềm và ấm trong bàn tay anh. Anh xoay cô lại, hai người đứng úp mặt vào nhau, cơ thể cô như tan vào trong anh. Tay anh đưa đến đâu chỗ đó như tan thành nước. Môi họ bỗng gắn vào nhau, nụ hôn này khác hẳn nụ hôn họ trao nhau lúc đầu. Hai người cùng thở vào thật sâu khi rời nhau. Con chim hét bỗng hoảng sợ và vỗ cánh bay đi.
Winston ghé sát môi vào tai cô gái.
"Bây giờ nhá", anh thì thầm.
"Không phải ở đây", cô đáp. "Quay lại chỗ ban nãy"
Họ bước vội về khu đất trống, tiếng cành khô gãy răng rắc dưới chân. Khi đã đến khu vực có những bụi cây non bao quanh cô quay hẳn người lại. Cả hai cùng thở gấp, nhưng nụ cười thoáng hiện trên môi cô. Cô nhìn thẳng vào anh trong mấy giây rồi đưa tay kéo phéc-mơ-tuya. Đúng rồi! Hệt như trong mơ. Cô cởi quần áo cũng nhanh y như anh thấy trong mơ, rồi cô quẳng xuống đất bằng một cú vung tay điệu nghệ tưởng có thể huỷ diệt toàn bộ nền văn minh này. Da cô sáng lên dưới ánh mặt trời. Nhưng lúc đó mắt anh vẫn dán chặt vào khuôn mặt tàn nhang, đang hé cười của cô. Anh quì xuống và nắm lấy hai bàn tay cô.

"Em đã làm thế bao giờ chưa?"
"Rồi. Hàng trăm lần... không, nhiều lần rồi"
"Với các đảng viên à?"
"Vâng, chỉ với đảng viên thôi"
"Đảng Nội Bộ chứ?"
"Không, bọn khốn đó thì không. Nhưng nhiều thằng sẽ khoái ngay nếu có cơ hội. Chúng chỉ giả vờ "hồng" thế thôi anh ơi"
Tim anh đập rộn lên. Cô đã làm thế này nhiều lần, nếu là hàng trăm, hàng ngàn lần thì càng tốt nữa. Đấy chính là hi vọng, bất cứ cái gì chứng tỏ sự thối nát đều là hi vọng cả. Ai biết, có thể Đảng đang bị thối rữa ngay từ bên trong, có thể sự sùng bái đức hi sinh và lòng tận tuỵ của nó cũng chỉ là tấm màn giả tạo che đậy những hành động xấu xa. Nếu có thể làm cho tất cả bọn chúng đều bị hủi, bị giang mai thì tốt biết bao! Làm tất cả, chỉ cốt cho chúng suy yếu, thối rữa và tan rã! Anh đỡ cô xuống, cả hai cùng quì trên đầu gối.
"Càng nhiều thằng đàn ông qua tay em anh càng yêu em hơn. Em có hiểu anh nói gì không?"

"Vâng, em hiểu"
"Anh căm thù sự trong trắng, anh căm thù đức dục! Anh muốn xoá sổ đức hạnh. Anh muốn tất cả đều thối rữa đến tận xương tủy"
"Thế thì em hợp với anh đấy, anh yêu ơi. Em đã thối rữa đến tận xương tủy rồi"
"Em có thích không? Ý anh là không chỉ với anh. Nói chung cơ"
"Em mê lắm"
Đấy là điều anh đặc biệt thích nghe. Không phải là tình yêu mà chính là bản năng tự nhiên, chính cái ham muốn nhục dục đơn thuần sẽ trở thành sức mạnh đủ sức xé Đảng ra thành từng mảnh. Anh đỡ cô nắm xuống bãi cỏ, giữa những bông hoa chuông lá tròn nằm rải rác đó đây. Lần này mọi sự diễn ra trôi chảy. Sau một hồi thở rốc, chân tay rã rời, họ buông nhau ra. Mặt trời có vẻ nóng hơn. Cả hai đều buồn ngủ. Anh với tay lấy bộ đồng phục và đắp lên người cô. Họ lập tức thiếp đi và thức dậy sau đó chừng nửa tiếng.
Winston thức giấc trước. Anh ngồi ngắm khuôn mặt tàn nhang, đang bình thản ngủ, đầu gối trên cánh tay. Trừ cái miệng ra, cô không phải là người đẹp. Nhìn gần sẽ thấy hai nếp nhăn ngay mí mắt. Mái tóc đen cắt ngắn rất dày và mềm. Anh chợt nhớ là chưa biết họ cũng như địa chỉ của cô.
Ngắm nhìn cái cơ thể trẻ trung, khoẻ mạnh trong giấc ngủ đã trở thành bất lực, trong anh bỗng dâng lên cảm giác xót thương, che chở. Nhưng đấy chưa

phải sự dịu dàng vô tư mà anh cảm thấy trong tâm khi đứng nghe con chim hót dưới gốc cây dẻ. Anh nâng bộ đồng phục lên và chăm chú quan sát cạnh sườn cô. Ngày xưa, anh nghĩ, khi người đàn ông nhìn cơ thể một người đàn bà thì anh ta chỉ thấy đấy là đối tượng của nhục dục mà thôi. Nhưng nay thì khác, không còn tình yêu trong sáng, cũng chẳng còn sự thèm khát thuần túy. Không còn tình cảm nào là đơn thuần nữa bởi vì tất cả đều bị trộn lộn với nỗi sợ hãi và lòng hận thù. Ôm nhau là chiến đấu, đỉnh điểm của tình yêu là chiến thắng. Đấy chính là một cái tát vào mặt Đảng. Đấy là một hành động chính trị.
[1]Oliver Cromwell – Viên tướng và lãnh tụ Anh quốc (1599-1658)

III.
"Chúng ta có thể đến đây một lần nữa", Julia nói. "Nói chung là sử dụng một chỗ hai lần không có vấn đề gì. Nhưng một hai tháng sau đó thì không an toàn đâu"
Sau khi ngủ dậy thái độ của cô khác hẳn, tỉnh táo và năng động hơn. Cô mặc quần áo, đeo thắt lưng đỏ và bắt đầu thu xếp cho chuyến trở về. Dĩ nhiên là chuyện đó được giao cho cô. Rõ ràng là cô tháo vát hơn Winston, ngoài ra chính nhờ những chuyến đi dã ngoại mà cô hiểu biết tường tận khu vực ngoại ô London. Cô hướng dẫn cho anh đi theo con đường hoàn toàn khác và xuống ở một ga khác. "Không bao giờ được quay về bằng con đường vừa đi qua", cô nói cứ như thể đang phát biểu một nguyên tắc chung vậy. Cô ra về trước, Winston phải đợi thêm nửa tiếng nữa rồi mới được đi.
Cô nói địa điểm cho lần gặp tới, bốn hôm nữa, vào buổi tối. Đấy là con phố trong khu vực nghèo nhất, chỗ ấy có một cái chợ, lúc nào cũng đông đúc và rất ồn ào. Cô sẽ đi loanh quanh cạnh các quầy hàng giả vờ tìm mua dây giày hay chỉ khâu. Nếu cảm thấy an toàn thì khi anh đến gần cô sẽ hỉ mũi, nếu không thì anh phải đi ngang, làm bộ như không nhận ra cô. Nếu gặp may thì có thể len vào giữa đám đông để nói chuyện và hẹn chỗ gặp cho lần tiếp theo.
"Em đi đây", cô nói sau khi anh đã nhớ qui ước. "Em phải có mặt trước mười chín giờ rưỡi. Em có hai tiếng sinh hoạt ở Hội Thanh Niên Chống Tình Dục, phát các tờ rơi hoặc những việc tương tự như thế. Không tởm à? Rũ tóc cho em với. Trên đầu có cọng cỏ nào bám không? Chắc chắn chứ? Thôi, tạm biệt nhé, anh yêu!"
Cô lao vào vòng tay anh, hôn anh một cách cuồng nhiệt rồi rẽ đám cây con

và biến vào rừng, không một tiếng động. Hóa ra đến giờ anh vẫn chưa biết họ và địa chỉ của cô. Nhưng không sao, không thể có chuyện trao đổi thư từ hay gặp nhau trong nhà được rồi.
Họ không bao giờ quay lại khu đất trống này nữa. Cả tháng năm họ chỉ ở bên nhau được có một lần. Julia chọn một chỗ khác, đấy là một nhà thờ đổ do bị bỏ bom nguyên tử cách nay ba mươi năm, trong một khu gần như không người. Chỗ đó rất an toàn nhưng đường đi thì lại nguy hiểm. Những lần khác họ chỉ gặp nhau trên phố, mỗi lần một chỗ khác nhau, không lần nào kéo dài quá nửa tiếng. Trên phố thì chỉ có thể nói chuyện được thôi. Vừa đi cùng đám đông, không được bước sát nhau, cũng không được nhìn nhau, họ vừa trao đổi những câu chuyện ngắt quãng như tia sáng ngọn hải đăng: cứ thấy bóng đồng phục hay đến gần màn vô tuyến thì phải tạm dừng, rồi sau vài phút lại tiếp tục có khi ở giữa câu, đến chỗ hẹn chia tay thì ngắt hẳn để đến hôm sau lại tiếp tục. Julia có vẻ đã quen với cách nói chuyện như vậy, cô gọi đấy là "chuyện nhiều kì". Ngoài ra cô còn nói mà không mấp máy môi một cách rất tài tình. Suốt một tháng trời, tối nào họ cũng gặp nhau, thế mà chỉ hôn nhau được một lần. Hôm đó họ đang yên lặng bước đi trong một ngõ hẻm (Julia không bao giờ nói khi đi vào hẻm) thì bất ngờ có tiếng nổ lớn, mặt đất rung lên, trời tối sầm lại, Winston ngã lăn ra đất, hồn vía lên mây, mình mẩy thâm tím. Quả bom chắc rơi rất gần. Bất thình lình anh thấy Julia, chỉ cách anh chừng dăm tấc, mặt cô trắng bệch, không khác gì phấn. Ngay cả môi cũng trắng. Chết rồi! Anh ôm chặt cô vào lòng rồi bất thình lình hôn lên gò má nóng ấm của cô, thế là bụi bám ngay vào môi anh, lau mãi vẫn không hết. Mặt hai người phủ đầy bụi vữa.
Cũng có những hôm hai người đến chỗ hẹn nhưng đành đi lướt qua nhau, không nói đựơc lời nào vì hoặc là gặp đội tuần tra hoặc là máy bay trực thăng quần đảo trên đầu. Chưa nói đến nguy hiểm, thì giờ cũng kẹt lắm. Winston phải làm sáu mươi giờ một tuần, Julia còn làm nhiều hơn, ngày nghỉ phụ thuộc vào khối lượng công việc mà lại ít khi trùng nhau. Julia thường ít khi được nghỉ trọn vẹn cả buổi tối. Cô tốn rất nhiều thời gian vào việc đi nghe nói chuyện, tham gia biểu tình, phân phát tài liệu của Hội Thanh Niên Chống Tình Dục, chuẩn bị biểu ngữ cho Tuần Lễ Hận Thù, thu tiền đóng góp cho các phong trào tiết kiệm và những việc tương tự khác. Ngụy

trang ấy mà, cô nói. Chịu khó tuân thủ một số qui định nhỏ để có thể vi phạm các qui định lớn. Cô còn thuyết phục Winston hi sinh thêm một buổi tối để tham gia vào việc sản xuất đạn dược do các đảng viên trung kiên tổ chức làm ngoài giờ hành chính. Thế là từ nay mỗi tuần Winston phải hi sinh thêm bốn tiếng đồng hồ, anh chuyên vặn ốc để gắn những mẩu kim loại nhỏ với nhau, chắc là bộ phận khai hoả của bom, trong một xưởng sản xuất tối tăm, gió lộng tứ bề, tiếng búa và tiếng nhạc của màn vô tuyến lúc nào cũng ầm ầm như muốn chọc thủng màng nhĩ.
Khi họ gặp nhau trên tháp chuông nhà thờ thì mới được nói chuyện liên tục. Trời hôm ấy rất oi. Căn phòng hình vuông nhỏ tí nóng và ngột ngạt, sặc mùi cứt chim bồ câu. Họ ngồi nói chuyện mấy tiếng đồng hồ liền trên nền nhà bẩn thỉu, đầy rác, thỉnh thoảng một người phải đứng dậy để nhìn qua cửa sổ xem có ai đi bên dưới không.
Năm nay Julia vừa tròn hai mươi sáu. Cô sống trong nhà tập thể với ba mươi cô khác ("Chỗ nào cũng sặc mùi đàn bà! Sao em ghét đàn bà thế!"- cô bảo), cô làm việc, đúng như anh đoán, trong Ban Sáng Tác, chuyên bảo dưỡng máy viết tiểu thuyết. Cô thích công việc đó, thực ra cô chỉ phải chạy và bảo dưỡng một cái động cơ điện công suất lớn, nhưng hay giở chứng. Cô "không thông minh" nhưng thích công việc chân tay và có hiểu biết về máy móc. Cô có thể kể cho anh nghe toàn bộ quá trình viết một cuốn tiểu thuyết, từ lúc nhận chỉ thị của Phòng Kế Hoạch cho đến những sửa chữa cuối cùng của Phòng Biên Tập. Nhưng cô không quan tâm đến sản phẩm cuối cùng. "Em không ham đọc" - cô bảo thế. Sách cũng là một loại sản phẩm tiêu dùng cần được sản xuất, giống như giăm bông hoặc dây giầy vậy thôi.
Cô không nhớ gì về những sự kiện xảy ra trước những năm 60, trong những người cô biết thì chỉ có ông cô là hay nói về những ngày trước Cách Mạng, nhưng cụ đã biến mất khi cô lên tám tuổi. Khi còn đi học cô từng là đội trưởng đội khúc quân cầu và đã đoạt giải thể dục dụng cụ hai năm liền. Cô đã là trung đội trưởng Tình Báo, trước khi tham gia Hội Thanh Niên Chống Tình Dục cô từng là bí thư chi đoàn Liên Hiệp Thanh Niên. Ổ đâu cô cũng xuất sắc. Cô đã được giới thiệu vào Phimheo (chứng tỏ có uy tín), một tổ của

Ban Sáng Tác chuyên về phim ảnh khiêu dâm rẻ tiền dành cho cu li. Những người ở đấy gọi ban này là Kho Cứt, cô bảo thế. Cô đã làm ở đấy một năm, tham gia viết những cuốn sách đại loại như "Những câu chuyện tếu" hay "Một đêm trong trường nữ sinh", những cuốn sách được gửi đi trong hòm kín, thanh niên vô sản thậm thụt mua vì nghĩ rằng đang mua đồ quốc cấm.
"Sách đó viết cái gì?", Winston tò mò hỏi.
"Nhảm nhí lắm. Đọc chán ngắt. Chỉ có mỗi sáu nội dung, tráo qua tráo lại. Em chỉ chạy kính vạn hoa thôi. Không bao giờ làm trong Phòng Biên Tập. Anh yêu ơi, em dốt văn lắm"
Anh lấy làm ngạc nhiên khi nghe nói rằng ngoài ban lãnh đạo ra, Phimheo gồm toàn con gái. Lí do là bản năng tình dục của nam giới khó kiểm soát hơn so với nữ giới vì vậy nếu làm việc này nam giới sẽ dễ bị tiêm nhiễm hơn.
"Phụ nữ có chồng không được làm ở đấy", Julia bảo. "Con gái được coi là trong trắng. Nhưng em khác bọn họ"
Năm mười sáu tuổi cô đã yêu, đấy là một đảng viên sáu mươi tuổi, ông ta đã tự sát để tránh bị bắt. "May quá", Julia nói. "Nếu không ông ta khai ra tên em thì nguy". Sau này còn nhiều người nữa. Theo cô cuộc đời thật là đơn giản. Anh muốn sống vui, nhưng "chúng", nghĩa là Đảng, không cho; anh càng vi phạm nhiều qui định bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Việc "chúng" muốn cướp thú vui của anh, theo cô, cũng tự nhiên như là việc anh không muốn bị tóm vậy thôi. Cô căm thù Đảng, cô nói điều đó bằng những từ lỗ mãng nhất, nhưng nói chung cô không phê phán Đảng. Cô không quan tâm đến lí thuyết của Đảng, trừ những điều liên quan trực tiếp đến đời tư của cô. Anh để ý thấy cô không sử dụng Ngômo, nếu có thì đấy là những từ đã trở thành thông

dụng. Cô chưa từng nghe nói đến Huynh Đệ và không tin là nó đang tồn tại. Cô coi mọi cuộc nổi dậy có tổ chức đều là ngớ ngẩn vì nhất định sẽ thất bại. Người khôn là người có thể vi phạm các qui định mà vẫn không sao. Anh lơ đãng tự hỏi có bao nhiêu người thuộc thế hệ trẻ như cô, thế hệ lớn lên sau Cách Mạng, không biết gì khác ngoài việc coi Đảng là một cái gì đó bất di bất dịch, như thể bầu trời, không bao giờ nổi loạn chống lại quyền lực của nó mà chỉ tìm cách trốn tránh như thỏ trốn chó săn mà thôi.
Họ không nói đến chuyện cưới xin. Chuyện đó có vẻ xa vời quá, chẳng nên nghĩ đến làm gì. Không một uỷ ban nào chấp thuận, ngay cả khi Winston đã li dị được với cô vợ cũ là Katherine. Đấy là chuyện vô vọng.
"Chị ấy là người thế nào, là em nói chị vợ cũ của anh ấy?", Julia hỏi.
"Cô ấy là người, em có biết từ chánhtudu trong Ngômo không? Nghĩa là người hoàn toàn chính thống, không thể có ý nghĩ xấu""
"Không, em không biết từ đó, nhưng kiểu người thì hiểu, thậm chí hiểu rõ nữa"
Anh bắt đầu kể cho cô nghe đời sống gia đình của mình, nhưng hoá ra cô đã biết những nét chính từ trước rồi. Cô còn mô tả, một cách cụ thể, như chính cô trông thấy hay cảm thấy cơ thể cứng đờ của Katherine khi anh vừa chạm phải, cũng như việc cô dường như dùng hết sức để đẩy anh ngay trong lúc đang ôm anh. Anh cảm thấy dễ dàng tâm sự chuyện này với Julia: từ lâu Katherine đã không còn là nỗi dằn vặt của anh nữa, chỉ hơi khó chịu mà thôi.

"Anh có thể chấp nhận, nếu không có việc thế này", anh nói. Sau đó anh kể cho cô nghe về cái thủ tục lạnh lùng mà Katherine bắt anh phải làm mỗi tuần một lần, vào đúng tối qui định. "Cô ấy ghét chuyện đó lắm, nhưng bảo thôi thì nhất quyết không chịu. Cô ấy thường bảo... em không thể nào đoán được đâu"
"Trách nhiệm đảng viên của chúng ta", Julia đáp liền.
"Làm sao em biết?"
"Anh yêu ơi, em cũng đi học rồi chứ bộ. Mỗi tháng có một buổi nói chuyện về quan hệ nam nữ cho học sinh trên mười sáu tuổi. Phong trào Thanh niên cũng thế. Họ nhồi sọ bao nhiêu năm ấy chứ. Em có thể nói nhiều ca bị lắm. Nhưng dĩ nhiên là anh không thể biết được đâu, con người ta giả dối lắm"
Cô bắt đầu mở rộng lĩnh vực. Đối với Julia thì tất cả mọi câu chuyện cuối cùng đều quay về đề tài tình dục. Ý kiến của cô về vấn đề này phải nói là rất sâu sắc. Khác với Winston, cô hiểu rõ ẩn ý của chủ nghĩa khắc kỉ trong quan hệ nam nữ mà Đảng cổ vũ. Vấn đề không phải chỉ là bản năng tình dục sẽ tạo cho nó một thế giới riêng, nằm ngoài sự kiểm soát của Đảng cho nên phải tiêu diệt bằng mọi cách. Quan trọng hơn là việc kìm chế tình dục sẽ làm cho người ta bị thần kinh, cái này rất tốt, vì có thể lái thành thái độ hiếu chiến hay sùng bái lãnh tụ. Cô giải thích như sau:
"Khi làm tình là anh tiêu tốn năng lượng, sau đó anh sẽ cảm thấy hạnh phúc và anh mặc xác mọi chuyện. Nhưng chúng không chịu. Chúng muốn anh lúc nào cũng sôi lên kia. Tất cả những trò diễu hành, rồi hô khẩu hiệu, vẫy cờ quạt chỉ có mỗi một mục đích là đè nén dục tình. Nếu anh đã tự cảm thấy hạnh phúc rồi thì việc gì anh phải cuống lên với Anh Cả, với Kế Hoạch Ba Năm, với Hai Phút Hận Thù và mọi trò nhảm nhí khác?"

Đúng quá, anh nghĩ. Đấy chính là mối liên hệ trực tiếp giữa chủ nghĩa khắc kỉ và đường lối chính thống. Làm sao giữ được nỗi sợ hãi, lòng hận thù và niềm tin mù quáng ở mức Đảng cần nếu không đè nén một bản năng mạnh mẽ nào đó rồi biến nó thành động lực? Đảng coi ham mê nhục dục là một mối đe dọa và Đảng đã sử dụng nó cho mục đích của mình. Tình cảm gia đình cũng rơi vào một cái bẫy tượng tự. Không thể nào bãi bỏ được gia đình, cho nên người ta khuyến khích cha mẹ thương yêu con cái, hệt như ngày xưa vậy. Ngược lại, người ta luôn luôn xúi bẩy trẻ con chống đối cha mẹ, dạy chúng theo dõi cha mẹ và báo cáo nếu phát hiện được bất kì biểu hiện lệch lạc nào. Gia đình thực chất đã trở thành chi nhánh của Cảnh Sát Tư Tưởng. Ai cũng bị những tên chỉ điểm, những người gần gũi nhất với mình, rình rập suốt ngày đêm.
Anh chợt nghĩ đến Katherine. Nếu cô ta không ngu dốt như vậy, nếu có thể phát hiện được sự lệch lạc của anh thì chắc chắn cô ta đã báo cáo với Cảnh Sát Tư Tưởng rồi. Nhưng lúc đó anh nhớ tới cô là vì cơn nóng bức làm mồ hôi vã ra trên trán. Anh bắt đầu kể cho Julia nghe câu chuyện đã xảy ra, đúng hơn là đã không xảy ra trong một buổi chiều mùa hè oi bức cách đây mười một năm.
Lúc đó họ đã cưới nhau được ba bốn tháng. Họ bị lạc khi đi dã ngoại ở Kent. Họ chỉ đi sau mọi người chừng hai phút, nhưng rẽ sai đường và chẳng mấy chốc đã đi đến một khu mỏ phấn cũ. Một khe sâu từ mười đến hai mươi mét, bên dưới toàn đá cuội, chắn ngang đường đi. Không biết hỏi ai. Katherine rất lo. Đối với cô bỏ xa đám đông ồn ào chỉ một vài phút đã là vi phạm rồi. Cô muốn quay lại chỗ rẽ và đi tìm theo hướng khác. Nhưng đúng lúc đó Winston nhìn thấy một khóm hoa lạ, mọc giữa những phiến đá ngay bên dưới. Mỗi khóm có vẻ như từ cùng một gốc nhưng lại có hai mầu, màu gạch và màu đỏ tía. Anh chưa từng thấy loại hoa như thế bao giờ nên anh gọi Katherine lại xem.
"Này Katherine! Nhìn kìa, hoa lạ không. Cái khóm bên dưới kìa. Em thấy

không, hai màu trên cùng một gốc đấy?"
Cô quay lại, thái độ rất bực tức. Cô còn cúi xuống nhìn theo hướng tay anh chỉ. Anh đứng ở đằng sau, lấy tay giữ cạnh sườn cô cho chắc. Anh chợt nhận ra nơi này cực kì vắng vẻ. Xung quanh không một bóng người, không một tiếng chim, lá cây cũng không xào xạc. Những chỗ như thế này thì khả năng có dấu micro là rất thấp, mà có đi nữa thì nó cũng chỉ ghi được tiếng động mà thôi. Đấy là lúc nắng nóng nhất trong ngày. Mặt trời như thiêu như đốt, mồ hôi chảy ròng ròng trên trán. Anh chợt nghĩ...
"Sao anh không đẩy cô ta xuống đấy cho xong?", Julia nói. "Em thì em đẩy rồi"
"Ừ, em thì em đẩy rồi. Nếu là anh bây giờ thì anh cũng đẩy. Mà... cũng chưa chắc"
"Anh có tiếc là không đẩy không?"
"Ừ. Nói chung anh lấy làm tiếc"
Họ ngồi bên nhau trên nền nhà đầy rác. Anh kéo cô sát vào mình. Đầu cô ngả trên vai anh, mùi tóc cô át được cả mùi phân chim. Cô còn trẻ quá, anh nghĩ, cô còn hi vọng ở cuộc đời này, cô chưa hiểu rằng đẩy một người mình không ưa xuống khe núi cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì.
"Thực ra làm thế cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì", anh bảo.

"Thế tại sao bây giờ anh lại tiếc là không đẩy?"
"Vì anh cho rằng hành động dù sao cũng hơn bất động. Chúng ta không thể nào thắng trong ván bài này. Đằng nào thì ta cũng thua, chỉ là ta thích kiểu thất bại này hơn kiểu thất bại kia, thế thôi"
Anh cảm thấy cô lắc vai tỏ vẻ không đồng tình. Cô luôn phản đối mỗi lần anh nói như thế. Cô không chịu nhận rằng đời là khổ. Một đằng, cô biết rằng đã bị tuyên án, rằng sớm muộn gì thì Cảnh Sát Tư Tưởng cũng đến bắt và giết cô, nhưng mặt khác cô lại tin rằng có thể tạo dựng được một thế giới bí mật để sống theo ý của mình. Chỉ cần khéo léo, may mắn và liều lĩnh là được. Cô không hiểu rằng hạnh phúc là không thể có, rằng chiến thắng nằm ở tương lai rất xa, sau khi ta đã chết lâu rồi, rằng hãy coi ta là một cái xác không hồn ngay từ khi tuyên chiến với Đảng.
"Chúng ta đã là những thây ma", anh nói.
"Chúng ta đã chết đâu", cô sửa lại.
"Không phải theo nghĩa đen. Nửa năm nữa, một năm nữa hay cứ cho là năm năm nữa. Anh sợ chết lắm. Em còn trẻ, chắc là còn sợ hơn anh. Chúng ta phải cố gắng kéo dài càng lâu càng tốt. Nhưng cũng không khác nhau nhiều lắm. Khi con người còn là con người thì sống hay chết cũng thế mà thôi"
"Nhảm nhí! Anh muốn ngủ với em hay với một bộ xương? Anh không thấy sống là vui hay sao? Anh không thích cảm giác: đây là tôi, đây là tay tôi, đây là chân tôi, tôi hiện hữu, tôi khoẻ mạnh, tôi đang sống sao? Anh không thích

à?"
Cô ngoái lại và ép sát ngực vào người anh. Qua hai lần áo anh vẫn cảm thấy rõ bầu vú cô, mọng và cứng. Tuổi trẻ và nhựa sống của cô như đang ào ạt rót sang người anh.
"Có, anh thích chứ", anh nói.
"Thế thì đừng nói đến chuyện chết chóc nữa. Bây giờ thì anh yêu ơi, nghe đây, chúng ta quyết chỗ gặp lần tới nhé. Chúng ta có thể quay lại khu rừng lần trước. Khoảng cách cũng khá lâu rồi. Nhưng chúng ta phải đi đường khác. Em đã nghĩ kĩ rồi. Anh sẽ đi bằng tầu hoả, này nhìn đây, em vẽ cho anh"
Rồi cô nhanh chóng vun bụi đất thành một ô vuông và lấy cành cây nhỏ rơi từ tổ chim câu xuống để vẽ sơ đồ đường đi.
IV.
Winston đảo mắt nhìn căn phòng tồi tàn phía bên trên cửa hàng của ông Charrington. Bên cạnh cửa sổ là chiếc giường quá khổ, phủ chăn rách với cái gối ôm không vỏ. Chiếc đồng hồ cũ trên mặt lò sưởi vẫn đều đều điểm nhịp. Trong góc, trên cái bàn cánh lật, cái chặn giấy bằng thuỷ tinh mà anh mang lại lần trước lấp lánh sáng.

Trong lò sưởi ông Charrington để sẵn một cái bếp dầu cũ méo mó, một cái xoong đầy nước và hai cái li. Anh đã mua một gói cà phê Chiến Thắng và mấy viên đường hoá học. Kim đồng hồ chỉ bảy giờ hai mươi, nghĩa là mười chín giờ hai mươi. Cô sẽ tới vào lúc mười chín giờ rưỡi.
Liều mạng, liều mạng quá – anh thầm nhắc đi nhắc lại như vậy - chẳng khác gì tự sát. Trong tất cả tội lỗi một đảng viên có thể phạm thì đây là tội lỗi khó che giấu nhất. Thực ra ban đầu ý tưởng này chỉ như một cái bóng, giống như bóng của cái chặn giấy trên mặt bàn kia thôi. Đúng như anh dự đoán, ông Charrington đồng ý cho thuê căn phòng ngay lập tức. Ông ta tỏ ra mừng rỡ vì có thêm mấy dollar. Ông ta cũng không tỏ ra ngạc nhiên hay tức tối khi nghe Winston nói sẽ dùng căn phòng cho việc hẹn hò trai gái. Mắt nhìn xa xăm, ông toàn nói những chuyện đâu đâu một cách tế nhị, tạo cho ta ấn tượng rằng ông không hề hiện diện ở đó. Riêng tư, ông nói, giá trị lắm. Thỉnh thoảng ai cũng thích có một chỗ riêng tư. Khi một người tìm được một chỗ riêng tư như thế thì bất kì ai biết được chuyện đó đều phải giữ kín, đấy là phép lịch sự tối thiểu. Ông nói thêm rằng ngôi nhà có hai cổng, cổng thứ hai mở ra sân sau, từ sân sau có đường ra hẻm, khi đó dường như ông đã hoàn toàn không còn hiện diện nữa.
Bên dưới cửa sổ có người đang hát. Winston nấp sau tấm màn sáo bằng vải muslin để quan sát cái sân sau. Nắng tháng sáu còn gắt lắm, trên khoảng sân đầy nắng ở bên dưới, một người đàn bà to lớn, rắn rỏi, hai cánh tay lực lưỡng đỏ au đang đi đi lại lại giữa bể giặt và giây phơi để phơi những tấm vải trắng hình vuông mà Winston cho là tã trẻ em. Mỗi khi không ngậm kẹp là bà lại hát bằng một giọng nữ trầm:
"Chỉ là những giấc mơ thôi, Vút qua như ngày xuân mới Người xưa giờ ở nơi đâu
Lòng em thổn thức khôn nguôi

Bao giờ gặp lại người ơi"
Mấy tuần gần đây khắp London, đi đâu cũng nghe thấy bài này. Đấy là một trong rất nhiều bài hát dành cho cu li do Ban Âm Nhạc sáng tác. Lời những bài hát loại này được một cái máy có tên là "Thi sĩ" viết, không cần bàn tay con người can thiệp. Nhưng giọng người đàn bà du dương đến nỗi dù bài hát nhảm nhí nghe vẫn êm tai. Anh nghe thấy tiếng hát, nghe thấy tiếng giày loẹt xoẹt trên mặt đá, tiếng trẻ con hò hét trên đường phố, tiếng động cơ ô tô từ xa vẳng lại, nhưng căn phòng thì vẫn yên tĩnh lạ lùng, ấy là do không có màn vô tuyến.
Liều mạng, liều mạng quá! anh lại nghĩ. Không thể có chuyện đến đây mấy tuần liền mà không bị bắt. Nhưng một chỗ riêng tư, kín đáo, lại gần, quả là điều hấp dẫn. Sau buổi nói chuyện trên gác chuông nhà thờ đổ họ không có dịp gặp nhau lần nào nữa. Gần đến Tuần Lễ Hận Thù phải làm thêm giờ. Còn hơn một tháng nữa cơ, nhưng công việc chuẩn bị phức tạp và nhiều nên ai cũng phải làm thêm mới kịp. Cuối cùng cả hai cũng tìm cách xin nghỉ buổi chiều vào cùng một ngày. Trước đó họ đã hẹn sẽ gặp nhau trong rừng. Ngay tối hôm trước họ có gặp nhau một lúc ngoài phố. Bình thường trong khi rẽ đám đông để đến với nhau Winston ít khi nhìn Julia, nhưng hôm ấy chỉ nhìn qua là anh đã thấy cô xanh hơn mọi ngày.
"Hỏng rồi", cô thì thầm khi đã cảm thấy an toàn. "Đấy là em nói ngày mai ấy"
"Vì sao?"
"Chiều mai. Em không tới được"

"Tại sao không?"
"Cũng như mọi khi thôi. Nhưng mai bắt đầu sớm hơn"
Winston tức lắm. Trong một tháng qua, từ ngày quen cô, tình cảm của anh với cô đã thay đổi về chất. Lần đầu có thể nói là chưa có cảm giác gì. Cuộc hò hẹn đầu tiên chỉ là một hành động lí tính. Nhưng sau lần gặp thứ hai thì vấn đề đã khác. Mùi tóc cô, hương vị môi cô, làn da cô dường như đã xâm nhập vào anh, thấm đẫm không gian xung quanh anh. Cô đã trở thành một nhu cầu vật chất không thể thiếu, anh không chỉ muốn mà cảm thấy có quyền sở hữu cô. Khi nghe cô nói rằng không đến được thì anh thấy như bị cô lừa vậy. Nhưng đúng lúc đó hai người bỗng bị đám đông ép sát và tay họ vô tình chạm vào nhau. Cô bóp mạnh mấy đầu ngón tay anh như có ý cầu xin tình yêu chứ không phải là nhục cảm. Anh chợt nhận ra rằng khi sống với một người đàn bà thì những trục trặc kiểu này phải được coi là bình thường, sẽ còn lặp đi lặp lại nhiều lần nữa; trong lòng anh bỗng bừng dậy một tình cảm yêu thương tha thiết, chưa từng có đối với cô. Anh ước ao họ là vợ chồng và đã ở bên nhau cả chục năm rồi. Anh ước họ được đi bên nhau, trên phố, y như lúc này, nhưng là công khai, không sợ hãi, vừa đi vừa nói đủ thứ chuyện và mua những thứ lặt vặt dùng trong gia đình. Nhưng trên hết là ước muốn tìm được một chỗ riêng tư để có thể ngồi bên nhau mà không có cảm giác phải làm tình ngay mỗi khi gặp nhau. Nhưng lúc đó anh chưa nghĩ ra, phải đến ngày hôm sau anh mới nghĩ đến việc thuê căn phòng của ông Charrington. Khi anh nói chuyện đó với Julia thì không ngờ cô đồng ý ngay. Cả hai đều biết rằng đấy là một hành động điên rồ. Có vẻ như họ đang cố tình bước vào nghĩa địa. Vừa ngồi xuống thành giường đợi, anh vừa nghĩ tới những căn hầm trong tòa nhà Bộ Tình Yêu. Anh tò mò dõi theo nỗi kinh hoàng định mệnh thoắt ẩn thoắt hiện trong tâm trí. Nó đang chực chờ ở đâu đó trong tương lai, sau đó là chết, chắc chắn như sau số 99 là số 100 vậy. Không thể tránh được, trì hoãn, thì có thể được; nhưng thay vì thế người ta lại tự nguyện, người ta cố tình rút ngắn khoảng cách đó lại.
Có tiếng chân gấp gáp bước trên cầu thang. Julia lao vào phòng. Cô xách một cái túi vải bạt màu nâu, đây là túi dựng dụng cụ, anh vẫn thường thấy cô

khoác trên vai khi đi trong hành lang Bộ. Anh chạy lại định ôm cô, nhưng cô vội vã tránh, có thể là vì cô đang xách cái túi nặng.
"Đợi chút", cô nói. "Để em cho anh xem em có cái gì. Anh có mang theo cà phê Chiến Thắng kinh tởm ấy không? Em nghĩ là anh có. Anh có thể ném đi được rồi đấy. Xem này"
Cô quì xuống, mở túi và lấy mấy cái cờ-lê, mỏ lết, tua vít nằm ở bên trên ra. Phía dưới là những bọc giấy nhỏ. Cô đưa cho anh bọc thứ nhất, không biết là cái gì, nhưng lấy tay sờ thì lại như quen. Nặng, giống như cát.
"Đường à?", anh hỏi.
"Đường thật. Không phải đường hoá học đâu. Còn đây là bánh mì, bánh mì trắng hẳn hoi nhá, không phải loại tởm lợm ta vẫn ăn đâu... đây là lọ mứt, còn đây là lon sữa bò, nhìn này! Thấy em giỏi không! Em phải lấy giấy gói xi măng bọc bên ngoài vì..."
Nhưng cô không cần nói tại sao phải gói kĩ. Mùi thơm nồng ấm, nhắc nhớ một thời thơ ấu, đã toả ra khắp phòng; bây giờ đôi khi anh cũng còn gặp trong một con hẻm nào đó, trước khi một cánh cửa đột ngột đóng hay thấy nó chợt lượn lờ một cách bí ẩn trên đầu đám đông ồn ào rồi đột ngột tan biến.
"Đây là cà phê", anh nói. "Cà phê nguyên chất"
"Đây là cà phê dành cho Đảng Nội Bộ. Hẳn một cân đấy"

"Em kiếm ở đâu ra đủ thứ thế này?"
"Toàn đồ dành cho Đảng Nội Bộ thôi đấy. Bọn khốn đó chẳng thiếu thứ gì đâu. Dĩ nhiên là bồi bàn và đấy tớ phải ăn cắp chứ... xem này, em kiếm được cả một gói trà nữa này"
Winston ngồi xổm cạnh cô. Anh xé một góc bọc trà.
"Trà chính hiệu. Không phải lá mâm xôi", anh nói.
"Gần đây có nhiều trà rồi. Đã chiếm được Ấn Độ hay thế nào không biết", cô nói phỏng chừng. "Nghe đây anh yêu. Em muốn anh quay lưng lại, ba phút thôi. Lại ngồi lên giường kia. Đừng đến gần cửa sổ quá. Đợi em kêu mới quay lại đấy"
Winston nhìn bâng quơ qua tấm màn cửa sổ. Người đàn bà vẫn đi qua đi lại. Bà ta rút hai cái kẹp khỏi miệng và say sưa hát:
"Người bảo rằng rồi sẽ qua đi
Người bảo rằng rồi sẽ quên thôi. Nước mặt, nụ cười, ngày tháng cứ trôi Mà lòng em chẳng thể nào nguôi"

Có vẻ như bà ta thuộc lòng bài hát rẻ tiền này. Giọng hát cứ thế bồng bềnh trôi giữa buổi chiều hè êm ả, du dương và man mác buồn. Có cảm tưởng rằng bà ta sẽ rất hài lòng nếu buổi chiều tháng sáu hôm nay cứ kéo dài mãi cho đến vô cùng, nếu cứ có quần áo mà phơi mãi, nếu cứ được móc tã và hát mọi thứ nhảm nhí như thế cả ngàn năm, cả vạn năm cũng được. Anh chợt lấy làm ngạc nhiên khi nghĩ rằng chưa bao giờ nghe thấy đảng viên nào tự hát một mình như vậy. Việc đó có thể bị coi là hơi bất thường, lập dị, giống như thói quen lẩm bẩm một mình. Có thể người ta chỉ có nhu cầu hát khi đứng trên bờ vực của đói nghèo, khốn khổ.
"Anh có thể quay lại được rồi", Julia bảo.
Anh quay lại và phải một lúc sau mới nhận ra cô. Anh tưởng sẽ nhìn thấy cô khoả thân. Nhưng không phải. Sự chuyển hoá còn đáng ngạc nhiên hơn rất nhiều. Cô vừa trang điểm xong.
Chắc là cô đã rẽ vào một cửa hàng trong khu vô sản và mua một bộ đồ trang điểm. Môi cô đỏ rực, má hồng, mũi bôi phấn, ngay mắt cũng được bôi một cái gì đó, trông sáng hơn. Không được khéo lắm, nhưng Winston cũng có hiểu gì mấy đâu. Anh chưa bao giờ nhìn thấy hay tưởng tượng được một nữ đảng viên môi soi má phấn. Julia trông xinh hẳn lên. Chỉ cần một ít son phấn đúng chỗ là trông cô không chỉ đẹp lên mà chủ yếu nhất là nữ tính hơn rất nhiều. Mái tóc ngắn và bộ đồng phục kiểu con trai càng tăng hiệu quả. Vừa đưa tay ôm cô, mùi hoa vi-ô-lét nhân tạo đã xộc ngay vào mũi. Anh bỗng nhớ tới căn bếp ngầm tăm tối và cái miệng không khác gì một cái hang của người đàn bà trước đây. Vẫn mùi nước hoa đó, nhưng không quan trọng.
"Nước hoa!", anh nói.
"Đúng là nước hoa đấy, anh yêu. Anh có biết em sẽ làm gì bây giờ không?

Em sẽ kiếm một bộ áo dài và mặc thay cho cái quần chết tiệt này. Em cũng sẽ đi tất lụa và giày cao gót! Thế là trong phòng này em sẽ là vợ chứ không còn là đồng chí nữa"
Họ cởi vội quần áo và nhảy lên cái giường gỗ đỏ to đùng. Đây là lần đầu tiên anh đứng trần truồng trước mặt cô. Từ trước đến nay anh vẫn ngượng vì thấy mình vừa gầy, vừa xanh, mạch máu nổi khắp bắp chân và vết bầm ngay bên trên mắt cá. Không có vải trải giường, cái chăn bên dưới đã tướp hết, nhưng vẫn mềm, cả hai người đều ngạc nhiên khi thấy cái giường to và êm như thế.
"Lắm rận lắm đây, nhưng không sao", Julia nói.
Giường đôi chỉ còn trong các nhà cu li thôi. Winston từng được nằm trên một cái giống như thế này, còn Julia thì chưa thấy bao giờ.
Họ thiếp đi một lúc. Khi Winston tỉnh dậy thì kim đồng hồ chỉ gần hai mốt giờ. Anh không động đậy vì Julia đang gối đầu lên tay anh. Son phấn trên mặt cô đã chuyển hết sang anh và cái gối ôm, nhưng một ít phấn hồng còn sót lại vẫn làm khuôn mặt cô trông xinh đẹp hơn. Ánh mặt trời sắp tàn chiếu thẳng vào chân giường, nhờ đó có thể nhìn rõ những thứ để bên trong lò sưởi, nước trong xoong đã sôi từ lâu. Không thấy tiếng người phụ nữ hát nữa, chỉ có tiếng hò hét của trẻ con vọng lại từ xa. Anh lờ mờ tự hỏi chả lẽ trước đây, trong cái quá khứ đã bị xoá bỏ ấy, việc người ta, ấy là nói một người đàn ông và một người đàn bà, có thể nằm bên nhau, không một mảnh vải che thân, muốn làm tình lúc nào thì làm, muốn nói gì thì nói, không cảm thấy cần đi đâu, chỉ nằm và nghe tiếng vọng của đời thường từ ngoài phố đưa lại như thế này, là việc bình thường ư. Không, không thể nào có chuyện đó được. Julia đã tỉnh, cô dụi mắt và chống khuỷu tay để vươn người lên nhìn cái bếp dầu.

"Cạn một nửa nước rồi", cô bảo. "Em dậy pha cà phê đây. Còn một tiếng nữa cơ. Nhà anh mấy giờ thì cúp điện?"
"Hai ba giờ rưỡi"
"Khu tập thể của em thì hai ba giờ. Nhưng phải về nhà sớm hơn vì... A, cút ngay, đồ bẩn thỉu!"
Cô nhoài người ra và nhặt cái giày trên nền nhà rồi vung tay ném vào góc phòng, động tác giống hệt như ném cuốn từ điển vào mặt Goldstein ở buổi Hai Phút Hận Thù sáng hôm trước.
"Cái gì thế?", anh ngạc nhiên hỏi.
"Chuột cống. Em thấy cu cậu thò mõm ra khỏi ván ốp chân tường kia kìa. Chắc ở đó có hang. Nhưng dù sao cũng sợ lắm rồi"
"Chuột cống!", Winston thì thầm. "Phòng này có chuột!"
"Đâu chả có", Julia vừa nói vừa ngả người ra như cũ. "Ngay trong bếp nhà tập thể của em cũng có. Có những khu nhiều khủng khiếp nữa cơ. Chúng tấn công cả trẻ con đấy, anh không nghe nói à? Đúng thế đấy. Có những chỗ không dám để trẻ em nằm một mình nữa cơ. Những con lớn màu vàng là dữ nhất. Nhưng tởm nhất là giống này..."

"Thôi đi!", Winston nói, mắt nhắm lại.
"Anh yêu ơi! Mặt anh trắng bệch ra rồi này. Sao thế? Anh sợ chuột à?"
"Trên đời này anh sợ nhất là chuột đấy!"
Cô quấn chặt lấy người anh, như muốn dùng hơi ấm của cơ thể để trấn an anh. Anh chưa mở mắt ra ngay. Anh như cảm thấy đang ở giữa cơn ác mộng mà thỉnh thoảng anh vẫn gặp trong giấc ngủ. Anh đứng trước một bức tường tối đen, phía sau là một cái gì đó kinh khủng, không thể chịu nổi, anh không dám nhìn. Nhưng cái chính là cảm giác tự dối mình vì anh biết rõ đằng sau bức tường đen đó là cái gì. Nếu dùng hết sức, nếu có thể giật được một ít óc ra khỏi não thì anh cũng có thể đưa được điều đó ra ngoài ánh sáng. Anh luôn thức dậy mà không biết đấy là cái gì: nhưng nó có liên quan thế nào đấy với câu chuyện mà Julia nói trước khi bị anh cắt ngang.
"Anh xin lỗi - Anh nói - Không có gì đâu. Anh rất ghét chuột, thế thôi"
"Đừng lo, anh yêu. Bọn chúng không ra được nữa đâu. Trước khi về em sẽ nút cái lỗ bằng vải bạt. Lần sau em sẽ mang theo ít vữa và trám hẳn lại"
Tâm trạng hoảng hốt qua mau. Cảm thấy ngượng, Wiston ngồi dịch ra gần đầu giường. Julia đứng lên lấy quần áo mặc và đi pha cà phê. Mùi thơm ngào ngạt và hấp dẫn đến nỗi họ phải đóng cửa sổ: nhỡ có kẻ nào tò mò, thêm rách việc. Không chỉ mùi vị, điều đặc biệt ở đây chính là cái cảm giác êm dịu trên đầu lưỡi của đường tự nhiên, thứ Winston đã quên từ lâu. Một tay đút túi, tay kia cầm mẩu bánh mì phết mứt, mắt lơ đãng nhìn vào cái tủ sách, Julia vừa đi vừa giảng giải cách chữa cái bàn cánh lật rồi quăng người xuống

cái ghế bành để kiểm tra xem có êm không và bắt đầu ngắm cái đồng hồ có mười hai chữ số với vẻ thích thú. Cô cầm cái chặn giấy lại đầu giường, gần cửa sổ, để nhìn cho rõ. Winston bảo đưa cho mình và cũng như mọi khi, anh đưa lên ngắm, không hết ngạc nhiên vì vẻ mềm mại, giống như một giọt nước mưa của nó.
"Cái này để làm gì, anh?", Julia hỏi.
"Anh nghĩ chẳng để làm gì... anh muốn nói nó chẳng có ích bổ gì. Anh thích chính vì thế đấy. Chỉ là một mảnh vỡ của lịch sử người ta quên cải biến mà thôi. Một thông điệp từ cách đây cả trăm năm, ước gì có thể đọc được"
"Thế còn bức tranh kia", vừa nói cô vừa hất cằm về phía bức tường đối diện. "Cũng cả trăm năm rồi à?"
"Hơn. Có lẽ đến hai trăm. Khó nói lắm. Bây giờ không thể biết cái gì có từ bao giờ"
Julia đi lại gần bức tranh.
"Chuột chui ở đây ra này", vừa nói cô vừa lấy chân đá vào ván ốp chân tường ngay bên dưới bức tranh. "Chỗ nào thế này nhỉ? Em đã trông thấy ở đâu rồi?"
"Nhà thờ, trước đây đã là nhà thờ. Gọi là nhà thờ Saint Clement của người Đan Mạch", Anh chợt nhớ khúc đầu bài đồng giao ông Charrington mới dạy và nói thêm giọng buồn buồn: "Cam cam chanh chanh là chuông Clement"

Anh rất ngạc nhiên khi nghe cô đế theo:
"Nợ mấy đồng xèng là chuông Martin Bao giờ trả đây? là chuông Barley
Em không nhớ đoạn sau. Nhưng em nhớ hai câu cuối: Nghe thì thắp nến cho đi vào gường, Không nghe rút búa thì mày tan xương".
Nghe như một khẩu lệnh. Nhưng sau Barley phải còn một câu nữa. Nếu khéo gợi ý, ông Charrington có thể nhớ được cũng nên.
"Ai dạy em thế?", anh hỏi.
"Ông em. Ông thường hát bài này khi em còn bé tí. Khi em lên tám thì ông bốc hơi, dù sao thì ông cũng biến mất. Em cứ thắc mắc không biết chanh là gì", cô nói thêm một cách bâng quơ. "Cam thì em thấy rồi. Quả tròn, màu vàng, da dày"
"Chanh thì anh còn nhớ", Winston nói. "Hồi những năm năm mươi sẵn lắm. Chua, chỉ thấy mùi đã ứa nước dãi ra rồi"
"Em ngờ rằng rận nằm sau bức tranh này này - Hôm nào rỗi em sẽ tháo xuống để rửa. Có lẽ đến giờ rồi đấy. Em phải rửa sạch phấn đi đã. Buồn quá! Sau đó em sẽ lau son cho anh"

Winston còn nằm thêm mấy phút nữa. Trời tối dần. Anh quay sang phía cửa sổ và lại ngắm cái chặn giấy. Thú vị không phải là san hô mà chính là phần kính bên trong. Vừa sâu lại vừa trong suốt như là không khí vậy. Mặt cong bên ngoài giống như bầu trời trùm lên một thế giới nhỏ xíu, kể cả bầu khí quyển bao quanh. Winston bỗng cảm thấy như anh có thể chui vào bên trong, thực ra anh đã ở bên trong rồi, cả anh, cả cái giường, cái bàn, bức tranh và chính cái chặn giấy nữa. Cái chặn giấy là căn phòng này, còn mẩu san hô là cuộc đời anh và cuộc đời Julia, đã bị nhốt kín vĩnh viễn trong lòng nửa quả cầu pha lê.

V.
Syme biến mất. Buổi sáng không thấy anh ta đến sở: có mấy người vô tâm bình phẩm chuyện này. Ngày hôm sau không còn ai nhắc đến anh ta nữa. Ngày thứ ba Winston ra tiền sảnh Ban Tài Liệu để xem các tờ yết thị. Một tờ yết thị có tên các thành viên Ủy Ban Cờ Tướng trong đó có Syme. Tờ giấy vẫn nguyên hình thù như hôm trước, không một vết tẩy xoá nào, nhưng danh sách đã giảm một người. Rõ rồi. Syme đã không còn hiện diện, anh ta chưa từng hiện diện bao giờ.
Nóng như thiêu như đốt. Trong những mê cung, những phòng không cửa sổ của Bộ đã có điều hoà không khí, nhưng ngoài đường nóng muốn lột da chân, còn giờ cao điểm trong tầu điện ngầm thì hơi người nồng nặc không thể chịu nổi. Công việc chuẩn bị cho Tuần Lễ Hận Thù đang vào giai đoạn quyết liệt nhất, tất cả công nhân, viên chức các Bộ đều phải làm thêm giờ. Cần phải tổ chức các cuộc diễu hành, mít tinh, duyệt binh, diễn thuyết, triển lãm tượng sáp, chiếu phim, các chương trình truyền hình đặc biệt; cần phải dựng khán đài, lắp ráp tượng, cắt khẩu hiệu, viết bài hát, tung tin thất thiệt, làm tranh ảnh giả. Nhóm của Julia trong Ban Sáng Tác tạm ngưng tiểu thuyết và đã kịp cho ra một loạt sách mỏng về đề tài tính ác. Winston, ngoài công việc thường nhật, còn phải dành nhiều thì giờ đọc các số Times cũ để hiệu chỉnh và đánh dấu những chỗ sẽ được trích dẫn trong những bài diễn văn. Đêm khuya, khi đám đông cu li ồn ào tràn ra đường, London sục sôi như đang lên cơn sốt. Tên lửa rơi xuống thành phố nhiều hơn trước, đôi khi nghe thấy những tiếng nổ rất to từ xa vẳng lại, người ta đồn đủ thứ, nhưng không có ai biết nổ ở đâu.
Bài hát mới cho chương trình của Tuần Lễ Hận Thù (gọi là Bài Hát Căm Hờn) đã soạn xong và được phát liên tục trên màn vô tuyến. Nhịp điệu hung tợn, như tiếng chó sủa, khó có thể gọi đấy là bản nhạc, nó gợi cho người ta liên tưởng tiếng trống ngũ liên. Tiếng gào thét của cả ngàn cái miệng hòa cùng nhịp chân đều bước đủ làm những người táo tợn nhất phải phát run. Bọn cu li khoái bài này lắm, nó đã giành được thế thượng phong so với bài:

"Chỉ là những giấc mơ thôi" vẫn thịnh hành lâu nay. Hai đứa con của Parsons hát suốt ngày đêm, lại còn gảy bằng cái lược nữa, không thể nào chịu đựng nổi. Bây giờ buổi tối Winston còn bận hơn. Các đội tình nguyện dưới quyền Parsons trang trí đường phố, chuẩn bị cho Tuần Lễ Hận Thù; họ treo biểu ngữ, dán áp phích, dựng cột cờ trên mái nhà, họ căng dây thép ngang qua phố để chuẩn bị treo khẩu hiệu, bất chấp tính mạng người qua đường. Parsons khoe rằng chỉ riêng chung cư Chiến Thắng đã treo tổng cộng bốn trăm mét cờ và biểu ngữ. Thật đúng sở trường, hắn vui như tết. Vì trời nóng và làm việc chân tay nên anh ta có cớ chuyển sang quần soóc và áo sơ mi. Anh ta có mặt khắp nơi, lúc kéo, lúc đẩy, lúc cưa, lúc đóng, cười đùa, động viên mọi người, mồ hôi khét lẹt túa ra khắp các lỗ chân lông.
Khắp nơi ở London bỗng xuất hiện một tấm biểu ngữ mới. Đấy là một tấm bảng to, ba bốn mét, vẽ hình một người lính Eurasia, nét mặt Mông Cổ, không chút biểu cảm nào, đôi ủng to quá khổ, khẩu súng máy cầm ngang hông, đang sải chân bước. Dù nhìn từ góc nào thì cái nòng súng cũng như đang chiếu thẳng vào đầu. Bức tranh này được treo trên mọi bức tường trống, số lượng có thể vượt cả ảnh Anh Cả. Bọn cu li thường chẳng quan tâm gì đến chiến cuộc, lại như sôi lên vì lòng ái quốc, cứ một thời gian nó lại được hâm nóng theo cách ấy. Nhiều người bị giết vì hoả tiễn hơn mọi khi, cứ như thể đấy là biện pháp giữ vững tinh thần chiến đấu. Một quả rơi trúng rạp chiếu bóng đông nghẹt ở khu Stepney chôn vùi mấy trăm người dưới đống gạch vụn. Tất cả dân chúng trong vùng đều tham gia đoàn đưa tang kéo dài mấy tiếng đồng hồ, đám tang đã biến thành một cuộc mít tinh phản đối. Một quả khác rơi trúng khu đất trống vẫn dùng làm sân chơi cho trẻ con, mấy chục đứa tan xác. Có nhiều cuộc biểu tình phản đối tiếp theo, người ta đốt hình nộm Goldstein, hàng trăm bức vẽ tên lính Eurasia bị xé nát và vứt vào lửa, trong lúc lộn xộn nhiều cửa hàng bị cướp, sau đó lại có tin đồn là bọn gián điệp dùng sóng vô tuyến điều khiển tên lửa, nhà của hai ông bà già tình nghi là người ngoại quốc bị đốt, hai người đều chết ngạt cả.
Julia và Winston đã cất hết chăn nệm trong cái phòng phía trên cửa hàng của ông Charrington thế mà trước khi nằm họ phải cởi hết quần áo mới hơi đỡ nóng được một chút. Không thấy chuột nữa, nhưng rệp thì phát triển nhanh khủng khiếp. Nhưng chuyện đó không quan trọng. Dù sạch dù bẩn, căn

phòng vẫn là thiên đường. Vừa bước vào phòng họ liền lấy ớt mua ngoài chợ đen rải khắp nơi, rồi họ cởi quần áo và làm tình dù người còn ướt đẫm mồ hôi, sau đó họ thiếp đi, lúc dậy mới thấy hàng đàn rệp đang lao vào tấn
công.
Bốn, năm, sáu,... họ gặp nhau bảy lần nội trong tháng sáu. Winston bỏ thói quen uống rượu Gin bất kể giờ giấc. Anh cảm thấy không có nhu cầu nữa. Anh béo ra, chỗ loét do giãn tĩnh mạch đã liền da, chỉ còn một vết sẹo màu nâu bên trên mắt cá chân, không còn ho rũ ra vào buổi sáng như mọi khi nữa. Cuộc sống đã không còn quá nặng nề nữa, anh cũng không cần giả vờ trước màn vô tuyến hay muốn chửi thật to nữa. Bây giờ, khi đã có một chỗ kín đáo, an toàn, gần như nhà riêng, họ không còn thấy bực dọc vì thỉnh thoảng mới được gặp nhau mà mỗi lần cũng chỉ được chừng vài tiếng đồng hồ. Điều quan trọng là họ có một căn phòng như thế ở bên trên cửa hàng đồng nát. Biết rằng nó vẫn còn ở đấy, không bị ai xâm phạm thì cũng như đang có mặt trong đó rồi. Căn phòng là cả một thế giới, một khu vực biệt lập của quá khứ, nơi những động vật đã tuyệt chủng có thể dạo chơi. Ông Charrington, Winston nghĩ, cũng là một loài động vật đã tuyệt chủng khác. Trước khi bước lên cầu thang anh thường dừng lại vài phút để nói chuyện với ông. Có vẻ như ông già không bao giờ đi ra ngoài mà cũng chả có mấy khách. Cuộc đời ông lặng lẽ trôi giữa một cái cửa hàng tối tăm, bé tí và gian bếp dành để nấu ăn ở phía sau, gian này còn bé nữa, trong đó ngoài những vật dụng thường nhật còn có một cái máy hát cổ lỗ sĩ có cái loa rất dài. Ông già rất khoái nói chuyện. Trông ông ta, một người mũi dài, kính dày, vai so trong bộ quần áo bằng vải tơ, đi lại giữa những món đồ vô giá trị, người ta dễ nghĩ ông là một người sưu tập chứ không phải là một thương nhân. Khi thì ông ta chỉ cho Winston xem chứ không phải mua thứ này hoặc thứ kia, đấy có thể là cái nút chai bằng sứ, hay nắp một cái hộp sơn mài dùng đựng thuốc lá đã sứt, có khi là cái huy hiệu hình một trái tim bằng vàng giả có kẹp lọn tóc một đứa trẻ đã chết không biết từ bao giờ. Nói chuyện với ông ta chả khác gì nghe một cái máy hát cũ. Thỉnh thoảng ông lại lôi ra được một đoạn bài đồng dao nào đó. Một bài về sáo sậu, sáo đen, bài khác về con bò có cái sừng cong, một bài về con chim chích. "Tôi nghĩ ông sẽ thích cái này đấy" – ông nói vừa vừa mỉm cười mỗi khi sắp hát. Nhưng bài nào ông cũng chỉ nhớ được vài ba câu là cùng.

Cà hai đều biết, nói một cách khác, đều luôn luôn nhớ rằng chuyện này không thể kéo dài mãi được. Đôi khi hình ảnh thần chết hiện lên rõ ràng như có thể sờ nắn được, thật như cái giường họ đang nằm; mỗi lần như thế họ lại xoắn lấy nhau trong niềm hoan lạc tuyệt vọng, như những linh hồn sa đoạ bám chặt vào khoái lạc ngay trước khi đồng hồ báo tử điểm. Nhưng cũng có lúc họ lại có ảo tưởng rằng họ không những an toàn mà còn có thể cứ sống như thế này mãi mãi. Cả hai đều cảm thấy rằng khi đã bước vào đây rồi thì không còn gì phải lo nữa. Đường đi có thể khó khăn, nguy hiểm. Nhưng căn phòng thì tuyệt đối an toàn. Winston cũng có cảm giác như thế khi ngắm cái chặn giấy, dường như có thể chui vào trung tâm cái thế giới bằng thuỷ tinh đó và khi đã ở trong rồi thì thời gian sẽ ngưng lại. Họ cũng thường mơ tưởng hão huyền. Họ mường tượng sẽ còn gặp may, còn có thể tiếp tục mãi cuộc tình này trong phần đời còn lại. Hay là Katherine chết và họ sẽ khôn khéo vận động để có thể cưới nhau. Hoặc là họ sẽ cùng nhau tự sát. Hay là họ sẽ bỏ trốn, thay đổi nhân dạng, bắt chước giọng vô sản, xin vào nhà máy và sống cuộc đời mai danh ẩn tích trong một ngõ vắng nào đó. Cả hai đều biết đấy chỉ toàn là chuyện viển vông. Không có lối thoát, sự thật là như thế. Thực tế nhất là tự sát, nhưng họ sẽ không làm. Bản năng không thể chế ngự nhủ rằng cứ để thế, được ngày nào hay ngày ấy, sống hôm nay không cần biết ngày mai; giống như là phổi tiếp tục hít vào khi vẫn còn không khí vậy thôi.
Đôi khi họ cũng thảo luận việc tham gia hoạt động chống lại Đảng, nhưng không biết phải bắt đầu như thế nào. Ngay cả nếu tổ chức Huynh Đệ huyền thoại là có thật đi nữa thì cũng khó mà tiếp cận được. Anh bảo giữa anh và O'Brien đã có hay dường như là có một sự cảm thông nào đó, đôi khi anh muốn đi gặp O'Brien và tuyên bố rằng anh là kẻ thù của Đảng, xin được giúp đỡ. Điều làm anh ngạc nhiên là Julia không cho rằng đấy là một ý nghĩ điên rồ. Cô thường có thói quen nhận định người qua nét mặt, việc Winston tin ngay O'Brien khi hai người mới nhìn nhau có một lần đối với cô cũng là chuyện bình thường. Hơn nữa, cô cho rằng tất cả hay gần như tất cả mọi người đều căm thù Đảng một cách bí mật và sẽ vi phạm luật lệ ngay nếu không thấy bị đe doạ. Nhưng cô không tin là có một phong trào đối lập có tổ chức, nó không tồn tại hoặc không thể tồn tại được. Cô bảo những câu chuyện về Goldstein và đội quân ngầm của hắn chỉ là những trò nhảm nhí do Đảng bịa ra vì mục đích riêng, ta phải giả vờ tin mà thôi. Cô không nhớ đã bao nhiêu lần, trong các hội nghị của Đảng cũng như trong những cuộc diễu

hành tự phát cô đã gào đến đứt họng, yêu cầu tử hình những người cô chưa từng nghe nói tới, tội lỗi của họ cô cũng chẳng mảy may tin. Khi có những phiên toà công khai cô thường đứng trong hàng ngũ Liên Hiệp Thanh Niên, bao vây tòa án từ sáng đến tối, thỉnh thoảng lại hô: "Giết chết bọn phản bội!". Trong những buổi Hai Phút Hận Thù cô thường lăng mạ Goldstein một cách dữ dội hơn những người khác. Nhưng thực ra cô hiểu rất mù mờ về Goldstein cũng như lí thuyết được gán cho là của ông ta. Trưởng thành sau Cách Mạng, còn ít tuổi, nên cô chẳng có hiểu biết gì về những cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra hồi những năm 50 và 60. Không bao giờ cô nghĩ đến một phong trào chính trị độc lập: gì thì gì, Đảng vẫn là bất khả chiến bại. Đảng sẽ luôn luôn tồn tại và vĩnh viễn như thế. Chỉ có thể chống lại nó bằng những hành động bất tuân bí mật, cùng lắm cũng chỉ là những hành động khủng bố đơn lẻ thí dụ giết một người nào đó hay cho nổ một công trình nào đó mà thôi.
Ở một khía cạnh nào đó mà nói thì cô sắc sảo hơn Winston và ít bị tiêm nhiễm hơn. Có lần, nhân nhắc đến cuộc chiến tranh với Eurasia, Julia đã làm anh phải sửng sốt khi cô tuyên bố rằng chẳng hề có cuộc chiến tranh nào hết. Tên lửa rơi xuống London hàng ngày có thể là do chính chính phủ của Oseania bắn, "để làm cho dân sợ". Anh chưa từng nghĩ như thế bao giờ. Có lần anh đã phát ghen khi nghe cô nói rằng việc khó nhất đối với cô là không phá lên cười khi tham gia Hai Phút Hận Thù. Cô không quan tâm đến học thuyết của Đảng, cô chỉ thắc mắc khi những chuyện đó liên quan trực tiếp đến cuộc sống của cô mà thôi. Cô sẵn sàng chấp nhận tất cả những huyền thoại chính thức, đơn giản vì theo cô thật hay giả cũng chẳng có gì quan trọng. Cô tin, vì người ta đã dạy thế, rằng Đảng đã phát minh ra máy bay. (Theo Winston thì thời anh còn đi học, cuối những năm 50 Đảng mới chỉ tuyên bố phát minh ra máy bay trực thăng thôi; khoảng chục năm sau, khi Julia đi học, Đảng đã nhận phát minh ra máy bay; vài thế hệ nữa, có thể nó sẽ tuyên bố phát minh ra máy hơi nước cũng nên). Điều làm anh ngạc nhiên là cô không hề tỏ vẻ quan tâm khi anh nói rằng máy bay đã có trước anh, trước Cách Mạng rất nhiều. Ai phát minh ra máy bay mà chả thế. Nhưng điều làm anh choáng váng nhất là khi vô tình phát hiện ra rằng Julia không nhớ là cách đây bốn năm Oceania đã từng đánh nhau với Eastasia và hòa hoãn với Eurasia. Thật ra cô coi tất cả các cuộc chiến tranh đều là tráo trở: nhưng rõ ràng là cô không biết kẻ thù đã thay tên đổi họ từ lâu. "Em nghĩ mình vẫn đánh nhau với Eurasia đấy chứ" – Cô lơ đãng nói. Anh cảm thấy

sợ. Máy bay không nói làm gì, nó được phát minh từ lâu, trước khi có cô, nhưng kẻ thù thì mới thay có bốn năm nay, khi cô đã trưởng thành rồi. Anh phải giảng giải cho cô suốt mười lăm phút. Cuối cùng thì anh cũng khơi dậy được trí nhớ của cô và cô lờ mờ nhớ ra rằng kẻ thù đã từng là Eastasia chứ không phải Eurasia như hiện nay. Nhưng chuyện đó theo cô không quan trọng. "Quan trọng gì?" – Cô cáu kỉnh nói – "Không đánh nhau với bọn này thì đánh nhau với bọn khác, tin tức toàn là bịa ấy mà, ai còn lạ gì".
Thỉnh thoảng anh có tâm sự với cô về Ban Tài Liệu và những điều dối trá diễn ra ở đấy. Nhưng những chuyện như vậy dường như không làm cô hoảng sợ. Cô không cảm thấy đất nứt dưới chân khi dối trá trở thành sự thật. Anh còn kể cho cô nghe câu chuyện về các ông Jones, Aaroson và Rutherford cũng như mảnh giấy nhỏ, có thể coi là một lời tố cáo đanh thép, mà có lần anh đã cầm trong tay. Nhưng chuyện này cũng không gây ấn tượng mạnh như anh tưởng. Thực ra cô không hiểu được ý nghĩa câu chuyện.
"Họ là bạn của anh à?", cô hỏi.
"Không, anh có quen biết gì họ đâu. Họ là đảng viên Đảng Nội Bộ. Họ già hơn anh nhiều. Họ thuộc thế hệ cũ, trước Cách Mạng. Thậm chí mặt họ anh cũng chỉ biết sơ sơ thôi"
"Thế thì việc gì anh phải rộn lên như vậy? Lúc nào chả có người bị giết, đúng không?"
Anh cố gắng giải thích cho cô.
"Đây là ca đặc biệt. Đây không chỉ là vấn đề giết người. Em có hiểu rằng quá khứ, nghĩa là từ ngày hôm qua trở về trước, đang bị người ta xoá bỏ không? Quá khứ nếu còn, thì cũng chỉ là những đồ vật, không có liên hệ gì đến ngôn từ nữa, thí dụ như cái chặn giấy bằng thuỷ tinh này chẳng hạn. Hầu như chúng ta chẳng biết gì về Cách Mạng và thời kì trước Cách Mạng nữa. Tất cả

mọi tài liệu đều bị đốt hoặc bị sửa chữa, sách được viết lại, tranh được vẽ lại, phố xá, nhà cửa tượng đài thì bị thay tên, ngày tháng cũng bị sửa chữa. Mà quá trình này vẫn tiếp tục, từng phút, từng ngày chứ đã dừng lại đâu. Lịch sử đã đóng băng. Không còn gì, chỉ còn thời hiện tại kéo dài từ quá khứ vô cùng đến tương lai vô tận, trong đó Đảng bao giờ cũng sáng suốt hết. Dĩ nhiên là anh biết rằng quá khứ đang bị bóp méo, nhưng không thể chứng minh được, ngay cả khi chính anh đang tham gia bóp méo nó. Làm xong là phải hủy ngay chứng cớ. Chứng cớ duy nhất còn lại nằm trong đầu anh, nhưng làm sao anh dám chắc rằng có một người nào đó còn nhớ được như anh. Chỉ có một lần, một lần duy nhất trong đời, anh đã thực sự nắm được chứng cớ sau khi sự kiện đã xảy ra, phải nói là nhiều năm sau khi sự kiện đã xảy ra"
"Thế thì ích lợi gì?"
"Chẳng có ích lợi gì vì anh đã vất đi ngay sau đó. Nhưng nếu bây giờ thì anh không vất"
"Em thì không", Julia nói. "Em sẵn sàng hi sinh nhưng phải là cái gì đáng giá chứ không thể là mẩu báo cũ được. Giả sử anh giữ lại thì anh sẽ làm gì?"
"Chắc là cũng chẳng làm được gì nhiều. Nhưng đấy là bằng chứng. Giả sử anh có gan cho ai đó xem thì anh có thể làm cho người đó nghi ngờ. Anh không nghĩ là chúng ta có thể thay đổi được gì. Nhưng có thể mường tượng sự xuất hiện các nhóm chống đối ở nơi này, nơi kia; những nhóm nhỏ ấy sẽ phát triển dần lên, có thể họ sẽ để lại một số tài liệu, rồi các thế hệ tương lai sẽ làm tiếp những việc ta chưa hoàn thành"
"Anh yêu ơi, em chẳng quan tâm đến thế hệ tương lai. Em chỉ quan tâm đến chúng ta thôi"
"Em là người nổi loạn từ thắt lưng trở xuống"
Cô cho rằng đấy là câu đùa dí dỏm và nhảy lên ôm chầm lấy anh.
Học thuyết của Đảng quả là rối rắm, nhưng điều đó cô không quan tâm. Mỗi

lần anh nói về những nguyên tắc của Chuanh, về nước đôi, về tính khả biến của quá khứ và việc phủ nhận hiện thực khách quan và còn sử dụng cả Ngômo là cô lập tức tỏ ra uể oải, lúng túng và nói rằng cô chẳng bao giờ để ý đến những chuyện như vậy. Ai chả biết là nhảm nhí, vậy thì lo lắng làm gì cho mệt? Cô biết lúc nào cần hoan hô, lúc nào cần đả đảo, thế là đủ lắm rồi. Nếu anh cứ tiếp tục các đề tài này thì cô sẽ ngủ gật ngay. Cô thuộc loại người có khả năng ngủ bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Nói chuyện với cô anh mới biết là người ta dễ dàng giả vờ làm người có lí tưởng trong khi chẳng hiểu lí tưởng là gì. Theo một nghĩa nào đó thì Đảng đã thành công trong việc áp đặt thế giới quan của mình cho đám quần chúng ngu dốt, những người không thể nào hiểu được thế giới quan ấy. Họ tin cả những điều xuyên tạc trắng trợn nhất, vì họ không hiểu hết mức độ tàn nhẫn của sự giả trá và vì họ ít quan tâm đến các sự kiện xã hội nên không nhìn thấy những điều đang xảy ra xung quanh. Ngu si đã thắng, ngu si giữ cho người ta không hóa điên. Họ sẵn sàng ăn tươi nuốt sống mọi thứ, những thứ họ nuốt vào hoàn toàn vô hại vì không để lại cặn bã gì, hệt như hạt ngô đi qua bụng gà mà không được tiêu hóa, vậy thôi.
VI.
Cuối cùng chuyện đó cũng đã xảy ra. Bức thông điệp mong chờ bấy lâu đã tới. Dường như cả cuộc đời anh chỉ dành để chờ đợi giây phút này.
Lúc đó anh đang đi trong hành lang của Bộ, khi đến gần chỗ Julia đưa vào tay anh mẩu giấy thì anh bỗng nhận ra có một người to lớn hơn anh đang đi ngay đằng sau. Người kia, dù anh chưa nhận ra là ai, khẽ hắng giọng, rõ ràng là để bắt chuyện. Winston dừng bước và quay ngoắt lại. Đấy là O'Brien.
Cuồi cùng họ đã gặp nhau, mặt đối mặt, nhưng Winston lại chỉ muốn chạy trốn cho mau. Tim anh đập thình thịch. Anh không thốt được lên lời. Nhưng

O'Brien vẫn tiếp tục đi, bàn tay khẽ động vào vai Winston và hai người sánh bước bên nhau. O'Brien bắt đầu nói, thái độ nhã nhặn, khác hẳn với những đảng viên Đảng Nội Bộ khác.
"Tôi vẫn hi vọng có dịp nói chuyện với anh", anh ta bảo. "Gần đây tôi mới đọc một bài của anh viết bằng Ngômo trên tờ Times. Theo tôi hiểu thì anh quan tâm tới Ngômo từ quan điểm của một nhà nghiên cứu?"
Winston đã tự chủ phần nào.
"Nghiên cứu gì anh", Winston đáp. "Tôi chỉ là nghiệp dư thôi. Đấy không phải là lĩnh vực của tôi. Tôi chưa bao giờ tham gia vào công việc cụ thể"
"Nhưng văn phong rất tao nhã", O'Brien nói. "Đấy không phải là ý kiến của riêng cá nhân tôi. Tôi đã nói chuyện với một người bạn của anh, một chuyên gia tầm cỡ đấy. Bây giờ không hiểu sao tôi tự nhiên tôi quên tên anh ta"
Tim anh lại đập rộn lên. Chắc chắn đấy là Syme. Nhưng Syme không chỉ đã chết, anh ta đã bị xoá sổ, đã là không ai. Nhắc đến anh ta, dù chỉ gián tiếp cũng có thể mất mạng như chơi. Câu của O'Brien chắc chắn là một tín hiệu, một mật khẩu. Bằng cách phạm một tội tư tưởng không lớn trước mặt Winston, O'Brien đã biến anh thành một tòng phạm. Họ đang bước chậm rãi dọc hành lang thì bất ngờ O'Brien đứng lại. Anh ta sửa kính, cũng như mọi khi, động tác rất hiền lành, đầy vẻ cả tin. Sau đó anh ta bảo:
"Tôi muốn nói, trong bài báo của anh tôi đã phát hiện được hai từ được coi là đã cũ. Hai từ này mới bị coi là cũ gần đây thôi. Anh đã thấy cuốn từ điển Ngômo in lần thứ mười chưa?"

"Chưa", Winston đáp. "Tôi nghĩ chưa phát hành. Trong Ban Tài Liệu chúng tôi vẫn sử dụng cuốn xuất bản lần thứ chín"
"Theo tôi biết thì phải mấy tháng nữa mới phát hành lần in thứ mười. Nhưng đã lưu hành mấy bản in thử rồi. Tôi cũng có một bản. Anh có thích xem không?"
"Thích lắm ạ", Winston đáp, thâm tâm biết ngay anh ta ngụ ý chuyện gì.
"Một số cải tiến phải nói là rất hay. Giảm số động từ... tôi nghĩ anh sẽ thích đấy. Để tôi nghĩ xem, hay là gửi cho anh cuốn từ điển theo đường văn thư? Nhưng tôi sợ tôi hay quên lắm. Hay lúc nào tiện anh ghé qua nhà tôi? Đợi chút. Để tôi ghi địa chỉ cho anh"
Họ đứng ngay trước màn vô tuyến. O'Brien đưa tay lục cả hai túi, rồi lấy ra một cuốn sổ bìa da và cái bút chì màu vàng. Rồi cứ thế, đứng ngay dưới màn vô tuyến, chả cứ gì màn vô tuyến, đứng ở tận đầu kia hành lang cũng đọc được, anh ta ghi địa chỉ, sau đó xé tờ giấy và đưa cho Winston.
"Buổi tối tôi thường ở nhà", anh ta nói. "Nếu tôi đi vắng thì tên đầy tớ sẽ đưa cho anh"
Anh ta bước đi, Winston vẫn cầm mảnh giấy, lần này chẳng cần phải giấu nữa. Nhưng Winston vẫn học thuộc lòng và sau đó vài giờ thì quăng vào lỗ nhớ cùng với những giấy tờ khác.

Câu chuyện của họ chỉ kéo dài chừng vài ba phút là cùng. Chỉ có một cách giải thích. Mục đích là để thông báo cho Winston địa chỉ của O'Brien. Không còn cách nào khác: muốn biết địa chỉ phải hỏi thẳng đương sự. Không có bất kì cuốn danh bạ nào. "Nếu muốn gặp tôi thì hãy tìm tôi ở đây"- O'Brien muốn nói như thế. Có thể anh ta sẽ kẹp thư vào cuốn từ điển. Thế là đã rõ: tổ chức bí mật mà anh mơ ước là có và anh đã đến sát nó rồi.
Anh biết rằng sớm muộn gì anh cũng sẽ đến nhà O'Brien thôi. Có thể ngay ngày mai, cũng có thể còn lâu, anh không dám chắc. Cuộc hội ngộ vừa rồi chỉ là sự tiếp tục của một quá trình kéo dài đã mấy năm nay. Khởi thủy chỉ là một ý nghĩ vô tình, bí mật; bước thứ hai là ghi nhật kí. Anh đã chuyển từ ý nghĩ sang lời nói, và bây giờ sắp sửa chuyển từ lời nói thành việc làm. Bước cuối cùng sẽ là Bộ Tình Yêu. Anh chấp nhận chuyện đó. Nhân nào thì quả nấy. Nhưng anh bỗng cảm thấy sợ, đúng hơn là anh đã ngửi thấy mùi tử khí, cảm thấy như bước đến gần thần chết hơn. Trong lúc nói chuyện với O'Brien, trước khi hiểu được toàn bộ ý nghĩa câu chuyện, anh cảm thấy ớn lạnh khắp người. Anh thấy như đang bước chân vào huyệt mộ ẩm ướt, dù trước đây anh đã biết rằng nghĩa địa không xa, nó vẫn đợi chờ anh, nhưng hiểu biết cũng chẳng giúp được gì.
VII.
Winston thức giấc, nước mắt lưng tròng. Julia lăn sát vào anh, miệng lẩm bẩm câu gì đó, đại loại như: "Có việc gì thế?"
"Anh mơ", anh bắt đầu nhưng vội ngừng ngay. Khó quá, không thể diễn tả thành lời. Có một giấc mơ, và sau đó là hồi ức, liên quan đến giấc mơ đó, diễn ra trong mấy giây sau khi đã tỉnh.

Anh lại nằm xuống, mắt vẫn nhắm, ý thức vẫn chìm trong mơ. Một giấc mơ trải dài, trong sáng, toàn bộ cuộc đời anh hiện lên trước mặt như phong cảnh buổi chiều hè sau cơn mưa vậy. Câu chuyện xảy ra trong cái chặn giấy bằng thuỷ tinh, nhưng bề mặt của nó lại là bầu trời, bên dưới bầu trời một luồng ánh sáng dìu dịu bao trùm khắp mọi vật, có thể nhìn thấy cả không gian bao la phía trước. Nguyên nhân của giấc mơ, có thể một phần nội dung của nó chính là động tác đưa tay lên của mẹ, ba mươi năm sau được một người phụ nữ Do Thái, trong bộ phim thời sự, lặp lại, khi bà ta giơ tay che đạn cho đứa con nhỏ trước khi cả hai bị máy bay bắn tan ra từng mảnh.
"Em biết không?", Winston nói. "Trước đây anh cứ nghĩ là mình giết mẹ đấy"
"Tại sao lại giết?", Julia hỏi, cô vẫn chưa tỉnh hẳn.
"Anh không giết. Về mặt thể xác thì không"
Trong mơ anh nhớ đã trông thấy mẹ lần cuối và ngay sau khi thức giấc tất cả các sự kiện ngày hôm đó lần lượt hiện về trong trí não. Chắc là nhiều năm qua anh đã cố tình gạt khỏi tâm trí đoạn hồi ức này. Anh không biết chính xác khi nào, nhưng ít nhất lúc đó anh đã lên mười, có thể mười hai.
Bố biến mất từ trước, mấy năm trước thì anh không nhớ. Hoàn cảnh sống khó khăn, lộn xộn thời đó thì anh nhớ rõ: vài hôm lại bị không kích, phải chạy xuống ga tầu điện ngầm, đổ nát hoang tàn hiện diện khắp nơi, những lời hiệu triệu khó hiểu dán đầy các góc phố, đâu cũng thấy các nhóm thanh niên mặc đồng phục, những hàng người dài lê thê bên ngoài hiệu bánh mì, tiếng súng máy từ xa vọng lại, nhưng trên hết là không bao giờ được ăn no. Anh vẫn nhớ đã cùng với những đứa trẻ khác chiều nào cũng đi bới các đống rác để tìm những cái lá bắp cải, vỏ khoai tây, đôi khi cả vỏ bánh mì thiu, rồi

cạo sạch những chỗ cháy quá đi; hoặc ngồi đợi những cái xe tải chở thức ăn gia súc chạy ngang những con đường nhất định, những cái xe này thường hay đánh rơi bánh khô dầu trên những đoạn đường xóc.
Mẹ không hề tỏ ra ngạc nhiên hay quá đau khổ khi cha mất, nhưng trở thành một người khác hẳn. Không còn chút sinh khí nào. Ngay Winston cũng biết rằng bà đang chờ một cái gì đó, không thể tránh khỏi, sắp sửa xảy ra. Bà vẫn làm việc như mọi khi: nấu ăn, giặt giũ, sửa chữa, dọn giường, quét nhà, lau bụi; nhưng làm rất chậm, không một động tác thừa nào, y như người máy vậy. Cái cơ thể cao to và cân đối của bà dường như đã rơi vào trạng thái bất động. Có khi bà ngồi mấy tiếng liền trên giường, tay bế cô em, lúc đó chừng hai hay ba tuổi, nhỏ xíu, ốm yếu, mặt quắt lại y như một con khỉ. Thỉnh thoảng bà lại ôm lấy Winston, ghì chặt anh vào lòng rất lâu, nhưng không nói gì. Dù còn bé, dù ích kỉ anh cũng đã biết rằng chuyện này có liên quan đến cái điều, tuy bà không bao giờ nói, nhưng chắc chắn sẽ xảy ra nay mai.
Anh vẫn nhớ căn phòng họ sống lúc đó, tối tăm, ngột ngạt, cái giường phủ vải trắng chiếm đến một nửa diện tích. Trong phòng có bếp ga, chạn bát và bên ngoài, trên chiếu nghỉ cầu thang có một cái bồn tắm bằng gốm màu nâu, chung cho mấy gia đình. Anh vẫn nhớ thân hình quí phái của mẹ đang cúi xuống khuấy cái gì trong chảo trên bếp ga. Nhưng nhớ nhất là cảm giác đói triền miên và những vụ tranh chấp nhỏ nhoi nhưng vô cùng dữ dội quanh bàn ăn. Anh thường mè nheo, lần nào cũng hỏi sao ít thức ăn thế, anh thường hò hét, quát tháo mẹ (anh vẫn còn nhớ cả giọng của mình, vỡ sớm và đôi khi trầm rất lạ), thỉnh thoảng anh còn khóc lóc, van vỉ đòi thêm. Mẹ thường cho anh phần hơn. Mẹ coi việc đó là đương nhiên vì anh là "con trai", anh phải được phần nhiều nhất, thế nhưng càng cho anh càng vòi thêm. Lần nào bà cũng dỗ ngọt rằng đừng có ích kỉ thế, rằng còn có em gái, mà em thì lại đang ốm, em cũng cần ăn, nhưng không ăn thua. Anh thường gào khóc, giằng lấy thìa và chảo hay chộp lấy một miếng từ đĩa của em. Anh biết rằng vì anh mà mẹ và em bị đói nhưng không thể sửa được, thậm chí còn cho rằng mình có quyền làm như thế. Đói quá, lúc nào bụng cũng cồn cào, không chịu nổi nên anh mới làm thế chứ có phải tại anh đâu. Giữa ngày, hễ mẹ quay mặt đi là y như rằng anh nhón một ít thức ăn trên chạn.

Một hôm có phiếu chocolate. Mấy tuần hoặc mấy tháng mới có đấy. Anh nhớ rất rõ cái miếng chocolate nhỏ xíu, ngon lành đó. Ba người được hai ounce [1] (khi đó vẫn dùng đơn vị ounce). Không cần nói cũng biết là phải chia làm ba phần đều nhau. Bất thình lình, Winston nghe thấy giọng mình oang oang, cứ như thể người nào đó nói chứ không phải anh, đòi cả thanh kẹo. Mẹ bảo không được tham ăn. Sau đó là cuộc tranh cãi kéo dài, giằng co, thôi thì đủ: quát tháo, than van, nước mắt, thuyết phục, mặc cả. Cô em bé nhỏ bám chặt lấy mẹ, y hệt một con khỉ con, ngoái cổ nhìn anh bằng đôi mắt to và buồn. Cuối cùng mẹ bẻ ba phần tư thanh kẹo và đưa cho Winston, phần tư còn lại đưa cho em. Cô bé cầm mẩu kẹo, mắt nhìn đăm đăm, có khi còn chưa biết đấy là cái gì. Winston đứng theo dõi một lúc. Rồi bất ngờ lao tới, giằng mẩu chocolate từ tay cô em và chạy mất.
"Winston, Winston!", mẹ gọi. "Quay lại đây! Trả kẹo cho em!"
Anh dừng lại, nhưng không quay về. Cặp mắt lo lắng của mẹ nhìn thẳng vào anh. Ngay lúc đó bà vẫn suy nghĩ về cái điều chắc chắn sắp sửa xẩy ra, nhưng Winston không biết đấy là cái gì. Cô em thấy bị cướp, tủi thân, thút thít khóc. Mẹ đưa tay ghì chặt cô bé vào ngực. Nhìn động tác của mẹ anh đoán rằng em đang hấp hối. Anh quay lưng và chạy xuống thang gác, tay vẫn giữ chặt thanh chocolate đang nhũn ra.
Anh không bao giờ gặp lại mẹ nữa. Sau khi nuốt trọn thanh kẹo anh bỗng cảm thấy xấu hổ, thế là anh lang thang trên phố mấy tiếng đồng hồ liền, mãi đến khi đói quá không chịu nổi mới quay về nhà. Khi về đến nhà thì me đã biến mất rồi. Thời đó chuyện này là bình thường. Mọi thứ vẫn y như cũ, chỉ có mẹ và em là không thấy đâu. Mẹ không mang theo thứ gì, kể cả áo bành tô cũng để ở nhà. Đến tận bây giờ anh cũng không biết chắc là mẹ còn sống hay đã chết. Không loại trừ khả năng là bà chỉ bị đưa vào trại lao động khổ sai thôi. Còn cô em, có thể cô cũng được gửi vào trại dành cho trẻ vô gia cư (gọi là các Trung tâm giáo dưỡng), giống như anh; sau chiến tranh có nhiều trẻ vô gia cư lắm; mà cũng có thể người ta đã cho em đi cùng với mẹ hay bỏ

cho chết ở đâu đó rồi.
Giấc mơ vẫn còn đọng lại một cách sống động trong tâm trí, đặc biệt là hình ảnh cánh tay bảo bọc, che chắn của mẹ; có thể ý nghĩa của giấc mơ nằm ở đó. Anh chợt nhớ một giấc mơ khác, xảy ra cách đó hai tháng. Trong giấc mơ hôm nay mẹ ngồi trên cái giường bẩn thỉu, lót vải trắng, tay ôm em bé, thì lần đó mẹ ngồi trên một con tầu đang chìm dần, rất sâu bên dưới, mỗi lúc lại chìm xuống sâu hơn, nhưng vẫn nhìn anh qua làn nước đen.
Anh kể cho Julia chuyện mất mẹ. Mắt vẫn nhắm, cô lăn qua lăn lại để duỗi thẳng người ra.
"Em nghĩ chắc lúc bé anh tham ăn lắm", cô lẩm bẩm. "Trẻ con đưa nào chẳng thế"
"Ừ. Nhưng cái chính là...."
Chỉ nghe hơi thở có thể biết là cô đã lại thiếp đi rồi. Anh rất muốn tâm sự với cô về mẹ. Theo như anh nhớ thì mẹ không phải là một người phụ nữ đặc biệt, cũng không thông minh, nhưng rõ ràng bà là một người cao thượng, trong sáng vì bà có những chuẩn mực đạo đức riêng. Tình cảm của bà là của riêng bà, không ai ép buộc được. Bà không bao giờ nghĩ rằng một hành động không có kết quả là một hành động vô nghĩa. Yêu là yêu, ngay cả khi không có gì để cho thì vẫn có thể dành cho người đó tình yêu của ta. Không còn chocolate thì bà ôm ghì em bé vào lòng. Không có ích gì, không thay đổi được gì, hành động đó không làm ra chocolate, không cứu được cả em bé, cả bà khỏi chết; nhưng đối với bà đây là hành động tự nhiên, đương nhiên phải làm thế. Người đàn bà tị nạn trên thuyền cũng đưa tay ra che cho đứa nhỏ, dù rằng đối với đạn thì bàn tay có hơn gì một tờ giấy. Điều khủng khiếp nhất mà Đảng đã làm là thuyết phục ta rằng tự thân tình cảm, tự thân nhiệt huyết

chẳng có giá trị gì, trong khi cướp hết quyền của ta đối với thế giới vật chất. Khi đã rơi vào móng vuốt của Đảng thì ta nghĩ gì hay không nghĩ gì, ta làm gì hay chẳng làm gì đều không quan trọng. Không chóng thì chày ta sẽ bị xoá sổ, không còn ai nhắc đến ta hay việc ta đã làm nữa. Ta sẽ bị xoá sạch khỏi tiến trình của lịch sử. Người cách đây vài thế hệ chẳng quan tâm đến chuyện này vì họ đâu có định viết lại lịch sử. Họ liên kết với nhau bằng lòng trung thành mang tính cá nhân và không bao giờ đặt vấn đề hay nghi ngờ chuyện đó. Quan trọng là quan hệ giữa các cá nhân với nhau và một cử chỉ hoàn toàn bất lực, một cái nắm tay, một giọt nước mắt, một lời động viên với người hấp hối đều là đáng quí, tự thân chúng đã là giá trị. Bọn cu li, anh chợt nghĩ, vẫn còn giữ được như xưa. Chúng không trung thành với Đảng, với nước, với lí tưởng; chúng trung thành với nhau. Đây là lần đầu tiên anh không còn khinh cu li nữa, không còn nghĩ đến họ như một bọn người hủ lậu, sẽ có ngày vùng lên và thiết lập lại thế giới nữa. Bọn cu li vẫn còn là người. Họ chưa bị hóa đá từ bên trong. Họ vẫn còn giữ được những tình cảm đơn sơ mà anh phải học lại một cách có chủ đích. Vừa nghĩ như thế anh vừa nhớ lại cách đây mấy tuần anh đã đá một bán tay đứt lìa xuống rãnh nước như đá một cái lõi bắp cải.
"Cu li là người", anh nói thành tiếng. "Ta không phải là người"
"Tại sao không?", Julia hỏi, cô đã lại thức giấc.
Anh đắn đo vài giây rồi nói:
"Em có bao giờ nghĩ rằng tốt nhất là chúng ta nên ra khỏi đây trước khi quá muộn và không bao giờ gặp lại nhau nữa không?"
"Có, anh yêu, nhiều lần rồi. Nhưng dù thế nào thì em vẫn sẽ tìm gặp anh".

"Chúng ta đã gặp may, nhưng chuyện này chẳng thể kéo dài mãi được. Em còn trẻ. Em trông còn bình thường, còn trong trắng. Nếu em tránh xa loại người như anh thì em có thể còn sống được chừng năm mươi năm nữa".
"Không. Em đã suy nghĩ kĩ rồi. Anh làm gì em sẽ làm nấy. Đừng buồn. Để sống không phải là vấn đề khó đối với em.
"Chúng ta có thể được ở bên nhau sáu tháng, có thể là một năm, ai mà biết được. Nhưng cuối cùng thì vẫn phải chia lìa thôi. Em có tưởng tượng chúng ta sẽ cô đơn như thế nào không? Khi họ bắt được chúng ta thì không còn gì, tuyệt đối không còn gì, anh chẳng làm gì được cho em, mà em cũng chẳng làm gì được cho anh. Anh thú nhận thì chúng sẽ bắn em, mà anh không thú nhận thì chúng cũng bắn em. Dù anh có làm gì, nói gì hay không nói gì đi nữa thì em cũng chẳng sống thêm được quá năm phút. Anh không biết em sống hay chết, em cũng chẳng biết anh sống hay chết. Chúng ta sẽ bất lực, hoàn toàn bất lực. Quan trọng là chúng ta sẽ không phản bội nhau, dù chuyện đó cũng chẳng thay đổi được gì".
"Nếu anh nói thú nhận thì anh ơi, chúng ta sẽ thú nhận hết. Mọi người đều thú nhận cả. Chẳng làm thế nào được đâu. Chúng sẽ tra tấn đấy".
"Anh không nói thú nhận. Thú nhận không phải là phản bội. Nói hay không không quan trọng, quan trọng là tình cảm. Nếu chúng buộc được anh không yêu em nữa thì đấy chính là phản bội thật sự".
Cô suy nghĩ vài giây.

"Chúng không thể làm thế được", cuối cùng cô thốt lên. "Chúng không thể làm được chuyện đó. Chúng có thể buộc anh nói bất cứ thứ gì - bất cứ thứ gì - nhưng tin thì lại là chuyện khác. Chúng không thể chui vào bụng anh được".
"Ừ", anh nói, có vẻ tự tin hơn. "Ừ, đúng thế đấy. Chúng không thể chui vào bụng ta được. Nếu ta cảm thấy làm người là đáng giá, dù chuyện đó cũng chẳng mảy may thay đổi được gì thì chúng vẫn thua".
Anh nghĩ đến cái màn vô tuyến với bộ phận thu thanh thường trực hai bốn trên hai bốn giờ mỗi ngày. Chúng có thể theo dõi suốt ngày đêm, nhưng nếu tỉnh giác ta vẫn có thể lừa được chúng. Dù khôn khéo đến đâu chúng cũng không thể nào biết được ta đang nghĩ gì. Rơi vào tay chúng rồi thì lại là chuyện khác. Không ai biết người ta làm gì trong Bộ Tình Yêu, chỉ có thể đoán: tra tấn, thuốc phiện, các dụng cụ tinh vi có thể ghi được phản ứng của hệ thần kinh, làm cho kiệt sức vì mất ngủ, cô đơn và bị hỏi cung liên tục. Các sự kiện thì không thể nào dấu được rồi. Chúng sẽ lần ra bằng cách hỏi cung, chúng sẽ tra tấn cho bằng đượ mới thôi. Nhưng nếu mục đích không phải là sống mà là tiếp tục làm người thì lại khác, chúng làm gì được ta? Chúng không thể thay đổi được tình cảm của ta, ta còn không thay đổi được tình cảm của mình nữa là chúng. Chúng có thể lôi ra tất cả mọi thứ, chúng có thể biết tường tận ta đã làm gì, nói gì, nghĩ gì, nhưng tâm hồn ta, cơ chế hoạt động của nó là một điều bí ẩn đối với chính ta, sẽ không kẻ nào xâm nhập vào được.
[1]Ounce – Đơn vị đo trọng lượng, bằng 28,35 gram.

VIII.
Tới rồi, cuối cùng ta đã tới được đây rồi!
Hai người đứng trong một căn phòng dài, không sáng quá, nhưng cũng không tối. Màn vô tuyến được vặn nhỏ nghe như tiếng thì thầm, tấm thảm mềm đến nỗi có cảm giác như đang bước trên nhung. Ở đầu kia căn phòng là O'Brien, anh ta ngồi bên bàn viết, dưới ánh sáng của cái đèn có chụp màu xanh, hai bên là hàng đống giấy tờ. Anh ta không thèm ngẩng lên khi người đầy tớ giới thiệu Julia và Winston.
Tim Winston đập rộn lên, anh ngờ là mình sẽ không thể thốt thành lời. Tới rồi, cuối cùng ta đã tới, anh chỉ nghĩ được mỗi thế mà thôi. Đi đến đây một mình đã là liều rồi, đi hai người cùng một lúc thì rõ là điên; nhưng thực ra họ đi bằng những đường khác nhau và chỉ mới gặp nhau ngay cửa phòng O'Brien thôi. Vào đây là cả vấn đề. Ít người có dịp nhìn thấy nội thất của các đảng viên Đảng Nội Bộ, lọt vào khu vực họ sống cũng đã khó. Toàn bộ khung cảnh của một toà nhà to lớn trang bị đủ thứ mà cái nào trông cũng hoành tráng, mùi thức ăn ngon, thuốc lá ngon, thang máy vừa nhanh vừa không ồn, cảnh những người đầy tớ đi lại tất bật; chỉ thế cũng đủ ngợp rồi. Mặc dù có đủ cơ sở để đến đây, nhưng cảm giác sợ hãi vẫn không buông tha anh: một tên vệ binh áo đen bỗng chui ra từ một khúc quanh nào đó, hắn sẽ soát giấy tờ và bảo đằng sau quay. Nhưng người đầy tớ của O'Brien đã mời hai người vào ngay. Anh ta là một người nhỏ bé, tóc đen, mặt trái xoan, hoàn toàn vô cảm, có lẽ là người gốc Trung Hoa. Hành lang họ đi qua được trải thảm dày, hai bên tường dán giấy bồi màu kem, bên dưới đóng lam bri màu trắng, không một hạt bụi. Ở đây còn choáng ngợp hơn. Winston chưa thấy một một hành lang nào sạch sẽ như thế.
O'Brien cầm một mảnh giấy và có vẻ như đang chăm chú đọc. Bộ mặt đầy đặn của anh ta hơi cúi, có thể nhìn rõ sống mũi, vừa dữ dằn vừa thông thái.

Anh ta ngồi bất động như thế chừng hai mươi giây. Sau đó anh ta kéo cái micro lại gần và bắt đầu xổ ra hàng tràng tiếng lóng:
"Mục một phảy mục năm phảy mục bảy đồng ý hoàn toàn chấm đề nghị mục sáu hai cộng sai biên tội tưởng huỷ chấm không tiếp tục cho đến khi nhận được số liệu cộng vượt kế hoạch chế tạo máy chấm kết thúc"
Anh ta thong thả đứng lên và đi về phía hai người. Trông anh ta đã bớt trịnh trọng, nhưng nét mặt lại cau có hơn mọi khi, có vẻ như anh ta không thích bị quấy rầy. Winston vốn đã sợ, nay càng lúng túng thêm. Anh có cảm giác như vừa mắc một sai lầm nghiêm trọng. Điều gì chứng tỏ O'Brien đang dự phần vào một âm mưu chính trị? Một ánh mắt và câu nói nước đôi, thế thôi, còn lại tất cả đều là trí tưởng tượng dựa trên những giấc mơ mà thôi. Anh không thể giả vờ nói là đến mượn cuốn từ điển vì như vậy Julia đi theo làm chi? O'Brien chợt nhớ chuyện gì đó khi bước ngang qua màn vô tuyến. Anh ta dừng lại và lấy tay bấm một cái nút trên tường. Có một tiếng tách nhỏ. Giọng nói im bặt
Julia khẽ rít lên vì kinh ngạc. Dù rất hoảng sợ, Winston cũng sửng sốt đến mức không nén nổi, anh thốt lên:
"Anh có thể tắt được à?"
"Được", O'Brien đáp, "Chúng tôi có thể tắt được. Chúng tôi được ưu tiên".
Anh ta đã đứng ngay trước mặt hai người. Thân hình to lớn đồ sộ của anh ta cao vượt hẳn hai người, còn nét mặt thì vẫn bí hiểm như cũ. Anh ta vẫn lạnh lùng chờ cho Winston nói, nhưng nói gì đây? Ngay lúc này vẫn có thể thấy

O'Brien là người bận bịu và đang bực mình vì bị quấy rầy không đúng lúc. Không ai nói gì. Màn vô tuyến đã bị tắt, xung quanh lặng ngắt như tờ. Từng giây trôi qua, nặng nề. Winston vận hết sức lực nhìn chằm chằm vào mắt O'Brien. Bất ngờ khuôn mặt cau có của gia chủ như giãn ra, có vẻ như sắp mỉm cười. O'Brien đưa tay sửa kính theo thói quen.
"Tôi bắt đầu hay anh đây?", O'Brien mở đầu câu chuyện.
"Để tôi nói", Winston phấn chấn đáp. "Đã tắt thật chưa?"
"Tắt hết rồi. Chỉ có chúng ta với nhau thôi"
"Chúng tôi đến đây vì..."
Anh cảm thấy ngắc ngứ vì chợt nhận ra động cơ của mình thật mơ hồ. Anh không biết O'Brien sẽ giúp được gì, giải thích lí do đến đây cũng không phải chuyện dễ. Anh tiếp tục nói dù cảm thấy câu nói vừa thiếu thuyết phục vừa huyênh hoang.
"Chúng tôi nghĩ có một tổ chức chống Đảng và anh là thành viên. Chúng tôi muốn tham gia hoạt động. Chúng tôi là kẻ thù của Đảng. Chúng tôi không tin nguyên tắc của Chuanh. Chúng tôi là tội phạm tư tưởng. Chúng tôi là những kẻ trụy lạc. Tôi nói như thế vì chúng tôi muốn giao phó cuộc đời cho anh. Nếu anh còn muốn chúng tôi thú nhận những tôi lỗi nào khác, chúng tôi cũng sẵn sàng"
Anh ngừng bặt và ngoái lại nhìn vì cảm giác có người mở cửa. Đúng thế, tên

đầy tớ nhỏ thó, da vàng vừa bước vào mà không gõ cửa. Winston trông thấy hắn bê một cái mâm trên đặt bình rượu và mấy cái li.
"Martin là người mình", O'Brien giải thích. "Martin, mang lại đây. Bày lên cái bàn tròn kia kìa. Có đủ ghế chưa? Nào, mời ngồi xuống đây nói chuyện. Martin, lấy thêm một cái ghế nữa cho anh đi. Đây là công chuyện. Anh có thể nghỉ làm đầy tớ trong vòng mười phút"
Con người nhỏ bé đó ngồi xuống, dáng điệu tự nhiên, nhưng đồng thời vẫn thấy toát ra dáng vẻ cung kính, dáng vẻ của một tên đầy tớ được chủ vỗ về. Winston khẽ liếc mắt quan sát thái độ của anh ta. Anh chợt nghĩ rằng con ngươi này đã đóng mãi một vai và bây giờ cảm thấy sợ, không dám bỏ vai dù chỉ vài phút. O'Brien cầm lấy cổ bình và rót đầy mấy cái li một loại nước màu đỏ đậm. Winston bỗng lờ mờ nhớ đã trông thấy, lâu rồi, ở đâu đó, trên tường hay trên hàng rào, một cái chai rất to kết bằng bóng đèn điện, cái chai cứ nâng lên hạ xuống như đang rót ra li vậy. Nhìn từ phía trên thì nước có màu đen, nhưng ở trong bình thì nó lại lấp lánh như màu hồng ngọc. Mùi chua chua, ngọt ngọt. Julia đưa cái li lên mũi và ngửi có vẻ rất tò mò.
"Đây gọi là rượu vang", O'Brien vừa nói vừa khẽ mỉm cười. "Chắc chắn các bạn đã đọc về nó rồi.Tôi nghĩ đảng viên Đảng Ngoại Vi ít được phân phối loại rượu này". Nét mặt anh ta lại trở nên trang nghiêm."Tôi nghĩ chúng ta phải nâng cốc chúc sức khoẻ. Nào xin nâng cốc chúc sức khoẻ lãnh tụ, đồng chí Emannuel Goldstein kính mến của chúng ta!"
Winston từ tốn nâng li. Anh đã từng đọc, đã từng mơ thấy rượu vang. Giống như cái chặn giấy bắng thuỷ tinh hay những bài đồng dao của ông Charrington, rượu vang thuộc về một thời quá khứ lãng mạn, đã bị xóa bỏ, thuộc về một thời vàng son, như anh vẫn thầm gọi. Không hiểu sao anh lại nghĩ là rượu vang rất ngọt, giống như mứt mâm xôi và uống vào là say ngất ngây ngay. Nhưng hoá ra anh đã thất vọng. Anh đã quen uống Gin rồi, mùi vị này không hợp. Anh đặt cái li không xuống bàn.

"Có một người tên là Goldstein thật ư?", anh hỏi
"Có, có một người như vậy, còn sống. Ở đâu thì tôi không biết"
"Thế còn âm mưu, thế còn tổ chức? Có thật không? Không phải là sản phẩm của Cảnh Sát Tư Tưởng chứ?"
"Không, có thực. Gọi là Huynh Đệ. Các vị sẽ chỉ biết rằng có một tổ chức tên là Huynh Đệ và các vị là thành viên của nó, thế thôi. Tôi sẽ còn quay lại vấn đề này – Ngay cả đảng viên Đảng Nội Bộ cũng không nên tắt màn vô tuyến quá nửa tiếng. Các bạn không nên đi chung và các bạn sẽ rời đây từng người một. Đồng chí – anh ta nghiêng người về phía Julia - đồng chí sẽ đi về trước. Chúng ta còn khoảng hai mươi phút. Các bạn cũng hiểu là tôi phải hỏi mỗi người vài câu. Nói chung, các bạn đã sẵn sàng làm những việc gì?"
"Tất cả những việc phù hợp với năng lực", Winston đáp.
O'Brien quay lại phía Winston. Anh ta không để ý đến Julia vì cho rằng Winston sẽ nói thay cho cả cô. Anh ta nhắm mắt lại trong vài giây. Sau đó anh ta bắt đầu hỏi, giọng nhỏ, không sinh khí, như đã học thuộc lòng, như sách; câu trả lời dường như cũng đã biết rồi.
"Các vị sẵn sàng hi sinh tính mạng?"
"Sẵn sàng."

"Các vị có sẵn sàng sát sinh?"
"Sẵn sàng."
"Sẵn sàng làm việc phá hoại có thể giết hàng trăm người vô tội?"
"Sẵn sàng."
"Sẵn sàng bán nước, làm tay sai cho ngoại bang?"
"Sẵn sàng."
"Sẵn sàng lừa bịp, làm tài liệu giả, tống tiền, mua chuộc trẻ con, reo rắc các chất ma tuý, thúc đẩy nạn mại dâm, reo rắc các bệnh hoa liễu, nghĩa là làm tất cả nhằm làm băng hoại đạo đức xã hội và phá hoại Đảng?"
"Sẵn sàng."
"Nếu, thí dụ, vì mục đích của chúng ta mà phải hắt axit xunphuaric vào mặt một đứa trẻ thì anh có sẵn sàng không?"
"Sẵn sàng."

"Anh có sẵn sàng thay hình đổi dạng và làm một người hầu bàn hay công nhân bốc xếp suốt đời không?"
"Sẵn sàng."
"Anh có sẵn sàng tự sát khi được lệnh không?"
"Sẵn sàng."
"Hai người có sẵn sàng chia tay và vĩnh viễn không bao giờ gặp nhau nữa không?"
"Không!", Julia bỗng xen vào.
Winston có cảm tưởng như phải một lúc lâu sau anh mới trả lời được. Có một lúc anh tưởng như mình mất khả năng phát âm. Lưỡi cứ đưa qua đưa lại, không thành tiếng, định nói âm này rồi lại chuyển sang âm khác, cứ thế không biết bao nhiêu lần. Trước khi bật thành lời anh cũng không biết mình sẽ nói gì.
"Không", cuối cùng anh đã nói được.
"Tốt quá, các vị đã nói rõ ý mình, thế là rất tốt. Chúng tôi phải nắm được

hết"
O'Brien quay sang phía Julia, giọng có vẻ tình cảm hơn.
"Ngay cả khi anh ta thoát được, thì anh ta cũng có thể phải trở thành một người hoàn toàn khác, chị hiểu chứ? Có thể chúng tôi sẽ phải thay đổi nhân dạng anh ta. Nét mặt, động tác, hình thù bàn tay, màu tóc... ngay cả giọng nói cũng có thể khác. Cả chị nữa, chị cũng có thể phải trở thành một người hoàn toàn khác với bây giờ. Các bác sĩ phẫu thuật của chúng tôi có thể thay hình đổi dạng một người đến mức không còn ai nhận ra được. Đôi khi cần cả những biện pháp đó. Đôi khi chúng tôi phải cắt bỏ cả chân tay đi nữa"
Winston tò mò liếc nhìn khuôn mặt của Martin. Không thấy vết sẹo nào. Mặt Julia trắng bệch ra, các nốt tàn nhang càng nổi rõ hơn, nhưng cô vẫn nhìn thẳng vào O'Brien. Cô thì thầm câu gì đó nghe như một lời khẳng định.
"Tốt. Coi như đã giải quyết xong"
Có một cái hộp đựng thuốc lá bằng bạc đặt trên bàn. O'Brien lơ đãng đẩy hộp thuốc về phía hai người rồi tiện tay cầm một điếu, sau đó anh ta đứng lên, chậm rãi đi đi lại lại, có vẻ như khi đứng suy nghĩ sẽ mạch lạc hơn vậy. Thuốc rất ngon, điếu to, quấn chặt, giấy mịn. O'Brien lại nhìn đồng đeo tay.
"Martin, anh xuống bếp đi", O'Brien bảo. "Mười lăm phút nữa tôi sẽ bật vô tuyến. Trước khi đi anh hãy nhìn kĩ mặt các đồng chí này đi. Anh sẽ còn gặp lại họ đấy, tôi thì có thể không"
Cũng như lúc mới vào, người đàn ông nhỏ bé đó nhìn lướt qua mặt hai người một lượt. Không một chút tình cảm nào. Hắn ta nhớ mặt hai người, nhưng

không hề quan tâm hoặc tỏ ra không quan tâm. Winston chợt nghĩ hay là mặt hắn làm bằng chất dẻo, không có xúc cảm. Martin đứng lên, không nói, cũng chẳng chào ai; hắn lặng lẽ đóng cửa và bước ra khỏi phòng. O'Brien vẫn đi đi lại lại, một tay cho vào túi áo đồng phục đen, tay kia cầm điếu thuốc.
"Đồng chí phải hiểu rằng", anh ta nói, "đồng chí sẽ chiến đấu trong bóng tối. Đồng chí luôn luôn ở trong bóng tối. Đồng chí sẽ nhận được mệnh lệnh và sẽ thực hiện mà không biết tại sao. Sau này tôi sẽ gửi cho đồng chí một cuốn sách, đồng chí sẽ hiểu rõ thực chất xã hội mà chúng ta đang sống và đường lối chiến lược để lật đổ nó của chúng ta. Sau khi đọc xong cuốn sách thì đồng chí sẽ trở thành thành viên chính thức của Huynh Đệ. Nhưng đồng chí chỉ được biết mục đích chung của cuộc đấu tranh và những nhiệm vụ cụ thể, ngoài ra là bí mật. Tôi nói với đồng chí Huynh Đệ là có, nhưng tôi không thể nói với đồng chí nó có một trăm hay một triệu thành viên. Cá nhân đồng chí chỉ có thể biết chừng mươi người. Đồng chí sẽ liên lạc với ba hoặc bốn người; người nào mất thì sẽ có người khác thay. Vì đây là địa chỉ liên hệ đầu tiên của đồng chí nên về sau đồng chí cứ đến đây. Tất cả mọi nhiệm vụ của đồng chí đều là do tôi giao. Chúng tôi sẽ liên hệ với đồng chí, khi cần, thông qua Martin. Khi bị bắt đồng chí sẽ khai. Không ai tránh được. Nhưng đồng chí chẳng thể khai gì, ngoại trừ vài việc do chính đồng chí làm. Đồng chí chỉ có thể khai ra vài người không quan trọng. Tôi đồng chí cũng không thể khai được. Lúc đó có thể tôi đã chết rồi, hoặc đã biến thành một người khác, với khuôn mặt khác rồi"
Anh ta tiếp tục bước trên tấm thảm dày. Thân hình tuy đồ sộ nhưng dáng đi của anh ta lại rất uyển chuyển. Uyển chuyển cả trong cách đút tay vào túi, cả trong cách vẩy điếu thuốc lá. Toàn thân anh ta toát ra sức mạnh, nhưng trên hết là lòng tự tin, là trí thông minh và khôi hài. Nhưng dù tỏ ra rất nghiêm túc, trông anh ta không có vẻ thiển cận như đa số những kẻ cuồng tín khác. Ngay khi nói về việc giết người, tự sát, bệnh da liễu, cắt chân tay, thay hình đổi dạng, giọng anh ta vẫn có cái gì đó như là giễu cợt. "Không thể nào tránh được – có vẻ như anh ta muốn nói – Chúng tôi sẽ làm thế, khi cần, không run tay đâu. Nhưng chúng tôi sẽ không làm thế nếu cuộc đời còn đáng sống". Lòng kính yêu, thán phục, gần như sùng bái trào dâng trong lòng Winston. Lúc đó anh gần như quên hẳn hình ảnh mờ nhạt của Goldstein. Khi nhìn vào

đôi vai rắn rỏi, khuôn mặt đầy đặn, thô nhưng rất trí thức của O'Brien, không ai có thể nghĩ rằng anh ta có thể gặp thất bại. Anh ta có thể phát hiện được mọi âm mưu, anh ta có thể nhìn thấy trước mọi hiểm nguy. Ngay Julia cũng phải thán phục. Cô chú ý nghe, điếu thuốc trên tay tắt từ lâu.
"Chắc chắn các đồng chí đã nghe nói đến Huynh Đệ. Các đồng chí đã tự hình dung ra nó ở trong đầu. Có thể các đồng chí nghĩ rằng đấy là một tổ chức của những kẻ âm mưu, gặp nhau dưới tầng hầm, viết khẩu hiệu lên tường, nhận ra nhau nhờ mật khẩu hay một cái vung tay. Không phải vậy đâu. Các đảng viên của Huynh Đệ không thể nhận ra nhau, mỗi người chỉ biết vài người khác. Ngay cả nếu Goldstein có rơi vào tay Cảnh Sát Tư Tưởng thì ông cũng không thể cung cấp cho chúng danh sách toàn bộ đảng viên hoặc bất cứ thông tin gì để chúng có thể lập được danh sách này. Không có bản danh sách như vậy trên đời. Huynh Đệ không thể bị xóa sổ vì đây không phải là một tổ chức theo đúng nghĩa của từ này. Mối liên kết duy nhất của nó là tư tưởng mà tư tưởng thì không thể xóa được. Điểm tựa duy nhất của anh là tư tưởng. Không có tình đồng chí, không có ai nâng đỡ anh hết. Đừng có mong ai giúp đỡ, nếu bị bắt. Chúng tôi không giúp đỡ các đảng viên. Khi thật sự cần ai đó im lặng thì chúng tôi cũng chỉ có thể đưa vào phòng giam cho người đó một lưỡi dao cạo râu là cùng. Anh phải tập làm quen với một đời sống không kết quả và cũng đừng hi vọng. Anh sẽ hoạt động một thời gian, anh sẽ bị bắt, sẽ thú nhận và sẽ chết. Kết cục là như thế đấy. Chúng ta sẽ chẳng được chứng kiến một thay đổi lớn nào đâu. Chúng ta đã là những thây ma. Cuộc sống thực sự của chúng ta là ở tương lai. Khi đó chúng ta sẽ chỉ còn là một nhúm tro hay nắm xương tàn mà thôi. Không ai biết bao giờ thì cái tương lai đó sẽ đến. Có thể phải cả ngàn năm nữa. Hiện thời việc duy nhất có thể làm là khai hóa một cách từ từ. Chúng ta không thể hành động theo lối tập thể. Chúng ta chỉ có thể truyền bá kiến thức từ người nọ đến người kia, từ thế hệ trước cho thế hệ sau. Không có cách nào khác vì các đồng chí phải nhớ rằng kẻ thù của chúng ta là Cảnh sát Tư Tưởng.
Anh ta ngừng lời và lại nhìn đồng hồ.
"Đến giờ đồng chí phải đi rồi", anh ta nói với Julia. "Đợi chút. Bình còn

rượu"
Anh ta rót đầy ba li
"Lần này nâng cốc vì gì đây?", anh ta nói, vẫn giọng khôi hài như cũ. "Chúc Cảnh Sát Tư Tưởng mắc sai lầm? Chúc Anh Cả chóng chết? Chúc tình nhân ái? Chúc cho tương lai?"
"Chúc cho quá khứ", Winston nói.
"Quá khứ quan trọng hơn", O'Brein long trọng tán thành.
Họ cạn li và Julia lập tức đứng lên. O'Brien lấy một cái hộp nhỏ từ trên mặt tủ thuốc, rồi đưa cho Julia viên thuốc màu trắng và bảo cô ngậm chứ đừng nuốt.
"Không được có mùi rượu vang", anh ta bảo. "Mấy người gác thang máy thính lắm"
Có vẻ như khi Julia vừa đóng cửa là anh ta đã quên ngay cô. Anh ta đi qua đi lại vài bước nữa rồi dừng hẳn.
"Có vài việc cụ thể cần giải quyết", anh ta bảo."Tôi nghĩ anh có một chỗ kín đáo chứ?"

Winston nói có một chỗ như thế, đấy là căn phòng phía trên cửa hàng của ông Charrington.
"Thời gian đầu như thế là được. Sau này chúng tôi sẽ tìm cho đồng chí một chỗ khác. Cần phải thường xuyên thay đổi địa chỉ. Còn hiện thời tôi sẽ cố gắng chuyển, trong thời gian sớm nhất, cho đồng chí cuốn sách của Goldstein"- Winston để ý thấy ngay O'Brien cũng nhấn mạnh khi phát âm từ cuốn sách – "Có thể vài hôm nữa tôi mới tìm được. Chắc đồng chí cũng biết, số lượng ít lắm. In bao nhiêu cũng không đủ, Cảnh Sát Tư Tưởng săn lùng và đốt bằng sạch. Nhưng không sao. Chúng không đốt hết được đâu. Nếu bản cuối cùng có bị đốt chăng nữa thì chúng tôi vẫn có thể viết lại gần như đúng từng từ một. Khi đi làm đồng chí có mang theo cặp không?", anh ta nói thêm.
"Thường là có"
"Trông thế nào?"
"Màu đen, cũ lắm rồi, hai khoá"
"Màu đen, hai khoá, rất cũ - tốt. Một ngày gần đây thôi, tôi chưa thể nói ngày nào, đồng chí sẽ thấy một từ in sai trong tờ giấy giao nhiệm vụ vào buổi sáng, đồng chí sẽ phải hỏi lại. Ngày hôm sau khi đi làm đồng chi đừng xách theo cặp. Trong ngày hôm đó, khi đồng chí đang đi trên đường thì sẽ có một người chạm vào tay và bảo: "Theo tôi, anh vừa đánh rơi cặp". Anh ta sẽ đưa cho đồng chí cái cặp trong đó có cuốn sách của Goldstein. Nửa tháng sau đồng chí sẽ phải trả cuốn sách"

Họ cùng lặng im trong vài giây.
"Đồng chí phải đi trong vài phút nữa", O'Brien nói. "Chúng ta sẽ gặp lại... ấy là nói nếu còn có dịp gặp lại..."
Winston nhìn thẳng vào mắt anh ta.
"Ở nơi không còn bóng tối nữa", anh lưỡng lự nói.
O'Brien gật đầu, không tỏ ra ngạc nhiên gì hết.
"Ở nơi không còn bóng tối nữa", anh ta nhắc lại, làm ra vẻ như hiểu được ẩn ý, "Bây giờ, trước khi ra về, đồng chí còn muốn nói gì? Muốn nhắn nhủ gì? Hỏi gì nữa không?"
Winston trầm ngâm. Không còn gì để hỏi nữa, càng không muốn nói những lời có cánh chung chung trước khi chia tay. Thay vì nghĩ đến O'Brien hay Huynh Đệ, trong đầu anh chợt hiện lên hình ảnh, đúng hơn, phải nói là hiện lên như một bức vẽ hình ảnh căn phòng tối tăm, nơi mẹ anh đã sống những ngày cuối cùng và căn phòng bên trên cửa hiệu của ông Charrington, rồi cái chặn giấy bằng kính và bức tranh khắc bằng thép trong cái khung gỗ xếp chồng lên nhau. Anh nói như vô tình:
"Anh có bao giờ nghe bài đồng dao bắt đầu như sau :"Cam cam chanh chanh là chuông Clement" không? "

O'Brien gật đầu. Rồi anh ta trịnh trọng đọc cả đoạn:
"Cam cam chanh chanh là chuông Clement. Nợ ba đồng xèng là chuông Martin.
Bao giờ trả đây? là chuông Barley
Đợi ngày rủng rỉnh là chuông Shoreditch"
"Anh có biết câu cuối cùng không?", Winston hỏi.
"Biết, tôi biết câu cuối cùng. Nhưng có lẽ anh phải đi thôi. Nhưng đợi chút. Để tôi đưa anh viên thuốc"
Khi Winston vừa đứng lên thì O'Brien đã đưa tay ra. Bàn tay hộ pháp của anh ta bóp Winston đau điếng. Ra đến ngưỡng cửa Winston còn ngoái lại, nhưng có vẻ như O'Brien đã nghĩ sang chuyện khác rồi. Anh ta đang đặt tay trên nút điều khiển màn vô tuyến. Sau lưng anh ta là cái bàn với chụp đèn màu xanh lam, cái máy ghi và cái giỏ đầy chặt giấy tờ. Thế là xong. Chỉ ba mươi giây nữa, Winston chợt nghĩ, O'Brien sẽ quay về với những công việc quan trọng của Đảng.
IX.
Winston mệt rã rời như một miếng thịt đông. Từ thịt đông rất hợp. Từ này xuất hiện một cách đột ngột, nhưng diễn tả đúng. Mình mẩy không chỉ rã rời

mà còn trong như một miếng thịt đông. Anh cảm thấy có thể nhìn xuyên qua được lòng bàn tay nếu đưa nó ra trước luồng ánh sáng. Công việc đã rút cạn máu huyết, chỉ còn lại da, xương và hệ thần kinh. Mọi cảm giác đều trở thành thái quá. Áo như cứa vào vai, mặt đường như cù vào chân, chỉ nắm lại đã nghe tiếng kêu lục cục trong các đốt ngón tay.
Anh đã làm việc tổng cộng chín mươi tiếng trong năm ngày liền. Mọi người trong Bộ đều làm như thế cả. Nhưng bây giờ xong rồi, tuyệt đối không phải làm gì, ít nhất là cho đến sáng mai. Anh có thể nghỉ sáu tiếng trong căn phòng bí mật và chín tiếng trên giường nhà mình. Nắng đã nhạt, anh bước một cách chậm rãi trên con phố bẩn thỉu để đến cửa hàng ông Charrington, mắt vẫn không ngừng quan sát xem có đội tuần tra nào không, nhưng thâm tâm anh biết rằng chiều nay sẽ không bị ai quấy rầy đâu. Cái cặp nặng cứ đập vào gối mỗi lần cất bước, làm cho bắp vế ngứa ran lên. Trong cặp có một cuốn sách, anh đã giữ nó sáu ngày rồi, nhưng chưa đọc, thậm chí chưa từng nhìn nó lần nào.
Trong ngày thứ sáu của Tuần Lễ Hận Thù, sau bao cuộc tuần hành, sau bao bài diễn văn, sau khi hò hét, sau khi hát hỏng, sau khi đã xem đủ thứ khẩu hiệu, biểu ngữ, phim ảnh, tượng sáp, sau khi đã nghe tiếng trống, tiếng kèn xung trận, tiếng xích xe tăng nghiến trên đường đá, tiếng gầm rú của những phi đội máy bay, tiếng súng đại bác chào mừng, sau sáu ngày liên tục như vậy, khi mà niềm phấn khích đã đạt tới đỉnh điểm, khi mà lòng hận thù Eurasia đã trở thành cuồng nộ đến mức nếu 2000 tên tội phạm chiến tranh Eurasia bị treo cổ công khai trong ngày cuối cùng mà rơi vào tay đám đông thì họ sẽ xé xác chúng ra thành từng mảnh - nhưng đúng lúc đó thì mọi người lại được nghe tuyên cáo rằng Oceania không đánh nhau với Eurasia. Oceania đang đánh nhau với Eastasia. Eurasia là đồng minh.
Không ai nói rằng đã có thay đổi bạn thù, chuyện đó đương nhiên. Ngay lập tức và khắp mọi nơi mọi người đều biết Eastasia là kẻ thù chứ không phải Eurasia nữa. Chuyện đó xảy ra khi Winston đang tham gia mít tinh trên một trong những quảng trường trung tâm của London. Lúc đó đã tối, đèn chiếu phả ánh sáng nhợt nhạt lên mặt người trắng bệch và màu cờ đỏ chói chang.

Mấy ngàn người tập trung trên quảng trường, trong đó có một ngàn học sinh mặc đồng phục đội viên Tình Báo đứng thành một khối riêng. Diễn giả, đảng viên Đảng Nội Bộ, một người đàn ông nhỏ thó, gày còm, tay dài ngoẵng, đầu to, lại hói, chỉ còn lưa thưa vài sợi tóc, đang hùng hổ hò hét trên một cái bục trải thảm đỏ. Thân hình nhỏ bé co dúm lại vì căm tức, một tay anh ta nắm cổ cái micro, trong khi cái tay to lớn, xương xẩu còn lại kia chém lia lịa vào khoảng không ở trên đầu. Cái loa phóng thanh cứ thế lải nhải những từ như tàn bạo, tàn sát, trục xuất, cướp, hiếp, tra tấn tù binh, ném bom khu dân cư, tung tin thất thiệt, xâm lăng trắng trợn, vi phạm hiệp ước. Nghe hắn nói đầu tiên người ta tin, sau đó người ta sẽ phát khùng. Chốc chốc đám đông lại gầm lên và tiếng nói của diễn giả lại chìm vào trong tiếng gào thét phát ra từ hàng ngàn cuống họng cùng một lúc. Bọn học sinh hò hét dữ tợn nhất. Buổi nói chuyện kéo dài được khoảng hai mươi phút thì có người chạy lên bục và đưa cho diễn giả mảnh giấy. Hắn ta giở ra đọc, miệng vẫn tiếp tục diễn thuyết. Không có gì thay đổi, cả trong giọng nói, cả trong động tác, cả trong nội dung, nhưng tên thì đã khác. Không ai thốt lên lời nào, mọi người hiểu ngay lập tức. Oceania đang đánh nhau với Eastasia! Một sự hỗn loạn kinh hoàng diễn ra ngay sau đó. Tất cả các khẩu hiệu, biểu ngữ trang trí quảng trường đều sai! Một nửa tranh ảnh cũng sai nốt! Phá hoại! Lũ gián điệp của Goldstein đây! Người ta giật áp phích, người ta xé tan biểu ngữ và đưa xuống làm giẻ lau. Các đội viên Tình Báo tỏ ra rất khéo léo, chúng trèo lên mái nhà và cắt những tấm băng rôn treo từ ống khói nhà này sang ống khói nhà kia. Chuyện đó kèo dài hai hoặc ba phút. Diễn giả lại một tay cầm cổ micro, ngực ưỡn ta đằng trước, tay kia chém lia lịa vào khoảng không trên đầu, tiếp tục bài diễn văn như chưa có gì xảy ra. Chỉ một phút sau đám đông đã lại gào lên một các man dại như cũ. Hận Thù tiếp tục, chỉ có đối tượng là khác.
Nhớ lại chuyện đó, điều làm Winston ngạc nhiên nhất là diễn giả đã kịp chuyển hướng ngay giữa câu nói mà không ngắc ngứ, thậm chí không hề sai cú pháp. Nhưng lúc này anh có một việc còn quan trọng hơn. Số là trong lúc lộn xộn, khi tất cả còn mải giật biểu ngữ thì có người, anh không nhìn rõ mặt hắn ta, vỗ vào vai anh và nói: "Xin lỗi, hình như ông vừa đánh rơi cặp". Anh đưa tay cầm ngay chiếc cặp, nhưng không nói gì. Anh biết rằng phải mấy ngày nữa mới có điều kiện xem đến nó. Anh quay về Bộ Sự Thật ngay sau khi kết thúc mít tinh, tuy lúc đó đã gần hai mươi ba giờ. Tất cả công nhân viên chức của Bộ cũng đều đến sở cả. Mệnh lệnh phát trên màn màn vô

tuyến, hạ lệnh mọi người trở lại công sở, thực ra là thừa.
Oceania đang đánh nhau với Eastasia: Oceania luôn luôn đánh nhau với Eastasia. Phần lớn sách báo chính trị năm năm vừa qua đã hoàn toàn lỗi thời. Tất cả các bản báo cáo, các tài liệu đủ mọi loại, các tờ báo, cuốn sách, phim ảnh, đĩa ghi âm - tất cả đều phải được hiệu chỉnh với tốc độ nhanh nhất. Dù không có ai ra lệnh, nhưng mọi người đều biết lãnh đạo muốn rằng trong vòng một tuần phải hủy hết mọi chứng cứ liên quan đến cuộc chiến với Eurasia và liên minh với Eastasia. Công việc quả thật là nhiều, hơn nữa các thủ tục lại không được gọi đúng tên của chúng. Tất cả cán bộ công nhân viên Ban Tài Liệu đều làm việc mười tám tiếng đồng hồ mỗi ngày, chỉ tranh thủ được ngủ chừng ba bốn tiếng thôi. Nệm được lấy từ tầng hầm lên và rải dọc hành lang, thức ăn gồm bánh mì kẹp thịt và cà phê Chiến Thắng được nhân viên căng tin chở trên xe đẩy. Mỗi lần đến phiên đi ngủ Winston đều cố gắng làm xong hết việc, nhưng mỗi lần bò trở lại, mắt vẫn nhắm, người đau như dần, là anh lại thấy hàng đống giấy tờ, trùm lên máy ghi, rơi cả xuống nền nhà, và việc đầu tiên là thu chúng vào một đống cho gọn để lấy chỗ làm việc. Không được thụ động, thế mới mệt. Đôi khi chỉ cần thay một cái tên, nhưng các bản báo cáo các sự kiện cụ thể thì phải chú ý và có sáng kiến nữa. Chỉ cần chuyển chiến cuộc từ vùng này đến vùng khác cũng cần biết bao nhiêu kiến thức địa lí rồi.
Ngày thứ ba mắt anh đã đau không thể chịu nổi, còn kính thì cứ năm phút phải lau một lần. Giống như khi phải làm một công việc chân tay quá sức mình: có thể không làm nhưng người ta lại sốt ruột muốn làm cho xong. Mỗi lần nhớ lại anh dường như không mấy bận tâm về việc tất cả những lời anh thì thầm vào máy ghi, tất cả những điều viết ra bằng bút, đều là những dối trá có chủ đích. Điều anh cũng như mọi người trong Ban quan tâm là làm sao cho sự giả mạo phải thật hoàn hảo. Đến buổi sáng ngày thứ sáu thì nhiệm vụ đã bớt dần. Chờ nửa tiếng đồng hồ mà không có cuộn giấy nào, sau đó có một cuộn rồi chấm hết. Khắp mọi chỗ công việc chấm dứt gần như cùng một lúc. Mọi người cùng thở phào. Một công việc vĩ đại, nhưng sẽ chẳng bao giờ được nhắc tới, đã hoàn thành. Từ giờ trở đi sẽ không ai có thể chứng minh bằng giấy trắng mực đen rằng đã có chiến tranh với Eurasia. Đúng mười hai giờ thì có thông báo cán bộ công nhân viên của Bộ được nghỉ đến sáng ngày

mai. Winston cầm cái cặp có chứa cuốn sách (khi làm việc thì anh kẹp vào háng, còn lúc ngủ thì đặt làm gối) và đi về nhà, cạo râu và thiếp đi ngay trong bồn tắm dù nước chỉ hơi âm ấm thôi.
Anh bước lên thang gác nhà ông Charrington, mỗi bước lại nghe kêu rắc rắc trong các khớp xương. Mệt nhưng không còn buồn ngủ nữa. Anh mở cửa sổ, đốt cái bếp dầu để đun nước pha cà phê. Tí nữa Julia sẽ tới, nhưng bây giờ phải xem sách đã. Anh ngồi vào cái ghế bành sờn và mở khoá cặp. Một cuốn sách dày, bìa màu đen, không có tên tác giả hay tác phẩm. Chữ in cũng không thật chuẩn. Các trang giấy đều sờn mép và dễ rách, chắc đã qua tay nhiều người lắm rồi. Trang thứ nhất có ghi:
EMMANUEL GOLDSTEIN
CHỦ NGHĨA TẬP THỂ BĂNG ĐẢNG LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

Winston bắt đầu đọc.
"Chương I - Ngu dốt là sức mạnh.
Từ ngày có sử, có thể là từ cuối thời Đồ Đá Mới, loài người đã chia làm ba giai tầng, thượng, trung và hạ lưu. Các giai tầng đó được hình thành theo những cách khác nhau, mang đủ những danh hiệu khác nhau, tỉ lệ thành phần giữa các tầng lớp, thái độ của họ với nhau cũng mỗi thời kì mỗi khác, nhưng cấu trúc cơ bản của xã hội thì vẫn không bao giờ thay đổi. Ngay cả sau những cuộc biến loạn, tưởng chừng như không thể đảo ngược được, thì cấu trúc này vẫn luôn luôn tự tái lập, giống như con quay hồi chuyển trở lại vị trí cân bằng, dù trước đó có bị đẩy kiểu nào đi nữa.
Mục đích của ba nhóm là không thể dung hoà.
Winston ngừng đọc, mục đích là để xem có ngồi một cách thoải mái và an toàn không. Chỉ có một mình: không màn vô tuyến, không có tai nghe đặt ngoài lỗ khoá, không phải ngó chừng hay giơ tay che trang sách. Không khí ngày hè ngọt ngào vờn trên má. Phía xa xa vọng lại tiếng trẻ con reo hò: nhưng trong phòng thì tuyệt đối im lặng, chỉ có tiếng đồng hồ tích tắc điểm nhịp, nghe như tiếng dế kêu. Anh ngồi sâu vào lòng ghế và gác chân lên cửa lò sưởi. Đây chính là hạnh phúc, đây chính là an lạc. Bất ngờ, người ta vẫn làm thế khi biết rằng trước sau gì cũng sẽ đọc hết, cũng sẽ còn đọc đi đọc lại nhiều lần, anh giở một trang bất kì và tìm thấy chương III. Anh đọc:
Chương III - Chiến tranh là hoà bình.
Việc chia thế giới thành ba siêu cường đã có thể được dự báo và đã được dự

báo từ giữa thế kỉ hai mươi. Hai siêu cường là Eurasia và Oceania đã thực sự hình thành sau khi Nga nuốt chửng Châu Âu và Mĩ xâm lược Đế Quốc Anh. Siêu cường thứ ba, Eastasia, chỉ xuất hiện như một thực thể thống nhất sau cả chục năm chiến tranh liên miên. Biên giới giữa các siêu cường có chỗ chưa được xác định, có chỗ di động, phụ thuộc vào tình hình chiến sự, nhưng nói chung là trùng với các đường phân cách tự nhiên. Eurasia bao gồm miền Bắc Âu, Bắc Á, kéo dài từ Bồ Đào Nha cho đến tận eo biển Bering. Oceania bao gốm Châu Mĩ, các đảo trên Đại Tây Dương, Anh quốc, Châu Úc và miền Nam Châu Phi. Eastasia, nước nhỏ nhất, biên giới phía Tây không được xác định, bao gồm Trung Quốc và các nước ở phía Nam, Nhật Bản, nhưng vùng này rất hay đổi chủ, vùng Mãn Châu, Mông Cổ và Tân Cương.
Liên kết bạn thù có lúc thế này lúc thế khác, nhưng chiến tranh thì triền miên, chiến tranh kéo dài suốt hai mươi lăm năm qua. Nhưng tính chất chiến tranh bây giờ khác, không còn là một mất một còn như nửa đầu thế kỉ hai mươi nữa. Đấy là những cuộc chiến với mục đích giới hạn, không bên nào có khả năng huỷ diệt bên nào, họ đánh nhau không phải vì tư tưởng, cũng chẳng phải vì vật chất. Nhưng sẽ là sai khi nghĩ rằng cách thức tiến hành chiến tranh cũng như thái độ của phần lớn dân chúng đối với chiến cuộc ít đẫm máu hơn và không dã man như trước đây. Ngược lại, tính hiếu chiến đã trở thành phổ quát và thường trực trong cả ba siêu cường; những hành động như hiếp dâm, cướp bóc, tàn sát trẻ con, biến cả một dân tộc thành nô lệ, hành hạ tù binh, thậm chí đem luộc hoặc chôn sống tù binh đã là chuyện bình thường, thậm chí là hành động cao cả nếu đấy là do "phe ta" làm. Về mặt vật chất mà nói thì số người tham chiến không nhiều, chủ yếu là các chuyên gia được huấn luyện kĩ, thiệt hại nhân mạng không cao. Chiến cuộc, đấy là nói khi có chiến cuộc, thường diễn ra ở những vùng biên giới xa xôi, người dân thường chỉ có thể ước đoán; hoặc xung quanh những Pháo Đài Nổi làm nhiệm vụ canh gác các đường vận tải trên biển. Tại các vùng trung tâm của nền văn minh, chiến tranh chỉ có nghĩa là thiếu hụt triền miên các đồ tiêu dùng, và đôi khi bị bắn rốc két làm vài chục người chết mà thôi. Tính chất của chiến tranh thực sự đã thay đổi. Đúng hơn phải nói rằng lí do tiến hành chiến tranh đã thay đổi. Những lí do không quan trọng lắm, lí do hạng hai của các cuộc chiến lớn trong nửa đầu thế kỉ hai mươi đã trở thành lí do chính.

Để có thể hiểu bản chất của cuộc chiến tranh hiện nay - dù bạn thù thay đổi vài năm một lần, nó vẫn là một cuộc chiến mà thôi - ta phải luôn nhớ rằng cuộc chiến này không có hồi kết. Dù quân đội hai nước có hợp lại cũng không thể đánh bại được nước thứ ba. Sức lực của họ gần tương đương nhau, khả năng phòng thủ tự nhiên lại vô cùng vững chắc. Eurasia được bao bọc bởi những vùng đất vô cùng rộng lớn, Oceania thì được Đại Tây Dương và Thái Bình Dương bảo vệ, còn Eastasia thì có dân số vô cùng đông đúc và chăm chỉ. Thứ hai, họ không đánh nhau để tranh giành quyền lợi vật chất. Với việc thiết lập các nền kinh tế tự cung tự cấp, trong đó sản xuất và tiêu thụ được điều chỉnh cho phù hợp với nhau, tranh giành thị trường, lí do chính của các cuộc chiến trước, nay đã trở nên không còn cần thiết nữa; trong khi đó nguyên vật liệu cũng không phải là vấn đề sống còn. Cả ba nước đều rộng đến nỗi có thể khai thác tất cả các nguyên vật liệu cần thiết ngay trong vùng lãnh thổ của mình. Nếu nói về mục đích kinh tế trực tiếp thì đây là cuộc chiến tranh để giành lực lượng lao động. Giữa biên giới của các siêu cường là một vùng tứ giác với các đỉnh nằm ở Tangier, Brazzaville, Darwin và Hong Kong, vùng này không thuộc hẳn siêu cường nào, lại có đến một phần năm dân số thế giới. Tranh giành vùng đất đông dân này và vùng băng giá bắc bán cầu là lí do dẫn đến những cuộc tranh chấp thường xuyên giữa các siêu cường. Chưa nước nào chiếm trọn được vùng nằm trong vòng tranh cãi. Từng phần của nó được sang tay thường xuyên, để có thể giành được một vùng nào đó người ta sẵn sàng phản bội đồng minh, biến bạn thành thù và đấy là lí do của những vụ thay đổi liên minh bất tận.
Tất cả các vùng tranh chấp đều chứa các khoáng sản quí, một số vùng còn làm ra được các sản phẩm có giá trị có nguồn gốc thực vật như cao su mà các nước hàn đới phải sản xuất bằng các phương pháp tổng hợp khá tốn kém. Nhưng cái chính là vùng này có một lực lượng lao động cực kì dồi dào, giá lại rẻ. Ai chiếm được vùng Châu Phi Xích Đạo, Trung Đông, hay Miền Nam Ấn Độ hoặc các quần đảo Nam Dương là chiếm được hàng trăm triệu nhân công vừa chăm chỉ vừa rẻ mạt. Dân chúng các vùng này, bị đưa xuống hàng nô lệ, chuyển từ tay quân chiếm đóng này sang tay quân chiếm đóng khác và bị sử dụng giống như than đá hay dầu hoả trong cuộc chạy đua nhằm sản xuất được nhiều vũ khí hơn, chiếm được nhiều lãnh thổ hơn, để lại kiểm soát được nhiều lao động hơn, sản xuất nhiều vũ khí hơn, chiếm được nhiều lãnh thổ hơn và cứ thế không bao giờ ngừng. Cần phải nói rằng cuộc chiến chưa bao giờ vượt ra ngoài vùng lãnh thổ tranh chấp. Biên giới của Eurasia di

chuyển lên xuống trong vùng giữa Congo và bờ bắc Địa Trung Hải; quần đảo giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương khi thì thuộc về Oceania, khi lại bị Eastasia chiếm; đường phân chia giữa Eurasia và Eastasia qua vùng đất Mông Cổ chưa bao giờ ổn định; cả ba nước đều tuyên bố chiếm giữ những vùng đất bao la gần Bắc Cực, những vùng chẳng có người ở và cũng không được khai thác, tuy vậy tương quan lực lượng vẫn giữ nguyên và trung tâm của các quốc gia không bao giờ bị đụng chạm. Hơn nữa nền kinh tế thế giới thực ra không cần đến sức lao động của dân chúng bị nô dịch vùng xung quanh xích đạo. Họ không đóng góp được gì cho sự thịnh vượng của thế giới, vì họ chỉ sản xuất cho nhu cầu của chiến tranh, mà mục đích khơi chiến là để giành vị trí tốt hơn để khơi chiến nữa. Bằng chính sức lao động của mình, dân chúng các vùng bị nô dịch đã góp phần làm cho cuộc chiến ngày càng thêm khốc liệt. Nhưng giả sử như không có họ thì thế giới cũng vẫn như thế, sẽ chẳng có biến đổi nào trong cơ cấu của thế giới và những tiến trình đảm bảo giữ vững cơ cấu ấy.
Mục đích chủ yếu của cuộc chiến tranh hiện nay (theo nguyên tắc nướcđôi ban lãnh đạo tối cao của Đảng Nội Bộ đồng thời vừa công nhận vừa phủ nhận mục đích này) là để tiêu thụ những sản phẩm do máy móc làm ra mà không cần nâng mức sống của người dân. Ngay từ cuối thế kỉ mười chín, tại các nước công nghiệp, vấn đề sử dụng các sản phẩm tiêu dùng thặng dư đã được đặt lên bàn nghị sự. Hiện nay, khi mà không có mấy người được ăn no, vấn đề này không phải là cấp bách, nó cũng sẽ không cấp bách ngay cả khi sản phẩm không bị phá huỷ một cách cố ý. Thế giới hôm nay nghèo hơn, đói kém hơn, hoang tàn hơn hồi trước năm 1914, lại càng không thể so sánh được với cái tương lai mà người thời đó mường tượng. Trong những năm đầu thế kỉ hai mươi tất cả những người biết đọc biết viết đều nghĩ rằng xã hội tương lai phải rất giàu, có đủ trò tiêu khiển, có trật tự kỉ cương và hiệu quả - đấy sẽ là thế giới của thép, kính và xi măng trắng như tuyết, tất cả đều sáng loáng, lấp lánh và vô trùng. Khoa học và kĩ thuật đã phát triển với tốc độ chóng mặt và dĩ nhiên có thể giả định rằng nó cứ phát triển như thế mãi. Nhưng điều đó đã không xảy ra, một phần vì bị các cuộc cách mạng và chiến tranh diễn ra triền miên làm cho sa sút, một phần vì tiến bộ của khoa học và kĩ thuật dựa trên cơ sở chủ nghĩa kinh nghiệm sẽ không thể tồn tại trong xã hội đã bị ép vào khuôn phép. Thế giới hiện nay nói chung thô lậu hơn cách đây năm mươi năm. Một số vùng lạc hậu có phát triển lên, một số máy móc mới, thường là có liên quan đến chiến tranh hoặc tình báo, cũng được cải

tiến, nhưng đã không còn các công trình thí nghiệm và sáng tạo nữa, hậu quả của cuộc chiến tranh hạt nhân hồi những năm năm mươi vẫn chưa khắc phục được hoàn toàn. Nhưng mối nguy tiềm ẩn do máy móc đem lại thì vẫn còn đó. Ngay từ khi máy móc mới xuất hiện, những người có suy nghĩ đều biết rằng sẽ đến lúc không còn phải làm công việc chân tay cực nhọc nữa và như thế cũng có nghĩa là cơ sở của sự bất bình đẳng giữa người với người cũng sẽ không còn. Nếu máy móc được sử dụng cho mục đích đó thì nạn đói kém, lao lực, bẩn thỉu, mù chữ, bệnh tật sẽ bị loại trừ chỉ sau vài thế hệ. Thực ra dù chưa được sử dụng cho mục đích đó, có thể nói mới được sử dụng một cách tự phát, máy móc trong năm mươi năm cuối thế kỉ mười chín, đầu thế kỉ hai mươi, đã sản xuất ra một khối lượng sản phẩm, đôi khi không thể không phân phối, đủ nâng cao đáng kể mức sống của một người dân bình thường.
Nhưng rõ ràng là xã hội phân chia theo đẳng cấp sẽ bị phá huỷ, ở khía cạnh nào đó nó đã bị phá huỷ, nếu đời sống toàn dân cứ được nâng cao lên mãi. Trong một thế giới mà mọi người đều chỉ phải làm việc vài giờ mỗi ngày, ai cũng đủ ăn, ai cũng được sống trong những ngôi nhà có buồng tắm và tủ lạnh, có ô tô và cả máy bay nữa thì cái biểu hiện rõ nhất, cũng có thể là biểu hiện quan trọng nhất của bất bình đẳng giữa người với người đã không còn. Nếu ai cũng giàu có thì tài sản không còn tạo ra khác biệt nữa. Dĩ nhiên là có thể tưởng tượng được một xã hội trong đó tài sản, theo nghĩa tài sản và tiện nghi mà một cá nhân có quyền sử dụng, sẽ được phân phối hoàn toàn đồng đều, trong khi quyền lực lại nằm trong tay một đẳng cấp ưu tú. Nhưng trong thực tế xã hội như vậy không thể ổn định lâu dài được. Vì nếu mọi người đều có thì giờ nhàn rỗi và không phải lo đến miếng cơm manh áo nữa thì cái đám đông quần chúng, những người do nghèo mà hoá ra hèn, sẽ học đọc học viết và biết cách suy nghĩ bằng chính cái đầu của mình; và một khi điều đó xảy ra thì không chóng thì chày họ sẽ nhận ra rằng cái đẳng cấp đặc quyền kia chẳng được tích sự gì cả và họ sẽ lật đổ chúng. Rút cục là xã hội phân chia theo đẳng cấp chỉ có thể tồn tại trong nghèo đói và dốt nát. Trở lại với quá khứ nông nghiệp, như có một số nhà tư tưởng từng nghĩ đến hồi đầu thế kỉ hai mươi, là việc làm phi thực tế. Nó mâu thuẫn với xu hướng cơ khí hoá, một xu hướng có thể nói đã trở thành một loại bản năng khắp toàn cầu, hơn nữa nước lạc hậu về công nghiệp sẽ trở thành bất lực về mặt quân sự và bị các đối thủ tiến bộ hơn, gián tiếp hoặc trực tiếp, nô dịch.

Giữ quần chúng trong vòng nghèo đói bằng cách giảm sản lượng hàng hóa cũng tỏ ra không thích hợp. Điều đó đã từng xảy ra vào giai đoạn cuối của chủ nghĩa tư bản, nghĩa là vào khoảng giữa những năm 1920 và 1940. Kinh tế nhiều nước bị đình đốn, nhiều vùng đất không được gieo cấy, máy móc không được cải tiến, nhiều vùng dân cư không có việc làm, phải sống tạm bợ qua ngày bằng tiền trợ cấp của chính phủ. Nhưng cái đó cũng làm cho năng lực phòng thủ bị yếu đi, đồng thời cảnh thiếu đói mà không có lí do chính đáng nhất định sẽ tạo ra các phong trào đối lập. Vấn đề là làm sao giữ cho nền công nghiệp làm việc hết công suất nhưng tài sản của thế giới thì vẫn không tăng. Hàng hóa phải được sản xuất, nhưng không được phân phối. Chỉ có một cách - đấy là chiến tranh, chiến tranh triền miên.
Bản chất của chiến tranh là tiêu diệt, không nhất thiết phải là con người, mà là sản phẩm do con người tạo ra. Chiến tranh là đập tan thành từng mảnh, đốt thành tro bụi, hay nhấn chìm xuống đáy đại dương những thứ có thể được dùng nhằm nâng cao mức sống người dân và như vậy, cuối cùng sẽ làm cho họ thông minh hơn. Ngay cả khi vũ khí không bị phá huỷ trên chiến trường thì việc sản xuất thêm cũng là biện pháp khả dĩ để người dân tiếp tục làm mà không tạo ra bất kì sản phảm tiêu dùng nào. Để làm ra một Pháo Đài Nổi phải cần số lượng nhân công đủ làm hàng trăm con tàu vận tải. Pháo Đài Nổi rồi sẽ cũ đi, rồi sẽ bị phá ra làm sắt vụn mà chẳng ai được lợi lộc gì, sau đó một cái khác sẽ lại được xây, lại cần biết bao công sức và vật tư. Về nguyên tắc, các chiến dịch bao giờ cũng được tính toán sao cho chúng có thể tiêu huỷ tất cả những sản phẩm thặng dư, chỉ để lại vừa đủ cho những nhu cầu cần thiết tối thiểu của dân chúng mà thôi. Nhưng trên thực tế như cầu của dân chúng bao giờ cũng bị hạ thấp, kết quả là thường xuyên thiếu thốn, ngay cả những vật dụng cần thiết nhất, nhưng điều đó lại được coi là có lợi. Đấy là một chính sách đã được cân nhắc kĩ: giữ ngay cả các nhóm đặc quyền đặc lợi trong vòng nghèo túng vì sự khốn khó chung sẽ làm cho những ưu đãi nhỏ trở thành quan trọng và như vậy càng làm tăng khoảng cách giữa các nhóm với nhau. Nếu so với mức sống đầu thế kỉ hai mươi thì phải nói ngay các đảng viên Đảng Nội Bộ cũng làm nhiều hơn và sống đạm bạc hơn. Nhưng dù sao một số tiện nghi mà anh ta được sử dụng, một căn hộ rộng, trang bị đầy đủ, quần áo được may bằng vải tốt, thức ăn, thức uống, thuốc lá đều thuộc loại ngon, có hai ba tên đầy tớ, có ô tô, thậm chí máy bay trực thăng riêng;

anh ta quả thật đang sống trong một thế giới khác hẳn với một đảng viên Đảng Ngoại Vi; đến lượt mình đảng viên Đảng Ngoại Vi lại có những ưu tiên, ưu đãi so với đám quần chúng nghèo khổ nhất gọi là cu li. Xã hội tựa như một thành phố bị bao vây, có một miếng thịt ngựa là người giầu, không có là nghèo. Đồng thời nhờ có chiến tranh, ai cũng cảm thấy đang bị đe doạ nên việc chuyển giao quyền hành vào tay một đẳng cấp nhỏ được coi là đương nhiên, là điều kiện cần thiết để sống còn.
Chiến tranh, như đã thấy, đang phá hủy, nhưng phá hủy một cách chấp nhận được về mặt tâm lí. Về nguyên tắc có thể sử dụng sức lao động dư thừa vào việc xây dựng đền đài, kim tự tháp hay đào hố rồi lại lấp đi, hoặc sản xuất thật nhiều hàng hoá rồi đem đốt. Nhưng làm như vậy thì chỉ đảm bảo cơ sở kinh tế cho một xã hội có đẳng cấp chứ cơ sở tâm lí thì không. Vấn đề không phải là đạo đức của quần chúng, thái độ của họ chẳng có ý nghĩa gì vì họ phải làm việc suốt ngày rồi, mà là đạo đức của Đảng. Ngay một đảng viên khiêm nhường nhất cũng được đòi hỏi là phải có nhận thức, phải chăm chỉ, phải có đầu óc trong một giới hạn nhất định, nhưng quan trọng hơn là anh ta phải là một người cuồng tín, cả tin; anh ta phải luôn luôn sợ hãi, luôn luôn căm thù, luôn luôn kính yêu và điên cuồng hồ hởi. Nói cách khác, anh ta phải có trạng thái tâm lí phù hợp với chiến tranh. Có thật sự xảy ra chiến tranh hay không không quan trọng, và vì là không thể có một chiến thắng quyết định nên thắng hay bại cũng không quan trọng. Quan trọng là nằm trong tình trạng chiến tranh. Đảng vẫn yêu cầu các đảng viên theo dõi lẫn nhau, thời chiến càng cần và nay việc này đã trở thành công việc thường nhật của mọi người, càng cấp cao càng hăng. Chính vì vậy mà trong Đảng Nội Bộ tâm lí hiếu chiến và lòng căm thù quân địch là mãnh liệt nhất. Như một nhà quản lí, đảng viên Đảng Nội Bộ phải nắm được bản tin chiến sự nào là thật còn bản nào là bịa, đôi khi anh ta cũng biết rằng toàn bộ cuộc chiến là giả hay lúc đó chẳng hề có chiến sự gì cả hoặc cuộc chiến được phát động với mục đích hoàn toàn khác với mục đích đang được tuyên truyền, nhưng kiến thức đó lại bị phương pháp suy nghĩ nướcđôi triệt tiêu ngay. Không đảng viên Đảng Nội Bộ nào giao động dù là trong một sát na niềm tin thần bí rằng đây là cuộc chiến thực sự, chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về họ và Oceania sẽ trở thành chủ nhân ông trên toàn thế giới này.

Đối với tất cả đảng viên Đảng Nội Bộ thì chiến thắng là một phần của đức tin. Họ sẽ giành được chiến thắng bằng cách mở rộng dần dần lãnh thổ, bằng cách đó sẽ tạo được sức mạnh áp đảo hoặc bằng cách phát minh ra một loại vũ khí mới, không có đối thủ. Việc tìm kiếm vũ khí mới được tiến hành liên tục và đấy là một trong vài lĩnh vực còn sử dụng những đầu óc có nhiều sáng kiến và có khả năng tư biện. Hiện nay, tại Oceania, khoa học, theo nghĩa cũ của từ này, đã không còn tồn tại nữa. Ngômo không có từ "khoa học". Chủ nghĩa kinh nghiệm, cơ sở của tất cả các thành tựu khoa học trong quá khứ, mâu thuẫn với các nguyên lí cơ bản của Chuanh. Ngay các tiến bộ về kĩ thuật cũng chỉ xảy ra khi thành quả của nó có thể áp dụng để ngăn chặn bớt tự do của con người. Trong các ngành nghề khác, thế giới hoặc là giậm chân tại chỗ hoặc là đã đi giật lùi. Ngựa thì cày ruộng còn sách thì do máy viết. Nhưng trong những lĩnh vực có ý nghĩa sống còn như quân sự và tình báo thì chủ nghĩa kinh nghiệm vẫn được khuyến khích hoặc chí ít cũng được chấp nhận. Đảng có hai mục đích: chinh phục toàn thể địa cầu và loại bỏ vĩnh viễn khả năng tư duy độc lập. Như vậy là Đảng có hai vấn đề lớn cần phải giải quyết. Một là làm sao phát hiện được một người đang nghĩ gì, thứ hai là làm sao có thể giết, mà không báo trước, một lúc mấy trăm triệu người. Đấy chính là đối tượng nghiên cứu của khoa học. Nhà khoa học hiện nay phải vừa là một nhà tâm lí học vừa là một điều tra viên, chuyên nghiên cứu nét mặt, cử chỉ, giọng nói, ảnh hưởng của các loại thuốc, liệu pháp sốc, thôi miên và tra tấn; hoặc đấy là nhà hoá học, nhà vật lí học hay nhà sinh vật học chỉ chuyên tâm vào những lĩnh vực liên quan đến việc giết người. Trong những phòng thí nghiệm to lớn của Bộ Hòa Bình, trên những trạm thử nghiệm bí mật trong những cánh rừng ở Brazil hay trên sa mạc Australia hoặc trên những hòn đảo Bắc Băng Dương nhiều nhóm chuyên gia vẫn làm việc không quản ngày đêm. Một số lập kế hoạch hậu cần cho những cuộc chiến tương lai, số khác chuyên thiết kế các loại tên lửa có sức công phá lớn hơn, thuốc nổ mạnh hơn, tấm bọc khó xuyên thủng hơn, số khác nữa chuyên tìm các loại khí độc mới hoặc các chất độc hòa tan trong nước nhưng có thể sản xuất với số lượng đủ tiêu diệt hoàn toàn thảm thực vật cả một châu lục, hoặc các loại vi khuẩn mà không thuốc kháng sinh nào có thể trị được; nhóm khác chuyên nghiên cứu các loại phương tiên giao thông có thể chui vào lòng đất hệt như tầu ngầm, hoặc các loại máy bay không cần đường băng hay hàng không mẫu hạm, nhóm nữa chuyên nghiên cứu các vấn đề dài hạn như hội tụ ánh sáng mặt trời từ những thấu kính đặt trên vũ trụ hoặc tạo ra động đất hay sóng thần bằng cách rút nhiệt từ trung tâm trái đất.

Nhưng không có dự án nào đạt được mục đích và không có siêu cường nào trong ba siêu cường giành được thế thượng phong. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn là cả ba siêu cường đều có bom nguyên tử, một loại vũ khí có sức tàn phá lớn gấp nhiều lần thứ vũ khí mà các nhà nghiên cứu hiện nay có thể phát minh. Mặc dù Đảng, như vẫn thường thấy, nhận là đã phát minh ra bom nguyên tử, thực ra loại bom này đã có từ đầu những năm bốn mươi và được đem ra sử dụng hàng loạt sau đó khoảng chục năm. Lúc đó các trung tâm công nghiệp, chủ yếu là vùng nước Nga thuộc châu Âu, Tây Âu, Bắc Mĩ đã bị thả hàng trăm quả bom nguyên tử. Kết quả là giới cầm quyền tất cả các nước đều nhận thức được rằng chỉ cần thêm vài quả nữa là nền văn minh sẽ cáo chung, cũng có nghĩa là sẽ cáo chung uy quyền của chính họ. Sau đó, mặc dù không có một thoả thuận nào được kí hay được gợi ý nhưng đã không còn vụ bỏ bom nguyên tử nào nữa. Cả ba siêu cường tiếp tục sản xuất và tích trữ bom để dành cho cuộc chiến quyết định mà họ tin rằng sớm muộn gì cũng phải xảy ra. Trong khi đó nghệ thuật chiến tranh giẫm chân tại chỗ trong vòng ba, bốn mươi năm. Máy bay trực thăng được sử dụng rộng rãi hơn, máy bay ném bom được thay thế bằng các tên lửa tự hành, các tầu chiến dễ bị tổn thương được thay thế bằng các Pháo Đài Nổi không thể bị đánh chìm, cải tiến trong các lĩnh vực khác không đáng kể. Xe tăng, tầu ngầm, ngư lôi, súng máy và ngay cả lựu đạn vẫn còn được sử dụng. Mặc dù báo chí và màn vô tuyến vẫn thường xuyên thông báo về những trận đánh đẫm máu, những chiến dịch lớn với hàng trăm ngàn, thậm chí hàng triệu người bị giết chỉ trong vài tuần, đã không còn xảy ra nữa.
Không siêu cường nào dám thực hiện những cuộc hành quân có nguy cơ thất bại lớn. Những chiến dịch lớn thường là những trận tấn công bất ngờ vào quân đồng minh. Cả ba nước cùng theo, hay tuyên bố là theo cùng một đường lối chiến lược. Nội dung của chiến lược đó là bằng cách vừa đánh vừa đàm và những đòn tấn công phản trắc, thiết lập xung quanh nước thù địch một loạt căn cứ quân sự và kí với nó hiệp ước hoà bình, sống chung hoà bình một thời gian, làm tê liệt tinh thần cảnh giác của đối phương. Trong thời gian đó có thể lắp bom nguyên tử vào tên lửa tại những vị trí chiến lược, để khi cần có thể bắn cấp tập, sự tàn phá sẽ là khủng khiếp đến mức đối phương không thể nào đáp trả được. Lúc đó có thể kí hiệp ước hoà bình với siêu cường còn lại và tiếp tục chuẩn bị cho cuộc chiến mới. Có lẽ chẳng cần nói rằng kế hoạch này chỉ là một giấc mơ, không thể nào thực hiện được. Hơn nữa các trận đánh chỉ diễn ra tại những vùng tranh chấp xung quanh xích đạo

hay vùng Bắc Cực: chưa có quân bên nào lấn vào lãnh thổ bên kia. Điều này giải thích tại sao biên giới giữa các siêu cường cứ dịch chuyển hoài. Thí dụ nếu muốn Eurasia dễ dàng chiếm cứ các British Isles, vốn là một phần Châu Âu; mặt khác nếu muốn Oceania cũng dẽ dàng đẩy biên giới của mình đến tận sông Rhin hay ngay cả sông Vistula. Nhưng nếu làm như thế sẽ vi phạm nguyên tắc mà các bên đều tuân thủ, tuy chưa bao giờ được tuyên bố công khai, đấy là nguyên tắc toàn vẹn văn hoá. Nếu Oceania xâm chiếm những vùng trước đây thường được gọi là Pháp và Đức thì nó sẽ phải hoặc là tiêu diệt tất cả dân chúng, một nhiệm vụ cực kì khó thực hiện; hoặc là nó phải đồng hóa cả một trăm triệu người có cùng trình độ phát triển về mặt kĩ thuật với Oceania. Cả ba siêu cường đều có vấn nạn tương tự. Cơ cấu của chúng tuyệt đối không cho phép dân chúng tiếp xúc với người nước ngoài, ngoại trừ tù binh chiến tranh và nô lệ da màu. Ngay cả đồng minh (trong giờ phút đó) cũng bị nhìn với thái độ nghi kị. Nếu không có tù binh chiến tranh thì một người dân thường của Oceania sẽ chẳng bao giờ trông thấy công dân của Eurasia hay Eastasia; học ngoại ngữ cũng bị cấm. Nếu người dân được phép quan hệ với người nước ngoài thì anh ta sẽ phát hiện ra rằng họ cũng là người như mình và tất cả những điều tuyên truyền trước đây đều là dối trá. Cái thế giới đóng kín mà anh ta đang sống sẽ bị đập tan, nỗi sợ hãi, lòng thù hận và thái độ tự mãn rằng chân lí luôn thuộc về mình, những điều vốn là chỗ dựa tinh thần của anh ta, sẽ tiêu tan. Vì vậy tất cả các bên đều nhận thức được rằng dù Persia, Egypt, Java hoặc Ceylon có sang tay bao nhiêu lần đi nữa, ngoài tên lửa ra, không ai được vượt qua đường biên giới chính.
Đằng sau tất cả những điều đó ẩn chứa một sự kiện, chưa bao giờ được thảo luận công khai, nhưng ai cũng biết và được tính đến, đấy là điều kiện sống ở cả ba siêu cường là tương đối giống nhau. Ở Oceania chủ thuyết Chuanh chiếm thế thượng phong, ở Eurasia thì đấy là Chủ Nghĩa Bolsevich Mới, còn ở Eastasia thì là học thuyết dịch từ tiếng Trung Quốc là Diệt Vong Kinh nhưng có lẽ phải dịch là Thủ Tiêu Cá Nhân mới thật chính xác. Công dân Oceania không đụơc biết tí gì về hai giáo lí kia, nhưng anh ta được dạy phải coi chúng như những sự chà đạp trắng trợn đạo đức và lẽ phải. Trên thực tế ba chủ thuyết gần như giống nhau, còn các thể chế xã hội xây dựng trên ba chủ thuyết đó thì hoàn toàn giống nhau. Vẫn là cấu trúc xã hội theo hình kim tự tháp, vẫn là sùng bái lãnh tụ vốn được coi gần như một vị thánh sống, vẫn là một nền kinh tế dựa vào chiến tranh và để phục vụ cho cuộc chiến tranh kéo dài triền miên. Từ đó suy ra rằng không nước nào trong ba siêu cường có

thể chinh phục được nước kia và cũng chẳng được lợi gì nếu làm được như thế. Ngược lại, xung đột là môt cách nương tựa lẫn nhau: "ba cây chụm lại" [1] . Và cũng như thường thấy, các nhóm cầm quyền trong cả ba siêu cường đồng thời vừa nhận thức được vừa không nhận thức được điều họ đang làm. Họ dành trọn đời mình cho công cuộc chinh phục thế giới, nhưng họ lại biết rằng chiến tranh phải là vĩnh cửu và không thể có chiến thắng tối hậu. Đồng thời, vì không có nguy cơ bị chinh phục nên họ phủ nhận luôn thực tế khách quan, đây chính là đặc trưng cơ bản của Chuanh và các hệ tư tưởng đối địch khác. Cần phải nhắc lại một điều đã nói ở trên: chiến tranh kéo dài liên miên và vì vậy bản chất của nó cũng đã thanh đổi.
Ngày xưa, chiến tranh, có thể nói theo định nghĩa, là một giai đoạn nhất định của lịch sử, trước sau gì cũng phải kết thúc bằng chiến thắng hay thất bại. Trước đây, chiến tranh còn là phương tiện chủ yếu để đưa xã hội loài người về với hiện thực trần trụi. Tất cả các nhà cầm quyền thuộc mọi thời đại đều cố gắng áp đặt lên các thần dân của mình một thế giới quan sai lầm; nhưng họ không bao giờ khuyến khích những sự ngộ nhận có thể dẫn tới suy giảm hiệu năng phòng thủ. Vì thất bại là mất độc lập hoặc nói chung sẽ dẫn đến những kết quả không hay khác, các biện pháp phòng thủ phải được quan tâm một cách thích đáng. Không được bỏ qua các sự kiện. Trong triết học, trong tôn giáo, trong đạo đức hoặc trong chính trị, hai cộng hai có thể là năm, nhưng khi thiết kế khẩu súng hoặc cái máy bay thì hai cộng hai nhất định phải là bốn. Dân tộc kém hiệu năng trước sau gì cũng sẽ bị chinh phục, nhưng muốn tăng hiệu quả thì phải giảm ảo tưởng. Hơn nữa, muốn hiệu quả thì phải có khả năng học hỏi quá khứ, nghĩa là phải có nhận thức đúng đắn về những điều đã xảy ra trong quá khứ. Tất nhiên là báo chí, sách lịch sử vẫn thường bị tô vẽ và xuyên tạc, nhưng giả mạo ở mức độ như hiện nay thì không thể nào xảy ra được. Chiến tranh đòi hỏi phải tỉnh táo, đối với giai cấp cầm quyền thì phải tỉnh táo gấp đôi. Khi chiến tranh, nghĩa là có thể thắng mà cũng có thể bại, không giai cấp cầm quyền nào được phép hành động một cách hoàn toàn vô trách nhiệm.
Nhưng khi chiến tranh đã trở thành triền miên thì nó cũng không còn nguy hiểm nữa. Khi chiến tranh đã trở thành liên tục, cái gọi là nhu cầu quốc phòng cũng không còn nữa. Tiến bộ kĩ thuật chấm dứt, các sự kiện cũng có

thể bị bỏ qua, bị phủ nhận. Như chúng ta đã thấy, các cuộc khảo cứu, có thể gọi là nghiên cứu khoa học, tiếp tục được thực hiện vì mục đích chiến tranh, nhưng thực ra chúng chỉ là những điều mơ tưởng hão huyền, chẳng ai thèm quan tâm đến kết quả của các cuộc khảo cứu đó. Hiệu quả, ngay cả hiệu quả trong quân sự cũng không còn là điều cần thiết nữa. Ngoài Cảnh Sát Tư Tưởng ra thì cả Oceania này chẳng có ai làm việc có hiệu quả. Vì cả ba siêu cường đều không thể bị chinh phục, mỗi nước trong thực tế được coi là cả vũ trụ trong đó những ý tưởng điên rồ nhất cũng có thể đem ra triển khai mà không sợ bất cứ hậu quả nào. Thực tế chỉ còn tác động lên những nhu cầu của đời sống thường nhật như phải ăn, phải uống, phải có nhà ở, phải có quần áo mặc, không được nuốt chất độc, không được chui ra ngoài qua cửa sổ tầng trên vân vân. Giữa sống và chết, giữa niềm vui và nỗi đau thể xác thì sự phân biệt vẫn còn, nhưng chỉ thế thôi. Bị tách biệt khỏi thế giới bên ngoài cũng như với quá khứ, công dân Oceania giống như người đang sống giữa các vì sao, không biết đâu là trên, đâu là dưới nữa. Nhà cầm quyền ở đó có quyền lực tuyệt đối, ngay đến các Pharaon hay Caesars cũng không có được quyền lực như họ. Họ có trách nhiệm phải giữ cho số thần dân bị chết vì đói ở mức không tạo ra rắc rối, họ có trách nhiệm bảo đảm cho kĩ nghệ quốc phòng cũng nằm ở mức thấp ngang với địch thủ, khi mức tối thiểu đó đã đạt được rồi thì họ tha hồ bóp méo, vặn vẹo hiện thực thế nào cũng được.
Vì vậy chiến tranh, nếu ta xem xét nó dưới góc độ những cuộc chiến tranh trước đây, chỉ là một sự lừa gạt. Nó giống như cuộc đấu của những con trâu đã bị cưa bớt sừng, không thể làm hại được nhau vậy. Mặc dù chiến tranh là giả, nhưng không phải là vô ích. Nó giúp xơi gọn số sản phẩm thặng dư và giữ nguyên tình trạng tâm lí mà một xã hội phân chia theo đẳng cấp cần. Ngày nay chiến tranh, như đã thấy, chỉ là công việc đối nội. Ngày xưa, tuy các nhà cầm quyền tất cả các nước đều nhận thức được những lợi ích chung, cố gắng hạn chế tối đa mức tàn phá, nhưng họ thực sự đánh nhau và người chiến thắng bao giờ cũng cướp bóc kẻ chiến bại. Ngày nay họ hoàn toàn không đánh nhau. Chiến tranh là do giới cầm quyền phát động để chống lại chính thần dân của mình, mục đích không phải là bảo vệ hay chiếm cứ một vùng đất mà là để bảo vệ thể chế xã hội. Cho nên chính từ "chiến tranh" tạo ra nhầm lẫn. Chính xác hơn phải nói rằng từ khi trở thành thường trực chiến tranh đã không còn là chiến tranh nữa. Áp lực đặc biệt mà chiến tranh mang lại cho con người từ thời Đồ Đá Mới cho đến đầu thế kỉ hai mươi đã không còn nữa, nó đem đến một cái hoàn toàn khác. Nếu ba siêu cường không đánh

nhau nữa, đồng ý sống trong một nền hoà bình vĩnh cửu, không nước nào xâm phạm vào bên trong lãnh thổ nước kia thì kết quả cũng vẫn như thế. Vì trong trường hợp đó mỗi nước vẫn là một thế giới khép kín, vẫn tránh được mọi ảnh hưởng thức tỉnh nguy hại từ bên ngoài đưa lại. Hoà bình vĩnh viễn cũng chẳng khác gì chiến tranh liên miên. Đấy chính là ý nghĩa sâu xa, mặc dù đa số đảng viên chỉ hiểu một cách hời hợt, của khẩu hiệu: Chiến tranh là hoà bình.»
Winston ngừng đọc. Có tiếng rocket nổ từ xa vọng lại. Cảm giác an lạc vì được ở một mình với một cuốn sách cấm, trong căn phòng không có màn vô tuyến vẫn còn đọng lại trong lòng. Một mình và thanh thản, anh cảm thấy điều đó ngay trên da thịt mình, nó hoà trộn với cảm giác mỏi mệt trong cơ thể, cảm giác mềm mại của cái ghế, sự mơn man trên gò má của cơn gió nhẹ vừa thổi qua cửa sổ. Cuốn sách làm anh choáng váng, đúng hơn phải nói nó đã làm anh thêm phấn chấn. Không có gì mới, nhưng chính vì thế mà hấp dẫn. Nó nói những điều chính anh cũng có thể nói nếu anh sắp xếp được các ý nghĩ lộn xộn của mình. Nó là tác phẩm của một cái đầu tương tự như anh, nhưng mạnh mẽ hơn, có hệ thống hơn và dũng cảm hơn nhiều. Cuốn sách tốt nhất, anh nghĩ, là cuốn sách nói những điều ta đã biết rồi. Anh quay lại chương I đúng lúc nghe thấy tiếng chân Julia bước lên cầu thang và đứng dậy đón cô. Cô bỏ túi dụng cụ màu nâu xuống sàn và lao vào vòng tay anh. Đã hơn một tuần nay họ chưa gặp nhau.
"Anh nhận được cuốn sách rồi", anh nói khi họ vừa buông nhau ra.
"Rồi à? Tốt", cô nói, không tỏ ra quan tâm lắm, rồi cô ngồi ngay xuống nhóm bếp để pha cà phê.
Họ chỉ quay lại với cuốn sách sau khi đã ở trên giường được nửa tiếng đồng hồ. Buổi chiều hơi lạnh, họ kéo chăn đắp. Từ bên dưới vọng lên tiếng hát và tiếng ủng nện trên mặt đá. Người đàn bà khổng lồ, cánh tay đỏ mà Winston nhìn thấy ngay hôm đầu đến đây, dường như chưa bao giờ bước ra khỏi sân.

Có vẻ như lúc nào bà ta cũng đi đi lại lại giữa chậu giặt và giây phơi, miệng ngậm những cái kẹp và ông ổng hát. Julia đã quay nghiêng và sắp ngủ đến nơi rồi. Winston nhặt cuốn sách và ngồi lên đầu giường.
"Phải đọc cho xong, anh bảo. "Em cũng thế. Tất cả Huynh Đệ đều phải đọc"
"Anh đọc đi", cô nói, mắt vẫn nhắm. "Đọc to lên. Cùng nghe. Sau đó anh sẽ giải thích cho em"
Đồng hồ chỉ số sáu, nghĩa là đã mười tám giờ. Họ còn được ở đây ba, bốn tiếng đồng hồ nữa. Anh để cuốn sách lên đầu gối và đọc.
"Chương I - Ngu dốt là sức mạnh.
Từ ngày có sử, có thể từ cuối thời Đồ Đá Mới, loài người đã chia làm ba giai tầng, thượng, trung và hạ lưu. Các giai tầng đó được hình thành theo những cách khác nhau, mang đủ những danh hiệu khác nhau, tỉ lệ thành phần giữa các tầng lớp, thái độ của họ với nhau cũng mỗi thời kì mỗi khác, nhưng cấu trúc cơ bản của xã hội vẫn không bao giờ thay đổi. Ngay cả sau những cuộc biến loạn, tưởng chừng như không thể đảo ngược được, thì cấu trúc này vẫn luôn luôn tự tái lập, giống như con quay hồi chuyển trở lại vị trí cân bằng, dù trước đó có bị đẩy kiểu nào đi nữa."
"Julia, em còn thức không?", Winston hỏi.
"Còn, anh yêu. Em đang nghe đấy. Đọc tiếp đi. Hay quá"

Anh tiếp tục đọc.
"Mục đích của ba giai tầng là không thể dung hoà. Mục đích của tầng lớp thượng lưu là cứ giữ mãi vị trí của mình. Mục đích của tầng lớp trung lưu là chiếm lấy vị trí của thượng lưu. Mục đích của tầng lớp hạ lưu, đấy là nói khi họ có mục đích - vì đặc điểm truyền kiếp của hạ lưu là phải làm việc quần quật suốt ngày, ít có thì giờ để nghĩ đến những gì ngoài miếng cơm manh áo - là tiêu diệt mọi bất công và xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều bình đẳng. Vì vậy mà trong suốt chiều dài của lịch sử các cuộc đấu tranh, về cơ bản là giống nhau, cứ nổ ra liên miên. Tầng lớp thượng lưu có vẻ nắm vững được quyền lực trong một thời gian dài, nhưng không chóng thì chày, rồi cũng có lúc họ đánh mất niềm tin vào chính mình hoặc mất khả năng quản lí một cách hữu hiệu, hoặc đánh mất cả hai. Họ sẽ bị tầng lớp trung lưu, lúc này đã lôi kéo hạ lưu đứng về phía mình bằng cách tuyên bố rằng đang chiến đấu cho tự do và công bằng, lật đổ. Sau khi đã đạt được mục đích, họ liền đẩy hạ lưu về lại tình trạng nô lệ, còn mình thì trở thành thượng lưu. Một lầng lớp trung lưu mới, tách ra từ một trong hai tầng lớp kia hoặc là từ cả hai, sẽ lại hình thành và cuộc chiến đấu cứ thế tiếp tục không bao giờ ngừng. Trong ba tầng lớp thì chỉ có hạ lưu là không bao giờ đạt được mục đích, dù chỉ trong một thời gian ngắn. Sẽ là quá đáng nếu nói rằng chưa hề có tiến bộ nào về mặt vật chất trong suốt chiều dài của lịch sử. Ngay trong giai đoạn sa sút hiện nay, một người trung bình vẫn có đời sống vật chất khá hơn cách đây vài thế kỉ. Nhưng không có tài sản nào, không có những cải thiện trong quan hệ giữa người với người nào, không có cuộc cải cách hay cách mạng nào có thể rút ngắn được khoảng cách bất bình đẳng dù chỉ một li. Theo quan niệm của tầng lớp hạ lưu thì tất cả những biến động của lịch sử chỉ có nghĩa là đã thay một ông chủ này bằng một ông chủ khác mà thôi.
Ngay từ cuối thế kỉ mười chín nhiều nhà quan sát đã thấy rõ rằng một cuộc biến loạn mới sắp sửa diễn ra. Lúc đó xuất hiện trường phái các nhà tư tưởng cho rằng lịch sử vận động theo chu kì và chứng minh rằng bất bình đẳng là qui luật bất di bất dịch của loài người. Dĩ nhiên thuyết này trước đây vẫn có môn đồ, nhưng nay nó được trình bày một cách khác hẳn. Trong quá khứ,

nhu cầu về một xã hội có đẳng cấp là lí thuyết của tầng lớp thượng lưu. Nó được các vua chúa, các nhà quí tộc, các thày tu, thày cãi và tất cả những kẻ sống bám vào nó rao giảng và được tô điểm bằng những lời hứa bù đắp trong một thế giới tưởng tượng sau khi xuống mồ. Tầng lớp trung lưu, trong khi còn tranh đấu để giành chính quyền, luôn luôn sử dụng những từ như tự do, bình đẳng, bác ái. Nhưng nay quan niệm về tình huynh đệ giữa người với người bị ngay những kẻ chưa hề nắm quyền, mới chỉ ước ao một ngày nào đó có thể nắm quyền, công kích. Trước kia tầng lớp trung lưu tiến hành cách mạng dưới ngọn cờ bình đẳng, bác ái nhưng một khi lật đổ được chính thể chuyên chế cũ sẽ thiết lập ngay một chính thể chuyên chế mới. Ngày nay tầng lớp trung lưu mới trên thực tế đã tuyên bố thiết lập chế độ chuyên chế ngay trước khi tiến hành cách mạng. Chủ nghĩa xã hội, một lí thuyết xuất hiện vào đầu thế kỉ mười chín là mắt xích cuối cùng của truyền thống tư tưởng kéo dài từ những cuộc khởi nghĩa nô lệ thời Trung Cổ, vẫn còn mang nặng dấu ấn của của nghĩa không tưởng của những thế kỉ trước. Nhưng ý tưởng thiết lập một xã hội tự do và bình đẳng đã bị những xu hướng xã hội chủ nghĩa xuất hiện từ sau năm 1900 trở đi công khai bác bỏ. Các phong trào mới xuất hiện vào giữa thế kỉ hai mươi, Chuanh ở Oceania, Chủ Nghĩa Bolsevich Mới ở Eurasia, Diệt Vong Kinh, như người ta vẫn gọi ở Eastasia, đã tự đặt ra cho mình mục đích là kéo dài vĩnh viễn tình trạng MẤT tự do và BẤT bình đẳng. Các phong trào mới này dĩ nhiên là được sinh ra từ các phong trào cũ, vẫn giữ tên cũ và ngoài miệng thì tuyên bố trung thành với lí tưởng cũ. Nhưng mục đích của các phong trào đó chính là chặn đứng sự tiến bộ và vòng quay của bánh xe lịch sử. Cái đòng đưa đánh thêm một lần nữa rồi dừng hẳn. Như thường thấy, tầng lớp thượng lưu bị trung lưu lật đổ, rồi trung lưu trở thành thượng lưu, nhưng lần này, nhờ một chiến lược đã được tính toán chu đáo, tầng lớp thượng lưu có thể giữ được vị trí của mình cho đến tận muôn đời sau.
Các học thuyết mới xuất hiện một phần là do kiến thức lịch sử đã thu thập được, phần khác là do tư duy lịch sử mà trước thế kỉ mười chín nếu có tồn tại thì cũng mới ở dạng phôi thai mà thôi. Khi người ta đã hiểu được rằng lịch sử vận động theo chu kì hay làm ra vẻ hiểu như vậy thì người ta cũng cho rằng có thể tác động vào chính tiến trình vận động của lịch sử. Nhưng nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thầm kín nhất lại là ở chỗ ngay từ đầu thế kỉ hai mươi quyền bình đẳng giữa người với người đã có thể thực hiện được về mặt kĩ thuật. Tất nhiên là con người không ai giống ai về mặt tài

năng và việc phân công lao động sẽ đặt người này vào vị trí thuận lợi hơn người khác; nhưng khoảng cách giầu nghèo quá lớn và việc phân chia giai cấp đã không còn cần thiết nữa. Trước kia việc phân chia giai cấp không những là cần mà còn là việc nên làm. Bất bình đẳng là cái giá phải trả cho nền văn minh. Nhưng với sự phát triển của sản xuất công nghiệp tình hình đã thay đổi. Mặc dù vẫn phải làm những công việc khác nhau, việc buộc người ta phải sống trong những điều kiện kinh tế và xã hội khác nhau đã không còn cần thiết nữa. Vì vậy theo quan điểm của bọn người đang tranh đoạt quyền lực thì bình đẳng không còn là lí tưởng phấn đấu nữa mà là mối nguy cần phải tìm mọi cách ngăn chặn. Trong những thời đại bán khai thì xã hội hoà bình và công chính là bất khả thi, đấy đơn giản chì là niềm tin. Hàng ngàn năm nay con người vẫn hằng ước mơ xây dựng một thiên đường trên trái đất, trong đó mọi người sẽ sống trong tình huynh đệ, không cần luật pháp và không ai phải làm việc cực nhọc nữa. Ước mơ đó ám ảnh cả những nhóm người thực sự được lợi sau mỗi biến động của lịch sử. Hậu duệ của các cuộc cách mạng Pháp, Anh và Mĩ vẫn còn tin vào thời đại của họ về quyền con người, tự do ngôn luận, bình đẳng trước pháp luật v.v. và đã để cho những lí tưởng đó phần nào ảnh hưởng đến hành vi của chính mình. Nhưng đến những năm bốn mươi của thế kỉ hai mươi thì tất cả các luồng tư tưởng chính trị đều mang tính chất toàn trị. Thiên đường trên trái đất bị mất tín nhiệm ngay đúng vào lúc có đủ điều kiện để biến giấc mơ ấy thành hiện thực. Tất cả các trào lưu chính trị, dù có mang tên gì đi nữa, cũng đều kêu gọi quay trở về với xã hội đẳng cấp và khuôn phép. Cùng với những quan niệm cứng rắn, xuất hiện khoảng năm 1930, những tập quán đã lỗi thời, có cái cả hàng trăm năm như bỏ tù không cần xét xử, bắt tù binh chiến tranh làm công việc khổ sai, xử bắn công khai, tra tấn, sử dụng con tin, bắt lưu đày cả một dân tộc không những được chấp nhận mà còn được những người tự nhận là văn minh, tiến bộ bảo vệ nữa.
Phải sau cả chục năm chiến tranh, nội chiến, cách mạng và phản cách mạng trên toàn thế giới thì Chuanh và những đối thủ của nó mới xuất hiện như những lí thuyết chính trị hoàn thiện. Tiền thân của chúng là các hệ tư tưởng có tên chung là toàn trị, đã xuất hiện ngay từ đầu thế kỉ này, còn đặc điểm của một thế giới xuất hiện sau những cuộc biến loạn dữ dội ấy thì đã rõ từ lâu. Loại người nào sẽ thống trị thế giới ấy cũng đã rõ. Tầng lớp quí tộc mới xuất thân chủ yếu từ các công chức, các nhà khoa học, các kĩ sư, các lãnh tụ nghiệp đoàn, các chuyên gia trong lĩnh vực quảng cáo, các nhà xã hội học,

các giáo viên, các nhà báo và các nhà chính trị chuyên nghiệp. Họ vốn là các viên chức bậc trung và công nhân lớp trên được nền công nghiệp độc quyền và chính thể trung ương tập quyền đào tạo và gắn kết với nhau. Nếu so với những tổ chức tương tự trước kia thì họ không hám lợi bằng, không xa hoa bằng, nhưng tham quyền hơn và trên tất cả, họ biết rõ họ đang làm gì và quyết tâm hơn trong việc tiêu diệt mọi lực lượng đối lập. Điểm khác biệt cuối cùng lại chính là khác biệt quan trọng nhất. So với hiện nay thì tất cả các chính thể chuyên chế trong quá khứ đều là những chính thể thiếu kiên quyết và kém hiệu năng. Các nhà cầm quyền trước đây đều ít nhiều có tư tưởng tự do, họ sẵn sàng bỏ qua nhiều việc, họ chỉ ngăn chặn những hành động công khai mà không quan tâm đến việc các thần dân đang nghĩ gì. So với hiện nay thì nhà thờ Công Giáo thời Trung Cổ cũng còn bao dung hơn. Lí do một phần là vì các chính phủ trước đây không đủ sức theo dõi thường xuyên các thần dân của mình. Phát minh ra máy in làm cho việc điều khiển dư luận xã hội trở nên dễ dàng, chiếu bóng và phát thanh đã đẩy tiến trình này thêm một bước nữa. Cùng với việc phát triển của vô tuyến truyền hình và tiến bộ kĩ thuật cho phép ngay một lúc có thể truyền và nhận tín hiệu trên cùng một dụng cụ; đời sống cá nhân, riêng tư đã cáo chung. Tất cả các công dân, hay ít nhất tất cả các công dân quan trọng, đáng phải theo dõi đều có thể bị cảnh sát theo dõi hai mươi bốn giờ mỗi ngày và liên tục bị tiếng loa tuyên truyền chính thức rót vào tai, trong khi các kênh thông tin khác thì bị khoá kín. Đây là lần đầu tiên xuất hiện khả năng tạo ra không chỉ sự tuân phục tuyệt đối ý chí của nhà nước mà còn tạo ra sự thống nhất tuyệt đối quan điểm về mọi vấn đề.
Sau giai đoạn cách mạng những năm năm mươi và sáu mươi xã hội lại chia, như vẫn thế, thành ba giai tầng: thượng, trung và hạ lưu. Nhưng tầng lớp thượng lưu mới, khác hẳn với những bậc tiền bối, không hành động theo bản năng mà biết rõ phải làm gì để có thể giữ được vị trí của mình. Từ lâu người ta đã hiểu rằng cơ sở vững chắc nhất của chế độ băng đảng chính là chủ nghĩa tập thể. Sẽ dễ dàng bảo vệ tài sản và đặc quyền đặc lợi hơn nếu nó là của chung. Cái gọi là "thủ tiêu tư hữu" được thực hiện vào giữa thế kỉ hai mươi thực chất chỉ là tập trung tài sản vào trong tay một nhóm người, điều khác biệt duy nhất là chủ sở hữu hiện thời là tập thể chứ không phải là một đám đông những cá nhân riêng lẻ nữa. Về mặt cá nhân, mỗi đảng viên chỉ có một ít vật dụng cần thiết. Về mặt tập thể, Đảng nắm tất cả mọi thứ ở Oceania này, vì Đảng quản lí tất cả nên Đảng cũng phân phối sản phẩm theo cách mà

Đảng cho là phù hợp. Trong những năm sau cách mạng Đảng đã giành được vị trí lãnh đạo đó mà không gặp bất kì sự chống đối nào vì tất cả quá trình này được tiến hành nhân danh tập thể hoá. Người ta luôn luôn nghĩ rằng sau khi tước đoạt tài sản của giai cấp tư sản thì sẽ có chủ nghĩa xã hội và thế là bọn tư sản bị tước đoạt hết mà không ai thắc mắc gì. Nhà máy, hầm mỏ, đất đai, nhà cửa, phương tiện giao thông bị tịch thu bằng sạch và vì tất cả những cái đó không còn là sở hữu cá nhân nữa, chúng trở thành sở hữu tập thể. Chuanh, phát sinh từ phong trào xã hội chủ nghĩa trước đây và thừa hưởng được những thuật ngữ của phong trào ấy, trên thực tế đã thực hiện được điểm quan trọng nhất của chương trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, với một kết quả mà nó mong muốn và nó đã thấy trước: đấy là làm cho bất bình đẳng về kinh tế trở thành vĩnh viễn.
Nhưng vấn đề vĩnh cửu hoá chế độ đẳng cấp còn đi xa hơn. Có bốn cách làm cho người ta mất quyền lực. Hoặc là bị kẻ thù bên ngoài xâm lược, hoặc là lãnh đạo kém hiệu quả đến nỗi quần chúng đứng lên khởi nghĩa, hoặc là cho phép tầng lớp trung lưu mạnh và bất mãn xuất hiện, hoặc là đánh mất niềm tin và không muốn cầm quyền nữa. Bốn lí do này không xuất hiện riêng rẽ, ở mức độ này hay mức độ khác chúng thường xuất hiện cùng một lúc. Giai cấp cầm quyền nào đề phòng được cả bốn thì sẽ giữ được quyền lực mãi mãi. Nói cho cùng, nhân tố quyết định chính là trạng thái tâm lí của giai cấp cầm quyền.
Từ nửa sau thế kỉ hai mươi lí do thứ nhất thực chất là không còn. Ba siêu cường đã chia thế giới thành những vùng bất khả chiến bại, các nước này chỉ có thể bị chinh phục thông qua sự biến đổi dân số, quá trình này xảy ra chậm và một nhà nước mạnh sẽ dễ dàng đẩy lui được nguy cơ. Mối nguy thứ hai cũng chỉ còn trên lí thuyết. Quần chúng không bao giờ tự đứng lên khởi nghĩa, họ cũng không bao giờ khởi nghĩa chỉ vì bị đàn áp. Thực ra, nếu không có cái để so sánh thì họ cũng chẳng bao giờ biết họ bị đàn áp. Những cuộc khủng hoảng kinh tế theo chu kì trong quá khứ đã hoàn toàn không còn cần thiết, vả lại người ta cũng không để xẩy ra nữa, nhưng có những vụ lộn xộn lớn không khác gì khủng hoảng có thể và thực sự đã xảy ra mà không tạo ra biến cố chính trị nào vì không còn cách nào thể hiện sự bất bình công khai nữa. Vấn đề hàng hoá thặng dư, từng tiềm ẩn ngấm ngầm trong xã hội

ta kể từ khi công nghiệp phát triển, đã được giải quyết bằng bộ máy chiến tranh hoạt động liên tục (xem chương III), chiến tranh còn giúp giữ đạo đức xã hội luôn đứng ở tầm cao cần thiết nữa. Thế là, từ quan điểm của các nhà cầm quyền hiện nay mà xét thì mối nguy thực sự là ở khả năng xuất hiện các nhóm mới, có năng lực nhưng chưa được trọng dụng, lại có tham vọng quyền lực và sự phát triển chủ nghĩa tự do cũng như thái độ hoài nghi trong chính hàng ngũ của họ. Nói một cách khác, đấy là vấn đề giáo dục. Đấy là vấn đề liên tục nhào nặn ý thức của tầng lớp lãnh đạo và tầng lớp thực thi đông đảo hơn nằm ngay bên dưới tầng lớp lãnh đạo. Đối với ý thức của số đông quần chúng chỉ cần tác động theo hướng tiêu cực.
Trên cơ sở đó người ta có thể rút ra, nếu trước đó chưa biết, cấu trúc tổng quát của xã hội Oceania. Đỉnh kim tự tháp là Anh Cả. Anh Cả không bao giờ sai lầm và đầy quyền năng. Tất cả thắng lợi, tất cả thành tích, tất cả chiến thắng, tất cả các phát minh khoa học, tất cả kiến thức, tất cả trí tuệ, tất cả hạnh phúc, tất cả đức hạnh đều xuất phát trực tiếp từ sự lãnh đạo và động viên của Anh. Chưa ai nhìn thấy Anh Cả bao giờ. Người ta chỉ được thấy mặt Anh trên biểu ngữ, người ta chỉ được nghe tiếng Anh trên màn vô tuyến mà thôi. Chúng ta có đầy đủ cơ sở để tin rằng Anh là bất tử, đến ngày sinh của Anh cũng cực kì mù mờ. Anh Cả chỉ là chiêu bài mà Đảng dùng để tự giới thiệu mình với thế giới mà thôi. Anh là tiêu điểm của tình yêu, nỗi sợ hãi và lòng sùng bài, là những tình cảm dễ biểu lộ với một cá nhân hơn là với một tổ chức. Bên dưới Anh Cả là Đảng Nội Bộ với sáu triệu đảng viên, chiếm chưa đến hai phần trăm dân số Oceania. Bên dưới Đảng Nội Bộ là Đảng Ngoại Vi, nếu Đảng Nội Bộ là đầu óc thì Đảng Ngoại Vi giống như tay chân. Bên dưới nữa là đám quần chúng ngu dốt thường được gọi là "cu li" chiếm khoảng tám mươi lăm phần trăm dân số. Theo cách phân loại bên trên thì cu li là tầng lớp hạ lưu vì đám dân nô lệ thuộc vùng xích đạo được sang tay thường xuyên từ nước này qua nước khác nên không được coi là bộ phận cấu thành cần thiết của xã hội.
Về nguyên tắc các giai tầng xã hội không phải là cha truyền con nối. Con cái đảng viên Đảng Nội Bộ về nguyên tắc không phải là đảng viên ngay từ khi mới lọt lòng. Họ sẽ được kết nạp vào nhánh này hay nhánh kia của Đảng sau khi dự một kì thi khi tròn mười sáu tuổi. Trong Đảng không có sự phân biệt

nào về dân tộc hay địa phương. Ta có thể thấy cả người Do Thái, người da đen, người Nam Mĩ hay người Ấn Độ chính gốc trong ban lãnh đạo cao nhất của Đảng; các nhà lãnh đạo khu vực bao giờ cũng được chọn ngay trong khu vực đó. Không vùng nào ở Oceania cảm thấy mình là dân thuộc địa, bị điều khiển từ một thủ đô xa xôi nào đó. Oceania không có thủ đô, người đứng đầu nhà nước hiện ở đâu cũng không ai biết. Ngoài tiếng Anh là ngôn ngữ chung và Ngômo là ngôn ngữ chính thức ra, người ta không thấy một biểu hiện trung ương tập quyền nào. Những người cầm quyền liên kết với nhau không phải do quan hệ huyết thống mà là do cùng trung thành với một học thuyết. Xã hội ta là xã hội phân biệt đẳng cấp, mà lại phân biệt rất rõ nữa, mới nhìn thì cứ tưởng việc phân chia là do cha truyền con nối. Việc nhảy từ giai tầng này sang giai tầng khác ít xảy ra hơn thời tư bản chủ nghĩa, thậm chí ít hơn cả thời tiền công nghiệp. Việc chuyển đảng viên từ nhánh này sang nhánh kia cũng đôi khi xảy ra, nhưng chỉ ở mức tối thiểu sao cho có thể loại bỏ được những kẻ yếu đuối khỏi Đảng Nội Bộ và cho những đảng viên có nhiều tham vọng của Đảng Ngoại Vi lên để họ khỏi gây rắc rối mà thôi. Vô sản, trên thực tế, không được vào Đảng. Những người vô sản tài ba, có khả năng trở thành trung tâm bất mãn, sẽ bị Cảnh Sát Tư Tưởng theo dõi và trừ khử. Nhưng đấy không phải là nguyên tắc và cũng không xảy ra thường xuyên. Đảng không phải là một giai cấp theo nghĩa cũ của từ này. Đảng không đặt mục tiêu truyền ngôi cho con em của mình, nếu không thể tìm được những người có năng lực nhất trong tầng lớp chóp bu thì Đảng sẵn sàng tuyển cả một thế hệ lãnh đạo mới từ tầng lớp vô sản. Việc đảng không phải là tập đoàn cầm quyền cha truyền con nối đã giúp ngăn chặn được phong trào đối lập trong những giai đoạn quyết định. Những người xã hội chủ nghĩa kiểu cũ, những người đã từng được đào luyện trong cuộc đấu tranh chống lại cái gọi là "đặc quyền đặc lợi giai cấp" cho rằng không thế tập thì chẳng thể bền. Họ không hiểu rằng sự kế tục của băng đảng không dứt khoát phải mang tính di truyền, họ cũng không có thì giờ để nghĩ rằng tầng lớp quí tộc thế tập thường chóng "phải ra quét chùa" [2] , trong khi các tổ chức chọn người theo kiểu tuyển lựa, như nhà thờ Thiên Chúa Giáo chẳng hạn, có thể tồn tại hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm. Thực chất của kiểu quản lí băng đảng không phải là cha truyền con nối mà là sự ổn cố của một thế giới quan và một cách sống, do người chết áp đặt lên người sống. Nhóm đương quyền chỉ còn đương quyền khi có khả năng chỉ định được người kế tục. Đảng không quan tâm đến việc lưu lại dòng máu của mình, Đảng chỉ quan tâm đến việc lưu lại chính mình. Ai nắm quyền không quan trọng, miễn là xã hội đẳng cấp như thế này cứ tồn tại mãi là được.

Tất cả các tín ngưỡng, thói quen, thị hiếu, tình cảm, thái độ đặc trưng cho thời đại chúng ta, đã được định hình sao cho có thể duy trì mãi tính chất thần bí của Đảng và ngăn không cho người ta hiểu được thực chất của chế độ hiện hành. Ngày nay, không chỉ khởi nghĩa mà ngay cả những bước chuẩn bị đầu tiên cho một cuộc khởi nghĩa cũng không thể nào thực hiện được. Vô sản chẳng phải sợ ai. Tự thân họ sẽ cứ sống như thế từ thế hệ nọ đến thế hệ kia, từ thế kỉ này sang thế kỉ khác; họ sẽ vẫn làm, vẫn sinh con đẻ cái rồi chết; không bao giờ nghĩ đến khởi nghĩa, thậm chí không bao giờ nghĩ rằng người ta có thể sống khác hiện nay. Họ chỉ có thể trở thành mối đe doạ khi tiến bộ kĩ thuật đòi hỏi phải đào tạo họ thành những người có học thức hơn, nhưng vì công cuộc cạnh tranh về quân sự cũng như thương mại đã trở thành không quan trọng, nền giáo dục quốc dân thực chất là đang đi xuống. Quần chúng nghĩ gì hoặc chẳng nghĩ gì không phải là việc đáng quan tâm. Họ được tự do tư tưởng vì đằng nào họ cũng chẳng có tư tưởng gì. Đảng viên thì lại khác, ngay cả một sự lệch lạc tối thiểu về tư tưởng đối với những vấn đề đơn giản nhất cũng bị coi là không thể chấp nhận được.
Đảng viên, từ khi sinh đến khi chết, phải sống dưới sự giám sát thường xuyên của Cảnh Sát Tư Tưởng. Ngay cả khi ở một mình, anh ta cũng không dám chắc chỉ có một mình. Dù ở đâu, dù thức hay ngủ, dù đang làm việc hay đang nghỉ ngơi, dù đang ở trên giường hay trong phòng tắm; anh ta vẫn có thể bị theo dõi mà không được thông báo, cũng như không biết mình đang bị theo dõi. Hành vi nào cũng là quan trọng hết. Bạn bè của anh ta, cách anh ta nghỉ ngơi, cách anh ta đối xử với vợ con, nét mặt khi anh ta ở một mình, lời anh ta nói lúc ngủ mê, ngay cả những động tác đặc thù của cơ thể, tất cả đều được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng. Không chỉ hành vi mà bất kì một sự lập dị nào, bất kì thói quen mới nào, bất kì một động tác nóng nảy nào, có thể biểu lộ triệu chứng của sự giằng xé nội tâm chắc chắn đều được ghi nhận. Anh ta không được tự do lựa chọn bất cứ vấn đề gì. Nhưng mặt khác, hành vi của anh ta lại không được điều chỉnh bởi bất kì điều luật hay qui định thành văn nào. Oceania không có luật. Không có tư tưởng và hành vi nào bị cấm một cách chính thức (ngay cả đấy là những tư tưởng và hành vi đáng tội tử hình nếu bị phát hiện); những cuộc thanh trừng, những vụ bắt giữ, tra tấn, tù đày và bốc hơi bất tận không có mục đích trừng phạt một tội cụ thể đã phạm mà đơn giản chỉ là việc loại bỏ những phần tử có thể sẽ phạm tội trong

tương lai mà thôi. Đảng viên không chỉ cần có quan điểm đúng mà còn phải có bản năng đúng nữa. Thái độ và quan điểm của anh ta không bao giờ được công bố công khai và không thể công bố nếu không bóc trần những mâu thuẫn nội tại của Chuanh. Nếu bản chất anh ta là người chính thống (Ngômo gọi là chánhtudu) thì trong bất kì trường hợp nào anh ta cũng biết phải có thái độ và tình cảm như thế nào, mà không cần suy nghĩ dù chỉ một giây. Việc đào luyện ngay từ lúc bé trên cơ sở những từ như ngưngtội, trắngđen và nướcđôi đã làm cho anh ta không còn muốn và không thể suy nghĩ bất cứ chuyện gì một cách thấu đáo nữa.
Đảng viên phải luôn tràn đầy nhiệt huyết và không được có bất kì tình cảm riêng tư nào. Anh ta phải luôn luôn sôi sục căm thù bè lũ cướp nước và bán nước, phải luôn luôn hân hoan với mỗi chiến công, phải tự hạ mình trước sức mạnh và trí tuệ của Đảng. Những bất mãn vì cuộc sống ô trọc và bức bối được hướng một cách có chủ đích vào các đối tượng bên ngoài và được xua đi bằng các biện pháp như Hai Phút Hận Thù; những tư tưởng có thể dẫn đến thái độ hoài nghi và chống đối đã bị tính kỉ luật, tiếp thu được từ ngày còn bé, giết chết ngay từ trong trứng nước. Bước đầu tiên và đơn giản nhất của tinh thần kỉ luật, ngay trẻ con cũng tiếp thu được, gọi bằng Ngômo là ngưngtội. Ngưngtội là khả năng ngăn chặn ngay lập tức, có thể nói là theo bản năng, mọi ý nghĩ tội lỗi trước khi nó xuất hiện. Nó bao gồm khả năng không nhận thấy những trường hợp tương tự, không phát hiện được những sai lầm có tính logic, không chịu hiểu những luận cứ đơn giản nhất nếu như luận cứ ấy đi ngược lại quan điểm của Chuanh, phải tỏ ra chán và không chấp nhận mọi luồng tư tưởng có thể dẫn vào con đường ngoại đạo. Tóm lại, ngưngtội là ngu si để được an toàn. Nhưng ngu si không chưa đủ. Ngược lại, chính thống, theo đúng nghĩa của từ này, đòi hỏi người ta phải kiểm soát được tất cả các quá trình tâm lí như người uốn dẻo kiểm soát cơ thể của họ vậy. Nói một cách rốt ráo thì toàn bộ xã hội của Oceania được xây dựng trên niềm tin rằng Anh Cả là người cực kì thông thái còn Đảng thì không bao giờ sai. Nhưng vì Anh Cả không phải là người cực kì thông thái mà Đảng thì cũng rất hay sai cho nên cần phải thường xuyên, từng phút từng giây, xử lí quá khứ một cách mềm dẻo. Mấu chốt là từ trắngđen. Giống như nhiều từ Ngômo khác, từ này có hai nghĩa hoàn toàn đối nghịch nhau. Đối với kẻ thù thì đấy là thói quen tuyên bố một cách trâng tráo rằng đen là trắng, bất chấp sự thật hiển nhiên. Đối với đảng viên thì đấy là sẵn sàng tự nguyện nói rằng đen là trắng khi kỉ luật Đảng đòi hỏi như thế. Nhưng nó còn đòi hỏi phải tin

rằng đen là trắng, hơn nữa phải biết đen là trắng, và quên đi là trước đây mình đã từng tin ngược lại. Điều đó đòi hỏi phải thường xuyên sửa lại quá khứ. Việc sửa lại quá khứ được thực hiện trên cơ sở một phương pháp tư duy, thực chất đây là phương pháp bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống, gọi theo Ngômo là nướcđôi.
Quá khứ phải được sửa lại vì hai lí do. Lí do phụ, có tính chất phòng ngừa như sau: đảng viên cũng như vô sản phải chấp nhận điều kiện sống như hiện nay vì họ không có tiêu chuẩn nào để so sánh. Để có thể luôn tuôn tin rằng chúng ta sống sướng hơn tổ tiên và mức sống càng ngày càng được nâng cao, người ta phải bị cắt đứt với quá khứ, cũng như không được tiếp xúc với người ngoại quốc. Nhưng có một lí do quan trọng hơn nhiều đấy là chặn đứng mọi nghi ngờ rằng đảng cũng có thể sai. Muốn chứng minh Đảng luôn luôn dự đoán đúng thì phải sửa không chỉ những bài diễn văn, những số liệu thống kê và những tài liệu khác cho phù hợp với tình hình hiện tại. Hơn nữa, không được thừa nhận bất kì sự thay đổi nào trong lí thuyết cũng như đường lối chính trị nữa. Bởi vì thay đổi quan điểm hay đường lối chính sách nghĩa là thừa nhận mình yếu. Nếu, lấy thí dụ, Eurasia là kẻ thù (hoặc Eastasia, ai là kẻ thù không quan trọng) thì nó đã luôn luôn là kẻ thù. Phải sửa tất cả những sự kiện chứng minh ngược lại. Cứ phải viết đi viết lại lịch sử là vì thế. Việc xuyên tạc quá khứ do Bộ Sự Thật tiến hành hàng ngày cũng cần thiết cho sự ổn định của chế độ như việc theo dõi và đàn áp do Bộ Tình Yêu làm mà thôi.
Tính khả biến của quá khứ là luận điểm cơ bản nhất của Chuanh. Luận điểm này khẳng định rằng các sự kiện của quá khứ không tồn tại một cách khách quan, chúng chỉ có trên giấy và trong đầu óc người ta mà thôi. Quá khứ là tất cả những gì được ghi bằng giấy trắng mực đen và phù hợp với kí ức. Và vì Đảng quản lí tất cả mọi loại tài liệu cũng như hoàn toàn làm chủ đầu óc của các đảng viên nên Đảng thích quá khứ thế nào thì nó sẽ là thế ấy. Từ đó lại có thể kết luận rằng mặc dù quá khứ là khả biến, nó chưa hề bị biến đổi trong một thời khắc cụ thể nào đó. Vì khi nó được tái tạo trong một hình thức cần thiết nào đó cho phù hợp với hoàn cảnh thì đấy chính là quá khứ, làm gì còn một quá khứ nào khác. Điều này đúng ngay cả khi một sự kiện nào đó bị sửa chữa, đến không còn nhận ra được, mấy lần trong một năm. Lúc nào đảng

cũng nắm được chân lí tuyệt đối, cho nên phải nói cái tuyệt đối chính là cái đang là. Dễ dàng thấy rằng làm chủ quá khứ phụ thuộc chủ yếu vào việc rèn luyện trí óc. Sửa tất cả tài liệu cho phù hợp với đòi hỏi của hiện tại là công việc không cần một chút sáng tạo nào. Nhưng quan trọng hơn là phải nhớ sự kiện đã xảy ra theo đúng chiều hướng mong muốn. Nếu cần phải xào xáo kí ức hay sửa lại tài liệu thì cũng phải lập tức quên ngay là mình đã làm chuyện đó. Trò này cũng có thể học được, nó cũng chỉ là một trong những cách rèn luyện trí năng mà thôi. Đa số đảng viên cũng như những người thông minh hay sùng tín đều nắm được. Ngôn ngữ cũ gọi đấy là "chinh phục hiện thực". Ngômo thì gọi là nướcđôi, mặc dù nướcđôi bao hàm nhiều lĩnh vực hơn.
Nướcđôi nghĩa là khả năng giữ trong đầu cùng một lúc hai quan điểm trái ngược nhau. Một đảng viên thông minh luôn luôn biết lái kí ức của anh ta vào đúng hướng cần thiết và như vậy anh ta biết rằng mình đang chơi trò đánh lận con đen, nhưng nhờ phương phát tư duy theo kiểu nướcđôi mà anh ta lại lấy làm hài lòng là hiện thực không hề bị xúc phạm. Đây là quá trình đòi hỏi phải tỉnh giác vì nếu không sẽ không thể nào chính xác được; nhưng lại phải làm một cách vô thức vì nếu không sẽ có cảm giác giả mạo, nghĩa là có lỗi. Nướcđôi chính là phần tinh tuý nhất của Chuanh vì thực chất là Đảng sử dụng mánh khoé bịp bợm một cách có ý thức, trong khi vẫn giữ vững mục tiêu, nghĩa là phải hoàn toàn trung thực. Nói một điều mình biết rõ là dối trá, trong khi lại chân thành tin vào nó; quên ngay sự kiện khi thấy không còn phù hợp, nhưng lại lôi được nó ra từ trong kí ức khi cần; phủ nhận sự tồn tại của thực tế khách quan trong khi vẫn phải tính đến chính cái thực tế mà mình vừa phủ nhận đó, đấy là những điều cực kì cần thiết phải nhớ. Lại còn phải áp dụng thái độ nướcđôi khi sử dụng chính từ nướcđôi nữa kia. Vì người ta biết rằng sử dụng từ đó nghĩa là đang dùng trò đánh lận con đen đối với hiện thực; phải cần một cú nướcđôi nữa để xoá nó khỏi đầu và cứ thế chẳng bao giờ ngừng, mà trong tiến trình đó giả dối bao giờ cũng đi trước sự thật đúng một bước. Cuối cùng, nhờ nướcđôi mà Đảng đã, cũng có thể là sẽ tiếp tục hàng ngàn năm nữa, chặn đứng được vòng quay của bánh xe lịch sử.
Tất cả các tập đoàn băng đảng trong quá khứ đều bị mất quyền lực vì bệnh giáo điều cứng nhắc hoặc trở nên quá mềm yếu. Họ, hoặc là trở thành những kẻ ngu dốt và ngạo mạn, không thể tự điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh

và bị lật đổ; hoặc là trở thành những người có tư tưởng tự do, nhút nhát và cũng bị lật đổ. Có thể nói họ thất bại là vì tỉnh giác hoặc vì thiếu tỉnh giác. Việc sáng tạo ra một phương pháp tư duy cho phép cả tỉnh giác và vô thức cùng song hành là một thắng lợi to lớn của Đảng. Chỉ có trên cơ sở tri thức đó, Đảng mới có thể duy trì quyền lực "đến muôn đời sau". Người muốn nắm quyền hoặc muốn tiếp tục nắm quyền phải biết cách bóp méo cảm nhận thực tại. Vì bí quyết của bá quyền là sự kết hợp giữa niềm tin vào sự đúng đắn của mình và khả năng học hỏi từ những sai lầm của quá khứ.
Chẳng cần phải nói rằng chính những người phát minh ra nướcđôi đã coi đây là một hệ thống lừa bịp vĩ đại và là những người sử dụng nướcđôi một cách tài tình nhất. Trong xã hội ta, người nắm được thông tin nhiều nhất lại chính là người xa rời thực tế nhất. Nói chung, càng hiểu nhiều thì càng lắm ảo tưởng; càng thông minh thì càng ít tỉnh táo. Có thể thấy rõ điều đó qua minh hoạ sau đây: người càng làm to càng hiếu chiến. Chính những người bị trị trong các vùng tranh chấp lại có thái độ hữu lí nhất đối với chiến cuộc. Đối với họ chiến tranh chỉ là những tai hoạ liên tục đập vào người như sóng thủy triều vậy thôi. Bên nào thắng không thành vấn đề. Họ biết rằng thay đổi chính thể cũng chỉ có nghĩa là họ vẫn làm những công việc cũ cho những ông chủ mới, còn các ông chủ mới thì đối xử với họ cũng hệt như các ông chủ cũ. Những người lao động ở vị trí ưu tiên hơn một chút mà ta gọi là "cu li" chỉ thỉnh thoảng mới biết chiến tranh là thế nào. Khi cần, họ có thể bị kích động cho đến gần như điên loạn vì căm thù hay hoảng loạn, nhưng nếu được để yên thì còn lâu họ mới nhớ đến chiến tranh. Hăng hái chiến đấu nhất là các đảng viên, đặc biệt là đảng viên Đảng Nội Bộ. Tin tưởng nhất vào việc chinh phục toàn thế giới lại chính là những người biết rằng đó là việc không thể nào thực hiện được. Sự liên kết kì quặc giữa các mặt đối lập: hiểu biết và ngu đần, vô liêm sỉ và cuồng tín là đặc trưng cơ bản của xã hội Oceania. Hệ tư tưởng chính thức đầy rẫy mâu thuẫn. Theo đó, Đảng, nhân danh chủ nghĩa xã hội, đã bác bỏ và phỉ báng tất cả các nguyên tắc cơ bản của phong trào xã hội chủ nghĩa. Đảng truyền bá một thái độ khinh miệt, chưa từng có trong các thế kỉ trước, đối với giai cấp công nhân nhưng lại cho các đảng viên mặc những bộ đồng phục vốn một thời được dùng cho những người lao động chân tay. Đảng phá hoại ngầm một cách có hệ thống sự gắn bó của gia đình, nhưng lại gọi lãnh tụ của mình bằng một cái tên nhắc nhớ trực tiếp đến tình cảm họ hàng. Ngay tên gọi của bốn Bộ đang quản lí chúng ta cũng cho thấy mức độ trâng tráo của họ trong việc đổi trắng thay đen. Bộ Hoà Bình thì tiến

hành chiến tranh, Bộ Sự Thật thì làm tài liệu giả, Bộ Tình Yêu thì tra tấn, còn Bộ Ấm No thì bỏ dân chết đói. Nhưng đấy không phải là vô tình, cũng không phải là thói đạo đức giả, đấy là nướcđôi trong thực tiễn. Vì chỉ có hoá giải được các mặt đối lập thì mới vĩnh viễn nắm giữ được quyền lực. Đấy là cách duy nhất có thể cắt đứt cái chu kì đã có tự ngàn xưa. Nếu muốn ngăn chặn vĩnh viễn sự bình đẳng giữa người với người, nếu tầng lớp mà ta vẫn gọi là thượng lưu muốn nắm giữ mãi vị trí độc tôn của họ thì trạng thái tinh thần chủ đạo của xã hội phải là sự điên rồ được kiểm soát.
Nhưng còn một vấn đề nữa, cho đến nay ta chưa nói tới. Đấy là, tại sao phải ngăn chặn sự bình đẳng giữa người với người? Giả sử như cơ chế của quá trình được trình bày một cách chính xác thì động cơ nào thúc đẩy người ta tiến hành một khối lượng công việc đồ sộ, theo một kế hoạch chính xác nhằm chặn đứng vòng quay của bánh xe lịch sử tại một thời điểm nhất định?
Chúng ta đang tiến gần đến bí mật quan trọng nhất. Như chúng ta đã thấy, tính chất thần bí của Đảng, nhất là Đảng Nội Bộ phụ thuộc trực tiếp vào nướcđôi. Nhưng bên dưới nó là cái động cơ nguyên thủy, cái bản năng chưa hề được khảo sát, dẫn đến việc đầu tiên là chiếm quyền sau đó mới tạo ra nướcđôi, rồi thành lập Cảnh Sát Tư Tưởng, rồi tiến hành chiến tranh liên miên và đủ thứ cần thiết khác cho chế độ. Động cơ đó là...»
Winston cảm thấy được sự im lặng, như người ta nghe thấy âm thanh vậy. Anh thấy dường như Julia không hề động đậy đã khá lâu rồi. Cô nằm nghiêng, hở từ thắt lưng trở lên, má đặt trên lòng bàn tay, một lọn tóc đen vắt ngang qua mắt. Ngực cô đưa lên đưa xuống một cách chậm rãi và nhịp nhàng.
"Julia?"

Không thấy cô trả lời.
"Julia, em ngủ hả?"
Vẫn không thấy cô trả lời. Cô đang ngủ. Anh gấp sách rồi thả nhẹ xuống sàn và nằm xuống, kéo chăn đắp cho cả hai người.
Anh nằm yên, tiếp tục suy nghĩ, thế là anh vẫn chưa biết được cái bí mật quan trọng nhất. Anh hiểu làm thế nào, nhưng không hiểu tại sao. Chương I và chương III không có gì mới, nó chỉ hệ thống lại những kiến thức mà anh đã biết. Nhưng sau khi đọc xong thì anh biết một cách chắc chắn rằng mình không điên. Thiểu số, ngay cả rút lại chỉ còn một người cũng không có nghĩa là điên. Thật và giả luôn luôn tồn tại, nếu ta bám chặt vào sự thật, dù cho có phải chống lại cả thế gian thì ta vẫn không phải là một người điên. Một tia nắng vàng chiếu qua cửa sổ và rơi xuống cái gối. Winston nhắm mắt lại. Tia nắng mặt trời âm ấm vờn trên má cùng với những xúc chạm vào da thịt mềm mại của người con gái tạo ra trong anh cảm giác tin tưởng vừa mơ màng, vừa mạnh mẽ. Anh vẫn an toàn, mọi việc vẫn tốt. Anh thiếp đi, miệng lẩm bẩm: "Sáng suốt không phải là số liệu thống kê", thâm tâm thấy như câu đó chứa cả một đạo lí sâu sắc.
[1]Nguyên văn: like three sheaves of corn - giống như ba cây ngô. [2]Nguyên văn shortlived – mau chết, chóng tàn.

X.
Sau khi thức giấc anh cứ ngỡ mình đã ngủ lâu lắm rồi, nhưng hoá ra đồng hồ mới chỉ tám giờ hai mươi. Anh lại thiếp đi một lúc nữa; tiếng hát quen thuộc vọng lại từ cái sân bên dưới:
"Chỉ là những giấc mơ thôi, Vút qua như ngày xuân mới Người xưa giờ ở nơi đâu
Lòng em thổn thức khôn nguôi Bao giờ gặp lại người ơi"
Có vẻ như bài hát vô duyên này vẫn còn thịnh hành lắm. Ở đâu cũng nghe thấy người ta hát. Nó sống dai hơn "Bài ca hận thù". Tiếng hát cũng làm Julia thức giấc, cô khoan khoái duỗi dài chân ra rồi bước xuống giường.
"Em đói rồi", cô bảo. "Pha cà phê nhá. Chán quá, dầu thì hết, nước thì nguội ngắt". Cô đưa cái bếp lên và lắc. "Hết tiệt dầu rồi"
"Hay hỏi xin ông chủ một ít"
"Lạ nhỉ, em vừa thấy còn đầy mà. Em phải mặc áo vào đây", cô nói thêm. "Có vẻ lạnh rồi"

Wnston cũng đứng dậy lấy áo mặc. Tiếng hát vẫn tiếp tục.
"Người bảo rằng rồi sẽ qua đi
Người bảo rằng rồi sẽ quên thôi. Nước mặt, nụ cười, ngày tháng cứ trôi Mà lòng em chẳng thể nào nguôi"
Vừa kéo thắt lưng bộ đồng phục Winston vừa bước lại gần cửa sổ. Mặt trời đã lặn, ánh sáng đã tắt. Mặt đá lát sân ướt như vừa được kì cọ vậy; anh có cảm giác như bầu trời cũng như vừa được kì cọ, xanh nhạt và thật tươi. Người đàn bà vẫn đi đi lại lại, không biết mỏi, lúc ngậm cái móc áo, lúc lấy ra, hát một tí rồi ngừng, rồi lại hát và cứ phơi, phơi mãi. Winston tự hỏi không biết bà ta giặt thuê hay là phải "hầu" vài ba chục đứa cháu nội ngoại. Julia lại đứng bên anh, cả hai cùng lặng lẽ thán phục ngắm nhìn người đàn bà mạnh mẽ ở bên dưới. Nhìn động tác quen thuộc của bà ta, tay giơ lên treo tã, mông to như mông ngựa vẩy lên, Winston chợt nhận ra là bà ta khá đẹp. Chưa bao giờ anh nghĩ rằng cơ thể một người đàn bà ngoài năm mươi, sồ sề ra vì những lần sinh nở rồi khô cứng đi, đanh lai như một củ cải già vì phải làm việc quá sức lại có thể đẹp. Nhưng thật thế, bà ta đẹp, và hơn nữa, anh nghĩ, tại sao không? Da đỏ và thô, thân hình rắn rỏi và chẳng còn eo iếc gì, so với một cô gái thì bà ta giống như quả tầm xuân đặt cạnh bông hoa chúm chím. Nhưng tại sao quả lại không bằng hoa?
"Bà ta đẹp đấy", anh thì thầm.
"Vòng hai phải hai mét là ít", Julia bảo.
"Đấy cũng là một kiểu đẹp", Winston nói.

Anh lấy tay ôm ngang eo cô. Cô dựa sát vào anh. Họ sẽ không bao giờ có con. Số phận là như thế. Họ chỉ có thể truyền miệng, từ người này sang người kia cái bí mật họ giữ trong đầu. Người đàn bà dưới kia không có đầu, bà ta chỉ có một đôi tay rắn chắc, một trái tim yêu thương và cái bụng mắn đẻ mà thôi. Anh tự hỏi không biết bà ta đã sinh cả thẩy mấy lần. Trông thế kia phải mười lăm lần là ít. Bà ta cũng có một giai đoạn xuân thì ngắn, chừng khoảng một năm, làm con gái dậy thì, đẹp như một đoá hồng dại rồi giống như đoá hoa đã thụ phấn, bà ta phồng lên, rắn lại, da thành đỏ quạch và thô và sau đó cuộc đời chỉ còn là chuỗi những giặt giũ, quét dọn, vá may, nấu nướng, sửa chữa, quét dọn vá may, quét dọn, giặt giũ; đầu tiên là cho con rồi sau là cho cháu, trên ba mươi năm, không nghỉ. Thế mà vẫn còn sức hát. Lòng cảm phục không lí giải được của anh đối với bà ta như tan vào khung cảnh của bầu trời xanh nhạt, không một gợn mây, kéo dài từ sau những ống khói trước mặt đến mãi khoảng không vô cùng vô tận. Bầu trời thì ở đâu chả vậy, ở đây cũng thế, mà ở Eurasia hay Eastasia thì cũng thế mà thôi. Con người dưới gầm trời này thì cũng giống nhau, khắp nơi, trên toàn thế giới này, hàng trăm triệu người cũng giống như người phụ nữa kia, họ không biết gì về sự tồn tại của nhau, họ bị phân cách bởi những bức tường hận thù và dối trá, và tuy giống hệt nhau, họ không học được cách tư duy đúng, nhưng lại tích tụ trong tim gan, trong đầu óc, trong cơ bắp một sức mạnh có thể xoay chuyển cả thế gian trong một ngày nào đó. Nếu có hi vọng thì đấy chính là bọn cu li! Tuy chưa đọc hết cuốn sách nhưng anh biết rằng đấy phải là thông điệp của Goldstein. Tương lai thuộc về cu li. Liệu có thể tin được rằng sau này, khi thời thế đến, xã hội do những người cu li tạo dựng, đối với anh, Winston Smith, sẽ là một xã hội không xa lạ như của Đảng hiện nay không? Có thể tin như thế, vì ít nhất nó cũng sẽ là xã hội sáng suốt. Ở đâu có bình đẳng ở đó sẽ có sáng suốt. Trước sau gì điều đó cũng sẽ xảy ra, không chóng thì chày sức mạnh sẽ biến thành nhận thức. Cu li là dân mà dân thì vạn đại, chỉ cần nhìn vào cái thân hình kiên cường ở dưới sân kia là mọi ngờ vực đều sẽ tiêu tan. Nhất định cuối cùng họ sẽ tỉnh ngộ. Còn bây giờ, trong khi điều đó chưa xảy ra, có thể phải chờ đợi cả ngàn năm nữa, họ vẫn cứ phải sống, mặc kệ tất cả, giống như chim trời, tiếp tục truyền từ người này sang người khác cái sức sống mà Đảng không có nhưng cũng không thể huỷ diệt được.

"Em có nhớ", anh hỏi, "cái con chim hát cho chúng ta nghe ở bìa rừng hôm nọ không?"
"Nó đâu có hót cho chúng ta", cô bảo. "Nó hót cho vui. Thế cũng không đúng. Nó chỉ hót vậy thôi"
Chim hót, cu li hát, chỉ có Đảng không hề hát. Khắp nơi trên trái đất này, ở London và New York, ở châu Phi và Brazil, ở những khu vực bí ẩn, ta không được quyền đặt chân tới, ở trên các đường phố Paris và Berlin, ở trên những bình nguyên bạt ngàn của nước Nga, trong các chợ ở Trung Quốc và Nhật Bản, đâu đâu cũng là hình ảnh người đàn bà mạnh mẽ, bất khả chiến bại đó, đâu đâu cũng là những người như thế, dù có bị phồng ra vì sinh con đẻ cái, dù có phải làm việc quần quật từ lúc lọt lòng cho đến lúc chết, họ vẫn hát. Những cái hĩm đầy sức mạnh đó nhất định rồi sẽ sản sinh ra một chủng tộc có ý thức. Ta đã chết, tương lai thuộc về họ. Nhưng ta có thể tham gia tạo lập tương lai đó nếu ta vẫn giữ được tâm, như họ giữ được thân và truyền đi mãi cái học thuyết bí mật rằng hai cộng hai là bốn.
"Chúng ta đã chết", anh nói.
"Chúng ta đã chết", Julia đáp.
"Các người đã chết", một giọng sắc lạnh rít lên ngay đằng sau lưng.
Họ nhảy về hai phía khác nhau. Winston cảm thấy ruột gan đông cứng lại như đá. Anh nhìn thấy đồng tử của Julia dãn ra. Mặt cô vàng bệch như màu kem. Những đốm tàn nhang trên gò má càng nổi rõ hơn, như thể chúng không còn bám trên da thịt nữa.

"Các người đã chết", tiếng nói kia lặp lại.
"Nó ở đằng sau bức tranh ấy", Julia thì thầm.
"Nó ở đằng sau bức tranh", giọng nói đế theo. "Đứng yên tại chỗ. Không được cử động nếu không có lệnh"
Bắt đầu rồi, thế là bắt đầu rồi! Họ cứ đứng yên như thế, người nọ nhìn vào mắt người kia. Chạy trốn, lao ra khỏi nhà trước khi quá muộn - ý nghĩ ấy thậm chí không hề xuất hiện trong đầu cả hai người. Không thể có chuyện chống lại giọng nói phát ra từ cái loa trên tường. Nghe có tiếng như cái then cửa đóng, rồi tiếng kính vỡ. Bức tranh khắc rơi xuống, phía sau nó là màn vô tuyến.
"Bây giờ họ sẽ nhìn thấy chúng ta", Julia bảo.
"Bây giờ chúng ta sẽ nhìn thấy các người", giọng nói kia nhắc lại. "Đứng vào giữa phòng. Quay lưng lại với nhau. Tay vòng ra sau gáy. Hai người không được chạm nhau"
Họ không chạm vào nhau, nhưng anh có cảm giác Julia đang run bắn lên. Hay đấy là do chính anh đang run cũng nên. Anh có thể ngăn không cho răng đánh vào nhau, nhưng đầu gối thì chịu, không điều khiển được. Có tiếng giày đinh, cả bên dưới, bên trong cũng như bên ngoài căn nhà. Ngoài sân có vẻ như đã đầy người. Có tiếng kéo vật gì đó trên nền đá lát. Tiếng hát của người đàn bà đột ngột ngừng bặt. Có tiếng lạch cạch như vật gì đó đang lăn, có thể họ quăng cái bồn giặt trên mặt sân, rồi những tiếng hò hét, tức tối,

cuối cùng là tiếng thét lên vì đau đớn.
"Nhà đã bị vây", Winston nói.
"Nhà đã bị vây", giọng nói đế theo.
Anh nghe thấy tiếng răng Julia đập vào nhau.
"Hay chúng ta nói lời chia tay ở đây", Julia bảo.
"Các người có thể nói lời chia tay", giọng kia nhắc lại.
Đúng lúc đó có một giọng nam cao, rõ là của một người có học, Winston cảm thấy đã từng nghe ở đâu rồi:
"Nhân thể nói đến chuyện này: Nghe thì thắp nến cho đi vào giường, không nghe lấy búa thì mày tan xương!"
Một vật gì đó rơi xuống cái giường đằng sau Winston. Người ta chọc một cái thang qua ô cửa sổ và móc đầu nó vào khung sắt. Có người đang leo lên. Có tiếng bước chân vội vã chạy lên thang gác phía trong nhà. Căn phòng đã đầy những người đàn ông vận đồng phục đen, giày đinh, tay lăm lăm dùi cui.

Winston không còn run nữa. Mắt anh cũng gần như không chớp. Chỉ có một việc phải nhớ: không được động đậy, không được động đậy để chúng không có cớ đánh mình! Trước mặt anh là một người đàn ông cằm bạnh như võ sĩ quyền Anh, cái miệng thì chỉ như một vết nứt, trầm ngâm, mân mê dùi cui. Winston nhìn thẳng vào mắt hắn. Cảm giác như đang bị lột trần truồng, tay chắp sau gáy, thân thể thì phơi ra làm anh gần như không thể chịu nổi. Người đàn ông lè cái lưỡi trắng và liếm chỗ trước đây đã từng là môi và bước đi. Có tiếng đập mạnh. Một kẻ nào đó đã nhặt cái chặn giấy bằng thuỷ tinh và ném vào lò sưởi.
Một mẩu san hô nhỏ tí màu hồng, trông giống như nụ hoa bằng đường trên chiếc bánh sinh nhật, lăn trên tấm thảm. Nhỏ quá, Winston chợt nghĩ, sao nó lại nhỏ thế nhỉ! Có tiếng thở mạnh và tiếng đấm vào một vật mềm; rồi anh bị đá thật mạnh vào mắt cá, suýt ngã. Một tên đấm vào bụng Julia làm cô gục ngay xuống sàn. Cô quằn quại dưới sàn nhà, gần như không thở nổi. Winston không dám quay đầu, dù chỉ một phân, nhưng thỉnh thoảng khuôn mặt trắng bệch, đang thở dốc của cô cũng lọt vào tầm mắt anh. Dù rất hoảng sợ anh vẫn cảm thấy như chính cơ thể mình đang đau, đau đến chết đi được, nhưng đau vẫn không sợ bằng cô đang khó thở. Anh biết rõ: đau khủng khiếp, đau như chết đi sống lại, không lúc nào ngừng, nhưng đâu có cảm giác bởi vì trước hết phải là thở đã! Sau đó hai tên nắm lấy đầu gối và vai cô rồi khiêng ra khỏi phòng như khiêng một cái bao tải. Winston thoáng thấy mặt cô, úp sấp, méo xệch, màu vàng, mắt nhắm nghiền, những nốt tàn nhang hiện rõ trên hai gò má; đây là lần cuối cùng anh nhìn thấy cô.
Anh vẫn đứng lặng như chết. Chưa bị đánh. Trong đầu cứ hiện lên đủ thứ ý nghĩ. Anh tự hỏi không biết chúng đã bắt ông Charrington chưa. Anh tự hỏi không biết chúng đã làm gì với người đàn bà phơi tã dưới sân. Anh rất muốn đi tiểu và lấy làm ngạc nhiên vì mới tiểu tiện cách đây có vài tiếng. Anh thấy chiếc đồng hồ bên trên lò sưởi chỉ số chín, nghĩa là mới có hai mươi mốt giờ. Nhưng trời sáng lắm. Tháng tám thì hai mươi mốt giờ trời phải tối rồi chứ? Hay là anh và Julia nhầm, cho rằng mới ngủ một tiếng nghĩa là dậy lúc hai mươi giờ rưỡi, trong khi thực ra là tám rưỡi sáng ngày hôm sau. Nhưng anh không theo tiếp ý nghĩ đó. Anh không còn quan tâm nữa.

Có tiếng bước chân đi theo thang gác, lần này nhẹ hơn. Ông Charrington bước vào phòng. Những người mặc đồng phục đen lập tức im bặt. Trông ông Charrington cũng khác mọi hôm. Ông ta nhìn những mảnh thuỷ tinh vỡ trên sàn.
"Nhặt lên", ông ta gằn giọng.
Một người cúi xuống nhặt. Không còn cái giọng của dân khu Đông London nữa; Winston chợt nhận ra rằng đây chính là giọng trong màn vô tuyến. Ông Charrington vẫn mặc bộ complet cũ may bằng vải nhung; nhưng tóc ông ta không còn trắng nữa mà là đen. Ông ta cũng không đeo kính. Ông ta liếc xéo Winston một cái, dường như để nhận diện, sau đó thì không quan tâm đến anh nữa. Vẫn có thể nhận ra ông ta, nhưng ông ta đã là một người khác hẳn. Lưng thẳng băng, có vẻ như to thêm. Chỉ có một chút thay đổi trên mặt thôi mà đã khác hoàn toàn. Lông mày không còn rậm như cũ, các nếp nhăn cũng biến mất, nét mặt cũng hơi khác, mũi có vẻ như ngắn hơn. Đấy là nét mặt của một người khoảng ba mươi lăm, thận trọng và lạnh lùng. Winston chợt nghĩ rằng đây là lần đầu tiên trong đời anh nhìn thấy một cách rõ ràng nhân viên của Cảnh Sát Tư Tưởng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro