Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tình yêu cuộc sống - Giắc Lơnđơn


TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

GIẮC LƠNĐƠN (Mỹ)

Điều này còn lại với đời,

Những người đã sống, những người đấu tranh;

Họ giành thắng lợi bao lần,

Dù vàng đặt cuộc dần dần mất đi.

Họ hhập khiễng, nặng nhọc đi xuống bờ suối, trong hai người đó, người đi trước cũng đã có lần lảo đảo giữa những tảng đá nằm bừa bộn. Họ đều mệt mỏi và suy nhược, trên khuôn mặt hiện rõ vẻ nhẫn nại sau những ngày gian khổ đằng đẵng. Họ mang những bó chăn nặng trĩu trên vai. Những bó chăn này còn được mấy băng vải buộc ngang trán gánh bớt sức nặng. Mỗi người mang theo một khẩu súng trường. Họ bước đi, dáng người khom xuống, hai vai đưa hẳn ra phía trước, đầu nhô ra xa hơn, mắt nhìn xuống đất.

- Tớ ước gì bọn mình có được hai viên đan giấu trong cái hốc đó - người đi sau lên tiếng.

Giọng anh ta, thật thản nhiên, đượm vẻ buồn bã. Anh nói chẳng có chút gì nhiệt tình, người đi trước đang khập khiễng đi xuống dòng suối, chẳng buồn trả lời. Nước suối trắng nhờ nhờ, sủi bọt ở các tảng đá giữa dòng.

Người đi sau lần theo bước chân người đi trước. Cả hai đều không tháo giày, mặc dù nước suối lạnh cóng, làm mắt cá chân họ đau nhói, bàn chân tê đời ra. Ở những chỗ nước lao vào đầu gối hai người loạng choạng lần từng bước một.

Người đi sau giẫm lên một tảng đá trơn, trượt chân suýt ngã, anh cố hết sức lấy lại được thăng bằng, miệng bật ra một tiếng kêu the thé đau đớn. Anh hoa mắt, tưởng như sắp ngất đi, trong lúc loạng choạng anh đưa bàn tay còn để không ra chới với như tìm một chỗ bám giữa không trung. Đứng vững được, anh bước tiếp, nhưng lại loạng choạng suýt ngã. Rồi anh đứng đờ ra, nhìn người đi trước, người đó chưa lần nào quay đầu nhìn lại.

Anh đứng bất động đến trọng một phút tựa như đang tranh luận với bản thân, rồi anh gọi to:

- Này Bin, mình bị sai khớp xương mắt cá chân rồi.

Bin vẫn lảo đảo tiếp tục lội qua dòng nước trắng nhờ nhờ. Anh ta không hề đưa mắt nhìn xung quanh. Người ở phía sau chăm chú nhìn Bin đang tiếp tục đi; tuy gương mặt vẫn thản nhiên như cũ, nhưng mắt anh trông giống như mắt của một con hươu bị thương.

Bin khập khiễng lê lên bờ suối phía xa, tiếp tục đi thẳng, không hề quay đầu nhìn lại. Người đứng giữa suốt chăm chú nhìn Bin. Môi anh run run làm mấy sợi tóc cứng màu nâu xoả xuống môi cũng rung rung. Anh thè lưỡi, liếm ướt môi.

- Bin! Anh gọi to

Đó là tiếng kêu năn nỉ của một người đàn ông khoẻ mạnh trong lúc tuyệt vọng, nhưng Bin vẫn không quay đầu lại. Anh quan sát Bin đang khập khiễng xiêu vẹo trông rất kỳ quái, dáng người lảo đảo lê ngược trên con đường dốc thoai thoải, chạy về phía hình lờ mờ xa xa của quả đồi thấp in trên nền trời. Anh chăm chú nhìn Bin đi cho đến tận lúc Bin vượt qua đỉnh đồi, biến mất. Lúc này, Bin đã mất hút, anh đưa mắt từ từ ghi nhận vào óc cái vòng đất nằm vây quanh anh.

Gần đường chân trời, mặt trời lờ mờ, hầu như tối hẳn lại vì làn sương và hơi nước không thành hình thù gì cả, làn sương và hơi nước đó gây cho người ta cảm giác về một khối vật chất đậm đặc, mung lung. Trong lúc dòn trọng lượng toàn thân vào một chân đứng nghỉ, anh rút đồng hồ ra xem. Bốn giờ, hôm nay là ngày cuối tháng bảy hay ngày đầu tháng tám - trong một hai quần nay, anh không nhớ ngày tháng chính xác nữa - anh biết mặt trời ở đâu vào khoảng phía tây bắc. Anh nhìn về phía Nam, biết rằng ở một nơi nào đó, phía bên kia những quả đồi lạnh lẽo là hồ Gấu Lớn (Gấu lớn: một hồ rất lớn ở phía tây bắc Canađa, phía bắc miền Máckenđi, sông Máckenđi nằm ơ phía tây có thông với hồ này, vòng Bắc cực đi qua hồ Gấu Lớn. (Các chú thích trong truyện này là của người dịch), và anh cũng biết rằng ở hướng đó cái vòng Bắc cực (Vòng Bắc cực: ở vĩ tuyến 66º 33 Bắc.) đáng sợ cắt ngang miền đồng hoang Canađa. Dòng sưới anh đang đứng là một chí lưu của sông Copơmainơ (Copơmainơ: dòng sông ở phái bắc Canađa, dài 850km, chảy theo hướng tây bắc, đổ vào Bắc Băng dương.), dòng sông này chảy về phía bắc, rồi đổi vào vịnh Coronâysơn (Vịnh Corơnâysơn: ở bờ biển phía bắc Canađa.) và Bắc Băng dương. Chưa bao giờ anh đến đó, nhưng anh đã có lần nhìn thấy nơi đó trên hải đồ của Công ty vịnh Hắcxơn.

Anh lại đưa mắt đăm đắm nhìn cái vòng đất nằm vây quanh anh. Cảnh vật chẳng đáng vui chút nào. Đường chân trời êm dịu bao khắp nơi. Tất cả các quả đồi chung quanh đều thấp. Cây to không, bụi nhỏ không, cỏ cũng không... Không có một thứ gì khác ngoài cái cảnh hoang vu mênh mông, khủng khiếp khiến trong mắt anh thoáng hiện lên một ánh sợ hãi.

- Bin! - anh gọi khe khẽ, rồi lại gọi lần nữa, Bin!

Anh rúm người lại giữa dòng nước trắng nhờ nhờ, tựa như cảnh bao la đầy sức mạnh khuất phục và nỗi khủng khiếp đắc thắng đang đè bẹp, tàn bạo nghiền nát anh. Anh run rẩy như lên cơn sốt rét, khẩu súng tuột khỏi tay, rơi xuống nước bắn toé lên khiển anh chợt tỉnh lại. Anh gắng sức nén cơn sợ hãi xuống và trấn tĩnh được, anh lần mò trong dòng nước, tìm lại được vũ khí. Anh hất bó chăn sang vai trái để sức nặng đỡ đè lên bên mắt cá chân bị thương. Rồi vừa rúm người lại vì đau, anh vừa thận trọng lê lên bờ. Anh không đứng lại. Trong lòng tuyệt vọng điên cuồng, không nghĩ đến đau nữa, anh vội lê lên đỉnh đồi, nơi mà lúc nãy người bạn của anh đã mất hút, dáng lê bước của anh trông còn kỳ dị, tức cười hơn dáng đi khập khiễng, giật từng bước của bạn anh lúc nãy. Nhưng tới đỉnh đồi, anh chỉ nhìn thấy một thung lũng nông choèn, không có sự sống. Anh lại cố gắng để đẫu lùi cơn sợ hãi, áp đảo được nó, anh hất bó chăn bật quá sang vai trái thêm chút nữa, rồi xiêu vẹo lê xuống đồi.

Lòng thung lũng ong ỏng những nước, bởi vì lớp rêu dày, xốp như bọt bể ở sát trên mặt đất giữ nước lại. Mỗi bước đi, nước dưới bàn chân anh phọt lên, và mỗi khi bàn chân anh nhấc lên thì một tiếng "phọp" lại phát ra tựa như lớp rêu sũng nước đã miễn cưỡng buông chân anh ra. Anh lần đường từ vũng lầy này sang vũng lầy khác, men theo vết chân của người bạn in dọc, in ngang trên những mỏm đá giống như những hòn đảo nhỏ, nhô lên giữa biển rêu.

Tuy chỉ có một thân một mình, nhưng anh vẫn bình tĩnh. Anh biết rằng cứ tiếp tục tiến lên, anh sẽ tới một nơi có những cây tùng, cây bánh nhỏ bé đã chết héo mọc quanh một hố nhỏ. Đó là miền Titchinmichili, theo thổ ngữ đại phương nghĩa là "miền có các cây nhỏ bé". Có một dòng suối nhỏ, nước đục, đổ vào hồ đó. Trong dòng suối có cỏ lác mọc - đặc điểm này, anh nhớ rất rõ - nhưng không có cây to. Anh sẽ lần theo dòng suối đó cho đến đường phân thuỷ của chi lưu đầu tiên. Anh sẽ vượt qua đường phân thuỷ này để đến chi lưu đầu tiên của một dòng suối khác. Chi lưu mới này chảy về phía tây, anh theo dòng nước đó đến chỗ nó đổ vào sông Đidơ, ở đây anh sẽ tìm thấy cái hốc nằm dưới một con thuyền úp xuống, có nhiều tảng đá chồng trên. Trong hốc này có đạn cho khẩu súng trống rỗng của anh, có lưỡi câu, dây câu, có cái lưỡi nhỏ - tất cả những thứ dùng vào việc săn, bắt, đánh bẫy các loài động vật để lấy thức ăn. Anh cũng sẽ tìm được bột, không nhiều lắm, một miếng mỡ hun và một ít đậu.

Chắc chắn Bin sẽ đợi anh ở đó, hai người sẽ chèo thuyền theo hướng nam, xuôi dòng Đidơ cho tới hồ Gấu Lớn. Rồi tiếng về hướng nam, họ vượt qua hố, vẫn cứ theo hướng nam cho đến khi tới được miền Máckenđi. Hướng nam, vẫn cứ theo hướng nam, họ sẽ tiếp tục đi, trong khi đó mùa đông phí sức rượt theo sau, băng sẽ đóng lại ở những chỗ nước xoáy và thời tiết trở nên lạnh lẽo khắc nghiệt, theo hướng nam cho đến một cái trạm ấm áp nào đó của Công ty vịnh Hắcxơn, ở nơi này có rất nhiều cây cao và nguồn thức ăn hầu như vô tận.

Anh vừa cố gắng tiến bước vừa nghĩ như vậy. Nhưng anh phải đấu tranh rất gian khổ với cơ thể, cũng như phải đấu rất gian khổ với lý trí đã nghĩ rằng chắc chắn Bin không bỏ rơi anh, rằng chắc chắn Bin sẽ đợi anh ở cái hốc đó. Anh tự bắt mình phải nghĩ thế, nếu không thì những nổ lực chỉ là vô ích, và anh sẽ nằm gục xuống, cái chết sẽ ập đến. Khi khối mặt trời hình cầu mờ mờ đang từ từ lặn về phía tây bắc thì anh mơ từng bước một - anh mơ nhiều lần, tới cuộc tẩu thoát của anh và Bin về hướng nam trước khi mùa đông ập tới. Và anh nhiều lần suy nghĩ về số thức ăn ở cái hốc đó và ở cái trạm của Công ty vịnh Hắcxơn. Đã hai ngày nay anh không ăn gì, vì từ trước đó lâu rồi anh đã chẳng có gì để ăn cả. Anh thường cúi xuống để hái những quả dại miền đầm lầy màu nhợt nhạt, nhét vào mồm, nhai nuốt. Quả dại miền đầm lầy chỉ là một chút nước bao quanh một cái hột nhỏ. Khi nhai trong miệng, chút nước này trôi đi, hột rất đắng và chát. Anh biết là chẳng có chút dinh dưỡng trong những quả đó, nhưng anh vẫn kiên nhẫn nhai với lòng hy vọng nhiều hơn là hiểu biết, và bất chấp cả kinh nghiệm.

Vào lúc chín giờ, chân anh đâm vào một mỏm đá nhọn, vì rất mệt mỏi và quá yếu, anh lảo đảo gục xuống. Anh nằm nghiêng bất động một lát. Rồi anh tuôn ra khỏi những băng vải buộc bó chân, lóng ngóng co người ngồi dậy. Trời vẫn chưa tối, trong ánh sáng hoàng hôn còn bảng lảng, anh lần những tảng đá xuanh quanh để nhặt từng mảnh rêu khô. Lúc đã thu được một đống, anh nhóm lửa đốt - một đống lửa cháy âm ĩ, ngợp những khói - và đun một ga-men nước.

Anh giở những bó chăn ra, việc đầu tiên là đếm những que diêm. Có sáu mươi bảy que. Anh đếm ba lần cho chắc chắn. Anh chia số diêm đó ra làm mấy phần, gói bằng giày dầu, đặt một gói trong cái túi thuốc lá trống không, một gói vào đai lót trong của cái mũ méo mó, gói thứ ba cất ở dưới ngực áo sơ mi. Vừa cất xong mấy gói diêm, một cơn sợ hãi chợt ập vào lòng anh, anh giở các gói diêm ra, đếm lại. Vẫn là sáu mươi bảy que.

Anh hơ giày, tất cạnh đống lửa cho khô. Đôi giày da nai tả tơi đẫm nước. Đôi tất đã thủng nhiều lỗ, hai bàn chân anh trầy da, chảy máu. Mắt cá chân giần giật, anh xem xét cẩn thận. Mắt cá chân sưng to bằng đầu gối. Anh xé lấy một dải hẹp ở một trong hai cái chăn và b1o chặt mắt cá chân lại. Anh xé thêm mấy dải khác, cuốn xung quanh bàn chân để thay vào cái giày lẫn tất. Rồi anh uống ga-men nước nóng đang bốc hôi, lên dây đồng hồ, xong chui vào giữa hai cái chăn.

Anh ngủ say như một người chết. Bóng tối ngắn ngủi lúc khoảng nửa đêm ập đến, rồi tan đi. Mặt trời mọc ở phía đông bắc - ít ra thì ánh bình minh cũng rạng từ phía đó, bởi vì mặt trời vẫn còn khuất sau những làn mây xám.

Lúc sáu giờ, anh tỉnh dậy. Anh nằm ngửa lặng lẽ, đăm đăm nhìn thẳng vào bầu trời xám, anh biết là mình đói. Khi chống khuỷu tay để quay người đi, anh giật mình vì nghe tiếng khịtkhịt khá to, anh thấy một con ca-ri-pu (Ca-ri-pu: một giống nai ở Canađa.) đực đang nhìn anh tỏ vẻ tò mò, đề phòng.

Con vật cách xa không đầy mười lăm thước, ngay tức khắc, trong óc anh hiện lên hình ảnh những miếng thịt ca-ri-pu cháy xèo xèo, trên đống lửa, thơm phức. Như cái may, anh với lấy khẩu súng hết đạn, đưa lên ngắm và kéo cò. Con ca-ri-pu khịt khịt, nhảy đi, chạy trốn, móng chân đập trên những mỏm đá kêu lách cách.

Anh nguyền rủa, ném khẩu súng đi. Khi bắt đầu lê bước, anh rên rỉ khá to. Thật là một việc khó nhọc, chậm rì rì. Các khớp xương của anh như bản lề rỉ. Chúng cử động chệch choạc ở các đầu khớp, và mỗi lần co hay duỗi được là anh phải lấy hết sức bình sinh. Cuối cùng, anh đã đứng lên được và phải mất khoảng một phút nữa, anh mới đứng thẳng được như một người bình thường.

Anh bò lên một cái gò nhỏ, quan sát cảnh vật. Không hề có cây cối, bụi rậm, không có một thứ gì khác ngoài một biển rêu màu xám; những tảng đá xám, những vũng nước xám, những lạch nước xám cũng chẳng làm cho cảnh vật thay đổi được bao nhiêu. Bầu trời cũng xám. Không có mặt trời, không có dấu vết gì của mặt trời. Anh không nhận ra phương Bắc ở đâu, a không còn nhớ con đường hôm trước anh đã đi qua để đến chỗ này. Nhưng anh vẫn bình tĩnh. Anh hiểu thế. Chẳng bao lâu, a nhất định sẽ tới miền đất có những cây nhỏ đó. Anh cảm thấy nó nằm đâu đó ở phía bên trái, không xa... có thể chỉ ở sau quả đồi thấp sắp tới kia.

Anh gói ghém bó chăm để lên đường. Anh xem lại và yên tâm rằng ba gói diêm để riêng vẫn còn nguyên, tuy anh không dừng tay lại để đếm. Song anh có nhìn lên và suy nghĩ về một cái túi da nai căng phồng. Anh biết rằng cái túi đó chỉ nặng có mười lăm bảng (Một bảng bằng 0.451 kg), nặng bằng tất cả những thứ còn lại trong bó chăn, rằng nó làm anh khổ sở. Cuối cùng, anh đặt nó sang bên và tiếp tục cuộn bó chăn lại. Anh ngừng lại, chằm chằm nhìn vào cái túi da căng phồng đó. Anh vội vàng nhấc nó lên, mắt nhìn quanh với vẻ nghi ngờ, tựa như cảnh hoang vu này đang muốn cướp vái túi đó của anh, và khi anh đứng dậy lảo đảo bắt đầu một ngày đi, cái túi đó đã nằm yên trong bó chăn trên lưng anh.

Anh đi chệch về phía trái, thỉnh thoảng đứng lại để ăn quả dại miền đầm lầy. Mắt cá chân đờ ra, anh lại càng khập khiễng thêm, nhưng cái đau chẳng đáng kể gì cả, nếu so với cái đau ở dạ dày. Cái đói có những cơn đau nhói. Những cơn đau dấy cào đi xé lại cho đến khi không thể giữ được trí óc tỉnh táo trên con đường anh phải theo đuổi để đến được miền đất có những cây nhỏ. Quả dại miền đầm lầy không làm ruột gan đang bị cào xé dịu đi được, mà chúng chỉ làm lưỡi và hàm ếch của anh đau buốt, khó chịu.

Anh đến một thung lũng có những con ta-mi-gơn (Ta-mi-gơn: loài chim về mùa hạ có lông màu đen hay xám, về mùa đông lông màu trắng.) miền núi đá đang đập cánh vù vù bay lên từ những mỏm đá, những vũng lầy. Chúng cất tiếng kêu "cơ... cơ... cơ". Anh lấy mấy bòn đá ném, nhưng không trúng. Anh đặt bó chăn xuống và rón rén thêo chúng như con mèo rón rén theo con chim sẻ. những tảng đá nhọn xuyên qua ống quần rách vào chân anh tới tận đầu gối, để lại một vệt máu, nhưng cái đau đó chìm torng cái đau nhói của cơn đói. Anh lăn lộn trên mặt rêu ướt, nước thấm sũng vào quần áo làm người anh lạnh buốt, nhưng anh không cảm thấy gì cả, cơn cuồng nhiệt săn thức ăn lớn biết bao. Những con ta-mi-gơn vẫn bay lên, đập cánh vù vù trước mắt anh, những tiếng kêu "cơ... cơ... cơ" của chúng trở thành tiếng chế giễu, anh nguyền rủa, bắt chước tiếng kêu của chúng để doạ lại chúng.

Một lần, anh tình cờ bò gần một con ta-mi-sơn hẵn đang là ngủ. Anh không nhìn thấy nó, từ một khe đá, nó lao vút lên, đâm vào mặt anh. Anh giật mình, giơ tay tóm theo thì chỉ được ba cái lông đuôi. Anh nhìn nó bay, căm ghét, tựa như nó đã phạm một lỗi lầm khủng khiếp gì đó đối với anh. Rồi anh quay lại, xốc bó chăn lên vai.

Ngày đang trôi đi, anh đến những thung lũng, những đầm lầy có rất nhiều thú săn. Một đoàn ca-ri-pu đi qua, hơn hai chụng con, rõ ràng nằm trong tầm súng. Anh cảm thấy một mong ước điên cuồng: đuổi theo chúng, một niềm tin chắc: có thể đuổi bắt được chúng. Một con cáo đen tiến lại phía anh, mồm ngậm con chim ta-mi-gơn. Anh hét to. Đó là một tiếng hét sợ hãi, nhưng con cáo lại kinh sợ chạy biến mất, mồm vẫn ngậm chặt con ta-mi-gơn.

Xế chiều, anh ven theo một dòng suối, nước vun cặn đá vôi trắng đục, dòng suối chảy qua những mảnh đất có cỏ lác mọc thưa thớt.

Nắm chặt sát gốc những cây cỏ lác này, anh kéo bật lên một thứ rễ giống như mầm hành non, không lớn hơn cái móng tay để dài. Nó khá mềm, anh cắn khật một cái, răng ngập vào cái rễ mà có vẻ là một thức ăn ngon lành. Nhưng cái thớ dọc rất dai, thứ cỏ này bao gồm những thớ dọc chứa nước giống như những quả dại miền đầm lầy, không có chất dinh dưỡng. Anh quẳng bó chăn xuống bò vào đám cỏ lác, nhau sần sật, nhai chậm rãi thứ cỏ đó giống như loài nhai lại.

Anh rất mệt mỏi, luôn luôn muốn nghỉ - nằm xuống và ngủ - nhưng anh vẫn tiếp tục đi, cơn đói còn mạnh mẽ hơn là niềm mong ước tới được miền đất có những cây nhỏ đã thúc đẩy anh tiến bước. Anh tìm kiếm các vũng nước để bắt ếch nhái, dùng móng tay bới đất tìm sâu đất, tuy anh chẳng biết rằng chẳng có ếch nhái lẫn sâu đất ở cái phương bắc xa xăm này.

Anh quan sát tất cả các vũng nước, nhưng không có kết quả; đến lúc ánh hoàng hôn giải trùm lên vạn vật, anh mới phát hei65n ra trong một vũng nước chỉ có độc một con cá, chỉ to bằng con cá bạch dương. Anh thọc cánh tay xuống làn nước, ngập đến tận vai để bắt, nhưng con cá khéo léo lẩn khỏi tay anh. Anh thọc cả hai tay quờ bắt, làm lớp bùn trắng nằm dưới đáy vẩn lên. Trong lúc hăn say, anh ngã xuống, ướt tới ngang thắt lưng. Rồi bùn vẩn lên nhiều đến nỗi anh không nhìn thấy con cá nữa, anh đành phải đợi cho bùn lắng xuống.

Cuộc đuổi bắt lại tiếp tục cho đến lúc bùn lại vẩn lên. Nhưng anh không thể đợi được nữa. Anh tháo cái ga-men và bắt đầu tát vũng nước. Thoạt tiên, anh múc điên cuồng, nước bắn toé cả vào người, và vì hắt ra quá gần nên nước lại chảy vào vũng đó. Anh tát nước thận trọng hơn, cố gắng bình tĩnh tuy thế tim anh vẫn đập thình thình ép mạnh vào lồng ngực, hai bàn tay run rẩy. Sau nữa giờ, nước trong vũng hầu như đã cạn hết. Còn lại chưa đầy một chét nước. Song chẳng thấy cá đâu. Anh nhận thấy có một kẽ nứt khuất giữa những tảng đá: con cá đã lách qua kẽ nứt này, thoát sang vũng nước bên cạnh lớn hơn, anh có tát suốt một ngày đêm cũng không cạn. Nếu biết có kẽ nứt đó, anh đã dùng một hòn đá chặn lại ngay từ đầu, và con cá hẵn đã thuộc về anh.

Anh suy nghĩ, mệt lả, và gục xuống mặt đất ẩm ướt. Thoạt đầu, anh còn khóc với mình, rồi anh khóc to với cảnh hoang vu tàn nhẫn đang vây quanh anh, sau một lúc lâu, người anh run bật lên vì những tiếng nức nở khá to, mắt ráo hoảnh.

Anh nhóm một đống lửa, uống rất nhiều nước nóng cho người ấm lên và sửa soạn chỗ ngủ, hệt như đêm trước, trên một mỏm đá. Việc cuối cùng anh làm là giữ sao cho những que diêm được khô và lên dây đồng hồ. Hai cái chăn ướt nhớp nháp. Mắt cá chân giần giật đau. Nhưng anh biết đó chỉ do anh đói, và trong giấc ngủ trằn trọc, anh mơ tới những bữa tiệc tùng, yến ẩm, tới những món ăn được nấu nướng, bày biện theo tất cả mọi kiểu cách có thể tưởng tượng ra được.

Anh tỉnh dậy, lạnh buốt, nôn nao. Không thấy mặt trời đâu cả. Màu xám của đất, của trời sẫm hơn. Gió thổi lạnh buốt, những trận mưa tuyết đầu tiên bất thần và dữ dội đang nhuộm sắc trắng các đỉnh đồi. Lúc anh đốt lửa, và đun thêm nước sôi, bầu không khí bao quanh anh dày đặc lại, trắng hẳn ra. Tuyết rơi ướt át, lẫn với một nửa nước mưa, những bông tuyết to, sũng nước. Thoạt tiên, vừa chạm tới mặt đất, những bông tuyết tan ra ngay, nhưng tuyết vẫn rơi ngày càng nhiều, phủ đầy mặt đất, dập tắt đống lữa, làm hỏng chỗ rêu khô dự trữ của anh.

Đó là dấu hiệu thúc giục anh buộc bó chăn lại, lập cập lên đường, không biết để đi đến đâu. Anh không còn nghĩ gì tới những miền đất có những cây nhỏ, mà cũng chẳng nghĩ gì đến Bin và cái hốc dưới con thuyền úp xuống bên cạnh dòng sông Đidơ nữa. Động từ "ăn" đã làm chủ con người anh. Anh đói phát điên lên. Anh chẳng hề chú ý đến con đường đang đi, chừng nào con đường này vẫn dẫn anh qua các dãy đầm lầy. Anh lê qua bãi tuyết ướt át để hái những quả dại miền đầm lầy, có chứa nước, anh vừa nhổ bật rễ cỏ lác, vừa lần đường. Nhưng đó là một thứ cỏ dại không có mùi vị gì, không làm dịu cơn đói. Anh tìm thấy một thứ cỏ dại có vị chua, tìm được bao nhiêu anh ăn tất cả, nhưng thứ này không nhiều lắm, vì đó là loại cây bò sát mặt đấy, rất dễ lấp sau dưới lớp tuyết.

Đêm đó, anh không có lửa, không có nước nóng, anh chui vào chăn ngủ, cái đói làm anh ngủ không yên, làn tuyết rơi đã chuyển thành một trận mưa lạnh. Anh tỉnh giấc nhiều lần, cảm thấy mưa lạnh rơi trên bộ mặt ngửa lên trời của anh. Ngày đến - một ngày xám ngắt, không có mặt trời. Mưa đã tạnh. Sự đau đớn dữ dội vì đói đã qua rồi. Cái cảm giác khao khát được ăn đã lui đi. Dạ dày đau âm ỉ, anh ách, nhưng cái đau đó không dày vò anh nhiều. Anh suy nghĩ tỉnh táo hơn, một lần nữa anh tập trung chú ý tới miền đất có những cây nhỏ và cái hốc bên cạnh dòng sông Đidơ.

Anh xé mảnh còn lại của một trong hai cái chăn ra làm nhiều dải và băng hai bàn chân chảy máu. Anh cũng bó chặt mắt cá chân bị thương lại, chuẩn bị để đi được trọn một ngày. Lúc gói ghém bó chăn, anh lưỡng lự rất lâu trước cái túi da nai căng phồng, nhưng rút cục anh vẫn mang nó đeo. Dưới trận mưa, tuyết đã tan ra, chỉ những đỉnh đồi là còn trắng xáo. Mặt trời hiện lên, anh xác định được phương hướng, mặc dù anh biết là lúc này tâm trí anh đang rối loạn. Có lẽ trong những ngày vừa rồi, anh đã lang thang lạc quá xa về phía trái. Bây giờ anh phải đi chếch sang phải để chỉnh lại hướng cho đúng.

Mặc dù những cơn đói đau nhói không còn dữ dội nữa, nhưng anh nhận ra là anh đã yếu đi nhiều. Anh buộc phải năng ngừng lại nghỉ vào những lúc anh xông vào ăn những quả dại miền đầm lầy, xông vào những đám cỏ lác. Lưỡi anh khô và sưng lên, tựa như có phủ thêm một lớp lông mịn, anh cảm thấy đắng lưỡi. Trái tim làm khổ anh rất nhiều. Cứ đi được mấy phút, nó lại bắt đầu đập thịch, thịch, thịch chẳng hề thương tiếc, và rồi nó nhảy lên, đập dồn dập đau đớn làm anh nghệt thở, xây xẩm mặt mày, muốn ngất đi.

Vào khoảng trưa, anh phát hiện ra trong một vũng nước lớn có hai con cá bạch dương. Không thể nào tát cạn vũng nước được, nhưng lúc này anh bình tĩnh hơn, anh dùng cái ga-men để bắt chúng. Chúng không dài hơn ngón tay út, song anh cũng chẳng đói lắm. Những cơn đói âm ỉ ở dạ dày đã dịu hơn trước. Dạ dày anh hầu như đang thiu thiu ngủ. Anh ăn sống con cá, nhai rất cẩn thận, vất vả, bởi vì ăn là một hành động của lý trí đơn thuần. Trong lúc không thấy thèm ăn, anh biết rằng phải ăn để mà sống.

Buổi tối, anh bắt được ba con cá bạch dương nữa, anh ăn hai con và để dành con thứ ba cho buổi sáng mai. Mặt trời đã hun khô những mảng rêu nằm rải rác, anh lại có thể đun nước nóng uống cho ấm người lên. Hôm đó anh đi được không quá mười dặm (Một dặm bằng 1,600 km.), và hôm sau, anh đi vào bất cứ lúc nào trái tim chịu đựng được, không quá được năm dặm. Nhưng dạ dày không làm anh khó chịu một chút nào nữa. Nó đã ngủ yên. Anh lại đang ở miền xa lạ có nhiều con ca-ri-pu hơn, và cả chó sói nữa. Tiếng hú của chó sói thường vang khắp cảnh hoang vu, một lần, anh thấy ba con sói lén lút chạy biến đi ngay trước lối đi của anh.

Lại một đêm nữa trôi qua, buổi sáng tỉnh táo hơn, anh cởi sợi dây da thắt chặt cái túi da nai căng phồng. Từ miệng túi mở rộng chảy ra một dòng vàng óng gồm những hạt bụi, những cục vàng thô. Anh chia đại khái chỗ vàng ra làm hai phần bằng nhau, bọc một phần trong mảnh chăn rồi giấu vào một mỏm đá nhỏ ra, còn phần kia anh lại dồn vào cái túi da nai. Anh lại dùng mấy dải xé ở cái chăn duy nhất còn lại để bó hai bàn chân. Anh vẫn giữ lấy khẩu súng, vì trong cái hốc ở bên cạnh dòng sông Đidơ có đạn dược.

Đó là một ngày đầy sương mù, và cũng là một ngày cơn đói trong con người anh thức dậy. Anh rất yếu và rất khổ sở vì chứng xây xẩm mày mặt chốc chốc lại làm anh không nhìn thấy gì nữa. Bây giờ, đối với anh, việc sẩy chân và gục ngã là một chuyện bình thường, trong một lần sẩy chân, anh ngã đúng vào một tổ chim ta-mi-gơn. Có bốn con chim mới nở chỉ được một ngày, những mảnh nhỏ của sự sống đang phập phồng này chỉ vừa đầy một miếng, anh cho chúng vẫn còn sống nguyện vào mồm, nghiền chúng giữa hai hàm răng như nghiền vỏ trứng và cứ thế ngấu nghiến ăn. Con chim mẹ vừa kêu to vừa lồng lộn quanh anh. Anh sử dụng khẩu súng như một cái gậy để đập cho nó gục xuống, nhưng nó né ra khỏi tầm tay anh. ANh lấy đá ném, một hòn đá may mắn trúng, làm nó gãy một bên cánh. Nó lặp cặp bỏ chạy, kéo lê cái cánh gãy, anh đuổi theo.

Mấy con chim tí xíu chẳng mùi gì, chỉ kích thích thêm cơn đói. Anh vừa vụng về nhảy lò cò và nhúc nhắc cái mắt cá chân bị thương vừa lê chân đuổi theo, anh nghiến răng, kiên nhẫn đứng dậy khi ngã; hoặc lấy hai tay dụi mắt khi chứng xây xẩm mày mặt đe doạ chế ngự toàn bộ con người anh.

Cuộc săn đuổi đưa anh tới khu đất lầy ở lòng thung lũng, anh chợt thấy những vết chân người in trên lớp rêu ong ỏng nước. Không phải là những vệt chân của anh, anh phân biệt được. Hẳn đó là những vết chân của Bin. Nhưng anh không thể dừng lại, vì con chim mẹ vẫn tiếp tục chạy. Trước hết anh phải bắt được nó đã, rồi sẽ quay lại xem sau.

Anh làm con chim mẹ kiệt sức, nhưng chính bản thân anh cũng kiệt sức. Con chim nằm nghiêng thở hổn hển. Anh cũng nằm nghiêng thở hổn hển, cách con chim chưa đầy bốn thước, nhưng không thể bò tới chỗ nó được. Và khi anh hồi sức lại thì con chim cũng hồi sức lại, lập cập chạy khỏi tầm với của bàn tay đã lã đi vì đói mà anh giơ ra để bắt nó. Cuộc săn đuổi lại tiếp tục. Màn đêm buông xuống, con chim trốn thoát. Anh lập cập vì yếu quá, ngã bổ nào, đầu đập xuống đất, mặt rách toác, bó chăn vẫn nằm trên lưng. Anh nằm bất động một lúc lâu, rồi lăn người nghiêng sang một bên, anh lên dây đồng hồ và lịm đi cho đến sáng.

Lại một ngày sương mờ nữa. Anh đã dùng hết một nữa của cái chăn cuối cùng để bó chặt lại hai bàn chân. Anh không tìm ra dấu vết của Bin. Cũng chẳng hề gì. Cơn đói đang dữ dội thôi thúc anh. Chỉ có một điều... anh chỉ nghĩ có một điều là không hiểu Bin có lạc đường như anh không. Đến buổi trưa, gói chăn trĩu nặng trên vai làm anh hết sức khó chịu. Anh lại chia chỗ vàng ra, lần này đơn giản là đổ một nữa xuống đất. Buổi chiều, anh quẳng nốt số vàng còn lại đi, chỉ còn lại một cái chăn, cái ga-men và khẩu súng.

Một ảo giác bắt đầu làm khổ anh. Anh rất yên trí là vẫ còn một viên đạn nằm trong luồng đạn của khẩu súng mà anh đã lãng quên. Mặt khác, anh luôn luôn biết rằng luồng đạn trống rỗng. Nhưng ảo giác đó cứ dai dẳng tồn tại mãi. Anh đấu tranh hàng giờ để gạt nó đi, rồi anh mở tung khẩu súng ra, trước mắt anh chỉ là một hốc trống rỗng. Niềm thất vọng này cũng cay đắng như anh đã thực lòng mong ước được ột viên đạn, mà lại không có.

Anh nặng nhọc lê bước được nửa giờ thì ảo giác lại quay lại. Anh lại đấu tranh với nó, nhưng nó vẫn cứ dai dẳng theo đuổi cho đến khi để giải thoát khỏi ảo giác đó, anh lại mở khẩu súng để bản thân mình không còn tin ở ảo giác nữa. Chốc chốc, ý nghĩ của anh lang thang vượt tới các miền xa xôi hơn, và anh tiếp tục nặng nhọc lê bước như một cái máy, trong khi những ý nghĩ lạ lùng, những điều dị kỳ như những con sâu đang gặm nhấm tâm trí anh. Những ý nghĩ lan man xa sự thực đó cũng ngắn thôi, bởi vì những cơn đói đau nhói luôn luôn cào xé, lôi anh trở lại thực tế. Trí óc đang lang thang như thế, anh đội nhiên nhảy lùi lại, vì trước mắt bỗng hiện lên một vật làm anh hầu như ngất đi. Anh lảo đảo, loạng choạng, run rẩy như một người say rượu, cố giữ thăng bằng cho khỏi ngã. Trước mắt anh: một con ngựa. Một con ngựa. Anh không thể tin ở mắt mình. Một màn sương dày đặc với những điểm sáng lấp lánh che lấy mắt. Anh điên cuồng dụi mắt để nhìn cho rõ, và nhận thấy không phải một con ngựa, mà là một con gấu nâu to tướng.

Con người đưa khẩu súng lên vai mới được nửa chừng thì nhận ra. Anh hạ súng xuống, rút con dao săn từ cái bao có trang trí hình nạm vẫn đen ở ngay thắt lưng. Trước mắt anh là thịt và cuộc sống. Anh lướt ngón tay cái dọc theo lưỡi dao. Dao sắc. Anh muốn lao cả người vào con gấu và giết nó. Nhưng tim anh đập những tiếng thình thịch, cảnh cáo. Rồi tiếp đến những tiếng đập thình thịch dồn dập, hỗn loạ, trán anh như có một đai sắt đang siết chặt lại, đầu anh một lúc một choáng váng.

Trong lòng anh, một cơn sợ khủng khiếp trào lên, đè bẹp sự can đảm đầy thất vọng. Anh đang yếu lả như thế, nếu con vật tấn công anh thì sao? Anh căng người ra thành một tư thế hùng dũng nhất, tay siết chặt con dao, mắt chằm chằm nhìn con vật. Con gấu vụng về tiến lên hai bước, vươn thẳng lên và bạt ra một tiếng gầm thăm dò. Nếu con người bỏ chạy nó sẽ đuổi theo: nhưng con người không chạy, lúc này, con người được lòng can đảm của sự sợ hãi cổ vũ. Và chính con người cũng gầm lên, man rợ, khủng khiếp, biểu thị sự sợ hãi - sự sợ hãi vốn gắn chặt với cuộc sống, vốn nằm trong những căn nguyên sâu xa của sự sống.

Con gấu lánh sang một bên, gầm gừ đe doạ, nó thất đảm trước con sinh vật bí hiểm, đứng thẳng dậy, không biết sợ này. Nhưng con người vẫn bất động. Anh đứng im như một pho tượng cho đến lúc con nguy hiểm đã qua đi, lúc đó anh chịu khuất phục cơn run rẩy, ngã gục trên lớp rêu ẩm ướt.

Anh lấy lại can đảm và tiếp tục đi, lúc này trong lòng mang một nỗi sợ mới mẻ khác. Anh không sợ sẽ đành cam chịu chết vì thiếu cái ăn, mà anh sợ rằng anh sẽ bị tiêu diệt trước khi cái đói làm kiệt quệ trong con người anh chuết cố gắng cuối cùng hướng về cuộc sống. Những con chó sói xuất hiện. Tiếng hú của chúng bao trùm khắp cảnh vật hoang vu, như dệt cả bầu không khí thành một tấm màn đe doạ hiển nhiên và rõ rệt như những tấm vách lều trong gió bảo, đến nỗi anh phải đưa tay đẩy tấm màn sợ hãi đó bật đi.

Đôi khi, những con sói, thành bầy hai ba con một đi cắt ngang đường đi của anh. Nhưng chúng đều chạy tránh xa. Chúng ít quá, không đủ đông; hơn nữa, chúng đang săn những con ca-ri-pu không kháng cự lại, torng khi con sinh vật kỳ lạ đi thẳng người trên hai chân này sẽ có thể cào cấu, cắn xé, đánh trả lại.

Lúc xế chiều, anh tình cơ bắt gặp những cái xương nằm rải rác ở một chỗ mà chó sói đã ăn thịt con mồi. những cái xương này chắc là của một con ca-ri-pu còn non mà một giờ trước hẳn vẫn còn kêu, vẫn chạy nhảy, rất dồi dào sức sống. Anh trầm ngâm nhìn mấy cái xương rốc hết thịt, sạch bóng, hồng hồng màu những tế bào của sự sống vẫn chưa chết hẳn. Có lẽ nào số phận anh cũng như con ca-ri-pu đó trước lúc ngày tàn! Cuộc sống là thế chăng? Một chuyện phù du, vô ích. Chỉ có một cuộc sống mới đau đớn. Chết là ngủ (Chết là ngủ: dựa theo một câu trong đoạn độc thoại của Ham-lét trong bi kịch Ham-lét (hồi 3, cảnh 4) của Sếchxpia.). Chết có nghĩa là ngừng lại, nghỉ ngơi. Vậy tại sao anh không vui lòng nhận lấy cái chết?

Nhưng anh không triết lý dài dòng nữa. Anh đang ngồi xổm trên lớp rêu, mồm ngậm một cái xương, anh mút những mảnh cuộc sống vẫn còn nhuốm trên cái xương một màu phớt hồng. Cái vị ngọt của thịt, thoáng qua và mơ hồ như một kỷ niệm, làm anh điên người lên. Anh nghiến răng cắn cái xương. Khi thì cái xương vỡ, khi thì răng anh vỡ. Rồi anh dùng hai hòn đá đập nát mất cái xương, đập ra để lấy tuỷ, rồi nuốt. Anh đập cả vào mấy ngón tay, tuy nhiên trong một lát, anh cảm thấy ngạc nhiên vì khi hòn đá giáng xuống mất ngón tay, anh không thấy đau là bao.

Rồi đến những ngày đáng sợ, đầy tuyết và mưa. Lúc nào dừng lại ngủ, lúc nào đi, anh đều không biết nữa. Anh cứ đi, đêm cứ như ngày. Anh ngủ ở chỗ nào anh gục ngã, tiếp tục bò khi nào sự sống đang chết dần, trong con người anh lại loé lên và bùng cháy đỡ lờ mờ hơn trước. Con người anh không đấu tranh gắng sức nữa. Chính sự sống trong con người anh , sự sống không muốn chết đó, đã đẩy con người anh tiến lên phía trước. Anh không đau đớn. Những dây thần kinh của anh tê liệt, trì độn, trong lúc óc anh vẫn đầu những ảo ảnh phi thường, những giấc mơ đẹp đẽ.

Nhưng anh vẫn mút, vẫn nhai mảnh xương đã đập nát của con ca-ri-pu còn non đó, chỗ chút ít còn lại mà anh đã thu nhặt mang theo bên mình. Anh không bò vượt qua các quả đồi, các đường phân thuỷ nữa, mà như một cái máy, anh bò theo con suối lớn chảy qua một thung lũng rộng và nông. Anh chẳng nhìn thấy dòng suối cũng chẳng nhìn thấy thung lũng này. Anh không thấy gì, ngoài những ảo ảnh. Tinh thần và thể xác anh cùng tiến lên, cùng bò sát bên nhau, nhưng vẫn tách rời nhau, sợi chỉ ràng buộc chúng quá mỏng manh.

Tỉnh dậy vào một lúc trí óc tỉnh táo, anh nằm ngữa trên một mỏm đá. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ và ấm áp. Từ xa vang lại, anh nghe thấy tiếng kêu của một con ca-ri-pu còn non. Từ ký ức mơ hồ, hiện lên nào mưa, nào gió, nào tuyết, nhưng anh đã phải chịu đựng bão táp trong hai ngày hay trong hai tuần, anh cũng chẳng biết nữa.

Anh nằm bất động một lát, ánh mặt trời vui ập lên khắp người anh, truyền hơi ấm ứ ngập cơ thể khốn khổ của anh. Một ngày đẹp, anh nghĩ thầm. Có lẽ, anh có thể xác định được xem đang ở chỗ nào. Anh cố gắng rất đau đơn lăn người nằm nghiêng. Dưới nơi anh nằm là một dòng sông rộng, nước chảy lững lờ. Vẻ xa lạ của dòng sông làm anh bối rối. Anh chậm rãi đưa mắt nhìn theo dòng sông đang uốn khúc theo những vòng rộng giữa các quả đồi trơ trụi, lạnh lẽo, rồi chảy qua các quả đồi thấp hơn, trơ trụi hơn, lạnh lẽo hơn các quả đồi anh đã từng thấy. Chậm rãi, đắn đo, cân nhắc, không xúc động, không vì một sự chú ý ngẫu nhiên, anh dõi theo hướng đi của dòng sông xa lạ tiếng về phía đường chân trời và thấy dòng sông đổ ra biển chói sáng, rực rỡ nắng vàng. Anh vẫn không xúc động. ANh nghĩ thầm: một ảo ảnh hay một ảo giác lạ lùng nhất... một ảo ảnh thì phải hơn; một trò lừa phỉm do trí ốc rối loạn của anh tưởng tượng ra. Hình ảnh một con tàu buông neo giữa mặt biển rực nắng xác nhận nhận thức đó của nah. Nah nhắm mắt lại một lúc rồi mở mắt ra. Kỳ lạ biết bao, ảo ảnh vẫn dai dẳng ám ảnh. Song chẳng có gì là lạ. Anh biết răng không thể nào có biển, có tàu ở giữa miền hoang được, cũng hệt như anh biết rằng không có viên đạn nào torng khẩu súng trống rỗng của anh cả.

Anh nghe thấy có tiếng phì phì ở sau anh - một tiếng thở hay một tiếng khừ khừ yếu ớt bị nghẹn lại. Hết sức chậm chạp, bởi vì người anh đã quá yếu và cứng đờ, anh lăn nghiêng sang phía đó. Anh không nhìn thấy gì ở gần, nhưng vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Tiếng phì phì hoặc khừ khừ đó lại thoảng đến, và thấp thoáng giữ hai tảng đá lởm chởm cách không đầy sáu mét, anh nhận ra cái đầu xám của một con chó sói. Đôi tai nhọn không dựng thẳng lên như anh từng nhìn thấy ở những con sói khác, cặp mắt nó ươn ướt đỏ lừ, cái đầu hầu như rũ xuống, cô đơn, bất lực. Hình như nó ốm. Lúc anh nhìn, nó lại thở phì phì và rên khừ khừ.

Ít ra, điều này là sự thực, anh nghĩ thầm, và quay sang bên kia để nhìn xem cho biết cái thực của thế này mà ảo ảnh đã che mắt anh lúc trước. Nhưng xa xa, biển vẫn rực nắng và hình ảnh con tàu hiện lên rõ ràng. Rút cục lại, đó là thực ư? Anh nhắm mắt lại một lúc lâu, suy nghĩ và rồi nhận ra. Anh đã đi theo hướng đông bắc, đi xa khỏi dường phân thuỷ của dòng sông Đidơ, đã tiến vào thung lũng Copơmainơ. Dòng sông chảy lững lờ này là sông Copơmainơ. Biển rực nắng kia là Bắc Băng Dương. Con tàu đó là tàu săn cá voi đã từ sông Máckenđi tiếng về phía đông, tiến xa về phía đông và l1uc này đang buông neo trong vịnh Cơrơnâysơn. Anh nhớ lại bức hải đồ của Công ty vịnh Hắtxơn mà anh đã xem từ lâu, thật là hết sức hợp lý.

Anh ngồi dậy, chú ý vào những việc trước mắt. Những mảnh chăn bó chân đã mòn thủng, hai bàn chân anh chỉ là 2 miếng thịt trầy trợt, không thành hình thù gì nữa. Cái chăn cuối cùng cũng không còn nữa. Dao và súng đều mất cả. Anh cũng chẳng biết mũ mất ở chỗ nào, mất theo cả bó diêm trong đai lót, nhưng số diêm nằm sát ngực anh, trong lớp giày dầu và cái túi đựng thuốc lá vẫn khô và tốt nguyên. Anh nhìn đồng hồ. Đồng hồ chỉ mười một giờ và vẫn đang chạy. Rõ ràng anh vẫn thường xuyên lên dây đồng hồ.

Anh bình tĩnh và tự chủ. Mặc dầu đã quá yếu, nhưng anh không cảm thấy đau đớn. Anh không đói. Những ý nghĩa về cái ăn cũng chẳng làm anh thích thú, và mọi việc anh làm đều do lý trí cả. Anh xé hai ống quần đến tận đầu gối để lấy vải bó hai bàn chân. Dù sao phải giữ cái ga-men. Anh nhất thiết phải uống một chút nước nóng trước lúc bắt đầu đi tiếp - anh biết trước là một chuyến đi khủng khiếp - để tới con tàu.

Mọi động tác của anh đều chậm chạp. Anh rung rây như bị tê bại. Lúc bắt đầu thu nhặt rêu khô, anh nhận thấy không thể dứng dậy được nữa. Anh cố gắng nhiều lần, rồi đành bò bằng hai bàn tay và hai đầu gối. Có một lần, anh bò đến gần con sói ốm. Con vật miễn cưỡng thu mình lại nhường đường cho anh, nó thè lưỡi liếm cằm, hình như nó không còn đủ sức để uốn cong cái lưỡi lại. Con người chú ý, nhìn thấy cái lưỡi không có cái màu đỏ mạnh khoẻ thông thường. Cái lưỡi màu nâu vàng vàng, tựa như có một lớp rớt rãi sền sệt, bẩn thỉu đóng kết lại, bao quanh.

Sau khi uống một lít nước nóng, con người thấy có thể đứng dậy được và lại bước đi được giống như người đang hấp hối (nếu giả sử người đang hấp hối còn đi được). Cứ đi khoảng một phút anh lại phải nghỉ. Bước chân anh yếu ớt, chập choạng, hệt những bước yếu ớt, chập choạng của con chó sói đang lê theo anh; và đêm đó, khi màn đêm đã xoá nhoà mặt biển rực nắng đó, anh biết rằng anh đã đến gần thêm biển được chưa quá bốn dặm.

Suốt đêm, anh nghe thấy tiếng khừ khừ của con sói ốm, và chốc chốc anh nghe thấy tiếng kêu của con ca-ri-pu còn non. Cuộc sống đang diễn ra xung quanh anh, nhưng đó là cuộc sống mạnh mẽ rất giàu nghị lực, rất mãnh liệt; anh biết rõ rằng con sói ốm lả đang bám theo vết của con người yếu lả với niềm hy vọng: con người sẽ chết trước. Buổi sáng, lúc mở mắt ra, anh thấy con sói đang đăm đăm nhìn anh với một vẻ thèm thuồng, đói khát. Nó đứng thu người lại, quặp đuôi vào giữa hai chân giống như một con chó khốn khổ, thiểu não nuôi trong nhà. Nó run rẩy trong làn gió lạnh sớm mai và nhe răng ai oán lúc con người nói với nó bằng một giọng thều thào, khàn khàn.

Mật trời nhô lên rực rỡ; suốt trong buổi sáng, con người lảo đảo và ngã về phía con tàu đỗ trên mặt biển rực nắng. Thời tiết tuyệt đẹp, hệt như thời tiết mùa hè ngắn ngủi của Ấn Độ ở những miền cao. Thời tiết như thể có thể kéo dài một tuần. Mà không chừng kéo dài hết ngày mai hoặc ngày kia.

Buổi chiều, con người bắt gặp một dấu vết trên mặt đất. Đó là dấu vết của một người, không phải là dấu vết của một người đi bằng hai chân, mà là bò bằng cả chân lẫn tay. Con người nghĩ rằng đó có thể là dấu vết của Binh, nhưng đó là một hướng suy nghĩ buồn, không thú vị gì. Anh không thiết gì. Thật vậy, xúc động và cám giác đã rời khỏi con người anh. ANh không còn xúc cảm với cái đau nữa. Dạ dày và thần kinh của anh đã ngủ yên. Tuy vậy, sự sống trong con người anh vẫn đẩy anh tiến lên phía trước. Anh đã quá kiệt lực, nhưng sự sống torng con người anh phủ nhận cái chết. Chính vì sự sống cự tuyệt cái chết, mà anh vẫn ăn những quả dại miền đầm lầy, ăn những con cá bạch dương, uống nước nóng và để mắt đề phòng con sói ốm lả.

Anh lê theo vết của cái con người đã bò lê đó, chẳng bao lâu tới được chỗ tận cùng của vết đó: mấy cái xương đã róc hết thịt nằm trên một khoảng rêu ỏng nước vó in vết chân của nhiều con sói. Anh nhìn thấy một cái túi da nai căng phồng, hệt như cái túi của anh, đã bị một vết răng nhọn xé rách. Anh xách cái túi lên, trọng lượng của nó đối với cánh tay quá yếu của anh tựa như quá nặng, Bin đã mang nó tới phút cuối cùng. Ha...ha! Anh có thể cười Bin được. Anh phải sống và mang cái túi đồ đến con tàu đỗ trên mặt biển rực nắng. Tiếng cười thích thú của anh khàn khàn, ghê rợn, giống như tiếng ếch kêu, và con sói ốm lả cũng hoà giọng với anh: nó hú lên thê thảm. Con người đột nhiên dừng lại. Sao anh có thể cười Bin, nếu đúng là Bin, nếu những mảnh xương đó, trắng hồng và róc hết thịt, là xương của Bin?

Anh quay đi. Phải, Bin đã bỏ anh, nhưng anh nhất định không lấy chỗ vàng, nhất định không mút những mảnh xương của Bin. Mặc dù Bin hẳn sẽ làm như thế, nếu xảy ra tình trạng ngược lại, vừa loạng choạng lết đi anh vừa trầm ngâm suy nghĩ.

Anh tới một vũng nước. Đang cúi xuống để bắt cá, anh bỗng giật mạnh đầu lại phía sau, tựa như bị con gì đó chạm vào đầu. Anh nhìn thấy hình phản chiếu bộ mặt của mình. Trông nó khủng khiếp đến nỗi cảm giác bỗng thức tỉnh lại trong một khoảnh khắc đủ để anh choáng váng. Trong vũng nước có ba con cá bạch dương, vũng nước khá lớn, không thể tát cạn được, sau mấy lần cố gắng dùng ga-men để bắt chúng không có kết quả, anh đành bỏ. Bởi vì đã quá yếu, anh sợ có thể bị ngã xuống đó, chết đuối. Chính vì lý do này, anh không tin là anh có thể đi theo đường thuỷ, nằm ôm một khúc gỗ nào đó đã giạt vào mũi cát sát bờ sông.

Ngày hôm đó anh đã rút ngắn khoảng cách giữa anh và con tàu được ba dặm, hôm sau, được hai dặm... Vì bây giờ anh đang bò như Bin đã bò, đến cuối ngày thứ năm, con tàu vẫn còn cách bảy dặm, còn anh không thể bò được lấy một dặm một ngày. Thời tiết kiểu mùa hè Ấn Độ vẫn tiếp tục, anh tiếp tục bò và ngất đi, hai trạng thái đó xem vào nhau; con sói ốm lả vẫn rên khừ khừ, thở phì phì bám sát anh. Hai đầu gối anh cũng đã biến thành miếng thịt trầy trợt như hai bàn chân, và mặc dù anh đã dùng những miếng vải xé từ lưng áo sơ-mi băng chặt lại, nhưng chúng vẫn để lại phía sau anh một vệt đỏ in trên rêu, trên đá. Có một lần, liếc lại phía sau, anh thấy con sói đang thèm khát liếm vết máu của anh, anh cay đắng nhận thấy cái kết thúc có thể xảy ra với anh... chỉ trừ phi... trừ phi anh có thể giết được con sói. Vậy đó là một tấn bi kịch hết sức khủng khiếp của sự đấu tranh sinh tồn: một con người yếu lả đang bò, một con sói yếu đang loạng choạng lết, hai sinh vật lê cái xác đang hấp hối của mình qua miền hoang vu và đang săn đuổi để giành giật cuộc sống của nhau.

Nếu đó là một con sói khoẻ mạnh thì cũng chẳng là điều đáng để con người nghĩ nhiều đến thế; nhưng nghĩ tới việc sẽ phải nuôi cái dạ dày bằng cái thứ ghê tởm ấy, cái vật nửa sống nửa chết ấy, thì anh phát tởm lên. Anh thật quá câu nệ. Lý trí lại lang thang rời trí óc anh, những ảo giác làm trí não anh rối loạn, trong khi đó, những giây phút tỉnh táo mỗi lúc một hiếm hoi hơn, ngắn ngủi hơn.

Một lần, đang ngất đi thì anh tỉnh lại bởi tiếng phì phì sát bên tai. Con chó sói khập khiễng lùi lại, chân mất điểm tựa, yếu quá, nó gục xuống. Trông thật buồn cười, nhưng anh cũng chẳng thấy vui thích. Ngay cả sợ, anh cũng không. Anh đã vượt ra ngoài những xúc cảm đó. Nhưng lúc này, trí óc anh tỉnh táo được một lát, anh nằm suy nghĩ, con tàu còn cách không quá bốn dặm. Dụi cho làn sương bao quanh mắt tan đi, anh có thể nhìn thấy con tày rất rõ ràng và anh cũng có thể nhìn thấy cánh buồn trắng của chiếc thuyền con in rõ trên mặt biển rực nắng. Nhưng anh có thể không bao giờ bò được qua bốn dặm này. Anh biết thế, và rất bình tĩnh. Anh biết là không thể nào bò nổi nửa dặm. Nhưng anh muốn sống. Thật là vô lý, nếu anh phỉa chết sau khi đã phải chịu đựng tất cả những thứ như thế. Số mệnh đòi hỏi anh khá nhiều. Và anh đang chết, nhưng anh vẫn cự tuyệt cái chết. Có lẽ là hoàn toàn điên, nhưng chính lúc này trong nanh vuốt của thần chết, anh vẫn thách thức thần chết, cự tuyệt cái chết.

Anh nhắm mắt và hết sức thận trọng trấn tĩnh lại. Anh phải vững vàng vượt lên trên sự kiệt lực đến đột ngột đang trào lên bao trùm những nguồn tri giác của anh. Thật đúng như biển cả, sự kiệt lực khủng khiếp này đang trào lên, dâng lên dần dần từng li một nhật chìm tri giác của anh. Đôi khi anh hoàn toàn bị nhận chìm xuống, anh bơi qua biển cả lãng quên với những động tác run rẩy; và do một phép màu nhiệm của tinh thần anh lại tìm thấy một tri giác khác, anh cố đấu tranh mạnh mẽ hơn.

Anh nằm ngửa bất động, anh có thể nghe thấy, một lúc một gần hơn, tiếng thở ra hít vào nặng nề của con sói đói lả đang chậm rãi chui vào tai anh. Tiếng thở đó tiếng đến sát hơn, ngày càng sát hơn, xuyên qua cái vô biên của thời gian, còn anh vẫn không động đậy. Nó đến sát tai anh. Cái lưỡi khô ram ráp, như một tờ giấy ráp, cọ vào má anh. Hai tay anh đưa ra... hoặc ít nhất thì anh cũng muốn đưa hai tay ra. Những móng tay cong như móng chim, nhưng chỉ nắm được vào khoảng không trống rỗng. Sự nhanh nhẹn và chính xác đòi hỏi phải có sức lực, con người không còn sức lực này nữa.

Sự kiên nhẫn của con sói thực là khủng khiếp. Sự kiên nhẫn của con người cũng không kém phần khủng khiếp. Nửa ngày trời, anh nằm bất động, đấu tranh để không bất tỉnh, chờ đợi con vật sẽ dùng anh làm thức ăn, hoặc sẽ là thức ăn của anh. Đôi khi, biển cả kiệt lực lại trào dâng trùm lên anh, và anh mơ những giấc mơ dài, nhưng anh luôn luôn xuyên qua những cái đó, nửa tỉnh nửa mơ, anh chờ đợi tiếng phì phì, chờ đợi sự cọ xát của cái lưỡi ram ráp.

Anh không nghe thấy tiếng thở nữa, anh chậm rãi thoát dần khỏi cơn mê để cảm thấy cái lưỡi đang quệt trên bàn tay anh. Anh chờ đợi. Những cái nanh ép nhè nhẹ, rồi mạnh dần, con sói nỗ lực dùng chút sức lực cuối cùng cắn răng vào tảng thức ăn mà nó đã chờ đợi lâu rồi, bàn tay dập nát bóp lấy hàm nó. Trong khi con sói chống lại yếu ớt và một bàn tay yếu ớt đang bóp lại thì bàn tay kia chậm rãi lần theo để cùng bóp lại. Năm phút sau, toàn bộ sức nặng của cơ thể con người đã đè lên trên mình con sói. Hai bàn tay không đủ sức mạnh để làm con sói chết ngạt, nhưng mặt con người đã ép chặt vào cổ họng con sói, mõm con người đầy những lông sói. Sau nửa giờ, con người cảm thấy có một dòng âm ấm chảy qua cổ họng. Không ngon lành gì. Thứ đó giống như chì đã nung lỏng bị ép chảy vào dạ dày, chỉ có ý chí mới bắt buộc được cái dòng âm ấm đó chảy vào dạ dày. Sau đó, con người lăn ngửa ra, nằm ngủ.

Trên con tàu săn cá voi Bêtfơt có một nhóm người trong đoàn nghiên cứu khoa học. Đứng trên boong, họ nhìn thấy một vật là lạ ở trên bờ. Vật đó đang chuyển động ra phía biển. Họ không thể liệt được nó vào loại gì: vốn là những nhà khoa học, họ trèo lên chiếc thuyền nhỏ gắn bên cạnh con tàu để vào bờ xem. Họ nhìn thấy một sinh vật, vẫn còn sống, nhưng khó có thể gọi là con người được. Nó đã mù mất tri giác. Nó lo vặn mình bò trên mặt đất như một con sâu khổng lồ. Hầu hết sự nỗ lực của nó đều không có tác dụng, nhưng nó vẫn kiên nhẫn nó quằn quại, vặn vẹo tiến lên phía trước, có lẽ mỗi giờ được khoảng sáu thước.

Ba tuần lễ sau, con người nằm trên chiếc giường trong con tàu săn cá voi Bêtfơt, những dòng nước mắt ròng ròng trên hai mà gầy guộc, anh kể lại lai lịch của mình và những chuyện đã trải qua. Anh cũng kể, bằng những lời rời rạc, không rõ tiếng, về mẹ anh, về miền Kelifơniơ (1) ở phía nam luôn rực nắng về ngôi nhà anh nằm giữa lùm cây cam, giữa những khóm hoa.

Sau đó chẳng bao ngày, anh đã ngồi ăn cùng bàn với các nhà khoa học, các người chỉ huy tàu. Anh thèm thuồng nhìn miếng ăn lúc họ đưa vào miệng. Mỗi khi một miếng ăn biến đi, trên cặp mắt anh lại hiện lên vẻ tiếc rẻ sâu xa. Anh rất tỉnh táo, bình thường, đến giờ ăn thì anh lại ghét những người đó. Nỗi sợ cái ăn sẽ hết đi luôn luôn ám ảnh anh. Anh hỏi bác đầu bếp, hỏi anh hầu buồng, hỏi người thuyền trưởng về những kho thức ăn. Họ nói đi nói lại nhiều lần cho anh yên tâm, nhưng anh không tin, anh ranh mãnh lẻn đến những hầm lương thực trên tàu để nhìn thấy tận mắt.

Người ta nhận thấy anh đã béo ra. Mỗi ngày anh một béo thêm. Các nhà khoa học lắc đầu, họ lý luận với nhau. Họ hạn chế thức ăn hằng ngày của anh, nhưng anh vẫn to ra, người căng lên phi thường dưới làn áo sơ-mi.

Những tay thuỷ thủ nhe răng cười. Họ biết rõ. Khi những nhà khoa học để ý theo dõi thì họ hiểu được. Họ thấy sau bữa điểm tâm, anh ỳ ạch bước như một gã ăn mày anh chìa tay ra, tiến đến gần một tay thuỷ thủ. Tay thuỷ thủ nhe răng cười, đưa cho một miếng lương khô. Anh tham lam vồ lấy, nhìn miếng lương khô như một tên keo kiệt nhìn cục vàng, rồi nhét luôn vào ngực áo sơ-mi. Những tay thuỷ thủ khác hay nhe răng cười cũng cho anh những quà tặng giống như thế.

Các nhà khoa học ý tứ. Họ để anh ở riêng một mình. Nhưng họ kín đáo xem xét giường ngủ của anh. Chiếc giường được lót một lớp toàn bằng lương khô. Đệm cũng được nhồi đầy lương khô, mỗi kẽ nứt, khe hở đều đầy lương khô. Tuy vậy, anh vẫn tỉnh táo, bình thường. Anh đề phòng để chống lại một nạn đói khác có thể xảy ra..., chỉ có thế thôi. Anh sẽ khỏi chứng bịnh đó, các nhà khoa học tuyên bố, và đúng như vậy, anh đã khỏi chứng bịnh đó trước lúc con tàu Bêtfơt ầm ầm thả neo trong vịnh Xen Phrơmixcô (Vịnh Xem Phrơmixcô: ở miền tây nước Mỹ (phía tây bang Califoniơ), trông ra Thái Bình Dương. ).

ĐẮC LÊ dịch.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro