1 1 1 1 1 1 1
Miền duyên hải phía Nam và Đông Trung Hoa có mùa mưa bão kéo dài từ tháng năm đến tận tháng mười một, nhưng dữ dội nhất là ba tháng bảy, tám, chín.
Những cơn bão nhiệt đới này xuất phát ở Nam Hải, di chuyển theo hướng Tây và Bắc vì vậy, ảnh hưởng từ Quảng Châu cho tới vịnh Liêu Đông.
Tất nhiên, địa phương đầu tiên gặp bảo chính là đảo Hải Nam, vùng đất cực Nam Trung Hoa.
Tiết Trung Thu vừa rồi, một cơn cuồng phong mãnh liệt đã thổi bay mấy chục mái lá đơn sơ trong thôn chài Dương Sa ở mạn chính Đông Hải Nam. Một trong số những nạn nhân ấy là chàng trai già Nam Cung Bột.
Nam Cung Bột nổi tiếng khắp thôn Dương Sa vì nhiều lý do. Thứ nhất là bởi gã có thân hình vạm vỡ, sức khoẻ phi thường, tài bơi lội thuộc hàng thượng thặng.
Thứ hai, gã là người nghèo nhất thôn chài.
Do vậy, dẫu đã ba mươi tám tuổi rồi, Nam Cung Bột vẫn phòng không chiếc bóng !
Phải nói thêm rằng Nam Cung Bột có hai tật xấu nho nhỏ. Là uống rượu như hũ chìm và sức ăn gấp năm, gấp bảy người thường. Suốt đời gã làm không đủ ăn thì còn nuôi nổi ai nữa ?
Các nữ nhân chưa chồng trong thôn luôn rạo rực dán mắt vào những bắp thịt cuồn cuộn trên cơ thể Nam Cung Bột, nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện lấy gã !
Chàng trai già của chúng ta cũng biết phận mình nên chỉ nheo mắt đưa tình, hay nhoẻn miệng cười duyên chứ không dám tán tình ai cả!
Thực ra, Nam Cung Bột không hoàn toàn cô đơn vì trong thôn có khá nhiều quả phụ.
Năm nào cũng có một hai ngư dân bỏ mạng ngoài biển khởi, để lại người vợ và bầy con nheo nhóc.
Thỉnh thoảng, Nam Cung Bột đến thắp hương cho những người bạn xấu số và an ủi thê tử của họ.
Tấm lòng tốt của gã đã khiến góa phụ cảm kích đến nỗi lôi xộc Nam Cung Bột vào buồng !
Tuy nhiên, ngay cả những người đàn bà không chỗ nương tựa cũng chẳng dám lấy gã, vì sợ bầy con của mình sẽ chết đói ! Tật tham ăn của gã khiến mọi người chán ngán !
Nghề biển không giống với nghề nông vì chẳng thể dựa vào sức lực mà cày sâu cuốc bẫm, gia tăng huê lợi. Ngư dân dong buồm ra khơi, trông đợi khá nhiều vào vận may, đôi khi phải trở về với vài ba con cá chép, chẳng đủ nhét kẻ răng ! Thế cho nên, Nam Cung Bột có khoẻ như Hạng Võ cũng bằng thừa ! Gã chưa chết đói cũng là may lắm rồi !
Vậy vì sao một đáng trượng phu sức vóc như Nam Cung Bột mà lại chịu chôn vùi cuộc đời ở vùng đất cằn cỗi, nghèo nàn này ? Vì sao gã không đi nơi khác mà lập nghiệp ?
Xin thưa rằng thôn Dương Sa là nơi chôn nhau cắt rốn của Nam Cung Bột, và mười tám năm trước gã đã từng vác đao đi tìm chút công danh.
Chàng trai đảo Hải Nam đã lần đến kinh đô Ưng Thiên Phủ, tức Nam Kinh bấy giờ. Hải Nam cách xa Trung Nguyên là một huyện của Quảng Đông và có nhiều dân cư thuộc các bộ tộc thiểu số Lê, Miêu, Hồi!.. nên văn hóa kém cỏi, bị coi là man di, mọi rợ.
Do đó Nam Cung Bột không được người Đế Đô xem trọng, kể cả bọn kỹ nữ !
Lòng tự ái bị tổn thương, Nam Cung Bột liền đại náo Kim Lăng Đại Kỹ Viện, đánh nhau cả với bọn Cẩm Y thị vệ. Mãnh hổ nan địch quần hồ , thế là gã bị bắt.
May thay, quan Vệ Uý Lưu Chân cũng là người Hải Nam nên đã không bắt tội mà còn thu nạp Nam Cung Bột vào làm thị vệ.
Vài năm sau, Yên Vương Chu Lệ cướp ngôi Huệ Đế. Nam Cung Bột phò tá vua cũ chạy trốn, nhưng nửa đường thì lạc mất.
Thế là, Nam Cung Bột phải trở lại quê cũ là thôn Dương Sa, sống cuộc đời ngư phủ nghèo mạt rệp ngày ngày mượn men rượu để tưởng nhớ đến giai đoạn hoàng kim !
Song thân gã đã chết cả, để lại một mái nhà tranh và chiếc thuyền chài ! Nam Cung bột đã dời nhà vào cánh rừng dương để được gần gũi mộ phần pha mẹ, dù gã chẳng bao giờ có tiền mua nhang !
Trận bão tháng tám đã thổi tốc mái lá, khiến Nam Cung Bột phải sửa hết ba ngày. May mà gã có thói quen vác thuyền về nhà nên phương tiện mưu sinh vẫn còn nguyên vẹn !
Hôm nay là ngày rằm tháng chín, Nam Cung Bột ra khơi. Gã chèo một mạch tám chín dặm, định đến vùng nước dồi dào tôm cá, thì nhận ra một đoàn chiến thuyền mười mấy chiếc căng buồm tiến lên hướng Bắc, đây là thuyền của quân nhà Minh đi chinh phạt An Nam trở về.
Nam Cung Bột bực bội chửi vang vì đoàn thuyền kia đang đi ngang ngư trường của gã, và vì gã không ưa vị vua hiện tại là Minh Thành Tổ Chu Lệ. Chính lão ta đã khiến Nam Cung Bột phải thất nghiệp, rơi vào cảnh khốn cùng !
Nam Cung Bột biết đàn cá nơi ấy đã chuồn mất nên không đi tiếp, buông chài tại chỗ và chỉ kiếm được vài con. Gã chán nản trở về, sáng hôm sau mới trở lại vùng biển quen thuộc!
Lần này, Nam Cung Bột xa bờ được bốn dặm thì nhận thấy một xác người đang trôi nổi trên sóng nước. Gã mừng rỡ chèo về hướng ấy, may ra tìm được chút vàng bạc hay vật trang sức của nạn nhân.
Năm ngoái, lão Trương Cẩn trong thôn đã từng gặp may, vớ được mười lượng bạc trong xác chết trôi. Lão ta chỉ tốn có năm phân để chôn cất, và lời chín lượng rưỡi.
Đến nơi, Nam Cung Bột cau mày vì nhận ra nạn nhân là một nữ lang mặc áo vải thô, chẳng hề đeo trang sức.
Tuy hơi thất vọng nhưng gã vẫn nhảy xuống đem xác lên thuyền.
Lúc cởi thắt lưng, Nam Cung Bột kinh hãi vì phát hiện nàng ta vẫn còn sống, dù hơi thở rất mỏng manh.
Gã gật đầu lẩm bẩm :
- Cô ả này thân hình nhỏ nhắn chắc ăn chẳng bao nhiêu, ta chỉ bớt vài chén là nuôi được ! Thường thì ân biến thành tình, phen này ta đã có vợ đẹp rồi !
Quả thực là nữ lang này rất kiều diễm. Tuy da nhợt nhạt, tái mét vì ngâm nước quá lâu, nhưng sống mũi nàng thanh tú, mày liễu xanh đen và đôi môi nhỏ xinh xinh kia vẫn biểu hiện một nhan sắc mặn mà !
Nam Cung Bột đắc ý thổi vào miệng mỹ nhân những luồng sinh khí.
Môi nàng lạnh giá và mặn chát mà sao gã cứ muốn chạm vào mãi !
Gã là ngư phủ nên thông thạo việc cấp cứu. Chỉ một lát sau đã tống hết số nước biển trong bụng nạn nhân ra. Động tác kế tiếp là phải làm nóng sưởi ấm cơ thể nữ lang, nhưng trên thuyền chẳng hề có lửa hay chăn bông.
Ngay bản thân Nam Cung Bột cũng chỉ có một chiếc quần dài cũ rách vá chằng vá chịt. Gã gãi đầu suy nghĩ tự nhủ cứu người là trọng nên cởi sạch y phục ướt át của nữ nhân rồi nằm ôm lấy, dùng sức nóng trong thân xác mình mà sưởi ấm kẻ bị nạn.
Đáy thuyền chài thường sâu hơn thuyền câu, lòng thuyền lót vạt tre ngang mạn, phía dưới sạp tre là chỗ để chứa cá tôm. Che chở cho sạp là một vòm mui sườn tre, căng bằng vải buồm khá là kín đáo.
Nam Cung Bột yên tâm ôm ấp thân hình thon thả và mịn màng ấy, mặc cho sóng biển nhồi lắc con thuyền !
Đây là lần đầu tiên được kề cận một nàng trinh nữ nên chàng trai già họ Nam Cung nghe lòng bồi hồi, xao xuyến sướng như được lên tiên !
Gã không động dục nhưng lại khao khát được vuốt ve đôi nhũ phong nhỏ nhắn, săn chắc kia. Chúng mơn mởn, thanh tân, đẹp hơn tất cả những bầu vú mềm nhão hay chảy xệ của các mụ quả phụ và bọn kỹ nữ !
Nam Cung Bột liếc gương mặt đẹp trang nghiêm của nữ lang, lòng hơi ái ngại và tự trấn an :
- Quái gì phải sợ ! Đã ôm ấp thân mật thế này thì có thất lễ thêm một chút cũng chẳng sao !
Và gã run rẩy đặt bàn tay thô tháp, to như nải chuối của mình lên ngực trái mỹ nhân. Cảm giác quả là tuyệt diệu phi thường, nhưng Nam Cung Bột còn chút khí chất trượng phu nên chẳng dám kéo dài, ngượng ngùng rút tay về.
Nữ lang chưa tỉnh lại nhưng thân thể đã ấm hơn, hơi thở điều hòa.
Nam Cung Bột gật gù, ngồi lên, thò tay lấy bộ y phục treo ở kèo mui đã sắp khô nhờ gió biển, phủ lên người nữ lang.
Gã bước ra mũi thuyền, định chèo vào bờ thì phát hiện chung quanh là một đàn cá thu đông dặc. Chúng vây chặt thuyền, cứ như bị hấp dẫn bởi một sức mạnh nào đó !
Nam Cung Bột mừng rỡ quăng chài , chỉ gần khắc đã khẳm một thuyền đầy cá !
Gã mỉm cười tự nhủ :
- Cô ả này đã mang vận may đến cho ta ! Làm gì có chuyện cá thu vây lấy thuyền bao giờ ?
Gã phấn khởi chèo một mạch về đến bãi biển Dương Sa. Đoạn này rất vắng vẻ vì chỉ có mỗi một nhà của Nam Cung Bột, cách xa xóm chài hơn nửa dặm.
Gã nhảy xuống nước, căng bắp thịt đẩy thuyền lên bãi cát và phăng phăng kéo nó về hướng rừng dương. Thần lực này quả là đáng khâm phục.
Nam Cung Bột bồng nữ lang vào nhà, đặt lên chiếc giường tre cũ kỹ, và chẳng có lấy một manh chiếu hay tấm đệm bông.
Gã nhăn mặt tự cằn nhằn :
- Nhà cửa thế này thì chắc cô vợ đẹp sẽ chuồn sớm ! Ta phải bán cá mua thêm ít vật dụng mới được !
Bỗng gã nghe có tiếng thở dài và nữ lang mở mắt ra, nói bằng tiếng Quảng Đông :
- Các hạ hãy ra ngoài để ta mặc lại y phục !
Nam Cung Bột định nói rằng mình đã thấy hết, nàng chẳng cần phải hổ thẹn làm gì. Nhưng khi chạm phải ánh mắt u buồn và nghiêm lạnh, gã chột dạ bước ra khỏi nhà, sẳn dịp xúc cá trong thuyền vào mảnh lưới cũ, mang vào trong thôn bán !
Tổng cộng có đến gần ba trăm cân cá đè nặng lên đôi vai lực lưỡng.
Người trong thôn kinh ngạc trước lượng thu hoạch quá lớn này, cao giọng khen ngợi vì chắc mẩm rằng lát nữa sẽ được mời nhậu.
Bản tính Nam Cung Bột rất phóng khoáng nên bạn bè rất đông đúc.
Song hôm nay, gã vừa rời vựa cá là đến ngay tiệm tạp hóa, mua đủ thứ vật dụng và tất tả trở về nhà chứ không ghé quán rượu.
Nữ lang áo vải xanh kia đã nấu xong cơm, còn có cả một tô canh cá thơm phức.
Nam Cung Bột đã chừa lại chục con, trong lu sành sau nhà, để làm thực phẩm.
Chén đũa mới mua đã có dịp sử dụng ngay.
Hai người lặng lẽ ăn mà chẳng nói tiếng nào.
Nam Cung Bột càng ngắm nghía, lòng càng ngây ngất trước vẻ đẹp của nữ lang.
Gã ấp úng nói :
- Tại hạ là Nam Cung Bột, ba mươi tám tuổi. Dám hỏi phương danh của cô nương ?
Gã từng làm thị vệ suốt bốn năm ở Kim Lăng nên ngôn từ không đến nỗi quê mùa, thô kệch.
Nữ lang hờ hững đáp :
- Ta tên gọi Đặng Trinh Tâm, hai mươi lăm tuổi !
Nam Cung Bột có đà hỏi tiếp :
- Chẳng hay Đặng cô nương nguyên quán chốn nào, và vì sao lại rơi xuống biển ?
Đôi mắt nữ nhân đang hiền hòa bỗng loé lên tia oán hận và chứa đầy sát khí, mặt nàng lạnh lùng như phủ sương mờ !
Nam Cung Bột chẳng biết sợ trời cao đất dày, vậy mà lại thấy ngán nữ nhân này !
May thay, sắc diện này đã dịu xuống.
Trinh Tâm bình thản nói :
- Sau này các hạ sẽ biết !
Nam Cung Bột cũng chẳng dám hỏi tới, buông đủa đi ra phía sau súc miệng.
Nhận thấy đống củi đã gần hết, gã trở vào nhà lấy thanh đao giấu dưới gầm giường, kỷ vật duy nhất của cuộc đời làm thị vệ !
Nam Cung Bột đi một vòng, chặt những cành dương khô, mang về chất đống sau hè ! Gã làm việc cần mẫn, trên môi điểm nụ cười hạnh phúc, và hình bóng Trinh Tâm thấp thoáng trong hồn và trước mắt !
Xế chiều, con sâu rượu trong bụng bắt đầu ngọ ngoạy.
Nam Cung Bột bối rối suy nghĩ :
- Nay nhà đã có thêm một miệng ăn, ta phải bớt uống mới xong ! Vả lại cô ả họ Đặng này tính tình khó chịu, thấy ta bê tha tất sẽ không ưng ý ! Thôi thì ráng nhịn vài ngày, chờ ván đóng thuyền cái đã !
Gã khoan khoái vì ý tưởng tinh ranh này, tiếp tục công việc dọn dẹp quanh nhà và dựng thêm một buồng tắm kín đáo bằng mảnh vải buồm cũ.
Trước đây, Nam Cung Bột thường trần truồng tắm táp dưới giòng suối nhỏ trong rừng, nhưng giờ đây gã không muốn ai nhìn thấy cơ thể trắng trẻo mịn màng của cô vợ tương lai !
Trinh Tâm cũng cặm cúi làm việc trong nhà, quét mạng nhện, bụi bặm, xếp đặt mọi vật cho ngăn nắp. Và khi Nam Cung Bột làm xong phòng tắm đơn sơ thì nàng cũng đã nấu xong bữa tối.
Gã hoan hỉ định sà vào mâm thì bị người đẹp chỉnh ngay :
- Thân thể có sạch sẽ thì ăn cơm mới ngon được !
Nam Cung Bột sượng sùng mở rương lấy quần sạch ra suối tắm gội.
Trinh Tâm cũng đã khai trương phòng tắm mới vì người nàng nhớp nhúa bởi nước biển. Nữ nhân không có y phục nên đã thay bằng bộ quần áo cũ của mẹ Nam Cung Bột, trông rất buồn cười!
Chờ gã ăn xong Trinh Tâm nghiêm giọng :
- Các hạ tướng mạo đôn hậu thiện lương nhưng tính tình nông nổi, bồng bột, phóng túng, không phải là chỗ dựa tốt cho đời một nữ nhân! Ta sẽ ở lại đây vài ngày xem chàng có khả năng sửa đổi hay không, rồi mới quyết định việc gá nghĩa phu thê !
Nam Cung Bột nghe, tự ái sôi sục nhưng nghĩ lại rằng đối phương nói quá đúng, đành ngượng ngùng đáp :
- Tại hạ biết mình lắm tật xấu, xin cố hoàn thiện để cô nương khỏi thất vọng!
Nói xong, gã mỉm cười chua chát.
Trinh Tâm nói ngay :
- Chắc các hạ đang nghĩ đến cái ơn cứu mạng ta phải trả phải không ? Ta có thể hiến thân cho các hạ để đền ơn, nhưng sẽ dứt áo đi ngay khi thấy các hạ không xứng đáng là bậc trượng phu !
Nam Cung Bột giật mình, không ngờ nữ lang lại nhìn thấu tâm can mình như vậy ! Gã bối rối biện minh :
- Cô nương. chớ xem thường tại hạ như vậy ! Bột này vốn là kẻ thi ân bất cầu báo !
Gã giả đò bực bội, rời chõng tre bỏ ra thuyền mà ngồi. Gã vừa giận lại vừa thẹn, lẩm bẩm chửi đổng :
- Mẹ kiếp ! Ả la sát này quả là lợi hại ! Xem ra Bột ta đã gặp khắc tinh rồi ! Thân chết trôi mà kiêu kỳ, khó chịu còn hơn công chúa nữa ! Bột ta thà ở vậy chứ chẳng thèm hạ mình cầu cạnh !
Nhưng dung nhan xinh đẹp và thân thể nõn nà lại ám ảnh mãi và đánh đổ câu nói hùng hổ lúc đầu !
Nam Công Bột suy nghĩ :
- Ả này kiều diễm như tiên, ăn nói mực thước, đầu óc thông tuệ, chắc xuất thân từ chốn quyền quí, có kênh kiệu một chút cũng là phải ! Nếu ta không chịu nhượng bộ thì đến chết cũng chẳng có nỗi một mụ vợ đẹp như thế. Hơn nữa, họ Nam Cung nhà ta vận chưa có người nối dõi, song thân dưới suối vàng sẽ chẳng vui lòng !
Gã nghĩ ngợi vẩn vơ, nằm mơ tưởng đến người ngọc. Lát sau ngủ vùi vì một ngày làm việc mệt nhọc.
Cuối canh tư, theo thói quen, gã giật mình thức giác, phát hiện trên người mình có tấm chăn đơn mới mua hồi trưa. Vậy là Trinh Tâm đã ra đây đắp cho gã.
Nam Cung Bột xúc động và hài lòng :
- Cô ả này trông dữ dằn nhưng đáng mặt vợ hiền !
Thấy bếp có ánh lửa, gã ôm mền đi về phía ấy, nhận ra cơm canh đã sẳn sàng!
Trong suốt tháng trời, ngày nào Nam Cung Bột cũng đánh được rất nhiều tôm cá. Gã càng tin rằng Trinh Tâm là vận đỏ của mình, càng nễ sợ nàng hơn, và không dám uống một giọt rượu nào.
Thấy Nam Cung Bột mua sắm cả vải vóc, người trong thôn đoán ngay là rằng gã sắp cưới vợ.
Đám bạn rượu chặn đường níu kéo, hết lời trách móc và dọa sẽ đến nhà xem mặt người đàn bà đã chiếm mất tay nhậu của họ !
Nam Cung Bột đã được Trinh Tâm dặn dò nên lạnh lùng cảnh cáo :
- Bọn ngươi mà mò đến phá hỏng mối lương duyên của ta thì đừng trách. Bột này tàn nhẫn ! Đúng ngày Đại Cát, ta sẽ có bữa tiệc ra mắt !
Nam Cung Bột rất có uy nên đám bằng hữu riu ríu nghe lời.
Quả nhiên hôm sau Trinh Tâm nói với Nam Cung Bột :
- Thời gian qua các hạ đã chứng tỏ mình là người có ý chí, dám vì hạnh phúc gia đình mà hi sinh sở thích của mình. Ta bằng lòng kết tóc xe tơ với các hạ, nhưng sau này, nếu các hạ quay lại tật xấu cũ, ta sẽ bỏ đi ngay !
Nàng thở dài, dịu giọng :
- Thực ra, nam nhân có uống vài chén cũng được! Song nếu lạm dụng thì con cái sẽ ngu ngốc, trì độn, chẳng đáng thương lắm sao ?
Nam Cung Bột mừng rỡ cười hề hề :
- Nàng dạy chí phải! Con cháu họ Nam Cung mà xuẩn ngốc thì coi sao được ! Ta hứa từ nay chỉ uống mỗi ngày nửa cân mà thôi !
Trinh Tâm quắc mắt :
- Không được ! Cho đến lúc ta thụ thai, các hạ không được uống một giọt nào cả ?
Nam Cung Bột xụ mặt :
- Chẳng lẽ trong ngày cưới cũng không được uống hay sao ?
Trinh Tâm mỉm cười :
- Hôm ấy thì cho phép uống ba chung, nếu quá thì một tháng sau mới động phòng !
Nam Cung Bột nhịn thèm đã lâu, liền cười nhăn nhó :
- Ba chung cũng được ! Đợi thêm một tháng chắc ta chết mất !
Hiểu ý gã, Trinh Tâm đỏ mặt, càng bội phần quyến rũ !
Mấy hôm rày biển động, thuyền chài không thể ra khơi, hai người quyết định nhân dịp này mà dựng nhà mới.
Nam Cung Bột đã đốn được rất nhiều cây gỗ thẳng thớm, trong khu rừng già dưới chân núi Lam Sơn gần đấy !
Mỗi ngày, bán cá xong là gã chạy ù về nhà, vào rừng tìm vật liệu, nhờ vậy mà trong một tháng đã đủ số.
Chính Trinh Tâm là người vẽ kiểu nhà, và tự tay cưa cắt, đục đẻo những thân cây, trong lúc Nam Cung Bột đi đánh cá !
Tối mười tám tháng mười, nàng bảo Nam Cung Bột :
- Ngày mai chúng ta sẽ dựng nhà, khoảng vài ngày sẽ xong. Sau đó, các hạ có thể mời những bằng hữu thân thiết nhất đến dự tiệc ra mắt vào ngày hai mươi sáu!
Nam Cung Bột phân vân :
- Mình ta với nàng làm sao kịp trong ba ngày ? Hay là để ta rủ thêm vài gã trong thôn đến giúp ?
Trinh Tâm lắc đầu :
- Không cần đâu ! Ta với các hạ là đủ rồi !
Nam Cung Bột nhăn mặt :
- Sắp lấy nhau mà nàng còn xưng hô lạnh nhạt như thế được sao ?
Trinh Tâm thẹn thùng cúi mặt, dịu giọng đáp :
- Tướng công đừng giận thiếp !
Nam Cung Bột khoan khoái cười ha hả :
- Có thế chứ !
Sáng hôm sau, ăn uống no nê xong, hai người bắt tay dựng nhà trên mảnh đất trống mé tả nhà cũ.
Nhìn Trinh Tâm vác cây cột gỗ dài hơn trượng, thân to một vòng tay, bước đi thoăn thoắt, Nam Cung Bột mới biết nàng rất khoẻ , và bộ pháp kia là của một người đã dầy công luyện võ !
Gã tự ái, ra sức đào cật lực những lỗ cột, lòng tự hỏi rằng nếu vợ chồng đánh nhau thì ai thắng, ai bại ?
Đến chiều thì bốn dàn cột, gồm mười hai thân cây còn nguyên võ, đã được dựng lên sừng sững. Căn nhà này có ba gian chính, bếp và nhà tắm sẽ làm sau.
Nam Cung Bột ngơ ngác hỏi :
- Không có thang thì làm sao lên nóc mà bắc đòn dông ?
Trinh Tâm mỉm cười , nhún chân bay vút lên, đứng vắt vẻo trên đỉnh cột cái, và nói vọng xuống :
- Tướng công hãy đưa một đầu đòn dông lên cho thiếp !
Nam Cung Bột tròn mắt sững sốt trước tài nghệ khinh công quán thế của nữ nhân. Gã ấp úng nói :
- Té ra nàng là một cao thủ trong làng võ, chẳng hay nàng xuất thân từ môn phái nào vậy ?
Trinh Tâm không đáp, sẳng giọng bảo :
- Đừng nói nhiều, trời sắp tối rồi !
Nam Cung Bột bắt đầu thấy sợ, mau mắn đưa đầu gỗ lên.
Trinh Tâm nắm lấy một đầu, vung cước đá mạnh thân đòn, khiến nó bị hất ngược, vượt qua dàn cột kế cận và ngoan ngoãn nằm đúng vào vị trí.
Động tác này chứng tỏ sức mạnh của chân và quyền lực của mỹ nhân.
Cố định xong đầu bên này bằng lạt mây, Trinh Tâm đi trên đòn mà sang bên kia.
Chỉ bốn ngày sau căn nhà đã hoàn thành, tuy đơn giản nhưng rất kiên cố, vách chung quanh được ghép bằng những thân cây to cỡ bắp chân.
Sáng hai mươi ba, Nam Cung Bột chỉnh tề trong bộ y phục vải mới màu xanh nhạt, râu ria nhẵn nhụi, đi vào thôn Dương Sa tìm bằng hữu, mời họ đến dự tiệc cưới.
Người nghèo đảo Hải Nam ít khi tổ chức hôn lễ rình rang, nhất là trong trường hợp cô dâu chú rể đều mồ côi, không họ hàng thân thích. Chỉ một bữa tiệc nhỏ, mời vài bô lão cao niên và bạn bè là đủ lễ !
Nhưng việc Nam Cung Bột bỏ rượu cưới một cô gái lạ mặt đã kích động óc hiếu kỳ của mọi người trong thôn. Cả những người không nhận được thiếp hồng cũng tuyên bố là sẽ đến dự, bất chấp ý kiến của chú rể !
Tổng cộng số khách lên đến hơn trăm người khiến Nam Cung Bột choáng váng, chạy về báo cáo với Trinh Tâm !
Nàng tư lự tính toán :
- Nay chúng ta làm nhà, mua sắm đồ đạc đã cạn tiền, nhưng chẳng thể để người trong thôn chê cười được! Thiếp sẽ thay đổi thực đơn, không mua gà vịt nữa mà sẽ đãi bằng món khác !
Nam Cung Bột rầu rĩ :
- Không gà vịt thì chăng lẽ cho họ ăn cá ? Dân chài sợ hải sản đến mọc ốc, họ sẽ chửi cho đấy !
Trinh Tâm mỉm cười :
- Tướng công cứ đi theo thiếp. Món này thì khách không thể chê được!
Sáng hai mươi sáu, người trong thôn Dương Sa lũ lượt kéo đến nhà Nam Cung Bột. Họ hết lời trầm trồ khen người cơ ngơi mới của gã.
Mùi thơm phưng phức từ bếp bay lên, xộc vào mũi khách, thấu tận đến ruột gan.
Tần Khải, bạn chí thân của Nam Cung Bột, hít hà nuốt nước miếng ừng ực , tò mò hỏi :
- Chẳng hay Nam Cung huynh đãi bọn ta món gì mà hương vị độc đáo thế kia ?
Nam Cung Bột đắc ý đáp :
- Ấy là món thịt dê núi rất bình thường, nhưng nhờ tài nghệ của chuyết thê nên mới thơm nức mũi như vậy ?
Tần Khải trợn mắt kinh ngạc :
- Ái chà ! Chẳng lẽ huynh đài lại khổ công lặn lội đến đỉnh núi Lam Sơn mà bắt chúng về đấy sao ?
Mọi người tấm tắc khen ngợi bãn lãnh của Nam Cung Bột. Họ quên rằng bọn Sơn Dương sống trên những vách đá cheo leo, nhanh nhẹn phi thường, trừ phi Nam Cung Bột mọc cánh, hóa thành đại bàng mới mong bắt nổi!
Chẳng qua gã nổi tiếng thực thà nên ai cũng tin !
Đám khách nữ nhân đã ào vào bếp mượn cớ giúp đỡ chủ nhà để biết mặt cô dâu.
Trinh Tâm đang tất bật cạnh năm chiếc nồi lớn, mặt mũi lem luốc nhễ nhại mồ hôi nhưng cũng đủ xinh đẹp để các bà ghen tỵ.
Nàng nở nụ cười hòa ái, thân thiện, nói lời cảm tạ bằng một giọng ngọt ngào như mía lùi, chinh phục được ngay những mụ ngư dân chất phác.
Trinh Tâm ít khi cười nhưng nụ cười của nàng lại có mị lực vô song, ai thấy cũng phải xuyến xao và sinh lòng ái mộ. Thế là đám nữ khách xăng xái phụ hợ, luôn miệng khen cô dâu hiền lành giỏi giang xinh đẹp !
Vợ Tần Khải cao giọng :
- Đại tẩu nhu mì thế này mà lão Tần Khải nhà em cứ bảo rằng Đại tẩu dữ như cọp, chưa cưới đã bắt Nam Cung huynh phải bõ rượu và bằng hữu !
Trinh Tâm cười đáp :
- Chuyến phu trước đây uống rượu quá nhiều nên phủ tạng bị tổn thương. Chư vị không thấy tròng mắt y hơi vàng và túi dưới mắt chảy xệ đấy sao ? Nếu y không bớt nhậu, chỉ ít năm nữa là đoản mệnh !
Vợ Tần Khải sợ hãi bật thốt :
- Chết cha ! Lão chết tiệt nhà em cũng có triệu chứng ấy , phen này phải bắt lão ta cai rượu mới xong !
Mụ góa Hồ thị vốn từng ăn nằm với Nam Cung Bột nên cay cú xen vào bằng giọng mỉa mai :
- Đại tẩu cứ làm như mình là lang y vậy ?
Trinh Tâm thản nhiên đáp :
- Tiểu muội học nghề thuốc từ năm lên tám, trừ chứng nan y thì không dám nhận kỳ dư đều có thể trị được! Ví dụ như bệnh hôi nách cua Hồ thư, tiểu muội chỉ cho ba thang là tuyệt căn!
Hồ thị từ lâu vẫn khổ tâm vì cái mùi đáng sợ của cơ thể mình. Người trong thôn luôn diễu cợt mụ, và có kẻ độc miệng còn bảo rằng :
- Lão Hồ Tứ không thể chết trong bão tố, chẳng qua vì quá khiếp sợ mùi hôi nách của vợ nên đã chèo thẳng vào lục địa mà lánh nạn!
Nay nghe Trinh Tâm nói với giọng tự tin như vậy, Hồ thị cố nén thẹn thùng, hạ giọng khẩn nài :
- Nếu quả Nam Cung Đại tẩu có tài y thuật cao siêu như vậy. Xin hãy ra tay chữa trị cho tiểu muội !
Hồ thị đã ba mươi sáu, nhưng theo vai vế tuổi tác của Nam Cung Bột nên phải xưng là em !
Trinh Tâm gật đầu :
- Ngày mai Hồ thư hãy đến đây, tiểu muội sẽ giúp cho !
Thôn Dương Sa chỉ có một lão lang trung già nua, chậm chạp, lại không tinh thông các bệnh đàn bà nên đám nữ nhân phải cắn răng chịu đựng bệnh tật. Giờ thì họ nhao nhao khai hết với Trinh Tâm, nhờ nàng ra tay Biển Thước.
Trinh Tâm vừa làm vừa lắng nghe và khẳng định rằng mình có đủ khả năng chữa trị.
Thế là các bà, các cỗ xem nàng như nữ Bồ Tát giáng phàm, từ bõ vai khách, trở thành người nhà để phục vụ đám tiệc cưới.
Trong lúc nhà bếp rộn ràng tiếng dao thớt, chén bát khua vang, thì nhà trên cũng đã được bày đủ mười bộ bàn tròn, phủ vải đỏ hẳn hoi.
Hơn bốn ngàn cân cá đã đem lại cho Nam Cung Bột số bạc gần trăm lượng, một tài sản khá lớn đối với cuộc đời dân chài. Làm nhà xong gã còn hai chục lượng, do không phải mua thực phẩm nên có dư để mướn chén bát bàn ghế.
Đám nam nhân vặn vẹo hỏi han đủ chuyện, từ lai lịch cô dâu đến nhúng mẻ cá dồi dào đều dặn, và cả việc ai đã giúp gã dựng nên ngôi nhà đồ sộ dài sáu trượng, rộng hai trượng nầy ?
Nam Cung Bột chỉ cười khà khà chứ không trả lời !
Giữa giờ tỵ, chén đũa và thức ăn đã được bọn nữ nhân dọn ra. Tuy chỉ có một loại thịt nấu thành năm món gồm : ba đĩa và hai tô kèm theo một đĩa rau thơm gừng, chanh, ớt, giềng !
Chẳng ai biết tên của năm món này, chỉ nhận ra đĩa dồi lòng, đĩa thịt nướng, đĩa thịt luộc và một tô thịt nấu với măng !
Mùi thơm từ hai tô nghi ngút bốc khói kia khiến trưởng thôn là Tô Lão Đại rút ngắn thủ tục.
Ông nuốt nước miếng, hắng giọng tuyên bố :
- Lão phu đại diện bà con trong thôn Dương Sa, chứng nhận cho Nam Cung Bột ba mươi tám tuổi và Đặng Trinh Tâm hai mươi lăm tuổi nên duyên phu phụ. Chúc hai người sống đến lúc răng long đầu bạc !
Rồi lão bảo tân lang và tân nương vái lạy bàn thờ tổ tiên, lạy lẫn nhau.
Tô lão làm nhanh đến nỗi thức ăn vẫn còn nóng hổi !
Hải Nam kém phần giáo hóa nên lễ nghi đơn giản chứ không rườm rà như Trung Nguyên. Lê thứ ở đây cũng chất phác thật thà và thô lậu. Họ ồn ào thét lên lời chúc tụng cho đủ lễ rồi ngồi ngay vào bàn.
Nam Cung Bột cao giọng mời khách cạn chung, động đũa.
Bọn Tần Khải nhao nhao mời lại chú rể.
Nam Cung Bột tiếp tân nương rồi uống một chung.
Hôm nay, chàng trai già họ Nam Cung chững chạc trong chiếc trường bào lụa xanh màu nước biển, thắt lưng hồng. Trinh Tâm cắt rất khéo nên áo bào vừa vặn, làm nổi bật thân hình rắn chắc, cường tráng của tân lang !
Nam Cung Bột vốn dĩ chẳng phải là người xấu trai, có điều mũi hơi tẹt, mắt một mí và miệng không rộng ! Giờ đây, niềm hạnh phúc to lớn đã làm rạng rỡ gương mặt gã bằng những nụ cười bất tận khiến gã dễ coi hơn !
Tuy nhiên, dù gã có đẹp hơn vài phần nữa cũng chẳng thể xứng với một cô dâu trẻ măng và xinh đẹp tuyệt trần như Trinh Tâm !
Nàng thướt tha trong tấm áo hồng, cùng chồng đi các bàn để nhận tiền mừng của khách !
Thôn Dương Sa có một tục lệ rất lý thú là cho khách dự hôn lễ được thiếu nợ. Ai sẵn tiền thì đưa ngay trong bàn tiệc, ai túng thiếu thì vẫn có quyền sang sảng tuyên bố, và sau này sẽ trả hoặc cấn trừ khi con nợ kết hôn.
Ví dụ như trường hợp của Tần Khải. Mười năm trước gã cưới vợ, Nam Cung Bột không có tiền mừng nên mắc nợ một lượng bạc, đến nay vẫn chưa trả, lần này Tần Khải cười khanh khách nói :
- Tiểu đệ xin dâng lễ mừng Đại huynh và Đại tẩu hai lượng bạch ngân, trừ đi một lượng hôm đám cưới tiểu đệ, còn lại một lượng xin cho thiếu !
Xem ra, Nam Cung Bột mắc nợ đám cưới khắp lượt quan khách nên Trinh Tâm hầu như chẳng thu được xu nào !
Nàng tủm tỉm cười, thầm công nhận tập quán này tuy kỳ quái nhưng rất hay. Nó giúp mọi người ung dung vui vẻ đến chung vui với bạn bè mà chẳng hề mặc cảm. Phong tục này có lẽ xuất phát từ việc thu nhập thất thường của nghề ngư phủ. Có người hàng tháng không gặp may và cũng có người liên tiếp bội thu.
Thực khách hết lời tán tụng năm món ăn do cô dâu chế biến từ thịt Sơn Dương. Cho rằng trên đời này không có sơn hào hải vị nào ngon hơn được.
Do vậy họ bỏ qua việc Nam Cung Bột chỉ nhấp môi lấy lệ chứ không uống ừng ực như xưa.
Tô Trưởng Thôn vui vẻ hỏi :
- Chẳng hãy Tân Nương quê quán ở đâu mà lại biết cách nấu món thịt dê núi tuyệt diệu thế này ?
Trinh Tâm thoáng đỏ mắt, ánh mắt có vẻ gì ranh mãnh và bí ẩn :
- Bẩm Tô lão bá ! Tiểu nữ quê ở Hóa Châu !
Tô trưởng thôn ngơ ngác :
- Hóa Châu ở phủ nào nhỉ ?
Tần Khải cười rộ, khoe khoang kiến văn :
- Lão quả là ngớ-ngẩn, Hóa Châu thuộc Quảng Đông chứ đâu nữa ? Lão không thấy cô dâu nói tiếng gì sao ?
Mọi người gật đầu khen phải và không ngờ rằng Hóa Châu là đất của An Nam, một nước nhỏ ở phía Tây đảo Hải Nam, vừa bị nhà Minh thôn tính !
Đám nữ nhân, sau khi đem thức ăn ra cũng đã ngồi vào bàn, ăn ngấu nghiến.
Đời ngư phủ nghèo nàn, thường chỉ được ăn tôm cá, nay gặp món lạ họ vô cùng khoái khẫu, tuy không ghiền rượu như đám nam nhân nhưng việc uống vài chung là chuyện thường.
Hồ thị ngà say, bốc trong đám rau thơm một lá nhỏ hơn bàn tay, hai mặt đầy lông tơ mượt như nhung, cười khúc khích bảo :
- Loại lá Trung Tiện Diệp này trong rừng Lam Sơn có rất nhiều , nó hôi nên chẳng ai dám ăn cả ! Không ngờ khi ăn chung với thịt Sơn Dương lại ngon đến như vậy !
Hải Nam ở cùng vĩ độ với đất An Nam, chỉ cách xa hơn ngàn dặm nên hệ thực vật cũng tương tự ! Trung Tiện Diệp chính là lá mơ !
Quá trưa thực khách lảo đảo cáo từ và trên bàn không còn một miếng thịt nào !
Vài ngày sau, người trong thôn Dương Sa loáng thoáng nghe tin thôn Ngư Hải kế cận bị mất mười hai con chó trong một đêm. Vụ án này khiến mọi người ngơ ngác, chẳng hiểu nguyên nhân, vì dân Hải Nam không ăn thịt chó bao giờ !
Hơn một năm sau, đúng trưa ngày mùng một tháng mười một năm Ất Mùi, tức năm Vĩnh Lạc thứ mười ba, Trinh Tâm hạ sinh một bé trai bụ bẫm, nặng đến sáu cân.
Nàng đặt tên cho con là Nam Cung Giao. Đứa bé có tiếng lạ là hai ngón chân cái hơi chĩa ra ngoài.
Giao nhi giống cha ở nết ăn nên lớn nhanh như thổi , hơn năm đã biết đi. Tất nhiên, khi nó đứng thì hai ngón chân cái giao nhau !
Dân trong thôn lấy làm lạ, nhưng không biết đấy là đặc tính của người Giao Chỉ nước An Nam !
Giao nhi càng lớn càng ăn rất khoẻ. Điều này đã an ủi Nam Cung Bột, vì dung mạo đứa bé giống mẹ chứ chẳng giống cha, cho nên nết ham ăn là chứng tích của giòng máu Nam Cung !
Cuộc sống gia đình gã giờ đây đã khá giả, nhờ tính cần kiệm của Trinh Tâm và cũng nhờ y thuật của nàng.
Danh tiếng Dương Sa nữ đại phu đã lan ra những thôn kế cận, kẻ nghèo người giàu điều tìm đến khi đau ốm.
Đám quả phụ trong thôn đã trở thành trợ thủ của Trinh Tâm, lo việc hái thuốc, phơi phóng và bào chế dược vị !
Nhờ họ, Trinh Tâm biết rõ gia cảnh từng bệnh nhân, tùy giàu nghèo mà tính tiền.
Trinh Tâm dạy con rất nghiêm khắc, năm bốn tuổi đã cho học chữ và luyện võ. May thay, Giao nhi thông minh đỉnh ngộ chứ không ngốc như cha, học một biết mười, văn võ đều tiến bộ. Nó lại thừa kế nòi thần lực của Nam Cung Bột nên rất khoẻ mạnh, mới lên tám đã đánh bại cả đứa trẻ mười hai !
Năm Bính Ngọ, Tuyên Đức Nguyên Niên, đời vua Minh Nguyên Tông, Giao nhi gần trọn mười hai tuổi. Cậu bé không vạm vỡ, to béo như cha những cũng cao hơn bọn tiểu hài đồng trang lứa !
Giao nhi may mắn thừa hưởng hết những ưu điểm của song thân : Thân cao và rộng, mũi thẳng, mặt xương xương, mắt hai mí đen tuyền, hơi xếch về đằng đuôi, cằm đầy đặn.
Tóm lại, Giao nhi là một cậu bé trai khá anh tuấn dù nước da ngăm đen như bất cứ người dân miền biển nào !
Rõ ràng, cậu giống mẹ nhiều hơn cha, nhưng Nam Cung Bột hài lòng vì gã chẳng ưa đôi mắt nhỏ và sống mũi tẹt của mình, ít ra thì Giao nhi cũng giống gã ở nết ăn và tính khôi hài.
Nam Cung Bột vẫn ra khơi đánh cá vì chẳng thể ở nhà ăn bám vợ được.
Một nam nhân chân chính phải làm việc gì đó dù nhỏ hay lớn.
Việc giáo dưỡng Giao nhi là của Trinh Tâm, song Nam Cung Bột cũng tranh thủ dạy cho con trai cưng pho quyền pháp gia truyền. Gã không dạy đao pháp vì Giao nhi đã luyện pho Lạc Điểu kiếm pháp của giòng họ Đặng.
Còn nghề bơi lội thì khỏi dạy vì Giao nhi ở dưới nước cũng thoải mái như trên cạn, thủy tính giỏi nhất trong đám thiếu niên.
Chính Trinh Tâm cũng không biết xuất xứ của pho kiếm pháp Lạc Điểu tổ tiên họ Đặng đã truyền lại nhiều đời, và nhờ nó mà Đại tướng Đặng Dung, bào huynh của Trinh Tâm, đã trở thành Đệ Nhất Kiếm Thủ đất An Nam !
Đặng Dung theo phò vua Trần Quang Trần Quí Khách của An Nam khởi nghĩa chống Minh. Tháng chín năm Quí Tỵ, một năm trước khi Trinh Tâm gặp Nam Cung Bột, thống binh đoàn quân viễn chinh triều Minh là Tân Thành Hầu Trương Phụ vào đến Thuận Hóa. Nửa đêm Đặng Dung đem quân tập kích Trương Phụ. Ông vượt qua được vòng vây vào đến tận thuyền của Trương Phụ. Do không biết mặt nên đã để họ Trương chạy thoát.
Trận ấy, Đặng Dung đã một mình một kiếm trước mười tám cao thủ Trung Nguyên theo hộ vệ Tân Thành Hầu, dọa khiếp tướng sĩ nhà Minh !
Bản lãnh siêu quần bạt tụy của Đặng Dung đã chứng tỏ được sự lợi hại của pho Lạc Điểu kiếm pháp.
Giao nhi học võ từ năm lên bốn nên thuộc làu cả kiếm lẫn quyền pháp, khinh công cũng khá !
Đầu tháng bảy năm ấy, đoàn thuyền chở lương sang tiếp viện quân binh ở An Nam gặp bão, phải ghé vào đảo Hải Nam để sửa chữa những cột buồm bị hư hại.
Ba mươi chiếc thuyền chở lương này thả neo ở một đoạn bờ biển cách thôn Dương Sa vài dặm. Bọn thủy binh la cà vào thôn ăn nhậu, oang oang khoe tầm quan trọng của nhiệm vụ hậu cần. Chúng còn khai ra cả mục đích lẫn danh tính của vị chỉ huy, tham tướng Trương Năng, bốn mươi lăm tuổi, mười tám năm trước từng theo Tân Thành Hầu Trương Phụ chinh phạt An Nam.
Lần này, Trương Tham Tướng phải quay lại An Nam vì lão Lê Lợi nào đó đã nỗi dậy, cách nay mười năm, đánh cho quân nhà Minh chạy dài !
Nam Cung Bột đến nhà Tần Khải chơi, nghe được chuyện này, về kể lại cho vợ nghe !
Đêm ấy Trinh Tâm không ngủ, sáng ra, chờ trượng phu ăn điểm tâm xong, nàng quì xuống đất lạy !
Nam Cung Bột thất kinh vội đỡ lên, nhăn mặt hỏi :
- Vì sao phu nhân lại làm như vậy ?
Trinh Tâm bật khóc, rồi gạt lệ nói với giọng kiên quyết :
- Tướng công cũng đã biết thiếp là một nữ tướng của An Nam. Mười năm qua, vì thương chàng và Giao nhi mà nấn ná ở lại chốn này chứ không về cố thổ góp sức với Lê Lợi kháng Minh ! Nhưng nay nếu để đoàn lương thuyền đến được An Nam thì nghĩa quân nguy mất ! Gia dĩ, gã Trương Năng kia chính là một tên đại ác, từng giết hạ hàng ngàn người Giao Chỉ vô tội. Lúc áp giải tù binh về Trung Hoa, Trương Năng còn hành hạ bọn thiếp rất tàn nhẫn, khiến vua Thịnh Quang phải nhảy xuống biển và gia huynh Đặng Dung cắn lưỡi chết theo. Sau đó, gã và tám tên nữa định cưỡng bức thiếp, may mà thiếp kịp nhãy ra khỏi thuyền, và được tướng công cứu vớt !
Nam Cung Bột ràu rĩ ngắt lời :
- Thế phu nhân định sẽ làm gì ?
Trinh Tâm đáp :
- Lát nữa, gia đình chúng ta sẽ thu xếp hành lý, giả vờ về thăm quê của Tướng công ở Cán Châu. Chàng cứ đem Giao nhi đi, còn thiếp sẽ quay lại, tìm cách giết Trương Năng và đốt đoàn thuyền lương !
Giao nhi sợ hãi kêu lên :
- Hài nhi không để mẫu thân đi một mình được. Có chết thì cả nhà cùng chết chung !
Nói xong, cậu bé bật khóc nức nỡ, ôm chặt lấy từ mẫu !
Nam Cung Bột tần ngần suy nghĩ một lúc lâu, rồi mỉm cười thê lương, nhìn Trinh Tâm bằng ánh mắt âu yếm :
- Này nương tử ! Bột ta vốn chẳng tán thành việc giết người cướp đất của triều đình ! Trung Hoa rộng mênh mông, người ở không hết, hà tất phải đi xâm lăng nước khác ? Ta tuy là người Hán nhưng chẳng mù quáng đến nỗi ủng hộ kẻ ác. Ta sẽ cùng nàng xuất thủ, chắc chắn sẽ thành công mà còn bảo toàn được mạng sống ! Ta không muốn mất vợ và cũng chẳng nỡ để Giao nhi mồ côi mẹ !
Trinh Tâm mừng rỡ quì xuống lạy tạ :
- Tướng công nếu được đại nghĩa, không ngại tiếng phản tặc, khiến lòng thiếp mừng vì gởi thân chẳng lầm người !
Nam Cung Bột nghiêm giọng :
- Nhưng chỉ một lần này thôi ! Dĩ hậu, nàng đừng dây vào ân oán giữa hai nước nữa !
Trinh Tâm gạt lệ hứa :
- Thiếp hiểu được nỗi khổ tâm của Tướng công ! Sau trận này, chúng ta sẽ về Trung Nguyên sinh sống! Đời thiếp sẽ trọn vẹn thuộc về họ Nam Cung, nhưng việc truy tầm tám tên cao thủ cận vệ của Trương Phụ, để báo thù cho gia huynh là vua quan nhà Hậu Trần, Giao nhi sẽ phải cáng đáng !
Nam Cung Bột gật gù :
- Tất nhiên là thế ! Ta cũng không chịu buông tha những kẻ đã hành hạ và định cưỡng bức người vợ xinh đẹp của ta !
Trinh Tâm thẹn thùng nguýt phu quân :
- Tướng công quả là không biết thẹn ! Trong lúc này mà chàng còn đùa được sao ?
Nhưng chính câu nói bỡn của Nam Cung Bột đã khiến lòng người nhẹ nhõm.
Giao nhi cười khúc khích :
- Hôm nay hài nhi thấy phụ thân oai phong khác hẳn thường nhật !
Trinh Tâm đỏ mặt tát yêu con:
- Ngươi nói nhăng gì thế ? Ta có bao giờ lấn lướt cha ngươi đâu ?
Giao nhi nheo mắt, ranh mãnh đáp :
- Mẫu thân rất hiền, nhưng không hiểu sao người trong thôn ví phụ thân bằng cái tên Tam Bôi Tiên Sinh ? Họ bảo rằng mẫu thân chỉ cho chồng uống mỗi ngày ba chén rượu mà thôi, nếu quá mức thì cấm vào giường trong một tháng !
Nói xong, cậu bé vuột nhanh khỏi tay mẹ để tránh bị đòn! Giao nhi núp sau lưng cha, cười giòn dã !
Trinh Tâm vừa thẹn vừa giận đuổi con trai chạy vòng quanh chồng.
Nam Cung Bột chụp tay nàng giữ lại, từ tốn nói :
- Giao nhi có tính hay đùa giống ta, nàng giận làm gì ! Giờ hãy bàn kế hoạch cho chu đáo để khi hành sự không sơ suất.
Đến chiều thì cả thôn Dương Sa biết việc gia đình Nam Cung Bột về Cán Châu thăm mộ tổ tiên, và có thể sẽ ở lại luôn để Giao nhi được học hành tử tế hơn !
Nhà cửa được giao cho Tần Khải chăm sóc. Nếu vợ chồng Nam Cung Bột không trở lại thì coi như tặng luôn cho họ Tần.
Sáng hôm sau, nhằm ngày mùng chín tháng bảy, dân trong thôn Dương Sa bịn rịn tiễn đưa gia đình Nam Cung.
Đám nữ nhân sa lệ khóc ròng vì lưu luyến Dương Sa nữ đại phu. Nàng ma đã chửa bệnh và làm người bạn tốt của họ, trong suốt mười năm qua !
Trinh Tâm cũng ngậm ngùi khi phải chia tay những người dân chài chất phác, quê mùa này. Họ không thiếu những tật xấu của người nghèo như tham rặt, khôn vặt và nhiều chuyện. Nhưng bản chất nhân hậu, chuộng việc nghĩa, họ chẳng khác gì đồng bào của nàng ở bên kia biển !
Chạnh lòng tham của bọn vua chúa Trung Hoa đã gây nên cảnh chém giết giữa hai dân tộc vốn hiền lành, hiếu khách !
Giao nhi cũng gồng mình nhận những cú phát thật mạnh của bọn trẻ làng chài, và đáp lễ lại để giã từ. Cậu bé không hề thấy đau nhưng nước mắt sầ cứ tròn mau. Đứa bé nào cũng khóc khi phải xa rời nơi mà cả cuộc đời thơ ấu đã trôi qua vui vẻ !
Nam Cung Bột xiết chặt từng người trong đám nam nhân lần cuối rồi khàn giọng thúc giục vợ con lên xe ngựa. Gã đã mua một cỗ xe độc mã để chỡ thê tử và hành lý.
Cỗ xe lăn bánh đi về hướng Bắc, khuất dần sau những cụm dương xanh thẫm.
Người trong thôn giải tán, ai về nhà nấy, và không biết rằng Nam Cung Bột đã cho xe rẽ vào cánh rừng già dưới chân núi Lam Sơn, cách nhà cũ chừng sáu dặm.
Trời vừa tối hẳn, Nam Cung Bột và Trinh Tâm, toàn thân hắc y, mặt bịt kín, âm thầm quay lại nhà mình.
Họ vào bếp mang những túi dầu cá lanh ra chất đầy thuyền, rồi chèo về hướng đoàn chuyên chở lương.
Ngoài lúa và ngũ cốc, ba mươi chiếc thuyền lớn này còn chở theo cả quân nhu, như y phục, lu bạt, chăn mền, cung tên, yên cương !
Mỗi loại đều có tầm quan trọng như nhau nên được phân tán đều khắp lượt, để phòng có đắm vài chiếc cũng không ảnh hưởng đến đại cục.
Thực ra, chỉ có hai mươi chín chiếc thuyền cò hàng, chiếc soái thuyền của tham tướng Trương Năng dành cho các võ quan.
Trời bão nên gió rất lớn, Trương Năng phải thả neo, và buộc dính các thuyền lại với nhau, để tạo thế liên hoàn vững chắc. Như thế, quân sĩ có thể chuyển vật liệu sta chùa từ thuyền này sang thuyền khác một cách dễ dàng.
Những cột buồm gẩy đã được thay thế bằng loại gỗ tốt trong rừng Lam Sơn. Họ Trương định sáng mốt sẽ khởi hành nên tối nay mở tiệc mừng.
Hải Nam cách xa An Nam hàng ngàn dặm, chẳng có kẻ địch nào đe dọa nên Trương Năng cho lính thả giàn.
Cuối canh ba thì chẳng còn mấy tên tỉnh táo ! Chúng được quyền ngủ đến tận chiều mai cho lại sức để sáng mười một ra khơi, vì bão đã tan.
Cuối canh ba phu thê Trinh Tâm đã lần lượt tưới dầu hết hai mươi chín chiếc thuyền hàng.
Soái thuyền nằm giữa, hai vợ chồng chia nhau mỗi người một đầu tiến vào, và gặp nhau ở đấy.
Soái thuyền của Trương Năng là một du thuyền có hai tầng, được canh giữ nghiêm mật, đèn đuốc sáng trưng.
Bên trong, bọn võ tướng vẫn còn ăn uống và thưởng thức lời ca, điệu múa của đám ca nhi được mời về từ trấn Hải Hoa gần đấy.
Phu thê Trinh Tâm ẩn ở thuyền bên cạnh nhìn sang.
Nam Cung Bột tư lự nói :
- Này nương tử ! Cạnh Trương Năng còn có rất nhiều quan quân, chúng ta mà đánh vào, chưa chắc đã giết được họ Trương, có khi còn bõ mạng. Mong nàng xem tưởng việc đốt lương hận thù riêng và nghĩ đến con thơ mà tạm gát việc giết Trương Năng.
Trinh Tâm mỉm cười :
- Tướng công quả là cao kiến, thiếp xin tuân mệnh !
Tình mẫu tử bao la đã thắng được lửa hận thù , Trinh Tâm quay lại nửa đoàn thuyền của mình, bật hỏa tập châm lửa đốt chiếc thuyền hàng bên cạnh soái thuyền.
Nam Cung Bột cũng khai hỏa chiếc thứ hai.
Như vậy, soái thuyền bị kẹp vào giữa, chắc chắn sẽ bị cháy lây.
Từ chiếc thứ ba trở đi, công việc càng khó khăn, vì bọn thủy quân ở hai thuyền trước đã báo động vang trời.
Trinh Tâm và Nam Cung Bột phải ra sức chém giết mới tiến sang được thuyền khác mà châm lửa.
Dù Minh Thành Tổ Chu Lệ đã băng hà nhưng Nam Cung Bột không biết điều ấy, nên dồn hết giận hờn vào thanh đao, bổ những nhát như trời giáng, quét bay bọn thủy quân đang choáng váng cơn say rượu, nên đám binh lính lấy hết sức lực và dũng khí la hét cho oai chớ không dám trực diện đương đầu với gã hắc y to lớn như hộ pháp kia. Nhờ vậy, Nam Cung Bột đỡ phải áy náy vì phải giết đồng bào của mình.
Bên này, Đặng Trinh Tâm không nhân từ như trượng phu, xuất thủ rất tàn nhẫn. Tuy sức lực không bằng Nam Cung Bột song đường kiếm của nàng nhanh nhẹn và hiểm ác tuyệt luân. Mối hận vong quốc đã biến nàng thành mãnh hổ, chém giết chẳng nương tay. Luồng kiếm quang lấp loáng dưới ánh lửa hồng trông tựa như màu máu.
Bọn thủy quân nhà Minh thấy đối phương đi đến đâu thì máu chảy đầu rơi, nên sợ hãi nhảy cả xuống biển cầu sinh.
Trương Năng và đám võ quan đã rời ngay soái thuyền, bõ của chạy lấy người, vì biết các thuyền hàng đều chứa thuốc súng ! Quân Minh đã đem cả đại pháo sang An Nam để trấn áp nghĩa binh Lê Lợi.
Quả nhiên, hai chiếc thuyền cạnh soái thuyền phát nổ trước. Ngàn cân hỏa dược phá nát thuyền, biến thành ngọn lửa khổng lồ, chụp xuống thuyền kế bên.
Thời Tam Quốc, trong trận Xích Bích, Tào Tháo từng bị dụ mà nối các chiếc thuyền lại với nhau, để rồi bại trận. Giờ đây, Trương Năng cũng tự se dây trói mình bằng kiểu ấy.
Lần lượt, từng chiếc thuyền phát nổ long trời lỡ đất, đánh thức bách tính Dương Sa cũng như những thôn gần đấy.
Dù còn đến gần hai chục thuyền lương chưa được châm lửa, nhưng phu thê Nam Cung Bột cũng nhảy xuống biển đào tẩu, vì biết rằng trước sau gì chúng cũng tan tành.
Hai người bơi một mạch về hướng Bắc, đến đoạn bờ biển đã hẹn trước rồi cùng nhau phi thân về hướng rừng Lam Sơn.
Trinh Tâm hân hoan bởi góp được công lao với quê nhà, nhưng biết lòng trượng phu đang nặng trỉu vì áy náy, nên nàng chẳng dám nói cười.
Về đến chỗ đậu xe, không thấy Giao nhi đâu, hai vợ chồng kinh hãi gọi vang.
Trinh Tâm giận dữ nói :
- Chắc là nó đã ra bờ biển xem cảnh thuyền cháy ! Chúng ta phải quay lại đấy tìm mới được !
Họ vội vã lướt đi, lòng đầy lo lắng.
Bờ biển sáng rực và vẫn còn vang dậy tiếng nổ khủng khiếp của
những chiếc thuyền cuối cùng.
Hai vợ chồng vừa chạy vừa trừng mắt quan sát, cố tìm cho ra vóc dáng nhỏ bé của đứa con yêu.
Khi còn cách đám cháy hơn dặm, Trinh Tâm mừng rỡ rú lên khi thấy Giao nhi đang cầm tiểu đao chạy ngược về phía mình. Nàng lao đến ôm con thơ, nhận ra nó ướt như chuột lột.
Trinh Tâm nỗi cơn lôi đình :
- Giao nhi ! Vì sao con lại dám cãi lời song thân lần đến chỗ hiểm nguy !
Nam Cung Bột cũng càu nhàu :
- Ngươi quả là khó dạy ! Ta phải đánh đòn mới được !
Giao nhi thản nhiên nhe răng cười :
- Hài nhi nghe song thân bàn bạc kế hoạch, đoán rằng Trương Năng
sẽ phải nhãy ra khỏi thuyền để bơi vào bờ. Vì vậy, hài nhi đã phục sẵn dưới nước, ìn đâm cho lão ta một nhát chết toi ! Trương Năng là người duy nhất biết việc mẫu thân nhãy xuống vùng biển Dương Sa mười ba năm tnrớc. Nếu để lão sống sót thì lai lịch của mẫu thân sẽ bại lộ, di hại đến cả giòng họ Nam Cung ! Lệnh truy nã chúng ta sẽ được thông báo khắp cả nước, dẫu đi đến đâu cũng khó sống.
Trinh Tâm bàng hoàng trước lập luân của con thơ, biết rằng mình đã phạm một sai lầm rất lớn, may mà Giao nhi đã kịp sửa chữa.
Nàng sung sướng ôm chặt ái tử và khen ngợi :
- Ôi Giao nhi ! Con còn nhỏ mà đã suy nghĩ chu toàn đến thế sao ?
Nam Cung Bột cũng hổ thẹn vì chính gã đã khuyên Trinh Tâm đừng giết Trương Năng. Gã chửa thẹn bằng cách nghiêm giọng trách móc :
- Nương tử ôm thù hận mà dạy con nên Giao nhi mới từng tuổi này đã dám giết người. Ta thật chẳng hài lòng chút nào cả !
Trinh Tâm cũng thấy đau lòng khi nghĩ đến cảnh con thơ tay nhúng máu. Nàng thở dài não nuột :
- Thiếp biết lỗi mình ! Nguyện sẽ dạy dỗ Giao nhi cẩn thận hơn !
Nàng buồn rầu bảo con :
- Giao nhi ! Đạo làm người phải xem chữ nhân làm trọng, nếu con hiếu sát như vậy thì có khác gì bọn quân Minh man rợ, đã từng giết hại người An Nam đâu ?
Giao nhi gật đầu hối lỗi rồi lại cười ngay :
- Lúc đầu hài nhi cũng run tay không dám đâm lão họ Trương. Nhưng nghĩ đến cảnh lão ức hiếp mẫu thân là lửa giận lại sôi lên. Trừ cha ra, hài nhi chẳng muốn ai phạm đến cơ thể ngọc ngà của mẫu thân cả !
Nam Cung Bột phì cười còn Trinh Tâm thẹn chín người, phát mạnh vào lưng con trai :
- Tiểu quỉ quá lắm ! Ngày ấy ta kịp nhãy xuống biển, có bị chúng đụng chạm gì đâu ?
Giao nhi cười hì hì :
- Ai mà biết được ? Có thể mẫu thân mắc cỡ nên nói thế đấy thôi !
Biết sắp ăn đòn, Giao nhi chạy ù đi ngay !
Nam Cung Bột đắc ý nói :
- Ai bảo rằng nó không giống ta ? Tiểu quỉ này quả chẳng biết sợ là gì ! Dẫu hoàn cảnh nào cũng đùa giỡn được ! Ngày xưa ta cũng có tật sờ vú mẹ cho đến năm mười tuổi mới thôi !
Trinh Tâm thẹn quá hóa giận, đấm vào ngực trượng phu.
Nam Cung Bột chụp lấy tay nàng kéo đi, chạy theo con trai !
Hai tháng sau, gia đình Nam Cung Bột đến Cảnh Đức Trấn, thuộc đất Giang Tây! Vì phòng xa, họ đã không định cư ở đất Cán Châu như dự kiến ban đầu.
Chắc chắn Tri huyện Hải Nam sẽ cho điều tra vụ đốt thuyền lương và có thể nghi ngờ nhà Nam Cung. Nhưng may thay, sự việc lại diễn biến theo một chiều hướng khác. Gã phó tướng Trương Năng vì sợ rơi đầu nên đã đưa đám tàn quân lên chiếc thuyền duy nhất còn sót lại, trốn sang quần đảo Phù Tang. Không có nguyên cáo cũng như nhân chứng, Tri huyện Hải Nam đành phải làm tờ trình gởi về cho Tri phủ Quảng Đông.
Nội dung là : Đoàn lương thuyền vô cớ phát nổ, không một ai sống sót ?
Cảnh Đức Trấn là địa phương sầm uất, trù phú nhất Giang Tây thời ấy. Nơi đây có đến mấy trăm lò gốm, sản phẩm nỗi tiếng khắp Trung Hoa và hải ngoại. Ngày ngày, thương lái các nơi và bọn Tây Dương đến mua hàng, khung cảnh cực kỳ náo nhiệt.
Nhưng sanh nghề tử nghiệp, đa số dân trong trấn và quanh vùng đều mắc những chứng bệnh về đường hô hấp.
Khói từ lò gốm đã làm ô nhiễm bầu không khí, và ảnh hưởng đến sức khoẻ của bách tính !
Vậy là y thuật của Trinh Tâm có đất dụng võ. Chỉ sau vài tháng nàng đã nổi danh thần y, có rất nhiều thân chủ!
Nam Cung Bột bỏ nghề đánh cá, phụ giúp ái thê việc thuốc men vì Giang Tây không có biển.
Năm Chính Thống thứ nhất đời Minh Anh Tông, Nam Cung Giao tròn hai mươi hai tuổi , đã có thêm hai em gái. Tuy An Nam đã giành được độc lập nhưng Trinh Tâm vẫn chưa quên mối thù giết anh, liền cho trưởng tử lên đường.
Nam Cung Bột đã sáu mươi mốt tuổi. Người già thường an phận nên lão không tán thành việc báo thù, nhưng biết tính tính kiên quyết của vợ, đành phải ngậm miệng.
Hiểu ý cha Nam Cung Giao cười bảo :
- Nam nhi chí tại bốn phương ! Nay hài nhi giỏi võ hơn văn, chẳng lẽ lại sớm lấy vợ sanh con, sống đời tẻ nhạt ở chốn đầy khói bụi này ? Năm xưa, phụ thân đã chẳng từng bỏ nhà vác đao đi lang bạt đấy sao ?
Chàng ranh mãnh đảo mắt nói :
- Hài nhi sẽ mang về năm sáu cô vợ đẹp để khỏi bị ăn hiếp như phụ thân ! Người này không cho ngủ thì ta chui vào giường khác !
Nam Cung Bột phá lên cười khanh khách, còn Trinh Tâm thì đỏ mặt. Ở tuổi bốn mươi tám, bà vẫn còn rất thon thả và quyến rũ khiến trượng phu mê như điếu đổ. Chính nhờ sự nghiêm khắc của bà mà Nam Cung Bột sống điều độ, giữ được vẻ cường tráng, dù đã bước qua tuổi lục tuần.
Trinh Tâm nén thẹn thùng, nghiêm giọng dạy con :
- Tửu sắc là hai việc mà bậc chính nhân luôn cẩn trọng ! Nam nhi mà đa mang tình ái thì chẳng dựng nên nghiệp lớn !
Nam Cung Giao vòng tay chính sắc đáp :
- Hài nhi luôn ghi nhớ những lờl vàng ngọc của mẫu thân. Sau này xuất đạo, mỗi ngày chỉ uống ba chung, còn lấy vợ thì chỉ ba người mà thôi !
Biết chàng nói bỡn, Nam Cung Bột cười hô hố để chọc ghẹo bà vợ xinh đẹp và dữ như cọp của mình. Nào ngờ Trinh Tâm lại gật đầu :
- Giao nhi có tướng đào hoa lắm thê nhiều thiếp, ắt sẽ khổ vì tình. Nay con đã hứa thì phải giữ lời, nếu lấy đến người thứ tư thì ta không thừa nhận đâu đấy !
Nam Cung Giao ngỡ ngàng, còn Nam Cung Bột thì lẩm bẩm :
- Mẹ kiếp ! Không ngờ thằng bé này lại tốt số hơn mình !
Gần tháng sau, trong thành Nam Kinh, cạnh sông Trường Giang xuất hiện một chàng trai mặc trường bào xanh nước biển thắt lưng và dây buột tóc màu vàng nhạt. Trên gương mặt trắng trẻo kia ló đôi lông mày chữ nhất đen như hai vệt mực, đôi mắt trong sáng, tinh anh. Sống mũi thẳng với chuẩn đầu tròn đầy, và đôi môi không mỏng không dầy.
Bảo rằng anh tuấn phi phàm thì e quá lời, nhưng khi chàng ta cười, lúm đồng tiền ở má trái sao duyên dáng lạ lùng ! Nhìn lâu chúng ta sẽ phát hiện ánh mắt kia có chút gì ranh mãnh, pha chút diễu cợt.
Nam Cung Giao kế thừa được hết những ưu điểm của song thân : tính lạc quan, vui vẻ của cha và sự thông minh, kiên quyết của mẹ.
Lần đầu tiên đến chốn phồn hoa đô hội, chàng trai xứ biển ngây ngất ngắm nhìn cảnh vật, môi điểm nụ cười thán phục.
Nam Kinh ngày xưa chính là Kim Lăng, nơi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chọn làm Đế Đô, và đặt cho cái tên rất kêu là Ứng Thiên Phủ.
Nhưng sau khi con trai thứ của Thái Tổ , Yên Vương Chu Lệ , cướp ngôi cháu là Huệ Đế Chu Doãn Văn, đã cho dời đô về Bắc Kinh. Minh Thành Tổ Chu Lệ là một vị vua có tài trị nước.
Việc thiên sư lên phía Bắc có một ý nghĩa chiến lược rất quan trọng. Vì mối hiểm họa hình của Trung Hoa là bọn rợ phương Bắc như Mông Cổ, Mãn Châu, chứ chẳng phải những nước nhỏ ở phía Nam như Giao Chỉ, Miến Điện, Tây Tạng.
Nam Kinh giờ đây chi còn là cố đô, song tập trung không ít những vị đại thần đặc phái của triều đình, chịu trách nhiệm từ sông Trường Giang trở về Nam. Những tù binh An Nam, Chiêm Thành, cùng tất cả sách vở tịch thu, đều ở cả Nam Kinh !
Nam Cung Giao đến đây không phải vì các tù nhân hay cổ thư mà vì một người có trên là Quách Tường An, hiện giữ chức Nam Kinh Binh Bộ Thượng Thư. Nghĩa là họ Quách nắm binh quyền ở các phủ phía Nam. Do việc Bắc Kinh ở tận cực Bắc xa xôi, cách Vạn Lý Trường Thành chỉ vài trăm dặm nên Nam Kinh hầu như có cả một triều đình nhỏ, các bộ đều cử đại diện đến đây.
Hơn hai mươi năm trước, Quách Tường An là một võ tướng dưới quyền Tân Thành Hầu Trương Phụ, sang chinh phạt An Nam. Lão giết người như ngoé, kể cả lương dân vô tội và đàn bà con trẻ ! Lão cũng là một trong những kẻ đã hành hạ tù binh và định cưỡng bức Trinh Tâm.
Vì chuyện xảy ra đây hai mươi mấy năm nhưng thù nhà nợ nước đã luôn ám ảnh người nữ kiệt họ Đặng.
Bà đã nung nấu lửa căm hờn trong lòng con trai bằng những câu chuyện thương tâm do bọn quân binh tàn ác gây ra. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của Nam Cung Giao.
May mà cha chàng tánh tình phóng khoáng, rộng rãi, nên đã giảm nhẹ ấn tượng sắc máu trong tâm hồn thơ dại.
Song dẫu sao, Nam Cung Giao cũng quyết lấy đầu Trương Phụ và đám quan võ ác ôn kia.
Chàng tìm chỗ trọ, gởi ngựa và hành lý, đi dạo khắp nơi, chủ yếu là quan sát dinh thự của Nam Kinh Binh Bộ Thượng Thư họ Quách.
Cơ ngơi của Quách Tường An nằm gần cổ cung, nơi ngày xưa Chu Nguyên Chương trị vì.
Giờ thì Hoàng Cung đã trở thành Hoàng Cung để vua mới nghỉ ngơi, mỗi khi có dịp Nam du.
Khu vực này còn có khá nhiều dinh thự của các quan to khác, được bảo vệ nghiêm mật. Đường không cấm đi song lúc nào cũng có những đoàn quân sĩ tuần tra qua lại !
Con đường quan cách này được đặt tên là đường Hoàng Cung. mặt lộ rộng bốn mươi bước chân lát đá bằng phẳng, hai bên đường trồng toàn những cây hoàng xương xanh thẵm !
Các kiến trúc trên đường rất đẹp và đầy nét cổ kính nên được du khách bốn phương chiếu cố, người qua kẻ lại tấp nập.
Đi nhiều ắt phải mỏi chân, khát nước. Do vậy có nhiều vị quan muốn chứng tỏ mình liêm khiết, giàu có nhờ tài kinh doanh của vợ, liền mở trà lâu, tửu quán ngay mặt tiền.
Đấy là những người ít quyền lực làm ở những ngành không quan trọng, chứ Binh Bộ Thượng Thư thì chẳng thể muối mặt được. Nhưng xeo xéo trước mặt dinh thự họ Quách có một tòa Phú Quí Đại tửu lâu.
Chủ nhân tửu lâu này là phu nhân của quan Thị lang Bộ Hộ họ Tả.
Từ trên tầng hai, Nam Cung Giao có thể quan sát bao quát cơ ngơi của Quách Tường An.
Đã trót mang tên là Phú Quí nên nơi đây chỉ tiếp toàn những người sang cả đất Nam Kinh.
Rượu và thức ăn đều đắt gấp ba lần quán khác, khiến kẻ trung lưu cũng chẳng dám vào !
Nhưng sanh ý của Tả phu nhân rất thịnh vượng vì quán của bà là chỗ giao dịch làm ăn. Ai có việc muốn nhờ vả lo lót tất sẽ mời các quan đến đây thương lượng. Cũng là chỗ đồng liêu, bá quan Nam Kinh không sợ Tả phu nhân tiết lộ bí mật của mình ! Họ lại chẳng phải là người trả tiền ăn nhậu, nên cứ khăng khăng đòi đến Phú Quí Đại Tửu Iâu cho an toàn !
Nam Cung Giao xuất thân nghèo khó, lại căn cơ hà tiện chẳng khác mẫu thân. Chàng bấm bụng mua bộ y phục bằng gấm thượng hạng để được vào chốn sang trọng này. Chàng mỉm cười xót xa khi gọi rượu thịt, biết rằng hầu bao sắp thủng !
Trên đầu Nam Cung Giao còn một tầng nữa, dành riêng cho các quan thù tiếp bọn trọc phú, thương nhân.
Tửu khách chân chính chỉ được ngồi ở tầng trệt và lầu một . Song từ đấy, khách vẫn có thể nhìn thấy núi Tây Hà ở ngoại thành.
Tây Hà là một thắng cảnh đất Kim Lăng , cứ mỗi độ thu về, sau tiết sương giáng, lá cây phong, cây hoàng lư, cây thị trên núi trở nên đỏ rực, cảnh tượng muôn phần xinh đẹp, hấp dẫn bách tính và du khách. Người xưa có câu : "Lá Sương Giáng đỏ hơn hoa tháng hai " , là để chỉ trường hợp này !
Do vị trí thuận tiện nên tầng hai rất đông khách, đa số là con cháu các quan và thế gia công tử đất Nam Kinh.
Không muốn nhiều người nhận ra sự hiện diện của mình ở chốn này, Nam Cung Giao tính tiền rồi rời Phú Quí Đại tửu lâu. Với đôi mắt tin tưởng và trí nhớ tuyệt luân, chàng đã nhớ rõ cách bố trí nhà cửa thông tư dinh Quách Thượng Thư.
Tuy không thể sánh với cha nhưng sức ăn của Nam Cung Giao cũng gấp ba người thường. Đĩa thức ăn lúc nãy chẳng thấm tháp gì, nên chàng tìm đến một phạn điếm hạng trung để ăn cho no.
Đầu canh ba đêm ấy, Nam Cung Giao thay áo dạ hành, mặt bịt kín tìm đến sào huyệt của kẻ thù !
Sau gần hai mươi hai năm trị vì, Minh Thành Tổ đã khiến nước Trung Hoa trở nên hùng mạnh, phú cường.
Triều cương vững vàng, đất nước thanh bình, chỉ ở những địa phương xa xôi mới có giặc cướp, còn chốn phồn hoa thì cùng lắm là vài tên trộm vặt.
Nam Kinh là trọng địa thứ hai, tập trung quan quân phương Nam nên lại càng an toàn, nhiều năm liền chưa hề xảy ra trọng án. Song cũng vì vậy mà bọn quân sĩ phòng vệ mất cảnh giác, tuần tra, canh gác lấy lệ, lòng chắc mẩm rằng sẽ chẳng có gì xảy ra !
Trinh Tâm là người nghiêm khắc, tuy thương con nhưng không hề nương tay khi dạy dỗ, nhờ thế Nam Cung Giao rất chuyên cần rèn luyện võ nghệ !
Là nam nhân, lại có thần lực hơn người, hiện nay, bản lãnh chàng đã cao hơn thân mẫu. Nếu không được thế thì Trinh Tâm đã chẳng yên lòng cho con đi báo huyết thù !
Trinh Tâm có tài học đạo và ký ức rất tốt, đã vẽ lại chân dung Trương Phụ và chín gã võ quan ác độc. Nam Cung Giao nhớ nằm lòng, nhưng chẳng biết họ ở đâu mà tìm !
Chàng đến Nam Kinh vì nghe bọn lái buôn đồ gốm kể về lão tham quan Quách Tường An. Đêm nay, chàng sẽ phải bắt sống gã để tra lối, hạ lạc tám người còn lại sau đó mới giết !
Giòng máu anh hùng của họ Đặng lưu chuyển trong huyết quản Nam Cung Giao không hề biết sợ.
Nhưng vấn đề là chàng có bắt được Quách Tường An trước khi bị bọn vệ quân phát hiện hay không ?
Trong cơ ngơi đồ sộ có cả trăm phòng và tiểu xá này, làm sao chàng tìm được chỗ ngủ của Quách Thượng Thư ? Vị quan nào cũng có cả chục tỳ thiếp, mỗi đêm ân ái với một nàng !
Nam Cung Giao quyết định bắt một người để dò hỏi. Chàng đột nhập vào từ phía sau, vượt qua bức tường cao gần trượng, nhảy xuống vườn hoa.
Khu vực này được canh gác bởi một toán vệ binh. Chúng lười biếng đi tuần, quây quần cạnh ba chiếc đèn lồng mà tán gẫu và chuyền tay nhau bầu rượu.
Nam Cung Giao nương theo bóng đêm và cây cối trong vườn, tiến về phía dãy nhà ngang và vài căn tiểu xá, có lẽ dành cho bọn gia nhân cư ngụ.
Lần đầu đóng vai thích khách, lòng chàng không khỏi có chút hoang mang và hồi hộp. Chẳng chút kinh nghiệm, chàng chỉ dựa vào óc phán đoán và sự cẩn trọng mà thôi.
Khi đi ngang căn nhà bếp lớn, Nam Cung Giao giật mình vì nghe có tiếng người đang ngâm thơ. Giọng lão già này khàn khàn, đầy vẻ thê lương, chẳng hay ho chút nào cả ! Song điều đáng chú ý là việc lão ngâm bằng tiếng An Nam !
Trong hai lần chinh phạt, Trương Phụ đã bắt giải về Trung Hoa mấy ngàn tù nhân gồm tù binh và dân thường. Tù binh bị giam cầm cho đến chết, hoặc bị đày đi làm lính, còn thường dân thì trở thành nô lệ, nô tỳ cho bọn quan lại Trung Hoa.
Sau hơn hai chục năm, số tù nhân An Nam này đã sinh sôi thành hàng vạn người, tập trung ở các phủ phía Nam, và nhiều nhất là đất Kim Lăng này !
Quách Tường An từng đích thân áp giải tù nhân về nước, dĩ nhiên đã tuyễn lựa cho mình khá nhiều chiến lợi phẩm! Lão già trong bếp kia là một trong số ấy !
Nam Cung Giao xúc động, lướt đến nép sát cạnh cửa sổ nhìn vào trong.
Bên bếp lửa bập bùng kia có một lão già tuổi lục tuần, áo gia nhân bạc màu, râu tóc hoa râm, đang ngồi nhâm nhi bầu rượu nhỏ trên chiếc chiếu rách.
Gương mặt nhìn nghiêng của lão trông đoan chính, quắc thước, vầng trán cao biểu hiện sự thông thái của người có học.
Lão nhân uống cạn một chung, hắng giọng ngâm tiếp một bài khác :
Thế sự du du nại lão hà !
Vô cùng thiên địa nhập làm ca.
Thời lái đồ điếu thành công dị.
Sự khú anh hùng ẩm hận đa.
Chủ hữu hoài phù địa thục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thủ vị báo đầu tiên bạch kỷ
Độ long tuyền dải nguyệt ma !
Dịch :
Việc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộn say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước cũng khoanh tay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Kiếm báu mài trăng mấy độ đây.
Bài thơ Thuật Hoài này chính là kiệt tác của đại tướng An Nam Đặng Dung, cậu ruột của Nam Cung Giao ! Chỉ những người thân và lực lượng nghĩa quân Hậu Trần mới biết được. Như vậy lão già này có thể từng là thủ hạ của họ Đặng ?
Nam Cung Giao phấn khởi, ra cửa lớn lao vút vào như bóng oan hồn.
Chàng cẩn trọng chỉa mũi kiếm vào ngực lão nhân rồi trầm giọng hỏi :
- Đêm nay lão Quách Tường An nằm ở đâu ?
Do bản năng sinh tồn, lúc đầu lão nhân giật mình và sợ hãi. Song dường như lão chẳng hề lưu luyến kiếp đời nô lệ cho kẻ thù nên đã trấn tỉnh lại ngay. Lão bình thân hỏi :
- Vì sao các hạ lại muốn giết Quách Thượng Thư ?
Nam Cung Giao lạnh lùng đáp :
- Báo gia thù ! Lão là tù nhân của họ Quách, tội gì phải bao che cho lão ta ?
Lão nhân gật gù, cười kinh ngạc :
- Lão phu quả chẳng yêu thương gì Quách Tường An, chỉ vì tò mò muốn biết nguyên nhân đấy thôi ? Dẫu sao, hai mươi năm qua, lão phu cũng mang nợ áo cơm của họ Quách, chẳng thể vì sợ chết mà bán đứng y được. Các hạ nên nói rõ nguồn cơn để xem Quách Tường An có đánh chết hay không đã ?
Nam Cung Giao phẫn nộ :
- Lão trượng là người An Nam, lẽ ra phải vui mừng khi thấy kẻ thù ác độc kia đền tội, sao lại có thái độ kỳ quặc như vậy ?
Lão nhân tủm tỉm đáp :
- Người Giao Chỉ ân oán phân minh, thà tự tay phục thù chứ không nhờ vả kẻ khác !
Nam Cung Giao ngao ngán trước lão già gàn dở, hạ gịọng nói bằng tiếng mẹ đẻ :
- Tại hạ là người Giao Chỉ đây !
Trinh Tâm âm thầm dạy con ngôn ngữ quê hương, song Nam Cung Giao ít khi sử dụng nên khẩu âm không chuẩn.
Lão nhân rùng mình vì kinh ngạc và sung sướng nhưng vẫn nghi :
- Tiếng Giao Chỉ rất dễ học, mong các hạ nói rõ lai lịch ?
Nam Cung Giao tuyệt đối không thể tiết lộ thân phận, di hại đến song thân nên chỉ còn cách tháo giầy, để lộ bàn chân có ngón cái hơi chỉa ngang.
Lão nhân xúc động đến ứa nước mắt, đưa tay gạt phắt lưỡi kiếm của chàng, chồm đến vuốt ve bàn chân kỳ lạ.
Đặc tính này đã mất dần đi sau gần ngàn năm bị người Hán đô hộ và đồng hóa, không phải người An Nam nào cũng có dị tướng này, nhưng ai có được thì chắc chắn là nòi Giao Chỉ !
Lão nhân nghẹn ngào nói :
- Các hạ cứ an tâm ngồi xuống đây, giờ này chẳng có ai đi ngang bếp đâu !
Nam Cung Giao kiên quyết đáp :
- Không được ! Việc hàn huyên xin hẹn dịp khác, mong lão bá chỉ giáo cho đường đi nước bước để tại hạ hoàn thành sứ mạng !
"Đại hạn phùng Cam Vũ, tha phương ngộ cố tri "
Lão nhân đâu dễ gì để niềm vui của mình tan biến quá sớm.
Lão khẩn cầu :
- Đêm còn dài, mong thiếu hiệp nán lại thêm nửa khắc ! Lão phu là Nguyễn Tuấn, quê ở đất Diễn Châu, dám hỏi xuất xứ của thiếu hiệp ?
Nam Cung Giao hỏi lại :
- Chẳng hay vì sao Nguyễn lão bá lại ở chốn này ?
Nguyễn Tuấn biết chàng chưa tin tưởng mình, liền nói rõ :
- Năm xưa, lão phu chịu trách nhiệm việc quân lương dưới trướng tướng quân Đặng Dung, cùng bị bắt giải về Trung Hoa. Lúc đi ngang đảo Hải Nam. vua Trùng Quang nhãy xuống biển tự trầm, Đặng tướng quân cùng các tướng khác cũng cắn lưỡi chết theo. Lão phu là nho sĩ không có được dũng khí ấy, đành kéo dài kiếp sống thừa cho đến hôm nay !
Nam Cung Giao hờ hững nói :
- Trên thuyền tù chẳng lẽ không có nữ nhân nào ?
Nguyễn Tuấn lắc đầu :
- Sao không có ! Trương Phụ và bọn quan quân nhà Minh đã bắt được hơn hai trăm nữ binh và các nữ tướng : Đặng Trinh Tâm. Họ bị cưỡng hiếp, dày vò rất dã man, riêng Đặng tiểu thư giỏi võ nên kịp gieo mình xuống biển tự sát chứ không chịu ô nhục !
Nam Cung Giao dịu giọng :
- Bà ấy vẫn còn sống !
Sau hơn khắc mừng mừng tủi tủi, Nguyễn Tuấn hăm hở dẫn đường cho Nam Cung Giao đến tiểu viện của ả tỳ thiếp thứ chín, nơi Quách Thượng Thư thường xuyên qua đêm.
Chờ Nguyễn Tuấn đi khá xa, Nam Cung Giao bắt đầu hành động.
Nguyễn lão là đầu bếp chính của Quách Thượng Thư, thường xuyên phục vụ khách khứa nên nghe ngóng được rất nhiều. Ông đã kể cho Nam Cung Giao biết hạ lạc của Trương Phụ và bảy tên võ quan còn lại, nên chàng không cần phải tra hỏi Quách Tường An nữa.
Thu năm nay, vùng hạ du Trường Giang ít mưa nên trời oi bức, các cánh cửa sổ thông ra vườn hoa đều mở rộng.
Nam Cung Giao nghe tiếng động, ghé mắt nhìn qua song.
Trên chiếc giường gỗ quí cuối phòng là một lão già trần truồng đang ngủ say như chết, tiếng ngáy đều đều vang lên!
Quách Thượng Thư đã sáu mươi lăm nên kiệt lực sau trận thư hùng với nàng tiểu thiếp trẻ trung.
Có thể vì chưa thỏa mãn, hoặc vì khó chịu bởi tiếng ngáy của lão chồng già nên mỹ nhân chưa ngủ. Cửu Nương chỉ mặc phong phanh tấm áo ngủ bằng the mỏng, yếm đào chẳng có dây lưng lười buộc nên thân thể nõn nà lồ lộ cả ra dưới ánh nến.
Nàng đang đứng cạnh bàn, say mê ngắm nghía những viên ngọc quí lấy từ rương gỗ nhỏ ra.
Cửu Nương là danh kỹ số một của thành Nam Kinh, nhan sắc và tài cầm kỳ thi họa nổi tiếng khắp phương Nam. Quách Tường An đã chuộc nàng ra với giá vạn lượng bạc, biến mỹ nhân hai mươi ba tuổi này thành của riêng.
Họ Quách mê nàng như điếu đổ, tặng rất nhiều vàng ngọc. Bao nhiêu của đút lót, hối lộ đều chạy cả vào tay Cửu Nương.
Mỹ nhân có nhũ danh là Hàn Ly Hoa, mặt đẹp như ngọc nhưng lòng tham cũng chẳng nhỏ !
Nam Cung Giao ngượng ngùng dán mắt vào thân hình thon dài, nẩy nỡ của người đàn bà lẳng lơ kia, nghe lòng nổi sóng. Chàng là trai mới lớn, dục hỏa rất vượng nên khó thoát khỏi sự hấp dẫn của vẻ đẹp lõa lồ, khêu gợi trước mắt.
Song Nguyễn Tuấn vừa mới kể cho không nghe về tính tình độc ác, tàn nhẫn của Ly Hoa. Nàng ta rất hà khắc với bọn tỳ nữ, gia nhân, nhất là những người gốc An Nam. Chỉ một chút sơ suất nhỏ, họ cũng phải chịu những trận đòn rách thịt, và phải nghe những lời chửi rủa nặng nề ! Câu An Nam cẩu chủng là thành ngữ luôn gắn trên môi Hàn Ly Hoa.
Nam Cung Giao có nửa giòng máu Giao Chỉ, lại hết dạ tôn kính mẫu thân nên rất phẫn nộ. Lửa giận đã giúp chàng bình tâm lại, và thầm hổ thẹn vì sự hiếu sắc của mình.
Nam Cung Giao đi vòng ra phía sau, may mắn tìm được một ô cửa sổ tròn không chấn song đang mở toang để đón chút gió Tây hiếm hoi.
Cửa sổ này thuộc về phòng hai ả tỳ nữ thân tín của Ly Hoa.
Nam Cùng Giao trèo vào, điểm huyệt mê họ rồi mở cửa phòng đi lên phía trước.
Chàng âm thầm lao đến khống chế Cứu Nương, biến nàng ta thành pho tượng gỗ câm lặng, chỉ còn đôi mắt đầy khiếp sợ kia là chuyển động.
Trinh Tâm tinh thông y lý nên Nam Cung Giao rành rẽ kinh mạch, nhận huyệt rất chính xác. Chàng xuất thủ từ phía sau nên Quách Cửu Nương không hề nhìn thấy vóc dáng.
Nam Cung Giao êm ái bước đến giường bát bửu một tay bịt chặt miệng, tay kia cắm thẳng tiểu đao vào tim kẻ thù !
Quách Tường An dẫy dụa một lúc rồi tuyệt khí, lìa đời trong trạng thái trần như nhộng, y hệt lúc chào đời !
Nghĩ đến việc lão ta từng cưỡng bức đám nữ binh của mẫu thân, và còn định tiết mạn cả bà, Nam Cung Giao liếc nhìn khúc thịt ỉu xìu, thảm hại kia, mỉm cười tinh quái vung đao hớt đứt.
Khi suy nghĩ cách trừng trị tính ác độc của Hàn Ly Hoa, máu khôi hài của họ Nam Cung đã nổi lên.
Nam Cung Giao điểm thêm Thùy Huyệt Cửu Nương, vác nàng ta đặt lên giường nằm ngược chiều với Quách Tường An.
Chàng nhét đoạn của quý vào chiếc miệng anh đào và đặt tay trái Ly Hoa vào cán tiểu đao.
Với hiện trường này, Cửu Nương sẽ bị bọn bộ đầu Nam Kinh hành hạ đến sói tóc !
Nguyễn lão đã cho Nam Cung Giao biết rằng có một số người Giao Chỉ muốn trốn về quê hương nhưng không có lộ phí. Do vậy chàng tìm một mảnh vải, bỏ rương châu báu và ngân phiếu vào đấy, cột lại vác lên vai và thoát ra.
Hồi 3 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Khuê trung Nữ Hổ nhan như ngọc
Mã phủ Hồ Ly đáo tử kỳ
Sáng hôm sau, Nam Cung Giao thản nhiên đến Phú Quý Đại Tửu Lâu ăn điểm tâm. Nơi đây giá đất cắt cổ nhưng được cái rượu và thức ăn rất ngon. Các quan đều là kẻ sành ăn nên Tả phu nhân đã phải mời vị một đầu bếp lừng danh đến phục vụ.
Quả nhiên, vừa qua giờ thìn thì dinh Quách Thượng Thư náo loạn như ong vỡ tổ. Và chỉ gần khắc sau, Tổng Bộ đầu Nam Kinh Lưu Cát đã cùng thủ hạ phóng ngựa đến nơi.
Đám thực khách sáng nay đều có giao tình với Quách phủ nên đổ xô xuống, chạy sang xem thử.
Khi Lưu Tổng Bộ đầu giải Cửu Nương Hàn Ly Hoa đi thì họ mới chịu quay về tửu lâu.
Các vị thiên kim tiểu thư khuê các thì mặt mày đỏ như gấc chín, nhưng đám thiếu niên công tử thì cười hô hố, diễn tả lại những điều đã trông thấy.
Người lớn tiếng cao giọng nhất chính là công tử Mã Kim Khu, con trai quan Hình Bộ Thượng Thư Nam Kinh.
Gã ỷ thế cha nên chạy xộc vào tận nơi xảy ra huyết án, mà đám Bộ đầu không dám ngăn cản.
Mã công tử có thân hình phốp pháp, to lớn, mặt tròn, mắt hí, mũi lân... tóm lại là xấu xí và hơi ngốc !
Nhưng gã lại được mọi người yêu mến vì tính phóng khoáng, vui vẻ, và thẳng thắn đến mức thô lỗ.
Mã Kim Khu đắc ý kể lể và kết luận :
- Tiểu đệ theo phụ thân phá án đã nhiều năm mà chưa hề gặp một vụ phi thường thế này ! Hung thủ quả là một kẻ có óc khôi hài và xảo quyệt. May mà Lưu Tổng Bộ Đầu đã phát hiện mẩu "của quý" kia bị đao chặt đứt chứ chẳng phải do cắn ! Nếu không thì nam nhân đất này chẳng dám ngủ với vợ nữa !
Gã ôm bụng cười vang vì câu nói đùa của chính mình !
Nam Cung Giao cũng cười, nhưng là cười sự bố trí non kém mà mình đã đắc ý, tưởng là chu đáo.
Một chàng công tử lên tiếng :
- Mã huynh ! Vậy thì sao Cửu Nương Hàn Ly Hoa lại còn bị giải đi ?
Mã Kim Khu nhăn mặt :
- Tội nghiệp cho người đẹp ! Tám vị phu nhân kia cứ khăng khăng đổ tội lên đầu nàng, nên Lưu Tổng Bộ đầu đành phải giải Hàn Ly Hoa về nha môn tra hỏi !
Chàng trai kia hăm hở hỏi tiếp :
- Thế lúc Mã huynh vào đấy thấy y phục của Hàn nữ nhân thế nào ?
Mã Kim Khu cười sặc sụa :
- Hà tiểu quỷ ngươi quả là trân tráo ! Ngươi mà thấy được thân hình tuyệt diệu ấy sẽ phải mất ngủ cả năm.
Hà công tử gượng cười :
- Năm Hàn Ly Hoa về Thượng Thư phủ thì tiểu đệ mới mười lăm. Nghe các đàn anh tán dương hết lời nên lòng này cũng khát khao !
Cả bọn bật cười chế diễu.
Mã Kim Khu đang nhai một miếng thức ăn nên bị sặc, khí quản tắc nghẽn, ngã xuống sàn lầu, mắt trợn trắng !
Biến cố này khiến đám thế gia công tử kinh hoàng, luống cuống, chẳng biết phải đối phó thế nào.
Nam Cung Giao biết để lâu thì nạn nhân sẽ chết, liền rời bàn bước đến nghiêm giọng :
- Tại hạ là thầy thuốc mong chư vị nhường chỗ !
Vòng vây lập tức giản ra, Nam Cung Giao ngồi xuống, dựng nạn nhân lên, xoa bóp các huyệt đạo trước sau rồi vỗ mạnh vào lưng.
Miếng thịt trôi qua khỏi khí quản, trả lại hơi thở cho Mã Kim Khu.
Gã hoàn hồn, ngoác miệng chưởi :
- Mả cha Hà tiểu tử ! Vì ngươi mà ta suýt chết vì nghẹn.
Thấy gã thoát chết, đám bằng hữu mừng rỡ cười dòn. Lúc này Mã công tử đã nhận ra chàng trai lạ mặt đang ngồi bên cạnh. Gã ngơ ngác hỏi :
- Phải chăng chính các hạ đã cứu mạng Khu này ?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Chút việc nhỏ chẳng đáng để công tử phải bận tâm đâu !
Nói xong, chàng đứng lên định trở về bàn. Song Mã Kim Khu đã níu chặt áo ân nhân, trợn mắt bảo :
- Các hạ xem Mã mỗ là hạng người không biết lễ nghĩa hay sao ? Ơn này, ta không trả được thì quyết chẳng làm người !
Đám bằng hữu của gã nhao nhao tán thành :
- Mã huynh nói chí lý ! Bậc trượng phu ân oán phải phân minh.
Mã Kim Khu cũng tự xem mình là một đại trượng phu nên lòng sôi sục nghĩa khí, vung tay nói với giọng đanh thép :
- Mã Kim Khu tôi nguyện làm thân trâu ngựa để đền ơn, dẫu ân công có sai nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng từ nan.
Câu nói sáo rỗng này đầy dẩy trong truyện võ hiệp và lịch sử đương thời.
Nam Cung Giao phì cười :
- Tại hạ chẳng phải nông phu hay xà ích nên không cần trâu ngựa. Còn như muốn chiên giòn một người to lớn như Mã công tử đây thì e chẳng đủ tiền mua dầu. Tốt nhất cứ xem như bằng hữu.
Đám thế gia công tử phá lên cười khanh khách trước câu nói ví von ngộ nghĩnh của chàng lạ mặt, và phát sinh hảo cảm.
Mã Kim Khu ngượng ngùng nhưng thầm hài lòng, hỏi lại :
- Tiểu đệ chưa được biết danh tính của ân công ?
Nam Cung Giao xưng họ tên, tuổi tác rồi xin phép cáo từ.
Mã Kim Khu không chịu, cùng bạn bè lôi kéo chàng về Mã phủ, tư dinh của quan Hình Bộ Thượng Thư.
Phu thê họ Mã chỉ có mình Kim Khu là nam tử nối dõi tông đường nên rất tri ân và quí mến Nam Cung Giao.
Thượng Thư phu nhân cho mở ngay tiểu yến ăn mừng.
Kim Khu giống cha nên thô mãng, xấu xí, nhưng bào muội của gã lại cực kỳ xinh đẹp nhờ giống mẹ.
Mã tiểu thư tên gọi Hoàn Cơ, tuổi đôi mươi nhỏ hơn Nam Cung Giao, còn Mã Kim Khu hai mươi mốt. Do vậy, Mã Thượng Thư đã bảo hai con gọi Nam Cung Giao là đại ca.
Mã Thượng Thư xuất thân võ tướng nên bắt con cái luyện tập võ nghệ gia truyền.
Hoàn Cơ tuy là gái nhưng kiếm pháp lợi hại chẳng kém Kim Khu. Tính nàng đoan trang trầm lặng, bề ngoài nhu mì, thùy mị nhưng bản chất cương nghị và quyết liệt.
Kim Khu tuy là anh mà vẫn phải ngán sợ cô em gái ít nói và cứng đầu.
Vì thế, đám vương tôn công tử đất Nam Kinh cũng kính nhi viễn chi, chẳng dám tán tỉnh nữ nhân.
Trong bửa tiệc trưa nay, Hoàn Cơ lặng lẽ ngồi cạnh mẫu thân, lén quan sát Nam Cung Giao.
Trinh Tâm là ái nữ của Tri phủ Hóa Châu Đặng Tất. Khi Trương Phụ sang An Nam lần thứ nhất để tiêu diệt Hồ Quý Ly, Đặng lão sức yếu thế cô, liền trá hàng quân Minh, được phong làm Đại Tri Châu đất Hóa. Trong công việc, họ Đặng tiếp xúc nhiều với các quan tướng Minh Triều, nên Trinh Tâm giỏi tiếng Trung Hoa và thông hiểu nghi lễ Trung Nguyên. Bà đã đem những hiểu biết ấy dạy dổ con trai.
Nhờ vậy, Nam Cung Giao không đến nỗi lúng túng khi lọt vào môi trường quan cách. Chàng sử sự ung dung, đúng mực, ngôn từ cẩn trọng, không tự tôn mà cũng chẳng tự ti !
Bọn công tử luôn miệng khen ngon để lấy lòng gia chủ nhưng ăn chẳng bao nhiêu.
Nam Cung Giao không hề tán dương mà chậm rãi chén sạch những gì được Mã phu nhân bỏ vào bát.
Bà lão mỏi tay liền để khách tự xoay sở, ánh mắt chàng biểu hiện rõ sự hài lòng vì ngon miệng, khiến Mã Hoàn Cơ vui trong dạ. Nàng đã đích thân xuống bếp ra thực đơn và nêm nếm mười món ăn đặc sắc hôm nay.
Cách ăn của chàng trai kia làm nàng cảm động như gặp kẻ tri âm, đủ trình độ thưởng thức tài nấu bếp của mình. Bất giác nàng mỉm cười, mặt thoáng hồng.
Mã Thượng Thư tinh ý nhận ra tâm sự của ái nữ, liền cười ha hả :
- Nhìn Nam Cung hiền điệt ăn mà lão phu phát thèm ! Thân nam nhi phải có phạn lượng như rồng hổ mới đủ sức vung gươm tung hoành tứ hải, hay xông pha trận mạc, giữ gìn cương thổ ! Chẳng hay hiền điệt ăn nhiều vì đói bụng hay vì tài nghệ của đầu bếp ?
Nam Cung Giao buông đủa vòng tay cười đáp :
- Cảm tạ Đại nhân đã không chê cười tật xấu của kẻ thảo dân quê mùa thô lỗ ! Thảo dân cũng định ăn qua loa để chứng tỏ mình biết thủ lễ, nhưng vì thức ăn quá ngon nên tay và miệng chẳng còn tuân lệnh nữa !
Cả nhà bật cười, riêng Hoàn Cơ tủm tỉm nói :
- Nếu Nam Cung đại ca đã tán thưởng tài mọn, ngày mai tiểu muội lại xuống bếp phụng hầu thêm vài món mới nữa !
Nam Cung Giao giật mình ngơ ngác :
- Té ra là Tiểu thư đã ra tay thánh thủ đấy ư ? Thế mà tại hạ tưởng rằng một lão đầu bếp già nào đấy !
Vẻ mặt thành thực của chàng lại khơi dậy tiếng cười.
Nam Cung Giao đã khai rằng mình là con của một tiểu phú đất Các Châu, đang đi du ngoạn, nên chẳng thể từ chối sự lưu giữ của phủ Thượng Thư.
Mã Kim Khu còn cho người đến khách điếm mang ngựa và hành lý của chàng về nhà mình.
Ban ngày gã lôi chàng đi khắp nơi thưởng ngoạn và ăn nhậu, nhưng bao giờ Nam Cung Giao cũng đi về phủ dùng cơm, được thưởng thức tài nấu nướng của Hoàn Cơ.
Sức ăn của chàng gấp ba người khác nên dù đã ăn ngoài cùng với Kim Khu, vẫn có thể làm hài lòng Mã Tiểu thư !
Nam Cung Giao thực lòng yêu mến Hoàn Cơ vì người có những nét giống mẹ mình trong tính cách !
Lực lượng công sai Nam Kinh vẫn ráo riết truy lùng thủ phạm sát hại Binh Bộ Thượng Thư Quách Tường An, nhưng chẳng có chút manh mối nào !
Lưu Tổng Bộ Đầu đã bàn với Mã Thượng Thư quy trách nhiệm cho một gã đạo tặc độc hành lừng danh là Dạ Hồ Sài Tốn, dù họ sài vắng bóng đã bẩy tám năm. Và trong văn án cũng chỉ ghi rằng tài sản bị cướp là hơn ngàn lượng bạc.
Thực ra rương gỗ châu báu của Hàn Ly Hoa trị giá đến ba vạn lượng vàng. Nhưng nếu khai đúng thì người quá cố sẽ lộ bộ mặt tham quan, ảnh hưởng đến thanh danh quan lại Nam Kinh !
Hàn Ly Hoa bị giam cầm khổ sở, chỉ muốn thoát ra cho nhanh nên nhất nhất cung khai theo ý Tổng Bộ Đầu Lưu Cát và các quan trên. Nàng lủi thủi trở về với nghề kỹ nữ vì bị Quách phủ xua đuổi.
Cáo trạng được dịch trạm đưa về Bắc Kinh.
Thiên tử thương tiếc bậc trung thần, nỗi lôi đình truyền chỉ truy nã Dạ Hồ Sài Tốn trong cả nước.
Đến giữa tháng mười thì Nam Cung Giao đã làm khách của nhà họ Mã được mười sáu ngày. Chàng quyết định ra đi, mượn cớ phải đến Tô Châu thăm bà con, mặc cho Mã Kim Khu hết lời lưu khách.
Phu thê Mã Thượng Thư thấy thời gian qua ái nữ Hoàn Cơ luôn cười nói và tỏ ra nhu mì hiền thục, hiểu rằng nàng đã ghé mắt xanh vào Nam Cung Giao.
Tính tình vui vẻ, trung thực và dung mạo đường chính của chàng cũng đã chinh phục được vợ chồng Thượng Thư. Lại thêm Mã Kim Khu cực lực tán thành nên cả nhà chờ đợi giây phút Nam Cung Giao ngỏ lời cầu hôn.
Nay chàng dửng dưng bỏ đi khiến ai cũng thất vọng nhất là Hoàn Cơ ! Mặt hoa ủ dột, u ám như chiều đông, nhưng nàng vẫn cắn răng chịu đựng mối sầu ly biệt, không mở lời giữ chân người trong mộng.
Mã phu nhân cố gỡ gạc :
- Ngày mai mười bốn, không tiện xuất hành, Nam Cung hiền điệt hãy nén lại một hôm để bọn ta tổ chức tiệc tống hành.
Nam Cung Giao không tiện từ chối, đành cúi đầu phụng mạng.
Chiều hôm ấy, Mã Thượng như rủ Nam Cung Giao và Mã Kim Khu sang Cố cung uống rượu.
Người duy nhất được cư trú trong hành cung của Thiên tử chính là Thất Vương Gia Chu Nghiêm. Ngài là đại diện tối cao của triều đình ở phương Nam.
Chu Nghiêm là em ruột của đương kim Hoàng đế, tính tình dễ dãi, xởi lởi và có tật thích uống rượu.
Tháng nào ngài cũng tổ chức yến tiệc, mượn tiếng nghị sự, bàn bạc việc cai trị, song thực ra để nhậu cho say khướt.
Mã Thượng Thư không đem theo vệ binh, vì đã có Mã Kim Khu và bốn tên quân khiêng kiệu.
Mã công tử luyện được tám thành pho kiếm pháp gia truyền nên tự xưng kiếm sĩ, đi đâu cũng kè kè thanh trường kiếm có nơ bằng vàng, nạm bảy viên lục Bảo Ngọc.
Nam Cung Giao đã ném bỏ trường kiếm, văn nhã trong bộ trường bào gấm màu xám tro. Chàng luyện võ từ nhỏ, thân hình rắn chắc, đầy những bắp thịt nên không thể chối cãi khi bị Mã Kim Khu hỏi han. Chàng thú nhận rằng mình có học quyền thuật và kiếm pháp, nhưng bản lĩnh chẳng được bao nhiêu !
Hôm nay, Mã Kim Khu cùng nghĩa huynh sánh đôi, cỡi ngựa đi phía sau kiệu của Mã Thượng Thư.
Kim Khu say sưa nói về dự định viếng thăm Hàn Ly Hoa. Gã chưa quên được người đàn bà nhan sắc ấy. Tuy Hàn Ly Hoa vẫn được khá nhiều khách làng chơi mến thương.
Tất nhiên Kim Khu không hề dám rủ ý trung nhân của bào muội theo.
Hoàn Cơ mà nổi giận thì gã chỉ có cách chạy trốn !
Đoạn đường từ phủ Thượng Thư đến Hành cung chỉ xa độ ba dặm. Hai bên đường xá nhà cửa, phủ đệ các quan nên chẳng có gì để phải đề phòng.
Khi còn cách Hành cung gần dặm, đường phố như hẹp lại vì hai tòa lâu các sừng sững, lan can nhô hẳn ra ngoài.
Trước đây, hai tòa nhà bốn tầng này được cho mướn để mở tửu điếm.
Thất Vương gia thấy các quan thường ghé đấy rồi mới ngất ngưởng đến nhậu với mình, nên đã ra lệnh đóng cửa.
Giờ đây, một trở thành khách điếm, còn cái đối diện vẫn im lìm hoang phế !
Kiệu của Mã Thượng Thư vừa đi ngay cửa Kim Lăng Đại lữ điếm. Và tòa nhà câm lặng, thì từ lan can lầu ba có một chậu hoa rất lớn, đường kính độ hơn vòng tay rơi xuống, gieo thẳng vào nóc kiệu.
Mã Kim Khu phát hiện ngay từ dầu, chỉ ú ớ hét lên chứ chẳng thể nào can thiệp kịp, vì gã ở cách cha già đến hai trượng.
Khách bộ hành cũng có người nhìn thấy, thét thất thanh và sợ hãi, ôm mặt lùi lại không dám nhìn thảm cảnh.
Chậu hoa đầy đất kia nặng hơn trăm cân, từ độ cao ba trượng rơi xuống hóa thành ngàn cân, chắc chắn sẽ đè nát người trong kiệu.
Nhưng đúng Iúc chuông treo sợi tóc ấy, Nam Cung Giao đã rời yên ngựa, lao đi như mũi tên, vung cước đá bể nát chậu hoa khi nó còn cách nóc kiệu hai sải tay.
Đất và mảnh sành rơi đầy trên nóc gỗ của kiệu nhưng không xuyên qua được.
Hai tên quân khiêng kiệu phía trước cũng bị đất phủ đầy người, may mà chúng chẳng bị thương !
Cỗ kiệu dừng lại, Mã Thượng Thư hốt hoảng vén màn bước ra hỏi :
- Kẻ nào đất dám ném đất đá vào kiệu của lão phu vậy ?
Mã Kim Khu chưa kịp hoàn hồn, chạy đến ôm cha già, nói chẳng ra hơi :
- Phụ thân có kẻ đã ném chậu hoa vào kiệu... May mà Nam Cung đại ca... đã bay đến đá văng đi, cứu mạng phụ thân !
Gã chỉ cho Mã Thượng Thư thấy những mảnh sứ rơi rớt trên đường. Một đoạn vành bồn hoa còn lại đã giúp Thượng Thư ước lượng được độ lớn và sức nặng của tai họa.
Ông vừa sợ vừa mừng, bước đến vỗ vai Nam Cung Giao :
- Không ngờ hiền điệt lại thần dũng tuyệt luân như vậy ? Hai đời họ Mã nhà ta chịu ơn cứu tử của hiền điệt, lão phu biết lấy gì mà đền đáp đại ân này đây ?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Tiểu điệt đã ăn thủng nồi trôi rể phủ Thượng Thư, nay mặt mũi nào mà kể công lao nữa đây ?
Mã Thượng Thư hài lòng trước câu trả lời hóm hỉnh và chân tình của chàng, quyết không để vuột mất chàng rể quý. Ông là võ tướng tất phải biết cú đá của Nam Cung Giao mạnh đến dường nào. Chàng trai này có công lực tương đương với một cao thủ rèn luyện ròng rã ba chục năm.
Họ Mã đã ước đoán chính xác vì Nam Cung Giao học võ mười tám năm, cộng với thần lực bẩm sinh, chàng có tu vi cao hơn tuổi tác là phải !
Toán quan quân tuần tra đi đến nơi, bị Mã Thượng Thư khiển trách nặng nề, bắt họ phải lục soát ngay tòa nhà bỏ hoang kia.
Nam Cung Giao lắc đầu :
- Đại nhân đừng phí công, tiểu điệt đã nhìn thấy hung thủ. Gã mặc y phục xanh lục, không râu, vóc dáng mảnh khảnh, tầm cao trung bình. Sau khi thả chậu hoa xuống, gã đã đào tẩu bằng một thân pháp nhanh như điện.
Mã Thượng Thư tần ngần nghĩ :
- Lão phu mới từ quan ải về nhậm chức Nam Kinh Hình Bộ Thượng Thư được ba năm, chưa có dịp chém một tội nhân nào, sao lại gây thù oán với ai được ?
Lão buồn rầu ra lệnh quay về phủ không đến Hành cung nữa !
Trong lúc Mã phu nhân hết lời cảm tạ Nam Cung Giao, Thượng Thư cho gọi Tổng Bộ đầu Lưu Cát và Tổng Binh Nam Kinh đến.
Nghe kể lại vụ ám sát hụt hai người tái mặt, hứa sẽ dốc sức điều tra và cho quân bảo vệ phủ Thượng Thư.
Hệ thống hành chính ở Nam Kinh khá phức tạp.
Việc trị dân thuộc trách nhiệm Tri huyện Kim Lăng, gồm thành Nam Kinh và vùng nông thôn phụ cận.
Song việc trị an trong thành lại là phận sự của Tổng Binh và Tổng Bộ Đầu, dưới quyền điều động của Binh Bộ Thượng Thư và Hình Bộ Thượng Thư.
Nay Quách Tường An đã chết chưa có người thay thế, nên quyền hành tập trung cả vào tay Mã Thượng Thư. Ông chỉ phải phục tùng Thất Vương Gia mà thôi !
Lưu Tổng bộ đầu rụt rè nói :
- Bẩm Đại nhân ! Việc gã Nam Cung Giao xuất hiện ở Nam Kinh đúng lúc xây ra huyết án ở Quách Phủ, lại giấu giếm bản lãnh cao cường, khiến ty chức hoài nghi lai lịch của y. Mong Đại nhân cẩn tâm đề phòng !
Mã Thượng Thư quắc mắt nạt :
- Túc hạ chớ nói càn ! Giao nhi nhân phẩm cao quí, tâm địa trong sáng như nhật nguyệt, sao lại có thể là hung thủ giết Quách Tường An được ? Hay là túc hạ cho rằng lão phu đã đui mù !
Cơn thịnh nộ của Thượng Thư đã khiến Lưu Cát sợ đến nhũn người, vội tụt khỏi ghế, quỳ xuống tạ tội :
- Ty chức mới là kẻ có mắt không tròng, xin Đại nhân khai ân tha cho kẻ thuộc hạ ngu xuẩn này !
Phạm Tổng Binh cũng hết lời xin xỏ cho đồng liêu nên Mã Thượng Thư nguôi giận, lạnh lùng bảo Lưu Cát ngồi vào ghế.
Hai người chỉ ở lại thêm một lúc đã cáo lui.
Ra đến ngoài, Phạm Tổng Binh trách họ Lưu :
- Lưu huynh tinh minh, mẫn cán nhưng còn kém trong nghệ thuật làm quan ! Dẫu Nam Cung Giao có đúng là hung thủ sát hại Binh Bộ Thượng Thư thì lão Mã Xuân Trác kia cũng chẳng cần biết đến ! Đại ân cứu mạng cả cha lẫn con họ Mã lớn hơn non Thái, có sá gì cái chết của một kẻ kình địch chốn quan trường ?
Lưu Cát hổ thẹn đáp :
- Tiểu đệ quen tính trực ngôn nên lỡ lời ! Từ nay sẽ khâu kín cái miệng này lại.
Đêm ấy, phủ Thượng Thư bình an vô sự nhưng đến sáng thì cả Nam Kinh náo động vì vụ án ghê rợn ở kỹ viện Hồng Loan Các.
Nàng danh kỹ Hàn Ly Hoa đã bị bóp cổ đến chết.
Hung thủ còn tàn nhẫn cắt lìa đôi môi tuyệt đẹp của nàng !
Mã Thượng Thư bù đầu vì vụ huyết án nên tiệc tống hành Nam Cung Giao bị bãi bỏ.
Ngay trưa mười bốn, chàng thản nhiên thu xếp hành lý đòi lên đường ngay.
Mã Thượng Thư rầu rỉ nói :
- Lão phu đang phải đối phó với một kẻ thù ẩn mặt và lợi hại, vốn trông cậy vào hiền điệt bảo vệ gia quyến. Nay hiền điệt nỡ nào dứt áo ra đi như vậy ?
Nam Cung Giao mỉm cười.
- Tiểu điệt ở lại đây thì hung thủ không dám đến để Đại nhân bắt ! Khi tiểu điệt ra đi, một là gã sẽ chặn đường, hai là tìm đến đây.
Mã Thượng Thư mừng rỡ cười ha hả :
- Té ra hiền điệt bày kế điệu hổ ly sơn. Lão phu sẽ chia hai lực lượng, giăng lưới chờ đợi con mồi.
Mã Hoàn Cơ bây giờ mới rõ, lòng thầm hổ thẹn vì đã hiểu lầm chàng trai dũng lược. Nàng thỏ thẻ :
- Đại ca có đoán được hung thủ là ai không mà dám quyết đoán như vậy ?
Nam Cung Giao tư lự :
- Ngu ca đã hình dung được gương mặt của kẻ ném bồn hoa hôm qua. Lão ta tuổi độ sáu mươi, mắt rất sáng, đầy vẻ xảo quyệt và tàn độc. Sau cái chết của Hàn Ly Hoa, ngu ca cho rằng lão già kia chính là Dạ Hồ, kẻ đang bị triều đình truy nã. Có thể lão không giết Quách Thượng Thư nên tức giận, trả thù những người liên quan !
Mã Thượng Thư chột dạ hỏi :
- Vì sao hiền điệt lại biết Dạ Hồ không giết Quách Tường An ?
Nam Cung Giao mỉm cười, chỉ Mã Kim Khu :
- Bẩm Đại nhân, chính Mã hiền đệ đã kể cho tiểu điệt biết kế di họa giang đông của đại nhân và Lưu Tổng Bộ Đầu.
Mã Xuân Trác ngượng ngùng nhưng yên tâm vì chàng rể tương lai chẳng có gì đáng nghi !
Ông nói lảng sang chuyện khác :
- Dạ Hồ Sài Tốn giỏi đao pháp, hiền điệt không có vũ khí e sẽ thiệt tḥòi, lão phu xin tặng một thanh bảo kiếm để hiền điệt phòng thân.
Thượng Thư vào ngọa thất, lát sau trở ra, tay cầm một thanh kiếm cũ kỹ, chuôi bằng sừng đen bóng, võ bằng da lạc đà, có chỗ đã trụi lông. Thanh kiếm này dài hơn kiếm thường độ gần gang tay. Chứng tỏ chủ cũ của nó phải là người cao lớn.
Mã Thượng Thư rút kiếm khỏi võ, để lộ nước thép xanh ngời. Ông hào hứng nói :
- Bảy năm trước, lúc lão phu còn trấn giữ quan ải, được mật báo rằng có gián điệp Mãn Châu lén vượt trường thành. Lão phu liền bố trí phục binh, bắn chết toán cao thủ Mãn Châu ấy, và tịch thu được thanh bảo kiếm này. Không hiểu nó được đúc bằng loại thép gì mà lại nặng gấp đôi kiếm gia truyền của tổ phụ để lại nên không dùng đến. Nay hiền điệt thần lực hơn người, chắc sẽ vừa tay !
Nam Cung Giao nhận lấy, vòng tay cảm tạ rồi búng thử vào thân kiếm, lắng nghe tiếng thép ngân trong trẻo và kéo dài. Quả thực là nó rất tốt và vừa tay, chàng tự nhủ sẽ đặt tên nó là Lạc Điểu.
Cả nhà ra tận cổng phủ tiễn đưa Nam Cung Giao, cố ý để người ngoài trông thấy.
Chiều hôm ấy, Nam Cung Giao đã rời xa Nam Kinh được bốn chục dặm, về hướng Bắc.
Đường quan đạo vắng vẻ vì lữ khách đã ghé cả vào quán trọ. Tuy là thời bình nhưng cũng ít người dám đi đâu, bởi trời tối tăm, chẳng thể nhìn rõ đường sá. Vả lại, sợ bóng tối luôn là đặc tính của loài người !
Phía sau chàng bỗng vang lên tiếng vó ngựa rầm rập phi nước đại.
Nam Cung Giao ngoái đầu lại, nhận ra có đến mười kỵ sĩ áo xanh lục đang lao đến. Chàng cho ngựa đi chậm, nép vào vệ đường như muốn nhượng lối, thực ra là để phòng đánh lén.
Do vậy, toán kỵ sĩ kia đã dễ dàng vây chặt con mồi lại.
Nam Cung Giao cau mày :
- Vì sao chư vị lại bao vây tại hạ ?
Lão nhân râu quắn quăn tít kia có lẽ là thủ lĩnh toán Lục y, ông ta cười nhạt :
- Phải chăng tiểu tử ngươi là kẻ đã đá bể chậu hoa, cứu mạng lão cẩu quan họ Mã đấy không ?
Nam Cung Giao gật đầu hỏi lại :
- Thế Tôn giá và chư vị đây thuộc bang hội nào vậy ?
Lão nhân nhếch mép :
- Trước sau gì ngươi cũng chết, lão phu chẳng cần phải giấu giếm. Bọn ta là thủ hạ của Hồ Bang, và bổn Bang Chủ chính là Dạ Hồ, kẻ đã bị lão Mã Xuân Trác vu oan giá họa.
Nam Cung Giao không ngờ Sài Tốn lại chẳng đơn thương độc mã mà có đông đảo thủ hạ thế này ! Nay lão không xuất hiện, chỉ cho tay chân chặn đường thường, tức sẽ đích thân xâm nhập Mã phủ.
Tuy phủ Thượng Thư được canh phòng cẩn mật, nhưng bọn vệ binh chưa chắc đã phát hiện nỗi một đại cao thủ về khinh công như Dạ Hồ ! Sài Tốn chỉ cần cho vài tên bang chúng gây hỗn loạn là sẽ có cơ hội âm thầm tiến sâu vào hậu viện !
Cảm kích ân tình của nhà họ Mã, Nam Cung Giao quyết kết liễu cuộc chiến ở đây thật nhanh, rồi quay lại Nam Kinh.
Chàng nói nửa đùa nửa thật :
- Tạ hạ sợ vạ lây nên đã rời khỏi phủ Thượng Thư ! Mong chư vị cứ lấy hết vàng bạc và tha cho cái mạng nhỏ bé này ! Tại hạ được Mã Thượng Thư ban cho đến hơn ngàn lượng vàng đấy.
Vàng là thứ kim loại hấp dẫn nhất thế gian ! Vì nó, con người sẵn sàng giết cả cha mẹ, anh em hay bằng hữu. Bọn hán tử áo xanh lục này đi theo Sài Tốn cũng vì ham lợi, nay nghe nói đến ngàn lượng vàng thì tên nào cũng nhấp nhỗm.
Nam Cung Giao móc trong lưng ra một xấp ngân phiếu, ném rải lên đầu hàng ngũ đối phương.
Thế là chín gã đao thủ Hồ Bang nhao nhao nhẩy xuống đất, giành giật nhau những tờ ngân phiếu.
Lão nhân râu quăn bối rối quay lại quát tháo :
- Bọn ngươi làm thế thì bổn bang còn ra thể thống gì nữa !
Lão chợt phát giác ra mình đã sơ hở khi rời mắt khỏi con mồi.
Lão quả có lý vì Nam Cung Giao đã rời lưng ngựa, như cánh chim ưng giương mắt chụp lấy mục tiêu.
Chàng dồn toàn lực vào chiêu Điểu Trảo Niên Dương (Móng chim bắt dê non), kiếm ảnh tua tủa, tỏa khí lạnh căm căm, vây kín thân trên đối thủ.
Lão nhân râu quắn bản lĩnh cao cường nên mới được Dạ Hồ giao sứ mạng hạ sát Nam Cung Giao, người có cú đá mạnh ngàn cân. Nhưng Sài Tốn không biết rằng chàng trai trẻ kia giỏi kiếm pháp còn hơn quyền thuật, và khi Nam Cung Giao ở thế "xuất kỳ bất ý công kỳ vô bị", nghĩa là đánh lén, thì khó ai được an toàn.
Thanh Lạc Điểu kiếm tuy không sắc bén như thần binh thời Xuân Thu, nhưng được cái nặng nề và cứng rắn phi thường. Do đó, chiêu kiếm của Nam Cung Giao mãnh liệt như núi Thái đang đổ ập xuống.
Lão nhân râu quắn cắn răng múa kiếm chống đỡ một cách tuyệt vọng, và rú lên thảm khốc, rơi khỏi mình ngựa.
Ngực lão thủng đến bốn lỗ, tay hữu đứt lìa !
Nam Cung Giao không dừng bước, điểm chân vào đầu ngựa của lão râu quắn, bốc lên cao, chụp lưỡi kiếm xuống bốn tên áo lục đang cãi cọ, giằng co nhau một tờ ngân phiếu.
Tiếng thét thê lương của đầu lãnh khiến chúng ngơ ngác, quay lại nhìn, nhưng chưa kịp rút đao. Thanh Bảo kiếm Lạc Điểu dài hơn kiếm thường nên phạm vi sát thương khá rộng, đâm thủng đủ bốn đỉnh đầu của những kẻ được phát tài ! Chúng có thể tự an ủi rằng mình đã lìa đời trong tư thế của người giàu có, vì trong tay mỗi tên đều cầm đến ba bốn tờ ngân phiếu !
Năm gã bang chúng còn lại thất kinh hồn vía, múa đao xông đến. Họ thi triển cùng một loại đao pháp rất lợi hại. Vậy là, bảy tám năm qua, Dạ Hồ đã âm thầm chiêu mộ thủ hạ và dạy cho chúng đao pháp của giòng họ Sài !
Đây là lần đầu tiên Nam Cung Giao thực sự chiến đấu, trực diện đối phó với kẻ thù. Chàng phấn khởi vũ lộng thanh bảo kiếm, thi thố hết sở học.
Trinh Tâm là nữ trung hào kiệt, tánh tình cương liệt, nghiêm khắc. Khi dạy kiếm cho con trai, bà bắt con phải cùng mình tỷ thí. Trinh Tâm ra đòn rất hiểm ác chứ không hề nương tay, cứ như bà đang chiến đấu với kẻ thù vậy.
Thanh kiếm gỗ của bà đã liên tục gây ra những vết thâm tím trên thân thể Nam Cung Giao. Nhưng nhờ vậy mà kinh nghiệm giao đấu của chàng trai trẻ không đến nỗi nghèo nàn ! Trừ phi đối thủ thông minh và biến hóa hơn Trinh Tâm mới có thể làm khó được chàng !
Khi bị giáp công, bốn phương đều có địch, Nam Cung Giao sở cậy rất nhiều vào pho khinh công Lạc Điểu thân pháp. Chàng nhấp nhô lên xuống, di chuyển linh hoạt giữa vòng vây, chống trả rất hữu hiệu !
Nóng lòng trở lại phủ Thượng Thư, Nam Cung Giao giở hết những chiêu sát thủ. Chàng nhãy xổ vào gã béo trước mặt xuất chiêu Lạc Điểu Nam Phi (Chim Lạc bay về Nam), mũi kiếm hóa thành trăm bóng ảnh chập chờn, uy hiếp thân trên hán tử to béo. Gã hung hản rùn người, tung ra những đòn đao mãnh liệt.
Không có tiếng thép chạm nhau, chỉ có tiếng thét rợn người.
Nam Cung Giao lại đảo thân chống đỡ chiêu đao của gã mé hữu, trong chớp mắt đã thọc mũi kiếm vào sườn đối phương.
Đắc thủ chàng đề khí bốc lên không trung, xà xuống đầu tên thứ ba.
Kiếm dài, đao ngắn, gã bang chúng Hồ Bang bị đâm thủng trán.
Hai tên cuối cùng sợ mất mật tháo lui, quay lưng đào tẩu theo hai hướng khác nhau.
Nam Cung Giao không chút chần chờ, phóng trường kiếm vào lưng một tên và đuổi theo tên thứ hai.
Thanh kiếm như mũi trường tiễn rời dây cung bay vút đi và xuyên qua hậu tâm gã bang chúng hướng Bắc.
Thủ pháp này Nam Cung Giao đã phải khổ luyện suốt nhiều năm ròng. Kiếm bay đi nhờ uyển lực, tức sức mạnh ở cổ tay, chứ chẳng phải cánh tay. Đây chính là căn bản của phép ném ám khí.
Tiếng rú thảm thiết vừa vang lên thì chàng đã đuổi kịp gã bang chúng thấp lùn.
Thấy chàng tay không vũ khí, gã yên tâm quay lại chiến đấu. Quả thực là nắm tay bằng thịt bị kém thế lưỡi đao sắc bén.
Nam Cung Giao không dám va chạm, chỉ liên tục di chuyển, chờ cơ hội nhập nội.
Song đối phương cũng biết chàng cước pháp ngàn cân nên không dám mạo hiểm đối đòn, chỉ tận dụng đao pháp ảo diệu mà chiếm thượng phong. Gã không biết một điều là càng đánh lâu dài thì Nam Cung Giao càng nắm được tinh túy của pho quyền pháp gia truyền. Vả lại, chàng dẻo dai và bền sức hơn gã rất nhiều.
Một khắc sau, hán tử kia toát mồ hôi hột, hơi thở hỗn loạn, đường đao lộ nhiều sơ hở. Gã kinh hoàng nhận ra đối phương vẫn ung dung, và liên tiếp tung ra những đòn như sấm sét.
Dường như Nam Cung Giao đã tìm ra cách phối hợp pho khinh công Lạc Điểu với pho quyền, cước bộ chàng nhanh nhẹn phi thường, thân ảnh chập chờn khiến đối thủ hoa cả mắt.
Chàng đã nhận ra cơ hội, ập vào như cơn lốc, đảo người tránh một đòn đao quét ngang, thì tay tả chụp lấy cổ tay phải hán tử và tung cước đá vào bụng gă.
Thân hình nạn nhân văng ngược về phía sau hơn trượng, nằm im bất động.
Nam Cung Giao hài lòng chạy đi thu lại trường kiếm và những tờ ngân phiếu.
Nhìn mười tử thi nằm rải rác, chàng bỗng rùng mình bất nhẫn, cảm thấy ghê sợ bản thân !
Gương mặt người chết thường hiền lành, hoặc đầy nét khổ sở vì đau đớn, chứ chẳng hề dử tợn hay gian ác. Chàng áy náy nhìn quanh, tìm chỗ khả dĩ chôn cất thi hài những kẻ xấu số.
Mé Tây quan đạo là ruộng lúa nước mênh mông, còn hướng Đông có ngọn đồi nhỏ ngổn ngang đá tảng, cách đấu trường độ mười trượng !
Nam Cung Giao thở dài cặp nách một lần hai xác, đi năm lượt thì mang hết mười nạn nhân đến chân đồi.
Thấy có ba tảng đá nằm gần nhau, tạo thành khe trống, chàng xếp tử thi vào đấy rồi ôm những tảng đá nhỏ hơn chất đè lên. Xong xuôi, chàng mệt lả người, y phục thấm lem vì máu và bụi đất.
Nam Cung Giao nhăn nhó tự chế giễu :
- Ta thật là lẩn thẩn, giết người xong lại phải chôn cất và áy náy trong lòng ! Thôi thì lần sau bỏ chạy cho đỡ mệt xác !
Chàng mỉm cười, trở ra quan đạo, lần ngựa phi nước đại về hướng Nam Kinh.
Mười con ngựa của phe Hà Bắc vẫn còn thản nhiên gặm cỏ, nhưng khi trời sụp tối, chúng sẽ chạy về nơi xuất phát.
Cơn mưa cuối thu ập xuống, gội sạch đất, máu trên áo quần lữ khách, và làm dịu nỗi băn khoăn.
Nam Cung Giao nghe đói bụng nhưng không dám dừng chân, cuối canh hai về đến cửa Bắc thành, lúc này cơn mưa đã ngừng rơi.
Chàng ghé vào quán trọ bên đường, thay y phục, nuốt vội tám chén cơm, rồi đi bộ vào thành. Chàng lầm lủi bước nhanh, hơn khắc sau đã có mặt trên mái ngói đại sảnh của phủ Thượng Thư.
Vệ binh trong phủ rất đông mà không phát hiện được sự xâm nhập của chàng thì Dạ Hồ Sài Tốn vào chẳng khó.
Mãy mù đã tan, trăng thu ló dạng soi sáng cảnh vật đất Nam Kinh.
Nam Cung Giao nép mình vào một góc tối, nằm ngữa ngắm vầng trăng, nhớ đến song thân và hai em. Nhị muội chàng là Lộc nhi mới lên tám, còn cô bé Hà nhi sáu tuổi.
Quê ngoại chàng là thôn Can Lộc phủ Hà Tĩnh nên hai em mang tên ấy để thể hiện ḷòng hoài hương của người nữ tướng đất An Nam. Ngay tên Giao của chàng cũng thuộc về xứ sở Giao Châu !
Gió thu hiu hiu lạnh, ru chàng trai trẻ vào giấc ngủ. Chàng ta đã quá mệt nhọc vì trận tử đấu và phải giong ruổi gần trăm dặm.
Giữa canh tư, Nam Cung Giao giật mình thức giấc, dụi mắt nhìn quanh. Dù không có động tĩnh gì nhưng chàng vẫn chẳng dám ngủ tiếp, ngồi cảnh giới.
Từ vị trí cao chót vót này, chàng có thể bao quát toàn bộ khu vực.
Gần khắc sau, có kẻ nào đó đã ném những trái yên cầu qua tường vây rơi vào sân trước, tỏa khói mít mù.
Loại khói này làm cay mắt đám vệ binh, chúng sợ hãi ôm mặt la hét, chẳng còn thấy đường mà chiến đấu.
Và sau đó, gần chục Hắc y nhân vượt tường xông vào phủ. Chúng lạnh lùng chém giết những tên vệ binh mù lòa, không phương né tránh hay chống cự !
Nam Cung Giao phẩn nộ trước thủ đoạn tàn nhẫn của Hồ Bang, chút băn khoăn ban chiều đã biến mất.
Dĩ ác diệt ác là quy luật của sinh tồn, kẻ ác đánh mất nhân cách là tự đặt mình ra ngoài vòng bao dung của đạo trời.
Chàng không dám suy nghĩ lâu, quay về quan sát hậu phủ.
Chín tên Hắc y kia chỉ là những con chốt thí của Dạ Hồ. Chúng hoàn toàn không có sinh lộ khi đánh vào đây !
Nam Cung Giao thiếu kinh nghiệm giang hồ nhưng thừa hưởng được trí tuệ siêu phàm của mẫu thân, tâm cơ ngày càng sắc sảo. Chàng luận việc chính xác, vì một bóng đen đã cánh dơi đêm lướt trên những ngọn hoè cao vút, trong vườn hoa phía sau tiến vào khu hậu viện. Chỉ Dạ Hồ mới có được thân pháp thượng thừa ấy !
Tiếng la hét, ồn ào phía trước đã che lấp tiếng động trên ngọn cây. Lực lượng công sai và vệ binh không thể ngờ đến việc kẻ thù đang di chuyển trên đầu mình. Họ chỉ lo cố thủ vị trí đã được giao phó chờ lệnh mới xông ra !
Giữa tòa đại sảnh hai tầng và khu hậu viện có một vườn cảnh nhỏ.
Hiện giờ, Hình Bộ Thượng Thư Mã Xuân Trác và Tổng Bộ Đầu Lưu Cát đang đứng giữa toán công sai bàn bạc.
Mặt trận tiền sảnh đã có Phạm Tổng Binh đối phó.
Nam Cung Giao đã phục sẵn trên lan can lầu chờ đợi.
Dạ Hồ thì hạ thân xuống mái hậu viện, êm ái lướt ra phía trước. Lão xác định xong chỗ đứng của Mã Thượng Thư, ném hai trái yên cầu, rồi nhẩy xuống phủ lưỡi đao vào đầu họ Mã.
Hình Bộ Thượng Thư võ nghệ siêu quần, nhiều phen vào sinh ra tử nên phản ứng cực kỳ thần tốc. Dù mắt cay xè và đau nhức như bị kim đâm, ông vẫn bình tĩnh múa tít bảo kiếm che chở thân trên.
Dạ Hồ điều nghiên địa thế rất kỹ, nhưng lại không biết lão quan già bẩy chục tuổi này là cao thủ, và suốt năm mươi năm chưa hề bõ bê việc luyện công !
Đao kiếm chạm nhau chan chát, Dạ Hồ nghe hổ khẩu tê rần, thầm ngán sợ công lực của Mã Thượng Thư.
Lão bị dội ra, rơi xuống, liền điểm chân lên vai một gã bộ đầu, bốc cao hơn trượng, lặng lẽ bổ đao vào đầu Mã Thượng Thư.
Mã lão đoán rằng đối phương đã rơi, tất chiêu thứ hai phải tấn vào trước hoặc sau người mình. Ông biến chiêu, không chú ý đến phía trên nhiều. Ông không ngờ rằng Sài Tốn giảo hoạt, đa mưu như chồn cáo nên mới có danh là Dạ Hồ.
Mã Kim Khu và Mã Hoàn Cơ chạy ra đến hành lang dãy nhà hậu viện, nhìn thấy rõ thảm cảnh khói cay hơi nặng nên đã lắng xuống, không còn che phủ nhãn tuyến nữa. Tác dụng chính của nó là làm mù tạm thời những đôi mắt đối phương.
Hai anh em họ Mã kinh hoàng nhẩy qua lan can hành lang, chạy đến cứu cha già.
Khoảng cách quá xa khiến mọi nỗ lực của họ trở thành vô dụng, kể cả tiếng la cảnh báo của Mã Kim Khu :
- Cha ! Trên đầu.
Nhưng lúc đao Dạ Hồ còn cách mái tóc hoa râm của họ Mã một gang thì lão bị một đạo kiếm quang lạnh buốt bay đến nuốt chửng, và thổi văng đi.
Một trận mưa máu rơi theo xác Dạ Hồ !
Nam Cung Giao hạ thân đứng cạnh đấy, trong tiếng hô vang của Mã Kim Khu :
- Nam Cung đại ca !
Nghe đến tên rể quí, Mã Xuân Trác biết rằng tai họa đã qua, dừng kiếm quát hỏi :
- Giao nhi ! Kẻ địch đâu rồi ?
Cách gọi thân thiết này khiến Nam Cung Giao chạnh lòng. Chàng chưa kịp đáp thì Hoàn Cơ đã đáp thay :
- Gã ta đã bị Nam Cung đại ca đâm chết rồi !
Mã Thượng Thư cười ha hả :
- Giao nhi giỏi lắm. Lão phu lại mắc nợ ngươi nữa rồi !
Nam Cung Giao không đáp, nói với Hoàn Cơ :
- Hiền muội bảo gia nhân mang nước sạch ra đây cho Đại nhân và những người kia rửa mắt !
Phạm Tổng Binh vào đến, vui vẻ báo rằng chín tên Hắc Y đã bị loạn tiễn bắn chết !
Sáng hôm sau, mượn cớ trở lại khách điếm ở cửa Bắc thành lấy ngựa và hành lý, Nam Cung Giao rời khỏi Nam Kinh, từ giả bằng hai câu thơ.
Khổ hải mang mang chu vô độ !
Tam niên vị tử điểu qui sào !
Dịch :
Biển khổ mênh mông thuyền chẳng bến.
Ba năm chưa chết sẽ quay về !
Mã Tiểu thư không khóc thành tiếng nhưng lệ doanh tròng, sắc diện cực kỳ thống khổ !
Mã Thượng Thư an ủi ái nữ :
- Xem ra lai lịch Giao nhi có nhiều uẩn khúc. Những y đã hẹn ba năm quay lại là đã chứng tỏ tình cảm với Cơ nhi !
Hoàn Cơ cười lạnh :
- Nay chàng đã lưu lại lời ước hẹn, hài nhi tự xem mình là dâu họ Nam Cung, quyết sánh vai trượng phu hành hiệp ! Hài nhi tính tình nóng nảy chẳng thể chờ đủ ba năm được !
Mã phu nhân biết tính con, ngao ngán nói :
- Cơ nhi cứ đi ! Nhưng phải ghé qua Tây Hà sơn, nhờ Nhị Sư thúc hộ tống. Có thế thì ta và cha ngươi mới yên lòng !
Mã Thượng Thư học nghệ với Trường Giang Thượng Nhân, có một sư đệ là Cẩn Nhục Đầu Đà Hồ Sóc Phương. Lão này tính tình quái dị nhưng võ nghệ cao cường, suốt đời chỉ thích ăn thịt chó nên nổi danh !
Mã Kim Khu rất hợp tính với sư thúc, mừng rỡ nói :
- Nay Dạ Hồ Sài Tốn đã mạng vong, Mã phủ chẳng còn bị đe dọa, Hài nhi sẽ cùng Cơ muội đi tìm Nam Cung đại ca !
Mã Thượng Thư suy nghĩ một lúc rồi đáp :
- Thôi được. Hai anh em ngươi cứ lên đường !
Hết Hồi 3 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Xem Tiếp Hồi 4
Hồi 4 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Tô Châu phùng xú tử
Lộ Thượng đả Hàm Đan
Đầu tháng mười một, Nam Cung Giao đến Tô Châu. Mục tiêu của chàng chính là Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long.
Chàng đã lén gặp Nguyễn Tuấn, trao cho lão số ngân phiếu vạn lượng, nhờ phân phát cho những người Giao Châu muốn trở về xứ sở, hay đang gặp khó khăn !
Nguyễn Tuấn bảo rằng Tô Châu cũng có khá nhiều người đồng hương, và đã dạy chàng phương thức liên lạc.
Sau hai mươi mấy năm, số lượng người Giao Chỉ ở những phủ phía Nam Trung Quốc đã tăng lên gấp bội. Có một số đã thoát đời nô lệ, ra ngoài mưu sinh, xây dựng được sự nghiệp.
Cùng dân tộc, cùng chịu cảnh ly hương, ngươi Giao Chỉ ở mỗi địa phương âm thầm liên kết lại thành Bang để tương trợ lẫn nhau.
Trưởng Bang ở Nam Kinh là Nguyễn Tuấn, còn Trưởng bang ở Tô Châu là Đặng Kiệm ! Họ Đặng tuổi năm mươi ba, là thầy thuốc trong nghĩa quân Hậu Trần, dưới trướng biểu thúc Đặng Dung, khi bị bắt về Trung Quốc trở thành nô lệ cho Mạc Tôn Long !
Họ Mạc nhờ công lao chinh phạt An Nam, được phong làm Tri phủ Giang Tô. Lúc mới về nhiệm sở, chưa dám trổ ngón tham quan ngay nên Tôn Long rất túng thiếu. Lão bèn bán bớt một số nô tỳ để có tiền xây nhà mới. Trong đó có Đặng Kiệm !
Đặng Kiệm may mắn lọt, vào một nhà đại phú nhân đức họ Hoàng. Khi Hoàng viên ngoại lâm bệnh trầm kha, các danh y trong thành Tô Châu đều bó tay, thì Đặng Kiệm trổ tài Biển Thước.
Hoàng viên ngoại thoát chết, liền giải phóng ân nhân khỏi kiếp nô lệ và gả con gái cho !
Giờ đây, Đặng Kiệm thừa kế cơ nghiệp họ Hoàng, trở thành một người có thế lực đất Tô Châu.
Về vai vế, Đặng Kiệm là biểu ca của Nam Cung Giao. Nhưng chàng không thể nhận bà con vì sợ lộ thân phận và có thể di hại đến Đặng Kiệm.
Chàng sẽ đến với lão bằng cách khác ! Nguyễn Tuấn từng kể rằng Đặng Kiệm có thói quen chiều chiều uống rượu trong Cô Tô Đại tửu lâu, cạnh bờ Thái Hồ. Lão được dành riêng một bàn, dù bất cứ ai cũng chẳng được ngồi vào vị trí ấy !
Hoàng Gia trang vốn kinh doanh ngành tơ lụa, nhưng sau này, Đặng Kiệm đã trao nghề cũ cho vợ, còn mình mở tiền trang.
Vùng duyên hải phía Đông Nam Trung Hoa có nhiều hải cảng buôn bán với ngoại bang, nên thương lái bất cần vốn liếng. Với bốn tiền trang ở các phủ Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông. Đặng Kiệm đã trở thành Đại tài thần.
Không chỉ đám lái buôn cần tiền, mà cả các quan lớn nhỏ cũng là con nợ của họ Đặng. Tiền bạc đi đôi với quyền lực chẳng ai còn dám nhắc đến cái gốc gác An Nam man mọi của Đại thần tài nữa !
Người Trung Hoa luôn tự hào về nền văn minh rực rỡ mấy ngàn năm của mình, nên xem nhân dân tộc xung quanh là man di mọi rợ. Thực ra, vào thời bấy giờ, tuy sử dụng Hán Tự, dân Giao Chỉ đã có một nền văn hóa đặc sắc riêng, không thể sánh với Trung Hoa nhưng hơn hẳn những nước trong khu vục như Cao Ly, Phù Tang, Xiêm La, Miến Điện.
Chính vì vậy Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho Tân Thành Hầu Trương Phụ tịch thu tất cả sách vở của Giao Châu, phá hủy văn bia, chỉ để lại những gì của Trung Hoa.
Đấy là chuyện nhiều năm trước, giờ chúng ta sẽ cùng Nam Cung Giao lên lầu hai của Cô Tô Đại Tửu Lâu.
Cô Tô là một ngọn núi có phong cảnh rất đẹp ở ngoại thành và nó là xuất xứ của hai chữ Tô Châu.
Thành Tô Châu xưa kia là kinh đô của nước Ngô cổ đại, do Mã Hạp Lư xây dựng lên. Thời Tần, Tô Châu được gọi là Ngô Huyện, thời Đông Hán đổi là Ngô Quận. Đến năm Bính Tý (1276) tức năm Cảnh Viên thứ nhất, đời vua Tống Đoan Tông, vùng đất lẫy lừng này mới có tên Tô Châu !
Cái tên Cô Tô Đại Tửu Lâu hàm ý rằng khách có thể vừa uống rượu, vừa ngắm ngọn núi Cô Tô ở xa xa. Còn gần trước mắt chính là mặt nước Thái Hồ mênh mông, được điểm xuyết bằng rất nhiều núi đá có hình thù diễm lệ và kỳ ảo !
Nam Cung Giao lên lầu, bước đến lan can phía Tây, nhận ra Đặng Kiệm chưa có mặt. Chàng bèn ngồi xuống bàn gần đấy, gọi rượu thịt.
Tửu lâu mỗi lúc một đông người, đa số là hào kiệt võ lâm.
Nam Cung Giao không lấy làm lạ, vì lúc còn ở Kim Lăng đã nghe Mã Kim Khu kể về việc Tổng Trấn Quân Vụ Tích Giang hiệu triệu khách giang hồ đến giúp mình đương cự bọn hải tặc Phù Tang (Nhật Bản).
Mấy trăm năm qua, bọn giặc lùn luôn là mối hiểm họa của miền duyên hải phía Đông Trung Hoa. Thỉnh thoảng, chúng từ biển khơi tập kích vào đến tận Nam Kinh, quân triều đình phải tốn hao xương máu mới đuổi ra được.
Nhưng vài năm nay, hải tặc Phù Tang liên tiếp bị thất bại bởi lực lượng kiêu dũng, thiện chiến của Tổng trấn quân vụ Tích Giang Vương Trọng Hưng (Tích Giang gồm hai phủ Giang Tô và Chiết Giang).
Vương Tổng Trấn chính là đương kim Minh Chủ, quê ở Thượng Hải, được Minh Đế đặc cách phong quan tước giao nhiệm vụ đối phó với giặc Phù Tang !
Tuy ông đã từ nhiệm nhưng vẫn được võ lâm kính trọng. Cả hai phe Hắc Bạch đều lũ lượt kéo đến giúp đỡ.
Trong vòng ba năm, nhờ những cao thủ này mà Vương Tổng Trấn đã sáu lần tiêu diệt quân thù, bảo vệ được sinh mạng và tài sản của lê thứ.
Bọn hải tặc Phù Tang có rất nhiều tay kiếm giỏi, nhưng gặp phải cao thủ Trung Nguyên đành chịu thất bại.
Sáu tháng nay, tình hình ven biển đã yên bình, các hào kiệt dưới trướng họ Vương được phép giải ngũ. Họ về Tô Châu nghỉ ngơi, hưởng lạc. Khi còn trong quân ngũ thì bị ràng buộc bởi quân pháp, ai cũng một lòng chống giặc. Nhưng giờ đây, bản chất anh hùng cá nhân của đám hào khách có dịp biểu lộ. Chính tà lưỡng lập, tuy không đến nỗi chém giết nhau nhưng mỗi nhóm đều ngồi riêng !
Nam Cung Giao thích thú ngắm nhìn các võ sĩ Trung Hoa. Họ rất đa dạng gồm nhiều thành phần, xuất thân từ các địa phương, các môn phái khác nhau. Hầu hết đều ở lứa tuổi từ hai mươi lăm đến bốn mươi , vẻ cao ngạo, đắc ý hiện rõ trên dung mạo của những bậc anh hùng này. Họ tự hào vì đã có công lao với xã tắc nên nói cười sang sảng, kể lể những chiến công oanh liệt !
Bàn của Đặng Kiệm không có ghế nên chẳng xâm phạm. Do vậy, người khách vừa lên ngơ ngác nhìn quanh rồi tiến đến những bàn có ít người, xin được ngồi chung. Nhưng có lẽ do bộ dạng của hắn không gây được thiện cảm nên bị những bậc anh hùng kia lạnh lùng từ chối !
Vị khách này là một chàng trai tuổi đôi mười, võ phục bằng vải thô màu đen cũ kỹ, có đôi chỗ vá, lại rộng thùng thình cứ như là đi mượn hay trộm cắp của ai. Hắn lại thọt chân, bước đi khập khiễng, đầu tóc thì chẳng gọn gàng, vài trăm sợi ngắn dài phủ lòa xòa trên gương mặt rám nắng. Đôi môi hắn gọn gàng, nhưng lại lệch một bên, và trên cặp mắt to đen linh lợi kia là cặp chân mày cao thấp chẳng đều.
Chàng trai áo đen tội nghiệp ấy vẫn mỉm cười dù bị khinh rẻ. Hắn đã đến bàn của Nam Cung Giao, không mở lời hỏi xin chỉ nhìn chàng bằng ánh mắt vui vẻ !
Nam Cung Giao đưa tay :
- Mời huynh đài ngồi chung với tại hạ cho vui ?
Chàng áo đen cười rạng rỡ :
- Huynh đài có lời mời dùng bữa, tiểu đệ vô vàn cảm kích !
Nam Cung Giao phát hiện đối phương có hàm răng trắng đều rất đẹp, và chàng cũng hiểu ẩn ý của gã. Chàng chỉ cho phép ngồi cùng bàn nhưng gã lại gài chàng phải đãi ăn.
Nam Cung Giao tủm tỉm cười :
- Các hạ quả là người nhanh nhẩu ? Xin cứ tùy tiện gọi thức ăn, tạ hạ sẽ chiêu đãi !
Hán tử hớn hở an tọa, mở thực đơn ra gọi liền một lúc sáu món thượng hạng và một, vò rượu Thiệu Hưng năm mươi năm. Gã nheo mắt bảo khổ chủ :
- Tiểu đệ là người biết lễ nên chỉ gọi bấy nhiêu thôi !
Nam Cung Giao vẫn điềm nhiên :
- Nếu thích, các hạ có thể chọn thêm vài món nữa !
Chàng trai áo đen hơi ngỡ ngàng, liếc nhìn rõ bộ võ phục vải thô trên người nạn nhân băn khoăn nói:
- Huynh đài không bỡn tiểu đệ đấy chứ ? Trông lại huynh đâu hơn gì tiểu đệ ?
Nam Cung Giao gật gù :
- Đúng thế ! Nhưng cùng lắm thì ta và các hạ ở lại đây làm công cho tửu lâu mà trừ nợ !
Nhìn ánh mắt hoài nghi, tinh minh của chàng, hán tử áo đen biết ngay chàng nói đùa. Hắn phì cười :
- Té ra huynh đài cũng biết bỡn cợt người ?
Hắn yên tâm cao giọng ra lệnh cho tiểu nhị :
- Ngoài sáu món vừa rồi, ngươi nhớ bưng thêm món tráng miệng nữa nhé !
Rồi hắn quay lại tự giới thiệu :
- Tiểu đệ là Mộc Kính Thanh hai mươi tuổi quê ở Chiết Giang, dám hỏi đại danh của huynh đài ?
Nam Cung Giao xưng tên tuổi, quê quán, Mộc Kính Thanh nhăn nhó nói :
- Tiểu đệ nhỏ hơn hai tuổi xin nhận phận em! Để mừng buổi tương phùng, tiểu đệ xin kính đại ca một chung !
Nam Cung Giao tính tình phóng khoáng, đại lượng, dù bị ai chơi gác cũng chẳng hề giận. Chàng vui vẻ cùng Kính Thanh ăn uống lại còn khen gã khéo chọn thực đơn! Thái độ của chàng đã khiến Kính Thanh lấy làm lạ và rất khâm phục.
Gã cảm động nói :
- Tiểu đệ quả may mắn khi được làm em của Nam Cung đại ca !
Chàng cười khà khà :
- Ngươi đừng tưởng bở, nếu sau này ngươi phạm lỗi thì đại ca sẽ phát vào mông đấy !
Kính Thanh thoáng giật mình, chụp chung rượu ngửa cổ uống cạn !
Vài khắc sau bọn tiểu nhị tíu tít mang ghế ra sắp quanh bàn của Đặng Kiệm, chứng tỏ lão đã tới.
Họ Đặng đi cùng với một lão già áo gấm béo phệ, mặt vênh váo ra vẻ quan quyền. Theo sau là hai gã vệ sĩ to như hộ pháp sắc điệu dữ dằng. Hai gã này không được phép ngồi, đứng hầu như pho tượng.
Nam Cung Giao nhận ra Đặng Kiệm nhờ nốt ruồi son trên sóng mũi.
Chàng chăm chú quan sát vị biểu huynh của mình, lòng thoáng ái ngại.
Đặng Kiệm khá anh tuấn, người dong dỏng cao, râu thưa, tóc đen nhánh, mắt sáng, thường liếc nhanh.
Nam Cung Giao không thích cái cảnh Đặng Kiệm đi đâu cũng mang theo hộ vệ một cách trưởng giả như vậy !
Nhưng Mộc Kính Thanh đã hạ giọng nhận xét :
- Đại ca ! Lão già cao gầy kia có tướng mạo của một kẻ gian tham, phản trắc !
Nam Cung Giao giật mình :
- Sao hiền đệ lại dám khẳng định như vậy ?
Kính Thanh mỉm cười tự hào :
- Tiểu đệ được chân truyền khoa Ma y thần tướng của gia phụ, chưa hề nhìn lầm người !
Nam Cung Giao bán tín bán nghi, tự nhủ sẽ dò hỏi cho kỹ rồi mới tiếp xúc với Đặng Kiệm ! Chàng giễu cợt Kính Thành :
- Sao ngươi không trổ tài xem tướng rồi hãy tìm chỗ ngồi mà cứ phải đi lòng vòng như ăn mày vậy ?
Kính Thanh gượng cười :
- Thiện ác thì dễ phân biệt nhưng tật bủn xin thì tiểu đệ chẳng thể nhìn ra !
Hai người thù tạc thêm nửa canh giờ thì bọn Đặng Kiệm rời quán. Có lẽ họ đến đây để bàn bạc chuyện gì đó chứ chẳng phải là uống rượu ngắm cảnh.
Nam Cung Giao cũng muốn trở về khách điếm, định từ giả Kính Thanh thì phát hiện gã đang nhìn về phía thang lầu với ánh mắt sợ hãi.
Chàng nhìn theo, thấy một lão già to béo, râu tóc hoa râm, mặt vàng võ và võ phục cũng toàn một màu vàng rực rỡ!
Sau lưng lão còn có hai hán tứ áo trắng tuổi tam tuần, sắc diện cũng vàng vàng trông rất giả tạo và quái dị.
Mộc Kính Thanh thớ dài nói nhỏ :
- Đại ca ! Kẻ thù của tiểu đệ đã tìm đến, cái mạng thỏ bé này e khó bảo toàn ! Xin cảm tạ thịnh tình của đại ca, kiếp sau sẽ báo đền !
Nam Cung Giao nhíu mày :
- Họ là cao nhân phương nào vậy ? Và vì sao ngươi lại kết oán thù với họ?
Mộc Kính Thanh rầu rĩ đáp :
- Nam Diện Cung ở Từ Châu quen thói ỷ thế hiếp người. Bảy tháng trước tiểu đệ vì cứu một dân nữ nên va chạm với gã Thiếu Cung chủ Tiền Thanh Giám. Tiểu đệ đâm thủng bụng dưới của gã dâm tặc nên bị Kim Diện Cung truy sát.
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Sao ngươi không hạ thủ thấp xuống nửa gang để gã đổi tên thành Tiền Thái giám cho xong ?
Mộc Kính Thanh có nước da rám nắng nên không biểu hiện được sự hổ thẹn, nhưng đôi mắt to đen của gã thì chẳng giấu nổi ai. Gã nhăn nhó :
- Tiểu đệ đang gặp nguy mà đại ca còn bỡn cợt được ư ?
Lúc này, Hoàng Y lão Giả đã phát hiện ra Mộc Kính Thanh, liền bước đến.
Nam Cung Giao nói nhanh:
- Ta sẽ giúp Thanh đệ một tay. Nhưng nếu địch không lại thì phải bỏ chạy ngay !
Kính Thanh không ngờ Nam Cung Giao lại dám vì mối tình sơ ngộ mà động chạm đến một đối thủ đáng sợ như Kim Diện Cung !
Gã bật cười :
- Đại ca đã chí tình như vậy thì tiểu đệ chẳng thèm chết nữa !
Lúc này, lão áo vàng đã đứng cách bàn một trượng, cất giọng âm trầm :
- Mộc tiểu tử ! Người của Kim Diện Cung đã vây chặt nơi này, ngươi đừng mong tẩu thoát ! Hãy khôn hồn mà bó tay chịu trói !
Mộc Kính Thanh phá lên cười hăng hắc :
- Kim Diện Cung dung dưỡng cho đệ tử ức hiếp lương dân, bị bổn thiếu hiệp trừng trị là thích đáng lắm rồi, sao còn đến đây diệu võ dương oai ? Ta là tùy tướng của Tổng Trấn Quân vụ
Tích Giang, cùng các bậc anh hùng hảo hán đây dầy công hạng mã tiêu diệt giặc Phù Tang , ai dám đụng vào là có ý làm phản đấy !
Các hào khách võ lâm nghe họ Mộc tán tụng mình là anh hùng, khoan khoái ưỡn ngực, nhìn bọn Kim Diện Cung với ánh mắt đe dọa.
Dù họ không ưa gì Mộc Kính Thanh nhưng dẫu sao mấy tháng qua cũng từng cùng tham chiến đấu !
Lão già áo vàng chính là Hộ Cung Đệ Tam Kiếm Sứ, tên gọi Tưởng Phi Diên . Thấy Mộc Kính Thanh được sự đồng tình của nhiều người, họ Tưởng hơi chột dạ.
Lão nham hiểm nói :
- Đã làm thì phải có gan chịu, sao lại kéo người khác vào đỡ đòn ? Nay ngươi đã giải ngũ, lão phu sợ gì mà không dám hỏi tội ? Còn ai muốn kết oán với Kim Diện Cung thì lão phu chẳng dám ngăn cản !
Thanh danh Kim Diện Cung lừng lẫy võ lâm hơn chục năm nay nên quả là ít có ai muốn chuốc họa vào thân ! Hơn nữa, Tưởng Phi Diên còn vòng tay nói với quần hào :
- Kính cáo chư vị anh hùng ! Rằm tháng này, bổn cung sẽ mở lôi đài tuyển lựa người tài đức để sánh duyên với Thần nữ Kim Diện Cung là Tiểu thư Tiền Vân Mi. Lão phu thay mặt bổn cung, mời chư vị thiếu hiệp đến tham dự !
Tiền Vân Mi là tuyệt thế mỹ nhân , tuổi đôi mươi được đám hào kiệt võ lâm tôn thờ khao khát. Nay nghe tin nàng kén chồng, ai nấy hớn hở nói cười quay sang ủng hộ Kim Diện Cung, cứ như mình đã thành rể đông sàng vậy !
Một hán tử cao to lên tiếng :
- Này tiểu tử họ Mộc ! Ngươi mau bó giáp qui hàng để Tưởng tiền bối còn phải về cung chuẩn bị lôi đài nữa !
Mộc Kính Thanh không ngờ gậy ông đập lưng ông, hậm bực đáp :
- Hạng tôm tép như Hồ Nhị ngươi mà cũng mơ tưởng làm chồng Tiền Vân Mi hay sao mà lại vuốt mông Kim Diện Cung ? Trong phòng the thì cái lỗ mũi to tướng, xấu xí của ngươi sẽ dùng được vào việc gì ?
Hán tử họ Hồ kia quả đúng là có cái mũi to quá khổ, đỏ như chu sa, đầy những gân máu vì rượu chè. Miệng lưỡi của Mộc Kính Thanh sắc bén và độc ác luôn đánh thẳng vào nhược điểm của kẻ khác.
Quần hào phá lên cười, và có người bật thốt :
- Để ngửi trung tiện của mỹ nhân chớ để làm gì !
Hồ Nhị thẹn chín người, bị nhấn chìm trong trận bão cười làm cung chuyển tửu lâu !
Hộ Cung Kiếm Sứ Tưởng Phi Diên bực bội nói :
- Mộc Kính Thanh ! Mau đứng lên theo lão phu về Kim Diện cung chịu tội !
Lão và hai thủ hạ rút kiếm thị uy !
Bỗng Nam Cung Giao cao giọng gọi :
- Tiểu nhị đâu ?
Gã hầu sáng vội chạy đến.
Chàng chỉ Tưởng Phi Diên và nói :
- Ta ăn chưa xong mà bị phá đám, vậy người hãy tính tiền bàn này cho lão !
Gã tiểu nhị bói rối nhìn họ Tưởng, chẳng biết làm sao. Trong đám quần hào cũng có những người không ưa gì Kim Diện Cung, hoặc biết chắc mình chẳng thể trở thành phu quân của Thần Nữ, nên chẳng đứng về phe nào cả ! Họ vui vẻ đưa Tưởng Phi Diên vào thế kẹt !
- Đúng vậy ! Trời đánh còn tránh bữa ăn, Kim Diện Cung phải
thanh toán tiền cho tửu lâu, chẳng lẻ vài lượng bạc cũng chẳng có ?
Tưởng Phi Diên giận run người, sắc mặt càng vàng thêm. Lão hậm hực hỏi tiểu nhị :
- Bao nhiêu ?
Gã nhẩm tính rồi cung kính đáp :
- Bẩm lão gia năm mươi sáu lượng !
Họ Tưởng giẫy nẩy :
- Làm quái gì mà nhiều thế ?
Gã tiểu nhị gải đầu, mỉm cười cầu tài :
- Bẩm lão gia ! Họ gọi toàn món đắt tiền nhất của bổn điếm ! Riêng vò rượu Thiệu Hưng năm chục năm này cũng đã trị giá đến mười hai lượng !
Có ai đó khích bác :
- Chưa đến sáu chục lượng mà đã sợ xem ra Kim Diện Cung cũng chẳng giàu có gì !
Tưởng lão hậm hực móc hầu bao trả đủ số, rồi nhìn Nam Cung Giao bằng cặp mắt oán hận :
- Ngươi dám hí lộng lão phu là không còn muốn sống nữa rồi !
Nam Cung Giao tủm tỉm nói :
- Cảm tạ lão trượng đã chiêu đãi anh em tại hạ xin cáo từ !
Vừa dứt lời, chàng và Mộc Kính Thanh tung mình qua lan can, rơi thẳng xuống vườn hoa.
Có đến mười gã môn đồ của Kim Diện Cung chờ sẳn, vung kiếm tấn công hai kẻ đào tẩu.
Mộc Kính Thanh đã rút cây nhuyễn tiên dài nửa trượng quanh lưng ra, mũi roi như đầu độc xà mổ nhanh vào ngực, bụng hai gã áo trắng trước mặt. Bọn này đều thuộc đội Bạch Y, cận vệ của Kim Diện Cung, kiếm thuật rất cao cường, tính tình tàn độc nổi tiếng giang hồ. Đấu pháp của họ lại cực kỳ hung hãn và liều lĩnh nên đã vô hiệu hóa đước đường roi của Mộc Kính Thanh. Nếu gã đả thương đối phương thì bản thân cũng khó mà lành lặn.
Nhưng Nam Cung Giao không có cái tâm mềm yếu như họ Mộc, chàng múa kiếm tấn công như vũ bão, đánh bạt vũ khí đối phương, trong chớp mắt đã phá thủng vòng vây, mở đường cùng Kính Thanh chạy đến cuối vườn, nhẩy qua tường vây , hòa với dòng người trên đường.
Tưởng Phi Diên đã xuống đến, đuổi theo và thất vọng quay lại mắng mỏ thủ hạ :
- Bọn ngươi quả là vô tích sự, mười người mà không ngăn nổi hai gã nhãi ranh kia !
Một gã nhăn mặt biện bạch :
- Bẩm Hộ Cung ! Tên Họ Mộc thì không đáng kể nhưng gã áo lam kia có chiến thuật cao siêu và công lực vô cùng thâm hậu. Bọn thuộc hạ chạm vào kiếm của gã đều bị rách hổ khẩu. May mà gã chẳng có ý giết người, nếu không thì !
Tưởng Phi Diên giật mình :
- Lạ thực! Tuổi gã ấy chỉ độ đôi mươi, sao lại có bản lãnh đáng sợ như vậy ? Lão phu phải về cung bẩm báo và xin thêm cao thủ mới được.
Kim Diện Cung rút quân, còn quần hào trở lại chỗ ngồi, xôn xao bàn tán về chàng trai lạ mặt.
Họ không biết tên, nên Nam Cung Giao vẫn chẳng thể nổi tiếng được !
Lúc này, Mộc Kính Thanh và Nam Cung Giao đang giã từ nhau trước cửa khách điếm.
Họ Mộc cười hì hì :
- May mà đại ca thần dũng tuyệt luân nên anh em ta mới thoát chết ! Ơn này tiểu đệ chẳng dám quên, giờ xin cáo biệt ! Sáng mai, tiểu đệ sẽ đến dây cùng đại ca dùng điểm tâm !
Nam Cung Giao quyết định hạ thủ Mạc Tôn Long trong đêm nay nên không giữ Kính Thanh ở lại . Chàng gật đầu, móc hầu bao đưa cho gã ba tờ tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao, trị giá ba trăm lượng bạch ngân và nói :
- Làm huynh trưởng, ta chẳng thể để ngươi thiếu thốn được. Hãy cầm lấy số bạc này mà tiêu xài !
Kính Thanh cảm động nhận lấy rồi nhấp nháy đôi mắt tinh ranh :
- Phải chăng đại ca đưa bạc ra để dũ bỏ đứa em xấu xí, tội nghiệp này ?
Quả thực, Nam Cung Giao có ý ấy ! Chàng không muốn Kính Thanh đi theo mình và bị liên lụy. Tội giết mệnh quan của triều đình không phải là nhỏ.
Bị nói trúng tim đen chàng hết lòng khâm phục cơ trí của Kính Thanh, cao hứng phát mạnh vào mông :
- Tiểu quỉ ngươi quả là thông tuệ ! Ta đã chán ngán ngươi lắm rồi !
Kính Thanh nhăn nhó xoa mông, ấp úng trách móc :
- Đại ca kỳ quá !
Nam Cung Giao cười khà khà bỏ đi vào lữ quán của mình.
Mộc Kính Thanh đứng tần ngần một lúc, chợt mỉm cười rồi đi về hướng khác.
Đầu canh ba, Nam Cung Giao đã có mặt trên mái ngói dinh Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long.
Tư gia của họ Mạc chỉ cách phủ đường và doanh trại quân triều đình chừng nửa dặm. Do đó, việc hạ sát Mạc Tri phủ là cực kỳ mạo hiểm, nếu bị lộ, quan quân mà đến bao vây, chàng khó mà thoát nỗi.
Đông đã về, tuy tuyết chưa rơi nhưng tiết trời lạnh giá.
Nam Cung Giao đã khoác thêm áo lông cừu đen, vừa chống lạnh, vừa ngụy trang cho cơ thể to lớn thêm ra. Tất nhiên, chàng đã chụp túi vải đen trên đầu, để che dấu dung mạo lẫn tuổi tác. Đối phương không nhận thấy tóc sẽ khó mà đoán được !
Theo Vương pháp thì mệnh quan mỗi địa phương phải cư trú ngay trong huyện đường, hay phủ đường, để kịp thời đối phó với những biến cố dù ngày hoặc đêm. Nhưng thực ra, bọn tham quan đều có cơ ngơi riêng đầy đủ tiện nghi, khi phải chuyển nhiệm sở họ dễ dàng bán lãi với giá cao.
Mạc Tôn Long cũng là một tên tham quan, lại may mắn trị nhậm vùng đất thịnh vượng giàu có là Giang Tô nên bòn mót được một tài sản rất lớn. Nhà riêng của lão chẳng phải chỉ một căn năm ba gian , mà là cả một trang viện đồ sộ, có đến mấy chục phòng, chưa kể những tòa nhà tiểu viện nằm giữa vườn hoa rộng.
Nam Cung Giao bối rối, không biết kẻ thù cư ngụ ở đâu mà tìm đến, đành phải giở hạ sách là bắt một người mà tra hỏi.
Nhưng có lẽ cái chết của Nam Kinh Binh Bộ Thượng Thư Quách Tường An đã khiến bọn tham quan chột dạ, nên Mạc Gia trang được canh phòng rất nghiêm mật. Bọn vệ binh đi tuần tra liên tục và họp thành nhóm chứ không đi lẻ.
Nam Cung Giao chuyển nhanh trên mái ngói, cố tìm một con mồi.
Trời lạnh, ai cũng đóng chặt cửa phòng, quấn mền ngủ say như chết, dẫu có tiêu tiểu cũng xả vào bô chứ chẳng ra ngoài.
Nam Cung Giao lần mò một lúc lâu, chán nản định quay về khách điếm thì phát hiện căn nhà kho ở cạnh vườn hoa phía sau bốc cháy ngùn ngụt.
Đấy là nơi chứa dụng cụ làm vườn, mái lợp ngói nhưng vách bằng gỗ, nhà kho còn tiếp giáp với bếp và vài công trình nữa.
Lửa cháy rất mạnh, dường như có người tưới dầu rồi phóng hỏa.
Tiếng báo cháy vang dội đêm trường tĩnh mịch, người trong Mạc Gia trang kéo đến dập lửa.
Ánh sáng từ đám cháy đã giúp Nam Cung Giao nhận ra một bóng đen đã vượt tường phía sau đào tẩu.
Chàng thở dài rủa thầm trong bụng rằng mình xui xẻo, đến đây đúng lúc Mạc Tôn Long bị trộm viếng nhà, không chừng còn mang họa thay cho tên đạo chích !
Nhưng chàng cũng tự hỏi vì sao gã kia lại phải phóng hỏa rồi mới thoát ra ? Gã vác một bọc lớn trên vai tức là đã đắc thủ, đâu cần đánh động khổ chủ làm gì ?
Mạc Tôn Long đã xuất hiện, y phục xốc xếch, cao giọng đốc thúc bọn vệ binh và gia đinh chữa cháy.
Tuy lão đã già hơn xưa hai mươi mấy tuổi nhưng Nam Cung Giao vẫn nhận ra những nét quen thuộc. Mẫu thân chàng là bậc tài hoa, đã vẽ lại dung mạo lẫn thần khí của từng kẻ thù. Hơn nữa, qua những lời xưng hô, đối thoại của lão già râu ba chòm đạo mạo kia với bọn thủ hạ, chàng có thể đoán chắc được lai lịch !
Nam Cung Giao hiểu ngay rằng đây là cơ hội hiếm có để chàng hạ sát lão họ Mạc, liền nhẩy xuống đất, tìm chỗ thuận tiện mà ẩn thân, rồi bất ngờ điểm ngã một tên vệ binh. Chàng chụp lấy chiếc nón lá dứa của gã lên đầu mình xách thùng nước chạy đến đám cháy.
Trong cảnh hỗn loạn, ánh sáng nhá nhem chập chờn này, chẳng ai để ý đến việc có gã vệ binh lại mặc áo lông cừu đen, tay cầm kiếm chứ chẳng phải đao.
Nam Cung Giao nhẹ nhàng tiến đến sau lưng Mạc Tri Phủ, vung cước đá thẳng vào hậu tâm kẻ thù.
Tuy xuất thân võ tướng nhưng sau nhiều năm cai trị chỉ lo hưởng lạc, bỏ bê việc rèn luyện, nên Mạc Tôn Long không thể phát hiện được tai họa.
Thân hình lão văng xa hai trượng rơi xuống mãnh sân gạch của căn nhà kho đang cháy.
Tiếng rú thảm khốc của lão đã khiến bọn gia đinh choáng váng, lao đến cứu ra khỏi vùng lửa nóng hừng hực. Do tư thế lúc văng đi, có người còn tưởng quan Tri phủ dũng cảm phi phàm, đã vận thành công nhẩy vào tận hỏa trường để làm gương cho thủ hạ, không may trượt chân té ngã !
Nam Cung Giao đã nhanh chân lẩn mất, an toàn thoát ra. Chàng tin chắc Mạc Tôn Long không thể sống sót được !
Pho quyền pháp tổ truyền của họ Nam Cung rất chú trọng đến những đòn chân, và chàng đã luyện đến mức có thể đá gẩy thân cây đường kính một gang !
Sáng ra, Nam Cung Giao vừa vệ sinh xong thì có tiếng gọi cửa :
- Nam Cung đại ca ! Tiểu đệ đến dùng điểm tâm với đại ca đây !
Biết khách là tiểu tử thọt chân, miệng méo Mộc Kính Thanh, chàng mỉm cười bước ra mở cửa !
Kính Thanh vào phòng ngồi phịch xuống chiếc đôn sứ cạnh bàn, vui vẻ nói :
- Đêm qua cường đạo đột nhập Mạc Gia trang, giết chết quan Tri phủ, vét sạch tủ vàng bạc và còn phóng hỏa đốt nhà. Sáng nay, quan quân đã phong tỏa cửa thành, cho lục soát khắp nơi để tìm hung thủ. Không sớm thì muộn, chúng cũng mò đến đây !
Nam Cung Giao chau mày :
- Ngươi có biết cửa thành sẽ bị phong tỏa mấy ngày không ? Ta đang muốn rời khỏi chốn này !
Mộc Kính Thanh đáp :
- Ngoài vô thì được nhưng ở trong ra sẽ bị khám xét gắt gao !
Nam Cung Giao thở phào :
- Thế thì không sao ! Ta đâu có mang theo tang vật !
Kính Thanh mỉm cười bí ẩn :
- Vậy Đại ca cứ soạn sẵn hành lý, lát nữa ăn uống xong chúng ta sẽ cùng đi.
Nam Cung Giao mở tủ gỗ thu xếp y phục, chợt phát hiện một bọc vải khá lớn. Chàng kinh hãi mở ra xem, chết điếng người khi thấy toàn là vàng ngọc, số lượng nhiều gấp bốn năm lần số của cải mà chàng đã lấy của Binh Bộ Thượng Thư Quách Tường An !
Nhớ đến vóc dáng nhỏ nhắn của tên đạo chích đêm qua, chàng thức ngộ ngay vai trò của Mộc Kính Thanh.
Nam Cung Giao hít một hơi dài trấn tĩnh, cầm kiếm quay trở ra . Chàng quắc mắt nhìn gã thọt, lạnh lùng hỏi :
- Vì sao ngươi lại muốn giá họa cho ta ?
Kính Thanh chẳng hề sợ hãi cười hì hì :
- Đại ca giết người còn tiểu đệ thì cướp của, chẳng xứng đôi lắm sao ?
Đôi mắt Nam Cung Giao bắn ra những tia sát khí, chàng nghiến răng nói :
- Ngươi đã cố tình khám phá bí ẩn của ta, có chết cũng đừng oán hận !
Kính Thanh rùng mình khiếp vía, xua tay nói liến thoắng :
- Đại ca đừng hiểu lầm ! Tiểu đệ thấy đại ca chẳng có chút kinh nghiệm giang hồ mà dám làm chuyện tày trời nên theo để giúp đỡ, chuyện trộm của chỉ là tiện tay mà làm đấy thôi ! Đêm qua, nếu tiểu đệ không đốt nhà kho thì liệu đại ca có giết được kẻ thù hay không ? Tiểu đệ còn phóng hỏa cả kho lương thảo trong doanh trại quân triều đình, nhờ vậy họ mới chậm chân, không đến Mạc Gia trang hổ trợ !
Nam Cung Giao thầm công nhận Kính Thanh có lý ! Chàng đã nhìn thấy ngọn lửa trong khu doanh trại của quân sĩ trấn thủ Tô Châu ! Chàng dịu giọng :
- Đúng là ngươi đã giúp ta ! Nhưng từ nay đường ai nấy bước. Ta không sát nhân diệt khẩu cũng vì câu huynh đệ, ngươi hãy đi đi !
Kính Thanh thản nhiên bấm tay :
- Nam Kinh Binh Bộ Thượng Thư là một, Tri phủ Giang Tô là hai, dám hỏi đại ca còn định giết bao nhiêu vị quan lớn nữa ?
Nam Cung Giao biến sắc, không ngờ Kính Thanh lại suy ra cả việc chàng là hung thủ giết Quách Tường An ! Gã còn sống là bí mật tày đình kia sẽ khó bảo toàn.
Chàng lẩm bẩm :
- Kính Thanh ! Cái đầu thông minh kia đã hại ngươi rồi đấy !
Kinh Thanh đứng phắt dậy, bước đến rầu rĩ nói :
- Đại ca không tin tiểu đệ thì cứ xuất thủ ! Thanh này thực lòng yêu mến, muốn giúp đại ca báo phục thù sâu để đền ơn tri ngộ ! Tiểu đệ tuy yếu đuối nhưng lão luyện giang hồ, dẫu đầm rồng hang hổ cũng coi thường !
Ánh mắt thành thực, thiết tha của gã khiến chàng rúng động, thở dài hỏi lại :
- Ngươi theo ta giết hại mệnh quan của triều đình, không sợ tội tru di hay sao ?
Kính Thanh biết chàng đã mềm lòng, liền cười hăng hắc :
- Tiểu đệ đầu đầy mưu ma chước quỷ hành sự lại chu đáo, thận mật đến mức quỷ thần không hay biết thì còn sợ gì nữa!
Và gã quì ngay xuống lạy chàng tám lạy cất tiếng thề thốt :
- Mộc Kính Thanh tôi xin Hoàng thiên Hậu thổ chứng giám cho tấm lòng thành đối với nghĩa huynh Nam Cung Giao. Tuy chẳng đồng sinh nhưng thề đồng tử, nếu sinh lòng phản trắc sẽ chết chẳng toàn thây !
Nam Cung Giao biết chẳng thể chối từ việc kết nghĩa, cũng quì xuống đáp lễ! Chàng thấy mắt đối phương ướt rượt vì cảm động, cũng nghe nao nao trong dạ, liền ôm đứa em xấu xí, tinh quái và nói :
- Cảm tạ hiền đệ !
Chàng chợt phát hiện đối phương mềm mại như nữ nhân, bèn trách móc :
- Chắc ngươi lười biếng luyện công, suốt ngày lăn lóc chốn kỹ viện nên thân thể mềm nhão, chẳng xứng đáng là bậc trượng phu !
Kính Thanh giãy giụa thoát khỏi vòng tay chàng, cười đáp :
- Đúng là tiểu đệ hơi háo sắc, nhưng việc cơ bắp thiếu rắn chắc, là do Nhuyễn Cốt Tâm Pháp gia truyền. Nếu cứng cáp như đại ca thì làm sao chui lọt qua song cửa nhà người ta được ?
Nam Cung Giao phì cười :
- Công phu đạo chích của ngươi xem ra cũng cao cường, cớ sao lại rỗng túi như vậy ?
Kính Thanh nhơn nhơn đắc ý :
- Tiểu đệ là hiệp đạo, lấy của người giàu cứu tế người nghèo, không nghĩ đến bản thân nên mới túng thiếu !
Nam Cung Giao cau mày :
- Nếu đem tang vật phân phát cho họ chẳng khác gì vu oan giá họa ư ?
Kính Thanh cười nắc nẻ :
- Đại ca quả là khờ khạo ! Đương nhiên là tiểu đệ có chỗ tiêu thụ vàng ngọc, biến nó thành tiền bạc chứ ! Ngay trong thành Tô Châu này cũng có kẻ chuyên tiêu thụ của gian, người thứ nhất là lão Đặng Kiệm, người thứ hai là Hà Tam Nương. Tiểu đệ không tin họ Đặng nên chưa bao giờ giao dịch với lão ta !
Nam Cung Giao giật mình dò hỏi :
- Tư cách họ Đặng thế nào ?
Kính Thanh ra vẻ quan trọng, trợn mắt nói :
- Đặng Kiệm gian xảo như hồ ly, liên kết với bọn quan lại Giang Tô mà làm giàu. Lão vốn là Bang trưởng của người An Nam, song lại bóc lột đồng hương chẳng chút xót thương. Lão trả lương họ rẻ mạt và còn cắt xén ngân quỹ của Bang !
Nam Cung Giao nghe lửa giận bừng lên, cười nhạt hỏi :
- Vì sao ngươi lại biết rõ như vậy ?
Kính Thanh bực bội vì bị nghi ngờ :
- Trong thành này có một xóm nghèo gồm rất nhiều người Giao Châu. Tiểu đệ quen với một phụ nhân bán cháo lòng được bà ta kể cho nghe ! Bà ta rất tốt bụng, mỗi lúc không tiền, tiều đệ thường đến ấy ăn chịu ? Một người như thế thì nói xấu Đặng Kiệm làm gì ?
Nam Cung Giao gật gù :
- Hay lắm ! Ta nghe nói người An Nam nấu cháo lòng heo rất ngon, anh em ta sẽ điểm tâm bằng món ấy !
Kính Thanh tán thành :
- Sẵn dịp, tiểu đệ sẽ mang số châu báu này đi đổi thành ngân phiếu cho tiện !
Nam Cung Giao liền lấy cả số bảo ngọc của mình đưa cho gã.
Kính Thanh cười khanh khách :
- Phải chăng đây là tài sản của lão Quách Thượng Thư ?
Nam Cung Giao tủm tỉm đáp :
- Ta cũng là một hiệp đạo như ngươi vậy !
Hai người tới lữ điếm đi về hướng Đông thành, hơn khắc sau đến một xóm nhỏ nghèo nàn, nhà cửa lụp xụp vật liệu chỉ toàn tre trúc và gỗ lá.
Đường đi ở khu vực này không được lót đá nên gồ ghề, đầy những ổ gà do cơn mưa hạ để lại. Có dăm đứa tiểu đồng đang chơi trò đánh đáo, nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ, pha trộn giữa tiếng Hán và tiếng An Nam !
Nam Cung Giao nghe lòng rộn lên cảm giác ấm cúng, cứ như được về thăm quê mẹ. Đồng thời, vẻ nhếch nhách, rách rưới của lũ trẻ khiến chàng phẫn nộ khi nghĩ đến cảnh giầu sang tột bực của Đặng Kiệm ! Với tài sản kếch sù hiện nay, lão thừa sức tặng cho những đứa bé tội nghiệp kia một chiếc áo bông lành lặn ấp áp !
Thế mà lão lại còn ăn cắp những đồng tiền mồ hôi nước mắt của cha mẹ chúng, hành vi ấy không thể tha thứ được !
Quán cháo lòng của Nguyễn Đại Nương nằm ở giữa xóm, đối diện với giếng nước chung. Cơ ngơi của bà khá khang trang vì mái được lợp ngói, sàn lát gạch nung, vách ván, chung quanh trổ cửa sổ rộng, có lẽ món cháo lòng và bầu rượu đã giúp thực khách chống lạnh nên vẫn mở toang hoác để đón gió Đông.
Trên nền gạch vuông vức mỗi bề hai trượng này bày biện tám chiếc bàn thấp, mỗi bàn có thể ngồi được bốn người.
Nồi cháo đang nghi ngút hơi nóng kia được đặt ngay cạnh cửa ra vào, phía sau là một phụ nữ tuổi trạc năm mươi, mập mạp, phúc hậu.
Nguyễn Đại Nương luôn tươi cười, ngay cả lúc khách bảo rằng mình ăn chịu !
Phụ giúp bà là một lão già chính gốc Hán tộc và một thiếu nữ tuổi đôi chín. Họ là chồng và con gái của Đại Nương !
Thấy Kính Thanh, Đại Nương hớn hở chào :
- Đã hơn tháng nay không thấy thiếu hiệp đến ăn cháo !
Bà chợt khựng lại, nhìn chăm chú chàng trai lạ mặt đi cạnh họ Mộc.
Dường như ở chàng có những nét quen thuộc với bà ?
Kính Thanh cười khanh khách :
- Tại hạ còn thiếu Đại Nương ba mươi bẩy tô cháo và hai mươi tám bình rượu, đành phải đi xa, kiếm bạc về thanh toán !
Nguyễn Đại Nương mỉm cười :
- Có đáng bao nhiêu đâu mà thiếu hiệp phải bận tâm.
Chồng con của Đại Nương cũng lộ vẻ mừng rỡ.
Dương lão trợn mắt nạt :
- Ngươi không đến đây tán gẫu khiến lão phu buồn muốn chết được !
Còn cô gái Dương Tiểu Tĩnh thì đỏ mặt liếc Kính Thanh bằng cặp mắt hân hoan.
Nam Cung Giao cười thầm, tự hỏi gã họ Mộc xấu xí tàn tật này có gì hay ho mà lại được nhiều người yêu mến như vậy ?
Hai người ngồi xuống, sì sụp ăn cháo, và chiêu thêm vài ngụm rượu cho ấm dạ.
Thực khách ở đây có cả người Hán vì đa số các nhà trong xóm đều hình thành bởi cuộc hôn phối giữa hai dân tộc.
Người Trung Hoa có khả năng đồng hóa rất mạnh, song người Giao Châu lại luôn sống chết gìn giữ bản sắc, cho nên đám đàn ông người Hán trong xóm nói tiếng An Nam rất sõi !
Điều này chứng to nữ nhân Giao Chỉ giỏi nghề dạy chồng hơn nữ nhân Trung Hoa !
Chính phe nữ giới của mỗi dân tộc mới thực sự có công lao trong việc luôn giữ nguồn cội ! Họ ru con, dạy con bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, kể cho chúng nghe những câu chuyện cổ tích, nói về các danh nhân, anh hùng trong lịch sử, miêu tả cảnh vật nơi cố quận xa xăm. Do vậy, dù mang hai giòng máu nhưng
những đứa trẻ có mẹ là người Giao Chỉ mãi mãi hướng về phương Nam như loài chim Việt chỉ làm tổ ở cành Nam.
Nam Cung Giao cũng ở trong trường hợp này, nhất là khi chàng có hai ngón chân cái đặc biệt của người Giao Chỉ.
Ăn xong, chàng nhâm nhi hớp rượu gạo, miên man suy nghĩ và buột miệng ngâm :
Hồ mã tê bắc phong
Việt điểu sào nam chi !
Dịch :
Ngựa hồ hí gió bấc
Chim việt ở cành nam !
Bàn chàng gần vị trí nồi cháo nên Nguyễn Đại Nương nghe thấy. Bà tủm tỉm hỏi :
- Thiếu hiệp quê ở đâu mà lại ngâm hai câu thơ ấy ?
Chàng kính cẩn đáp :
- Bẩm Đại Nương I Tại hạ quê ở Cán Châu, Quảng Đông !
Ánh mắt bà chìm xuống, lộ vẻ thất vọng !
Kính Thanh cạn chung, gãi đầu :
- Chết thực ! Tại hạ vì quá mãi ăn cháo nên quên không giới thiệu vị nghĩa huynh của mình với Đại Thúc, Đại Nương. Đây là Nam Cung đại ca tên Giao !
Họ Nam Cung thuộc nòi Hán tộc chính gốc nên Nguyễn Đại Nương chẳng hỏi thêm.
Bỗng từ ngoài có khách mới bước vào. Lão già võ phục đen bạc phếch này tuổi độ sáu mươi, có thân hình vạm vỡ, to ngang, hông đeo đơn đao, tướng mạo rất oai phong. Tóc lão hói trụi chỉ còn ít sợi lưa thưa quanh đầu.
Mắt lão dài nhỏ, mũi lân to và đỏ ứng, miệng rộng để lộ hàm răng trắng nhớn chắc khoẻ !
Lão nhân ngồi xuống bên một bàn trống, cao giọng gọi bằng tiếng An Nam :
- Một tô cháo lòng !
Cả quán ôm bụng cười vang vì họ đều hiểu tiếng Giao Châu.
Lão già hói kia đã phát âm sai chữ lòng thành chữ gì thì chư vị độc giả tự hiểu lấy.
Lão nhân hói đầu bực bội gắt :
- Làm gì mà các ngươi cười hô hố như vậy ? Ở đây bán cháo lòng thì lão phu gọi cháo lòng chứ sao ?
Sự lập đi lập lại âm ngữ gợi cảm kia đã khiến mọi người càng cười nôn ruột.
Đám nữ nhân đỏ mặt tía tai chẳng dám ngẩng lên.
Nguyễn Đại Nương vui vẻ hỏi :
- Không hay lão huynh học tiếng An Nam ở đâu vậy ?
Lão hậm hực đáp :
- Lão phu quen mụ già bán rượu ở cửa Nam thành đã nửa năm nay, cố công học nói tiếng Giao Châu để cưới mụ ta !
Kính Thanh cười hì hì :
- Vậy phải chăng đây là lần đầu tiên các hạ đi ăn cháo lòng ?
Lão nhân gật đầu :
- Đúng thế ! Hôm qua lão phu mới được biết đến danh tiếng của quán cháo này !
Lão ngập ngừng, bẽn lẽn nói tiếp :
- Lão phu nghe nói nới đây có bán chịu, chừng nào trả cũng được phải không ?
Vẻ mặt ngượng ngùng, áy náy của lão trông thật đáng thương, thực khách lại cười ! Thấy tội nghiệp, Nguyễn Đại Nương hiền hòa nói :
- Lão huynh cứ tự nhiên ăn uống, khi nào có tiền thì mang đến trả cho thiếp cũng được !
Lão nhân đầu hói mừng rỡ đáp :
- Thế thì phiền bà chủ cho thêm một bình rượu nhỏ và một dĩa.. lòng.. riêng !
Lão đã ngập ngừng, cố sửa từ lòng cho giống mọi người nhưng không thành công !
Kính Thanh phì cười :
- Chẳng thà lão nói tiếng Hán cho xong, hà tất phải khổ sở như vậy ?
Gã chợt nhớ ra điều gì đó, quay lại hỏi Nam Cung Giao :
- Dường như đại ca cũng biết tiếng An Nam nên mới cười hoài như vậy ?
Nam Cung Giao vội chống chế :
- Ở Cán Châu cũng có người An Nam ! Thuở nhỏ ta chơi với lũ trẻ ấy nên biết được vài từ !
Chỉ nửa khắc sau, lão nhân hói đã ăn sạch tô cháo và dĩa lòng, song vẫn tỏ vẻ thòm thèm, liếc trộm Nguyễn Đại Nương.
Nam Cung Giao thấy vậy cười bảo :
- Các hạ cứ việc ăn uống thỏa thích, tại hạ sẽ chiêu đãi !
Đôi mắt như sưng mọng kìa sáng rực lên. Lão cười khà khà bước sang ngồi với mạnh thường quân, vòng tay nói :
- Tứ hải giai huynh đệ ! Lão phu là Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương, đất Hà Bắc, vui mừng được kết giao với thiếu hiệp !
Kính Thanh lộ vẻ kinh dị :
- Các hạ oai trấn Hà Bắc sao lại lưu lạc, trầm luân ở chốn này ?
Sách Hán Xương phì cười :
- Oai trấn cái khỉ khô gì ! Lão phu bị Hồ Bang truy sát đành phải ẩn thân đất Tô Châu !
Nam Cung Giao nhíu mày hỏi :
- Nghe nói Bang Chủ Hồ Bang là Dạ Hồ Sài Tốn đã bị giết ở Nam Kinh chẳng lẻ Bang hội ấy vẫn còn cao thủ lợi hại ?
Cuồng Vũ lão nghiêm giọng :
- Sài Tốn chỉ có hư vị mà thôi ! Sau lưng lão là Hồ Ly Song Tiên đại ma đầu khét tiếng võ lâm, võ công cực kỳ lợi hại !
Lão phu nghe bằng hữu từ phương Bắc xuống kể rằng đương kim Bang Chủ là Sài Tuấn, con trai của Dạ Hồ! Gã này được Song Tiên yêu mến, cho uống kỳ trân dị dược nên bản lãnh còn cao siêu hơn cả cha là Sài Tốn ! Hiện nay, Hồ Bang đã dời trọng địa về núi Trịnh Sơn ở phía Nam Hoàng Hà, cách
Trịnh Châu trăm dặm về hướng Đông Nam!
Thực khách thưa dần, rốt cuộc chỉ còn lại bàn của Nam Cung Giao.
Nguyễn Đại Nương đích thân bưng đến tặng một dĩa tim gan. Bà nhìn chàng bằng ánh mắt nhu hòa mà nói :
- Dung mạo Nam Cung thiếu hiệp rất giống một người quen cũ của tiện phụ khiến lòng này bùi ngùi nhớ lại chuyện xưa !
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Chẳng hay người quen cũ của Đại Nương là ai vậy ?
Nguyễn Đại Nương hạ giọng :
- Hai mươi mấy năm trước, tiện phụ là nữ binh dưới trướng An Nam nữ tướng quân Đặng Trinh Tâm ! Tiếc rằng Đặng Tiểu thư đã trầm mình giữa biển, nếu không tiện phụ sẽ cho rằng thiếu hiệp là con của bà ấy !
Kính Thanh thoáng giật mình, hỏi một câu là lạ :
- Nguyễn Đại Nương ! Phải chăng Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long ngày xưa đã từng có mặt trong đoàn quân chinh phạt An Nam ?
Nguyễn Đại Nương đanh mặt đáp :
- Đúng vậy ! Lão ta còn là người áp giải tù binh về Trung Hoa. Trên đường đi, Mạc Tôn Long cùng một số võ quan nữa đã cưỡng hiếp khắp lượt các nữ tù nhân, và hành hạ vua quan An Nam. Đặng Tiểu thư chết cũng vì không chịu ô uế tấm thân bởi bọn chó má ấy !
Kính Thanh nghe xong vỗ đùi lẩm bẩm :
- Ta đã hiểu rồi !
Nam Cung Giao biết gã thông tuệ tuyệt luân, đã đoán ra lai lịch mình.
Chàng vội hắng giọng để cảnh cáo gã chớ tiết lộ !
Kính Thanh cười đắc ý, nói lảng sang chuyện khác.
Khi biết Nguyễn Đại Nương là thủ hạ của mẹ mình, Nam Cung Giao hiểu rằng bà đã nói thực về nhân chính của Đặng Kiệm.
Chàng thề sẽ trừng phạt lão Việt gian kia, trả lại đạo công bằng cho những người đồng hương khốn khổ !
Nhưng trước tiên, chàng phải giúp đỡ lão Cuồng Vũ Đao tội nghiệp này cái đã !
Nam Cung Giao lấy ra tờ ngân phiếu năm trăm lượng bạc, đặt xuống trước mắt Sách Hán Xương, từ tốn nói :
- Mong tiền bối vì tình đồng đạo mà hạ cố nhận số bạc mọn này . Khi nào thiếu thốn, tại hạ sẽ đến hỏi xin lại !
Sách Hán Xương ngơ ngẩn nhìn con số ngũ bách lượng, bối rối đáp :
- Lão phu tứ cố vô thân, nghề ngỗng chẳng có, dẫu được số bạc này chắc cũng không xài được bao lâu. Hay là thiếu hiệp cho phép lão phu được tháp tùng kiếm cơm qua ngày ?
Mộc Kính Thanh cướp lời huynh trưởng, cười hăng hắc :
- Sách lão quả là khôn ngoan ! Đại ca ta là người trọng nghĩa khinh tài, tất sẽ lấy lễ quốc sĩ mà đối xử với lão ! Đừng nói no cơm ấm áo, mà phải là bạc vàng rủng rẻn, oai danh lừng lẫy võ lâm !
Sách Hán Xương mở cờ trong bụng, nhưng vẫn cố giữ tư cách, trịnh trọng nói :
- Lão phu sẽ đem pho Cuồng Vũ đao pháp truyền lại cho Nam Cung thiếu hiệp để đền ơn tri ngộ !
Kính Thanh cười sằng sặc :
- Lão tưởng võ công của mình hơn được đại ca ta ư ?
Đêm xuống, có ba bóng đen áp sát tường vây Đặng gia trang.
Họ vượt tường, một ẩn lại nơi vườn hoa, hai đi tiếp vào sâu bên trong.
Sau vụ án giết người cướp của ở dinh Mạc Tri phủ, các nhà đại phú thành Tô Châu rất sợ hãi, cho gia đinh canh phòng cẩn mật.
Đặng Kiệm giàu nhứt Tô Châu, có tình thâm giao với quan lại địa phương, nên đã được Tổng Binh cho quân sĩ tuần tra vòng ngoài Đặng gia trang.
Bên trong, bầy hổ ngao tám con cũng được thả cửa để cảnh giới.
Từ thời nhà Nguyên, việc giao dịch buôn bán của Trung Hoa với các nước phương Tây đã rất phồn thịnh.
Hàng hóa, vật dụng của Hà Lan, Bồ Đào Nha... rất được bọn nhà giàu ưa chuộng, kể cả chó, mèo .
Chó Tây Dương to lớn, hung dữ, hình dạng giống loài sói, ít sủa mà chỉ âm thầm tấn công kẻ đột nhập.
Nhưng chó nào cũng là chó, và đều thích ăn ngon !
Mộc Kính Thanh là cao thủ thượng thừa trong nghề đạo chích đã chuẩn bị sẵn những miếng thịt bò tẩm thuốc, loại thuốc đặc biệt này có mùi vị rất hấp dẫn và chỉ khiến cho lũ Tây khuyễn rơi vào trạng thái lơ mơ, lười biếng.
Bề ngoài, trông chúng vẫn bình thường, vẫn đi lại được nhưng thực ra, dẫu có ai đá vào mõm, chúng cũng chẳng thèm phẫn nộ.
Do thế, dám gia đinh chỉ chửi lũ chó Tây vô dụng chứ không biết rằng chúng đã bị hạ thủ !
Có tật giật mình, Đặng Kiệm không tốt với đồng hương nên chẳng dám tin tưởng họ. Đám gia đinh trong nhà lão toàn là đám con cháu nghèo bên vợ, công nhân An Nam thì làm việc ở kho xưởng, cách xa Đặng gia trang !
Đêm cuối tháng không trăng nên mới giữa canh hai mà Kính Thanh đã dám đưa Nam Cung Giao đến mục tiêu.
Đây chính là đạo lý cao siêu của nghề trộm cắp, vì lúc này còn nhiều người chưa ngủ, sinh hoạt ồn ào nên tinh thần cảnh giác lơi lỏng. Song, chỉ có những kẻ khinh công xuất chúng mới dám lợi dụng sơ hở này.
May thay, dù chẳng phải phi tặc nhưng thân pháp của Nam Cung Giao cũng nhanh nhẹn, êm ái chẳng kém gì Mộc Kính Thanh. Chàng hồi hộp bám theo sát nút, lòng vô cùng thán phục thủ đoạn lão luyện của y !
Hai người lướt đi như cánh dơi đêm, chẳng hề khua động mái ngói dưới chân, cuối cùng, họ đã có mặt trên nóc đại sảnh, nơi mà Đặng Kiệm đang uống trà, trò chuyện với khách !
Họ Đặng nhẫn tâm bóc lột đồng hương tất chẳng thể là người rộng rãi. Nghĩa là lão keo kiệt đến mức vắt cổ chày ra nước ! Dĩ nhiên, lão chẳng dại gì thắp sáng hết cả tòa đại sảnh rộng mênh mông, chỉ cho đốt một ngọn tọa đăng, đặt ngay trên bàn.
Thế là Kính Thanh yên tâm dẫn nghĩa huynh nhẩy xuống đất, núp cạnh cứa sổ mà nghe ngóng, quan sát.
Nhận ra khách là hai lão áo nâu, gầy gầy, mặt xương xẩu, lưỡng quyền cao, còn miệng thì nhọn hoắt, Kính Thanh kinh hãi thì thầm :
- Đại ca ! Không ngờ Đặng Kiệm lại mời cả Địa Thượng Nhị ở đất Phúc Châu đến bảo vệ cho mình. Hai lão này bản lãnh cao cường, khét tiếng tàn ác và dâm đãng. Tám năm qua họ biệt tăm, không ngờ lại xuất hiện ở đây.
Nam Cung Giao kiến văn kém cỏi chẳng biết ai là ai, lại như cừu non không sợ cọp nên thản nhiên cười đáp :
- Nếu bị phát hiện thì ta sẽ cầm chân họ để ngươi đào tẩu ! Dưới đất thì không cần thiên lôi, có lẽ hai lão ấy sẽ vui vẻ về trời nhậm chức !
Kính Thanh lo lắng khuyên can :
- Đại ca đừng quá tự tôn mà uổng mạng. Võ công mỗi người trong Nhị Lôi đàn đều tương đương với Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương . Khi hai anh em họ liên thủ thì càng bội phần lợi hại. Ngay Minh Chủ võ lâm là Tổng Trấn Vương Trung Hưng còn không làm gì được !
Nghe giọng khẩn thiết, đầy vẻ quan hoài, Nam Cung Giao cảm động :
- Thanh đệ đừng lo ! Ta sẽ đào tẩu ngay khi thấy nguy, chứ chẳng dại mà liều lĩnh làm gì !
Bỗng trong kia, Đặng Kiệm phấn khởi cao giọng :
- Tứ Hải Hội mau mắn đáp ứng lời thĩnh cầu của lão phu, cử nhị vị hộ pháp đến đây, khiến Đặng này muôn vàn cảm kích. Quả không uổng công lão phu đóng góp cho ngân quỷ của quý Hội !
Kính Thanh vội giải thích :
- Đại ca ! Tứ Hải hội là một tổ chức thần bí mới xuất đầu lộ diện độ bẩy năm nay, hùng cứ các phủ phía Nam Trường Giang. Họ không có ác tích rõ rệt, chỉ âm thầm bành trướng, thu thuế bảo kê các ngành kinh doanh.
Nay hai lão ác ma kia trở thành hộ pháp đủ chứng tỏ Tứ Hải hội chẳng ra gì !
Nam Cung Giao cười mát :
- Chắc ngươi chuyên nấp dưới gầm giường, rình nghe chuyện thiên hạ nên mới từng tuổi này mà cái gì cũng biết !
Hai người dùng công phu Ngũ Ngữ truyền âm mà trò chuyện nên rất thoải mái, không sợ đối phương nghe thấy !
Lúc này, Đặng Kiệm và Địa Thượng Nhị Lôi đã rời khách sảnh, về phòng nghỉ ngơi.
Anh em Nam Cung Giao vội nhẩy lên mái ngói, quan sát xem họ Đặng ngủ ở đâu. Hai người không có ý giết Đặng Kiệm vì tội lỗi của lão chưa đáng phải chết.
Nam Cung Giao sẽ gởi một bức thư cảnh tỉnh, nếu lão không thay đổi tâm tính mới trừng trị.
Đặng Kiệm vào một phòng lớn trong khu hậu viện, còn Địa Thượng Nhị Lôi cũng ở cách đấy không xa.
Họ Đặng khóa chặt cửa ra vào, bỏ chìa vào túi, cẩn thận xoay lắc nắm cửa bằng đồng sáng láng. Đây là loại khóa của người Hà Lan, đắt hơn vàng, nên lão cho rằng đám dạo chích Trung Hoa không thể nào mở nổi.
Nhưng sáng hôm sau, lúc tỉnh giấc, Đặng Kiệm phát hiện trên gối mình có một mảnh giấy hoa tiên, ghi hai dòng chữ :
Nhân bất nhân nan thọ
Phú quí tư cố hương.
Đặng Kiệm toát mồ hôi lạnh vì hiểu rõ thâm ý của lời cảnh cáo :
Người bất nhân chẳng thọ ,
Giàu sang nhớ quê xưa.
Hai câu thơ này ám chỉ thái độ tham lam hà khắc của lão đối với đồng hương, và dọa sẽ lấy mạng.
Đặng Kiệm rảo bước ra kiểm tra ổ khóa cửa trị giá năm chục lượng vàng, chán nản thở dài.
Nó vẫn còn nguyên vẹn không hề có dấu cậy phá, cứ như đêm qua lão quên khóa vậy.
Đặng Kiệm ngồi thừ trên ghế, đăm chiêu suy nghĩ rất lâu , lão nhớ đến cái chết của Nam Kinh Binh Bộ Thượng Thư Quách Tường An và Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long, liền rùng mình lẩm bẩm :
- Chẳng lẽ Đặng biểu cô còn sống và đang tiến hành việc báo thù ? Chỉ mình bà mới có động cơ sát hại hai vị quan lớn kia, và bênh vực người An Nam !
Lão nghĩ đến Đặng Trinh Tâm vì bà có võ nghệ cao siêu, hơn nữa nét chữ trên tờ giấy hoa tiên mềm mại, uyển chuyển, chẳng thể là của nam nhân được. Lão cũng hiểu rằng tính tình Trinh Tâm cương liệt sắt đá tất sẽ chẳng tha mạng mình lần thứ hai !
Cái chết lởn vởn đã khiến lão phải suy xét lại hành vi của mình, lòng thầm hổ thẹn. Họ Đặng quyết sẽ hành động ngay để chứng tỏ cho vị biểu cô nóng tính, đáng sợ kìa nhìn thấy.
Ngay sáng hôm ấy, lão đến xưởng quạt, tăng gấp đôi số lương cho tất cả công nhân.
Người Giao Châu rất khéo tay, kiên nhẫn nên đã sản xuất ra những cây quạt xếp tinh xảo, xinh đẹp bằng đủ loại nguyên liệu như tre, gỗ, đồi mồi, ngà voi...
Quạt của Tô Châu lừng danh thiên hạ, được cả người Tây Dương ưa chuộng, và sản phẩm của Đặng Gia là nổi tiếng nhất.
Sau đó , Đặng Kiệm còn đích thân đến thăm hỏi những xóm nghèo Giao Châu, tặng mỗi nhà mười lạng bạch ngân ăn tết, và hứa sẽ tận tâm giúp đỡ đồng hương khi họ cần đến. Ngay cả việc nộp tiền cho ngân quĩ của Bang, lão cũng hủy bỏ, xin được cáng đáng hết !
Người Giao Châu ở Tô Châu hết lời ca ngợi cử chỉ nhân đức của Đặng Kiệm, nhưng lòng thầm nghi hoặc, tự hỏi vì sao ?
Non sông dễ đổi, bản tánh rất khó dời, phải vì nguyên nhân trọng đại nào đó nên một kẻ tham lam, bủn xin như Đặng Kiệm mới đột nhiên trở thành đại thiện nhân như vậy ?
Có người đoán rằng lão ngỡ chết !
Chỉ một mình Nguyễn Đại Nương ngờ ngợ đoán ra ẩn tình, nhưng không dám đoan chắc ! Bà khao khát muốn gặp lại Nam Cung Giao, song chàng đã cùng Kính Thanh và Sách lão rời khỏi Tô Châu.
Sáng mùng hai, ba người ra cửa thành hướng Bắc. Tang vật đã được bán đi, ngân phiếu giấu kín trong người nên họ qua mắt bọn quan quân rất dễ dàng. Hơn nữa việc Kính Thanh lại quen biết với gã Lãnh binh trấn giữ cửa này.
Trời xam xám, những bông tuyết đầu mùa nhỏ như hoa gạo bay lất phất trong không gian, bám vào mặt mũi, y phục mọi người. Cảnh tượng tuy hơi tiêu điều, song vẫn có nét đẹp riêng của mùa đông.
Kính Thanh vui vẻ nói :
- Đại ca ! Lát nữa chúng ta sẽ ghé Hổ Khâu xem phong cảnh ! Thắng tĩnh ấy đẹp nhứt trong những ngày đầu đông !
Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương chắc đang đau lưng khi phải chia tay với mụ già bán rượu ở cửa Đông nên càu nhàu :
- Mồ mả thì có gì mà đẹp ! Thời tiết này mà ăn cháo nóng và uống rượu là tuyệt nhất !
Nhưng thực ra, Hổ Khâu chính là đệ nhất danh lam nước Ngô, nằm cách thành Tô Châu hơn mười dặm về phía Tây Bắc.
Hổ Khâu ! Một gò cao, nơi Ngô Phù Sai chôn cha là Hạp Lư. Chôn được ba ngày, có em là Bạch Hổ đến nằm phục ở cạnh mồ, nên gò này mới có tên là Hổ Khâu.
Trên đỉnh gò Hổ có ngọn tháp cao, xây từ thời nhà Tùy. Còn trước gò có một hồ nước nhỏ tên gọi Kiếm trì. Song không phải chỉ có thế, toàn khu vực Hổ Khâu là một vườn hoa bát ngát. Với những hàng cổ thụ già nua mấy trăm năm tuổi. Mùa nào trong năm, nơi đây cũng ngào ngạt sắc hương của hoa.
Nam Cung Giao trong mấy ngày qua chỉ lo việc báo thù nên không có dịp ngoạn cảnh, giờ phấn khởi thúc ngựa theo Kính Thanh.
Hai khắc sau, ba người đã nhìn thấy ngọn Cổ tháp trên đỉnh gò Hổ, thấp thoáng trong làn tuyết mỏng, chỉ cần rẽ trái đi thêm hơn dặm là đến nơi.
Nhưng phía trước có một đoàn kỵ sĩ đông độ hơn hai chục, đi ngược chiều đến.
Dẫn đầu toán nhân mã ấy là ba lão nhân mũ lông đen, áo cừu ngắn để lộ bộ võ phục nâu sậm, lưng đeo trường kiếm. Chín người còn lại nhất loạt Bạch y, hông cài đơn đao.
Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương đã nhận ra lai lịch đối phương, nhăn mặt nói :
- Bọn họ là người của Hồ Bang, đến đây tìm lão phu ! Hai người cứ đi trước đi !
Kính Thanh cười xòa:
- Hàm Đan Tam Kiếm có gì mà đáng ngại ? Chúng ta cứ đánh một trận cho dản gân cốt !
Nam Cung Giao vỗ bụng :
- Nếu biết sáng nay phải đánh nhau, lúc nãy ta đã ăn thêm vài chục cái bánh bao cho chắc dạ !
Một người một câu chẳng giống nhau, nhưng hàm ý quyết chiến, khiến Cuồng Vũ Đao cảm kích cười dài.
Tiếng cười của lão đầy hào khí, thanh thản vượt ngoài sinh tử.
Lúc này, đoàn nhân mã Hồ Bang đã dừng lại...
Người có võ nghệ cao cường như Hàm Đan Tam Kiếm tất nhãn lực phải rất tinh anh, đã sớm nhận diện được kẻ thù. Dù hôm nay Cuồng Vũ Đao oai phong chỉnh tề trong bộ võ phục gấm xanh, áo mũ lông cừu trắng tuyết.
Hàm Đan Tam Kiếm đều ở tuổi lục tuần, mặt tròn đầy , mắt nhó, mũ ưng, môi mỏng. Họ là anh em ruột, cách nhau chỉ hai, ba tuổi.
Kính Thanh nhanh nhẩu kể :
- Đại ca ! Lão râu dài đứng giữa là lão Đại Mạc Vi Hầu, lão tai vểnh là lão Nhị Mạc Đắc Khoa, còn lão rỗ hoa là em út Mạc Quan Tung .
Phe đối phương đã vây chặt ba con mồi, Nhất kiếm Mạc Vi Hầu gầm lên :
- Sách Hán Xương ! Lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, nên lão mới xui xẻo gặp bọn ta. ở đây . Mau bó tay chịu trói.
Theo khẩu khí này thì họ đến đây không phải vì họ Sách, chỉ tình cờ gặp gỡ mà thôi
Cuồng Vũ Đao rủa thầm vận đen, cười sằng sặc :
- Chính các ngươi mới là những kẻ kém may mắn !
Dứt lời, lão tung mình khỏi lưng ngựa, chụp lưỡi đao xuống đầu Mạc Vi Hầu.
Nam Cung Giao và Mộc Kính Thanh cũng nhất tề tấn công hai lão còn lại trong Tam Kiếm.
Chiến đấu trên lưng ngựa chẳng phải thói quen của khách võ lâm, nên Tam kiếm cũng rời yên chống đỡ.
Ba cặp đấu thủ chạm nhau trên không, trao đổi một chiêu rồi rơi xuống đất, tiếp tục xấn vào.
Hàm Đan là kinh đô nước Triệu thời chiến quốc, nằm cạnh bờ sông Hoàng Hà ở đoạn trung lưu, thuộc đất cổ Cửu Châu, cái nôi của dân tộc Trung Hoa, và là một trong những vùng địa linh nhân kiệt, từng sản sinh ra những kiếm khách thượng thừa.
Kiếm pháp nước Triệu có vô số, khác hẳn với những kiếm phái võ lâm như Hoa Sơn, Võ Đang, Thanh Thành , Nga Mi, Thiếu Lâm... khác cả về chiều dài của vũ khí .
Nghĩa là, các giòng họ ở Hàm Đan vẫn trung thành với loại kiếm cổ mà kích thước có từ sau thời Xuân Thu, ngắn hơn trường kiếm đương đại một gang tay.
Kiếm có nguồn gốc từ "Thích binh" tức là Mâu, kiểu dáng cùa nó ban đầu tương đối ngắn, thường đeo bên người, để phòng thân khi đánh gần, giống như dao găm ngày nay, sau đó, dần dần tăng thêm chiều dải.
Kiếm thời nhà Chu chỉ khoảng từ một gang đến hai gang tay người lớn, chủ yếu vì đồng xanh có tính mềm dẻo không đủ bền chắc để chế tạo kiếm dài.
Sau thời Xuân Thu, kỷ thuật luyện kim của Trung Hoa tiến bộ khả quan, cho ra đời những thanh trường kiếm bằng thép sắc nhọn, dài đến khoảng bốn gang tay, kể cả chuôi.
Những bảo kiếm lừng danh như Cam Tương, Mạc Gia, Trạm Lư, Thái A, Long Tuyền... đều là sản phẩm thời kỳ này.
Và giờ đây, vũ khí của Hàm Đan kiếm cũng có kích thước như trên. Kiếm ngắn hơn thì kiếm ý cũng xảo hơn, để bổ khuyết cho sự thua thiệt về độ dài.
Kiếm phái của ba lão già đất Ham Đan ảo diệu và nhanh như chớp giật. Màn kiếm ảnh quanh thân họ dầy đặc kín đáo, liền lạc như da trời, khiến đối phương khó nhìn ra sơ hở.
Với công lực thâm hậu, ba thanh kiếm ngắn kia đánh bạt mọi ngoại lực, hung hãn ập đến tấn công bằng những đường kiếm bất ngờ, hiểm ác phi thường.
Sách Hán Xương quả xứng danh Cuồng Vũ Đao, chiêu thức dồn dập, liên tục và mãnh liệt như bão táp mưa xa. Lão hùng hục lao vào đối phương, chẳng chút sợ hãi, sẵn sàng đổi mạng.
Đao không nhanh bằng kiếm nhưng lực đạo cực kỳ dũng mãnh, gây ra thương tích cũng trầm trọng hơn kiếm.
Sách Hán Xương lại có lối đánh liều lĩnh, táo bạo nên đã cầm đồng với lão Đại !
Song, Mộc Kính Thanh lại tỏ ra vất vả khi phải đối phó với Đệ Tam Kiếm Mạc Quan Tung.
Mũi thép ở đầu cây nhuyễn tiên của Kính Thanh tuy xảo diệu tuyệt luân nhưng không sao xuyên thủng được lưới kiếm quanh thân đối thủ.
Gã phải tận dụng khinh công, thay đổi vị trí, mỗi khi Mạc Quan Tung áp sát.
Đấu pháp này sẽ bị phá sản nếu chín gã đệ tử Hồ Bang kia tham chiến. Nhưng vì tự ái, làm Đan Tam kiếm đã không ra lệnh cho thủ hạ nhập trận.
Phần Nam Cung Giao thì khác hẳn, chàng vui mừng giao đấu với một kiếm sĩ lừng danh để kiểm chứng sở học và thu thập thêm kinh nghiệm.
Từ ngày xuất đạo đến giờ, chàng chưa đánh trận nào cho ra trò cả.
Kiếm của Nam Cung Giao dài hơn kiếm của Mạc Đắc Khoa gần hai gang.
Chàng ung dung thi triển pho Lạc Điểu kiếm pháp gia truyền, điểm nhanh hàng trăm nhát kiếm vào những yếu huyệt từ mặt đến đầu gối họ Mạc, khiến lão bối rối, phải giữ khoảng cách và tìm sơ hở mà nhập nội.
Lão thực sự kinh ngạc trước pho kiếm kỳ lạ, cũng như trình độ kiếm thuật cao siêu của chàng vô danh.
Kiếm pháp nhà họ Đặng đất Giao châu qua có những nét đặc dị, khác với võ học Trung Hoa.
Khi đơn đấu, Nam Cung Giao đứng thẳng người, xoay nghiêng vai hữu ra phía trước để tăng chiều dài cánh tay, cũng như giảm bớt diện tích đối diện kẻ thù.
Trong tư thế này, chân chỉ có thể bị thương ở những huyệt dọc sườn phải.
Với chiều cao bản thân, cộng thêm chiều dài của thanh kiếm kỳ lạ, Nam Cung Giao đã phát huy được hết tính độc đáo của pho kiếm pháp phương Nam.
Bản lãnh chàng hiện nay còn lợi hại hơn cửu phụ Đặng Dung năm xưa. Ông ta thấp hơn chàng một cái đầu, không thể sử dụng thanh kiếm dài quá khổ được.
Thủ pháp này có cái tên rất tượng hình là Phiên Dực Trung Phi (xoay cánh bay dọc). Cánh tay tả của người kiếm thủ không bắt kiếm ấn, thủ trước ngực, mà lại có nhiều lúc giăng ngang như cánh chim rộng mở, hoặc gập lại che sườn trái, bàn tay xoè theo thế cương đao.
Thân hình Nam Cung Giao lúc nào cũng thẳng băng, tiến thoái nhanh như gió bằng lực ở đầu bàn chân. Chỉ có đôi vai chàng uyển chuyển theo đường kiếm.
Thanh bảo kiếm kỳ dị bay lượn như rồng thiêng, lúc thủ thì mềm mại che kín thân thể, lúc công thì loang loáng tựa ánh chớp.
Nhị lão Mạc Đắc Khoa toát mồ hôi hột, nghiến răng chống đỡ những chiêu kiếm đáng sợ của đối phương, lão thủ nhiều hơn công, liên tiếp bị đẩy lùi. Chịu thế hạ phong trước một tiểu tử miệng còn hôi sửa, nỗi đắng cay trong lòng Mạc lão biến thành cơn giận dữ và căm hận.
Lão múa tít bão kiếm đem hết sở học ra để quân bình thế trận.
Kiếm kình rít vo vo, xé nát không gian, vì họ Mạc đã dồn hết hơn bốn mươi năm công lực tu vi thâm hậu của lão, tạo nên màn kiếm ảnh kiên cố như bức tường thép chiếm được ưu thế khi va chạm.
Tiếng sắt thép ngày càng vang lên chát chúa, chứng tỏ trận đấu mỗi lúc thêm quyết liệt.
Nam Cung Giao cũng phấn khởi nắm chắc chuôi kiếm kỳ ảo của đối phương.
Giờ đây, luồng kiếm quang trở nên xanh biếc bay lượn trong giàn mưa tuyết lất phất, khống chế bước tiến của đối thủ.
Chàng đã phải lùi lại bốn lần, rồi lại tiến lên, và lần phản công nào cũng để lại những vết thương rỉ máu trên cơ thể Mạc Đắc Khoa.
Mạc lão cứ ngỡ chàng không đủ sức thọc kiếm sâu hơn nữa, nên càng điên cuồng xông tới.
Nam Cung Giao càng đánh càng hiểu hết, được tinh túy của pho Lạc Điểu kiếm pháp nên vô cùng cao hứng, chẳng vội gì mà kết liễu cuộc chiến.
Song lão Tam, Mạc Quan Tung đã chán ngán phép du đấu vừa đánh vừa chạy của Mộc Kính Thanh nên ra lệnh cho chín gã cao thủ xông vào trận.
Cục diện lập tức thay đổi vì bọn Nam Cung Giao lâm vào thế bị giáp công, phải phòng thủ cả sau lưng.
Mộc Kính Thanh không còn đường tránh né, sợ hãi thét lên :
- Đại ca mau hạ độc thủ, nếu không tiểu đệ sẽ không cầm cự nổi !
Nam Cung Giao cũng đã nhận ra tình trạng hiểm nghèo, liền xuất chiêu Cô Điểu Nhập Vân (Chim lẻ vào mây), thanh trường kiếm của chàng vun vút điểm nhanh, tựa như vẽ nên hàng trăm bóng chim đang lao vào tầng mây u ám.
Thực ra, mũi kiếm của chàng liên tục bắn vào cơ thể đối phương.
Mạc Đắc Khoa kinh hoàng trước chiêu tuyệt kiếm, đôi mắt hí đầy ánh sợ hải, đôi môi mỏng mím chặt vì đang nỗ lực chống đỡ, bảo toàn cái mạng già.
Như chính cái tên của chiêu kiếm, chỉ một bóng chim lẻ loi bay vào mây, mũi kiếm của Nam Cung Giao lặng lẽ trổ một lỗ trên ngực trái đối phương.
Chàng không kịp chờ nghe nạn nhân rú lên lìa đời, vội quay ngoắt lại đón đỡ ba thanh đao của bọn đệ tử Hồ Bang !
Tiếng thét thê lương của lão Mạc Đắc Khoa đã khiến bào huynh và bào đệ của lão chấn động tâm can.
Họ đau lòng khôn xiết vì tình anh em ruột thịt, bỏ mặc Cuồng Vũ Đao và Mộc Kính Thanh cho thủ hạ, lướt về phía Nam Cung Giao.
Mạc Quang Tung xem xét thi thể nhị ca, còn Mạc Vi Hầu gầm vang, quyết phân thây gã tiểu tử áo cừu đen kia ra mà báo thù.
Không để bị rơi vào thế bị giáp công, Nam Cung Giao đành phải nhanh chóng hạ thủ ba gã đao phủ áo trắng.
Chàng tìm đến, rùn thấp người, kiếm vươn dài, xoè như nan quạt, trụ một chân quay đủ vòng lần lượt tấn công cả ba mục tiêu.
Đây chính là chiêu Nguyệt Hạ Điệu Vũ (chim múa dưới trăng) trong tuyệt học giòng họ Đặng.
Tổng cộng chàng đã phải đánh ra đến một trăm linh hai thức kiếm, để khóa vũ khí của đối phương, rồi hạ thủ !
Tiếng đao kiếm chạm nhau hòa lẫn với tiếng kêu đau đớn, và ba gã Hồ Bang xấu số kia đồng loạt ôm bụng ngã gục.
Mạc Vi Hầu đến nơi, chứng kiến thảm cảnh của thủ hạ, càng điên tiết, múa kiếm đâm chém như mưa.
Bản lĩnh của lão Đại cao thâm hơn lão Nhị một bậc, cả về kiếm thuật lẫn tu vi.
Nam Cung Giao đỡ đòn, nghe thân kiếm rung động, cổ tay tê chồn, thầm khâm phục đối phương.
Dù chân khí đã hao hụt sau trận đấu với Mạc Đắc Khoa, nhưng chàng vẫn tự tin mình có thể thắng được Mạc Vi Hầu.
Càng gặp đối thủ cao cường trong kiếm đạo, chàng càng vươn tới đỉnh cao của pho Lạc Điểu kiếm pháp.
Sau lưng không còn kẻ thù, Nam Cung Giao yên tâm thi triển yếu quyết Phiếu Dực Tung Phi, cùng Mạc lão Đại so tài.
Những chiêu kiếm huyền ảo, kỳ lạ của chàng đẩy lùi những đợt sóng kiếm cuồng nộ của Mạc Vi Hầu và mấy lần đưa lão vào hiểm cảnh.
Cái chết cận kề đã khiến Mạc Lão Đại tỉnh táo lại ra chiêu thận trọng hơn. Khi lão đã bình tâm thì kiếm thuật càng bội phần lợi hại.
Tam lão Mạc Quan Tung nhận ra Nhị ca đã tuyệt khí, liền ôm xác đặt vào vệ đường, rồi lao đến hợp lực với anh cả.
Nhưng Mộc Kính Thanh đã kịp bỏ đấu trường tung mình chặn đường Mạc Quan Tung.
Gã và Sách Hán Xương đã giết được hai tên đao thủ, nên một mình Sách lão cũng đủ sức đương cự với bốn tên còn lại.
Võ công Kính Thanh không bằng Mạc Lão Tam song khinh công của gã linh diệu phi thường, đấu pháp lại cực kỳ giảo hoạt, nên đối phương bị cầm chân, không sao bứt ra được !
Gã nhởn thơ như cánh bướm, tận dụng chiều dài của cây nhuyễn tiên, mở những cú độc địa và nhẩy lui những bước dài khi gặp khó khăn.
Nhờ vậy mà Nam Cung Giao được thong thả chiến đấu với một mình Mạc Vi Hầu.
Mạc lão Đại năm nay sáu mươi bốn tuổi, luyện kiếm từ thuở lên mười, đánh gọi là kiếm sĩ nhà nòi. Ông nhận ra vô số hầu hết các kiếm phái trong võ lâm Trung Nguyên, song không sao biết được lai lịch pho kiếm mà gã trẻ tuổi kia đang thi triển.
Sau trăm chiêu, Mạc Vi Hầu đã cảm nhận được sự sa sút chân nguyên của đối phương, mừng rỡ tấn công ráo riết, cố kết liễu trước khi Cuồng Vũ Đao rảnh tay, vì đã giết sạch bốn gã bang chúng Hồ Bang.
Gừng càng già càng cay !
Mạc Lão Đại đem hết cơ trí và kinh nghiệm ra thi thố, tạo nên một đấu pháp biến hóa linh diệu hơn hẳn em mình.
Cũng là những chiêu kiếm ấy, song Mạc Vi Hầu phối hợp nhuần nhuyễn, khéo léo, sứ dụng đúng lúc, đúng chỗ nên đường kiếm lợi hại bội phần.
Nam Cung Giao xuống sức song vẫn bình tâm vì cục diện đang có lợi cho phe chàng.
Cuồng Vũ Đao đã chém chết hai tên bang chúng, chẳng bao lâu nữa sẽ đến tiếp ứng chàng.
Do không cần để dành sức lực cho một trận đấu dài, chàng hào phóng dồn lực đạo vào những đòn sấm sét quyết chẳng chịu kém lão kiếm thủ cáo già.
Tiếng gào đau đớn của một trong hai gã bang chúng đã khiến Mạc Vi Hầu nóng ruột, hạ sát thủ ngay.
Lão bốc thẳng lên không trung dồn hết gần hoa giáp công lực vào thân kiếm, hóa thành đám mây sáng bạc, sa xuống đầu tiểu tử đáng ghét kia.
Đây là chiêu Kiếm Sơn Áp Đỉnh (Núi kiếm đè đầu) tuyệt học trấn gia của giòng họ Mạc đất Triệu, chỉ mình Mạc Vi Hầu được phép luyện, vì lảo là trưởng nam.
Khí thế của chiêu kiếm quả mãnh liệt như núi đổ, tốc độ nhanh tựa sao rơi, Nam Cung Giao thức ngộ được hiểm nguy, vội cắn răng cử kiếm đánh chiêu Lạc Điểu Hoan Nguyệt (Chim lạc mừng trăng).
Trường kiếm của chàng run rẩy liên tục, phát ra những tiếng líu ríu, và mũi kiếm vẽ nên vô số bóng ảnh hướng lên trời, đón lấy tảng mây kiếm khí lạnh lẽo ghê người.
Tuyệt học của Giao Châu quả là kinh thế hãi tục, phá được chiêu Kiếm Sơn Áp Đỉnh lừng danh.
Kiếm của Nam Cung Giao dài hơn kiếm đối phương một đoạn nên đã chọn mục tiêu trước.
Mạc Vi Hầu bị đâm thủng vai trái và bắp tay hữu, song thức kiếm cuối cùng của lão cũng soi được một lỗ trên ngực phãi đối phương.
Nam Cung Giao vung cước đá thẳng vào bụng dưới kẻ thù.
Mạc Vi Hầu kịp đưa tả thủ đỡ đòn nhưng cú đá quá mạnh đủ khiến lão lọi cổ tay, đau đớn tung mình ra xa gọi Nhị đệ đào tẩu.
Sách Hán Xương đã giết xong tên đao thủ cuối cùng.
Mộc Kính Thanh hớt hải chạy lại xem xét thương thế Nam Cung Giao.
May thay, vết kiếm thương không sâu vì thiếu lực đạo, chỉ cần điểm huyệt chỉ huyết bôi thuốc kim sang rồi băng bó lại là xong.
Nam Cung Giao nghe bàn tay mềm mại của Kính Thanh run rẩy khi chăm sóc vết thương cho mình, liền phì cười :
- Ngươi giết người cũng giỏi, sao lại bối rối trước một vết thương cỏn con như vậy ?
Kinh Thanh cười hăng hắc :
- Tại tiểu đệ phải nín thở vì mùi hôi hám của thân thể đại ca đấy thôi !
Nam Cung Giao giả đò giận dữ :
- Ngươi chê hôi thì đêm nay ta sẽ ôm ngươi mà ngủ đấy ! Lâu rồi ngươi sẽ quen dần, cũng như gia mẫu đã từng chê gia phụ nặng mùi, nhưng chẳng bao giờ chịu ngủ một mình cả !
Ba người cười vang, và Cuồng Vũ Đao tò mò hỏi :
- Nam Cung công tử là truyền nhân của vị minh sư nào mà lại có võ công cao siêu như vậy ?
Sau khi chứng kiến chàng giết Nhị Lão Mạc Đắc Khoa, đuổi chạy Đại Lão Mạc Vi Hầu, Sách Hán Xương vô cùng khâm phục, một lòng tôn kính.
Lão quyết chí đi theo chàng đến cùng, dẫu phải chịu phận nô bộc cũng cam tâm.
Nam Cung Giao cười đáp :
- Tiền bối quá khen khiến tại hạ thêm hổ thẹn ! Chút sở học gia truyền quả chưa đủ để ngang dọc Giao Châu , vì kiếm của Mạc Vi Hầu chỉ dài thêm một chút là tại hạ đã ra ma rồi !
Kính Thanh trợn mắt bác ngay :
- Đại ca chớ giả đò khiêm tốn làm gì cho uổng công ! Nếu đại ca không hao tổn chân khí để giết Mạc Đắc Khoa thì lão Vi Hầu đã bõ mạng đương trường !
Cuồng Vũ Đao gật gù khen phải, tiếp tục tán dương khiến Nam Cung Giao hổ thẹn, nhẩy lên lưng ngựa, đốc hai bạn đồng hành rời khỏi vùng đất tanh mùi máu.
Họ chẳng còn tâm trạng đâu mà ghé vào ngoạn cảnh Hổ Khâu nữa !
Hết Hồi 4 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Xem Tiếp Hồi 5
Hồi 5 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Diêu hí lộng lôi phong
Thần mưu tranh mỹ nhân
Chiều mùng sáu, ba người ghé thành Trấn Giang nghỉ ngơi, sáng mùng bẩy vượt Trường Giang.
Trưa hôm ấy, khi còn cách Hồ Cao Bảo hai chục dặm thì đụng độ lực lượng Kim Diện Cung.
Ngoài Hộ Chung Đệ Tam Kiếm Sứ còn có thêm hai lão hồng bào nữa !
Theo sau họ là mười lăm gã kiếm thủ áo xanh.
Mộc Kính Thanh thở dài nói nhỏ :
- Nguy rồi đại ca ơi ! Cặp lão phu thê áo đỏ kia là Hồng Y song tướng của Hồ Bang, thân phận thực của họ là Yên Đài Song Sát bên bờ Bột Hải. Hai lão ấy đều có công lực hơn hoa giáp, trượng pháp oai trấn võ lâm.
Nhờ linh dược của Kính Thanh nên vết thương trên ngực của Nam Cung Giao đã lành được tám phần, không hề trở ngại khi phải đánh đấm. Vì vậy, chàng thản nhiên cười cợt :
- Nghe ngươi nói ta cũng rất sợ hãi, định bỏ mặc ngươi mà đào tẩu. Hôm nay, ngươi cứ chết trước, đúng ngày này bẩy chục năm sau, ta sẽ tự sát chết theo cho đúng lời thề đồng sanh đồng tử.
Kính Thanh bật cười :
- Đại ca quả là kẻ chẳng biết sống chết, chỉ giỏi nghề bỡn cợt !
Sách Hán Xương hào hứng tán thưởng :
- Bậc trượng phu gặp nguy phải cười vang, vui vẻ mà chết, sao lại phải bi lụy !
Thấy ba con mồi bị vây chặt mà vẫn ung dung nói cười, Hộ Cung Kiếm Sứ Tưởng Phi Diện giận dữ quát :
- Mộc Kính Thanh ! Ngươi chết đến gáy mà còn cười được ư ?
Nam Cung Giao lên tiếng :
- Bọn tại hạ đang tiên đường đến Kim Diện Cung để dự đại hội tỹ võ chiêu phu, sao chư vị lại chặn đường.
Tưởng Phi Diên cười nhạt :
- Các ngươi đã mạo phạm đến bổn cung, chẳng còn tư cách dự thí nữa !
Nam Cung Giao nghiêm giọng :
- Tháng trước, Thần Nữ Tiền Vân Mi có đến Nam Kinh thăm bằng hữu là Tiểu thư Mã Hoàn Cơ và công tử Mã Kim Khu. Tại hạ cùng nàng có mối duyên sơ ngộ, mong túc hạ nể mặt mà bỏ qua hiềm khích với gia nghĩa đệ Mộc Kính Thanh !
Yên Đài Song Sát giật mình nhìn nhau, họ là người thân cận với Thần Nữ, được nàng thố lộ cuộc tao ngộ với Nam Cung Giao.
Tiền Vân Mi quen biết với đám thế gia công tử Nam Kinh vì từng học võ của Tây Hà Thần Ni. Am của bà gần chùa Cẩn Nhục Đầu Đà, nên khi Mã Kim Khu cùng em gái dắt bạn bè lên thăm sư thúc thì gặp gỡ Vân Mi.
Hôm mùng chín tháng mười vừa rồi, Thần Nữ đến Nam Kinh thăm sư phụ, và tìm gặp đám bằng hữu trẻ tuổi lúc Nam Cung Giao đang bị Mã Kim Khu lôi kéo đi khắp nơi, tham dự những cuộc vui bất tận, gặp gỡ Vân Mi bốn năm lần.
Nam Cung Giao chẳng hề tán tỉnh Vân Mi, chỉ nhìn nàng mà cười. Trong đám đông chàng ít khi mở miệng, thỉnh thoảng đưa ra vài nhận xét thông minh, hóm hỉnh khiến cả bọn cười vang. Tuy xuất thân từ chốn bình dân nhưng phong thái của chàng ung dung, tiêu sái và rất tự nhiên.
Vân Mi trở về Từ Châu, chợt phát hiện mình luôn vương vấn gương mặt dễ mến, có lúm đồng tiền duyên dáng của chàng họ Nam Cung !
Yên Đài Song Sát tuổi đã hơn bẩy mươi mà không con cháu nên rất yêu thương Thần Nữ. Nàng cũng mến họ nên chẳng giấu giếm tâm sự của mình.
Thế là Đại Sát Thân Công Hải hỏi lại ngay :
- Chẳng phải tiểu tử ngươi tên gọi Nam Cung Giao, quê đất Cán Châu ?
Chàng mỉm cười vòng tay xác nhận :
- Bẩm tiền bối ! Quả đúng là kẻ hèn này !
Lúm đồng tiền trên má trái chàng đã chứng minh lai lịch. Thân lão vuốt râu tư lự, bàn bạc với Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh rồi bảo Nam Cung Giao :
- Nể mặt ngươi ! Lão phu sẽ thay mặt Cung chủ xóa bỏ ân oán với gã Mộc KínhThanh. Tuy nhiên, ngươi phải hứa rằng sẽ thượng đài tranh ngôi vị rể đông sàng của bổn cung. Điều thứ hai là tiểu tử họ Mộc không nên tháp tùng ngươi đến Từ Châu, e rằng Thiếu Cung chủ sẽ nổi giận !
Nam Cung Giao từng hứa với song thân là sẽ mang về ba nàng dâu tuyệt đẹp nên nhận lời ngay. Ngoài Mã Hoàn Cơ, chàng đã gấm ghé Tiền Vân Mi, vì cả hai đều là giai nhân hiếm có ! Còn người thứ ba thì chưa biết tìm đâu !
Chàng quay sang nói với Kính Thanh :
- Hiền đệ cảm phiền tạm xa ta một thời gian, khi nào ta cưới được Thần Nữ sẽ mời ngươi đến dự tiệc. Lúc ấy, gã Thiếu cung chủ kia chẳng còn dám làm gì ngươi nữa rồi !
Mộc Kính Thanh giận hờn trách :
- Đại ca quả là háo sắc, thấy gái đẹp là quên hết tình huynh đệ !
Nam Cung Giao bật cười :
- Ngươi đâu phải là tình nhân của ta mà nói giọng ghen tuông ấy hả ? Chỉ sau ngày rằm tháng này là anh em ta sẽ hội ngộ thôi mà !
Mộc Kính Thanh xụ mặt buồn bã, mắt đảo nhanh như đang suy nghĩ một mưu sâu kế độc.
Lát sau, gã vui vẻ hẳn lên, vòng tay nói với Song Sát :
- Cảm tạ nhị vị tiền bối đã xóa tội cho vãn bối ! Xin chư vị cứ yên tâm quay lại Từ Châu, anh em vãn bối còn phải tạ từ nhau !
Nhị Sát Tiêu Xuân Oanh trợn mắt hăm dọa Nam Cung Giao:
- Nếu ngươi không giữ lời, lão thân sẽ kéo hết lực lượng Kim Diện Cung truy sát gã Mộc Kính Thanh, chặt ra làm tám mảnh.
Nam Cung Giao cười mát :
- Tiền bối chớ lo ! Tại hạ đã phát nguyện lấy cho được vợ đẹp, tất chẳng bõ qua cơ hội này !
Tiêu Nương lạnh lùng hừ nhẹ :
- Chớ đại ngôn ! Liệu ngươi có được bao nhiêu bản lảnh chứ ?
Nam Cung Giao cười đáp :
- Hôm ấy chắc nhị vị tiền bối sẽ làm giám khảo, chỉ cần thiên vị một chút là xong ! Vãn bối mà không cưới được Thần Nữ e sẽ chết vì tương tư mất !
Tiêu Nương tưởng thật, lộ vẻ băn khoăn :
- Vân Mi cũng đã có cảm tình với ngươi, song việc tỷ võ thắng thua rạch ròi, làm sao lão thân thiên vị được ?
Hộ Cung Kiếm Sứ Tưởng Phi Diễn từng bị khiển trách vì lần bắt hụt Mộc Kính Thanh ở Cô Tô Đại tửu lâu, nên đem lòng chán ghét tiểu tử họ Nam Cung.
Lão mỉa mai :
- Đã bất tài mà còn mơ ăn thịt ngỗng trời nữa sao ?
Nam Cung Giao nghiêm nghị hỏi lại lão :
- Thế hôm ấy Tưởng Kiếm Sứ có thượng đài ứng thí hay không ?
Tưởng Phi Diên đỏ mặt nạt :
- Ngươi nói nhăng nói cuội gì thế ? Lão phu già cả, đáng bậc chú bác của Thần Nữ, lẽ nào lại làm thế ?
Nam Cung Giao lộ vẻ hớn hở, gật gù :
- Thế thì được ! Tại hạ chỉ sợ đám lão nhân hồi xuân thượng đài tranh giành còn, như những cao thủ dưới năm mươi tuổi thì không đáng ngại !
Đại Sát Thân Công Hải phá lên cười :
- Tiểu tử ngươi quả là khéo hí lộng, chọc cười thiên hạ, thảo nào chinh phục được con bé khó tính Vân Mi. Nay ngươi đã dám đại ngôn như thế thì lão phu sẽ ra giới hạn tuổi ứng thí là tứ thập, nếu ngươi thất bại thì lão phu sẽ lấy đầu đấy !
Nói xong, lão ra lệnh cho thủ hạ ra ngựa trở lại Từ Châu.
Mộc Kính Thanh chờ họ đi khuất, tư lự hỏi :
- Phải chăng đại ca quyết chí lấy cho được Thần Nữ Tiền Vân Mi ? Còn Mã Hoàn Cơ và mối gia cừu thì sao ?
Nam Cung Giao mỉm cười tinh quái :
- Nay ta đã có được sự hỗ trợ của một kẻ đa mưu túc trí, quen ăn vụng chùi mép như ngươi, thì đâu còn sợ bị phát hiện nữa mà không dám lấy vợ ? Giả sử ngươi là gái, dù xấu xí một chút ta cũng cưới luôn !
Mộc Kính Thanh bực bội cằn nhằn :
- Đại ca chỉ nói càn ! Tiểu đệ có là nữ nhân cũng chẳng thèm lấy một gã đàn ông đa mang như đại ca ! Cảnh chồng chung nào có hay ho gì ? Con người chỉ có một trái tim, sao lại trao cho nhiều người được ? Ngược lại, các bà vợ của đại ca cũng sẽ vì ganh ghét mà xào xáo tối ngày, gia đình chẳng thể yên ấm được !
Nam Cung Giao cười khà khá :
- Ít nhất thì kẻ đa thê cũng chẳng phải ngủ một mình khi vợ nhà giận dỗi. Ta đã từng chứng kiến gia phụ nhăn nhó như khỉ mỗi lần bị gia mẫu cấm cửa !
Cuồng Vũ Đao ôm bụng cười vang :
- Té ra cha ngươi là một kẻ sợ vợ !
Tia mắt Nam Cung Giao tràn ngập ánh yêu thương, trìu mến khi nhắc đến mẹ hiền :
- Đúng vậy ! Gia mẫu xinh đẹp phi phàm, tính tình nghiêm nghị, cương liệt hơn cả nam nhân, chẳng bao giờ nói hai lời ! Nhưng với cha con tại hạ, bà là nữ nhân tốt nhất thế gian !
Và bỗng chàng tươi cười nói thêm :
- Gia mẫu giỏi nghề thông pháp, đã nhận xét rằng tại hạ có tiếng đa thê. Bà đã cho phép tại hạ lấy đủ ba vợ !
Mộc Kính Thanh bật thốt :
- Thực thế sao ?
Gã ngẩn người một lát, lén nháy nhỏ Sách Hán Xương rồi vòng tay cáo từ Nam Cung Giao :
- Tiểu đệ cũng có việc riêng phải giải quyết, nhưng phải được Sách lão hỗ trợ. Hẹn gặp lại đại ca ở thành Nam Kinh.
Nam Cung Giao gật đầu :
- Hiền đệ và Sách lão cứ đi, xin hãy bảo trọng. Ta sẽ ở phủ Thượng Thư chờ đợi !
Sách Hán Xương miễn cưỡng đi theo Mộc Kính Thanh, vì lòng chỉ muốn tháp tùng Nam Cung Giao.
Hai người kia đi về hướng Nam, còn Nam Cung Giao tiếp tục ngược Bắc.
Tuyết đã rơi dầy hơn mịt mù mặt nước Đại Vận Hà, bên tay tả, lữ khách một mình dong ruổi trong ngày đông lạnh lẽo, ướt át.
Nam Cung Giao bỗng nhớ Kính Thanh vô luân.
Xế chiều, chàng ghé vào Cao Hà phạn điếm, cạnh bờ Tây Nam Hồ Cao Bảo dùng cơm.
Hồ Cao Bảo ở phía Nam và thông với Hồng Trạch Hồ Đại Vận Hà với Trường Giang, đổ vào hai hồ này rồi tiếp tục vươn lên hướng Bắc.
Những cánh buồm vẫn hối hả ngược xuôi trong tuyết, như nhắc nhở người lữ thứ rằng năm đã sắp hết, hãy mau trở lại quê nhà vui tết đoàn viên.
Nam Cung Giao đã ăn xong, đang ngơ ngẩn hoài nhận cảnh gia đình ấm cúng, mắt dõi nhìn về phương Nam xa tít thì phát hiện có một cỗ kiệu đang đi đến, và dừng trước cửa phạn điếm !
Chàng cau mày bất nhẫn vì thấy bốn người phu khiêng kiệu kia gồm ba hán tử lực lưởng và một thiếu nữ gầy gò thân mảnh. Điều đáng giận là họ không hề có áo ngự hàn, chỉ phong phanh bộ võ phục vải mỏng manh màu tía, trên đầu cũng chẳng nón che, cho nên tuyết đã phủ trắng tóc, y phục ướt đẫm. Chẳng phải chủ nhân của họ quá nghèo, vì cỗ kiệu kia làm bằng toàn gỗ Tử Đàn, loại gỗ đắt như vàng.
Đất Trung Hoa không trồng được loại cây quí có mùi thơm này, mà phải nhập từ Nam Dương, hay mua của An Nam.
Trên thân kiệu trảm đầy những hoa văn bằng vàng hay bạc dát mỏng, rèm bằng gấm dầy mầu vàng kiêu hãnh.
Và chủ nhân chiếc kiệu vén rèm đường bệ bước ra.
Phải chi đó là một lão nhân già nua, đau ốm quặt quẹo thì thiên hạ còn đỡ tức, khổ thay hắn lại là một trung niên công tử, tuổi gần tứ tuần cao lớn, khoẻ mạnh !
Gã có gương mặt anh tuấn và thêm phần lịch lãm nhờ hàng râu mép xanh rì, được tỉa tót cẩn thật. Có điều, bộ mặt trắng như ngọc kia lạnh tựa sương đêm và ánh mắt gã lộ vẻ kiêu ngạo, khinh người.
Trong tòa Cao Hà Đại Phạn điếm này có không ít hào khách giang hồ. Họ đang trên đường đến Từ Châu ứng thí, hoặc xem cảnh náo nhiệt của lôi đài tỷ võ chiêu phu.
Các hào kiệt này đều thuộc những địa phương phía Nam Trường Giang nên nhận ra lai lịch khách mới đến.
Họ xì xầm bàn tán :
- Chẳng lẽ Lôi Phong Sơn Chủ Bạch Tuấn Hào đất Hàng Châu, lại định trở thành rể của Kim Diện Cung ?
Nam Cung Giao chưa hề đến Chiết Giang, nhưng đã được nghe Mã Hoàn Cơ miêu tả phong cảnh kỳ tuyệt đất Hàng Châu, nhờ thế, chàng biết núi Lôi Phong !
Lôi Phong là một đỉnh của núi Tịch Chiếu, nằm ở phía Nam Tây Hồ, đây là một trong mười phong cảnh đẹp nhất Hàng Châu.
Trên đỉnh Lôi Phong có tòa tháp Lôi Phong cao bẩy tầng, khi ánh chiều tà chiếu vào, trông nó giống như được làm bằng ngọc bích. Tháp Lôi Phong còn có tên là Hoàng Phi Tháp, vì được xây dựng bởi một người nước Ngô họ Hoàng tên Phi.
Từ trăm năm nay giòng họ Bạch cư ngụ trên sườn núi Lôi Phong, các đời kế tiếp nhau xưng là Lôi Phong Sơn Chủ. Còn gia trang của họ thì mang tên Tịch Chiếu sơn trang.
Bạch gia nổi tiếng võ lâm nhờ pho Lôi Phong kiếm pháp, chiêu thức phát ra âm thanh ì ầm của sấm, và chói lọi khi có nắng.
Bạch gia đã từng ba lần nắm chức Minh chủ võ lâm, chứng tỏ võ học tổ truyền của họ chẳng tầm thường. Do vậy, có khá nhiều người trẻ tuổi đến Tịch Chiếu sơn trang xin học nghệ. Tóm lại, với số đệ tử đông đến ba trăm, Tịch Chiếu sơn trang có thể được xem là một kiếm phái trong võ lâm !
Nam Cung Giao tức anh ách khi thấy Bạch Tuấn Hào ấm áp trong mũ áo lông cừu dầy thượng hảo hạng, cả đôi ủng cũng bông lông cáo. Thế mà gã nhẫn tâm để cho đệ tử trần trụi xông pha sương tuyết với gánh nặng trên vai, nhất là khi trong số ấy lại có một nữ nhân gầy yếu.
Bạch Tuấn Hào chễm chệ ngồi riêng một bàn, sang sảng gọi liền sáu món đắt tiền, còn bốn người đệ tử kia khép nép ở bàn gần đấy, chỉ dám gọi một mâm cơm đạm bạc.
Đặng Trinh Tâm tính tình nghiêm khắc song lại rất nhân hậu.
Suốt hai chục năm làm lương y, bà luôn chữa trị miễn phí cho người nghèo khó. Nam Cung Giao theo mẹ học nghề, chứng kiến điều ấy nên học được cả chữ nhân ! Nay, trước cảnh chướng tai gai mắt này, quả thực chàng chẳng thể nào chịu nổi.
Đây chính là một trong những đức tính căn bản của dân tộc Giao Chỉ.
Hơn năm trăm năm sau được đại sử gia đất Việt là Lệ Thần Tiên Sinh đã nhận xét rằng : " Người Việt kiêu ngạo, hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn ".
Đèn nhà ai nấy sáng, dù phẫn nộ nhưng Nam Cung Giao chẳng biết làm thế nào để can thiệp ! Chàng suy nghĩ rất lung, bước đến quầy nói nhỏ với chưởng quĩ.
Bạch Tuấn Hào ăn xong ra hiệu tính tiền!thì lão chưởng quĩ vui vẻ đáp :
- Bẩm Đại gia, bữa ăn này đã được vị thiếu hiệp bàn bên kia thanh toán cả rồi !
Bạch Tuấn Hào cau mày nhìn về hướng tay chỉ của lão.
Nam Cung Giao đứng lên, vòng tay tươi cười :
- Bẩm Sơn chủ ! Uy danh của Tịch Chiếu sơn trang từ lâu đã oai trấn võ lâm, người người đều kính trọng. Tại hạ may mắn được diện kiến tôn nhan ở chốn này xin được tỏ chút lòng ngưỡng mộ !
Đến bậc Thiên tử còn khoái nghe nịnh, huống hồ một gã chủ núi như Bạch Tuấn Hào ? Hơn nữa, Nam Cung Giao anh tuấn, dễ mến, phong thái đường chính chứ chẳng phải phường mặt dơi tai chuột, quen thói sang bắt ro quàng làm họ.
Kẻ cao ngạo họ Bạch khoan khoái vì có người tán dương Tịch Chiếu sơn trang, mỉm cười độ lượng :
- Bổn nhân rất cảm kích tấm lòng của thiếu hiệp.
Cà cuống chết đít còn cay !
Bạch Tuấn Hào không thèm hỏi tên đối phương để chứng tỏ hành vi hào hiệp kia chẳng đáng gì !
Nam Cung Giao vui vẻ nói tiếp :
- Tại hạ ngưỡng mong Sơn chủ hạ cố nhận thêm một món quà mọn !
Bạch Tuấn Hào gật gù :
- Cũng được !
Nam Cung Giao vẫy gọi chưởng quĩ.
Lão khệ nệ ôm một ôm áo lông cừu đến, phát cho bốn người phu khiêng kiệu của Bạch Tuấn Hào.
Họ đang lạnh run vì gió Đông, mừng rỡ khoác vào ngay !
Họ Bạch tái mặt khi thấy tặng phẩm của Nam Cung Giao thuộc loại đắt tiền, chẳng thua gì bộ áo lông của gã đang mặc !
Nãy giờ, bọn hào khách trong quán chăm chú theo dõi hoạt cảnh. Họ hài lòng trước vẻ rất khó coi của Lôi Phong sơn chủ, tủm tỉm cười hoài.
Có kẻ độc mồm thở dài nói bâng quơ :
- Sông có khúc, người có lúc ! Nhà đại phú đôi khi cũng không mua nỗi áo cừu cho gia đinh !
Bạch Tuấn Hào thẹn chín người, ngữa cổ cười dài, rồi quắc mắt nhìn Nam Cung Giao :
- Té ra người rắp tâm làm nhục bỗn nhân ? Bốn người kia là Tứ Thiết hộ vệ, đang khổ luyện Vô Ngại Thần công của bổn bang, phải dầm sương dãi nắng mới mong thành tựu, chứ đâu phải bổn nhân bủn xỉn ?
Nam Cung Giao tròn mắt tỏ vẻ kinh ngạc :
- Té ra là thế ! Chẳng qua vì tại hạ không biết nên đã đắc tội, mong Sơn chủ lượng thứ !
Chàng giả đò bối rối, nói tiếp :
- Phải chăng Vô Ngại Thần Công là để dành cho các đệ tử, còn Sơn chủ luyện công phu khác nên mới mặc áo lông dầy như thế ?
Bọn hào khách phì cười và ai đó bật thốt :
- Đúng vậy ! Bạch Sơn chủ luyện pho Dục Noãn Thần Công (ấp trứng Thần công) đấy mà !
Noãn có nghĩa là trứng, và còn để chỉ hai hoàn ngọc hành trong đũng quần. Vì vậy, mái ngói phạn điếm rung rinh vì trận bão cười của hơn trăm thực khách.
Chốn đông người, chẳng thể tìm ra kẻ đã chế giễu mình, Bạch Tuấn Hào điên tiết, mặt trắng bệch, trút hận lên đầu Nam Cung Giao. Nhưng gã biết rằng giết chàng thì sẽ phương hại đến thịnh danh Tịch Chiếu sơn trang, nên nghĩ cách vớt vát.
Họ Bạch nghiêm giọng :
- Chỉ vì ngươi nên bổn nhân bị mang ra làm trò cười. Giả như ngươi thực lòng muốn Tứ Thiết hộ vệ được ấm áp thì hãy thay Tứ vệ Sở Nhu khiêng kiệu. Bằng ngươi từ chối tức là đã có ý sĩ nhục Tịch Chiếu sơn trang. Và nếu thế, ngươi đừng bao giờ để bỗn nhân gặp lại lần nữa !
Câu nói này rất đắc thế, biểu hiện được cả sự oai phong lẫn lượng bao dung của bậc trưởng trượng !
Tứ Thiết Vệ lặng lẻ cởi áo lông để trả lại cho chàng trai tốt bụng.
Nam Cung Giao ngắm bàn tay thon dài, cứng đỏ vì lạnh nên lóng ngóng, và gương mặt tái xanh của Sở Nhu, nghe dạ xốn xang. Chàng còn nhận rõ vẻ nuối tiếc của nàng, khi phải từ giã bộ áo lông ấm cúng và rất đẹp. Có lẽ cả đời nàng chưa bao giờ được mặc loài áo cừu thượng hạng, trị giá đến hai trăm lượng bạc như thế này !
Nam Cung Giao rất yêu thương mẫu thân nên tràn trề tình cảm với nữ giới. Thuở còn thơ ấu chàng luôn bênh vực đám nữ hài trong xóm chài Dương Sa, không để ai hiếp đáp. Khi chúng bị cha mẹ đánh, thường đến tìm chàng để được an ủi vỗ về. Chàng cũng có chút kiêu ngạo của tuổi thanh niên, chẳng cam tâm khuất phục ngay, bèn xoay qua cách khác :
- Bẩm Sơn chủ ! Tại hạ đã nhẵn mặt các danh lam thắng cảnh đất Hàng Châu nên suốt đời không đến đấy cũng chẳng sao ! Tại hạ chỉ lo cho Tịch Chiếu sơn trang vì việc này mà mang tiếng bất nhân. Và có thể Thần Nữ Kim Diện Cung sẽ hiểu lầm nhân phẩm của Sơn chủ đấy !
Bạch Tuấn Hào động nộ :
- Đừng lắm lời ! Làm ơn thì làm cho trót, hoặc là hãy đi cho khuất mắt ta !
Nam Cung Giao biết đối phương đã quyết làm nhục mình, liền cười ha hả :
- Sơn chủ đã hạ cố cho tháp tùng, tại hạ vui mừng được nếm mùi gian khổ của kẻ luyện Vô Ngại Thần Công !
Thái độ của chàng khiến ai cũng sửng sốt, không ngờ, một người trẻ tuổi giàu có dám phóng tay mua tặng kẻ không quen biết bốn chiếc áo cừu trị giá gần ngàn lượng bạc, lại chấp nhận làm phu khiêng kiệu !
Quần hào bàn tán sôi nổi, người thì bảo chàng khùng, kẻ nói chàng ngụy. Song không ai chê chàng háo sắc vì Sở Nhu tuy kiều diễm nhưng trên trán lại có một bướu thịt nhô ra, trông rất quái dị.
Sở Nhu tròn mắt nhìn chàng trai chưa biết tên, môi thoáng điểm nụ cười là lạ.
Nam Cung Giao bước đến, nói với nàng :
- Tại hạ là Nam Cung Giao, mong Sở cô nương nhường cho vinh dự làm phu khiêng kiệu. Cô nương sẽ cỡi con ngựa già của tại hạ, đi theo sau.
Sở Nhu thẹn thùng gật đầu, nói lí nhí :
- Xin thiếu hiệp đưa túi hành lý cho tiểu muội giữ giùm !
Nam Cung Giao trao cho nàng và nheo mắt nói :
- Cô nương hãy cẩn thận, đừng mở ra, vì trong này có mấy bộ y phục bẩn chưa giặt. Dù cô nương có luyện đến lớp chót Vô Ngại Thần Công thì cũng chẳng chịu nổi mùi hôi của chúng đâu !
Nghe giọng điệu khôi hài, Sở Nhu che miệng tủm tỉm nhưng đám hào khách thì phá lên cười hô hố !
Ba hán tử khiêng kiệu kia bước đến, vòng tay ôm quyền cúi chào Nam Cung Giao, ánh mắt tràn ngập tình cảm. Họ đều có gương mặt chữ điền rắn rỏi, cằm bạch phủ đầy râu quai nón, mũi ưng, mắt diều trông rất cương nghị và kiêu dũng.
Sở Nhu thỏ thẻ giới thiệu :
- Bẩm công tử, đây là Đại ca Sở Tường Thụy, Nhị ca Sở Sĩ Hưu và Tam ca Sở Tích Vũ. Họ là bào huynh của tiểu muội !
Nam Cung Giao vội vòng tay đáp lễ :
- Hân hạnh được làm quen với tam vị !
Bách Tuấn Hào cất giọng khó chịu :
- Lên đường !
Gã nện gót bước ra, oai vệ lên kiệu ngồi.
Nam Cung Giao và ba hán tử họ Sở đặt đòn lên vai rảo bước.
Sở Nhu cũng thượng mã, thúc ngựa theo sau !
Đoạn đường không dài, chỉ đến cửa Bắc trấn là tã dừng lại để ghé vào lữ điếm, vì trời đã về chiều.
Sáng hôm sau, họ lại khởi hành, tiếp tục gội sương tắm tuyết trên đường thiên lý.
Lúc đầu, Bạch Tuấn Hào cho rằng gã ngông cuồng ngây dại kia sẽ chẳng chịu đựng được lâu, tất phải bỏ cuộc, khi ấy gã có cớ để trừng trị chàng.
Không ngờ Nam Cung Giao thoăn thoắt hòa bước chân với ba anh em nhà họ Sở, chẳng hề chịu kém cỏi. Dù đòn kiệu nặng trĩu trên vai, chàng vẫn vui vẻ chuyện trò, tán gẫu với Sở Nhu và đồng nghiệp, những nụ cười đã khiến đường dài ngắn lại.
Mỗi lần dừng chân dùng bữa, Nam Cung Giao gọi những món ăn ngon nhất và loại rượu quí lâu năm để Bạch Tuấn Hào và bốn anh em họ Sở thưởng thức.
Họ Bạch hài lòng vì chẳng phải tốn tiền, song cũng ấm ức vì thấy Tứ Thiết Vệ yêu mến, kính trọng chàng còn hơn cả mình.
Sở Nhu giữ tay nải của Nam Cung Giao nên là người thanh toán chi phí. Ngay lần đầu, nàng đã suýt ngã ngửa khi phát hiện số ngân phiếu trị giá năm vạn lượng hoàng kim trong túi hành lý.
Sở Nhu không dám nói ra ! Và trong lòng dào dạt những cảm xúc kỳ lạ. Chàng trai kia đã thản nhiên giao cho nàng giữ một tài sản khổng lồ mà chẳng hề e ngại !
Được ăn uống no nê, bổ dưỡng, và mặc đủ ấm, sức lực ba gã họ Sở sung mãn, cước trình nhanh gấp bội, nên họ đã đưa Bạch Tuấn Hào đến mục tiêu sớm hơn.
Ngay trưa mười một, cỗ kiệu đã vào thành Từ Châu.
Đoàn người ngụ trong Tứ Hải Đại tửu điếm ba tầng, sang trọng nhất thành.
Bạch Tuấn Hào khoan khoái vênh mặt, giá cả nơi đây rất đắt, chẳng phải khách võ lâm nào cũng dám đến trọ. Gã để mặc cho Nam Cung Giao đặt đến sáu phòng thượng hạng và đòi hỏi thực đơn đặc biệt.
Giờ đây, họ Bạch khát khao có được một thủ hạ giàu có, rộng rãi như chàng trai họ Nam Cung. Gã định bụng sẽ đem pho Lôi Chiếu kiếm pháp lừng danh ra làm mồi chiêu dụ đối phương gia nhập Tịch Chiếu sơn trang.
Thanh danh làm lụy người. Giòng họ Bạch muốn trở thành một môn phái, sánh vai với các phái lớn trong thiên hạ, nên đã thu nạp đến ba trăm đệ tử. Dù đã hết sức tằn tiện, cho họ ăn mắm hút gỏi nhưng tài sản Bạch gia cũng ngày một cạn kiệt. Thực ra, Tâm pháp Vô Ngại của họ Bạch đâu cần phải nhịn ăn, nhịn mặc !
Lần này, Bạch Tuấn Hào đến ứng thí ngôi vị rể Đông sàng của Kim Diện Cung cũng là nhắm vào món hồi môn to tát mà Thần Nữ Tiền Vân Mi sẽ mang về !
Kim Diện Cung phú xưng địch quốc, vì núi Kim Sơn, nơi họ xây cung là điện ở cách thành Từ Châu sáu dặm về hướng Tây Bắc, chính là một mỏ vàng.
Nếu hôn sự thành công, và lại có thêm một gã đệ tử giàu nứt cố đổ vách, chẳng phải là Song Hỉ hay sao ?
Còn như Tuấn Hào không cưới được Tiền Vân Mi, thì gã khùng họ Nam Cung kia sẽ là mỏ vàng của Tịch Chiếu sơn trang !
Nam Cung Giao cũng đoán ra thâm ý của họ Bạch, song tảng lờ như không biết gì cả ! Chẳng thản nhiên dẫn Tứ Thiết Vệ đi thăm thú phong cảnh Từ Châu, về đến khách điếm là cho bày yến tiệc, chẳng hề hỏi giá cả. Tất nhiên, chàng cũng kính mời Bạch Tuấn Hào thưởng thức.
Họ Bạch chẳng dại gì từ chối, nên vô tình phải ngồi chung bàn với Tứ Thiết Vệ, một việc mà trước giờ chưa hề xẩy ra !
Sáng mười lăm, Bạch Tuấn Hào khăn áo chỉnh tề, oai phong tuấn tú trong bộ võ phục gấm màu thanh thiên, mép viền hoa văn vàng nhạt. Gã đủng đỉnh xuống tầng trệt, dùng điểm tâm rồi bước ra sân, định bước lên kiệu.
Tuấn Hào chưa kịp nhận ra rằng Sở Nhu đang đứng vào chỗ của Nam Cung Giao, thì lão chưởng quĩ đã tất tả chạy ra, trong tay cầm một xấp phiếu dầy cộm.
Lão khom lưng cười hề hề :
- Mong Đại gia thanh toán tiền trọ và tiền ăn !
Lúc này, trên sân trước lữ điếm cũng có khá nhiều hào kiệt đang chuẩn bị yên cương để đến Kim Diện Cung.
Họ nhìn về phía Lôi Phong sơn chủ với ánh mắt mỉa mai.
Bạch Tuấn Hào thẹn đỏ mặt, liếc quanh, phát hiện sự vắng mặt của Nam Cung Giao. Gã choáng váng, cố tỏ vẻ lạnh lùng, hỏi Sở Nhu :
- Tứ Hộ vệ ! Sao tối qua không thanh toán tiền cho khách điếm ?
Sở Nhu kín cẩn đáp :
- Sơn chủ là người giử ngân lượng, đệ tử làm gì có.
Tuấn Hào gằn giọng :
- Thế gã Nam Cung Giao đâu ?
Lão Đại Sở Trường Thụy cướp lời bào muội :
- Y đã đi hồi cuối canh tư ! Có gởi lời chào tạm biệt Sơn chủ !
Tuấn Hào chết điếng, trách móc :
- Sao ngươi không giữ hắn lại !
Sở Trường Thủy cười mát :
- Y chẳng phải là đệ tử của Tịch Chiếu sơn trang, thuộc hạ giữ lại làm gì ?
Tuấn Hào giận điên người, quay sang hỏi lão chưởng quỹ :
- Bao nhiêu ?
Lão ta đã mất niềm tin vào vị thượng khách bề ngoài sang cả kia nên hờ hững đáp :
- Bẩm Đại gia ! Tổng cộng các khoản là hai trăm bốn mươi sáu lượng vàng !
Tuấn Hào tá hỏa tam tinh, nghe cổ họng đắng như nuốt mật, bất giác bật thốt :
- Làm gì mà nhiều thế ?
Lão chưởng quĩ cười nhạt :
- Bổn điếm có cơ ngơi khang trang, lộng lẫy nhất phủ Giang Tô, cung cách phục vụ lại chu đáo, xem khách như bậc Vương tôn, tất nhiên giá cả phải cao. Song ba chục năm qua, chưa có vị quí nhân nào vào đây mà mở miệng chê đắt cả ! Tôn giá thử hỏi những vị kia xem ?
Đám hào kiệt đứng gần đấy đồng thanh cười cợt chế giễu họ Bạch :
- Không phải mãnh long thì đừng qua sông ! Đã dám vào trọ ở Tứ Hải Đại Lữ điếm mà còn bủn xỉn nữa sao ?
Có kẻ còn mỉa mai :
- Té ra Tịch Chiếu sơn trang đã sạt nghiệp nên Bạch Sơn chủ mới mong đến đây để ẵm năm vạn lượng vàng hồi môn của Thần Nữ Kim Diện Cung!
Bạch Tuấn Hào run lẩy bẩy, nhục nhã đến mức chỉ muốn độn thổ. Gã thề sẽ tìm cho được Nam Cung Giao mà xé xác.
Trong túi gã hiện giờ chỉ còn chưa tới trăm lượng vàng, cố móc sạch ra cũng không đủ. Hơn nữa, nếu không cưới được Tiền Vân Mi thì lấy đâu ra lộ phí về Hàng Châu ?
Mặt gã lúc trắng, lúc đỏ, đứng chết lặng chẳng biết tính sao.
Lúc này lão chưởng quĩ mới chậm rãi nói :
- Tôn giá là bá chủ một phương, anh hùng khét tiếng nên lão phu niệm tình, mở cho một lối thoát. Nay bổn điếm cũng đang cần võ sĩ hộ viện, sẳn sàng mua lại bốn đệ tử khiêng kiệu kia, với giá năm trăm lượng vàng. Trừ đi chỉ phí ăn ở, tôn giá còn lại hai trăm năm mươi bốn lượng !
Chẳng thể đứng mãi ở đây mà chịu nhục, Bạch Tuấn Hào đành phải chấp thuận. Gã quay sang nói với Tứ Thiết Vệ :
- Nay bổn nhân trúng quỉ kế của tiểu tử Nam Cung Giao, đành phải nhờ các ngươi giúp đở. Sau này ta sẽ mang vàng đến chuộc lại !
Sở Trường Thụy ngửa cổ cười dài, chua xót nói :
- Anh em tại hạ vì mối gia thù đến làm trâu ngựa cho Sơn chủ, mong học được vài đường tuyệt kiếm. Thế mà, hai năm qua Sơn chủ chỉ dạy cho có bốn chiêu, e rằng kẻ thù sẽ chết trước khi bọn ta đủ sức giết lão. Giờ đây anh em tại hạ còn bị đem ra bán thì còn gì đạo nghĩa nữa ?
Gã đang định phản đối quyết liệt thì phát hiện chưởng quĩ nháy mắt với mình, ra hiệu rằng hãy đồng ý !
Trường Thụy hiểu ngay rằng đây là kế hoạch của Nam Cung Giao, muốn giải thoát bốn người họ Sở khỏi lời thề lúc gia nhập Tịch chiếu Sơn Trang.
Gã liền đổi giọng :
- Thôi được ! Bọn tại hạ đồng ý cứu vãn thanh danh cho Sơn chủ. Kể từ nay, anh em tại hạ không còn là người của Tịch Chiếu sơn trang nữa !
Lão chưởng quĩ quay vào quầy, trở lại ngay với số vàng hai trăm năm mươi bốn lượng, toàn bằng tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao.
Từ sau đời vua Minh Thành Tổ, vàng bạc đã được lưu hành song song với tiền giấy, và dĩ nhiên là ai cũng thích thứ kim loại óng ánh hơn những tờ giấy dễ ướt, dễ rách, dễ cháy. Do vậy, lão chưởng quỹ đã vui vẻ tống hết cho Bạch Tuấn Hào.
Lão còn mau mắn bảo tiểu nhị đi gọi bốn gã phu khiêng kiệu để thay thế cho Tứ Thiết Vệ.
Lôi Phong sơn chủ thẫn thờ lên kiệu, lòng phân vân không biết có nên đến Kim Diện Cung nữa hay thôi ? Chắc chắn chuyện này sẽ được loan truyền khắp nơi, khiến mọi người đàm tiếu !
Song, Tuấn Hào chợt nghĩ rằng Nam Cung Giao đến đây chắc cũng để thượng đài ứng thí, vậy thì gã sẽ muối mặt ở lại, giết cho được tiểu tử khốn kiếp kia.
Hơn nữa, gã bắt buộc phải lấy cho được Tiền Vân Mi thì mới cứu vãn nổi cơ nghiệp nhà họ Bạch. Nếu Kim Diện Cung giới hạn tuổi thượng đài là Tứ thập thì Tuấn Hào tin chắc mình sẽ thành công !
Với ba mươi năm tu vi và pho Tịch Chiếu kiếm pháp, gã là cao thủ số một trong hàng ngũ trung niên và thanh niên.
Ý nghĩ này đã khích lệ Tuấn Hào lo đi đến núi Kim Sơn.
Họ Bạch đi rồi, lão chưởng quĩ liền mời anh em họ Sở vào trong.
Lão hồ hởi nói :
- Chính Nam Cung thiếu hiệp đã bàn với lão phu, gài bẫy Bạch Tuấn Hào giải thoát cho chư vị !
Chàng thì bảo rằng : Họ Bạch tính tình lạnh nhạt, kiêu ngạo, thiếu phần nhân tình, tất sẽ không tận tâm dạy kiếm pháp cho anh em họ Sở. Dẫu họ có làm nô lệ cho Tịch Chiếu sơn trang hai chục năm cũng không thể nào giết nổi Hoài Giang Thần Thương. Chư vị hãy đi tìm danh sư khác mà học nghệ !
Lão Nhị Sở Sĩ Hưu rầu rỉ thở dài :
- Anh em tại hạ cũng đã thức ngộ được điều ấy, do bị ràng buộc bởi lời thề nhập môn nên phải cắn răng chịu đựng. Nay nhờ ơn Nam Cung công tử mà thoát vòng cương tỏa, nhưng quả thực chẳng biết tìm danh sư ở chốn nào.
Lão chưởng quĩ cười khà khà :
- Lão phu trước đây là một cao thủ Hắc Đạo, tung hoành mười tám năm mới hoàn lương, kinh doanh lữ điếm này. Lão phu mạo muội nhận xét rằng chư vị hơi kém mắt nên không nhìn ra chân tướng của bậc anh hùng trẻ tuổi họ Nam Cung ? Nếu y chẳng tự tin thắng nổi Bạch Tuấn Hào thì đã không dám hạ nhục gã ! Tứ vị hãy theo phò Nam Cung Giao, lão phu đoan chắc mối gia thù của họ Sở sẽ trả xong.
Lão Tam Sở Tích Vũ mới hai mươi sáu, tính tình sôi nổi, bộp chộp, ăn nói chẳng giử lời. Gã rất khoái Nam Cung Giao nên tán thành ngay, bàn với lão Đại :
- Đại ca ! Hay là chúng ta gả quách Tứ muội cho y. Khi trở thành rể họ Sở, y hợp lực với anh em ta giết lão Hoài Giang Thần Thương ?
Sở Nhu bẽn lẽn trách móc :
- Tam ca toàn nói quàng xiên, công tử đâu thèm để ý gì đến tiểu muội !
Tích Vũ ngoác miệng định cãi gì đó thì nghe lão chưởng quĩ nói với giọng diễu cợt :
- Ý kiến của ngươi cũng không phải dở, song e rằng quá muộn và Nam Cung thiếu hiệp đã đi núi Kim Sơn tranh ngôi rể quí của nhà họ Tiền.
Và lão trao cho Sở Nhu mười tờ ngân phiếu trị giá tổng cộng ngàn lượng bạch ngân :
- Nam Cung Giao tặng cho Tứ vị số bạc mọn này để làm lộ phí !
Bốn anh em họ Sở cảm động đến ngây người, vòng tay cáo từ chưởng quĩ kiêm chủ nhân Tứ Hải Đại Lữ điếm, vội vã rời thành Từ châu, đến Kim Sơn tìm Nam Cung Giao.
Song, chàng chưa có mặt ở lôi đài mà lại đang chểm chệ trong một tửu quán cạnh đường quan đạo.
Quán này khá độc đáo vì chỉ bán độc nhất chỉ một loại đồ nhắm, đó là thịt chó !
Sáng này, lúc rời thành Từ Châu, Nam Cung Giao đi ngang nơi đây, thoáng nghe có người gọi rượu thịt bằng tiếng An Nam, lòng rộn lên cảm xúc hoài hương ! Chàng chưa được về quê mẹ lần nào, nhưng trong tâm thức luôn đầy ắp những ấn tượng đẹp đối với vùng đất xa xăm kia.
Ở nhà, chàng và thân mẫu thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Giao Chỉ. Nay xa mẹ, chàng khát khao được nghe những âm thanh êm ái du dương ấy.
Lôi đài sẽ mở trong bốn ngày, do vậy, Nam Cung Giao chẳng cần vội vả, rẽ pha ghé vào quán nọ !
Tuy chủ quán là người Giao Châu nhưng thực khách thì Tàu Ta có đủ.
Trong ngày đông lạnh giá thế này thịt chó nóng và rượu nếp là hai món ngự hàn tốt nhất.
Người Trung Hoa ở lưu vực sông Hoàng Hà cũng biết ăn thịt chó. Dòng sông tai họa này liên tục gây ngập lụt, lúc thì phá vỡ đê, lúc thì đổi dòng chảy. Khi ấy, lê thứ đói khổ lầm than, họ ăn cả chuột chứ đừng nói chó ! Và thịt chó lại là món ăn ngon nhất trên đời, nên sau này dù không gặp thiên tai, bách tính cũng vẫn tìm mà ăn !
Người Trung Hoa nổi tiếng thánh thủ trong nghề bếp núc, nhưng đối với thịt chó thì họ nấu không ngon bằng người Giao Châu.
Quán này nằm quay lưng hướng ngọn gió Đông Bắc, nên cửa chính có thể rộng mở mà đón khách. Hơn nữa, hôm nay tuyết rơi nhẹ.
Có lẽ nhờ sanh ý phát đạt nên người chủ quán tha hương kia đả xây được một cơ ngơi khá khang trang. Tường gạch, mái ngói.
Nam Cung Giao mỉm cười khi nhìn hai ngọn cờ trên sào tre trước sân, một viết chữ tửu, lá bài còn lại là bốn chữ "Cẩu Nhục Thất Bảo" .
Chàng cột ngựa, bước vào quán, nhận ra các bàn đều đã có người, chàng cau mày định quay ra thì một thiếu nữ áo xanh vải thô, tóc thắt hai bím đong đưa, bước đến vui vẻ mời :
- Công tử cứ vào ! Tiện nữ sẽ thu xếp chỗ ngồi.
Nàng đưa vị khách trẻ tuổi quí phái đến một bàn ở cạnh vách hướng Nam.
Người ngồi ở bàn này là một lão nhân lục tuần, y phục cũ kỷ, tóc tai rối bù. Trước mặt ông ta chỉ có một đĩa dồi nhỏ và bình rượu.
Có lẽ lão nhân uống chịu nên biết thân phận, chớp đôi mắt lèm nhèm, cười cầu tài :
- Lão phu sẽ xuống bếp cho ấm ! Lão lật đật bưng đĩa, cầm bình rời chỗ.
Thiếu nữ lấy khăn lau mặt bàn, duyên dáng bảo :
- Công tứ dùng món gì ?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Đủ bẩy món. Nếu có rượu nếp Giao Châu thì lấy ba cân.
Thiếu nữ gật đầu, liếc chàng tình tứ rồi rảo bước.
Chỉ lát sau, rượu thịt, rau rác đã được dọn lên.
Nam Cung Giao cau mày :
- Sao không có Trung Tiện Diệp !
Thiếu nữ hầu bàn chưa kịp đáp thì ai đó đã phì cười, nói bằng giọng ồm ồm như sấm :
- Ngươi ngu thực ! Ở phía Bắc Trường Giang làm gì có loại lá ấy ?
Người nói là hòa thượng áo xám, ngồi ở bàn bên cạnh. Tuổi lão độ sáu mươi, mày rậm mắt lộ, mũi thẳng, miệng rộng, mặt chữ điền, cằm má đầy, râu lởm chởm. Trông lão cũng khá oai vệ, nếu mồm mấp không bóng loáng vì mỡ chó.
Thực khách trong quán giật mình, dừng đũa nhìn xem chàng công tử áo gấm xanh kia có nổi nóng hay không ? Một kiếm khách trẻ tuổi như chàng chắc sẽ chẳng chịu để kẻ khác vô cớ chưởi mình nghe !
Song Nam Cung Giao lại thản nhiên cười, lộ rõ vẻ ngượng ngùng :
- Đại sư dạy chí phải ! Đệ tử quả là ngu ngốc !
Chính vị hòa thượng kia cũng phải sửng sốt trước độ lượng của chàng trai !
Nam Cung Giao ung dung ăn uống rất ngon lành, chậm rãi thưởng thức hương vị của món mà ngày còn ở nhà mẹ mình vẫn nấu !
Thiếu nữ thắt bím cứ lởn vởn qua bàn chàng, thỉnh thoảng lại ân cần hỏi xem chàng có còn đòi thêm gì nữa không?
Nàng còn khéo léo tự giới thiêu :
-Tiện nữ là Trần Lan, công tử muốn sai bảo, cứ gọi Lan nhi là đủ !
Trần Lan tuổi độ mười sáu, mười bảy, cơ thể chưa phát triển, nhưng dung nhan hứa hẹn mai sau trở thành mỹ nữ.
Nam Cung Giao đoán nàng thuần chủng Giao Chỉ, vì gương mặt có nét đẹp khác Mã Hoàn Cơ và Tiền Vân Mi.
Trần Lan đã khiến chàng nhớ đến mẫu thân, do vậy chàng vui vẻ đáp :
- Lan nhi sẽ phải vất vả đấy, sức ta có thể ăn được hai mươi mốt đĩa thịt của quán này !
Lan nhi phì cười :
- Công tử quả khéo nói đùa !
Bên kia, hòa thượng áo xám ôm bụng cười sằng sặc :
- Tiểu tử người ăn như vậy trong mười năm, e rằng sẽ biến thành chó đấy !
Cả quán cười ồ lên. Kẻ có máu khôi hài thì luôn rộng lượng, ít khi nổi giận.
Nam Cung Giao tươi cười trả đủa :
- Đại sư tuổi đã cao, ăn thịt chó chắc không dưới ba chục năm, e rằng sẽ biết sủa trước đệ tử đấy !
Chàng nói rất hữu lý nên mọi người đồng thanh khen phải, và có kẻ nói :
- Nguy quá ! Lão phu thấy mấy răng nanh của hòa thượng khá dài rồi đấy !
Các tửu khách ôm bụng cười nôn ruột, chế giễu lão hòa thượng lắm lời kia.
Gậy ông đập lưng ông.
Hòa thượng tái mặt hổ thẹn, miệng lẩm bẩm :
- Tiểu tử này quả là khó chơi thực !
Tiểu Lan không vui khi thấy lão trọc phá giới kia cứ liên tục buông lời mạ lị, khiêu khích người trong mộng của mình. Nàng ngoe nguẩy bỏ đi vào bếp, nhưng do sơ ý, vấp vào chân ghế, lảo đảo ngã xuống, phải bám vào vai lão hòa thượng.
Nàng lúng túng xin lỗi lão rồi rảo bước.
Nam Cung Giác ăn hết bẩy món Cẩu Nhục Thất Bảo, gọi quán tính tiền.
Hòa thượng áo xám cũng vậy.
Song mặt lão chợt xám ngoét như gà bị cắt tiết, hai tay sờ soạng khắp người, nhìn cả xuống gầm bàn để tìm túi bạc !
Lão giận dữ hỏi :
- Kẻ nào đã dám lấy hầu bao của bổn Đầu Đà ?
Tửu khách đều đã ngà say nên lớn tiếng phản đối :
- Lão nói nhăng nói cuội gì thế ! Bọn ta đều là người lương thiện, thấy của rơi còn không thèm nhặt, huống hồ gì trộm cắp !
Nghe ồn ào, mẹ của Tiểu Lan trong bếp chạy ra, bà dịu dàng hỏi :
- Hay là Đại sư để quên túi bạc ở nhà ? Khu vực này hai mươi mấy năm nay không hề có bóng kẻ bất lương nào cả ?
Lão hòa thượng chợt nhớ ra cảnh cô gái hầu bàn kia đã chạm vào mình. Ông quắc mắt nhìn nàng, song không hề phát hiện nét bối rối vì tội lỗi. Ánh mắt này vẫn trong sáng, ngây thơ và vô cùng thánh thiện.
Bị xúc phạm, các tửu khách đua nhau mỉa mai hòa thượng :
- Túi không tiền thì cứ ngữa tay mà xin ăn, sao lại bày trò đổ vạ lên đầu người khác ?
Hoặc là :
- Lão sư phá giới này chắc đã quen thói ăn quịt, phải giải lên quan thôi ! Lão ta là người ăn quịt, Đại Nương đừng cho thiếu !
Hòa thượng chịu hết nỗi điên lên quát vang như sấm :
- Câm ngay ! Câm ngay !
Rồi lão quay sang bảo Nam Cung Giao :
- Ngươi cho bần tăng vay đỡ hai lượng để trả tiền rượu thịt.
Tuy nói thế nhưng lão chẳng mấy hi vọng, vì lúc nãy đã từng xỏ xiên đối phương !
Nào ngờ Nam Cung Giao mỉm cười gật đầu, nói với tiểu Lan :
- Lan nhi cứ tính cả cho ta !
Lan nhi nhìn chàng bằng ánh mắt khâm phục :
- Công tử quả là đại phương đại lượng hiếm có trên đời !
Và nàng e thẹn hói nhỏ :
- Danh tính của chàng là gì ?
Nam Cung Giao xưng tên và nói đùa :
- Lan nhi hãy ghi sẵn vào sổ nợ, lần sau ta sẽ ăn chịu đấy !
Chàng trả tiền, tặng luôn số thừa, vòng tay chào chung cả chủ lẫn khách rồi quay gót.
Lan nhi theo ra đến tận cửa tần ngần nhìn chàng tháo dây buộc ngựa và lưu luyến hỏi vọng :
- Ngày mai công tử có đến không ?
Nam Cung Giao nheo mắt đáp :
- Nếu còn ở lại đất Từ Châu này, ta hứa ngày nào cũng đến.
Hòa thượng áo xám đứng gần đấy hậm hực trách móc :
- Ngươi quả là kẻ chẳng ra gì, thấy gái đẹp là tít mắt lại !
Nam Cung Giao không giận, chỉ cười khà khà :
- Duyên nợ do trời định ! Số đệ tử đa thê nên cố tránh cũng chẳng được !
Tiểu Lan thẹn thùng cúi mặt nhưng lòng sung sướng vô hạn. Té ra chàng cũng chẳng hờ hững với nàng !
Nam Cung Giao vừa thượng mã thì hòa thượng áo xám cũng nhẩy lên ngồi trên lưng ngựa, lạnh lùng bảo :
- Tiểu tử cho bần tăng quá giang đến núi Kim Sơn. Tới nơi, bần tăng sẽ bảo nha đầu Mã Hoàn Cơ trả lại cho ngươi hai lượng bạc lúc nãy.
Nam Cung Giao giật mình ấp úng :
- Té ra đại sư đi cùng Mã tiểu thư đến đây !
Hòa thượng cười nhạt :
- Đúng vậy ! Bần tăng là Cẩn Nhục Đầu Đà ở núi Tây Hà, sư đệ của Mã Thượng Thư. Con tiểu nha đầu Hoàn Cơ vì say mê ngươi nên đã nhất quyết rời Nam Kinh đi tìm. Sư huynh và sư tẩu bần tăng vì lo thân gái dặm trường nên bắt bần tăng và gã Mã Kim Khu theo hộ tống. Bọn ta bám theo hụt cả hơi, không ngờ ngươi lại đang đi tìm duyên mới !
Nam Cung Giao cảm kích trước mối tình ý chân thành, nồng nhiệt của Hoàn Cơ thầm xấu hổ cho thói tham hoa luyến sắc của mình. Chàng bèn ra sức biện bạch, kể lại cuộc chạm trán với Yên Đài Song Sát và vì nghĩa đệ Mộc Kính Thanh mà phải nhận lời đến Kim Diện Cung ứng thí.
Cẩn Nhục Đầu Đà sững người :
-Té ra con liễu đầu Vân Mi cũng đã để mắt xanh đến ngươi nên Yên Đài Song Sát mới bức bách ngươi thượng đài.
Lão tần ngần suy nghĩ một lúc, chợt vỗ vai Nam Cung Giao, bật cười khanh khách :
- Bần tăng cũng nhận ra ngươi có tiếng đa thê nhưng nếu ngươi muốn được cả Nga Hoàng lẫn Nữ Anh tất phải hết lòng cung phụng bần tăng như cha mẹ. Lúc ấy bần tăng sẽ thuyết phục con bé Hoàn Cơ chịu chung thuyền với Thần Nữ Tiên Vân Mi.
Nam Cung Giao vội thoái thác :
- Tiểu điệt lúc nào cũng tôn kính sư thúc, nhưng chẳng thể làm tổn thương Hoàn Cơ được ! Sư thúc cứ kể rõ cho nàng nghe nội tình, còn tiểu điệt sẽ thượng đài nhưng giả vờ thua để khỏi phải cưới Vân Mi, mà vẫn tròn lời hứa với Yên Đài Song Sát !
Cẩn Nhục Đầu Đà ngợi khen :
- Tiểu tử người toàn tâm với Hoàn Cơ là tốt !
Hai người đều nặng cân nên tuấn mã ì ạch bước đi, cuối giờ Thìn mới đến chân núi Kim Sơn.
Khung cảnh nơi đây náo nhiệt phi thường, quanh lôi đài gỗ là gần ngân khán giả đang ồn ào cổ vũ cho cặp đấu thủ trên đài.
Đa số trong bọn họ là những cao thủ trẻ trung, ăn mặc diêm dúa sang trọng. Nhan sắc Thần Nữ và tài sản khổng lồ của Kim Diện Cung đã khiến rất nhiều người khao khát. Đấy là chưa kể đến pho tuyệt học Kim Long kiếm pháp danh lừng vũ nội của Kim Diện Cung chủ Tiền Phong Vân.
Ai làm rể lão tất sẽ được truyền thụ pho kiếm này !
Kim Diện Cung ra đời chỉ mới mười lăm năm nay nhưng thanh danh khá vang dội.Tiền Cung chủ đã từng đả bại chưởng môn hai phái Võ Đang, Hoa Sơn trong một cuộc so tài hữu nghị.
Võ lâm đánh giá rằng bản lãnh Tiền Phong Vân còn cao hơn cả đương kim Minh chủ của Vương Trung Hưng.
Song, do lão quá giầu nên chẳng dại gì ra tranh chức Minh Chủ !
Thực chất là kẻ làm Minh chủ khổ như chó, chuyên ăn cơm nhà vác ngà voi, bôn ba lận đận vì chuyện của thiên hạ, lại chẳng được trả lương !
Thĩnh thoảng, các phái võ lâm có nhớ đến thì cho người mang vài trăm lượng bạc đóng góp vào ngân quỹ Tổng đàn võ lâm. Nếu họ có quên thì Minh chủ cũng chẳng thể muối mặt cho người đi nhắc nhở !
Quyền lợi duy nhất của Minh chủ là được toàn thể hào kiệt giang hồ tôn kính và được quyền động nhân lực, hay xen vào nội bộ các phái, nếu có tranh chấp. Đặc quyền này là niềm khao khát của những kẻ nuôi dã tâm thống trị võ lâm, còn người quân tử một lòng vì chính khí giang hồ thì ít khi sử dụng đến.
Còn một lý do tế nhị nữa khiến long đầu, thủ lãnh các bang hội lớn ít khi ra tranh cử Minh chủ, vì nếu đắc cử, họ sẽ mất quyền thu thuế bảo kê các hiệu buôn trong địa phận của mình.
Dài dòng đôi chút cho vui, giờ chúng ta sẽ trở lại với lôi đài tỷ võ chiêu phu.
Nam Cung Giao đã gởi ngựa, mon men vòng ngoài, thích thú dõi mắt quan sát trận so tài đang diễn ra trên kia.
Còn Cẩn Nhục Đầu Đà thì đã biến mất, có lẽ đi tìm anh em họ Mã để báo tin mừng.
Quả đúng vậy, lát sau, Mã Hoàn Cơ xuất hiện, bước lên lôi dài từ mé hữu, ngồi sau lưng Thần Nữ Tiền Vân Mi. Tuy vẻ mặt đoan trang, nghiêm nghị, song nhan sắc của Hoàn Cơ chẳng kém gì Thần Nữ.
Các chàng hào kiệt trẻ tuổi xôn xao bàn tán về nữ nhân lạ mặt kia.
Mã Tiểu thư thì thầm với bạn gái, tla cả hai chăm chú nhìn về phía hàng người đứng cuối, nở nụ cười tươi rói !
Từ sáng đến giờ, Vân Mi hoa dung ủ dột, mắt, liếc quanh nhời đang tìm kiếm, chờ đợi ai ? Hoặc đang lo sợ vì lấy phải một đáng trượng phu đui, què mẻ, sứt. Nếu đến nước ấy, Vân Mi chỉ còn cách liều mạng với gã tốt số kia.
Theo luật thì ứng cử viên cũng sẽ phải thắng được Thần Nữ ! Mà kiếm pháp của Vân Mi thì chẳng hề tầm thường chút nào cả ! Nàng thông minh mẫn tiệp nên thành tựu hơn hẳn em trai là Thiếu Cung chủ Tiền Thanh Giám !
Kim Diện Cung chủ Tiền Phong Vân không hề rõ tâm sự của ái nữ. Lão là người độc đoán nên đã quyết định lập lôi đài kén rể, chẳng cần biết ý kiến của Vân Mi. Giờ đây lão đang cao hứng, hài lòng trước hai ứng cử viên sáng giá là Lôi Phong sơn chủ Bạch Tuấn Hào, và Hoàng Ưng Bảo Chủ Tổ Nam Phi, giòng dõi thế phiệt đất Huy Châu.
Người dự khán, dự thí rất đông do vậy, giám khảo là Yên Đài Song Sát đã qui định mỗi ngày chỉ chọn ra mươi cặp đối thủ. Họ thẳng tay loại bỏ những thí sinh võ nghệ tầm thường, xuất thân hèn kém hay dung mạo xấu xí ra khỏi danh sách thượng đài.
Song Sát đã tự động ghi tên Nam Cung Giao vào sổ, ngay khi thấy chàng xuất hiện, họ xếp chàng sang ngày thứ ba để gà nhà có cơ hội quan sát võ công của Lôi Phong Sơn chủ và Hoàng Ưng Bảo chủ.
Bạch Tuấn Hào thượng đài trong ngày đầu, đến chiều đã chiếm ngôi đầu bảng. Gã chẳng gặp khó khăn gì chỉ cần vài chiêu đã đã hạ đối thủ của mình.
Sang ngày thứ hai, Hoàng Ưng Bảo Chủ Tổ Nam Phi cũng chiến thắng oanh liệt y như Lôi Phong sơn chú.
Bạch Tuấn Hào hơi chột dạ trước công lực và pho Hải Ưng đao pháp của họ Tổ. Nếu hai bên cầm đồng thì e rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía Hoàng Ưng Bảo Chủ. Ban giám khảo chắc chắn sẽ chọn Tổ Nam Phi vì gã trẻ hơn, đẹp trai hơn và cũng giàu có hơn.
Trong hai ngày này Nam Cung Giao chỉ dự khán buổi sáng, còn từ trưa đến tối thì cùng Mã Kim Khu, Cẩn Nhục Đầu Đà đi nhậu suốt. Do hai người này cứ bám chặt lấy chàng nên bốn anh em họ Sở chẳng dám đến chào hỏi. Họ đành nhẫn nại chờ đợi cơ hội.
Mã Kim Khu đã báo cho Nam Cung Giao biết việc Hoàn Cơ và Vân Mi kết nghĩa tỹ muội, đồng ý thờ chung một chồng. Gã nhắc đi nhắc lại rằng Nam Cung Giao phải thắng. Nếu không Thần Nữ sẽ liều chết hoặc tự sát !
Nam Cung Giao nhăn nhó :
- Nhưng lỡ tiểu đệ không địch lại Bạch Tuấn Hào hay Nam Phi thì sao ?
Mã Kim Khu cười khanh khách :
- Ngươi đừng giả đò khiêm tốn. Ta đã biết việc ngươi giết Hàm Đan lão Nhị Mạc Đắc Khoa và đả bại cả lão Đại Mạc Vi Hầu ! Tin này, cả vùng Tô Châu đang xôn xao vì việc này, tiếc là kẻ chứng kiến không biết ngươi, nếu không thì ngươi đã lừng danh thiên hạ rồi !
Cẩn Nhục Đầu Đà cười tít mắt, kể công :
- Bần tăng đã phải múa ba tấc lưỡi nên con nha đầu Hoàn Cơ mới chịu thiệt thòi đấy ! Ngươi phải nhớ lời hứa mà tận tình cung phụng ta cho chu đáo !
Chiếu mười sáu, Yên Đài Song Sát đến tìm Nam Cung Giao, cũng với luận điệu rằng chàng không được phép thua.
Nam Cung Giao đành thề thốt rằng có chết cũng phải thắng, và rủ họ nhập bọn vào thành mà uống !
Chàng đã giữ lời, hôm sau toàn thắng bốn trận trở thành ứng cứ viên vòng chung thẩm trong ngày thứ tư.
Nhưng sáng mười tám, khi Bạch Tuấn Hào, Tổ Nam Phi và Nam Cung Giao thượng đài ra mắt giám khảo cùng quần hùng, chuẩn bị bốc thăm so tài, thì cuộc vui phát sinh quái sự.
Một đoàn kỵ sĩ áo đen, đông độ năm mươi người, hộ tống cỗ xe song mã có thùng dát vàng lá rực rỡ xuất hiện. Và năm chục gã kiếm thủ ấy đồng thanh hô vang :
- Thiếu chủ Vô Thanh Cốc giá lâm !
Tiếng họ vang rền như sấm dậy, chứng tỏ một nội lực thâm hậu.
Mọi người giật mình hoang mang, phần vì bất ngờ, phần vì thanh danh đáng sợ của Vô Thanh Cốc chủ, Long Giác Thần Quân Khương Quang Bật.
Trời sinh họ Khương có hai bướu ở góc trán, trông tựa sừng rồng nên lão xưng là Long Giác Thần Quân.
Do tướng mạo quái dị, tính tình lão ta cũng cổ quái, độc ác khác thường.
Trong vòng bốn mươi năm, Khương Quang Bật đã tàn sát rất nhiều người để đoạt sắc, cướp của.
Lần nào lão cũng giết sạch không chừa lại một nhân chứng, dù gà hay chó. Vì vậy tuy biết Long Giác Thần Quân là hung thủ mà các phái chẳng thể hội quân hỏi tội.
Sào huyệt của Khương lão ma có tên gọi là Vô Thanh Cốc, nằm trong rừng núi bạt ngàn Ngũ Kinh Nguyên ở phủ Hồ Nam, nhưng chẳng ai rõ vị trí chính xác là chỗ nào.
Sở trường của Long Giác Thần Quân là pho kiếm pháp Vô Thanh, chiêu thức hiểm ác phi thường, lại hoàn toàn không phát ra tiếng động. Cả pho khinh công Vô Trần ảo lão cũng độc bá võ lâm, đến quỉ không hay, đi thần không biết !
Khương lão đem hai tuyệt học này truyền cho đệ tử Vô Thanh Cốc, biến họ thành những sát thủ thượng thặng, hành sự tàn nhẫn chu đáo, không hề để lại dấu vết.
Khi Vô Thanh Cốc đã ghé mắt xanh vào bảo vật hay nữ nhân nào thì khổ chủ hãy khôn hồn mà dâng nạp, nếu lắc đầu thì toàn gia chết sạch, chẳng còn đến một móng.
Vô Thanh Cốc còn giỏi nghề hóa trang, thủ đoạn xảo quyệt như chồn cáo, khiến nạn nhân chết mà không thấy mặt hung thủ.
Tóm lại, Long Giác Thần Quân và bọn sát thủ Vô Hình Cốc là quỉ dữ vô hình, ám ảnh tâm trí người võ lâm, khiến ai nghe đến cũng ngán ngẩm, khiếp sợ !
Đã dây đến họ thì khó mà sống sót, hoặc phải phát điên vì bị quấy nhiễu.
May thay, mười lăm năm trước, Long Giác Thần Quân đem quân dành cướp viên Tỵ Thủy châu của nhà họ Vương đất Giang Lăng, tình cờ chạm trán Nhị Trưởng lão Thiếu Lâm Tự là Pháp Hoa thần tăng.
Nhị Trưởng lão là bào huynh của Vương Viên ngoại, việc này người ngoài không được biết, và Vô Thanh Cốc cũng vậy.
Pháp Hoa Thần tăng năm ấy đã bát tuần, bản lãnh cao siêu nhất chùa Thiếu Lâm. Thần Tăng đã dùng tuyệt học Kim Cương chỉ lực xoi thủng ngực lão ác ma.
Long Giác Thần Quân kéo quân đào tẩu chẳng rõ sống hay chết mà Vô Thanh cốc im hơi lặng tiếng cho đến tận bây giờ !
Sự tái xuất của tổ chức khủng bố khét tiếng này đã làm mọi người run sợ. Cả Kim Diện cung chủ Tiền Phong Vân cũng thoáng chấn động đôi vai.
Lão mang mặt nạ bằng vàng dát mỏng nên có biến sắc cũng chẳng ai thấy được.
Thiếu Cốc chủ Vô Thanh Cốc bước xuống xe, oai vệ tiến về phía lôi đài. Còn bọn kỵ sĩ thì vẫn ngồi yên trên ngựa, thần thái lạnh lùng đầy vẻ uy hiếp.
Quần hào tự động dản ra, nhường đường cho hậu nhân của võ lâm đệ nhất hung thần. Họ khao khát dán mắt vào hai cục u quái dị trên trước trán của gã Thiếu cung chủ, và rùng mình quay sang hướng khác khi chạm phải nhãn thần tàn độc của đôi mắt Tứ Bạch !
Mắt người thường chỉ có hai phần tròng trắng kẹp lấy tròng đen ở giữa. Nhưng cũng có kẻ mang tướng mặt Tam Bích (trắng ba bên) hay Tứ Bạch (chung quanh tròng đen lộ rõ tròng trắng). Đây là tướng của kẻ đại ác. Thêm vào đó gã Thiếu cốc chủ này còn có gương mặt choắt của loài hồ ly, hàm răng lại nhọn, răng nanh dài ! Thân hình gã cũng thấp nhỏ, chỉ tương đương với nữ nhân !
Bộ trường bào gấm vàng rực rỡ, vạt viền đỏ, trên người gã càng làm nổi bật vẻ xấu xí chứ chẳng có tích sự gì !
Thế nhưng cả con người gã toát ra một vẻ gì đó khiến người đối diện phải khiếp sợ, chẳng dám nhìn lâu.
Thiếu Cốc chủ Vô Thanh Cốc chẳng hề cong gối hay lắc vai mà thân hình vẫn bay vút lên lôi đài, hạ thân êm ái đến mức không có hạt bụi nào bốc lên.
Đây chính là tuyệt học Vô Thần thân pháp !
Gã nhoẻn miệng cười, để lộ hàm răng trắng nhởn, nhỏ và nhọn hoắt vòng tay cung kính nói :
- Bẩm Tiền cung chủ ! Vãn bối Khương Thư Hàn được tin quý cung khai đàn kén rể, vội kiếm trình ngày đêm, song do đường sá xa xôi nên đến trễ. Mong Cung thủ nể mặt gia phụ và nghĩ đến lòng nhiệt tình của vãn bối mà cho phép được tham gia ứng thí !
Ngôn từ của gã rất lưu loát, đúng mực, chúng tỏ là người có học. Và lạ thay, giọng nói của Khương Thư Hàn trầm ấm, ngọt ngào như mía lùi.
Kim Diện Cung có tài sản cơ ngơi ở khắp các phủ Giang Tô, Sơn Đông, Huy Châu nên rất e ngại Vô Thanh cốc. Nếu làm mích lòng Long Giác Thần Quân thì cơ nghiệp to tát kia sẽ tan thành trong phút chốc ! Với thân thủ ma quái, bọn đệ tử Vô Thanh Cốc chưa hề thất bại bao giờ !
Kim Diện Cung thủ Tiền Phong Vân vội gượng cười :
- Công tử có lòng lặn lội nghìn dặm đến đây, khiến lão phu muôn vàn vinh dự và cảm kích. Tuy nhiên nếu để công tử thượng đài vào phút chót thì e rằng ba ứng cử viên kia phải chịu thiệt thòi và sẽ phản đối.
Khương Thư Hàn vui vẻ đáp :
- Vãn bối cũng hiểu được đạo lý này nên sẽ chấp họ tấn công trước ba chục chiêu. Vãn bối sẽ chỉ phòng thủ, nếu bị trúng đòn, dù là rách áo hay rơi đài cũng sẽ nhận bại ngay !
Khẩu khí của gã cực kỳ cao ngạo, ngông cuồng, song lại hợp lý nên Tiền Cung chủ chẳng thể từ chối được.
Ông quay sang thì thầm bàn bạc với Yên Đài Song Sát, được họ tán thành, liền phúc đáp :
- Công tử đã dám nhận phần thiệt để bù đắp cho việc đến trễ, thì lão phu định phải tuân mệnh. Tuy nhiên, lão phu mong công tử hãy cẩn thận, ba người kia đều là những cao thủ kiệt xuất.
Ông bèn giới thiệu Lôi Phong sơn chủ, Hoàng Ưng Bảo Chủ và Nam Cung Giao cho Khương Thư Hàn biết.
Họ Khương cười khanh khách :
- Cung chủ yên tâm ! Vản bối có chắc thắng mới dám đến đây !
Gã bước đến trước mặt Lôi Phong sơn chủ Bạch Tuấn Hào vòng tay chào rồi tươi cười nói :
- Bạch huynh tướng mạo anh tuấn, gia thế hiển hách, lo gì không cưới được mỹ nhân khác, xin hãy nhường chỗ này cho đứa em xấu xí là Hàn tôi. Nếu được vậy, Vô Thanh Cốc sẽ suốt đời nhớ ơn Tịch Chiếu sơn trang ! Chẳng hay lệnh huyện đường vẫn còn khang kiện đấy chứ ?
Giọng điệu uy hiếp này khiến Bạch Tuấn Hào lạnh cả gáy, hiểu rng nếu không bỏ cuộc thì Bạch Gia sẽ gặp tai họa, tan cửa nát nhà chứ chẳng chơi !
Tuấn Hào đành cam tâm đánh mất mỹ nhân, và cũng vì thanh danh của Tịch Chiếu sơn trang, nên cố nặn ra một nụ cười :
- Công tử đã hạ mình nói vậy khiến ta cũng động lòng. Nhưng bao năm nay, tại hạ khao khát được chiêm ngưỡng tuyệt học Vô Thanh kiếm pháp của Khương lão tiền bối nên xin được tiếp vài chiêu. Mong công tử đừng vì vậy mà đem lòng oán hận !
Khương Thư Hàn vội xua tay :
- Không ! Bạch huynh đừng hiểu lầm ! Nếu bị đả bại, tiểu đệ sẽ vui vẻ hạ đài, chẳng giận hờn gì đâu !
Và gã chậm rãi rút kiếm :
- Mời Bạch huynh xuất thủ ! Sau ba mươi chiêu tiểu đệ sẽ phản kích đấy !
Bạch Tuấn Hào thấy đối phương chỉ độ ba mươi tuổi thì chẳng thể nào hơn mình được, liền an lòng giao đấu.
Gã tự nhủ lòng sẽ cẩn thận, chỉ chém rách áo đối phương để tránh mối thù !
Khương Thư Hàn đã dám chấp ba chục chiêu thì lẽ nào lại không thua ! Trong võ học, chỉ cần chấp ba chiêu là đủ nguy rồi !
Bạch Tuấn Hào ôm kiếm chào rồi dồn toàn lực vào pho Lôi Chiếu kiếm pháp gia truyền.
Trời đông âm u không nắng nên kiếm quang chẳng thể chói lọi, nhưng kiếm kình vẫn phát ra những tiếng ầm ì như sấm xa vọng lại.
Thanh trường kiếm của họ Bạch vùng vẫy như rồng thiêng dương nanh múa vuốt, công phá màn kiếm ảnh trắng mờ, lặng lẻ quanh thân đối phương !
Song khủng khiếp mấy, Tuấn Hào có cảm giác như đang đâm chém vào một khối bông mềm mại ! Bảo kiếm của Khương Thư Hàn toát ra luồng kình lực âm nhu và bền chắc, chặn đứng mọi ngoại lực. Thân ảnh họ Khương lại biến ảo như ma muội, thoắt ẩn thoắt hiện, đổi vị trí ngay khi bị dồn đến mép đài.
Tuy không có cảm tình với dung mạo quái ác của Thư Hàn, song võ công của gã đã khiến quần hùng phục sát đất, hoan hô vang dội.
Ba chục chiêu qua mau theo tiếng đếm nhanh của Yên Đài Đại Sát Thân Công Hải. Và sau đó là tiếng thét thê lương của Lôi Phong Sơn Chủ.
Bạch Tuấn Hào tung mình rời khỏi lôi đài, để lại cánh tay tả trên sàn gỗ. Không còn mặt mũi nào ở lại, gã nén đau và lặng căm hận, rời khỏi Kim Sơn.
Quần hùng tận mắt chứng kiến chiêu phản công của Thiếu Cốc chủ Vô Thanh Cốc, thấy rõ gã lao thẳng vào lưỡi kiếm của họ Bạch, và chỉ trong chớp mắt đã chém phăng cánh tay trái đối phương. Nếu Tuấn Hào không nhanh chân đào tẩu thì đã thủng ngực rồi !
Kiếm thuật thượng thừa này khiến mọi người lắc đầu, le lưỡi.
Nhưng họ không tán thưởng vì sắc diện Thư Hàn lúc này vô cùng tàn ác, mắt gã sáng rực và trên môi nở nụ cười thỏa mãn !
Thần Nữ Tiền Vân Mi tái mặt, chết điếng trong lòng. Nàng hiểu rằng mình sẽ phải lấy con quái vật kia ! Khi nghe tiếng thở dài của Yên Đài Song Sát nàng biết là Nam Cung Giao không thể địch lại Khương Thư Hàn !
Kim Diện Cung chủ bảo đệ tử dọn sạch sàn lôi đài rồi trầm giọng hỏi :
- Khương hiền điệt có cần phải nghỉ ngơi hay không ?
Thư Hàn cười ngạo nghễ :
- Chẳng cần đâu, vãn bối chẳng hề mệt chút giào cả !
Rồi gã bước đến trước mặt Hoàng Ưng Bảo Chủ, lập lại câu mà đã nói với Bạch Tuấn Hào !
Tổ Nam Phi lạnh lùng đáp :
- Tại hạ biết mình không xứng là đối thủ của các hạ nên đành phải rút lui. Tuy nhiên, đúng ngày này ba năm sau, chúng ta sẽ tái ngộ, địa điểm là chân núi Thiếu Thất !
Quần hào ồ lên, thầm khen ngợi Tổ Nam Phi là bậc hào kiệt thức thời và dũng lược. Gã đã thực hiện câu "quân tử ba năm báo thù cũng không muộn". Bảo toàn thực lực để có cơ hội rửa hận. Hơn nữa, núi Thiếu Thất tượng trưng cho mối nhục của Long Giác Thần Quân và Vô Thanh Cốc.
Khương Thư Hàn biến sắc, ngữa cổ cười vang :
- Được ! Bổn công tử nhận lời !
Tổ Nam Phi vái chào Kim Diện Cung chủ, liếc Thần Nữ bằng ánh mắt hổ thẹn, đau đớn, rồi hạ đài phi thân đi mấtì
Quần hùng chán nản vì cho rằng chắc chắn là chàng trai trẻ Nam Cung Giao cũng sẽ tự lượng sức mình mà rút lui.
Ngay Yên Đài Song Sát Tiêu Xuân Oanh cũng rầu rỉ bảo :
- Nam Cung công tử hãy suy nghĩ cho kỹ rồi quyết định !
Chàng mỉm cười, lắc đầu rồi chủ động bước đến, vòng tay chào hỏi Khương Thư Hàn :
- Khương đại huynh ! Chẳng hay lệnh tôn có khang kiện không ? Gia mẫu cũng ở họ Khương, mong Đại huynh vì chút tình đồng tính mà nhường mối này cho tiểu đệ !
Thanh danh quí cốc lẫy lừng tứ hải, đại huynh muốn mỹ nhân nào thì cứ việc đến mà bắt còn tiểu đệ xuất thân nghèo khó, tầm thường, e khó mà kiếm được vợ đẹp.
Dáng điệu khúm núm, vành cạnh của chàng cũng như cách chàng bắt chước thủ đoạn của đối phương đã khiến quần hào cười nôn ruột !
Bị đòn gậy ông đập lưng ông, Khương Thư Hàn mất bình tĩnh, gằn giọng :
- Sao ngrơi dám bêu riễu Vô Thanh Cốc ?
Nam Cung Giao tròn mắt ra vẻ ngạc nhiên vì bị oan uổng, nhăn nhó biện bạch :
- Khương biểu huynh chớ hiểu lầm lòng thành của tiểu đệ ! Oai phong của Vô Thanh Cốc nhà ta vang dội võ lâm mấy chục năm nay, đến đứa bé mới học ngồi còn biết ! Ở quê tiểu đệ mỗi lần bọn tiểu hài khóc nhè là mẹ chúng lại hăm dọa : Có nín đi không ! Long Giác Thần Quân nghethấy bây giờ ! Thế là chúng nín ngay !
Lần này chẳng ai không cười, ngay cả Kim Diện Cung Chủ lẫn Thần Nữ Tiền Vân Mi.
Khương Thư Hàn giận đến run người, mắt sáng rực như đổ lửa. Gã biết kéo dài sẽ càng mang nhục vì cái miệng trơn tru như mở của tiểu tử xảo quyệt kia, liền nạt :
- Đừng nhiều lời ! Giờ ngươi đánh hay rút ?
Nam Cung Giao thở dài thất vọng :
- Nay biểu huynh không nghĩ đến tình quyến thuộc thì tiểu đệ cũng đành phải liều mạng bồi tiếp vài chiêu. Nếu tiểu đệ lỡ tay đả thương người, mong rằng Khương lão bá sẽ lượng thứ cho ! Biểu huynh là người quân tử tất sẽ không giận, nhưng biết đâu Thần Quân vì thương con mà trút hận lên đầu tiểu đệ và Kim Diện Cung thì sao ?
Khương Thư Hàn điên tiết quát :
- Ngươi có giỏi thì cứ giết ta cũng được ! Gia phụ sẽ chẳng bao giờ làm chuyện giận cá chém thớt !
Kỉm Diện Cung chủ và mọi người thức ngộ ngay ẩn ý tuyệt diệu mà Nam Cung Giao đang rào trước đón sau để tránh di họa, vì Thư Hàn lúc nãy chỉ hứa là bản thân không trách oán chứ đâu nhắc đến cha gã !
Nhưng liệu chàng có cần phải làm thế hay không, khi bản lĩnh Thư Hàn quá cao siêu, và gã đang giận chàng điên cuồng.
Ánh mắt rực lửa kia biểu hiện rằng gã sẽ không tha cho Nam Cung Giao được sống sót.
Thần Nữ Tiền Vân Mi cũng hiểu tâm địa của Thư Hàn, không nỡ nhẫn tâm để người yêu chết thảm, liền ai oán nói :
- Mong Nam Cung công tử hãy hạ đài ! Tiểu muội không đủ dũng khí chứng kiến cảnh công tử uổng mạng !
Nam Cung Giao cười khanh khách :
- Hiền muội chớ lo ! Ta đâu dại gì mà thí mạng ! Nếu thấy khó ăn, ta chỉ đánh đến chiêu thứ hai mươi chín là bỏ cuộc, thì làm sao chết được ?
Toàn trường ồ lên khâm phục cơ trí của chàng kiếm khách trẻ tuổi, còn Khương Thư Hàn thì tức anh ách, thở phì phò !
Nam Cung Giao chậm rãi rút kiếm, đứng theo tư thế đặc dị của yếu quyết Phiên Dực Tung Phi.
Khương Thư Hàn đã nhận ra kiếm của đối phương dài hơn kiếm của mình gần gang tay, liền nhớ đến lời của Long Giác Thần Quân :
- Pho Vô Thanh Kiếm pháp nhà ta chỉ có một khắc tinh duy nhất là pho Vạn Lý Trường Hồng của Trường Hồng Kiếm khách Thẩm Tư Nhân ở đất Tây Vực. Lão ta sử dụng một thanh kiếm dài thượt, từng đả bại nội tổ của Hàn nhi. Nhưng may thay, lão họ Thẩm đã chết từ bẩy mươi năm trước.
Khương Thư Hàn chột dạ, đoán Nam Cung Giao có thể là truyền nhân của Trường Hồng kiếm khách.
Gã vội định thần, thanh trừng tạp niệm, giữ cho lòng thư tĩnh hầu phát huy được hết tinh túy của kiếm pháp gia truyền.
Nếu để cho sự nóng giận chi phối, chiêu thức sẽ lộ nhiều sơ hở.
Luyện kiếm từ thuở lên tám, Khương Thư Hàn thực sự là một kiếm thủ thượng thừa, gã mau chóng thành tâm, hợp nhất với kiếm.
Gã dịu giọng hỏi :
- Chẳng phải người là đồ tử, đồ tôn của Trường Hồng Kiếm khách ?
Nam Cung Giao phì cười :
- Biểu huynh đừng sợ ! Tiểu đệ chẳng dính dáng gì đến lão ấy đâu ! Và chàng bỗng hạ kiếm, nghiêm giọng :
- Dù sao, tiểu đệ cũng vì tình nghĩa họ hàng mà khuyên biểu huynh một câu chót !
Thư Hàn cố tỏ vẻ ung dung hỏi :
- Người định khuyên ta điều gì ?
Nam Cung Giao đáp :
- Tiểu đệ mong biểu huynh đừng tiếp tục ăn thịt chó nữa ! Một vị cao tăng đắc đạo đã bảo rằng : Ăn thịt chó mười năm sẽ hóa chó ! Nay răng của biểu huynh đã nhọn hoắt thế kia, khiến lòng tiểu đệ vô cùng lo ngại !
Cẩn Nhục Đầu Đà ôm bụng cười rống lên, và tất nhiên mọi người cười theo.
Đầu Đà khoái chí, quát vang :
- Chính bần tăng đã nói ra câu ấy đấy !
Cái tâm của Thư Hàn lại xao động vì lửa giận, và lập tức Nam Cung Giao ập đến tấn công.
Đòn bất ngờ này đã khiến Thư Hàn phải thoái bộ, toát mồ hôi, vì mũi kiếm của đối phương chỉ còn cách áo mình một lóng tay.
Gã vội dồn toàn lực tạo nên màn kiếm ảnh dầy đặc, chống đỡ những đòn tiếp theo.
Nam Cung Giao đánh liền một hơi mười tám chiêu, không làm gì được họ Khương. Bỗng dừng tay, quay lại hỏi :
- Bẩm Giám đài, đã đến chiêu thứ mấy rồi ?
Yên Đài Đại Sát mỉm cười :
- Chiêu thứ mười tám !
Nam Cung Giao gật gù :
- Thế là còn mười một chiêu nữa !
Chàng lại thủ thế và xuất liền ba chiêu, dừng lại nghỉ ngơi. Quay xuống phân bua với đồng đạo :
- Do đối phương không qui định thời gian nên tại hạ sẽ nhẫn nha mà đánh. Mong chư vị lớn tiếng đếm giùm cho, nếu không tại hạ sẽ lỡ tay đánh đủ ba chục chiêu thì nguy đó !
Quần hào vui vẻ ưng thuận, cao giọng đếm.
Nam Cung Giao lại tấn công một loạt bốn chiêu, rồi ba chiêu, và cuối cùng là bốn chiêu cho đủ số hai mươi chín.
Sau mỗi loạt, chàng đều đình thủ nghỉ ngơi, cười nói, khiến Thư Hàn giận tím mặt.
Gã đã nhận ra đối thủ không sử dụng pho kiếm pháp Vạn Lý Trường Hồng, vì đường kiếm lừng danh kia có ánh hồng như cầu vòng, từ xa bay đến tựa sấm sét.
Thư Hàn không còn lo ngại nữa. Mà chỉ hận là chẳng có cơ hội giết tiểu quỉ láo xược kia !
Đến lượt bốn chiêu chót, khi quần hào đếm số hai mươi chín thì Nam Cung Giao khứng lại, mũi kiếm hạ thấp xuống. Vô tình, Khương Thư Hàn cũng thở hắt ra, xem như xong trận.
Từ đầu đến giờ gã luôn bị Nam Cung Giao tạo ấn tượng là chàng chỉ đánh hai mươi chín chiêu rồi rút lui.
Nhưng không ngờ, đấy chính là chủ ý của Nam Cung Giao.
Vừa nghe tiếng thở ra của đối phương, chàng ập đến như cơn lốc, xuất chiêu Thiên Mao Phóng Thủy (Ngàn lông rẽ nước ), mũi kiếm hóa thành ngàn giọt long lanh bủa kín thân hình Thư Hàn.
Đây là chiêu kiếm lợi hại nhất trong pho Lạc Điểu kiếm pháp, Nam Cung Giao đã phải luyện suốt hai năm ròng mới thành tựu.
Thực ra, nếu chàng thi triển chiêu này lúc họ Khương phòng thủ cẩn mật thì cũng khó mà thành công.
Ngũ Linh Nguyên là vùng núi non kỳ tú rộng lớn nhất Trung Hoa, gồm đến ba ngàn đỉnh núi, lại có nhiều kỳ hoa dị thảo quý hiếm.
Thư Hàn đã được Long Giác Thần Quân cho ăn một con Vô Cốt Tam Đầu Xà, nên hiện nay gã sở hữu đến hơn bốn mươi năm công lực. Vì vậy luồng kiếm kình âm nhu của gã rất lợi hại, chống lại được mọi ngoại lực !
Tu vi của Nam Cung Giao kém hơn, khó mà xuyên thủng được. Song chàng đã tấn công đúng vào lúc Thư Hàn lơi lỏng, chưa kịp dồn đủ chân khí, nên đã đắc thủ.
Mũi kiếm của Nam Cung Giao đã vươn được đến mục tiêu, đâm thủng ngực phải họ Khương.
Gã rú lên đau đớn, ôm ngực nhẩy lùi.
Mọi ngươi ngơ ngác mất một lúc mới hiểu ra, mừng rỡ nhẩy nhót reo hò nhiệt liệt, át cả tiếng đếm lạc lõng của Yên Đài Nhị Sát.
- Tam thập !
Nam Cung Giao đã đình thủ vòng tay tủm tỉm cười :
- Cảm tạ Khương biểu huynh đã nhường mối lương duyên này cho tiểu đệ !
Thư Hàn điểm huyệt chỉ huyết, mặt trắng bệch vì tức và thẹn.
Gã rít lên :
- Tiểu tử ngươi quả là gian xảo, lừa được cả ta ! Một năm sau, ta sẽ đến Kim Diện Cung tìm người mà hỏi tội, nếu ngươi sợ chết vắng mặt thì Kim Sơn sẽ không còn một cọng cỏ !
Nam Cung Giao nghiêm nghị đáp :
- Tại hạ hứa sẽ tắm gội, dọn mình chờ đợi. Nhưng từ nay đến hôm ấy mong công tử đừng dở thói tiểu nhân cho người ám toán tại hạ, hay quấy nhiễu Kim Diện Cung !
Khương Thư Hàn chẳng thể để thiên hạ chê cười, đành khẳng định :
- Ta đã hứa tất sẽ chẳng bao giờ nuốt lời !
Gã nhẩy xuống đất ra ngoài, trèo lên xe song mã cùng thủ hạ rút lui.
Ở đây quần hào cao giọng chúc mừng Tiền Cung chủ kén được chàng rể tài trí hơn người, tuy kém sức nhưng đã chuyển bại thành thắng !
Tiền Phong Vân không mấy hài lòng vì Nam Cung Giao không xuất thân từ chốn danh gia, tài sản, thế lực không môn đăng hộ đối với Kim Diện Cung.
Thực lòng, ông mong Khương Thư Hàn thắng trận để được làm thông gia với nhân vật đáng sợ nhất võ lâm.
Ông quá rõ tính nết của Long Giác Thần Quân nên thầm lo sợ cho Kim Diện Cung và hạnh phúc của ái nữ.
Ngày này năm sau, nếu Nam Cung Giao thắng thì Long Giác Thần Quân không tha cho Kim Diện Cung, bằng như chàng thất thủ, chết dưới tay Thư Hàn, thì Vân Mi sẽ góa chồng !
Lòng rối bời như thế nên Tiền Cung chủ buột miệng nói :
- Tiếc rằng rể quý của lão phu chỉ còn sống được một năm nữa thôi ?
Giọng lão lạnh lùng, hằn học nên Nam Cung Giao hiểu ngay tâm sự.
Chàng mĩm cười chua xót :
- Cung chủ yên tâm, vãn bối tự lượng sức mình, không lưu hại đến Thần Nữ Kim Diện Cung. Cuộc hôn nhân này khiến Cung chủ chẳng vui lòng thì cứ xem như không có ! Vãn bối xin cáo biệt, hẹn một năm sau sẽ quay lại phó hội với Khương Thư Hàn.
Dứt lời chàng phóng xuống đất, lướt đi như cánh chim bằng !
Tiền Phong Vân thấy quần hào xì xầm, chê bai thái độ khiếp nhược của mình, lòng vô cùng hổ thẹn, nhưng vẫn chụp lấy cơ hội, tuyên bố ngay :
- Chư vị đã nghe Nam Cung Giao tự mình từ hôn chứ chẳng phải ý của lão phu !
Cẩn Nhục Đầu Đà giận dữ gầm lên :
- Lão đã quá sợ Vô Hình Cốc như vậy thì hãy đóng cửa Kim Diện Cung, đừng ló mặt ra chốn giang hồ nữa !
Tiền Phong Vân biết Đầu Đà là sư đệ của Nam Kinh Hình Bộ Thượng Thư Mã Xuân Trác nên không dám đụng đến, chỉ tảng lờ như điếc.
Song Thần Nữ Tiền Vân Mi đã lảo đảo rời bục gỗ, bước xuống gần mép đài nghẹn ngào nghiêng mình chào cử tọa rồi nói :
- Kính cáo chư vị ! Dù gia phụ có nói gì thì tiện nữ cũng xem mình là dâu họ Nam Cung, dẫu chết cũng không thay lòng đổi dạ !
Nói xong nàng ngã vật xuống sàn đài chết giấc.
Mã Hoàn Cơ vội chạy đến đỡ lên.
Cẩn Nhục Đầu Đà oang oang giới thiệu :
- Con bé áo vàng đang đỡ đầu Thần Nữ Tiền Vân Mi kia tên gọi Mã Hoàn Cơ, là ái nữ của Nam Kinh Hình Bộ Thượng Thư. Nàng ta cũng là chính thất của gã Nam Cung Giao đấy !
Vô Thanh Cốc mà chạm đến rể của họ Mã thì mười vạn quân Hồ Nam sẽ san bằng Ngũ Linh Nguyên !
Quần hùng kinh ngạc, tán dương phúc phận của chàng họ Nam Cung.
Còn Tiền Phong Vân thì tiếc ngẩn tiếc ngơ. Nếu biết Nam Cung Giao có hậu thuẫn hùng mạnh là Mã Thượng Thư thì lão đâu còn phải sợ Vô Thanh Cốc nữa ?
Do vậy, lão không hề phản đối khi Cẩn Nhục Đầu Đà bảo Vân Mi, lúc này nàng đã hồi tỉnh :
- Đã xuất giá thì phải theo chồng ! Mi hãy thu xếp hành lý, theo bần tăng đi tìm Nam Cung Giao !
Tiền Cung chủ ngượng ngùng gật đầu khi Vân Mi quỳ lạy để cáo biệt !
Quần hùng cũng giải tán trở về cố quận, mang theo câu chuyện về chàng kiếm sĩ đào hoa, cơ trí và khéo chọc cười !
Họ cũng hẹn nhau sang năm sẽ cùng đến Kim Sơn để xem trận tử đấu của Nam Cung Giao và Thiếu Cốc chủ Vô Thanh Cốc !
Hết Hồi 5 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Xem Tiếp Hồi 6
Hồi 6 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Hoài Châu giải oan án
Quỳ Phong tróc Nhất Phụng
Nhắc lại, Nam Cung Giao không vui trước thái độ tiểu nhân, khiếp nhược của Kim Diện Cung chủ Tiền Phong Vân nên đã thoái hôn, bỏ về Tứ Hải Đại lữ điếm thu xếp hành lý rời khỏi Từ Châu.
Bốn anh em nhà họ Sở đã bám gót theo sau gõcửa phòng xin bái kiến.
Họ nhất tề quì phục xuống.
Sở Trường Thụy nói :
- Mong công tử nhận bọn tại hạ làm nô bộc ! Nếu người từ chối, anh em tại hạ sẽ quỳ mãi nơi này, quyết chẳng đứng lên !
Sở Nhu không nói gì nhưng ánh mắt long lanh, ướt mượt, đầy vẻ van nài.
Nam Cung Giao cau mày, đắn đo rồi phúc đáp :
- Việc này khoan bàn đến, giờ chúng ta hãy ra cánh rừng đào ở cửa Tây thành để ta khảo sát võ công tứ vị. Nếu ta không thắng nổi, tức là không đủ sức giúp chư vị giết Hoài Giang Thần Thương. Bằng ngược lại, ta sẽ nhận lời !
Anh em họ Sở mừng rỡ đứng lên, cùng Nam Cung Giao rời Tứ Hải Đại Lữ điếm.
Năm người vào sâu trong rừng đào, chọn một khoảng đất trống kín đáo để so tài.
Chính vì thế mà bọn Cẩn Nhục Đầu Đà đã vượt qua, đi trước Nam Cung Giao mà không biết.
Đến nơi, Nam Cung Giao thận trọng hỏi :
- Mong Sở túc hạ kể rõ nguồn cơn mối thù với Hoài Giang Thần Thương cho tại hạ được rõ ?
Lão Nhị Sở Sĩ Hưu ăn nói lưu loát nhất bọn liền ứng tiếng:
- Bẩm công tử ! Tiên phụ là Xảo Xảo Thư Sinh Sở Nam Vu, nổi tiếng khéo tay nhất võ lâm, giỏi nghề cơ quan, máy móc và hỏa dược.
Ba năm trước, tiên phụ bị đâm chết trong hoa viên, bởi một ngọn đoản thương, bảo vật trong nhà cũng mất sạch.
Lúc ấy, anh em tại hạ đều vắng mặt, nghe tin dữ mới trở về.
Ngọn đoản thương kia chính là ám khí lừng danh của Hoài Giang Thần Thương Tần Dũng Nhuệ, thủ lĩnh Thần Thương Hội ở huyện Hoài Nam, cạnh bờ sông Hoài.
Anh em tại hạ mang tang vật đến hỏi tội thì Tần Dũng Nhuệ chối biến, bảo rằng mũi thương kia thất lạc đã lâu.
Anh em tại hạ liền vây đánh, nhưng không sao giết được họ Tần, vì lão chính là bằng hữu thâm giao của tiên phụ, hiểu rõ tường tận từng chiêu thức của pho Cổ Mộ kiếm pháp nhà họ Sở.
Do đó, bọn tại hạ mới phải bôn ba đi tìm võ công khác mà học hỏi !
Nam Cung Giao tư lự :
- Lạ thực ! Nếu ta là hung thủ tất chẳng bao giờ lưu lại tang vật ! Hay là có kẻ đã giá họa cho Tần lão ?
Sở Trường Thụy rầu rĩ gật đầu :
- Tại hạ cũng nghĩ thế, nhưng Tần Dũng Nhuệ quả thực có vắng nhà trong khoảng thời gian gia phụ bị hại, và lão cũng không dám nói là mình đã đi đâu, làm gì, chỉ kể là mình lão một mình thả thuyền xuôi giòng Hoài Giang, uống rượu ngâm thơ. Tất nhiên là không có ai làm chứng cho lão ta !
Bỗng Nam Cung Giao cười hỏi :
- Thần Thương năm nay niên kỷ bao nhiêu, còn vợ lão tính nết thế nào ?
Sở Nhu bỡ ngỡ đáp :
- Tiểu muội là người thường lui tới thăm hỏi nhà họ Tần nên biết rất rõ ! Tần lão đã sáu mươi lăm. Song Tần phu nhân chỉ mới tứ tuần. Tính tình bà ta rất nghiêm nghị, hung dữ !
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Hay là hôm ấy Thần Thương đi thăm tiểu thiếp, vì quá sợ nên thà bị oan án sát nhân chứ chẳng dám nói ra ?
Anh em họ Sở đều ngơ ngác :
- Lẽ nào có người lại sợ vợ đến mức ấy ?
Nam Cung Giao đắc ý gật gù :
- Đúng vậy, như gia phụ chẳng hạn, ông nỗi danh là Tam Bôi tiên sinh vì gia mẫu chỉ cho phép uống tối đa ba chung rượu, mặc cho bằng hữu hết lời chế giễu cũng không dám sái phạm ! Nay biết đâu Tần Dũng Nhuệ đã lén vợ mà lập phòng nhì, mượn cớ đi dạo mà ghé thăm. Và có kẻ biết rõ việc ấy liền đến Hợp Phì hạ thủ lệnh tôn, bằng nửa đoản đao để hại họ Tần !
Sở Nhu là người thông tuệ, lập tức nhận ra rằng Nam Cung Giao suy luận rất đúng đắn.
Nàng hào hứng tiếp lời :
- Công tử nói chí phải. Song nếu vậy thì hung thủ phải là người quen biết với cả Tần lão và tiên phụ, mới có thể trộm đoản thương và ám toán tiên phụ !
Sở Tích Vũ kêu lên :
- Ngoài lão Đoạt Hồn Thương Chu Toại, Phó Hội Chủ Thần Thương Hội, còn ai vào đây nữa ?
Sở Sĩ Hưu gật gù khen :
- Không ngờ hôm nay tam đệ thông minh đáo để !
Nam Cung Giao trầm ngâm hỏi :
- Nếu Tần lão không hiểu rõ võ học nhà họ Sở thì có địch lại Tứ vệ hay không ?
Sở Trường Thụy cười mát :
- Bản lãnh của họ Tần chỉ tương đương với Lôi Phong Sơn chủ, nếu lão không may mắn có được ưu thế kia thì đã chết dưới kiếm của anh em tại hạ rồi !
Nam Cung Giao gật gù :
- Tại hạ xin được thưởng lãm tuyệt học Cổ Mộ phái, mong tứ vị nhẹ tay cho.
Sở Nhu tinh quái nói :
- Công tử định giả thua để giũ bỏ anh em tiểu muội đấy ư ?
Nam Cung Giao bị đánh trúng tim đen, gượng cười biện bạch :
- Nàng đừng nghĩ xấu cho ta như thế !
Chàng rút kiếm bước ra giữa bãi cỏ ra hiệu mời các địch thủ.
Bốn người họ Sở vây lấy chàng, và Trường Thụy nghiêm giọng :
- Cổ Mộ kiếm pháp là tuyệt học tà môn, có từ thời Bắc Tống, chiêu thức hiểm ác, tàn nhẫn vô cùng. Khi đã xuất thủ, bọn tại hạ bị kiếm ý mê hoặc nên không thể nương tay được. Mong công tử cẩn tâm, trổ hết tài nghệ ra đối phó. Khi nào không còn cầm cự được nữa thì phải lên tiếng ngay !
Nam Cung Giao rợn dạ gà trước ánh mắt lạnh lẽo và giọng nói âm trầm của Sở Trường Thụy, biết rằng gã nói thực. Nhưng chàng ước lượng bản lãnh mình cao hơn Lôi Phong Sơn chủ một bậc nên rất tự tin, vui vẻ đáp :
- Hay lắm ! Nếu đánh không lại tại hạ sẽ la làng ngay, mong chư vị nhớ đình thủ giùm cho !
Sở Nhu bật cười, vung kiếm tấn công trước, ba người kia cũng ập vào, phối hợp rất nhịp nhàng.
Quả thực là pho kiếm tà môn kia có ma lực, chỉ sau vài chiêu, sắc diện anh em họ Sở đã lạnh như sương, đường kiếm ác độc khôn lường, cứ như đang đấu với kẻ thù giết cha vậy.
Nam Cung Giao khen thầm, đem hết sở học ra chống cự. Đây là cơ hội rất tốt để chàng rèn luyện, ứng dụng pho Lạc Điểu kiếm pháp, trong hoàn cảnh bị giáp công bốn mặt.
Thân hình Nam Cung Giao quay cuồng đảo lộn, bảo kiếm bay lượn vun vút đẩy lùi những đợt sóng kiếm vũ bão của anh em họ Sở.
Trong hai trăm chiêu đầu, Nam Cung Giao thủ nhiều hơn công, nhưng sau đó, chàng đã thức ngộ thêm những tinh túy trong sở học, mạnh dạn phản kích.
Kiếm là vua của các loại binh khí cá nhân vì những đặc tính ưu việt như có mũi nhọn để đâm, sắc cả hai lưỡi nên có thể chém mà không phải trở bản như đao. Hơn nữa, kiếm khá nhẹ nên tốc độ rất nhanh và linh hoạt.
Một kiếm thủ thượng thừa có thể múa kiếm dưới cơn mưa tầm tã mà không hề sợ ướt.
Còn về chiều dài, từ thời Xuân Thu đến nay, kiếm đã tăng gấp đôi, mở rộng tầm tấn công và sát thương.
Nhưng nó cũng có giới hạn, đó là chiều cao của người sử dụng.
Do vậy trường kiếm các đời Tống, Nguyên, Minh đều có kích thước khoảng ba xích một thốn !
Riêng Nam Cung Giao thân thể cao lớn hơn người thường cả gang tay, cho nên mới sử dụng được thanh kiếm vô danh này. Và cũng nhờ vậy mà kiếm thuật của chàng thêm lợi hại, cả trong phòng thủ lẫn tấn công. Đơn giản là mũi kiếm của chàng luôn vươn đến mục tiêu trước !
Đến chiêu thứ năm trăm thì Nam Cung Giao đã ở thế thượng phong, liên tiếp đẩy lùi đối phương, và có thể đả thương bất cứ người nào !
Sở Nhu công lực kém nhất, không chịu đựng nổi cuộc chiến khốc liệt và dai dẳng, liền bỏ cuộc nhẩy lùi, ôm ngực thở hồng hộc :
- Tiểu muội kiệt sức rồi !
Kiếm trận thế là tan tác, ba người anh của nàng cũng đình thủ ngượng ngùng tra kiếm vào vỏ.
Họ nhất tề quì xuống lạy chín lạy.
Sở Trường Thụy thay mặt tuyên thệ :
- Bốn anh em họ Sở chúng tôi nguyện suốt đời trung thành với Nam Cung công tử, dẫu tan xương nát thịt cũng không thay lòng đổi dạ !
Nam Cung Giao thẹn đỏ mặt, bối rối xua tay :
- Được rồi ! Được rồi ! Tứ vị hãy đứng lên đi !
Năm người hàn huyên một lát rồi khởi hành, đi về hướng Tây Nam để đến trấn Hoài Nam, trọng địa của Thần Thương Hội.
Họ sẽ tiến hành điều tra theo ý của Nam Cung Giao tức là tìm cho ra mụ vợ nhỏ của Hoài Giang Thần Thương.
Trong suốt gần nửa tháng đăng trình, Sở Nhu hết lòng chăm sóc, hầu hạ Nam Cung Giao, chỉ thiếu điều đút cơm cho chàng ăn nữa mà thôi !
Chàng vô cùng khoan khoái, y như ngày còn thơ dại được từ mẫu cưng chiều !
Sở Nhu trầm lặng, ít nói nhưng khi phát ngôn thì câu nào cũng ý nhị, sâu sắc và hóm hĩnh khiến lòng người vui vẻ.
Nhờ được ăn toàn cao lương mỹ vị, thân hình mảnh khảnh của nàng đã đầy đặn thêm, trông càng quyến rũ.
Nam Cung Giao thầm nghĩ :
- Nha đầu này tính tình hiền lành nhu mì, siêng năng, đáng mặt vợ hiền. Ta mà lấy ả thì chẳng sợ rơi vào cảnh bị kìm kẹp như phụ thân. Nhưng chỉ sợ mẫu thân vì cái bướu kia mà không chấp nhận.
Cuối tháng mười một, đoàn người đến đoạn sông Hoài, cách trấn Hoài Nam hai trăm dặm. Họ sẽ chia nhau, đi dọc hai bờ, tiến về phía trấn Hoài Nam.
Nam Cung Giao và Sở Nhu sang sông, còn ba gã họ Sở ở lại bờ Bắc.
Theo kế hoạch họ sẽ dùng vàng bạc mua chuộc những lão trưởng thôn tham lam, nhờ họ cung cấp tin tức,
Người Trung Hoa rất thích kháo chuyện rỗi, thôn xóm chỉ được dăm chục nóc nhà, chẳng ai giấu được ai điều gì. Nếu một mụ già xinh đẹp nào đó có tình nhân ghé thăm, tất chỉ sáng hôm sau là cả làng đều biết !
Lễ vật đưa trước là năm lượng bạc trắng để khởi động bộ xương già nua của những lão hương cả móm mém. Nếu tìm được đúng đối tượng, lão ta sẽ được thêm năm lượng.
Anh em họ Sở sẽ xưng là thám tử phủ Nam Kinh Hình Bộ Thượng Thư đi điều tra, phá án. Với bộ mặt cô hồn và y phục gấm xanh sang trọng, chắc chắn bọn hương chức quê mùa kia sẽ dạ vang chứ chẳng dám hỏi đến lệnh bài nha môn !
Nam Cung Giao thì vững chân hơn vì lúc ở Từ Châu đã được Mã Kim Khu tặng cho tấm Đồng bài, trên khắc sáu chữ "Nam Kinh Hình Bộ Hộ Vệ".
Gã sợ em rể đơn thương độc mã trước lực lượng Hồ Bang nên đã tặng đồng bài, để chàng có thể nhờ cậy sự hỗ trợ của quan quân khi cần thiết !
Thực ra, đồng bài và chức danh này là của Mã Kim Khu ! Gã nhiều phen theo Thượng Thư phá án nên được Thất Vương Gia ban cho chức vụ hộ vệ, đứng đầu đám thám tử của Hình Bộ phía Nam.
Sau năm ngày gội tuyết, mỏi miệng vì hỏi han, Nam Cung Giao và Sở Nhu đến thôn Thủy Liễu cách Hoài Nam sáu chục dặm.
Hai người vào nhà của lão Trưởng thôn họ Hồ.
Nam Cung Giao đặt đồng bài lên bàn, lạnh lùng nói :
- Tại hạ thừa mệnh Hình Bộ Thượng Thư Nam Kinh đi điều tra một vụ án nghiêm trọng. Túc hạ là người đứng đầu thôn Thủy Liễu này, cũng xem như bầy tôi của triều đình, xin hãy tận tâm giúp đỡ tại hạ làm sáng tỏ vương pháp.
Mã Thượng Thư đã hứa thưởng ngày trăm lượng bạc cho bất cứ ai có công.
Để lời nói của chàng thêm trọng lượng, Sở Nhu móc hầu bao, lấy ra thỏi bạc năm lượng và tờ ngân phiếu.
Nàng dịu giọng :
- Năm lượng này là lễ vật sơ kiến, mong Hồ Cửu phẩm nhận cho !
Thường thì, các Hương chức trong thôn đều có hàm từ Cửu Phẩm đến Thất phẩm.
Hồ Lão run rẩy cầm lấy năm lượng bạc bỏ vào tay áo cho chắc ăn rồi vái dài :
- Xin Hộ vệ Đại nhân cứ dạy.
Nam Cung Giao hỏi :
- Trong thôn Thủy Liễu này có mỹ nhân lỡ thì, hay góa bụa nào làm nhị phòng cho người của địa phương khác hay không ? Nam nhân ấy tuổi độ sáu mươi lăm, thân thể cao lớn, thường mặc áo học trò !
Hồ lão đang lăm le lấy được năm lượng bạch ngân nên mừng rỡ kêu lên :
- Bẩm có ạ ! Cạnh bờ sông có ả Bạch Thắng Tuyết năm nay ba mươi sáu tuổi, mặt rổ hoa, nhưng nhan sắc mặn mà, ả ế chồng vì bị cụt một chân. Trước đây ả bán rượu, sau này trở thành vợ bé của một lão già lạ mặt, hiện đã sanh được ba nam hài. Dáng vóc của lão già sanh tật kia quả đúng như lời Hộ Vệ Đại nhân vừa mô tả.
Lão liếng thoáng nói văng cả nước bọt, hí hửng vì sắp được bỏ tờ ngân phiếu kia vào túi !
Nam Cung Giao thở phào, hoan hỉ nhìn Sở Nhu, rồi bảo Hồ Lão :
- Hồ Cửu phẩm hãy đưa bọn ta đến đấy, nếu đúng là đối tượng cần tìm, bổn chức sẽ tưởng thưởng !
Chàng tủm tỉm cười, thu lại tờ ngân phiếu, khiến lòng họ Hồ hoang mang.
Lão mau mắn dẫn hai người đi về hướng bờ sông, đến căn nhà gỗ nhỏ của Bạch Nương.
Nữ nhân tàn tật, bạc mệnh này đang ngồi vá áo cho con, chung quanh là ba bé trai đang đùa giỡn, đứa nhỏ nhất độ ba tuổi !
Quả đúng như tên, Bạch Nương có nước da trắng như ngọc, dung mạo hiền lành, nhân hậu.
Chỉ cần nhìn cảnh nhà cửa tươm tất, gọn gàng và cách ăn mặc ấp áp, sạch sẽ của ba đứa trẻ, cũng đủ biết nàng rất siêng năng, chu đáo !
Bạch Nương đã thấy khách từ lúc họ còn ở ngoài cửa, vội rời ghế, chụp nạng gỗ ra đón.
Sở Nhu nhanh chân rảo bước đi trước, đến sát mặt chủ nhà, tươi cười nói nhỏ :
- Tiểu muội được Tần lão gia phái đến thăm hỏi Bạch Đại Tỷ.
Dường như Thắng Tuyết đang mong đợi Tần Dũng Nhuệ nên hân hoan cười đáp :
- Ngu tỷ mừng quá, đã ba tháng nay ông ấy không ghé, nhà sắp hết gạo rồi !
Sở Nhu quay lại nháy mắt ra hiệu với Nam Cung Giao rằng đã tìm đúng mục tiêu.
Chàng trao tờ ngân phiếu cho Hồ Trưởng Thôn và nghiêm giọng dặn dò :
- Vụ án này nghiêm trọng đến mức phủ Hình Bộ phải đích thân thụ lý ! Nếu lão bép xép tiết lộ ra thì đầu lìa khỏi cổ. Hãy nhớ lấy điều ấy, và nếu người trong thôn có thắc mắc thì cứ nói rằng có họ hàng của Bạch nương đến tìm !
Mắt chàng sáng rực như có lửa khiến Hồ lão sợ nhũn cả người, vái dài thề thốt :
- Hộ vệ đại nhân yên tâm ! Dẫu có ai kề đao vào cổ thì tiểu lão cũng chẳng dám hé môi !
Lão khom lưng nhận bạc, hấp tấp chuồn thẳng.
Sau vài khắc chuyện trò phân giải, Bạch Nương đã rõ nguồn cơn, khẳng định tiết trung thu năm trước Tần Dũng Nhuệ đã ở đây, vì lúc nàng mới sanh đứa thứ ba.
Nam Cung Giao cảm thương số phận hẩm hiu của người đàn bà tội nghiệp này liền nghĩ cách giúp nàng.
Chàng bảo :
- Bạch Đại Tỷ ! Tại hạ có cách giúp Đại Tỷ và ba con được danh chính ngôn thuận về sống với Tần lão !
Bạch Nương ứa nước mắt đáp :
- Nếu vậy thì tiện phụ xin suốt đời xin đội ơn công tử. Tiện phụ sẳn sàng chết, chỉ cần Tần phu nhân hết lòng nuôi dưỡng ba đứa bé đáng thương kia !
Nam Cung Giao cười mát :
- Sao Đại tỷ lại nói thế ! Tại hạ bảo đảm rằng Tần phu nhân sẽ phải vui vẻ mà chấp nhận !
Chàng bèn nói sơ kế hoạch của mình.
Dù không tin tưởng lắm nhưng Bạch Nương cũng cắn răng đưa các con đi theo Nam Cung Giao và Sở Nhu..
Sáng ngày mùng tám tháng chạp, Tri huyện Hoài Châu đích thân thống lĩnh lực lượng công sai, bích lệ, kéo đến Tần Gia trang, cũng là Tổng Đàn Thần Thương Hội, ở bờ Nam Sông Hoài.
Hoàng Tri huyện cũng là chỗ quen biết với Hoài Giang Thần Thương, thế mà hôm nay mặt lạnh như tiền.
Tần Dũng Nhuệ và Tần phu nhân vội ra cổng đón mời khách vào sảnh lớn.
Quan quân đứng cả ngoài sân, chỉ có Hoàng Tri Huyện và năm người áo gấm nhập sảnh.
Tần lão nhận ra anh em nhà họ Sở, biết rằng họ đã kiện mình.
Hoàng Tri huyện chìa tay về phía chàng trai trẻ áo lam, giới thiệu :
- Vị Đại nhân này là Hộ Vệ của phủ Hình Bộ Thượng Thư Nam Kinh, danh tính Nam Cung Giao, thừa lệnh Mã Thượng Thư đến đây áp giải Tần Trang Chủ về qui án ! Sở gia đã đâm đơn kiện hồi đầu năm ! Sau khi điều tra Bộ Hình đã tìm ra nhân chứng nhìn thấy Tần trước có mặt ở thịnh Hợp Phì đúng tiết trung thu ba năm trước !
Tần phu nhân cơ hồ té xỉu, quì xuống van lạy :
- Mong chư vị đại nhân khai ân xét lại ! Chuyết phu là bằng hữu chí thân của Sở Đại ca, lẽ nào lại làm chuyện trời chu đất diệt ấy !
Nam Cung Giao cười nhạt :
- Chưa hết đâu ! Do số tài sản bị cướp của nhà họ Sở lên đến hai chục vạn lượng vàng, nên nha môn Hoài Châu sẽ phải tịch biên gia sản họ Tần để bồi thường cho nạn nhân .
Đồng tiền liền khúc ruột, nên Tần phu nhân lập tức ngất xỉu, được bọn tỳ nữ xoa bóp một lúc mới hồi tỉnh.
Tần Dũng Nhuệ đứng trước cảnh tan cửa nát nhà, lòng đau như cắt, không biết nói ra sự thực có còn kịp hay đã muộn !
Đúng lúc ấy, Nam Cung Giao oai vệ nói :
- Bọn ngươi hãy ra ngoài đợi để bổn chức tiến hành văn án !
Anh em họ Sở cố nín cười lui bước ngay.
Hoàng Tri huyện liền đổi sắc mặt khuyên bảo :
- Này Tần lão đệ ! Bổn quan cũng không tin lão đệ là kẻ sát nhân, nhưng anh em họ Sở đã cùng thám tử phủ Thượng Thư tìm ra nhân chứng, dẫu thực hay giả thì tính mạng của hiền đệ cũng nguy to rồi. Nay Nam Cung Hộ Vệ đây cũng là chỗ thâm giao với bổn quan, sẽ cùng bàn bạc cách giải vây !
Tần Phu nhân mừng như sống lại, vái lạy Hộ Vệ Đại nhân :
- Xin Đại Nhân mở cho con đường sống, thảo dân chẳng dám quên ơn !
Nam Cung Giao phì cười :
- Phu nhân định dỡ trò hối lộ cho ta đấy ư ?
Tần Phu nhân bẽn lẽn đáp :
- Dạ bẩm Đại nhân ! Đấy là để tỏ lòng biết ơn chứ đâu phải hối lộ !
Hoàng Tri huyện mớm ý :
- Hay là Tần lão đệ cứ khai rằng Trung thu năm đó đến thăm tình nhân hay tiểu thiếp, rồi nhờ người ấy làm chứng cho !
Tần Dũng Nhuệ liếc vợ cười khổ :
- Tiểu đệ làm gì có tình nhân hay vợ bé ?
Tần Phu nhân tức tối rít lên :
- Thật là vô dụng ! Trai năm thê bảy thiếp, thế mà lão không có đến một ả nhân tình !
Tần lão giận quá gầm vang :
- Chỉ vì bà hung dữ như cọp cái, suốt ngày ghen tuông, đay nghiến nên lão phu nào dám đa mang ! Lão phu mà lập nhị phòng thì bà sẽ cho người xé xác ngay, ai ngu gì mà đến với lão phu !
Tần phu nhân xấu hổ cúi đầu lẩm bẩm :
- Thiếp chỉ có cái miệng là hung dữ, chứ nếu tướng công cứ làm thì thiếp cũng phải chịu !
Nam Cung Giao cướp lời bà :
- Nay tại hạ sẽ tìm cho Tần lão một tiểu thiếp, người này sẽ đứng ra làm chứng để cứu mạng và tài sản nhà họ Tần. Liệu sau này phu nhân có bạc đãi người ấy hay không ?
Tần phu nhân vui mừng khôn xiết :
- Tiện phụ thề có lôi thần chứng giám là sẽ xem người ấy như em gái của mình !
Nam Cung Giao quắc mắt nhấn mạnh :
- Nể lời khẩn cầu của Hoàng Tri huyện nên tại hạ mới làm rõ vương pháp, chứ chẳng phải vàng bạc ! Nếu phu nhân không giữ lời thề thì đừng trách tại hạ tàn nhẫn đấy !
Trong lúc Tần Phu nhân run lên vì sợ hãi, chàng bước ra nhoài nói nhỏ với Sở Nhu.
Mẹ con Bạch Dương được bố trí trong một lữ điếm gần đấy nên chỉ nửa khắc sau đã có mặt.
Tần Dũng Nhuệ nhìn thấy họ, ngơ ngác, bàng hoàng, không biết mình mơ hay tỉnh.
Đã được dặn dò trước nên bé đứa bé ngoan kia không chạy đến kêu Tần lão bằng cha, chúng chỉ dương mắt nhìn ông cười tít.
Bạch Nương buông nạng quì xuống khấu đầu :
- Tiểu muội Bạch Thắng Tuyết bái kiến đại thư !
Tần phu nhân thấy đối phương tàn tật, không xinh đẹp bằng mình nên cũng an tâm và sinh lòng tội nghiệp.
Bà vội bước đến đỡ Bạch Thắng Tuyết lên vỗ về :
- Hiền muội chớ đa lễ. Từ nay chị em chúng ta sẽ cùng thờ một chồng. Ta thề sẽ hậu đãi nàng và các con !
Bạch Nương gạt lệ, bảo ba con :
- Long Nhi ! Hổ Nhi ! Báo nhi ! Các con hãy đến ra mắt phụ thân vàĐại mẫu !
Thế là ba đứa bé làm theo lời nàng.
Tần Phu nhân hài lòng, nũng nịu trách chồng :
- Ông quả là bất tài nên nhà họ Tần không có được những đứa bé trai ngoan ngoãn và xinh đẹp thế này !
Hoàng Tri Huyện cười ha hả :
- Lão phu sẽ làm án văn để ba đứa bé này mang họ Tần !
Hoài Giang Thần Thương lờ mờ hiểu ra rằng đây là một vở kịch được dàn dựng rất khéo, và anh em họ Sở cũng đã hiểu nỗi oan của lão ! Nhưng đạo diễn chính có lẽ là chàng trai họ Nam Cung tuấn tú này đây !
Lão nhìn chàng chăm chú bằng ánh mắt cảm kích.
Nam Cung Giao bỗng hỏi :
- Chẳng hay Phó Thủ lĩnh của Thần Thương hội là Đoạt Hồn Thương Chu Toại giờ đang ở đâu ?
Tần Lão rầu rĩ đáp :
- Gia sư đệ luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, chết hồi tháng trước rồi !
Và lão vận công truyền âm :
- Xin công tử báo với anh em họ Sở rằng lão phu đã giết Chu Toại để báo thù Xảo Xảo Thư Sinh Sở Nam Vu ! Bảo vật của họ Sở hiện đang ở đây, lúc nào đến lấy cũng được !
Nam Cung Giao cười, đáp thầm :
- Hay lắm ! Tần lão quả là người minh tinh, đã tìm ra được hung thủ. Nhưng từ nay hãy nhớ rằng không được quá nể sợ phu nhân, mất cả oai phong của bậc trượng phu !
Tần Dũng Nhuệ đỏ mặt gật đầu,
Hoàng Tri huyện và Nam Cung Giao cáo từ, kéo quân rời Tần Gia trang.
Sau khi chia tay Hoàng Tri huyện, bọn Nam Cung Giao lên đường về thành Hợp Phì, để anh em họ Sở thăm mẹ Sở mẫu !
Sở mẫu tuổi đã gần thất thập, hiện đang sống với ba nàng dâu và bẩy cháu nội !
Đã sang tháng chạp nên tuyết rơi mù mịt, song sắc diện ba hán tử vẫn rạng rỡ, họ mừng vì sắp được trở lại tổ ấm gia đình. Chỉ mình Nam Cung Giao là buồn vô hạn, khi cuối năm mà vẫn cách cố hương hàng ngàn dặm.
Sở Tích Vũ là gã phổi bò, chẳng để ý đến tâm tình nặng trĩu của chàng, cười hô hố hỏi :
- Công tử ! Thuộc hạ thấy Tần phu nhân còn kiều diễm hơn Bạch Nương, vì cớ gì lão Tần Dũng Nhuệ lại khổ sở đa mang người đàn bà tàn tật kìa ?
Nam Cung Giao cười đáp :
- Ở nhà, Tần lão luôn phải khép nép như rắn mùng năm trước mụ vợ dữ dằn ! Nhưng khi đến với Bạch Nương, ông ta được nàng chìu chuộng, tôn kính, bảo sao lòng không khoan khoái ? Chỉ có ở bên nàng, Tần lão mới thấy mình là bậc trượng phu oai phong lẫm liệt mà thôi !
Sở Tích Vũ cười tít mắt :
- Thế Nam Cung lão gia nhà ta có ở trong tâm trạng ấy không ?
Nam Cung Giao lắc đầu, vui vẻ nhắc đến song thân bằng giọng trìu mến :
- Thực ra thì gia mẫu chỉ nghiêm khắc chứ không dử tợn ? Bà cấm gia phụ uống nhiều rượu vì lo cho sức khoẻ của ông. Hơn nữa, mẹ ta xinh đẹp phi phàm, khiến gia phụ mê như điếu đổ, còn lòng dạ đâu mà nhìn ngó đến mỹ nhân khác nữa !
Sở Nhu che miệng cười :
- Sao công tử không noi gương lệnh tôn mà lại uống nhiều rượu như thế !
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Ta đã hứa với mẫu thân rằng rượu ba chén, vợ ba nàng ! Nhưng xem ra khó mà giữ được rồi !
Rượu thì có thể ăn gian vì gia mẫu không qui định chén lớn, chén nhỏ.
Ta uống chín chén nhỏ thì vừa bằng ba chén lớn !
Chỉ có khoản thiếp là khó cãi, mới mấy tháng thôi mà ta nướng đến hai mối rồi, biết đâu lúc về nhà lại dắt theo đủ chục thì nguy to !
Ba hán tử họ Sở phá lên cười, còn Sở Nhu thì tủm tỉm hỏi :
- Thế công tử có yêu Mã tiểu thư và Tiền tiểu thư như lệnh tôn, đã yêu lệnh đường không ?
Nam Cung Giao cười buồn :
- Nhu muội quả có tài nhìn thấu tâm can người khác ! Thực ra, ta chỉ thuận duyên mà kết hợp, chứ lòng vẫn khao khát gặp được người duy nhất để có thể yêu trọn vẹn như gia phụ !
Sở Nhu cười khúc khích :
- Té ra bản chất của công tử chẳng phải người hời hợt như bề ngoài, song công tử có tướng đa thê, chẳng thể tránh khỏi. Mong rằng sau này, trong đám thê thiếp của công tử sẽ có một người đẹp ứng được yêu cầu ấy. Tuy nhiên, công tử tuyệt đối không được để lộ cho những người kia biết, bằng không, gia đình sẽ xơ xác vì ghen tuông !
Nam Cung Giao bật cười :
- Cha chung không ai khóc ! Kẻ đa thê làm gì có được hạnh phúc ấy ? Tốt nhất là ta nên giữ mình, chỉ lấy hai Tiểu thư kia là đủ rồi.
Chẳng ngờ ba gã họ Sở nhất tề kêu lên :
- Không được !
Nam Cung Giao sửng sốt :
- Sao lại không ?
Tích Vũ cười hề hề giải thích :
- Lệnh đường đã cho phép ba, công tử chỉ lấy hai, sợ rằng bà sẽ buồn đấy.
Nam Cung Giao gật gù :
- Chẳng sao cả ! Ta chỉ lấy hai vợ nhưng số tiểu thiếp thì không giới hạn !
Chàng phá lên cười, quất ngựa phi mau !
Sở Nhu lẩm bẩm :
- Tính cách của chàng thực phức tạp ! Khó mà nhận chân được.
Đường đi lầy lội, trơn trượt vì tuyết phủ đầy nên cước trình tuấn mã chậm chạp, sẩm tối họ mới đi được hơn ba chục dặm đường, phải ghé vào lữ điếm bên đường nghỉ ngơi !
Hân hoan vì thù cha đã xong, ba gã họ Sở liên tục nâng chén uống mừng, cuối canh hai thì cả họ lẫn Nam Cung Giao đều say mèm.
Sở Nhu dìu chủ nhân về phòng, cởi y phục, lấy khăn nóng lau mặt cho chàng, rồi xoa bóp những huyệt đạo quanh đầu và cổ.
Thủ pháp giải rượu của Sở Nhu quả là hiệu nghiệm như thần, kẻ say rượu toát mồ hôi như tắm, dần dần tỉnh táo lại.
Ngoài trời, cơn bão tuyết đang gào thét nên cửa phòng đóng chặt, lại có cả lò sưởi than hồng đỏ rực, mùi hương thơm tho nồng thắm của thân thể Sở Nhu ngày càng đậm đà, bay vào mũi Nam Cung Giao.
Chàng thích thú lắng nghe bàn tay mềm mại, mịn màng của nàng đặt lên da thịt mình.
Sở Nhu đang một tay giữ vai chàng, tay kia dùng khăn ấm lau mồ hôi sau trước.
Bỗng Nam Cung Giao phát hiện mình đã động tình, khao khát được ôm lấy thân hình thon thả, ấm áp kia.
Chàng kinh hãi thở dài, mở mắt nói :
- Nhu muội hãy về nghỉ đi ! Ta sắp biến thành Tề Tuyên Vương rồi đấy !
Sở Nhu đỏ mặt thỏ thẻ :
- Nếu công tử không chê tiểu muội xấu xí hơn Chung Vô Diệm thì Sở Nhu xin được hầu hạ gối chăn. Tiểu muội mang dị tướng, chẳng dám mong làm dâu họ Nam Cung, và cũng không thể lấy ai ! Được gần gũi công tử một đêm là tiểu muội mãn nguyện rồi !
Nói xong, nàng run rẩy thoát y, đứng cúi gầm mặt như chờ đợi, đôi giòng lệ chảy dài trên gò má, lấp lánh dưới ánh tọa đăng vàng vọt.
Nam Cung Giao đang tuổi thanh niên khí huyết cương phương, lại lần đầu được chiêm ngưỡng một cơ thể thon dài khêu gợi, nên bàng hoàng mê mẩn dán mắt vào những đường cong tuyệt diệu.
Chàng thẫn thờ ngồi lên vuốt ve đôi tuyết lê mơn mởn, miệng lẩm bẩm :
- Từ năm mười tuổi đến nay ta mới được nhìn lại tạo vật hấp dẫn, tuyệt diệu nhất thế gian này.
Sở Nhu không nén được, bật cười khúc khích :
- Té ra công tử sờ vú mẹ đến tận năm mười tuổi hay sao ?
Chàng cười hì hì, kéo nàng vào lòng, gầy cuộc mây mưa.
Hai thân xác thanh xuân quấn quít chẳng rời đến tận gần sáng.
Sở Nhu rón rén trở về phòng riêng trong ánh mắt nuối tiếc của Nam Cung Giao.
Chàng lại nhủ thành lời :
- Bây giờ ta mới hiểu vì sao phụ thân lại say mê mẫu thân đến thế ?
Hôm sau, bão tuyết vẫn còn dữ dội, Nam Cung Giao mừng thầm, bàn rằng :
- Chằng đi đâu mà vội, chúng ta cứ ở lại đây thêm một ngày nữa, chờ bão tuyết tan rồi hãy lên đường.
Tất nhiên anh em họ Sở không dám phản đối, chỉ nhìn chàng tủm tỉm cười.
Tối đến, ba gã vịn cớ mệt mỏi đầu canh hai đã đi ngủ, tạo điều kiện cho Nam Cung Giao gần gũi Sở Nhu.
Chàng nháy mắt với nàng rồi hớn hở về phòng.
Lát sau, Sở Nhu vào đến, ngượng ngùng dâng hiến.
Sau trận ái ân, hai người nằm ôm nhau mà trò chuyện.
Sở Nhu cười khúc khích chọc ghẹo :
- Tiểu muội có tật ở đầu, hai ngón cái kia trông thật kỳ lạ.
Nam Cung Giao đáp với giọng xa vắng :
- Không phải dị tật đâu ! Đây là đặc tính bẩm sinh của dân tộc Giao Chỉ !
Chàng bèn kể hết lai lịch cũng như mục đích của mình.
Sở Nhu lặng lẻ lắng nghe, cuối cùng nghiêm giọng :
- Nếu công tử cứ hành động như hiện nay, đến đâu là có huyết án xảy ra thì sớm muộn cũng bị phát giác, khi ấy, nhà Nam Cung khó thoát khỏi cảnh tru di tam tộc ! Tổng Bộ đầu Nam Kinh Lưu Cát từng nổi tiếng là Trung Hoa đệ nhất thần thám, cơ trí sắc bén tuyệt luân. Chắc chắn sau cái chết của Giang Tô Tri phủ Mạc Tôn Long, lão đã khẳng định được công tử là hung thú. Chúng ta phải lập tức tung hỏa mù để đánh lừa lão ta mới được.
Sáng mai công tử bất tất phải ghé Hợp Phì mà hãy lên đường về Nam Kinh ngay. Ở đây, bọn tiểu muội sẽ giết lão Tổng Trấn Huy Châu.
Huyết án xảy ra khi công tử đã ở Nam Kinh, điều này sẽ khiến Lưu Cát không tin vào phán đoán của mình nữa. Sau đó, bọn tiểu muội đến Nam Kinh chờ lệnh.
Nam Cung Giao nghe hữu lý, cao hứng hôn lên má Sở Nhu hỏi lại :
- Dinh Tổng Trấn Quân Vụ Trang Độc Chương dẫy đầy quân sĩ, liệu anh em nàng có an toàn thoát thân nổi hay không ?
Sở Nhu nép đầu vào ngực tình lang thì thầm :
- Công tử đã đem cả bí mật kinh thiên động địa ra ký thác thì tiểu muội cũng chẳng dám giấu. Trước khi tiên phụ ngộ hại, bọn tiểu muội tham gia một tổ chức Hắc đạo thần bí nhất võ lâm, có tên là Thế Thiên Hội, hoạt động ở Tứ Xuyên và ba tỉnh Tây Bắc, tôn chỉ của hội là diệt tru bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá, cướp sạch tài sản của chúng mà phân phát cho dân nghèo. Nhưng do thủ đoạn hành sựtàn nhẫn và quyết liệt nên bị xem là Tà Hội !
Hội Chủ Thế Thiên Hội là Vô Khổng Bất Nhập Trịnh Kiều (Không lỗ nào không lọt), giỏi thuật ẩn thân, dẫu hoàng cung cũng có thể vào được. Lão đã dạy cho môn đệ Thế Thiên Hội thuật ấy, nên họ hành sự chưa bao giờ thất bại !
Nam Cung Giao cười hăng hắc :
- Té ra ngươi cũng từng là nữ tặc, thật đáng khâm phục ! Ta đồng ý với kế hoạch này, nhưng anh em nàng phải cẩn trọng, thấy khó phải rút lui ngay !
Và chàng hạ giọng nói nhỏ :
- Nhớ đến Nam Kinh cho sớm, kẻo ta lại nhớ nàng đấy !
Sở Nhu sung sướng cắn nhẹ vào ngực chàng.
Sáng mai đã phải chia tay, hai người níu kéo từng hạt cát thời gian.
Nam Cung Giao say đắm ôm mãi thân hình thon dài, nồng ấm nhưng săn chắc, quên hết mọi sự đời, quên cả chiếc bướu thịt xấu xí trên trán nàng !
Sáng hôm sau, lúc Nam Cung Giao tỉnh giấc thì anh em họ Sở đã đi rồi.
Vắng bóng Sở Nhu, chàng nghe trống trải vô cùng, thẫn thờ như người đánh mất bảo vật vậy !
Bão tuyết đã tan, vầng dương mùa đông được ngày hiếm hoi để ban phát chút nắng nhạt nhòa.
Ăn điểm tâm xong, chàng lên ngựa lững thững nện vó tung làn tuyết nhẹ, đến ngã ba thì rẽ trái đi về hướng Đông.
Được vài dặm, chàng chợt nghe sau lưng có tiếng vó câu dồn dập và kế đó là tiếng người gọi ơi ới :
- Nam Cung đại ca !
Giọng nói quen thuộc của Mã Kim Khu đã khiến chàng dừng cương quay ngược lại.
Ngoài Mã đại công tử còn có Cẩn Nhục Đầu Đà và hai mỹ nhân.
Chàng kinh ngạc khi nhận ra Thần Nữ Tiền Vân Mi, thầm đoán nàng đã ly khai Kim Diện Cung để đi tìm mình.
Cẩn Nhục Đầu Đà hùng hổ mắng :
- Ngươi quả là đáng ghét, bắt bọn ta luôn phải đuổi theo ! May mà bần tăng giỏi nghề truy tung, không thì đã lạc mất rồi !
Nam Cung Giao ngượng ngùng mỉm cười :
- Điệt tế xin nhận lỗi, và sẽ tạ tội bằng hai chục bữa thịt chó ngon lành !
Đầu Đà thấy chàng chịu nhận là cháu rể, khoan khoái cười vang. Không bắt lỗi nữa !
Mã Hoàn Cơ cũng được an ủi, hoa dung đang ủ dột nhợt tươi tắn hẳn lên.
Nàng chỉ trách móc nhẹ nhàng :
- Chàng không hiểu tâm tình của Mi muội hay sao mà lại nói lời thoái hôn và dứt áo bỏ đi như vậy ?
Nam Cung Giao biện bạch :
- Ta thấy Tiền Cung Chủ quá ngán sợ Vô Thanh Cốc đến nỗi không muốn nhận rể, nên chẳng mặt mũi nào ở lại !
Vân Mi bật khóc :
- Nếu công tử nhất quyết từ hôn thì tiểu muội xin chết ngay tại chỗ này !
Nam Cung Giao hốt hoảng :
- Ấy đừng ! Nàng hãy ráng sanh cho ta vài đứa con rồi hãy chết !
Thần Nữ thẹn chín người, song lòng sung sướng vô hạn, vì biết duyên nợ đã thành.
Đầu Đà và Mã Kim Khu phá lên cười, còn Hoàn Cơ lắc đầu chán ngán :
- Không ngờ ta lấy phải một người chồng bẻm mép thế này ! Lúc nào cũng đùa được !
Nam Cung Giao thản nhiên bảo Thần Nữ :
- Mi muội ! Chúng ta đi thôi ! Nay Hoàn Cơ đã chê bai thậm tệ như thế ! Ta sẽ đưa một mình nàng về ra mắt song thân mà thôi !
Chàng lại vái chào Đầu Đà và Mã Kim Khu, thái độ rất nghiêm túc khiến Hoàn Cơ sợ bở vía, ấp úng nói :
- Thiếp chỉ nói đùa thôi, chứ đâu dám chê bai gì, xin chàng lượng giải cho !
Nam Cung Giao hầm hầm giận dữ :
- Gia mẫu từng dặn dò ta rằng : " Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về". Chưa cưới nhau mà Cơ muội đã dám coi thường ta ư ?
Cẩn Nhục Đầu Đà và Mã Kim Khu ngơ ngác, chẳng hiểu vì sao chàng trai vui vẻ kia lại nỗi dóa bất tử như vậy, song chẳng ai dám xen vào.
Hoàn Cơ gật đầu vâng dạ, mặt tái mét.
Nam Cung Giao nói tiếp :
- Ta phạt nàng tối nay phải bóp chân, đấm lưng cho ta.
Chàng vươn vai than :
- Ối chà ! Cỡi ngựa mãi thân thể mỏi nhừ như sắp rã ra rồi !
Chàng bất ngờ ra roi phi nước đại và cười ngất.
Mọi người đã hiểu nãy giờ chàng chỉ đùa, thở phào phóng ngựa đuổi theo.
Kim Khu chọc ghẹo em gái :
-Hiền muội đã gặp khắc tinh rồi đây !
Hoàn Cơ vừa tje vừa thẹn, dấm dẳng đáp :
- Cưới xong y sẽ biết tay tiểu muội !
Tuy nói thế nhưng nàng hiểu rằng mình sẽ không làm gì được vì đã lỡ quá yêu chàng trai bất trị kia !
Mười ngày sau, đoàn người về đến Nam Kinh.
Phủ Thượng Thư mở tiệc ăn mừng, có mời cả Tổng Bộ Đầu Lưu Cát đến dự.
Lão lặng lẽ nghe Kim Khu sôi nổi kể lại cuộc đả lôi đài ở Từ Châu cũng như việc phải truy đuổi Nam Cung Giao vất vả thế nào ?
Họ Lưu nghe xong, lòng vô cùng bối rối ! Vì hôm qua lão vừa nhận được tin Tổng Trấn Quân Vụ Huy Châu Trang Bộc Cương bị giết. Lúc ấy bọn Nam Cung Giao đã sắp về đến đây.
Như vậy, chàng trai khả nghi kia không thể là hung thủ được.
Còn vụ ám sát Tri huyện Hàng Châu lại xảy ra đúng ngày mười tám tháng mười một, khi Nam Cung Giao đang tỷ võ ở Kim Sơn !
Lão nói với Mã Xuân Trác :
- Bẩm Thượng Thư. Chiều hôm qua, ty chức nhận được hung tin từ Huy Châu, rằng quan Tổng Trấn Quân Vụ đã bị ám sát đêm mười bảy tháng chạp. Không ai nhìn thấy hung thủ, nên Tri phủ Huy Châu chỉ nhờ ty chức điều tra với manh mối duy nhất là những viên ngọc trai màu đen đã bị cướp, Trang Tổng Trấn đã mang chúng từ An Nam về, hơn hai mươi năm trước !
Lưu Cát hắng giọng nói tiếp :
- Giang Tô Tri phủ Mạc Tôn Long thì chết đêm hai mươi sáu tháng mười. Sau đó là Tri huyện Hàng Châu Dịnh Thủy Tôn chết đêm mười tám tháng mười một. Tính luôn cả Nam Kinh Binh Bộ Thượng Thư Quách Tường An thì đã có bốn vị mệnh quan bị giết. Bốn nạn nhân đều có một điểm chung là từng có mặt trong đoàn quân chinh phạt An Nam hai mươi ba năm trước, dưới trướng Tân Thành Hầu Trương Phụ !
Nam Cung Giao giật mình, không hiểu ai đã giết lão Tri Huyện Hàng Châu giùm mình ?
Chàng chợt nhớ đến Mộc Kính Thanh, vì chỉ có gã mới biết danh sách kẻ thù của chàng !
Và Nam Cung Giao cũng vô cùng khâm phục tài suy luận của Lưu Cát, khi nghe gã nói tiếp :
- Từ đặc điểm này, ty chức đoán rằng hung thủ là người An Nam, do muốn báo thù cho vua quan nhà Hậu Trần nên mới chọn lọc người mà hạ thủ. Như vây, mục tiêu kế tiếp là những vị võ tướng viễn chinh còn lại, kể cả Tân Thành Hầu Trương Phụ, nay là Bình Phiên Công ở Bắc Kinh !
Mã Kim Khu sôi nổi góp ý :
- Lưu đại nhân ! Tiểu điệt cho rằng có hai khả năng xảy ra, một là hung thủ từ An Nam sang, hai là y thuộc thế hệ thứ hai của những tù binh An Nam hiện đang ở Trung Hoa, nhờ luyện thành tuyệt học nên mới dám làm chuyện động trời này ! Chúng ta chỉ cần điều tra đám kiều dân Giao Châu ở các phủ phía Nam Trường Giang là có kết quả !
Lưu Cát ngỏ lời khen ngợi Kim Khu trong lúc Nam Cung Giao sầu héo ruột gan. Chàng không ngờ hành động của mình lại làm hại đến đồng bào ở Trung Hoa. Cuộc sống bình yên của họ sẽ bị xáo trộn, khổ sở vì những thủ đoạn tàn nhẫn bá đạo của bọn công sai !
Nhưng may thay, gần cuối tiệc thì có thám mã đến phủ Thượng Thư, đưa công văn hỏa tốc của phủ An Khánh, báo tin Tri huyện Hòa Châu bị ám sát và mất sạch của cải.
Lần này hung thủ đánh rơi vật chứng rất quan trọng là một thẻ bạch nhỏ bằng hai ngón tay, trên khắc ba chữ Tứ Hải Hội !
Lục Tri huyện này mới gần tứ thập, và chắc chắn không phải là đồng ngũ của bốn nạn nhân trước.
Điều này khiến lập luận của Lưu Cát bị sụp đổ.
Mã Thượng Thư hờ hững nói :
- Này đã có manh mối. Mong Lưu túc hạ dốc sức điều tra Tứ Hải Hội, và hãy quên đám kiều dân An Nam đi ! Nếu không sớm có kết quả, trước khi Thánh Hoàng nỗi lôi đình, thì e rằng cả bổn chức Iẫn túc hạ đều rơi đầu đấy !
Lưu Cát vừa thẹn, vừa sợ kính cẩn đáp :
- Ty chức xin tận lực !
Lão vội cáo từ để đi huy động thủ hạ điều tra lai lịch Tứ Hải Hội !
Nam Cung Giao cố nén tiếng thở dài nhẹ nhõm, chàng vô cùng cảm kích nghĩa đệ Mộc Kính Thanh, gã đã kịp thời sửa chữa sai lầm của chàng.
Hôm sau, đã đến hẹn với Sở Nhu nên chàng rủ Kim Khu cùng hai mỹ nhân ra Thanh Phong tửu lâu uống rượu ngắm cảnh tuyết rơi trên sông Trường Giang.
Vài khắc sau, chàng nhận ra Sở Sĩ Hưu đã hiện diện. Thấy gã vào đi vào phòng vệ sinh chàng cũng giả đò nhăn nhó đứng lên.
Hai người gặp nhau nhanh chóng trao đổi, bàn bạc rồi chia tay.
Tối đến, chàng đang định đi ngủ thì nhớ lại ánh mắt buồn man mác của thần Nữ Tiền Vân Mi lúc ban sáng, liền lần sang phòng nàng.
Nghe tiếng gõ cửa, Vân Mi bước ra mở, bẽn lẽn hỏi :
- Sao công tử lại đến thăm tiểu muội vào giờ này ?
Nam Cung Giao dịu giọng :
- Ta nhớ nàng nên không ngủ được ?
Vân Mi sung sướng liếc chàng rồi mời vào.
Tuy giỏi võ nhưng Thần Nữ chưa hề bôn tẩu giang hồ, vẫn giữ được tính cách khép nép, lễ nghi của một Hoàng Hoa Khuê Nữ ! Nàng nói năng nhỏ nhẹ, lễ độ, cử chỉ đoan trang dịu dàng, càng làm tăng vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
Nam Cung Giao nhận ra Vân Mi rất không tuệ, đoán ngay được những cái bẫy lắt léo trong ngôn từ của chàng.
Từ ngày quen nhau đến giờ, hai người mới có dịp chuyện trò lâu.
Nam Cung Giao cao hứng tự nhủ :
- Giao ta phúc bẩy mươi đời nên lấy được hai cô ả đẹp như tiên, Hoàn Cơ thì hơi nghiêm nhưng Vân Mi thì ngoan hiền rất mực !
Nghĩ đến việc Thần Nữ bỏ cả gia đình và cuộc sống phú quý đi theo mình, chàng cảm động vô vàn, chợt nẩy sinh cảm giác muốn che chở, bảo bọc, chàng nghiêm giọng :
- Mối chân tình của Mi muội khiến ta phải hổ thẹn ! Nàng gởi thân nương nhờ Phủ Thượng Thư này mãi e không tiện ! Sang xuân, ta sẽ đưa nàng về ra mắt song thân. Nàng sẽ thay ta phụng dưỡng huyên đường !
Vân Mi hân hoan thỏ thẻ :
- Thiếp nguyện hết đạo dâu con, nhưng sao Công tử lại phải ra đi ?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Ta có một bí mật, chỉ có thể tiết lộ với người đầu ấp tay gối mà thôi !
Vân Mi vừa xấu hổ vừa sợ hãi, cúi đầu nói líu ríu :
- Công tử không thể đợi đến ngày đại hỉ được sao ?
Nam Cung Giao cười buồn :
- Ta muốn nàng có thai trước khi ta tử đấu với Khương Thư Hàn !
Nói xong, chàng đi thẳng vào trong, lên giường nằm đợi.
Ở đây Thần Nữ bối rối suy nghĩ.
Lát sau, nước mắt lo âu chảy thành dòng. Con người lạc quan như Nam Cung Giao mà đã nói vậy nghĩa là chàng biết mình không thể sống sót. Thế mà thời gian qua, chàng vẫn nói cười như không hề sợ hãi, dũng khí ấy quả đáng kính phục !
Vậy thì nàng sẽ hiến dâng và cùng chàng thụ huởng những ngày hạnh phúc cuối cùng !
Nghĩ thế Thần Nữ gạt lệ bước vào.
Nam Cung Giao ngồi lên, giang tay đón lấy nàng, đặt vào lòng, nhẹ nhàng hôn lên mắt, lên môi.
Đặng Trinh Tâm biết con mình sau này xuất đạo phục cừu sẽ hành động nhiều về đêm, nên thuở chàng còn thơ dại, bà đã thường xuyên cho ăn những món vi cá nhám, chưng với Hà Thủ Ô và vài dược liệu khác. Nhờ vậy, nhãn lực của Nam Cung Giao tinh tường gấp bội người thường !
Song đêm nay, chàng không sử dụng đôi thần nhãn để phát hiện ám khí hay trường tiễn, mà để chiêm ngưỡng thân hình bạch ngọc của Vân Mi, dù chỉ với chút ánh sáng vàng võ từ phòng uống trà hắt xuyên qua cửa ngọa thất.
Vân Mi đầy đặn, khêu gợi hơn Sở Nhu rất nhiều, nhờ những điều kiện chăm chút của cảnh giàu sang, cũng như việc luyện võ.
Đã có kinh nghiệm, Nam Cung Giao dịu dàng mơn trớn, xóa tan cảm giác thẹn thùng và hoảng sợ trong tâm lý người xuân nữ giúp Vân Mi hòa nhịp trăng hoa.
Thần Nữ chơi vơi trong biển ái ân lồng lộn tự nhủ rằng mình đã không lầm khi yêu tha thiết Nam Cung Giao.
Cuối canh ba, Vân Mi ngượng ngùng từ chối tái chiến, nũng nịu bắt tình lang phải thố lộ bí mật đời mình !
Đêm hôm sau, Nam Cung Giao nằm khểnh trong phòng, nôn nao chờ đợi Thần Nữ đến như đã hẹn.
Quả nhiên, khi hành lang hậu viện vắng bóng gia nhân qua lại thì có người đẩy cửa phòng lách vào.
Nam Cung Giao giả vờ ngáy vang, và giật bắn mình, ngồi bật dậy khi nghe tiếng của Hoàn Cơ :
- Công tử đừng giả đò nữa !
Chàng nhăn nhó hỏi :
- Sao nàng lại đến đây vào giờ này, lỡ Mã lão gia và phu nhân biết thì sao ?
Hoàn Cơ ứa lệ, rầu rĩ nói :
- Vì sao công tử lại ưu ái Vân Mi hơn thiếp ?
Nam Cung Giao thất kinh dọ hỏi :
- Thế Thần Nữ đã kể gì với nàng ?
Chàng tuyệt đối không đám tiết lộ lai lịch với gia đình họ Mã, vì e sợ lòng người đen bạc, cái tội tru di tam tộc có thể khiến Mã Thượng Thư quên ơn cứu mạng, bắt chàng giao nộp cho triều đình !
May thay, Hoàn Cơ thẹn thùng đáp :
- Mi muội chỉ bảo rằng chàng không chắc đã sống sót khi phó hội với Thiếu Cốc Chủ Vô Thanh Cốc Khương Thư Hàn, nên muốn sớm có người nối dõi !
Nam Cung Giao thầm thở phào, điềm đạm bảo :
- Vân Mi giờ đây tứ cố vô thân nên ta mới dám liều lĩnh tiết mạn, nhờ nàng ấy giữ gìn chút hương hỏa của họ Nam Cung. Còn Cơ muội thì sẽ trả lời song thân thế nào khi bụng phưỡn ra ?
Và chàng nheo mắt nói tiếp :
- Nhưng nếu nàng không sợ tiếng đời dị nghị thì ta cũng xin chìu ý.Nào hãy bước lại đây !
Hoàn Cơ hốt hoảng biến sắc, lùi ngay lại, mặt đỏ như gấc :
- Thiếp chỉ muốn biết lòng công tử thế nào thôi, chứ đâu phải muốn chia ân xẻ ái !
Nói xong, nàng vụt bỏ chạy ra ngoài, chẳng dám lưu lại.
Lát sau, Thần Nữ Tiền Vân Mi đến, bị Nam Cung Giao lạnh lùng trách móc, mỹ nhân thản nhiên cười cợt :
- Thiếp có thành thực như thế thì Mã đại thư mới hết lòng yêu thương, sau này gia đạo mới thuận hòa.
Tết năm ấy Nam Cung Giao đón xuân ở Nam Kinh.
Mã phu nhân đã đốc thúc chàng về quê mời song thân đến để bàn việc cưới xin.
Phu thê Thượng Thư đã nhận Thần Nữ Tiền Vân Mi làm nghĩa nữ, và sẽ đứng ra gả nàng cùng lúc với Hoàn Cơ !
Song Nam Cung Giao đã trình bày rõ việc mình phải tử đấu, xin hoãn đám cưới đến mùa xuân năm tới !
Mã Thượng Thư đồng ý và còn trấn an :
- Giao nhi đừng bi quan ! Hôm ấy lão phu sẽ cho đại quân vây chặt đấu trường để xem gã họ Khương kia có dám giết ngươi không ?
Ý kiến này khiến hai mỹ nhân rất hoan hỉ, nhưng Nam Cung Giao lại thầm hổ thẹn, càng ra sức luyện kiếm pháp.
Đối thủ cùng luyện với chàng là Hoàn Cơ, Vân Mi sau đó thêm cả Mã Kim Khu và Cẩn Nhục Đầu Đà !
Hoàn Cơ không dám trao thân cho chàng nhưng cũng thường đến để được vuốt ve âu yếm. Những cảm giác rạo rực cũng khiến nàng bớt tủi thân trước cảnh nồng thắm của tình quân và Thần Nữ.
Đến cuối tháng giêng thì Mộc Kính Thanh và anh em họ Sở đã hạ sát thêm năm lão tham quan nữa, trong số ấy có hai kẻ thù của Nam Cung Giao. Và tội lỗi đổ cả lên đầu Tứ Hải Hội !
Như vậy, Nam Cung Giao chỉ còn một kẻ đại thù là Bình Phiên Công ở Bắc Kinh, vì hai kẻ cuối cùng trong danh sách đã không làm quan mà lại biệt tăm từ mười mấy năm trước !
Những vụ án trảm tham quan liên tiếp này đã làm Minh Đế nổi giận, hạ chỉ truy nã Tứ Hải Hội trên toàn quốc. Nhưng tổ chức ấy đã sớm ẩn mình, rút vào bí mật, không để lại dấu vết. Vả lại, trước đây cũng chẳng ai biết sào huyệt của họ ở chốn nào.
Qua đầu tháng hai, cả Mộc Kính Thanh, Cuồng Vũ Đao và anh em họ Sở đều về Nam Kinh, liên lạc với Nam Cung Giao.
Sau đó ba ngày, tức đêm mùng bốn tháng hai Nam Kinh đã xảy ra một sự cố trọng đại đó là việc Thất Vương Gia Chu Nghiêm bị bắt cóc.
Hung thủ đã để lại một lá thư nặc danh, yêu cầu Mã Thượng Thư cử sứ giả đơn thương độc mã, mang năm vạn lượng vàng bằng ngân phiếu, gồm toàn những tờ trị giá trăm lượng, đi lên hướng Bắc để chuộc con tin.
Hung thủ khôn ngoan không xưng danh và cũng chẳng nói rõ địa điểm, chỉ biết rằng sẽ liên hệ với sứ giả ở dọc đường để hướng dẫn đến nơi.
Nếu Mã Thượng Thư cho Bộ đầu, thám tử bám theo, hợp đồng chuộc mạng sẽ bị hủy, Thất Vương Gia sẽ bị giết !
Mã Xuân Trác là Hình Bộ Thượng Thư Nam Kinh, đương nhiên chịu trách nhiệm trước Thiên Tử về an toàn của Thất Vương Gia. Nếu không cứu được Chu Nghiêm, họ Mã chắc chắn sẽ rơi đầu ! Tất nhiên, cả vài vị đại quan nữa cũng không thoát chết !
Việc này được giữ kín như bưng nên bách tính không hề hay biết.
Nhưng toàn bộ quan lớn Nam Kinh đều méo mặt. Từ Mã Thượng Thư cho đến Lưu Tổng Bộ Đầu, Phạm Tổng Binh Bố Chánh Sứ Tích Giang, Tri huyện Kim Lăng, đều bị liên lụy .
Hình phạt nhẹ nhất cũng là hạ phẩm trật, đổi nhiệm sở.
Khốn khổ nhất là quan Vệ Uý Cấm Quân của Hành Cung, lão đã bị bắt hạ ngục ngay sáng hôm sau.
Mã Kim Khu được điều đến thay thế, lo việc bảo vệ Thất Vương Phi và các công nương !
Các Đại Thần Nam Kinh tụ họp cả ở Hành Cung, dưới sự chủ tọa của Thất Vương Phi, bàn bạc việc cử người đi chuộc mạng Thất Vương Gia !
Vương Phi có nhũ danh là Triển Cẩm Thu, ái nữ của đương kim Thái Sư Minh Triều Triển Tài !
Bà xuất thân trong gia đình võ tướng, từng theo cha trấn thủ đất Liêu Đông. Bà hăng hái xông pha trận mạc, anh hùng chẳng kém bậc mày râu.
Nay phu quân bị bắt cóc, Thất Vương Phi tuy lo lắng nhưng không khóc lóc, xỉu lên xỉu xuống như những người vợ khác, mà bình tĩnh cùng các đại thần bàn lương sách !
Bà nghiêm nghị phán :
- Này các khanh, hung thủ vô danh giảo quyệt, chưa chắc đã chịu buông tha Vương Gia sau khi nhận vàng. Do vì sứ giả phải là một người đầu óc tinh minh quyền biến. Theo ý Ai Gia thì Lưu hiền khanh cơ trí, bản lãnh đều xuất chúng, có thể đảm đương được trọng trách này !
Nam Kinh Tổng Bộ Đầu Lưu Cát hồn phi phách tán, vì biết chuyến đi này cửu tử nhất sinh. Lão đủ thông mình để hiểu rằng đối phương sẽ giết cả mình lẫn Vương Gia để xóa dấu vết,ấy là thủ đoạn thông thường của giới hắc đạo. Kẻ đã dám bắt cóc một Vương Gia thì sẽ chẳng dại gì lưu lại di họa .
Trong quá trình giam giữ con tin lâu ngày, không ai dám chắc mình không sơ suất, và chỉ cần một manh mối nhỏ là quan nha sẽ lần ra lai lịch hung thủ. Danh tiếng Trung Hoa Đệ Nhất Thần Thám đã quá lẫy lừng, Lưu Cát mà đi thì Chu Nghiêm càng chết sớm !
Họ Lưu cắn răng trình bày sự thật tàn nhẫn :
- Khải tấu Vương Phi ! Vi thần liều chết khẳng định rằng tính mạng Vương Gia còn mong manh hơn dự đoán của Vương Phi, vì chắc chắn hung thủ tuyệt đối sẽ không tha cho con tin lẫn sứ giả ! Vi thần không sợ chết, nhưng tự lượng chẳng đủ sức đảm đương đại nhiệm. Sứ giả phải là người có võ công siêu quần bạt tụy, sức lực phi phàm mới mong thi hành chút kế mọn của vi thần !
Nghe Lưu Cát thoái thác, Triển Vương Phi nổi lôi đình, mắt toé lửa gằn giọng :
- Kế gì ?
Lưu Cát cố trấn tĩnh trình bày :
- Khải tấu Vương Phi ! Chúng ta sẽ cho lót đồng dầy quanh vách một cỗ xe song mã, giao cho sứ giả dong đi. Đến nơi, khi Điện Hạ đã lên xe an toàn thì người này mới giao ngân phiếu. Nếu đối phương trở mặt, người này sẽ phá vòng vây, đưa Vương Gia thoát hiểm ! Đôi ngựa chắc chắn sẽ bị đối phương hạ sát trước tiên, vì vậy, sứ giả phải kéo xe chạy hàng chục dặm đường mới đến được nơi đô hội !
Các quan ồ lên, mỉa mai vì cho rằng chẳng vị võ tướng nào đủ sức làm việc phi thường ấy.
Triển Vương Phi cười nhạt :
- Lưu khanh định chế giễu Ai Gia đấy ư ? Đất Nam Kinh này làm gì có được một vị võ tướng nào thần dũng tuyệt luân đến mức ấy ?
Lưu Cát đã lỡ phóng lao đành phải theo đến cùng, dù biết sau này sẽ không yên thân với Mã Xuân Trác.
Vả lại nếu không cứu được Thất Vương Gia thì cái đầu này cũng rời cổ, còn sợ gì nữa ?
Lão run giọng đáp :
- Khải tấu Vương Phi ! Vi thần tuyệt đối chẳng dám phạm thượng !
Quả thực là có một vị anh hùng như thế, người ấy là rể quí của Mã Thượng Thư, họ Nam Cung, tên Giao !
Triển Vương Phi có nghe phong phanh về việc Nam Cung Giao đá bể chậu hoa cứu Mã Xuân Trác, và một kiếm giết được Dạ Hồ Sài Tốn. Nhưng bà không biết bản lãnh của Dạ Hồ cao cường đến mức nào. Hơn nữa, Nam Cung Giao đánh lén nên chẳng được bà xem trọng.
Nay nghe Lưu Cát hết lời tán dương, bà tò mò hỏi :
- Bổn phi có nghe Vương Gia kể lại đôi điều về gã Nam Cung Giao, nhưng liệu y có xứng với lời tiến cử của Lưu hiền khanh hay không ?
Lưu Cát khẳng định :
- Khải tấu Vương Phi ! Hiện nay Nam Cung công tử lừng danh thiên hạ và đả bại những các thủ hạng nhất như Hàn Đan Tam Kiếm, Thiếu Cốc Chủ Vô Thanh Cốc.
Vương Phi có thân quyến ở Hàn Đan nên biết rõ bản lãnh anh em họ Mạc, nhưng không hiểu lai lịch Khương Thư Hàn, liền bảo Lưu Cát khai báo.
Họ Lưu nghiêm nghị nói về Long Giác Thần Quân, và nhờ Mã Kim Khu kể lại cuộc đả lôi đài ở Kim Diện Cung.
Kim Khu tính tình bộc tuệch, khoan khoái vì có em rể anh hùng, nên hào hứng kể không sót một chi tiết.
Thủ đoạn tinh ranh của Nam Cung Giao đối với Khương Thư Hàn đã khiến cả Vương Phi cũng phải mỉm cười tạm quên được nỗi lo về Thất Vương Gia.
Bà phấn khởi phán :
- Nếu đúng là Nam Cung Giao anh hùng cái thế như vậy thì chẳng còn ai xứng đáng hơn ! Y lại có cơ trí quyền biến tất sẽ thành công ? Mã hiền khanh mau triệu y vào Hành Cung !
Mã Thượng Thư rầu thúi ruột, khom lưng đáp :
- Khải tấu Vương Phi ! Nam Cung Giao tuy có tình với khuyển nữ Hoàn Cơ nhưng chưa nên duyên phận, y lại chẳng phải là mệnh quan của triều đình, không thể cưỡng bách được ! Tuy nhiên, vi thần sẽ hết lời thuyết phục y nhận nhiệm vụ này ! !
Triển Vương Phí nghe hữu lý ngẫm nghĩ một lúc rồi cười nhạt :
- Mã hiền khanh nói phải. Song Ai Gia tin rằng trong việc này y bắt buộc phải nhận lời để cứu cái đầu của khanh và những đại thần có mặt ở đây !
Các ngài quan lớn rợn tốc gáy, đốc thúc Mã Xuân Trác.
Họ Mã vội sai Kim Khu hồi phủ gọi Nam Cung Giao !
Chỉ gần khắc sau, chàng trai trẻ họ Nam Cung có mặt, quì xuống ra mắt Thất Vương Phi. Tuy từng nghe chồng nhắc nhở đến, nhưng đây là lần đầu gặp mặt. Bà chăm chỉ quan sát Nam Cung Giao, không nói tiếng nào !
Nam Cung Giao cứng người chịu đựng, thầm nghĩ :
- Mụ này dung mạo nghiêm trang, ánh mắt sắc như gươm, hèn gì Thất Vương gia chỉ lấy rượu làm vui chứ không dám nạp thiếp ! Xem ra lão ta cũng khổ chẳng thua gì gia phụ.
Nhớ đến cha, chàng bất giác mỉm cười. Nụ cười quyến rũ của chàng quả là không hợp cảnh vì chung quanh toàn là những gương mặt méo xẹo như đưa đám.
Triển Vương Phi cau mày liễu :
- Tại sao khanh cười ?
Nam Cung Giao vội nói trớ đi :
- Khải tấu Vương phi ! Thảo dân có tật hay cười khi quá sợ hãi ! Đã cười được thì bớt sợ ! Ánh mắt của Vương Phi sắc bén đến nỗi thảo dân có cảm giác rằng tóc trên đầu mình sắp đứt sạch !
Vương Phi mĩm cười :
- Bộ dung mạo ta hung ác lắm hay sao ?
Nam Cung Giao tròn mắt biện bạch :
- Dạ bẩm ! Thảo dân nào có ý ấy ! Vương Phi kiều diễm tợ tiên nga giáng trần, phong thái tôn nghiêm, cao quí đáng mặt mẫu nghi thiên hạ ! Chẳng qua thảo dân quê mùa nên thấy sợ đấy thôi !
Từ ngày trở thành Vương Phi, Triển Cẩm Thu chưa hề được nghe ai tán dương nhan sắc của mình, nên giờ đây vô cùng khoan khoái. Hơn nữa, Nam Cung Giao đã vô tình đánh trúng tâm sự thầm kín của Thất Vương Phi.
Bà vẫn tự cho rằng mình xứng đáng làm Hoàng Hậu Nương Nương chứ không phải là vợ của một Vương Gia không chút thực quyền. Do vậy, lòng bà phát sinh hảo cảm với chàng trai trẻ thông minh đĩnh ngộ kia, xem chàng là tri âm của mình !
Nụ cười tươi tắn trên môi Vương Phi khiến lòng Mã Thượng Thư nhẹ nhõm, lão nhủ thầm :
- Tiểu quỉ này quả là khéo vuốt mông ngựa, nếu làm quan thì sẽ mau chóng trở thành sủng thần của Hoàng Hậu !
Triển Vương Phi cố làm nghiêm mà phán :
- Nam Cung hiền khanh. Nay Ai Gia và các đại thần Nam Kinh định nhờ khanh mang vàng đi chuộc mạng Thất Điện Hạ. Khanh nghĩ sao ?
Nam Cung Giao kính cẩn đáp :
- Thảo dân xin xã thân để cứu Vương Gia ! Nhưng xin hỏi kế hoạch thế nào ?
Mã Thượng Thư lạnh lùng bảo Lưu Cát :
- Lưu tổng Bộ đầu hãy nói rõ diệu kế của mình ?
Lưu Cát hắng giọng kể và kết luận :
- Lão phu sẽ cùng hai chục cao thủ của nha môn âm thầm bám theo Nam Cung công tử để hỗ trợ. Khi đã cứu được Vương Gia, lão phu sẽ điều động quân nơi ấy bắt gọn bọn cuồng đồ để điều tra kẻ chủ mưu !
Nam Cung Giao cười nhạt :
- Đối phương đâu ấu trĩ đến mức không đoán ra được kế hoạch ấy của túc hạ ! Lúc này, chắc chắn là tai mắt của họ đã rải khắp các cửa thành Nam Kinh, túc hạ vừa rời khỏi là đã bị phát hiện. Khi ấy chỉ e Vương Gia sẽ mãi mãi không còn được ai nhắc đến nữa !
Lưu Cát toát mồ hôi lạnh, thờ thẫn nói :
- Chẳng lẽ lão phu lại phải bó tay đứng nhìn công tử một mình đi vào hiểm địa?
Mã Xuân Trác tư lự hỏi :
- Thế ý của Giao nhi ra sao ?
Chàng vòng tay đáp :
- Bẩm đại nhân ! Thảo dân sẽ một mình mang vàng đi chuộc Vương Gia, tùy cơ ứng biến. Nếu may mà thành công thì tốt, bằng không, thảo dân nguyện liều mạng với đối phương rồi chết theo người !
Triển Vương Phi cảm động thở dài :
- Tấm lòng trung liệt của Nam Cung hiền khanh khiến ta phải nghiêng mình khâm phục ! Khanh hãy tận lực, còn kết quả thế nào định phó mặc cho thiên định. Khanh sẽ mang theo Thiên Tử Kim Bài của Vương Gia để điều động quân triều đình khi cần thiết.
Nói xong, bà sai cung nữ vào tẩm cung lấy mảnh kim bài đầy quyền lực trao cho Nam Cung Giao.
Vương Phi lại hỏi :
- Thế chừng nào khanh sẽ khởi hành ?
Nam Cung Giao đáp :
- Khải tấu Vương Phi, ba ngày nữa ! Mùng tám xuất hành Đại Cát Đại Lợi. Vã lại, xe ngựa cần được lót đồng!
Vương Phi định phản đối thì nhận được cái nháy mắt ra hiệu của chàng liền phán :
- Thôi được ! Khanh có toàn quyền hành động.
Bà quay sang nói với các quan :
- Chư khanh hãy giải tán. Riêng Mã lão hiền khanh ở lại để Bổn Phi hỏi chuyện !
Bá quan vội cung thân quay gót, chỉ còn lại cha con họ Mã và Nam Cung Giao.
Vương Phi hỏi ngay :
- Phải chăng Nam Cung hiền khanh đã có chủ ý gì tuyệt diệu và không muốn nói ra trước mặt đông người ?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Bẩm phải ! Thảo dân vốn không chịu nổi mùi vị của sự thất bại, đã làm là phải thắng, nên cần có ba ngày để bày binh bố trận ! Nếu không thì dẫu có là Hạng Võ tái sinh cũng không phá nổi vòng vây, đưa được Vương Gia về !
Thất Vương Phi mừng rỡ :
- Hiền khanh lạc quan và tỉnh táo như vậy khiến Ai Gia rất yên tâm ! Trong việc này, đầu óc đắc dụng hơn võ nghệ !
Hai người cáo thoái, rời Hình Cung về phủ. Mã Thượng Thư tất bật lo việc thu gom những tờ ngân phiếu trăm lượng vàng, các tiền trang trong thành, và đốc thúc bộ giá gia cố một cỗ xe song mã.
Ngay tối hôm ấy, Nam Cung Giao dắt Mã Hoàn Cơ và Vân Mi đi chợ đêm ở phố Tam Sơn !
Từ đời Xuân Thu, ở Trung Hoa đã có nhiều chợ để buôn bán, trao đổi hàng hoá. Chợ họp vào ban ngày, khi mặt trời tắt lịm thì phải tan, vì bị cấm. Đời Thịnh vượng, chợ Kinh Đô Trường An cũng không được phép họp quá hoàng hôn, ai vi phạm sẽ bị xử tội nặng !
Đến thời Tống mới có chợ buôn bán suốt năm canh, trời sáng thì tan, người đương thời gọi đấy là "Quỉ Thị Tứ !" (Chợ của ma quỉ), loại chợ này ở Thương Khẩu, Kim Lăng, vô cùng náo nhiệt !
Trong sách Đông Kinh Mộng Hoa Lục có chép : "Thời bấy giờ, dãy phố phía Đông có các cửa hàng quần áo tranh ảnh, vòng hoa, lĩnh lụa...thắp đèn mua bán tấp nập suốt năm canh, đến khi trời sáng thì tan !"
Chợ ban đêm tồn tại cả trong thời nhà Nguyên, vì khi giới quí tộc cần tiền chẳng thể ban ngày ban mặt xách đồ đi bán, phải chờ đến tối !
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đánh đuổi được người Mông Cổ, vẫn duy trì sinh hoạt chợ đêm, ở suốt cả dãy phố Tam Sơn trong thành Kim Lăng. Đời Minh chợ đêm còn được gọi là Hắc Thị (chợ Đen).
Chợ Đen chỉ nhóm khi tắt nắng, không hề thắp đèn, chỉ lặng lẽ trao đổi, mua bán trong bóng tối. Thế nên, trong Hắc thị không thể nào tránh được lừa lọc !
Danh từ chợ Đen hiện nay, có lẽ xuất phát từ đấy, dù chợ họp ban ngày. Chợ đêm không có lều bạt, hàng hóa bày trên vỉa hè, mỗi vị trí đều có đều có một người bán nhất định. Đây là chỗ dựa duy nhất cho khách đến mua bán. Tuy không biết rõ mặt, nhưng dựa vào khẩu âm giọng nói, dáng vóc, người ta có thể nhận ra nhau !
Hàng hóa được quảng cáo bằng miệng, thẩm định bằng cách sờ mó, có lầm thì ráng chịu ! Khi nhận vàng bạc, họ ước lượng bằng tay và thử bằng răng ! Việc giao dịch chợ đêm rất mơ hồ, bấp bênh. Thế mà chẳng hiểu vì sao nó vẫn cứ tồn tại hàng ngàn năm nay !
Nam Cung Giao và hai mỹ nhân đến đây chẳng phải để chơi trò may rủi. Họ gõ cửa một tòa nhà sau lưng chỗ bán y phục cũ.
Người ra mở cửa chính là Sở Nhu. Trong bóng tối, khó có thể biết sắc diện của nàng thế nào khi gặp Vân Mi và Hoàn Cơ.
Trong khách sãnh có năm nam nhân đang nhâm nhi, trò chuyện. Họ vội đứng cả dậy bái kiến phu thê Nam Cung Giao.
Năm người đàn ông này gồm Mộc Kính Thanh, Cuồng Vũ Đao và ba gã họ Sở.
Nam Cung Giao vui vẻ giới thiệu hai mỹ nhân với mọi người.
Mộc Kính Thanh cười khanh khách, khom lưng vái dài :
- Tiểu đệ không ngờ mình lại có được hai vị đại tẩu xinh đẹp như tiên giáng trần thế này !
Hai nàng phổng mũi, sinh hảo cảm với chàng trai xấu xí kia.
Cách nay vài hôm, sáu người này đã lần lượt đến tìm Nam Cung Giao.
Chàng đã bố trí họ ở chung với nhau tại phố Kim Sơn !
Nam Cung Giao đi ngay vào việc, kể lại việc mình phải làm sứ giả mang vàng đi chuộc mạng Thất Vương Gia.
Kính Thanh nhăn mặt :
- Việc bám theo đại ca thì không khó, chỉ sợ phe đối phương quá đông, chúng ta không mang nổi Vương Gia thoát ra được đấy thôi ! Chẳng lẻ đem xác lão ta về ? Còn như điều động quan quân sở tại thì càng nguy hiểm, vì chắc chắn đối phương đã cho người giám sát các doanh trại có động tĩnh gì là chúng giết con tin, đào tẩu ngay !
Cả đám thở dài, công nhận họ Mộc có lý.
Bỗng Sở Nhu lên tiếng :
- Bẩm công tử ! Thuộc hạ có một thiển ý. Chúng ta sẽ nhờ đến lực lượng Thế Thiên Hội ! Chỉ có họ mới đủ tài áp sát mục tiêu mà đối phương không hề hay biết !
Nam Cung Giao mỉm cười :
-Nhưng họ ở tận Tây Bắc, nước xa đâu chữa được lửa gần!
Sở Nhu lắc đầu :
- Bẩm công tử ! Hôm qua, thuộc hạ tình cờ gặp một đồng môn, được biết rằng hơn trăm cao thủ hạng nhất của Thế Thiên Hội đã tụ tập cả ở Nam Kinh này ! Họ đang định cướp đại lao để cứu Hội chủ Vô Chung Bất Nhập Trịnh Kiều.
Nam Cung Giao ngơ ngác :
- Ta túc trực ở phủ Hình Bộ, sao không nghe đến vụ án quan trọng này ?
Sở Sĩ Hưu đáp thay bào muội. Gã nhăn nhở cười :
- Bẩm công tử. Trịnh lão xui tận mạng nên chết đuối lỗ chân trâu !
Hơn tháng trước, lão dùng tên giả vào hưởng lạc ở kỹ viện trong thành Nam Kinh này. Không hiểu lão làm ăn thế nào mà ả kỹ nữ kia rú lên một tiếng thất thanh, rồi chết ngay trên giường.
Thế là đám kỹ nữ, qui nương ùa đến túm chặt lấy Trịnh Kiều. Lão không nỡ làm hại ai để thoát thân nên đành chịu trói, bị giam ở đại lao, chờ qui án !
Sở Tích Vũ cười sằng sặc :
- Nói cho oai thế thôi, chứ lúc ấy trên người lão không một mảnh vải, còn chạy đi đâu được !
Hoàn Cơ và Vân Mi thẹn đỏ mặt, che miệng cười.
Nam Cung Giao vui vẻ bảo :
- Hay lắm ! Ta sẽ xin lệnh Thất Vương Phi cho thả ngay Trịnh Kiều. Để xem sau lần này lão còn dám tự xưng là Lỗ nào chui cũng lọt hay không ?
Chàng cùng sáu người kia bàn bạc một lúc rồi chia tay !
Trên đường về, Hoàn Cơ tủm tỉm nói :
- Thiếp không ngờ công tử lại có những thủ hạ lợi hại như vậy ?
Nam Cung Giao cười mát :
- Ta vốn là một tên cường đạo giết người không gớm tay, đang đi tìm áp trại phu nhân ! Nàng có chê thì cũng muộn rồi !
Hoàn Cơ đã biết tính chàng, bật cười khúc khích :
- Bẩm Đại vương ! Không hay người hùng cứ ở núi nào vậy ?
Nam Cung Giao cười khà khà :
- Ta có đến bốn ngọn núi nhưng xem ra chưa đủ !
Sáng ngày mùng tám, Nam Cung Giao chễm chệ đánh xe rời cửa Bắc thành.
Theo qui ước của hung thủ trên càng xe có dựng một lá cờ lớn viết chữ Thất.
Ba ngày sau vẫn chưa có ai đến tiếp xúc nhưng khi Nam Cung Giao vượt sông Hoài, đi được vài dặm ngang qua đoạn rừng vắng, thì có người áo đen đội nón rộng vành che kín nửa mặt nhảy ra hỏi :
- Phải chăng các hạ là sứ giả của Nam Kinh !
Nam Cung Giao nghe giọng biết đấy là nữ nhân liền đáp :
- Bẩm nữ hiệp đúng ạ ?
Hắc y nữ nhân bước đến nhổ cây cờ, nghiêm giọng :
- Ngươi mau rẽ vào đường mòn mé tả.
Cùng lúc ấy một cỗ xe song mã giống hệt xe của Nam Cung Giao trong cánh rừng đối diện đi ra.
Nữ nhân áo đen cắm cờ vào càng xe rồi thúc giục gã xà ích khởi hành.
Kế thay mận đổi đào này sẽ khiến lực lượng bám theo sau Nam Cung Giao bị lạc hướng !
Xong xuôi nữ nhân áo đen nhảy lên ngồi cạnh Nam Cung Giao, bảo chàng trực chỉ hướng Tây, đi xuyên cánh rừng thưa.
Mùi hương son phấn từ cơ thể nữ lang thoảng vào mũi Nam Cung Giao.
Chàng liếc ngang, nhận ra nữ lang tuổi độ hai mươi sáu, hai mươi bảy, dung nhan mặn mà nhưng mắt sắc như dao. Chàng vui vẻ nói :
- Tại hạ là Nam Cung Giao, dám hỏi phương danh của nữ hiệp ?
Nữ lang thoáng giật mình, mỉm cười :
- Té ra ngươi là chàng trai tốt số làm rể của hai nhà danh giá, lấy toàn vợ đẹp tuyệt thế ! Ngươi cứ gọi ta là Đinh Tử Phượng !
Con đường mòn đi dọc cánh rừng bờ Bắc sông Hoài này có lẽ trước đây là lối chuyên chở gỗ nên khá rộng, dài dằng dặc và nhiều lối rẻ.
Nữ lang họ Đinh bắt Nam Cung Giao đổi hướng nhiều lần để bỏ rơi ai đó bám theo sau.
Chàng phì cười :
- Làm gì có ai lần theo đâu mà cô nương phải lo lắng ! Nếu có thì chư vị đã phát hiện ra rồi !
Tử Phượng cười nhạt :
- Cẩn tắc vô ưu !
Mãi đến chiều, hai người vẫn chưa ra khỏi rừng.
Nam Cung Giao thản nhiên dừng xe :
- Tại hạ đói rã ruột, chẳng thể đi tiếp được nữa ! Đằng kia có suối nước, Đinh cô nương cứ tắm rửa trước, tại hạ đi tìm vài con thú để lót dạ !
Tử Phượng lạnh lùng đáp :
- Ta có mang theo lương khô, ngươi đói thì cứ ăn ?
Nàng mở tay nải, lấy ra một gói lá sen lớn, đưa cho chàng. Bên trong là cơm nếp và nửa con gà quay vàng ươm !
Rồi Tử Phượng xách túi hành lý đi về hướng suối nước ở đây,
Nam Cung Giao chậm rãi đánh chén, gật gù khen ngon.
Đang dở bữa, chàng giật bắn mình khi nghe tiếng thét thất thanh từ suối vọng về. Chàng vội chụp trường kiếm, lao vút đi như luồng gió thoảng.
Đến nơi, chàng kinh hãi nhận ra Tử Phượng đang bị một bầy ong độc tấn công chỉ còn cách hụp sâu xuống nước né tránh. Có lẽ tổ của chúng nằm trong bụi cây sát bờ suối bị động nên bay ra.
Nam Cung Giao rút trường kiếm múa tít, tạo nên những âm thanh vun vút rồi bước xuống nước, tiến về phía Tử Phượng.
Bầy ong giận dử vây lấy chàng, bị kiếm kình nghiền nát.
Nam Cung Giao đến nơi, đưa tay kéo Tử Phượng lên, ôm sát vào người, dìu lên bờ.
Lũ ong vẫn hung hãn đuỗi theo nhưng không sao xuyên qua nổi màn kiếm ảnh dầy đặc bao quanh hai người.
Trong phút chốc, đàn ong chết hơn nửa, số còn lại chán nản bỏ cuộc bay đi.
Nam Cung Giao tra kiếm vào võ, bồng xốc thân hình trắng muốt đầy những chấm đỏ của Tử Phượng, phi thân về chỗ cỗ xe. Chàng đặt nàng vào thùng xe mà xem xét.
Mỹ nhân bị ong chích đầy người nên đã mê man.
Nam Cung Giao đút vào miệng nàng ba viên khử độc đan rồi xuống xe, chạy vòng quanh nhổ những cây cỏ và thuốc.
Sau khi rửa sạch bằng nước suối, chàng nhai nát, đắp lên những vết thương. Chàng phải để nạn nhân nằm nghiêng vì cả lưng cũng bị trúng đòn.
Ánh tà dương rọi qua cửa xe nhuộm hồng làn da ngà ngọc của Tử Phượng.
Nam Cung Giao thầm khen đối phương có thân hình rất đẹp, tuy không cân đối bằng Thần Nữ Tiền Vân Mi.
Thuốc ngấm, Tử Phượng hồi tỉnh, định ngồi lên thì nghe nói :
- Cô nương không được cử động, thuốc sẽ rơi ra hết !
Nhận ra mình đang nằm loã lồ dưới ánh mắt Nam Cung Giao, Tử Phượng thẹn chín người, nhắm mắt lại trách móc :
- Sao ngươi không ra ngoài mà lại ngồi đây ? Đấy đâu phải tác phong của người quân tử ?
Nam Cung Giao cười mát :
- Nếu là kẻ quân tử thì cứ dể mặc cho cô nương bị ong cắn chết ư ? Sao cô nương không ráng mặc y phục vào rồi hãy kêu cứu ?
Nói xong, chàng rời xe, gom ít cành khô để nhóm lửa.
Tuyết đã thôi rơi từ lâu nhưng tiết trời còn rất lạnh giá. Lửa dùng để sưởi và cũng để xua đuổi ác thú trong rừng !
Nam Cung Giao xách tay nải xuống suối tắm gội. Chàng tò mò đảo mắt tìm kiếm tổ ong, nhìn thấy nó ở một bụi cây gần bờ. Chàng mừng rỡ dùng kiếm phá tổ lấy mật và ngạc nhiên khi thấy số lượng rất ít và có mầu đen như mực.
Gói xôi chẳng đủ làm no bụng, Nam Cung Giao bóp mạnh mảnh sáp ong, hút sạch những giọt mật thơm tho ngon ngọt.
chàng thay áo, trở lại cỗ xe, tháo cương dắt ngựa đi tắm.
Xong việc thì trời tối hẳn, tiếng côn trùng rỉ rả nghe sao ảo não !
Nam Cung Giao ngồi bên đống lửa, thả hồn về cố quận !
Lát sau, Tử Phượng trong xe nói vọng ra :
- Nam Cung túc hạ ! Chẳng hay đã có thể gỡ thuốc ra được chưa ?
- Chưa ! Khi nào thuốc khô cứng bám chặt kim độc của ong thì mới lấy ra được.
Hai khắc sau, Tử Phượng lại ấp úng :
- Ta muốn tiểu tiện !
Sâng hôm sau Nam Cung Giao đánh xe đi tiếp theo sự hướng dẫn của Tử Phượng. Nàng vẫn chưa đi đứng nổi nên chàng phải hầu hạ, ẵm bồng như đối với trẻ thơ.
Họ ra đường quan đạo, vào một trấn nhỏ mua thực phẩm, thuốc men.
Được vài chục dặm lại phải xuyên rừng.
Bốn ngày sau họ quá đêm trong rừng, và Tử Phượng ngượng ngùng nói :
- Công tử cứ vào xe mà ngủ, thiếp còn gì để mà giữ gìn nữa đâu !
Thùng xe khá rộng, hai người có thể nằm cách xa nhau cả sải tay.
Tử Phượng đã khá hơn trước, đủ sức lăn qua, ôm lấy Nam Cung Giao và thỏ thẻ :
- Công tử không thích thiếp sao ?
Chàng cười khổ :
- Tại hạ chẳng phải quân tử, nhưng cũng không tiểu nhân đến nỗi lợi dụng cơ hội mà chiếm đoạt !
Tử Phượng ngồi lên nghiêm giọng :
- Thiếp tự nguyện hiến dâng, xin công tử đừng chê bỏ !
Gần sáng, Tử Phượng âu yếm nói :
- Chúng ta cứ ngủ cho lại sức, trưa hãy khởi hành. Chỉ còn mấy dặm nữa là đến trận địa mai phục. Bang chủ đã quyết giết sứ giả đoạt vàng rồi thủ tiêu Thất Vương Gia.
Nam Cung Giao bình thản đáp :
- Ta không sợ phục binh, chỉ muốn biết Vương Gia hiện bị giam giữ ở đâu thôi ?
Tử Phượng tư lự :
- Con tin hiện bị giam trên sườn núi Quì Phong cạnh bờ sông Hoài, cách đây không xa, đi qua trận địa mai phục là đến nơi
Hai người bàn bạc một lúc, ôm nhau ngủ vùi.
Hơn canh giờ sau, Nam Cung Giao thức dậy trước, len lén ra ngoài, giả tiếng chim cu rúc lên mấy tiếng, lập tức có hồi âm.
Chàng yên tâm đánh thức Tử Phượng !
- Dậy tắm gội đi thôi !
Chàng bồng nàng ra suối quăng xuống nước và cười khanh khách :
- Nàng đã hồi phục mà còn muốn bắt ta hầu hạ nữa sao ?
Tử Phượng đỏ mặt trả đũa :
- Thiếp đã trả nợ cho công tử rồi mà !
Hai người vùng vẫy, đùa nghịch một lúc lâu rồi mới lên bờ.
Xế chiều, Nam Cung Giao rời quan đạo, rẽ vào con đường nhỏ bên.
Tử Phượng ngồi ở càng xe, mặt lạnh như tiền, vì sắp đến chỗ hiểm nghèo, nơi đồng đảng của nàng đang phục sẵn.
Hai bên đường, cây cối rậm rạp, um tùm, che chắn ánh nắng xuân rực rỡ và đâu đây chợt vọng lại tiếng gà gáy trưa là lạ.
Đúng lúc ấy, Tử Phượng vung tả thủ đâm tiểu đao vào lưng Nam Cung Giao. Nhưng chàng trai trẻ đã kịp buông roi chụp lấy cổ tay Tử Phượng bóp mạnh khiến lưỡi tiểu đao xanh biếc rơi xuống. Và trong chớp mắt, chàng đã điểm liền ba huyệt trước ngực Tử Phượng, rồi ôm nàng tung mình lên nóc xe, tay thủ trường kiếm.
Toán phục binh toàn thân trùm kín trong túi vải quần áo mầu xanh lá cây, hùng hổ ùa ra.
Nam Cung Giao quát vang :
- Té ra các ngươi đã rắp tâm giết người cướp của chứ không thực lòng thương lượng. Để ta giết ả này rồi sẽ tính sau !
Dứt lời, chàng kề kiếm vào cổ Tử Phượng.
Một người bịt mặt cao lớn vội nói với giọng khàn khàn già cả :
- Khoan đã ! Nếu ngươi giết nàng thì đừng hòng thấy mặt Thất Vương Gia !
Nam Cung Giao cười rộ :
- Chắc gì con tin đã còn sống ? Nếu không thì sao các ngươi lại tráo trở ? Chẳng thà ta dùng cô ả này làm mộc che thân, mang năm vạn lượng vàng đào thoát, sống một đời no ấm chẳng sướng hơn sao ?
Địa vị của Tử Phượng trong phe đối phương rất cao, nên họ không dám hi sinh nàng.
Lão già kia thở dài :
- Thôi được ! Lão phu sẽ đem Thất Vương Gia ra đổi lấy Tử Phượng !
Nam Cung Giao vô cùng hoan hỉ nhưng lại giả đò nhăn mặt :
- Cô ta họ Đinh này xinh đẹp phi thường nếu đem đổi lấy lão già họ Chu kia thì ta thiệt thòi lắm. Hay là các ngươi cứ giữ lão tại, còn ta mang nàng đi xây tổ uyên ương !
Nói xong, chàng cúi xuống hôn lên gò má mịn màng của tù binh, bật cười đắc ý :
- Ối chà ! Sao mà thơm thế ?
Lão nhân run giọng năn nỉ :
- Xin tiểu tử đừng tiết mạn phu nhân ! Bang chủ mà biết được thì lão phu chết mất ! Trời ơi ! Sao ngươi lại để tay vào chỗ ấy ?
Thì ra Nam Cung Giao đang ôm giữ quanh ngực Tử Phượng. Bàn tay tả bao trọn vú phải của nàng.
Nao Cung Giao phì cười :
- Tại hạ vô tình nên thất lễ, khiến lão trượng phải nổi ghen, thật là đắc tội !
Chàng hạ thấp tay xuống, tủm tỉm nói :
- Lão trượng không mau đem Thất Vương Gia ra, tại hạ mà ngứa tay thì nguy to !
Lão nhân vội đáp :
- Lão phu đã cho thủ hạ đi rồi ! Chỉ nửa khắc nữa là Chu Nghiêm được mang đến đây.
Bỗng lão hỏi một câu là lạ :
- Này tiểu tử ! Bộ ngươi không sợ chất độc sao ?
Chàng không hiểu nhưng vẫn đáp bừa :
- Đúng thế ! Bỗn công tử đã nuốt một viên Tỵ Độc Châu nên bách độc bất xâm !
Sau này chàng mới hiểu rõ diệu dụng của câu trả lời này.
Trong khi chờ đợi Vương Gia, Nam Cung Giao dò hỏi lai lịch phe đối phương, chỉ là để tung hỏa mù bảo vệ Tử Phượng. Chàng đã biết rõ nhưng sẽ không bao giờ tiết lộ, vì như thế là hại mạng người đã chân thật với mình.
Tất nhiên lão nhân kia chẳng dại gì khai ra, chỉ van nài chàng đặt con tin xuống nóc thùng xe, đừng ôm chặt một cách sỗ sàng như vậy ! Điều nầy chứng tỏ trượng phu của Đinh Tử Phượng ghen kinh khủng.
Nam Cung Giao chẳng phải kẻ lo đánh trống bỏ dùi, đã khuyên Tử Phượng theo mình về Nam Kinh chung sống. Nhưng nàng một mực từ chối,bảo rằng hành động ấy sẽ gây hậu quả rất lớn !
Cuối cùng thì ba thớt ngựa xuất hiện, người đi giữa là Thất Vương Gia Chu Nghiêm.
Tuy y phục nhầu nát, mặt mũi hốc hác đầy râu, nhưng họ Chu vẫn giữ được phong thái của bậc Vương Tôn, vui vẻ gọi :
- Nam Cung hiền khanh ! Bổn Vương đã đoán rằng chỉ mình khanh đủ tài cứu được cái mạng hẩm hiu của bổn Vương !
Nam Cung Giao cười khanh khách :
- Mời Vương Gia vào xe cho, trong ấy có sẵn một vò rượu ngon và đùi dê nướng ! Xin nhớ đóng hết cửa lại để đề phòng gió máy.
Chu Nghiêm ung dung từ tốn làm theo lời chàng chẳng hề vội vã !
Nam Cung Giao mang Tử Phượng nhảy xuống chỗ của xà ích, điều khiển đôi ngựa quay đầu lại, rồi nghiêm giọng bảo lão đầu lĩnh của phe địch :
- Tại hạ sẽ trao trả người đẹp cho lão trượng, còn tay nải đựng ngân phiếu này thì phải chờ ra đến quan đạo cái đã !
Lão nhân tán thành ngay :
- Được ngươi cứ thế mà làm.
Nam Cung Giao nhận ra ánh mắt đối phương đầy vẻ giảo quyệt, tàn ác, nhưng vẫn thản nhiên quăng mạnh thân hình Tử Phượng về phía lão ta.
Vừa chụp được nàng, lão nhân đã quát vang :
- Giết !
Với năm chục tay đao thiện chiến, lão tin chắc rằng Nam Cung Giao chẳng thể nào thoát nổi.
Song lão không ngờ rằng phe mình đã bị vây chặt bởi một toán quân đông đến hơn trăm.
Lực lượng Thế Thiên Hội do đích thân Hội Chủ Vô Khổng Bất Nhập Trịnh Kiều thống lãnh, đã ngày đêm bám theo Nam Cung Giao đến tận nơi này. Và giờ đây, họ chui ra từ những tấm vải ngụy trang loang lổ mầu lá rừng, tấn công phe địch từ phía sau.
Trăm gã hắc y này là những cao thủ hạng nhất của Thế Thiên Hội, tuổi đều trên dưới bốn mươi, tu vi lẫn kinh nghiệm đều hùng hậu.
Là sát thủ chuyên nghiệp, họ đánh phủ đầu bằng một trận mưa liễu diệp phi đao, đả thương liền nửa quân số đối phương, rồi lao vào giáng những đường đao mãnh liệt và hiểm ác !
Nam Cung Giao quát như sấm :
- Ba quân ! Hãy bắt cho được cái lão đang bồng nữ lang áo đen kia !
Lão nhân cao lớn tưởng quân triều đình đến thực, sợ hãi phá vây đào tẩu, cố cứu cho được Bang Chủ phu nhân !
Vũ khí của lão là một cây côn thép dài chưa đến sải tay, nhưng chắc nặng đến năm chục cân.
Lúc này mới thấy được thần lực và võ nghệ khủng khiếp của lão ta, thiết côn quạt bay cả Cuồng Vũ Đao và ba anh em họ Sở một cách dễ dàng.
Trịnh Kiều cản lại cũng bị đánh cho cong cả đao.
Trong chớp mắt, lão nhân đã dũng mãnh phá thủng vòng vây biến mất vào rừng.
Bọn đệ tử của lão không được may mắn như vậy, lần lượt ngã gục.
Những kẻ thọ thương cũng cắn nát thuốc độc dấu sẵn trong miệng tự tử, để khỏi khai báo lai lịch của Bang Hội !
Đoàn quân chiến thắng lập tức rời trận địa vì sợ đối phương còn tiếp viện.
Sẩm tối hôm ấy, họ vào thành Hoài Bắc.
Tri huyện Hoài Bắc ngỡ ngàng khi nhìn thấy Thiên Tử Kim Bài, cuống cuồng điều quân bảo vệ và bày đại yến đón tiếp Thất Vương Gia.
Trưa hôm sau, đại quân Huy Châu hộ tống Thất Vương trở về Nam Kinh. Ngài có vẻ không vui khi các ân nhân không đi theo mình vì bận việc riêng.
Vô Khổng Bất Nhập đưa đệ tử về Trường An !
Nếu ngài biết Trịnh Kiều là chuyên gia ám sát các quan lại, chắc đã chẳng thiết tha đến thế !
Hết Hồi 6 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Xem Tiếp Hồi 7
Hồi 7 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Lão Gia nan quá Tam Bôi tửu
Ám độ hoa dung Tứ Sứ Thần
Mười ngày sau, Thất Điện Hạ có mặt ở Hành Cung, triệu tập bá quan để ăn mừng.
Tất nhiên, ông hết lời khen ngợi Nam Cung Giao.
Chàng cười đáp :
- Thảo dân chỉ tốn sức đánh xe vài trăm dặm để đón Vương Gia, đâu dám nhận công lao !
Thất Vương Gia trợn mắt :
- Khanh nói thế sao được ? Đám bằng hữu giang hồ kia vì khanh mà xuất lực chứ đâu phải vì Bỗn Vương. Không có khanh thì dẫu Nghiêm này có chết mục xác họ cũng chẳng thèm nhìn đến ! Từ nay, khanh có quyền ra vào Hành Cung, bất cứ lúc nào và không phải thi đại lễ !
Đặc ân này rất lớn vì ngay Mã Thượng Thư cũng không được phép !
Các quan thầm ganh tỵ với Nam Cung Giao, nhưng ngoài miệng vẫn tán dương công trạng của chàng !
Ông tặc lưỡi nói tiếp :
- Tiếc là Đại Quận Chúa năm nay mới mười hai tuổi, nếu không bổn vương sẽ gả cho khanh !
Thất Vương Phi che miệng cười :
- Vương Gia quả là lẩn thẩn, sao không hỏi xem Nam Cung hiền khanh có muốn được phong tước Hầu hay quan chức gì ?
Vương Gia vui vẻ đáp :
- Bỗn Vương đã hỏi y có muốn làm Tổng Bộ Đầu hay không thì y từ chối, bảo rằng tài đức chẳng bằng Lưu hiền khanh ! Y còn nói là nhờ diệu kế của Lưu khanh nên mới thành công !
Lưu Cát nghe cảm động đến nghẹn lời trước thái độ của Nam Cung Giao, tự nhủ sau này đền ơn đáp nghĩa !
Kể từ hôm ấy, Nam Cung Giao và hai vị hôn thê liên tục được mời sang Hành Cung dự yến.
Quyền lực của Mã Thượng Thư cũng nhờ thế mà càng thêm vững mạnh !
Bá quan Nam Kinh và các phủ phía Nam đều ra sức o bế Mã Xuân Trác và Nam Cung Giao.
Giờ đây, chàng được cả Vương Gia lẫn Vương Phi sủng ái, nói gì họ cũng nghe.
Nam Cung Giao đã xin xá tội cho kẻ tử tù là quan Vệ Uý Lâm Trung, chỉ huy lực lượng thị vệ ở Hành Cung !
Họ Lâm thoát chết, dù bị giáng xuống làm phó cho Mã Kim Khu, nhưng cũng hết lòng tri ân chàng !
Trịnh Kiều đã tặng Nam Cung Giao ba chục tay đao giỏi nhất làm thủ hạ !
Chàng bèn giao một nửa cho Kim Khu để bảo vệ Vương Gia !
Mười lăm người còn lại ở trong phủ Thượng Thư cùng anh em họ Sở và Cuồng Vũ Đao.
Sách lão đã già nên vui vẻ nhận chân hộ viện cho nhà họ Mã !
Riêng Mộc Kính Thanh là không vui, ngày nào cũng đi chơi đến tận nửa đêm mới về. Không thấy gã say, Nam Cung Giao lại trách :
- Thân thể ngươi đã chẳng được tráng kiện mà cứ lăn lóc chốn lầu xanh thế này thì chẳng mấy chốc nguyên dương sẽ cạn kiệt !
Kính Thanh nở nụ cười thê lương :
- Nay đại ca sa vào bẫy phú quí, phấn son, vui mừng với kiếp cá chậu chim lồng khiến tiểu đệ vô cùng thất vọng ! Có lẽ tiểu đệ sẽ về Chiết Giang chứ không ở đây làm gai mắt đại ca nữa !
Nam Cung Giao rầu rĩ đáp :
- Ngươi hiểu lầm ta rồi ! Chỉ cần Vân Mi có tin vui là ta sẽ cùng ngươi khởi hành đi Bắc Kinh ngay ! Hiền đệ ráng chờ thêm một tháng nữa !
Kính Thanh cười cợt :
- Nhị tẩu tuy xinh đẹp tuyệt trần như mang tướng chân dài, eo nhỏ chẳng phải là người mắn đẻ, hay là đại ca thử vận may với Mã đại tẩu xem sao ?
Nam Cung Giao xua tay :
- Không được ! Việc lấy Hoàn Cơ phải hoãn lại sau cùng ! Khi đã thành rể nhà họ Mã là mất hẳn tự do, chẳng còn được thỏa chí tang bồng ! Ta đã có cách khác !
Cuối tháng ba, Thần Nữ vẫn chưa có hỉ tín.
Mộc Kính Thanh lặng lẽ bõ đi, để lại thư cho Nam Cung Giao :
" Đại ca nhã giám ! Tiểu đệ không nỡ để đại ca rời xa cảnh nhung lụa ấm êm, nên sẽ thay đại ca đi Bắc Kinh ! Nếu tiểu đệ thất bại, không trở về nữa, thì có nghĩa là đại ca cũng chẳng nên đi cho uổng mạng ! Nhớ nhau, xin đại ca thắp ba nén hương và bày chung rượu nhạt là đủ !
Ngu đệ Mộc Kính Thanh bái bút ".
Nam Cung Giao thở dài, đốt lá thư, rồi tìm đến phòng Thần Nữ. Chàng buồn rầu kể lại việc Kính Thanh một mình liều mạng đến Bắc Kinh ám sát Bình Phiên Công Trương Phụ.
Chàng lại bảo :
- Du nàng chưa cấn thai nhưng ta cũng phải lên đường ngay, không thể để Kính Thanh đơn thương độc mã vào hang cọp được ! Ta sẽ giả vờ báo với nhà họ Mã là nàng đã có tin vui, cần được đưa về Cán Châu !
Thần Nữ bẽn lẽn cúi đầu :
- Thiếp quả là vô dụng nên đã phụ lòng tướng công.
Trong lúc Vân Mi thu xếp hành lý Nam Cung Giao trở về phòng, cho gọi Sở Trường Thụy Iên, chàng nghiêm giọng :
- Bốn anh em túc hạ sẽ hộ tống Nhị phu nhân về nhà phụ mẫu ta ở Cảnh Đức Trấn. Hành trình phải cực kỳ bí mật, không được để người ngoài chú ý. Sau đó, chư vị sẽ mua nhà ở lại nơi ấy chờ ta !
Trường Thụy ngượng ngùng đáp :
- Xin công tử điều anh em khác, bởi bọn thuộc hạ đang định đưa Tứ muội về Hợp Phì !
- Vì sao vậy ?
Trường Thụy chua xót đáp :
- Gia muội đã cấn thai gần tháng nay, biết phận mình xấu xí, hèn mọn nên chẳng dám với cao, đành về quê hương nhờ từ mẫu !
Nam Cung Giao mừng rỡ vỗ đùi :
- Tuyệt diệu thực ! Té ra trời đã rủ lòng thương ta. Gia mẫu và gia phụ tất sẽ hoan hỉ đón một lúc hai nàng dâu.
Trường Thụy cảm kích quì xuống lạy :
- Nhà họ Sở xin cảm tạ tấm lòng rộng rãi của công tử.?
Nam Cung Giao đỡ gã lên, nghiêm giọng :
- Ta vốn thực tâm yêu mến Sở Nhu, nên mới đến với nàng ! Chỉ vì ngại song thân tỵ hiềm dung mạo của Nhu muội nên lòng vẫn còn ngại ! Nay nàng ta lại thụ thai tức là đã đúng như ý ta sắp xếp.
Chàng lại cười :
- Nhưng lúc này ta chưa gọi túc hạ là Đại Cửu Tử đâu đấy nhé !
Hôm sau, người trong gia đình họ Mã lưu luyến tiễn Nam Cung Giao và Thần Nữ Tiền Vân Mi lên đường về Cán Châu.
Hoàn Cơ buồn rười rượi và rất tủi thân. Nàng đã vì gia phong mà không dám hiến thân cho tình quân, đành bám víu vô lời hứa hẹn của Nam Cung Giao.
Cuộc ra đi này được giữ kín, kẻ trước người sau rời phủ chứ không rầm rộ một lúc.
Khi sang đến bờ Nam Trường Giang, Nam Cung Giao lẳng lặng quay lại cùng hai gã cao thủ Thế Thiên Hội đi lên hướng Bắc.
Hai gã này là cháu ruột gọi Hội Chủ. Thế Thiên Hội Trịnh Kiều bằng thúc phụ.
Trịnh Tháo là anh, ba mươi sáu tuổi còn Trịnh Mãng là em nhỏ hơn một năm. Họ được chân truyền pho Tuyệt Mệnh Đao pháp Trịnh gia nên bản lãnh cao cường nhất, chỉ thua có mình Hội Chủ.
Kẻ có tài thường ngang bướng, và do tình quyến thuộc nên Trịnh Kiều lại càng khó xử. Vì thế, lão đã đẩy hai đứa cháu bất trị sang cho Nam Cung Giao !
Trịnh Tháo và Trịnh Mãng sinh trưởng ở Bắc Kinh, sáu năm trước mới đến tham gia Thế Thiên Hội. Họ rành rẽ, thông thuộc địa thế Bắc Kinh nên đã được Nam Cung Giao cho tháp tùng !
Hai gã vô cùng hoan hỉ vì được về thăm cố thổ, nếm lại những lạc thú đất Kinh Sư ! Giờ đây bạc vàng đầy túi, nhờ sự rộng rãi của Nam Cung công tử, họ có quyền mò đến những nơi sang trọng nhất !
Là anh em ruột nên dung mạo dáng vóc hao hao giống nhau, cao trung bình mặt vuông, mắt dài, mày xếch, mũi ưng, môi dầy đĩ thõa.
Tuy hay cười, hay bông lơn, nhưng thủ đoạn của hai gã tàn nhẫn phi thường, giết người chưa bao giờ biết run tay !
Trung lúc Nam Cung Giao và họ Trịnh tất tả bôn hành, chúng ta sẽ về Cảnh Đức Trấn để xem cảnh nhà Nam Cung Giao nhận dâu !
Gần giữa tháng tư, lúc trời đã tối hẳn, có năm người khách đến gõ cửa Tế An Đường của nữ danh y họ Đặng.
Nam Công Bột bước ra mở cửa, niềm nở hỏi :
- Chẳng hay chư vị cần chữa bệnh hay mua thuốc ?
Biết lão già to béo, cao lớn nay là Nam Cung Bột, Sở Tường Thụy kính cẩn vòng tay đáp :
- Bẩm lão gia ! Bọn vãn bối mang thư của Nam Cung công tử đến vấn an lão gia và lão thái !
Nam Cung Bột mừng rỡ mở toang cửa :
- Hay quá ! Mời chư vị vào ! Lão phu đang nóng ruột chờ đợi tin tức của Giao nhi !
Ông chợt hạ giọng :
- Vợ ta còn rất trẻ đẹp, chư vị đừng xưng hô là lão Thái, bà ấy sẽ không vui, cứ gọi bà ấy là phu nhân thôi.
Năm người cúi đầu vâng dạ, Thần Nữ và Sở Nhu đứng sau cùng nên Nam Cung Bột không thay, lúc họ bước qua ngạch cửa. Lão nhận ra sự tương phản của hai người, ngơ ngác gãi tai tự hỏi :
- Lẽ nào tiểu quỉ nhà mình lại ngông cuồng đến mức vợ cả xấu lẫn đẹp, chẳng chừa một ai cả ? Phen này bà lão nhà ta sẽ phải rối trí đây ?
Lão hối hả mời khách ngồi, chạy vào gọi Trinh Tâm.
Nghe nói có người mang tin của trưởng tử về, bà mừng rỡ thay áo ra ngay.
Lộc nhi và Hà nhi cũng đi theo mẹ !
Tuy không son phấn, song Trinh Tâm vẫn rất đẹp so với số tuổi gần ngũ thập, làn da bà trắng trẻo mịn màng, chỉ điểm vài nếp nhăn nơi đuôi mắt. Khi bà cười, hai lúm đồng tiền duyên dáng kia khiến gương mặt trẻ như mới ba mươi.
Cả năm người khách nhất tề quì xuống, nhưng chỉ có hai nữ nhân run rẩy lên tiếng :
- Tức nữ bái kiến Lão gia và Nải nương !
Trinh Tâm choáng váng, sửng sốt nhìn hai nàng dâu, thầm nhủ :
- Lẽ nào Giao nhi lại dám bày trò hí lộng ta ! Phải hỏi cho ra lẽ mới được !
Bà cố trấn tĩnh bảo :
- Mời chư vị bình thân an tọa ! Ta muốn được đọc thư của Giao nhi trước đã !
Vân Mi vội cung kính trao thư cho bà.
Năm người khép nép ngồi xuống ghế tựa, chăm chú theo dõi nét mặt gia chủ.
Nam Cung Bột vui vẻ nói :
- Lộc nhi ! Con mau xuống bếp nấu nước pha trà đãi khách !
Sở Tích Vũ nãy giờ dán mắt vào, những hũ rượu thuốc lớn trên kệ, buột miệng nói ngay
- Chẳng dám phiền đến nhị tiểu thư ! Bọn vản bối chỉ xin vài chén rượu cũng đủ !
Nam Cung Bột mở cờ trong bụng, liếc phu nhân, mũi phập phồng, nói giả lả :
- Nếu chư vị thích dùng rượu thì lão phu xin tuân mệnh !
Cạnh hũ lớn có những bình nhỏ độ một cân chiết sẵn để bán cho khách.
Nam Cung Bột xách ngay một bình đến bàn, rót ra mời mọc.
Họ vừa cạn chén thứ hai thì Trinh Tâm lên tiếng :
- Rượu bổ dành cho người bệnh hoạn, thân thể đã cường tráng thì chẳng thể uống nhiều được !
Sở Tích Vũ vội viện bạch :
- Bẩm phu nhân, Vãn bối chỉ uống đúng ba chén thôi ! Cũng giống như công tử vậy !
Trinh Tâm hiếu kỳ hỏi :
- Giao nhi xa nhà mà vẫn nhớ được lời dạy bảo của ta ư ?
Tích Vũ hăng hái xác nhận :
- Bẩm phải. Công tử mỗi ngày chỉ uống đúng ba chén. Có điều mỗi chén phương Bắc lớn gấp ba bốn lần chén của nhà này !
Nam Cung Bột khoái chí cười ha hả :
- Giao nhi giỏi thực ! Ngày mai lão phu phải tìm mua chén uống rượu của người phương Bắc mới được !
Trinh Tâm tủm tỉm cười :
- Giao nhi còn trẻ, có uống ba chén lớn cũng chẳng sao ! Nhưng ông thì không nên !
Rồi bà nghiêm giọng :
- Tướng công hãy đọc kỹ thư của Giao nhi rồi cho thiếp biết chủ ý !
Nam Cung Bột vội cạn chén thứ ba, đưa tay nhận thư.
Đọc xong, lão hắng giọng phát biểu :
- Giao nhi quả là đứa con chí hiếu, trước khi dấn thân vào hiểm địa đã chu toàn tông mạch cho họ Nam Cung ! Lão phu quyết định nhận cả Vân Mi lẫn Sở Nhu làm con dâu ! Ý phu nhân thế nào ?
Trinh Tâm đáp ngay :
- Thiếp cũng cùng một ý với Tướng công !
Nam Cung Bột đắc ý cười hể hả, vuốt râu nói :
- Phu nhân nhu thuận như thế khiến ta rất hài lòng !
Lão tiện tay nâng chén lên uống thì nghe người vợ ngoan hiền nhắc nhở :
- Tướng công ! Đã đủ ba chén rồi !
Nam Cung Bột ngượng ngùng đặt xuống :
- Lão phu vì quá vui nên quên đếm !
Khách không dám nhưng Lộc nhi và Hà nhi cười dòn dã, đồng thanh hét lên :
Nhất nhật tam bôi hề
Tráng lão ích thọ
Đa nhất bôi hề
Phụ thân chung dạ tương tư
Ô hô ! Ai tai !
(Dịch)
Ngày ba chén hề
Tốt Ião sống lâu
Thêm một chén hề
Cha suốt đêm nhung nhớ
Tiếc thay ! Buồn thay !
Bài đồng dao này do Nam Cung Giao nghĩ ra và dạy cho hai cô em gái.
Bình thường chúng vẫn nghêu ngao nhưng chẳng hề bị phụ mẫu trách mắng. Nay trước mặt khách, chúng đem ra hát chơi, khiến mặt Trinh Tâm đỏ như gấc còn Nam Cung Bột thì xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.
Thẹn quá hóa giận lão hùng hổ uống cạn chén thứ tư trên bàn.
Giờ chúng ta sẽ quay lại với cuộc hành trình của Nam Cung Giao. Chàng và hai thủ hạ đã đến Từ Châu trưa ngày rằm tháng tư.
Ba người vào Tứ Hải Đại Lữ điếm nghỉ trọ.
Tắm gội xong, chàng rủ anh em họ Trịnh :
- Ở cửa Bắc thành có quán thịt chó của người Giao Châu mùi vị tuyệt hảo. Ta sẽ cùng hai ngươi say sưa một bửa ra trò !
Trịnh Tháo khoan khoái đáp :
- Té ra công tử hảo món nhậu bình dân ấy ! Anh em thuộc hạ vui mừng được hầu rượu công tử !
Nhưng khi đến nơi, Nam Cung Giao ngơ ngác nhìn cảnh điêu tàn, đổ nát, quán thịt chó đã bị phá sập, gạch ngói ngổn ngang.
Dưới ánh nắng gay gắt cuối xuân, một phụ nhân nhỏ bé đang ngồi khóc lóc bằng tiếng Giao Chỉ :
- Ôi Lan nhi ! Tội nghiệp cho đứa con gái ngoan hiền xinh đẹp của mẹ ! Vì sao lão trời già oan nghiệt kia lại cướp con khỏi vòng tay của mẹ thế này ?
Nam Cung Giao kinh hãi xuống ngựa, chạy đến đở bà lên và hỏi :
- Mong đại nương, cho tiểu điệt biết chuyện gì đã xảy ra với nhà ta và Tiểu Lan !
Bà nhìn một lúc, nhận ra người khách trẻ tuổi hồi trong năm, lại òa lên khóc lóc, kể lể :
- Nam Cung công tử đây sao ? Lan nhi vẫn thường hay nhắc đến người với mối tương tư nặng trĩu đầu đời ! Nay công tử trở lại thì đã quá muộn rồi !
Nói xong, bà ngất xỉu trong vòng tay Nam Cung Giao !
Chàng vội bồng bà lên, đi sâu vào trong thôn. Phía sau quán thịt chó, cách một thửa ruộng có vài chục nóc nhà của dân Giao Chỉ, đa số là nhà tranh hay gỗ ! Và tất cả đều đang được sửa chửa lại. Cái thì đã xong, cái vẫn dở dang. Điều này chứng tỏ thôn xóm vừa gặp tai họa.
Đám tửu khách từng gặp chàng hồi giữa tháng mười một, mừng rỡ gọi vang, chạy đến chào hỏi.
Có hai phụ nhân đỡ lấy Trần mẫu đưa vào nhà chăm sóc.
Đấy là căn nhà gỗ lợp ngói của trưởng thôn họ Lê !
Lão đông con trai nên đã sửa xong, liền mời Nam Cung Giao vào nhà dùng trà.
Lão buồn rầu kể :
- Mãnh đất này trước đây vốn thuộc về Vệ Gia Trang. Tổ tiên họ Vệ có công lớn nên được Minh Thái Tổ cắt đất phong bá. Chê khu vực này toàn đầm lầy ngập nước nên hai mươi năm trước, cố trang chủ Vệ Thiên Dụng đã bán lại cho đám dân An Nam nghèo khổ chúng tôi. Bao nhiêu mồ hôi nước mắt đã đổ xuống nên mới được cao ráo, phì nhiêu như hôm nay. Nào ngờ, bốn ngày trước, Vệ Trang Chủ bây giờ là Đông Thành Bá Vệ Cảnh kéo gia nhân đến, bắt cả thôn phải dọn đi và nhận lại số bạc nhỏ lúc trước. Lão lấy cớ là đất của Thiên Tử phong thì không được bán, nay họ Vệ sợ tội nên phải thu hồi ! Giá ngày xưa chỉ là trăm lượng bạc, không đủ mua lá lợp nóc bốn chục căn nhà, chớ đừng nói đến mua ruộng đất mới ! Tất nhiên, bọn ta không đồng ý, lập tức bị đánh đập và phá hủy nhà cửa. Tiểu Lan giỏi võ liền chống cự quyết liệt song cuối cùng cũng bị giết chết !
Nam Cung Giao nghe như đất trời sụp đổ, phẫn nộ gầm vang tựa hổ rống, nước mắt chảy dài.
Thấy mọi người hoảng sợ, chàng cố trấn tĩnh lại và hỏi :
- Thế Lê lão trượng có nhờ nha môn Từ Châu phân xử hay không ?
Lê lão chua chát đáp :
- Tri huyện Từ Châu Hoàng Tẩn ăn hối lộ của nhà họ Vệ nên khi nhận được đơn kiện của dân trong thôn này liền trả lời rằng : Vệ Cảnh là Bá Tước, Đại Lý Tự ở Bắc Kinh mới có quyền xét xử, các ngươi hãy lên Kinh Đô mà kêu oan. Nhà họ Vệ được Thái Tổ ban cho Đan Thư Thiết Khoán nên bổn chức chẳng thể vào được !
Nam Cung Giao ở phủ Hình Bộ đã vài tháng, biết rõ luật lệ này, chàng gật gù :
- Hoàng Tri huyện nói đúng đấy, phải có thánh chỉ hoặc trát của Bộ Hình, Đại Lý Tự Đô Sát Viện thì mới được vào Vệ Gia Trang !
Lê lão hậm hực :
- Thế chẳng lẻ Tiểu Lan phải chịu chết oan và hơn hai trăm người dân thôn này phải mất cơ nghiệp, đi ăn xin mà sống ? Là dân Giao Châu, dầu có ngửa tay xin chịu nhục cũng chẳng mấy ai cho.
Nam Cung Giao cười nhạt :
- Việc của Tiểu Lan tính sau giờ phiền lão trượng đi tìm mua một mãnh ruộng to độ bốn chục mẫu. Mỗi nhà trong thôn sẽ được chia một mẩu và tiền bạc để xây nhà mới !
Lê lão ngơ ngác, rụt rè hỏi lại :
- Công tử không nói chơi đấy !
Chàng lắc đầu, móc ra một tập ngân phiếu đếm rồi trao cho lão :
- Số vàng ngàn lượng này hi vọng sẽ đủ. Nếu còn dư, lão trượng hãy chia đều cho mọi người.
Kỹ thuật làm giấy của Trung Hoa rất cao. Sản xuất ra được những loại giấy cực kỳ tốt. Dĩ nhiên, giấy ngân phiếu phải là hạng tốt nhất, láng mịn và dai bền. Nét in cũng tinh xảo có hoa văn chim, hình mây, núi, rồng, phượng. Tóm lại là rất khó làm giả !
Lê trưởng thôn rời ghế quì ngay xuống, nghẹn ngào vái tạ.
Người trong thôn nãy giờ xúm lại nghe ngóng, cũng vội quì theo.
Nam Cung Giao buồn rầu nói :
- Chư vị chỉ cần chăm sóc Trần mẫu và mộ phần của Tiểu Lan chu đáo là đã trả ơn cho tại hạ rồi !
Mọi người đồng thanh hứa !
Nam Cung Giao cùng hai gã họ Trịnh trở về thành Từ Châu !
Trịnh Mãng nóng nẩy nói :
- Công tử ! Hay là đêm nay chúng ta đến Vệ Gia Trang lấy đầu lão bá tước khốn kiếp kia ?
Nam Cung Giao xua tay, giọng lạnh như băng :
- Không được ! Nếu làm thế sẽ gây tai họa cho đám kiều dân An Nam. Chờ sự việc lắng xuống, chúng ta mới có quyền giết lão ! Nếu lần này đi Bắc Kinh ta có mệnh hệ gì thì trách nhiệm của hai ngươi là quay về đây giết Vệ Cảnh !
Hai gã không biết, mục đích chuyến thượng Kinh này nhưng cũng gật đầu.
Họ tự hỏi phải chăng chủ nhân của mình định hành thích thiên tử ?
Ba người dừng cương trước tòa Bành Thành Đệ Nhất Tửu lâu, lên tận tầng hai ngồi cho mát.
Bành Thành vốn là tên rất xưa của Từ châu. Nam Cung Giao thường ngày tươi tắn nhưng giờ đây sắc diện u ám ánh mặt đầy vẻ bi thương, thống khổ.
Chàng để mặc cho anh em họ Trịnh gọi thức ăn và không hề động đến, chỉ lặng lẻ nâng chén uống cạn, như muốn dùng rượu để dìm chết nỗi sầu muộn trong lòng !
Bàn của ba người nằm cạnh lan can nên Nam Cung Giao có thể ngắm những cụm hoa thược dược dưới vườn.
Dáng thướt tha của loài hoa này gợi cho chàng nhớ đến Trần Lan, người con gái Giao Châu xuân sắc, bạc mệnh !
Chàng không yêu Tiểu Lan, nhưng đặc biệt quí mến vì nàng mang nét đẹp của quê mẹ xa vời. Trong tất cả những nữ nhân chàng đã gặp thì Tiểu Lan giống mẹ chàng nhất, không phái về dung mạo mà vì nàng là người Giao Châu thuần chủng.
Gió xuân ấm áp thổi qua vườn, lay động những bông hoa thược dược vàng rực, khiến chàng tưởng như Trần Lan đang yểu điệu bước qua trước mắt mình !
Một giọt lệ hiếm hoi bỗng lén trào qua khóe mắt chàng trai hay cười !
Hoa thược dược đơn độc ở đầu cành, màu hoa hồng đậm, dáng hoa tha thướt, nên còn được gọi là Kiều Cung, Dư Dung, Diệm Hữu .
Trong vườn sau nhà Nam Cung Giao ở Giang Tây cũng có trồng thược dược, và người trồng chính là cha của chàng.
Nam Cung Bột về già bỗng thích làm vườn, chẳng đi đâu cả. Sau khi giúp vợ bào chế thuốc lão chỉ lo chăm sóc vườn hoa. Lão từng bảo rằng mình yêu hoa thược dược nhất vì chúng cũng đẹp như Trinh Tâm vậy !
Quả thực là loài hoa thược dược rất đẹp và rất đáng yêu, cuối xuân nở hoa, có các loại màu tía, hồng nhạt, trồng, và màu vàng Ià quí nhất !
Nam Cung Bột đã trồng đủ các sắc hoa Thược dược đất Dương Châu đứng đầu thiên hạ, nhưng sau này, Bắc Kinh cũng trồng và rất nỗi tiếng !
Thời Đường, Tống, thược dược được gọi là "lam vĩ xuân". Bởi vì tuần rượu cuối của một tiệc rượu, tửu khách sẽ uống ba chung liền, gọi là "lam võ tửu" . Vì thế, lam vĩ xuân có ý nói Thược Dược là hoa đẹp nở cuối cùng của mùa xuân, và mùa hạ sắp tới !
Do thế Nam Cung Giao đã chọc ghẹo cha :
- Phụ thân mới giống hoa Thược dược, vì chỉ được uống có ba chung ! Tam Bôi tiên sinh mà đổi thành Lam Vĩ tiên sinh thì nghe hay ho hơn nhiều !
Đang hồi ức những kỷ niệm cũ, Nam Cung Giao chợt nghe lòng đau nhói khi nhớ lại câu nói của Lê trưởng thôn : "Là dân Giao Châu, dẫu có ngữa tay chịu nhục cũng chẳng mấy ai cho !"
Người Hán tự hào về nền văn hóa lâu đời rực rỡ của mình nên xem thường các dân tộc khác. Ngay người dân Hải Nam như Nam Cung Bột cũng không được xem trọng, huống hồ gì đám dân lưu vong Giao Chỉ ?
Bậc hảo tâm sẽ không phân biệt gốc gác kẻ ăn mày khốn khổ, nhưng chính những đồng nghiệp người Trung Hoa sẽ xua đuổi họ ra khỏi những nơi dễ kiếm ăn nhất như danh lam, thắng cảnh, chùa chiền, miếu mạo !
An Nam hiện đã độc lập, dù phải xưng thần và tiến cống Triều Minh ba năm một lần, song không phải ai cũng dám trở về quê cha đất tổ !
Đám dân Giao Chỉ lưu vong đã bị ràng buộc với đất khách bằng những cuộc hôn phối cùng người Hán, hoặc vì sinh kế.
Ngoài ra, họ còn mang mặc cảm vì bản thân, hoặc cha ông đã không tự sát chết theo vua Tùy Quang, mà lại kéo lê kiếp sống nô lệ cho kẻ thù ! Và liệu khi họ về lại cố hương có được sống yên ổn, hay lại bị ruồng bỏ và nghi kỵ ?
Trung Hoa là mối họa ngàn đời của An Nam, dù đang hòa nhã vẫn luôn phải đề phòng !
Nam Cung Giao giờ đây đã hiểu rõ nỗi khổ của mấy chục vạn đồng bào của thân mẫu, và chính mình, chợt tự nhủ sẽ tận lực giúp đở họ. Được như thế thì cuộc đời chàng mới có chút giá trị !
Tâm niệm này đã khiến chàng khuây khỏa, bình tâm ăn uống với hai gã thủ hạ tội nghiệp kia.
Nãy giờ họ chẳng dám nói cười, nhai nuốt cũng cố không gây ra tiếng động !
Nhậu nhẹt như thế thì làm sao ngon miệng được ?
Sáng mười sáu bọn Nam Cung Giao tiếp tục cuộc hành trình. Khoảng cách giữa Từ Châu và Tế Nam là bẩy trăm dặm, có thể tạm chia làm hai đoạn :
Đoạn thứ nhất vượt hoàng Hà, đi dọc Đại Vận Hà hơn bốn trăm dặm.
Lúc này mé tay tả của lữ khách chính là vùng Lương Sơn Bạc nổi tiếng.
Sau đó, người ta phải sang bờ Đông Đại Vận Hà, đi nốt quảng đường hơn hai trăm dặm để đến Tế Nam.
Chính đoạn đường thứ hai mới là đáng sợ, cả về mặt địa hình lẫn an ninh !
Quan đạo trải dài trên vùng sơn cước của dãy núi Thái Sơn, nên gập ghềnh, hiểm trở có nhiều đèo dốc, và hai bên là rừng rậm âm u đầy ác thú !
Còn cường đạo thì chắc là chẳng thiếu, nhưng chỉ là những nhóm nhỏ, quen ức hiếp với những lữ khách đơn độc.
Song chàng họ Nam Cung của chúng ta chưa đến đấy.
Trưa ngày hai mươi ba, chàng mới có mặt ở bờ Tây Đại Vận Hà, chờ đò sang bên kia !
Đây là bến đò duy nhất của con đường huyết mạch, nên quán xá rộng rải để đón tiếp những đoàn xe chở hàng hóa.
Ba người bọn Nam Cung Giao vừa ăn được vài gắp thì nghe tiếng vó ngựa, tiếng trục xe kẻo kẹt vọng đến.
Âm thanh ồn ào này chứng tỏ đoàn xa mã ấy khá đông đảo, và hàng hóa chở theo rất nặng nề.
Lát sau, đám lữ khách kia dừng chân trước cửa quán gồm mười cỗ xe song mã và hai trăm quân áp tải. Y phục của họ rất khác hẳn quan quân triều đình.
Lính thì vải, quan thì lụa, song đều có điểm chung là áo dài quá gối, tay áo chật, ống quần rộng.
Bốn vị võ quan áo xanh không mang giáp trụ, đầu trần quấn khăn vành rễ, búi tóc nhỏ lệch hẳn về phía sau chứ không ở gần đỉnh đầu như người Trung Hoa.
Lá đại kỳ vuông vức bằng mãnh chiếu, cắm trên cỗ xe đầu tiên, một mặt có hai chữ Đại Việt, mặt kia là Thiệu Bình, thêu bằng chỉ đen giữa nền vàng. Và trên nóc chín cổ xe còn lại là những lá cờ trắng nhỏ, viết hai chữ Cống Phẩm.
Nam Cung Giao bồi hồi xúc động, nhận ra đoàn sứ giả An Nam đang trên đường triều cống nhà Minh !
Chàng không thắc mắc về cống phẩm vì đã từng nghe Thất Vương Gia nói qua.
Cứ ba năm một lần, Triều Lê đất An Nam phải tiến cống một số phương vật căn bản như :
Hai người bằng vàng.
Một lư hương bằng bạc.
Một đôi bình hoa lạc.
Mười bốn đôi ngà voi.
Mười hai bình hương trầm.
Hai vạn nén hương luyến.
Hai mươi bốn cây hương trầm lớn .
Các khoản đều có thể thay đổi bằng vật lạ khác, riêng hai hình nhân bằng vàng là cố định. Tên của hai người bằng vàng là Đái Thân Kim Nhân (Người vàng thế mạng) tượng trưng cho hai Đại tướng Minh Triều là Liễu Thăng và Lương Minh, bị quân Lê Lợi giết trong trận Chi Lăng !
Hôm nay quán vắng khách, vài bàn là có người, song chỉ bốn võ quan vào ngồi hẳn, còn quân sĩ An Nam thì chia nhau luân phiên ăn uống, không dám bỏ mặc đoàn cống phẩm.
Nam cung Giao ngắm nghía những gương mặc cương nghị, rắn rỏi kia với ánh mắt thích thú và trìu mến.
Chàng chợt lấy làm lạ khi họ lại đi đường này để đến Bắc Kinh ? Vì theo lệ thường, và thuận tiện nhất là đường quan đạo Bắc Nam, qua Quảng Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc đến Trịnh Châu rồi vượt Hoàng Hà. Sau đó, họ sẽ ghé qua những địa phương sầm uất như An Sương, Thạch Gia trang, Bảo Định và đến đế đô.
Đường trục chính này vừa rộng rãi rừa an toàn, sao họ không đi ? Hay là lần này họ phải ghé vào Nam Kinh trước ?
Chính vị võ tướng râu ba chòm đen nhánh đã vô tình giải thích.
Nam Cung Giao hiểu .
Lão nói bằng tiếng An Nam và không ngờ có người nghe được :
- Này tam vị hiền đệ ! Năm ngoái, cống phẩm của nước ta bị cướp ở bờ Bắc sông Hoàng Hà, quan quân áp tải chết không còn một mống, thế là Triều Minh giả như không biết, gởi thư trách móc.
Lần này, nếu chúng ta không đến được Bắc Kinh thì e rằng họ sẽ mượn cớ mà gây hấn. Nghe nói đoạn đường đến Tế Nam có địa hình phức tạp, chúng ta phải cố vượt qua thật nhanh, đi cả ngày lẫn đêm.
Ba người kia gật đầu tán thành, và võ quan tuổi tam tuần anh tuấn thở dài bảo :
- Nguyễn huynh ! Tiểu đệ chỉ thắc mắc một điểm là Sứ thần năm ngoái vì sao lại không thoát thân được ? Quan Hành khiển Phạm Văn Tường võ nghệ tuyệt luân, sức khoẻ như thần, chạy nhanh hơn vó ngựa, lẽ nào lại không giữ được mạng sống mà đến Bắc Kinh tố cáo ? Chỉ cần đem được biểu tấu của vua ta và Điệp Thông Quan ra trình là Triều Minh phải dốc sức điều tra, xem như đã nhận cống vật !
Người họ Nguyễn tuổi độ năm mươi, vầng trán cao rộng, mắt sáng tinh anh, biểu hiện một trí tuệ sâu sắc. Ông nghiêm giọng :
- Trần hiền đệ ! Trung Hoa đất rộng người đông, nhân tài võ học nhiều như lá mùa thu ! Phạm tướng quân dù tài giỏi nhưng biết đâu phe cường đạo lại có cao thủ lợi hại hơn ?
Nay chúng ta bản lãnh không bằng họ Phạm nên mới phải đi dường này để tránh cường. Nếu chẳng may lại bị chặn đường, bọn ta sẽ liều chết đoạn hậu để hiền đệ thoát thân, đến Bắc Kinh ! Thất Vương Gia Chu Nghiêm ở
Kim Lăng đã xác nhận số lượng cống phẩm vào Thông Quan điệp, dù có bị cướp sạch cũng chẳng sao !
Họ Trần chua xót :
- Không ngờ Trần Dũng tôi lại phải làm trò bất nghĩa, bỏ mặc bào huynh mà đào tẩu ! Thật nhục nhã cho giòng dõi Tướng quốc !
Nam Cung Giao thầm đoán Trần Dũng là con cháu của Tả Tướng Quốc Trần Nguyên Hãn, đại công thần của nhà Lê, song đã bị Thái Tổ Lê Lợi chém đầu.
Chàng thường đàm đạo với Mã Thượng Thư và các quan Nam Kinh nên biết khá rõ về triều đình An Nam.
Ví dụ như hai chữ Thiệu Bình trên ngọn đại kỳ kia là niên hiệu của vua Lê Thánh Tông. Ông này lên nối ngôi Lê Lợi đã được bốn năm.
Nam Cung Giao cau mày suy nghĩ, tự hỏi bang hội nào đã dám làm chuyện tày trời, cướp cống phẩm ?
Thủ đoạn giết sạch không chừa nhân chứng kia phải chăng là của Hồ Bang ?
Trong địa phận ấy đâu còn tổ chức nào hùng mạnh hơn họ ? Nếu Hồ Ly Song Tiên xuất hiện thì khó có cao thủ An Nam nào địch lại !
Đoàn sứ thần An Nam rời quán, đốc thủ hạ lên đường.
Nam Cung Giao cũng bảo quán tính tiền, đi theo họ, vì đò đã cặp bờ !
Hàng hóa nặng nề nên đám người An Nam đi khá chậm.
Nam Cung Giao cứ lẻo đẻo đằng sau họ, không chịu vượt qua.
Trịnh Mãng cười hỏi :
- Chẳng lẽ công tử định đánh cướp số cống vật này ?
Chàng nghiêm nghị đáp :
- Năm ngoái họ đã bị cướp sạch, nên năm nay mới lén đi đường này ! Ta sợ rằng họ sẽ khó mà thoát được, nên vì thể diện của người Trung Hoa mà giúp họ một tay ! Kẻo không họ lại tưởng rằng nước ta chốn nào cũng có đạo tặc !
Trịnh Tháo cười hăng hắc :
- Biết sau họ sẽ tri ân mà tặng vàng bạc cho chúng ta ?
Do đã liên hệ trước với người phụ trách bến đò nên đoàn sứ thần An Nam được ưu tiên sang sông, bằng mười chiếc đò lớn đáy phẳng. Thế mà cũng phải mất hai lượt họ mới qua hết.
Nam Cung Giao sang được bờ sông, thúc ngựa phi mau để bắt kịp những đứa con của quê mẹ !
Thấy chàng và hai thủ hạ lại cứ bám theo sau. các sứ thần An Nam rất lo ngại, thỉnh thoảng ngoái lại nhìn. Nhưng họ không thể nói gì vì đây là lãnh thổ Trung Hoa, chứ chẳng phải đất An Nam !
Bị âm hồn phía sau ám ảnh tâm lý các sứ thần An Nam đến nỗi chàng võ quan trẻ tuổi Trần Dũng không còn chịu nổi sự căng thẳng, bất ngờ quay ngựa lại.
Gã chặn đường bọn Nam Cung Giao, trợn mắt quát :
-Các ngươi âm mưu gì mà cứ bám theo bọn ta ?
Cả đoàn xe đã phải dừng lại và ba sứ giả kia vội đến hỗ trợ Trần Dũng.
Họ cũng muốn giải quyết cho xong mối đe dọa sau lưng !
Ba gã đội nón rộng vành kia quả là đáng ngờ, khiến lòng họ luôn nơm nớp lo sợ !
Tuy nhiên, người họ Nguyễn cẩn trọng nhắc nhở Trần Dũng :
- Trần hiền đệ chớ nên quá lỗ mãng, biết đâu họ đi theo vì tò mò chứ không hề có ác ý !
Tràn Dũng hậm hực đáp :
- Mả mẹ chúng ! Tiểu đệ chịu hết nổi rồi.
Cả hai đều nói tiếng An Nam, tưởng đối phương không hiểu.
Quả thực là anh em họ Trịnh thì như vịt nghe sấm, song Nam Cung Giao sa sầm nét mặt, khi bị chưởi động đến mẫu thân.
Chàng quyết định dạy cho gã thô lỗ kia một bài học.
Nam Cung Giao ngửa cổ cười dài, lạnh lùng nói:
- Kẻ đảm đương đại nhiệm thì lúc nào cũng. phải trầm tĩnh như núi Thái, cẩn trọng trong hành động và ngôn từ ! Nay các hạ tính tình nóng nẩy, bồng bột, lại khiếp nhược nên đa nghi, chằng xứng mặt sứ thần. Không lẻ nước An Nam hết người rồi sao ?
Tất nhiên chàng nó bằng tiếng Quảng Đông, tlứ ngôn ngữ mà rất nhiều người thông thạo huống hồ gì các sứ giả !
Người họ Nguyễn nghe lời chính khí, kinh hãi chắp tay nói :
- Lời vàng ngọc của tráng sĩ khiến Nguyễn Đào này vô cùng kinh ngạc, dám hỏi tráng sĩ là cao nhân phương nào !
Trần Dũng nóng nẩy cướp lời :
- Nguyễn huynh quả là nhẹ dạ nên mới qua vài câu đã bị lung lạc ! Tiểu đệ chỉ nhìn mặt họ là biết ngay phường đạo tặc !
Lão nhân râu ba chòm cao niên vội ngắt lời Trần Dũng :
- Ngươi chớ hồ đồ ! Để Nguyễn hiền đệ đối phó ! Dường như đối phương hiểu tiếng Việt !
Nam Cung Giao cười mát :
- Tại hạ không biết nhiều song những câu chưởi mả thì hiểu hết ! Lão trượng bảo gã họ Trần kia tạ lỗi thì tại hạ sẽ bỏ qua chuyện này.
Lão nhân nghiêm nghị đáp :
- Lão phu là Lê Khải, chánh sứ thần An Nam ! Mong tráng sĩ xưng danh tính và nói rõ lý do vì sao lại bám theo đoàn xe cống phẩm. Sau đó. lão phu sẽ bắt Trần Tham tướng phải tạ lỗi !
Nam Cung Giao kính lão, vòng tay điềm đạm đáp :
- Tại hạ là Nam Cung Giao. Lúc ở bến đò Đại Vận Hà, tạ hạ tình cờ nghe được việc cống phẩm năm ngoái bị cướp, nên đi theo để giúp đỡ chư vị một tay !
Trần Dũng bị chàng chê bai nên rất hận, buột miệng nói :
- Võ nghệ được bao nhiêu mà đòi giúp người ?
Nãy giờ hai phe đối thoại đều bằng tiếng Quảng nên anh em họ Trịnh hiểu được. Giờ nghe Trần Dũng khinh thường chủ nhân, Trịnh Mãng nổi giận quát :
- Này tên tiểu tử ngu xuẩn kia ! Ngươi đui mù nên mới không thấy được núi Thái Sơn ! Nếu còn mở miệng chó ra sủa lần nữa thì đừng tránh lão gia đấy !
Lúc gã giận thì vẻ hung ác hiện rõ mồm một khiến các Sứ thần An Nam chột dạ. Dung mạo chàng trai trẻ họ Nam Cung đường chính, hiền lành, song thủ hạ của chàng thì thật đáng sợ !
Trần Dũng là cừu non hiếu thắng, bị chưởi là chó, lập tức rút kiếm ra ngay .
Lê Khả đưa tay ngăn cản :
- Trần Tham tướng ! Nếu ngươi không mau chóng tạ lỗi người ta rồi lên đường thì lão phu sẽ chiếu quân pháp trừng trị ngay ! Hành trình bị trì trệ cũng chỉ vì tính nông nổi của ngươi !
Trần Dũng ỷ vào vai trò quan trọng của mình trong chuyến đi này nên không sợ bị chém, ngoan cố đáp :
- Ty chức thà chịu trừng phạt chứ không chịu nhục trước kẻ ngoại bang !
Lê Chánh Sứ biến sắc không biết phải xử trí thế nào !
Nam Cung Giao nghiêm giọng :
- Kẻ nhận mệnh vua đi sứ nước ngoài phải đem văn tài võ lược ra làm rạng rỡ thanh danh nước nhà, đấy mới gọi là không chịu nhục trước ngoại bang Nay ngươi như ngựa non háu đá, như gà tơ tranh tiếng gáy, không nhận nổi chút việc vặt dọc đường, liệu khi đứng trước cảnh uy nghiêm của triều đình nhà Minh, có bảo toàn được quốc thể hay không ? Để ta mài dủa bớt lòng kiêu ngạo kia thì may ra ngươi mới nên người !
Chàng quay sang nói với Lê Khải :
- Lê Chánh sứ đừng sợ trễ ! Nếu đi đêm là trúng kế dĩ dật dãi lao của cường đạo. Tốt nhất chư vị hãy nghỉ ngơi trong trấn Tam Tuyền phía trước, chờ sáng rõ hãy khởi hành !
Còn trận so tài này, tại hạ hứa sẽ không giết họ Trần !
Lê Khả vòng tay cảm khái đáp :
- Không ngờ giữa đường lại hội ngộ bậc quân tử ! Nghe lời giáo huấn, bọn lão phu như kẻ đi trong đêm tối thấy được ánh dương quang. Mong tráng sĩ nhẹ tay cho !
Trần Dũng ê mặt, tung mình rời ngựa, tấn công gã trẻ tuổi có miệng lưỡi sắc bén kia. Thân pháp họ Trần vô cùng nhanh nhẹn, chứng tỏ đã dầy công luyện tập. Có lẻ vì vậy mà gã được giao nhiệm vụ mang Tấu Chương và Thông Quan Điệp đào tẩu !
Nam Cung Giao rút kiếm nhanh như chớp, dẫu ngồi trên lưng ngựa mà giải phá chiêu kiếm của họ Trần.
Chạm phải màn kiếm quang kín đáo và mãnh liệt của Nam Cung Giao.
Trần Dũng nghe cổ tay tê chồn, và bị đánh bạt ra xa, rơi xuống đất. Gã chỉ kịp than thở, tự trách mình hồ đồ chọc đúng vào tổ ong vò vẽ , thì đã bị đối phương nhẩy xuống ngựa đánh cho tối tăm mặt mũi.
Họ Trần cắn răng nắm chặt chuôi kiếm, đem hết tài nghệ ra chống đỡ. Gã vẫn tự hào rằng mình là kiếm thủ xuất sắc nhất nước Nam. Sau khi Phạm Văn Tường đi sứ bỏ mình. Song giờ đây, gã chua xót nhận ra mình chỉ là một đứa trẻ con trước chàng kiếm sĩ áo lam kia.
Nhớ lại lời hứa không giết của đối thủ, Trần Dũng liều lĩnh tấn công ráo riết, không thèm phòng thủ. Vì một lý do nào đó mà gã thà chết chứ không chịu thua .
Nam Cung Giao bình thản đẩy lùi những đợt tập kích điên cuồng, chân vẫn không hề rời chỗ. Mũi kiếm của chàng nhẹ nhàng đâm thủng hàng chục lỗ trên áo họ Trần mà không hề làm tổn thương da thịt.
Hơn thua đã rõ, Lê Chánh Sứ quát lên :
- Trần Tham Tướng hãy dừng tay, ngươi không phải là địch thủ của Nam Cung tráng sĩ !
Và lúc này, vị võ quan thứ tư mới lên tiếng. Chàng ta có thân hình thỏ bé, râu mép râu càm rậm rì, che gần hết gương mặt trắng trẻo. Đôi mắt đen tròn kia giờ đây đầy vẻ lo lắng sợ hãi.
Chàng bật thốt :
- Trần Đại ca đừng đánh nữa !
Giọng nói thánh thót, thanh tao kia là của nữ nhân, hoàn toàn tương phản với bộ râu dử tợn ! Thì ra gã là gái giả trai !
Nhưng đúng lúc ấy, Nam Cung Giao đã nổi tính khôi hài, chặt đứt dây thắt lưng của Trần Dũng.
Cả hai giải rút quần cũng chẳng toàn vẹn !
Quần dài, quần cụt nhất tề rơi xuống, khiến Trần Dũng vướng chân, ngã lăn ra đất. Vạt áo sau lệch đi nên mông gã chìa cả ra ngoài trắng hếu.
Trịnh Tháo cười hô hố :
- Ối chà ! Gã này ở bẩn nên bị lác ghê quá, mông toàn những đốm đồng tiền !
Trần Dũng tá hỏa tam tinh, luống cuống kéo quần lên, đứng giữ lấy chẳng dám buông. Mặt gã tái xanh như tầu lá vì thẹn và nhục nhã.
Cô nàng râu rậm kia vội chạy đến, lúi húi mở bọc hành lý, dịu dàng nói :
- Đại ca hãy vào xe thay y phục !
Trần Dũng thẹn quá hóa khùng :
- Sao nàng dám cười khi thấy ta bị hạ nhục !
Quả thực là lúc nãy các sứ thần đều mỉm cười trước cảnh tượng hoạt kê kia.
Cười là một hành vi bản năng rất khó kiểm soát. Khi đôi mắt chụp bắt được hình ảnh vui nhộn thì lập tức nụ cười hiện ra, trước khi ý thức được rằng nên hay không nên !
Do vậy, khi Trần Dũng ngã chổng mông trắng hếu ra thì ai cũng phải cười, dù nạn nhân là người thân cũng vậy !
Mỹ nhân râu rậm biết lỗi, cúi đầu ấp úng :
- Tiểu muội quả là bất nhã mong Trần Đại ca lượng thứ !
Song Trịnh Mãng đã đổ dầu vào lửa, gã cười khanh khách chế giễu :
- Nàng ta cười là phải ! Ai đời một gã đẹp trai như ngươi mà người đầy ghẻ lác, trông thật gớm ghiếc !
Thực ra thì hầu hết những người cỡi ngựa đường dài đều bị tổn thương phần da ở mông và đùi, do cọ xát tiếp xúc với yên ngựa. Nếu không giữ gìn vệ sinh, vùng da ấy dễ lở loét và ngứa .
Anh em họ Trịnh cũng có nhưng vì chán ghét Trần Dũng nên cứ làm như chỉ mình đối phương là bị lác !
Trịnh Tháo mau miệng bồi thêm một đòn :
- Nếu cô nương có ý định lấy gã thì hãy bỏ đi ! Bệnh Kim Tiền Tiển này lây ghê lắm, và cực kỳ nguy hiểm với nữ nhân ! Sau này, làn da trắng
như ngọc của cô nương sẽ toàn là những đốm đỏ ghê tởm !
Gã nói rất nghiêm trọng khiến cô gái ngây thơ kia sợ hãi, buột miệng hỏi lại :
- Thực thế sao ?
Anh em họ Trịnh phá lên cười vang, càng khiến Trần Dũng điên tiết.
Nam Cung Giao thấy ánh mắt gã đổ lửa, vội nạt hai thủ hạ rồi bước đến vòng tay nói :
- Tại hạ lỡ tay khiến túc hạ phải rơi vào cảnh khó coi, lòng này rất áy náy ! Xin túc hạ nhận một lễ này tha thứ cho !
Dứt lời, chàng cúi mình vái rất sâu !
Lê Chánh sứ cũng nói :
- Nam Cung tráng sĩ đã ngỏ lời tạ rồi, Trần hiền đệ cũng nên tỏ ra rộng lượng ! Vả lại ngươi là người gây sự trước mà !
Trần Dũng trợn mắt quát vào mặt Nam Cung Giao :
- Đừng giả nhân giả nghĩa ! Ngươi đã hạ nhục ta trước mặt vị hôn thê ! Thù này ta quyết chẳng quên ! Hãy cút đi !
Nam Cung Giao lộ vẻ ăn năn :
- Vì tại hạ không biết trong đoàn có nữ nhân nên mới đùa giỡn một chút. Nay các hạ đã không lượng giải, tại hạ đành phải cáo từ với niềm hối hận !
Chàng vòng tay chào chung rồi lên ngựa phi mau !
Nguyễn Đào thở dài tiếc nuối :
- Kiếm pháp của người này đã đạt đến mức thượng thừa, tâm địa lại rộng rãi, quân tử lẫm lẫm. Biết bao giờ Đại Việt ta mới sản sinh được một nhân tài như vậy ? Nếu Trần hiền đệ đừng quá hồ đồ thì chúng ta có được một trợ thủ lợi hại !
Bị trách móc, Trần Dũng bực tức nói :
- Biết đâu gã ta lại chính là đạo tặc đến đây để dò la !
Nữ nhân rậm râu cãi ngay :
- Tiểu muội cho rằng không phải ! Tướng mạo y hiền lành, nhân hậu chẳng thể nào làm cường đạo được !
Trần Dũng cười lạnh :
- Phải chăng nàng đã phải lòng gã nên mới hết lời bênh vực ?
Thiếu nữ sững người rồi bật khóc :
- Tiểu muội không ngờ Đại ca lại là người thiển cận, hẹp hòi như vậy ! Chỉ vì thói ghen tuông của Đại ca mà đường đường một Sứ thần như tiểu rnuội phải mang râu giả trai, da mặt ngứa ngáy, lở loét ! Đại ca đã nặng lời sỉ nhục thì tiểu muội cũng chẳng thèm chịu lép nữa. Từ nay chúng ta sẽ đối xử với nhau bằng tình đồng liêu !
Dứt lời, nàng giật bỏ râu ra để lộ gương mặt trái xoan kiều diễm !
Xế chiều, đoàn xa mã đến trấn Tam Tuyền, dừng chân nơi mảnh đất trống ngoài cửa trấn, cho người vào tìm chỗ trọ .
Nguyễn Đào lãnh nhiệm vụ này, lát sau trở lại với vẻ thất vọng :
- Bẩm Lê tôn huynh ! Nhà trọ trong trấn đều nhỏ bé, không nơi nào đủ chỗ chứa đoàn xe và lực lượng người ngựa của chúng ta !
Lê Khả vuốt râu nhìn quanh rồi nói :
- Lão phu cho rằng chỉ còn cách dựng lều hạ trại tại chốn này mà qua đêm ! Lương thực thì có thể vào trấn mua !
Cô gái Sứ thần nhăn mặt :
- Nhưng ở đây làm gì có chỗ tắm gội ! Tiểu muội ngứa ngáy lắm rồi !
Lê Khả mỉm cười :
- Tội nghiệp cho Cầm Vệ Úy thân gái dặm trường. Thôi thì hiền muội cứ vào trấn tìm chỗ nghỉ ngơi, sáng mai nhớ ra sớm !
Thiếu nữ họ Cầm này tuy tuổi mới đôi mươi nhưng được Hoàng Thái Hậu đặc biệt yêu mến, phong hàm Nhị Phẩm, quản lý toàn bộ lực lượng cấm quân canh gác Hoàng cung .
Có hai lý do khiến Cầm Đạm Thủy được Hoàng Gia ưu ái.
Thứ nhất, nàng là cháu nội của Cầm Quí, Tri phủ Ngạc Ma (thuộc đất Nghệ An). Họ Cầm đã phản lại quân Minh, theo phò Lê Thái Tổ cho đến ngày đại thắng.
Thứ hai, Cầm Đạm Thủy tinh thông những bí phương của dân tộc Mường, giúp Hoàng Thái Hậu luôn giữ được làn da mịn màng, trắng trẻo, dù tuổi đã cao.
Lần này, Cầm Đạm Thủy đi sứ Trung Hoa với trách nhiệm cải thiện làn da nhăn nheo của Hoàng Thái hậu Minh Triều. Nếu tranh thủ được tình cản của bà ta, việc bang giao giữa hai nước sẽ vô cùng thuận lợi !
Cầm Đạm Thủy đang hí hửng định vào trấn thì nghe Trần Dũng dấm dẳng nói :
- Gã Nam Cung Giao chắc đang nóng lòng gặp nàng đấy ! Hãy nhanh chân lên !
Cầm Đạm Thủy đỏ mặt, vừa thẹn vừa giận lối ghen hờn bóng gió của tình lang.
Nàng cười nhạt :
- Này Trần tham tướng ! Bổn chức cấm ông không được xen vào việc riêng của ta ! Nếu còn phạm thượng, đừng trách bổn chức chiếu trừng qui mà xử phạt !
Trần Dũng chỉ mới là quan Tam Phẩm xét ra là cấp dưới của Cầm Đạm Thủy. Gã thấy nàng quyết liệt như vậy cũng không dám nói thêm, hậm hực quay đi !
Nhìn vẻ mặt cau có, khắc bạc của gã Đạm Thủy đau lòng dậm chân than khổ :
- Không ngờ ta lại yêu lầm một kẻ tiểu nhân, tâm địa nhỏ nhen, cố chấp !
Rồi nàng sa lệ bõ về xe ngựa của mình, không vào trấn nữa.
Lê Khải và Nguyễn Đào nhìn nhau lắc đầu, ngụ ý chê bai Trần Dũng.
Lão vừa định ra lệnh cho sĩ tốt dựng trại thì có một lão già áo gấm đen phương phi, bệ vệ phóng ngựa đến. Theo sau lão là bốn gã tuần đinh cầm gậy.
Lão nhân xuống ngựa vòng tay kính cẩn nói :
- Lão phu là Vương Nghị, Chánh Tổng của Trấn Tam Tuyền, hân hạnh được bái kiến chư vị sứ thần. Tệ xá tuy nghèo nàn nhưng rất rộng rãi, kính thỉnh chư vị hạ cố giá lâm !
Sự nhiệt tình này khá lạ lùng vì các hương chức đều ngại tiếp xúc với người ngoại bang. Và họ hoàn toàn không có trách nhiệm đón tiếp, giúp đỡ các sứ giả An Nam !
Lê Khải vòng tay đáp lễ, thận trọng nói :
- Lão phu là Lê Khả, Chánh Sứ Thần An Nam quốc, vô cùng cảm kích trước thịnh tình của Vương túc hạ ! Nhưng dám hỏi vì sao túc hạ lại biết bọn lão phu đang cần chỗ tá túc ?
Vương Nghỉ mỉm cười, bước đến kề tai họ Lê mà thì thầm :
- Nam Cung công tử đã ra lệnh cho lão phu phải hết lòng tiếp đãi chư vị ! Xin Sứ thần cứ yên tâm !
Lê Khả mừng rỡ hỏi ngay :
- Lão phu rất ngưỡng mộ nhân phẩm của Nam Cung công tử, song thú thực là chưa được biết, lai lịch của bậc quí nhân ấy !
Vương Chính Cung đắc ý, vẻ bí mật hạ giọng đáp :
- Mong Lê Chánh Sứ giữ kín giùm cho ! Nam Cung công tử là người của Đô Sát Viện đấy !
Đô Sát Viện là thanh tra cao cấp nhất triều đình nhà Minh. Cơ quan này độc lập với lục bộ, gồm toàn những vị quan trẻ tuổi, chức thấp nhưng có đức tính liêm chính !
Đô Sát Viện có quyền hạch sách bá quan, biện minh oan uổng, tuần hành trong nước, để vỗ về lê thứ cũng như quân sĩ. Mỗi năm, họ đi thanh tra khắp nước, xem xét việc cai trị và xử kiện, kiểm soát các trường học, kho lúa nhận báo cáo của các quan, lắng nghe lời kêu ca của bách tính.
Họ có quyền nói thẳng với Thiên Tử, không phải kiêng dè ai hết . Ngay cả những chiếu lệnh của vua mà có sai lốt cần xét lại, Đô Sát Viện cũng có thể xin vua sửa đổi. Nhưng các nhân viên chỉ được phục vụ vài năm là phải rời Đô Sát Viện, lãnh một chức khác !
Thất Vương Gia Chu Nghiêm là một trong ba vị lãnh đạo tối cao của Đô Sát Viện. Ông phụ trách các phủ phía Nam Trường Giang.
Họ Chu thấy Nam Cung Giáo nhất quyết không nhận quan tước hay vàng bạc, nên đã tặng chàng một tấm Yên Bài đầy quyền lực của Đô Sát Viện. Với Ngân bài này, Nam Cung Giao được quan lại cả nước kính trọng và khiếp sợ !
Lê Khả hân hoan cao giọng đến thúc quân sĩ đánh xe vào trấn, đến nhà của lão Chánh Tổng họ Vương !
Ông chỉ nói nhỏ với Nguyễn Đào về lai lịch của Nam Cung Giao chứ không cho Trần Dũng biết !
Sau bữa tiệc thịnh soạn và một đêm ngon giấc, sáng ra, đoàn người hớn hở lên đường !
Cầm Đạm thủy cũng đã hiểu ai là ân nhân, lòng bâng khuâng nhớ đến gương mặt khả ái của chàng trai rộng lượng và kiêu dũng Nam Cung Giao tài đức đều hơn hẳn Trần Dũng, khiến người xuân nữ thầm chua xót.
Nàng lén liếc về phía sau, thử xem chàng có đi theo nữa không, và chợt thoáng buồn khi chẳng thấy !
Gần trưa, đoàn xe cống phẩm đến cánh rừng chân đồi Đại Thạch. Nơi đây, cây cối um tùm, mọc xen với những tảng đá lớn hình thù quái dị. Địa thế này có thể giấu mấy ngàn quân mai phục !
Lê Khả chột dạ quát vang :
- Dương khiên lên !
Hai trăm chiếc khiên mây lập tức che chắn người kỵ sĩ.
Sự cẩn trọng của họ Lê chẳng hề thừa vì chỉ lát sau, một trận mưa tên từ hai bìa rừng bay ra tới tấp.
Người an toàn nhưng có đến ba chục con tuấn mã thọ thương, rú lên thảm thiết.
Toán quân hộ tống cống phẩm lần này đều là những tay thiện chiến, được lựa chọn kỹ lưỡng nên không hề rối loạn. Họ bình tĩnh nhẩy xuống, giương giáo chống đỡ những thanh đao sắc bén của mấy trăm tên cường đạo áo xanh mầu lá ! Quân số phục binh đông gấp rưởi, mau chóng giành được thượng phong !
Bốn vị Sứ thần An Nam múa tít trường kiếm chiến đấu kiên cường, giết liền mấy gã Thanh Y. Lợi hại nhất là Trần Dũng, y có thực tài nên mới dám kiêu ngạo, tuy thua Nam Cung Giao nhưng chẳng xem lũ đạo tặc này ra gì cả !
Điều đáng kinh ngạc chính là bản lãnh của Cầm Đạm Thủy.
Mắt phượng tròn xoe, mồi mím chặt, nàng anh dũng tả xung hữu đột, đường kiếm vun vút rưới máu khắp nơi.
Kiếm pháp của nàng chủ ở chữ Khoái và chữ Ảo, hiểm ác tuyệt luân.
Lê Khả và Nguyễn Đào thì trầm ổn, vững vàng, động tác chuẩn xác, như để dành lại cho một cuộc chiến kéo dài.
Nhờ bản lãnh cao cường của bốn vị sứ giả mà thế trận được vãn hồi. Những tiếng kêu rên thảm thiết của đám cường đạo xấu số đã khích lệ tinh thần sĩ tốt An Nam.
Giáo dài hơn đao, khi lập trận phòng thủ thì rất kiến cố, lúc tấn đông thì tầm sát thương khá rộng. Chính vì ưu điểm này mà giáo trở thành vũ khí chính trong quân ngũ .
Nhưng đại cao thủ của phe cường đạo đã xuất hiện, uy hiếp tinh thần đối phương bằng những tràng cười ghê rợn. Từ bìa rừng mé Tây, ba người bịt mặt áo vàng hung hãn lướt ra, một cầm đoản côn, hai cầm trường kiếm.
Cả ba đều để lộ mái tóc hoa râm và đôi mắt sáng quắc của những kẻ có nội công thâm hậu.
Lão nhân cầm côn thép có thân hình cao lớn, lực lưỡng, cánh tay to như cột đình.
Lão xông thắng vào Trần Dũng, chỉ một đường côn đã đẩy lùi đối thủ.
Sức mạnh khủng khiếp của lão ta đã khiến họ Trần rách hổ khẫu, máu chảy đầm đìa, cơ hồ không cầm vững chuôi kiếm.
Trần Dũng khiếp vía, liên tiếp đảo lộn và thoái hậu, không dám va chạm với cây côn sắc nặng như núi kia.
Khi dũng khí đã không còn thì sức lực yếu đi, kiếm pháp rối loạn, lộ nhiều sơ hở . Trong chớp mắt Thiết côn đánh bật trường kiếm của họ Trần và thọc vào ngực gã.
Trần Dũng rú lên thê lương, hồn lìa khỏi xác !
Trước đó, một chàng trai áo đen đã phá vây, nhẩy từ cổ xe này đến cổ xe khác, cố đến được trận địa của Trần Dũng, song quá muộn !
Hắc y nhân này chính là Nam Cung Giao .
Cầm Đạm Thủy nghe tiếng thét lìa đời của tình lang, kinh hãi lao vút đến, điên cuồng tấn công kẻ sát nhân.
Nam Cung Giao đã được Đinh Tử Phượng tiết lộ lai lịch của lão nhân cầm côn kia, biết lão là Quỉ côn Đường Cổ Ngữ, phó Bang Chủ Hồ Bang !
Họ Đường chịu ơn cứu mạng của Hồ Ly Song Tiên nên khuất thân làm nô bộc, được lệnh theo phò Sài Tốn và Đinh Tử Phượng chính là Bang Chủ phu nhân Hồ Bang, ái thê của họ Sài .
Quỉ côn tuổi đã bẩy mươi hai, tu vi thâm hậu, thần lực kinh người, nên chắc chắn Cầm Đạm Thủy sẽ phải bỏ mạng !
Quả không sai, trường kiếm của nàng nữ kiệt phương Nam vừa chạm vào lưỡi côn, lập tức văng khỏi tay nàng. Đồng thời, Đạm Thủy kinh hoàng nhận ra thần chết đang ập đến qua bẩy đốm mũi côn chập chờn trước mặt !
Đúng lúc ngàn cân treo sợi tóc ấy, một bàn tay của ai đó đã kịp xô nàng sang một bên, và trường kiếm của người ấy chặn đứng thế côn bão táp .
Quỉ Côn và Đạm Thủy đều nhận ra kẻ mới đến là Nam Cung Giao, người thì hoan hỉ, người thì kinh ngạc.
Đường lão phần nộ vì bị phá đám, lại nghĩ đến mối hận hôm nào, liền vung côn tới tấp, quyết giết cho được tên tiểu tử đáng ghét kia !
Tuy Thanh Lạc Điểu kiếm cực kỳ cứng rắn nhưng cũng khó mà chịu nổi những cú đập như trời giáng của côn sắt !
Nam Cung Giao nghe cổ tay tê dại, chẳng dám sinh cường, thay đổi đấu pháp. Mũi kiếm của chàng thọt nhanh như chớp, uy hiếp cổ tay cầm côn của đối phương. Nếu có va chạm thì lực đạo ở đoạn côn gần bàn tay Đường lão cũng không mạnh mẽ bằng phần mũi .
Thuật khoái kiếm siêu việt của chàng đã khiến Quỷ côn lúng túng như gà mắc tóc. Lão giận dử vũ lộng Thiết Côn liên tiếp tung ra những đòn mãnh liệt, côn ảnh bay loang loáng dưới ánh tà dương, chấp nhận đổi mạng.
Song Nam Cung Giao có thân pháp nhanh nhẹn như chim cắt, tiến thoái hợp ý, tránh né xong là phản kích ngay, chẳng chịu nhường đối phương một bước nào cả.
Chàng không làm gì được Quỉ côn, song lão cũng vậy.
Cuộc chiến dằng dai nầy đã khiến lão điên tiết gầm vang.
Hai thủ hạ của Nam Cung Giao là anh em họ Trịnh đã sớm hợp lực với Lê Khả và Nguyễn Đào chống cự hai lão già áo vàng sử dụng kiếm.
Loại kiếm hơi ngắn này đã tố cáo lai lịch của anh em họ Mạc đất Hàm Đan.
Nhị lão Mạc Đắc Khoa đã chết dưới tay Nam Cung Giao, giờ chỉ còn lại Đại Lão Mạc Vi Sầu và Tam lão Mạc Quan Tung.
Kiếm thuật của họ hơn hẳn hai cao thủ Giao Châu, nhưng vì có Trịnh Tháo và Trịnh Mãng nên thế trận lại nghiêng về phía số đông.
Tuyệt Mệnh Đao Pháp của giòng họ Trình đất Yên cực kỳ bá đạo, chiêu xuất như lôi, mạnh bạo phi thường, lối đánh cương mãnh, dồn dập của Trịnh Tháo và Trịnh Mãng đã khiến hai tay kiếm đất Triệu phải đem hết sở học ra chống đỡ. Nếu không nhờ tu vi thâm hậu, kiếm pháp cao siêu, anh em họ Mạc khó mà cầm cự nổi đến giờ này.
Cầm Đạm Thủy đã nhặt kiếm lên, phòng thủ phía sau lưng Nam Cung Giao, không để bọn Thanh y đánh lén chàng. Nhờ vậy Nam Cung Giao có thể toàn tâm đối phó với Quỷ Côn, bằng yếu quyết Phiên Dực Tung Phi kỳ lạ !
Thỉnh thoảng Nam Cung Giao lại bị đẩy lùi, lưng chạm lưng với Đạm Thủy, dù chỉ là những giây phút tiếp xúc ngắn ngủi nhưng cũng đã khiến nàng thiếu nữ Giao Châu xao xuyến.
Đạm Thủy hổ thẹn, tự trách mình đã sớm quên đi cái chết của hôn phu là Trần Dũng. Song nàng cũng hiểu rằng từ trước đến giờ mình không hề yêu họ Trần. Chẳng qua, Trần Dũng dựa thế nghĩa phụ là Đại Tư Đồ Lê Sát, nhờ Hoàng Thái Hậu se duyên cho nàng và gã. Do còn đang chịu tang cha nên hôn ước vẫn chỉ là lời hứa cửa miệng chứ chưa qua nghi lễ.
Hôm qua, Đạm Thủy đã thấy rõ bản chất tiểu nhân của Trần Dũng, và bị nhân phẩm xuất chúng của Nam Cung Giao thu hút ! Tuy chỉ sơ ngộ nhưng lòng nàng đã rung động mãnh liệt bởi một tình yêu đích thực !
Đạm Thủy là gái Mường, một bộ tộc lớn ở châu Hoan, tính tình chất phác, thẳng thắn và nồng nhiệt, yêu ghét rạch ròi ! Tâm hồn nàng trong sáng, thuần khiết nên hạt giống ái tình đâm chồi nẩy lộc rất nhanh !
Cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tiếng rên xiết vang dậy và ưu thế đang thuộc về đội quân áo xanh đông đảo.
Sĩ tốt An Nam thọ thương khá nhiều, được đồng ngũ kéo vào nằm đầy dưới gầm xe cống phẩm.
Đạm Thủy đau lòng thúc giục Nam Cung Giao :
- Công tử mau kết liễu đối thủ, nếu kéo dài chúng ta sẽ nguy mất !
Với nàng, bản lãnh của Nam Cung Giao là vô địch, nên Đạm Thủy đặt trọn niềm tin, không hề ngờ rằng chàng đã phải toát mồ hôi mới cầm chần được Quỉ Côn.
Nam Cung Giao cũng thức ngộ được tình thế bất lợi của phe nhà, nghiến răng xuất một kỳ chiêu, cố đả thương Đường Cổ Ngữ.
Song công lực lão hơn chàng đến mấy bậc, lập tức chặn đứng ngay đợt tập kích.
Nam Cung Giao bị đẩy lùi, chạm phải Đạm Thủy. Phúc chí tâm linh, chàng chợt nghĩ ra diệu kế, liền nói nhỏ :
- Trâm !
Rồi chàng lại dấn lên phản kích, trong thời gian ấy, Đạm Thủy đã kịp hiểu ý, thò tay rút cây trâm bạc trên mái tóc mình.
Khi Nam Cung Giao bị đẩy lùi lần nữa, tay tả đưa về phía sau, thì Đạm Thủy lên nhét trâm vào tay chàng.
Nam Cung Giao phấn khỏi xuất chiêu Thiên Mao Xạ Thủy, mũi kiếm hoá thành ngàn giọt nước long lanh, chụp lấy đối phương !
Đường Cổ Ngữ chẳng chút sợ hãi, múa tít thiết côn, công phá thẳng vào màn mưa trước mặt.
Tiếng sắt thép chan chát ghê người, lưỡi kiếm của Nam Cung Giao bị côn sắt đánh bạt ra.
Đường lão mừng rỡ phóng côn vào ngực đối thủ, nào ngờ lão chợt lảo đảo vì đau gối đau nhói, mũi trâm bạc của Đạm Thủy đã cắm sâu vào huyệt Độc Tỵ chân phải, thuộc Kinh Túc Dương Minh Vị.
Huyệt này rất quan trọng, chỉ cần gõ nhẹ vào cũng đã khiến chân bủn rủn, cho nên giờ đây Quỉ côn như liệt cả một bên.
Lão loạng choạng chống đỡ những chiêu kiếm thần tốc của Nam Cung Giao và lùi dần. May cho lão là đám bang chúng áo xanh đã kịp liều chết cầm chân gã tiểu tử xảo quyệt kia để bảo vệ Phó Bang Chủ .
Quỉ côn rảnh tay nhổ ám khí ra khỏi đầu gối, vận công xoa bóp vết thương. Nhưng chiếc chân phải này không thể hồi phục ngay được khiến lòng Quỉ côn chán nản. Đường lão căm hận gầm lên ra lệnh :
- Các ngươi hãy bầm thây gã tiểu tặc ấy cho ta !
Thế là bọn bang chúng ùa vào, vây chặt Nam Cung Giao và Cầm Đạm Thủy .
Phần Quỉ côn khập khiễng đi về phía bìa rừng. Tuy bị đau một chân nhưng lão cũng đủ sức nhẩy lên tảng đá cao nửa trượng để quan chiến và tiếp tục chữa thương.
Quỉ Côn đau lòng khôn xiết khi thấy thủ hạ lần lượt gục ngã nước đường kiếm thần sầu quỷ khốc của Nam Cung Giao. Chàng tiến đến đâu thì nơi ấy vang lên tiếng rên la áo nảo và máu tuôn thành suối.
Nếu để tiểu tử đáng sợ kia đến được trận địa của Hàm Đan song kiếm thì hai người ấy khó sống !
Quỉ côn biết mình không thể hồi phục kịp, đành cắn răng ra lệnh rút quân !
Bọn Hồ Bang vừa đánh vừa lui vào rừng, đào tẩu cả.
Bảo vệ cống phẩm là điều tối quan trọng nên phe Sứ thần An Nam chẳng đuổi theo làm gì !
Lê Khả, Nguyễn Đào vái dài, cảm tạ Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh, rồi bước đến chỗ nằm của Trần Dũng.
Cầm Đạm Thủy đang quỳ bên xác gã mà sụt sùi !
Nam Cung Giao và hai thủ hạ biến mất.
Khi thi thể của Trần Dũng được chôn cất xong cạnh bìa rừng thì ba người mới quay lại.
Ngoài Trần Tham Tướng còn có hai mươi quân sĩ An Nam hy sinh. Họ được vùi nông mỗi người một mộ, không bia đá, nhưng theo một thứ tự nhất định trong danh sách. Lượt về, hai mươi ba cái xác thối rữa này sẽ được đoàn sứ giả cải táng, mang trở lại cố hương !
Phe Hồ Bang để lại mười sáu tử thi, bị ném cả vào rừng !
Hết Hồi 7 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Xem Tiếp Hồi 8
Hồi 8 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Giao Long, Hắc Vũ nan phân thực
Đại Lý, An Nam soán Đại Minh
Sau nửa tháng vượt suối trèo non, đoàn sứ thần An Nam đưa được cống phẩm đến Bắc Kinh.
Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh đã đồng hành cùng họ để đề phòng bất trắc.
Trong thời gian này, Đạm Thủy luôn quấn quít bên chàng.
Chuyện trò thân mật, nàng đã nguyện dạy Nam Cung Giao nói tiếng An Nam và vô cùng thán phục khi thấy học trò của mình tiếp thu rất nhanh.
Ngược lại, Đạm Thủy bắt chàng phải dạy tiếng Bắc Kinh cho mình.
May thay, tuy không được đến trường học hành tử tế, song nhờ có người mẹ văn võ toàn tài nên Nam Cung Giao chẳng phải là kẻ dốt nát.
Trinh Tâm thông minh mẫn tiệp, được Đặng Tất hết lòng yêu mến, đi đâu cũng cho theo trong việc giao thiệp với quan lại nhà Minh, suốt thời gian ông trá hàng, đều qua sự phiên dịch của ái nữ. Chính vì thế mà Trinh Tâm không như những thiếu nữ Giao Châu khác !
Là con quan, nàng được học hành chu đáo, văn hay chữ tốt, thông thạo cả tiếng Quảng Đông lẫn Bắc Kinh !
Trung Hoa đất rộng người đông, mỗi địa phương đều có ngôn ngữ riêng, vậy thì trong triều đình bá quan nói năng với nhau thế nào ?
Bá quan là tập hợp những nhân tài trong cả nước, xuất thân khác nhau, nếu không có một ngôn ngữ chung thì nguy to, chẳng ai hiểu ai nói gì !
Thời Chiến Quốc, người nước Yên không hiểu tiếng Sở, người nước Triệu không biết tiếng nước Việt (Lưỡng Quảng), chữ viết cũng có chỗ khác nhau.
Sau khi thống nhất Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sai Tể Tướng Lý Tư thống nhất ngôn ngữ và văn tự.
Về chữ viết, họ Lý đặt ra lối chữ Tiểu Triện giản dị và thông dụng.
Nhưng về ngôn ngữ thì không sử gia nào ghi chép lại rằng nhà Tần chọn loại tiếng nói của vùng nào để làm ngôn ngữ chung cho cả nước, ít nhất là để sử dụng trong việc học hành hay cai trị !
Ngay cả những triều đại sau này như Hán, Tùy, Đường cũng vậy.
Hậu thế không biết ngày xưa Lý Bạch đã ngâm thơ ca tụng nhan sắc Dương Quí Phi bằng tiếng Quảng hay tiếng Tiều !
Người đời sau chỉ có thể phỏng đoán, dựa theo vị trí của kinh đô mỗi triều đại, rằng vua quan các nhà ấy dùng tiếng Trường An (Thiểm Tây).
Nhưng tiếng Bắc Kinh thì có căn cứ rõ ràng hơn, vì Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn quê ở vùng phía Nam Bắc Kinh. Vua nói tiếng gì thì chắc các quan cũng phải học thứ tiếng ấy để khỏi bị rơi đầu !
Sau này, người Mông Cổ chiếm được Trung Hoa cũng đặt kinh sư ở Bắc Kinh, đặt tên là Đại Đô. Tất nhiên họ phải sử dụng ngôn ngữ của địa phương sở tại !
Rồi đến khi Minh Thành Tổ dời đô từ Kim Lăng ra Bắc Kinh, học trò cả nước bắt buộc phải biết tiếng Bắc Kinh thì mới mong thi cử, làm quan.
Ngay đám hào kiệt giang hồ, nếu muốn tung hoành tứ hải, dọc ngang thiên hạ thì cũng phải học nói thứ tiếng phổ thông này, để đỡ phải mỏi tay !
Nam Cung Giao nuôi chí tang bồng hồ thỉ nên không thể không biết ! Và thầy của chàng chính là mẫu thân !
Trinh Tâm giao thiệp với quan lại nhà Minh nên vốn liếng tiếng Bắc Kinh của bà văn hoa, quan cách chứ chẳng phải dân dã, quê mùa !
Cũng như Trinh Tâm, Cầm Đạm Thủy không nhuộm răng, vì bộ tộc của nàng không có tập quán này ! Trong khi Lê Khả và Nguyễn Đào đều có nụ cười đen bóng !
Tình cảm giữa nàng và Nam Cung Giao ngày càng sâu đậm, nhưng kẻ Nam người Bắc xem ra khó mà thành tựu !
Họ chia tay nhau trong cảm giác bùi ngùi, lưu luyến.
Nam Cung Giao dặn dò :
- Tam vị cứ về dịch xá nghỉ ngơi, chờ triệu kiến ! Có gì khó khăn cứ đến Trịnh Gia trang ở cạnh Thần Nông Đàn tìm tại hạ !
Trịnh Gia Trang chính là nhà cũ của anh em họ Trịnh.
Đạm Thủy vui vẻ đáp :
- Tiểu muội còn ở đây cả tháng để làm đẹp cho Hoàng Thái Hậu, dù không có việc cần, tiểu muội cũng sẽ đến thăm công tử !
Song phương cáo từ, mỗi phe mỗi ngả. Dịch xá ở trong Hoàng Thành, còn Trịnh Gia trang nằm tại ngoại thành !
Trịnh mẫu thấy mặt hai đứa con bất hiếu, lêu lổng, mừng đến ứa nước mắt, song vẫn mắng chưởi :
- Hai ngươi phá tan cơ nghiệp rồi bỏ lão thân mà đi biền biệt, chắc không kiếm đủ ăn nên lại mò về chứ gì ? Thật tủi hổ cho tông môn họ Trịnh !
Trịnh Tháo xấu hổ với Nam Cung Giao, lén nháy mắt ra hiệu rồi cười giả lả :
- Mẫu thân đã trách oan bọn hài nhi rồi. Mấy năm qua, anh em hài nhi làm công sai cho phủ Thượng Thư ở Nam Kinh. Do việc quan đa đoan nên không thể về vấn an từ mẫu. Nay hiền tế của Mã Thượng Thư đi công cán Bắc Kinh, bọn hài nhi cũng được cử theo, sẵn dịp thăm nhà.
Làm mẹ, ai cũng mong con cái công thành danh toại, Trịnh mẫu nghe nói hai con phục vụ cho phủ Thượng thư, liền hoan hỉ, vái chào Nam Cung Giao, mời chàng ngồi !
Nam Cung Giao nhìn quanh, thấy nhà cửa xềnh xoàng, biết Trịnh Gia trang đang rất thiếu khốn. Mái tóc bạc phơ và thân hình ốm yếu của Trịnh mẫu đã khiến chàng cảm thương.
Rõ ràng là hai gã bất hiếu tử kia đã không hề chu cấp cho từ mẫu. Phải chăng vì cái danh hiệp đạo mà các môn nhân Thế Thiên Hội đều nghèo mạt rệp ?
Chàng muốn bà lão kia được an nhàn, sung túc trong quãng đời còn lại nên cung kính nói :
- Bẩm lão thái ! Nhị vị đây dầy công hạng mã với Bộ Hình suốt mấy năm qua. Do vậy, gia nhạc phụ là Mã Thượng Thư đã quyết định ban thưởng năm trăm lượng vàng, nhờ tiểu điệt trao tận tay lão thái gọi là tuyên dương công lao của Trịnh Gia, đã sản sinh, giáo huấn nên hai bầy tôi mẫn cán cho triều đình !
Trịnh mẫu sững sờ kinh ngạc, không hiểu mình mơ hay tỉnh. Hai thằng con trời đánh thánh vật kia mà lại có thể làm rạng rỡ tông môn được sao ?
Cả Trịnh Tháo và Trịnh Mãng cũng bất ngờ, lòng tràn ngập cảm giác biết ơn, chàng đã khéo léo làm vui lòng người mẹ già tội nghiệp của họ !
Trịnh mẫu run rẫy nhận lấy tờ ngân phiếu, luôn miệng cảm tạ ơn đức của Mã Thượng Thư !
Số vàng này đủ để bà sửa chữa trang viện và sống an nhàn đến cuối đời, với niềm tự hào về hai đứa con anh hùng !
Nếu bà biết sự thực về nghề nghiệp ăn cướp của Trịnh Tháo và Trịnh Mãng thì sẽ đứt gân máu chết ngay.
Sau bốn ngày dạo chơi, thăm thú thắng cảnh Bắc Kinh, nhân tiện tìm Mộc Kính Thanh và điều nghiên địa thế phủ Bình Phiên Công.
Nam Cung Giao quyết định ra tay !
Trương Phụ được phong tước Công, nên dù đã trí sĩ, vẫn được ở trong tòa phủ đệ vua ban. Mười năm nay, họ Trương không tham chính nhưng vẫn được tôn trọng như người lão tướng tài ba nhất của hai đời vua Thành Tổ và Tuyên Tôn.
Nghe đồn rằng, từ ngày cáo lão qui điền, ở tuổi sáu mươi lăm, Trương Phụ dốc chí tu hành, ngày ngày kinh kệ, giữ giới cư sĩ. Có lẽ lão sám hối cho những tội lỗi đã gây ra trong hai lần chinh phạt An Nam !
Kẻ tu hành thì nếp sống giản dị, gia nhân không nhiều.
Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh dễ dàng xâm nhập vào đến tận khu hậu viện, dù trời mới giữa canh hai.
Nam Cung Giao nấp ngoài cửa sổ nhìn lão già râu tóc bạc phơ, mặc tăng phục xanh xám kia, mà lòng phân vân vô hạn.
Giờ đây, gương mặt quắc thước của Trương Phụ toát ra vẻ từ bi hiền hòa. Lão đang ngồi xếp bằng trước tượng Phật Như Lai, mắt nhắm hờ, miệng tụng niệm kinh A Di Đà, tay gõ chuông mõ !
Hết khóa lễ, Trương Phụ đứng lên khấn vái :
- Đệ tử kiếp này gây nhiều sát nghiệp, về già lòng vô cùng hối hận, xin thành tâm trai giới tu hành, cầu siêu giải oan cho hàng vạn nạn nhân năm xưa !
Lão thở dài, rời Phật Đường, đi vào thư phòng ở gần đấy.
Lúc này mà Nam Cung Giao xuất thủ thì Trương Phụ chẳng thể thoát chết, nhưng chàng vẫn do dự bất quyết !
Trịnh Mãng thì thầm :
- Nếu không tha được thì phải giết ngay ! E rằng sau này chẳng có cơ hội tốt nữa ?
Nam Cung Giao gật đầu, cùng anh em họ Trịnh lao về phía thư phòng.
Viên Tổng quản già của phủ cầm đèn lồng đến tìm chủ nhân :
- Bẩm đại nhân ! Có quan Thái Bảo Liễu Di Phu đến cầu kiến, đang chờ ở khách sảnh.
Liễu Di Phu là bào đệ của Minh lỗ phó Tướng Quân An Viễn Hầu Liễu Thăng, người bị quân của Lê Sát chém chết ở núi Đảo Mã Pha (phía Nam ải Chi Lăng) vào ngày hai mươi tháng chín năm Đinh Mùi, nhằm năm Tuyên Đức thứ hai, đời vua Minh Tuyên Tông !
Liễu Di Phu được Tập Tước Hầu của anh trai, đường hoạn lộ rất hạnh thông, hiện là đương kim Thái Bảo Triều Minh. Uy quyền của Di Phu chỉ dưới có mình lão Thái sư Triển Tài.
Trương Phụ chào khách rồi điềm đạm hỏi :
- Chẳng hay Liễu Hầu gia giá lâm tệ phủ vì việc gì ?
Liễu Di Phu nghiêm giọng :
- Nay vua An Nam là Lê Thái Tông còn nhỏ tuổi, quyền hành tập trung cả vào tay gã ngu phu Lê Sát.
Đây chính là cơ hội tốt nhất để chúng ta khởi binh chinh phạt An Nam ! Tiểu đệ được sự ủng hộ của các đại thần, định sẽ khải tấu lên thánh thượng, xin người hạ chỉ xuất chinh ! Trương túc hạ là người hai lần đại thắng An Nam, xin chỉ giáo cho tiểu đệ vài yếu quyết về chiến lược !
Trương Phụ rót trà mời khách, trầm ngâm một lúc rồi đáp :
- Lão phu biết Hầu gia chưa quên được mối thù giết anh, quyết lấy đầu Lê Sát ! Tuy nhiên, theo thiển ý của lão phu thì việc chinh phục An Nam là hoàn toàn không nên làm !
Thứ nhất là vì xứ An Nam nhỏ bé chưa bao giờ là hiểm họa của Trung Hoa. Họ chỉ mong được yên thân, cầu hòa chứ chẳng dám nghĩ đến việc xâm phạm cương thổ Minh Triều !
Họ Trương nhấp hớp trà rồi nói tiếp :
- Thứ hai, đất An Nam hiểm trở, thủy thổ không thích hợp với quân ta, có đánh được cũng phải chịu thương vong rất lớn !
Thứ ba, giống dân Giao Chỉ kia tuy nhút nhát, cầu an, song khi ra trận mạc thì rất can đảm và có kỷ luật, chẳng hề chịu khuất phục. Tóm lại, dẫu có chiếm được đất cũng chẳng thể giữ được lâu !
Trong khi rợ Mông cổ đang dòm ngó biên cương phía Bắc thì việc đánh An Nam là bất trí vậy !
Liễu Di Phu sa sầm nét mặt :
- Không ngờ Trương túc hạ lại là kẻ khiếp nhược như thế ! Phu này chẳng cần kinh nghiệm của túc hạ cũng có thể chiếm được An Nam một cách dễ dàng !
Lão phất tay áo giận dữ bỏ về, chẳng thèm chào hỏi chủ nhà.
Trương Phụ nhìn theo, buột miệng than :
- Nếu Thánh thượng nghe lời lão côn đồ kia thì máu xương lại chất chồng lên đất An Nam. Sáng mai, ta phải vào triều cảnh tỉnh Thiên Tử mới được.
Nam Cung Giao ở ngoài nghe thấy hết, quyết định tha thứ cho Trương Phụ ! Người chàng phải giết sẽ là những vị đại phần đang chủ trương xâm chiếm An Nam !
Ba người trở về Trịnh Gia trang.
Trịnh Mẫu hớn hở nói :
- Lão thân biết công tử đi chơi khuya về tất sẽ đói bụng, nên đã nấu sẵn nồi cháo gà.
Trịnh Mãng cười hì hì :
- Mẫu thân quả là tinh ý và chu đáo. Hài nhi cũng đang thèm rượu !
Bà lão trợn mắt :
- Ngươi cứ mở miệng ra là rượu chè ! Nay đã là người của quan nha, phải biết giữ tư cách chứ !
Anh em họ Trịnh nhìn nhau vui vẻ.
Trịnh Tháo tủm tỉm đỡ lời em :
- Mẫu thân yên tâm ! Chỉ khi về nhà bọn hài nhi mới uống thôi, còn lúc thi hành công vụ, dẫu một giọt cũng chẳng dám ! Tóm lại, anh em hài nhi học theo công tử đây, mỗi ngày tối đa là ba chén.
Trịnh Mẫu hài lòng :
- Thế thì tốt !
Bà quay xuống bếp, lát sau cùng một phụ nhân tuổi ngũ thập dọn cháo lên.
Người đàn bà này là cháu họ của Trịnh mẫu, do góa bụa côi cút nên đến ở với Biểu Di.
Thấy Nam Cung Giao trầm tư nâng chén uống mãi, Trịnh Tháo nghiêm giọng :
- Công tử ! Anh em thuộc hạ biết phận hèn mọn chẳng dám hỏi đến tâm sự của bậc quí nhân, song, nếu phải vào cung hành thích Hoàng Đế thì cũng chẳng từ nan ! Xin công tử cứ dạy bảo !
Trịnh Mãng tiếp lời :
- Chim khôn lựa cành mà đậu. Anh em thuộc hạ đã nguyện suốt đời theo phò công tử dẫu chết cũng chẳng màng !
Nam Cung Giao nhìn hai gương mặt rắn rỏi, chân thành của họ, gật gù đáp :
- Nhị vị đã có lòng như vậy thì ta cũng chẳng dấu ! Gia mẫu là người Giao Chỉ !
Trước khi rời Bắc Kinh, đến Trường An gia nhập Thế Thiên Hội, Trịnh Tháo và Trịnh Mãng chỉ là Đại ca của bọn côn quang đế đô. Giờ đây, hai gã tìm đến bọn thủ hạ cũ, điều động chúng thực hiện một kế hoạch tinh vi !
Lão Đại Bắc Kinh hiện nay vốn là đệ tử ruột của Trịnh Tháo, tên gọi Lương Nhẫn biệt hiệu Thiên Gia Thử, đao pháp cũng khéo và xảo quyệt như chồn !
Nay sư phụ trở về, thưởng ngay cho trăm lượng vàng, khiến họ Lương khoan khoái, hết lòng phục vụ !
Chỉ đến chiều ngày rằm, Thiên Gia Thử đã tìm ra tung tích của Mộc Kính Thanh.
Bẩy ngày trước, họ Mộc đã từ Kế Thành Đại Lữ Điếm đến Cầu Lô Câu, đứng tựa thành cầu ngắm nước chảy rất lâu. Sau đó, không thấy đâu cả, hành lý vẫn còn trong quán trọ.
Lô Câu kiều năm ở phía Tây Nam Bắc Kinh, được xây dựng năm Kỷ Dậu (1189), nhằm năm Trùng Hưng thứ mười sáu đời Nam Tống.
Lúc này, miền Bắc Trung Hoa đã thuộc về rợ Kim, và tương ứng với năm Đại Định thứ hai mươi chín, đời vua Kim Thế Tông Hoàn Diên Ung !
Vậy, cầu Lô Câu, tên ban đầu là Quảng Lợi, do rợ Kim xây dựng, nhưng tất nhiên cả thầy thợ đều là người Hán.
Rợ Kim là một bộ lạc đông đúc ở miền thượng du Hắc Long Giang, tên gọi Nữ Chân (vùng bộ tộc với Mãn Châu).
Người Kim lạc hậu dốt nát, tính tình hung hãn, chỉ được cái đánh nhau là giỏi ! Thế nên, họ chẳng thể nào đủ đầu óc và khéo léo để xây một chiếc cầu nguy nga, hùng vĩ như Lô Câu Kiều được.
Cầu Lô Câu là cây cầu đá dài nhất, cổ nhất ở Hoa Bắc. Cầu được ghép bằng đá, dài hơn tám chục trượng, rộng gần ba trượng, trên thân khắc nổi bốn trăm tám mươi lăm con sư tử đá ! Trên cầu còn có bốn hoa Biển và bốn bia đá rất lớn.
Cây cầu kỳ vĩ này nằm trong một phong cảnh tuyệt đẹp, nên đã trở thành đề tài ngâm vịnh cho các tao nhân mặc khách.
Nam Cung Giao không đến đây để làm thơ ! Chàng đứng trên cầu đăm chiêu suy nghĩ, cố đoán xem từ đây Mộc Kính Thanh đã đi đâu mà lại không trở về quán trọ ? Và vì sao gã lại không đến giết Trương Phụ như đã định ?
Chàng dõi mắt nhìn quanh, chợt phát hiện trong cánh rừng xa xa kia thấp thoáng có mái ngói của một tòa nhà cao nào đấy, liền hỏi Thiên Gia Thử :
- Này Lương túc hạ ? Chẳng hay những cơ ngơi trong khu rừng kia thuộc về ai vậy ?
Lương Nhẫn cung kính đáp :
- Bẩm công tử ! Chủ nhân nơi ấy là một lão già tuổi quá bẩy mươi, họ Lâm. Ba năm trước, lão từ Giang Nam về đây mua nguyên cánh rừng ba chục mẫu ấy và xây dựng nhà cửa ! Tiểu nhân có thử mò vào thăm, nhưng không sao qua nổi trận pháp trong vườn. Tiểu nhân đoán lão ta là một bậc kỳ nhân võ nghệ cao cường chứ chẳng chơi !
Gã là học trò của Trịnh Tháo nên không dám xưng là thuộc hạ.
Nam Cung Giao hiếu kỳ hỏi :
- Sao túc hạ lại kết luận như thế ?
Lương Nhẫn đắc ý đáp :
- Tiểu nhân đâu dám nói càn. Số là, có một hôm, tiểu nhân đang ngồi nhậu trong một tửu quán ở phố Thiên Kiều thì thấy lão họ Lâm kia đi dạo.
Lúc ấy, trên vỉa hè có ba gã da đen nhẻm, tướng mạo hung ác, chắc là hải tặc biển Đông. Họ vừa chạm mặt Lâm lão là quì ngay xuống, lạy như tế sao.
Tiểu nhân loáng thoáng nghe ba gã gọi Lâm lão đầu là Đảo chủ ! Họ Lâm chỉ gật gù, xua tay, thế là ba hán tử kia rảo bước chuồn thẳng.
Nam Cung Giao bâng khuâng suy nghĩ, miệng lẩm bẩm :
- Chữ Mộc chẳng phải là một nửa của chữ Lâm hay sao ?
Chàng chợt linh cảm rằng Mộc Kính Thanh có liên quan đến Lâm gia trang. Dù không dám chắc lắm nhưng chàng vẫn phải bám víu lấy manh mối duy nhất này.
Chàng hỏi lại :
- Có cách nào để vào Lâm gia trang một cách đường chính hay không ?
Lương Nhẫn gãi đầu tính toán, rồi mỉm cười :
-Bẩm có, Lâm Trang chủ rất khoái nuôi chim cảnh ! Chúng ta chỉ cần tìm cho ra một con chim thật đẹp, thật khôn, mang đến bán cho lão là cửa trang rộng mở ngay !
Trịnh Mãng gật gù :
- Thế thì đêm nay chúng ta sẽ bắt trộm con Bạch Anh Vũ của lão Lưu Tài Thần ở phố Tô Châu nhuộm lông đem đến đấy gạ bán !
Trịnh Tháo cười nhạt :
- Ngươi đúng là ngu như heo. Con chim ấy nói tiếng người rất sõi, coi chừng chính nó sẽ khai ra lai lịch đấy !
Lương Nhẫn lắc đầu :
- Sư phụ yên tâm ! Con chim quỉ ấy đã nghẽo hồi năm ngoái, còn con hiện nay chưa biết nói ! Cứ nhuộm đen là xong !
Nam Cung Giao phì cười :
- Nói bậy ! Trên đời này làm gì có chim vẹt màu đen ?
Lương Nhẫn ngoan cố cãi lại :
- Chúng ta cứ nói phức là loài Hắc Anh Vũ hiếm có này được đưa từ Miến Điện hay Xiêm La sang, thì bố lão ta cũng không bắt bẻ được ! Bạch Anh Vũ thì đâu chẳng có, phải là của lạ lão ta mới chịu tiếp.
Nam Cung Giao chỉ cần gặp mặt lão họ Lâm là đủ, nên để mặc Lương Nhẫn làm theo ý của gã !
Sáng mười bẩy, Nam Cung Giao cùng Lương Nhẫn có mặt trước cửa Lâm Gia trang, gõ vào cánh cửa dày kiên cố và đồ sộ, được sơn đen bóng.
Trong tay Nam Cung Giao là một chiếc lồng chim nan đồi mồi khảm bạc giá mười lượng vàng. Đây là chiếc lồng đắt nhất Bắc Kinh ! Còn con chim Vẹt đen thui ấy lại là thứ hiếm có nhất trên đời !
Trịnh Tháo đã dùng loại thuốc hóa trang đặc biệt của Thế Thiên Hội để nhuộm lông con vật, chỉ chừa lại chiếc mỏ, đôi chân và mào !
Lát sau, cánh cửa hé mở, và một nữ lang áo xanh kiều diễm xuất hiện.
Nàng chớp mắt tủm tỉm hỏi :
- Chư vị là ai, đến đây vì việc gì ?
Nam Cung Giao cười đáp :
- Bọn tại hạ từ phương Nam lên Bắc Kinh du ngoạn, chẳng may cạn túi thiếu lệ phí về quê. Nghe Lương huynh đây bảo rằng quí trang chủ có thú chơi chim nên tại hạ đánh liều đem con Hắc Anh Vũ này đến bán .
Nữ lang che miệng cười khúc khích, ánh mắt đầy vẻ tinh ranh :
- Ối chà ! Công tử quả khéo đùa, trên đời này làm gì có chim vẹt màu đen ?
Nam Cung Giao thản nhiên đáp :
- Trời đất bao la, chuyện lạ chẳng thiếu ! Trước khi bọn Tây Dương đến Trung Hoa buôn bán, chẳng ai tin rằng trên đời này lại có những cặp mắt xanh biếc như mắt mèo !
Nữ lang phì cười :
- Công tử quả là khéo biện luận, nhưng gia phụ không hiền như tiểu muội đâu !
Nam Cung Giao giật mình vòng tay :
- Thất lễ ! Thất lễ ! Té ra là Lâm Tiểu thư ! Tại hạ là Nam Cung Giao hân hạnh bái kiến !
Nữ lang nghiêng mình đáp lễ :
- Tiểu muội là Lâm Bảo Thoa ! Còn vị anh hùng đây danh tính thế nào ?
Nam Cung Giao liền giới thiệu Lương Nhẫn với nàng !
Bảo Thoa mở rộng cửa, mời khách nhập trang.
Lương Nhẫn cáo thoái để một mình Nam Cung Giao vào thôi. Gã ở lại cũng chỉ vướng chân chàng khi cần đào tẩu !
Vào đến khách sảnh, nàng để khách ngồi ở bàn bát tiên mà chạy vào gọi cha !
Nam Cung Giao tranh thủ quan sát khách sảnh, cố tình ra chút dữ kiện để bám víu. Chàng chỉ vào đây tìm Mộc Kính Thanh một cách vô căn cứ nên lòng rất băn khoăn, hồi hộp.
Trên tường Đông có treo một bức họa chân dung, vẽ một lão nhân đang đứng trên lưng Giao long, tay cầm trường tiên, phong thái cực kỳ oai vũ.
Nam Cung Giao hoan hỉ thở phào, thầm đoán Kính Thanh là con trai hay học trò của Lâm Trang chủ, vì gã cũng sử dụng roi mềm.
Đã có được chứng cớ quan trọng, chàng bình thản trở về bàn ngồi.
Lâm Trang chủ đã ra đến, dung mạo giống hệt như lão nhân trong tranh.
Lão không cao lớn, ngũ quan đoan chính, mắt sáng như sao, thần thái uy nghiêm khiếp người.
Khách đứng lên thi lễ với chủ nhân.
Lâm lão nhìn Nam Cung Giao chăm chú, nhãn quang sắc như dao.
Chàng nổi da gà, tự nhủ :
- Lão già này xem ra rất khó chơi, ta phải cẩn thận mới được !
Và chàng lên tiếng :
- Bẩm Trang chủ ! Vãn bối là Nam Cung Giao, người miền Nam, vì thiếu lệ phí về quê nên đem chim quí đến đây nhờ pháp nhãn của Trang chủ thưởng lãm !
Lâm Trang chủ nhìn con chim Anh Vũ đen tuyền, trong chiếc lồng đặt trên bàn, lạnh lùng nói :
- Lão phu đâu phải trẻ con để người hí lộng ? Nếu không giải thích rõ ràng thì đừng hòng sống mà rời khỏi chốn này !
- Bẩm trang chủ ! Vãn bối mua còn Hắc Anh Vũ này của một lão Đạo Sĩ đất An Dương. Lúc đầu vãn bối cũng nghi ngờ, nhưng lão ta đã nói : Này tiểu thí chủ ! Đạo trời đất biến hóa vi diệu khôn lường, hà tất phải để tâm đến việc có hay không có ? Hàng ngàn năm nay, chẳng ai tận mắt thấy rồng, thế mà tranh, tượng của rồng đầy dẫy Trung Hoa ! Chắc gì rồng là có thực, và chắc gì con vẹt lông đen này không có thực. Vãn bối nghe hữu lý nên đã mua chim của lão.
Lâm Trang chủ cười nhạt :
- Đừng ngụy biện ! Cả rồng lẫn chim Anh Vũ đen đều không có thực !
Nam Cung Giao cười hề hề :
- Trang chủ đã từng cỡi rồng vượt biển, sao lại bảo rằng rồng không có thực !
Lâm Trang chủ giật mình ngơ ngác, và nhớ ra bức họa trên tường.
Lão cứng họng chịu thua, gật gù khen :
- Tiểu tử ngươi quả là khéo biện luận, gài được cả lão phu. Ta có nghe đồ đệ Mộc Kính Thanh kể về tài trí của ngươi, lòng không mấy tin tưởng, nay gặp mặt mới biết chẳng sai !
Nam Cung Giao vui mừng khôn xiết quì xuống thi đại lễ :
- Vãn bối nóng lòng vì sự thất tung bí ẩn của Mộc nghĩa đệ nên mạo muội làm càn, mong Lâm sư phụ lượng thứ.
Lâm Trang chủ gật gù :
- Té ra ngươi đã nhuộm lông con chim này !
Nam Cung Giao chợt nhận ra tia mắt cổ quái của lão, sinh lòng cảnh giác, đứng lên đáp khéo :
- Vãn bối xin thề là lúc nhìn thấy lần đầu tiên thì lông nó đã là màu đen.
Chàng rất thành thực vì đúng là anh em họ Trịnh đã nhuộm lông con vẹt ở nhà Lương Nhẫn, chàng chẳng hề thấy !
Nam Cùng Giao không để ý rằng ánh mắt của Bảo Thoa đầy vẻ hài lòng.
Lâm Trang chủ cười nhạt :
- Ngươi đề phòng cả lão phu, chứng tỏ bản tính đa nghi, cơ cảnh, vậy vì sao lại đem cả bí mật trọng đại ra thố lộ với Kính Thanh ?
Nam Cung Giao gượng cười :
- Vãn bối yêu mến Mộc hiền đệ như bản thân mình, giấu giếm làm gì ! Xin Lâm sư phụ cho vãn bối được gặp y !
Lâm Trang chủ ngửa cổ cười dài, làm rung rinh mái ngói đại sảnh.
Giọng cười của ông đầy vẻ phẫn nộ và thê thiết :
- Kính Thanh gây đại họa, làm lão phu mất mặt, chẳng dám lưu lại biển Đông, phải về đây ẩn cư ! Năm ngoái, y lại trốn đi, sống lang thang như kẻ lạc phách. Khiến lão phu càng tủi hổ ! Nay lão phu đã giam cầm y trong trang không cho ra ngoài nữa. Ngươi hãy về đi !
Nam Cung Giao chết điếng người, suy nghĩ một lúc rồi nghiêm giọng :
- Vãn bối chỉ xin được gặp một lần, biết y còn sống là sẽ rời đây ngay !
Lâm Trang chủ quắc mắt :
- Chẳng lẽ ngươi cho rằng lão phu đã giết chết Kính Thanh ?
Nam Cung Giao bình tĩnh đáp :
- Vãn bối chẳng dám có ý ấy, nhưng không thấy mặt y thì chẳng thể yên lòng !
Lâm Trang chủ hững hờ bảo :
- Ngươi đừng sinh cường trước mặt lão phu, Lâm Thu Bái ta chính là Chu Sơn Đảo Chủ, ba mươi năm trước từng đại náo võ lâm Trung Nguyên, chưa hề gặp đối thủ ! Lão phu đã ra tay thì cực kỳ tàn nhẫn, nếu ngươi không sợ chết thì cứ thử trăm chiêu !
Nam Cung Giao chụp ngay cơ hội !
- Cảm tạ sư phụ đã mở cho lối thoát, nếu vãn bối vượt qua được trăm chiêu, mong sư phụ tha cho Kính Thanh !
Lâm Thu Bái nhíu mày :
- Y tàn phế, xấu xí như vậy, đâu đáng để người phải thí mạng ?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Vãn bối cũng sợ chết lắm. Hay là sư phụ thương tình tha quách cho Kính Thanh ! Xét ra, y có hơi bướng bỉnh, phá phách, song cũng chưa bằng việc đại náo võ lâm !
Nghe chàng nói kháy mình, Lâm Thu Bái bực bội :
- Đừng xảo ngôn vô ích. Muốn cứu Kính Thanh thì hãy rút gươm ra ! Thoa nhi lấy roi cho ta !
Bảo Thoa mau mắn chạy vào, trở ra với một sợi nhuyễn tiên đen tuyền, thân lớn độ ngón chân cái, dài nửa trượng không biết làm bằng vật liệu gì.
Lâm lão cầm vòng roi, lạnh lùng nói :
- Lão phu sẽ biểu diễn chút nghề mọn để ngươi tự lượng sức mà rút lui ?
Ông ta vừa nói xong thì cây nhuyễn tiên đột ngột vươn dài, thẳng băng như cây trường côn. Chu Sơn Đảo Chủ đặt mũi roi vào cột gỗ tròn bằng gỗ trắc cứng rắn và chậm rãi đẩy.
Khủng khiếp thay, mũi roi cắm ngập vào gỗ cả lóng tay, cứ như cắm vào đậu hũ.
Lâm Thu Bái rút roi lại, nhìn Nam Cung Giao với vẻ đe dọa :
- Liệu thân thể ngươi có cứng rắn bằng gỗ trắc hay không ? Thức thời thì hãy rời trang ngay !
Chàng tủm tỉm cười :
- Cột gỗ tuy cứng rắn nhưng không biết tránh né, vãn bối thì ngược lại.
Lâm trang chủ ngao ngán lắc đầu :
- Không ngờ ngươi lại ngu xuẩn đến mức không biết sống chết là gì !
Lão phu cũng thương tình nên cho phép bãi chiến nữa chừng, khi không còn cầm cự nổi ngươi cứ lên tiếng đầu hàng !
Nam Cung Giao cười mát :
- Cảm tạ Trang chủ ! Có điều trong trận này vãn bối bắt buộc phải đánh đến chiêu cuối cùng !
Chàng rút kiếm, vòng tay chào rồi đứng theo tư thế Phiên Dực Tung Phi !
Lâm Thu Bá gật gù tán thưởng, quay lại nói với ái nữ :
- Thoa nhi hãy làm trọng tài, đếm theo số chiêu mà ta đánh ra !
Bảo Thoa gật đầu, ngượng ngùng thỏ thẻ :
- Mong phụ thân nhẹ tay cho !
Lâm lão nháy mắt trấn an nhưng ngay chiêu đầu đã xuất tuyệt kỷ.
Ngọn nhuyễn tiên của họ Lâm như con rồng đen lồng lộn trong mây, chụp lấy đối phương.
Nam Cung Giao nhận ra trong, màn hắc quang mù mịt kìa có hàng trăm chiếc đầu độc xà đang ung dung uy hiếp toàn thân, tiên kình rít lên như xé lụa, chứng tỏ công lực Lâm Thu Bái cực kỳ thâm hậu.
Chàng cắn răng thi triển chiêu Vạn Diệp Tế Hoa (vạn lá che hoa) chỉ thủ chứ không công. Tay chàng chớm động vì lực đạo mạnh mẽ của cây roi, đường kiếm hơi lệch đi, lộ sơ hở, và ngay lập tức bị mũi roi mổ vào bả vai trái. Máu từ vết thương bắn ra, vương vãi không gian khi Lâm lão rút roi về !
Lão không đánh tiếp mà nhẩy lùi lại ngạo nghễ hỏi :
- Sao ? Ngươi còn dám lớn họng nữa không ?
Nam Cung Giao đưa tay điểm huyệt chỉ huyết, bình thản đáp :
- Cảm tạ Lâm sư phụ đã nương tay nên vết thương không sâu lắm ! Vãn bối xin được lĩnh giáo thêm !
Chàng cúi đầu để tỏ vẻ biết ơn, song lại thuận thế lao đến tấn công để chiếm tiên cơ.
Roi của họ Lâm dài gấp rưỡi Lạc Điểu Kiếm nên chàng chỉ có cách nhập nội mới mong chiếm được ưu thế !
Quả nhiên, Lâm Thu Bái vướng Bảo Thoa sau lưng không thể lùi lại, đành để mất tiên cơ.
Lão thu ngắn nhuyễn tiên, cẩn trọng giải phá những chiêu kiếm liên miên bất tuyệt của tiểu tử xảo trá, lì lợm kia, vì giờ đây mũi kiếm của Nam Cung Giao có thể chạm vào người lão.
Chẳng trách năm xưa Lâm Thu Bái không tìm ra địch thủ, phép đánh roi của lão trên đời có một không hai.
Màn tiên cũng thu hẹp lại càng dầy đặc kín đáo và mãnh liệt chứ không hề giảm sút uy lực.
Tuy nhiên, Lạc Điểu kiếm pháp lại có lộ số khác hẳn kiếm thuật Trung Nguyên, chiêu thức nhanh như thiểm điện, chủ yếu là những thức đâm, ngay lúc chém cũng dùng mũi kiếm. Do đặc tính này, nhiều lần roi của Lâm lão đã quấn được kiếm của đối phương thì bị tuột ra ngay. Mà đây lại là điểm lợi hại nhất trong phép đánh nhuyễn tiên .
Lâm Bảo Thoa thánh thót đếm nhanh đến líu cả lưỡi cho kịp tốc độ của trận đấu.
Nam Cung Giao đánh một hơi ba mươi sáu chiêu mới bị đẩy bật ra.
Bị chàng dồn ép, lòng tự tôn của Lâm Thu Bái bị tổn thương, lão gầm lên, dồn toàn lực vào ngọn roi tấn công như vũ bão.
Nam Cung Giao liên tiếp thoái hậu, tận dụng bộ pháp để tránh né, thỉnh thoảng mới phản kích được một đòn.
Đến chiêu thứ tám mươi hai thì ngực chàng đã lảnh ba đường, tuy vết thương không nặng nhưng do chẳng rảnh tay chỉ huyết nên máu chảy đầm đìa, nhuộm hồng vạt trước của bộ võ phục màu thanh thiên.
Bảo Thoa vẫn không dám ngừng đếm mà nước mắt chảy ròng ròng, tội nghiệp cho chàng trai cương cường trọng nghĩa kia !
Có lẻ Lâm Thu Bái cũng luyến tài, dừng tay lên tiếng :
- Lão phu khuyên ngươi nên bỏ cuộc, nếu không thì đừng hòng sống sót !
Nam Cung Giao nhân cơ hội này chăm sóc vết thương, giả đò tần ngần cân nhắc, nhưng thực ra ngấm ngầm điều khí lấy lại chút sức lực.
Bảo Thoa buồn bã nói :
- Công tử đừng cố nữa. Gia phụ xưa nay chưa từng để ai sống sót qua khỏi chiêu thứ một trăm !
Nam Cung Giao nheo mắt đáp :
- Cảm tạ tiểu thư đã quan hoài ! Nãy giờ tại hạ vì kính lão nên không dám xuất kỳ chiêu đấy thôi ! Thực ra tại hạ chỉ cần một chiêu cũng đủ thủ thắng ! Gia mẫu từng bảo rằng chiêu kiếm này tuyệt đối không ai giải phá nổi !
Lâm Thu Bái cười rộ :
- Thật là khoác lác, ngươi cứ thi thố thử xem thế nào !
Nam Cung Giao vái dài :
- Cảm tạ Lâm sư phụ đã bớt cho mười bảy chiêu, xin người cẩn trọng, chiêu kiếm này ảo diệu vô song, hiểm ác khôn lường.
Dứt lời, chàng dựng đứng trường kiếm trước mặt, tay tả xoè ra, đỡ lấy chuôi kiếm, mắt nhắm hờ, thần thái trầm ổn, sát khí dàn dụa.
Lâm Đảo Chủ không dám khinh thường, vội dồn nội lực vào thân roi chờ đợi.
Nam Cung Giao chợt mở to mắt, thân kiếm vung lên, hóa thành ngàn kiếm ảnh mờ mờ, che kín toàn thân, chẳng còn thấy đâu cả. Và trái cầu thép ấy lao thẳng vào Lâm Trang Chủ.
Thu Bái thấy kiếm ảnh liền lạc như da trời, chẳng hề có một sơ hở nào, lòng vô cùng hoang mang dồn toàn lực vào nhuyễn tiên, quất những roi mãnh liệt, chủ yếu để chặn đứng đối phương chứ không nghĩ đến chuyện giết chóc. Các cao thủ lão thành thường cẩn trọng, khi không nắm chắc thì chẳng bao giờ liều lĩnh.
Tuy không cao lớn và có thần lực bẩm sinh như Quỉ Côn, nhưng nhờ lúc trẻ ăn được kỳ trân biển Đông, nên Thu Bái sở hữu đến bảy mươi năm chân khí, hơn cả Đường Cổ Ngư !
Tất nhiên, Nam Cung Giao không thể nào chịu nổi, văng ngược về phía sau.
Dẫu không trúng đòn nhưng sự va chạm với luồng kình lực nặng như núi kia đã khiến khí huyết chàng nhộn nhạo máu rỉ ra khoé miệng.
Song, chàng vẫn còn sống, và như thế là quá đủ.
Nam Cung Giao đưa ống tay áo lau máu miệng, vái thật sâu :
- Bản lãnh của Lâm sư phụ thật đáng xưng vô địch. Vãn bối đã giở đến tuyệt chiêu thủ mạng mà không thể đụng đến chéo áo của người, nhưng cũng may mắn qua được thử thách !
Lâm Thu Bái bối rối hỏi :
- Chiêu kiếm kia là của phái nào mà lại không hề có sơ hở như vậy ?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Bẩm Lâm sư phụ ! Đấy là chiêu Mật Trướng Đương Phong (Mùng kín chống gió) vốn là chiêu thủ, không hề có một thức công nào thì làm sao có sơ hở được ! Vãn bối biết mình không qua nổi trăm chiêu nên mới nói khéo để có thể dồn hết sức vào một chiêu cuối cùng. Dù chiêu thức để tấn công thì ít nhất cũng bảo toàn được mạng sống !
Chu Sơn Đảo Chủ hiểu ra, ngửa cổ cười khanh khách :
- Ngươi quả là một chàng trai trí dũng song toàn, trong hiểm cảnh luôn tìm được lối thoát ! Thế mà lão phu lại tưởng trên đời có một chiêu kiếm toàn mỹ thượng đẳng đến thế nên không dám phản kích !
Lão chợt nghiêm sắc mặt :
- Lão phu đồng ý để Kính Thanh đi theo ngươi, nhưng nếu ngươi không tận tình chăm sóc, bảo vệ cho nó thì đừng trách lão phu tàn nhẫn !
Ánh mắt lão như lưỡi dao cạo lướt trên mặt Nam Cung Giao, khiến chàng rùng mình, vội đáp :
- Lâm sư phụ yên tâm. Vãn bối và Mộc hiền đệ đã có lời thề đồng sanh, đồng tử.
Bảo Thoa bật cười khúc khích :
- Phải chăng công tử đã thề rằng chết cùng ngày, cùng tháng nhưng không cùng năm chứ gì ?
Nam Cung Giao gượng cười :
- Cô nương thật khéo đánh trúng tim đen người khác. Song thực ra, dẫu có thề thốt thế nào cũng không quan trọng bằng tấm lòng đối với nhau !
Bảo Thoa tinh quái nói :
- Tiểu muội nghe Mộc sư huynh kể rằng công tử có rất nhiều vợ đẹp, đắm chìm trong son phấn, còn thời gian đâu mà dành cho bằng hữu nữa ?
Nam Cung Giao gật gù :
- Tại hạ hứa từ nay thỉnh thoảng lại ôm Kính Thanh mà ngủ để y khỏi tủi thân !
Bảo Thoa thẹn thùng cự nự :
- Công tử nói kỳ quá !
Lâm Thu Bá cười ha hả :
- Ngươi làm sao đấu khẩu lại gã tiểu tử xảo trá này. Hãy vào bảo Kính Thanh tắm gội, chuẩn bị hành lý xuất trang.
Bảo Thoa dạ rất ngoan, rao bước đi ngay.
Ở đây Lâm trang chủ vui mời khách an tọa trên bàn bát tiên, cuối sảnh đã có sẵn một khay rượu nhỏ !
Chủ khách cạn chun đầu, Thu Bái bỗng nói :
- Tài trí, nhân phẩm của ngươi đã khiến lão phu mến mộ, muốn đem Bảo Thoa gả cho ngươi thấy thế nào ?
Nam Cung Giao chính sắc đáp :
- Đa tạ Trang Chủ đã nhủ lòng thương tưởng, song vãn bối quả không dám nhận lãnh. Cảnh chồng chung thực ra cũng chẳng hay ho gì ? Rất thiệt thòi cho lệnh ái !
Lâm lão cười nhạt :
- Ngươi đã nói thế thì sau này đừng đến lạy lục lão phu mà xin cưới đấy nhé !
Nam Cung Giao mỉm cười tự tin :
- Vản bối sắp rời khỏi Bắc Kinh, không có dịp tiếp xúc với lệnh thiên kim thì làm sao say mê được ?
Lâm lão phì cười, lắc đầu chán ngán :
- Lão phu cũng không hiểu ngươi là kẻ có trí hay xuẩn ngốc nữa ?
Rồi lão nói sang chuyện khác :
- Lão phu nghe Kính Thanh kể rằng ngươi đã ước hẹn tử đấu với Thiếu Cốc Chủ Vô Thanh cốc Khương Thư Hàn và lệnh nhạc phụ là Mã Thượng Thư đã quyết dùng quân triều đình để bảo vệ ngươi ! Nhưng lão phu muốn biết chủ ý của ngươi ?
Nam Cung Giao trầm ngâm đáp :
- Vãn bối tuy không lụy vì hư danh, song vẫn muốn giữ khí tiết của kẻ trượng phu, đành phải tận lực phó ước, gác chuyện sinh tử ra ngoài.
Chu Sơn Đảo Chủ hài lòng gật gù :
- Hảo hài tử. Ngươi khá lắm ! Lão phu không muốn ngươi chết nên sẽ tặng cho một bửu bối để phòng thân !
Lâm Thu Bái võ nghệ cao siêu quán thế, đáng được tôn làm Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân. Nay lão đã mở miệng đòi truyền tuyệt kỹ, Nam Cung Giao vui mừng khôn tả, quỳ ngay xuống lạy tạ !
Lâm lão xua tay, bảo chàng ngồi lên rồi vuốt râu kể :
- Thực ra, trong lần vào Trung Nguyên ba mươi năm trước, lão phu đã gặp một địch thủ xứng tay, đó là Long Giác Thần Quân Khương Quang Bật.
Song phương tỉ thí hơn ngàn chiêu mà vẫn không phân thắng bại, nên bãi chiến ! Về đến đảo Chu Sơn, lão phu ấm ức, cố tìm cách giải phá tuyệt học của đối phương.
Sau nhiều năm lao tâm khổ trí, lão phu đã sáng tạo ra một bộ pháp ảo diệu, khả dĩ vô hiệu hóa được kiếm pháp Vô Thanh quái dị của họ Khương. Tuy đã nắm chắc thắng, song do lòng hiếu danh đã nhạt, lão phu không tìm Long Giác Thần Quân nữa. Nay lão phu sẽ dạy cho ngươi pho Hư Ảnh Thần Bộ.
Lão đứng lên dắt chàng ra vườn sau khách sảnh, chỉ vào chín viên đá trắng trên mặt cỏ.
Bát quái đồ tuy đơn giản nhưng gồm thâu vận động cả vũ trụ. Võ học cũng không ở ngoài lẽ ấy ! Ngươi hãy đứng vào trung cung, tức viên gạch ở giữa, rồi lão phu sẽ chỉ dạy yếu quyết biến hóa.
Nam Cung Giao luyện tập đến trưa thì thuộc hết chương pháp, đường lối, nhưng chưa thể gọi là tinh thông.
Thế mà Lâm Thu Bái cất lời khen :
- Căn cơ của ngươi quả hiếm có trên đời ! Hãy cố khổ luyện đạt đến mức tinh túy thì ngay cả Long Giác Thần Quân cũng khó mà giết được ngươi trong vòng hai trăm chiêu !
Nam Cung Giao cười mát :
- Thế thì vãn bối sẽ bỏ chạy sau khi đánh xong chiêu thứ một trăm chín mươi chín !
Lâm lão nghiêm giọng :
- Kiếm thuật của ngươi phối hợp với bộ pháp này, mà có thêm khoảng hai mươi năm chân khí nữa, thì chẳng còn phải sợ Khương lão quỉ. Nhưng hiện tại thì ngươi không phải địch thủ của lão, vì vậy, tuyệt đối không nên giết Thư Hàn !
Vả lại, giết người cũng chẳng hay ho gì !
Nam Cung Giao vội kính cẩn cúi đầu tuân mệnh, theo Lâm lão trở vào khách sảnh.
Chàng khát khô cả cổ, thầm chê Bảo Thoa thiếu tế nhị, chẳng đem trà nước ra đãi đằng.
Chàng bỗng nghĩ lại người đẹp đang bận rộn nấu nướng để đã cơm mình, không ngờ Mộc Kính Thanh lên đến, tay nải trên vai, vui vẻ nói :
- Chúng ta đi thôi, đại ca !
Nam Cung Giao nhìn gã bằng ánh mắt tràn ngập yêu thương và trách móc :
- Hiền đệ âm thầm bỏ đi, lại thất tung bất ngờ khiến ta lo lắng muốn chết ! Ta phải đánh cho ngươi sưng mông lên mới được !
Mặt họ Mộc rám nắng nên không thấy đỏ, nhưng đôi mắt đen láy kia lộ vẻ hổ thẹn.
Gã đảo mắt liếc Lâm Trang Chủ rồi cằn nhằn Nam Cung Giao :
- Sao đại ca lại nói những lời ấy trước mặt Gia sư ?
Chàng quay sang phân bua với Chu Sơn Đảo Trang Chủ, không nhận ra vẻ mặt lão rất kỳ quái :
- Lâm sư phụ ! Vãn bối làm anh nên luôn dạy bảo Kính Thanh. Vãn bối sờ nắn, thấy khắp người y gân cốt mềm nhão, liền la mắng, bắt y phải thường xuyên luyện võ nghệ, và cấm không được lăn lóc nơi kỹ viện. Y lại trả lời rằng vì luyện Nhuyễn Cốt Thần Công nên da thịt mới mềm mại như thế ! Dám hỏi Lâm sư phụ có đúng vậy chăng ?
Lâm Thu Bái ôm bụng cười sặc sụa rồi quát lên :
- Hai ngươi có cút nau không ? Lão phu giết chết cả hai bây giờ !
Kính Thanh bỏ chạy như bị ma đuổi, Nam Cung Giao cũng vái vội chủ nhân rồi rượt theo !
Về đến Trịnh Gia Trang, Kính Thanh lập tức bị lôi vào bàn nhậu.
Anh em họ Trịnh đã thân với Kính Thanh từ hồi ở phủ Thượng Thư.
Nam Cung Giao thay áo, tắm rửa, băng bó sơ rồi trở ra, ăn như rồng cuốn.
Được tám chín chén chàng mới buông đũa, kể cho Trịnh Tháo và Trịnh Mãng nghe cuộc tỷ thí của mình và Lâm Trang Chủ !
Trịnh Tháo giật mình :
- Thuộc hạ từng nghe thúc phụ Trịnh Kiều nhắc đến Chu Sơn Đảo Chủ, không ngờ ông ta lại là sư phụ của Mộc công tử đây !
Tương truyền, tính tình Lâm Đảo Chủ cực kỳ cổ quái, lãnh đạm, xuất thủ không biết nương tay !
Kính Thanh cắt lời gã :
- Sao ngươi lại dám nói xấu gia sư ? Nếu ông thực sự tàn nhẫn thì Nam Cung đại ca đã chết từ lâu rồi !
Nam Cung Giao xác nhận :
- Đúng vậy ! Ta chỉ thắc mắc vì sao Lâm sư phụ lại cố tình thị uy, bắt ta bãi chiến ? Ngay chiêu đầu ta đã thọ thương, lòng vô cùng khiếp sợ, nhưng vì nghĩ đến cảnh Kính Thanh bị giam cầm nên đành phải liều !
Mộc Kính Thanh cười hì hì :
- Đại ca tốt với tiểu đệ quá. Nhưng mà nhờ vậy mới thu hoạch được lợi lớn là pho Hư Ảnh Thần Bộ.
Nam Cung Giao hỏi lại :
- Dường như ngươi cũng không biết công phu này ?
Kính Thanh gật đầu :
- Gia sư vừa mới hoàn thành hồi cuối năm ngoái, tiểu đệ có ở nhà đâu mà học ? Mấy ngày trước, vì nhớ ân sư nên mò về thăm và xin ông tha lỗi. Nào ngờ sư phụ nổi lôi đình, bắt nhốt, cấm không cho xuất trang nữa !
Nam Cung Giao hỏi tiếp :
- Thế ba năm trước ngươi gây ra tai họa gì mà Lâm Đảo Chủ hổ thẹn đến mức phải rời Chu Sơn vào Trung Nguyên ẩn mặt ?
Kính Thanh chớp đôi mắt tinh quái, ngượng nghịu đáp :
- Tiểu đệ bị gia sư ép lấy cháu gái của Đông Hải Thần Tăng, trụ trì chùa Phổ Đà. Ngay trước ngày cưới, tiểu đệ bỏ trốn nên gia sư mang nhục !
Trịnh Mãng phá lên cười hề hề :
- Chuyện này còn khó tin hơn việc chim vẹt màu đen ! Chẳng lẽ cô dâu lại xấu xí như quỷ nên Mộc công tử mới chê !
Kinh Thanh trợn mắt cãi :
- Ngươi tưởng ta thế này nên không lấy được vợ đẹp ư ? Người ấy kiều diễm nhất vùng đảo Chu Sơn, nếu đem ra so sánh với Mã Hoàn Cơ hay Tiền Vân Mi thì mỗi người một vẻ, chẳng hề thua sút !
Nam Cung Giao lộ vẻ buồn rầu chứ không cười :
- Trai tài gái sắc ! Ta tin rằng ngươi đã nói sự thực ! Nhưng việc ngươi đào hôn đã khiến ta nghi ngờ rằng vì luyện Nhuyễn Cốt Thần Công nên cả cái của nợ trong đũng quần kia cũng tiêu rồi !
Nói xong, chàng đưa tay tả định mò vào hạ thể của gã.
Kính Thanh hồn phi phách tán, mang cả ghế lùi nhanh lại, người run lẩy bẩy :
Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh ôm bụng cười ngất, thật lâu sau chưa nín nổi !
Kính Thanh hầm hầm nổi giận :
- Nếu đại ca cứ suồng sã như vậy tiểu đệ sẽ trở về Lâm Gia Trang !
Nam Cung Giao cố nín cười, nói rằng :
- Ngu ca xin lỗi ! Và hứa từ nay sẽ không trêu ghẹo hiền đệ nữa !
Mộc Kính Thanh xụ mặt xách ghế trở lại bàn, cùng chàng tính toán kế hoạch ngăn cản cuộc xâm lăng An Nam của Minh triều !
Khi nghe Nam Cung Giao đòi giết quan Thái Bảo Liễu Di Phu, Kính Thanh bác ngay :
- Hiện nay, đoàn sứ thần An Nam đang có mặt ở Bắc Kinh, đại ca làm thế là đưa họ vào chỗ chết !
Phe chủ chiến không phải chỉ mình họ Liễu, những đại thần còn lại sẽ đổ vạ lên đầu bọn Lê Khải, mượn cớ này mà xin Minh Đế khởi binh trừng phạt An Nam !
Nam Cung Giao sợ toát mồ hôi, ngập ngừng hỏi lại :
- Thể theo ý hiền đệ thì chúng ta phải hành động ra sao đây ?
Kính Thanh tư lự :
- Đại ca phải liên lạc ngay với bọn Lê Khải, báo cho họ biết âm mưu của phe Liễu Di Phu, và yêu cầu họ sớm quay về cố quốc. Họ đi rồi chúng ta mới rảnh tay mà hạ thủ !
Trong thời gian ấy, tiểu đệ và anh em họ Trịnh điều nghiên địa thế tư dinh của Liễu Thái Bảo !
Nam Cung Giao phấn khởi vỗ vai. Cũng may ngươi xem mỹ nhân như cỏ rác nên ta mới có được một quân sư tài giỏi ! Thôi đừng cưới vợ làm gì, thanh lâu chỗ nào chẳng có.
Kính Thanh mỉa mai :
- Đi theo đại ca chẳng khác gì theo voi ăn bã mía, xấu hay đẹp thì đại ca cũng hốt sạch, làm gì còn phần cho tiểu đệ nữa ?
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Ta đã chẳng chừa Lâm Bảo Thoa tiểu thư lại cho ngươi rồi đấy sao ? Ta biết ngay ngươi say mê sư muội nên không chịu lấy ai khác !
Thiên Gia Thử Lương Nhẫn quen đám dịch tốt trong dịch xá Bắc Kinh nên chiều hôm sau đã liên lạc được với các sứ thần An Nam.
Gã trở về bẩm báo :
- Bẩm công tử ! Chánh sứ Lê Khải kể rằng Minh Đế long thể bất an nên chưa triệu kiến đoàn sứ thần An Nam, chỉ mình Cầm Đạm Thủy cô nương đã vào cung làm đẹp cho thái hậu.
Quan Thái Bảo Liễu Di Phu đã cùng quan Lễ Bộ Thượng Thư đến dịch xá nhận tấu chương và cống phẩm.
Khi nghe Lê Khải báo rằng nửa đường gặp cường đạo, sứ giả Trần Dũng bỏ mình.
Di Phu khéo léo dò hỏi, nhưng Nguyễn Đào đã khôn ngoan đổ hết công trạng cho Trần Dũng và đội quân áp tải chứ không nhắc đến công tử.
Gã thấm giọng bằng một chun rượu đầy, rồi kể tiếp :
- Dường như Liễu Di Phu biết rõ bản lãnh của phe cường đạo nên ánh mắt đầy vẻ nghi hoặc. Cuối cùng, họ Liễu bảo rằng nhân dịp có sứ thần các nước Phù Tang, Cao Ly, Mông Cổ,
Mãn Châu cùng hiện diện, khi Minh Đế khỏi bệnh, lão sẽ tổ chức một cuộc so tài hữu nghị giữa đại biểu các nước về Trung Hoa.
Dũng sĩ thắng trận sẽ phong danh hiệu lưỡng quốc Võ Trạng Nguyên, và nước ấy sẽ được miễn triều cống lần tới.
Nam Cung Giao ngắt lời gã :
- Thế ai sẽ là đại biểu của An Nam ?
Lương Nhẫn cười đáp :
- Nay Trần Dũng đã chết, chỉ còn Cầm Đạm Thủy là có kiếm pháp cao cường nhất. Nàng ta sẽ được cử tham gia cuộc tỷ võ !
Mộc Kính Thanh cau mày :
- Không hiểu Liễu Di Phu đang bày độc kế gì ? Nhưng chỉ riêng việc Minh Đế cứ liệt giường vài tháng cũng khổ cho chúng ta rồi !
Nam Cung Giao nóng ruột hỏi Thiên Gia Thử :
- Thế ngươi có biết Minh Tông mắc bệnh gì không ?
Họ Lương cười hề hề :
- Gã dịch tốt họ Tăng kia có bào muội làm cung nữ ! Ả ấy kể rằng long nhan mới được tiến cung một giai nhân tuyệt sắc. Nàng ta tên Đoàn Tự Cơ người đất Vân Nam, mặt đẹp như ngọc, thân hình trắng tựa ngó sen, tỏa mùi hương yêu mị !
Thiên Tử không sao dứt ra nổi suốt ngày quấn quít, bỏ cả việc triều chính. Chỉ sau hai tháng ôm ấp Đoàn Quí Phi, long thể cạn kiệt nguyên dương, tay chân run rẩy, đi không nổi, thở chẳng ra hơi. Quan thái y đã tận lực chữa trị nhưng không có kết quả !
Nam Cung Giao gật gù :
- Ta có một dược phương bồi bổ nguyên khí, tráng dương, cố thận cực kỳ thần diệu. Nếu có người tiến cử, ta sẽ vào cung trị bệnh cho Minh Đế ?
Mộc Kính Thanh nghiệm giọng :
- Đại ca có chắc là sẽ thành công hay không ? Quan Thái Y còn phải chịu thua đấy !
Nam Cung Giao cười tinh quái :
- Sao không chắc ! Ngươi cứ uống thử vài thang là biết ngay tác dụng ! Lúc ấy, ta chỉ sợ ngươi đòi lấy vợ ngay thì nguy to !
Cả bàn cười vang mà Kính Thanh không giận, chỉ hờ hững nói :
- Nếu đúng thế, đại ca hãy trao dược phương cho sứ thần An Nam. Vua Minh thọ ơn trị bệnh tất chẳng mặt mũi nào chuẩn tấu việc chinh phạt An Nam !
Cao kiến của y được tán thành, nhưng hôm sau Thiên Gia Thử đến trao thư của chánh sứ Lê Khải.
Nam Cung Giao đọc xong thở dài kể :
- Lê Khải bảo rằng mình không tinh thông y thuật, khi vào cung, bị thái y vặn vẹo tất sẽ lòi đuôi chuột. Lão yêu cầu ta hóa trang thành viên Lãnh binh Đặng Quyết, nhập cung để tận tay đối chứng lập phương.
Trịnh Tháo cả cười :
- Phải đấy ! Gã họ Đặng kia có dáng vóc và dung mạo hao hao giống công tử ! Thuộc hạ chỉ cần hóa trang sơ là chẳng ai phân biệt nổi !
Nam Cung Giao viết thư phúc đáp Lê Khải, đồng thời bảo Lương Nhẫn nhờ gã Dịch tốt họ Tăng bắn tin vào cung cấm.
Cầm Đạm Thủy nhận được lệnh của Lê Chánh Sứ, lập tức thỏ thẻ với Hoàng Thái Hậu :
- Khải tấu lão Phật Gia ! Tiện nữ nghe các cung nữ nói với nhau rằng long thể thánh thượng đang bất an, cả thái y cũng bó tay ! Tiện nữ xin mạo muội tiến cử một bậc danh y của nước An Nam, hiện đang có mặt trong đoàn sứ thần !
Chỉ mới vài ngày mà nước da của Thái Hậu đã trắng trẻo hơn trước, mất sạch những nốt đồi mồi già nua, nên bà rất tin tưởng và yêu mến ĐạmThủy .
Nghe nàng nói thế, bà phấn khởi phán rằng :
- An Nam quả lắm nhân tài ! Ai Gia sẽ hạ chiếu triệu ngay người ấy vào cung ! Nếu y cứu được Vương nhi khỏi chứng di tinh quái ác kia, Ai Gia sẽ trọng thưởng !
Sáng hai mươi mốt, viên Thái Giám Tổng Quản Xuân Minh Cung, cùng bốn Tiểu Thái Giám đến dịch xá.
Dịch xá trong cả nước đều thuộc bộ Giá, riêng Đại Dịch Xá ở Bắc Kinh lại do bộ Lễ quản lý, chuyên để tiếp đón các đoàn sứ giả ngoại bang, hoặc các đại thần phương xa hồi kinh.
Người phụ trách Đại Dịch Xá Bắc Kinh là quan Viên Ngoại Lang Bộ Lễ, tên gọi Tạ Phong.
Họ Tạ mau mắn đưa vị Tổng Quản Thái Giám thân tín của Thái Hậu đến dãy phòng của các sứ thần An Nam.
Hoàng Tổng Quản the thé rao :
- Thái Hậu ban thánh chỉ !
Biết trước việc này nên Lê Khải, nguyễn Đào và viên Lãnh binh Đặng Quyết đều đã có mặt. Song chỉ có hai sứ thần ra quì nghe chiếu chỉ, còn Đặng Quyết vẫn ở trong phòng.
Trung Hoa xem trọng đạo hiếu nên ý chỉ của Thái Hậu còn có hiệu lực hơn thánh chỉ của nhà vua. Tuy nhiên, thường thì các bà già ấy không viết thành chiếu mà lại truyền bá qua miệng của Viên Thái Giám thân tín nhất !
Lần này cũng vậy, Hoàng Tổng Quản cất giọng gà mái chói tai :
- Lão Phật Gia truyền Chánh Sứ thần An Nam Quốc, cử vị thần y Đặng Quyết đến Càn Thanh Cung để trị bệnh cho thánh thượng ! Khâm thử !
Lê Khải và Nguyễn Đào khấu đầu :
- Chúng thần tuân chỉ !
Toán Thái Giám trở ra khách sảnh của Dịch xá chờ đợi. Ở đây Đặng Quyết thay áo.
Đặng Quyết thực đang nấp kỹ trong phòng Nguyễn Đào, để Nam Cung Giao thế chỗ !
Giờ đây, chàng trai họ Nam Cung khác hẳn, vì cặp lông mày rậm, hàng râu mép xanh rì và bộ râu quai nón bó cằm rất oai vũ.
Chàng bồi hồi soi bóng trong chiếc gương pha lê Hà Lan, tự nhủ rằng mình đúng là dân Giao Chỉ khi mặc chiếc áo the đen, đầu đội khăn vành rễ !
Chính Lê Khải cũng nói :
- Lạ thực ! Trong bộ y phục này, trông công tử chẳng có một nét nào của người Trung Hoa !
Hai khắc sau, chàng đã có mặt ở cung Khôn Ninh, để theo Thái Hậu đến cung Càn Thanh.
Tướng mạo khôi vĩ, oai vệ của Đặng Quyết chẳng hề giống với một thầy lang, khiến bà mẹ vua ngần ngại :
- Này Đặng hiền khanh ! Do lời tiến cử của nha đầu Đạm Thủy, nên Ai Gia mới cho gọi khanh đến. Nhưng việc chữa bệnh cho Thánh Thượng là rất quan trọng, liệu khanh có đủ năng lực hay không ?
Đặng Quyết mỉm cười, để lộ cái mà gã không có, đó là lúm đồng tiền trên má trái, và vui vẻ đáp :
- Khải tấu Thái hậu ! Hạ thần cam đoan rằng chỉ sau bảy ngày, Hoàng thượng sẽ phục hồi như cũ, có thể lâm triều giải quyết chính sự !
Thái Hậu lạnh lùng nói :
- Khanh tự tin như thế khiến Ai Gia cũng yên lòng. Nhưng nếu bệnh tình của Thánh Thượng xấu đi thì không phải chỉ riêng cái đầu của khanh rơi xuống đâu đấy !
Ý bà nói rằng cả đoàn sứ thần An Nam gần hai trăm mạng sẽ phải chết.
Thái Hậu đứng lên, di giá đến cung Càn Thanh, nơi Minh Anh Tông đang dưỡng bệnh.
Trên hành lang trước cửa cung có gần hai chục vị quan lớn đang chầu chực, cứ như sợ rằng mình không hiện diện đúng lúc Thiên Tử băng hà !
Thấy Thái Hậu, họ nhất tề phục xuống lạy.
Nam Cung Giao đi sau bà, khoan khoái nhận đại lễ của họ. Chàng nhận ra Thái Sư Triển Tháo vì gương mặt ông có những nét giống Thất Vương Phi !
Tất nhiên có cả Thái Bảo Liễu Di Phu !
Triển Thái Sư không phải quì, chỉ cúi mình chào, vì ông là thông gia với Thái hậu.
Triển lão rầu rĩ lên tiếng :
- Khải tấu Thái Hậu ! Thái y bảo rằng bệnh của Thánh Hoàng mỗi lúc thêm nặng, tuy mạng rồng không đáng ngại, nhưng tinh thần rất suy sụp !
Các đại danh y Đế Đô và miền Hà Bắc này lần lượt bị đức Vạn Tuế đuổi ra, cả Thái y cũng mới bị hạ ngục hồi sáng !
Ông vừa dứt lời thì Liễu Di Phu nói tiếp :
- Khải tấu Thái Hậu ! Phải chăng gã An Nam râu rậm kia được mời đến để trị bệnh cho Thánh Hoàng ?
Thái Hậu thở dài :
- Đúng vậy ! Gã đã đem đầu ra cam đoan rằng sẽ thành công ! Ai Gia bắt buộc phải thử xem !
Thái Hậu bước vào Càn Thanh cung.
Đặng Quyết theo sau, nheo mắt cười bảo Triển Thái Sư :
- Đại nhân bị chứng táo bón kinh niên, mỗi ngày phải ăn đủ một cân rau sống, và đi bộ mười dặm thì sẽ thấy khá hơn !
Triển Thái Sư ngơ ngác nhìn theo gã thầy lang An Nam, rồi nói với các quan :
- Gã này đáng mặt thần y, chỉ nhìn qua đã biết rõ bệnh kín của lão phu.
Liễu Di Phu hận hực :
- Hay ho gì gã ! Chẳng qua mặt của lão Thái Sư nhăn nhó, nặng nề, ai nhìn không đoán được ! Như tiểu đệ đây trĩ lòi cả gang, sao y không giỏi mà nói ra đi !
Các quan che miệng cười, định bụng sẽ về kể cho vợ nghe bí mật của hai vị quan đầu triều.
Quả thực là Nam Cung Giao chỉ lòe thiên hạ, bệnh táo bón của Triển Thái Sư là do Thất Vương Gia tiết lộ với chàng !
Trong tẩm cung chỉ có mình nhà vua và Đoàn Quí Phi.
Mỹ nhân đang ngồi bóp chân cho Thiên Tử, mặt hoa ủ dột, đầy vẻ u sầu lo lắng. Nàng sợ Minh Đế băng hà, và khi đó, nàng sẽ không thoát chết dưới tay Hoàng Hậu !
Đoàn Quí Phi sẽ bị khép tội dùng sắc mê hoặc Quân Vương, khiến long thể hao mòn nguyên khí dẫn đến tử vong !
Tuy chưa nói ra nhưng mỗi lần đến thăm Thiên Tử, ánh mắt Hoàng Hậu đã biểu lộ lòng căm hờn tột độ !
Nàng oán hận trời xanh đã ban cho nàng nhan sắc phi phàm và một thân thể nồng nàn mùi hương quyến rũ. Dù nàng không muốn, song Minh Đế đã vì hai điều ấy mà mê mệt, miệt mài truy hoan, đưa đến hậu quả hôm nay !
Nhận ra Thái Hậu giá lâm, Đoàn Quí Phi vội rời long sàng, phục xuống lạy :
- Tây Cung Quí Phi khấu kiến Thái Hậu !
Thái Hậu nói với giọng lạnh như băng :
- Miễn lễ !
Rồi bà bước đến cạnh giường, lay gọi Minh Anh Tông :
- Vương nhi ! Ai Gia đưa thần y đến trị bệnh cho ngươi đây !
Nhà vua mở mắt, buồn rầu nói :
- Thần nhi chẳng còn thiết sống nữa ! Mẫu hậu bất tất phải bận tâm !
Nói xong, Minh Đế nhắm mắt lại quay vào trong.
Thái Hậu chán nản thở dài, bảo Nam Cung Giao :
- Thánh Hoàng đã đánh mất chí cầu sinh, còn thuốc nào cứu chữa nổi nữa. Ai Gia chẳng nhẫn tâm nhìn cảnh này, giao lại cho ngươi đấy !
Bà nghẹn ngào quay bước, rời khỏi phòng.
Nam Cung Giao chờ bà đi khuất, tủm tỉm nói với Đoàn Quí Phi :
- Hạ thần là người nước An Nam, quen tính trực ngôn, xin thành thật chia buồn với Quí Nhân. Nay Thánh Hoàng đã không còn khát sống thì sinh mạng của Quí Nhân cũng sắp kết thúc ! Thật uổng thay cho một bậc mỹ nhân sắc nước hương trời !
Đoàn Tự Cơ thẹn thùng bởi ánh mắt nồng nàn của chàng trai lạ, lòng sung sướng vì được ngợi khen, song nàng vẫn giả đò nghiêm nghị, gắt gỏng :
- Sao khanh lại dám nói những lời phạm thượng như thế ?
Nam Cung Giao thản nhiên đáp :
- Hạ thần chỉ nói ra sự thực. Sao gọi là phạm thượng ? Bốn năm trước, Tiên Hoàng của tệ quốc băng hà, Hoàng Hậu lập tức khép tội nàng Ái Phi được sủng ái nhất, bắt phải thắt cổ chết !
Đoàn Quí Phi bàng hoàng, run giọng :
- Thực thế sao ? Ta từ nhỏ nghe đến điều ấy, nhưng đã quyết chết theo Thánh thượng nên không hề sợ !
Nam Cung Giao mỉm cười :
- Tối độc phụ nhân tâm ! Nàng ái phi kia đã không được chôn gần mộ của Lê Thái Tổ, và cũng chẳng ai biết xác nàng ta bị ném xuống sông cho cá rỉa hay quăng vào rừng cho chó gặm !
Dẫu nàng ấy có gặp Lê Thái Tổ dưới hoàng tuyền chắc cũng bị chê !
Đoàn Quí Phi sợ hãi rú lên :
- Ngươi đừng dọa ta !
Minh Anh Tông chịu hết nổi, cố lấy hơi mà quát :
- Tên cuồng đồ kia ! Ngươi có bao nhiêu cái đầu mà dám khi quân ? Trẫm còn sống mà ?
Nam Cung Giao vui vẻ quay lại :
- Thánh Thượng giết hạ thần rồi thì lấy ai trị bệnh ? Sao ngài không cố sống mà bảo vệ cho người mình yêu dấu !
Minh Đế thở dài :
- Sống mà thế này thì thà chết còn hơn !
Nam Cung Giao nghiêm giọng :
- Hạ thần đã đem gần hai trăm cái đầu của đoàn sứ thần An Nam để bảo chứng, tất không thể thất bại được. Chỉ cần Thánh thượng tuyệt đối tin tưởng hạ thần là đủ !
Cách sử sự kỳ lạ và thái độ tự tin của chàng đã khiến nhà vua tò mò ! Chàng khác hẳn những vị đại phu già nua, khiếp nhược từng đến đây !
Minh Anh Tông cau mày hỏi :
- Cách điều trị của khanh thế nào ?
Nam Cung Giao đáp :
- Mỗi ngày một thang, sau bẩy ngày hồi phục như xưa. Nếu tiếp tục dùng dược phương này thường xuyên, đến tuổi tám mươi vẫn cường tráng ! Nhưng từ nay trở đi mỗi đêm thánh thượng chỉ được phép ngự hoan một lần !
Long nhan mừng rỡ ngắt lời :
- Thế là tốt lắm rồi ! Khanh hãy mau ra tay diệu thủ ! Cạnh đây có cả một kho thuốc, nếu thiếu gì, hiền khanh cứ bảo Tổng Quản Thái Giám Càn Thanh Cung là Dịch Quí cung cấp ! À ! Danh tính của khanh là gì ?
- Khải tấu thánh thượng ! Hạ thần là Đặng Quyết !
Nhà vua bảo Đoàn Quí Phi :
- Ái khanh ra gọi Dịch Tổng Quản vào đây.
Lát sau, họ Dịch phục phịch bước vào lắng nghe thánh ý !
Lão cung kính hỏi Nam Cung Giao :
- Chẳng hay Đặng thần y cần sai phái điều gì ?
Chàng cười đáp :
- Phiền Tổng Quản tìm cho tại hạ bẩy con chó mực mới sinh chưa đầy mười ngày ! Phải là chó mực chính gốc, và toàn là giống đực !
Minh Đế rụng rời lẩm bẩm :
- Chăng lẽ Trẫm phải ăn cả chó nữa sao ?
Nhưng chỉ sau ba ngày long nhan đã thấy diệu dụng của món Hắc Cẩu Bát Bửu Thần Phương.
Sau mỗi lần uống thuốc, nhà vua được Nam Cung Giao dùng nội công xoa bóp toàn thân, khiến dược vị tan nhanh. Người khoan khoái chìm vào giấc ngủ, để khi tỉnh dậy thấy mình khoẻ hơn !
Trong tẩm cung vẫn chỉ có ba người, không cung nữ lẫn thái giám thêm Dịch Tổng Quản chạy ra chạy vào chờ sai khiến !
Trước đây trong lúc tuyệt vọng, Minh Đế đã đuổi hết tả hữu, chỉ để mình Đoàn Quí Phi hầu hạ mình. Cả Hoàng Hậu cùng các Hoàng Tử, Công Chúa cũng bị cấm cửa !
Sáng sáng, họ và bá quan đến cửa cung Càn Thanh quì lạy, nói lời vấn an chứ không dám vào.
Cơm nước được Dịch Tổng Quản bưng vào tận giường ngự, và Đặng Quyết được phép ăn chung với nhà vua cùng Đoàn Quí Phi !
Những lúc không ngủ, Minh Anh Tông vui vẻ chuyện trò với Đặng Quyết hỏi thăm về gia cảnh của gã, cũng như văn vật đất An Nam.
Đặng Quyết trả lời rất mơ hồ, chung chung, thường nói lảng sang đề tài khác.
Minh đế không biết là đối phương cũng dốt đặc về đất Giao Châu như mình, lại tưởng Đặng Quyết muốn giữ bí mật cho quốc gia !
Đến ngày thứ năm thì Minh đế phát hiện Long Thương của mình ngạo nghễ dựng đứng hàng nửa canh giờ mới chịu hạ, liền hoan hỉ phán :
- Đặng hiền khanh ! Nay khanh không chịu nhận chức Thái y của Minh triều. Trẫm cũng chẳng dám ép. Nhưng công lao hạng mã này không thể không thưởng. Vậy khanh cứ nói ra ý mình, trẫm sẽ chuẩn tấu.
Nam Cung Giao cười đáp :
- Hạ thần chỉ xin hai điều, một cho tổ quốc và một cho mình !
Minh đế gật đầu :
- Khanh cứ tấu !
Nam Cung Giao nghiêm giọng :
- Thứ nhất, hạ thần tha thiết cầu xin thánh thượng đừng bao giờ nghe lời xúc xiểm của ai mà hạ chỉ chinh phạt nước An Nam.
Minh Anh Tông mỉm cười :
- Trẫm hứa ! Nhưng thực ra sau việc này, trẫm làm sao dám nghĩ đến chuyện khởi binh ? Còn điều thứ hai ?
Nam Cung Giao tủm tỉm cười :
- Hạ thần muốn có một tấm miễn Tử Kim Bài !
Minh Đế kinh ngạc :
- Vật ấy nào có ích gì khi khanh đã trở về An Nam ?
Nam Cung Giao ung dung đáp :
- Khải tấu thánh thượng ! Người Giao Châu có câu tục ngữ : Vuốt mặt nể mũi.
Hạ thần mà có được Kim Bài của Thánh thượng thì vua An Nam cũng không dám trị tội !
Minh Đế cười khanh khách :
- Hiền khanh nói cũng hữu lý ! Nếu An Nam quốc vương giết khanh là không nể mặt nước Trung Hoa. Trẫm chuẩn tấu !
Minh Anh Tông đã giữ lời, suốt đời không gây hấn với An Nam !
Các triều vua Minh sau này cũng hành động như vậy, cho đến lúc cơ đồ lọt vào tay quân Mãn Thanh ! Có thể vì di chiếu của Anh Tông, hoặc vì phải đối phó với rợ Mông, rợ Mãn nên họ không rảnh tay ?
Tối hôm ấy, uống xong chén thuốc thơm mùi thịt chó, Minh Anh Tông lại được Nam Cung Giao xoa bóp, khoan khoái chìm vào giấc mộng.
Nhà vua tuyệt đối tin yêu Đoàn Tự Cơ và Nam Cung Giao nên không hề cảnh giác. Ngài chẳng biết rằng hai con tim son trẻ kia đã rung động, dù chỉ gần gũi nhau có mấy ngày !
Thấy nhà vua đã ngủ say, Nam Cung Giao đi sang phòng bên để nghỉ ngơi. Chàng nằm ngữa trên giường, nhìn qua song cửa, ngắm sao trời mà nhớ về cố quận, song hình bóng người thân cứ hòa lẫn với dung nhan xinh đẹp tuyệt trần của Đoàn Quí Phi !
Với bản tính ngang tàng, phóng khoáng, chàng tự cho phép mình chiêm ngưỡng người đàn bà mười chín tuổi kỳ lạ kia. Những lúc long nhan ngủ vùi, chàng ngồi ngắm nàng không nhớp mắt.
Đoàn Tự Cơ chằng hề giận, chỉ thẹn thùng cúi mặt và liếc trả bằng ánh mắt trách móc.
Nam Cung Giao trằn trọc đến cuối canh ba, mệt mỏi ngủ thiếp đi.
Chàng đã mơ thấy mình được ôm ấp thân hình ngà ngọc thơm tho của Đoàn Quí Phi, ngay trên long sàng, cạnh thân hình bất động của Minh Anh Tông.
Chàng kinh hãi giật mình tỉnh giấc, phát hiện Tự Cơ đang đứng bên giường, tóc dài buông xoã, áo ngủ trắng mỏng manh.
Quí Phi mỉm cười, ngồi xuống cạnh giường rồi ngã người áp má lên bờ ngực trần rộng và vạm vỡ của chàng.
Tim Nam Cung Giao rộn ràng đập nhanh vì hồi hộp và sợ hãi.
Tự Cơ thì thầm :
- Chàng đừng lo ! Thiếp đã gài chặt cửa và điểm huyệt mê của Thiên Tử rồi !
Nam Cung Giao thở dài :
- Té ra Quí Phi là một cao thủ võ lâm, thế mà tại hạ nhìn không ra !
Đoàn Tự Cơ cười khúc khích :
- Thiếp cũng chẳng nhìn ra việc chàng có phải là người Giao Chỉ không ? Nghe chàng ấp úng trả lời nhà vua. Thiếp phải cố nín cười ! Hơn nữa, răng chàng đâu có nhuộm đen ?
Khi mỹ nhân cười, thân hình rung động khiến Nam Cung Giao cảm nhận được rõ ràng sự tiếp xúc với gò nhũ phong nẩy nở của nàng.
Mùi hương kỳ lạ kia ngày càng dìu chàng vào trạng thái lâng lâng và đầy khát vọng.
Tuy nhiên, việc Tự Cơ giỏi võ đã khiến lòng chàng cảnh giác, lo lắng, nên đã trấn áp được lửa dục.
Nam Cung Giao bình tĩnh đáp :
- Quí Phi lầm rồi ! Tại hạ là người Giao Chỉ chính gốc, có hai ngón chân cái rất đặc biệt.
Tự Cơ hiếu kỳ ngồi bật dậy, nhìn hai bàn chân chàng, và thích thú sờ nắn. Nhưng rồi nàng lại trở về với tư thế cũ, hạ giọng kể lể :
- Thiếp vốn là hậu duệ của Hoàng Gia họ Đoàn nước Đại Lý ở đất Vân Nam. Vì muốn khôi phục lại nước cũ thiếp đã tự nguyện tiến cung, mong có ngày lên ngôi Hoàng Hậu, xin Thiên Tử ban cho thành Đại Lý để dựng nước !
Nam Cung Giao cảm động nói :
- Không ngờ nàng lại ôm ấp một ý nguyện cao cả như vậy ! Song tại hạ sợ rằng nàng sẽ khó mà toại ý !
Đoàn Tự Cơ thở dài não ruột :
- Thiếp cũng biết là vô vọng, nhưng nếu may mắn sinh được Hoàng Nam thì vẫn còn có cơ hội ? Xưa nay, việc phế trưởng lập thứ là chuyện thường tình !
Chợt nàng nghiêm giọng :
- Thiếp hỏi thực ! Phải chăng sau lần lâm trọng bệnh này, Minh đế sẽ khó mà có con được nữa ?
Nam Cung Giao gật đầu :
- Có lẽ vậy ! Linh dược chỉ bồi bổ khí huyết, gân cốt, song tính nguyên nhà vua đã kém lắm rồi. Vả lại, ông ta đã quá tuổi bốn mươi !
Đoàn Tự Cơ ngồi lên nhìn thẳng vào mắt chàng, ai oán nói :
- Vậy thì chàng hãy ban cho thiếp một đứa con ! Và nếu giấc mộng của thiếp được trọn vẹn thì con của chúng ta sẽ làm Hoàng Đế Trung Hoa, lúc ấy, cảnh chiến tranh tang tóc giữa hai nước sẽ không bao giờ xảy ra !
Nam Cung Giao choáng váng vì ý nghĩ táo bạo và tuyệt diệu của Tự Cơ, liền tự nhủ :
- Ý nàng chẳng phải là dở ! Ta đã hằng mong muốn sự hòa hiếu giữa hai dân tộc cơ mà ?
Chàng nghe lòng thanh thản, mỉm cười tình tứ :
- Hay lắm ! Ta sẽ cố noi theo gương Lã Bất Vi vậy !
Không còn rào cản, Nam Cung Giao say đắm vuốt ve thân hình tuyệt mỹ của Tự Cơ. Chàng hít mãi mùi hương kỳ diệu trên da thịt nàng, và bộ râu rậm đã khiến mỹ nhân nhột nhạt, rùng mình cười rúc rích.
Cũng như Minh Anh Tông, Nam Cung Giao mê muội trong những giấc vu sơn liên tiếp, không sao dứt ra được.
Người đàn bà kỳ lạ này quyến rũ tựa ngọn lửa rực rỡ, biến kẻ quân tử thành những con thiêu thân, tình nguyện được chết trong vòng tay nàng !
Cuối canh tư, Tự Cơ nũng nịu xô tình lang ra, lặng lẽ trở về tẩm phòng với Long Nhan, còn Nam Cung Giao lăn ra ngủ như chết !
Cuộc tình vụng trộm nồng nàn, pha chút ảo vọng tương lai khiến Nam Cung Giao kéo dài việc chữa trị cho Minh Đế.
Nhà vua lại càng yên tâm và cảm kích sự chu đáo, kiên nhẫn của vị đại phu nước An Nam !
Ông không biết rằng mình bị cắm sừng bởi hai con người đang nuôi mộng thay đổi huyết thống họ Chu.
Sau chín dêm ân ái mặn nồng, Tự Cơ sung sướng báo tin :
- Đặng tướng công ! Thiếp đã trễ kinh được bốn ngày, chắc là đã cấn thai.
Nam Cung Giao liền thăm mạch thật kỹ, mỉm cười xác nhận !
Tự Cơ hạnh phúc ngồi vào lòng chàng thủ thỉ :
- Lúc này thiếp lại muốn quên đi giấc mơ phục quốc, trốn theo chàng về An Nam sinh sống.
Hạnh phúc của nữ nhân là được sống với người mình yêu thương !
Nam Cung Giao hôn nàng rồi buồn rầu nói :
- Ta cũng không muốn xa nàng, nhưng việc này sẽ gây hậu quả rất lớn, đó là chiến tranh giữa hai nước !
Tự Cơ cũng hiểu điều ấy, dụi đầu vào ngực chàng mà nấc nhẹ.
Nam Cung Giao vỗ về bờ vai nhỏ, dặn dò :
- Nếu nàng sanh con trai tất phải nỗ lực tranh giành ngôi Đông Cung Thái Tử clto nó ! Khi tự lượng không kham nổi cuộc chiến khốc liệt ấy thì đừng miễn cưỡng mà uổng mạng ! Còn như tình hình quá nguy ngập, nàng hãy rời bỏ hoàng cung, đến Cảnh Đức trấn ở đất Giang Tây chung sống với ta !
Đoàn Tự Cơ ngơ ngác :
- Chẳng lẽ chàng không về An Nam ?
Chàng nghiêm nghị đáp :
- Nay chúng ta đã yêu nhau say đắm, tình thân như phu phụ, ta cũng chẳng giấu giếm nữa. Ta không phải là Đặng Quyết, mà là Nam Cung Giao, có cha người Hán, mẹ người Giao Chỉ. Ta sinh trưởng trên đất Trung Hoa này, nhưng lòng vẫn thương quê mẹ nên giúp đỡ đoàn sứ thần An Nam !
Tự Cơ tròn mắt kinh ngạc, lát sau cười hỏi :
- Phải chăng chàng đã hóa trang ? Thiếp muốn được thấy chân diện mục !
Nam Cung Giao cẩn thận gỡ râu và cặp lông mày giả, để lộ dung mạo anh tuấn, hiền lành. Tất nhiên là đẹp hơn Đặng Quyết.
Tự Cơ nhìn đắm đuối rồi thờ thẫn nói :
- Thiếp sẽ ghi nhớ suốt đời gương mặt của chàng !
Đêm ấy, Nam Cung Giao không hóa trang, cùng Tự Co ái ân đến sáng.
Trong cơn hoan lạc, nước mắt chia ly đầm đìa gối phượng !
Sáng mùng sáu tháng sáu, Minh Đế lâm triều, mặt hồng hào, tươi tỉnh, giọng rồng oang oang.
Trước hết, ngài tuyên dương công trạng của Đặng Quyết và tuyên cáo luôn hai yêu cầu của họ Đặng !
Liễu Thái Bảo và một số đại thần thuộc phe chủ chiến tái mặt, cố giấu tiếng thở dài.
Họ Liễu cũng không dám mở miệng xin vua cho phép tổ chức cuộc so tài giữa các đoàn sứ thần nữa.
Ngay trưa hôm ấy, đoàn sứ thần giả An Nam lên đường về nước, mang theo rất nhiều tặng phẩm của Minh Anh Tông !
Hết Hồi 8 - Tiếu Ngạo Trung Hoa - Ưu Đàm Hoa
Xem Tiếp Hồi 9
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro