1-KTCT_100490
Đề cương kinh tế chính trị
Câu1: Điều kiện ra đời, tồn tại, đặc trưng và ưu thế của sản xuất
hàng hóa?
Trả lời:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, các quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất biểu hiện qua việc mua bán sản phẩm của nhau trên thị trường.
Điều kiện ra đời:
* Có sự phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, biểu hiện ở sự chuyên môn hóa sản xuất. Do phân công lao động xh, mỗi người hoặc mỗi nhóm người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Mỗi người (hoặc mỗi nhóm người) đều thừa sản phẩm do mình sản xuất ra nhưng lại thiếu các loại sản phẩm khác. Do đó, việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu và có lợi đối với mọi người sản xuất.
*Có chế độ tư hữu. điều đó làm cho những người sản xuất độc lập với nhau; họ sản xuất dựa t rên cớ sở tư liệu sản xuất của họ và sản phẩm lao động thuộc quyền chi phối của họ.
Chế độ tư hữu làm cho người sản xuất sản xuất độc lập với nhau, còn phân công lao động xã hội lại làm cho họ phụ thuộc vào nhau. Sản xuất hàng hóa ra đời chính là để giải quyết mâu thuẫn này.
Những hình thức đầu tiên cả sản xuất hàng hóa xuất hiện từ thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, tồn tạivà phát triển ở các phương thức sản xuất tiếp theo.
Sản xuất hàng hóa phát triển cao nhất, phổ biến nhất trong chủ nghĩa tư bản và trở thành hình thức sản xuất hàng hóa điển hình nổi bật trong lịch sử.
Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển dưới chủ nghĩa xã hội vì dưới chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau và trình độ phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. như vậy, sản xuất hàng hóa xuất hiện rồi tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội , là sản phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. nó có nhiều ưu thế, tiến bộ so với sản xuất tự cấp tự túc mà cho tới nay chưa có hình thức sản xuất xã hội nào có ưu thế hơn nó. Tuy nhiên, ở các xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có vai trò và giới hạn khác nhau. Song, nhìn chung, so với sản xuất tự cấp tự túc, sản xuất hàng hoá có nhiều ưu việt đặc biệt:
-thúc đấy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tiết kiệm, tăng năng suất lao động.
-Làm cho sx gắn liền với tiêu dùng, sp thường xuyên được cải tiến chất lượng, hình thức phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng.
-Thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hoá sx, tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng sự giao lưu thị trường trong nước và quốc tế.
- Là cơ sở thúc đấy quá trình dân chủ hoá, bình đẳng, tiến bộ xã hội, phá vỡ tính bảo thủ, trì trệ, phượng hội của kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc...
Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa có mặt trái của nó như việc làm phân hoá người sx thành giàu nghèo và nhiều hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, lừa lọc... trong điều kiện của nước ta, một mặt phải đây mạnh nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thì trường phù hợp với các quy luật của sản xuất hàng hóa; mặt khác, phải có sự quản lý của nhà nước để bảo đảm sự định hướng xhcn và hạn chế những tiêu cực do cơ chế thị trường sinh ra, thực hiện sự kết hợp hiệu quả kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Câu 2: Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ giữa 2 thuộc tính đó.Tại sao hàng hóa có 2 thuộc tính đó?Trả lời:
1.Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá:
-Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính:
a) Giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất... Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
b) Giá trị hàng hoá:
Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo tỷ lệ nào đó.
Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy không phải là giá trị sử dụng, tuy nhiên, sự khác nhau về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hoá. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, những người sản xuất đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hoá làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, một số lượng vải ít hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1 m vải = 10 kg thóc); nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau. Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở để trao đổi.
Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
c) Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá.
Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng.
d)Hàng hóa có 2 thuộc tính trên vì
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Ở đây không phải có hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá, nhưng lao động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự, giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược: khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất như thế nào, sản xuất cái gì là việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân và lao động cụ thể của họ sẽ biểu hiện của lao động tư nhân. Đồng thời, lao động của mỗi người sản xuất hàng hoá, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Trong nền sản xuất hàng hoá, giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá "giản đơn". Mâu thuẫn này biểu hiện:
- Sản phẩm do người sản xuất nhỏ tạo ra có thể không phù hợp với nhu cầu của xã hội.
- Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động mà xã hội chấp nhận.
- Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng "sản xuất thừa" là mầm mống của mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
Câu 3: Pt luong gia tri cua hang hoa va cac nhan to a/h toi luong GTHH. Cac yeu to cau thanh cua hang hoa?
a) Luong gia tri hang hoa:
Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Vậy lượng giá trị là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao động... Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng hoá của từng người sản xuất. Nhưng lượng giá trị xã hội của hàng hoá không phải được tính bằng thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hoá nào đó trên thị trường.
b) Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hoá
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào năng suất lao động và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động.
- Lượng giá trị hàng hoá thay đổi do tác động của năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động. Đến lượt năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, căng thẳng của lao động. Khi cường độ lao động tăng, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian tăng và lượng sản phẩm được tạo ra tăng tương ứng còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không đổi. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
- Lượng giá trị hàng hóa, phụ thuộc vào tính chất của lao động, đó là: lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hoá do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hoá do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
c) Cấu thành lượng giá trị hàng hoá
Để sản xuất ra hàng hoá cần phải chi phí lao động bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công cụ, nguyên vật liệu và lao động sống. Vì vậy, lượng giá trị hàng hoá được cấu thành bởi cả giá trị của những tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất hàng hoá, tức là giá trị cũ (ký hiệu là c) và hao phí lao động sống của người sản xuất trong quá trình tạo ra hàng hoá, tức là giá trị mới (ký hiệu là v + m). Giá trị hàng hoá = giá trị cũ tái hiện + giá trị mới. Ký hiệu: W = c+ v+ m.
Câu4: Lịch sử ra đời của tiền tệ và bản chất của nó:
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, và cũng là kết quả của quá trình phát triển các hình thái giá trị của hàng hóa. Hình thái giá trị đầu tiên là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên. Người sản xuất làm ra sản phẩm dùng không hết (như lúc được mùa chẳng hạn), thừa ngẫu nhiên, đem trao đổi và ngẫu nhiên gặp một loại hàng hóa nào đó; việc trao đổi diễn ra theo một tỷ lệ cũng ngẫu nhiên và giản đơn: hàng đổi lấy hàng.
Thí dụ: aHA = bHB
Ở hình thái này, hàng hóa thứ nhất (aHA) biểu hiện giá trị của nó ở hàng hóa thứ hai (bHB), còn hàng hóa thứ hai đóng vai trò là
vật ngang giá. Khi phân công lao động xã hội phát triển đến mức độ nào đó, chủng loại hàng hóa trao đổi trên thị trường nhiều hơn, thì một hàng hóa có thế gặp và trao đổi với nhiều hàng hóa khác.
Thí dụ: bHB hoặc aHA có thể trao đổi với cHC hoặc dHD
Đó là hình thái giá trị mở rộng. Khi phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, làm cho sảnxuất hàng hóa cũng phát triển, trao đổi hàng hóa trở nên thường xuyên và phổ biến hơn. Để cho sự trao đổi được thuận lợi, người ta chọn một hàng hóa nào đó làm vật ngang giá chung.
Thí dụ: aHA bHB cHC có thể trao đổi qua xHY dHD
Đó là hình thái chung của giá trị. Vật ngang giá chung có thể trao đổi trực tiếp với một hàng hóa bất kỳ. Nó trở thành môi giới, thành phương tiện để trao đổi. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn, thị trường được mở rộng, người ta chọn bạc và vàng làm vật ngang giá chung là thuận lợi hơn cả. Lúc đó, hình thức tiền của giá trị ra đời.
Khi bạc và vàng cùng được dùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ gọi là chế độ song kim. Khi chỉ còn vàng độc chiếm vai
trò tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ bản vị vàng. Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa phân ra hai cực: một phía, là các hàng hóa thông thường; một phía là hàng hóa đóng vai trò tiền tệ.
Như vậy, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, dùng làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa, là sự thể hiện chung của giá trị và lao động xã hội, nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa do quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa tạo ra. Đó là nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Câu 5: P/t chuc nang cua tien.Chuc nang nao quan trong nhat?Tai sao?
@.Bản chất và chức năng của tiền tệ?
a) Thước đo giá trị
Tiền tệ làm được thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là một hàng hóa, cũng có giá trị như các hàng hóa khác. Để làm được thước đo giá trị, mỗi quốc gia có một đơn vị tiền tệ nhất định. Giá trị của mỗi hàng hóa được biểu hiện bằng một số tiền nhất định, đó là giá cả của hàng hóa.Giá trị là cơ sở của giá cả, nhưng do quan hệ cung cầu, giá cả có thể lên xuống xung quanh giá trị. Tuy vậy, xét trong phạm vi toàn xã hội trong thời gian nhất định thì tổng số giá cả bằng tổng số giá trị của hàng hóa.
b) Phương tiện lưu thông
Làm phương tiện lưu thông, tiền tệ đóng vai trò môi giới, trung gian trong trao đổi hàng hóa và dưới hình thức tiền mặt. Nó vận
động theo công thức H-T-H (H = hàng; T = tiền). Số lượng này đc xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ như sau: Số lượng tiền vàng cần thiết trong lưu thông = (Tổng số giá cả hàng hóa lưu thông - Tổng số giá cả hàng hóa bán chịu + Tổng số giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau + Tổng số giá cả hàng hóa bán chịu đến kỳ thanh toán) / (Số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ)
Số lượng tiền xác định trong công thức này là tiền vàng. Khi phát hành tiền giấy vượt quá mức cần thiết sẽ dẫn đến lạm phát.
c) Phương tiện cất trữ
Khi làm chức năng này, tiền tệ rút khỏi lưu thông và đi vào "kho" cất trữ. Tiền cất trữ phải có đủ giá trị. Người ta thường cất
trữ vàng và bạc.
d) Phương tiện thanh toán
Kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó sẽ sinh ra việc mua bán chịu. Khi đó, tiền có chức năng làm phương tiện
thanh toán: trả tiền mua chịu, trả nợ...Chức năng này càng phát triển, càng làm tăng thêm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa.
e) Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới một quốc gia, quan hệ buôn bán giữa các nước hình thành, thì tiền tệ làm chức năng tiền
tệ thế giới.
- Tiền tệ là sản phẩm khách quan của lịch sử phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nó là loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật
ngang giá chung, làm được nhiều chức năng phục vụ cho sản xuất và trao đổi hàng hóa. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị
thường sử dụng tiền tệ làm công cụ phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình.
@.Chức năng quan trọng nhất:
Đơn vị đo lường giá trị. Đây là một chức năng quan trọng nhất vì việc dùng tiền làm đơn vị đánh gíá sẽ thuận lợi hơn rất nhiều và giảm đc chị phí trong trao đổi.
Vì khi trao đổi hàng- hàng, có n mặt hàng cần trao đổi với nhau thì phải có n(n - 1)/2 mức giá.còn khi sử dung tiền tệ thì ta chỉ cần biết n mức giá.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro