123
Tiểu luận kinh tế chính trị
Chủ để 1 :
- Ưu thế của sx hàng hóa so với sx tự cung tự túc ?
- Quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất hàng hóa là quy luật gì?
- Nội dung quy luật đó?
- Tác dụng của quy luật?
- Liên hệ với tình hình thực hiện quy luật giá trị hiện nay của Việt Nam?
Bài làm
- Ưu thế của sx hàng hóa so với sx tự cung tự túc :
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng ‘ mơ muội ‘, xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội. Sản xuất hàng hóa khác so với kinh tế tự cung tự túc, do sự phát triển của phân công lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên môn hóa ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng,mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển của sản xuất hàng hóa đã xóa bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất. Sản xuất hàng hóa có đặc trưng và ưu thế như sau:
- Do mục đính của sản xuất hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thỏa mãn nhu cầu của người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hóa phải năng động trong sản xuất – kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
- Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất ‘ Mở ‘ của các quan hệ hàng hóa tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
- Quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất hàng hóa là : quy luật giá trị .
Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
- Nội dung quy luật giá trị :
Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt cảu mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được. Trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng
- Tác dụng của quy luật giá trị:
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bố các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hóa giảm xuống, hàng hóa bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đẩu tư vào ngành có giá cả hàng hóa cao. Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn tác có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
+ Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
+ Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu người nghèo.
Quá trình cạnh tranhtheo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ đẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
Tác dụng của quy luật giá trị có ý nghĩa :
Một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển.
Mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo sự bất bình đẳng cho xã hội.
- Liên hệ với tình hình thực hiện quy luật giá trị hiện nay của Việt Nam:
Đầu tiên là “điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa” . Đây là một tác dụng rất lớn của quy luật giá trị, nhờ có tác dụng này mà nền kinh tế nước ta có thể đi đúng hướng. Hiện nay, xu hướng của nước ta cũng như của các nước phát triển trên thế giới là tăng các ngành dich vụ, giảm tỷ trọng ở các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Đó cũng một phần là do quy luật giá trị, tại vì hiện nay, đời sống của nhân dân ta đã được cải thiện, không còn là ăn no mặc ấm nữa mà là ăn ngon mặc đẹp. Do vậy, sự ra đời của các ngành dịch vụ là tất yếu như là bảo hiểm, y tế …Bây giờ hiện các ngành kinh tế đang là tiêu điểm của học sinh lớp 12 chứ không còn là các ngành khối kỹ thuật nữa. Và quy luật giá trị còn giúp lưu thông hàng hóa. Điều này ta có thể thấy khá rõ vào thời điểm hiện nay, không ít các doanh nghiệp đem hàng hóa của mình ra nước ngoài để chào hàng, qua dó có thể tìm được các đối tác nước ngoài để làm ăn lâu dài, và tất nhiên, hàng hóa bán cho người nước ngoài bao giờ cũng có rất nhiều giá trị thặng dư.
“Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh”. Đây cũng là một điều quan trọng để phát triển kinh tế. Thử hỏi nếu như ta không đầu tư vào máy móc kỹ thuật thì sao có thể cạnh tranh với các nước có nền khoa học kỹ thuật phát triển như Nhật, Mỹ.. Ví dụ như hồi xưa, để làm 1m vải, người ta cần 1/10 ngày, thì hiện nay với 1/10 ngày, ta có thể làm ra 100m vải. Đó là nhờ thành tựu của khoa học kỹ thuật. Và với việc tăng năng suất lao động thì sẽ đẫn đến việc giảm lượng giá trị hàng hóa
Giá sẽ giảm và ta có thể bán được nhiều hàng hơn. Nhưng điều này cũng có mặt trái của nó là khi đã có máy móc thì những người công nhân sẽ đi đâu? Ngày xưa để làm công việc này cần 10 người, nay cần 1 người, vậy 9 người kia sẽ đi đâu Họ sẽ bị xa thải thất nghiệp tăng nhanh….Nhưng mặt trái của quy luật giá trị là: Lựa chọn tự nhiên và phân hóa giàu nghèo.
Người giàu, họ có tiền mua tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất….hao phí lao động cá biệt < hao phí lao động xã hội cần thiết bán được nhiều hàng hơn giàu hơn. Và ngược lại.
Điều này làm cho nhiều người dùng mọi cách để chiếm đoạt công nghệ, không từ thủ đoạn triệt hạ đối phương nhằm mục đích lợi nhuận càng phát triển.
Chủ đề 2:
- Khái niệm sức lao động
- Phân tích điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa ? Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động.
- Điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản là gì ? Giải thích vì sao ?
- Giả dụ chủ tư bản thuê công nhân đủ giá trị sức lao động thì công nhân có bị bóc lột không ? Vì sao ?
Bài làm
-Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng
trong quá trình lao động, là khả năng lao động của con người, là điều kịên cơ bản của sản
xuất ở bất cứ xã hội nào.
-Điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Sức lao động tiền biến thành hàng hóa:
Chủ nghĩa tư bản ra đời khi có hai điều kiện: có một lớp người được tự do về thân thể nhưng lại không có tư liệu sản xuất, và tiền của phải được tập trung vào tay một số người, với 1 số lượng đủ lớn để lập các xí nghiệp.
1.Công thức chung của tư bản.
a.So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn vs công thức chung của tư bản
Lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức:
H-T-H(1) trong công thức, tiền tệ không phải là tư bản. Tiền tệ chỉ trở thành tư bản trong những điều kiện nhất định.
Mọi tư bản đều xuất hiện từ 1 khối lượng tiền nhất định và vận động theo công thức T-H-T(2). Đây là công thức chung của tư bản, vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.
Giữa công thức (1) và công thức (2) có những điểm khác nhau:
-về điểm xuất phát và kết thúc quá trình vận động trong công thức 1 là Hàng, trong công thức 2 là tiền
-về trình tự của quá trình vận động: trong công thức 1 bán trước, mua sau; trong công thức 2 mua trước, bán sau
-về mục đích của quá trình vận động: trong công thức 1 là giá trị sử dụng, trong công thức 2 là giá trị.
ở đây, tiền thu về (T’) phải lớn hơn tiền ứng trước (T) một lượng là t. Do đó T’=T+t. số tiền trội lên so với tiền ứng ra ban đầu là giá trị thặng dư, ký hiệu mà (m)
Như vậy tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho người có tiền và người có tiền phải tìm đc 1 loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động
- Phân tích điều kiện sức lao động trở thành hàng hóa:
a. Sức lao động, sự chuyển hóa sức lao động trở thành hàng hóa
Để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản cần tìm trên thị trường một loại hàng hóa, mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.
- Sức lao động là toàn bộ những năng lực tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất. Sức lao động là cái có trước, còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động. Việc tiền tệ biến thành tư bản, không thể tách rời việc sức lao động trở thành hàng hóa.
Để sức lao động trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện:
+ Người lao động phải là người được tự do về thân thể của mình, có quyền sở hữu sức lao động của mình và chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định
+ Người lao động không còn có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất, muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
b. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
- Khi sức lao động trở thành hàng hoá thì hàng hóa sức lao động cũng giống như bất kỳ hàng hoá nào khác. Nó cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng:
+ Giá trị của hàng hoá sức lao động: cũng là số lượng lao động xã hội cần thiết (LĐXHCT) để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Nó là giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của người công nhân làm thuê và gia đình họ...
+ Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: Thể hiện ở quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hoá nào đó.
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động ( giá trị ban đầu ) là giá trị thặng dư
Đây chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng cña hàng hoá sức lao động. Đặc điểm này chính là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản
-Giả dụ chủ tư bản thuê công nhân đủ giá trị sức lao động thì công nhân có bị bóc lột không . Vì sao :
Nếu chúng ta giả dụ các nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân họ vẫn bị bóc lột. Bởi nếu có như vậy thì các nhà tư bản muốn làm cho mọi người tin rằng nếu công nhân trong quá trình lao động sáng tạo ra bao nhiêu giá trị thì họ cũng trả thì họ cũng trả công bằng bấy nhiêu. Tuy nhiên nếu làm như vậy sẽ chẳng phải là tư bản và cùng với bản chất tư bản.
Thật ra , nhà tư bản trả công cho công nhân không phải là trả công cho lao động mà là trả công cho sức lao động của người công nhân. Vậy chúng ta cần phải hiểu và phân biệt khả năng lao động và sức lao động. Khi nói sức lao động đó mới chỉ là tiềm năng người lao động hay khả năng lao động chứ chưa phải là thực tế lao động, chỉ khi người công nhân thực tế bắt tay vào việc sử dụng công cụ lao động sản xuất để chế tạo ra vật phẩm thì khi ấy mới gọi là lao động.
Khi việc mua bán xảy ra giữa nhà tư bản với người công nhân nghĩa là khi người công nhân làm thuê cho nhà tư bản thì khi đó người công nhân chưa lao động vì vậy anh ta không thể bán món hàng mà mình chưa có. Nói cho đúng thì người công không bao giờ có được món hàng đó bởi vì một khi anh ta thực sự bắt tay vào lao động thì lúc này lao động không còn thuộc quyền sở hưu của anh ta nữa mà đã thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản mất rồi.
Lúc diễn ra sự mua bán giữa người công nhân và nhà tư bản thì công nhân chỉ mới có sức lao động nghĩa là các năng lực lao động ở dạng tiềm tàng trong con người của anh ta. Vì vậy cái đối tượng mua bán ở đây chính là sức lao động của người công nhân mà thôi trong khi đó nhà tư bản lai thu được giá trị sức lao động từ chính lao động của người công nhân chứ không phải từ sức lao động.
Chủ đề 3 :
- Thực chất của tích lũy TB ? Cho ví dụ minh họa việc tích lũy TB của 1 TB cá biệt.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy TB
...
Bài làm
Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ tư bản
Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích luỹ và tiêu dùng.
+Nếu tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng đã được xác định, thì quy mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Có bốn nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng giá trị thặng dư:
- Trình độ bóc lột giá trị thặng dư (m')Thông thường, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tăng thêm máy móc, thiết bị và công nhân. Nhưng nhà tư bản có thể không tăng thêm công nhân mà bắt số công nhân hiện có cung cấp thêm một lượng lao động bằng cách tăng thời gian lao động và cường độ lao động; đồng thời, tận dụng một cách triệt để công suất của số máy móc hiện có, chỉ tăng thêm nguyên liệu tương ứng.
- Trình độ năng suất lao động xã hội:Năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tư bản tích lũy.
- Chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ quy mô hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm; còn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản phẩm theo từng chu kỳ sản xuất dưới dạng khấu hao. Do đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Sự chênh lệch này là thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản xuất. Sau khi trừ đi những tổn phí hàng ngày trong việc sử dụng máy móc và công cụ lao động - nghĩa là sau khi trừ đi giá trị hao mòn của chúng đã chuyển vào sản phẩm - nhà tư bản sử dụng những máy móc và công cụ lao động đó mà không đòi hỏi một chi phí khác.
- Đại lượng tư bản ứng trước
Trong công thức M = m'.V, nếu m' không thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư chỉ có thể tăng khi tổng tư bản khả biến tăng. Và, tất nhiên tư bản bất biến cũng phải tăng lên theo quan hệ tỷ lệ nhất định. Do đó, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư phải tăng quy mô tư bản ứng trước.
Tóm lại, để nâng cao quy mô tích luỹ, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để năng lực sản xuất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro